......../.......
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ................/............... \
Ftc d.4t94 006E HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ HÒA
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ
TẠI THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
......../.......
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ HÒA
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ
TẠI THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 08 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HUỲNH VĂN THỚI
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ................/...............
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực
hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, khảo sát tình hình thực tiễn và sự hướng
dẫn tận tình của PGS.TS. Huỳnh Văn Thới.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Thừa Thiên Huế, ngày 15 tháng 9 năm 2018
Học viên
Nguyễn Thị Hòa
LƠI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến lãnh đạo
Học viện Hành chính Quốc gia, cùng tập thể các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến
sỹ và cán bộ quản lý của Học viện đã tận tình truyền đạt những kiến thức
khoa học quý báu và tạo các điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành chương
trình cao học chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
Xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Huỳnh Văn Thới đã tận tình hướng
dẫn bản thân tôi nghiên cứu hoàn thành tốt luận văn này.
Trong quá trình thực hiện, luận văn sẽ không tránh khỏi những hạn chế,
thiếu sót nhất định, rất mong nhận được sự chia sẻ và góp ý của quý thầy, cô
giáo và người đọc.
Xin trân trọng cảm ơn!
Học viên
Nguyễn Thị Hòa
MỤC LỤC
Trang bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục viết tắt MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BẦU CỬ ................................................................................................... 7
1.1. Khái quát thực hiện pháp luật về bầu cử .......................................................... 7
1.1.1.Khái niệm thực hiện pháp luật về bầu cử ....................................................... 7
1.1.2. Nguyên tắc thực hiện pháp luật về bầu cử .................................................... 9
1.1.3. Vai trò thực hiện pháp luật về bầu cử .......................................................... 12
1.2. Nội dung thực hiện pháp luật về bầu cử ......................................................... 13
1.2.1. Chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện pháp luật về bầu cử ............................... 13
1.2.2. Lập kế hoạch thực hiện luật về bầu cử ........................................................ 15
1.2.3. Tổ chức bộ máy, nhân sự thực hiện pháp luật về bầu cử ......................... 16
1.2.4. Bảo đảm điều kiện thực hiện pháp luật về bầu cử..................................... 18
1.2.5. Giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bầu cử; giải quyết khiếu
nại tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bầu cử ................................................... 21
1.2.6. Tổng kết thực hiện pháp luật về bầu cử ...................................................... 24
1.3. Kinh nghiệm đúc kết thực hiện pháp luật về bầu cử .................................... 27
1.3.1. Kinh nghiệm thực hiện pháp luật về bầu cử ở một số nước .................... 27
1.3.2. Kinh nghiệm thực hiện pháp luật về bầu cử ở một số địa phương ......... 30
1.3.3. Kinh nghiệm đúc kết cho công tác thực hiện pháp luật ở thành phố Huế,
tỉnh Thừa Thiên Huế .................................................................................................. 38
Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................... 40
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ
TẠI THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ .................................. 41
2.1. Điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế xã hội tác động đến thực hiện pháp
luật về bầu cử của thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.................................... 41
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội ............................................. 41
2.1.2. Điều kiện chính trị- hành chính ................................................................... 42
2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố Huế, tỉnh Thừa
Thiên Huế ..................................................................................................................... 42
2.2.1. Về chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện pháp luật về bầu cử .............................. 42
2.2.2. Về lâp kế hoạch thực hiện pháp luật về bầu cử ......................................... 44
2.2.3. Về tổ chưc bộ máy, nhân sự thực hiện pháp luật về bầu cử .................... 60
2.2.4. Về bảo đảm điều kiện thực hiện pháp luật về bầu cử ............................... 62
2.2.5. Về hoạt động giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bầu cử; giải
quyết khiếu nại tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bầu cử. ........................... 64
2.2.6. Về tổng kết thực hiện pháp luât về bầu cử ................................................. 66
2.3. Đánh giá kết quả thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố Huế, tỉnh
Thừa Thiên Huế .......................................................................................................... 67
2.3.1. Kết quả đạt được .............................................................................................. 67
2.3.2. Hạn chế, thiếu sót ............................................................................................ 69
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế thiếu sót .............................................................. 71
Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................... 72
Chương 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ TẠI THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH
THỪA THIÊN HUẾ ................................................................................................ 73
3.1. Quan điểm hoàn thiện công tác thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành
phố Huế ........................................................................................................................ 73
3.2. Giải pháp hoàn thiện thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố Huế,
tỉnh Thừa Thiên Huế .................................................................................................. 76
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong công tác thực hiện
pháp luật về bầu cử ..................................................................................................... 76
3.2.2. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bầu cử, nâng
cao nhận thức và ý thức của người dân về bầu cử ................................................ 78
3.2.3. Tăng cường vận động, hướng dẫn ................................................................ 80
3.2.4. Tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực Tổ bầu cử .................................. 83
3.2.5. Tăng cường giám sát, kiểm tra đối với hoạt động bầu cử....................... 83
3.2.6. Ứng dụng công nghệ thông tin trong thống kê, tổng hợp kết quả bầu cử
nhằm đảm bảo tính khoa học, nhanh và chính xác ............................................... 86
Tiểu kết chương 3 ..................................................................................................... 89
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HĐBC Hội đồng bầu cử
HĐND Hội đồng nhân dân
Luật Bầu cử
MTTQVN Luật Bầu cử đại biều Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 Mặt trận tổ quốc Việt Nam
UBBC Ủy ban bầu cử
UBND Ủy ban nhân dân
UBTVQH Uỷ ban thường vụ Quốc hội
MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Bầu cử là hình thức dân chủ trực tiếp, là phương thức thể hiện ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng Nhà nước
nói chung và cơ quan đại diện, cơ quan quyền lực nhà nước từ trung ương đến
địa phương ở nước Việt Nam ta nói riêng.
Thực hiện pháp luật về bầu cử không những liên quan đến quyền và nghĩa
vụ của mỗi công dân mà còn liên quan đến chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan
nhà nước, thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà
nước quản lý.
Tổng kết, đánh giá nhiều cuộc bầu cử của đất nước đã diễn ra thành
công tốt đẹp, bảo đảm dân chủ, bình đẳng, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm,
phát huy tinh thần dân chủ, công khai, minh bạch trong từng bước triển khai
thực hiện. Các cuộc bầu cử diễn ra trong tình hình an ninh ổn định, trật tự, an
toàn xã hội được bảo đảm. Kết quả bầu cử cơ bản bảo đảm mục tiêu kế hoạch
đề ra, tỷ lệ đại biểu là phụ nữ, là người dân tộc thiểu số, đại biểu trẻ tuổi, có
trình độ trên đại học cao nhiệm kỳ sau cao hơn so với nhiệm kỳ trước, phản
ánh được tính đại diện rộng rãi cho các tầng lớp nhân dân. Tuy vậy, thực tiễn
công tác tổ chức triển khai thực hiện bầu cử ở một số nơi trên thực tế vẫn còn
nhiều hạn chế.
Thành phố Huế là thành phố duy nhất của tỉnh Thừa Thiên Huế có mật
độ dân số đông, thành phần đa dạng, là địa phương tập trung toàn bộ các cơ
quan, ban ngành cấp tỉnh; nơi tập trung công tác của phần lớn các đại biểu
Quốc hội, đại biểu HĐND nên công tác thực hiện pháp luật về bầu cử đóng
1
vai trò hết sức quan trọng trong việc tổ chức triển khai hoạt động này trên địa
bàn thành phố.
Vì vậy, nghiên cứu công tác tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử nói
chung và thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố Huế nói riêng, nhằm làm
rõ hơn từ cơ sở lý luận đến thực tiễn việc thực hiện pháp luật về bầu cử và
đưa ra những ý kiến góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bầu
cử trên địa bàn thành phố Huế trong thời gian đến là vấn đề hết sức cần thiết.
Đây chính là lý do học viên lựa chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về bầu cử
tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế” làm luận văn Thạc sĩ Luật Hiến
pháp và luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Trong thời gian qua, một số công trình nghiên cứu khoa học về bầu cử
đã được công bố như:
- Luận án tiến sĩ Luật học “Chế độ bầu cử ở nước ta - những vấn đề lý
luận và thực tiễn” của Vũ Văn Nhiêm Đại học quốc gia Hà Nội, 2009. Tác
giả đã nêu và phân tích cơ sở lý luận về chế độ bầu cử trong xã hội dân chủ
nói chung và ở Việt Nam nói riêng.Thực tiễn tổ chúc thực hiện chế độ bầu cử
ở Việt Nam. Tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm đổi mới chế độ bầu cử để
phát huy dân chủ.
- Luận văn thạc sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về bầu cử những vấn
đề lý luận và thực tiễn” của Trần Diệu Hương Đại học quốc gia Hà Nội, 2013.
Tác giả đã phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chế độ bầu cử,
nghiên cứu tổng kết thực tiễn, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về
chế độ bầu cử của Việt Nam về những bất cập, tồn tại và nguyên nhân. Từ đó
đưa ra những giải pháp khắc phục tồn tại và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật về bầu cử ở Việt Nam trong thời gian tới.
2
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Thực hiện pháp luật bầu cử HĐND cấp
xã qua thực tiễn tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên” của Trần Thị Thu Hà
Viện Nhà nước và pháp luật, 2010. Tác giả nêu, phân tích và đánh giá thực
trạng và đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc
còn tồn tại trong quá trình trình thực thi pháp luật bầu cử đại biểu HĐND cấp
xã nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bầu cử đại biểu HĐND cấp
xã.
Bên cạnh nhưng công trình nghiên cứu khoa học nêu trên, nhiều vấn đề
liên quan đến họat động bầu cử cũng được đề cập trong một số bài tham luận,
bài viết đăng tải trên một số báo, tạp chí, các trang thông tin điện tử của Quốc
Hội, HĐND một số tỉnh và một số báo cáo, tài liệu nghiên cứu về hoạt động
bầu cử cụ thể như:
- Bài viết “Một số vấn đề về thể chế bầu cử ở nước ta hiện nay”
PGS.TS. Nguyễn Thị Tâm, bài được đăng tải trên trang Web
lyluanchinhtri.vn;
- Bài viết “Quá trình hoàn thiện pháp luật về bầu cử ở Việt Nam” PGS,
TS. Nguyễn Quốc Sửu, bài được đăng tải trên trang Web
tapchicongsan.org.vn;
- Bài viết “Quốc Hội nước ta qua các kỳ bầu cử” theo quochoi.vn, bài
được đăng tải trên trang Web btgcp.gov.vn;
- Bài viết “Các nguyên tắc cơ bản của bầu cử ở nước ta hiện nay”
PGS.TS Vũ Văn Phúc, bài được đăng tải trên trang Web
tapchicongsan.gov.vn;
- Bài viết “Vai trò của MTTQVN trong bầu cử đại biểu Quốc hội và
HĐND” ThS Nguyễn Thanh Bình, bài được đăng trên Tạp chí Lý luận chính
trị số 4-2016;
3
- Bài viết “Nâng cao tỷ lệ nữ trong Quốc hội và HĐND các cấp” của
Xuân Hà, bài được đăng tải trên trang Web tapchicongsan.gov.vn;
- Bài viết “Bầu cử dân chủ - cơ chế bảo đảm thực hiện quyền lực chính
trị của nhân dân lao động” của Đào Đoan Hùng, bài được đăng Tạp chí dân
chủ và pháp luật số 1-2018.
Hiện tại, học viên chưa tìm thấy công trình nào nghiên cứu một cách
đầy đủ cả về mặt lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật về bầu cử tại
thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chính vì vậy, trên cơ sở kế thừa các kết
quả của các công trình nghiên cứu liên quan, luận văn nghiên cứu những vấn
đề lý luận và thực tiễn của việc thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố
Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế trong nhiệm kỳ 2016-2021 để từ đó đưa ra các giải
pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác thực hiện pháp luật về bầu cử nói
chung và trên địa bàn thành phố Huế nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và pháp lý của thực hiện pháp luật về bầu cử, luận
văn phân tích thực trạng, từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện công tác
thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, các nhiệm vụ nghiên cứu là:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận, pháp lý về bầu cử;
- Phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện pháp về bầu cử trên địa bàn
thành phố Huế trong thời gian qua;
- Đề ra giải pháp để góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
bầu cử trong những nhiệm kỳ tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
4
Luận văn nghiên cứu công tác thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành
phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Công tác tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử trên địa bàn thành phố
Huế nhiệm kỳ 2016-2021.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lê nin, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay về thực
hiện pháp luật về bầu cử, bám sát tình hình thực tế và điều kiện tự nhiên, xã
hội ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu của luận văn tác giả sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
Phương pháp nghiên cứu văn bản: Được sử dụng để thu thập, phân tích
và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu,
bao gồm các văn kiện của Đảng, văn bản Luật, văn bản của các cơ quan nhà
nước ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo,
các thống kê của các cơ quan, đơn vị liên quan trực tiếp hoăc gián tiếp đến
việc thực hiện pháp luật về bầu cử.
Phương pháp thống kê, thu thập thông tin: tiến hành nghiên cứu báo
cáo của các cơ quan, đơn vị về tình hình tổ chức triển khai thực hiện, tổng kết
công tác bầu cử; trên cơ sở đó tổng hợp, so sánh thực trạng thực hiện giữa các
cơ quan, đơn vị trên các mặt nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu.
Phương pháp phân tích, đánh giá: Đề tài tiến hành phân tích, đánh
giá thực trạng thực hiện pháp luật về bầu cử để từ đó chỉ ra được những mặt
5
mạnh, mặt yếu trong thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố Huế, từ đó
làm cơ sở cho những đề xuất, giải pháp ở Chương 3.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần đề tài hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về
bầu cử và thực hiện pháp luật về bầu cử, đánh giá thực trạng thực hiện pháp
luật về bầu cử của thành phố Huế, từ đó đưa ra các giải pháp góp phần nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bầu cử ở thành phố Huế.
Luận văn có tính thời sự khi đóng góp ý kiến, giúp cho việc tổ chức
thực hiện pháp luật về bầu cử trong nhiệm kỳ tới đạt hiệu quả hơn.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong thực tế thực hiện
pháp luật về bầu cử ở thành phố Huế trong nhiệm kỳ tới hoặc sẽ là nguồn tư
liệu tham khảo hữu ích cho những người quan tâm, nghiên cứu pháp luật về
bầu cử.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của thực hiện pháp luật về bầu cử
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố Huế,
tỉnh Thừa Thiên Huế.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp hoàn thiện công tác thực hiện pháp
luật về bầu cử tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ
1.1. Khái quát thực hiện pháp luật về bầu cử
1.1.1.Khái niệm thực hiện pháp luật về bầu cử
Pháp luật bầu cử bao gồm tổng thể các quy định pháp luật điều chỉnh các
mối quan hệ xã hội liên quan đến quyền bầu cử, quyền ứng cử, các quy trình
tiến hành bầu cử và xác định kết quả bầu cử.
Pháp luật bầu cử giống như các chế định pháp luật khác, không chỉ chứa
đựng các quy phạm pháp luật về quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể
tham gia các mối quan hệ bầu cử mà còn chứa đựng các quy phạm có tính thủ
tục, quy định trình tự bầu cử và xác định kết quả bầu cử [14, tr. 340].
Thực tế cho thấy, pháp luật về bầu cử đã được hình thành kể từ bản Hiến
pháp đầu tiên (Hiến pháp năm 1946) của nước Việt Nam ra đời, đến các bản
Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 và năm 2013 đã tiếp tục ghi nhận
và phát triển quyền bầu cử, ứng cử với tư cách là quyền chính trị cơ bản của
công dân.
Có thể thấy rằng các quy phạm pháp luật về bầu cử được chia thành 3
nhóm sau:
Nhóm thứ nhất quy định chung về bầu cử, bao gồm các quy phạm pháp
luật xác định nguyên tắc bầu cử; tuổi ứng cử và tuổi bầu cử; tiêu chuẩn của
người ứng cử; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong công tác bầu cử, ngày
bầu cử và kinh phí tổ chức bầu cử.
Nhóm thứ hai quy định nội dung của cuộc bầu cử. Nhóm này bao gồm
các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc tổ chức và trình tự tiến hành bầu cử;
cụ thể hoá các nguyên tắc bầu cử; quy định về quy trình bầu cử từ việc xác
định ngày bầu cử, phương thức tổ chức đơn vị bầu cử, khu vực bỏ phiếu, tổ
7
chức phụ trách bầu cử, lập danh sách cử tri, danh sách ứng cử viên, hiệp
thương, tổ chức tuyên truyền, vận động bầu cử, trình tự bỏ phiếu, kiểm phiếu
và xác định kết quả bầu cử, bầu cử bổ sung và tổng kết bầu cử.
Nhóm thứ ba là tổng thể các quy phạm pháp luật quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành pháp luật bầu cử.
Từ phân tích trên, có thể định nghĩa: Pháp luật về bầu cử là tổng thể các
quy phạm pháp luật thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, quyền và
nghĩa vụ của công dân, do cơ quan nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các
mối quan hệ xã hội liên quan đến quyền bầu cử, quyền ứng cử, các quy trình
tiến hành bầu cử và xác định kết quả bầu cử.
Thực hiện pháp luật là bước tiếp theo sau khi văn bản pháp luật được
ban hành để đưa các quy phạm pháp luật trở thành các quy tắc xử sự của các
chủ thể pháp luật làm cho các yêu cầu, quy định của văn bản pháp luật cử trở
thành hiện thực đi vào cuộc sống.
Để tổ chức thực hiện các quy định pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ
xã hội liên quan đến quyền bầu cử, quyền ứng cử, các quy trình tiến hành bầu
cử và xác định kết quả bầu cử, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp tục
ban hành các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các quy định đó
nhằm mục đích làm cho những quy định này đi vào cuộc sống, trở thành
những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể tham gia hoạt động bầu cử.
Thực hiện pháp luật về bầu cử là một quá trình hoạt động có mục đích
làm cho những quy định của pháp luật về bầu cử đi vào cuộc sống, trở
thành những hành vi thực tế, hợp pháp trong mối quan hệ xã hội liên quan
đến quyền bầu cử, quyền ứng cử, các quy trình tiến hành bầu cử và xác định
kết quả bầu cử khi tham gia quan hệ pháp luật về bầu cử.
Thực hiện pháp luật về bầu cử có những đặc điểm sau đây:
8
Thứ nhất, chủ thể tham gia bầu cử là công dân có đủ điều kiện theo quy
định thực hiện quyền bầu cử và quyền ứng cử của mình.
Thứ hai, chủ thể thực hiện pháp luật về bầu được hình thành từ các cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị - xã hội và các tổ chức hữu quan
khác.
Thứ ba, quá trình thực hiện pháp luật về bầu cử được bảo đảm bằng cả
hệ thống chính trị .
Thứ tư, thời gian thực hiện được ấn định cụ thể.
Thứ năm, thực hiện pháp luật về bầu cử để củng cố và hoàn thiện cơ
quan quyền lực nhà nước.
1.1.2. Nguyên tắc thực hiện pháp luật về bầu cử
- Nguyên tắc thực hiện công khai, dân chủ:
Điều 13, Điều 26 Luật Bầu cử quy định, trong quá trình thực hiện pháp
luật về bầu cử, Hội đồng bầu cử quốc gia và các tổ chức phụ trách bầu cử ở
địa phương hoạt động theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số. Các cuộc
họp được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên của Hội đồng
bầu cử quốc gia các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương tham dự; các
quyết định được thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán
thành.
- Nguyên tắc lập danh sách cử tri:
Điều 29, Luật Bầu cử quy định, mọi công dân có quyền bầu cử đều được
ghi tên vào danh sách cử tri và được phát thẻ cử tri, trừ các trường hợp đang
bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật, người bị kết án tử hình đang trong thời gian chờ thi hành án, người đang
chấp hành hình phạt tù mà không được hưởng án treo, người mất năng lực
hành vi dân sự thì không được ghi tên vào danh sách cử tri. Mỗi công dân chỉ
được ghi tên vào một danh sách cử tri ở nơi mình thường trú hoặc tạm trú. Cử
9
tri là người tạm trú và có thời gian đăng ký tạm trú tại địa phương chưa đủ 12
tháng, cử tri là quân nhân ở các đơn vị vũ trang nhân dân được ghi tên vào
danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp
huyện ở nơi tạm trú hoặc đóng quân. Công dân Việt Nam ở nước ngoài trở về
Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau khi danh sách cử tri đã được niêm yết
đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ, thì đến UBND cấp xã xuất trình
Hộ chiếu có ghi quốc tịch Việt Nam để được ghi tên vào danh sách cử tri và
nhận thẻ cử tri bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện,
cấp xã (nếu xuất trình tại nơi đăng ký thường trú) hoặc bầu đại biểu Quốc hội
và đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện (nêu xuất trình tại nơi đăng ký tạm
trú). Cử tri là người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện
pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được ghi tên
vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cấp tỉnh nơi
người đó đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở
giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Nguyên tắc vận động bầu cử:
Điều 63 Luật Bầu cử quy định việc vận động bầu cử được tiến hành dân
chủ, công khai, bình đẳng, đúng pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu HĐND ở đơn vị bầu cử nào
thì thực hiện vận động bầu cử tại đơn vị bầu cử đó. Các tổ chức phụ trách bầu
cử và thành viên của các tổ chức này không được vận động cho người ứng cử.
