BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
............/........... ....../.......
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
VŨ THỊ KIM CÚC
BẢO ĐẢM THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT CÁC HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
............/........... ....../.......
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
VŨ THỊ KIM CÚC
BẢO ĐẢM THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT CÁC HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN MINH SẢN
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc
sĩ về “Bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp của Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi” là hoàn toàn trung thực và không
trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2018
Học viên
Vũ Thị Kim Cúc
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, ngoài sự nổ lực cố gắng của bản
thân, tôi còn nhận rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của tập thể, cá
nhân trong và ngoài Học viện hành chính. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc tới:
Ban Giám đốc, các khoa, phòng và quý thầy, cô trong khoa Nhà nước
và pháp luật thuộc Học viện Hành chính Quốc gia đã tạo điều kiện giúp đỡ
cho tôi trong quá trình học tập, hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thầy giáo TS.Nguyễn
Minh Sản là người đã trực tiếp hướng dẫn đề tài cho tôi với tất cả lòng nhiệt
tình và sự quan tâm sâu sắc.
Bên cạnh đó, tôi cũng gửi lời cảm ơn chân thành của mình đến lãnh đạo
các cơ quan trong thành phố, bạn bè, đồng nghiệp, luôn quan tâm, tạo điều
kiện, chia sẻ, động viên tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn.
Mặc dù bản thân đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện nhưng
luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được sự
góp ý của quý thầy, cô và bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
Trang phụ bìa Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ
KIỂM SÁT CÁC HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN .................................................................................................. 7
1.1. Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân ............................ 7
1.2. Kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân ................. 15
1.3. Bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của
Viện kiểm sát nhân dân ................................................................................ 18
1.4. Các yếu tố tác động tới bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân ............................................. 23
Tiểu kết chương 1 ......................................................................................... 31
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ VÀ KIỂM SÁT CÁC HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI .................................................. 32
2.1. Khái quát về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ........ 32
2.2. Phân tích thực trạng bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi .................. 49
2.3. Đánh giá chung thực trạng bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi ........... 62
Tiểu kết chương 2 ......................................................................................... 80
Chương 3: QUAN ĐIỂM GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT CÁC HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI .................. 81
3.1. Quan điểm bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp ......................................................................................................... 81
3.2. Giải pháp bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi ...................................... 88
Tiểu kết chương 3 ....................................................................................... 106
KẾT LUẬN ............................................................................................... 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADPL BLHS BLTTHS CAND CQĐT ĐTV HĐND HĐXX HTND KSĐT KSV KSVTTPL KSXX KTBC KTVA MTTQ QCT TAND THADS THQCT THTGTG TNHS TTDS TTHC TTHS TTLT UBTV VKS VKSND VKSNDTC VKSTC XHCN XXST Áp dụng pháp luật Bộ luật hình sự Bộ luật tố tụng hình sự Công an nhân dân Cơ quan điều tra Điều tra viên Hội đồng nhân dân Hội đồng xét xử Hội thẩm nhân dân Kiểm sát điều tra Kiểm sát viên Kiểm sát việc tuân theo pháp luật Kiểm sát xét xử Khởi tố bị can Khởi tố vụ án Mặt trận tổ quốc Quyền công tố Tòa án nhân dân Thi hành án dân sự Thực hành quyền công tố Thi hành tạm giữ tạm giam Trách nhiệm hình sự Tố tụng dân sự Tố tụng hành chính Tố tụng hình sự Thông tư liên tịch Ủy ban thường vụ Viện kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân Viện kiểm sát nhân dân tối cao Viện kiểm sát tối cao Xã hội chủ nghĩa Xét xử sơ thẩm
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: “Viện kiểm
sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp” [10]. Yêu cầu trên đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm1992
(sửa đổi năm 2001) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002,
BLTTHS năm 2003 và được tiếp tục khẳng định ở Hiến pháp 2013 và Luật tổ
chức Viện kiểm sát năm 2014.
Quan điểm về cải cách tư pháp được nhấn mạnh trong Văn kiện Đại hội
XII của Đảng Cộng sản Việt Nam : Cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Chính vì vậy, một lần nữa Đại hội Đảng
lần thứ XII khẳng định mục tiêu chiến lược là xây dựng nền tư pháp “trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại,
phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[13] Và
khẳng định vị trí pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước
với vai trò kép: vừa là cơ quan thực hành quyền công tố vừa là cơ quan giữ
quyền kiểm sát hoạt động tư pháp.
Tại phiên họp lần thứ tư, ngày 12/03/2012 của Ban chỉ đạo cải cách tư
pháp Trung ương, Đồng chí Trương Tấn Sang - Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ
tịch nước, Trưởng ban cải cách tư pháp Trung ương đã kết luận như
sau: “Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp; được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của
Tòa án nhân dân, đồng thời tiếp tục đổi mới, kiện toàn đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp và nhiệm vụ chính trị theo đúng chủ trương, đường lối đã được
xác định trong các văn kiện của Đảng”.
1
Nhận thức và quán triệt nghiêm túc tinh thần Nghị quyết của Đảng,
trong những năm qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp của ngành Kiểm sát nhân dân đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Với số lượng rất lớn các vụ án hình sự được phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử
nhanh chóng, kịp thời bảo đảm sự nghiêm minh,đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, hạn chế thấp nhất không làm oan người vô
tội đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã
hội.
Trong những năm qua, VKSND tỉnh Quảng Ngãi đã thực hiện tốt công
tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động của các cơ quan tư pháp trên địa bàn tỉnh, bảo đảm cho pháp luật được
tuân thủ nghiêm chỉnh và thống nhất, phát huy vai trò tích cực của mình trong
cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Song, bên cạnh
những ưu điểm trên, công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp còn bộc lộ những sai sót cần khắc phục. Để hoàn thành tốt chức
năng của mình, xứng đáng là một công cụ sắc bén của Đảng trong việc bảo vệ
Hiến pháp, ngành KSND phải tiếp tục phấn đấu phát huy thành tích, hạn chế
và khắc phục khuyết điểm. Nhằm góp phần làm sáng rõ thêm về mặt lý luận
và thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp, tác giả chọn đề tài: “Bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi” làm
luận văn thạc sĩ luật, chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu về công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp . Các công trình nghiên cứu này
đã được công bố trên các sách, báo, tạp chí chuyên ngành và trong các luận án
2
Tiến sỹ, các luận văn Thạc sỹ, một số giáo trình giảng dạy về chuyên ngành,
về đào tạo Kiểm sát viên, các sách tham khảo và trong các đề tài nghiên cứu
cấp bộ do VKSND tối cao thực hiện. Đáng chú ý là một số công trình như:
Vũ Hồng Điệp ( 2010) “Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công
tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện chính trị
- Hành chính Hà Nội;
Võ Thị Hồng Luyến (2010) “Hoạt động tranh tụng của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm”, Luận văn
thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Hà Nội;
Đỗ Xuân Hưng (2016) “ Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn
xét xử phúc thẩm hình sự”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội;
Phạm Anh Đức (2016) “ Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Đại học Luật Hà Nội
Nguyễn Công Cường (2016) “ Thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà
Nội;
Nguyễn Kim Ngân (2016) “ Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng dân sự”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội;
Và nhiều công trình khoa học của nhiều tác giả khác.
Chính vì vậy có thể coi đề tài “Bảo đảm thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng
Ngãi” là công trình đầu tiên nghiên cứu về lĩnh vực này.
3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận văn hướng tới việc làm rõ cơ sở lý luận
và thực trạng bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp của VKSND tỉnh Quảng Ngãi để đưa ra các quan điểm, đề xuất các giải
pháp bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của
VKSND tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Nhằm thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận về bảo đảm thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp;
- Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng bảo đảm thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND tỉnh Quảng Ngãi;
- Thứ ba, đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm bảo đảm
hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của
VKSND tỉnh Quảng Ngãi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc bảo đảm hoạt động thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND tỉnh
Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn được xác định là việc bảo đảm
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND tỉnh
Quảng Ngãi trước (từ năm 2015 đến năm 2017) và sau (từ tháng 01 đến tháng
6 năm 2018) khi Bộ luật TTHS năm 2015 có hiệu lực.
5. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
4
luật; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm; về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Đặc biệt là quan điểm chỉ đạo
của Đảng về cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị,
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị và Kết luận số
79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị; những quan điểm trên được cụ
thể hóa trong Hiến pháp 2013.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ
sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học
Mác - Lê Nin theo quan điểm phát triển toàn diện, lịch sử cụ thể. Đồng thời,
kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác như: Phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối toàn
diện và có hệ thống về thực trạng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp
của Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi, qua đó có một số đóng góp mới sau đây:
- Thứ nhất, hệ thống hóa và góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về đảm
bảo thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp;
- Thứ hai, đánh giá đảm bảo thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp VKSND tỉnh Quảng Ngãi;
- Thứ ba, đề xuất một số giải pháp khả thi nhằm đảm bảo hoạt động
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn, gồm 3 chương
5
Chương 1: Cơ sở lý luận đảm bảo thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Thực trạng đảm bảo thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3: Quan điểm giải pháp đảm bảo thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN BẢO ĐẢM THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT CÁC HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1.Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1.Khái niệm thực hành quyền công tố
1.1.1.1.Khái niệm quyền công tố
Để tìm hiểu quyền công tố là gì, thì trước tiên cần hiểu “Công tố” là gì?
Theo Đại từ điển tiếng Việt, “công” có nghĩa là “thuộc về Nhà nước, tập thể,
trái với tư” [14, tr.453], còn “tố” có nghĩa là “nói về những sai phạm, tội lỗi
của người khác một cách công khai trước người có thẩm quyền hoặc trước
nhiều người” [14, tr.459]; “Công tố” có nghĩa là “điều tra, truy tố, buộc tội
kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án” [14, tr.1663].
Ở Việt Nam, thuật ngữ "quyền công tố" chính thức được ghi nhận lần
đầu tiên về mặt hiến định trong Hiến pháp năm 1980 (Điều 138) và sau đó là
Hiến pháp năm 1992 (Điều 137) [18]; ngoài ra, cụm từ này còn được đề cập
trong BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 (Điều 23) [22]; trong Luật Tổ
chức VKSND năm 1981 (Điều 1- 3) [19] ; Luật tổ chức VKSND năm 1992
(các Điều 15-16) [20]; Luật tổ chức VKSND năm 2002 (Điều 1,3,12,
13,16,17,19) [21]. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có văn bản của Nhà nước ta
(từ UBTV Quốc hội đến VKSNDTối cao) chính thức giải thích nội dung của
quyền công tố.
Quan điểm cho rằng: Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực
hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này
thuộc về nhà nước, được nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta
7
là Viện kiểm sát) để phát hiện tội phạm và truy cứu TNHS đối với người
phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan có chức năng THQCT phải có trách
nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm
và người phạm tội. Trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự
buộc tội trước phiên tòa [37, tr.40].
Theo quan điểm này, quyền công tố là quyền buộc tội nhân danh Nhà
nước đối với người phạm tội.
Với nhận thức của mình, tác giả ủng hộ quan điểm này về khái niệm
quyền công tố, bởi các lý do sau đây:
Thứ nhất, tác giả nhận thấy quan điểm này đã khẳng định được QCT là
quyền của Nhà nước, nhân danh Nhà nước để buộc tội đối với người có hành
vi vi phạm mà pháp luật hình sự coi là tội phạm xâm hại trật tự chung của xã
hội và nó chỉ có trong lĩnh vực hình sự.
Thứ hai, quan điểm cũng thừa nhận QCT gắn liền với quyền tài phán của
Tòa án. Đó là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội ra
tòa và bảo vệ sự buộc tội trước phiên tòa. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức
rằng, không có nghĩa cứ phải đưa được người phạm tội ra tòa mới là thực
hành QCT. Trên thực tế, QCT có thể bị triệt tiêu bất cứ lúc nào khi đối tượng
tác động của QCT có đủ căn cứ để triệt tiêu.
Thứ ba, quan điểm cũng thừa nhận quyền công tố chỉ có thể do một cơ
quan thực hiện và độc lập với cơ quan tài phán (ở Việt Nam thực hiện quyền
này là Viện kiểm sát).
Thứ tư, quan điểm này cũng phù hợp với quan điểm của Đảng về xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp,
cụ thể là: Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 khóa VII
khẳng định: “Tập trung làm tốt chức năng công tố, bảo đảm mọi hành vi
phạm tội đều bị phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời” [9, tr.38]; Văn kiện
8
Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa IX của Đảng đã chỉ rõ:
“Viện kiểm sát tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp” [10, tr.51]; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
đã chỉ rõ: “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn
công tố với hoạt động điều tra” [12]; Đặc biệt, Nghị quyết 49-NQ/TW của
Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nhấn mạnh
“Trước mắt, VKSND giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp” [3,tr.6]. Như vậy, chức năng
THQCT từ trước đến nay vẫn luôn được giao cho VKSND thực hiện.
Từ những ý kiến phân tích như trên tác giả đi đến kết luận: Quyền công
tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện các chức năng do Bộ luật tố tụng
hình sự qui định để kiểm sát tính hợp pháp của việc điều tra tội phạm, truy tố
và buộc tội người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được qui định
trong Bộ luật hình sự ra trước Tòa án, nhằm góp phần tuyên các bản án có
căn cứ, công minh,đúng pháp luật; đồng thời bảo vệ các quyền tự do của công
dân, cũng như quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân, của xã hội và của Nhà
nước trong hoạt động tư pháp hình sự. Quyền này ở nước ta được Nhà nước
giao Viện kiểm sát nhân dân để phát hiện tội phạm, truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội và bảo vệ việc buộc tội trước phiên tòa.
1.1.1.2.Khái niệm thực hành quyền công tố
Như đã phân tích ở trên, quyền công tố là quyền của Nhà nước truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này phát sinh ngay từ khi
có hành vi phạm tội xảy ra và kết thúc khi phán quyết của Toà án nhân danh
công lý tuyên phạt đối với người đã thực hiện tội phạm có hiệu lực pháp luật.
Quyền công tố thể hiện rõ mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội do
chính hành vi phạm tội làm phát sinh. Để bảo đảm thực hiện quyền công tố
trong thực tế đấu tranh chống tội phạm, Nhà nước đã ban hành các văn bản
9
pháp luật, trong đó quy định các quyền năng pháp lý mà cơ quan có thẩm
quyền được áp dụng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Các quyền năng đó được giao cho cơ quan nhà nước nào thực hiện để phát
hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội thì cơ
quan đó được coi là cơ quan thực hành quyền công tố. Theo pháp luật nước
ta, thuật ngữ “thực hành quyền công tố” lần đầu tiên được quy định trong
Hiến pháp năm 1980 khi quy định về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân
[18]. Từ đó đến nay, Viện kiểm sát nhân dân tiếp tục thực hiện chức năng
thực hành quyền công tố theo quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992
[18], Điều 107 Hiến pháp năm 2013[27], Điều 20 BLTTHS năm 2015[36].
Như vậy, trong tiến trình cải cách tư pháp, chức năng thực hành quyền công
tố của Viện kiểm sát vẫn được giữ nguyên. Hay nói cách khác, chủ thể của
việc thực hành quyền công tố theo quy định của nước ta là Viện kiểm sát
nhân dân.
Tác giả Lê Hữu Thể cho rằng: “Thực hành quyền công tố là việc sử
dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra,
truy tố và xét xử” “Quyền năng pháp lý” ở đây là khả năng định đoạt, chi phối
các mối quan hệ pháp luật. Biểu hiện của quyền năng này trong hoạt động
thực hành quyền công tố là một loạt các hoạt động như công bố cáo trạng,
tham gia xét hỏi, tranh luận... nhằm hướng một đối tượng vào hành vi vi
phạm pháp luật đã cáo buộc” [37].
Quá trình giải quyết vụ án hình sự phải trải qua nhiều giai đoạn tố tụng
khác nhau, mỗi giai đoạn này tuy có tính độc lập tương đối nhưng liên quan
chặt chẽ với nhau. Mỗi giai đoạn thể hiện một nội dung nhất định của hoạt
động tố tụng và giai đoạn tố tụng trước là tiền để cho giai đoạn tố tụng tiếp
theo; giai đoạn tố tụng sau kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động của giai đoạn
10
trước đó nhằm phát hiện và khắc phục kịp thời những thiếu sót, sai lầm của
giai đoạn trước và tạo thành một quá trình tố tụng thống nhất và hoàn chỉnh.
Theo pháp luật TTHS nước ta, VKS thực hiện các hành vi tố tụng thuộc nội
dung của quyền công tố trong tất cả các giai đoạn tố tụng (từ khởi tố, điều tra,
truy tố và xét xử). Tuỳ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng cụ thể mà việc sử
dụng các quyền năng pháp lý của VKS cũng khác nhau. Như vậy, thực hành
quyền công tố là quá trình hiện thực hoá quyền truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội bằng các quyền năng tương ứng mà Nhà nước trao
cho một cơ quan nhất định.
Từ những nội dung nêu trên có thể hiểu: Thực hành quyền công tố là
việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT để thực
hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay
từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt
quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
1.1.2.Đối tượng của thực hành quyền công tố
1.1.2.1.Đối tượng của quyền công tố
Với quan điểm coi QCT là đại diện cho Nhà nước để đưa các vụ việc vi
phạm pháp luật ra trước Tòa án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, bảo
vệ lợi ích chung, bảo vệ lợi ích cá nhân và bảo vệ trật tự pháp luật thì đối
tượng của quyền công tố là các hành vi vi phạm pháp luật.
Với quan điểm cho rằng, QCT là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện
sự buộc tội (thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự) đối với người phạm
tội và bảo vệ sự buộc tội đó thì đối tượng của QCT là tội phạm và người
phạm tội.
Từ quan điểm nhận thức về quyền công tố đã trình bày ở trên, tôi thống
nhất với quan điểm cho rằng đối tượng của quyền công tố là tội phạm và
người phạm tội.
11
1.1.2.2.Đối tượng của thực hành quyền công tố
Như trên đã trình bày thì đối tượng của quyền công tố là tội phạm và
người phạm tội. Đây cũng chính là đối tượng của hoạt động THQCT.
1.1.3. Nội dung của thực hành quyền công tố
1.1.3.1. Nội dung của quyền công tố
Tương tự như đối tượng của QCT, nội dung QCT hiện nay cũng có
nhiều quan điểm khác nhau, nhưng xuất phát từ quan điểm về bản chất của
QCT là sự buộc tội nhân danh Nhà nước, đối tượng của QCT là tội phạm và
người phạm tội, tôi đồng tình với quan điểm cho rằng “nội dung của quyền
công tố chính là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi tội phạm”
[49,tr.40]. Còn việc tiến hành những biện pháp gì và cơ quan Nhà nước nào
được giao thực hiện các biện pháp ấy để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội lại là việc thực hành quyền công tố.
1.1.3.2. Nội dung của thực hành quyền công tố
Hiện nay vẫn còn một số quan điểm chưa thống nhất về nội dung
THQCT. Có quan điểm cho rằng, nếu coi khởi tố vụ án hoặc bắt, tạm giam bị
can là nội dung THQCT thì cả Cơ quan điều tra và Toà án cũng là cơ quan
THQCT. Tôi cho rằng nhận thức này là không chính xác vì không phải cứ
khởi tố vụ án hoặc bắt tạm giam bị can, bị cáo đều là THQCT và cũng không
phải chỉ có truy tố và buộc tội mới là THQCT. Nội dung của THQCT là việc
sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý để thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Vì vậy, chỉ có cơ quan nào được phép
sử dụng tất cả các quyền năng pháp lý này để truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội trong suốt quá trình TTHS thì mới là cơ quan
THQCT. Ở nước ta chỉ có VKS mới là cơ quan THQCT.
Trên cơ sở các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân, tôi cho rằng những quyền năng pháp lý mà Viện
12
kiểm sát tự quyết định và liên quan đến việc cáo buộc bị can, bị cáo là những
quyền năng thuộc nội dung thực hành quyền công tố.
1.1.4.Phạm vi của thực hành quyền công tố
1.1.4.1.Phạm vi quyền công tố
Quan điểm cho rằng “phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm
được thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng
nghị” [37, tr.40].
Từ quan điểm trên, tôi đồng tình với quan điểm này về phạm vi QCT bắt
đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp
luật, không bị kháng cáo, kháng nghị, tức là QCT kết thúc khi việc buộc tội
không còn nữa.
Tóm lại, chỉ khi nào và ở đâu có việc thực hiện tội phạm, thì khi ấy và ở
đó mới có thể nói đến sự buộc tội nhân danh Nhà nước, chức năng quan trọng
của quyền công tố và như vậy, chức năng buộc tội là thuộc tính và là bộ phận
cấu thành chủ yếu tạo nên nội dung cơ bản của quyền công tố với tính chất là
một chế định pháp lý độc lập qui định trong TTHS. Nói một cách khác, quyền
công tố chỉ tồn tại trong hoạt động TTHS.
Toàn bộ phạm vi (giới hạn) của quyền công tố trong luật TTHS diễn ra
trong ba giai đoạn ứng với ba chức năng mà VKSND thực hiện, đó là:
Giai đoạn điều tra: VKS kiểm tra tính hợp pháp của việc điều tra;
Giai đoạn truy tố: VKS quyết định truy tố bị can và ban hành Cáo trạng
gửi cùng với hồ sơ đến Tòa án, nếu như VKS xét thấy không có các căn cứ để
trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án theo luật
định;
Giai đoạn xét xử: VKS buộc tội bị cáo tại phiên tòa xét xử và thực hiện
các hành vi tố tụng khác do luật định để góp phần đạt được mục đích cuối
13
cùng là sau khi kết thúc phiên tòa, thì Tòa án tuyên phạt một bản án (quyết
định) có hiệu lực pháp luật, thực sự công minh, có căn cứ, đúng pháp luật.
Ba chức năng nêu trên đây của QCT trong luật TTHS mà VKSND nhân
danh Nhà nước thực hiện luôn luôn có mối quan hệ chặt chẽ và hữu cơ, thống
nhất và biện chứng với nhau. Vì vậy, nếu VKSND thực hiện không tốt bất kỳ
một chức năng nào sẽ dẫn đến tình trạng không đồng bộ, thiếu sự nhất quán
do đó sẽ không đạt được hiệu quả và mục đích cao cả của việc thực hiện
quyền công tố.
1.1.4.2.Phạm vi thực hành quyền công tố
Về nguyên tắc thì phạm vi của quyền công tố và thực hành quyền công
tố là đồng nhất với nhau, tức là đều xuất hiện từ khi có tội phạm xảy ra cho
đến khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, không phải tội
phạm nào xảy ra cũng đều được phát hiện kịp thời và tiến hành khởi tố
(những trường hợp tội phạm ẩn) hoặc khi đã phát hiện tội phạm xảy ra nhưng
cũng cần có những hoạt động xác minh, thu thập tài liệu trước khi khởi tố
(các hoạt động tiền tố tụng). Mặt khác, không phải mọi trường hợp việc thực
hành quyền công tố đã được phát động đều được kết thúc bằng một bản án có
hiệu lực pháp luật mà có thể kết thúc sớm hơn khi có một trong các căn cứ
được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Như vậy, trong thực tế thì phạm
vi thực hành quyền công tố thường hẹp hơn phạm vi của quyền công tố.
Với quy định trên, thì phạm vi của THQCT bắt đầu từ khi giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, nghĩa là có hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ
làm rõ sự thật khách quan của vụ việc có tính chất hình sự xảy ra để xác định
có hành vi phạm tội hay không, ai là người đã gây nên tội phạm, thì hoạt động
công tố tiến hành trên cơ sở kết quả điều tra để quyết định việc buộc tội, gỡ
tội (có KTVA hình sự, KTBC hay không). Tác động của kết quả điều tra đến
hoạt động công tố không chỉ giới hạn ở số lượng, chất lượng chứng cứ mà
14
còn nhận định, đánh giá tội phạm, áp dụng pháp luật của CQĐT. Những sai
lầm thiếu sót trong hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ để tiến hành khởi
tố ở giai đoạn này tất yếu sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng THQCT như
việc bắt, tạm giam, truy tố xét xử oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm. Do vậy
khi nào và ở đâu, CQĐT bắt đầu xác minh, điều tra các vụ việc có tính chất
hình sự thì khi đó VKS có trách nhiệm THQCT để truy cứu TNHS có căn cứ
và hợp pháp.
Tóm lại, phạm vi thực hành quyền công tố được nêu cụ thể như sau:
Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình
sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực
hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và
trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự [37].
1.2.Kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
1.2.1.Khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân
dân
1.2.1.1.Khái niệm hoạt động tư pháp
Hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quá trình
tố tụng nhằm giải quyết các vụ án hình sự và các vụ tranh chấp một cách có
căn cứ, đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, công dân.
1.2.1.2.Khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát
nhân dân
VKSND không chỉ là cơ quan thực hành quyền công tố mà còn là cơ
quan kiểm sát hoạt động tư pháp. Các hoạt động tư pháp là đối tượng của hoạt
động kiểm sát của VKSND bao gồm hoạt động tố tụng hình sự, tố tụng dân
sự, tố tụng hành chính và hoạt động thi hành án hình sự, dân sự, hành chính.
Hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND được thực hiện ngay từ
15
khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, thi hành
án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án dân sự, thi
hành án hành chính, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp;
các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật [29].
1.2.2.Đối tượng của kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
1.2.2.1.Đối tượng của hoạt động tư pháp
Hoạt động tư pháp là hoạt động do các cơ quan tư pháp thực hiện trên
cơ sở quy định của pháp luật. Đó là hoạt động phát hiện tội phạm, điều tra,
thu thập tài liệu, chứng cứ về các vụ án hình sự; hoạt động của Viện kiểm sát
trong việc kiểm sát khởi tố vụ án hình sự; khởi tố bị can; kiểm sát điều tra;
kiểm sát giam giữ, cải tạo; kiểm sát xét xử; kiểm sát thi hành án; trong qúa
trình giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, hành chính Viện
kiểm sát tham gia các phiên tòa xét xử khi các tranh chấp liên quan tới lợi ích
của Nhà nước, của xã hội, của người chưa thành niên và những người có
nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần không tự thực hiện được các quyền
năng tố tụng của mình cũng như không có khả năng tự bảo vệ được các quyền
và lợi ích hợp pháp mà họ được hưởng; đó là hoạt động của Tòa án khi xét xử
hoặc tham gia giải quyết các tranh chấp (thông qua thủ tục thương lượng, hòa
giải) liên quan tới hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và cuối cùng
hoạt động tư pháp bao gồm cả hoạt động của Cơ quan thi hành án (Cơ quan
chuyên trách), một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ thi hành án (Như
UBND xã, phường; cơ quan Thừa phát lại) trong việc thi hành các quyết định
và bản án đó có hiệu lực pháp luật.
16
1.2.2.2.Đối tượng của kiểm sát hoạt động tư pháp
Đối tượng của kiểm sát các hoạt động tư pháp là việc tuân thủ pháp
luật của các cơ quan tư pháp và các đối tượng tham gia tố tụng trong quá trình
giải quyết các vụ án và các tranh chấp khác.
1.2.3.Mục đích của kiểm sát hoạt động tư pháp
1.2.3.1.Mục đích của hoạt động tư pháp
Hoạt động tư pháp hướng tới mục tiêu bảo đảm pháp luật được thực
hiện nghiêm minh, thống nhất, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
trong đó có cả những người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội được bảo đảm một cách tốt
nhất, không bị vi phạm.
