BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
---------***---------
LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật kinh tế
ĐOÀN THỊ TUYẾT
Hà Nội, năm 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
---------***---------
LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 80380107
Họ và tên học viên: Đoàn Thị Tuyết
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Thị Mơ
Hà Nội, năm 2020
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Pháp luật về BHTN và thực tiễn thực hiện tại tỉnh
Quảng Ninh” là đề tài nghiên cứu độc lập của riêng tôi, được đưa ra dựa trên cơ sở
tìm hiểu, phân tích và đánh giá các số liệu tại tỉnh Quảng Ninh. Các số liệu là trung
thực và chưa được công bố tại các công trình nghiên cứu có nội dung tương đồng nào
khác.
Quảng Ninh, ngày 10 tháng 01 năm 2020
Tác giả
Đoàn Thị Tuyết
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện luận văn này, tôi đã nhận được sự
giúp đỡ nhiệt tình từ các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Nhân đây, tôi xin gửi lời cảm ơn
sâu sắc lòng biết ơn chân thành đến các tập thể, cá nhân đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Trước hết tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Ngoại
thương, Khoa Sau đại học của trường cùng tập thể các thầy cô giáo, những người đã
trang bị kiến thức cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Với lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất, tôi xin trân trọng cảm ơn GS.TS
Nguyễn Thị Mơ, người đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và
hoàn thiện đề tài.
Do thời gian nghiên cứu và kiến thức còn hạn chế, luận văn được hoàn thiện
không thể tránh khỏi những sơ suất thiếu sót, tác giả rất mong nhận được những ý
kiến của các thầy cô giáo cùng các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
Quảng Ninh, ngày 10 tháng 01 năm 2020
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Đoàn Thị Tuyết
iii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................................ iii
DANH MỤC KÝ HIỆU, VIẾT TẮT ..................................................................... vi
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ ............................................................................ vii
TÓM TẮT LUẬN VĂN ........................................................................................ viii
1.1 Tên luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực hiện tại
tỉnh Quảng Ninh. ................................................................................................... viii
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP ............................................. 7
1.1. Một số vấn đề lý luận về BHTN ...................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm về thất nghiệp .......................................................................... 7
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm thất nghiệp ................................... 8
1.2. Một số vấn đề về pháp luật bảo hiểm thất nghiệp ........................................ 11
1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với vấn đề bảo hiểm thất
nghiệp ................................................................................................................. 11
1.2.2. Các nội dung cơ bản của pháp luật bảo hiểm thất nghiệp .................... 13
1.2.3. Những yếu tố tác động đến pháp luật bảo hiểm thất nghiệp: ............... 20
Kết luận chương 1 ................................................................................................... 24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
QUẢNG NINH ........................................................................................................ 26
iv
2.1. Một số nét về sự hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về bảo
hiểm thất nghiệp ...................................................................................................... 26
2.1.1. Thời kỳ phát triển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung (1975–1985) ... 26
2.1.2. Thời kì chuyền sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa (thời kì 1986 trở lại đây) ......................................................................... 27
2.2. Thực trạng pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ............................................ 29
2.2.1. Quy định về đối tượng tham gia BHTN. ................................................ 29
2.2.2. Thời gian nộp hồ sơ tham gia bảo hiểm thất nghiệp ............................. 33
2.2.3. Nguồn hình thành Quỹ bảo hiểm thất nghiệp ....................................... 33
2.2.4. Quy định về giải quyết hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp ................. 33
2.3. Tình hình thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh ........................................................................................................... 41
2.3.1. Công tác thu bảo hiểm thất nghiệp ......................................................... 41
2.3.2. Công tác chi, giải quyết các chế độ chính sách bảo hiểm thất nghiệp . 43
2.4. Đánh giá về thực trạng thực hiện pháp luật về BHTN ở tỉnh Quảng Ninh
trong thời gian qua ............................................................................................... 48
2.4.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện bảo hiểm thất nghiệp ... 48
2.4.2. Đánh giá chung ....................................................................................... 52
Kết luận chương 2 ................................................................................................... 60
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ KIẾN NGHỊ TĂNG CƯỜNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM
THẤT NGHIỆP TẠI TỈNH QUẢNG NINH TRONG THỜI GIAN TỚI ......... 62
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về BHTN tại tỉnh Quảng Ninh trong
thời gian tới. .......................................................................................................... 62
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ................ 65
v
3.2.1.Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp: ........... 65
3.2.2. Nhóm giải pháp tăng cường thực thi pháp luật về BHTN .................... 66
3.3. Một số kiến nghị tăng cường pháp luật về BHTN ở tỉnh Quảng Ninh ...... 68
3.3.1. Kiến nghị đối với bảo Biểm xã hội tỉnh Quảng Ninh ............................ 68
3.3.2. Đối với tỉnh Quảng Ninh ........................................................................ 71
3.3.3. Các kiến nghị khác .................................................................................. 73
Kết luận chương 3 ................................................................................................... 77
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 80
vi
DANH MỤC KÝ HIỆU, VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Tiếng Việt
ASXH An sinh xã hội
BH TNLĐ, BNN Bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Bảo hiểm thất nghiêp BHTN
Bảo hiểm xã hội BHXH
Bảo hiểm y tế BHYT
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cơ sở hạ tầng CSHT
Doanh nghiệp DN
Doanh nghiệp nhà nước DNNN
Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN
Doanh nghiệp xã hội DNXH
Thu nhập quốc dân GDP
HNKTQT Hội nhập kinh tế quốc tế
ILO Tổ chức lao động quốc tế
LĐ – TB & XH Lao động – Thương binh và Xã hội
Người sử dụng lao động NSDLĐ
Người lao động NLĐ
Trách nhiệm xã hội TNXH
Trợ cấp thất nghiệp TCTN
Thủ tục hành chính TTHC
Xã hội chủ nghĩa XHCN
Tổ chức thương mại thế giới WTO
Ủy ban nhân dân UBND
vii
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Trang
Bảng 2.1: Công tác thu BHTN tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2014-2018 ............... 41
Biều đồ 2.1: Biểu đồ về công tác thu BHTN tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2014-2018
................................................................................................................................... 42
Bảng 2.2: Thực trạng chi, giải quyết các chế độ chính sách BHTN tại tỉnh Quảng
Ninh giai đoạn 2016-2018 ......................................................................................... 44
Biểu đồ 2.2. Đồ thị hóa chi, giải quyết các chế độ chính sách BHTN tại tỉnh Quảng
Ninh giai đoạn 2014-2018 (nhận trợ cấp thất nghiệp hàng tháng) ........................... 45
viii
TÓM TẮT LUẬN VĂN
1. Các thông tin chung
1.1 Tên luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực
hiện tại tỉnh Quảng Ninh.
1.2 Tác giả: Đoàn Thị Tuyết
1.3 Ngành: Luật kinh tế
1.4 Bảo vệ năm: 2020
1.5 Giáo viên hướng dẫn: GS. TS. Nguyễn Thị Mơ
2. Những đóng góp của luận văn:
Với tên gọi “Pháp luật về Bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực hiện tại tỉnh
Quảng Ninh”, kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn,
tạo một cái nhìn cụ thể hơn về BHTN và pháp luật về BHTN cũng như thực tiễn áp
dụng BHTN tại tỉnh Quảng Ninh. Cụ thể:
2.1 Kết quả đạt được của Luận văn:
Về lý luận: thông qua quá trình nghiên cứu và những kết quả đã đạt được thì
luận văn có ý nghĩa trong việc làm sáng tỏ cả về phương diện lý luận và thực tiễn, hệ
thống hóa những vấn đề lý luận liên quan và pháp luật về BHTN, chỉ ra những khó
khăn và nguyên nhân của những yếu kém trong việc áp dụng pháp luật về BHTN tại
tỉnh Quảng Ninh.
Về thực tiễn: Điểm mới của Luận văn này trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo
các công trình khoa học, bài viết nghiên cứu có liên quan thì Luận văn đã phân tích
thực trạng pháp luật về BHTN, từ đó rút ra kết luận về sự phù hợp của các quy định
pháp luật về BHTN theo pháp luật hiện hành được đối chiếu thực tiễn tại tỉnh Quảng
Ninh hiện tại cũng như tương lai. Điểm mới của Luận văn còn thể hiện ở việc phân
tích thực trạng pháp luật và chỉ ra những bất cập của pháp luật, nguyên nhân trong quá
trình thực thi tại tỉnh Quảng Ninh, từ đó, đề xuất các kiến nghị về tăng cường áp dụng
pháp luật về BHTN trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới. Ngoài ra, qua
nghiên cứu Pháp luật về BHTN và thực trạng thực hiện pháp luật về BHTN ở tỉnh
ix
Quảng Ninh để thấy những kết quả đã đạt được cũng như những mặt còn hạn chế. Từ
đó đề ra giải pháp để pháp luật BHTN được hoàn thiện hơn. Để đạt kết quả trên đây,
bố cục của Luận văn thiết kế thành 03 chương, trong đó: Chương 1 trình bày những
vấn đề lý luận về BHTN và pháp luật về BHTN; Chương 2 phân tích thực trạng pháp
luật và thực tiễn thực hiện bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh gồm 03
nội dung là: đối tượng tham gia BHTN, Quỹ BHTN và chế độ BHTN. Chương 2 cũng
phân tích thực tiễn áp dụng BHTN tại tỉnh Quảng Ninh. Chương 3 trình bày các giải
pháp hoàn thiện pháp luật và đề xuất các kiến nghị tăng cường áp dụng pháp luật về
BHTN tại tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới.
2.2. Khả năng ứng dụng thực tiễn của đề tài:
Luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá
nhân trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo
hiểm thất nghiệp. Một số giải pháp và kiến nghị trong luận văn có giá trị tham khảo
đối với các cơ quan lập pháp khi sửa đổi các quy định của pháp luật về bảo hiểm thất
nghiệp. Kết quả nghiên cứu đề tài là tài liệu có giá trị tham khảo khi học tập, nghiên
cứu, nhất là khi thực hiện các Luận văn cao học có liên quan đến BHTN và pháp luật
BHTN. Ngoài ra, đề tài còn có ý nghĩa thiết thực đối với một số đối tượng khác quan
tâm đến lĩnh vực này ở nước ta hiện nay.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm trở lại đây cùng với sự phát triển của quá trình CNH, HĐH đất
nước nền kinh tế nước ta đã dần chuyển sang nền kinh tế tế thị trường hội nhập với
các nền kinh tế trong khu vực và thế giới. Để có sự phát triển không ngừng như hiện
nay thì nền kinh tế thị trường ở nước ta cần được xây dựng trên một nền tảng cơ sở vật
chất nhất định. Trong đó, các DN nói chung đã tham gia vào hoạt động xây dựng và
phát triển nền kinh tế các quốc gia nói chung. Để có thể tồn tại thì DN cần tận dụng
những yếu tố có lợi nhằm phục vụ cho quá trình xây dựng và phát triển của mình,
thông qua đó tạo nên một hệ thống kinh tế vững chắc cho mỗi một quốc gia. Tuy
nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường và HNKTQT, biến động cung – cầu lao động
trên thị trường lao động thường xuyên xảy ra, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm
của lao động ngày càng gia tăng. Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã hội mà
hầu hết các nước trên thế giới phải đương đầu. Có thể xem thất nghiệp là một hiện
tượng khách quan và nó được biểu hiện như một đặc trưng vốn có của kinh tế thị
trường. Tác động của thất nghiệp đến sự phát triển, ổn định kinh tế, chính trị và xã hội
của mỗi quốc gia là rất lớn, nó đẩy NLĐ bị thất nghiệp vào tình cảnh túng quẫn, lãng
phí nguồn lực xã hội, là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho nền kinh tế bị
đình trệ. Những biến động của nền kinh tế thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa đang
ngày càng có những tác động rõ rệt đến tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam, trong đó
có sự gia tăng số lượng NLĐ mất việc làm. Nước ta, tuy mới bước vào nền kinh tế thị
trường nhưng thất nghiệp đã, đang và sẽ là vấn đề cấp thiết mà Đảng, Nhà nước và
toàn xã hội phải tập trung giải quyết.
Trong giai đoạn hiện nay, quan điểm, chính sách của Đảng về chính sách xã
hội, đặc biệt là ASXH được nâng lên tầm cao mới, thể hiện toàn diện hơn trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020: “Phát triển hệ thống ASXH đa
dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm như
BHXH, BHTN, BH TNLĐ, BNN. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để NLĐ
tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm.” Là một trong những chính sách về
2
ASXH, quyền được BHTN đã được quan tâm, song thực tế cho thấy còn nhiều khó
khăn trong quá trình thực hiện như:
Đối tượng tham gia BHTN còn hạn chế dẫn tới một bộ phận không nhỏ NLĐ
chưa được bảo đảm quyền lợi khi họ bị mất việc làm; tình trạng NSDLĐ nợ đóng
BHTN; sự lợi dụng của NLĐ đối với việc chi trả BHTN. Hiện nay, hệ thống các văn
bản pháp luật liên quan đến việc thực hiện thu, nộp, đóng bảo hiểm thất nghiệp cho
người lao động và người sử dụng lao đông, chế độ BHTN cho người lao động đã
tương đối hoàn chỉnh. Nhà nước đã ban hành Luật việc làm số 38 năm 2013 có hiệu
lực từ ngày 01/01/2015; Luật Bảo hiểm xã hội số 58 năm 2014 có hiệu lực từ ngày
01/01/2016 và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành để thiết lập hành lang pháp
lý cho người lao động và người sử dụng lao động thực hiện vấn đề về bảo hiểm thất
nghiệp. Tuy nhiên, pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế, vướng
mắc, nhiều quy định chưa được hướng dẫn cụ thể, nhiều vấn đề chưa được điều chỉnh
một cách thấu đáo. Chính vì vậy, nó là rào cản cho việc áp dụng pháp luật về bảo hiểm
thất nghiệp. Việc áp dụng không thống nhất các quy định pháp luật vẫn còn xảy ra
trên thực tế. Điều này đòi hỏi phải cụ thể hóa các quy định liên quan đến vấn đề bảo
hiểm thất nghiệp. Để góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật trên thực tế, học viên đã quyết định lựa chọn đề tài
“Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp, thực tiễn thực hiện tại tỉnh Quảng Ninh” làm đề
tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của mình. Từ những phân tích ở trên cho thấy, việc
nghiên cứu đề tài này sẽ có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc quan tâm nghiên cứu vấn đề về BHTN ở Việt Nam và nước ngoài để tạo
điều kiện hoàn thiện đề tài luận văn được tác giả đề cập thông qua việc tham khảo một
số đề tài nghiên cứu, cụ thể là:
- Về sách, giáo trình: Giáo trình luật ASXH Việt Nam của trường Đại học Luật
năm 2013; Giáo trình bảo hiểm của trường Đại học kinh tế quốc giân Hà Nội; Giáo
trình BHXH của trường Đại học Lao Động xã hội (2011); Sách tham khảo “Pháp luật
ASXH – những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giải Nguyễn Hiền Phương...
3
- Về công trình nghiên cứu
Đề tài “Bảo hiểm thất nghiệm trong Luật việc làm từ thực tiễn tỉnh Quảng
Ninh”, Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Nguyễn Anh Minh
Luận văn thạc sĩ luật học “BHTN trong luật BHXH ở Việt Nam – Thực trạng
và giải pháp” (2014) của Ngô Thu Phương, Luận văn thạc sỹ kinh tế, khoa luật Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Luận án tiến sĩ luật học “Chế độ BHTN trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam” (2005) của nghiên cứu sinh: Lê Thị Hoài Thu, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội.
Luận văn thạc sỹ “Hỗ trợ giải quyết việc làm cho lao động hưởng BHTN trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh” của Nguyễn Thị Hồng (2015) Trường đại học Lao động –
xã Hội.
Phạm Thái Hà (2018) “Kinh nghiệm quốc tế về triển khai BHTN và những gợi
ý cho Việt Nam”:
http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/kinh-nghiem-quoc-te-ve-trien-k
hai-bao-hiem-that-nghiep-va-nhung-goi-y-cho-viet-nam-137760.html
Nghiên cứu của Nguyễn Huy Ban: “Nghiên cứu những nội dung cơ bản của
BHTN hiện đại. Vấn đề lựa chọn hình thức trợ cấp (TCTN) ở Việt Nam” (2015) tạp
chí Bảo hiểm xã hội, số 7/2015
Lê Minh Lý (2013):“Thực trạng, giải pháp phòng chống lạm dụng quỹ BHTN
trên địa bàn tỉnh Bình Dương” của tác giải Lê Minh Lý.”, Tạp chí BHXH
http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/tin-tuc/nghiem-thu-de-tai-thuc-trang-giai-phap-ph
ong-chong-lam-dung-quy-bhtn-9888
Nguyễn Mai Phương (2014) Chế độ bảo hiểm ở Trung Quốc từ năm 1992 đến
nay, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội.
- Một số bài viết khác:
Bùi Ngọc Thanh (2013) “Một số giải pháp góp phần hoàn thiện chế độ
4
BHTN” ,Cổng thông tin điện tử Bộ Lao động TB-XH
- Đề tài nghiên cứu cấp Bộ về “Đánh giá và hoàn thiện cơ chế chính sách
BHTN nhằm tăng cường tính bền vững” do Lê Quang Trung làm Chủ
- PGS.TS Nguyễn Văn Kỷ đã có bài viết “Luật BHXH và vấn đề BHTN”,
- “Những vấn đề lý luận và thực tiễn để xây dựng chính sách BHTN” (năm
1999); “Tổ chức BHTN ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường” của TS.
Nguyễn Văn Định và các cộng sự của bộ môn Kinh tế bảo hiểm – Trường Đại học
Kinh tế quốc dân năm 2000.
Những công trình nghiên cứu trên đã nêu và chỉ rõ những dung cơ bản của
BHTN theo quy định của pháp luật trong giai đoạn trước và có một số đề tài đã phân
tích quá trình áp dụng tại tỉnh Quảng Ninh. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nêu
trên được thực hiện khi Luật BHTN chưa ra đời nên những phân tích về thực trạng
pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về BHTN tại tỉnh Quảng Ninh cũng chưa đề
cập. Do đó, có thể khẳng định luận văn này là Luận văn thạc sỹ, chuyên nghành Luật
kinh tế đầu tiên nghiên cứu về vấn đề pháp luật BHTN áp dụng tại tỉnh Quảng Ninh từ
khi có luật BHTN mới được ban hành.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề liên quan đến BHTN, và pháp
luật về BHTN. Đối tượng nghiên cứu của đề tài còn bao gồm các quy định có liên
quan của một số nước, của Việt Nam và của tỉnh Quảng Ninh và thực tiễn áp dụng
pháp luật về BHTN trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu các quy định pháp luật về BHTN theo pháp luật
Việt Nam.
- Phạm vi không gian: nghiên cứu pháp luật về BHTN và thực tiễn thực hiện
tại tỉnh Quảng Ninh.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu trong thời gian trong 10 năm, từ khi có Luật
5
BHTN có hiệu lực thi hành (2009 - 2019)
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, người viết đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê,
phương pháp hệ thống hóa và phương pháp so sánh luật học. Các phương pháp này
được sử dụng cụ thể như sau:
Tại chương 1: Phương pháp hệ thống hóa và phương pháp phân tích được sử
dụng để làm rõ những vấn đề lý luận như: Khái niệm, đặc điểm của BHTN; Khái
niệm, đặc điểm và nội dung của pháp luật về BHTN cũng như vai trò của BHTN đối
với nền kinh tế - xã hội Việt Nam.
Trong chương 2: Phương pháp phân tích, tổng hợp và phương pháp so sánh
luật học để phân tích có so sánh các quy định pháp luật Việt Nam về BHTN qua các
giai đoạn pháp triển nhằm chỉ ra những bất cập của pháp luật.
Chương 3 sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp phân tích để luận giải
các giải pháp và kiến nghị hoàn thiên luận văn.
5. Mục đích, mục tiêu nghiên cứu
5.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu để làm rõ một số vấn đề lý luận liên quan đến pháp luật
về BHTN và phân tích thực trạng áp dụng pháp luật về BHTN, cùng thực tiễn thi hành
pháp luật về BHTN trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Luận văn đề xuất giải pháp hoàn
thiện pháp luật về BHTN để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về BHTN tại tỉnh
Quảng Ninh trong thời gian tới.
5.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm rõ pháp luật về BHTN ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng của hệ thống các văn bản pháp luật về BHTN hiện hành.
- Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về BHTN tại tỉnh Quảng Ninh.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống các văn bản
6
pháp luật về BHTN hiện nay và kiến nghị tăng cường áp dụng pháp luật về BHTN tại
tỉnh Quảng Ninh thời gian tới.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn
được chia thành 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm thất nghiệp và pháp luật về bảo
hiểm thất nghiệp.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo hiểm
thất nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và kiến nghị tăng
cường áp dụng pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại tỉnh Quảng Ninh trong thời gian
tới.
7
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
1.1. Một số vấn đề lý luận về BHTN
1.1.1. Khái niệm về thất nghiệp
Vấn đề về thất nghiệp không còn là điều mới mẻ trong nền kinh tế hiện nay.
Nó đã được nhiều tổ chức, nhiều nhà khoa học bàn luận song cũng còn nhiều ý kiến
khác nhau về thất nghiệp.
Theo ILO: “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại một số người trong lực lượng lao
động muốn làm việc những không thể tìm được việc làm ở mức tiền lương thịnh
hành”.1
Hội nghị Thống kê Lao động Quốc tế lần thứ tám năm 1954 tại Giơnevơ đưa ra
định nghĩa: “Thất nghiệp là người đã qua một độ tuổi xác định mà trong một ngành
hoặc một tuần xác định, thuộc những loại sau đây:
- NLĐ có thể đi làm nhưng hết hạn hợp đồng hoặc bị tạm ngừng hợp đồng,
đang không có việc làm và đang tìm việc làm;
- NLĐ có thể đi làm trong một thời gian xác định và đang tìm việc làm có
lương mà trước đó chưa hề có việc làm, hoặc vị trí hành nghề cuối cùng trước đó
không phải là người làm công ăn lương (ví dụ như NSDLĐ chẳng hạn) hoặc đã thôi
việc;
- NLĐ không có việc làm, có thể đi làm ngay và đã có sự chuẩn bị cuối cùng để
làm một công việc mới vào một ngày nhất định sau một thời kì xác định;
- Người phải nghỉ việc tạm thời hoặc không thời hạn mà không có lương”2.
Ở Việt Nam, Ở Việt Nam, thuật ngữ “thất nghiệp” đã được đề cập trong những
văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước trong suốt mấy kỳ đại hội gần đây, thể
1 Ghi trong Điều 20, Công ước số 102 (năm 1952) của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về các quy phạm an toàn xã hội. 2 Hội nghị Thống kê Lao động Quốc tế lần thứ tám năm 1954 tại Giơnevơ
hiện như một cảnh báo xã hội trong các Chiến lược phát triển KT - XH các giai đoạn
8
2001- 2010 và 2010 - 2020. Năm 2006, khái niệm “người thất nghiệp” ở Việt Nam đã
được luật hóa và trở thành một thuật ngữ pháp lý tại Khoản 4, Điều 3 của Luật BHXH
là: “người đang đóng BHTN mà bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động,
nhưng chưa tìm được việc làm”. Để thống nhất trong điều tra lao động – việc làm
được tiến hành hàng năm, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội không đưa ra khái
niệm về thất nghiệp mà chỉ đưa ra quy định về người thất nghiệp, theo đó: “Người
thất nghiệp là những người đủ từ 15 tuổi trở lên, có nhu cầu làm việc nhưng không có
việc làm trong tuần lễ điều tra, tính đến thời điểm điều tra có đi tìm việc trong 4 tuần
lễ qua hoặc không đi tìm việc trong 4 tuần tuần lễ qua với lý do chờ việc, nghỉ thời vụ,
không biết tìm việc ở đâu,… hoặc trong tuần lễ trước điều tra có tổng số giờ làm việc
dưới 8 giờ, muốn làm thêm nhưng không tìm được việc.”
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về thất nghiệp nhưng từ khái niệm trên
đây, người viết cho rằng: “Thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, có khả
năng lao động, có nhu cầu việc làm nhưng đang không có việc làm”.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm thất nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm về bảo hiểm thất nghiệp
Trên thế giới, hình thức BHTN xuất hiện lần đầu tiên tại châu Âu vào năm
1893 tại Thụy Sĩ trong một ngành nghề khá phổ biến và phát triển: nghề sản xuất các
mặt hàng thủy tinh3. Nghề này rất cần những thợ lành nghề và để giữ những công
nhân ấy gắn bó với mình, các chủ DN đã lập ra quỹ DN để trợ cấp cho những người
thợ phải nghỉ việc vì lý do thời vụ sản xuất. Sau đó, nhiều nước như Na Uy, Đan
Mạch, Anh, Thụy Điển… lần lượt cho ban hành đạo luật quốc gia về BHTN. Chiến
tranh thế giới thứ hai kết thúc, đặc biệt là sau khi có Công ước số 102 (năm 1952) của
ILO thì một loạt nước trên thế giới đã triển khai BHTN và TCTN4.