- Nguyên tắc bỏ phiếu:
Điều 69 Luật Bầu cử quy định mỗi cử tri có quyền bỏ một phiếu bầu đại
biểu Quốc hội và bỏ một phiếu bầu đại biểu HĐND tương ứng với mỗi cấp
HĐND. Cử tri phải tự mình, đi bầu cử, không được nhờ người khác bầu cử
thay. khi bầu cử phải xuất trình thẻ cử tri. Cử tri không thể tự viết được phiếu
bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ
10
phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri. Trường hợp cử tri vì khuyết tật
không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu. Trong
trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, khuyết tật không thể đến phòng bỏ phiếu
được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở, chỗ điều trị
của cử tri để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Đối với cử tri là
người đang bị tạm giam, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo
dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc mà trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt
buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc không tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng hoặc
cử tri là người đang bị tạm giữ tại nhà tạm giữ thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu
phụ và phiếu bầu đến trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ
sở cai nghiện bắt buộc để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Khi
cử tri viết phiếu bầu, không ai được xem, kể cả thành viên Tổ bầu cử. Nếu
viết hỏng, cử tri có quyền đổi phiếu bầu khác. Khi cử tri bỏ phiếu xong, Tổ
bầu cử có trách nhiệm đóng dấu “Đã bỏ phiếu” vào thẻ cử tri. Mọi người phải
tuân theo nội quy phòng bỏ phiếu.
- Nguyên tắc xác định người trúng cử:
Điều 78 Luật Bầu cử quy định kết quả bầu cử được tính, trên số phiếu
bầu hợp lệ và chỉ được công nhận khi đã có quá một nửa tổng số cử tri trong
danh sách cử tri tại đơn vị bầu cử tham gia bầu cử, trừ trường hợp bầu cử lại
thì ngày bầu cử được tiến hành chậm nhất là 15 ngày sau ngày bầu cử đầu
tiên. Trong cuộc bầu cử lại, cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người
ứng cử tại cuộc bầu cử đầu tiên. Nếu bầu cử lại mà số cử tri đi bầu cử vẫn
chưa đạt quá một nửa tổng số cử tri trong danh sách cử tri thì kết quả bầu cử
lại được công nhận mà không tổ chức bầu cử lại lần thứ hai. Người trúng cử
phải là người ứng cử đạt số phiếu bầu quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ.
Trường hợp số người ứng cử đạt số phiếu bầu quá một nửa tổng số phiếu bầu
hợp lệ nhiều hơn số lượng đại biểu mà đơn vị bầu cử được bầu thì những
11
người trúng cử là những người có số phiếu bầu cao hơn. Trường hợp cuối
danh sách trúng cử có nhiều người được số phiếu bầu bằng và nhiều hơn số
lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử thì người nhiều tuổi
hơn là người trúng cử.
1.1.3. Vai trò thực hiện pháp luật về bầu cử
Thực hiện pháp luật về bầu cử là một tiến trình không những liên quan
đến quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân mà còn liên quan đến chế độ chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của cơ quan nhà nước, thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng lãnh
đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý. Có thể nói, thực hiện pháp luật về
bầu cử có vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng và phát triển cơ quan
quyền lực nhà nước, đồng thời là phương thức thể hiện quyền lực của nhân
dân.
- Thực hiện pháp luật về bầu cử là phương thức tiếp tục xây dựng, củng
cố và hoàn thiện cơ quan quyền lực nhà nước.
Thông qua các cuộc bầu cử, nhân dân trực tiếp lựa chọn, bầu ra những
người tiêu biểu về đức, tài, xứng đáng là đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân trong Quốc hội và HĐND. Chính vì vậy, bầu cử
ở nước ta luôn là một sự kiện chính trị trọng đại. Mỗi cuộc bầu cử là một đợt
sinh hoạt chính trị toàn dân, ngày hội lớn của dân tộc.
Trải qua 14 lần bầu cử, qua mỗi lần bầu chúng ta càng thấy Nhà nước
pháp quyền của chúng ta là một bước phát triển. Bởi, qua thực tiễn thi hành
pháp luật về bầu cử chúng ta rút ra được những hạn chế, bất cập, từ đó kịp
thời nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Hiến pháp và thực tiễn đổi
mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, HĐND các cấp. Khi các quy định về
bầu cử được quy chi tiết, cụ thể phù hợp với Hiến pháp và thực tiễn thì việc
thi hành pháp luật về bầu cử được các cơ quan, tổ chức, đơn vị và nhân dân
12
thực hiện thuận lợi và nghiêm túc, thể hiện tinh thần dân chủ, công khai, minh
bạch từ đó Nhân dân ta tìm ra được những cá nhân thực sự vì dân, có uy tín,
trình độ, đạo đức, năng lực để giao đảm nhận các vị trí quan trọng trong trong
bộ máy Nhà nước từ trung ương đến địa phương. Từ đó Nhà nước ta ngày
một phát triển, vững mạnh.
- Thực hiện pháp luật về bầu cử là phương thức để nhân dân thực hiện
quyền lực của của mình.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận Nhà
nước ta là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; do Nhân dân
làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua
Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước. Công dân đủ
mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có
quyền ứng cử vào Quốc hội, HĐND.
Như vậy, quyền lực của Nhân dân đã được Hiến pháp ghi nhận. Làm sao
để đảm bảo cho nhân dân thực hiện được quyền của mình một cách đầy đủ,
trọn vẹn nhất? Pháp luật về bầu cử ra đời đã trả lời cho câu hỏi này. Pháp luật
bầu cử bao gồm tổng thể các quy định pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ
xã hội liên quan đến quyền bầu cử, quyền ứng cử, các quy trình tiến hành bầu
cử và xác định kết quả bầu cử. Đây là một biện pháp bảo đảm cho nhân dân
thực hiện đày đủ và trọn vẹn nhất quyền lực của mình.
1.2. Nội dung thực hiện pháp luật về bầu cử
1.2.1. Chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện pháp luật về bầu cử
Trước kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, UBTVQH thành
lập HĐBC để thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ
chức bầu cử trong cả nước. HĐBC có từ mười lăm đến hai mươi mốt người
gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký và các uỷ viên là đại diện
13
UBTVQH, Chính phủ, Uỷ ban trung ương MTTQ Việt Nam và một số cơ
quan, tổ chức hữu quan. HĐBC được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng trong
việc tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND, từ việc chuẩn bị danh sách
những người ứng cử đại biểu Quốc hội; quy định mẫu thẻ cử tri và phiếu bầu
cử, tổng kết kết quả bầu cử; tổ chức chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền,
vận động bầu cử, công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong cuộc
bầu cử.
HĐBC quốc gia, UBTVQH, Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban trung ương
MTTQ Việt Nam, các bộ ngành có liên quan ban hành các văn bản lãnh đạo,
chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử từ Trung ương đến cơ sở. Các cấp ủy
Đảng, MTTQ, chính quyền, các tổ chức đoàn thể ở các địa phương tiến hành
các công việc chuẩn bị bầu cử và lãnh đạo, chỉ đạo công tác bầu cử ở địa
phương. Các tổ chức phụ trách bầu cử đã được thành lập theo đúng quy trình
và triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật [7, tr 2].
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan, các
tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương đã ban hành các kế hoạch triển khai cụ
thể để thi hành pháp luật về bầu cử.
Theo chỉ đạo và hướng dẫn của HĐBC quốc gia về công tác bầu cử, Thủ
tướng Chính phủ giao Bộ Nội vụ là cơ quan thường trực, chịu trách nhiệm
tham mưu, giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các cấp ban hành các văn bản
hướng dẫn về bầu cử, thực hiện công tác bầu cử; kiểm tra, đôn đốc việc thực
hiện bảo đảm đúng các quy định về bầu cử.
Bộ Trưởng Bộ Nội vụ ban hành Thông tư hướng dẫn các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương triển khai thực hiện các nội dung công tác bầu cử; tổng
hợp và biên soạn tài liệu tập huấn nghiệp vụ bầu cử. Qua các hội nghị tập
huấn, Bộ Nội vụ và các cơ quan liên quan ở Trung ương trực tiếp hướng dẫn,
14
trả lời những kiến nghị của địa phương hoặc tiếp thu để báo cáo các cơ quan
có thẩm quyền xem xét, ban hành văn bản hướng dẫn bổ sung.
Tổ chức các hội nghị giao ban công tác bầu cử tại 3 khu vực Bắc -
Trung - Nam, với sự tham gia của UBBC cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã của
63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để kịp thời đánh giá tình hình triển
khai công tác bầu cử của các địa phương theo kế hoạch của HĐBC cử quốc
gia; hướng dẫn, giải quyết các vấn đề vướng mắc, khó khăn phát sinh và đề
xuất, kiến nghị của địa phương; đồng thời, tổng hợp báo cáo HĐBC quốc gia
xem xét, có văn bản hướng dẫn bổ sung về công tác bầu cử [8, tr 2].
Trên cơ sở đó, tại địa phương các cơ quan, đơn vị tổ chức triển khai tập
huấn nghiệp vụ bầu cử theo quy định cho toàn thể đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức được giao nhiệm vụ thực hiện công tác bầu cử, nhằm đảm bảo thực
hiện công tác bầu củ được thống nhất và đúng quy định.
1.2.2. Lập kế hoạch thực hiện luật về bầu cử
Việc lập kế hoạch thực hiện pháp luật về bầu cử được các cơ quan, tổ
chức, đơn vị và nhân dân thực hiện theo quy định Luật Bầu cử và các văn bản
hướng dẫn thi hành, bao gồm các nội dung sau:
1) Công bố ngày bầu cử;
2) Thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử;
3) Về tổ chức các hội nghị triển khai công tác bầu cử, hội nghị giới thiệu
người ứng cử, hội nghị hiệp thương và hội nghị cử tri;
4) Công tác thông tin, tuyên truyền và vận động bầu cử;
5) Công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong bầu cử;
6) Lập và niêm yết danh sách cử tri, người ứng cử;
7) Tổ chức ngày bầu cử;
8) Công bố kết quả bầu cử.
15
1.2.3. Tổ chức bộ máy, nhân sự thực hiện pháp luật về bầu cử
- Ở Trung ương:
HĐBC quốc gia do Quốc hội thành lập, có từ mười lăm đến hai mươi
mốt thành viên gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên là đại diện
UBTVQH, Chính phủ, Ủy ban trung ương MTTQ Việt Nam và một số cơ
quan, tổ chức hữu quan. Chủ tịch HĐBC quốc gia do Quốc hội bầu, miễn
nhiệm theo đề nghị của UBTVQH. Các Phó Chủ tịch và các Ủy viên HĐBC
quốc gia do Quốc hội phê chuẩn theo đề nghị của Chủ tịch HĐBC quốc gia.
HĐBC quốc gia thành lập các tiểu ban để giúp HĐBC quốc gia thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn trong từng lĩnh vực (Điều 12 Luật Bầu cử).
- Ở địa phương:
UBBC ở tỉnh có từ hai mươi mốt đến ba mươi mốt thành viên gồm Chủ
tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên là đại diện Thường trực HĐND,
UBND, Ủy ban MTTQ Việt Nam cùng cấp và một số cơ quan, tổ chức hữu
quan.
UBBC ở huyện có từ mười một đến mười lăm thành viên; UBBC ở xã có
từ chín đến mười một thành viên. Thành viên UBBC ở huyện, ở xã gồm Chủ
tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên là đại diện Thường trực HĐND, Ủy ban
nhân dân, Ủy ban MTTQ Việt Nam cùng cấp và một số cơ quan, tổ chức hữu
quan (Điều 22 Luật Bầu cử).
Ban bầu cử đại biểu HĐND cấp tỉnh có từ mười một đến mười ba thành
viên. Ban bầu cử đại biểu HĐND cấp huyện có từ chín đến mười một thành
viên. Ban bầu cử đại biểu HĐND cấp xã có từ bảy đến chín thành viên. Ban
bầu cử gồm Trưởng ban, các Phó Trưởng ban và các Ủy viên (Điều 24 Luật
Bầu cử).
Tổ bầu cử có từ mười một đến hai mươi mốt thành viên gồm Tổ trưởng,
Thư ký và các Ủy viên là đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
16
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đại diện cử tri ở địa phương. Đối với
huyện không có đơn vị hành chính xã, thị trấn thì UBND huyện sau khi thống
nhất với Thường trực HĐND và Ban thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam
cùng cấp quyết định thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử có từ
mười một đến hai mươi mốt thành viên gồm Tổ trưởng, Thư ký và các Ủy
viên là đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức xã hội, đại diện cử tri ở địa phương. Đơn vị vũ trang nhân dân được
xác định là khu vực bỏ phiếu riêng được thành lập một Tổ bầu cử có từ năm
đến chín thành viên gồm Tổ trưởng, Thư ký và các Ủy viên là đại diện chỉ
huy đơn vị và đại diện quân nhân của đơn vị vũ trang nhân dân đó. Trong
trường hợp đơn vị vũ trang nhân dân và địa phương có chung một khu vực bỏ
phiếu thì UBND cấp xã sau khi thống nhất với Thường trực HĐND, Ban
thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam cùng cấp và chỉ huy đơn vị vũ trang
nhân dân quyết định thành lập Tổ bầu cử có từ mười một đến hai mươi mốt
thành viên gồm Tổ trưởng, Thư ký và các Ủy viên là đại diện cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, đại diện cử tri
ở địa phương, đại diện chỉ huy đơn vị và đại diện quân nhân của đơn vị vũ
trang nhân dân đó (Điều 25 Luật Bầu cử).
Theo Điều 4 Thông tư 02/2016/TT-BNV ngày 01/02/2016 của Bộ
trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch UBBC cấp tỉnh, Chủ tịch UBBC cấp huyện, Chủ
tịch UBBC cấp xã; Trưởng ban Ban bầu cử đại biểu Quốc hội, Trưởng ban
Ban bầu cử đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và Tổ trưởng Tổ bầu
cử (sau đây gọi chung là người đứng đầu tổ chức phụ trách bầu cử) chịu trách
nhiệm phân công nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của từng thành viên tổ chức phụ
trách bầu cử cấp mình từ giai đoạn chuẩn bị, triển khai, tổ chức ngày bầu cử,
các công việc tiến hành sau ngày bầu cử cho đến khi kết thúc cuộc bầu cử.
Trong đó, phân công một thành viên chịu trách nhiệm tổng hợp chung công
17
tác bầu cử của UBBC và của Ban bầu cử. Căn cứ điều kiện cụ thể, các tổ chức
phụ trách bầu cử có thể trưng tập cán bộ, công chức, viên chức của các cơ
quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức xã hội giúp việc cho tổ chức phụ trách bầu cử theo quyết định của
người đứng đầu tổ chức phụ trách bầu cử [11, tr 3].
1.2.4. Bảo đảm điều kiện thực hiện pháp luật về bầu cử.
- Điều kiện về chính trị :
Tính phù hợp về chính trị khi thực hiện pháp luật về bầu cử là yêu cầu
bắt buộc phải hiện thực hóa được đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng là định hướng chủ yếu để
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thể chế hóa thành pháp luật.
Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò
đặc biệt quan trọng, là yếu tố quan trọng nhất, hạt nhân lãnh đạo của cả hệ
thống chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và xã hội đã được
quy định tại Hiến pháp, được khẳng định qua thực tiễn đấu tranh cách mạng
và quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Để thực hiện các cuộc bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu HĐND thành công, cần tăng cường vai trò lãnh đạo của
các cấp ủy Đảng về công tác bầu cử, bảo đảm phát huy dân chủ và sự lãnh
đạo tập trung, thống nhất của Đảng trong công tác cán bộ; phát huy vai trò
tiền phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên...
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã xác định: “Đảng
lãnh đạo bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ
trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm
tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất
lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng
viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh
đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua các tổ chức đảng và đảng
18
viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ
trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao
năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai
trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị”.
Chính vì những lý do nêu trên, đối với cuộc bầu cử gần đây nhất - cuộc
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021,
ngày 04/01/2016, Bộ Chính trị đã có Chỉ thị số 51-CT/TW yêu cầu các cấp
ủy, các tổ chức Đảng lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt những yêu cầu nhiệm vụ
trước, trong và sau bầu cử. Trong đó, phải có kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo cụ
thể việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tổ chức thắng lợi cuộc bầu cử; bảo
đảm cuộc bầu cử được tiến hành dân chủ, bình đẳng, đúng pháp luật, an toàn,
tiết kiệm và thực sự là ngày hội của toàn dân. Lãnh đạo tốt công tác nhân sự,
bảo đảm phát huy dân chủ và sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng
trong công tác cán bộ; gắn kết quả nhân sự của đại hội Đảng các cấp và quy
hoạch cán bộ với công tác chuẩn bị nhân sự để giới thiệu những người tiêu
biểu, có quan điểm, lập trường chính trị vững vàng, đủ tiêu chuẩn theo quy
định của pháp luật, có năng lực, điều kiện thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc
hội và đại biểu HĐND. Không đưa vào danh sách ứng cử người có biểu hiện
cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực; có tư tưởng cục bộ, bảo thủ; đang bị
thanh tra, kiểm tra dấu hiệu vi phạm; đã bị các cơ quan có thẩm quyền kết
luận không trung thực; người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra
những vụ, việc tham nhũng, lãng phí, mất đoàn kết nghiêm trọng.
Bộ Chính trị cũng yêu cầu các cấp ủy Đảng, các tổ chức Đảng phải lãnh
đạo bầu đủ số lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp, đặc biệt coi
trọng chất lượng đại biểu. Đồng thời, bảo đảm cơ cấu hợp lý về số đại biểu là
người đang công tác ở cơ quan Đảng, nhà nước, lực lượng vũ trang, Mặt trận
19
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, giảm hợp lý số đại biểu công tác tại cơ
quan hành chính; tăng số lượng đại biểu chuyên trách; bảo đảm tỷ lệ người
ứng cử là phụ nữ, người dân tộc thiểu số theo đúng quy định của Luật Bầu cử;
có tỷ lệ hợp lý đại biểu các tôn giáo, đại biểu tái cử, đại biểu trẻ tuổi, đại biểu
là các nhà khoa học, trí thức, văn nghệ sĩ, đại biểu xuất thân từ công nhân,
nông dân, doanh nhân, đại diện các hiệp hội, nghiệp đoàn về các lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh.
Việc lựa chọn, giới thiệu người ứng cử và việc tự ứng cử đại biểu Quốc
hội, đại biểu HĐND phải bảo đảm theo đúng quy trình pháp luật quy định và
hướng dẫn của các cơ quan Trung ương có thẩm quyền. Lãnh đạo tốt việc tổ
chức hiệp thương giới thiệu người ra ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu
HĐND các cấp; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong công tác bầu cử;
bảo đảm các điều kiện thuận lợi để mọi công dân thực hiện đầy đủ quyền ứng
cử, bầu cử theo quy định của pháp luật.
Bộ Chính trị yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, đề cao
trách nhiệm, tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực tham gia bầu cử.
- Điều kiện pháp lý:
Luật bầu cử là đạo luật quan trọng quy định về quyền bầu cử, ứng cử là
một trong các quyền chính trị cơ bản của công dân đã được quy định trong
Hiến pháp để công dân thực hiện đầy đủ quyền bầu cử, ứng cử của mình;
Luật Bầu cử bảo đảm phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện, hoàn cảnh
thực tiễn về kinh tế - xã hội của đất nước.
Trên cơ sở Luật bầu cử, công tác chuẩn bị các điều kiện vật chất, kỹ
thuật phục vụ cuộc bầu cử được thực hiện theo hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ
Nội vụ tại Thông tư số 02/2016/TT-BNV như: khắc con dấu của các tổ chức
phụ trách bầu cử, in ấn tài liệu, băng rôn, khẩu hiệu tuyên truyền bầu cử, hòm
phiếu, phiếu bầu, chuẩn bị địa điểm, phòng bỏ phiếu... được hướng dẫn một
20
cách cụ thể, đảm bảo điều kiện, phương tiện vật chất, kỹ thuật cho ngày
bầu cử.
- Điều kiện kinh phí:
Luật bầu cử quy định kinh phí tổ chức bầu cử do ngân sách nhà nước
cấp. Nhằm bảo đảm kinh phí, hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí bầu
cử, Bộ Trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 06/2016/TT-BTC ngày
14/01/2016 hướng dẫn việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh
phí bầu cử ĐBQH khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-
2021.
Theo đó, cùng với số kinh phí phục vụ bầu cử do ngân sách Trung ương
đảm bảo, căn cứ tình hình thực tế tại địa phương, yêu cầu công việc và khả
năng ngân sách địa phương, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
báo cáo Thường trực HĐND cùng cấp xem xét, quyết định bổ sung kinh phí
từ ngân sách địa phương để phục vụ cho công tác bầu cử tại địa phương. Kinh
phí phục vụ cho công tác bầu cử phải được các cơ quan, đơn vị quản lý chặt
chẽ, chi tiêu theo đúng chế độ, đúng mục đích, có hiệu quả; sử dụng các
phương tiện phục vụ các cuộc bầu cử trước đây hiện còn sử dụng được, huy
động các phương tiện đang được trang bị ở các cơ quan, đơn vị để phục vụ
cho nhiệm vụ bầu cử đảm bảo tiết kiệm chi cho ngân sách nhà nước.
1.2.5. Giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bầu cử; giải quyết
khiếu nại tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bầu cử
- Tổ chức hoạt động giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bầu cử:
Hoạt động UBTVQH:
Thực hiện khoản 3 Điều 4 Luật bầu cử về thực hiện việc tổ chức giám
sát công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, bảo đảm cho việc
bầu cử được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm, ngày
05/03/2016, UBTVQH ban hành Kế hoạch số 1054/KH-UBTVQH13 về giám
21
sát, kiểm tra công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu
HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-202 để tổ chức giám sát công tác bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, bảo đảm cho việc bầu cử được tiến hành
dân chủ, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm.