1.2.3.2.Mục đích của kiểm sát hoạt động tư pháp
Mục đích của kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự là
nhằm đảm bảo các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đúng pháp
luật, đúng người, đúng tội, không để xảy ra việc oan, sai hay bỏ lọt tội phạm.
1.2.4.Phạm vi của kiểm sát các hoạt động tư pháp
1.2.4.1.Phạm vi của hoạt động tư pháp
Các hoạt động tư pháp rất rộng, do nhiều cơ quan tiến hành trong một
thời gian dài, ở nhiều địa phương và đặc biệt liên quan tới quyền và lợi ích
hợp pháp, thậm chí sinh mạng chính trị, mạng sống của nhiều cá nhân, pháp
nhân. Chính vì vậy hoạt động tư pháp muốn có hiệu quả, các tranh chấp muốn
được giải quyết nhanh chóng, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã
hội, của cá nhân và pháp nhân muốn được bảo đảm một cách tốt nhất thì cần
thiết phải có một cơ chế giám sát từ bên ngoài các cơ quan tư pháp. Trong
thực tiễn tồn tại và phát triển, cũng như các cơ quan nhà nước khác, trong nội
bộ Cơ quan điều tra, Tòa án, Cơ quan thi hành án đều có bộ phận thực hiện sự
giám sát, kiểm tra nội bộ. Nhưng cũng như ở các cơ quan nhà nước khác, sự
17
giám sát và kiểm tra nội bộ đó vẫn mang tính chủ quan và nó sẽ không thể đạt
hiệu quả cao khi không có một cơ quan chuyên trách giám sát từ bên ngoài và
ngay cả bộ phận thực hiện công việc giám sát, kiểm tra nội bộ cũng là đối
tượng của hoạt động kiểm tra, giám sát từ bên ngoài. Ở nước ta, chức năng
kiểm tra, giám sát từ bên ngoài các cơ quan tư pháp thuộc về ngành kiểm sát.
Buộc tội đúng đối tượng, đúng tội danh, đúng và đầy đủ các hành vi vi
phạm của đối tượng là yêu cầu đối với Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự và
chỉ thực hiện được khi hoạt động tư pháp của các cơ quan tiến hành tố tụng
được thực hiện đúng pháp luật và có hiệu quả.
1.2.4.2.Phạm vi của kiểm sát hoạt động tư pháp
Phạm vi không gian của kiểm sát các hoạt động tư pháp chỉ giới hạn
trong phạm vi hoạt động của các cơ quan tư pháp. Đó là việc chấp hành pháp
luật trong suốt quá trình giải quyết các vụ án hình sự và giải quyết các tranh
chấp khác.
Phạm vi về thời gian của kiểm sát các hoạt động tư pháp là từ khi cơ
quan có thẩm quyền khởi tố vụ án và đương sự khởi kiện cho đến khi thi hành
xong bản án và các quyết định khác của Toà án.
1.3. Bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
của Viện kiểm sát nhân dân
1.3.1.Khái niệm bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
1.3.1.1.Khái niệm bảo đảm thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Thứ nhất, mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người
phạm tội.
18
Thứ hai, không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị
hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật [29,tr.8].
1.3.1.2. Khái niệm bảo đảm kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm
sát nhân dân
Thứ nhất, việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố; việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án;
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư
pháp khác được thực hiện đúng quy định pháp luật.
Thứ hai, việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ tạm
giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy
định pháp luật; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của
người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn
chế phải được tôn trọng và bảo vệ.
Thứ ba, bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải
được thi hành nghiêm chỉnh.
Thứ tư, mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát
hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh[29,tr.11].
1.3.2.Nội dung bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
1.3.2.1.Bảo đảm nội dung thực hành quyền công tố
Theo Điều 6 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định Viện kiểm sát
nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố bằng các nội dung sau
[29,tr.13]:
Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố;
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự;
19
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố tội phạm;
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự;
Thực hành quyền công tố trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự.
Căn cứ Điều 3 Luật tổ chức VKSND 2014 khi thực hiện chức năng
thực hành quyền công tố, VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn [29, tr.9-10]:
Thứ nhất, yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi
tố vụ án trái pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can
của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra; trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ
luật tố tụng hình sự quy định.
Thứ hai, quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện
pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Thứ ba, hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong việc
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố,
điều tra của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra.
Thứ tư, khi cần thiết đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện.
Thứ năm, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu
để làm rõ tội phạm, người phạm tội.
Thứ sáu, trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố; tiến hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc
tội đối với người phạm tội.
20
Thứ bảy, điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội
phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định
của luật.
Thứ tám, quyết định việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều
tra, truy tố.
Thứ chín, quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa.
Thứ mười, kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp
Viện kiểm sát nhân dân phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.
1.3.2.2. Nội dung bảo đảm kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện
kiểm sát nhân dân
Điều 6 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, quy định Viện
kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp bằng các
nội dung sau [29, tr.14-15]:
Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố;
Kiểm sát việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự;
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng trong giai
đoạn truy tố;
Kiểm sát việc xét xử vụ án hình sự;
Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự;
Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo
quy định của pháp luật;
Kiểm sát việc thi hành án dân sự, thi hành án hành chính
Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp của
các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền
21
Căn cứ Điều 4 Luật tổ chức VKSND 2014 [29, tr.10-12] khi thực hiện
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn:
Thứ nhất, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư
pháp theo đúng quy định pháp luật; tự kiểm tra việc tiến hành hoạt động tư
pháp thuộc thẩm quyền và thông báo kết quả cho VKSND; cung cấp hồ sơ, tài
liệu để VKSND kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong hoạt
động tư pháp.
Thứ hai, trực tiếp kiểm sát; xác minh, thu thập tài liệu để làm rõ vi
phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp.
Thứ ba, xử lý vi phạm; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động
tư pháp; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng
ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm.
Thứ tư, kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp
luật; kiến nghị hành vi, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kháng
nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm
quyền khác trong hoạt động tư pháp.
Thứ năm, kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư
pháp; giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền.
Thứ sáu, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát hoạt động
tư pháp theo quy định pháp luật.
1.3.3. Mối quan hệ giữa bảo đảm thực hành quyền công tố với kiểm sát các
hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức VKSND năm
2014, hệ thống tổ chức, hoạt động, bộ máy, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn
của VKSND được quy định một cách cụ thể. Điều 107, Hiến pháp 2013 quy
22
định Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp [27].
Hai chức năng của Viện kiểm sát có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp luôn là tiền đề cho chức năng thực
hành quyền công tố, đó là mối liên hệ hữu cơ giữa hai chức năng, đơn cử hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giam, tạm giữ, kiểm sát điều
tra, xét xử làm cơ sở cho các quyết định về thực hành quyền công tố của Viện
kiểm sát chuẩn xác hơn. Đặc biệt, quá trình thực hiện hoạt động tư pháp, các
cơ quan tiến hành tố tụng còn được pháp luật trao thẩm quyền áp dụng các
biện pháp cưỡng chế tố tụng (bắt, tạm giữ, tạm giam…). Những sai sót, vi
phạm trong hoạt động tư pháp luôn có khả năng dẫn đến những thiệt hại
không thể bù đắp được. Do vậy, hoạt động tư pháp phải chịu sự kiểm tra,
giám sát của nhiều cơ chế khác nhau bao gồm cả cơ chế tự kiểm tra bên trong
hệ thống và cơ chế giám sát bên ngoài hệ thống, cơ chế giám sát trực tiếp và
gián tiếp. Những cơ chế này phải thường xuyên, có tính chuyên nghiệp cao.
Thực tiễn kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát thời gian qua đạt
được những kết quả rất quan trọng, hàng năm Viện kiểm sát các cấp đã phát
hiện, ban hành hàng nghìn kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu các cơ quan tư
pháp khắc phục vi phạm. Thực tiễn đó đã kiểm nghiệm và chứng minh trong
điều kiện cụ thể của Nhà nước ta,Viện kiểm sát với chức năng kiểm sát hoạt
động tư pháp là cơ chế giám sát tư pháp hữu hiệu và bổ trợ hiệu quả nhất cho
chức năng thực hành quyền công tố.
1.4. Các yếu tố tác động tới bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
1.4.1.Tính hoàn thiện của hệ thống pháp luật
Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay đã được Đảng ta
đề ra trong Nghị quyết số 48 của Bộ Chính trị năm 2005. Vì vậy, việc xây
23
dựng, bổ sung và sửa đổi luật đang được Nhà nước ta chú trọng. Song, thực tế
hiện nay hệ thống pháp luật hình sự của nước ta chưa được hoàn thiện nên dễ
dẫn đến khởi tố, truy tố, xét xử oan, sai, hoặc bỏ lọt tội phạm…, nếu xảy ra
sai sót sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường, có khi phải trả giá bằng quyền
lợi chính trị, sinh mạng con người. Tuy nhiên, pháp luật không thể một sớm
một chiều hoàn thiện đầy đủ, chính xác những mối quan hệ phát sinh trong xã
hội cần được điều chỉnh. Bởi hệ thống pháp luật không đầy đủ, đồng bộ,
chồng chéo, khó hiểu sẽ dẫn đến mỗi nơi áp dụng một kiểu, ADPL sẽ không
được thống nhất, do đó nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN khó có thể thành
công. Hơn nữa, hiện nay Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực thi hành cần phải
sửa đổi, bổ sung BLHS và Bộ luật TTHS cho phù hợp với những quy định
mới bổ sung để bảo vệ quyền con người, quyền công dân “Mọi người có
quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước
đoạt tính mạng trái luật”. Điều 19 Hiến pháp quy định: “Mọi người có quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự
và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình
thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm” và Điều 20 quy định: “ Người bị buộc tội được coi là không có tội cho
đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật”[27]. Và các nguyên tắc như: Nguyên tắc suy
đoán vô tội, nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật…khi hệ thống pháp luật
mà còn thiếu các quy định để điều chỉnh các quan hệ mới phát sinh, kết quả là
những quyền và lợi ích của người dân sẽ không được bảo vệ kịp thời, dẫn đến
khó hoàn thành tốt được nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao cho đó là xây
dựng một Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân.
24
1.4.2.Ý thức chính trị, đạo đức cách mạng và vốn sống thực tiễn của cán
bộ, Kiểm sát viên
Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
Lập trường tư tưởng chính trị vững vàng của KSV sẽ là tiền đề vững
chắc bảo đảm cho hoạt động thực hành quyền công tố đúng với đường lối của
Đảng và pháp luật của Nhà nước. Vai trò ý thức chính trị của KSV đặc biệt
phát huy khi phải áp dụng pháp luật trong điều kiện kinh tế thị trường hiện
nay với những mặt trái của nó. Chính ý thức chính trị của mỗi KSV là nhân tố
thường trực nhắc nhở khi tiến hành các hoạt động áp dụng pháp luật. Chính vì
vậy, một trong những tiêu chuẩn quan trọng trước tiên để xem xét bổ nhiện
KSV theo Điều 75 Luật tổ chức VKSND 2014 là: “ Là công dân Việt Nam
trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, bản lĩnh chính trị vững
vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa” [29, tr.73].
Đạo đức cách mạng là cơ sở quan trọng tạo lên nhân cách KSV và xác
lập vị trí của KSV trong xã hội. Chủ tích Hồ Chí Minh đã từng xem đạo đức
cách mạng là cái gốc của người cách mạng. Người viết: “Người cán bộ phải
có đạo đức cách mạng, không có đạo đức cách mạng thì có tài giỏi đến mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân” [15]. Đạo đức, phẩm chất của cán bộ,
KSV bao gồm những đức tính: trung thực, thẳng thắn, long nhân ái, sự dũng
cảm, tính công bằng, tinh thần trách nhiệm, sự tự tin, dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm... ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thực hành quyền
công tố.
1.4.3.Tác động từ công luật và dư luận xã hội
Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, quá trình giải quyết vụ án là
quá trình mà có thể báo chí, truyền thông sẽ đưa tin về vụ án, trong đó có
25
những bài có tính chất đưa tin, nhưng cũng có những bài bình luận về vụ án.
Đây là một trong những biểu hiện dân chủ, công khai trong đời sống chính trị,
xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, những thông tin này cũng có hai mặt tích cực và
tiêu cực ảnh hưởng đến đảm bảo THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp
của Viện KSND nói chung và những người tiến hành tố tụng nói riêng. KSV
là người trực tiếp THQT trong XXST án hình sự, KSV cũng chịu những áp
lực từ phía dư luận này; do đó KSV phải hết sức bình tĩnh, cầu thị nghiên cứu
các thông tin này và có biện pháp xử lý.
Xét về mặt ảnh hưởng tích cực, thì đây cũng chính là một trong những
nguồn tin quan trọng giúp cho KSV có những tư liệu để xem xét, đánh giá các
tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện hơn. Mặt khác, khi chú ý
nghiên cứu các thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, KSV còn
cần phải tổng hợp, đối chiếu, so sánh với các tình tiết của vụ án để xem xét
thông tin đó phản ánh như thế nào, có điểm nào đúng, điểm nào phản ánh sai,
điểm nào mới mà hồ sơ chưa phản ánh; từ đó KSV lưu ý khi nghiên cứu hồ sơ
vụ án. Thông tin đó không phải chỉ là của phóng viên mà có thể, đây là ý kiến
của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Vì vậy, đòi hỏi KSV phải chú ý nghiên cứu,
xem xét xử lý cho phù hợp tại phiên tòa xét xử được chính xác, đúng pháp
luật và được dư luận nhân dân đồng tình ủng hộ.
Ngược lại, nếu KSV không chú ý nghiên cứu đến các thông tin trên báo
chí, truyền thông về vụ án mà mình thụ lý, thì khi ra phiên tòa sẽ khó có thể
chủ động được để tranh luận với bị cáo, người bào chữa; do đó sẽ dẫn đến
việc THQCT trong xét xử không chính xác, đúng pháp luật, thấu tình, đạt lý,
không được những người tham dự phiên tòa và nhân dân ủng hộ; thậm chí dễ
dẫn đến THQCT trong xét xử không đúng, làm oan người vô tội.
26
Về mặt ảnh hưởng tiêu cực, những dư luận của các báo chí, các phương
tiện truyền thông cũng là một trong những áp lực ảnh hưởng lớn đến tâm lý
của KSV, từ đó ảnh hưởng đến đảm bảo THQCT của KSV trong xét xử các
vụ án hình sự nói riêng, của những người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành
tố tụng nói chung; nó cũng tạo ra tâm lý đối phó, tâm lý làm theo sự định
hướng của dư luận truyền thông…do đó nó ảnh hưởng không nhỏ đến quyết
định ADPL của KSV trong XXST án hình sự. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến việc
đánh giá chứng cứ vụ án thiếu chính xác, khách quan, dẫn đến quyết định
THQCT trong không được chính xác, đúng pháp luật. Vì vậy, nếu KSV
không có bản lĩnh vững vàng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ chắc chắn sẽ dễ
dẫn đến oan, sai, bỏ lọt tội phạm bởi dư luận của báo chí, truyền thông.
1.4.4.Vai trò giám sát của các thiết chế xã hội
Theo Kết luận số 01-KL/TW, ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về việc
tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020 : Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền con
người, quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền giám sát, kiểm tra hoạt
động của các cơ quan nhà nước phù hợp thực tiễn phát triển đất nước; mở
rộng dân chủ trực tiếp, tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào công việc của
Nhà nước; tăng cường sự gắn kết giữa giám sát của Quốc hội với kiểm tra,
giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên; bảo đảm
quyền giám sát của nhân dân [7].
Nghị quyết số 08 năm 2002 của Bộ Chính trị đã nhấn mạnh “Tăng
cường sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, của các tổ chức xã hội
và của công dân đối với công tác tư pháp...” [1,tr.7], điều đó chứng minh rằng
Đảng ta rất chú trọng và đặc biệt quan tâm, nhìn nhận chính xác tầm quan
trọng của việc phải tăng cường giám sát đối với các cơ quan tiến hành tố tụng
27
nhằm đảm bảo sự độc lập trong xét xử, nhưng cũng tránh trường hợp lạm
dụng quyền lực của Nhà nước phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân. Cụ thể sự giám sát đó thể hiện ở những cơ quan sau:
Giám sát của cơ quan dân cử
Để tránh việc lạm dụng quyền lực của người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, Nhà nước ta một mặt có những quy định và bảo đảm những điều kiện
tối đa cho sự độc lập, khách quan của các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng, mặt khác Nhà nước còn có cơ chế hữu hiệu để kiểm tra
tính hợp hiến, hợp pháp trong hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người
tiến hành tố tụng, đó chính là cơ chế giám sát và xử lý việc lạm quyền của họ
trong khi thi hành công vụ. Một trong những cơ chế kiểm tra, giám sát hữu
hiệu hoạt động tư pháp đó là sự giám sát từ phía cơ quan lập pháp (Quốc hội),
cơ quan đại diện nhân dân (HĐND các cấp), các tổ chức xã hội khác: Mặt
trận tổ quốc Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ…
Với sự giám sát của các cơ quan dân cử, sẽ giúp cho VKS thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình một cách có trách nhiệm, đúng pháp luật; qua
đó phát hiện sớm, kịp thời những việc làm sai trái của cán bộ, KSV ngành
KSND kịp thời phán ánh, chấn chỉnh nhằm đảm bảo việc tuân thủ Hiến pháp
và pháp luật ở địa phương nói riêng, trên toàn nước nói chung, ngăn chặn
được tình trạng lạm quyền, độc quyền của VKS.
Trong giai đoạn KSĐT, để đảm bảo việc khởi tố hành vi phạm tội của
cá nhân nào đó được khách quan, đúng pháp luật, không những phải có cơ
quan có chuyên môn, người có chuyên môn nghiệp vụ am hiểu pháp luật thực
thi quyền này, mà Nhà nước còn quy định cụ thể vai trò của các cơ quan giám
sát hoạt động của VKS là Nhân dân trong việc giám sát các cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra.
28
Nhân dân là người phát hiện, tố giác tội phạm, đồng thời cũng là ngừơi
giám sát hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, thi hành án của CQĐT, VKSND.
Vì vậy, mọi hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn này
đều có sự giám sát của Nhân dân. Do đó, KSV cần lắng nghe ý kiến của Nhân
dân khi nhận được tin báo tội phạm, cũng như cần xem xét kỹ những ý kiến
trình bày của Nhân dân để xác định chính xác người có hành vi tham nhũng
có phạm tội hay không. Do vậy, sự giám sát của Nhân dân có vai trò quan
trọng giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nói
chung và KSV thực hiện hoạt động THQCT, KSĐT các vụ án tham nhũng
được chính xác, đúng pháp luật.
1.4.5. Sự tác động của người có chức vụ, quyền hạn và những người
thân quen
KSV ngoài quan hệ công tác còn có các mối quan hệ xã hội bình thường
như những người bình thường khác như các quan hệ gia đình, bạn bè, họ
hàng, làng xóm... Tư tưởng nhờ vả vào người thân, hàng xóm láng giềng của
mình quan tâm giải quyết những vụ án có lợi cho mình vẫn còn tồn tại khá
phổ biến, đặc biệt là ở nông thông nước ta hiện nay. Tư tưởng “một người
làm quan cả họ được nhờ”, “nhất thân, nhì quen” đã ăn sâu vào trong suy
nghĩ, hành động của đá số người dân Việt Nam và đã ảnh hưởng không tốt
đến hoạt động thực hành quyền công tố của KSV. Nếu KSV không vững
vàng; không kiên quyết bảo vệ pháp luật và sự công bằng; không thực hiện
được tư tưởng “công pháp bất vị thân” thì chắc chắn các quyết định áp dụng
pháp luật của KSV khó đạt được các chuẩn mực cần thiết.
Ngoài những người thân, bạn bè, làng xóm ra thì KSV cũng khó tránh
khỏi sự nhờ vả của những người có chức, có quyền có mối quan hệ công tác
và các đơn vị khác….Do đó, cần phải có hình thức bổ nhiệm KSV không có
thời hạn (nghĩa là không phụ thuộc vào chính quyền địa phương, cấp ủy địa
29
phương); đồng thời có qui định xử lý kỷ luật nghiêm khắc nếu KSV vi phạm;
có như vậy thì mới đảm bảo cho việc thực hiện đúng chức năng, nhiệm của
Ngành và đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới- xây dựng Nhà nước Pháp
quyền XHCN.
30
Tiểu kết chương 1
Trong nội dung chương 1, tác giả phân tích những vấn đề lý luận cơ
bản, đưa ra quan điểm về “Quyền công tố”, “Thực hành quyền công tố” và
kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND, từ đó đưa ra nhận thức của mình
về vấn đề này. Trên cơ sở nhận thức về thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp, tác giả phân tích khái niệm, đối tượng, nội dung, phạm
vi THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Bên cạnh đó, cũng đưa ra được những yếu tố ảnh hưởng trong quá trình
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong đó đáng
chú ý là những ảnh hưởng của trình độ, năng lực, đạo đức của KSV, của các
thiết chế xã hội như: Của báo chí, của nhân dân …....Tuy nhiên điều ảnh
hưởng quan trọng nhất, quyết định đến đảm bảo thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND, đó chính là yếu tố con người -
trình độ, năng lực, đạo đức của KSV.
Lý luận trình bày trên là cơ sở cho việc phân tích, đánh giá thực trạng
bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của
VKSND tỉnh Quảng Ngãi trước và khi khi Bộ luật TTHS năm 2015 có hiệu
lực.
31
Chương 2
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
VÀ KIỂM SÁT CÁC HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
2.1. Khái quát về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
2.1.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội, tình hình vi phạm, tội phạm trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi và công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
Quảng Ngãi là một tỉnh ven biển duyên hải miền Trung, phía Bắc giáp
tỉnh Quảng Nam, phía Nam giáp tỉnh Bình Định, phía Tây nam giáp Kom Tum, phía Đông giáp biển Đông. Tổng diện tích tự nhiên là 5.135 km2, chiếm 1,56% tổng diện tích tự nhiên cả nước. Các đường giao thông quan trọng như
đường quốc lộ 1, quốc lộ 24, đường sắt xuyên Việt. Tỉnh có 14 đơn vị hành
chính cấp huyện, gồm 13 huyện và 1 thành phố (trong đó có 07 huyện đồng
bằng, 06 huyện miền núi và 01 huyện đảo), dân số 1.260.140 người có 25 dân
tộc, đông nhất là dân tộc Kinh chiếm 88,4%; các dân tộc thiểu số như dân tộc
Hrê chiếm 8,5%; dân tộc Cor chiếm 1,9%; dân tộc Xơ Ðăng chiếm 0,98% và
các dân tộc khác. Do là một tỉnh vừa có miền núi, vừa có đồng bằng, vùng
biển nên dân cư được phân bố không đồng đều chủ yếu sống tập trung ở khu
đô thị và đồng bằng, ven biển. Mật độ dân số trung bình là 245.401 người/km2 [58].
Về phát triển kinh tế-xã hội: Từ khi tái lập tỉnh đến nay, kinh tế - xã hội
của tỉnh Quảng Ngãi có bước phát triển khá. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP)
bình quân đạt 9,1%. Trong đó, khu vực công nghiệp- xây dựng tăng 3,7%; khu
vực dịch vụ tăng 8,5%; khu vực nông lâm nghiệp, thủy sản tăng 4,9%. Cơ cấu
kinh tế có tỷ trọng giá trị tăng thêm của khu vực công nghiệp - xây dựng đạt
52,6%; tỷ trọng khu vực dịch vụ là 28,4%; tỷ trọng khu vực nông lâm nghiệp và
32
thuỷ sản là 19%. Thu ngân sách trên địa bàn tỉnh năm 2017 ước đạt trên
30.342,1 tỷ đồng, GDP bình quân đầu người 2.321 USD/người/năm. Thu hút
đầu tư nhanh chóng, tổng số vốn thu hút đầu tư giai đoạn 2015- 2017 đạt khoảng
128.784 tỉ đồng; các thành phần kinh tế có bước phát triển mạnh mẽ [58].
Giáo dục và đào tạo đạt được nhiều thành tựu quan trọng, khoa học,
công nghệ, bảo vệ môi trường được quan tâm. Công tác chăm sóc sức khỏe
nhân dân; dân số kế hoạch hóa gia đình có bước tiến bộ, thực hiện có hiệu quả
các chính sách an sinh xã hội, giải quyết việc làm, tỷ lệ hộ nghèo giảm, đời
sống nhân dân được cải thiện. Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội cơ bản ổn định, giữ vững, cải cách tư pháp đạt nhiều hiệu quả tích cực...
Trong những năm gần đây tình hình kinh tế Quảng Ngãi phát triển đáng
kể nhất là Khu Công nghiệp Dung Quất như : Nhà máy lọc dầu Dung Quất,
Nhà máy Doosan Vina, khu liên hợp sản xuất gang thép Hòa Phát và Khu
Công nghiệp - Đô thị - Dịch vụ VSIP đi vào hoạt động. Các khu công nghiệp
đã thu hút và tạo việc làm cho nhiều lao động trong và ngoài tỉnh. Do đó,
cùng với sự phát triển kinh tế, tình hình tội phạm cũng có những diễn biến rất
phức tạp với phương thức, thủ đoạn phạm tội ngày một tinh vi, xảo quyệt. Đối
tượng phạm tội có tuổi đời trẻ , số vụ phạm tội có đông người tham gia ngày
một tăng và tăng cả về số lượng. Đa số người dân tỉnh Quảng Ngãi làm nghề
nông, ngư nghiệp và một số ít là lâm nghiệp; trình độ văn hóa, dân trí còn
thấp, phong tục tập quán có nơi còn lạc hậu, đặc biệt là các huyện vùng sâu,
vùng xa trình độ văn hoá phần lớn mới phổ cập tiểu học, số dân mù chữ và tái
mù chữ còn nhiều. Vì vậy, trình độ hiểu biết và nhận thức về pháp luật còn rất
hạn chế. Đây là một trong những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi vi
phạm pháp luật và tội phạm.
Với tình hình trên các cơ quan bảo vệ pháp luật ở tỉnh Quảng Ngãi đã
ban hành nhiều văn bản, kế hoạch, biện pháp để huy động các lực lượng đấu
tranh phòng, chống tội phạm. Các ngành, các cấp, các lực lượng và quần
33
chúng nhân dân đã tích cực vào cuộc tham gia đấu tranh, tố giác tội phạm và
xử lý tội phạm. 2.1.2.Khái quát về tổ chức, bộ máy hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Quảng Ngãi
Cách đây 58 năm (ngày 26-7-1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký lệnh
công bố Luật Tổ chức VKSND, đánh dấu sự ra đời của hệ thống cơ quan
VKSND trong bộ máy Nhà nước XHCN Việt Nam.
Và ngày 26-7-1960 đã trở thành ngày khai sinh của hệ thống VKSND
các cấp. Cũng từ đó hệ thống VKSND đã trở thành một trong những công cụ
của chuyên chính vô sản; một công cụ bảo vệ pháp chế XHCN; bảo vệ và tạo
điều kiện để nhân dân lao động thực hiện quyền lực của mình với vai trò của
người làm chủ.
Cũng như toàn bộ hệ thống VKSND trong cả nước, VKSND tỉnh
Quảng Ngãi được thành lập vào năm 1989, từ đó đến nay VKSND tỉnh Quảng
Ngãi đã cùng các cơ quan bảo vệ pháp luật của tỉnh có nhiều đóng góp vào
việc đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự phát triển
kinh tế của tỉnh.