Về khái niệm BHTN: Công ước số 102 của ILO quy định rằng BHTN là một
trong chín nhánh của BHXH. Xuất phát từ khái niệm của BHXH là sự bảo đảm thay
3 https://voer.edu.vn/m/bao-hiem-that-nghiep-va-chuyen-dich-co-cau-kinh-te/634fcd29 4 Trịnh thị Kim Ngọc (2014) Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(80) - 2014
thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ khi họ gặp những rủi ro do mất việc làm
9
thông qua một quỹ chung từ sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, góp phần làm
ổn định đời sống của NLĐ và gia đình họ. Một khi NLĐ bị rủi ro mất việc làm, nghĩa
là khả năng lao động của họ không được sử dụng, thì họ được trợ cấp BHXH. Và
chính trợ cấp BHXH này được cho là TCTN. Từ góc độ này, BHTN được xem như là
một phần của BHXH. Do đó, ở khá nhiều quốc gia trên thế giới thì BHTN là một
trong các nhánh nằm trong hệ thống BHXH như Anh, Mỹ, Thụy Điển.5 Tuy vậy ở
một số quốc gia khác, xuất phát từ quan điểm cho rằng, bảo hiểm chỉ mang tính chất
thụ động, hỗ trợ tạm thời cho NLĐ trong giai đoạn khó khăn sau khi mất việc làm mà
không toát lên được vai trò thực sự của BHTN là giảm tình trạng thất nghiệp thông
qua việc nhanh chóng giúp NLĐ quay lại thị trường lao động và sớm tìm kiếm được
việc làm bằng các chính sách hỗ trợ học nghề, tạo việc làm cho NLĐ. Canada, Hàn
Quốc là những quốc gia quy định BHTN nằm trong hệ thống pháp luật về việc làm
hay điển hỉnh cho quan điểm này là Nhật Bản, họ đã quy định vấn đề BHTN nằm
trong Luật Bảo hiểm việc làm.
Tại Việt Nam, trước đây theo trường phái Anh, Mỹ, Thụy Điển khi quy định
BHTN nằm trong hệ thống BHXH. Theo Từ điển tiếng việt, BHTN được hiểu là sự
“bảo đảm những quyền và lợi ích cho NLĐ, công nhân, viên chức khi không làm việc
do bị mất việc làm”6. Các quan điểm trên mới chỉ đề cập BHTN như một chế độ trợ
cấp về tài chính cho NLĐ khi bị mất việc làm, điều này đã bó hẹp BHTN như một là
chế độ BHXH mà không làm rõ được hết vai trò quan trọng của BHTN trong thực tế
là thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, giảm thất nghiệp, tìm và tạo việc làm
cho NLĐ. Trong thực tế: BHTN là số tiền được trả cho NLĐ khi họ bị mất việc làm,
hỗ trợ NLĐ học nghề, duy trì việc làm, tìm việc làm trên cơ sở đóng vào Quỹ BHTN.
Nó không chỉ là một chỗ dựa vật chất và tinh thần vững chắc cho NLĐ khi thất nghiệp
mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết khó khăn cho NSDLĐ và nhà
nước. NSDLĐ sẽ được trút bớt gánh nặng tài chính giải quyết chế độ cho NLĐ bị sa
thải. Đặc biệt, đối với ngân sách nhà nước, BHTN cũng góp phần không nhỏ nhằm
5 Trịnh thị Kim Ngọc (2014) Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(80) - 2014 6 Viện ngôn ngữ học, (2010), Từ điển Tiếng Việt,Nxb.Từ điển Bách khoa.
giảm bớt chi phí khi nạn thất nghiệp gia tăng.
10
Sau nhiều năm thực hiện BHTN và với ý kiến đóng góp khác nhau từ những
học giả, nhà nghiên cứu về lĩnh vực thất nghiệp, Nhà nước đã có điều chỉnh mang tính
đột phá khi chuyển toàn bộ chế độ BHTN quy định ở Luật BHXH số 71 năm 2006
sang Luật Việc làm số 38 năm 2013, như vậy, là Việt Nam đã tiếp thu và bước đầu áp
dụng theo mô hình BHTN của Nhật Bản. Khoản 4 Điều 3 Luật Việc Làm năm 2013
đã đưa ra định nghĩa về BHTN là “chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập của NLĐ
khi bị mất việc làm, hỗ trợ NLĐ học nghề, duy trì việc làm, tìm việc làm trên cơ sở
đóng vào quỹ BHTN”. Khái niệm này cho thấy, BHTN không phải là biện pháp giải
quyết hậu quả thất nghiệp một cách bị động, mà BHTN có vai trò chủ động trong việc
thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, giảm thất nghiệp, giúp NLĐ nhanh chóng
tìm được việc làm.
Khái niệm về BHTN ở trên cho thấy BHTN là quá trình hình thành và sử dụng
quỹ tài chính thông qua việc đóng góp của NLĐ, NSDLĐ và sự hỗ trợ của nhà nước,
nhằm hỗ trợ về mặt thu nhập cho NLĐ trong thời kỳ họ bị mất việc làm, tạo điều kiện
cho họ tìm kiếm việc làm mới trong thị trường lao động. Mặt khác, trợ cấp thất nghiệp
của Nhà nước và trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm khác với việc hình thành quỹ
BHTN là một quá trình thường xuyên, liên tục và có sự tham gia đóng góp của cả
NLĐ, NSDLĐ và sự hỗ trợ của Nhà nước. BHTN không những là sự đóng góp chung
rủi ro mất việc làm cùng tham gia đóng góp vào quỹ và từ từ quỹ đó hỗ trợ tài chính
cho một bộ phận nhỏ những người không may rơi vào tình trạng thất nghiệp; mà còn
là sự góp chung rủi ro giữa các DN với nhau.
1.1.2.2. Đặc điểm của bảo hiểm thất nghiệp
Xuất phát từ việc phân tích khái niệm BHTN có thể thấy BHTN mang một số
đặc điểm chung của một chế độ nằm trong BHXH đồng thời nó cũng mang một số
đặc điểm đặc thù khác có tính chất của chế độ việc làm, góp phần tạo nên một sự
thống nhất trong quan hệ của chế độ ASXH với vần đề việc làm. Các đặc điểm riêng
của BHTN bao gồm:
Thứ nhất, đối tượng áp dụng BHTN chỉ là những người trong độ tuổi lao động,
có khả năng lao động và tham gia vào các quan hệ lao động nhưng do một lý do nào
11
đó mà mất việc làm, tạm thời không có việc làm cho dù đang tích cực tìm kiếm việc
làm. So với các loại bảo hiểm khác của BHXH thì đối tượng áp dụng của BHTN hẹp
hơn khá nhiều.
Thứ hai, BHTN mang tính chất bắt buộc. Đây là một trong nhiều điểm chung
của các chế độ BHXH. Tính bắt buộc thể hiện qua 3 khía cạnh là chủ thể đóng, mức
đóng, phương thức đóng. Chủ thể bắt buộc tham gia BHTN thường là NLĐ và
NSDLĐ, bên cạnh đó ở một số quốc gia, Nhà nước cũng là đối tượng bắt buộc tham
gia BHTN. Còn về mức đóng và phương thức đóng cũng bị ràng buộc bởi những quy
định của pháp luật theo một mức cụ thể và cách thức nhất định. Các bên tham gia
không có quyền lựa chọn mức đóng và phương thức đóng BHTN.
Thứ ba, NLĐ và NSDLĐ tạo lập nên một quỹ tài chính tập trung, đồng thời
quỹ này có sự hỗ trợ một phần cũng như sự bảo trợ từ phía nhà nước. Quỹ này hoạt
động theo một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật về BHXH là lấy số đông
bù số ít, có vai trò hỗ trợ một phần cho NLĐ và gia đình NLĐ khi họ mất việc làm,
giúp họ ổn định cuộc sống, nhanh chóng tìm được việc làm mới.
Thứ tư, BHTN không chỉ nhằm mục đích thu và chi trả TCTN, mà nó còn đưa
ra các biện pháp để giúp người lao đông nhanh chóng quay lại thị trường lao động. Vì
vậy cơ quan BHTN phải vừa có nghĩa vụ nhận đăng ký thông tin BHTN, kiểm tra các
điều kiện của NLĐ trước khi chi trả TCTN, vừa cung cấp và cập nhật thông tin về thị
trường lao động việc làm nhằm giúp NLĐ tìm được công việc phù hợp với khả năng
và những yêu cầu của bản thân.
1.2. Một số vấn đề về pháp luật bảo hiểm thất nghiệp
1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với vấn đề bảo hiểm thất
nghiệp
Trong điều kiện kinh tế thị trường, việc làm và thất nghiệp là vấn đề mang tính
toàn cầu. Vấn đề này không loại trừ một quốc gia nào cho dù quốc gia đó là nước
đang phát triển hay nước công nghiệp phát triển. Giải quyết tình trạng thất nghiệp
luôn là vấn đề nan giải bởi vì nó vừa là vấn đề kinh tế, vừa là vấn đề chính trị - xã hội
12
mà vừa là vấn đề của pháp luật – pháp luật điều chỉnh các quan hệ về BHTN
Đối với NLĐ, khi bị mất việc làm thì họ bị mất nguồn thu nhập từ lao động.
Một trong những giải pháp tích cực để bảo vệ NLĐ tránh được những hụt hẫng khi bị
mất việc làm là xã hội cần tạo cho họ một khoản thu nhập bù đắp khoản thu nhập bị
mất thông qua BHTN. Đây là một trong những biện pháp được nhiều nước quan tâm
vì nó không chỉ đảm bảo cuộc sống cho cá nhân người bị thất nghiệp mà còn góp phần
ổn định xã hội. Bản chất của BHTN là quá trình tổ chức và sử dụng quỹ BHTN được
hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia nhằm đảm bảo ổn định đời sống cho
NLĐ và gia đình khi khi gặp rủi ro về việc làm.. Vì vây, pháp luật về BHTN ra đời
nhằm ổn định quyền của người thất nghiệp được hưởng BHTN. Như vậy, pháp luật
về BHTN vừa là công cụ góp phần giải quyết thất nghiệp, vừa là một chính sách xã
hội rất quan trọng. Với cách tiếp cận này, BHTN này có hai chức năng chủ yếu: Chức
năng bảo vệ và chức năng khuyến khích. Một mặt, BHTN tạo điều kiện thuận lợi cho
người thất nghiệp có cơ hội quay trở lại thị trường lao động. Mặt khác, BHTN kích
thích người thất nghiệp tích cực tìm việc làm và sẵn sàng đi làm việc. Qua hai chức
năng này có thể thấy BHTN không chỉ có ý nghĩa đối với NLĐ mà còn có ý nghĩa đối
với NSDLĐ và Nhà nước.
Đối với NSDLĐ, do có BHTN nên khi thất nghiệp xảy ra NSDLĐ không phải
tăng thêm chi phí để trả trợ cấp mất việc cho NLĐ nữa. Hơn nữa, NLĐ biết rõ nếu thất
nghiệp mình sẽ được trợ cấp thất nghiệp, họ sẽ yên tâm làm việc cho DN hơn. Điều
này sẽ khuyến khích DN sử dụng lao động có hiệu quả, tạo điều kiện cho DN phát
triển sản xuất. Đó cũng là lý do mà pháp luật về BHXH ra đời nhằm điều chỉnh các
quan hệ giữa NSDLĐ và NLĐ trong vấn đề BHTN.
Đối với Nhà nước, nhờ có BHTN nên gánh nặng ngân sách sẽ được giảm nhẹ
khi thất nghiệp xảy ra (đặc biệt là thời kì nền kinh tế suy thoái, ngân sách nhà nước eo
hẹp). Mặt khác khi có trợ cấp thất nghiệp, vấn đề căng thẳng xã hội sẽ được giảm bớt,
nhà nước không còn phải lo các cuộc biểu tình, không phải chi nhiều ngân sách để
giải quyết các tệ nạn xã hội, hay đối phó với các tội phạm do nguyên nhân thất nghiệp
gây nên. Vì vậy, pháp luật về BHXH phải được ban hành nhằm ghi nhận các quy định
13
về TCTN.
Có thể thấy BHTN là một nhu cầu cần thiết của xã hội giúp đảm bảo quyền lợi
của cả NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước. Chính vì vậy, vấn đề về BHTN cần được luật hóa
và phải được tăng cường áp dụng trong giái quyết đối với vấn đề BHXH. Tóm lại,
việc điều chỉnh bằng pháp luật các vấn đề BHTN là sự cần thiết khách quan và là đòi
hỏi bức xúc mang tính thực tiễn của một quốc gia, một xã hội trong nền kinh tế thị
trường.
1.2.2. Các nội dung cơ bản của pháp luật bảo hiểm thất nghiệp
1.2.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
Tương tự như khái niệm pháp luật, theo đó pháp luật là những quy tắc bắt buộc
do Nhà nước ban hành điều chỉnh các hành vi, cách ứng xử của con người trong một
xã hôi có giai cấp7. Pháp luật về BHTN cũng là những quy tắc bắt buộc do Nhà nước
ban hành nhằm điều chỉnh hành vi của con người trong các vấn đề có liên quan đến
BHTN trong một xã hội có giai cấp.
Cũng như pháp luật nói chung, pháp luật về BHTN cũng có những đặc điểm
chung của pháp luật. Đó là, pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được đề xuất lên
thành luật; pháp luật có tính cưỡng chế chung; pháp luật do kinh tế quyết định và
pháp luật là công cụ quan trọng nhất trong một xã hội có giai cấp để giai cấp thống trị
thi hành chuyên chính giai cấp8
Trong những năm qua, đất nước ta đã và đang tiến hành công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, song song với phát triển kinh tế cũng cần ban hành các quy
định pháp luật về BHTN. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của vấn đề thất nghiệp, các
cơ quan NN có thẩm quyền xây dựng và ban hành hệ thống văn bản pháp luật nhằm
điều chỉnh. Từ khái niệm, đặc điểm và vai trò của BHTN, đồng thời trên cơ sở quy
định của pháp luật, có thể hiểu khái niệm pháp luật về BHTN là tổng thể các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ về việc đóng góp và sử
7 Nguyễn Thị Mơ, 2005, Giáo trình pháp lý đại cương, NXB giáo dục, HN 2005 8 Nguyễn Thị Mơ, 2005, Giáo trình pháp lý đại cương, NXB giáo dục, HN 2005
dụng quỹ BHTN, chi trả trợ cấp thất nghiệp để bù đắp thu nhập cho NLĐ bị mất việc
14
làm và thực hiện các biện pháp hỗ trợ nhằm đưa người thất nghiệp trở lại thị trường
lao động và tìm được việc làm.
1.2.2.2. Đặc điểm riêng của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
Pháp luật BHTN, kể từ khi xuất hiện đến nay, luôn phát huy tác dụng trong
việc tạo cơ sở pháp lý để các bên quan hệ BHTN thực hiện các nghĩa vụ đóng quỹ
BHTN để được hưởng chế độ khi bị mất việc làm. Đồng thời pháp luật BHTN luôn là
hình thức bảo hiểm bắt buộc, theo đó NLĐ và NSDLĐ khi đủ điều kiện bắt buộc phải
tham gia đóng vào quỹ BHTN, nhằm để tạo điều kiện vật chất và tinh thần cho NLĐ
khi bị mất việc làm không có thu nhập. Vì vậy, pháp luật về BHTN có các đặc điểm
riêng sau đây
- Về đối tượng và phạm vi áp dụng BHTN
BHTN là bảo hiểm bồi thường cho NLĐ bị thiệt hại về thu nhập do bị mất việc
làm. Trong vấn đề BHTN thì đối tương ̣ tham gia là nội dung đươc ̣ quan tâm đầu tiên, mang tính chất bắt buộc, nhằm xác đinḥ chủ thể đủ điều kiêṇ tham gia vào BHTN. Về
cơ bản, đối tượng tham gia BHTN gồm ba chủ thể là NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước.
Mục đích của BHTN là trợ giúp về mặt tài chính cho người thất nghiệp để họ ổn định
cuộc sống cá nhân và gia đình trong một chừng mực nhất định từ đó tạo điều kiện cho
họ tham gia vào thị trường lao động để có nhiều cơ hội mới về việc làm. BHTN là một
nhánh của BHXH. Do vậy, đối tượng của BHTN cũng giống như đối tượng của
BHXH là thu nhập của NLĐ. Còn đối tượng tham gia BHTN cũng là NLĐ và
NSDLĐ, song đối tượng này rộng hay hẹp còn tùy thuộc vào điều kiện cụ thể và quy
định của từng nước. Trong Công ước 102 của ILO thì trợ cấp thất nghiệp được quy
định từ Điều 19 đến Điều 24. Theo đó, đối tượng tham gia cũng như đối tượng hưởng
sẽ tùy thuộc vào từng quốc gia quy định. Đối với DN thì phải có từ 20 lao động trở lên
và số lao động có hợp đồng chiếm trên 50%. Đối với mỗi quốc gia thì tùy vào tình
hình xã hội – viêc ̣ làm mà có những quy định khác nhau, có thể mở rộng thêm cũng
như bó hẹp đối tương ̣ tham gia BHTN.
Đối tượng là NLĐ: Đại đa số các nước đều quy định đối tượng tham gia BHTN
là những NLĐ trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động. Bao gồm: Những người
15
làm công ăn lương trong các DN có sử dụng một số lượng lao động nhất định; Những
người làm việc theo Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc không xác định thời
hạn, hợp đồng lao động với một thời gian nhất định (Hợp đồng lao động theo mùa vụ
hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng)
trong các DN, các cơ quan đoàn thể, các đơn vị hành chính sự nghiệp (nhưng không
phải là công chức).
Những công chức Nhà nước; những NLĐ độc lập; những người làm thuê theo
mùa vụ thường không thuộc đối tượng tham gia BHTN. Bởi vì, hoặc là họ được Nhà
nước tuyển dụng, bổ nhiệm lâu dài nên khả năng thất nghiệp thấp, hoặc là những
người khó xác định thu nhập để xác định mức đóng bảo hiểm thất nghiệp, thời gian
làm việc ngắn, công việc không ổn định, thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp không
đủ. Về phía NSDLĐ, họ cũng có trách nhiệm đóng góp BHTN cho NLĐ mà họ sử
dụng. Vì rủi ro việc làm trong một chừng mực nào đó xuất phát từ phía NSDLĐ. Như
vậy, đối tượng tham gia BHTN hẹp hơn so với đối tượng tham gia BHXH.
Cũng cần lưu ý rằng: rủi ro thuộc phạm vi BHTN là rủi ro nghề nghiệp, rủi ro
việc làm. NLĐ tham gia BHTN bị mất việc làm họ sẽ được hưởng trợ cấp BHTN.
Điều kiện để được hưởng trợ cấp BHTN khá chặt chẽ: Người tham gia phải đóng
BHTN trong một thời gian nhất định; Thất nghiệp không phải do lỗi của NLĐ; Phải
đăng ký thất nghiệp, đăng ký tìm kiếm việc làm tại Cơ quan lao động có thẩm quyền
do Nhà nước quy định; Phải sẵn sàng làm việc; Có sổ BHTN để chứng nhận có tham
gia đóng BHTN đủ thời hạn quy định.
Những người thất nghiệp mặc dù có đóng BHTN nhưng không được hưởng
trợ cấp khi họ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, bị sa thải do vi
phạm kỷ luật lao động hoặc từ chối không đi làm việc do cơ quan lao động việc làm
giới thiệu…Để được hưởng trợ cấp BHTN, NLĐ phải có một thời gian nhất định đã
tham gia đóng góp vào quỹ BHTN – thời gian dự bị. Việc đặt ra thời gian dự bị có
nhiều tác dụng. Một mặt nó đảm bảo rằng, chỉ có những người thường xuyên tham gia
hoạt động kinh tế mới được xem như bị mất thu nhập thực sự do bị thất nghiệp, còn
đối với những người chưa từng có việc làm, chưa có thu nhập, không được coi họ là
16
những người bị thiệt hại về thu nhập. Mặt khác, thông qua thời gian dự bị, quỹ BHTN
có thể đảm bảo số đóng góp của mỗi NLĐ đạt tới một mức tối thiểu trước khi xảy ra
thất nghiệp. Điều này sẽ tích cực góp phần cân đối quỹ tài chính BHTN.
Riêng về đối tượng là NLĐ, theo Điều 2 Công ước số 44 của ILO “Công ước
về bảo đảm tiền trợ cấp cho người thất nghiệp không tự nguyện” năm 1934, BHTN
được áp dụng tới tất cả những NLĐ được trả tiền công, tiền lương. Tuy vậy, tùy vào
hoàn cảnh của mỗi quốc gia tham gia Công ước này có thể đặt thêm những ngoại lệ về
đối tượng tham gia BHTN như người giúp việc, người làm việc tại nhà, lao động theo
mùa vụ, hay những người công tác ổn định trong lĩnh vực công.
Không những vậy, một số quốc gia còn đặt điều kiện về độ tuổi tham gia
BHTN, quốc tịch hay thời hạn lao động để xác định đối tượng tham gia BHTN. Về độ
tuổi thì BHTN thường được áp dụng tới những người trong độ tuổi lao động. Tuy
nhiên các quốc gia có những quy định khá khác nhau về độ tuổi tham gia BHTN,
thường độ tuổi này được tính từ năm 16 tuổi đến năm 60, thậm chí ở Nhật Bản độ tuổi
tham gia BHTN của NLĐ lên đến con số 65, cao hơn nhiều so với các quốc gia khác,
hay như Hàn Quốc, Nam Phi không đặt ra yêu cầu về quốc tịch của NLĐ khi tham gia
vào BHTN như Việt Nam và Trung Quốc đang áp dụng.
+ Đối tượng là NSDLĐ: Bên cạnh NLĐ, thì trong việc xây dựng pháp luật về
BHTN, hầu hết các quốc gia cũng đưa NSDLĐ vào là một trong những đối tượng
tham gia BHTN giống như NLĐ. NSDLĐ tham gia BHTN có thể là cơ quan, tổ chức,
DN, hợp tác xã đủ điều kiện theo pháp luật lao động được phép sử dụng lao động. Tuy
vậy, vai trò của NSDLĐ chỉ dừng lại ở việc đóng phí BHTN vào quỹ BHTN, chứ
không được hưởng các lợi ích từ BHTN như NLĐ.
Một chủ thể nữa cũng được xem xét là đối tượng tham gia BHTN, đó là nhà
nước. Tuy nhiên, mức độ tham gia của nhà nước vào BHTN ở các quốc gia là rất khác
nhau. Việc nhà nước tham gia đóng phí BHTN thường tập trung ở các quốc gia đang
phát triển cũng như bước đầu mới triển khai thực hiện chính sách BHTN như Việt
Nam. Còn đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển, BHTN được thực hiện lâu
đời, nguồn quỹ dồi dào, thì nhà nước không đóng phí mà chỉ đóng vai trò bảo trợ khi
17
thiếu và quản lý quỹ.
- Đặc điểm về quỹ BHTN
Quỹ BHTN là một quỹ tài chính độc lập tập trung nằm ngoài ngân sách nhà
nước. Quỹ được hình thành chủ yếu từ ba nguồn: NLĐ, NSDLĐ và ngân sách Nhà
nước hỗ trợ. Sự đóng góp này tạo nên sự ràng buộc nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền
lợi giữa NLĐ và NSDLĐ khi tham gia BHTN. Cũng như BHXH, người tham gia
BHTN và NSDLĐ đóng góp bằng một tỉ lệ phần trăm nhất định so với tiền lương là
tổng quỹ lương. Quỹ BHTN là một quỹ tài chính tập trung và độc lập được hình thành
từ sự đóng góp của các bên tham gia BHTN nhằm mục đích chi trả các chế độ của
BHTN cho NLĐ khi họ đáp ứng đủ điều kiện do pháp luật quy định. Tuy các nước có
những quy định khác nhau về nguồn hình thành quỹ BHTN, song nhìn chung đều
xoay quanh ba chủ thể là NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước. Có những quốc gia thì chỉ có
NLĐ và NSDLĐ đóng góp là chính, Nhà nước chỉ đóng vai trò bảo trợ, nghĩa là khi
quỹ BHTN thiếu hụt thì sẽ cấp bù hỗ trợ một phần, điển hình là Hàn Quốc, Đức,
Canada.
Hầu hết các quốc gia quy định mức đóng góp BHTN trong hoạt động tài chính
để đảm bảo an toàn và chắc chắc cho quỹ hoạt động. Tỉ lệ tham gia đóng góp của một
số nước thực hiện BHTN có sự khác nhau. Có quốc gia quy định NLĐ, NSDLĐ và
Nhà nước đóng góp như nhau. Cũng có quốc gia quy định NSDLĐ đóng gấp đôi
NLĐ, nhà nước chỉ tiến hành bù thiếu.
- Đặc điểm về mức trợ cấp BHTN
Về nguyên tắc, mức trợ cấp thất nghiệp phải thấp hơn thu nhập của NLĐ khi
đang làm việc. Mức trợ cấp thất nghiệp được quy định theo Điều 65, 66 và 67 của
Công ước số 102. Hơn nữa, các điều kiện được hưởng trợ cấp thất nghiệp cũng như
thời gian hưởng được quy định ở từng nước nhưng tối thiểu là 13 tuần nếu tham gia
đóng BHTN đủ 12 tháng trước khi thất nghiệp. Phần trợ cấp này không được chi trả
trong thời gian chờ là 7 ngày ngay trước khi thất nghiệp. Mặt khác, NLĐ khi thất
nghiệp còn được hưởng trợ cấp ốm đau và chăm sóc y tế nhưng chỉ ở mức cần thiết để
tránh lạm dụng để trục lợi cho bản thân. Mức hưởng TCTN về cơ bản được hiểu là tỷ
18
lệ % trên mức lương bình quân của NLĐ và biểu hiện thông qua một khoản tiền lấy từ
quỹ BHTN. Mức hưởng trợ cấp thường phụ thuộc vào 2 yếu tố, đó là cơ sở mức đóng
và thời gian đóng. Nếu NLĐ cơ sở mức đóng càng cao và thời gian đóng càng lâu thì
mức hưởng trợ cấp càng cao. Ở mỗi quốc gia họ đều có cách tính tỷ lệ hưởng riêng,
tuy nhiên trên tất cả đều phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho NLĐ bị thất nghiệp.