Hoạt động của MTTQ Việt Nam:
Để triển khai hoạt động tham gia giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu HĐND các cấp của MTTQ Việt Nam theo quy định tại Khoản 5
Điều 4 Luật bầu cử, nhằm đảm bảo cuộc bầu cư có được tổ chức dân chủ,
đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm, bầu được những đại biểu đủ tiêu chuẩn, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân hay không, ngày 16/02/2016, Ban
Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã ban hành văn bản số
35/HD-MTTW-BTT về hướng dẫn công tác giám sát của MTTQ Việt Nam
đối với hoạt động của các tổ chức phụ trách bầu cử; giám sát việc giới thiệu
người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND và thủ tục, hồ sơ ứng cử;
giám sát việc tổ chức lấy ý kiến cử tri nơi cư trú đối với người ứng cử; giám
sát việc lập danh sách cử tri và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về danh sách
cử tri; giám sát việc niêm yết danh sách những người ứng cử; việc xóa tên
người trong danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp;
giám sát việc tiếp xúc giữa cử tri với người ứng cử vận động bầu cử; giám sát
việc vận động bầu cử bằng phương tiện thông tin đại chúng và tuyên truyền
về bầu cử; giám sát trình tự bầu cử, thể thức bỏ phiếu trong ngày bầu cử.
Hoạt động của Thường trực HĐND, UBND các cấp:
Đối với Thường trực HĐND, UBND các cấp, trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình có trách nhiệm giám sát, kiểm tra và thực hiện công tác
bầu cử theo quy định của Luật bầu cử và các văn bản quy phạm pháp luật
khác có liên quan.
22
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử:
Về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về người ứng cử, khiếu nại về danh
sách cử tri; khiếu nại, tố cáo về người ứng cử, lập danh sách người ứng cử
theo quy định tại Điều 61; giải quyết khiếu nại về kết quả bầu cử theo quy
định tại Điều 87 Luật bầu cử.
Đối với việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị liên quan đến người ứng cử đại
biểu Quốc hội, việc lập danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội
được gửi đến Ban bầu cử đại biểu Quốc hội, UBBC ở tỉnh, HĐBC quốc gia
do các cơ quan này giải quyết. Trường hợp người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị
không đồng ý với kết quả giải quyết của Ban bầu cử, UBBC thì có quyền
khiếu nại đến HĐBC quốc gia. Quyết định của HĐBC quốc gia là quyết định
cuối cùng.
Việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị liên quan đến người ứng cử đại biểu
HĐND, việc lập danh sách những người ứng cử đại biểu HĐND ở cấp nào thì
được gửi đến Ban bầu cử đại biểu HĐND ở cấp đó. Trường hợp người khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị không đồng ý với kết quả giải quyết của Ban bầu cử thì
có quyền khiếu nại đến UBBC ở cấp tương ứng. Quyết định của UBBC là
quyết định cuối cùng .
Trong thời hạn 10 ngày trước ngày bầu cử, HĐBC quốc gia, UBBC, Ban
bầu cử ngừng việc xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về người
ứng cử và việc lập danh sách những người ứng cử.
Để hạn chế việc khiếu nại, tố cáo tập trung vào ngày diễn ra sự kiện quan
trọng của đất nước, Thanh tra Chính phủ cũng đã ban hành Kế hoạch số
564/KH-TTCP ngày 24/3/2016 về kiểm tra, theo dõi, đôn đốc công tác tiếp
công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và Kế hoạch số 634/KH-TTCP ngày
30/3/2016 về phối hợp tổ chức tiếp công dân, đảm bảo an ninh trật tự phục vụ
cuộc bầu cử.
23
- Xử lý vi phạm pháp luật về bầu cử:
Điều 95, Luật Bầu cử quy định người nào dùng thủ đoạn lừa gạt, mua
chuộc hoặc cưỡng ép làm trở ngại việc bầu cử, ứng cử của công dân; vi phạm
các quy định về vận động bầu cử; người có trách nhiệm trong công tác bầu cử
mà giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu bầu hoặc dùng thủ đoạn khác để làm sai
lệch kết quả bầu cử hoặc vi phạm các quy định khác của pháp luật về bầu cử
thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm
hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
1.2.6. Tổng kết thực hiện pháp luật về bầu cử
Tổng kết công tác bầu cử được quy định từ Điều 83, 84, 85, 86, 87 và
Điều 88 Luật Bầu cử. Theo đó:
Sau khi nhận, kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Quốc
hội của các Ban bầu cử và giải quyết khiếu nại, tố cáo (nếu có), UBBC ở tỉnh,
lập biên bản xác định kết quả bầu cử ở địa phương. Biên bản xác định kết quả
bầu cử đại biểu Quốc hội ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có các nội
dung sau đây: Số lượng đơn vị bầu cử; Số lượng người ứng cử; Tổng số cử tri
của địa phương; Số lượng cử tri đã tham gia bỏ phiếu, tỷ lệ so với tổng số cử
tri của địa phương; Số phiếu hợp lệ; Số phiếu không hợp lệ; Số phiếu bầu cho
mỗi người ứng cử; Danh sách những người trúng cử theo từng đơn vị bầu cử;
Những khiếu nại, tố cáo do Tổ bầu cử, Ban bầu cử đã giải quyết; Những việc
quan trọng đã xảy ra và kết quả giải quyết; Những khiếu nại, tố cáo do UBBC
ở tỉnh đã giải quyết; Những khiếu nại, tố cáo và kiến nghị chuyển đến HĐBC
quốc gia. Biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội ở tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương được lập thành bốn bản, có chữ ký của Chủ tịch,
các Phó Chủ tịch Ủy ban bầu cử. Biên bản được gửi đến HĐBC quốc gia,
UBTVQH, Ủy ban trung ương MTTQVN, Ủy ban MTTQVN cấp tỉnh chậm
nhất là 07 ngày sau ngày bầu cử.
24
- Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội:
Sau khi nhận, kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu cử của các Ban
bầu cử, UBBC ở tỉnh và giải quyết khiếu nại, tố cáo (nếu có), Hội đồng bầu
cử quốc gia lập biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội trong cả
nước. Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội có các nội dung sau
đây; Tổng số đại biểu Quốc hội được bầu; Tổng số người ứng cử; Tổng số cử
tri trong cả nước; Tổng số cử tri đã tham gia bỏ phiếu, tỷ lệ so với tổng số cử
tri trong cả nước; Số phiếu hợp lệ; Số phiếu không hợp lệ; Số phiếu bầu cho
mỗi người ứng cử; Danh sách những người trúng cử theo từng đơn vị bầu cử;
Những việc quan trọng đã xảy ra và kết quả giải quyết; Những khiếu nại, tố
cáo do Hội đồng bầu cử quốc gia đã giải quyết.
Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội được lập thành năm
bản, có chữ ký của Chủ tịch, các Phó Chủ tịch HĐBC quốc gia. Biên bản
được gửi đến UBTVQH, Chính phủ, Ủy ban trung ương MTTQVN và trình
Quốc hội khóa mới.
- Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu HĐND:
Sau khi nhận, kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu cử của các Ban
bầu cử và giải quyết khiếu nại, tố cáo (nếu có), UBBC lập biên bản tổng kết
cuộc bầu cử đại biểu HĐND mà mình chịu trách nhiệm tổ chức. Biên bản
tổng kết cuộc bầu cử đại biểu HĐND có các nội dung sau đây: tổng số đại
biểu HĐND được bầu của đơn vị hành chính; tổng số người ứng cử; tổng số
cử tri của đơn vị hành chính; tổng số cử tri đã tham gia bỏ phiếu, tỷ lệ so với
tổng số cử tri của đơn vị hành chính; số phiếu hợp lệ; số phiếu không hợp lệ;
số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử; danh sách những người trúng cử theo
từng đơn vị bầu cử; những việc quan trọng đã xảy ra và kết quả giải quyết;
những khiếu nại, tố cáo do UBBC đã giải quyết.
- Công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử:
25
HĐBC quốc gia căn cứ vào biên bản tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước
công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử đại biểu Quốc hội
chậm nhất là 20 ngày sau ngày bầu cử.
UBBC căn cứ vào biên bản tổng kết cuộc bầu cử công bố kết quả bầu cử
và danh sách những người trúng cử đại biểu HĐND ở cấp mình chậm nhất là
10 ngày sau ngày bầu cử.
- Giải quyết khiếu nại về kết quả bầu cử:
Khiếu nại về kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội phải được gửi đến HĐBC
quốc gia chậm nhất là 05 ngày kể từ ngày công bố kết quả bầu cử đại biểu
Quốc hội. Khiếu nại về kết quả bầu cử đại biểu HĐND phải được gửi đến
UBBC chậm nhất là 05 ngày kể từ ngày công bố kết quả bầu cử đại biểu
HĐND. HĐBC quốc gia có trách nhiệm xem xét, giải quyết khiếu nại về kết
quả bầu cử đại biểu Quốc hội trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được
khiếu nại. UBBC có trách nhiệm xem xét, giải quyết khiếu nại về kết quả bầu
cử đại biểu HĐND trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại.
Quyết định giải quyết khiếu nại của HĐBC quốc gia, UBBC là quyết định
cuối cùng.
- Xác nhận tư cách của người trúng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu
HĐND:
Căn cứ vào kết quả tổng kết bầu cử đại biểu Quốc hội, kết quả giải quyết
khiếu nại, tố cáo liên quan đến người trúng cử đại biểu Quốc hội, HĐBC quốc
gia tiến hành xác nhận tư cách của người trúng cử đại biểu Quốc hội, cấp giấy
chứng nhận đại biểu Quốc hội khóa mới cho người trúng cử và báo cáo Quốc
hội khóa mới về kết quả xác nhận tư cách đại biểu Quốc hội tại kỳ họp
đầu tiên.
Căn cứ vào kết quả tổng kết bầu cử đại biểu HĐND, kết quả giải quyết
khiếu nại, tố cáo liên quan đến người trúng cử đại biểu HĐND, UBBC tiến
26
hành xác nhận tư cách của người trúng cử đại biểu HĐND cấp mà mình chịu
trách nhiệm tổ chức bầu cử, cấp giấy chứng nhận đại biểu HĐND khóa mới
cho người trúng cử và báo cáo HĐND khóa mới về kết quả xác nhận tư cách
đại biểu HĐND tại kỳ họp đầu tiên.
1.3. Kinh nghiệm đúc kết thực hiện pháp luật về bầu cử
1.3.1. Kinh nghiệm thực hiện pháp luật về bầu cử ở một số nước
Pháp luật về bầu cử của các quốc gia là sự thể chế hoá các quy định về
chế độ bầu cử của mỗi nước. Pháp luật bầu cử bao gồm tổng thể các quy định
pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội liên quan đến quyền bầu cử,
quyền ứng cử, các quy trình tiến hành bầu cử và xác định kết quả bầu cử.
Theo báo cáo nghiên cứu kinh nghiệm một số nước về hình thức văn bản
QPPL về bầu cử và mô hình cơ quan phụ trách bầu cử quốc gia thì có nhiều
quốc gia chỉ có một luật bầu cử chung như Hàn Quốc, Nhật bản, Phần Lan,
Đức. Có nhiều quốc gia có nhiều luật luật bầu cử như: Luật bầu cử thượng
viện, Luật bầu cử hạ viện, Luật bầu cử cơ quan đại diện cấp tỉnh, Luật bầu cử
cơ quan đại diện cấp xã như Campuchia, Luật bầu cử liên bang, Luật bầu cử
riêng của các bang như Canada.
Trong khuôn khổ đề tài luận văn, việc nghiên cứu tập trung vào văn bản
pháp luật và cơ quan phụ trách bầu cử của các nước có những điểm tương
đồng với Việt Nam như Hàn quốc và Nhật bản .
- Tổng quan pháp luật về bầu cử ở Hàn Quốc:
Tại Hàn Quốc, các hoạt động về bầu cử được điều chỉnh bởi Hiến pháp
và chủ yếu bởi Luật Bầu cử chức vụ công. Bên cạnh đó, một số luật như: Luật
về xuất nhập cảnh và Tư cách pháp lý của người Hàn Quốc ở nước ngoài
(trong đó có điều chỉnh một số trường hợp người Hàn Quốc tại nước ngoài
tham gia bầu cử), Luật Đảng phái chính trị (trong đó có điều chỉnh một số
hoạt động đối với Đảng phái chính trị khi tham gia tranh cử) v.v… cũng điều
27
chỉnh một phần đối với hoạt động bầu cử. Hiện nay, hoạt động bầu cử tại Hàn
Quốc được điều chỉnh bởi Luật Bầu cử chức vụ công số 10303 ban hành ngày
17 tháng 3 năm 2010. Luật gồm 14 Chương và 279 điều. Theo đó, “Luật này
áp dụng đối với các cuộc bầu cử Tổng thống, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội,
bầu cử các thành viên Hội đồng địa phương và người đứng đầu chính quyền
địa phương”(Điều 2). Như vậy, hoạt động bầu cử tại Hàn Quốc được điều
chỉnh chung bởi một luật tại cả cấp trung ương lẫn địa phương.
Theo Điều 114 của Hiến pháp Hàn Quốc, UBBC quốc gia là một cơ
quan hiến định độc lập. UBBC quốc gia là cơ quan quản lý các cuộc bầu cử,
trưng cầu dân ý của quốc gia nhằm tạo sự công bằng và xử lý với các vấn đề
hành chính liên quan đến các đảng chính trị và các quỹ chính trị. Nhiệm kỳ và
quyền hạn của mỗi Ủy viên bầu cử được đảm bảo đúng theo quy định của
Hiến pháp và pháp luật để bảo đảm thực hiện công bằng các nhiệm vụ mà
không chịu ảnh hưởng của bất kỳ sự can thiệp bên ngoài nào.
UBBC Quốc gia có các nhiệm vụ và trách nhiệm sau đây: quản lý các
cuộc bầu cử; quản lý các cuộc bỏ phiếu; giám sát nghĩa vụ, trách nhiệm của
các đảng phái chính trị trong công tác bầu cử; quản lý các vấn đề về bầu cử
trong việc quản lý các quỹ chính trị; thực hiện các hoạt động nhằm thúc đẩy
sự công bằng, minh bạch trong bầu cử; tuyên truyền, giáo dục về nền bầu cử
dân chủ cho công chúng; Trao đổi và hợp tác quốc tế; nghiên cứu về bầu cử
và hệ thống chính trị [5- tr 16, 41,44].
- Tổng quan pháp luật về bầu cử ở Nhật Bản:
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, Luật Bầu cử các cơ quan nhà
nước của Nhật Bản quy định chi tiết về các cuộc bầu cử toàn quốc và địa
phương. Trước đây, có nhiều luật quy định về bầu cử (như Luật bầu cử Hạ
viện, Luật bầu cử thượng viện, Luật bầu cử chính quyền địa phương…),
nhưng từ năm 1950 các luật này được hợp nhất thành Luật Bầu cử các cơ
28
quan nhà nước.
Luật Bầu cử các cơ quan nhà nước quy định các nguyên tắc được quy
định trong Hiến pháp liên quan đến bầu cử cho cả bầu cử ở cấp độ quốc gia và
địa phương.
Hiến pháp Nhật quy định chính thể dân chủ đại nghị và đảm bảo bầu cử
phổ thông, công bằng và bỏ phiếu kín. Đây là những nguyên tắc cơ bản của
hệ thống bầu cử, được áp dụng cho các cuộc bầu cử Quốc hội, các hội đồng
địa phương và những người đứng đầu chính quyền thành phố. Bầu cử phổ
thông đảm bảo quyền bầu cử của tất cả người dân Nhật từ 20 tuổi trở lên.
Ở Nhật bản có ba loại bầu cử, gồm tổng tuyển cử bầu ra Hạ viện, được tổ
chức 4 năm một lần (trừ trường hợp hạ viện bị giải tán sớm hơn), tiếp đến là
bầu cử Thượng viện được tổ chức 3 năm một lần để chọn ra một nửa số thành
viên của Thượng viện và bầu cử ở địa phương được tổ chức 4 năm một lần tại
các quận, thành phố và làng xã. Các cuộc bầu cử được giám sát bởi các
UBBC dưới sự chỉ đạo chung của Hội đồng Quản lý Bầu cử Trung ương (Hội
đồng Quản lý Bầu cử của Trung ương là một cơ quan thuộc Bộ Nội vụ và
Truyền thông).
Nhiệm vụ của Hội đồng Quản lý Bầu cử Trung ương là phụ trách việc
bầu cử hạ nghị sĩ và thượng nghị sĩ theo quy định của hệ thống bầu cử của
Nhật Bản. Hội đồng Quản lý Bầu cử Trung ương là cơ quan độc lập, gồm có
5 thành viên được bổ nhiệm bởi Thủ tướng trên cơ sở tiến cử của Quốc hội.
Nhiệm kì của các thành viên là 3 năm.
Các Ủy ban Quản lý bầu cử cấp tỉnh: có trách nhiệm phụ trách việc bầu
cử hạ nghị sĩ theo hình thức bầu cử đa số một đại diện và bầu cử các thượng
nghị sĩ từ các đơn vị bầu cử, thống đốc từ các tỉnh và các thành viên của hội
đồng địa phương cấp tỉnh. Các ủy ban quản lý bầu cử cấp tỉnh gồm có 4 thành
viên được chọn bởi các hội đồng cấp tỉnh. Nhiệm kì của các thành viên Hội
29
đồng này là 4 năm.
Ủy ban Quản lý bầu cử cấp thành phố, thị xã (thành phố, thị trấn và làng)
có trách nhiệm quản lý các cuộc bầu cử các lãnh đạo của địa bàn cấp thành
phố, thị xã và các thành viên của Hội đồng thành thị. Ủy ban gồm có 4 người
và được Hội đồng thành thị lựa chọn với nhiệm kì 4 năm.
Thêm vào đó, các ủy ban quản lý bầu cử còn được thành lập ở một số
khu vực đặc biệt tại các khu vực hành chính của 12 thành phố trong Tokyo để
thực hiện các chức năng được giao phó [5- tr18,61] .
1.3.2. Kinh nghiệm thực hiện pháp luật về bầu cử ở một số địa phương
* Thực hiện pháp luật về bầu cử ở Thành phố Đồng Hới, tỉnh
Quảng Bình:
Theo Báo cáo số 55/BC-UBBC ngày 07/6/2016 về kết quả cuộc bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 trên
địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình thì tình hình tổ chức triển khai,
thực hiện pháp luật về bầu cử qua những nội dung sau:
- Tình hình tổ chức triển khai thực hiện:
Thực hiện Chỉ thị số 51-CT/TW ngày 04/01/2016 của Bộ Chính, Ban
Thường vụ Thành ủy Đồng Hới đã ban hành Chỉ thị số 01-CT/TU ngày
29/02/2016 để lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIV và bầu cử
đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021. Đã tổ chức hội nghị cán bộ
chủ chốt của tỉnh để triển khai công tác bầu cử; quyết định thành lập Ban chỉ
đạo bầu cử gồm 14 đồng chí, giới thiệu nhân sự UBBC tỉnh gồm 15 đồng chí.
Đã chỉ đạo Uỷ ban bầu cử Thành phố xây dựng kế hoạch triển khai công tác
bầu cử đảm bảo tiến độ thời gian theo luật định.
+ Thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử, xác định và ấn định số đơn vị
bầu cử, số đại biểu được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu HĐND các cấp.
30
+ Việc tuyên truyền, vận động trong nhân dân về cuộc bầu cử; thực hiện
chế độ thông tin, báo cáo đối với cuộc bầu cử; công tác hiệp thương; việc tập
huấn nghiệp vụ công tác tổ chức bầu cử cho các thành viên tổ chức phụ trách
bầu cử.
+ Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo: Chấp hành nghiêm túc chế độ
thông tin báo cáo, đầy đủ, kịp thời, chính xác tình hình công tác bầu cử theo
các nội dung quy định của Sở Nội vụ, UBBCtỉnh…đảm bảo theo hướng dẫn
của cấp trên.
+ Tổ chức các hội nghị như: Hội nghị cán bộ cốt cán thành phố; Hội
nghị tập huấn nghiệp vụ bầu cử; Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất; Hội nghị
hiệp thương lần thứ hai; Hội nghị hiệp thương lần thứ ba;Hội nghị tổ chức lấy
ý kiến cử tri nơi cư trú, nơi công tác.
+ Việc lập và niêm yết danh sách cử tri, danh sách người ứng cử, tổ chức
tiếp xúc cử tri, vận động bầu cử của những người ứng cử đại biểu Quốc hội và
đại biểu HĐND các cấp theo đúng thời gian quy định.
+ Công tác giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo có liên quan đến cuộc
bầu cử: Sau khi tiếp nhận đơn thư có liên quan đến các ứng cử viên xã
phường: 16 đơn. Đã thực hiện chuyển đơn cho cơ quan có thẩm quyền giải
quyết theo quy định.
+ Công tác bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội được chú
trọng. Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội thời gian trước,
trong và sau ngày bầu cử trên địa bàn thành phố cơ bản ổn định; không khí
vui tươi, lành mạnh, an toàn. Công an thành phố, Ban chỉ huy Quân sự thành
phố, lực lượng dân phòng các địa phương đã triển khai tốt kế hoạch bảo vệ
cuộc bầu cử.