VKSND tỉnh Quảng Ngãi tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung thống nhất lãnh đạo trong ngành và chịu sự chỉ đạo thống nhất của Viện
trưởng VKSND tối cao; cơ cấu tổ chức gồm: 14 VKS cấp huyện, thành phố
và 10 phòng nghiệp vụ trực thuộc VKS tỉnh. Theo đó trên cơ sở Luật tổ chức
VKSND năm 2014, VKSND tỉnh Quảng Ngãi đã tổ chức lại các khâu công
tác nghiệp vụ của VKS tỉnh còn 10 phòng nghiệp vụ là: Phòng Thực hành
quyền công tố - Kiểm sát điều tra và Kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự về
trật tự xã hội (Phòng 1); Phòng Thực hành quyền công tố - Kiểm sát điều tra
và Kiểm sát xét xử sơ thẩm án kinh tế, chức vụ (Phòng 3); Phòng Kiểm sát
xét xử phúc thẩm - giám đốc thẩm - tái thẩm án hình sự (Phòng 7); Phòng
34
Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và THA phạt tù (Phòng 8); Phòng Kiểm sát
việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân gia đình (Phòng 9); Phòng Kiểm
sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ,việc kinh tế, thương mại và các
việc khác theo quy định của pháp luật (Phòng 10); Phòng Kiểm sát THADS
và THA hành chính ( Phòng 11); Phòng kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo ( Phòng 12); Phòng Tổ chức cán bộ ( Phòng 15) và Văn phòng tổng hợp.
Ngành Kiểm sát tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2017 có 182 biên chế (cấp
tỉnh 50, cấp huyện 132) và 47 HĐLĐ theo Nghị định 68, trong đó, cán bộ nữ
107 đ/c, chiếm 59%; cán bộ là người dân tộc thiểu số có 11 đ/c, chiếm 6%;
toàn ngành có 120 đảng viên, chiếm 66%; có KSV cao cấp 01 người, chiếm
0,05%, 41 Kiểm sát viên trung cấp ( tỉnh 26, huyện 15), chiếm 22,5 % biên
chế toàn tỉnh; Kiểm sát viên sơ cấp 59 người ( tỉnh 03, huyện 56), chiếm 32,4
% tổng biên chế; Kiểm tra viên 34 người ( tỉnh 06, huyện 28), chuyên viên và
cán sự 47 người (tỉnh 14, huyện 33). Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ toàn
tỉnh có 15 Thạc sĩ (công tác ở cấp tỉnh 10, cấp huyện 05) chiếm 8% và đang
theo học Thạc sỹ 15đ/c, 136 Cử nhân luật, chiếm 83%; Đại học khác 14,
chiếm 7,7% và 02 Cao đẳng kiểm sát, chiếm 1,3% [55].
Để triển khai thực hiện theo lộ trình của Nghị quyết 49-NQ/TW ngày
02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
VKSND tỉnh Quảng Ngãi đã quan tâm đến công tác đào tạo nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ; trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, KSV, nhất là
đối với đội ngũ KSV sơ cấp làm công tác THQCT và kiểm sát điều tra,
KSXX các vụ án hình sự. Tuy nhiên, so với yêu cầu hiện nay, lực lượng KSV
làm công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp còn thiếu về số
lượng và năng lực, trình độ chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình
hình mới đề ra, như chưa được đào tạo nhiều về kiến thức quản lý nhà nước,
kiến thức khoa học, tin học, ngoại ngữ…; Tóm lại, trình độ của KSV hiện nay
35
so với đòi hỏi ngày càng cao của xã hội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế hiện nay là chưa đáp ứng được một cách toàn diện về mọi mặt.
2.1.3.Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 tại Điều 107 quy định : “Viện
kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” [27].
Trong thời gian qua, VKSND cấp tỉnh đã làm tốt công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, đã đạt được những kết quả đáng
kể, góp phần quan trọng vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo
vệ lợi ích của xã hội, quyền tự do, dân chủ của công dân tỉnh nhà.
Để có kết quả đánh giá toàn diện việc bảo đảm thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện KSND cấp tỉnh, tác giả phân tích,
đánh giá hai giai đoạn trước và sau khi có hiệu lực của Bộ luật Tố tụng Hình
sự năm 2015 (Theo số liệu báo cáo tổng kết các năm 2015 đến năm 2017 và
tháng 01 đến tháng 06 năm 2018 của VKSND cấp tỉnh), về các mặt sau đây :
2.1.3.1.Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Trong những năm qua, công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh đạt được những kết quả đáng khích lệ, góp phần tích cực
vào việc nâng cao chất lượng công tác giải quyết án hình sự. Do xác định rõ ý
nghĩa, tầm quan trọng của công tác này, nên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Quảng Ngãi trực tiếp phụ trách đồng thời bố trí Kiểm sát viên, cán
bộ có năng lực trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm để thực hiện có hiệu
36
quả. Đồng thời đồng chí Viện trưởng Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi chỉ đạo
khi phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội
phạm mà VKS đã yêu cầu nhưng không được khắc phục thì phân công KSV
trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
- Trong các từ năm 2015 đến năm 2017, VKSND cấp tỉnh đã THQCT
và kiểm sát 77 tố giác, tin báo và kiến nghị khởi tố của CQĐT Công an tỉnh.
Đã giải quyết 75 tố giác, tin báo, đạt tỷ lệ 97,4%. Tiến hành 08 cuộc kiểm sát
trực tiếp việc tiếp nhận, thụ lý giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố của CQĐT, đã ban hành kết luận và kiến nghị. Ban hành 10 kiến nghị bằng văn bản riêng đối với CQĐT và 68 văn bản yêu cầu trong hoạt
động kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm [56].
- Trong sáu tháng đầu năm 2018, VKSND cấp tỉnh đã THQCT và kiểm
sát 15 tố giác, tin báo và kiến nghị khởi tố của CQĐT Công an tỉnh. Đã giải
quyết 08 tố giác, tin báo. Tiến hành 02 cuộc kiểm sát trực tiếp việc tiếp nhận,
thụ lý giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT,
đã ban hành kết luận và kiến nghị. Ban hành 02 kiến nghị bằng văn bản riêng đối với CQĐT và 01 văn bản yêu cầu trong hoạt động kiểm sát việc giải
quyết tin báo, tố giác tội phạm[ 57].
2.1.3.2. Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án
hình sự
VKSND cấp tỉnh trong những năm qua đã chủ động tham gia sâu hơn
vào quá trình điều tra, bám sát các hoạt động điều tra để làm rõ tội phạm,
cùng chịu trách nhiệm với cơ quan điều tra về kết quả điều tra. VKSND cấp
tỉnh kịp thời đưa ra các yêu cầu điều tra chuẩn xác, có tác dụng thực tế trong
định hướng điều tra, xác định tội phạm, chủ động cùng với Cơ quan điều tra
Công an tỉnh tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình
điều tra. Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp
37
luật để chủ động thu thập và kiểm tra chứng cứ khi cần thiết. Mặt khác, kiên
quyết không phê chuẩn hoặc khi cần thiết thì hủy bỏ các quyết định không có
căn cứ, trái pháp luật của cơ quan điều tra, góp phần bảo đảm không để lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Qua đó đã từng bước
nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác công tác thực hành quyền công
tố trong kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Chính vì thế, tỷ lệ bắt
giữ chuyển xử lý hình sự đạt 100%. Không có trường hợp bắt giữ không có
căn cứ pháp luật. Tỷ lệ giải quyết án trong giai đoạn điều tra cao, không có án
tồn, đọng, quá hạn cũng như oan sai.
- Tổng số thụ lý từ năm 2015 đến năm 2107: 69 vụ 104 bị can; CQĐT
đã giải quyết: 61 vụ 96 bị can, đạt tỷ lệ 88,4%, trong đó có đình chỉ điều tra
03 vụ 04 bị can. Án trọng điểm: 04 vụ, tỷ lệ 7%, không có án rút gọn.
Qua hoạt động kiểm sát điều tra VKSND cấp tỉnh đã ban hành 04 kiến
nghị với CQĐT Công an tỉnh yêu cầu khắc phục vi phạm trong công tác điều
tra, ban hành 01 kiến nghi phòng ngừa vi phạm. Đồng thời VKSND cấp tỉnh
không phê chuẩn 03 lệnh bắt khẩn cấp [56].
- Tổng số thụ lý sáu tháng đầu năm 2018: 23 vụ 28 bị can; CQĐT đã
giải quyết: 07 vụ 06 bị can, tỷ lệ giải quyết 30,4%, trong đó có đình chỉ điều
tra 02 vụ 01 bị can. Hiện còn: 16 vụ 22 bị can; không có án quá hạn.
Qua hoạt động kiểm sát điều tra VKSND cấp tỉnh đã ban hành 01 kiến
nghị với CQĐT Công an tỉnh yêu cầu khắc phục vi phạm trong công tác điều
tra, ban hành 01 kiến nghi phòng ngừa vi phạm. Đồng thời VKSND cấp tỉnh
không phê chuẩn 01 lệnh bắt khẩn cấp [57].
2.1.3.3.Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong giai đoạn truy tố
Trong những năm qua, không có trường hợp nào VKSND cấp tỉnh truy
tố, toà án tuyên không phạm tội ở các giai đoạn: sơ thẩm, phúc thẩm, giám
38
đốc thẩm. Đây là kết quả của công tác kiểm sát điều tra ngay từ đầu và việc
chuẩn bị đầy đủ hồ sơ, chuẩn bị luận tội, dự liệu những tình huống mới xảy ra
tại phiên toà, nhằm nâng cao vai trò trách nhiệm của kiểm sát viên trong việc
thực hành quyền công tố tại phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp. Tỷ lệ
giải quyết án của VKS hàng năm đều đạt 100%, chất lượng truy tố đảm bảo,
các vụ án đưa ra xử lý nhanh, kịp thời, đúng các quy định pháp luật.
- Tổng số thụ lý của VKSND cấp tỉnh từ năm 2015 đến năm 2017 : 54
vụ 91 bị can. VKS đã giải quyết: 54 vụ 91 bị can, đạt tỷ lệ 100%, trong đó
quyết định truy tố : 51 vụ 88 bị can và đình chỉ : 03 vụ 03 bị can.
Theo kết quả thống kê trong báo cáo tổng kết hàng năm của Viện kiểm
sát nhân dân cấp tỉnh cho thấy: Trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2017,
VKSND cấp tỉnh đã trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra Công an tỉnh để điều tra
bổ sung là 03 vụ, chiếm tỷ lệ 5,55% [ 56].
- Tổng số thụ lý của VKSND cấp tỉnh sáu tháng đầu năm 2018: 05 vụ
05 bị can. VKS đã giải quyết: 03 vụ 03 bị can, đạt tỷ lệ 60%, trong đó quyết
định truy tố : 02 vụ 02 bị can và đình chỉ : 01 vụ 01 bị can.
Qua rà soát án tạm đình chỉ VKSND cấp tỉnh đã ban hành 01 Quyết
định hủy bỏ 01 quyết định tạm đình chỉ vụ án [57].
2.1.3.4. Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án
hình sự
Trong thời gian trên VKSND cấp tỉnh đã đổi mới mạnh mẽ để nâng cao
chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư
pháp. Vai trò của kiểm sát viên tại phiên tòa là thay mặt Nhà nước để thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, do vậy, tại phiên tòa,
kiểm sát viên đã chủ động trong xét hỏi và tranh luận, thực sự có trách nhiệm
và bản lĩnh, sắc bén để bảo vệ quan điểm truy tố; đồng thời phải thực sự
khách quan, tôn trọng kết quả tranh luận công khai tại phiên tòa để đề xuất
39
quan điểm xử lý vụ án đúng pháp luật, có sức thuyết phục. Công tác thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự được chú trọng và
chất lượng được nâng cao hơn.
- Từ năm 2015 đến năm 2017, VKSND cấp tỉnh đã tham gia thực hành
quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 51 vụ 86 bị cáo, trong đó
Tòa án trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung 05vụ, chiếm tỷ lệ 9,8%. Đồng
thời trong thời gian trên bị Tòa án cấp cao tại Đà Nẵng hủy 02 vụ; THQCT và
KSVTTPL các vụ án hình sự phúc thẩm của VKSND tỉnh từ năm 2015 đến
năm 2017 : 370 vụ 524 bị cáo, Tòa án đã giải quyết 363 vụ 513 bị cáo, đạt tỷ
lệ 98,1% [56].
Qua công tác kiểm sát, VKSND cấp tỉnh phối hợp cùng Toà án đưa ra
xét xử lưu động 52 vụ án hình sự có tính chất thời sự và dư luận xã hội quan
tâm, qua đó đã phục vụ kịp thời yêu cầu nhiệm vụ chính trị địa phương và tổ
chức 40 phiên tòa rút kinh nghiệm nhằm nâng cao kỹ năng THQCT tại phiên
tòa. Qua kiểm sát, VKSND tỉnh đã ban hành 07 kiến nghị đối với Tòa án và
Đoàn luật sư tỉnh. Đồng thời Viện KSND cấp tỉnh đã ban hành 20 kháng nghị
phúc thẩm, Tòa án chấp nhận 14 kháng nghị, đạt 70% [56].
- Sáu tháng đầu năm 2018, VKSND cấp tỉnh đã tham gia thực hành
quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 06 vụ 11 bị cáo; THQCT và
KSVTTPL các vụ án hình sự phúc thẩm của VKSND tỉnh 6 tháng đầu năm
2018: 44 vụ 82 bị cáo, Tòa án đã giải quyết 40 vụ 61 bị cáo, đạt tỷ lệ 90,9% .
Qua công tác kiểm sát, VKSND cấp tỉnh phối hợp cùng Toà án tỉnh tổ
chức 10 phiên tòa rút kinh nghiệm nhằm nâng cao kỹ năng THQCT tại phiên
tòa. Qua kiểm sát, VKSND cấp tỉnh đã ban hành 02 kiến nghị đối với Tòa án.
Đồng thời Viện KSND tỉnh đã ban hành 02 kháng nghị phúc thẩm, Tòa án
chấp nhận 02 kháng nghị, còn 01 kháng nghị chưa xét xử [57].
40
2.1.3.5. Công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự
- Công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
Trách nhiệm của VKSND trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
bắt, tạm giữ, tạm giam là rất quan trọng nhằm đảm bảo cho việc tạm giữ, tạm
giam có căn cứ, đúng theo quy định của pháp luật; đảm bảo cho chế độ tạm
giữ, tạm giam được thực hiện nghiêm chỉnh, đồng thời bảo vệ tính mạng, tài
sản, danh dự, nhân phẩm của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam cũng như các
quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng và bảo vệ; phát
hiện những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý người bị tạm giữ, tạm giam
từ đó yêu cầu trưởng nhà tạm giữ, giám thị trại tạm giam có biện pháp chấn
chỉnh và tổ chức phòng ngừa vi phạm, tội phạm có thể xảy ra.
- Từ năm 2015 đến năm 2017 VKSND cấp tỉnh đã kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam: Kiểm sát 99 trường hợp tạm giữ, đã giải quyết 99 trường hợp,
tỷ lệ đạt 100% và kiểm sát 934 đối tượng tạm giam, đã giải quyết 904, tỷ lệ
giải quyết 96,8%; Hiện còn 30 đối tượng tạm giam.
Trong ba năm VKSND cấp tỉnh tiến hành 19 cuộc kiểm sát trực tiếp tại
Nhà tạm giữ, Trại tạm giam. Qua kiểm sát trực tiếp đã ban hành 19 kết luận,
kiến nghị, 02 kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm [56].
- Sáu tháng đầu năm 2018 VKSND cấp tỉnh đã kiểm sát việc tạm giữ,
tạm giam: Kiểm sát 19 trường hợp tạm giữ, đã giải quyết 19 trường hợp, tỷ lệ
đạt 100% và kiểm sát 170 đối tượng tạm giam, đã giải quyết 129, tỷ lệ giải
quyết 96,8%, hiện còn 41 đối tượng tạm giam.
VKSND cấp tỉnh tiến hành 04 cuộc kiểm sát trực tiếp tại Nhà tạm giữ,
Trại tạm giam, đã ban hành 04 kết luận. Quan kiểm sát VKSND cấp tỉnh đã
ban hành 01 kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm [57].
- Công tác kiểm sát thi hành án hình sự
41
Kiểm sát thi hành án hình sự là một trong những khâu công tác quan
trọng, thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện KSND theo
quy định của pháp luật nhằm bảo đảm: Việc thi hành, quản lý và giáo dục
người chấp hành án phạt tù; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp
khác của người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn chế phải được tôn
trọng và bảo vệ; Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải
được thi hành nghiêm chỉnh.
Qua kiểm sát, Trại giam Công an tỉnh Quảng Ngãi đã tổ chức thực hiện
nghiêm túc các quy định của pháp luật về việc quản lý và giáo dục người chấp
hành án phạt tù. Việc tiếp nhận phạm nhân đến chấp hành án cũng như giải
quyết các trường hợp phạm nhân chấp hành xong hình phạt, tạm đình chỉ,
chết được thực hiện theo đúng quy định; Công tác tuần tra, canh gác được đặc
biệt quan tâm, duy trì 24/24 giờ hàng ngày, không để xảy ra trường hợp
phạm nhân trốn trại; Việc thực hiện các chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm
sóc y tế,... của phạm nhân được đảm bảo theo quy định của Luật thi hành án
hình sự năm 2010, Nghị định 117/2011/NĐ-CP ngày 15/12/2011 của Chính
phủ qui định về tổ chức quản lý phạm nhân về chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt,
chăm sóc y tế đối với phạm nhân [8] và Thông tư liên tịch 02/2013/TTLT-
BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn thi hành quy định về giảm thời
hạn chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân [ ].
- Trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2017 Viện KSND cấp tỉnh
kiểm sát chặt chẽ việc ra quyết định và tổ chức đưa bị án đi thi hành án, việc
hoãn chấp hành án phạt tù và thực hiện các chế độ, chính sách đối với phạm
nhân đảm bảo việc xét giảm đúng quy định pháp luật. Số bị án thi hành hình
phạt chung thân 01; tổng số bị án phải thi hành hình phạt tù có thời hạn là 139
người, đã thi hành 124 người. Tham gia xét giảm thời hạn chấp hành án phạt
tù cho 139 phạm nhân, trong đó chấp nhận 137 trường hợp, không chấp nhận
42
02 trường hợp; kiểm sát 25 hồ sơ đề nghị đặc xá của Trại tạm giam, cơ quan
Thi hành án hình sự Công an tỉnh và TAND tỉnh đối với người bị kết án phạt
tù đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phát tù. Kết quả tổng cộng có
35 người được đặc xá (30 phạm nhân đang chấp hành án tại Trại tạm giam
Công an tỉnh, 05 người tại Nhà tạm giữ Công an huyện, thành phố).
Đã tiến hành 11 cuộc kiểm sát trực tiếp tại cơ quan thi hành án hình sự
và phân trại tạm giam, đã ban hành 11 kết luận, kiến nghị. Qua kiểm sát đã
ban hành 07 yêu cầu, 12 kiến nghị và 06 kháng nghị khắc phục các vi
phạm[56].
- Trong sáu tháng đầu năm 2018 Viện KSND cấp tỉnh kiểm sát chặt chẽ
việc ra quyết định và tổ chức đưa bị án đi thi hành án, việc hoãn chấp hành án
phạt tù và thực hiện các chế độ, chính sách đối với phạm nhân đảm bảo việc
xét giảm đúng quy định pháp luật. Số bị án phải thi hành hình phạt tù có thời
hạn là 10 người, đã thi hành 02 người. Đã tiến hành 02 cuộc kiểm sát trực tiếp
tại cơ quan thi hành án hình sự và phân trại tạm giam, đã ban hành 02 kết
luận, kiến nghị. Qua kiểm sát đã ban hành 01 yêu cầu, 02 kiến nghị đối với
một số vi phạm [57].
2.1.3.6.Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân
gia đình, vụ án hành chính; vụ, việc kinh doanh, thương mại, lao động và
những việc khác theo quy định của pháp luật
- Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình
Trong những năm qua, án tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình của
Viện KSND cấp tỉnh tăng. Án dân sự chủ yếu là các loại án tranh chấp về:
Tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, chia di sản thừa kế, tranh chấp
hợp đồng vay tài sản, tranh chấp nghĩa vụ thanh toán hợp đồng, tranh chấp
thanh toàn tiền biêu... Tranh chấp dân sự ngày càng phức tạp, một số vụ án
43
liên quan đến nhiều người, kéo dài nhiều năm chưa được giải quyết dứt điểm.
Đặc biệt nổi cộm là loại tranh chấp hợp đồng vay tiền với lãi suất cao, nhiều
đương sự là nguyên đơn trong vụ án vay mượn này và cũng là bị đơn trong
một số vụ án vay mượn khác. Án hôn nhân gia đình chủ yếu tranh chấp về ly
hôn, chia tài sản chung sau ly hôn, trong đó đương sự là các cặp vợ chồng trẻ
mới cưới trong thời gian năm năm đầu chiếm tỷ lệ nhiều, nguyên nhân chủ
yếu là trong thời gian mới cưới, đời sống chung chưa phù hợp, hai bên lại
không biết nhường nhịn, chia sẻ khó khăn nên dẫn đến ly hôn.Kiểm sát chặt
chẽ tình hình thụ lý, giải quyết các vụ, việc dân sự; KSV tham gia 100%
phiên tòa, phiên họp theo quy định pháp luật VKS phải tham gia.
+ Từ năm 2015 đến năm 2017 VKSND cấp tỉnh đã kiểm sát việc giải
quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân gia đình: Kiểm sát thụ lý giải quyết án sơ
thẩm: 141 vụ, việc, đã giải quyết: 101 vụ, việc, tỷ lệ giải quyết đạt 71,6%.
Kiểm sát thụ lý giải quyết án phúc thẩm: 308 vụ, việc, đã giải quyết: 295 vụ,
việc, tỷ lệ giải quyết đạt 95,7%. Trong 3 năm bị ngành cấp trên hủy án sơ
thẩm của Viện KSND cấp tỉnh 09 vụ, 03 vụ cải sửa.
Trong ba năm, VKSND cấp tỉnh đã phối hợp với TAND tỉnh tổ chức
14 phiên tòa rút kinh nghiệm. Ban hành 43 kháng nghị phúc thẩm, đã giải
quyết 43 kháng nghị (trong đó: Chấp nhận 33 kháng nghị, không chấp nhận
03 kháng nghị và rút kháng nghị 07).Qua kiểm sát đã ban hành 12 yêu cầu, 08
kiến nghị yêu cầu khắc các vi phạm [56].
+ Sáu tháng đầu năm 2018 VKSND cấp tỉnh đã kiểm sát việc giải quyết
các vụ, việc dân sự, hôn nhân gia đình: Kiểm sát thụ lý giải quyết án sơ thẩm:
56 vụ, việc, đã giải quyết: 17 vụ, việc. Kiểm sát thụ lý giải quyết án phúc
thẩm: 46 vụ, việc; đã giải quyết: 62vụ, việc. Trong 6 tháng đầu băm 2018 bị
ngành cấp trên hủy án sơ thẩm của Viện KSND cấp tỉnh 02 vụ, 03 vụ cải sửa.
44
VKSND cấp tỉnh đã phối hợp với TAND tỉnh tổ chức 03 phiên tòa rút
kinh nghiệm. Ban hành 04 kháng nghị phúc thẩm, đã giải quyết 04 kháng
nghị (trong đó: Chấp nhận 02 kháng nghị và rút kháng nghị 02). Qua kiểm sát
đã ban hành 04 yêu cầu, 03 kiến nghị yêu cầu khắc các vi phạm [57].
- Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính; vụ, việc kinh
doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật
Án tranh chấp về hành chính, kinh doanh thương mại, lao động và các
việc khác theo quy định của pháp luật hàng năm Viện KSND cấp tỉnh đều
tăng. Án hành chính chủ yếu là các khiếu kiện về quyết định hành chính của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đặc biệt là các quyết định hành chính trong
quản lý đất đai của UBND các cấp về thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận
Quyền sử dụng đất, việc xét cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất khi có
tranh chấp, thủ tục chưa đúng theo quy định của pháp luật. Án kinh doanh
thương mại chủ yếu là tranh chấp về vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong hợp
đồng tín dụng, vay ngân hàng; tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa. Án
lao động chủ yếu là tranh chấp về doanh nghiệp nợ tiền bảo hiểm xã hội của
người lao động. Lãnh đạo VKSND cấp tỉnh chỉ đạo quán triệt KSV tiếp tục
nghiên cứu, rèn luyện các kỹ năng nghiệp vụ về phương pháp nghiên cứu đối
với từng loại án, việc khởi kiện, yêu cầu; nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, nắm
vững kiến thức pháp luật ở những lĩnh vực liên quan đến vụ án nhằm thực
hiện đầy đủ chức năng của VKS theo luật định và nâng cao chất lượng kiểm
sát việc giải quyết của tòa án. Tiếp tục thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 10/CT-
VKSTC ngày 06/4/2016 của Viện trưởng VKSND tối cao về tăng cường công
tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ việc dân sự, vụ án
hành chính[49]; phát hiện kịp thời những vi phạm, thiếu sót trong quá trình
giải quyết án của tòa án để kiến nghị, kháng nghị.
45
+ Từ năm 2015 đến năm 2017 VKSND cấp tỉnh đã kiểm sát việc giải
quyết các vụ án hành chính; vụ, việc kinh doanh, thương mại, lao động và
những việc khác theo quy định của pháp luật : Kiểm sát thụ lý giải quyết án
sơ thẩm: 124 vụ, việc; đã giải quyết: 103 vụ, việc. Kiểm sát thụ lý giải quyết
án phúc thẩm: 61 vụ, việc; đã giải quyết: 57 vụ, việc. Trong ba năm Viện
KSND cấp tỉnh bị ngành cấp trên hủy án sơ thẩm 05 vụ hủy, 01 vụ sửa.
Trong ba năm, VKSND cấp tỉnh đã phối hợp với TAND tổ chức 09
phiên tòa rút kinh nghiệm. Ban hành 12 kháng nghị phúc thẩm, đã giải quyết
12 kháng nghị (trong đó: Chấp nhận 08 kháng nghị, không chấp nhận 02
kháng nghị; rút kháng nghị 02 kháng nghị); Đã ban hành 24 yêu cầu, 18 kiến
nghị yêu cầu khắc phục các vi phạm[56].
+ Sáu tháng đầu năm 2018 VKSND cấp tỉnh đã kiểm sát việc giải quyết
các vụ án hành chính; vụ, việc kinh doanh, thương mại, lao động và những
việc khác theo quy định của pháp luật : Kiểm sát thụ lý giải quyết án sơ thẩm:
26 vụ, việc; đã giải quyết: 17 vụ, việc. Kiểm sát thụ lý giải quyết án phúc
thẩm: 07 vụ, việc; đã giải quyết: 05 vụ, việc. Trong 6 tháng đầu năm 2018 bị
ngành cấp trên hủy án sơ thẩm của Viện KSND cấp tỉnh 01 vụ cải sửa.
VKSND cấp tỉnh đã phối hợp với TAND tỉnh tổ chức 02 phiên tòa rút
kinh nghiệm. Ban hành 03 kháng nghị phúc thẩm, đã giải quyết 03 kháng
nghị (trong đó: Chấp nhận 02 kháng nghị và rút kháng nghị 01).Qua kiểm sát
đã ban hành 02 yêu cầu, 01 kiến nghị yêu cầu khắc các vi phạm [57].