Nguyên tắc cơ bản mà tất cả các quốc gia đều áp dụng đó là mức hưởng trợ cấp bao
giờ cũng phải thấp hơn mức thu nhập của NLĐ trước khi bị mất việc làm nhưng cũng
không quá thấp nhằm tránh trường hợp NLĐ không đủ tiền để trang trải và ổn định
cuộc sống.
Trong Công ước số 102, ILO đã đề xuất mức hưởng là 45% tổng thu nhập
trước đó của người thụ hưởng. Các quốc gia thường quy định mức hưởng cao hơn
khuyến nghị của ILO, chẳng hạn Trung Quốc quy định mức hưởng bằng 70% tiền
lương, Đức quy định mức 67% và 60% tiền lương phụ thuộc vào số con của người
thất nghiệp9… Thời gian hưởng trợ cấp được các quốc gia quy định khá linh hoạt, phụ
thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội và thực trạng việc làm, đảm bảo mục đích của bảo
hiểm. Đa phần các quốc gia đều quy định thời gian hưởng tùy thuộc vào thời gian
đóng bảo hiểm, lũy tiến theo thời gian đóng. Ngoài khoản trợ cấp thất nghiệp, người
thất nghiệp còn được hưởng các chế độ khác như hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm
và bảo hiểm y tế.
- Đặc điểm về thời gian hưởng: Thời gian hưởng TCTN là khoảng thời gian
mà NLĐ thất nghiệp nhận các khoản trợ cấp hàng tháng dưới dạng tiền mặt do quỹ
BHTN chi trả. Đối với nhiều quốc gia thì việc quy định thời gian hưởng TCTN đều
dựa trên thời gian đóng BHTN, khả năng tài chính của quỹ BHTN, tình hình chung
của thị trường lao đông – việc làm. Theo Công ước số 168 của ILO thì thời gian
hưởng TCTN có thể lên đến 26 tuần đối với một chu kỳ thất nghiệp và tới 39 tuần
trong mỗi giai đoạn 24 tháng.
- Đặc điểm về chế độ hỗ trợ học nghề và tư vấn – giới thiệu việc làm: Hỗ trợ
9 http://www.misa.com.vn/tin-tuc/chi-tiet/newsid/63654/Se-tang-muc-tro-cap-that-nghiep-trong-nam-2020
học nghề là việc nhà nước hỗ trợ NLĐ thất nghiệp thông qua hoạt động dạy nghề
19
nhằm nâng cao trình độ tay nghề, năng lực của bản thân, đề từ đó NLĐ có thể tìm
được một công việc mới phù hợp hơn. Việc chi trả cho hoạt động hỗ trợ học nghề
thường được trích từ quỹ BHTN và cả từ phía NLĐ. Hỗ trợ tư vấn, giới thiệu – việc
làm cho người thất nghiệp: Mục đích của hoạt động này là giúp NLĐ tìm được một
công việc mới bằng nhiều cách thức khác nhau, mà chủ yếu là thông qua các trung
tâm giới thiệu việc làm. Tuy nhiên, để được hưởng các chế độ hỗ trợ tìm việc làm,
NLĐ phải đáp ứng đủ các điều kiện mà pháp luật quy định. Đồng thời, khi đủ điều
kiện hưởng, thì cũng như các chế độ nêu trên, NLĐ sẽ được hưởng các quyền lợi cụ
thể. Ở nhiều quốc gia, thì 2 chế độ này chưa thực sự phát huy được hiệu quả, tình hình
thực hiện còn ở mức thấp, số NLĐ còn khá hạn chế.
- Đặc điểm về chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng
nghề để duy trì việc làm cho NLĐ
Đây là chế độ nhà nước hỗ trợ cho NSDLĐ và các DN. Mục đích là để
NSDLĐ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho NLĐ nhằm hạn chế tình trạng
NLĐ bị mất việc làm. Có thể nói, chế độ này thể hiện rõ nhất sự chủ động đơn vị sử
dụng lao động nói riêng, nhà nước nói chung trong việc khống chế tình trạng mất việc
làm, tránh ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị, cũng như đời
sống của NLĐ và trật tự xã hội nói chung. Điều này góp phần lý giải tại sao một số
quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, không quy định BHTN trong Luật
BHXH mà quy định trong Luật Việc làm.
- Đặc điểm xử lý vi phạm pháp luật về BHTN
Vi phạm pháp luật về BHTN là những hành vi trái pháp luật trong lĩnh vực
BHTN, do các chủ thể tham gia BHTN thực hiện gây ra những hậu quả nhất định tới
các bên, cũng như tổn hại cho Nhà nước và xã hội. Những vi phạm này đều phải chịu
những trách nhiệm pháp lý cụ thể do pháp luật về BHTN quy định đặc điểm của vi
phạm pháp luật về BHTN thể hiện ở các nội dung chính sau đây:
+ Vi phạm pháp luật này do các bên tham gia BHTN thực hiện, cụ thể là
NSDLĐ, NLĐ và cơ quan quản lý và thực hiện BHTN.
20
+ Những vi phạm pháp luật này được thể hiện qua các hành vi trái pháp luật
liên quan đến BHTN, như trốn đóng, nợ đóng BHTN, cấu kết trục lợi từ quỹ BHTN,
từ các chế độ của BHTN...
+ Những vi phạm pháp luật này gây ra những hậu quả nhất định cho các bên
tham gia, đặc biệt là tới NLĐ, đối tượng tương đối yếu thế trong quan hệ pháp luật về
BHTN. Bên cạnh đó, những vi phạm này còn gây ra thiệt hại về mặt tài chính đối với
Nhà nước và xã hôi, ví dụ hành vi trục lợi từ quỹ BHTN. Để giải quyết tình trạng vi
phạm về BHTN, thì các quốc gia đều đặt ra những chế tài riêng để xử lý. Thường thì
có hai chế tài chính là hành chính và hình sự.
*Về chế tài hành chính thì “người” vi pham sẽ bị chịu các hình thức xử phạt
như phạt tiền, cảnh cáo, tịch thu tài sản từ việc vi phạm, hay một số quốc gia còn bắt
người vi phạm lao động công ích. Chế tài hành chính thường tương đối nhẹ, chưa đủ
sức răn đe, dẫn đến tình trạng tái phạn diễn ra ngày càng nhiều, do đó nhiều quốc gia
đã mạnh tay hơn trong việc xử phạt khi quy định TNHS.
*Theo đó, với những hành vi nghiêm trọng gây hậu quả lớn như trốn đóng
BHTN với số tiền lớn hay cấu kết trục lợi gây thiệt hai nghiêm trọng đều phải chịu
TNHS. Tùy từng mức độ có những hình phạt cụ thể nhẹ thì phạt tiền, quản chế tại
nhà, hay cải tạo không giam giữ nặng thì phạt tù tới chục năm, đồng thời cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm tham gia vào các quan hệ BHTN.
1.2.3. Những yếu tố tác động đến pháp luật bảo hiểm thất nghiệp:
1.2.3.1. Nhu cầu được bảo vệ vị trí việc làm, duy trì việc làm, phòng tránh thất
nghiệp.
Chính sách Bảo hiểm thất nghiệp là một trong các chính sách quan trọng trong
hệ thống an sinh xã hội, là một công cụ quản trị thị trường lao động hữu hiệu, với mục
tiêu hỗ trợ người lao động bảo vệ vị trí việc làm, duy trì việc làm, phòng tránh thất
nghiệp. Bên cạnh đó, nếu gặp rủi ro về việc làm, chính sách Bảo hiểm thất nghiệp có
các biện pháp nhằm thay thế, bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi thất
nghiệp, quan trọng hơn nữa là có các biện pháp nhằm thay thế để hỗ trợ người lao
21
động tham gia học nghề để nâng cao trình độ kỹ năng nghề hoặc chuyển đổi nghề
nghiệp; tư vấn, giới thiệu việc làm để người thất nghiệp nhanh chóng tìm được việc
làm mới, đồng thời, người thất nghiệp còn được hưởng chế độ bảo hiểm y tế, góp
phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội.
1.2.3.2. Chính sách của nhà nước:
- Trong công tác triển khai thực hiện chính sách BHTN những mặt đạt được
như: Hệ thống văn bản hướng dẫn BHTN đã tương đối hoàn thiện, đầy đủ thuận tiện
cho quá trình tổ chức, thực hiện; Các cơ quan từ Trung ương đến địa phương đã
nhận thức đúng vai trò, vị trí của mình trong việc thực hiện BHTN đặc biệt là công
tác tư vấn, giới thiệu việc làm và hỗ trợ học nghề, có sự phối hợp thường xuyên, chặt
chẽ giữa các ngành, các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tuyên truyền,
tập huấn, đào tạo cán bộ, hướng dẫn thực hiện, chia sẻ thông tin, giải quyết các
vướng mắc trong thực tế phát sinh; Nhân lực và cơ sở vật chất tại các địa phương đã
tương đối đầy đủ và đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tổ chức, thực hiện;
Các trung tâm dịch vụ việc làm (TTDVVL) đã chủ động hơn trong việc tìm kiếm
nguồn cầu lao động, tìm hiểu về nhu cầu của người sử dụng lao động (NSDLĐ) để có
những tư vấn việc làm hoặc tư vấn học nghề phù hợp. Một số TTDVVL còn chủ động
xây dựng chương trình học, thời gian và hình thức đào tạo phù hợp với đối tượng
người học là người thất nghiệp để hỗ trợ tốt nhất từ khâu tham gia học nghề đến khâu
tìm việc làm mới; Người thất nghiệp đã ý thức việc học tập, nâng cao trình độ để
chuyển đổi nghề nghiệp là yêu cầu cấp thiết đối với bản thân họ, tại nhiều địa phương,
NLĐ sẵn sàng đầu tư chi phí học nghề,… bù vào phần chênh lệch so với chi phí được
hỗ trợ để hoàn thành hết khóa học nghề; Các cơ sở dạy nghề cũng đã chủ động hơn
trong việc đào tạo nghề đối với đối tượng là người thất nghiệp như xây dựng khung
chương trình, mức học phí, quy trình thanh quyết toán chi phí học nghề.
- Tuy nhiên, trong thực hiện chính sách BHTN còn một số bất cập, qua quá
trình xác minh có một số vấn đề sau:
+ Trường hợp NLĐ vừa đóng BHXH, BHTN vừa hưởng TCTN đúng quy
định:
22
NLĐ đang hưởng TCTN thực hiện hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo
công việc nhất định có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng: Theo Luật BHXH,
từ ngày 01/01/2018, NLĐ làm việc theo hợp đồng lao động từ đủ 01 tháng đến dưới
03 tháng thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. Tuy nhiên, theo Luật Việc làm và
văn bản hướng dẫn thì NLĐ làm việc theo hợp đồng lao động dưới 03 tháng không
được coi là có việc làm nên NLĐ vẫn đáp ứng đủ điều kiện hưởng TCTN. Tương tự,
NLĐ đang hưởng TCTN làm việc theo hợp đồng này thì không bị chấm dứt mà vẫn
tiếp tục hưởng TCTN. Do đó, NLĐ có thể vừa đóng BHXH bắt buộc vừa hưởng
TCTN.
NLĐ bị chấm dứt hưởng TCTN vào 1 ngày trong tháng hưởng TCTN nên được
hưởng TCTN cả tháng đó: Theo quy định của Luật BHXH, Luật Việc làm thì NLĐ
đóng BHXH, BHTN theo tháng dương lịch. Trong khi, thời điểm hưởng TCTN được
tính từ ngày thứ 16, kể từ ngày nộp đủ hồ sơ hưởng TCTN, tháng hưởng TCTN được
tính từ ngày NLĐ bắt đầu hưởng TCTN đến ngày đó của tháng sau trừ 01 ngày và
NLĐ bị chấm dứt hưởng TCTN vào một ngày của tháng đang hưởng TCTN được
hưởng TCTN của cả tháng đó. Vì vậy, NLĐ có thể có 01 tháng vừa hưởng TCTN vừa
tham gia BHXH, BHTN.
+ Trường hợp NLĐ hưởng sai quy định phải thu hồi do:
Người lao động: Có việc làm trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nộp
hồ sơ đề nghị hưởng TCTN nhưng không thông báo với TTDVVL theo quy định nên
sau khi rà soát mới phát hiện NLĐ không đáp ứng đủ điều kiện hưởng dẫn đến phải
thu hồi; Có việc làm trong thời gian đang hưởng TCTN nhưng không thông báo với
TTDVVL để chấm dứt hưởng TCTN mà vẫn tiếp tục nhận TCTN.
Người sử dụng lao động: Tham gia và đóng BHTN cho NLĐ chậm so với quy
định hoặc trốn đóng, nợ đóng BHTN nên sau khi NSDLĐ thực hiện đóng BHXH,
BHTN bù cho thời gian này thì NLĐ bị trùng tháng đóng với tháng hưởng TCTN dẫn
đến phải thu hồi.
23
Cơ quan BHXH: Thu BHTN đối với thời gian thử việc của NLĐ theo đề nghị
của NSDLĐ; Chi TCTN trước thời hạn chi trả theo quy định pháp luật; Một số ít
trường hợp NLĐ được cấp nhiều sổ BHXH do tham gia BHXH, BHTN ở nhiều đơn
vị. Do đó, khi cơ quan BHXH thực hiện rà soát, gộp sổ BHXH thì mới phát hiện NLĐ
bị trùng thời gian đóng và thời gian hưởng TCTN.
- Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách BHTN, thực tế cho thấy:
+ Những mặt được: Công tác rà soát, thu hồi được triển khai đồng bộ, kịp
thời và có sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành LĐ-TB&XH và ngành BHXH; - Bên
cạnh việc tự rà soát hoặc phối hợp rà soát, các hoạt động như thanh tra, kiểm tra,
kiểm toán cũng được đẩy mạnh để kịp thời phát hiện các hành vi gian lận, trục lợi
Quỹ BHTN; Hoạt động tuyên truyền chính sách BHTN đến NLĐ, NSDLĐ được chú
trọng đặc biệt là việc phát huy vai trò của tổ chức công đoàn tại các địa phương và
tại các đơn vị sử dụng lao động trong việc tuyên truyền, vận động NLĐ, NSDLĐ
thực hiện quyết định thu hồi hoặc phối hợp cung cấp các giấy tờ liên quan đến hoạt
động rà soát, thu hồi.
+ Những khó khăn, vướng mắc
Về phía đối tượng bị thu hồi: Ý thức tuân thủ pháp luật của NLĐ, NSDLĐ còn
hạn chế, các chế tài xử phạt về BHTN còn chưa đầy đủ nên vẫn còn tình trạng chây ỳ
không thực hiện quyết định thu hồi; Đối tượng hưởng TCTN chủ yếu là lao động phổ
thông, vì vậy NLĐ rất dễ nhảy việc, thay đổi nơi ở, số điện thoại liên lạc... do đó việc
liên hệ để xác minh, thu hồi tiền TCTN gặp nhiều khó khăn; - NLĐ thất nghiệp chủ
yếu là lao động phổ thông, thu nhập không cao nên khả năng tích lũy ít; một số trường
hợp hiện tại đã mất khả năng lao động, không có điều kiện để nộp lại tiền hưởng
TCTN,... Vì vậy, khó thực hiện thu hồi số tiền NLĐ đã hưởng; - Một số trường hợp
NLĐ đã chết, mất tích, ra nước ngoài định cư nên không thể thực hiện thu hồi được số
tiền đã hưởng.
Về phía cơ quan tổ chức thực hiện: Do hiện nay chưa có đủ công cụ để quản lý
lao động nên rất khó kiểm soát tình trạng việc làm của NLĐ, vì vậy vẫn xảy ra tình
24
trạng NLĐ vừa hưởng TCTN vừa có việc làm. Việc TTDVVL phát hiện NLĐ có
việc chủ yếu phụ thuộc vào ý thức tự giác của NLĐ hoặc do cơ quan BHXH phản hồi
sang; - Chưa triển khai kết nối phần mềm quản lý BHTN của
ngành LĐ-TB&XH với cơ quan BHXH để phục vụ cho việc tiếp nhận và giải quyết
hưởng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho NLĐ trong việc hưởng các chế độ BHTN,
giảm bớt thủ tục hành chính và kiểm tra, kiểm soát kịp thời khi thực hiện chính sách
BHTN tránh tình trạng gian lận, trục lợi Quỹ BHTN; - Bộ máy thực hiện BHTN
chưa thông suốt từ Trung ương đến địa phương, gây khó khăn cho việc chỉ đạo, triển
khai và không kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm; - Tại một số địa phương, công
tác phối hợp thực hiện rà soát, thu hồi giữa ngành LĐ-TB&XH với
ngành BHXH chưa nhuần nhuyễn, vẫn còn tâm lý đùn đẩy trách nhiệm dẫn đến ảnh
hưởng tới hiệu quả và tiến độ thu hồi; - Nhân sự thực hiện nhiệm vụ BHTN còn tại
TTDVVL và tại cơ quan BHXH còn hạn hẹp, chưa có nhân sự chuyên trách thực hiện
nhiệm vụ thu hồi. Do đó, tiến độ thu hồi cũng bị ảnh hưởng.
Kết luận chương 1
Quy định về BHTN là một chế định pháp lý quan trọng, là cơ sở cần thiết trong
việc thiết lập và hoàn chỉnh một hệ thống pháp luật về ASXH ở nước ta hiện nay.
Việc xác định khái niệm, đặc điểm, nội dung và quá trình hình thành phát triển trong
lĩnh vực này sẽ có vai trò quan trong việc thiết lập các quy phạm pháp luật chặt chẽ
nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật về BHTN tại Việt Nam nói chung và
ngành BHXH nói riêng. Đây việc làm cần thiết cho nước ta khi xây dựng và phát triển
đất nước, đảm bảo vừa phát triển kinh tế trong quá trình hội nhập. Đồng thời, còn bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể khi tham gia vào quan hệ xã hội trong
lĩnh vực BHXH. Chương 1 của Luận văn đã phân tích một cách khái quát về cơ sở lý
luận về việc quy định về BHTN ở nước ta hiện nay, bao gồm: Khái niệm, đặc điểm,
sự cần thiết phải hoạt động Quy định về BHTN, nội dung của quy định về BHTN
trong lĩnh vực này. Trên cơ sở lý luận về Quy định về BHTN ở Chương 1, tác giả vận
dụng thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Ninh, đánh giá tình hình thi hành pháp luật, kết
quả đạt được trong việc áp dụng và những hạn chế, khó khăn gặp phải trong quá trình
25
thi hành, từ đó tìm ra nguyên nhân của những kết quả đạt được cũng như nguyên nhân
của những hạn chế được trình bày trong Chương 2 của luận văn. Để thấy rõ hơn nội
dung của pháp luật về BHTN, trong chương 2 dưới đây sẽ phân tích thực trạng pháp
luật Việt Nam về BHTN theo 03 nội dung. Đó là: (i) Đối tượng và phạm vi BHTN;
(ii) Quỹ BHTN; (iii) Điều kiện hưởng BHTN.
26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
QUẢNG NINH
2.1. Một số nét về sự hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về bảo
hiểm thất nghiệp
2.1.1. Thời kỳ phát triển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung (1975–1985)
Trải qua 21 năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước sau ngày thống nhất đất
nước 1975, hậu quả chiến tranh để lại rất nặng nề, đặc biệt là có hàng triệu người thất
nghiệp, hơn 20 vạn gái mại dâm cần cải tạo và bố trí việc làm tại các thành thị miền
Nam. Còn ở miền Bắc, hầu hết các xí nghiệp trong các khu công nghiệp trọng điểm,
hệ thống cầu đường giao thông bị tàn phá nặng nề. Trước tình hình đó, ngành lao
động – thương binh đã tập trung vào giải quyết, sắp xếp việc làm cho NLĐ thất
nghiệp tại các đô thị tại miền Nam sau chiến tranh, giúp nhiều người trở về quê cũ làm
ăn, ổn định việc làm đời sống cho một số cán bộ từ miền Bắc tập kết trở về; sắp xếp
việc làm cho bộ đội, thanh niên xung phong hoàn thành nghĩa vụ xuất ngũ. Động viên
lực lượng lao động cả nước tham gia hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục lại cơ
sở hạ tầng, xây dựng các công trình lớn tạo cơ sở vật chất, kĩ thuật cho cả nước tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Chính sách phục vụ cho chủ trương phân bổ lại lao động và dân
cư, đặc biệt điều lao động và dân cư từ vùng đồng bằng sông Hồng đông dân cư đi
khai hoang và xây dựng các vùng kinh tế mới ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng
bằng song Cửu Long với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Trong
những năm 80, nhiều chính sách lao động và dân cư, xây dựng các vùng kinh tế mới
được bổ sung, sửa đổi như Nghị quyết 76/NQ-HĐBT ngày 27/3/1980, Quyết định
254/QĐ-CP ngày 10/6/1981 của Hội đồng Chính phủ đã có tác dụng rất lớn trong
khuyến khích nhân dân khai hoang, xây dựng các vùng kinh tế mới, góp phần giải
quyết việc làm, khai thác tiềm năng các vùng đất nước.
Vào đầu những năm 80, khi đất nước đang gặp khó khăn, tình trạng dư thừa
lao động rất lớn, chủ trương đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài lần đầu tiên được triển khai mạnh mẽ ở nước ta. Đánh dấu thời kì này về lĩnh
27
vực hợp tác lao động phải kể đến Nghị quyết 46/NQ-CP ngày 11/2/1980 của Hội
đồng Chính phủ “Về việc đưa công nhân và cán bộ đi bồi dưỡng nâng cao tay nghề và
làm việc có thời hạn tại các nước XHCN”, Nghị quyết 236 ngày 29/11/1980 “Về việc
hợp tác sử dụng lao động với các nước XHCN”. Chủ trương này đã đáp ứng một phần
yêu cầu lao động của các nước anh em, giải quyết việc làm cho một bộ phận thanh
niên, đồng thời thông qua hợp tác đào tạo được một đội ngũ lao động có tay nghề đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế đất nước sau này.
Như vậy, sự hỗ trợ của nhà nước giai đoạn này là tạo việc làm chứ không phải
hỗ trợ kinh phí cho lao động thất nghiệp. Mặc dù vậy, các nghị quyết nêu trên chính là
các văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên của Việt Nam đặt nền móng cho sự hình
thành pháp luật về BHTN.
2.1.2. Thời kì chuyền sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa (thời kì 1986 trở lại đây)
Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách vĩ mô để phát triển kinh tế nhiều thành
phần: Chính sách đất đai, thuế, tài chính tiền tệ, tín dụng, tập trung phát triển nông
nghiệp, nông thôn, phát triển kinh tế hộ gia đình, trang trại hộ gia đình, phát triển khu
công nghiệp, nông thôn, phát triển kinh tế hộ gia đình, trang trại hộ gia đình, phát
triển khu công nghiệp, khu chế xuất, sắp xếp lại DN nhà nước, phát triển DN vừa và
nhỏ, khu vực phi kết cấu… tạo ra bầu không khí đầu tư lành mạnh cho toàn xã hội
phát triển kinh tế, tạo mở việc làm, sử dụng tốt các tiềm năng lao động xã hội.
Năm 1994, Bộ luật lao động đầu tiên Việt Nam được ban hành (có hiệu lực từ
ngày 0/01/1995. Bộ luật này là văn bản pháp luật có giá trị cao nhất, đặt nền tảng
vững chắc cho các quy định về BHTN.
Bộ luật Lao động năm 1994 cũng đã quy định cụ thể những chế độ liên quan
tới lao động bị mất việc làm, cụ thể:
- Điều 17 quy định: Do thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ làm cho NLĐ bị mất
việc làm thường xuyên trong các DN từ một năm trở lên bị mất việc thì NSDLĐ phải
có trách nhiệm đào tạo lại để họ có thể tiếp tục làm việc thì phải trợ cấp mất việc làm,
28
mỗi năm làm việc trả một tháng lương, thấp nhất là hai tháng lương.
- Điều 42 quy định: Đối với trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động đối với
NLĐ đã làm việc thường xuyên trong DN, cơ quan tổ chức từ một năm trở lên
NSDLĐ có trách nhiệm trợ cấp thôi việc, cứ mỗi năm làm việc là nửa tháng lương,
cộng với phụ cấp lương (nếu có)
Đặc biệt, năm 2006, Quốc hội ban hành Luật BHXH lần đầu tiên quy định về
chế độ BHTN cho NLĐ. Những nội dung về BHTN được quy định tại chương V Luật
này bao gồm đối tượng hưởng BHTN, điều kiện hưởng BHTN, trợ cấp thất nghiệp,
hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm… Quy định về BHTN chính thức có hiệu lực từ
ngày 01/01/2009. Từ đó đến nay, pháp luật về BHTN đã dần đi vào đời sống của
NLĐ, góp phần không nhỏ trong việc hỗ trợ, ổn định cuộc sống của người thất
nghiệp, đồng thời giúp họ nhanh chóng quay trở lại thị trường lao động. Bộ luật Lao
động năm 2012 (có hiệu lực từ ngày 1/5/2013) cũng quy định theo hướng dẫn chiếu
Luật BHXH năm 2006.