31
- Về kinh phí và cơ sở vật chất - kỹ thuật cho cuộc bầu cử:
Các tài liệu liên quan đến công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu
HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021 đã phát hành đầy đủ đến các địa
phương, cơ quan, đơn vị thành phố và tại Hội nghị tập huấn nghiệp vụ bầu cử.
Các loại văn bản, biểu mẫu; danh sách, tiểu sử tóm tắt của các ứng cử viên;
phiếu bầu... đã được chuyển về các địa phương, tổ bầu cử đầy đủ và được bảo
vệ an toàn.
Về kinh phí phục vụ bầu cử được trích từ nguồn ngân sách tỉnh; Từ
nguồn ngân sách thành phố; Từ nguồn ngân sách xã, phường.
- Kết quả đạt được:
Nhìn chung cơ cấu đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 hợp lý,
tính đại diện và chất lượng đại biểu nâng cao hơn. Không có đơn vị bầu cử,
khu vực bỏ phiếu phải tiến hành bầu cử lại. Không có đơn vị bầu cử, khu vực
bỏ phiếu nào phải tiến hành bầu cử thêm; Không có đơn vị bầu cử, khu vực bỏ
phiếu bị hủy kết quả bầu cử do vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
- Bài học kinh nghiệm:
Với sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của
các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo kịp thời có hiệu quả của UBND tỉnh, Sở Nội vụ
và của Thường vụ thành uỷ, Ban chỉ đạo Bầu cử thành phố; sự chủ động, tích
cực, cố gắng vượt qua khó khăn của các cấp, các ngành, các địa phương, các
tổ chức bầu cử từ thành phố đến các xã phường. Sau 4 tháng tích cực chuẩn
bị, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND các
cấp nhiệm kỳ 2016-2021 trên địa bàn thành phố thành công tốt đẹp; đảm bảo
dân chủ, bình đẳng, đúng luật định, an toàn, tiết kiệm, đáp ứng được lòng
mong đợi của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thành phố, thực sự là đợt sinh
hoạt chính trị dân chủ rộng rãi, là ngày hội lớn của toàn dân.
32
Sự chỉ đạo, kiểm tra tích cực, điều chỉnh kịp thời của các đồng chí trong
Ban chỉ đạo bầu cử, các đồng chí trong UBBC thành phố, các đồng chí trong
Ban bầu cử các cấp, các đồng chí trong Tổ cán bộ, chuyên viên giúp việc của
Uỷ ban bầu cử thành phố; việc tập huấn nghiệp vụ cụ thể, kỹ lưỡng nên công
tác chuẩn bị cho cuộc bầu cử được thực hiện chu đáo, tiến hành bầu cử đúng
luật định.
Đã làm tốt việc phân bổ số lượng, thành phần, cơ cấu và lựa chọn người
ứng cử. Tiến hành hiệp thương, tiếp xúc cử tri nơi công tác, nơi cư trú, tiếp
xúc cử tri để vận động bầu cử đúng quy định, dân chủ, cởi mở.
Thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu HĐND
các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021 thể hiện sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành
động của Đảng bộ và nhân dân thành phố Đồng Hới, thực sự là ngày hội của
toàn dân.
- Tồn tại, hạn chế:
+ Công tác tuyên truyền một số địa phương chưa được quan tâm đúng
mức; một số khu vực bỏ phiếu chưa được chú trọng đến công tác trang trí.
+ Việc phổ biến tuyên truyền tiểu sử tóm tắt những người ứng cử đại biểu
Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021 còn hạn
chế, chưa tạo điều kiện tốt để cử tri nắm chắc, nắm rõ và đầy đủ những thông tin
toàn diện các ứng cử viên để cử tri lựa chọn trong quá trình bầu cử. Việc niêm yết
danh sách chính thức, tiểu sử tóm tắt các ứng cử viên ở một số khu vực bỏ phiếu
còn chậm và có sai sót.
+ Công tác cấp kinh phí bầu cử của tỉnh còn chậm. Vì vậy việc đảm bảo
kinh phí cho các đơn vị, địa phương có thời điểm chưa kịp thời [41].
33
* Thực hiện pháp luật về bầu cử ở Thành phố Sông Công, tỉnh Thái
Nguyên:
Theo Báo cáo số 68/BC-UBBC ngày 08/6/2016 về tổng kết cuộc bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 trên
địa bàn thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên thì tình hình tổ chức triển khai,
thực hiện pháp luật về bầu cử ở những nội dung sau:
- Tình hình ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn:
Để đảm bảo công tác lãnh chỉ đạo cuộc bầu cử được thống nhất, thông
suốt, Ban thường vụ Thành ủy, UBND, UBBC Thành phố Sông Công đã ban
hành các văn bản chỉ đạo hướng như Chị Thị số 05-CT/TU ngày 27/01/2016
về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp nhiệm
kỳ 2016-2021; Quyết định 96-QĐ/TU ngày 28/01/2016 về thành lập Ban chỉ
đạo bầu cử; Quyết định 97-QĐ/TU ngày 28/01/2016 về thành lập Tổ công tác
giúp việc Ban Chỉ đạo, UBBC thành phố (bao gồm các tổ công tác nhân sự,
Tổ công tác thông tin tuyên truyền, tổ công tác an ninh trật tự)
Thành ủy đã ban hành hướng dẫn số 02-HD/TU ngày 03/02/2016 về
công tác nhân sự đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp thành phố
SÔng công nhiệm kỳ 2016-2021.
UBND Thành phố ban hành Chỉ thị số 177/CT-UBND ngày 03/02/2016
về tổ chức triển khai cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các
cấp thành phố Sông công nhiệm kỳ 2016-2021; Quyết định 504/QĐ-UBND
ngày 03/02/2016 về thành lập UBBC đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND
các cấp thành phố Sông công nhiệm kỳ 2016-2021.
Ngay sau khi thành lập, UBBC thành phố Sông Công cũng đã kịp thời
ban hành Quyết định số 03/QĐ-UBBC ngày 03/02/2016 về kế hoạch tổ chức
bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp thành phố Sông công
nhiệm kỳ 2016-2021 trên địa bàn thành phố; Quyết định số 05/QĐ-UBBC
34
ngày 22/02/2016 về thành lập Tổ công tác giúp việc UBBC Thành phố và ban
hành nhiều văn bản hướng dẫn một số nội dung khác liên quan đến cuộc bầu
cử trên địa bàn thành phố.
- Công tác triển khai thực hiện:
Ngày 04/02/2016, Thành ủy, HĐND, UBND, thành phố đã tổ chức Hội
nghị triển khai công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp
nhiệm kỳ 2016-2021 đến toàn thể các cơ quan, đơn vị, lực lượng vũ trang, các
xã, phường, thị trấn theo đúng chỉ đạo của Tỉnh. Hội nghị đã triển khai hướng
dẫn các văn bản của Trung ương, của Tỉnh, Thành ủy, UBND Thành phố,
Ban chỉ đạo, UBBC thành phố tới các đại biểu thuộc các Chi Đảng bộ thuộc
Thành ủy, các cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang, Đảng ủy, HĐND, UBND,
UBMTTQ các xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố, đồng thời chỉ đạo
các xã, phường, thị trấn trong ngày 05/02/2016 tổ chức Hội nghị triển khai
đến các cơ quan, đơn vị, xóm, tổ dân phố theo thời gian quy định.
- Về thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử:
Tổ chức phụ trách bầu cử trên địa bàn thành phố Sông Công bao gồm
UBBC thành phố với 15 thành viên; 11 UBBC xã, phường với 119 thành viên
UBND Tỉnh Thái Nguyên đã ban hành quyết định thành lập các Ban bầu
cử đại biểu HĐND Tỉnh trên địa bàn thành phố gồm 02 ban bầu cử với 26
thành viên.
UBND Thành phố Sông Công cũng ban hành các quyết định thành lập
11 Ban bầu cử đại biểu HĐND Thành phố tại 11 xã, phường với 117 thành
viên.
Về thành lập Ban bầu cử HĐND xã, phường, tính đến ngày 13/3/2016,
UBND các xã, phường đã thành lập 81 Ban bầu cử đại biểu HĐND cấp xã,
phường với tổng số 723 thành viên. Theo đó, UBND Thành phố Sông Công
cũng đã ban hành quyết định phê chuẩn 83 khu vực bỏ phiếu (bao gồm 81 khu
35
vực bỏ phiếu ở khu dân cư và 02 khu vực bỏ phiếu tại đơn vị lực lượng vũ
trang)
Về thành lập các Tổ bầu cử, tính đến ngày 30/3/2016, UBND các xã,
phường đã thành lập 83 Tổ bầu cử với tổng số 1072 thành viên.
- Về xác định và ấn định số đơn vị bầu cử, số đại biểu được bầu:
Tính đến ngày 03/3/2016 công tác ấn định đơn vị bầu cử đại biểu HĐND
Thành phố là 11 đơn vị với tổng số đại biểu được bầu là 30 đại biểu; đơn vị
bầu cử Đại biểu HĐND cấp xã là 81 đơn vị với tổng số đại biểu được bầu là
281 địa biểu.
- Về công tác Hiệp thương, giới thiệu đại biểu:
Công tác hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu HĐND
Thành phố và các đại biểu HĐND cấp xã, phường đã được UBMTTQ thành
phố, UBMTTQ xã, phường tổ chức thực hiện đầy đủ các bước của quy trình
hiệp thương, bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu, thành phần người được giới thiệu và
tiến hành hội nghị hiệp thương dân chủ, đúng tiến độ thời gian quy định cho
từng công việc. Theo đó sau 3 lần hiệp thương danh sách những người ứng cử
đại biểu HĐND Thành phố được xác định là 49 người; danh sách những
người ứng cử đại biểu HĐND cấp xã được xác định là 481 người
- Về tổ chức tập huấn nghiệp vụ bầu cử và tập huấn kỹ năng vận động
bầu cử:
UBBC Thành phố Sông Công đã tổ chức 11 lớp tập huấn nghiệp vụ cho
1072 thành viên cảu Tổ bầu cử. Tổ chức 02 Hội nghị tập huấn kỹ năng vận
động bầu cử cho 530 ứng cử viên đại biểu HĐND thành phố và đại biểu
HĐND xã, phường.
- Về công tác tuyên truyền, vận động trong nhân dân về bầu cử:
UBND thành phố, Ban tuyên giáo thành ủy đã ban hành kế hoạch tuyên
truyền cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ
36
2016-2021 trên địa bàn thành phố. Theo đó, Phòng Văn hóa thông tin, Đài
truyền thanh- truyền hình thành phố được giao nhiệm vụ chủ trì tổ chức tuyên
truyền bằng nhiều hình thức phong phú để tuyên truyền các thông tin, các quy
định pháp luật về bầu cử, tuyền tải những diễn biến của quá trình bầu cử trên
địa bàn. Đã tiến hành được 60 cuộc tuyên truyền trên phạm vi toàn thành phố
bằng các hình thức như tuyên tuyền trực tiêp, giao lưu văn hóa văn nghệ, Hội
thi tìm hiểu về bầu cử, tuyên truyền bằng xe lưu động, trên hệ thống loa
truyền thanh…
- Về công bố và niêm yết danh sách ứng cử viên:
Tính dến ngày 02/5/2016 việc công bố và niêm yết danh sách những
người ứng cử được tổ chức thực hiện theo dung quy định.
UBBC thành phố đã biên soạn tiểu sử tóm tắt người ứng cử đại biểu
HĐND Thành phố, đồng thời tiếp nhận tiểu sử tóm tắt những người ứng cử
đại biểu HĐND Tỉnh, đại biểu Quốc hội để các xã phường cấp phát đến các
hộ gia đình và niêm yết tại điểm bỏ phiếu.
- Về tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri:
Thực hiện kế hoạch tiếp xúc cử tri vận động bầu cử của UBMTTQ Tỉnh,
UBMTTQ Thành phố và UBMTTQ xã, phường, tại đại bàn thành phố Sông
Công đã tổ chức được 02 Hội nghị tiếp xúc cử tri ứng cử viên là đại biểu
Quốc hội; 11 cuộc tiếp xúc cử tri ứng cử viên đại biểu HĐND tỉnh; 113 cuộc
tiếp xúc cử tri ứng cử viên đại biểu HĐND Thành phố và đại biểu HĐND xã,
phường.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo: UBND thành phố, UBND các xã,
phường có đơn thư giải quyết kịp thời đúng theo quy định.
Công tác bảo vệ an ninh trật tự: Công an, Ban chỉ huy quân sự thành
phố, xã, phường tập trung chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch, đồng
thời xây dựng phương án bảo vệ triển khai đến từng khu vực bỏ phiếu.
37
Về công tác kiểm tra: UBBC thành phố tiến hành kiểm tra thường xuyên
tại các xã, phường về công tác bầu cử. Qua bầu cử, UBBC thành phố đã kịp
thời phát hiện và hướng dẫn các tổ chức phụ trách bầu cử khắc phục những
sai sót, vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện pháp luật về
bầu cử [40].
1.3.3. Kinh nghiệm đúc kết cho công tác thực hiện pháp luật ở thành phố
Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế
Thứ nhất, làm tốt công tác quán triệt các chỉ đạo, hướng dẫn triển khai
quán triệt Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ương Đảng, Quốc Hội, Hội đồng bầu
cử quốc gia; Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; Tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ
theo hướng dẫn tại các Thông tư của các Bộ; các văn bản hướng khác của các
cơ quan, tổ chức hữu quan và các văn bản của Tỉnh về công tác bầu cử.
Thứ hai, ban hành kịp thời các văn bản chỉ đạo điều hành đến các cơ
quan, đoàn thể và UBND các phường về công tác chuẩn bị phải được thực
hiện ngay từ việc xây dựng kế hoạch, thành lập các tổ chức phục vụ bầu cử,
các tổ chức bầu cử, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các ngành thành viên đến
việc chuẩn bị tài liệu hướng dẫn, tập huấn nghiệp vụ... Trong đó, công tác
chuẩn bị về nhân sự, công tác tuyên truyền, công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo liên quan đến bầu cử và bảo đảm an ninh trật tự phục vụ cuộc bầu cử đều
được xây dựng kế hoạch chi tiết, cụ thể ở từng ngành từ thành phố đến các
phường.
Thứ ba, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ban ngành,
đoàn thể từ thành phố đến các phường trong thực hiện công tác bầu cử.
Thứ tư, chú trọng công tác tuyên truyền. Công tác tổ chức quán triệt và
tuyên truyền thường xuyên, sâu rộng về cuộc bầu cử, nội dung tuyên truyền
tập trung vào Luật Bầu cử để cử tri biết rõ quyền và nghĩa vụ của mình. Hình
thức tuyên truyền cũng rất đa dạng, phong phú thông qua các cuộc họp, hệ
38
thống đài truyền thanh cơ sở và tuyên truyền trực tiếp; thời gian tuyên truyền
linh hoạt, phù hợp với từng nhóm đối tượng.
Thứ năm, tăng cường kiểm tra giám sát để kịp thời phát hiện, xử lý
những vấn đề vướng mắc, phát sinh; uốn nắn những lệch lạc trong thực hiện
các bước của quy trình bầu cử.
39
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về bầu cử. Nội
dung thực hiện pháp luật về bầu cử, đồng thời đi sâu tìm hiểu quá trình thực
hiện pháp luật về bầu cử của một số nước trên thế giới, một số địa phương ở
là thành phố trực thuộc tỉnh ở miền Bắc và miền Trung để rút ra kinh nghiệm
trong quá trình thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố Huế, tỉnh Thừa
Thiên Huế.
Những nội dung lý luận thực hiện pháp luật về bầu cử tại chương 1 là
luận cứ khoa học để phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về bầu
cử tại địa bàn thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế tại chương 2.
40
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ
TẠI THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
2.1. Điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế xã hội tác động đến thực hiện
pháp luật về bầu cử của thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội
Thành phố Huế là thành phố trực thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế, thuộc vùng
đồng bằng duyên hải miền Trung Việt Nam. Dưới thời phong kiến, Thành
phố Huế từng là kinh đô của Việt Nam dưới triều nhà Nguyễn (1802 - 1945).
Ngày nay, với diện tích tự nhiên 71,68 km2, thành phố Huế là trung tâm
chính trị - kinh tế, văn hóa - xã hội và khoa học - kỹ thuật của Tỉnh. Với vai
trò là trung tâm đa chức năng, Huế được Chính phủ công nhận là đô thị loại
một, là đô thị trung tâm cấp quốc gia trọng điểm kinh tế miền Trung nên tập
trung nhiều thành phần trong xã hội cùng sinh sống, học tập và làm việc.
Huế là trung tâm Phật giáo lớn của cả nước với hàng trăm chùa lớn nhỏ.
Người Huế từ nhỏ đã biết chắp tay cúi lạy, đã biết niệm Nam mô A di đà Phật
và được đến với chùa vào các dịp rằm hay lễ tết nên tư tưởng Phật giáo thấm
nhuần trong người Huế. Chính vì vậy, con người Huế được nhận xét chung là
trầm lặng, kín đáo trong lề lối ứng xử, phong cách giao tiếp, phong cách sống
rất dè dặt, ít bày tỏ những chính kiến riêng. Ở Huế, vai trò người đàn ông
trong gia đình được đề cao, đặc biệt là người chồng, người cha có một ví trị
hết sức quan trọng, là trụ cột của cả gia đình. Người cha, người chồng trong
gia đình có quyền quyết định mọi chuyện của gia đình, người phụ nữ và con
cái trong gia đình luôn nhất quán theo ý kiến của cha, ông.
Chính đặc điểm riêng có này của vùng đất Huế đã ảnh hưởng không nhỏ
đến công tác lập danh sách cử tri, công tác tuyên truyền, phổ biến về bầu cử;
41
ảnh hưởng quyền ứng cử của công dân, ảnh hưởng đến chính kiến trong bầu
cử và các công tác khác liên quan đến hoạt động bầu cử.
2.1.2. Điều kiện chính trị- hành chính
Hiện nay, Thành phố Huế có 27 đơn vị hành chính cấp phường, dân số
thành phố là 354.124 người với đại đa số là người kinh, có một phần nhỏ là
dân tộc Cơtu, Tà Ôi, Vân Kiều. Thành phố Huế có 4 tôn giáo là Phật giáo,
Công giáo, Cao đài, Tin lành. Tín đồ các tôn giáo chiếm 60% dân số toàn
thanh phố. Đa phần tôn giáo ở Thành phố Huế có quan hệ gần gũi với chính
quyền, tích cực tham gia vào các phong trào thi đua yêu nước, chấp hành
nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tình hình an
ninh tôn giáo cơ bản ổn định, các thành phần tôn giáo tích cực xây dựng cuộc
sống hài hòa “tốt đời - đẹp đạo”, tích cực xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương.
Tuy nhiên, có không ít những thành phần, tổ chức phản động, lợi dụng tôn
giáo, lợi dụng những vụ việc bức xúc trong nhân dân để gây kích động, lôi
kéo nhiều thành phần gây mất an ninh trật tự trên địa bàn. Đặc điểm này ảnh
hưởng không nhỏ đến công tác triển khai bầu cử của thành phố Huế trong thời
gian qua.
2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố Huế, tỉnh
Thừa Thiên Huế
2.2.1. Về chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện pháp luật về bầu cử
Quán triệt tinh thần Chỉ thị số 51-CT/TW ngày 04/01/2015 của Bộ
Chính trị về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại
biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021, Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày
13/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức cuộc bầu cử đại biểu Quốc
hội khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021, Tỉnh
ủy Thừa Thiên Huế đã ban hành Chỉ thị số 02-CT/TU ngày 25/01/2016 về
42
lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND
các cấp nhiệm kỳ 2016-2021.
Thực hiện Kế hoạch số 01/KH-UBBC ngày 02/02/2016 của UBBC tỉnh
Thừa Thiên Huế về việc triển khai công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa
XIV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021 và để cuộc bầu cử đại
biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu HĐND các cấp được tổ chức đảm bảo dân
chủ, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm và thực sự là ngày hội của toàn dân,
công tác chỉ đạo bầu cử của Thành phố đã được tiến hành khẩn trương,
nghiêm túc.
Để đảm bảo tốt công tác lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa
XIV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021, Thường vụ
Thành ủy đã ban hành Quyết định số 71-QĐ/TU ngày 01/02/2016 về việc
thành lập Ban chỉ đạo bầu cử gồm 16 thành viên; Ban Chỉ đạo công tác bầu cử
đã ban hành Thông báo số 51-TB/BCĐ ngày 16/02/2016 về việc phân công
nhiệm vụ trong Ban Chỉ đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu
cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 cho các đồng chí trong Ban
chỉ đạo. Thường vụ Thành ủy ra Thông báo số 50-TB/TU ngày 16/02/2016 về
công tác chỉ đạo bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và HĐND các cấp,
nhiệm kỳ 2016-2021; Thông báo số 59-TB/TU ngày 01/3/2016 về công tác
nhân sự ứng cử đại biểu HĐND Phường, nhiệm kỳ 2016-2021. Đồng thời, chỉ
đạo Thường vụ Đảng ủy các phường thành lập Ban chỉ đạo của 27 phường để
lãnh đạo và chỉ đạo toàn diện công tác bầu cử trên địa bàn, trên cơ sở đó phân
công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên Ban Chỉ đạo bầu cử ở các phường.
UBND Thành phố đã ban hành Quyết định số 617/QĐ-UBND ngày
04/02/2016 về việc thành lập UBBC đại biểu HĐND thành phố gồm 15 thành
viên; UBBC Thành phố đã ban hành Quyết định số 04/QĐ-UBBC ngày
19/02/2016 về việc phân công công việc cho các thành viên UBBC thành phố.