2.1.3.7.Công tác kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính
VKSND cấp tỉnh đã phối hợp với Cơ quan THADS tỉnh thực hiện tốt
Quy chế phối hợp liên ngành về công tác thi hành án dân sự. Đôn đốc cơ quan
THADS xử lý vật chứng tồn kho và tiền tạm ứng án phí, lệ phí còn tồn đọng;
rà soát, đề nghị TAND xử lý các bản án tuyên không rõ, khó thi hành, góp
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự; phối hợp với
46
Ủy ban MTTQ Việt Nam tiến hành các cuộc kiểm sát trực tiếp tại cơ quan thi
hành án dân sự; phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự và các ngành hữu
quan giải quyết cơ bản những việc thi hành án kéo dài. Chủ động phối hợp
với Cơ quan THADS trong việc theo dõi, đối chiếu số liệu thi hành án; kiểm
sát 100% quyết định thi hành án; cử KSV tham gia kiểm sát 100% các hoạt
động về thi hành án; trực tiếp xác minh một số trường hợp về điều kiện thi
hành án nhằm đảm bảo việc phân loại điều kiện thi hành án của cơ quan thi
hành án đúng đắn, phù hợp. Chủ động phối hợp với Cơ quan THA họp bàn
giải quyết những việc thi hành án phức tạp.
- Từ năm 2015 đến năm 2017 VKSND cấp tỉnh đã kiểm sát số việc
phải thi hành án: 702việc, với số tiền là 206.383.580.000 đồng. Số việc đã
giải quyết: 543 việc, với số tiền là 148.604.856.000 đồng. Số việc còn chưa
thi hành: 159 việc, trong đó chưa có điều kiện thi hành án là 55 việc. VKSND
cấp tỉnh đã tiến hành 08 cuộc kiểm sát trực tiếp tại Cơ quan thi hành án dân
sự tỉnh Quảng Ngãi, đã ban hành kết luận. Qua kiểm sát đã ban hành 05 văn
bản yêu cầu trong hoạt động thi hành án dân sự, 01kháng nghị, 06 kiến nghị
yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự khắc phục các vi phạm [56].
- Sáu tháng đầu năm 2018 VKSND cấp tỉnh đã kiểm sát số việc phải thi
hành án: 216 việc, với số tiền là 69.055.116.000 đồng. Số việc đã giải quyết:
158 việc, với số tiền là 37.802.814.000 đồng. Số việc còn chưa thi hành: 88
việc, trong đó chưa có điều kiện thi hành án là 85 việc. VKSND cấp tỉnh đã
tiến hành 01 cuộc kiểm sát trực tiếp tại Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh
Quảng Ngãi, đã ban hành kết luận. Qua kiểm sát đã ban hành 01 kiến nghị
yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự khắc phục các vi phạm [57].
47
2.1.3.8.Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm của
Viện kiểm sát và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan tư
pháp
Công dân đến Viện kiểm sát nhân dân thường phản ánh, kiến nghị,
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực Tư pháp, chủ yếu tập trung trong việc giải
quyết các vụ án hình sự như: yêu cầu, khiếu nại các quyết định khởi tố, không
khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, khiếu nại Cáo trạng, Kết luận điều tra,
khiếu nại việc bắt, tạm giữ, tạm giam…; về dân sự thì phản ánh, khiếu nại về
việc Tòa án để vụ án quá lâu không giải quyết, khiếu nại các quyết định của
Toà án xét xử về tranh chấp tài sản, tranh chấp đất đai…
- Từ năm 2015 đến năm 2017 VKSND cấp tỉnh đã tiếp 418 lượt công
dân đến khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh. Đồng thời, nhằm thực
hiện hiệu quả Luật tiếp công dân, Lãnh đạo Viện kiểm sát tỉnh đã chỉ đạo xây
dựng lịch tiếp công dân của Lãnh đạo Viện theo qui định và trực tiếp tiếp 39
lượt. Triển khai thực hiện đổi mới công tác tiếp công dân, gắn với giải quyết
khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền. Đồng thời VKSND cấp tỉnh thường
xuyên rà soát và đề xuất những trường hợp khiếu nại, tố cáo cần được Viện
trưởng tiếp để có biện pháp chỉ đạo giải quyết dứt điểm. Do vậy, qua công tác
tiếp công dân của VKSND cấp tỉnh đã đề xuất giải quyết được nhiều vụ khiếu
kiện gay gắt, kéo dài, việc giải quyết đúng pháp luật, phù hợp với thực tế và
mang tính chuyên sâu về nghiệp vụ.
Công tác tiếp nhận đơn đã được tiếp nhận: 964 đơn khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị, phản ánh và đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm các bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. VKSND cấp tỉnh đã chú trọng quan
tâm đến việc tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp
thuộc thẩm quyền, trong đó số đơn thuộc thẩm quyền : 47 đơn. VKSND cấp
tỉnh đã ban hành quyết định giải quyết đơn thuộc thẩm quyền đúng quy trình
và quy định. Đặc biệt là các khiếu nại, tố cáo về việc khởi tố hoặc không khởi
48
tố trái pháp luật và các quyết định tố tụng khác trong quá trình thực hành
quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự. VKSND cấp tỉnh đã tiến
hành 04 cuộc kiểm sát trực tiếp việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các cơ
quan tư pháp, đã ban hành kết luận và kiến nghị. Qua kiểm sát đã ban hành 02
yêu cầu và kiểm sát 14 quyết định giải quyết KNTC của các cơ quan tư pháp.
[ 56].
- Trong sáu tháng đầu năm 2018 VKSND cấp tỉnh đã tiếp 47 lượt dông
dân, trong đó Lãnh đạo tiếp 13 lượt. Công tác tiếp nhận đơn đã được tiếp
nhận: 158 đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, trong đó số đơn thuộc
thẩm quyền của VKSND cấp tỉnh là 06 đơn. VKSND cấp tỉnh đã ban hành
quyết định giải quyết đơn thuộc thẩm quyền đúng quy trình và quy định.
VKSND cấp tỉnh đã tiến hành 01 cuộc kiểm sát trực tiếp việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo tại các cơ quan tư pháp, đã ban hành kết luận và kiến nghị [57].
2.2. Phân tích thực trạng bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
2.2.1. Thực trạng bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 lần đầu tiên quy định rõ
nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công
tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố (Điều 12 và Điều 13) [29]. Các quy định này đã mở ra những thuận
lợi cho Viện kiểm sát khi thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, góp phần chống làm oan, sai và bỏ lọt
tội phạm. Do xác định rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác này, nên Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi trực tiếp phụ trách đồng thời
bố trí Kiểm sát viên, cán bộ có năng lực trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm
để kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác ngay từ đầu, 100% tin báo có yêu
49
cầu xác minh nhằm đảm bảo kiểm sát chặt chẽ, hạn chế thấp nhất việc để tin
báo, tố giác quá hạn.
Kiểm sát tốt việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm sẽ quyết định chất
lượng thực hành quyền công tố, kiếm sát điều tra, kiểm sát xét xử, những
bước quan trọng để có thể khẳng định có hay không có hành vi phạm tội xảy
ra, người nào thực hiện hành vi phạm tội, tính chất, mức độ và hậu quả do
hành vi phạm tội đó gây ra như thế nào.
Trong thời gian qua Viện KSND cấp tỉnh đã phát hiện nhiều vi phạm
pháp luật của cơ quan chức năng trong công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Đã ban hành 08 kiến nghị và 68 văn
bản yêu cầu trong hoạt động kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm,
yêu cầu CQĐT khắc phục vi phạm trong hoạt động tiếp nhận giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố để kịp thời chấn chỉnh vi phạm,
thiếu sót: tồn tại tình trạng cùng một tin báo nhưng cả hai đơn vị (PC44,
PC45) cùng tiếp nhận giải quyết, gây khó khăn cho công tác kiểm sát của
VKS, một số trường hợp giao cho cán bộ điều tra không phải là Điều tra viên
trực tiếp xác minh tin báo. Khi giải quyết tin báo không ra quyết định giải
quyết mà ra thông báo giải quyết. Có trường hợp cơ quan CSĐT tạm dừng
giải quyết tin báo không đúng quy định pháp luật hoặc đủ căn cứ khởi tố
nhưng không ban hành quyết định khởi tố vụ án hình sự. Vi phạm về thời hạn
giải quyết có 16 tin: Sau khi đã thụ lý, cơ quan CSĐT chậm triển khai xác
minh, củng cố chứng cứ, làm kéo dài thời hạn xử lý tin báo,....tất cả kiến nghị,
yêu cầu của VKSND cấp tỉnh được CQĐT Công an tỉnh chấp nhận [56].
Sau khi Bộ luật TTHS năm 2015 có hiệu lực, VKSND cấp tỉnh đã thực
hiện việc bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố một
cách chính xác, hiệu quả. VKSND cấp tỉnh đã chủ động phối hợp cùng các
50
ngành thực hiện nghiêm túc Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-
BTC-BNN&PTNN-VKSNDTC ngày 29/12/2017 của Liên ngành Trung ương
về Quy chế phối hợp giữa các cơ quan để kiểm sát chặt chẽ việc tiếp nhận,
thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố [41].
VKSND cấp tỉnh đã trực tiếp giải quyết 01 tố giác, tin báo về tội phạm,
đây là một điểm mới mà BLTTHS năm 2015 bổ sung thẩm quyền cho VKS,
để bảo đảm mọi hành vi phạm tội được phát hiện, khởi tố, điều tra, xử lý theo
pháp luật, không để lọt người, lọt tội, không làm oan người vô tội, thì các hoạt
động công tố phải được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm. Hơn nữa, trong tiến trình cải cách tư pháp và thực tiễn đấu
tranh phòng, chống tội phạm, Đảng và Nhà nước luôn yêu cầu VKS phải tăng
cường hơn nữa trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với
hoạt động điều tra để bảo đảm các hoạt động tố tụng hình sự phải được kiểm
tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ, bởi vì các hoạt động này đều có tác động,
liên quan đến quyền con người, quyền công dân, thậm chí là sinh mệnh chính
trị của con người... đây là nguyên tắc tối thượng được Hiến pháp năm 2013
ghi nhận, bảo vệ.
BLTTHS năm 2015 bổ sung thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố tại điểm c khoản 3 Điều 145 “Viện kiểm sát giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát
hiện Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra,
xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ
lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được
khắc phục” và tại Khoản 3, Điều 153 BLTTHS năm 2015 quy định bổ sung
thêm hai trường hợp Viện kiểm sát có quyền khởi tố vụ án, đó là khi: Viện
51
kiểm sát trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm và khi Viện kiểm sát trực tiếp
giải quyết tin báo [36].
VKSND cấp tỉnh đã kiểm sát trực tiếp việc giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT Công an tỉnh 2 lần, đã ban hành kết
luận và kiến nghị. Qua kiểm sát VKSND cấp tỉnh đã ban hành 1 kiến nghị đối
với một số vi phạm đối với CQĐT Công an tỉnh. VKSND cấp tỉnh đã ban
hành 01 thông báo rút kinh nghiệm đối với cấp huyện, thành phố trong kiểm
sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố [57].
2.2.2. Thực trạng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự
Trong các giai đoạn tố tụng hình sự, thì giai đoạn khởi tố, điều tra là
giai đoạn dễ xâm phạm quyền con người nhất. Vì vậy, trong giai đoạn này,
Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự; đảm bảo mọi tội
phạm được phát hiện phải bị khởi tố, việc khởi tố vụ án có căn cứ, đúng pháp
luật. Đồng thời, khi tiến hành hoạt động kiểm sát tư pháp trong giai đoạn khởi
tố, điều tra, Viện kiểm sát được sử dụng tất cả những quyền năng pháp lý do
luật định để phát hiện vi phạm và yêu cầu xử lý vi phạm của các cơ quan, của
những người có thẩm quyền tiến hành các hoạt động điều tra, nhằm bảo đảm
cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình
điều tra vụ án, bảo đảm bất cứ hành vi phạm tội nào xâm phạm đến quyền con
người đều phải được phát hiện, xử lý trước pháp luật; và các hoạt động điều
tra, các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người bị bắt, bị tạm giữ, bị can
được tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
Nhìn chung công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự trong
thời gian qua của VKSND cấp tỉnh đạt được một số kết quả tích cực. Chất
lượng điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự ngày càng nâng cao; tiến độ
52
giải quyết án được đẩy mạnh, không có án kéo dài nhiều năm; trách nhiệm
công tố được thể hiện rõ nét, không có trường hợp oan, sai, không có bị cáo
Tòa án tuyên không phạm tội. Một số vụ án hình sự mà dư luận quan tâm đã
được xử lý nghiêm minh, đúng người đúng tội, đúng pháp luật, được dự luận
đồng tình, góp phần ổn định tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội ở tỉnh.
Thông qua công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp, VKSND cấp tỉnh
cương quyết không phê chuẩn 03 lệnh bắt khẩn cấp vì chứng cứ yếu, không đảm
bảo dễ dẫn đến oan, sai và đã ban hành nhiều kiến nghị với các cơ quan tư
pháp, các cơ quan quản lý nhà nước có biện pháp khắc phục nguyên nhân và
điều kiện phát sinh tội phạm, vi phạm pháp luật. Hoạt động thực hành quyền
công tố KSĐT và kiểm sát xét xử của VKSND cấp tỉnh đã thực sự trở thành
một trong những công cụ có hiệu quả trong đấu tranh phòng chống tội phạm
của tỉnh. Trong quá trình kiểm sát đã ban hành 15 kiến nghị ( đối với CQĐT
Công an tỉnh, Tòa án tỉnh, Đoàn luật sư tỉnh) [56].
Xác định việc thực hiện tốt công tác kháng nghị hình sự phúc thẩm có
vai trò, vị trí rất quan trọng trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp - mà hạt nhân là kiểm sát xét xử, bởi
thông qua đó yêu cầu Toà án đưa vụ án ra xét xử theo trình tự phúc thẩm, góp
phần nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự, vì vậy trong ba năm Viện
KSND cấp tỉnh đã ban hành 19 kháng nghị phúc thẩm án hình sự, được chấp
nhận tỷ lệ tương đối cao [56].
Những vụ án do VKSND cấp tỉnh thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra đều là những vụ án lớn, phức tạp, nhất là những vụ án về tham nhũng,
kinh tế, chức vụ. Quá trình giải quyết vụ án thường gặp nhiều khó khăn như số
bị can đông, ở nhiều địa bàn khác nhau, liên quan đến nhiều người, do đó có
một số vụ án tình trạng VKS trả hồ sơ cho CQĐT, Tòa án trả lại hồ sơ cho VKS
để điều tra bổ sung nhiều lần. Án trả điều tra bổ sung giữa các cơ quan tố tụng
53
trong ba năm là 15,35%. Đồng thời trong ba năm có 01 vụ 02 bị can do CQĐT
Công an tỉnh đình chỉ vì hành vi không cấu thành tội phạm theo Khoản 2 Điều
107 BLTTHS 2003[22] và miễn trách nhiệm hình sự theo theo khoản 1,2 Điều
25 BLHS năm 1999 được sửa đổi năm 2009 [24] có 02 vụ 02 bị can và án
THQCT xét xử sơ thẩm của VKSND cấp tỉnh bị VKSNDTC hủy 02 vụ[56].
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, mà theo đó, nhiều
nội dung được bổ sung nhằm bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố,
điều tra các vụ án hình sự. Lãnh đạo Viện KSND cấp tỉnh đã chỉ đạo các Kiểm
sát viên nghiên cứu kỹ những điểm mới của Bộ luật TTHS năm 2015. Đối với
các vụ án phức tạp, bị can không nhận tội hoặc lời khai còn nhiều mâu thuẫn,
Kiểm sát viên đã chủ động phối hợp với Điều tra viên tiến hành hỏi cung, lấy
lời khai và tổng hợp đánh giá chứng cứ. Sáu tháng đầu năm 2018 Viện KSND
cấp tỉnh từ chối không phê chuẩn một lệnh bắt khẩn cấp đối với một bị can, vì
chứng cứ không đảm bảo, để dẫn đến oan sai; Trong quá trình rà soát án tạm
đình chỉ Viện KSND cấp tỉnh đã ban hành 01 quyết định hủy bỏ quyết định
tạm đình chỉ vụ án và 02 quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ bị can
của Viện kiểm sát cấp huyện, thành phố vì có căn cứ bỏ lọt tội phạm và người
phạm tội.
Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử, Kiểm sát viên được
phân công đã nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án để nắm chắc nội dung vụ án, chứng
cứ gỡ tội, buộc tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xây
dựng đề cương xét hỏi, lập phương án đấu tranh, dự kiến các tình huống có
thể xảy ra trong khi đối đáp, tranh luận với Luật sư, người bào chữa... bảo vệ
tốt Cáo trạng truy tố; xây dựng dự thảo Luận tội để báo cáo Lãnh đạo Viện
duyệt trước khi tham gia xét xử. Sáu tháng đầu năm 2018 Viện KSND cấp
tỉnh đã phối hợp với Tòa án tỉnh tổ chức 10 phiên Tòa rút kinh nghiệm. Sau
54
khi xét xử đã thực hiện việc kiểm sát 100% bản án, quyết định của Tòa án,
qua đó phát hiện vi phạm, kịp thời ban hành 02 kiến nghị, 03 kháng nghị [57].
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của VKSND cấp tỉnh đối với các VKS cấp huyện,
thành phố luôn được Viện trưởng tỉnh quan tâm, vì vậy các Phòng nghiệp vụ
đã tham mưu và ban hành nhiều thông báo rút kinh nghiệm trong kiểm sát
điều tra, kiểm sát xét xử (ban hành 07 thông báo rút kinh nghiệm trong hoạt
động kiểm sát điều tra đối với cấp huyện,thành phố và 13 thông báo rút kinh
nghiệm trong công tác THQCT và KSXX án hình sự đối với cấp huyện,
thành phố) [56], [57].
2.2.3. Kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc kiểm sát tạm giữ, tạm
giam và thi hành án hình sự
2.2.3.1. Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
Trong thời điểm trên, VKSND cấp tỉnh chịu trách nhiệm kiểm sát việc
tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ngãi, các Nhà tạm
giữ - Công an cấp huyện. Theo đó, VKSND cấp tỉnh đã tiến hành kiểm sát
việc bắt, tạm giữ, tạm giam theo quy định của BLTTHS hàng tuần tại Trại
tạm giam – Công an tỉnh Quảng Ngãi; ba tháng trực tiếp kiểm sát một lần
theo từng nội dung tại Nhà tạm giữ, Trại tạm giam và sáu tháng một lần trực
tiếp kiểm sát toàn diện về việc bắt, tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ, Trại
tạm giam.
VKSND cấp tỉnh đã kiểm sát trực tiếp nhà tạm giữ, trại tạm giam của
Công an tỉnh 19 cuộc, qua kiểm sát đã phát hiện một số vi phạm như : ghi
chép chưa đầy đủ sổ sách theo dõi; hồ sơ thiếu các tài liệu như lý lịch bị can,
danh chỉ bản của người bị tạm giữ, tạm giam... Có trường hợp cán bộ Nhà
tạm giữ tự ý cho người bị tạm giữ, tạm giam thăm gặp và nhận quà từ thân
nhân trong khi không được sự đồng ý của Lãnh đạo đơn vị; giam chung
buồng giữa người có án phạt tù chờ chuyển đi trại giam với người đang tạm
55
giam trong giai đoạn điều tra... Có trường hợp người bị tạm giam bị nhiễm
HIV nhưng Nhà tạm giữ không lập hồ sơ bệnh án và thông báo cho gia đình
để theo dõi, quản lý và có biện pháp tư vấn hỗ trợ, điều trị...Qua đó, đã ban
hành 19 kết luận, kiến nghị. Tất cả các bản kết luận, kiến nghị của VKSND
cấp tỉnh đều được Trưởng Nhà tạm giữ - Công an cấp huyện, Giám thị Trại
tạm giam – Công an tỉnh tổ chức họp rút kinh nghiệm, nghiêm túc tiếp thu,
khắc phục và phúc đáp bằng văn bản đúng thời hạn [56].
Tại khoản 6 Điều 183 BLTTHS năm 2015 quy định: “Việc hỏi cung bị
can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở cơ quan điều tra, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình
có âm thanh. Việc hỏi cung bị can tại các địa điểm khác được ghi âm hoặc
ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can, của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng” [36]. Với quy định này, VKSND cấp tỉnh yêu cầu
các Kiểm sát viên phối hợp với Điều tra viên Công an tỉnh hỏi cung 20 lần và
thực hiện phúc cung 05 lần, đối với hoạt động hỏi cung được đánh giá là cần
thiết nhằm bảo đảm minh bạch quá trình hỏi cung, bảo vệ bị can, chống tra
tấn, bức cung, dùng nhục hình, bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo
quy định của Hiến pháp năm 2013. Vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền
công dân trong việc tạm giữ, tạm giam được Đảng, Nhà nước ta quan tâm đặc
biệt, đây không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà còn là vấn đề Nhân
quyền Quốc tế. Sáu tháng đầu năm 2018 VKSND cấp tỉnh đã kiểm sát đã
kiểm sát trực tiếp Nhà tạm giữ, Trại tạm giam 4 lần, đã ban hành kết luận,
kiến nghị. Qua kiểm sát đã ban hành 01 kiến nghị đối với nhà tạm giữ Công
an huyện [57].
2.2.3.2.Kiểm sát thi hành án hình sự
Theo quy chế công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án
hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 35 ngày 29/01/2013 của Viện
56
trưởng VKSND tối cao thì công tác kiểm sát thi hành án treo, án phạt cải tạo
không giam giữ là một mảng cấu thành trong công tác kiểm sát thi hành án
hình sự trong Ngành kiểm sát nhân dân, đây là nhiệm vụ quan trọng trong
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của ngành kiểm sát nhân dân, đảm bảo
cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được thực hiện
thông suốt theo trình tự, thủ tục tố tụng hình sự, góp phần đấu tranh phòng,
chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền con người, quyền tự do,
dân chủ và lợi ích hợp pháp của mọi công dân; và đây là khâu then chốt góp
phần đảm bảo mọi bản án và các quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật được đưa ra thi hành nghiêm chỉnh đảm bảo tính thống nhất, nghiêm
minh của pháp luật. Do đó, trong tiến trình cải cách tư pháp, Đảng và Nhà
nước ta rất quan tâm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát thi hành án hình
sự. Hàng năm nhân dịp Lễ ngày Quốc khánh 2/9, VKSND cấp tỉnh cùng với
các cơ quan hữu quan tham gia họp xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù và
đặc xá tha tù cho những phạm nhân có quá trình cải tạo, lao động, học tập tốt
trở về với cộng đồng. Đây là nội dung có ý nghĩa hết sức quan trọng, vừa
mang tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, vừa đem lại hiệu quả trong công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn
xã hội, đảm bảo sự ổn định của đời sống chính trị, văn hóa, kinh tế - xã hội
của đất nước.
Trong thời gian qua VKSND cấp tỉnh đã kiểm sát chặt chẽ các việc
hoãn, tạm đình chỉ thi hành án, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù đảm bảo
đúng pháp luật, thực hiện đầy đủ các chế độ chính sách đối với phạm nhân,
kiểm sát 100% các quyết định thi hành án đúng thời hạn luật định. Đối với Cơ
quan thi hành án hình sự và phân trại tạm giam thuộc Công an tỉnh đã thực
hiện chế độ đối với người thi hành án cơ bản đảm bảo đúng qui định của pháp
luật; tăng cường công tác quản lý phạm nhân. Trong thời gian trên Viện
57
KSND cấp tỉnh đã kiểm sát trực tiếp Cơ quan thi hành án hình sự và phân trại
tạm giam Công an tỉnh 13 lần, qua kiểm sát đã ban hành kết luận, kiến nghị
về một số vi phạm chủ yếu về quản lý sổ sách, gửi các văn bản cho các cơ
quan liên quan, chỉ đạo và kiểm tra cấp dưới không chặt chẽ, thực hiện chế độ
và quản lý bị án, ra các quyết định theo quy định...VKSND cấp tỉnh đã ban
hành ban hành 07 yêu cầu, 14 kiến nghị và 06 kháng nghị khắc phục các vi
phạm[57].
VKSND cấp tỉnh đã ban hành 17 thông báo rút kinh nghiệm chung cho
VKS cấp huyện, thành phố [ 56] [57].
2.2.4. Kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc giải quyết các vụ, việc dân
sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác
theo quy định của pháp luật
2.2.4.1 Kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân gia đình
Qua thực hiện chức năng kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự,
Phòng 9 VKSND cấp tỉnh đã phát hiện Tòa án có một số vi phạm pháp luật về
thủ tục tố tụng nói chung và trong việc gửi các văn bản tố tụng, hồ sơ cho
Viện kiểm sát nói riêng; do đó Phòng 9 VKSND cấp tỉnh tập hợp kiến nghị
yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm, sửa chữa kịp thời, đảm bảo cho pháp luật
dân sự được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi tham gia tố tụng dân sự.
Trong thời gian qua Viện KSND cấp tỉnh đã ban hành 16 yêu cầu, 11
kiến nghị yêu cầu khắc các vi phạm như : Toà án vi phạm quy định về việc
gửi thông báo thụ lý cho Viện kiểm sát cùng cấp: Tại khoản l Điều 174, vi
phạm trong việc gửi bản án, quyết định giải quyết vụ án cho Viện kiểm sát
cùng cấp: tại Khoản l Điều 187, khoản 2 Điều 194 và tại khoản 2 Điều 241
của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 quy định [23]; Vi phạm trong việc gửi bản
án, quyết định đối với cấp phúc thẩm cho Viện kiểm sát cùng cấp tại Điều
58
281 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 [23] ; Tòa án không thông báo và chuyển hồ
sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu để tham gia phiên tòa, phiên họp
trong trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia: Theo quy định tại khoản 2
Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung 2011 [25].
Kháng nghị phúc thẩm dân sự là một trong những quyền năng pháp lý
của Viện kiểm sát nhân dân được quy định trong tố tụng dân sự, là nhiệm vụ
trọng tâm của công tác kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ của Ngành, góp phần vào việc giải quyết các vụ, việc dân sự,
hôn nhân và gia đình của Tòa án theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo
các quyền và lợi ích của Nhà nước, của công dân được tôn trọng và bảo vệ,
trong thời gian trên Viện KSND cấp tỉnh đã ban hành 47 kháng nghị phúc
thẩm, được cấp trên chấp nhận với tỷ lệ cao. Đồng thời đã đề nghị VKSND
cấp cao kháng nghị giám đốc thẩm 06 vụ.
Viện KSND cấp tỉnh đã ban hành 17 thông báo rút kinh nghiệm đối với
cấp huyện, thành phố [56].
2.2.4.2. Kiểm sát giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại, lao động
và những việc khác theo quy định của pháp luật
Phòng 10 VKSND tỉnh đã thực hiện có hiệu quả hoạt động kiểm sát
việc giải quyết các vụ án hành chính, kinh doanh thương mại, lao động. Đã
kiểm sát chặt chẽ việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án, mở sổ thụ lý, theo dõi
và lập phiếu kiểm sát việc thụ lý án hành chính, kinh doanh thương mại, lao
động, phân công cán bộ, Kiểm sát viên nghiên cứu ngay khi thụ lý vụ án. Chú
trọng kiểm sát các quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án, Viện kiểm sát đã
phát hiện nhiều quyết định tạm đình chỉ không đúng căn cứ pháp luật và vi
phạm pháp luật của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật tố tụng và pháp luật
nội dung,….. Chính vì vậy ban hành đã ban hành 19 kiến nghị yêu cầu Tòa án
khắc phục.