Để cụ thể hóa những quy định của Luật BHXH 2006, Chính phủ đã ban hành
Nghị định 127/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều về
BHTN và sau đó là Nghị định 100/2012/NĐ-CP. Những văn bản này đã góp phần
điều chỉnh các quan hệ về BHTN bằng các văn bản quy phạm pháp luật với những
quy định rõ ràng.
Năm 2013, Quốc hội đã ban hành Luật việc làm năm 2013-QH13 quy định
chính sách hỗ trợ tạo việc làm; thông tin thị trường lao động; đánh giá, cấp chứng chỉ
kỹ năng nghề quốc gia; tổ chức, hoạt động dịch vụ việc làm; BHTN và quản lý nhà
nước về việc làm.
Để cụ thể hóa Luật Việc Làm năm 2013, ngày 12/03/2015 Chính phủ ban hành
Nghị định số 28/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật việc làm
về BHTN, ngày 31/07/2015 Bộ Lao động Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư
số 28/2015/TT-BLĐTBXH hướng dẫn thực hiện Điều 52 Luật việc làm và một số
điều của Nghị định số 28/2015/NĐ-CP. Tóm lại, sự hình thành và phát triển của pháp
luật Việt Nam về BHTN đã trải quan và cọ xát với những biến động của xã hội Việt
29
Nam qua từng giai đoạn và từng bước, phù hợp với yêu cầu điều chỉnh pháp luật về
BHTN. Phần dưới đây mục 2.2 sẽ phân tích thực trạng các quy định của pháp luật
Việt Nam về BHTN.
2.2. Thực trạng pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
Theo luật BHXH năm 2006 thì BHTN được triển khai từ ngày 01/01/2009.
Các nội dung của chính sách BHTN ở nước ta được quy định trong Luật BHXH năm
2006 được thông qua tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XI; Nghị định số
127/2008/NĐ-CP ngày 12/2/2008; Nghị định số 100/2012/NĐ-CP ngày 21/11/2012
và được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn tại Thông tư số
32/2010/TT-BLĐTBXH ngày 25/10/2010. Luật việc làm năm 2013-QH13 ngày
16/11/2013 của Chính phủ, Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày 12/03/2015 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật việc làm về BHTN, Thông
tư số 28/2015/TT-BLĐTBXH ngày 31/07/2015 Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
hướng dẫn thực hiện Điều 52 Luật việc làm và một số điều của Nghị định số
28/2015/NĐ-CP.
2.2.1. Quy định về đối tượng tham gia BHTN.
Tại Việt Nam, pháp luật quy định rất chi tiết và cụ thể về vấn đề này. Trước
đây, quy định về BHTN được nêu rõ tại Luật BHXH 2006. Tuy nhiên, sau lần sửa đổi
gần nhất, vấn đề BHTN được tách ra và quy định tại Luật Việc làm năm 2013, không
thuộc Luật BHXH như trước nữa. Theo Luật Việc làm thì đối tượng bắt buộc phải
tham gia vào BHTN gồm có: Theo Điều 2 và Điều 3 Nghị định 127/2008/NĐ-CP quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHXH về BHTN thì đối
tượng tham gia BHTN từ tháng 01/2009 đến 31/12/2014 bao gồm:
NLĐ tham gia BHTN là công dân Việt Nam giao kết các loại hợp đồng lao
động, hợp đồng làm việc sau đây với NSDLĐ:
- Hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ mười hai tháng đến ba mươi sáu
tháng;
- Hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
30
- Hợp đồng làm việc xác định thời hạn từ đủ mười hai tháng đến ba mươi sáu
tháng;
- Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn, kể cả những người được tuyển
dụng vào làm việc tại các đơn vị sự nghiệp của nhà nước trước ngày Nghị định số
116/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ quy định về tuyển dụng,
sử dụng và quản lí cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp nhà nước.
Những người đang hưởng lương hưu hàng tháng, trợ cấp mất sức lao động
hàng tháng có giao kết hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc với NSDLĐ không
thuộc đối tượng tham gia BHTN.
Theo Điều 43 Luật Việc Làm 2013 thì đối tượng bắt buộc tham gia BHTN từ
tháng 01/01/2015 đến nay bao gồm:
-NLĐ phải tham gia BHTN khi làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp
đồng làm việc như sau: (i) Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc không xác
định thời hạn; (ii) Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc xác định thời hạn; (iii)
Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ
03 tháng đến dưới 12 tháng.
Trong trường hợp NLĐ giao kết và đang thực hiện nhiều hợp đồng lao động
này thì NLĐ và NSDLĐ của hợp đồng lao động giao kết đầu tiên có trách nhiệm tham
gia BHTN.
Luật cũng quy định rõ ràng NLĐ theo quy định tại khoản trên, đang hưởng
lương hưu, giúp việc gia đình thì không phải tham gia BHTN.
NSDLĐ tham gia BHTN là các cơ quan, đơn vị, tổ chức, DN sau:
Điều 43 Luật Việc Làm 2013 quy định đối tượng bắt buộc tham gia BHTN từ
tháng 01/01/2015 đến nay bao gồm: (i) NLĐ phải tham gia BHTN khi làm việc theo
hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc là: Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm
việc không xác định thời hạn; Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc xác định
thời hạn; Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời
hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng. Trong trường hợp NLĐ giao kết và đang thực
31
hiện nhiều hợp đồng lao động quy định tại khoản này thì NLĐ và NSDLĐ của hợp
đồng lao động giao kết đầu tiên có trách nhiệm tham gia BHTN.
NLĐ theo quy định tại khoản 1 Điều này đang hưởng lương hưu, giúp việc gia
đình thì không phải tham gia BHTN.
- Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp của nhà nước, đơn vị vũ trang nhân
dân;
- Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, đơn vị sự nghiệp thuộc tổ chức chính trị, đơn vị
sự nghiệp thuộc tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã hội khác;
- DN thành lập, hoạt động theo Luật DN, Luật Đầu tư;
- Hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác
xã;
- Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử
dụng và trả công cho NLĐ;
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh
thổ Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên có quy định khác.
Trước đây, theo quy định của Luật BHXH năm 2006, nếu DN có sử dụng dưới
10 NLĐ trở xuống thì không phải đóng BHTN. Số lao động này được tính bao gồm số
lao động tham gia thực hiện hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc không xác
định thời hạn hoặc có xác định thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên. Đối với các cơ quan
quản lí nhà nước thì số lao động này được tính bao gồm cả số cán bộ, công chức đang
làm việc tại cơ quan. Thời điểm tính số lao động hàng năm của các DN, cơ quan, tổ
chức để thực hiện chính sách BHTN là ngày 01/01 hàng năm theo dương lịch. Trường
hợp thời điểm khác trong năm mà NSDLĐ sử dụng mới có đủ số lao động thuộc đối
tượng tham gia BHTN theo quy định (từ 10 người trở lên) thì thời điểm thực hiện
chính sách BHTN của các DN, cơ quan, tổ chức được tính vào ngày 01 của tháng tiếp
theo, tính theo dương lịch. Căn cứ vào các quy định của pháp luật, có thể hiểu NLĐ có
32
hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc có từ đủ 12 tháng trở lên hoặc không xác định
thời hạn nhưng phải đang làm việc cho NSDLĐ cũng thuộc đối tượng tham gia
BHTN mới thực hiện đóng BHTN.
Tuy nhiên, bắt đầu từ ngày 01/01/2015 ngày Luật Việc làm 2013 có hiệu lực
thi hành cho đến nay thì NSDLĐ phải tham gia BHTN cho NLĐ khi có hợp đồng lao
động từ đủ 3 tháng trở lên mà không phân biệt DN đó sử dụng bao nhiêu lao động
(miễn là có ký kết hợp đồng lao động- Hợp đồng không xác định thời hạn, hợp đồng
có xác định thời hạn, hợp đồng mùa vụ và thời hạn hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng
trở lên thì bắt buộc phải tham gia BHTN (khoản 3 điều 43).
So sánh với phạm vi áp dụng các chế độ BHXH khác, có thể thấy phạm vi áp
dụng BHTN hạn hẹp hơn, đặc biệt có căn cứ vào quy mô sử dụng lao động của
NSDLĐ. Điều này, theo quan điểm của người viết, xuất phát từ thực tiễn lần đầu tiên
tổ chức thực hiện, không thể ngay lập tực quy định phạm vi áp dụng rộng như các chế
độ BHXH khác. Hơn nữa, pháp luật chưa trù liệu được hết những khó khăn trong
quản lí và thực hiện nên cần có những bước đi thích hợp nhằm đảm bảo tính khả thi
của quy định này. Khi điều kiện cho phép, đối tượng áp dụng BHTN sẽ được mở rộng
cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
Liên quan đến đối tượng và pháp luật BHTN, pháp luật cũng quy định về rủi ro
trong BHTN. Rủi ro thuộc phạm vi BHTN là rủi ro ngành nghề, rủi ro việc làm. NLĐ
tham gia BHTN bị mất việc sẽ được hưởng trợ cấp thất nghiệp nếu họ đáp ứng đủ các
yêu cầu sau: (i) Đã đóng BHTN đủ mười hai tháng trở lên trong thời gian hai mươi
bốn tháng trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định
của pháp luật lao động hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật;
(ii) Đã đăng kí thất nghiệp với cơ quan lao động khi bị mất việc làm, chấm dứt hợp
đồng lao động hoặc hợp đồng lam việc; (iii) Chưa tìm được việc làm sau mười lăm
ngày kể từ ngày đăng kí thất nghiệp.
Nghị định 100/2012/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định
127/2008/NĐ-CP có hướng dẫn cụ thể hơn về tháng đóng BHTN của NLĐ. Cụ thể,
tháng đóng BHTN của NLĐ được tính nếu NSDLĐ và NLĐ đã đóng BHTN, NLĐ đã
33
thực hiện hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc ít nhất 1 ngày trong tháng đó.
Quy định trên đây của pháp luật Việt Nam về điều kiện hưởng BHTN cũng
tương đương với các quốc gia khác. Ngoài ra, nhiều quốc gia cũng quy định thêm về
điều kiện không có thu nhập trong thời gian hưởng trợ cấp nhằm đảm bảo ý nghĩa của
trợ cấp.
Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, Việt Nam chưa thể quy định được điều
kiện này những khó khăn trong việc kiểm soát thu nhập của NLĐ. Trong tương lai,
cần quy định thêm điều kiện này, nhằm đảm bảo mục đích, ý nghĩa của trợ cấp thất
nghiệp.
2.2.2. Thời gian nộp hồ sơ tham gia bảo hiểm thất nghiệp
BHTN là loại hình bảo hiểm bắt buộc, do đó trong thời hạn 30 ngày làm việc
hoặc hợp đồng làm việc, NSDLĐ có trách nhiệm nộp hồ sơ tham gia BHTN cho cơ
quan BHXH.
2.2.3. Nguồn hình thành Quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Là các khoản đóng và hỗ trợ theo quy định tại Khoản 1 Điều 57 Luật Việc làm,
cụ thể mức đóng và trách nhiệm đóng bảo hiểm thất nghiệp được quy định như sau:
- Người lao động đóng bằng 1% tiền lương tháng;
- Người sử dụng lao động đóng bằng 1% quỹ tiền lương tháng của những
người lao động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp;
- Nhà nước hỗ trợ tối đa 1% quỹ tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp
của những người lao động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp và do ngân sách trung
ương bảo đảm.
- Tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
- Nguồn thu hợp pháp khác, bao gồm:
+ Tiền lãi chậm đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định;
+ Các khoản thu hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
2.2.4. Quy định về giải quyết hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp
2.2.4.1. Quy định điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp
34
Theo Điều 49 Luật Việc làm năm 2013, NLĐ bị thất nghiệp sẽ được hưởng
TCTN nếu đáp ứng đủ 4 điều kiện sau:
- Điều kiện thứ nhất, là đã chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm
việc theo quy định Điều 36 Bộ luật Lao động năm 2012 về các trường hợp chấm dứt
hợp đồng lao động và Điều 28, 29 Luật Viên chức năm 2010. Người viết cho rằng đây
chính là quy định mới và tiến bộ của pháp luật Việt Nam so với trước. Các nhà làm
luật đã đưa ra các trường hợp mà khi NLĐ chấm dứt hợp đồng lao động họ có quyền
được TCTN. Ví dụ như, hết hạn hợp đồng lao động, NLĐ và NSDLĐ đồng ý chấm
dứt hợp đồng lao động, hay NSDLĐ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Các
trường hợp trên đều mang tính hợp pháp và phù hợp với quy định của pháp luật. Đồng
thời, luật cũng ghi nhận hai trường hợp mà NLĐ không được hưởng TCTN là NLĐ
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc trái pháp luật và hưởng
lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng.
- Điều kiện thứ hai, là NLĐ bị thất nghiệp đã đóng BHTN từ đủ 12 tháng trở
lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng
làm việc đối với những trường hợp là “hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc
không xác định thời hạn” và “hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc xác định
thời hạn”. Ngoài ra do Luật Việc làm năm 2013 có quy định thêm đối tượng tham gia
BHTN là NLĐ đã ký hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất
định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng. Với đối tượng này thì điều kiện
được hưởng TCTN của họ là đã đóng BHTN từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36
tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động. Người viết cho rằng quy định như trên
xuất phát từ tính chất công việc của hợp đồng này. Hợp đồng lao động theo mùa vụ
hoặc theo một công việc nhất định từ 3 đến 12 tháng có tính chất tạm thời không
thường xuyên, mức độ thay đổi việc làm là tương đối nhanh. Chính vì vậy việc quy
định như trên là phù hợp nhằm tránh những trường hơp ̣ NLĐ cố tình̀ mất viêc ̣ sớm để đươc ̣ hưởng trơ ̣cấp thất nghiệp
- Điều kiện thứ ba, là NLĐ đã nộp hồ sơ hưởng TCTN tại trung tâm dịch vụ
việc làm trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp
35
đồng làm việc. Sau khi NLĐ mất việc làm và họ muốn được hưởng trợ cấp thì họ phải
nộp hồ sơ xin hưởng trợ cấp thất nghiệp đến các trung tâm giới thiệu việc làm do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép cho hoạt động. Hồ sơ hưởng trợ cấp gồm có
đơn đề nghị hưởng BHTN, bản sao hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc đã hết hạn
hoặc thoả thuận chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc..., sổ BHXH.
Việc phải có quy định hồ sơ hưởng trợ cấp nhằm giúp cơ quan quản lý có căn
cứ pháp lý để xác định mức hưởng cũng như thời gian mà người thất nghiệp được
hưởng dựa trên khoảng thời gian tham gia và mức đóng BHTN. Ngoài ra, luật có quy
định thời hạn nộp hồ sơ là 3 tháng kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, làm việc.
Khoảng thời gian 3 tháng là tương đối hợp lý bởi vì sau khi mất việc, NLĐ họ phải
hoàn thiện khá nhiều các thủ tục khác nhau để đảm bảo quyền và lợi ích cho chính
mình không chỉ riêng về BHTN. Ví dụ như, về trợ cấp thôi việc hay các trợ cấp
BHXH khác. Theo người viết điều kiện thứ ba này giúp cơ quan nhà nước trong lĩnh
vực BHTN và việc làm theo dõi, quản lý được số lượng người thất nghiệp để việc chi
trả trợ cấp trở nên chính xác hơn và song song với đó là giúp chúng ta đánh giá được
tình hình thất nghiệp một cách chi tiết và cụ thể trên quy mô toàn quốc từ đó có sự
điều chỉnh các chính sách về vấn đề kinh tế – xã hội nói chung và vấn đề về BHTN –
việc làm nói riêng sao cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
Điều kiện thứ tư, là NLĐ bị thất nghiệp chưa tìm được việc làm sau 15 ngày,
kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng BHTN trừ những trường hợp mà luật quy định tại khoản
4 Điều 49 Luật Việc làm. Những trường hợp được quy định tại 49 khoản 4 gồm:
(i) Thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an. Đối với những người thực
hiện nghĩa vụ quân sự hay công an thì Nhà nước sẽ chi trả hoàn toàn chi phí trong suốt
quá trình thực hiện nghĩa vụ, vì vậy BHTN sẽ không điều chỉnh đối tượng này.
(ii) Đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên. Mục đích của việc đi học
không phù hợp với mục đích của BHTN, đồng thời thời hạn đi học tương đối dài, do
đó những ai trong trường hợp này không được hưởng.
(iii) Chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ
36
sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.
(iv) Bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù. Khi NLĐ bị tạm giam hay chấp hành
hình phạt tù thì cuộc sống của họ sẽ được nhà nước bảo đảm, do vậy họ không cần
phải hưởng các chế độ của BHTN.
(v) Ra nước ngoài định cư; đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng. Trong
trường hợp này, NLĐ không còn tham gia vào quan hệ BHTN – việc làm do pháp luật
Việt Nam điều chỉnh .
(vi) Chết. NLĐ chết thì họ không còn bất kỳ quan hệ về BHTN, nên đương
nhiên họ không thuộc diện điều chỉnh.
So với quy định trước đây về những trường hợp không được hưởng BHTN thì
quy định mới trong Luật Việc làm đã được thắt chặt hơn nhằm góp phần đảm bảo
công bằng cho các chủ thể là NLĐ khi tham gia vào BHTN. Về khoảng thời gian 15
ngày nhìn chung cũng là tương đối hợp lý nếu so với quy định của một số nước trên
thế giới, không quá dài cũng không quá ngắn, đảm bảo cho NLĐ có một khoảng thời
gian phù hợp để tìm kiếm việc làm mới, nhằm tránh tâm lý ỷ lại, chỉ mong được
hưởng chứ không muốn làm việc. Bên cạnh đó, Luật Việc làm quy định bốn điều kiện
để được hưởng trợ cấp như trên là tương đối hợp lý so với trước đây, việc thêm
nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp là một điểm sáng, phù hợp với thông lệ quốc tế cùng
với đó là việc thay thế quy định đăng ký thất nghiệp bằng nộp hồ sơ hưởng trợ cấp
nhằm rút gọn thủ tục hành chính và giúp NLĐ mất việc làm dễ dàng hơn trong việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ của chính mình. Tuy vậy, đối với những NLĐ theo hợp
đồng mùa vụ và một công việc nhất định từ 3-12 tháng thì sẽ găp khó khăn hơn trong
việc tích lũy số tháng đóng BHTN nếu so với các loại hợp đồng lao động khác, do tính
chất loại hình công việc không có tính ổn định lâu dài và dễ mất việc. Đây chính là
một bất cập của pháp luật việt nam về điều kiện hưởng TCTN.
2.2.4.2. Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp: Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng
theo quy định của Luật việc làm số 38 năm 2013 bằng 60% mức bình quân tiền lương
tháng đóng BHTN của 06 tháng liền kề trước khi thất nghiệp nhưng tối đa không quá
37
05 lần mức lương cơ sở đối với NLĐ thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do
Nhà nước quy định hoặc không quá 05 lần mức lương tối thiểu vùng theo quy định
của Bộ luật lao động đối với NLĐ đóng BHTN theo chế độ tiền lương do NSDLĐ
quyết định tại thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc.
2.2.4.3.Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp
Điều 82 Luật BHXH năm 2006 quy định về thời gian hưởng trợ cấp thất
nghiệp. Cụ thể như sau:
Ba tháng, nếu có đủ mười hai tháng đến dưới ba mươi sáu tháng đóng BHTN;
Sáu tháng, nếu có đủ ba mươi sáu tháng đến dưới bảy mươi hai tháng đóng
BHTN;
Chín tháng, nếu có đủ từ bảy mươi hai tháng đến dưới một tram bốn mươi
tháng đóng BHTN;
Mười hai tháng, nếu có đủ từ một tram bốn mươi tháng đóng BHTN trở lên.
Theo Luật việc làm năm 2013 thì thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được
tính theo số tháng đóng BHTN, cứ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng
03 tháng trợ cấp thất nghiệp, sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm
01 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng.
Trong khi đang hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng, NLĐ sẽ bị tạm dừng
hưởng trợ cấp thất nghiệp nếu: (i) Không thông báo hàng tháng theo đúng quy định
với Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội cấp huyện về việc tìm kiếm việc làm;
(ii) Bị tạm giam.
NLĐ bị tạm dừng hưởng trợ cấp thất nghiệp nếu vẫn còn thời gian được hưởng
theo quyết định thì tiếp tục hưởng trợ cấp thất nghiệp khi thực hiện thông báo về việc
tìm kiếm việc làm hằng tháng theo quy định tại Điều 52 của Luật Việc làm.
Điều 53 Luật Việc làm quy định về các trường hợp đang hưởng trợ cấp thất
nghiệp bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp, cụ thể như sau:
-Người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp
38
trong các trường hợp sau đây: (i) Hết thời hạn hưởng trợ cấp thất nghiệp; (ii) Tìm
được việc làm; (iii) Thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an; (iv) Hưởng lương
hưu hằng tháng; (v) Sau 02 lần từ chối nhận việc làm do trung tâm dịch vụ việc làm
nơi đang hưởng trợ cấp thất nghiệp giới thiệu mà không có lý do chính đáng; (vi)
Không thực hiện thông báo tìm kiếm việc làm hằng tháng theo quy định tại Điều 52
của Luật này trong 03 tháng liên tục; (vii) Ra nước ngoài để định cư, đi lao động ở
nước ngoài theo hợp đồng; (viii) Đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên; (ix) Bị
xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm pháp luật BHTN; (x) Chết; (xi) Chấp
hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt
buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; (xii) Bị tòa án tuyên bố mất tích; (xiii) Bị tạm giam;
chấp hành hình phạt tù.
Theo Luật BHXH năm 2006 các trường hợp bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất
nghiệp do có việc làm hoặc do thực hiện nghĩa vụ quân sự sẽ được hưởng khoản trợ
cấp một lần bằng giá trị của tổng mức trợ cấp thất nghiệp hàng tháng của số thời gian
được hưởng trợ cấp thất nghiệp còn lại.
Theo Luật việc làm năm 2013 NLĐ bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp
thuộc các trường hợp: Tìm được việc làm; Thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công
an; Đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên; Chấp hành quyết định áp dụng biện
pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
Bị tòa án tuyên bố mất tích; Bị tạm giam; chấp hành hình phạt tù thì thời gian đóng
BHTN tương ứng với thời gian còn lại mà NLĐ chưa nhận trợ cấp thất nghiệp được
bảo lưu làm căn cứ để tính thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp cho lần hưởng trợ cấp
thất nghiệp tiếp theo khi đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định.Thời
gian bảo lưu được tính bằng tổng thời gian đóng BHTN trừ đi thời gian đóng đã được
hưởng trợ cấp thất nghiệp theo nguyên tắc mỗi tháng đã hưởng trợ cấp thất nghiệp
tương ứng 12 tháng đã đóng BHTN.Việc chi trả trợ cấp thất nghiệp do cơ quan
BHXH thực hiện.
2.2.4.4. Chế độ hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm kiếm việc làm
Người hưởng trợ cấp thất nghiệp còn được hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm kiếm
39
việc làm. NLĐ đang hưởng trợ cấp thất nghiệp có nhu cầu học nghề được hỗ trợ học
một nghề thực hiện thông qua các cơ sở dạy nghề. Không hỗ trợ trực tiếp bằng tiền để
NLĐ tự học nghề. Mức hỗ trợ học nghề cho người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp
bằng mức chi phí học nghề ngắn hạn theo quy định của pháp luật về dạy nghề.
Trường hợp người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp có nhu cầu học nghề với mức chi
phí cao hơn mức chi phí học nghề ngắn hạn theo quy định của pháp luật th́ ì phần vượt
quá mức chi phí học nghề ngắn hạn do NLĐ chi trả. Thời gian được hỗ trợ học nghề
phụ thuộc vào thời gian đào tạo nghề của từng NLĐ, nhưng không quá sáu tháng.
NLĐ hưởng trợ cấp thất nghiệp được trung tâm giới thiệu việc làm tư vấn, giới thiệu
việc làm miễn phí. Việc hỗ trợ tìm việc làm phải phù hợp với trình độ đào tạo, kinh
nghiệm làm việc của NLĐ. Thời gian được hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm tính từ
ngày NLĐ được hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng và không quá tổng thời gian
mà NLĐ đó được hưởng trợ cấp thất nghiệp. Chi phí hỗ trợ học nghề, tư vấn, giới
thiệu việc làm do cơ quan BHXH chi trả. Hơn nữa, trong thời gian đang hưởng trợ cấp
thất nghiệp hàng tháng, NLĐ thất nghiệp được cơ quan BHXH cấp thẻ BHYT và
hưởng chế độ BHYT theo quy định của pháp luật về BHYT. Trường hợp chấm dứt
hưởng trợ cấp thất nghiệp thì NLĐ thất nghiệp không được hưởng quyền lợi về
BHYT. Quỹ BHTN đóng BHYT cho người đang hưởng TCTN.
2.2.4.5. Trách nhiệm giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp
Theo Nghị định 127/2008/NĐ-CP, sau khi NLĐ nộp hồ sơ hưởng BHTN theo
quy định, cơ quan lao động có trách nhiệm giải quyết trong thời hạn 20 ngày, kể từ
ngày nhận đủ hồ sơ.
Tại Nghị định 100/2012/NĐ-CP, việc giải quyết hưởng BHTN đã được quy
định cụ thể hơn về trình tự: Trong thời hạn 15 ngày (tính theo ngày làm việc) kể từ
ngày đăng ký thất nghiệp, NLĐ phải trực tiếp nộp hồ sơ hưởng BHTN cho cơ quan
lao động nơi NLĐ đăng ký thất nghiệp hoặc cơ quan lao động nơi chuyển đến để
hưởng BHTN.
Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ theo quy định, cơ quan
lao động có trách nhiệm tiếp nhận, xem xét và giải quyết hưởng các chế độ BHTN;
40
trường hợp không giải quyết thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị hỗ trợ học nghề của
người thất nghiệp, cơ quan lao động có trách nhiệm giải quyết; trường hợp không giải
quyết thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Thời hạn chi trả cho người lao động trong vòng 5 ngày kể từ ngày nhận được
quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp của cơ quan lao động, trong đó cơ quan BHXH
có trách nhiệm thực hiện chi trả tiền trợ cấp thất nghiệp hàng tháng và cấp thẻ BHYT
trong thời hạn 2 ngày. Trường hợp, cơ quan BHXH không thực hiện việc chi trả theo
đúng thời hạn quy định hoặc từ chối yêu cầu chi trả các chế độ BHTN không đúng
quy định của pháp luật thì cơ quan BHXH phải có văn bản thông báo cho cơ quan lao
động và NLĐ biết và nêu rõ lý do.
Việc ban hành các văn bản về trách nhiệm giải quyết hưởng TCTN cho người
lao động là nền tảng cơ bản cho quá trình thực hiện chức năng QLNN của cơ quan
BHXH nói chung để áp dụng trong thực tế có hiệu quả cao. Tuy nhiên, cần nhìn nhận
rõ ràng rằng thì hoạt động ban hành và quy định về trách nhiệm giải quyết TCTN của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tạo điều kiện quy trách nhiệm của cơ quan
nhà nước để các cơ quan nhà nước giải quyết chế độ cho NLĐ. Đồng thời, việc ban
hành các quy định này chính là hành lang pháp lý để thực hiện công tác về BHXH
ngày càng hoàn thiện và cụ thể hơn, dễ quản lý và tăng cường tính pháp chế trong
hoạt động QLNN về BHTN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thông qua các quy định trên thì việc hưởng TCTN là vấn đề mà hầu hết NLĐ
quan tâm, đặc biệt là khi NLĐ bị mất việc làm. BHTN khi đó là nguồn thu hàng tháng
trong một thời gian nhất định giúp NLĐ trang trải cuộc sống, giảm thiểu khó khăn,
đồng thời giúp NLĐ có cơ hội tham gia học nghề, được tư vấn, giới thiệu việc làm,
quay trở lại thị trường lao động tìm cho mình một công việc, có thu nhập ổn định hàng
tháng, ổn định cuộc sống, nâng cao mức sống, đem lại sự phát triển cho cá nhân và gia
đình, đồng thời giảm gánh nặng cho xã hội, góp phần xây dựng và phát triển đất nước.
41
2.3. Tình hình thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh
Cùng với sự ra đời của BHXH Việt Nam, BHXH Quảng Ninh được thành lập
23/8/1995 theo Quyết định số 133/QĐ/TCCB của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam
và chính thức đi vào hoạt động ngày 01/09/1995 trên cơ sở tiếp nhận nhiệm vụ từ Sở
LĐ - TB & XH, Liên đoàn lao động tỉnh, Sở tài chính vật giá và Cục thuế.
BHXH Quảng Ninh là cơ quan trực thuộc BHXH Việt Nam có chức năng giúp
Tổng giám đốc BHXH Việt Nam tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BHXH bắt
buộc, BHXH tự nguyện, BHTN; BHYT bắt buộc, BHYT tự nguyện; quản lý quỹ
BHXH, BHYT trên địa bàn tỉnh theo quy định của BHXH Việt Nam.
Các phòng trực thuộc BHXH Quảng Ninh có chức năng giúp Giám đốc
BHXH tỉnh tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao theo từng lĩnh vực chuyên
môn, nghiệp vụ theo quy định của Tổng giám đốc.
Song song với các lĩnh vực khác, kể từ ngày 1/1/2009 khi Luật về BHTN bắt
đầu có hiệu lực, BHXH tỉnh Quảng Ninh triển khai thực hiện công tác thu chi BHTN.
Sau hơn ba năm triển khai thực hiện chính sách BHTN cho NLĐ đã đạt được những
kết quả nhất định. Các kết quả này thể hiện ở các nội dung chính dưới đây:
2.3.1. Công tác thu bảo hiểm thất nghiệp
Thực hiện các quy định của pháp luật về BHTN tại tỉnh Quảng Ninh có sự gia
tăng đáng kể (xem bảng 2.1.)
Đơn vị
tham gia
Lao động
tham gia
Thu BHTN
Năm
BHTN
BHTN (người)
(triệu đồng)
2012
2014
203.027
262.276
2134
2015
209.103
198.792
2234
2016
214.480
217.910
2298
2017
217.910
238.083
2304
2018
221.091
243.127
(Nguồn: Báo cáo của BHXH tỉnh Quảng Ninh, giai đoạn 2014-2018)
Bảng 2.1: Công tác thu BHTN tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2014-2018
42
Qua số liệu ở Bảng 2.1 ta thấy các chỉ tiêu công tác thu BHTN qua các năm
đều có chiều hướng gia tăng, năm sau cao hơn năm trước. Năm 2014, số đơn vị tham
gia đóng BHTN là 2.012 đơn vị, với số lao động là 203027 lao động, tương ứng với số
thu BHTN là 262276 triệu đồng thì đến năm 2015, số đơn vị đã tăng lên là 2134 đơn
vị, số lao động tăng lên là 209.103 đơn vị và số thu BHTN là 198.792 triệu đồng.
Năm 2016, số đơn vị tham gia đóng BHTN là đơn vị, với số lao động là 203027 lao
động, tương ứng với số thu BHTN là 217.910 triệu đồng Năm 2017, số đơn vị tham
gia đóng BHTN là 2298 đơn vị, với số lao động là 217.910 lao động, tương ứng với
2304 đơn vị, với số lao động là 221.091 lao động, tương ứng với số thu BHTN là
243.127 triệu đồng
300000
262276
243127
238083
217910
250000
221091
217910
214480
209103
Đơn vị tham gia BHTN
203027
198792
200000
150000
100000
Lao động tham gia BHTN
50000
Thu BHTN
2298
2304
2234
2134
2012
0
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018
số thu BHTN là 238.083 triệu đồng Năm 2018, số đơn vị tham gia đóng BHTN là
Biều đồ 2.1: Biểu đồ về công tác thu BHTN tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn
(Nguồn: Báo cáo của BHXH tỉnh Quảng Ninh, giai đoạn 2014-2018)
2014-2018
Đạt được kết quả trên là nhờ công tác quản lí thu BHTN ngày càng đi vào nền
nếp, có các biện pháp hữu hiệu để quản lí chặt chẽ đối tượng tham gia và số thu
BHTN bắt buộc theo quy định; NLĐ ý thức được trách nhiệm và quyền lợi khi tham
gia BHTN; công tác thu ngày càng hoàn thiện, công tác tuyên truyền vận động và
43
phối hợp với các ban ngành liên quan trong việc thực hiện thu BHTN được đảm bảo;
trình độ cán bộ trực tiếp làm công tác thu BHTN không ngừng được nâng cao và đã
từng bước áp dụng công nghệ thông tin vào việc quản lí thu BHTN.
Trong những năm gần đây, sản xuất kinh doanh của các DN gặp nhiều khó
khăn đặc biệt là ngành than là ngành chủ đạo của tỉnh Quảng Ninh cũng gặp khó khăn
về vấn đề tiêu thụ, nhiêu DN phải thu hẹp quy mô sản xuất, cắt giảm lao động…
Nhưng nhìn chung, công tác thu BHTN nói riêng, công tác thu BHXH nói chung đã
được BHXH Quảng Ninh quan tâm và chú trọng hơn nhằm đảm bảo cho nguồn quỹ
bảo hiểm tránh được những thất thu, thất thoát đáng tiếc xảy ra. Do vậy mà tổng thu
BHTN liên tục tăng qua các năm với số thu năm sau cao hơn năm trước. Điều này có
thấy trách nhiệm, sự nỗ lực quyết tâm của BHXH Quảng Ninh nói chung và cán bộ
chuyên thu nói riêng ngày một tăng, luôn tận tình với công việc nhằm đảm bảo cho
nguồn quỹ BHTN được tăng trưởng. Đồng thời thể hiện sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước, các cơ quan ban ngành có liên quan đã phối hợp với cơ quan BHXH
Quảng Ninh và tạo điều kiện để cho cán bộ chuyên thu hoàn thành tốt kế hoạch đề ra.
Là một chính sách mới được triển khai, trong mười năm qua BHXH tỉnh
Quảng Ninh đã nỗ lực tổ chức thực hiện BHTN cho các đối tượng tham gia và khai
thác nguồn thu cho quỹ BHTN. Chính vì vậy, từ năm 2009 đến năm 2018, số đối
tượng tham gia BHTN tăng lên trông thấy.
2.3.2. Công tác chi, giải quyết các chế độ chính sách bảo hiểm thất nghiệp
Thực trạng chi, giải quyết các chế độ chính sách BHTN tại tỉnh Quảng Ninh
giai đoạn 2014-2018 được thể hiện ở bảng 2.2 dưới đây:
44
Bảng 2.2: Thực trạng chi, giải quyết các chế độ chính sách BHTN tại tỉnh
Trợ cấp thất nghiệp hàng tháng
Trợ cấp thất nghiệp một lần
Năm
Số lượt người Số tiền (triệu đồng) Số người Số tiền (triệu đồng)
2014
4.219
8.058,1
191
1,563
2015
4.011
12.895,5
2016
4.684
10.351,5
2017
7.885
20.214,8
2018
7.112
18.859,0
(Nguồn: Báo cáo BHXH tỉnh Quảng Ninh, giai đoạn 2014-2018)
Quảng Ninh giai đoạn 2014-2018
Qua bảng 2.2 ta thấy công tác chi BHTN trong 5 năm thực hiện ngày càng
tăng. BHTN có đặc điểm là việc chi trợ cấp được chia thành hai loại là trợ cấp thất
nghiệp hàng tháng và trợ cấp thất nghiệp một lần. từ ngày 01/01/2015 theo Luật Việc
làm không còn trợ cấp thất nghiệp một lần nữa, một số trường hợp chấm dứt hưởng
trợ cấp thất nghiệp thì thời gian đóng BHTN chưa hưởng sẽ được bảo lưu. Với trợ cấp
thất nghiệp hàng tháng, năm 2010 số lượt người được nhận trợ cấp là 540 lượt người,
tương ứng với số chi là 1.393 triệu đồng, năm 2014 số lượt người được nhận trợ cấp là
4.219 lượt người, tương ứng với số tiền chi là 8.058,1 triệu đồng thì đến năm 2018 số
lượt người được nhận trợ cấp là 7.112 lượt người tương ứng với số chi BHTN là
18.859 triệu đồng.
25000
20214.8
18859.0
20000
15000
12895.5
Số người nhận TCTN hàng tháng
10351.5
10000
8058.1
7885
7112
4684
4219
4011
5000
Số tiền nhận TCTN hàng tháng
0
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018
45
Biểu đồ 2.2. Đồ thị hóa chi, giải quyết các chế độ chính sách BHTN tại tỉnh
(Nguồn: Báo cáo BHXH tỉnh Quảng Ninh, giai đoạn 2014-2018)
Quảng Ninh giai đoạn 2014-2018 (nhận trợ cấp thất nghiệp hàng tháng)
Cùng với việc chi trả trợ cấp thất nghiệp thì việc tư vấn, giới thiệu việc làm và
hỗ trợ học nghề được coi là một nhiệm vụ quan trọng của chính sách BHTN, giúp
NLĐ nhanh chóng tái hòa nhập lại thị trường lao động. Tuy nhiên, thực tế tại các địa
phương cho thấy sau hơn chín năm thực hiện, NLĐ khi thất nghiệp mới chỉ quan tâm
đến việc nhận được bao nhiêu tiền trợ cấp chứ chưa thật sự quan tâm đến cái gốc của
chính sách là hỗ trợ học nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm mới nên hiệu quả của công
tác này khá thấp. Tỉnh Quảng Ninh không phải là ngoại lệ. Trong quá trình tìm hiểu
thực tế công tác thực hiện BHTN tại Quảng Ninh có thể thấy hiện nay chưa ghi nhận
trường hợp lao động được tư vấn, giới thiệu việc làm hay hỗ trợ học nghề. Đây cũng
là tình trạng chung của nhiều địa phương. Nguyên nhân chủ yếu là mức hỗ trợ học
nghề cho NLĐ thất nghiệp theo quy định hiện nay là tương đối thấp, mức hỗ trợ kinh
phí đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề tối đa 01 triệu
đồng/người/tháng.
* Về chế độ hỗ trợ tư vấn giới thiệu việc làm cho lao động đang hưởng TCTN
TCTN được TTDVVL tỉnh giao cho phòng BHTN và trung tâm tư vấn giới thiệu
Tại Quảng Ninh, công tác hỗ trợ tư vấn giới thiệu việc làm cho NLĐ đang hưởng
việc làm phối hợp thực hiện. Quá trình NLĐ được hỗ trợ tư vấn giới thiệu việc làm
như sau: Sau khi NLĐ đã nộp hồ sơ xin hưởng TCTN tại phòng BHTN, thì họ sẽ
được giới thiệu sang trung tâm tư vấn, giới thiệu việc làm của tỉnh để được tư vấn
giới thiệu việc làm miễn phí. Phía trung tâm sẽ cung cấp thông tin tuyển dụng của
các DN trên địa bàn và cả các tỉnh khác, cũng như thông tin về vị trí việc làm, mức
thu nhập, thời gian làm việc, chế độ BHXH khác nếu có
Để triển khai tốt chính sách BHTN, thời gian qua, Trung tâm Dịch vụ việc
làm tỉnh đã phối hợp chặt chẽ với các phòng chuyên môn liên quan của Sở
LĐ-TB&XH, BHXH tỉnh để xử lý những vướng mắc trong quá trình thực hiện
chính sách và chi trả trợ cấp thất nghiệp đảm bảo đúng, kịp thời cho NLĐ. Bên
cạnh đó, phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng
Bưu điện Liên Việt thực hiện việc mở, chi trả trợ cấp thất nghiệp qua tài khoản thẻ
ATM. Năm 2017, toàn tỉnh có 7.344 người nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất
nghiệp, 11.452 lượt người thất nghiệp được tư vấn việc làm, 307 người được giới
thiệu việc làm, 182 người được hỗ trợ học nghề theo đúng quy định của pháp luật.
Riêng 3 tháng đầu năm 2018, toàn tỉnh có 871 người nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ
cấp thất nghiệp, 1.607 lượt người thất nghiệp được tư vấn việc làm, 8 người được
giới thiệu việc làm mới. (Nguồn: Báo cáo của Sở LĐ – TB & XH)
46
* Đối với công tác tuyên truyền
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 6 điểm tiếp nhận hồ sơ BHTN được phân bổ đều
ở các địa phương với khoảng cách đều dưới 60km. Đây là khoảng cách phù hợp với
yêu cầu của Cục Việc làm (Bộ LĐ-TB&XH) và giúp NLĐ không phải di chuyển quá
xa. Cụ thể:
6 điểm tiếp nhận hồ sơ BHTN trên địa bàn tỉnh gồm: (i) Tại Trung tâm Hành
chính công tỉnh (TP Hạ Long), tiếp nhận cho địa bàn Hạ Long, Hoành Bồ; (ii) Tại trụ
sở của Trung tâm Dịch vụ việc làm chi nhánh Uông Bí tại ngã ba cầu Sến, phường
Phương Đông, TP Uông Bí, tiếp nhận cho Uông Bí, Đông Triều, Quảng Yên; (iii) Tại
Trung tâm Hành chính công TP Cẩm Phả, tiếp nhận cho Cẩm Phả, Vân Đồn; (iv) Tại
47
Trung tâm Hành chính công Tiên Yên, tiếp nhận cho Tiên Yên, Ba Chẽ, Bình Liêu,
Đầm Hà; (v) Tại trụ sở của Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh tại số 35, đường Hữu
Nghị, phường Trần Phú, TP Móng Cái, tiếp nhận cho Móng Cái, Hải Hà; (vi) Ủy thác
cho Phòng LĐ-TB&XH huyện Cô Tô để tiếp nhận hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp
trên địa bàn huyện Cô Tô.
Tại 4 thành phố của tỉnh gồm: Hạ Long, Uông Bí, Móng Cái, Cẩm Phả hiện
đều có sàn giao dịch việc làm định kỳ. Ngoài ra, hằng năm, Trung tâm Dịch vụ việc
làm tỉnh cũng phối hợp với các địa phương trên địa bàn tỉnh tổ chức các phiên giao
dịch việc làm lưu động tại các địa phương. Đây là cách làm nhằm tạo điều kiện thuận
lợi để NLĐ nói chung và lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp nói riêng có thể dễ
dàng tham gia tìm kiếm việc làm và học nghề. Để chính sách BHTN ngày càng đi vào
cuộc sống, công tác thông tin, tuyên truyền về chính sách này tiếp tục được Trung tâm
Dịch vụ việc làm tỉnh hết sức chú trọng. Hằng năm, Trung tâm phối hợp với Đài Phát
thanh truyền hình tỉnh, Báo Quảng Ninh, Liên đoàn lao động tỉnh, Phòng Lao động
Thương binh và Xã hội các huyện thị xã, thành phố để thực hiện công tác tuyên
truyền. Đồng thời, thường xuyên cử cán bộ đi cơ sở, về tận địa bàn các huyện, DN,
đơn vị sự nghiệp và các trường học, trường nghề hướng dẫn, trao đổi, tổ chức tọa đàm
về chính sách BHTN.
Bên cạnh đó, nội dung tuyên truyền về BHTN cũng được lồng ghép trong các
chương trình tập huấn của Sở LĐ-TB&XH cho các đơn vị, doanh nghiệp cũng như
thông qua các hội nghị tuyên truyền phổ biến và đối thoại pháp luật về BHXH,
BHYT, BHTN giữa Sở LĐ-TB&XH với LĐLĐ tỉnh, BHXH tỉnh...Đối với việc tiếp
nhận, xử lý hồ sơ BHTN tại các trung tâm hành chính công, Trung tâm Dịch vụ việc
làm tỉnh thường xuyên quan triệt, chỉ đạo cán bộ, viên chức phụ trách tiếp nhận, xử lý
đảm bảo 100% các thủ tục hành chính về BHTN thực hiện trên phần mềm chính
quyền điện tử không bị quá hạn, báo đỏ trên hệ thống.
Mức hỗ trợ cụ thể được tính theo tháng, thời gian học thực tế của từng nghề
hoặc từng khóa học nhưng không quá 06 tháng; thời gian hỗ trợ học nghề ngắn; danh
mục ngành nghề đào tạo còn đơn giản, không đa dạng nên không thu hút được NLĐ
48
tham gia. Một nguyên nhân khác lý giải tỉnh trạng này là hiện nay người thất nghiệp
chủ yếu là lao động phổ thông, trong khi nhu cầu lao động phổ thông rất lớn cho nên
NLĐ dễ dàng tìm được việc làm sau khi mất việc. Ngoài ra, các DN cũng chủ yếu
tuyển dụng lao động phổ thông, dù NLĐ có qua đào tạo họ cũng chỉ trả lương theo vị
trí công việc của lao động phổ thông.
2.4. Đánh giá về thực trạng thực hiện pháp luật về BHTN ở tỉnh Quảng Ninh
trong thời gian qua
Qua mười năm triển khai và thực hiện chính sách BHTN đã khẳng định đây là
chính sách đúng đắn có tác động trực tiếp, thiết thực tới NLĐ, NSDLĐ, góp phần
đảm bảo an sinh xã hội, được NSDLĐ, NLĐ đón nhận một cách tích cực, được dư
luận xã hội đánh giá là một trong những chính sách sớm đi vào cuộc sống. Với những
kết quả đã đạt được trong những năm qua ta thấy việc tổ chức công tác thu BHTN đã
ngày một nâng cao, công tác quản lý cũng dần dần hình thành và đi vào ổn định. Đạt
được những kết quả trên, trước hết đó là sự hoàn thiện từng bước trong quy định quản
lý thu BHTN. Việc cụ thể hóa từng khâu trong công tác thu BHTN đã tạo đà cho việc
triển khai thực hiện thu BHTN một cách có hiệu quả. Nếu đánh giá một cách cụ thể có
thể thấy trong hệ thống văn bản quản lý quy định về thu BHTN nói riêng và thu
BHXH nói chung đã được quan tâm đúng mức và không ngừng được hoàn thiện.
Tuy còn mới mẻ nhưng chính sách về BHTN đã đi vào đời sống của người dân
và thu hút được nhiều lao động tham gia, giúp NLĐ bị mất việc làm phần nào ổn định
cuộc sống để tiếp tục quay trở lại thị trường lao động.
Đội ngũ cán bộ BHXH nói chung và bộ phận cán bộ làm công tác thu BHTN
nói riêng đã từng bước được rèn luyện và trưởng thành hơn về phẩm chất chính trị,
am hiểu chính sách liên quan đến chế độ BHTN; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
được nâng cao và tích lũy được những kinh nghiệm quản lý nhất định đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao của quản lý.
2.4.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện bảo hiểm thất nghiệp
Một là,về chỉ đạo, điều hành. Sở LĐ – TB &XH giao cho Phòng Lao động,
49
Việc làm, Tiền lương - BHXH tham mưu, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
BHTN; giao Trung tâm Dịch vụ việc làm Quảng Ninh (gọi tắt là Trung tâm) thực hiện
các nhiệm vụ trực tiếp về BHTN. Tham mưu cho UBND tỉnh ban hành các văn bản
chỉ đạo, hướng dẫn các DN, đơn vị sử dụng lao động thực hiện các quy định về pháp
luật lao động, BHXH và BHTN; xây dựng, ban hành quy trình, quy chế phối hợp
trong việc thực hiện chính sách BHTN cho NLĐ. Trang bị đầy đủ máy, thiết bị phục
vụ cho nhiệm vụ thực hiện BHTN tại các trụ sở, địa điểm tiếp nhận, giải quyết thủ tục
hành chính (TTHC) về BHTN, công tác tư vấn. Ngoài việc bố trí thực hiện các thủ tục
hành chính về BHTN, tư vấn giới thiệu việc làm, tư vấn đào tao nghề cho NLĐ tại các
cơ sở của Trung tâm; Sở còn chỉ đạo triển khai thực hiện tại Trung tâm Hành chính
công của tỉnh và ký hợp đồng uỷ thác với phòng LĐ – TB &XH huyện Cô Tô (nơi
chưa có trụ sở).
Hai là, về công tác thông tin tuyên truyền. Hằng năm, Sở LĐ – TB &XH xây
dựng kế hoạch, chủ trì, phối hợp với các ban, ngành (Ban quản lý Khu kinh tế, Liên
đoàn lao động, BHXH tỉnh) tổ chức các hội nghị tập huấn, tuyên truyền để phổ biến
chế độ, chính sách về BHXH, BHTN cho các cơ quan, đơn vị, DN và NLĐ trên địa
bàn tỉnh; tổ chức đối thoại, giải đáp vướng mắc trong quá trình thực hiện các chế độ
BHXH nói chung, BHTN nói riêng; phối hợp với các cơ quan báo đài tuyên truyền
trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Tổ chức in ấn, phát tờ rơi, pano, treo băng rôn phướn thả tại các khu vực đông
dân cư vào các ngày tổ chức sàn giao dịch việc làm định kỳ tại Trung tâm, các thành
phố Uông Bí, Cẩm Phả, Móng Cái và các phiên lưu động.
Ba là, Kết quả thực hiện.
Về công tác tiếp nhận hồ sơ, giải quyết TTHC về BHTN
Từ năm 2010 đến 31/12/2018, tỉnh Quảng Ninh đã thực hiện:
1. Số người nộp hồ sơ đề nghị hưởng TCTN: 37.818 người
2. Số người có quyết định hưởng TCTN hằng tháng: 34.862 người
3. Số người hủy hưởng TCTN: 420 người
50
4. Số người chuyển nơi hưởng TCTN đi địa phương khác: 312 người
5. Số người tạm dừng hưởng TCTN: 907 người
6. Số người tiếp tục hưởng TCTN: 365 người
7. Số người có quyết định chấm dứt hưởng TCTN: 6.788 người
8. Số người được hỗ trợ học nghề: 774 người
9. Số người thất nghiệp được tư vấn GTVL: 28.601 người
10. Số người được giới thiệu việc làm: 1.682 người
11. Số tiền chi trả trợ cấp thất nghiệp: 106.247.756.000đ
12. Số tiền hỗ trợ học nghề cho người đang hưởng TCTN: 2.728.000.000đ
13. Số người hưởng TCTN 1 lần (đến hết năm 2014): 1.020 người
Việc đạt được kết quả như trên đã và đang đảm bảo cho quá trình thực hiện
hoạt động chi trả cho hoạt động hưởng BHTN trong hoạt động áp dụng trong thực tế.
Công tác tiếp nhận hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp (TCTN): Giao cho
Trung tâm thực hiện việc tiếp nhận tại 06 địa điểm cố định; bố trí 13 cán bộ làm công
tác tiếp nhận hồ sơ, tư vấn, giới thiệu việc làm và tư vấn hỗ trợ học nghề cho NLĐ.
Ngoài ra, khi có vụ việc phát sinh cần phải xử lý nhanh trong thời gian ngắn
với số lượng lớn, Sở đã chỉ đạo Trung tâm tổ chức trực tiếp tiếp nhận hồ sơ tại trụ sở
của DN để hỗ trợ cho NLĐ.