43
Sau khi thống nhất với UBND, Thường trực HĐND và Ban Thường trực
UBMT Thành phố, UBBC Thành phố đã ban hành Kế hoạch số 01/KH-UBBC
ngày 04/02/2016 để chỉ đạo và hướng dẫn cơ quan, đơn vị, tổ chức có liên quan
về nội dung công việc, thời hạn của các bước tiến hành bầu cử đại biểu Quốc
hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021.
UBND 27 Phường đã thành lập 27 UBBC gồm 297 thành viên để chỉ
đạo việc tổ chức bầu cử đại biểu HĐND ở địa phương. Theo đó, UBBC các
phường đã ban hành Kế hoạch triển khai các nội dung công việc, thời hạn của
các bước tiến hành bầu cử theo quy định.
Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố Huế đã xây dựng
kế hoạch số 16/2016/KH-UBMT ngày 03/2/2016 triển khai thực hiện công tác
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ
2016 – 2021.
2.2.2. Về lâp kế hoạch thực hiện pháp luật về bầu cử
* Về công bố ngày bầu cử:
Ngay sau khi UBTVQH ấn định và công bố ngày bầu cử đại biểu Quốc
hội khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021 vào
ngày Chủ nhật 22/5/2016, từ ngày 25/01/2016 đến ngày 30/01/2016 UBND
Thành phố và UBND các phường thuộc địa bàn Thành phố Huế đã đồng loạt
phối hợp với các đơn vị có liên quan để tổ chức hội nghị triển khai về ngày
bầu cử, chủ trương và kế hoạch bầu cử đại viểu Quốc hội và đại biểu HĐND
đến toàn bộ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động nhằm chuẩn bị
công tác bầu cử được tiến hành một cách thắng lợi nhất.
* Về thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử:
- Thành lập UBBC:
Thực hiện Điều 21 Luật Bầu cử; Điều 3 Thông tư số 02/2016/TT-BNV
ngày 01/02/2016 của Bộ Nội vụ về hướng dẫn nghiệp vụ công tác tổ chức bầu
44
cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-
2021, đồng thời sau khi thống nhất với Thường trực HĐND thành phố và Ban
Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố, UBND Thành phố Huế đã
ban hành Quyết định số 617/QĐ-UBND ngày 04/02/2016 về việc thành lập
UBBC Đại biểu Quốc hội khóa XIV và Đại biểu HĐND thành phố, nhiệm kỳ
2016 – 2021 bao gồm 15 thành viên là những người có phẩm chất chính trị, đạo
đức tốt, được quần chúng tín nhiệm, hiểu biết pháp luật và có kinh nghiệm thực
hiện công tác bầu cử tham gia vào các tổ chức phụ trách bầu cử.
Tại các Phường, UBND các phường cũng đã thành lập 27 UBBC phường
với 297 thành viên.
- Thành lập các Ban bầu cử:
Ban bầu cử đại biểu Quốc hội:
Thực hiện khoản 1 Điều 24 Luật Bầu cử, theo yêu cầu của UBND Tỉnh
Thừa Thiên Huế, UBND Thành phố Huế đã cử các đại diện gồm đại diện lãnh
đạo UBND, Thường trực HĐND, Trưởng phòng Nội vụ tham gia Ban bầu cử
đại biểu Quốc hội khóa XIV của Tỉnh.
Ngày 11/3/2016, UBND Tỉnh đã ban hành Quyết định số 450/QĐ-
UBND về việc thành lập Ban bầu cử đại biểu Quốc hội số 2 bao gồm Thành
phố Huế và Thị xã Hương Thủy thuộc đơn vị bầu cử số 2 của tỉnh Thừa Thiên
Huế. Ban bầu cử đại biểu Quốc hội đơn vị bầu cử số 2 đã ban hành Công văn
số 02/BBCQH2 ngày 29/4/2016 về việc phân công công việc của các thành
viên Ban bầu cử Quốc hội số 2 và Thông báo số 03/BBCQH2-TB về việc
kiểm tra công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV trên địa bàn thành phố
Huế và thị xã Hương Thủy tỉnh Thừa Thiên Huế và phân công thành viên
theo dõi chỉ đạo các địa phương trong ngày bầu cử.
Ban bầu cử đại biểu HĐND Tỉnh:
45
Thực hiện khoản 2 Điều 24 Luật Bầu cử về thành lập Ban bầu cử đại
biểu Quốc hội, theo yêu cầu của UBND Tỉnh Thừa Thiên Huế, UBND Thành
phố Huế đã cử các đại diện lãnh đạo UBND, HĐND thành phố Huế và các
đại diện lãnh đạo UBND, ban ngành đoàn thể phường tham gia Ban bầu cử
đại biểu HĐND Tỉnh Thừa Thiên Huế.
Theo đó, nhằm tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn về bầu cử
trên địa bàn thành phố Huế được thành công và đúng quy định, đến ngày
11/3/2016, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã ban hành các Quyết định số
455/QĐ-UBND, Quyết định số 456/QĐ-UBND, Quyết định số 457/QĐ-
UBND, Quyết định số 458/QĐ-UBND về việc thành lập 04 Ban bầu cử đại
biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế với 44 người gồm đại diện cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội. Ban bầu cử
gồm Trưởng ban, các Phó Trưởng ban và các Ủy viên của 04 đơn vị bầu cử
tại các Đơn vị bầu cử số 4;5;6 và 7.
Ban bầu cử đại biểu HĐND Thành phố:
Ngay sau khi UBBC thành phố Huế ấn định số đơn vị bầu cử, danh sách
các đơn vị bầu cử và số lượng đại biểu được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử đại biểu
HĐND Thành phố, nhiệm kỳ 2016-2021 đến ngày 10/3/2016, sau khi thống
nhất với Thường trực HĐND và Ban thường trực ủy ban MTTQ Việt Nam
cùng cấp, UBND thành phố ban hành các Quyết định về việc thành lập 08
Ban bầu cử đại biểu HĐND trên địa bàn Thành phố Huế tương ứng 08 Đơn vị
bầu cử Thành phố. Mỗi Ban bầu cử gồm có 09 thành viên. Số lượng thành
viên 8 Ban bầu cử thành phố là 72 người.
Ban bầu cử đại biểu HĐND các phường:
Các UBND phường đã thống nhất với Thường trực HĐND và Ban
thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam cùng cấp về việc thành lập Ban bầu cử
đại biểu HĐND cấp phường.
46
Tính đến hết ngày 13/3/2016, UBND 27 phường thuộc thành phố Huế đã
thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử đại biểu HĐND một Ban bầu cử có từ 07 đến
09 thành viên gồm đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức xã hội, đại diện cử tri ở địa phương. Theo đó, UBND 27
phường đã ban hành 169 quyết định thành lập 169 Ban bầu cử với Số lượng
thành viên Ban bầu cử phường là 1418 người.
- Thành lập các Tổ bầu cử:
Tính đến ngày 02/4/2016 trên địa bàn thành phố Huế, các Tổ bầu cử đã
được thành lập đúng quy định:
+ Tại các phường, sau khi thống nhất với Thường trực HĐND và Ban
thường trực Ủy ban MTTQ Phường, UBND các phường hoàn thành việc
thành lập 186 Tổ bầu cử tương ứng 186 Khu vực bỏ phiếu tại 169 Đơn vị bầu
cử để thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp
ở 27 phường thuộc thành phố với số lượng thành viên là 3.813 người.
+ Tại các đơn vị lực lượng vũ trang bao gồm: Công an tỉnh Thừa Thiên
Huế; Cảnh sát phòng cháy chữa cháy; Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh
Thừa Thiên Huế; Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thừa Thiên Huế; Bệnh viện Quân
y 268 và Công an thành phố Huế đã thành lập 06 Tổ bầu cử độc lập tương
ứng tại 06 khu vực được phê chuẩn khu vực bỏ phiếu riêng với số lượng
thành viên là 52 người.
+ UBBC thành phố Huế đã ban hành Quyết định số 05/QĐ-UBND ngày
22/02/2015 về việc trưng tập cán bộ, công chức tham gia vào công tác bầu cử
đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021
đối với 17 thành viên và Công văn số 06/UBBC ngày 22/02/2016 về phân
công công việc cho cán bộ công chức trưng tập tham gia theo từng đơn vị bầu
cử của thành phố. UBND thành phố thành lập Tổ giúp việc gồm 14 thành viên
để tham mưu, giúp việc cho UBBC thành phố Huế. Tại các phường, tính đến
47
ngày 24/02/2016 UBND các phường cũng thành lập các Tiểu ban giúp việc
cho UBBC phường trong quá trình thực hiện bầu cử.
* Về tổ chức các hội nghị quán triệt, phổ biến, hội nghị hiệp thương:
- Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Thường vụ Thành ủy, UBND thành
phố đã tổ chức Hội nghị triển khai công tác bầu cử trong cán bộ chủ chốt gồm
thủ trưởng các ban ngành, thủ trưởng các đơn vị Trung ương, Tỉnh có liên
quan, các đơn vị lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn, UBND phường, UBBC
phường, các Ban bầu cử Tỉnh trên địa bàn Thành phố, các Ban bầu cử Thành
phố, các Ban bầu cử phường, các Tổ bầu cử để quán triệt các chỉ thị triển khai
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm
kỳ 2016-2021, UBND các phường cũng đã đồng loạt tổ chức hội nghị cán bộ
chủ chốt để quán triệt và triển khai công tác bầu cử.
- Trên địa bàn thành phố Huế đã tiến hành tổ chức Hội nghị giới thiệu
người ứng cử và lấy ý kiến nhận xét, tín nhiệm của cử tri nơi công tác của các
cơ quan, tổ chức, đơn vị và tổ dân phố, thành phần và số lượng cử tri tham dự
các hội nghị đều đảm bảo và đạt trên 2/3 số cử tri được triệu tập; đã có nhiều
ý kiến bày tỏ nhận xét và tín nhiệm của mình đối với người được giới thiệu
ứng cử. Kết quả như sau:
+ Cấp thành phố đã có 67 người được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND
thành phố và được cử tri tín nhiệm 100%, hồ sơ người ứng cử được gửi đến
UBBC thành phố theo đúng quy định;
+ Cấp phường đã có 1223 người được giới thiệu ứng cử với sự tín
nhiệm cao và đến cuối ngày 13/3/2016, UBBC các phường đã nhận thêm 04
hồ sơ tự ứng cử (trong đó Kim Long 01 người và Thuận Thành 03 người tự
ứng cử) nâng tổng số người ứng cử HĐND cấp phường lên 1227 người.
- Quá trình giới thiệu người ứng cử của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và
tổ dân phố đảm bảo đúng thành phần, trình tự và thời gian. Tuy nhiên, việc tổ
48
chức giới thiệu người ra ứng cử, tại một số cơ quan, tổ chức, đơn vị vẫn có sự
nhầm lẫn về trình tự, thời gian tổ chức các hội nghị, thành phần tham dự,
người chủ trì hội nghị..., qua quá trình theo dõi giám sát, Ban Thường trực Ủy
ban MTTQ thành phố và các phường đã hướng dẫn cho các cơ quan, tổ chức,
đơn vị kịp thời điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung đảm bảo thời gian và nội dung
yêu cầu.
- Ban thường trực Ủy ban MTTQ Thành phố, Phường tổ chức Hội nghị
Hiệp thương lần thứ nhất với thành phần gồm Ban thường trực UB MTTQ,
đại diện ban lãnh đạo các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại diện UBBC,
Thường trực HĐND, UBND cùng cấp. Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất
thỏa thuận về cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử đại
biểu HĐND của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang, cơ quan Nhà nước cùng cấp và của đơn vị sự nghiệp, tổ chức
kinh tế, các đơn vị hành chính, cấp dưới trên địa bàn.
+ Ở cấp thành phố: Số đại biểu được bầu là 40 đại biểu; Số người dự
kiến giới thiệu ứng cử là 67 (trong đó: nữ 25 người chiếm 37,31%, trẻ dưới 35
tuổi 17 người chiếm 25,57%, ngoài Đảng 08 người chiếm 11,94% và tái cử 15
người chiếm 37,5%)
+ Ở cấp phường: Số đại biểu được bầu là 698 đại biểu; Số người dự kiến
giới thiệu ứng cử là 1.245 (trong đó: nữ 472 người chiếm 37,82%, trẻ dưới 35
tuổi 287 người chiếm 22,99%, ngoài Đảng 365 người chiếm 29,24% và tái cử
436 người chiếm 62,4%).
Với tinh thần trách nhiệm của mình, Ban thường trực Ủy ban MTTQ
Việt Nam và các tổ chức thành viên về cơ bản đã đồng tình với dự kiến của
Thường trực HĐND. Đồng thời cũng đã có những đề nghị với Thường trực
HĐND xem xét, điều chỉnh về tỷ lệ nữ, trẻ, ngoài Đảng; xác định cụ thể số
lượng ứng cử viên cho từng cơ cấu thành phần theo cơ quan, tổ chức, đơn vị
49
đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật; chú ý đến cơ cấu của các thành
phần kinh tế, nhất là những đơn vị kinh tế có vị trí quan trọng trong nền kinh
tế thành phố như: du lịch, thương mại, công nghiệp, dịch vụ…
Căn cứ vào kết quả Hiệp thương lần thứ nhất, Thường trực HĐND
Thành phố, Phường điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ
quan, tổ chức, đơn vị, địa phương được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND cấp
mình.
- Thành phố, Phường tập trung tiến hành hội nghị Hiệp thương lần thứ 2
để lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu HĐND các cấp.
+ Ở cấp thành phố: Tổng số đại biểu được bầu là 40 đại biểu. Tại hội
nghị hiệp thương lần thứ hai, các đại biểu đã thống nhất để lập danh sách sơ
bộ những người ứng cử đại biểu HĐND gồm 67 người. Trong đó: Nữ: 25
người, chiếm tỉ lệ 37,31%; Trẻ: 17 người, chiếm 25,37%; Ngoài Đảng: 8
người, chiếm 11,94%; Tái cử: 15 người, chiếm 37,5%.
+ Ở cấp phường: Tổng số đại biểu được bầu là 698 đại biểu. Tại hội nghị
hiệp thương lần thứ hai, các đại biểu đã thống nhất để lập danh sách sơ bộ
những người ứng cử đại biểu HĐND gồm 1.227 người. Trong đó: Nữ: 474
người, chiếm tỉ lệ 38,63%; Trẻ: 309 người, chiếm 25,18%; Dân tộc: 1 người,
chiếm 0,0008 %; Ngoài Đảng: 387 người, chiếm 31,54%; Tái cử: 423 người,
chiếm 60,60%.
- Thành phố, Phường tập trung tiến hành hội nghị Hiệp thương lần thứ
ba. Hội nghị hiệp thương lần thứ ba căn cứ vào tiêu chuẩn của đại biểu
HĐND, cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử của cơ
quan, tổ chức, đơn vị và kết quả lấy ý kiến cử tri để lựa chọn, lập danh sách
những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu HĐND Thành phố, Phường.
+ Ở cấp thành phố: Tổng số đại biểu được bầu là 40 đại biểu. Tại hội
nghị hiệp thương lần thứ ba, các đại biểu đã thống nhất lập danh sách những
50
người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu HĐND thành phố gồm 64 người. Trong
đó Nữ: 23 người, chiếm tỉ lệ 35,9%; Trẻ: 15 người, chiếm 23,4%; Ngoài
Đảng: 7 người, chiếm 10,9%; Tái cử: 15 người, chiếm 37,5%; Tôn giáo: 1
người, chiếm 2%. Trên đại học: 16 người, chiếm 25,0%; Đại học: 48 người,
chiếm 75,0%.
+ Ở cấp phường: Tổng số đại biểu được bầu là 698 đại biểu. Tại hội nghị
hiệp thương lần thứ ba, các đại biểu đã thống nhất lập danh sách những người
đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu HĐND thành phố gồm 1.155 người. Trong đó
Nữ: 442 người, chiếm tỉ lệ 38,3%; Trẻ: 286 người, chiếm 24,8%; Ngoài
Đảng: 360 người, chiếm 31,2%; Tái cử: 409 người, chiếm 58,60%; Tôn giáo:
14 người, chiếm 1,21%; Tự ứng cử: 1 người, chiếm 0,09%. Trên đại học: 12
người, chiếm 1,04%; đại học: 479 người, chiếm 41,47%; dưới đại học: 664
người, chiếm 57,5%.
- Trên cơ sở danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu HĐND, theo
quy định của Luật Bầu cử, Ủy ban MTTQ thành phố và Ủy ban MTTQ các
phường trên địa ban thành phố Huế đã tổ chức hội nghị lấy ý kiến nhận xét và
tín nhiệm của cử tri nơi cư trú.
Hội nghị tổ chức lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri nơi cư trú
trên địa bàn thành phố đã được đồng loạt tổ chức. Với đặc trưng thành phố là
địa bàn trung tâm của Tỉnh Thừa Thiên Huế nên số lượng người ứng cử đại
biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp cư trú trên địa bàn thành phố Huế có
số lượng lớn hơn các huyện, thị xã trong Tỉnh, trong đó: ứng cử đại biểu Quốc
hội có 08 người, ứng cử đại biểu HĐND Tỉnh 61 người, người ứng cử đại
biểu HĐND các địa phương khác là 191 người, ứng cử đại biểu HĐND các
phường thuộc thành phố là 1227 người và ứng cử HĐND thành phố là: 61/67
người (có 06 người ứng cử của thành phố cư trú ở các địa bàn các huyện, thị
xã). Do có sự tập huấn và chuẩn bị khá chu đáo, nhiều đơn vị đã chủ động lên
51
lịch sớm, phối hợp việc lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri nơi cư trú
đối với ứng cử viên Quốc Hội và HĐND các cấp để tổ chức cùng lúc trên địa
bàn.
Nhìn chung, việc tổ chức lấy ý kiến cử tri nơi cư trú đã được các tổ chức
phụ trách bầu cử tổ chức chu đáo, đúng luật và đúng lịch, đảm bảo dân chủ,
công khai. Thành phần người ứng cử và đại diện các cơ quan, tổ chức, đơn vị,
tổ dân phố có người ứng cử đều được mời tham dự hội nghị này. Số lượng cử
tri tham dự hội nghị đảm bảo quy định từ 55 cử tri trở lên (khoản 3 Điều 2
Nghị quyết số 1134/2016/UBTVQH13). Nơi có số cử tri tham dự cao nhất là
150 cử tri, nơi thấp nhất là 57 cử tri đại diện hộ gia đình đến dự. Tuy nhiên
cũng có 02 tổ dân phố phải tổ chức lại hội nghị cử tri vì số lượng cử tri tham
dự không đủ theo quy định. Có 01 người ứng cử vắng mặt do đi công tác xa
không về kịp.
Kết quả với biểu quyết bằng hình thức giơ tay, 67 ứng cử viên đại biểu
HĐND thành phố và 1.227 ứng cử viên đại biểu HĐND cấp phường được cử
tri tín nhiệm giới thiệu.
* Về thông tin, tuyên truyền và vận động bầu cử:
- Công tác thông tin, tuyên truyền về bầu cử:
UBND thành phố Huế đã ban hành Kế hoạch số 62/KH-UBND ngày
21/02/2016 về tổ chức các hoạt động chào mừng và tuyên truyền cuộc bầu cử
đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ
2016-2021. Kế hoạch này hướng tới mục đích làm cho mọi người nhận thức
rõ vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của cuộc bầu cử; nêu cao trách nhiệm,
nghĩa vụ công dân trong việc tham gia thực hiện bầu cử, lựa chọn, bầu ra
những người tiêu biểu về đức, tài, xứng đáng là đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền làm chủ của nhân dân trong Quốc hội và HĐND các cấp
nhiệm kỳ 2016 – 2021.
52
Để tăng cường chỉ đạo các ngành, các địa phương triển khai thực hiện
công tác tuyên truyên bầu cử nghiêm túc, hiệu quả, đúng tiến độ, UBND
Thành phố chia hoạt động tuyên truyền thành 3 đợt vào những thời điểm khác
nhau, với các nội dung cần tập trung tuyên truyền khác nhau.
Để công tác tuyên truyền, phổ biến về bầu cử được sâu, rộng và đạt hiệu
quả, UBND thành phố Huế đã phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ quan
đơn vị:
+ Phòng Văn hóa và Thông tin Thành phố Huế: hướng dẫn, kiểm tra,
đôn đốc các cơ quan tuyên truyền của Thành phố, UBND các Phường tổ chức
các hoạt động thông tin, tuyên truyền cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa
XIV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021; thực hiện theo
dõi, tổng hợp các hoạt động thông tin, tuyên truyền trên địa bàn báo cáo theo
quy định.
+Trung tâm Văn hóa Thành phố Huế: xây dựng Kế hoạch tổ chức tuyên
truyền cổ động trực quan, tuyên truyền lưu động; phối hợp với các ban, ngành
tổ chức các hoạt động văn nghệ chào mừng.
+ Đài Truyền thanh Thành phố, Cổng Thông tin điện tử Thành phố: mở
các chuyên mục, chuyên đề đăng tải, giới thiệu điểm mới của Luật Bầu cử;
phân tích về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND; các danh sách
các ứng viên, tiểu sử những người ứng cử...; sử dụng hình thức phỏng vấn, tọa
đàm, phóng sự, đăng tải ý kiến cử tri, ý kiến của người ứng cử... Thông báo
về diễn biến và kết quả bầu cử. Chuẩn bị các điều kiện để thông tin, phản ánh
các hoạt động diễn ra trong thời gian trước, trong và sau cuộc bầu cử.