59
Kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định hành chính, kinh
doanh thương mại, lao động… sơ thẩm là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính, tố tụng dân sự, một trong
những biện pháp thể hiện rõ nhất chức năng kiểm sát việc giải quyết vụ việc
dân sự, hành chính. Kháng nghị phúc thẩm góp phần khắc phục, sửa chữa vi
phạm của Toà án trong việc giải quyết vụ án về khiếu kiện quyết định hành
chính, hành vi hành chính, về hợp đồng xây dựng, hợp đồng mua bán, hợp
đồng lao động góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, bảo
đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Chính vì thế
trong thời gian trên Viện KSND cấp tỉnh đã ban hành 15 kháng nghị phúc
thẩm đạt chất lượng và hiệu quả.
Viện KSND cấp tỉnh đã ban hành 10 thông báo rút kinh nghiệm đối với
cấp huyện, thành phố [ 56].
2.2.5. Kiểm sát hoạt động tư trong việc thi hành án dân sự, thi hành án
hành chính
Trong thời gian qua, thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
trong lĩnh vực thi hành án của VKSND cấp tỉnh hoàn thành tốt các chỉ tiêu
nhiệm vụ của ngành cũng như Nghị quyết của Quốc Hội đề ra. Các trường
hợp kê biên cưỡng chế, đấu giá tài sản và tiêu hủy tang tài vật đều được kiểm
tra giám sát chặt chẽ, đã chú trọng tiến hành kiểm sát việc phân loại án của cơ
quan thi hành án. Trực tiếp xác minh và phối hợp cùng với Cơ quan thi hành
án giải quyết những việc thi hành án tồn đọng phức tạp kéo dài. Trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ đã có sự linh hoạt, chủ động hơn khi áp dụng các
phương thức kiểm sát nên kết quả công tác kiểm sát thi hành án từng bước đạt
hiệu quả cao hơn.
VKSND cấp tỉnh đã có sự phối hợp chặt chẽ cùng với Cơ quan thi
hành án và các ban ngành của tỉnh có liên quan họp bàn giải quyết được nhiều
60
việc thi hành án có khó khăn phức tạp. Định kỳ ba ngành Toà án, Viện kiểm
sát, Cơ quan thi hành án họp rà soát xử lý đối với các trường hợp bản án tuyên
không rõ, khó thi hành trong việc tổ chức thi hành án, từ đó đề ra được phương
án tháo gỡ xử lý đúng quy định của pháp luật, không để điểm nóng xảy ra góp
phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.
Thông qua công tác kiểm sát thi hành án VKSND cấp tỉnh đã ban hành
01 kháng nghị, 07 kiến nghị và 05 yêu cầu đối với cơ quan thi hành án về các
vi phạm chủ yếu như: Chậm chuyển giao bản án, quyết định của tòa án cho cơ
quan thi hành án cùng cấp; vi phạm trong việc giải thích bản án; vi phạm việc
xác minh điều kiện thi hành án, việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi
hành án, vi phạm trong việc lập hồ sơ sổ sách thi hành án, xử lý tang vật, tài
sản tạm giữ; chậm thanh toán, hoàn trả, …. Kết quả phúc tra việc thực hiện
kiến nghị, kháng nghị, đều được cơ quan THA dân sự tỉnh chấp nhận về
những sai sót trong quá trình ra quyết định và tổ chức thi hành. Do có sự kiểm
sát chặt chẽ nên các sai sót trong hoạt động thi hành án đã được giảm đáng kể.
Ban hành 07 thông báo rút kinh nghiệm đối với cấp huyện, thành phố [56],
[57].
2.2.6.Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm của Viện
kiểm sát và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan tư pháp
Nhìn chung, khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp vẫn diễn biến
phức tạp tại tỉnh Quảng Ngãi, số lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh và số lượng đơn đã tiếp nhận tăng đáng kể, có nhiều đơn gửi
vượt cấp, nhiều lần về cùng một vụ; Đơn gửi đến VKSND cấp tỉnh tập trung
chủ yếu về các nội dung: khiếu nại Cơ quan điều tra chậm giải quyết tin báo,
tố giác tội phạm, quyết định không khởi tố vụ án hình sự, kết luận điều tra;
khiếu nại Tòa án chậm đưa vụ án ra xét xử; khiếu nại Cơ quan Thi hành án
dân sự chậm thi hành án; khiếu nại VKSND truy tố không đúng người, đúng
61
tội; nhiều trường hợp đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm các bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật đã được các cơ quan có thẩm quyền
giải quyết nhưng không chấp nhận kết quả mà tố cáo người tiến hành tố tụng.
Qua công tác kiểm sát, Phòng 12 Viện KSND cấp tỉnh phát hiện một số
các cơ quan tư pháp có vi phạm như: Có trường hợp ban hành văn bản và áp
dụng pháp luật giải quyết đơn tố cáo không đúng quy định pháp luật; không
gửi thông báo thụ lý đơn khiếu nại cho công dân; thụ lý không đầy đủ đơn
khiếu nại và chưa kịp thời hướng dẫn công dân đến cơ quan có thẩm quyền
khiếu nại; tiến hành lưu đơn không đúng quy định… ban hành 06 thông báo
rút kinh nghiệm đối với cấp huyện, thành phố trong kiểm sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan tư pháp[56], [57].
2.3.Đánh giá chung thực trạng bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
Nhìn chung, Viện KSND cấp tỉnh đã phấn đấu thực hiện tốt chức năng,
2.3.1. Những kết quả đạt được
nhiệm vụ của Ngành; chú trọng, tăng cường nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần đảm bảo hoạt động
điều tra, xét xử, thi hành án tuân thủ đúng quy định của pháp luật, đáp ứng
yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Theo đó, VKSND cấp tỉnh đã phối
hợp chặt chẽ với các cơ quan tư pháp trong các khâu công tác từ khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử án hình sự; trong công tác bắt, giam, giữ, xử lý tội phạm;
công tác thi hành án hình sự; thi hành án dân sự; công tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ, việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, vụ án hành
chính; giải quyết khiếu nại, tố cáo... Chính vì vậy quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân được bảo vệ; không để xảy ra oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm, từng
bước đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08,
Nghị quyết 49 của Bộ chính trị; các Chỉ thị số 06 ngày 06/12/2013 và 04/CT-
62
VKSTC ngày 10/7/2015 của Viện trưởng VKSND tối cao…, do đó uy tín, vị
trí, vai trò của Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi trong hệ thống chính trị nói
chung và trong khối các cơ quan tư pháp tỉnh Quảng Ngãi nói riêng được
nâng lên rõ rệt; cũng cố được lòng tin với cấp ủy và chính quyền địa phương
và cán bộ, công chức, nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đối với ngành
kiểm sát nói chung và VKSND cấp tỉnh nói riêng.
Hàng năm Ủy ban MTTQ và VKSND cấp tỉnh đã có quy chế và xây
dựng chương trình công tác để triển khai thực hiện và đạt nhiều kết quả nổi
bật như việc phối hợp để bảo vệ quyền con người theo Hiến pháp năm 2013.
Qua công tác kiểm sát, giám sát lĩnh vực tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
tội phạm và kiến nghị khởi tố; bắt tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự;
thi hành án dân sự và giải quyết khiếu nại tố cáo theo quy định của pháp luật.
Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh và VKSND cấp tỉnh đã kịp thời kiến nghị đến
cơ quan chức năng khắc phục vi phạm trong lĩnh vực này; chấn chỉnh vi phạm
về thẩm quyền, trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo; bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, tạm giam; bảo đảm việc phân loại
giam giữ đúng quy định của pháp luật.
Thông qua công tác kiểm sát, VKSND cấp tỉnh đã phát hiện một số vi
phạm của các cơ cơ quan tư pháp trong việc áp dụng pháp luật, đã kịp thời
kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu các cơ quan khắc phục sửa chữa. Hầu hết các
kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu của VKS đều được các cơ quan tư pháp chấp
nhận và thực hiện, khắc phục vi phạm một cách hiệu quả, góp phần đảm bảo
pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
Các phòng nghiệp vụ VKSND tỉnh thường xuyên tổng hợp những sai
sót, vi phạm trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp để thông báo rút kinh nghiệm chung trong toàn ngành.
63
Qua thực trạng bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp của VKSND cấp tỉnh như đã phân tích, Viện KSND cấp tỉnh đã đạt
được những thành tích như:
Thứ nhất, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đã có nhiều biện pháp
nghiệp vụ đổi mới công tác kiểm sát điều tra nhằm thực hiện tốt hơn chức
năng kiểm sát và thực hành quyền công tố như đã chủ động cùng các ngành
sơ kết rút kinh nghiệm công tác quản lý tin báo tội phạm theo Thông tư
06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02/08/2013
[38]. Những năm gần đây VKSND cấp tỉnh đã có nhiều kiến nghị đối với
những vi phạm vi phạm của cơ quan điều tra. VKSND cấp tỉnh đã tổng hợp
những mặt thiếu sót trong quản lý để tham mưu cho Tỉnh ủy và chính quyền
có biện pháp chấn chỉnh, tổ chức các Hội nghị để phòng ngừa tội phạm. Phối
hợp với Ban Nội chính Tỉnh ủy xây dựng Quy chế phối hợp giữa Ban Nội
chính Tỉnh ủy với Ban Cán sự đảng VKS tỉnh trong công tác nội chính và
phòng, chống tham nhũng. VKSND tỉnh đã tham gia Đoàn kiểm tra của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW của Bộ
Chính trị tại một số cơ quan trong tỉnh.
Thứ hai, VKS đã thực hiện đúng quy định của pháp luật, quy chế của
Ngành về công tác kiểm sát việc tạm giữ, trại tạm giam. Đối với áp dụng các
biện pháp ngăn chặn trong bắt, tạm giữ, tạm giam với sự cố gắng nỗ lực với
tinh thần trách nhiệm cao hơn, vừa thận trọng và bám sát các quy định của
pháp luật, cho nên chất lượng của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra của VKS trong việc bắt, giữ, tạm giam và phê chuẩn các biện
pháp này được nâng lên rõ rệt. Số lượng tạm giữ, tạm giam thuộc trách nhiệm
của từng cơ quan tiến hành tố tụng; kiểm sát chặt chẽ tính hợp pháp của các
lệnh, quyết định, thời hạn tạm giữ, tạm giam. Đảm bảo tất cả trường hợp bị
bắt tạm giữ, tạm giam phải có căn cứ, đúng pháp luật;
64
Thứ ba, VKSND cấp tỉnh đã thực hiện tốt các biện pháp tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều
tra theo Chỉ thị 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 của Viện trưởng Viện
KSND tối cao [45]. KSV thực hiện nghiêm túc việc xây dựng hồ sơ kiểm sát,
xây dựng kế hoạch kiểm sát điều tra, nhật ký công tác THQCT và KSĐT để
nắm chắc tiến độ điều tra vụ án; chủ động tham gia cùng ĐTV lấy lời khai
người bị tình nghi thực hiện tội phạm trước khi phê chuẩn lệnh, quyết định,
bảo đảm các quyết định phê chuẩn của VKS có căn cứ, đúng pháp luật; kịp
thời đề ra yêu cầu điều tra đạt chất lượng và hiệu quả;
Thứ tư, VKS đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
công tác THQCT và KSXX, trong đó: Đã chủ động phối hợp với Tòa án tổ
chức các phiên tòa rút kinh nghiệm, nâng cao chất lượng, kỹ năng tranh tụng
của KSV. Trong những năm qua không có vụ nào VKS truy tố, tòa tuyên
không phạm tội. Thực hiện tốt Chỉ thị số 09/CT-VKSTC ngày 06/4/2016 của
Viện trưởng Viện KSND tối cao, về tăng cường các biện pháp nâng cao chất
lượng tranh trụng của KSV tại phiên tòa [51], Chỉ thị số 08/CT-VKSTC ngày
06/4/2016 của Viện trưởng Viện KSND tối cao [49], về nâng cao số lượng,
chất lượng kháng nghị phúc thẩm; thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm sát bản án,
quyết định của TAND hai cấp; Điều đáng nghi nhận là số lượng cũng như
chất lượng kháng nghị năm sau thường tăng cao hơn năm trước, các kháng
nghị được Viện kiểm sát cấp trên bảo vệ tỷ lệ thuận với số bị cáo có kháng
nghị được Toà án chấp nhận. Đạt được những kết quả nêu trên là do Chỉ thị
của Viện trưởng VKSNDTC ban hành kịp thời và có tác động tích cực vào
việc xây dựng chương trình, kế hoạch công tác của Viện KSND tỉnh Quảng
Ngãi nói chung và các Viện KSND huyện, thành phố trong ngành kiểm sát
nói riêng.
65
Thứ năm,VKSND cấp tỉnh đã thực hiện đúng quy định của pháp luật,
Quy chế của Ngành về công tác kiểm sát thi hành án hình sự, tăng cường
kiểm sát thi hành án hình sự nên công tác thi hành án hình sự cơ bản đảm bảo
đúng thủ tục; duy trì tốt chế độ kiểm sát thường kỳ, kiểm sát bất thường tại
Nhà tạm giữ, Trại tạm giam và cơ quan được giao nhiệm vụ tổ chức thi hành
án hình sự..
Thứ sáu, VKSND cấp tỉnh đã triển khai và thực hiện nghiêm túc quy
định Bộ luật tố tụng dân sự 2004 [23], Bộ luật TTDS sửa đổi bổ sung năm
2011 [25], Luật dân sự năm 2015 [35], Luật TTHC năm 2015 [33], Thông tư
liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của Viện
KSND tối cao, Tòa án nhân dân tối cao quy định việc phối hợp giữa Viện
KSND tối cao và Tòa án nhân dân tối cao trong việc thực hiện một số quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự [39] và Thông tư liên tịch số 03/2016 ngày
31/8/2016 của Viện KSND tối cao, Tòa án nhân dân tối cao quy định việc
phối hợp giữa Viện KSND tối cao và Tòa án nhân dân tối cao trong việc thực
hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hành chính [40] và Quy chế nghiệp
vụ của Ngành; đề cao trách nhiệm kiểm sát chặt chẽ, ngay từ việc thụ lý, giải
quyết yêu cầu khởi kiện của Tòa án. Những vi phạm trong hoạt động tư pháp
được VKSND cấp tỉnh phát hiện kịp thời, nội dung kiến nghị, kháng nghị
đảm bảo chính xác được Tòa án tiếp thu thực hiện.
Thứ bảy, VKSND cấp tỉnh đã phối hợp với Cơ quan THA dân sự tỉnh
thực hiện tốt Quy chế phối hợp Liên ngành về công tác thi hành án dân sự và
Luật thi hành án dân sự năm 2014 [30]. Đôn đốc cơ quan thi hành án dân sự
xử lý vật chứng tồn kho và tiền tạm ứng án phí, lệ phí còn tồn đọng; rà soát,
đề nghị TAND xử lý các bản án tuyên không rõ, khó thi hành, góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự; phối hợp với cơ quan thi
hành án dân sự và các ngành hữu quan giải quyết cơ bản những việc thi hành
66
án kéo dài. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát thi hành án dân
sự, thi hành án hành chính theo Chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối cao số
07/CT-VKSTC ngày 23/11/2017[ 53].
Thứ tám, VKSND cấp tỉnh đã thực hiện tốt giải quyết khiếu nại, tố cáo
về hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền. Đối với đơn khiếu nại, tố cáo thuộc
thẩm quyền giải quyết của VKSND cấp tỉnh, Lãnh đạo Viện tỉnh trực tiếp đối
thoại, làm việc với người khiếu nại để làm rõ nội dung khác biệt giữa nội
dung với kết quả xác minh đơn khiếu nại đồng thời hướng dẫn, giải thích
pháp luật cho người khiếu nại nên giải quyết đơn được nhanh chóng, thuận
lợi. Bên cạnh đó, Lãnh đạo Viện KSND cấp tỉnh đã quan tâm chỉ đạo, kiểm
tra, đôn đốc, các quan điểm chỉ đạo của Trung ương Đảng, nhất là Chỉ thị 35-
CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác tiếp công dân giải quyết khiếu nại, tố cáo [5], coi đây là
nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên; quán triệt Chỉ thị số 04/CT-VKSTC
ngày 28/7/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao về tăng cường công tác tiếp
công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong hoạt động tư pháp [54].
2.3.2. Những hạn chế
Công tác kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử hình sự; công tác kiểm sát
việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế,
lao động; công tác kiểm sát giam giữ và THA hình sự, công tác kiêm sát THA
dân sự; và công tác kiểm sát tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm
của Viện kiểm sát và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan
tư pháp của Viện KSND cấp tỉnh đã có sự phối hợp khá chặt chẽ và có hiệu
quả. Không chỉ có trong nội bộ ngành kiểm sát mà còn phối hợp với các
ngành tư pháp khác để cùng đấu tranh phòng và chống tội phạm và vi phạm
pháp luật. Vì vậy những năm qua, VKSND cấp tỉnh đã đạt được những thành
67
tích nhất định trong việc thực hiện chức năng đảm bảo thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn bộc lộ
một số điểm tồn tại như :
Thứ nhất, trong năm năm vẫn còn 16 tin báo quá thời hạn giải quyết
(cuối kỳ đã giải quyết xong). Phần lớn các tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố
đó đều phức tạp, đặc biệt là các kiến nghị khởi tố liên quan đến các dự án
kinh tế, gói thầu công trình xây dựng, đường xá, tin báo về chiếm đoạt tài sản
có nhiều người liên quan…Công tác nắm tin báo, tố giác tội phạm của VKS
chưa được kịp thời, phần lớn dựa trên sổ thụ lý của CQĐT.
Thứ hai, Công tác phối hợp trong điều tra, truy tố, xét xử nhiều khi còn
chưa chặt chẽ, kịp thời; dẫn đến bị VKSND cấp cao hủy 02 vụ án hình sự và
tình trạng án trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng còn
nhiều, tổng tỷ lệ án trả điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng là
15,35 % trong đó chủ yếu là một số vụ án án kinh tế, tham nhũng, chức vụ, có
vụ do đánh giá và vận dụng pháp luật không chính xác nên dẫn đến phải đình
chỉ điều tra; hạn chế này cũng đã gây ảnh hưởng đến hiệu quả công tác đấu
tranh xử lý tội phạm.
Thứ ba, VKS là cơ quan phải chịu trách nhiệm chính trong việc để xảy
ra tình trạng án hình sự bị đình chỉ điều tra do hành vi không cấu thành tội
phạm. Bởi lẽ, trong tố tụng hình sự, VKS là cơ quan có chức năng thực hành
quyền công tố (quyết định phê chuẩn khởi tố bị can, quyết định việc áp dụng
biện pháp ngăn chặn, quyết định việc truy tố người thực hiện hành vi phạm
tội) và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong toàn bộ hoạt động tố tụng hình
sự ngay từ khi có dấu hiệu tội phạm xảy ra và trong suốt quá trình điều tra của
CQĐT, nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời;
việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử được đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.
68
Trong thời gian qua, CQĐT Công an tỉnh đã đình chỉ điều tra 03 vụ, trong đó
có 01 vụ - 02 bị can đình chỉ vì hành vi không cấu thành tội phạm quy định tại
Khoản 2 Điều 107 BLTTHS 2003[22].
Thứ tư, Việc rà soát án tạm đình chỉ điều tra chưa được thường xuyên,
bởi nếu thường xuyên rà soát phát hiện trường hợp nào tạm đình chỉ mà có
căn cứ phục hồi thì tiến hành phục hồi, hoặc có căn cứ đình chỉ thì tiến hành
đình chỉ...
Thứ năm, một số vụ án dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại bị
hủy là 16 vụ, cải sửa 08 vụ đều có trách nhiệm của VKS , việc tham gia phiên
tòa dân sự, hành chính, kinh doanh, thương mại của Kiểm sát viên ở cả trình
tự sơ thẩm, phúc thẩm đạt tỷ lệ còn thấp, trình độ phát hiện vi phạm trong quá
trình lập hồ sơ, hòa giải, xét xử... hạn chế, trong khi án có vi phạm bị hủy, cải
sửa còn chiếm tỷ lệ tương đối, chất lượng kháng nghị một số vụ án chưa cao,
còn có trường hợp phải rút kháng nghị hoặc không được Tòa chấp nhận.
Thứ sáu, trong thực tiễn kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành
chính có số lượng việc và tiền thi hành lớn, có nhiều đơn khiếu nại, tố cáo
trong hoạt động thi hành án dân sự nhưng trong năm năm Phòng 11 Viện
KSND cấp tỉnh chỉ tham mưu ban hành 01 kháng nghị. Thực trạng này không
phản ánh đúng và đầy đủ về tình trạng vi phạm trong hoạt động THA dân sự,
hoạt động kiểm sát THA dân sự chưa được chú trọng đúng mức. Kiểm sát
việc xác minh điều kiện thi hành án của VKS ít, vì thế không phát hiện, hoặc
phát hiện chưa kịp thời, đầy đủ dẫn đến việc tác động đến cơ quan thi hành án
dân sự chưa kịp thời.
Thứ bảy, Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm của
Viện kiểm sát và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan tư
pháp: Trong năm năm chưa ban hành kháng nghị, kiến nghị các cơ quan, tổ
chức, đơn vị có liên quan giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo của
69
công dân, chỉ dừng lại là yêu cầu. Số vụ việc vi phạm được Viện KSND cấp
tỉnh phát hiện trong quá trình kiểm sát trực tiếp về nội dung giải quyết còn ít,
chủ yếu chỉ phát hiện vi phạm về thẩm quyền, thời hạn, thủ tục. Kiểm sát giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền VKSND
cấp tỉnh trong thời gian qua vẫn còn tình trạng để quá thời hạn giải quyết đơn.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Qua phân tích thực trạng và liên hệ với các yếu tố ảnh hưởng bảo đảm
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện KSND
cấp tỉnh, những hạn chế yếu kém trên đây được xác định là những nguyên
nhân chủ quan và khách quan.
Thứ nhất, nguyên nhân chủ quan
- Trong thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
trong lĩnh vực hình sự
Một là, về trình độ, năng lực chuyên môn của một bộ phận cán bộ,
KSV còn có những hạn chế nhất định. Vẫn còn có KSV chưa nắm vững
những quy định của pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng, còn lúng
túng trong việc ADPL; năng lực hiểu, biết, phân tích, tổng hợp, đánh giá
chứng cứ còn hạn chế trong lĩnh vực quản lý kinh tế, tài chính..., thuần tuý
trong hoạt động nghiệp vụ THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp, không
mang tính chuyên sâu, do đó không hiểu hết được bản chất của các vụ án,
không đủ căn cứ bảo vệ cho quan điểm quyết định của mình, dẫn đến số
lượng án phải trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung chiếm đa số, thậm chí cả VKS
và Toà án đều trả lại và trả nhiều lần.
Hai là, công tác bố trí, sắp xếp và sử dụng cán bộ, KSV chưa chú trọng
đến trình độ, năng lực, bố trí KSV thiếu những kiến thức và kinh nghiệm cần
thiết để THQCT, KSĐT, KSXX đối với các vụ án kinh tế, tham nhũng, chức
70
vụ, là chưa chú trọng đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về công tác quản lý kinh
tế, tài chính, ngân hàng, xây dựng cơ bản...
Ba là, công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của Lãnh đạo VKSND cấp
tỉnh tuy đã được tăng cường đổi mới nhưng có lúc có nơi còn bất cập. Trước
hết là việc kiểm tra, chỉ đạo, điều hành KSV thực hiện các thao tác nghiệp vụ
theo Quy chế THQCT và KSĐT cũng như việc lập hồ sơ kiểm sát theo quy
định của Ngành còn chưa chặt chẽ nên những thiếu sót của KSV trong quá
trình THQCT chưa được phát hiện, chấn chỉnh, khắc phục kịp thời. Công tác
kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ, chỉ đạo của lãnh đạo đối với KSV có lúc, có
nơi chưa được chú trọng và kịp thời.
Bốn là, công tác chủ động phối hợp liên ngành giữa các cơ quan tư
pháp, đặc biệt là giữa VKS với CQĐT và Toà án trong việc giải quyết các vụ
việc nói chung, đối với các vụ án kinh tế, tham nhũng, chức vụ nói riêng còn
chưa chặt chẽ, chất lượng chưa cao; tình trạng né tránh, ngại va chạm của cán
bộ khi tham gia tố tụng, nhất là tiến hành làm việc, lấy lời khai người có liên
quan mà người đó là người có chức vụ, quyền hạn.Với lại các vụ án kinh tế,
tham nhũng, chức vụ thường được dư luận quan tâm, bình luận trên các
phương tiện thông tin đại chúng; có những vụ án việc giải quyết chứa đựng
các yếu tố chính trị, kinh tế, ... cần được quan tâm, chỉ đạo của cấp ủy Đảng
và do vậy cũng tạo áp lực, kéo dài thời gian xử lý cho các cơ quan và người
tiến hành tố tụng.
Năm là, hoạt động tổng kết rút kinh nghiệm, xây dựng các chuyên đề
của VKSND cấp tỉnh trong việc nâng cao chất lượng THQCT và kiểm sát các
hoạt động tư pháp chưa được chú trọng thực hiện. Do đó chưa rút ra được bài
học kinh nghiệm, các giải pháp để khắc phục những hạn chế để KSV học hỏi,
vận dụng, áp dụng vào công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
71
Sáu là, theo Luật Bồi thường nhà nước quy định về trách nhiệm bồi
thường oan sai trong hoạt động tố tụng, khi VKS đã phê chuẩn quyết định
khởi tố bị can, các lệnh bắt khẩn cấp, bắt tạm giam, lệnh tạm giam thì VKS
phải chịu trách nhiệm bồi thường khi xảy ra oan sai. Chính vì quy định đó đã
dẫn đến một tâm lý chủ quan cho Điều tra viên, Cơ quan điều tra trong quá
trình điều tra.
- Trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định
của pháp luật
Một là, Kiểm sát viên chưa phát huy hết tinh thần trách nhiệm khi được
phân công kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động; chưa thật sự tự giác nghiên cứu tài liệu, văn bản
pháp luật liên quan đến giải quyết án; dễ dàng chấp thuận hoặc đồng ý với
quan điểm giải quyết của Tòa án. Năng lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ
của một số KSV làm công tác kiểm sát giải quyết các loại án này còn hạn chế,
chưa đáp ứng nhu cầu công tác và đòi hỏi của thực tiễn.
Hai là, Lãnh đạo đơn vị có lúc chưa chú trọng về công tác kiểm sát giải
quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động nên việc triển khai, chỉ đạo công tác, phân công Kiểm sát viên tham gia
kiểm sát giải quyết còn chưa phù hợp yêu cầu, tính chất công việc.
Ba là, việc thực hiện chế độ kiểm tra, thanh tra của cấp trên đối với cấp
dưới chưa được thường xuyên, có lúc thiếu sâu sát.
Bốn là, quy định của pháp luật về cơ chế thực hiện quyền năng của
VKS chưa bảo đảm, cụ thể: Theo quy định của pháp luật, khi phát hiện vi
phạm, VKS chỉ có quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị mà không có cơ chế
bắt buộc thực hiện kiến nghị, yêu cầu. Vì vậy, trên thực tế có rất nhiều kiến
72
nghị, yêu cầu của VKS được thực hiện không nghiêm nên vi phạm kéo dài
hoặc lặp lại nhiều lần. Ví dụ, VKS đã nhiều lần kiến nghị TAND cùng cấp
khắc phục việc gửi bản án, quyết định chậm cho VKS nhưng tình trạng vi
phạm đó vẫn chưa được khắc phục; nhiều vụ án dân sự, kinh doanh, thương
mại vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử, VKS đã kiến nghị nhưng nhiều vụ chưa
được giải quyết.