Về thực hiện chi trả trợ cấp BHTN:
Để thực tốt việc tiếp nhận hồ sơ, giải quyết trợ cấp hằng tháng về BHTN cho
NLĐ, Sở Lao động LĐ – TB &XH phối hợp với BHXH tỉnh ban hành Quy trình phối
hợp số 389-QTPH/LĐTBXH-BHXH ngày 10/3/2016 về triển khai chi trả BHTN qua
tài khoản thẻ ATM cho người hưởng; Qui trình phối hợp số
1187-QCPH/LĐTBXH-BHXH ngày 05/6/2017 về việc thực hiện giải quyết, chi trả
BHTN. Trong cả giai đoạn, công tác tiếp nhận hồ sơ, chi trả trợ cấp cho NLĐ được
thực hiện kịp thời chính xác; trong quá trình chi trả thường xuyên phối hợp trao đổi để
xử lý, giải quyết dừng chi trả theo các quy định (không đến nhận quyết định; hoặc vừa
51
hưởng lương hưu vừa hưởng TCTN; hoặc đang hưởng TCTN nhưng vẫn tham gia
BHXH bắt buộc..).
Về công tác phối hợp trong việc thực hiện BHTN
Hằng năm, Sở đã ký kết chương trình phối hợp với BHXH tỉnh, Liên đoàn Lao
động tỉnh để triển khai thực hiện nhiệm vụ liên quan đến lĩnh vực công tác của ngành
với các nội dung sau:
- Phối hợp với BHXH tỉnh xây dựng quy trình phối hợp thực hiện giải quyết
chế độ BHTN trên địa bàn toàn tỉnh.
- Phối hợp với BHXH tỉnh, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn
tỉnh, Ngân hàng Bưu điện Liên Việt thực hiện chi trả trợ cấp thất nghiệp cho NLĐ qua
thẻ ATM.
- Phối hợp với các cơ sở Dạy nghề trên địa bàn tỉnh để làm tốt chính sách Hỗ
trợ học nghề cho NLĐ.
- Phối hợp thực hiện việc xử lý vi phạm hành chính về BHXH, BHTN theo
Nghị định 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013; Nghị định 88/2015/NĐ-CP ngày
07/10/2015 của Chính Phủ và văn bản hướng dẫn số 524/TTr-BHXH ngày
22/11/2013 của Thanh tra Bộ LĐ – TB &XH. Phối hợp giải quyết về đơn thư hỏi, đề
nghị.
- Phối hợp rà soát DN dân doanh; khai thác, mở rộng đối tượng tham gia và thu
hồi nợ đọng BHXH, BHYT, BHTN.
- Phối hợp nắm bắt tình hình, tham gia giải quyết, kiến nghị với các cơ quan có
thẩm quyền giải quyết những vướng mắc, bất cập, kiến nghị của các đơn vị, DN về
chính sách BHXH, BHTN.
- Phối hợp xây dựng kế hoạch phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHTN
giai đoạn 2017-2020 để tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh trình Hội đồng nhân dân
tỉnh ban hành và giao kế hoạch cho Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố.
- Gửi BHXH tỉnh các văn bản ban hành theo thẩm quyền và các văn bản chỉ
đạo liên quan đến chế độ, chính sách BHXH, BHTN; các Quyết định xử phạt vi phạm
52
hành chính và các kết luận thanh tra, kiểm tra đối với các đơn vị vi phạm pháp luật về
BHXH, BHYT,BHTN; phối hợp với cơ quan BHXH tỉnh trong việc khởi kiện ra tòa
những đơn vị nợ đọng BHXH, BHYT, BHTN điển hình; thông tin về tình hình lao
động, tiền lương, việc làm, đào tạo nghề trên địa bàn quản lý; các báo cáo thanh tra,
kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp
luật về BHXH.
Công tác kiểm tra, xử lý các trường hợp vi phạm:
Trong quá trình thực hiện, thường xuyên kiểm tra, rà soát đối tượng hưởng
TCTN hằng tháng, kịp thời phát hiện, tạm dừng chi trả và có quyết định thu hồi
TCTN đối với những trường hợp hưởng sai; đối với những trường hợp vi phạm, tiến
hành lập biên bản, ban hành quyết định xử phạt hành chính.
2.4.2. Đánh giá chung
2.4.2.1. Những thuận lợi trong việc thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
Việc thực hiện chính sách BHTN trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh được sự quan
tâm chỉ đạo đồng bộ từ Cục Việc làm, Bộ Lao động Lao động, Thương binh và Xã
hội, Uỷ ban nhân dân tỉnh, các Sở ngành liên quan tạo thuận lợi để Sở Lao động - Lao
động, Thương binh và Xã hội chủ trì thực hiện.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm hướng dẫn, triển khai thực hiện
được ban hành đồng bộ, phù hợp, đáp ứng được yêu cầu tiếp nhận và giải quyết chế
độ BHTN, chi trả trợ cấp thất nghiệp.
Công tác phối hợp giữa ngành LĐ – TB &XH và BHXH tỉnh trong việc tuyên
truyền, chia sẻ thông tin, kịp thời giải quyết các vướng mắc trong quá trình triển khai
thực hiện.
Ngành LĐ – TB &XH Quảng Ninh luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo của Bộ LĐ – TB &XH, Cục Việc làm, của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân tỉnh và sự phối hợp tạo điều kiện có hiệu quả của các Sở, Ban, Ngành, các
cấp ủy, chính quyền địa phương trong việc tổ chức thực hiện chính sách BHTN cho
NLĐ.
Cán bộ thực hiện giải quyết chế độ BHTN tại Trung tâm Dịch vụ việc làm
53
Quảng Ninh có ý thức, thường xuyên tự nghiên cứu, học tập để nâng cao kỹ năng giao
tiếp, tư vấn giới thiệu việc làm; nghiêm túc thực hiện đúng quy định về thời gian, quy
trình tiếp nhận và giải quyết hưởng BHTN đối với NLĐ.
Quảng Ninh đã tạo được thực thi BHTN cho tỉnh Quảng Ninh giao dịch thân
thiện giữa NLĐ và cán bộ, chuyên viên của Trung tâm nói chung; nhất là cán bộ, viên
chức thực hiện chính sách BHTN. Tỉnh Quảng Ninh cũng đã làm tốt công tác ứng
dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý BHTN.
2.4.2.2. Những bất cập trong việc thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
Thứ nhất, đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp còn hạn chế.
Điều 43 khoản 1 Luật Việc làm 2013 quy định: “Đối tượng bắt buộc tham gia
bảo hiểm thất nghiệp: 1. Người lao động phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp khi làm
việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc như sau: a) Hợp đồng lao động
hoặc hợp đồng làm việc không xác định thời hạn; b) Hợp đồng lao động hoặc hợp
đồng làm việc xác định thời hạn; c) Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một
công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng”. Theo báo cáo của
Cục Việc làm (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), số người tham gia BHTN
đang tăng dần qua các năm, nhất là từ khi Luật Việc làm có hiệu lực vào năm 2015.
Năm 2009, chỉ có 5,9 triệu người tham gia BHTN thì năm 2015, số người tham gia
BHTN tăng lên 10,3 triệu người, tăng 173% so với năm 2009; năm 2018, cả nước có
12,68 triệu người tham gia BHTN với số thu 15.531 tỷ đồng, đạt 101,1% kế hoạch
Thủ tướng Chính phủ giao, chiếm khoảng 26,2 lực lượng lao động trong độ tuổi.
Như vậy, các đối tượng là cán bộ, công chức, người làm việc trong lực lượng
vũ trang; người giao kết hợp đồng lao động dưới 03 tháng hay các đối tượng là người
lao động thuộc khu vực phi chính thức không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm thất
nghiệp. Trong khi đó, tại Việt Nam, tính đến cuối năm 2017, tỉ lệ lao động khu vực
phi chính thức chiếm 57,2% - tương đương hơn 18 triệu người. Điều này khiến cho
khối lao động phi chính thức thiếu sự bảo vệ của xã hội, của pháp luật, cũng như hạn
chế sự đảm bảo các quyền tại nơi làm việc và điều kiện lao động thỏa đáng. Mặc dù
việc quy định như hiện hành cũng có điểm tích cực là những đối tượng bắt buộc tham
54
gia là các đối tượng ít bị thất nghiệp hơn so với người lao động trong khu vực phi
chính thức. Từ đó, việc đảm bảo quản lý Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp cũng thuận lợi
hơn. Tuy nhiên, để xét đến nguyên tắc công bằng trong chế độ bảo hiểm thất nghiệp
này thì việc quy định như hiện hành vẫn cần được xem xét để tăng diện tiếp cận đối
tượng áp dụng.
Hai là, các chế độ trong bảo hiểm thất nghiệp mới tập trung nhiều vào chi
trả trợ cấp thất nghiệp mà hạn chế trong việc đào tạo nghề.
Theo quy định tại Điều 42 Luật Việc làm 2013 thì các chế độ bảo hiểm thất
nghiệp đang triển khai bao gồm: (i) Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ
năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động; (ii) Trợ cấp thất nghiệp; (iii) Hỗ trợ
tư vấn, giới thiệu việc làm; (iv) Hỗ trợ học nghề. Trong 04 chế độ bảo hiểm thất
nghiệp mà Luật đề cập thì Trợ cấp thất nghiệp về bản chất là giải pháp bù đắp tạm
thời, giải quyết phần ngọn của vấn đề thất nghiệp. Trong khi đó, Hỗ trợ học nghề mới
là giải quyết phần gốc, giúp cho người lao động nhanh chóng có được công việc mới.
Tuy nhiên, giai đoạn 2010-2016, chỉ có 89.375 người được hỗ trợ học nghề trong
tổng số 2.912.123 người được tư vấn giới thiệu việc làm (chiếm tỷ lệ 3.07%) và
2.949.249 người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng (chiếm tỷ lệ
3.03%). Điều này phản ánh thực tế là người lao động bị mất việc làm chưa “mặn mà”
với mức hỗ trợ học nghề, hay đúng hơn là việc hỗ trợ học nghề chưa mang lại hiệu
quả với họ. Thiết nghĩ, pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp cần cân nhắc mức hỗ trợ vật
chất, chế độ học nghề đối với lao động thất nghiệp để chế độ này thật sự là biện pháp
cốt yếu để giải quyết thất nghiệp.
Ba là, quy định pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp đang quy định chế độ
hướng đến người lao động mà chưa chú trọng vào đảm bảo mối quan hệ duy trì
việc làm giữa người sử dụng lao động với người lao động.
Chế độ bảo hiểm thất nghiệp bao gồm 04 chế độ, tuy nhiên, chỉ có duy nhất
Chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trí việc làm
cho người lao động là chế độ hướng tới người sử dụng lao động. Để được nhận kinh
phí hỗ trợ theo chế độ này, doanh nghiệp cần đáp ứng đủ các điều kiện bao gồm: (i)
55
Đóng đủ bảo hiểm thất nghiệp theo quy định tại Khoản 2 Điều 44 Luật Việc làm liên
tục từ đủ 12 tháng trở lên tính đến tháng liền trước của tháng đề nghị hỗ trợ kinh phí
đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao
động hoặc đến tháng của ngày đề nghị hỗ trợ kinh phí để đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động nếu người sử dụng lao
động đã đóng bảo hiểm thất nghiệp của tháng đó; (ii) Gặp khó khăn do suy giảm kinh
tế hoặc vì lý do bất khả kháng buộc phải thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ sản xuất,
kinh doanh và dẫn đến nguy cơ phải cắt giảm số lao động hiện có từ 30% hoặc từ 50
lao động trở lên đối với người sử dụng lao động có sử dụng từ 300 lao động trở xuống
và từ 100 lao động trở lên đối với người sử dụng lao động có sử dụng trên 300 lao
động, không kể lao động giao kết hợp đồng lao động với thời hạn dưới 03 tháng; (iii)
Không đủ kinh phí để tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho
người lao động được xác định thông qua báo cáo sản xuất, kinh doanh của năm trước
thời điểm đề nghị hỗ trợ mà bị lỗ có xác nhận của cơ quan thuế; (iv) Có phương án
đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề và duy trì việc làm được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Trong các điều kiện nêu trên, điều kiện thứ nhất không chỉ rõ điều kiện bắt
buộc đóng bảo hiểm thất nghiệp đầy đủ phải bao gồm việc đóng bảo hiểm thất nghiệp
cho toàn bộ người lao động hay chỉ là phần lớn người lao động trong doanh nghiệp
đó. Trường hợp có một số người lao động mới ký hợp đồng lao động, hoặc hợp đồng
chưa đủ 12 tháng làm việc, đồng thời người sử dụng chưa đóng đủ bảo hiểm thất
nghiệp cho 12 tháng cho nhóm lao động này thì việc xem xét cho hưởng chế độ này
đối với người sử dụng lao động sẽ được thực hiện như thế nào.
Bốn là, việc áp dụng chế tài đối với các hành vi gian lận, trốn đóng bảo
hiểm thất nghiệp vẫn còn hạn chế, việc áp dụng và xử lý hình sự còn thiếu mặc dù
đã có quy định.
Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2018 đã ghi nhận các tội danh liên quan đến vi phạm về nghĩa vụ đóng
bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: Điều 214. Tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
56
nghiệp và Điều 216. Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp cho người lao động. Điều này khẳng định hành vi gian lận, trốn đóng bảo hiểm
xã hội là hành vi nguy hiểm cho xã hội và cần phải trừng trị bằng hình phạt trong pháp
luật hình sự. Tuy nhiên, kể từ thời điểm Bộ luật có hiệu lực đến nay, chưa có bất kỳ
một doanh nghiệp nào bị khởi tố về tội danh trốn đóng bảo hiểm thất nghiệp, dù cho
ngành Bảo hiểm xã hội đã chuyển sang cơ quan điều tra gần 200 hồ sơ doanh nghiệp
có hành vi theo tội danh quy định. Việc chậm trễ này xuất phát từ việc quy định
hướng dẫn chưa được thống nhất ban hành từ Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Tòa án nhân
dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Điều này gây ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền lợi của người lao động bị mất việc làm tại không chỉ doanh nghiệp bị nợ bảo
hiểm thất nghiệp mà còn gây tâm lý bất an cho chính những người lao động ở các
doanh nghiệp khác.
Điểm bất cập ở chỗ, trong điều kiện Việt Nam hiện nay, khi tiền lương được
coi là căn cứ đóng bảo hiểm không phải là toàn bộ thu nhập và trong nhiều trường hợp
không phải là mức tiền lương thực tế hưởng của NLĐ, do vậy sẽ dẫn đến sự chênh
lệch nhiều về mức sống của người đang tham gia quan hệ lao động và người nghỉ
hưởng chế độ. Trong trợ cấp thất nghiệp, nếu quy định mức hưởng quá thấp sẽ không
đảm bảo được giá trị của trợ cấp và mục đích của bảo hiểm, tuy nhiên nếu quy định
quá cao sẽ gây khó khăn cho quỹ. Vì vậy, người viết cho rằng, việc xác định mức 60%
theo Luật Việc làm là tương đối phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay.
2.4.2.3. Nguyên nhân tồn tại những bất cập trong thực hiện pháp luật về
BHTN.
Một số các DN chưa nhận thức đầy đủ quyền lợi và trách nhiệm của mình về
BHTN, do đó còn xảy ra tình trạng DN chậm đóng và nợ đọng BHXH, BHTN nên
không chốt được Sổ BHXH gây ảnh hưởng đến quyền lợi của NLĐ, ảnh hưởng đến
công tác thực hiện chính BHTN.
Nhận thức của NLĐ, NSDLĐ chưa đầy đủ về Luật Việc làm nên vẫn còn một
số trường hợp không khai báo hoặc khai báo không trung thực đã có việc làm mới để
hưởng trợ cấp thất nghiệp.
57
Việc kết nối liên thông giữa cơ sở dữ liệu của Trung tâm Dịch vụ việc làm với
cơ quan BHXH chưa được thực hiện. Do vậy, việc quản lý NLĐ trong quá trình
hưởng các chế độ BHTN còn thủ công; do đó vẫn còn tình trạng NLĐ đã tham gia
BHXH bắt buộc nhưng vẫn hưởng trợ cấp BHTN, mất nhiều thời gian trong quá trình
tổ chức thực hiện.
Do số lượng người hưởng TCTN ngày càng nhiều, thời hạn chi trả cho NLĐ
trong 5 ngày kể từ ngày nhận quyết định của Sở LĐ - TB&XH trong đó cán bộ BHXH
được xử lý trong 02 ngày đòi hỏi thời gian giải quyết hồ sơ phải nhanh hơn, gây áp lực
công việc rất lớn cho cơ quan BHXH.
Việc theo dõi quá trình hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng của NLĐ rất khó
khăn, phức tạp do trên cùng một hồ sơ hưởng nhưng có nhiều quyết định (quyết định
hưởng hằng tháng, quyết định tạm dừng, quyết định tiếp tục hưởng,v.v…).
Chưa liên thông được dữ liệu chi BHTN và thu BHXH để kiểm tra, rà soát,
phát hiện các trường hợp hưởng BHTN nhưng vẫn báo tăng lao động ở các cơ quan,
đơn vị nhất là trường hợp truy thu cộng nối thời gian tham gia BHXH.
Hiện nay Trung tâm đang sử dụng đồng thời 02 phần mềm BHTN 2017 của
Cục Việc làm và phần mềm chính quyền điện tử của tỉnh Quảng Ninh. Tại Trung tâm
Hành chính công (HCC), mọi thủ tục đều phải thực hiện trên phần mềm chính quyền
điện tử, phần mềm này chỉ có mục đích duy nhất là kiểm soát về mặt thời gian, quy
trình tiếp nhận và trả kết quả đúng thời hạn chưa, nếu giải quyết không kịp thời thì sẽ
bị báo đỏ trên hệ thống, phần mềm này không hỗ trợ cán bộ làm nghiệp vụ mà ngược
lại còn làm mất thời gian của cán bộ vì vừa thực hiện việc tiếp nhận hồ sơ hưởng
TCTN cùng lúc phải thực hiện nhập dữ liệu vào cả 02 phần mềm (BHTN&HCC) dẫn
đến hiệu suất thực hiện không cao, hầu hết thời gian quy định chỉ thực hiện được việc
nhập dữ liệu vào 02 phần mềm, thẩm định hồ sơ và viết phiếu trả kết quả, không còn
thời gian thực hiện việc tư vấn cho lao động.
Việc kết nối chia sẻ thông tin với cơ quan BHXH, Trung tâm không trực tiếp
thực hiện được kết nối được vì hệ thống phần mềm BHTN là do Cục Việc làm quản lý
và phần mềm BHXH do BHXH Việt Nam quản lý do vậy việc kết nối phải được thực
58
hiện từ tuyến TW.
Nhận thức của NLĐ còn hạn chế (cá biệt còn lợi dụng để gian lận) đã có việc
làm mới nhưng không khai báo hoặc khai báo không trung thực với trung tâm dịch vụ
việc làm để hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Chưa có kết nối phần mềm quản lý BHTN giữa ngành LĐ- TB&XH với cơ
quan BHXH nên chưa giảm bớt được thủ tục hành chính và việc kiểm tra, kiểm soát
chưa được kịp thời, khó tránh tình trạng gian lận BHTN. Việc tiếp nhận hồ sơ của
NLĐ đề nghị hưởng TCTN phải thực hiện cùng một lúc trên hai phần mềm nên mất
nhiều thời gian, ảnh hưởng đến kết quả tư vấn cho NLĐ.
Bên cạnh những thành tích đã đạt được, trong quá trình thực hiện BHTN trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian qua vẫn còn một số mặt hạn chế, bất cấp cần
nghiên cứu rút kinh nghiệm và sớm có biện pháp khắc phục. Các tồn tại chính ảnh
hưởng đến việc thực hiện BHTN của tỉnh Quảng Ninh bao gồm:
Thực tế, hiện nay quy mô DN nhỏ, siêu nhỏ, các tổ hợp sản xuất với số lượng
lao động chiếm một tỉ lệ không nhỏ. Những đối tượng làm việc trong các DN nhỏ,
hoặc có giao kết dưới 12 tháng không được tham gia BHTN gây thiệt thòi cho họ,
trong khi đây là đối tượng có nguy cơ mất việc làm cao hơn. Đồng thời cũng không ít
DN cố tình khai giảm lao động xuống dưới 10 người để trốn đóng BHTN, gây khó
khăn cho công tác thu BHTN và bảo đảm quyền lợi cho NLĐ. Không ít NLĐ khi mất
việc làm, khi đến đăng ký thất nghiệp mới biết DN nợ đóng BHXH cho nên không
được hưởng trợ cấp, gây thiệt hại và khó khăn cho NLĐ. Từ ngày 01/01/2015 Luật
việc làm có hiệu lực thì người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn
từ đủ 3 tháng trong tất cả các cơ quan, đơn vị đều thuộc đối tượng đồng thời tham gia
BHXH, BHYT và BHTN bắt buộc, đã phần nào khắc phục được các đơn vị chốn
đóng BHTN cho người lao động.
- Về điều kiện được hưởng trợ cấp BHTN: Việc quy định người có thời gian
đóng BHTN từ đủ 12 tháng đến 36 tháng đều được hưởng 3 tháng trợ cấp thất nghiệp
cũng chưa phù hợp, dễ bị lợi dụng, nếu không quản lý tốt sẽ dẫn đến những kẽ hở, ảnh
hưởng đến quỹ BHTN… Điều kiện và thủ tục hồ sơ hưởng trợ cấp BHTN hiện cũng
59
không xác định được rõ nguyên nhân nghỉ việc, cho nên vẫn xảy ra tình trạng tự ý
nghỉ việc, nhảy việc sang đơn vị khác vẫn được hưởng TCTN vì trên hồ sơ xét hưởng
chỉ căn cứ vào thời hạn kết thúc hợp đồng lao động hoặc quy định nghỉ việc.
- Về các chế độ BHTN: Như đã nói ở phần trên, mức hỗ trợ học nghề thấp, thời
gian học nghề ngắn, danh mục dạy nghề nghèo nàn là những nguyên nhân khiến NLĐ
không mặn mà với việc học nghề. Và vì vậy, cái gốc của chính sách BHTN là hỗ trợ
học nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm mới chưa được quan tâm đúng mức.
- Về thực trạng xử lý vi phạm trong lĩnh vực BHTN: Tình trạng chậm đóng và
trốn đóng BHTN vẫn xảy ra tại nhiều DN, chiếm khoảng 5% so với số phải thu mỗi
năm. Trên thực tế xảy ra một số trường hợp NLĐ khi chấm dứt hợp đồng lao động
muốn đăng ký để hưởng trợ cấp thất nghiệp mới phát hiện ra là DN của mình chưa
đóng tiền BHTN cho cơ quan quản lý nên họ không được hưởng. Ngoài ra, nếu DN đã
trích tiền lương của NLĐ nhưng chưa thanh toán cho cơ quan BHXH thì bị coi là
chiếm đoạt tài sản của NLĐ. Hành vi chiếm đoạt đó đáng lẽ phải xử lý hình sự nhưng
trong quy định của luật hiện nay lại xử phạt hành chính và mức phạt rất thấp, không
đủ sức răn đe.
Nguyên nhân: Bên cạnh đó, tình trạng nợ đọng tiền đóng BHTN vẫn còn diễn
ra, tuy không cao nhưng so với tổng số tiền thu được thì số nợ đọng chiếm một phần
không nhỏ.
Thực tế cho thấy, trong những năm đầu triển khai công tác thu BHTN, BHXH
tỉnh Quảng Ninh đã có những biện pháp tích cực trong công tác đôn đốc thu nộp
BHTN của các đơn vị nằm trên địa bàn tỉnh. Trong những năm gần đây, do ảnh hưởng
của suy thoái kinh tế khiến công tác vận động thực hiện các chế độ BHXH nói chung
đối với chủ sử dụng lao động, NLĐ gặp thêm nhiều khó khăn đã làm ảnh hưởng đến
tình hình thu nộp BHTN.
Tình hình nợ đọng tiền đóng BHXH nói chung và tiền đóng BHTN nói riêng
của các đơn vị là do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Một số các DN đặc biệt là doanh ngoài quốc doanh, doanh có vốn đầu tư
60
nước ngoài và một số DN ngành than, do tình hình suy thoái kinh tế thế giới nói
chung và ở Việt Nam nói riêng đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của DN, nhiều DN làm ăn thua lỗ… nên nợ tiền BHXH, mặt khác cũng có
nhiều doanh cố tình né tránh để tăng lợi nhuận.
- Quy định của pháp luật trong việc xử lý các vi phạm chính sách BHXH còn
quá nhẹ so với số tiền chậm nộp. Mặc khác, cơ chế xử lý chưa rõ ràng, cơ quan
BHXH trực tiếp và thường xuyên phát hiện ra các vi phạm chính sách nhưng lại
không được quyền xử phạt, mà do các cơ quan chức năng khác xử lý nên việc xử lý
hành vi vi phạm chế độ thu không được thực thi, gây thiệt hại cho quỹ BHXH.
- Hệ thống thông tin giữa các bộ phận trong cơ quan BHXH, giữa cơ quan
BHXH và các cơ quan Nhà nước khác yếu kém, không cung cấp kịp thời, cập Nhà
nước cập thông tin chính xác dẫn đến tình trạng có nhiều đơn vị mới phát sinh, giải
thể, chuyển đi, chậm nộp, không nộp nhưng không bị phát hiện.