+ Các cơ quan, ban ngành, đoàn thể thuộc Thành phố, UBND các
Phường: tuyên truyền sâu rộng, đậm nét về công tác bầu cử đến mọi tầng lớp
nhân dân.
53
Công tác tuyên truyền được đẩy mạnh dưới nhiều hình thức như: qua các
phương tiện thông tin đại chúng, cổ động trực quan, qua hội nghị tiếp xúc cử
tri, họp dân.
- Vận động bầu cử:
Ban thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố Huế chủ trì phối
hợp với UBND thành phố, Thường trực HĐND chọn địa điểm và xây dựng
lịch tiếp xúc cử tri. Ban thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố đã tổ
chức 23 buổi tiếp xúc cử tri với ứng cử viên đại biểu Quốc hội, đại biểu
HĐND Tỉnh và đại biểu HĐND thành phố. Ban thường trực Ủy ban MTTQ
Việt Nam 27 phường đã chủ trì và tổ chức 169 buổi tiếp xúc cử tri với ứng cử
viên đại biểu HĐND phường với 4.647 lượt cử tri tham dự tiếp xúc với người
ứng cử đại biểu Quốc hội và HĐND tỉnh, thành phố; có 182 lượt cử tri phát
biểu ý kiến với 466 ý kiến tham gia gửi gắm đến các ứng cử viên đại biểu
Quốc hội và HĐND Tỉnh, thành phố.
Các hội nghị tiếp xúc cử tri vận động bầu cử diễn ra trong không khí
nghiêm túc, trật tự, đoàn kết, tin tưởng. Cử tri đã phát huy dân chủ, nhiệt tình
tham gia ý kiến đóng góp để xây dựng và phát triển với thành phố và tỉnh,
đóng góp ý kiến và gởi gắm niềm tin vào các ứng cử viên; mong muốn đại
biểu Quốc hội và HĐND các cấp sẽ phát huy vai trò, nâng cao trách nhiệm
trong việc xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới; đề ra các
quyết sách đúng đắn, giám sát việc thực hiện các chủ trương chính sách của
Nhà nước kịp thời, hiệu quả để các chủ trương chính sách thực sự đi vào đời
sống của nhân dân.
Các chương trình hành động của ứng cử viên đều hướng đến những
nhiệm vụ của người đại biểu HĐND, tích cực góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của Quốc hội, HĐND đáp ứng ngày càng tốt hơn sự
nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng đất
54
nước và quê hương ngày càng phát triển. Tùy theo vị trí công tác và đặc điểm
ngành nghề của mình, nhiều ứng cử viên đã trình bày suy nghĩ và định hướng
hoạt động của mình nếu trúng cử và nhận được sự đồng tình cao của cử tri
thành phố.
* Về bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong bầu cử:
Công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong bầu cử
được thành phố Huế đặc biệt chú trọng. Ban chỉ đạo bầu cử, UBBC, UBND
thành phố đã chỉ đạo Công an thành phố, Ban Chỉ huy quân sự Thành phố và
Công an các phường, Ban Chỉ huy quân sự các phường, Dân quân tự vệ các
phường xây dựng kế hoạch và phương án cụ thể để bảo đảm an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho cuộc bầu cử, đặc biệt lên
phương án tuần tra canh gác tại các địa điểm Khu vực bỏ phiếu, niêm yết
danh sách cử tri, danh sách chính thức, tiểu sử tóm tắt của ứng cử viên.
Công an, Quân sự đã phối hợp tham mưu cấp ủy và chính quyền quản lý
vũ khí, vật liệu nổ, phòng cháy, chữa cháy, tuyệt đối không để xảy ra cháy nổ
trong ngày bầu cử; Công tác trật tự an toàn giao thông trong ngày bầu cử
được đảm bảo thông suốt.
Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội thời gian trước, trong
và sau ngày bầu cử trên địa bàn thành phố Huế cơ bản ổn định; không khí vui
tươi, lành mạnh, an toàn. Công an thành phố, Ban chỉ huy Quân sự thành phố,
lực lượng dân phòng các địa phương đã triển khai tốt kế hoạch bảo vệ cuộc
bầu cử, không có vấn đề gì phức tạp lớn nảy sinh.
* Lập và niêm yết danh sách cử tri, người ứng cử:
UBBC tại các phường trên địa bàn thành phố Huế đã lập danh sách cử
tri, tiến hành hết sức cẩn thận nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của cử tri:
xác định, phân loại cử tri được quyền bầu cử đối với từng cấp đại biểu HĐND
và các trường hợp không được tham gia bỏ phiếu, áp dụng các biện pháp hành
55
chính về quản lý hộ khẩu, nhân thân; tiến hành rà soát những người có đăng
ký thường trú, tạm trú, những người đi lao động xa; những trường hợp là học
sinh nội trú… Danh sách cử tri do UBND phường lập theo từng khu vực bỏ
phiếu. Danh sách cử tri trong đơn vị lực lượng vũ trang do chỉ huy đơn vị lập
theo đơn vị lực lượng để đưa vào danh sách cử tri của khu vực bỏ phiếu nơi
đơn vị đóng quân.
Công tác niêm yết danh sách cử tri được tiến hành nghiêm túc, đúng quy
định và thời hạn. Niêm yết danh sách cử tri tại trụ sở UBND các phường và
những địa điểm công cộng của khu vực bỏ phiếu, đồng thời thông báo rộng
rãi để nhân dân biết và kiểm tra.
Việc lập danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu HĐND được
các tổ phụ trách bầu cử trên địa bàn thành phố Huế tiến hành thực hiện
nghiêm túc, đúng quy định. Danh sách được ghi rõ họ, tên, ngày, tháng, năm
sinh, giới tính, quê quán, nơi thường trú, dân tộc, tôn giáo, trình độ học vấn,
chuyên môn, nghề nghiệp, chức vụ, nơi công tác của người ứng cử.
UBBC Thành phố, UBBC các Phường đã lập và Công bố Danh sách
chính thức những người ứng cử đại biểu HĐND Thành phố, Phường, nhiệm
kỳ 2016-2021 theo Đơn vị bầu cử, cụ thể ở cấp Thành phố theo 08 đơn vị bầu
cử, gồm 64 ứng cử viên, ở cấp Phường theo 169 đơn vị bầu cử gồm 1.155 ứng
cử viên.
* Về tổ chức ngày bầu cử:
Cấp ủy, chính quyền thành phố Huế đã tập trung chỉ đạo thực hiện tốt
công tác chuẩn bị bầu cử; các thành viên Ban Chỉ đạo bầu cử thành phố Huế,
UBBC thành phố Huế đã tích cực chỉ đạo, kiểm tra các đơn vị, địa phương từ
việc chuẩn bị đến tổ chức ngày bầu cử.
UBBC các phường thường xuyên báo cáo tiến độ tổ chức thực hiện công
tác chuẩn bị bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND tại địa phương để
56
UBBC thành phố kịp thời nắm bắt những diễn biến thực tế về việc thi hành
các quy định về bầu cử, qua đó, kịp thời khắc phục những khó khăn vướng
mắc trong quá trình triển khai nhằm đảm bảo đến ngày bầu cử mọi công việc
đều được chuẩn bị chu đáo.
UBND thành phố và các phường đã phối hợp, hướng dẫn các tổ chức
phụ trách bầu cử trong quá trình thực hiện công tác bầu cử như: phân công
công việc cho từng thành viên tổ bầu cử; thực hiện rà soát, kiểm tra lại toàn
bộ các phương tiện vật chất – kỹ thuật phục vụ ngày bầu cử; công tác quản lý
chặt chẽ phiếu bầu, tất cả công việc chuẩn bị nhằm đảm bảo sẵn sàng cho
cuộc bầu cử được diễn ra an toàn, dân chủ, đúng luật và đạt kết quả tốt.
Trong ngày bầu cử, các Tổ bầu cử người quan sát và hướng dẫn cử tri
cách thức bỏ phiếu theo quy định. Với tinh thần trách nhiệm của cử tri, chỉ
sau 1 giờ bầu cử đã có nhiều khu vực bỏ phiếu có 100 % cử tri đi bầu như
Bệnh viện Quân y 268, Công An Thành phố Huế, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên
Phòng tỉnh Thừa Thiên Huế, Công An Tỉnh Thừa Thiên Huế, Cảnh sát Phòng
cháy chữa cháy Tỉnh Thừa Thiên Huế…Đến thời điểm 10 giờ sáng
22/5/2016, một số phường có tỷ lệ cử tri đi bầu cao như phường Phú Hậu
96%, phường Hương Long 94,4 %, phường Phường Đúc 90 %, phường Phú
Bình 90%...
Sau 19 giờ tối cùng ngày các Tổ bầu cử đã tuyên bố kết thúc bỏ phiếu và
tiến hành kiểm phiếu (kiểm kê, kiểm tra, kiểm đếm và phân loại phiếu bầu),
niêm phong phiếu với sự chứng kiến của cử tri bảo đảm đúng luật. Sau khi
nhận và kiểm tra lại các tài liệu và biên bản của UBBC các phường gửi lên,
UBBC thành phố gửi về UBBC Tỉnh đúng theo quy định.
* Về công bố kết quả bầu cử:
57
Thực hiện khoản 2 Điều 86 Luật Bầu cử về công bố kết quả bầu cử,
UBBC thành phố Huế căn cứ vào biên bản tổng kết cuộc bầu cử của UBBC
thành phố và các phường để công bố kết quả bầu cử trên địa ban thành phố.
Ngày 30/5/2016, UBBCThành phố Huế đã có công bố số 66/CB-UBBC
về kết quả bầu cử đại biểu HĐND thành phố, khóa XII, nhiệm kỳ 2016-2021
với nội dung như sau:
- Kết quả bầu cử đại biểu HĐND Thành phố, khóa XII, nhiệm kỳ
2016-2021:
Tổng số đại biểu được ấn định cho HĐND Thành phố: 40 đại biểu
Tổng số đại biểu HĐND Thành phố đã bầu được: 40 đại biểu
Số lượng đơn vị bầu cử: 08 đơn vị
Tổng số cử tri trong danh sách: 275.525 cử tri
Số cử tri đã tham gia bỏ phiếu: 275.491 cử tri
Tỷ lệ cử tri đi bầu so với cử tri trong danh sách: 99,99 %
Số phiếu phát ra: 275.49 phiếu
Số phiếu thu vào: 275.380 phiếu (đạt 99,96% so với số phiếu phát ra)
Số phiếu hợp lệ: 272.816 phiếu (đạt 99,07% so với số phiếu thu vào)
Số phiếu không hợp lệ: 2.564 phiếu (đạt 0,93% so với số phiếu thu vào)
Người trúng cử có số phiếu cao nhất: 79,71% so với số phiếu hợp lệ
Người trúng cử có số phiếu thấp nhất: 56,67% so với số phiếu hợp lệ
Đại biểu trúng cử dưới: 35 tuổi: 04 đạt tỉ lệ: 10,00%
Đại biểu trúng cử là Nữ: 11 đạt tỉ lệ 27,50%
Đại biểu trúng cử là tôn giáo: 02 đạt tỉ lệ 5,00%
Đại biểu trúng cử tái cử: 13 đạt tỉ lệ 32,50%
Đại biểu trúng cử ngoài Đảng: 01 đạt tỉ lệ 2,50%
Về trình độ chuyên môn:
Đại biểu trúng cử có trình độ Cao đẳng: 01 đạt tỉ lệ 2,50%
58
Đại biểu trúng cử có trình độ Đại học: 27 đạt tỉ lệ 67,50%
Đại biểu trúng cử có trình độ sau Đại học: 12 đạt tỉ lệ 30,00%
Về trình độ lý luận chính trị:
Đại biểu trúng cử có trình độ Trung cấp: 12 đạt tỉ lệ 30,00%
Đại biểu trúng cử có trình độ Cao cấp; Cử nhân: 25 đạt tỉ lệ 62,50%
- Kết quả bầu cử đại biểu HĐND 27 phường
Tổng số cử tri ghi trong danh sách: 240.502 người
Tổng số cử tri đã đi bầu: 240.493 người
Số phiếu phát ra: 240.493
Số phiếu thu vào: 240.391 đạt 99,96% so với số phiếu phát ra
Số phiếu hợp lệ: 237.713 đạt 99,89% so với số phiếu thu vào
Số phiếu không hợp lệ: 2.678 đạt 1,11% so với số phiếu thu vào
Số đại biểu được bầu: 698 người; Số đại biểu trúng cử: 694 đại biểu
Có 4 đơn vị bầu thiếu 01 đại biểu (phường An Hòa; phường Phú Bình;
phường Phước Vĩnh; phường Thủy Biều) số người trúng cử đại biểu HĐND
đều đảm bảo quá hai phần ba số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn
vị bầu cử.
Đại biểu trúng cử dưới 35 tuổi: 156 đạt tỉ lệ: 22,48%
Đại biểu trúng cử là Nữ: 212 đạt tỉ lệ 30,55%
Đại biểu trúng cử là dân tộc thiểu số: 01 đạt tỉ lệ: 0,144%
Đại biểu trúng cử là tôn giáo: 47 đạt tỉ lệ 6,77%
Đại biểu trúng cử tái cử: 352 đạt tỉ lệ 50,72%
Đại biểu trúng cử ngoài Đảng: 115 đạt tỉ lệ 16,6%
Về trình độ chuyên môn:
Đại biểu trúng cử có trình độ Trung cấp: 109 đạt tỉ lệ 15,71%
Đại biểu trúng cử có trình độ Cao đẳng: 23 đạt tỉ lệ 3,31%
Đại biểu trúng cử có trình độ Đại học: 371 đạt tỉ lệ 53,46%
59
Đại biểu trúng cử có trình độ sau Đại học: 14 đạt tỉ lệ 2,02%
Về trình độ lý luận chính trị:
Đại biểu trúng cử có trình độ Trung cấp: 342 đạt tỉ lệ 49,28%
Đại biểu trúng cử có trình độ Cao cấp; Cử nhân: 24 đạt tỉ lệ 3,46%
2.2.3. Về tổ chưc bộ máy, nhân sự thực hiện pháp luật về bầu cử
* Về tổ chưc bộ máy, nhân sự tại UBND thành phố Huế:
Ngày 04/02/2016, UBND thành phố Huế ban hành Quyết định số
617/QĐ-UBND về việc thành lập UBBC Đại biểu Quốc hội khóa XIV và Đại
biểu HĐND thành phố, nhiệm kỳ 2016 – 2021 bao gồm 15 thành viên như:
Chủ tịch HĐND thành phố; Chủ tịch UBND thành phố; Phó Chủ tịch HĐND
thành phố; Chủ tịch UBMT TQVN thành phố; Trưởng phòng Nội vụ; Trưởng
Ban Tổ chức Thành ủy; Trưởng Công an thành phố; Chỉ huy Trưởng ban chỉ
huy quân sự thành phố; Chánh Văn phòng HĐND&UBND thành phố; Trưởng
phòng Tài chính thành phố; Bí thư Thành đoàn; Chủ tịch Hội Phụ nữ thành
phố; Chủ tịch liên đoàn lao động thành phố; Chủ tịch Hội nông dân thành phố;
Chủ tịch Hội cựu chiến binh thành phố. Đây là những người có phẩm chất
chính trị, đạo đức tốt, được quần chúng tín nhiệm, hiểu biết pháp luật và có
kinh nghiệm thực hiện công tác bầu cử tham gia vào các tổ chức phụ trách bầu
cử.
Bên cạnh đó, UBBC thành phố đã ban hành Quyết định số 05/QĐ-UBBC
ngày 22/02/2015 về việc trưng tập cán bộ, công chức các phòng chuyên môn
các ban ngành thuộc thành phố Huế tham gia vào công tác bầu cử đại biểu
Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021 bao gồm
17 thành viên. Đồng thời đã ban hành văn bản phân công số 06/UBBC ngày
22/02/2016 về phân công công việc cho cán bộ công chức trưng tập tham gia
theo từng đơn vị bầu cử của thành phố.
60
Phòng Nội vụ là cơ quan chủ trì tham mưu UBND thành phố triển khai
thực hiện có hiệu quả công tác bầu cử trên địa bàn. Địa điểm làm việc của
UBBC thành phố được đặt tại phòng Nội vụ thành phố.
* Về tổ chưc bộ máy, nhân sự tại UBND các Phường:
Đến ngày 07/02/2016, UBND các phường cũng đã thành lập 27 UBBC
phường với 297 thành viên như: Chủ tịch HĐND phường; Chủ tịch UBND
phường; Phó Chủ tịch HĐND phường; Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam
phường; Trưởng Công an phường; Phường đội Trưởng; công chức Văn phòng
- thống kê phường; Bí thư đoàn phường; Chủ tịch Hội cựu chiến binh phường.
Đây là những người có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, được quần chúng tín
nhiệm, hiểu biết pháp luật và có kinh nghiệm thực hiện công tác bầu cử tham
gia vào các tổ chức phụ trách bầu cử.
UBND các phường cũng đã thành lập các Tiểu ban giúp việc cho UBBC
phường như: Tiểu ban tuyên truyền có 5 thành viên; Tiểu ban bảo vệ chính trị
nội bộ, giải quyết khiếu nại tố cáo có 5 thành viên; Tiểu ban chỉ đạo công tác
tổ chức, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, trật tự đô thị có 11 thành
viên; Tiểu ban phục vụ ngân sách và đời sống có 16 thành viên; Tiểu ban tổng
hợp có 7 thành viên.
Ngay sau khi UBBC phường ấn định các đơn vị bầu cử của cấp mình,
UBND thành phố hướng dẫn UBND phường thống nhất với Thường trực
HĐND và Ban thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam phường quyết định
thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử đại biểu HĐND một Ban bầu cử có từ 07 đến
09 thành viên gồm đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức xã hội, đại diện cử tri ở địa phương. Số lượng thành viên
Ban bầu cử phường: 1418 người tại 169 Ban bầu cử.
Đồng thời, sau khi ấn định khu vực bỏ phiếu, UBND các phường đã tiến
hành thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu 01 Tổ bầu cử. UBND các phường hoàn
61
thành việc thành lập 186 Tổ bầu cử tương ứng 186 Khu vực bỏ phiếu tại 169
Đơn vị bầu cử để thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu
HĐND các cấp ở 27 phường thuộc thành phố với số lượng thành viên: 3.813
người. Đơn vị lực lượng vũ trang thành lập 06 Tổ bầu cử độc lập tương ứng
tại 06 khu vực được phê chuẩn khu vực bỏ phiếu riêng với số lượng thành
viên: 52 người.
Nhìn chung, công tác bầu cử là nhiệm vụ trọng tâm của toàn bộ hệ thống
chính trị. Do đó, đại diện của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc và đoàn thể là nhân sự nòng cốt trong công tác thực hiện pháp luật về
bầu cử.
* Về tâp tập huấn nghiệp vụ bầu cử:
- Ngày 01/3/2016: UBBC thành phố tổ chức Hội nghị tập huấn nghiệp
vụ bầu cử đợt 1 đối với 271 cán bộ, công chức (đối tượng: Tổ cán bộ, công
chức giúp việc UBBC thành phố, Ban bầu cử đại biểu HĐND thành phố, Chủ
tịch, Phó Chủ tịch, Thư ký UBBC các phường).
- Ngày 17/4/2016 và ngày 27/4/2016: UBBC thành phố tổ chức Hội nghị
tập huấn nghiệp vụ bầu cử đợt 3 đối với 859 cán bộ, công chức và thành viên
Tổ bầu cử.
- Tại UBND các phường, trên cơ sở đã được tập huấn về nghiệp vụ bầu
cử, Chủ tịch UBBC các phường cũng đã tiến hành tổ chức tập huấn lại cho
các thành viên của các tổ bầu cử về nghiệp vụ bầu cử thuộc chức năng, nhiệm
vụ quyền hạn của Tổ bầu cử.
2.2.4. Về bảo đảm điều kiện thực hiện pháp luật về bầu cử
- Thành phố Huế đã tiến hành tổ chức thành lập bộ máy làm việc với
đội ngũ nhân sự ỏ theo quy định: 28 UBBC (01 UBBC thành phố, 27 UBBC
phường ); 177 Ban bầu cử (08 BBC thành phố, 196 BBC phường); 192 Tổ
bầu cử (186 TBC tại các phường, 06 TBC tại các đơn vị lực lượng vũ trang);
62
312 thành viên UBBC của thành phố và các phường; 1940 thành viên Ban
bầu cử của thành phố và các phường; 3865 thành viên Tổ bầu cử.
- Để bảo đảm công tác chuẩn bị cho bầu cử được kịp thời theo đúng tiến
độ, trong thời gian chờ nguồn kinh phí bầu cử từ Tỉnh cấp về, Thành ủy Huế
đã chỉ đạo UBND thành phố căn cứ vào dự toán ngân sách thành phố năm
2016 đã được HĐND thành phố Huế thông qua tại Nghị quyết số
18/2015/NQ-HĐND ngày 18/12/2015 của HĐND thành phố khóa XI kỳ họp
thứ 11 về dự toán ngân sách năm 2016 và Quyết định số 8880/QĐ-UBND
ngày 28/12/2015 của UBND thành phố về việc giao dự toán Ngân sách nhà
nước thành phố năm 2016, tạm ứng từ ngân sách thành phố để chi cho các
đơn vị, UBND các phường thuộc địa bàn thành phố tổ chức triển khai nhiệm
vụ. Mức chi trước mắt tạm thời bằng 60-70% theo định mức chi của đợt bầu
cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ trước. Việc tạm
ứng ngân sách được thực hiện trên tinh thần hướng dẫn tại Quyết định số
378/QĐ-UBND ngày 04/3/2016 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế về việc quy
định một số mức chi kinh phí bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu
HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 422/QĐ-
UBND ngày 09/3/2016 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế về việc kinh phí
phục vụ bầu cử.