- Trong công tác kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính
Một là, Một số cán bộ, kiểm sát viên còn xem nhẹ khâu công tác kiểm
sát thi hành án dân sự, cho rằng công việc thi hành án dân sự do Cơ quan thi
hành án dân sự, Chấp hành viên thực hiện. Viện kiểm sát chỉ kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong quá trình tổ chức thi hành án của Cơ quan thi hành
án dân sự, Chấp hành viên.Trách nhiệm của Viện kiểm sát trong công tác này
chưa được thể hiện rõ ràng.
Hai là, Lãnh đạo phòng thường bố trí cán bộ kiêm nhiệm, cán bộ có
văn bằng khác chưa được đào tạo nghiệp vụ kiểm sát, bố trí cán bộ lớn tuổi
chờ nghỉ chế độ, cán bộ mới vào ngành chưa có kinh nghiệm trong công tác.
Một số cán bộ, kiểm sát viên thiếu trách nhiệm trong công tác, đôi lúc, đôi nơi
chưa nắm vững các qui định của pháp luật liên quan về THADS và các văn
bản tài liệu liên quan… Công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ
kiểm sát viên làm công tác kiểm sát THADS chưa được chú trọng.
Ba là, Cán bộ, kiểm sát viên khi kiểm sát quyết định thi hành án chưa
chú trọng nhiều đến công việc, còn thụ động, lơ là, không nghiên cứu các
quy định của pháp luật; chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm trong quá
trình kiểm sát quyết định về thi hành dân sự; không thực hiện đúng Quy chế
công tác kiểm sát thi hành án dẫn đến công tác kiểm sát quyết định thi hành
án dân sự còn hạn chế. Các vi phạm của Cơ quan thi hành án, Chấp hành
viên trong việc ban hành, tổ chức thực hiện quyết định thi hành, quyết định
73
về thi hành án chưa được phát hiện nhiều, kịp thời. Việc tổng hợp vi phạm
để kiến nghị với các cơ quan chức năng chưa nhiều, chất lượng chưa cao.
Bốn là, việc chuyển giao bản án, quyết định của Toà án cho bộ phận
kiểm sát THADS còn chưa kịp thời, đầy đủ ảnh hưởng đến việc kiểm sát thời
hạn ra quyết định THA của Cơ quan THADS.
- Trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm của
Viện kiểm sát và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan tư
pháp
Một là, thời gian trước đây (năm 2016) đối với trường hợp giải quyết
đơn khiếu nại của VKS tỉnh chưa thực hiện đúng về quy trình, thủ tục giải
quyết đơn, còn sa đà vào giải quyết án. Cụ thể: Qua nghiên cứu đơn khiếu nại,
VKSND cấp tỉnh phát hiện một số trường hợp việc giải quyết vụ án của VKS
huyện, thành phố có vi phạm, thiếu sót, có căn cứ khẳng định việc khiếu nại
là đúng, lẽ ra VKS tỉnh phải ra Quyết định giải quyết khiếu nại với nội dung
chấp nhận yêu cầu của người khiếu nại, yêu cầu VKS huyện, thành phố phải
điều tra bổ sung làm rõ theo yêu cầu, khiếu nại của người khiếu nại. Nhưng
theo ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Viện tỉnh, trường hợp này VKSND cấp tỉnh
không ra Quyết định giải quyết đơn mà chỉ yêu cầu VKS huyện, thành phố
điều tra bổ sung vụ án, khắc phục sai sót, chờ có kết quả giải quyết của VKS
huyện, thành phố, Phòng 12 Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi mới có cơ sở tham
mưu giải quyết đơn, dẫn đến quá hạn thời hạn giải quyết đơn thuộc thẩm
quyền Viện KSND cấp tỉnh (Ví dụ: trường hợp đơn khiếu nại của Dương Văn
Kiễu khiếu nại Cáo trạng của Viện trưởng VKSND huyện Tư Nghĩa, đơn
khiếu nại của Phạm Ngọc Tuân khiếu nại Quyết định giải quyết khiếu nại của
Viện trưởng VKSND huyện Đức Phổ).
Hai là, đối với phòng nghiệp vụ có nhiệm vụ phối hợp: Khối lượng
công việc chuyên môn nhiều, thiếu biên chế, cán bộ, KSV thường xuyên
74
đi học, KSV còn chưa chủ động thực hiện nhiệm vụ được phân công, nên
ảnh hưởng lớn đến thời gian thực hiện nhiệm vụ phối hợp tham mưu giải
quyết đơn.
Ba là, theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 13 quy chế tiếp công dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
hoạt động tư pháp theo Quyết định của Viện kiểm sát nhân dân tối cao số
51/QĐ-VKSTC-V12 ngày 02/02/2016 [50] thì phòng nghiệp vụ có ý kiến
bằng văn bản về nội dung giải trình của Viện trưởng VKSND cấp huyện,
thành phố nhưng tại VKSND tỉnh Quảng Ngãi thì phòng nghiệp vụ chịu trách
nhiệm về nội dung và đảm nhiệm việc làm việc với người khiếu nại.
Thứ hai, nguyên nhân khách quan
Trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong lĩnh vực hình sự
Đây là thời điểm mới áp dụng BLHS năm 2015 (sửa đổi), giao thời
giữa hai BLHS 1999 ( sửa đổi năm 2009) và BLHS năm 2015 sửa đổi, do đó
các cơ quan tiến hành tố tụng gặp nhiều khó khăn trong việc nghiên cứu tội
danh mới quy định và áp dụng giữa hai Bộ luật.
Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng này là do một mặt trình độ lập
pháp của chúng ta còn hạn chế, nhà làm luật đã chưa dự lường được hết các
tình huống xảy ra trên thực tế của đời sống xã hội. Những nguyên nhân khách
quan từ phía pháp luật thực định làm ảnh hưởng, hạn chế đến chất lượng
THQCT, KSĐT các vụ án hình sự dẫn đến việc khởi tố, truy tố, xét xử còn có
những bất cập, vướng mắc, quan điểm chưa được thống nhất giữa giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng nói chung và cả chính VKSND cấp tỉnh nói riêng. Về
công tác giải thích hướng dẫn ADPL của cơ quan có thẩm quyền còn nhiều
bất cập và chưa kịp thời. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan có thẩm
quyền giải thích Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh. Nhưng trên thực tế, UBTV Quốc
75
hội hầu như ít thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mang tính Hiến định này, bởi
lẽ, việc xây dựng các dự án luật cũng như việc xây dựng và ban hành pháp
lệnh theo sự uỷ quyền của Quốc hội cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội luôn
phải hoạt động quá tải. Chính vì vậy mọi vướng mắc trong việc ADPL đều
trông chờ vào văn bản hướng dẫn của cơ quan tư pháp trung ương. Thực tế
thời gian qua cho thấy việc ban hành văn bản hướng dẫn của các cơ quan tư
pháp trung ương còn chậm, mâu thuẫn, không thống nhất còn chồng chéo lẫn
nhau, chưa đáp ứng được tình hình yêu cầu thực thi pháp luật. Nguyên nhân
là do chậm nghiên cứu tổng kết thực tiễn để có sự giải thích, hướng dẫn kịp
thời và chưa có cơ chế phối hợp có hiệu quả giữa các cơ quan ở trung ương
trong việc xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật.
Trong một số vụ án phức tạp, Viện KSND cấp tỉnh xin ý kiến thỉnh thị
của Vụ nghiệp vụ Viện KSND tối cao nhưng chưa được trả lời kịp thời hoặc
xin thỉnh thị của Liên ngành trung ương thì không có chỉ đạo của Liên ngành
trung ương. Vì vậy, thực tế đã có một số vụ án hình sự phải trả điều tra bổ
sung nhiều lần, kéo dài thời gian xử lý.
Tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, quy mô, tính chất, mức độ
phạm tội, thủ đoạn hoạt động phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt, gây án
trên địa bàn rộng, xa khu dân cư; gây án xong xóa dấu vết, tạo hiện trường
giả, bỏ trốn khỏi địa phương nên gây khó khăn trong quá trình thu thập đầy
đủ chứng cứ chứng minh tội phạm, nhất là án trong lĩnh vực kinh tế, tham
nhũng, chức vụ có tính “ động” cao nhưng pháp luật hình sự của nước ta chưa
hoàn chỉnh, nhiều điều luật quy định chung chung, thiếu định lượng cụ thể,
liên ngành cơ quan tư pháp Trung ương chưa có văn bản hướng dẫn kịp thời
nên khó khăn cho việc thu thập chứng cứ, đánh giá tính chất, mức độ phạm
tội, gây khó khăn trong việc xác định tội danh, nhiều trường hợp quan điểm
76
của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự vận dụng khác nhau nên dẫn đến
không thống nhất trong công tác xử lý tội phạm.
Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo quy định hiện
hành là quá ngắn không phù hợp với một số vụ việc phức tạp. Ví dụ như vụ
án liên quan đến mua bán hóa đơn giá trị gia tăng trái phép, trốn thuế, quản lý
đất đai, không thể xác minh trong thời gian hai tháng. Ngoài ra có những
trường hợp phải tiến hành định giá tài sản, phải chờ kết quả của trưng cầu
giám định, nhất là giám định tâm thần hoặc giám định tỷ lệ thương tật.
Khách thể của án kinh tế, chức vụ bị xâm hại đa dạng, muôn hình,
muôn vẻ, thủ đoạn của tội tinh vi nên khó phân biệt tội phạm này với tội
phạm khác dẫn đến các cơ quan tiến hành tố tụng không thống nhất với nhau
về tội danh, do vậy dẫn đến điều tra bổ sung, điều tra lại hoặc hủy án.
Bên cạnh đó, có nguyên nhân tác động đến tư tưởng và trách nhiệm của
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán trong quá trình tiến hành tố tụng về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị oan sai, nên những người tiến
hành tố tụng còn tỏ ra dè dặt, thận trọng quá mức trong việc đấu tranh xử lý
tội phạm.
Trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định
của pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh thương mại
khá rộng, thường xuyên thay đổi, có quy định chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu
đồng bộ, chậm ban hành văn bản dưới luật dẫn tới nhận thức và vận dụng
không thống nhất.
Số lượng các khiếu kiện về án hành chính, kinh doanh, thương mại, lao
động ngày càng tăng và tính chất phức tạp hơn. Các tranh chấp bị khởi kiện
đa phần về lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đầu tư... Trong khi công tác quản lý
77
trên lĩnh vực này thời gian qua ở tỉnh Quảng Ngãi chưa được tốt, sự biến
động về chính sách tiền tệ, đầu tư, sự thay đổi, điều chỉnh về cách thức quản
lý nên khi tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án của
cơ quan tố tụng gặp nhiều khó khăn.
Trong công tác kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính
Nhiều vụ việc qua xác minh thể hiện đương sự không có điều kiện thi
hành án, có trường hợp đi khỏi địa phương không xác định được nơi cư trú
mới hoặc tuy họ có tài sản nhưng không đủ để đảm bảo thi hành và chưa đủ
điều kiện để được đưa ra xem xét miễn, giảm thi hành án vẫn chưa có hướng
xử lý.
Ý thức tuân thủ pháp luật của người phải thi hành án chưa cao, có
trường hợp người phải thi hành án cố tình chây ỳ, tẩu tán tài sản, chống đối lại
cán bộ thi hành án, khiếu nại vượt cấp nhằm mục đích kéo dài hoặc không thi
hành án.
Việc chuyển giao bản án, quyết định của Toà án cho bộ phận kiểm sát
THADS còn chưa kịp thời, đầy đủ ảnh hưởng đến việc kiểm sát thời hạn ra
quyết định THA của Cơ quan THADS.
Cơ chế pháp lý, hướng dẫn, chỉ đạo của cấp có thẩm quyền chậm được
ban hành nên các cơ quan thực thi pháp luật chưa có cơ sở để giải quyết dứt
điểm đối với những bản án còn sai sót do Toà án tuyên còn tồn đọng nhiều
năm chưa giải quyết được.
Trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm của Viện
kiểm sát và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan tư pháp
Một số công dân chưa hiểu đúng về nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân
dân trong công tác tiếp công dân và tiếp nhận, giải quyết đơn, thư khiếu nại,
cũng như công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan
78
tư pháp (không có thẩm quyền giải quyết, kiểm sát việc giải quyết mọi khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân).
Công tác quản lý đơn chưa được Viện KSND tối cao trang bị phần
mềm máy vi tính để cập nhập. Vì vậy, việc quản lý, theo dõi đơn như hiện
nay chưa đảm bảo; hiệu quả công tác quản lý đơn còn gặp nhiều hạn chế như
không quản lý đơn, số đơn trùng ...
Đồng thời cơ sở vật chất phương tiện làm việc của VKSND tỉnh Quảng
Ngãi mặc dù đã được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư hơn trước nhưng
vẫn còn thiếu, đó cũng là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến
chất lượng và hiệu quả của quá trình THQCT và kiểm sát các hoạt động tư
pháp.
79
Tiểu kết chương 2
Nội dung chương 2, tác giả sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân
tích, thống kê, so sánh để làm rõ thực trạng THQCT và kiểm sát các hoạt
động tư pháp của VKSND tỉnh Quảng Ngãi. Qua phân tích số liệu của VKS,
có thể thấy được những kết quả đạt được, bên cạnh đó cũng còn không ít
những hạn chế, yếu kém cần phải được khắc phục. Những phân tích trên cho
thấy, hoạt động THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND cấp
tỉnh trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tích đáng kể; kết quả đó đã
góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần đấu
tranh tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đạt kết quả; thúc đẩy phát triển
kinh tế xã hội của tỉnh, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện
chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp còn có những tồn tại, hạn
chế, những hạn chế đó do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn
là yếu tố con người như: Năng lực, trình độ của cán bộ, KSV còn hạn chế
chưa theo kịp với tiến trình phát triển hội nhập quốc tế, sự phát triển kinh tế
của nước ta; tiếp đến là những nguyên nhân khách quan khác như hệ thống
pháp luật của chúng ta chưa được hoàn thiện, đầy đủ, thống nhất, chưa có
những hướng dẫn kịp thời, còn nhiều bất cập; phương tiện vật chất còn thiếu;
do đó còn chưa thể phát hiện, xử lý được nhiều nhóm tội như kinh tế, chức
vụ, tham nhũng, cũng như những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của tội phạm
này.
Thực trạng trên cho thấy, cần phải có những phương hướng, giải pháp
bảo đảm THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND cấp tỉnh,
nhằm góp phần đáp ứng cơ bản yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp ở
nước ta hiện nay.
80
Chương 3
QUAN ĐIỂM GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ VÀ KIỂM SÁT CÁC HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
3.1. Quan điểm bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp
3.1.1. Chủ trương định hướng của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư
pháp liên quan đến bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp
Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW
về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Nâng
cao chất lượng hoạt động và đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ
tư pháp :
“Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải
được thực hiện ngày từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm
bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô
tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố
tụng khi thi hành nhiệm vụ. Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại
phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sưư, người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác…
Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng pháp
luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không
phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường
hợp oan, sai trong bắt, giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những
oan sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê
chuẩn của mình” [01].
81
Tiếp đó ngày 25/4/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48 về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020. Cụ thể: Xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp phù hợp với mục tiêu,
định hướng của Chiến lược cải cách tư pháp; xác định đúng, đủ quyền năng
và trách nhiệm pháp lý cho từng cơ quan, chức danh tư pháp :“Hoàn thiện
pháp luật về tổ chức và hoạt động của viện kiểm sát nhân dân theo hướng
bảo đảm thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
Nghiên cứu hướng tới chuyển thành viện công tố” [2].
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, với phương hướng: “Hoàn thiện
chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các
thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh
bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”
Đồng thời, Nghị quyết số 49-NQ/TW xác định: Trước mắt VKSND
giữ nguyên chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp. VKSND được tổ chức phù hợp với tổ chức của Tòa án và tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra”[3].
Với 03 Nghị quyết trên, Bộ Chính trị đã xác định các định hướng
quan trọng, toàn diện cho Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và
việc xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam.
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng xác định: “ Cải cách tổ
chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao
tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác bắt,
giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không được để xảy ra những trường
82
hợp oan sai. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp. Sắp xếp lại hệ thống Tòa án nhân dân, tổ chức lại Cơ
quan điều tra và Cơ quan thi hành án theo nguyên tắc gọn đầu mối” [10].
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng
sản Việt Nam cũng đã nêu rõ: Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong
sạch, vững mạnh, dân chủ nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người.
Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải
cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt động xét xử làm
trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra. Xây dựng
cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp,
hành pháp và tư pháp [11].
Thực hiện chủ trương “ tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải
cách tư pháp” đã được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
thông qua [13]. Trên cơ sở Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 về việc
tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020: “Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 về cơ bản là đúng đắn. Các cấp ủy, tổ
chức đảng trực thuộc Trung ương cần phát huy những kết quả đã đạt được,
khắc phục những hạn chế, vướng mắc, tiếp tục thực hiện mục tiêu, quan điểm,
phương hướng cải cách tư pháp nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ
Chính trị khóa IX vẫn còn phù hợp. Đồng thời, quán triệt nghiêm túc các chủ
trương, đường lối của Đảng nêu trong các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI và các quy định mới của Hiến pháp năm 2013 có liên quan
đến tổ chức, hoạt động tư pháp” [6]
Và Kết luận số 01-KL/TW ngày 4/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp
tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW khóa IX về chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến 2020:
83
“ Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam qua 10 năm thực hiện khẳng định tính đúng đắn, kịp thời
và tầm nhìn dài hạn của Đảng ta, đáp ứng yêu cầu bảo vệ, xây dựng và phát
triển đất nước. Bộ Chính trị yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc
Trung ương tiếp tục quán triệt, thực hiện mục tiêu, yêu cầu, quan điểm chỉ
đạo xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nêu trong Nghị quyết” [7].
Từ các Nghị quyết, Kết luận của Bộ Chính trị cho thấy: Quan điểm,
đường lối, mục tiêu xuyên suốt trong Chiến lược cải cách tư pháp của Đảng
và Nhà nước ta là: Công cuộc cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng, bảo đảm ổn định chính trị và bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam là của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Quyền lực Nhà nước
là thống nhất, có sự phân công, kiểm soát, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cải
cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc gắn với cải
cách hành chính và đổi mới công tác lập pháp. Cải cách tư pháp phải được
tiến hành có trọng tâm, trọng điểm với những bước đi vững chắc, đảm bảo
tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con
người. Các cơ quan tư pháp phải đặt dưới sự giám sát của các cơ quan dân cử
và nhân dân. Đồng thời cải cách tư pháp phải hoàn thiện chính sách pháp luật
hình sự, dân sự, kế thừa những thành tựu đạt được của nền tư pháp XHCN
Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài, phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh của nước ta, chủ động hội nhập quốc tế, đáp ứng xu
thế phát triển của xã hội.
Để thực hiện cải cách tư pháp có hiệu quả, Đảng và Nhà nước yêu
cầu VKS phải đổi mới về hệ thống tổ chức bộ máy và yếu tố con người: tổ
chức hệ thống các cơ quan tư pháp, cơ quan bổ trợ tư pháp một cách khoa
84
học, hợp lý về cơ cấu tổ chức, hiện đại điều kiện cơ sở vật chất, phương
tiện, trang thiết bị làm việc. Xây dựng, đào tạo, đào tạo lại và rèn luyện đội
ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh, đề cao quyền
hạn, trách nhiệm pháp lý, tiêu chuẩn hóa về chính trị, phẩm chất đạo đức,
chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức, kinh nghiệm, nhất là đối với đội ngũ cán
bộ có chức danh tư pháp.
Trong tiến trình thực hiện cải cách tư pháp, VKSND đã là cơ quan đi
đầu, thực hiện có hiệu quả việc đổi mới sâu rộng cả về mặt tổ chức hoạt
động, đội ngũ cán bộ, KSV đến phương pháp, phương châm thực hiện,
đóng góp một phần quan trọng vào thành quả chung của sự nghiệp đổi mới
của đất nước.
3.1.2. Quan điểm quán triệt các Chỉ thị của Ngành kiểm sát đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp
Cải cách tư pháp là yêu cầu cấp thiết của Đảng, Nhà nước ta hiện nay,
nhằm mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo. Các
Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về cải cách tư pháp xác định: Viện kiểm sát
phải chịu trách nhiệm chính về những oan, sai trong việc khởi tố, bắt, tạm giữ,
tạm giam, điều tra, truy tố; phải bảo đảm việc truy tố có căn cứ, đúng pháp
luật, cùng với cơ quan điều tra khắc phục những vi phạm, tồn tại trong quá
trình điều tra, bảo đảm không để lọt tội phạm, người phạm tội, không làm oan
người vô tội.
Nhằm không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả các khâu công tác và
tổ chức hoạt động của ngành kiểm sát, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp của
Đảng và Nhà nước, trong nhiều năm qua,Viện trưởng VKSNDTC đã ban
hành nhiều Chỉ thị quán triệt VKSND các cấp tổ chức triển khai thực hiện
nghiêm chủ trương cải cách tư pháp như:
85
Kế hoạch số 63/BCSĐ-VKSTC ngày 18/01/2006 định hướng hoạt động
của ngành Kiểm sát nhân dân trong giai đoạn năm năm 2005-2010; Kế hoạch
số 02-KH/BCSĐ ngày 19/5/2009 thực hiện kết luận Hội nghị Trung ương 9
( Khóa X) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong ngành kiểm sát nhân dân; Kế hoạch
số 04-KH/BCSĐ ngày 30/8/2010 thực hiện Kết luận số 79-KL/TW ngày 28
tháng 7 năm 2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động
của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Kế hoạch số
08-KH/BCSĐ ngày 09/05/2014 triển khai thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị
về việc tiếp tục thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 trong
ngành kiểm sát nhân dân.
Ngành kiểm sát xác định tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 37
/2012/QH13 ngày 23/11/2012 [26] và triển khai thực hiện Nghị quyết số 63
/2013/QH13 ngày 27/11/2013 [28] của Quốc hội khóa XIII trong Ngành kiểm
sát nhân dân là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng của Ngành, là
căn cứ pháp lý để thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp và công tác xây dựng Ngành. Theo đó, Viện
trưởng VKSND tối cao đã khẩn trương ban hành Chỉ thị công tác số 01/CT-
VKSTC ngày 02/01/2014 quán triệt, yêu cầu Viện kiểm sát các cấp thực hiện
tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ nêu trong 02 Nghị quyết liên quan đến trách nhiệm
của Ngành; tập trung thực hiện 3 nhóm nhiệm vụ trọng tâm đó là: Xây dựng
và hoàn thiện thể chế về chức năng nhiệm vụ của VKSND; tăng cường các
biện pháp nhằm chống oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm; cải cách chế độ công vụ,
công chức, chú trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng Ngành. Ban hành
Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 về tăng cường trách nhiệm công
86
tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra, đáp ứng yêu
cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới [45].
Quán triệt và thực hiện nghiêm túc các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng,
Quốc hội, đặc biệt là Nghị quyết số 96/2015 ngày 26/6/2015 của Quốc hội về
tăng cường các biện pháp chống oan, sai và bồi thường cho người bị thiệt hại
trong tố tụng hình sự [32]và Chỉ thị 04/CT-VKSTC ngày 10/7/2015 của Viện
trưởng VKSTC về tăng cường các biện pháp phòng, chống oan,sai, bảo đảm
bồi thường cho người bị thiệt hại trong tố tụng hình sự [48].
Đồng thời, Viện trưởng VKSNDTC chỉ đạo, quán triệt toàn ngành Kiểm
sát quyết tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên: “Vững về chính trị, giỏi
về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách
nhiệm”. Thực hiện chủ trương “Hướng về cơ sở”, tăng cường cho cơ sở; thực
hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ ngành kiểm sát phải:
“Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng và khiêm tốn”; đẩy mạnh việc
“ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ” theo tinh thần Chỉ
thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị phát động phong trào thi đua sôi nổi, mạnh
mẽ, tạo bước chuyển biến căn bản, đột phá và hiệu quả trong tổ chức, hoạt
động của ngành Kiểm sát, nâng cao hình ảnh, vị thế, vai trò của ngành trước
nhân dân, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
3.1.3.Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Tỉnh ủy Quảng Ngãi đối với hoạt
động tư pháp
Tỉnh ủy Quảng Ngãi đã ban hành Chỉ thị số 37-CT/TU ngày
31/12/2014 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp
và cải cách tư pháp trên địa bàn tỉnh [42] và đã ban hành quyết định Ban cải
cách tư pháp tỉnh, nhiệm kỳ 2010 -2015 và nhiệm kỳ 2015-2020; qua đó Viện
KSND tính Quảng Ngãi đều ban hành kế hoạch thực hiện Chỉ thị 37-CT/TU
của Tỉnh ủy và báo cáo kết quả công tác cải cách tư pháp hàng năm.
87
Ngày 30/5/2016 Tỉnh ủy Quảng Ngãi đã ra Chỉ thị số 11-CT/TU về
triển khai thi hành pháp luật lĩnh vực hình sự do Quốc hội khóa XIII ban hành
[43]. Qua đó yêu cầu BCSĐ Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi tiếp tục quán triệt
và triển khai thực hiện có hiệu quả các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và Quốc
hội chỉ đạo về hoạt động tư pháp và cải cách tư pháp, trong đó trọng tâm Nghị
quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 và Kết luận 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ chính trị
về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 49 nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ,
đảng viên Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi đối với công tác cải cách tư pháp
trong giai đoạn hiện nay và yêu cầu tiếp tục rà soát, bổ sung, xây dựng các
quy chế phối hợp giữa các ngành nội chính trong giải quyết án hình sự, dân
sự, hành chính, lao động…. và thi hành án. Nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp, tập trung công tác điều
tra, xử lý tội phạm có tổ chức, tội phạm kinh tế, tham nhũng, tội phạm ma
túy,…thực hiện nghiêm túc thời hạn điều tra, hạn chế gia hạn điều tra nhằm
đảo bảo quyền con người trong suốt quá trình tố tụng. Đồng thời ngày
08/12/2016 UBND tỉnh Quảng Ngãi đã có Kế hoạch số 7133/KH-UBND về
thực hiện quyết định số 1681/QĐ-TTg ngày 31/8/2016 của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành Chương trình thực hiện Nghị quyết số 96/2015/QH13
của Quốc hội về về tăng cường các biện pháp chống oan, sai và bồi thường
cho người bị thiệt hại trong tố tụng hình sự.
3.2. Giải pháp bảo đảm thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị được ban hành, thực hiện
đường lối chỉ đạo của Đảng,Nhà nước về chiến lược cải cách tư pháp với mục
tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo
vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt
88
Nam xã hội chủ nghĩa. Từ khi có Nghị quyết số 49-NQ/TW, chất lượng thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp tại Viện KSND cấp tỉnh
được nâng lên rõ rệt; đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên từng bước trưởng thành,
có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao của tiến trình cải cách tư pháp.
Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi với chủ trương "Đoàn kết, đổi mới –
Trách nhiệm, kỷ cương – Chất lượng, hiệu quả", tiếp tục đẩy mạnh, đổi mới,
nâng cao chất lượng công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngành, hoàn
thành tốt các chỉ tiêu theo quy định tại Nghị quyết của Quốc hội về công tác
tư pháp, nhất là Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc
hội về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của
Viện KSND, của TAND và công tác thi hành án năm 2016 và các năm tiếp
theo [31] và thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TU ngày 31/12/2014 của Tỉnh ủy
Quảng Ngãi về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp
và cải cách tư pháp trên địa bàn tỉnh[42], góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ chính trị của địa phương. Để thực hiện tốt các Nghị quyết, Chỉ thị của
ngành, Viện KSND cấp tỉnh thực hiện các giải pháp cụ thể như :
3.2.1 Giải pháp cần thực hiện
3.2.1.1.Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật vừa là chủ trương
của Đảng, nhiệm vụ của Nhà nước, vừa là đòi hỏi của nhân dân. Thực tế chỉ
ra, hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay vẫn còn nhiều tồn tại yếu kém:
vừa thiếu vừa yếu, lại chồng chéo, mâu thuẫn, không rõ ràng, chậm thay đổi
nên dẫn đến chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình hình hiện nay. Để nâng
cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của
Viện kiểm sát thì việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có vị trí, vai
trò rất quan trọng. Khi có hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và thống nhất sẽ
89
làm cơ sở pháp lý vững chắc cho quá trình thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp một cách có hiệu quả và chất lượng. Vì vậy trong
thời gian tới, cần phải khẩn trương, nhanh chóng sửa đổi, bổ sung những bất
cập, hạn chế trong hệ thống pháp luật của chúng ta, đặc biệt là những văn bản
hướng dẫn liên quan trực tiếp đến hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát và những văn bản dưới Luật hướng
dẫn các Bộ luật mới có hiệu lực như: Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự,
Luật THTGTG,...
Thứ nhất, kiến nghị sửa đổi quy định về Trình tự xét hỏi trong thủ tục
tranh tụng tại phiên tòa, tại Điều 307 BLTTHS năm 2015 theo hướng đảm
bảo tranh tụng trong xét xử. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (khoản 2 Điều
307) quy định khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước, sau đó đến
Thẩm phán, Hội thẩm và tiếp theo mới là Kiểm sát viên. Quy định như vậy
chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao vai trò của Kiểm sát viên trong thực
hành quyền công tố cũng như yêu cầu tăng cường tính tranh tụng của phiên
tòa.
Pháp luật tố tụng hình sự cần sửa đổi theo hướng Hội đồng xét xử chủ
yếu làm công việc của người điều khiển phiên toà còn Kiểm sát viên và Luật
sư bào chữa phải chủ động tham gia xét hỏi cũng như đưa ra các quan điểm,
kiến nghị của mình khi tranh luận. Trình tự xét hỏi nên quy định Kiểm sát
viên hỏi trước để đưa ra các chứng cứ buộc tội trước, sau đó người bào chữa
hỏi về những tình tiết liên quan đến việc bào chữa, Hội đồng xét xử có quyền
xét hỏi bất cứ lúc nào để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án, phục vụ cho việc
giải quyết đúng đắn vụ án.
Từ những phân tích trên, tác giả kiến nghị sửa đổi Điều 307 BLTTHS
năm 2015 như sau: “Khi xét hỏi, Chủ toạ phiên toà điều khiển quá trình xét
hỏi. Kiểm sát viên xét hỏi để bảo vệ cáo trạng, người bào chữa xét hỏi để bảo
90
vệ quyền lợi cho bị cáo, những người tham gia tố tụng có quyền và lợi ích
pháp lý liên quan đến vụ án, người bảo vệ quyền lợi đương sự có quyền đề
nghị Hội đồng xét xử hỏi về những vấn đề có liên quan đến họ. Thẩm phán,
hội thẩm có thể xét hỏi thêm về những vấn đề mà Kiểm sát viên, người bào
chữa chưa xét hỏi rõ.
Thứ hai, quy định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Viện kiểm sát chỉ
xem xét rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố khi giải quyết yêu cầu
trong quyết định trả hồ sơ của Toà án. Trong quá trình điều tra bổ sung, nếu
xét thấy có căn cứ để rút toàn bộ quyết định truy tố thì Viện kiểm sát đình chỉ
vụ án và thông báo cho Toà án biết. Trên thực tế, những chứng cứ để Viện
kiểm sát rút quyết định truy tố trước khi mở phiên toà không thể làm rõ trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử, chỉ có xét hỏi công khai tại phiên toà mới có thể
làm sáng tỏ được. Bởi vậy nên quy định Viện kiểm sát chỉ rút một phần hoặc
toàn bộ quyết định truy tố sau khi xét hỏi công khai tại phiên toà. Điều 285
BLTTHS năm 2015 cần sửa đổi, bổ sung như sau:
“Khi giải quyết việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án, xét thấy
có một trong các căn cứ quy định tại Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ
quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự
thì Viện kiểm sát rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa và đề nghị Toà
án đình chỉ vụ án”.
Thứ ba, đề nghị sửa đổi Khoản 3 Điều 258 Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015: “ Ngay sau khi kết thúc phiên toà, chủ toạ phiên toà phải kiểm tra biên
bản và cùng với Thư ký Toà án ký vào biên bản đó”. Việc quy định chủ toạ
phiên toà kiểm tra biên bản và cùng Thư ký Toà án ký vào biên bản ngay sau
khi kết thúc phiên toà là nhằm tránh tình trạng biên bản được lập sau khi xét
xử xong hoặc sau khi kết thúc phiên toà một thời gian sẽ không đảm bảo tính
khách quan, không phản ánh được chân thực diễn biến phiên toà.
91
Đồng thời sửa đổi khoản 4 Điều 258 BLTTHS năm 2015 như sau : “4.
Sau khi chủ tọa phiên tòa và Thư ký Tòa án ký vào biên bản phiên tòa, Kiểm
sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bị hại, đương sự hoặc đại diện của những người đó được
xem biên bản phiên tòa. Nếu có người yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung
vào biên bản phiên tòa thì Thư ký Tòa án phải ghi sửa đổi, bổ sung đó vào
biên bản phiên tòa. Không được tẩy xóa, sửa chữa trực tiếp mà phải ghi sửa
đổi, bổ sung tiếp vào cuối biên bản phiên tòa và cùng chủ tọa phiên tòa ký xác
nhận; nếu chủ tọa phiên tòa không chấp nhận yêu cầu thì phải nêu rõ lý do và
ghi vào biên bản phiên tòa. Kiểm sát viên có quyền xem biên bản phiên toà
ngay sau khi kết thúc phiên toà”. Quy định như vậy nhằm thực hiện tốt và
hoàn thiện hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Kiểm sát viên
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Ngoài ra, các văn bản dưới luật được ban hành hàng năm khá nhiều. Tuy
nhiên, văn bản nào còn hiệu lực, văn bản nào còn hiệu lực một phần và văn
bản nào hết hiệu lực không được hệ thống hóa. Thông thường, các văn bản ra
sau thường chỉ sửa đổi, bổ sung một số vấn đề của văn bản trước. Vì vậy,
trong thường hợp giải quyết các vụ án đã quá lâu thì việc tìm kiếm các văn
bản pháp luật có hiệu lực vào thời điểm đó để giải quyết vụ án mất rất nhiều
thời gian, công sức và ảnh hưởng nhiều đến thời hạn tố tụng.
Cho đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn, quy định cụ thể về trách
nhiệm của các cơ quan tư pháp trong việc thực hiện nghiêm túc kháng nghị,
kiến nghị của Viện kiểm sát đã được chấp nhận.
3.2.1.2. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho cán bộ của
Viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan tư pháp nói riêng, cũng như cho
nhân dân và cán bộ nói chung
92
Trình độ nhận thức pháp luật và văn hóa pháp lý của cán bộ và nhân
dân chưa được nâng lên tương xứng với sự đổi mới hệ thống pháp luật. Đại đa
số nhân dân vẫn còn ở trong trạng thái kém hiểu biết về pháp luật. Nhận thức
pháp luật tối thiểu của một công dân trước hết đó là sự am hiểu các quy định
của pháp luật và nắm vững các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân mà
Hiến pháp năm 2013 và các đạo luật chủ yếu đã quy định. Trình độ nhận thức
pháp luật này của người dân nước ta còn rất hạn chế. Trên thực tế công dân
rất lúng túng trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy
định cho mình để tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó họ
cũng không có những ứng xử tích cực trong việc đấu tranh với những hành vi
vi phạm pháp luật và tội phạm.
Do đó, giáo dục pháp luật nâng ý thức pháp luật cho mỗi cá nhân và
toàn xã hội đóng một vai trò rất quan trọng trong việc giúp cho người dân
quan tâm đến pháp luật, xây dựng động cơ đúng đắn trong việc thực hiện
pháp luật và tích cực đấu tranh phòng chống các vi phạm pháp luật. VKSND
và các cơ quan tư pháp nói riêng, phải coi công tác tuyên truyền giáo dục
pháp luật là một bộ phận trong hệ thống giáo dục nói chung, và là trách nhiệm
của các cơ quan Đảng, Nhà nước và của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Trong lĩnh vực hoạt động của VKSND và các cơ quan tư pháp nói chung,
kiến thức pháp luật phải được đặt ngang hàng với kiến thức và thông tin về
các vấn đề xã hội và cuộc sống để tuyên truyền cho nhân dân cũng như cho
đội ngũ công chức nhà nước, và thậm chí ngay cả đối với đội ngũ cán bộ công
chức của các cơ quan tư pháp. Có như vậy mới phát huy được quyền làm chủ
của công dân; kích thích tinh thần dân chủ trong nhân dân nhằm xây dựng một
xã hội công dân đúng nghĩa trong môi trường một Nhà nước pháp quyền
XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3.2.2. Giải pháp lâu dài
93
3.2.2.1.Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quan tâm của chính quyền
địa phương đối với thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp
Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị đã xác định: Đảng lãnh đạo các cơ quan
tư pháp chặt chẽ về chính trị, tổ chức và cán bộ; bảo đảm cho hoạt động tư
pháp thực hiện đúng quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Để thực
hiện chiến lược cải cách tư pháp, Đảng đã luôn quan tâm đổi mới và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp nói chung, hoạt động
của ngành Kiểm sát nói riêng. Trong thời gian tới cần phải tiếp tục hoàn thiện
nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp, khắc
phục tình trạng cấp ủy buông lỏng lãnh đạo hoặc cấp ủy can thiệp không đúng
vào hoạt động tư pháp [1];
Nên tổ chức hệ thống cơ quan Đảng theo ngành dọc trong ngành
KSND. Theo đó chi bộ VKSND cấp huyện, thành phố trực thuộc Đảng bộ
VKSND cấp tỉnh. Đảng bộ VKSND cấp tỉnh trực thuộc cấp ủy cấp tỉnh và và
Ban cán sự Đảng VKSND tối cao. Đảng bộ VKSND tối cao trực thuộc Đảng
bộ Khối các cơ quan nội chính Trung ương;
Ở từng giai đoạn, căn cứ yêu cầu, nhiệm vụ của Trung ương, Ban cán
sự Đảng cấp tỉnh nên có Nghị quyết chuyên đề về công tác kiểm sát nhằm
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp [44, tr.4].
Thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo nhưng không làm ảnh hưởng đến
nguyên tắc độc lập, khách quan và chỉ tuân theo pháp luật của các chức danh
tư pháp. Đảng không can thiệp vào công tác chuyên môn của các cơ quan tư
pháp như khởi tố, truy tố về tội nào hoặc xử mức án như thế nào, mà Đảng chỉ
định hướng về chủ trương đường lối chính sách cho các cơ quan tư pháp cho
phù hợp với từng thời kỳ, giai đoạn phát triển của đất nước. Chẳng hạn, để
thực hiện thành công Nghị quyết Trung ương 3 khóa X, một trong các nhiệm
94
vụ đặt ra đối với các cơ quan tư pháp là phải xử lý nghiêm mọi hành vi tham
nhũng. Về tổ chức cán bộ, Đảng lãnh đạo việc xây dựng và thực hiện chiến
lược quy hoạch cán bộ, lãnh đạo quá trình bổ nhiệm các chức danh tư pháp,
đặc biệt là đối với các chức danh quản lý trong ngành tư pháp.
Thực hiện nghiêm túc các kế hoạch kiểm tra của cấp ủy Đảng, đây là
phương thức phổ biến thường được các cấp ủy Đảng áp dụng. Thông qua đó
đánh giá ưu, khuyết điểm trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, đồng thời đề
ra các chủ trương lãnh đạo, kiện toàn, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động của VKS.
VKSND cấp tỉnh cần chủ động tham mưu, đề xuất cấp ủy Đảng chỉ
đạo xây dựng, sửa đổi hoàn thiện Quy chế phối hợp giữa VKS với các cơ
quan tư pháp và với các cơ quan chuyên môn của Đảng, chính quyền.
3.2.2.2. Nâng cao ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức cho cán bộ, kiểm
sát viên
Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đánh giá về công tác cán bộ của
các cơ quan tư pháp:
“Phần lớn cán bộ làm công tác tư pháp giữ vững phẩm chất chính trị,
có tinh thần trách nhiệm và hoàn thành nhiệm vụ, nhiều đồng chí đã tận tụy
với công việc, có trường hợp đã hy sinh cả tính mạng trong cuộc đấu tranh
chống tội phạm” [1].
Đối với ngành kiểm sát, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã rất quan tâm,
chỉ đạo; Chủ tịch yêu cầu cán bộ kiểm sát phải: "Công minh, chính trực,
khách quan, thận trọng"[16]. Đó cũng chính là khẩu hiệu mà toàn ngành kiểm
sát ra sức phấn đấu, thực hiện. Hầu hết cán bộ, kiểm sát viên ngành kiểm sát
nhân dân đã quán triệt sâu sắc tinh thần trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh; luôn
95
rèn luyện ý thức chính trị, đạo đức nghề nghiệp, có lập trường tư tưởng vững
vàng, kiên định.
Hiện nay, trong giai đoạn cải cách tư pháp; việc nâng cao ý thức chính
trị và phẩm chất đạo đức cho cán bộ, kiểm sát viên ngành kiểm sát nói chung
và trong hoạt động THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp nói riêng được
đặt ra cấp bách. Để làm được điều này, cần thực hiện một số vấn đề sau:
Quán triệt sâu sắc và sâu rộng đường lối chính sách của Đảng; pháp
luật của Nhà nước; cụ thể hóa bằng nhiệm vụ phù hợp với điều kiện của từng
đơn vị mình.
Tổ chức các lớp học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh cho cán bộ, kiểm sát viên; phấn đấu 100% kiểm sát viên có
trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên.
Hưởng ứng các cuộc vận động; các cuộc thi tìm hiểu về Đảng, về Bác
Hồ, về địa phương và về ngành Kiểm sát nhân dân để dấy lên phong trào thi
đua sôi nổi trong từng cán bộ, kiểm sát viên ở các đơn vị trong toàn ngành
kiểm sát tỉnh Quảng Ngãi.
Lấy kết quả học tập; nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là một trong những tiêu chuẩn đánh giá, xếp loại cán bộ, kiểm sát
viên hàng năm.
Qua đó cho thấy, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm của người cán bộ,
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân đã quy định trong Hiến pháp năm
2013, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và đã được cụ thể hóa
trong các đạo luật có liên quan đến hoạt động tư pháp và quy chế ngành Kiểm
sát nhân dân. Mỗi cán bộ, Kiểm sát viên thực hiện đúng những quy định trên
sẽ góp phần xây dựng ngành Kiểm sát nhân dân trong sạch, vững mạnh toàn
diện, tạo được niềm tin với Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ và là địa
chỉ đáng tin cậy của nhân dân.
96
3.2.2.3.Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp cho đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên
Bộ luật hình sự và tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực, đã bổ sung
nhiều điểm mới khẳng định rằng trong giai đoạn khởi tố, điều tra, Viện Kiểm
sát có vị trí quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người cho người bị tạm
giữ, bị can và những người tham gia tố tụng hình sự khác. Do vậy Lãnh đạo
VKSND cấp tỉnh cần nâng cao năng lực cho Kiểm sát viên trên các mặt: nhận
thức vai trò, vị trí của mình trong điều tra vụ án hình sự; trình độ chuyên môn;
kiến thức ngoại ngữ, tin học, và kiến thức hiểu biết xã hội là điều kiện tiên
quyết, thước đo chuẩn mực trong việc bảo vệ quyền con người cho những
người tham gia tố tụng hình sự và bảo vệ quyền con người cho chính bản thân
mình. Do đó, nâng cao nhận thức của cán bộ, kiểm sát viên về quyền con
người cũng như việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự là hết
sức cần thiết, nhằm tránh sự thờ ơ, vô cảm và vô trách nhiệm của một số cán
bộ, kiểm sát viên trong ngành kiểm sát về vấn đề bảo đảm quyền con người
trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự.
Để nâng cao việc nhận thức pháp luật và chuyên môn nghiệp vụ của
cán bộ kiểm sát viên; một biện pháp cũng quan trọng đó là VKSND cấp tỉnh
cần phải thường xuyên tổ chức những cuộc hội thảo theo các chuyên đề; tổ
chức những cuộc thi tìm hiểu kiến thức pháp luật; những cuộc thi xử lý các
tình huống trong hoạt động THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp như:
thi viết cáo trạng, luận tội … nhằm thúc đẩy phong trào hăng say nghiên cứu,
học tập nhiệm vụ chuyên môn. Tổ chức quán triệt nghiêm túc cho cán bộ,
Kiểm sát viên nhận thức đầy đủ các văn bản pháp luật mới và thi viết tìm hiểu
: BLHS năm 2015, BLTTHS năm 2015, Luật TTDS, Luật TTHC năm 2015,
Luật THTGTG năm 2015,....
97
Tiếp tục phối hợp tổ chức tốt các phiên tòa rút kinh nghiệm hình sự,
dân sự, kinh doanh thương mại, hành chính, lao động để nâng cao kỹ năng
THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Cán bộ, kiểm sát viên khi được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp phải chủ động tự học tập, tự nghiên cứu; nâng
cao trách nhiệm trong quá trình thực thi công vụ, đáp ứng được yêu cầu và
mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên: "Vững về chính trị, giỏi về
nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách
nhiệm" theo kế hoạch do Viện KSND tối cao phát động.
3.2.2.4.Kiện toàn bộ máy ngành Kiểm sát tỉnh Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu
tình hình mới
Tăng cường công tác đào tạo, cập nhật kiến thức pháp luật, nhất là các
kiến thức mới về quản lý kinh tế, về hội nhập quốc tế và chuyên môn nghiệp
vụ kiểm sát cho đội ngũ cán bộ, KSV. Trước yêu cầu của cải cách tư pháp,
VKSND cấp tỉnh muốn thực hiện tốt chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt
động tư pháp, thì công tác tổ chức cán bộ được tiếp tục đổi mới một cách
mạnh mẽ. Theo tôi, để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động THQCT và
kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS hai cấp, cần thực hiện một số giải
pháp sau:
Hiện nay ngành kiểm sát đã thực hiện quy chế thông khâu trong hoạt
động KSĐT các vụ án hình sự. Đây là quy định cần thiết nhưng ở Viện
KSND cấp tỉnh nên thực hiện quy chế chuyên khâu nhằm bảo đảm khả năng
giám sát các giai đoạn kiểm sát các vụ án và chỉ đạo kịp thời cho cấp huyện,
thành phố.
VKSND cấp tỉnh cần có phương án, kế hoạch nghiên cứu lý luận
nghiệp vụ, kỹ năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp cho các cán
bộ, KSV của các đơn vị trong toàn ngành. Phải có những hình thức, biện pháp
98
giải thích pháp luật khi có văn bản mới áp dụng pháp luật có hiệu lực pháp
luật; giúp cho các đơn vị trong toàn ngành nhận thức pháp luật được thống
nhất và đầy đủ. Ví dụ, khi có các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao có những quy định, quy phạm pháp luật mang tính tùy nghi,
chung chung … thì cần phải được giải thích áp dụng thống nhất trong toàn
ngành.
Lãnh đạo VKS cần chú trọng bố trí, sắp xếp KSV có kinh nghiệm, có
năng lực, năng khiếu đối với công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động tư
pháp. BCSĐ Viện KSND cấp tỉnh phải nắm chắc, hiểu rõ về đội ngũ cán bộ
của mình; có kế hoạch tuyển dụng, sử dụng, điều động, luân chuyển đội ngũ
cán bộ, KSV trên nguyên tắc bảo đảm tính ổn định và lâu dài, phù hợp với
nhu cầu của công việc; chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là đội
ngũ kiểm sát viên đủ về số lượng, giỏi về nghiệp vụ, trong sáng về đạo đức,
vững vàng về phẩm chất chính trị để đáp ứng yêu cầu của nền tư pháp hiện
đại.
3.2.2.5.Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
Việc tăng cường phối kết hợp giữa các cơ quan tư pháp trong việc giải
quyết các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại,
hành chính, lao động, thi hành án.... là cần thiết; việc làm này phải được tiến
hành thường xuyên để cho công tác phối kết hợp đạt kết quả tốt. Các cơ quan
tư pháp phải thực hiện tốt các yêu cầu sau:
Ba ngành Công an – VKS – Toa án phải thường xuyên giao ban quí, 6
tháng, năm, tiến hành họp liên ngành với các cơ quan tư pháp để tìm biện
pháp thúc đẩy tiến độ giải quyết án, giải quyết những vướng mắc, những đề
xuất kiến nghị của từng ngành; xác định những vụ án trọng điểm nhằm đảm
bảo phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương. Ba ngành Công an – VKS –
Tòa án thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, hội nghị chuyên đề về các lĩnh
99
vực thông qua đó trao dồi kiến thức pháp lý và kỹ năng trong quá trình điều
tra các vụ án hình sự, giải quyết án dân sự, hành chính, hành chính, lao
động.......Xây dựng và ký Qui chế phối hợp với Tòa án trong giải quyết các vụ
án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, hành chính, lao động,...
Tăng cường phối hợp giữa VKS với các cơ quan khác trong kiểm sát
giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp đặc biệt là sự phối
hợp giữa các cơ quan tư pháp , cũng như với các Cơ quan hành chính, Mặt
trận, đoàn thể chính trị xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Phối hợp với các
cơ quan tư pháp cùng cấp để xây dựng các quy chế, quy định liên ngành về
phối hợp trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và cả trong công tác kiểm
sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp, trong quá trình
kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cần kịp thời trao đổi thông tin để
cùng có nhận thức đúng, thống nhất trong việc áp dụng pháp luật.
3.2.2.6. Hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và của Nhân
dân đối với công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp
Cần đổi mới, nâng cao chất lượng giám sát của đại biểu HĐND là một
đòi hỏi khách quan, mà trước hết phải đổi mới chất lượng của HĐND các cấp
theo hướng tăng cường đại biểu hoạt động chuyên trách; nâng cao chất lượng
đại biểu theo hướng phải có trình độ học vấn và trình độ chuyên môn nghiệp
vụ nhất định mới được ứng cử làm đại biểu Hội đồng nhân dân.
Phát huy vai trò giám sát của cá nhân đại biểu HĐND đối với hoạt
động của VKS và các cơ quan tư pháp khác. Phân công những đại biểu có
chuyên môn về lĩnh vực pháp luật trực tiếp phụ trách việc giám sát hoạt động
áp dụng pháp luật của VKS và các cơ quan tư pháp khác.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động THQCT
KSĐT các vụ án của VKS và các cơ quan tư pháp thông qua HTND, nhất là
100
vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Vì thế, cần phải thường xuyên bồi
dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Hội thẩm nhân dân để
đảm bảo ý kiến của HTND với Thẩm phán trong phiên tòa xét xử sơ thẩm là
có trọng lượng và thiết thực hơn. VKS phải chủ động phối hợp với Mặt trận
Tổ quốc để ban hành quy chế phối hợp công tác, đề ra các hình thức tuyên
truyền, giáo dục, phổ biến nâng cao nhận thức, sự hiểu biết pháp luật cho các
tầng lớp nhân dân, để họ tham gia tích cực, có hiệu quả vào công cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm cũng như kiểm tra, giám sát hoạt động ADPL trong giải
quyết án hình sự nói chung, dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính, kinh doanh,
thương mại, lao động của ngành Kiểm sát và các cơ quan tư pháp khác.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động của VKS và
các cơ quan tư pháp thông qua HTND, nhất là vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam. Vì thế, cần phải thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của Hội thẩm nhân dân để đảm bảo ý kiến của HTND
với Thẩm phán trong phiên tòa xét xử sơ thẩm, phúc thẩm là có trọng lượng
và thiết thực hơn. VKS phải chủ động phối hợp với Mặt trận Tổ quốc để ban
hành quy chế phối hợp công tác, đề ra các hình thức tuyên truyền, giáo dục,
phổ biến nâng cao nhận thức, sự hiểu biết pháp luật cho các tầng lớp nhân
dân, để họ tham gia tích cực, có hiệu quả vào công cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm.
3.2.2.7.Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
Quán triệt, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các Nghị quyết, Chỉ thị,
văn bản pháp luật về công tác thanh tra, đặc biệt Chỉ thị số 04/CT-VKSTC
ngày 14/8/2013 về tăng cường công tác thanh tra trong Ngành kiểm sát nhân
dân [46]; Chỉ thị 08/CT-VKSTC ngày 28/11/2017 của Viện trưởng VKSND
tối cao về tăng cường công tác thanh tra đột xuất đối với các vụ việc có dấu
101
hiệu vi phạm trong lĩnh vực hình sự, trong đó có nội dung chỉ đạo về công tác
thanh tra, kiểm tra [52]:
“Đổi mới công tác thanh tra theo hướng giảm thanh tra theo kế hoạch,
tăng cường thanh tra đột xuất,chú ý những đơn vị có đơn thư nặc danh phản
ánh cụ thể về nội dung vụ việc, những vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật
nghiêm trọng; kiên quyết xử lý nghiêm trách nhiệm cá nhân, trước hết của
những người đứng đầu cơ quan, đơn vị, lãnh đạo phụ trách không làm hết
trách nhiệm, để xảy ra vi phạm dẫn đến oan, sai ”.
Thanh tra, kiểm tra thông qua các hình thức: kiểm tra việc xây dựng kế
hoạch công tác hàng năm; trực tiếp kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kế hoạch
một năm từ một đến hai lần ở mỗi đơn vị cấp huyện, thành phố; kiểm tra đột
xuất của lãnh đạo cấp trên đối với đơn vị cấp dưới và kiểm tra thường xuyên
các cán bộ, kiểm sát viên thực hiện chức năng nhiệm vụ của lãnh đạo cấp
huyện, thành phố và cấp phòng. Trong những năm qua, tại VKSND tỉnh
Quảng Ngãi đã thực hiện khá tốt công tác thanh tra, kiểm tra. Tuy nhiên, xuất
phát từ yêu cầu nhiệm vụ mới trong giai đoạn hiện nay, công tác thanh tra,
kiểm tra cần thực hiện tốt những yêu cầu sau:
Cần xác định công tác thanh tra, kiểm tra là một trong những biện pháp
quan trọng và cần thiết để nâng cao vai trò, vị trí của ngành; thông qua thanh
tra, kiểm tra, đảm bảo cho đơn vị thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của ngành
kiểm sát nhân dân. Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ, kỷ
luật công vụ và trật tự nội vụ theo Chỉ thị số 05/2014 ngày 31/3/2014 của
Viện trưởng Viện KSND tối cao [47] để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm
minh các sai phạm; đảm bảo thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Khi cử đoàn kiểm tra các đơn vị trong ngành; cần cử những kiểm sát
viên có kinh nghiệm, có nghiệp vụ kiểm sát vững vàng để thông qua kiểm tra
phát hiện được những sai phạm, những thiếu sót cụ thể; để kịp thời tham mưu
102
đề ra những biện pháp khắc phục cụ thể. Những vi phạm cần phải được phát
hiện, xử lý kịp thời, tránh việc xử lý đại khái, dễ dãi bỏ qua để lần sau các sai
phạm này vẫn bị mắc phải. Khi phát hiện những vi phạm, những thiếu sót cần
phải làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm của từng cá nhân cụ thể.