- Việc phối hợp thanh tra, kiểm tra kiên ngành chưa được thực hiện thường
xuyên do cơ quan BHXH không chủ động được kinh phí, các cơ quan phối hợp không
đủ nhân lực để triển khai nhiệm vụ thanh tra BHXH.
Kết luận chương 2
Trong những năm gần đây, thì vấn đề nâng cao chất lượng BHTN trong lĩnh
vực BHXH trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh càng được chú ý. Vấn đề đặt ra là cần phải
đảm bảo quản lý, giám sát và cũng như áp dụng các BHTN trong lĩnh vực BHXH sao
cho đạt hiệu quả theo yêu cầu đề ra, đúng với ý nghĩa và mục đích của hoạt động của
BHXH trên thực tế. Việc BHTN trong lĩnh vực BHXH tỉnh Quảng Ninh nói trên đã
đạt được những kết quả khả quan, đem lại được những kết quả đáng khen ngợi. Tuy
nhiên, BHTN trong lĩnh vực BHXH trên địa bàn tỉnh vẫn còn tồn tại những hạn chế
và bất cập trong công tác áp dụng. Các quy định của pháp luật, các chủ trương, đường
lối chưa được cấp có thẩm quyền triển khai kịp thời trong quá trình hoạt động của
BHXH nói chung. Sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm thẩm quyền như chưa thực
sự đạt hiệu quả; công tác quản lý còn lỏng lẻo, chưa thực sự quan tâm tới công tác
61
tuyên truyền và phổ biến BHTN trong lĩnh vực BHXH nói chung chưa có kết quả tốt.
Nguyên nhân là do quá trình chỉ đạo của cấp trên chưa thật sự chặt chẽ và hoàn thiện;
cơ quan, tổ chức, ban lãnh đạo, cán nhân thực hiện giám sát, thiếu trách nhiệm trong
việc kiểm tra, giám sát hoạt động giảng dạy nói chung. Chương 3 dưới đây tác giả sẽ
đưa ra một số những giải pháp nhằm cải thiện kết quả BHTN trong lĩnh vực BHXH
rên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói chung.
62
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ KIẾN NGHỊ TĂNG CƯỜNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM
THẤT NGHIỆP TẠI TỈNH QUẢNG NINH TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về BHTN tại tỉnh Quảng Ninh trong
thời gian tới.
Để thực hiện các quy định của pháp luật về BHTN, Quảng Ninh tiếp tục tập
trung triển khai có hiệu quả một số nhiệm vụ sau:
(1) Tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền với nhiều hình thức về chính sách
BHTN cho NSDLĐ và NLĐ trên địa bàn tỉnh.
(2) Thực hiện tốt công tác phối hợp với BHXH tỉnh trong giải quyết, quản lý,
kiểm soát chế độ TCTN hằng tháng của NLĐ đảm bảo đúng quy định; kịp thời phát
hiện, xử lý những sai phạm nhất là những trường hợp gian lận để hưởng TCTN.
(3) Nâng cao hiệu quả công tác tư vấn giới thiệu việc làm, hỗ trợ học nghề cho
NLĐ nói chung, NLĐ đang hưởng TCTN và người thất nghiệp có thời gian đóng
BHTN từ đủ 09 tháng trở lên nhưng chưa đủ điều kiện hưởng TCTN. Phối hợp với
các Trường, Trung tâm đào tạo, dạy nghề tăng cường hoạt động tư vấn, giới thiệu việc
làm và đào tạo nghề cho NLĐ ngay từ khi nộp hồ sơ hưởng TCTN, giúp cho NLĐ có
thêm cơ hội nâng cao kỹ năng nghề để tìm kiếm việc làm mới.
(4) Tăng cường kiểm tra, giám sát để việc giải quyết BHTN đúng quy định,
đúng quy trình, không để sai sót. Nâng cao hiệu quả việc thực hiện thông báo tìm
kiếm việc làm hằng tháng. Tiến hành rà soát và tạm dừng đối với những trường hợp
đang hưởng TCTN mà không thực hiện thông báo theo quy định.
(5) Tiếp tục đào tạo, bỗi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng giao
tiếp, kỹ năng tư vấn cũng như thái độ, tác phong của cán bộ làm công tác giải quyết
BHTN.
Tăng cường kết hợp các yếu tố nhằm thực hiện nghiêm túc quan điểm, đường
lối của Đảng, chủ trương của của Nhà nước về BHTN tại BHXH hiện tại và tương lai
Nhằm thực hiện tốt công tác BHTN tại BHXH trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
63
trong giai đoạn hiện nay thì việc đầu tiên đó là lãnh đạo BHXH cần triển khai kết hợp
với các chủ trương, đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước nói chung. Đặc biệt,
dưới những chủ trương, đường lối của Đảng thì tăng cường công tác triển khai tại các
cuộc hội nghị về BHTN trong thực tiễn. Khẳng định phải làm rõ sự cần thiết phải tăng
cường BHTN trong thực tế của các ngành nói riêng và các ngành nói riêng và BHTN;
Từ đó, trên cơ sở có chủ trương đường lối nói chung thì người có thẩm quyền thực
hiện các kế hoạch nói chung phù hợp, cụ thể, thiết thực của BHXH thông qua từng
giai đoạn. Phải coi việc BHTN trong lĩnh vực BHXH là một nội dung công tác cụ thể
để thực hiện nghị quyết của cấp ủy Đảng nói chung nhằm tạo một sự chuyển biến rõ
rệt, có bước đột phá về một lĩnh vực BHXH trong cả nước trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài ra, thông qua việc BHTN trong lĩnh vực BHXH trên cơ sở quán triệt các
nghị quyết quan trong của Đảng là bước tiến quan trọng. Việc BHTN trong lĩnh vực
BHXH thông qua việc thực hiện nghiêm túc các chủ trương đường lối chính sách của
Đảng, của thành ủy, cấp ủy các cấp là một trong những yếu tố có tính quyết định, do
đó không được xem nhẹ. Thực tế đã chứng minh, chúng ta rất chú trọng vấn đề này
nên đã tạo được những chuyển biến tích cực, tuy nhiên so với yêu cầu vẫn còn nhiều
lúng túng, bất cập. Chương trình, kế hoạch hành động thực hiện nghị quyết ở trong
hoạt động về BHTN phải được cụ thể hóa bằng việc quán triệt, thực hiện một cách cụ
thể trong thực tế kết hợp các chỉ tiêu của các trung tâm bồi dưỡng nói chung.
Lãnh đạo, cán bộ công chức BHXH nói chung và BHXH tỉnh Quảng Ninh nói
riêng đều là chủ thể tích cực của quá trình tăng cường công tác BHTN trong lĩnh vực
BHXH.
Trong công cuộc đổi mới đất nước của Đảng ta thì công tác BHTN nói chung
giữ vai trò quan trọng đối với quá trình quản lý nhà nước nói chung. Trong quá trình
phát triển cho đến nay thì việc xây dựng và phát triển các giải pháp về BHTN thì yêu
cầu việc xây dựng trong các ngành là điều kiện tiên quyết trong việc đưa các nội dung
quan trọng về BHTN trong lĩnh vực BHXH áp dụng trong thực tiễn.
Bước đầu khắc phục được sự bất cập về BHTN trong lĩnh vực BHXH, trong
đó vai trò của lãnh đạo, cán bộ, công chức làm công tác quản lý nói chung đều có vai
64
trò tích cực nhằm khắc phục những thiếu sót khi tham gia hoạt động quản lý nói
chung. Tại BHXH tỉnh Quảng Ninh thì tuy gặp nhiều khó khăn khách quan và chủ
quan nhưng vai trò của các đối tượng này là không thể phủ nhận. Đội ngũ cán bộ quản
lý từng bước đạt chuẩn trình độ đào tạo, trong đó một phần đáng kể đã đạt trình độ
trên chuẩn. Năng lực của phần lớn các cán bộ, công chức đã được nâng lên, đáp ứng
yêu cầu đổi mới nội dung về BHTN trong lĩnh vực BHXH. Đối với các nhà quản lý
cần tăng cường hơn nữa công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ (theo các chương
trình, dự án) cho cán bộ quản lý các cấp những năm qua đã được quan tâm, phần nào
nâng cao năng lực quản lý trong các cơ sở. Đồng thời, yêu cầu trong công tác QLNN
về BHTN trên thực tế .
Kết hợp BHTN trong lĩnh vực BHXH gắn liền với quá trình đổi mới, nâng cao
chất lượng các mặt hoạt động trong BHXH. Hoạt động nâng cao chất lượng các hoạt
động BHTN trong lĩnh vực BHXH. Quá trình thực hiện cần có thể thực hiện theo
hướng: gắn liền hình thức BHTN trong lĩnh vực BHXH với đổi mới phương pháp
thực hiện nhằm khắc phục hạn chế của phương pháp thực hiện thủ công. Hoạt động
BHTN trong lĩnh vực BHXH quy định cụ thể trách nhiệm, trong đó có trách nhiệm
trong quá trình thực hiện. Đồng thời, trong quá trình áp dụng cần có sự kiểm tra, giám
sát có hiệu quả từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Có các chính sách cụ thể
nhằm khuyến khích áp dụng các biện pháp tăng cường công tác BHTN trong lĩnh vực
BHXH. Đồng thời cần có các quy định trong việc tăng cường năng lực, quyền hạn của
cơ quan giám sát. Đối với các cơ quan áp dụng pháp luật cần có sự thống nhất trong
công tác quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương. Đầu từ các trang thiết bị
hoàn chỉnh, đáp ứng với quá trình BHTN trong lĩnh vực BHXH có hiệu quả ở nước ta
hiện nay.
Xây dựng và ban hành đầy đủ các quy định về BHTN trong lĩnh vực BHXH
đảm bảo phù hợp với tình hình nước ta nói chung và tại tỉnh Quảng Ninh nói riêng
trong giai đoạn hiện nay. Có sự phân định lại chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của
các cơ quan quản lý nhà nước về BHTN trong lĩnh vực BHXH. Góp phần chủ động
HNKTQT ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
65
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
3.2.1.Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp:
BHTN là bảo hiểm bồi thường cho NLĐ bị thiệt hại về thu nhập do bị mất việc
làm. Mục đích của BHTN là trợ giúp về mặt tài chính cho người thất nghiệp để họ ổn
định cuộc sống cá nhân và gia đình trong một chừng mực nhất định từ đó tạo điều
kiện cho họ tham gia vào thị trường lao động để có nhiều cơ hội mới về việc làm.
Chính sách BHTN áp dụng bắt buộc đối với NLĐ và NSDLĐ; có hiệu lực thi hành từ
ngày 1/1/2009, được quy định trong Luật BHXH số 71/2006/QH11 đã được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI – kỳ họp thứ chín thông qua ngày
29/06/2006. Sau hơn bốn năm triển khai thực hiện, chính sách BHTN đã đi vào cuộc
sống của người dân và đem lại một số kết quả nhất định. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại
những hạn chế, tiêu cực. Để phát huy một cách tối đa hiệu quả của chính sách BHTN,
trước hết cần tiếp tục tổ chức rà soát, phát hiện, sửa đổi và bổ sung kịp thời các văn
bản hướng dẫn thực hiện chính sách BHTN; khẩn trương nghiên cứu xây dựng Luật
Việc làm, trong đó có nội dung về bảo hiểm việc làm nhằm bổ sung các quy định
nhằm hạn chế, ngăn ngừa thất nghiệp, đồng thời hoàn thiện các chế độ BHTN hiện
hành và quản lý lao động... Cụ thể như sau:
Mở rộng đối tượng tham gia BHTN: NLĐ giao kết hợp đồng lao động hay hợp
đồng làm việc từ 1 đến dưới 3 tháng chưa được tham gia BHTN, đây là những đối
tượng có khả năng mất việc làm cao, cần quan tâm hỗ trợ thì không thuộc đối tượng
tham gia BHTN. Vì vậy, cần phải mở rộng đối tượng tham gia BHTN: NLĐ giao kết
hợp đồng lao động hay hợp đồng làm việc từ 1 đến dưới 3 tháng được tham gia BHTN
để quyền lợi của NLĐ được đảm bảo và tránh NLĐ lợi dụng vừa đi làm vừa hưởng
trợ cấp BHTN.
Điều chỉnh chế độ BHTN: Mức hỗ trợ học nghề như hiện nay còn thấp, thời
gian học nghề ngắn, danh mục học nghề còn nghèo nàn là những nguyên nhân khiến
NLĐ không mấy mặn mà với việc học nghề. Để khắc phục tồn tại này, pháp luật cần
điều chỉnh mức hỗ trợ học nghề, thời gian học nghề hợp lý hơn, đa dạng hóa ngành
nghề được đưa ra để dạy cho NLĐ. Có như vậy mới thu hút được đông đảo NLĐ tham
66
gia học nghề và cái gốc của chính sách BHTN là đưa NLĐ trở lại thị trường lao động
mới được đảm bảo thực hiện.
Nhà nước cần đưa ra chế tài đủ mạnh để xử lý những đơn vị sử dụng lao động
nợ đọng BHTN kéo dài, trốn đóng BHTN: Xác định nhiệm vụ thu đúng, thu đủ, thu
kịp thời, hạn chế và giảm nợ đọng tiền thu BHXH tới mức thấp nhất là nhiệm vụ quan
trọng của hệ thống BHXH Việt Nam. Mặc dù Nhà nước đã ban hành chế tài xử phạt
(Nghị định số 135/NĐ-CP ngày 16/08/2007 Quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực BHXH) nhưng vẫn chưa đủ mạnh, mức phạt còn quá nhẹ, tính khả thi
chưa cao nên chưa phát huy được hiệu quả dẫn đến nhiều đơn vị còn trốn tránh, cố
tình chây ỳ chậm đóng BHXH, trong đó có BHTN.
Tại điểm a Khoản 2 Điều 12 Nghị định 28/2015/NĐ-CP: “NLĐ có tháng
liền kề trước thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc nghỉ
việc hưởng chế độ thai sản hoặc ốm đau từ 14 ngày làm việc trở lên không
hưởng tiền lương tháng tại đơn vị mà hưởng trợ cấp BHXH;”
Quy định này khó xác định lao động ốm đau từ 14 ngày làm việc trở lên vì có
một số đơn vị, DN tính ngày làm việc là cả ngày thứ 7, có DN lại không tính…
Đề xuất sửa đổi, bổ sung: Đề nghị cơ quan bảo hiểm xã hội bổ sung thêm
phần xác nhận: “Nghỉ hưởng chế độ ốm đau dài ngày” vào sổ BHXH cho người lao
động.
Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung quy định về BHTN tại Luật Việc làm vào năm
2021-2022 theo hướng hỗ trợ DN và NLĐ duy trì việc làm, bảo đảm quyền lợi chính
đáng của DN và NLĐ, khắc phục tình trạng gian lận, trục lợi BHTN, phát huy đầy đủ
các chức năng của BHTN, bảo đảm BHTN thực sự là công cụ quản trị thị trường lao
động. Đồng thời, cần kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn Luật việc làm.
3.2.2. Nhóm giải pháp tăng cường thực thi pháp luật về BHTN
Hệ thống thực hiện BHTN phải đảm bảo tính liên kết chặt chẽ giữa các cơ
quan tổ chức thực hiện, chủ động phát huy giá trị cốt lõi của chính sách BHTN là tư
vấn, giới thiệu việc làm, đào tạo nghề và duy trì việc làm; gắn kết giữa giải quyết các
67
chế độ cùng với việc chi trả BHTN trong quá trình triển khai thực hiện. Nghiên cứu,
rà soát, điều chỉnh phù hợp các chức năng nhiệm vụ ngành LĐ - TB & XH và ngành
BHXH trong việc thu, chi, tiếp nhận giải quyết, quản lý Quỹ BHTN.
Tiếp tục củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức dịch vụ
việc làm để thực hiện tốt tư vấn và hỗ trợ việc làm, vì đây là hướng giải quyết người
thất nghiệp một cách bền vững nhất. Nghiên cứu, xem xét xây dựng mô hình chuẩn
của trung tâm dịch vụ việc làm để thực hiện tốt các nhiệm vụ tư vấn, thông tin thị
trường lao động, giới thiệu việc làm, cung cấp lao động và dạy nghề...
Hoàn thiện và thực hiện thống nhất các quy trình về nghiệp vụ dịch vụ việc
làm để hỗ trợ cho người thất nghiệp, bao gồm: quy trình thu thập, xử lý, cung cấp, dự
báo thông tin thị trường lao động; quy trình giới thiệu, cung ứng lao động; quy trình
hỗ trợ, tư vấn cho NLĐ và NSDLĐ; quy trình hỗ trợ NSDLĐ nhằm tránh sa thải, cắt
giảm hoặc thu hút thêm lao động.
Rà soát, quy hoạch lại mạng lưới trung tâm dịch vụ việc làm, bố trí hợp lý số
lượng chi nhánh, văn phòng đại diện trên từng địa bàn để đảm bảo hệ thống tinh gọn,
hiệu quả.
Kiện toàn tổ chức bộ máy các trung tâm dịch vụ việc làm trên cơ sở phân loại
mức độ phát triển thị trường lao động, đảm bảo tổ chức bộ máy đủ điều kiện thực hiện
các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin.
Đề nghị kết nối cơ sở dữ liệu tham gia đóng BHXH của cơ quan BHXH với
phần mềm giải quyết hưởng BHTN của ngành Lao động-TB&XH nhằm tăng cường
chia sẻ cơ sở dữ liệu thông tin quá trình đóng, hưởng BHTN giữa 2 cơ quan để thuận
tiện trong việc tiếp nhận, giải quyết, chi trả các chế độ BHTN và bảo lưu thời gian
tham gia BHTN, tránh trục lợi quỹ BHTN.
Mặc dù cơ quan BHXH trực tiếp phát hiện ra các sai phạm trong lĩnh vực
BHXH nói chung và BHTN nói riêng nhưng lại không có quyền xử phạt mà phải
thông qua các cơ quan chức năng (tòa án các cấp), từ đây các thủ tục cũng như việc
phối hợp để xử phạt được đơn vị vi phạm là rất phức tạp và kéo dài. Do vậy, Nhà nước
68
cần đưa ra các chế tài để kiên quyết xử lý những đơn vị chậm đóng, trốn đóng BHTN
Đề nghị kết nối cơ sở dữ liệu tham gia đóng BHXH của cơ quan BHXH với
phần mềm giải quyết hưởng BHTN của ngành Lao động-TB&XH nhằm tăng
cường chia sẻ cơ sở dữ liệu thông tin quá trình đóng, hưởng BHTN giữa 2 cơ
quan để thuận tiện trong việc tiếp nhận, giải quyết, chi trả các chế độ BHTN và
bảo lưu thời gian tham gia BHTN, tránh trục lợi quỹ BHTN.
Tổ chức hội thảo, tập huấn cho cán bộ thực hiện chính sách BHTN, cán
bộ nhân sự tại các DN
nhằm bảo vệ quyền lợi cho NLĐ và tránh thất thoát quỹ BHTN.
3.3. Một số kiến nghị tăng cường pháp luật về BHTN ở tỉnh Quảng Ninh
3.3.1. Kiến nghị đối với bảo Biểm xã hội tỉnh Quảng Ninh
3.3.1.1. Tăng cường công tác quản lý đối tượng và phát triển đối tượng tham gia
BHTN
Trong hoạt động BHTN có hai nhóm đối tượng đó là, nhóm đối tượng tham
gia BHTN và nhóm đối tượng thụ hưởng BHTN. Nhóm đối tượng tham gia BHTN
bao gồm các DN, đơn vị sử dụng lao động và NLĐ. Vì vậy, để đảm bảo nguồn thu
BHTN, BHXH Quảng Ninh cần phải nắm chắc số lượng các đơn vị tham gia BHTN
do BHXH Quảng Ninh quản lý, những di biến động trên địa bàn và trong toàn quốc.
Bên cạnh đó, phải có được những thông tin đầy đủ về tình hình sử dụng lao động tại
các cơ quan, DN để xác định được nguồn thu đồng thời dự báo các khoản chi trong
tương lai.
3.3.1.2. Tăng cường tổ chức đánh giá và phân loại
Tổ chức đánh giá, phân loại chất lượng nhân sự để xây dựng kế hoạch đào tạo,
nâng cao trình độ cho nhân sự thực hiện BHTN, bao gồm nghiệp vụ BHTN và các kỹ
năng cần thiết khác. Xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn bảo đảm tất cả nhân sự thực hiện
BHTN được tuyển dụng dựa trên năng lực và kỹ năng phù hợp với việc triển khai
chính sách thị trường lao động tích cực. Thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin
69
trong tuyển dụng và sử dụng nhân sự thực hiện BHTN.
Xây dựng nội dung chương trình và tổ chức đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ và
kỹ năng theo hình thức tập trung và trực tuyến. Nhân sự cần được tập huấn nghiệp vụ
thường xuyên, đặc biệt khi có những thay đổi về chính sách, quy trình thực hiện.
Chuẩn hóa đội ngũ nhân sự làm công tác dịch vụ việc làm thông qua sát hạch và cấp
chứng nhận được hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ việc làm. Tiếp tục cải cách chế độ,
chính sách sử dụng, thu hút, đãi ngộ, khen thưởng gắn với hiệu quả công việc nhằm
bảo đảm sự công bằng, minh bạch quyền lợi phải gắn với trách nhiệm và sự cống
hiến, tạo động lực cho nhân sự thực hiện chính sách BHTN.
3.3.1.3. Tăng cường đầu tư đồng bộ các trang bị máy móc thiết bị phục vụ công tác
BHTN
Hiện nay, máy móc, thiết bị công nghệ thông tin đã được trang cấp tương đối
đầy đủ nhưng chưa được đồng bộ, một số máy đã cũ nên khả năng đáp ứng công việc
còn ở mức độ thấp; hệ thống mạng và máy tính của cấp tỉnh và cấp huyện chủ yếu do
tự thiết lâp, tuy đã đáp ứng được yêu cầu về nghiệp vụ song vẫn còn thiết nhiều so với
nhu cầu sử dụng. Do vậy, để công việc thực hiện có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu
của ngành giao cho, BHXH Quảng Ninh cần trang bị cho cán bộ công chức cơ quan
nói chung và cán bộ làm công tác thu nói riêng máy móc thiết bị hiện đại, thay thế
những máy móc cũ, làm việc không hiệu quả. Hoàn thiện phần mềm quản lý BHTN
để thực hiện trên phạm vi cả nước, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan có liên quan.
3.3.1.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chế độ chính sách đối
với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ngành than
Hiện nay, số lao động trong các DN thường chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng
số lao động trong các đơn vị tham gia đóng BHXH. Hàng tháng tình hình biến động
về số lao động do chuyển đến, chuyển đi… thường gặp phải khó khăn do việc sắp xếp
tiền lương cho NLĐ theo thang bảng lương do Nhà nước quy định thường không phù
hợp với công việc được phân công, điều này làm ảnh hưởng đến quyền lợi cho NLĐ.
Do vậy, định kỳ hàng tháng hoặc quý, BHXH Quảng Ninh cử cán bộ Phòng Kiểm tra
70
cùng với cán bộ chuyên quản của Phòng Thu xuống đơn vị để kiểm tra tình hình thực
tế tại đơn vị, kiểm tra số lao động hiện có, rà soát lại tiền lương ghi trong hợp đồng lao
động có đúng với tiền lương và số lao động đăng ký tham gia BHTN hay không.
Tăng cường kiểm tra, giám sát để việc giải quyết BHTN đúng quy định, đúng
quy trình, không để sai sót. Nâng cao hiệu quả việc thực hiện thông báo tìm kiếm việc
làm hàng tháng. Tiến hành rà soát và tạm dừng đối với những trường hợp đang hưởng
TCTN mà không thực hiện thông báo theo quy định.
Đôn đốc các đơn vị thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH, BHYT, BHTN đầy đủ,
đúng quy định cho NLĐ. Hiện nay, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế dẫn đến nhiều
đơn vị gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên việc chậm nộp BHXH,
BHYT, BHTN.
- Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về BHTN
Tăng cường công tác thông tin, truyền truyền về các chế độ, chính sách về
BHTN với nhiều hình thức phù hợp với từng nhóm đối tượng nhằm nâng cao nhận
thức về BHTN, nhất là NLĐ ở vùng sâu vùng xa, các DN vừa và nhỏ, viên chức tại
các đơn vị sự nghiệp công lập. Tiếp tục tổ chức các hội nghị tập huấn cho cán bộ thực
hiện chính sách BHTN, cán bộ nhân sự tại các DN, tổ chức.
Tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền với nhiều hình thức về chính sách
BHTN cho NSDLĐ và NLĐ trên địa bàn tỉnh.
3.3.1.5. Đẩy mạnh hoạt động về cải cách hành chính
Một là, tiếp tục hoàn thiện các TTHC, cải thiện trong hoạt động về Thực hiện
quy định BHTN trong lĩnh vực BHXH … là vấn đề được BHXH quyết liệt thực hiện.
Cụ thể như cung cấp các dịch vụ công qua mạng điện tử ở cấp độ 4, tạo thực thi
BHTN cho tỉnh Quảng Ninh thông thoáng, liên thông, một cửa hỗ trợ các thủ tục về
BHXH đầu tư, đất đai, xây dựng… cho các cá nhân và tổ chức. Đồng thời, cần thiết
thành lập Tổ công tác liên ngành tư vấn chính sách, hỗ trợ pháp lý, nắm bắt các vướng
mắc trong cải cách TTHC trong lĩnh vực BHXH nhằm kịp thời đề xuất tháo gỡ; đồng
thời, cung cấp công khai thông tin liên quan đến Thực hiện quy định BHTN trong lĩnh
71
vực BHXH … Qua đó, tạo niềm tin trong cộng đồng DN, người dân đối với hoạt động
điều hành, cũng như định hướng phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh, làm tiền đề cho
các DN đầu tư kinh doanh hiệu quả.