Tổng kinh phí phục vụ công tac bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và
đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 trên địa bàn thành phố Huế là:
5.703.000.000.
Kinh phí trên đã được chi xây dựng các báo cáo, văn bản hướng dẫn; chi
in ấn tài liệu; chi vận hành trang thông tin điện tử; chi cho an ninh, trật tự,
thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn và vận động bầu cử; chi tổ chức các hội
nghị; chi cho công tác chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát; chi công tác
tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; chi phí hành chính...
63
Nhìn chung, do chủ động kinh phí, không chỉ các cơ quan, đơn vị cấp
thành phố mà UBND các phường đã thực hiện tốt lịch trình, thời gian, các
bước công việc thực hiện bầu cử trên địa bàn thành phố được đảm bảo, đạt kết
quả tốt.
- Nhằm bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác bầu cử trên địa
bàn thành phố được chu đáo, kịp thời, UBBC thành phố Huế đã nhận và phân
phối tài liệu phục vụ bầu cử gồm Luật bầu cử, Luật Tổ chức chính quyền địa
phương, tổng hợp các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ bầu cử, đĩa CD tổng hợp
các văn bản hướng dẫn bầu cử; lịch trình bầu cử của Hội đồng bầu cử Quốc
gia; các mẫu hóa biểu, bảng liên quan đến tổng hợp kết quả trước, trong và
sau ngày bầu cử… Tất cả các tài liệu, mẫu biểu, bảng đã mẫu hóa chuyển
UBBC các phường bằng văn bản giấy và file điện tử đảm bảo phục vụ tốt cho
ngày bầu cử.
2.2.5. Về hoạt động giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bầu cử;
giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bầu cử.
- Thành phố Huế đã phối hợp các cơ quan, đơn vị liên quan của thành
phố cùng với đoàn giám sát, kiểm tra của Trung ương, Ủy ban MTTQ Việt
Nam Tỉnh để kiểm tra giám sát một số điểm bầu cử trên địa bàn thành phố.
- Thường trực HĐND và UBND thành phố Huế tiến hành về cơ sở giám
sát, kiểm tra việc thành lập các tổ phụ trách bầu cử tại các phường về cơ cấu,
thành phần, số lượng thành viên Tổ bầu cử, Ban bầu cử, UBBC, việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức phụ trách bầu cử trong suốt thời
gian trước, trong và sau ngày bầu cử; giám sát, kiểm tra việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của UBBC thành phố, UBBC phường về người ứng cử trên địa bàn
thành phố Huế.
- Thực tế, trong công tác giám sát về thực hiện pháp luật về bầu cử trên
địa bàn thành phố Huế, vai trò của Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố Huế
64
đã phát huy hiệu quả và toàn diện thông qua họat động hướng dẫn, chỉ đạo
đến Ủy ban MTTQ Việt Nam các phường. Thông qua các hình thức giám sát
trực tiếp như: tổ chức các Hội nghị hiệp thương, Hội nghị cử tri nơi cư trú,
Hội nghị gặp gỡ tiếp xúc giữa ứng cử viên với cử tri để vận động bầu cử và
qua hình thức gián tiếp như: tiếp dân và xử lý đơn thư khiếu nại của công dân,
phản ánh ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; tuyên truyền, vận động
cử tri thực hiện quyền bầu cử, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng,
thông qua hoạt động của các tổ chức phụ trách bầu cử, Ủy ban MTTQ Việt
Nam từ thành phố đến cơ sở đã phát huy vai trò, chức năng nhiệm vụ của
mình tích cực tham gia giám sát vào các hoạt động bầu cử ở địa phương.
Giám sát trình tự bầu cử, thể thức bỏ phiếu trong ngày bầu cử 22/5/2016 tại
các khu vực bỏ phiếu được thực hiện đảm bảo đúng theo quy định của pháp
luật.
Về tham gia vào các tổ chức phụ trách bầu cử, Thường trực HĐND,
UBND và Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội của
thành phố và các phường đã cử người tham gia với tư cách là thành viên Ban
Chỉ đạo bầu cử Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm
kỳ 2016-2021; đồng thời tham gia UBBC đại biểu HĐND vai trò Phó Chủ
tịch UBBC. Tại thành phố và tại 27 phường, đồng chí Chủ tịch Ủy ban
MTTQ Việt Nam thành phố và Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam các
phường đều tham gia UBBC cùng cấp với vị trí là Phó Chủ tịch UBBC qua đó
cũng đã góp phần không nhỏ vào công tác giám sát bầu cử chung của địa
phương.
- Trong quá trình thực nhiệm vụ giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp
luật về bầu cử trên địa bàn, thành phố Huế đã kịp thời phát hiện được những
sai sót ở một số công đoạn trong quá trình bầu cử, như: việc giới thiệu người
ra ứng cử ở một số cơ quan, tổ chức, đơn vị còn bị nhầm lẫn về thời gian,
65
thành phần tham dự và chủ trì hội nghị; phát hiện hồ sơ ứng cử chưa hợp lệ…
qua đó đã kịp thời đề xuất UBBC các cấp sửa đổi, bổ sung đảm bảo theo yêu
cầu luật định. Tuy nhiên, hoạt động giám sát, kiểm tra chung của Thường trực
HĐND và của UBND chưa được quan tâm đúng mức và toàn diện.
- UBBC thành phố Huế đã tiếp nhận 04 đơn, (trong đó: 03 đơn kiến
nghị, 01 khiếu nại). Đơn thư liên quan đến 02 ứng cử viên HĐND phường, 02
ứng cử viên HĐND thành phố.
Theo thời gian luật định, UBBC thành phố và UBBC phường tiến hành
giải quyết và đã có công văn và báo cáo trả lời về việc giải quyết các nội dung
theo đơn yêu cầu đảm bảo khách quan đúng quy định.
Nhìn chung tình hình đơn thư khiếu nại tố cáo liên quan đến công tác
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 – 2021
trên địa bàn thành phố ít, nội dung khiếu nại không quá gay gắt đặc biệt đối
với các ứng cử viên. Việc tiếp nhận và giải quyết đơn thư khiếu nại kịp thời,
đảm bảo theo quy định của pháp luật.
- Thành phố Huế quán triệt các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có
liên quan chủ động nắm tình hình và tổ chức xử lý khi có vi phạm xảy ra
Trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử trên địa bàn thành phố
Huế thời gian qua chưa xảy ra tình trạng vi phạm pháp luật về bầu cử.
2.2.6. Về tổng kết thực hiện pháp luât về bầu cử
Thực hiện theo Luật Bầu cử, thành phố Huế đã tiến hành tổng kết công
tác bầu cử. Chủ trì thực hiện là UBBC 27 phường và UBBC thành phố Huế.
Sau khi tiến hành theo trình tự như: lập các biên bản tổng kết cuộc bầu
cử đại biểu HĐND; Công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng
cử; Giải quyết khiếu nại về kết quả bầu cử thì UBND 27 phường và UBND
thành phố tiến hành xác nhận tư cách của người trúng cử đại biểu HĐND.
Việc xác nhận tư cách của người trúng cử được UBBC 27 phường và UBBC
66
thành phố thực hiện bằng hình thức ban hành Nghị quyết. Theo đó, 28 UBBC
(27 Phường, 1 thành phố) đã ban hành 28 Nghị quyết xác nhận tư cách đại
biểu HĐND nhiệm kỳ 2016-2021 cho 40 đại biểu HĐND thành phố và 694
đại biểu HĐND cấp phường và cấp giấy chứng nhận đại biểu HĐND khóa
mới cho người trúng cử.
Đồng thời, nhằm đánh giá chung công tác tổ chức triển khai thực hiện
hoạt động bầu cử trên địa bàn thành phố Huế, ngày 15/6/2016 UBBC Thành
phố đã tổ chức hội nghị tổng kết công tác Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV
và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016 -2021. Hội nghị báo cáo, đánh giá
quá trình tổ chức triển khai các quy định về bầu cử, kết quả đạt được từ việc
ban hành các văn bản chỉ đạo điều hành, tổ chức nhân sự, kinh phí, tuyên
truyền phổ biến pháp luật, tổ chức hội nghị hiệp thương, tiếp xúc cử tri, vận
động bầu cử, công tác kiểm tra, giám sát, thống kê tổng hợp đến xác nhận tư
cách đại biểu được các cơ quan, tổ chức hữu quan chung tay thực hiện thành
công tốt đẹp. Bên cạnh đó việc tổng kết công tác bầu cử cũng chỉ ra nhiều tồn
tại hạn chế trong quá trình thực hiện như: quán triệt các văn bản cấp trên,
trong quá trình giới thiệu người ứng cử, công tác hiệp thương, công tác kiểm
phiếu và lập biên bản…
2.3. Đánh giá kết quả thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố Huế,
tỉnh Thừa Thiên Huế
2.3.1. Kết quả đạt được
Một là, công tác chỉ đạo, hướng dẫn bầu cử ở địa phương được tiến
hành chủ động, kịp thời và quy củ. Sau khi Hội nghị triển khai công tác bầu
cử ở địa phương, thành phố Huế và các phường đã thành lập Ban chỉ đạo về
tổ chức thực hiện công tác bầu cử; tổ chức Hội nghị quán triệt, Hội nghị tập
huấn công tác bầu cử đến lãnh đạo chủ chốt, những người trực tiếp thực hiện
công tác bầu cử. Ban chỉ đạo bầu cử thành phố và các tổ chức phụ trách bầu
67
cử ở các phường đã phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên phụ trách
theo địa bàn và lĩnh vực để bảo đảm thực hiện toàn diện, đồng bộ công tác
bầu cử trên địa bàn. Hoạt động giám sát, kiểm tra công tác bầu cử trên đại bàn
thành phố được triển khai định kỳ; chủ động giải quyết các vướng mắc phát
sinh
Hai là, thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử trên địa bàn thành phố
đúng kế hoạch và hoạt động hiệu quả. UBND thành phố Huế và UBND các
phường trong phạm vi nhiệm vụ được giao đã thành lập UBBC, Ban bầu cử,
Tổ bầu cử theo đúng tiến độ và thời gian quy định của Luật Bầu cử. Đồng
thời, đã thành lập các tiểu ban của UBBCnhư: Tiểu ban nhân sự, Tiểu ban
tuyên truyền và Tiểu ban an ninh để phục công tác chỉ đạo, tổ chức bầu cử.
Ba là, tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri vận động bầu cử đúng đắn, thực
chất. Công tác tổ chức tiếp xúc cử tri vận động bầu cử cho các ứng cử viên
đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp ứng cử trên địa bàn thành phố được tổ
chức theo đúng quy định của Luật Bầu cử và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Tại thành phố Huế, hoạt động này được giao Ban thường trực Ủy ban MTTQ
thành phố chủ trì và tổ chức 23 buổi tiếp xúc cử tri với ứng cử viên đại biểu
Quốc hội, HĐND Tỉnh và thành phố, Ban thường trực Ủy ban MTTQ 27
phường đã chủ trì và tổ chức 169 buổi tiếp xúc cử tri với ứng cử viên đại biểu
HĐND phường. Tại các điểm tiếp xúc đã có sự phối hợp của các cơ quan, tổ
chức đơn vị chuẩn bị chu đáo, nghiêm túc, tạo điều kiện thuận lợi cho các ứng
cử viên và cử tri tham dự.
Bốn là, lập và niêm yết danh sách người ứng cử, cử tri công khai, thuận
lợi cho tiếp cận thông tin. Thực hiện theo quy định Luật Bầu cử, các văn bản
hướng dẫn của cơ quan Trung ương, Tỉnh và Thành phố UBND 27 phường
thuộc thành phố Huế đã lập và niêm yết danh sách cử tri, người ứng cử, bảo
đảm đầy đủ, chính xác, tạo điều kiện thuận lợi cho cử tri thực hiện quyền bầu
68
cử. Danh sách, tiểu sử người ứng cử theo từng cấp bầu cử, tạo thuận lợi cho
cử tri xem xét, lựa chọn.
Năm là, triển khai bài bản hoạt động thông tin tuyên truyền. Hình thức
đa dạng, phong phú, sinh động như; nôi dung tuyên hợp với từng đối tượng,
từng địa bàn giúp cho cử tri địa phương nắm được thông tin, tạo nên không
khí tin tưởng, phấn khởi; đấu tranh với những luận điệu sai trái, vu khống
xuyên tạc về cuộc bầu cử góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc bầu cử.
2.3.2. Hạn chế, thiếu sót
Một là, một số tổ chức phụ trách bầu cử ở phường chưa phát huy tốt vai
trò, trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trong
việc thực hiện quy trình hiệp thương lựa chọn, giới thiệu những người ứng cử
đại biểu HĐND ở cấp phường ở một số đơn vị còn lúng túng, chưa nghiên
cứu kỹ các văn bản hướng dẫn nên có đơn vị số lượng người ra ứng cử so với
số lượng được bầu chưa đảm bảo được số dư (chủ yếu xảy ra ở bước 1 của
quy trình hiệp thương). Thực tế, đã có không ít người vận dụng các kiến thức,
kinh nghiệm từ các lần bầu cử trước đây để áp dụng cho công việc triển khai
mà không nhận ra các khác biệt về quy trình hiệp thương được quy định trong
các văn bản mới, dễ tạo ra sót trong khi thực hiện. Ủy ban MTTQ Việt Nam
nhiều phường có biểu hiện lúng túng trong quá trình hiệp thương lần thứ nhất
trong việc phân bổ cơ cấu, số lượng, thành phần người ra ứng cử cho các cơ
quan, tổ chức, đơn vị và khu dân cư do thông báo dự kiến của Thường trực
HĐND phường không cụ thể địa chỉ hiệp thương giới thiệu, ngay cả thông báo
điều chỉnh sau hiệp thương lần thứ nhất, dẫn đến có khó khăn, chậm trễ, không
tìm ra người hoặc không đúng thành phần khi thông báo cho các cơ quan, tổ
chức, đơn vị và khu dân cư giới thiệu; bên cạnh đó việc phân biệt đối tượng
giới thiệu ứng cử là cán bộ công chức phường với cán bộ và các thành phần
69
thuộc khu dân cư không có sự phân biệt rõ ràng, dẫn đến phân bổ không cụ
thể, sai sót, phải điều chỉnh nhiều lần...
Hai là, công tác giới thiệu ứng cử viên bầu vào HĐND Thành phố chưa
toàn diện dẫn đến một số Đoàn thể chính trị không có đại biểu tham gia
HĐND Thành phố trong nhiệm kỳ mới. Theo hướng dẫn của Mặt trận trung
ương số 1685/MTTW-BTT ngày 04/02/2016, việc dự kiến phân bổ giới thiệu
người ứng cử phải nhiều hơn ít nhất gấp hai lần trở lên so với số lượng đại
biểu được bầu để đảm bảo số dư là một yêu cầu rất cao, khó khăn khi tìm
người và đảm bảo số lượng hợp lý sau này khi đưa vào danh sách chính thức
ứng cử. Trong công tác quy hoạch cán bộ, việc tham gia ứng cử làm đại biểu
HĐND các cấp được chi phối bởi nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước, các
đoàn thể chính trị -xã hội, nhưng quá trình thực hiện chưa được hướng dẫn và
nghiên cứu áp dụng kịp thời nên có sai sót, vướng mắc về độ tuổi, thời gian
tham gia nhiệm kỳ, phải điều chỉnh, thay đổi nhiều lần cho phù hợp; về trình
độ văn hóa, việc vận dụng khái niệm có trình độ văn hóa cũng không có sự
thống nhất nên ở phường có nhiều lúng túng...
Ba là, công tác tiếp xúc cử tri, vận động bầu cử còn hạn chế. Tại các hội
nghị tiếp xúc cử tri để lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cư tri nơi cư trú và
hội nghị tiếp xúc cử tri vận động bầu cử số lượng cử tri tham dự còn quá thấp,
có nơi chưa đảm bảo số lượng cử tri theo quy định, thành phần cử tri hầu hết
là cử tri đại diện gồm bí thư chi bộ, tổ trưởng dân phố, trưởng ban công tác,
còn người dân khác chưa thực sự quan tâm, hầu như chưa tham gia các buổi
tiếp xúc...
Bốn là, việc phổ biến Luật Bầu cử và các văn bản có liên quan đến công
tác bầu cử ở một số nơi chưa sâu và đầy đủ. Việc tổ chức tuyên truyền và học
tập Luật Bầu cử ở Tổ dân phố có nơi làm chưa kỹ dẫn đến cử tri chưa nhận
thức rõ về quyền và nghĩa vụ của mình đối với việc lựa chọn ứng cử viên để
70
bầu vào Quốc hội và HĐND các cấp; việc hướng dẫn nguyên tắc và thể lệ bầu
cử một số khu vực bỏ phiếu chưa cụ thể, không nhắc nhở kỹ sự khác biệt về
số dư của các cấp bầu cử nên dẫn đến tình trạng phiếu không hợp lệ ở một số
đơn vị còn cao. Công tác tuyên truyền chưa thật sâu rộng đến cử tri nhất là
tiểu sử tóm tắt, danh sách ứng cử viên.
Năm là, một bộ phận nhân dân chưa thực sự quan tâm đến công tác bầu
cử, kể cả một số cử tri là sinh viên chưa thể hiện quyền lựa chọn của mình
qua sử dụng lá phiếu. Qua giám sát bầu cử số lượng phiếu trắng, phiếu không
hợp lệ còn nhiều, tình trạng gạch phiếu một cách ngẫu nhiên vẫn còn xảy ra,
vẫn còn tình trạng đi bầu thay ở một số địa phương...
Sáu là, công tác kiểm phiếu ở một số Tổ bầu cử còn kéo dài, thậm chí có
Tổ bầu cử phải kiểm phiếu lại nhiều lần; việc lập các biên bản, biểu mẫu theo
quy định còn để nhiều sai sót; do đó làm ảnh hưởng đến việc kiểm tra, tổng
hợp kết quả bầu cử chung của toàn Thành phố.
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế thiếu sót
Công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ đối với toàn thể đội ngũ là thành
viên của Tổ bầu cử chưa được thực hiện kỹ lưỡng, chuyên sâu nên chưa nâng
cao được năng lực của các thành viên Tổ bầu cử.
Công tác giới thiệu người ứng cử, tổ chức các Hội nghị hiệp thương, Hội
nghị tiếp xúc cử tri còn mang tính hình thức.
Việc tuyên truyền, quán triệt Luật bầu cử và các văn bản có liên quan
đến công tác bầu cử ở một số nơi chưa sâu và đầy đủ; việc tổ chức tuyên
truyền và học tập Luật bầu cử ở Tổ dân phố có nơi làm chưa kỹ dẫn đến cử tri
chưa nhận thức rõ về quyền và nghĩa vụ của mình đối với việc lựa chọn ứng
cử viên để bầu vào Quốc hội và HĐND các cấp
71
Tiểu kết chương 2
Luận văn đã tập trung phân tích những yếu tố điều kiện tự nhiên, kinh tế,
chính trị văn hóa tác động đến công tác thực hiện pháp luật về bầu cử trên địa
bàn thành phố Huế. Tập trung đi sâu, tổng hợp đánh giá thực trạng tình hình
kết quả đạt đươc của thực hiện pháp luật về bầu cử. Qua tổng hợp, phân tích,
luận văn đã đánh giá và chỉ rõ được kết quả đạt được, những hạn chế bất cập
rút ra bài học kinh nghiệm.
Những kết luận về thực trạng thực hiện pháp luật về bầu cử trên địa bàn
thành phố Huế tại chương 2 và cơ sở lý luận đã nêu ở chương 1 sẽ là những
luận cứ khoa học cho việc đề ra các phương hướng và giải pháp bảo đảm thực
hiện có hiệu quả pháp luật về bầu cử trên địa bàn thành phố Huế tỉnh Thừa
Thiên Huế trong thời gian đến.
72
Chương 3
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
CÔNG TÁC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ TẠI THÀNH
PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
3.1. Quan điểm hoàn thiện công tác thực hiện pháp luật về bầu cử tại
thành phố Huế
Một là, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bầu cử để lựa
chọn và bầu ra những người ưu tú, đại diện cho các tầng lớp nhân dân tham
gia trong cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương; nâng cao chất lượng đại
biểu.
Trong thực hiện pháp luật về bầu cử, để hoạt động này đạt hiệu quả,
cần nâng cao nhận thức về vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong công
tác tổ chức triển khai thực hiện bầu cử, bảo đảm phát huy dân chủ và sự lãnh
đạo tập trung, thống nhất của Đảng trong công tác cán bộ; phát huy vai trò
tiền phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên.
Thực tế qua nhiều kỳ bầu cử, trên phạm vi cả nước có thể thấy rằng sự
lãnh đạo của Đảng đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, các cấp ủy
Đảng còn bộc lộ một số hạn chế mang tính chất chung. Ở thành phố Huế nói
riêng cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Đó là, thực hiện tuyêt đối hóa hoặc
vận dụng một cách máy móc các quan điểm chỉ đạo của các cấp ủy cấp trên,
chưa có biện pháp triển khai hợp lý. Điều này là biểu hiện của tình trạng dân
chủ hình thức trong quá trình thực hiện pháp luật về bầu cử, từ khâu giới thiệu
ứng cử viên, tiếp xúc cử tri đến khâu bỏ phiếu diễn ra hết sức phổ biến. Quá
trình hiệp thương bầu cử còn nặng về hợp thức hóa sự chỉ đạo, định hướng từ
cấp trên, nên ở chừng mực nào đó chưa thể lựa chọn được những đại biểu
xứng đáng nhất, chưa phát huy được tính tích cực của người dân.