VKSND cấp tỉnh cần có kế hoạch để cho hoạt động kiểm tra được toàn
diện đối với các đơn vị trong toàn ngành; có thể cho tiến hành kiểm tra chéo
giữa các VKS cấp huyện với các phòng nghiệp vụ của VKSND cấp tỉnh.
Thường xuyên thông báo, rút kinh nghiệm trong các khâu công tác
THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp của từng đơn vị trong toàn ngành
kiểm sát Quảng Ngãi; nhằm giúp cho các đơn vị phát huy được những điểm
mạnh, hạn chế được những sai sót mà đơn vị đã mắc phải.
3.2.2.8. Tăng cường cơ sở vật chất và chế độ chính sách hợp lý
Để bảo đảm cho hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong tình
hình mới, ngành kiểm sát tiếp tục tập trung nghiên cứu, xây dựng, thực hiện
các đề án về tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm
việc cho ngành. Đồng thời, đẩy nhanh tiến độ xây dựng và triển khai thực
hiện Đề án phát triển ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao hiệu quả ứng
dụng công nghệ thông tin trong hoạt động nghiệp vụ của ngành, đáp ứng yêu
cầu của nền tư pháp hiện đại.
Viện KSND cấp tỉnh cần trang thiết bị cần thiết như : Phương tiện,
thiết bị kỹ thuật sử dụng để ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh để thực hiện tốt
Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP thực
hiện ghi âm, ghi hình có âm thanh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
Mục tiêu đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào việc đảm bảo
chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử của Viện kiểm
sát, công tác xét xử của Tòa án và nâng cao hiệu quả đào tạo cán bộ, cũng như
giám sát đảm bảo chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, thực sự dân chủ, khách
103
quan theo đúng tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Ngành kiểm sát cần trang bị hệ
thống camera hiện đại để quay các phiên Tòa rút kinh nghiệm. Hình ảnh, âm
thanh có thể được quan sát, nghe bằng máy vi tính để bàn, laptop,
smartphone, Ipad, ti vi…Viện KSND cấp tỉnh chủ trì Hội nghị trực tuyến các
phiên Tòa rút kinh nghiệm, coi đây là biện pháp vừa học tập, vừa rút kinh
nghiệm để nâng cao chất lượng hoạt động của ngành, từ đó xác định các biện
pháp, xây dựng thành chỉ tiêu thi đua trong kế hoạch công tác hàng năm để
triển khai thực hiện ở từng phòng, từng VKS cấp huyện, thành phố.
Một số quy định mới của BLTTHS năm 2015 cần được sớm quan tâm,
bố trí dự toán kinh phí, trang thiết bị để bảo đảm thực hiện: Bổ sung trách
nhiệm của Kiểm sát viên bắt buộc phải có mặt trong 05 hoạt động: đối chất,
nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, khám xét (các Điều
189, 190, 191, 193, 204).
Phần mềm quản lý về việc thụ lý, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo giữa
các cơ quan tư pháp cũng như các cơ quan trên địa bàn tỉnh. Xây dựng phần
mềm cơ sở dữ liệu quản lý, theo dõi việc tiếp công dân và xử lý đơn, thư để
khai thác, tra cứu phục vụ việc tiếp công dân và xử lý đơn. Khi đủ điều kiện
sẽ kết nối mạng thông tin đến hệ thống các cơ quan trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi có liên quan.
VKSND cấp tỉnh cần nghiên cứu, xây dựng phần mềm theo dõi thời
hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; Qua thực tiễn công tác tham mưu,
tổng hợp giúp lãnh đạo VKSND tỉnh theo dõi thời hạn giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, thời hạn điều tra của cơ quan điều tra
cũng như việc đảm bảo thời hạn truy tố của Viện kiểm sát. Đảm bảo việc theo
dõi thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; thời hạn điều tra, đồng
thời tạo điều kiện thuận lợi cho lãnh đạo cơ quan, đơn vị quản lý được sát sao
104
thời hạn điều tra đối với từng tin báo, từng vụ án để có sự chỉ đạo kịp thời
trong thực hiện nhiệm vụ.
Xây Phòng tiếp công dân riêng – gần cổng ra vào (không nằm trong trụ
sở của Viện kiểm sát) cũng như đầu tư trang, thiết bị cần thiết (chẳng hạn bàn
tiếp công dân, tủ sách pháp luật…) cho Phòng Tiếp công dân đảm bảo khang
trang, qui củ hơn, hiện đại hơn phục vụ tốt hơn nữa công tác tiếp công dân
trong thời gian tới.
Bên cạnh việc tạo những điều kiện tốt để làm việc, cần phải xây dựng
chế độ tiền lương, phụ cấp, chính sách đãi ngộ và chế độ khen thưởng cho cán
bộ, KSV tương xứng với trách nhiệm, tính chất hoạt động; bảo đảm cho cán
bộ, KSV yên tâm công tác, có thể đứng vững không bị tác động, mua chuộc.
105
Tiểu kết chương 3
Qua phân tích thực trạng hoạt động THQCT và kiểm sát các hoạt động
tư pháp của VKSND tỉnh Quảng Ngãi qua các năm từ năm 2015 đến năm
2017 và sáu tháng đầu năm 2018 đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy
nhiên, vẫn còn tồn tại những hạn chế, yếu kém trong thực hiện nhiệm vụ.
Luận văn đưa ra quan điểm và các giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm việc
THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS đáp ứng được yêu cầu
công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, đó là: nâng cao ý thức chính
trị, đạo đức của đội ngũ cán bộ, KSV; tăng cường tập huấn, đào tạo và đào tạo
lại chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, KSV; tăng cường và đổi mới
công tác quản lý, chỉ đạo điều hành và công tác thanh tra, kiểm tra của VKS
tỉnh đối với VKS cấp huyện,thành phố và các phòng nghiệp vụ Viện tỉnh;
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, của cấp ủy và sự quan tâm của chính quyền
đối với THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng cường mối quan hệ
phối hợp giữa VKS với các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn trong đấu
tranh phòng chống vi phạm và tội phạm; hoàn thiện cơ chế giám sát của các
cơ quan dân cử và của Nhân dân đối với hoạt động THQCT và kiểm sát các
hoạt động tư pháp của VKS.
Thực hiện tốt các giải pháp THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp
nêu trên của VKSND cấp tỉnh sẽ bảo đảm đạt được hiệu quả hơn nữa, hạn chế
án sai, bỏ lọt tội phạm; công tác đấu tranh chống tội phạm tại địa phương sẽ
tốt hơn, qua đó đóng góp chung vào công cuộc đổi mới trong tiến trình cải
cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
106
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh chung như vậy thì việc đảm bảo thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND là một tất yếu khách quan
bắt nguồn từ đòi hỏi phải tăng cường hiệu lực hoạt động của các cơ quan tư
pháp nói chung và của chính hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp của VKSND nói riêng và cũng chính là bắt nguồn từ
đòi hỏi xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
Từ việc nêu lên những lý luận chung, những ảnh hưởng đến hoạt động
THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp, tác giả đã chỉ ra được những kết
quả của VKSND cấp tỉnh trong THQCT và kiểm sát các hoạt tư pháp trước và
sau khi Bộ luật TTHS năm 2015 có hiệu lực, bên cạnh đó, tác giả đã đi sâu
phân tích những khuyết điểm trong hoạt động THQCT và kiểm sát các hoạt
động tư pháp trong các lĩnh vực của Viện KSND cấp tỉnh, đó là: Vẫn còn bộc
lộ án khởi tố, sau phải đình chỉ vì hành vi không cấu thành tội phạm, còn án
bị cấp trên kháng nghị đề nghị hủy án, sửa, quá trình KSĐT chưa được chặt
chẽ, theo sát tiến độ điều tra nên tình trạng VKS, Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ
sung …Để góp phần khắc phục tình trạng trên và bảo đảm THQCT và kiểm
sát các hoạt động tư pháp của VKSND cấp tỉnh, tác giả đã sử dụng, kết hợp
các phương pháp nghiên cứu khoa học như phân tích, tổng hợp, so sánh,
thống kê…để đánh giá thực trạng của việc THQCT và kiểm sát các hoạt động
tư pháp của Viện KSND cấp tỉnh và những ảnh hưởng của nó, tìm ra những
nguyên nhân của các khuyết điểm, hạn chế như: như hệ thống pháp luật của
chúng ta chưa được hoàn thiện, đầy đủ, thống nhất, chưa có những hướng dẫn
kịp thời, còn nhiều bất cập; chưa phát hiện triệt để; năng lực, trình độ của cán
bộ, KSV còn hạn chế,…...
107
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động bảo đảm THQCT và
kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND cấp tỉnh, tác giả đã đề xuất các
giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả cho việc THQCT và kiểm sát các
hoạt động tư pháp của VKSND cấp tỉnh, đó là:
Giải pháp cần thực hiện : Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định
của pháp luật và đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho cán bộ của
Viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan tư pháp nói riêng, cũng như cho nhân
dân và cán bộ nói chung và giải pháp lâu dài : Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, của cấp ủy; nâng cao ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức, nhận thức
về năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ kiểm sát viên và tinh
thần trách nhiệm, trình độ pháp luật, phẩm chất đạo đức chính trị của các chủ
thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật; tăng cường và đổi mới công tác quản
lý, chỉ đạo điều hành, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; kiện toàn bộ máy
ngành kiểm sát trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự; hoàn thiện cơ chế
giám sát của các cơ quan dân cử và của Nhân dân đối với hoạt động đảm bảo
THQCT; Nâng cao chất lượng THQCT và KSĐT gắn công tố với hoạt động
điều tra; tăng quyền hạn TTHS cho KSV để nâng cao tính độc lập của họ
trong thực thi nhiệm vụ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi,
quyết định tố tụng của mình. Trong đó, giải pháp quan trọng nhất, quyết định
đến chất lượng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND tỉnh
Quảng Ngãi, đó chính là yếu tố con người: Bồi dưỡng, nâng cao trình độ,
năng lực chuyên môn, đạo đức của KSV.
Tóm lại, Luận văn đã phân tích những cơ sở lý luận và thực trạng bảo
đảm THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND cấp tỉnh, qua đó
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác này,
góp phần cho yêu cầu cấp bách trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội
108
phạm hiện nay và trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, nhằm củng cố và xây dựng
niềm tin ngày càng vững chắc của Nhân dân vào Đảng và Nhà nước ta trong
công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
109
1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 của Bộ Chính
trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm2020, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010.
5. Bộ chính trị ( 2014), Chỉ thị 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân giải quyết
khiếu nại, tố cáo, Hà Nội.
6. Bộ chính trị ( 2014), Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ chính trị
về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2/6/2005 của Bộ
chính trị khóa IX về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
7. Bộ chính trị ( 2016), Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/4/2016 của Bộ chính trị
về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
8. Chính phủ (2011), Nghị định số 117/2011/NĐ-CP ngày 15/12/2011 qui định
về tổ chức quản lý phạm nhân về chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế
đối với phạm nhân.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp
hành Trung ương khóa VII, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X , Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đại từ điển Tiếng Việt (1999), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
15. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 6, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 1996.
17. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Quốc hội (1992), Hiến pháp Việt Nam (1980 và 1992), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
19. Quốc hội (1981), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
20. Quốc hội (1992), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
21. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
22. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Quốc hội (2009), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự.
25. Quốc hội (2011), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân
sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Quốc hội ( 2012), Nghị quyết số 37/2012 về phòng chống vi phạm pháp luật
và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và
công tác thi hành án năm 2013.
27. Quốc hội (2013), Hiến pháp Việt Nam (2013), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Quốc hội (2013), Nghị quyết số 63/2013 về tăng cường biện pháp đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
29. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
30. Quốc hội (2014), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật thi hành án
dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Quốc hội (2015), Nghị quyết số 111/2015 về phòng chống vi phạm pháp luật
và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và
công tác thi hành án năm 2016 và các năm tiếp theo.
32. Quốc hội (2015), Nghị quyết số 96/2015 về tăng cường các biện pjhaps
phòng, chống oan, sai và bảo đảm bồi thường cho người thiệt hại trong hoạt
động tố tụng hình sự.
33. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hành chính, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Quốc hội (2015), Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
35. Quốc hội(2015), Bộ luật dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Quốc hội(2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Lê Hữu Thể (Chủ biên) và đồng tác giả (2008), Thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà
Nội.
38. Thông
tư
liên
tịch
số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-
VKSNDTC ngày 02/8/2013 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ tài chính,
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Viện KSND tối cao về Hướng dẫn
thi hành qui định của Bộ luật tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố.
39. Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao quy định việc
phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao trong
việc thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
40. Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao quy định việc
phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao trong
việc thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hành chính.
41. Thông
tư
liên
tịch
số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-
VKSNDTC ngày 29/12/2017 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ tài chính,
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Viện KSND tối cao về qui chế phối
hợp giữa các cơ quan để kiểm sát chặt chẽ việc tiếp nhận, thụ lý, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
42. Tỉnh ủy Quảng Ngãi (2014), Chỉ thị số 37-CT/TU ngày 31/12/2014 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư
pháp và cải cách tư pháp trên địa bàn tỉnh.
43. Tỉnh ủy Quảng Ngãi (2016), Chỉ thị số 11-CT/TU ngày 30/05/2016 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy về triển khai thi hành pháp luật lĩnh vực hình sự do Quốc
hội Khóa XIII ban hành.
44. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tạp chí Kiểm sát (2013), số 19 tháng 10/2013,
Hà Nội.
45. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 về tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra
đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.
46. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao số 04/CT-VKSTC ngày 14/8/2013 về tăng cường công tác
thanh tra trong ngành kiểm sát nhân dân.
47. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2014), Chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao số 05/CT-VKSTC ngày 31/3/2014 về tăng cường kỷ cương,
kỷ luật công vụ và trật tự nội vụ trong ngành kiểm sát nhân dân.
48. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao số 04/CT-VKSTC ngày 10/7/2015 về tăng cường biện pháp
phòng chống oan, sai và nâng cao trách nhiệm trong giải quyết bồi thường
thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự.
49. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao số 08/CT-VKSTC ngày 06/4/2016 tiếp tục tăng cường công
tác kháng nghị án hình sự.
50. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Quyết định của Viện kiểm sát nhân dân
tối cao số 51/QĐ-VKSTC-V12 ngày 02/02/2016 ban hành qui chế tiếp công
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong hoạt động tư pháp.
51. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao số 09/CT-VKSTC ngày 06/04/2016 về tăng cường các biện
pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa.
52. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao số 08/CT-VKSTC ngày 28/11/2017 về tăng cường thanh tra
đột xuất đối với các vụ, việc có dấu hiệu vi phạm trong lĩnh vực hình sự.
53. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao số 07/CT-VKSTC ngày 23/11/2017 nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính.
54. Viện kiểm sát nhân dân tối cao ( 2017), Chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối
cao số 04/CT-VKSTC ngày 28/7/2017 về tăng cường công tác tiếp công dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
hoạt động tư pháp.
55. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2017), Báo cáo chất lượng cán bộ,
công chức theo chức danh đến 30/11/2017.
56. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2017), Các báo cáo tổng kết công
tác kiểm sát các năm từ 2013 đến 2017.
57. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2018), Báo cáo công tác kiểm sát 6
tháng đầu năm 2018.
58. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi ( 2017), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh năm 2017.
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THỐNG KÊ SỐ TIẾP NHẬN VÀ GIẢI QUYẾT TỐ
GIÁC,TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ
TỈNH QUẢNG NGÃI
KHỞI TỐ (Từ năm 2015 đến 2017 và 6 tháng đầu năm 2018)
Năm
Ban hành kiến nghị
Tỷ lệ giải quyết
Tổng số thụ lý kiểm sát tố giác của CQĐT
Tổng số kiểm sát giải quyết
2015 2016 2017 Cộng
23 37 17 77 15 92
23 35 17 75 08 83
100% 94,6% 100%
02 04 02 08 02 10
6 tháng đầu năm 2018 Tổng cộng
Phụ lục số 01
Nguồn [ 56 ], [ 57 ]
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THỐNG KÊ CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN
TỈNH QUẢNG NGÃI
CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
(Từ năm 2015 đến 2017 và 6 tháng đầu năm 2018)
Án cũ mang sang : 12 vụ - 20 bị can
Số đình chỉ
Tổng số án KSĐT
Số tạm đình chỉ
Số kết thúc điều tra đề nghị truy tố
Năm
Tỷ lệ giải quyết
Kiến nghị
Vụ
Bị can
Bị can
Vụ
Vụ
Vụ
20 18 18 23
Bị can 40 27 17 28
03 02
Bị can 03 01 01
01 02 01 01
01 0 01
19 21 14 04
43 34 14 04
01 01 02
106
177
03
04
04
01
05
2015 2016 2017 Cộng 6 tháng đầu năm 2018 Tổng cộng
Phụ lục số 02
Nguồn [ 56 ], [ 57 ]
TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
(Từ năm 2015 đến 2017 và 6 tháng đầu năm 2018)
Số đình chỉ
Số tạm đình chỉ
Số trả điều tra bổ sung
Tổng số Viện kiểm sát thụ lý
Năm
Số án Viện kiểm sát truy tố chuyển Tòa
Tỷ lệ giải quyết
Vụ
Vụ
Vụ
Vụ Bị can
Vụ
2015 2016 2017 Cộng 6 tháng đầu năm 2018 Tổng cộng
19 21 14 54 04 58
Bị can 43 34 14 91 04 95
01 01 01 03 01 04
Bị can 01 01 01 03 01 04
Bị can
18 20 13 51 01 52
42 33 13 88 01 89
100% 100% 100%
Bị can
Phụ lục số 03 VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THỐNG KÊ CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN TỈNH QUẢNG NGÃI CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
Nguồn [ 56 ], [ 57 ]
VỤ ÁN HÌNH SỰ
Số vụ án Tòa án xét xử
Số vụ án đình chỉ
Số vụ án tạm đình chỉ
Năm
Kháng nghị
Kiến nghị
Vụ
Vụ
Vụ
Vụ
Bị cáo
Bị cáo
Bị cáo
Bị cáo
Số vụ án Tòa trả để điều tra bổ sung
Trong đó TA tuyên không phạm tội
18 20 13 51
42 33 13 88
15 14 22 51
33 25 28 86
02 01 03
04 01 02 07
04 04 02 10
01
01
06
11
01
02
02
2015 2016 2017 Cộng 6 tháng đầu năm 2018
Phụ lục số 04 VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THỐNG KÊ CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN TỈNH QUẢNG NGÃI CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC (Từ năm 2015 đến năm 2017 và 6 tháng đầu năm 2018) Án cũ mang sang : 06 vụ - 09 bị can Tổng số vụ án tòa thụ lý
Tổng cộng 57 97 04 09 12
52 89 Nguồn [ 56 ], [ 57 ]
Tổng số thụ lý
Số đã xét xử
Năm
Vụ
Bị cáo
Số vụ, bị cáo đình chỉ
Trong đó VKS rút kháng nghị
Trong đó VKS kháng nghị
Trong đó VKS kháng nghị
Số vụ đã xét xử
Số bị cáo đã xét xử
Số bị cáo y án
Số bị cáo sửa án
Số bị cáo Tòa tuyên không phạm tội
05 03 01 09
15 07 03 25
230 160 115 505
158 108 90 356
160 113 90 363
235 164 114 513
134 84 53 271
18 15 14 47
Số vụ hủy án sơ thẩm Để Để xét điều xử tra lại lại
01 01 02
01 01 02
37
01
71
02
40
61
16
10
393
576
27
02
403
574
287
57
01
2015 2016 2017 Cộng 6 tháng đầu năm 2018 Tổng cộng
10 Nguồn [ 56 ], [ 57 ]
Phụ lục số 04a VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THỐNG KÊ CÔNG TÁC THỰC HÀNH TỈNH QUẢNG NGÃI QUYỀN CÔNG TỐ KIỂM SÁT XÉT XỬ PHÚC THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ (Từ năm 2015 đến năm 2017 và 6 tháng đầu năm 2018) Án cũ mang sang: 14 vụ - 19 bị cáo
VIỆC TẠM GIỮ, TẠM GIAM
(Từ năm 2015 đến năm 2017 và 6 tháng đầu năm 2018)
Kiểm sát tạm giữ
Kiểm sát tạm giam
Năm
Tổng số
Tỷ lệ
Tổng số
Kiến nghị
Kháng nghị
Đã giải quyết
Đã giải quyết
35 20 44 99 19 118
100% 100% 100% 100%
503 252 179 934 170 1.104
435 220 249 904 129 1.033
01 01 02 01 03
35 2015 20 2016 44 2017 99 Cộng 19 6 tháng đầu năm 2018 Tổng cộng 118 Nguồn [ 56 ], [ 57 ]
THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ (Từ năm 2015 đến năm 2017 và 6 tháng đầu năm 2018)
Phụ lục số 05 VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THỐNG KÊ CÔNG TÁC KIỂM SÁT TỈNH QUẢNG NGÃI
Tham gia xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù
Kiểm sát phạt tù có thời hạn
Năm
Kiến nghị
Kháng nghị
Tổng số
Đã thi hành
Tổng số
Chấp nhận
Không chấp nhận
2015 2016 2017 Cộng 6 tháng đầu năm 2018 Tổng cộng
69 40 30 139 10 149
48 32 44 124 07 131
66 41 32 139 139
65 41 31 137 137
01 01 02 02
04 04 04 12 02 14
01 05 06 06
Phụ lục số 05a VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THỐNG KÊ CÔNG TÁC KIỂM SÁT TỈNH QUẢNG NGÃI
Nguồn [ 56 ], [ 57 ]
Tòa đã giải quyết
Kháng nghị
Năm
Kiến nghị
Tổng số kiểm sát thụ lý
Vụ, việc
Tổng số
Chấp nhận
2015 2016 2017 Cộng 6 tháng đầu năm 2018 Tổng cộng
08 35 98 141 56 197
KSV tham gia phiên Tòa 04 15 23 42 10 52
01 02 01 04 03 07
06 31 64 101 17 118
03 07 04 14 02 16
02 05 02 09 01 10
Không chấp nhận 01 01 01
Rút kháng nghị 01 01 02 04 01 05
Phụ lục số 06 VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THỐNG KÊ CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TỈNH QUẢNG NGÃI ÁN SƠ THẨM CÁC VỤ, VIỆC DÂN SỰ, HÔN NHÂN (Từ năm 2015 đến năm 2017 và 6 tháng đầu năm 2018)
Nguồn [ 56 ], [ 57 ]
Kháng nghị
Tòa đã giải quyết
Năm
Kiến nghị
Tổng số
Chấp nhận
Không chấp nhận
Rút kháng nghị
Vụ, việc
Tổng số kiểm sát thụ lý
2015 2016 2017 Cộng 6 tháng đầu năm 2018 Tổng cộng
95 117 96 308 46 354
82 122 91 295 62 357
KSV tham gia phiên Tòa 76 112 89 277 60 337
02 02 04 04
13 08 08 29 02 31
11 07 06 24 01 25
01 01 02 02
01 01 01 03 01 04
Phụ lục số 06a VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THỐNG KÊ CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TỈNH QUẢNG NGÃI ÁN PHÚC THẨM CÁC VỤ, VIỆC DÂN SỰ, HÔN NHÂN (Từ năm 2015 đến năm 2017 và 6 tháng đầu năm 2018) Án cũ mang sang : 27 vụ, việc
Nguồn [ 56 ], [ 57 ]
ÁN SƠ THẨM HÀNH CHÍNH, VỤ VIỆC
KINH DOANH THƯƠNG MẠI, LAO ĐỘNG
(Từ năm 2015 đến năm 2017 và 6 tháng đầu năm 2018)
Tòa đã giải quyết
Kháng nghị
Năm
Kiến nghị
Tổng số kiểm sát thụ lý
Vụ, việc
Tổng số
Chấp nhận
2015 2016 2017 Cộng 6 tháng đầu năm 2018 Tổng cộng
13 47 64 124 26 150
KSV tham gia phiên Tòa 07 14 59 80 11 91
02 03 04 09 01 10
08 19 76 103 17 120
04 03 01 08 02 10
02 02 01 05 02 07
Không chấp nhận 01 01 01
Rút kháng nghị 01 01 02 02
Phụ lục số 07 VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THỐNG KÊ CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TỈNH QUẢNG NGÃI Án cũ mang sang : 04 vụ, việc
(Từ năm 2015 đến năm 2017 và 6 tháng đầu năm 2018)
Nguồn [ 56 ], [ 57 ]
Kháng nghị
Tòa đã giải quyết
Năm
Kiến nghị
Tổng số
Chấp nhận
Không chấp nhận
Rút kháng nghị
Vụ, việc
Tổng số kiểm sát thụ lý
2015 2016 2017 Cộng 6 tháng đầu năm 2018 Tổng cộng
20 19 16 55 03 58
16 24 17 57 05 62
KSV tham gia phiên Tòa 15 22 12 49 05 54
02 03 04 09 09
01 03 04 01 05
01 02 03 03
01 01 01
01 01
Phụ lục số 07a VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THỐNG KÊ CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TỈNH QUẢNG NGÃI ÁN PHÚC THẨM HÀNH CHÍNH, VỤ VIỆC KINH DOANH THƯƠNG MẠI, LAO ĐỘNG Án cũ mang sang : 06 vụ, việc
Nguồn [ 56 ], [ 57 ]
(Từ năm 2015 đến năm 2017 và 6 tháng đầu năm 2018)
Năm
Kiến nghị
Kháng nghị
2015 2016 2017 Cộng 6 tháng đầu năm 2018 Tổng cộng
Tổng số việc kiểm sát thi hành án 200 185 317 702 86 788
Tổng số tiền phải thi hành ( ngàn đồng) 83.391.728 19.056.674 103.935.178 206.383.580 15.036.477 221.420.057
Số việc đã giải quyết thi hành án 164 193 186 543 158 701
Số tiền đã giải quyết thi hành án ( ngàn đồng) 107.641.928 20.275.586 20.687.342 148.604.856 37.802.814 186.407.670
03 02 01 06 01 07
01 01 01
Phụ lục số 08 VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THỐNG KÊ CÔNG TÁC KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH QUẢNG NGÃI
Nguồn [ 56 ], [ 57 ]
TỐ CÁO VÀ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU
(Từ năm 2015 đến năm 2017 và 6 tháng đầu năm 2018)
Công tác tiếp công dân
Công tác tiếp nhận, phân loại xử lý đơn khiếu nại, tố cao
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền
Năm
Tổng số
Tổng số
Tổng số
Đã giải quyết
Lãnh đạo trực tiếp tiếp công dân
Không thuộc thẩm quyền giải quyết
Thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát
364 250 350 964 158 1.122
13 13 13 39 13 42
349 232 336 917 152 1.069
15 18 14 47 06 53
15 18 14 47 06 53
15 18 14 47 06 53
2015 2016 2017 Cộng 6 tháng đầu năm 2018 Tổng cộng
125 129 164 418 49 467
Phụ lục số 09 VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THỐNG KÊ CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỈNH QUẢNG NGÃI NẠI, TỐ CÁO TẠI CƠ QUAN TƯ PHÁP
Nguồn [ 56 ], [ 57 ]