Hai là, BHXH tỉnh Quảng Ninh cần chú trọng cải cách TTHC trong một số
lĩnh vực về BHXH như BHYT, BHTN.... Trong từng lĩnh vực, BHXH cần tập trung
cải cách về quy trình giải quyết hồ sơ, thủ tục, thời gian giải quyết, phí và lệ phí; cải
tiến quy trình, hình thành quy chế phối hợp trong giải quyết các thủ tục, sửa đổi, bổ
sung quy chế làm việc, quy trình thẩm tra, thẩm định các hồ sơ, dự án theo tinh thần
bảo đảm rõ ràng, công khai, kịp thời và hiệu quả. BHXH cần liên hệ với các đơn vị
như Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh, Cục thuế, Kho bạc Nhà nước… xây dựng hệ
thống trả lời tự động bằng bảng điện tử; ứng dụng các chương trình phần mềm vi tính
để quản lý, theo dõi, giải quyết hồ sơ của tổ chức, công dân, mang lại những chuyển
biến tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả cung ứng dịch vụ công đảm bảo cho Thực
hiện quy định BHTN trong lĩnh vực BHXH đạt hiệu quả cao.
Ba là, BHXH sẽ đẩy mạnh ứng dụng CNTT, xây dựng và hoàn thiện các phần
mềm quy trình nghiệp vụ, chuẩn kết nối để tiếp nhận hồ sơ qua giao dịch điện tử của
tất cả các TTHC thuộc lĩnh vực giải quyết của ngành theo quy định; tiếp tục hoàn
thiện dữ liệu và nghiên cứu, triển khai cấp sổ BHXH, thẻ BHYT điện tử; hoàn thiện
cấp sổ BHXH, BHYT theo mã số BHXH...
3.3.2. Đối với tỉnh Quảng Ninh
3.3.2.1. Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan có liên quan
Định kỳ hàng tháng, Tỉnh ủy, UBND Tỉnh cần có sự chỉ đạo các Sở ban ngành
như Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, Liên đoàn lao động tỉnh, Thanh tra Nhà
nước tỉnh phối hợp với BHXH Quảng Ninh để tiến hành kiểm tra các đơn vị sử dụng
lao động trong việc thực hiện chính sách pháp luật về BHTN; chỉ đạo các cơ quan
báo, đài thường xuyên tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về BHTN.
Tỉnh Quảng Ninh cũng cần thực hiện tốt công tác phối hợp với BHXH tỉnh
72
trong giải quyết, quản lý, kiểm soát chế độ TCTN hằng tháng của NLĐ đảm bảo đúng
quy định; kịp thời phát hiện, xử lý những sai phạm nhất là những trường hợp gian lận để
hưởng TCTN.
Tỉnh cũng cần có giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tư vấn giới thiệu việc
làm, hỗ trợ học nghề cho NLĐ nói chung, NLĐ đang hưởng TCTN và người thất
nghiệp có thời gian đóng BHTN từ đủ 09 tháng trở lên nhưng chưa đủ điều kiện
hưởng TCTN. Phối hợp với các trường, trung tâm đào tạo, dạy nghề tăng cường hoạt
động tư vấn, giới thiệu việc làm và đào tạo nghề cho NLĐ ngay từ khi nộp hồ sơ
hưởng TCTN, giúp cho NLĐ có thêm cơ hội nâng cao kỹ năng nghề để tìm kiếm việc
làm mới.
3.3.2.2. Tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực về bảo hiểm thất nghiệp cho
tỉnh Quảng Ninh
Trong công tác đào tạo nguồn nhân lực về BHTN thì việc kiện toàn tổ chức bộ
máy và nâng cao trách nhiệm, năng lực cho đội ngũ cán bộ chuyên trách thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ trong công tác là điều hoàn toàn cần thiết. Để có thể thực hiện
tốt chức năng, nhiệm vụ thì cần hoàn thiện các vấn đề của công tác cán bộ về các
phương diện sau:
Thứ nhất, đối với cán bộ, công chức bên cạnh yêu cầu lựa chọn đúng chuyên
ngành, cần xác định chuyên ngành cơ bản và các ngành bổ sung để có tỷ lệ tuyển
dụng hợp lý nhằm đa dạng hóa chuyên môn và nguồn tuyển dụng, trong đó ưu tiên
cán bộ đào tạo chuyên ngành, có chuyên môn cơ bản nhằm đáp ứng với yêu cầu của
công tác quản lý, đảm bảo cho hoạt động đào tạo nguồn nhân lực về BHTN cho tỉnh
Quảng Ninh đạt hiệu quả cao. Tiếp tục hoàn thiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức, kỹ năng cho cán bộ nhằm phát triển năng lực cho đội ngũ cán bộ nói trên.
Tiếp tục đào tạo, bỗi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng tư vấn cũng như thái độ, tác phong của cán bộ làm công tác giải quyết BHTN.
Thứ hai, cần hoàn thiện đồng bộ cơ chế bố trí sử dụng cán bộ, xây dựng cơ chế
đặc thù riêng cho cán bộ, công chức trong quá trình sử dụng nói chung nhằm khuyến
73
khích nhân sự chất lượng cao, linh hoạt đáp ứng với yêu cầu của công tác trong lĩnh
vực này. Nghiên cứu phương thức tổ chức bộ máy nhân sự tham mưu trên cơ sở tăng
thẩm quyền, trách nhiệm trực tiếp và đầy đủ của các Bộ trưởng trong xây dựng đội
ngũ tham mưu nhằm đảm bảo tính nhất quán trong định hướng chính trị đối với các
chính sách về thẩm quyền của các cơ quan NN trong lĩnh vực BHTN và đào tạo
nguồn nhân lực về BHTN cho tỉnh Quảng Ninh.
Ba là, xây dựng cơ chế chi trả lương hợp lý, các chế độ ưu tiên làm việc nhằm
tạo động lực làm việc, thu hút, sử dụng người có tài, có đức trong công tác quản lý
nhà nước thông qua xã hội hóa việc xây dựng chính sách, tổ chức đấu thầu dự án ban
hành văn bản pháp luật. Có phương hướng đào tạo cán bộ, công chứng có năng lực
đào tạo nguồn nhân lực về BHTN cho tỉnh Quảng Ninh đáp ứng yêu cầu, đặc biệt là ở
cấp huyện, xã. Qua đó, thực hiện thống nhất quản lý Nhà nước ở cả Trung ương và địa
phương trong lĩnh vực Đào tạo nguồn nhân lực về BHTN cho tỉnh Quảng Ninh, phát
huy được sức mạnh tổng thể của cả hệ thống. Đồng thời, kiện toàn tổ chức bộ máy,
nâng cao năng lực quản lý về BHXH. Đổi mới mạnh mẽ, một cách đồng bộ tác phong
và tư duy làm việc của các cán bộ, công chức, cơ quan có thẩm quyền, đổi mới phong
cách lãnh đạo và nề nếp làm việc trì trệ của đội ngũ cán bộ công chức trong công tác
thực hiện pháp luật về thực thi BHTN cho tỉnh Quảng Ninh hiện nay.
3.3.3. Các kiến nghị khác
3.3.3.1. Đối với doanh nghiệp và người lao động
Một số ít các DN chưa nhận thức đầy đủ quyền lợi và trách nhiệm của mình về
BHTN, do đó còn xảy ra tình trạng DN chậm đóng và nợ đọng BHXH, BHTN nên
không chốt được sổ BHXH gây ảnh hưởng đến quyền lợi của NLĐ, ảnh hưởng đến
công tác thực về việc hiện chính sách BHTN.
Nhận thức của NLĐ, NSDLĐ chưa đầy đủ về Luật Việc làm nên vẫn còn một
số trường hợp không khai báo hoặc khai báo không trung thực đã có việc làm mới để
hưởng trợ cấp thất nghiệp
Việc kết nối liên thông giữa cơ sở dữ liệu của Trung tâm Dịch vụ việc làm với
74
cơ quan BHXH chưa được thực hiện. Do vậy, việc quản lý NLĐ trong quá trình
hưởng các chế độ BHTN thủ công, do đó vẫn còn tình trạng NLĐ đã tham gia BHXH
bắt buộc nhưng vẫn hưởng trợ cấp BHTN, mất nhiều thời gian trong quá trình tổ chức
thực hiện.
Do số lượng người hưởng TCTN ngày càng nhiều, thời hạn chi trả cho NLĐ
trong 5 ngày kể từ ngày nhận quyết định của Sở Lao động - TB&XH trong đó cán bộ
BHXH được xử lý trong 02 ngày đòi hỏi thời gian giải quyết hồ sơ phải nhanh hơn,
gây áp lực công việc rất lớn cho cơ quan BHXH.
Việc theo dõi quá trình hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng của NLĐ rất khó
khăn, phức tạp do trên cùng một hồ sơ hưởng nhưng có nhiều quyết định (quyết định
hưởng hằng tháng, tháng sau có quyết định tạm dừng, tháng tiếp theo lại có quyết
định tiếp tục hưởng …).
Chưa liên thông được dữ liệu chi BHTN và thu BHXH để kiểm tra, rà soát,
phát hiện các trường hợp hưởng BHTN nhưng vẫn báo tăng lao động ở các cơ quan,
đơn vị nhất là trường hợp truy thu cộng nối thời gian tham gia BHXH. Người viết đề
xuất một số kiến nghị sau:
- Đề nghị kết nối cơ sở dữ liệu tham gia đóng BHXH của cơ quan BHXH với phần
mềm giải quyết hưởng BHTN của ngành LĐ-TB&XH nhằm tăng cường chia sẻ cơ sở
dữ liệu thông tin quá trình đóng, hưởng BHTN giữa 2 cơ quan để thuận tiện trong việc
tiếp nhận, giải quyết, chi trả các chế độ BHTN và bảo lưu thời gian tham gia BHTN,
tránh trục lợi quỹ BHTN.
- Đề nghị Bộ LĐ - TB&XH và BHXH Việt Nam thiết lập Kho dữ liệu thu hồi
trợ cấp thất nghiệp chung trong toàn quốc để các tỉnh tra cứu thu hồi số tiền trợ cấp
thất nghiệp hưởng sai qui định trước khi chốt bảo lưu thời gian tham gia BHTN hoặc
giải quyết các chế độ BHTN nhất là chế độ một lần để phối hợp thu hồi nộp vào quỹ
BHTN.
- Đề nghị Cục Việc làm sớm phát hành sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ về BHTN
theo Luật Việc làm, Nghị định số 28/2015/NĐ-CP và Thông tư
75
28/2015/TT-BLĐTBXH.
- Quy định cụ thể về việc:
+ Thu hồi tiền trợ cấp thất nghiệp (đối với trường hợp không khai báo việc làm
mới để hưởng trợ cấp thất nghiệp sai qui định).
+ Không thực hiện bảo lưu thời gian đóng BHTN đối với những người khai
báo không trung thực tình trạng việc làm.
3.3.3.2. Đề xuất quy định cần bổ sung
1.1. Tại điểm b Khoản 2 Điều 12: “Người lao động có tháng liền kề trước
thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà tạm hoãn thực
hiện hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã giao kết theo quy định của pháp
luật không hưởng tiền lương tháng tại đơn vị.”
Tại Khoản 5 Điều 32 của Bộ Luật lao động năm 2012 về thỏa thuận tạm
hoãn hợp đồng lao động, cụ thể: “Các trường hợp khác do hai bên thỏa thuận”.
Hiện nay ở Quảng Ninh có nhiều trường hợp người lao động xuất trình giấy
tờ chứng minh đã thỏa thuận tạm hoãn hợp đồng như: Quyết định tạm hoãn
HĐLĐ/HĐLV; Quyết định nghỉ việc không hưởng lương không tham gia BHXH,
BHTN; Đơn xin nghỉ không lương, không tham gia BHXH, BHTN của người lao
động và đã được NSDLĐ ký đồng ý… Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể
nên mỗi tỉnh giải quyết một khác nhau, không đồng nhất.
NLĐ có quyết định tạm hoãn HĐLĐ/HĐLV chưa được cơ quan BHXH xác
nhận trên sổ BHXH.
Đề nghị hướng dẫn cụ thể để các tỉnh thống nhất thực hiện.
1.2. Tại Khoản 5 Điều 21: “Người lao động bị chấm dứt hưởng TCTN thuộc
các trường hợp quy định tại các điểm b, c, h, l, m và n Khoản 1 Điều này thì thời
gian đóng bảo hiểm thất nghiệp tương ứng với thời gian còn lại mà người lao động
chưa nhận trợ cấp thất nghiệp được bảo lưu làm căn cứ để tính thời gian hưởng
TCTN cho lần hưởng TCTN theo quy định.”
76
Điều này chưa nói rõ các điểm còn lại được bảo lưu hay không được bảo lưu.
(Trong đó có điểm i-Bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm pháp luật
bảo hiểm thất nghiệp)
Đề nghị hướng dẫn cụ thể để các tỉnh thống nhất thực hiện.
1.3. Các quy định chưa có trong Luật và Nghị định 28/2015/NĐ-CP:
- Bảo lưu thời gian đóng BHTN đối với những trường hợp đóng trùng BHTN
thời gian từ năm 2014 trở về trước:
Hiện nay, có nhiều NLĐ đến Trung tâm nộp hồ sơ hưởng TCTN lần thứ 2 thì
phát hiện NLĐ đóng trùng BHXH, BHTN từ những năm 2012, 2013, 2014. Cụ thể
như sau:
Trường hợp 1: Người lao động có việc làm và đóng BHTN trước thời gian
hưởng TCTN.
Trường hợp 2: NLĐ đang trong thời gian hưởng TCTN, có việc làm mới, tiếp
tục tham gia BHXH, BHTN tại công ty mới nhưng không thông báo với Trung tâm.
Đề nghị có các biện pháp xử lý đối với các trường hợp nêu trên.
- Chưa có quy định thời gian lưu trữ hồ sơ bảo hiểm thất nghiệp, quy trình hủy hồ
sơ hết hạn lưu trữ, vì hiện nay hồ sơ BHTN đã lưu trữ 9 năm, rất khó khăn trong việc
quản lý, lưu trữ...
2. Quyết định 77/2014/QĐ-TTg ngày 24/12/2014.
Với mức hỗ trợ học nghề đối với lao động thất nghiệp theo Quyết định
77/2014/QĐ-TTg ngày 24/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định mức hỗ trợ học
nghề đối với NLĐ hưởng TCTN hiện nay hoàn toàn có thể học được một số nghề sơ cấp
để có thể tìm kiếm việc làm hoặc tự tạo việc làm. Tuy nhiên, đây chỉ là chi phí học nghề
đối với các nghề đơn giản như dạy nấu ăn, sửa chữa điện dân dụng... các nghề có trình độ
cao như học lái xe ô tô, sửa chữa ô tô, điện tử …có mức học phí cao hơn so với mức hỗ
trợ học nghề thì lao động phải tự chi trả và thêm vào đó người thất nghiệp học nghề chưa
được hỗ trợ tiền ăn ở, tiền đi lại trong quá trình học nghề dẫn đến khó khăn trong việc
77
tham gia học nghề.
Đề xuất sửa đổi, bổ sung: Để khuyến khích NLĐ tham gia học nghề, đề nghị
tăng mức hỗ trợ học nghề, bổ sung tiền ăn ở, đi lại cho lao động.
Trên đây là tổng kết, đánh giá, tham gia những nội dung cần sửa đổi, hướng sửa đổi
các quy định của Nghị định và Quyết định về tình hình thực hiện chính sách BHTN, Sở LĐ
- TB&XH Quảng Ninh báo cáo Cục Việc làm để tổng hợp./.
Kết luận chương 3
Để công tác thực hiện quy định BHTN trong lĩnh vực BHXH địa bàn tỉnh
Quảng Ninh đạt kết quả tốt, nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật, trên cơ sở lý luận và
thực tiễn, tác giả đã xây dựng một số giải pháp. Giải pháp cơ bản nhất là các cấp có
thẩm quyền cần ban hành chủ trương đường lối, tăng cường sự lãnh đạo và phát huy
năng lực của các chủ thể có liên quan trong công tác Thực hiện quy định BHTN trong
lĩnh vực BHXH nói chung. Một số giải pháp quan trọng khác như tăng cường công
tác hướng dẫn, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong quá trình thực hiện các
Thực hiện quy định BHTN tại trong lĩnh vực BHXH, đầu tư cơ sở vật chất, các yếu tố
tác động, quan tâm đến công tác đào tạo tại các BHXH địa phương. Hi vọng những
giải pháp trên sẽ góp phần khắc phục những hạn chế trong việc thực hiện quy định
BHTN trong lĩnh vực BHXH nói riêng và cả nước nói chung.
78
KẾT LUẬN
Hoạt động thực hiện quy định BHTN, lĩnh vực này là một trong những lĩnh
vực quan trọng trong hệ thống pháp luật nước ta. Đồng thời có vị trí, vai trò vô cùng
quan trọng góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật, đáp ứng với chương trình cải
cách tư pháp trong tình hình mới. Pháp luật – công cụ quản lý xã hội của nhà nước
cũng phát huy tốt ý nghĩa của mình trong việc thực hiện quy định BHTN trong vấn đề
này. Nhìn chung các quy định về BHTN cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành đã
quy định tương đối đầy đủ, hợp lý những vấn đề cần thiết, là cơ sở pháp lý quan trọng
để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về Thực hiện quy định BHTN. Tuy nhiên,
trong thực tế, khi triển khai, do nhiều nguyên nhân khác nhau, các quy định Thực hiện
quy định BHTN chưa thực sự được áp dụng phổ biến, nhiều vi phạm về vấn đề này đã
có những tác động không nhỏ đến cộng đồng, đồng thời những ảnh hưởng của các
hành vi đó mang tính chất lâu dài, nghiêm trọng và khó khắc phục về tình trạng ban
đầu. Do đó, các cơ quan chức năng cần có những biện pháp hữu hiệu để thực hiện có
hiệu quả những quy định của pháp luật về vấn đề này một cách chính xác các quyền
lợi mà pháp luật đã trao. Với đề tài “Pháp luật về BHTN và thực tiễn thực hiện tại tỉnh
Quảng Ninh.”, luận văn đã giải quyết được một số vấn đề cơ bản sau:
- Luận văn đã hệ thống hóa và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về
BHTN làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu, phân tích thực trạng BHTN của
BHXH tỉnh Quảng Ninh trong những năm đầu thực hiện, đồng thời làm căn cứ cho
những đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức công tác thu BHTN.
- Dựa vào nghiên cứu thực trạng BHTN tỉnh Quảng Ninh trong những năm
qua, luận văn đã đi vào đánh giá, phân tích những kết quả đạt được cũng như những
tồn tại. Thông qua đó xây dựng cơ sở thực tiễn cho những đề xuất giải pháp hoàn
thiện công tác BHTN tỉnh Quảng Ninh trong những năm tới.
- Dựa trên những luận cứ khoa học, kết quả nghiên cứu thực tiễn, luận văn tập
trung nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp chủ yếu, có tính khả thi nhằm nâng cao
hiệu quả trong việc thực hiện chính sách về BHTN.
79
Với những nội dung nghiên cứu của luận văn, em hy vọng sẽ góp phần làm
sáng tỏ thêm việc hoàn thiện chính sách về BHTN. Tuy nhiên, do hạn chế về thời
gian, nhất là hạn chế về trình độ và kinh nghiệm nghiên cứu, luận văn không thể tránh
khỏi những sai sót, bất cập. Em rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của thầy
cô để luận văn được hoàn thiện hơn và có giá trị vận dụng cao hơn trong thực tiễn.
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Công ước số 102 (năm 1952) của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về các quy phạm an toàn xã hội.
2. Nguyễn Huy Ban (2004), Nghiên cứu những nội dung cơ bản của BHTN hiện
đại. Vấn đề lựa chọn hình thức trợ cấp thất nghiệp ở Việt Nam, Đề tài nghiên
cứu cấp bộ.
3. BHXH Việt Nam (2017) Quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 của
Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam về quy trình thu BHXH, bảo hiểm y tế,
BHTN, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; quản lý sổ BHXH, thẻ
bảo hiểm y tế
4. Chính Phủ (2014) Nghị định số 105/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2014
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
bảo hiểm y tế, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2015.
5. Chính Phủ (2018) Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo hiểm y
tế, có hiệu lực thi hành từ 01/12/2018.
6. Chính Phủ (2011) Nghị quyết số: 30c/NQ-CP, ngày 08 tháng 11 năm 2011 về
ban hành chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011
-2020;
7. Chính phủ (2018) Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách BHXH
ngày 23/5/2018
8. Chính phủ (2008) Nghị quyết số 36a /NQ-CP của Chính phủ về Chính phủ
điện tử; hoàn thành thu thập, nhập thông tin và thực hiện rà soát, chuẩn hóa dữ
liệu hộ gia đình tham gia BHYT theo quy định của Luật BHYT;
9. Chính phủ (2016) Nghị định số21/2016/NĐ-CP ngày 31/3/21016 của Chính
phủ quy định việc thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng
BHXH, BHTN, BHYT của cơ quan BHXH.
81
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb CTQG, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb CTQG, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb CTQG, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.
14. Đảng bộ Thành phố Cẩm Phả (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X.
15. Nguyễn Văn Định (2008) Giáo trình an sinh xã hội, Nxb Đại học kinh tế quốc
dân.
16. Phạm Thái Hà (2018) “Kinh nghiệm quốc tế về triển khai bảo hiểm thất
nghiệp và những gợi ý cho Việt Nam”, Tạp chí điện tử Tài Chính, ,
(07/04/2018).
17. Hội đồng chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa (2011) Từ điển bách khoa Việt
Nam, Nxb Từ Điển bách khoa.
18. Nguyễn Thị Hồng (2015) Hỗ trợ giải quyết việc làm cho lao động hưởng bảo
hiểm thất nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Đại học Lao Động và Xã hội.
19. Lê Ngọc Hùng (2015) Lịch sử và lý thuyết Xã hội học, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội.
20. Phạm Thái Hà (2018) “Kinh nghiệm quốc tế về triển khai BHTN và những gợi
ý cho Việt Nam” Hà Nội.
21. Lê Minh Lý (2013) “Thực trạng, giải pháp phòng chống lạm dụng quỹ BHTN
trên địa bàn tỉnh Bình Dương”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội , (24/01/2013).
22. Nguyễn Thị Mơ, 2005, Giáo trình pháp lý đại cương, NXB giáo dục, HN 2005
23. Trịnh thị Kim Ngọc (2014) Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(80) -
2014
82
24. BHXH tỉnh Quảng Ninh (2015-2018) Báo cáo tổng kết năm 2015-2018,
Quảng Ninh.
25. Nguyễn Mai Phương (2014) Chế độ bảo hiểm ở Trung Quốc từ năm 1992 đến
nay, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội.
26. Ngô Thu Phương, Luận văn thạc sĩ luật học “BHTN trong luật BHXH ở Việt
Nam – Thực trạng và giải pháp” (2014) Luận văn thạc sỹ kinh tế, khoa luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
27. Quốc Hội (2014) Luật BHYT số 46/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật BHYT 2008, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2015
28. Quốc Hội (2015) Bộ Luật hình sự số 100/2015/QH13 được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 127/11/2015 có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/07/2016
29. Quốc hội (2015) Luật việc làm 2015, NXB Tư pháp.
30. Bùi Ngọc Thanh (2013) “Một số giải pháp góp phần hoàn thiện chế độ bảo
hiểm thất nghiệp” ,Cổng thông tin điện tử Bộ LĐ TB-XH, (16-04- 2013).
31. Lê Thị Hoài Thu (2005) Luận án tiến sĩ luật học “Chế độ BHTN trong nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam” (2005), Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
32. Lê Quang Trung (2013) “Đánh giá và hoàn thiện cơ chế chính sáchBHTN
nhằm tăng cường tính bền vững” Đề tài nghiên cứu cấp bộ.
33. Nguyễn Quang Vinh (2010) Các mô hình và kinh nghiệm thực hiện BHTN
trên thế giới, Đề tài nghiên cứu cấp bộ.
34. ILO/Japan (2012) Project Promoting and Building Unemployment Insurance
and Employment Services in ASEAN “Unemployment insurance, income
security measures and active labour market policies in ASEAN”.
35. “The current state of Unemployment Insurance : Challenges anh Prospects”
của Ellion Schreur và Benjamin W.Veghte (2010), National Academy of
Social Insurancse US, No.3.
83
36. Dr. Wayne Vroman (2010) “The Role of Unemployment Insurance as an
automatic stabilizer during a recession” , IMPAQ International, LLC.
37. Wayne Vroman (2011)“ Unemployment Insurance: Problems and Prospects”
, National Academy of Social Insurancse US, No.2.
38. Douglas W.Elmendorf (2010),“Unemployment Insurance Benefits and
Family Income of the Unemployed” CONGRESSIONAL BUDGET
OFFICE, US Congress.
39. http://www.misa.com.vn/tin-tuc/chi-tiet/newsid/63654/Se-tang-muc-tro-cap-
that-nghiep-trong-nam-2020
40. https://voer.edu.vn/m/bao-hiem-that-nghiep-va-chuyen-dich-co-cau-kinh-te/
634fcd29