73
Chính vì vậy, việc chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ là vấn đề then
chốt, là công việc thường xuyên và liên tục của công tác xây dựng Đảng. Để
có được “nguồn” đội ngũ Đảng viên vững vàng về chính trị, giỏi về chuyên
môn, có phẩm chất đạo đức trong sang, có uy tín đối với quần chúng nhân
dân… để các tổ chức cơ sở đảng giới thiệu để nhân dân lựa chọn, ủy thác. Đó
thực sự là phương sách chăm lo xâu dựng, phát triển và tiến cử người xứng
đáng cho đất nước.
Hai là, phát huy dân chủ, hoàn thiện cơ chế bầu cử; bảo đảm sự phù hợp
và tính thống nhất của hệ thống pháp luật để công dân thực hiện đầy đủ quyền
bầu cử, ứng cử.
Để phát huy tính dân chủ trong bầu cử thì toàn bộ tình hình, diễn biến quá
trình tổ chức thực hiện bầu cử từ giai đoạn công bố ngày bầu cử đến khâu hiệp
thương, lập danh sách người ứng cử, tiểu sử người ứng cử; về hội nghị tiếp xúc
cử tri, trả lời phỏng vấn của những người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại
biểu Hội đồng nhân dân…cần được phổ biến công khai để nhân dân biết thì chỉ
có công tác tuyên truyền, phổ biến mới phản ánh được toàn diện cuộc bầu cử đến
được với toàn thể nhân dân. Do đó, trong quá trình tiến hành cuộc bầu cử, công
tác tuyên truyền có vai trò đặc biệt quan trọng, tuyên truyền phổ biến kịp thời sẽ
tạo khí thế phấn khởi, tăng cường niềm tin, sự ủng hộ của nhân dân đối với
đường lối đổi mới của Đảng của Nhà nước.
Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật góp phần không nhỏ trong việc
đổi mới. nâng cao nhận thức, ý thức của người dân về bầu cử. Người dân nhận
thức được việc bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân là phương thức cơ bản để mọi công dân thực hiện được quyền làm chủ đất
nước, tham gia quản lý nhà nước.Thông qua bầu cử nhân dân lựa chọn được
được những người xúng đáng nhất, thay mặt mình quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước và những vấn đề quan trọng ở địa phương.
74
Trong thời gian qua, công tác tuyên truyền phổ biến về bầu cử đã phát huy
được hiệu quả, góp phần không nhỏ vào thành công của các cuộc bầu cử. Tuy
nhiên, nhìn lại kết quả tuyên tuyền phổ biến về bầu cử trong thời gian qua vẫn
còn một số tồn tại như: việc triển khai công tác tuyên truyền về bầu cử trên các
phương tiện thông tin đại chúng vẫn còn một số hạn chế. Nội dung tuyên truyền
về bầu cử ở giai đoạn đầu chưa nổi bật, bị chìm lẫn giữa nhiều sự kiện văn hóa
khác của địa phương. Một số nội dung, về tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội và
đại biểu HĐND; quyền và nghĩa vụ của người ứng cử; quyền và nghĩa vụ của cử
tri; các quy định về trình tự bầu cử và thể thức bầu cử chưa được phổ biến
thường xuyên, liên tục nên chưa tác động nhiều vào nhận thức của người dân,
chưa đổi mới được ý thức của một bộ phận dân cư về bầu cử.
Bên cạnh đó, công việc chuẩn bị bầu cử như hội nghị lấy ý kiến nhận xét
và tín nhiệm của cử tri nơi cư trú về những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân
dân; về cơ cấu, thành phần đại biểu; công tác vận động bầu cử của người ứng cử,
các hoạt động kiểm tra tình hình bầu cử…chưa được phản ánh toàn diện nên
chưa thực sự tạo được niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của đảng của cơ
quan nhà nước.
Ba là, đánh giá, tổng kết thực tiễn qua các cuộc bầu cử và việc thi hành
các văn bản pháp luật về bầu cử; sửa đổi, bổ sung, khắc phục những hạn chế,
bất cập.
Để triển khai cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021, Đảng ủy, chính quyền,
các cơ quan, tổ chức đã kịp thời ban hành nhiều văn bản để tổ chức triển khai
thực hiện bầu cử.
Mặc dù, các văn bản pháp luật về bầu cử đã có nhiều đóng góp quan
trọng vào kết quả cuộc bầu cử, nhưng qua thực tiễn thực hiện pháp luật về bầu
cử vẫn còn những hạn chế, bất cập. Việc đánh giá, tổng kết thực tiễn qua các
75
cuộc bầu cử và việc thi hành các văn bản pháp luật về bầu cử để đút rút ra bài
học kinh nghiệm sửa đổi, bổ sung, khắc phục những hạn chế, bất cập.
Chính vì vậy, sau tổng kết thực hiện bầu cử, các đơn vị thực hiện pháp
luật về bầu cử đều có kiến nghị đề xuất tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp với Hiến pháp và thực tiễn thi hành.
3.2. Giải pháp hoàn thiện thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố
Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong công tác thực
hiện pháp luật về bầu cử
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trong hệ thống chính trị
nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng, là yếu tố
quan trọng nhất, hạt nhân lãnh đạo của cả hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo
của Đảng với Nhà nước và xã hội đã được quy định tại Hiến pháp, được
khẳng định qua thực tiễn đấu tranh cách mạng và quá trình xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc.
Trong thực hiện pháp luật về bầu cử, để hoạt động này đạt hiệu quả, cần
nâng cao nhận thức về vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong công tác tổ
chức triển khai thực hiện bầu cử, bảo đảm phát huy dân chủ và sự lãnh đạo
tập trung, thống nhất của Đảng trong công tác cán bộ; phát huy vai trò tiền
phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên.
Thực tế qua nhiều kỳ bầu cử, trên phạm vi cả nước có thể thấy rằng sự
lãnh đạo của Đảng đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, các cấp ủy
Đảng còn bộc lộ một số hạn chế mang tính chất chung. Ở thành phố Huế nói
riêng cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Đó là, thực hiện tuyêt đối hóa hoặc
76
vận dụng một cách máy móc các quan điểm chỉ đạo của các cấp ủy cấp trên,
chưa có biện pháp triển khai hợp lý. Điều này là biểu hiện của tình trạng dân
chủ hình thức trong quá trình thực hiện pháp luật về bầu cử, từ khâu giới thiệu
ứng cử viên, tiếp xúc cử tri đến khâu bỏ phiếu diễn ra hết sức phổ biến. Quá
trình hiệp thương bầu cử còn nặng về hợp thức hóa sự chỉ đạo, định hướng từ
cấp trên, nên ở chừng mực nào đó chưa thể lựa chọn được những đại biểu
xứng đáng nhất, chưa phát huy được tính tích cực của người dân.
Một vấn đề thực tế hiện nay chúng ta đang mắc phải cản trở lớn nhất
trong bầu cử để thực hiện tối đa ý chí của Nhân dân, tạo niềm tin lớn hơn của
Nhân dân vào các cơ quan dân cử, đó là vấn đề tự ứng cử và vấn đề giới thiệu
ứng cử viên cho mỗi đơn vị bầu cử. Vì thế, trong nhiều cuộc bầu cử, nhiều
đơn vị còn tồn tại biểu hiện tinh thần phong trào, hình thức.
Trong quá trình lãnh đạo củng cố, xây dựng chính quyền ở địa phương
thực sự là cơ quan đại diện của dân, do dân, vì dân, đổi mới nhận thức tầm
quan trọng về lãnh, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng đối với quá trình thực hiện
pháp luật về bầu cử là một yêu cầu cấp thiết và cần tập trung vào một số nội
dung sau:
Nâng cao nhận thức về vai trò lãnh, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính
quyền trong sự phối hợp của Măt trận tổ quốc và các đoàn thể đối với công
tác thực hiện pháp luật về bầu cử; bảo đảm cho cấp ủy Đảng luôn nhận biết
được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, từ đó đề ra những chủ trương, giải
pháp phù hợp với cuộc sống, được nhân dân ủng hộ, tin cậy vào sự lãnh đạo
của Đảng.
Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ là vấn đề then chốt, là công việc
thường xuyên và liên tục của công tác xây dựng Đảng. Để có được “nguồn”
đội ngũ Đảng viên vững vàng về chính trị, giỏi về chuyên môn, có phẩm chất
đạo đức trong sang, có uy tín đối với quần chúng nhân dân… để các tổ chức
77
cơ sở đảng giới thiệu để nhân dân lựa chọ, ủy thác. Đó thực sự là phương
sách chăm lo xây dựng, phát triển và tiến cử người xứng đáng cho đất nước.
3.2.2. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bầu cử,
nâng cao nhận thức và ý thức của người dân về bầu cử
Trong thực hiện pháp luật về bầu cử, chủ thể đông đảo nhất, quyết định
sự thành bại của cuộc bầu cử chính là cử tri. Tuy nhiên, trên thực tế, không
phải cử tri nào cũng có nhận thức hiểu biết giống nhau, cho nên việc truyên
truyền phổ biến cần tăng cường, đổi mới phương thức cho phù hợp với thành
phần cử tri và phù hợp với từng địa phương.
Đối với đội ngũ cán bộ công chức, viên chức, người lao động trong các
cơ quan, tổ chức có nhiều điều kiện hơn trong việc tiếp cận thông tin pháp
luật nói chung và pháp luật về bầu cử nói riêng. Đặc biệt đối với đội ngũ cán
bộ công chức là thành viên của các Tổ chức phụ trách bầu cử càng có điều
kiện tiếp cận pháp luật về bầu cử nhiều hơn các đối tượng khác. Nên thông
qua các cuộc tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ bầu cử, các buổi họp triển khai
công tác bầu cử…có nội dung và phương pháp tuyên truyền phổ biến riêng.
Đối với cử tri là quần chúng nhân dân người lao động phổ thông, công
nhân, nội trợ, buôn bán, người già, sinh viên, quân nhân…họ là thành phần
chiếm đa số trong xã hội. Việc tuyên tuyền các quy định về quyền bầu cử và
ứng cử của công dân, nghĩa vụ, trách nhiệm của cử tri trong công tác bầu cử;
các hoạt động trong quá trình tiếp xúc cử tri; các quy định về trình tự, thể thức
bầu cử; tiêu chuẩn người ứng cử đại biểu Quốc hội, tiêu chuẩn đại biểu
HĐND; quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc xây dựng bộ máy nhà
nước nói chung và Quốc hội, HĐND nói riêng…có nội dung và phương pháp
tuyên truyền phổ biến riêng.
Nhận thức về ý nghĩa của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu
HĐND; quyền ứng cử, quyền và nghĩa vụ bầu cử của nhân dân là một vấn đề
78
then chốt trong việc người dân có ý thức bầu cử chính xác và lựa chọn ra
được những cá nhân ưu tú, xuất sắc đại diện cho bản thân mình khi tham gia
điều hành và xây dựng nhà nước. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức, ý thức của
nhân dân phải đặc biệt quan tâm chú trọng.
Phải tuyên truyền, phổ biến, giáo dục để Nhân dân hiểu các quy định về
bầu cử, giúp cho các tầng lớp Nhân dân hiểu rõ bản chất dân chủ của chế độ
ta; hiểu rõ mục đích, ý nghĩa, các quy định của pháp luật về bầu cử, qua đó
tích cực tự giác thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân của mình;
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua các buổi tiếp
xúc cử tri, họp dân phố, UBND Thành phố và các Phường phải truyền tải mọi
thông tin bầu cử. Từ văn bản Luật đến các văn bản hướng dẫn, quy trình bầu
cử đến được người dân. Khi nhân dân hiểu luật, nắm vững quy trình bầu cử
thì mỗi lá phiếu của họ có ý nghĩa đích thực góp phần quyết định lựa chọn
những người ưu tú đại diện cho họ trong điều hành xây dựng nhà nước.
Công tác tuyện truyền, phổ biến pháp luật về bầu cử trong thời gian tới ở
thành phố Huế cấn chú trọng:
Thứ nhất, các cấp ủy đảng tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả công
tác thông tin, tuyên truyền về bầu cử; tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc
công tác tuyên truyền bầu cử để tập trung toàn thể các cơ quan ban ban ngành
đoàn thể trong việc đổi mơi nhận thức, nâng cao ý thức người dân về bầu cử.
Thứ hai, công tác thông tin, tuyên truyền thời gian tới cần được đẩy
mạnh, quyết liệt, kịp thời, rộng khắp hơn nữa và tập trung vào nội dung tuyên
truyền phổ biến; các hình thức tuyên truyền về bầu cử cần sáng tạo và linh
hoạt hơn nữa;
Thứ ba, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, lợi
dụng bầu cử để kích động, gây rối, chia rẽ của các thế lực thù địch;
79
Thứ tư, tăng cường vai trò của Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục
pháp luật thành phố Huế trong công tác chủ trì triển khai tuyên truyền, phổ
biến về bầu cử đến các cơ quan, đơn vị; Phòng Văn hóa thông tin phải chủ trì,
đi đầu trong tuyên truyền, phổ biến thông tin về bầu cử.
3.2.3. Tăng cường vận động, hướng dẫn
* Vận động bầu cử:
Việc vận động bầu cử của người ứng cử được tiến hành bằng các hình
thức gặp gỡ, tiếp xúc cử tri tại Hội nghị tiếp xúc cử tri ở địa phương nơi mình
ứng cử và bằng hình thức thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để
người ứng cử báo cáo với cử tri về dự kiến chương trình hành động của mình
nhằm thực hiện trách nhiệm đại biểu nếu được bầu làm đại biểu. Bên cạnh
đó, trao đổi những vấn đề mà cử tri quan tâm. Những hoạt động này đều
nhằm mục đích tạo điều kiện giúp cho người ứng cử thể hiện được chương
trình hành động của mình nếu được bầu; tạo điều kiện để cử tri tiếp xúc với
người ứng cử để hiểu rõ hơn về người ứng cử, từ đó sẽ có những cân nhắc, so
sánh và lựa chọn bầu những người đủ tiêu chuẩn và ưu tú nhất đại diện cho
nhân dân.
Chính vì vậy, việc vận động bầu cử phải được tiến hành dân chủ, công
khai, bình đẳng, đúng pháp luật bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Trong quá
trình vận động, tạo được không khí cởi mở, thẳng thắn trao đổi những vấn đề
cử tri đưa ra cũng như những dự kiến chương trình hành động của người ứng
cử. Như vậy, vận động bầu cử có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không thể thiếu
trong quá trình bầu cử. Vận động bầu cử là cho hoạt động bầu cử được khách
quan, dân chủ hơn, công bằng hơn. Vận động bầu cử đảm bảo tính công bằng
cho các ứng cử và cho cử tri.
Về mặt cách thức, quy trình vận động bầu cử đã được quy định cụ thể,
còn về thực tế triển khai thực hiện trên thực tế, qua thực tế vẫn còn một số tồn
80
tại là một số cuộc tiếp xúc cử tri vẫn mang nặng tính hình thức, số lượng cử
tri tham dự còn ít, thời gian ngắn nên việc đọc tiểu sử và các chương trình
hành động của người ứng cử đã chiếm nhiều thời gian nên thời gian trao đổi,
đối thoại ngắn chưa thật sâu sắc, thỏa đáng. Do vậy, để hoạt động vận động
bầu cử thể hiện đúng tinh thần dân chủ, khách quan, công bằng, nên khắc
phục bằng những cách sau:
Thứ nhất, tạo nhiều kênh sâu rộng, đổi mới phương thức để đông đảo cử
tri có thể tiếp xúc trực tiếp và cả gián tiếp với ứng cử viên.
Thứ hai, ứng cử viên phải xây dựng chương trình hành động thuyết
phục, sát thực tế, nội dung ngắn gọn, súc tích, mạch lạc, nắm vững tình hình
địa phương nơi ứng cử cũng như những vấn đề cử tri đang quan tâm, bức xúc.
Lý lịch trích ngang, khả năng hoạt động, năng lực, phong cách, sự tâm huyết,
cầu thị và cam kết xác đáng đáp ứng tâm tư, nguyện vọng cử tri chính là
những yếu tố để cử tri chọn ra được người xứng đáng đại diện cho mình.
* Hướng dẫn thực hiện bầu cử:
Để thực hiện pháp luật về bầu cử được dân chủ, khách quan và chính
xác, các cơ quan, tổ chức thực hiện bầu cử đã trực tiếp hoặc gián tiếp tiếp cận
các văn bản hướng dẫn thi hành bầu cử để triển khai bầu cử tại địa phương.
Tuy nhiên, với tình trạng cứ đến mỗi kỳ bầu cử các cơ quan nhà nước cấp
trên, Đảng, Mặt trận đều cùng nhau ban hành các chỉ thị, nghị quyết, thông
báo, hướng dẫn, kế hoạch, công văn…nhằm chỉ đạo một cách “sát sao” về
công tác bầu cử. Điều này tạo nên tình trạng địa phương phải tiếp thu, tuân
thủ một lúc quá nhiều văn điều chỉnh, hướng dẫn của các cơ quan từ Trung
ương đến các cơ quan ở địa phương, dẫn tới người thực hiện phải nghiên cứu
“dàn trải”, nhiều văn bản hướng dẫn chưa sát với dẫn đến lung túng trong áp
dụng thực hiện. Vì vậy, công tác hướng dẫn cần tập trung vào các nội dung
sau:
81
Thứ nhất, thành phố Huế nên hệ thống hóa các văn bản của Trung ương,
của Tỉnh để triển khai về các Tổ chức phụ trách bầu cử ở các phường được cơ
bản, đầy đủ, rõ ràng nhất về thực hiện bầu cử, đảm bảo được tính thống nhất,
tính toàn vẹn của quy định về bầu cử. Đồng thời, đảm bảo tính công khai,
minh bạch của các văn bản đó.
Thứ hai, với chức năng là cơ quan chủ trì tham mưu, giúp UBND thành
phố trong việc tổ chức và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu
cử đại biểu HĐND các cấp trên địa bàn theo quy định của pháp luật và hướng
dẫn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Nội vụ Thành phố Huế cần tập
trung, hệ thống hóa các văn bản luật, văn bản hướng dẫn từ Trung ương đến
Tỉnh để tạo hệ thống văn bản áp dụng một cách đầy đủ, rõ ràng, khoa học
nhất trong công tác bầu cử. Bên cạnh đó, phải kịp thời chuyển tải các văn bản
đó đến với cơ sở.
Thứ ba, chú trọng công tác hướng dẫn nghiệp vụ về bầu cử, từ việc tổ
chức Hội nghị triển khai về công tác bầu cử của địa phương cần phải tiến
hành thực sự có hiệu quả. Trong công tác tập huấn cần đầu tư công sức và
kinh phí để tập huấn nghiệp vụ cho các tổ chức phụ trách bầu cử ở các
phường, nhất là thành viên của các Tổ bầu cử. Đây là tổ chức trực tiếp thực
hiện bầu cử ở cấp cơ sở, trực tiếp tiếp xúc với cử tri và thi hành các quy định
về bầu cử. Thực tiễn qua các cuộc bầu cử, những sai sót của các thành viên
Tổ bầu cử là nguyên nhân dẫn đến các vi phạm trong bầu cử, các khiếu nại, tố
cáo, phản ánh về bầu cử, hệ quả là một số khu vực bầu cử phải làm đi làm lại
nhiều lần về việc lập danh sách ứng cử viên, tiểu sử tóm tắt ở một số đơn vị
phường còn nhiều sai sót cơ bản, thiếu chính xác. Do vậy, đây là bài học quý
báu trong thực tiễn chuẩn bị tổ chức bầu cử cần phải nghiêm túc rút kinh
nghiệm và triển khai có hiệu quả trên thực tế.
82
3.2.4. Tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực Tổ bầu cử
Với nhiều nhiệm vụ và quyền hạn được trao, Tổ bầu cử gánh trên vai
trách nhiệm rất nặng nề với những nhiệm vụ mang tính quyết định sự thành
công của cuộc bầu cử. Do đó, năng lực trình độ của Tổ bầu cử cần hết sức
quan tâm.
Thực tế, trên địa bàn thành phố Huế có 192 Tổ bầu cử, với 3865 thành
viên. Việc tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ đối với các Tổ bầu cử được giao cho
UBND các phường tự tổ chức nên ở chừng mực nào đó các kiến thức nghiệp
vụ bầu cử chưa được triển khai và tiếp thu đầy đủ dẫn tới một số tồn tại như:
việc phân biệt đối tượng giới thiệu ứng cử là cán bộ công chức phường với
cán bộ và các thành phần thuộc khu dân cư không có sự phân biệt rõ ràng, dẫn
đến phân bổ không cụ thể, sai sót, phải điều chỉnh nhiều lần... Tổ bầu cử thực
hiện công tác kiểm phiếu kéo dài, thậm chí có Tổ bầu cử phải kiểm phiếu lại
nhiều lần; việc lập các biên bản, biểu mẫu theo quy định còn để nhiều sai sót;
do đó làm ảnh hưởng đến việc kiểm tra, tổng hợp kết quả bầu cử chung của
toàn Thành phố.
Chính vì vậy, giải pháp phải tập huấn chuyên sâu cho toàn thể đội ngũ
thành viên của Tổ bầu cử nhằm nâng cao nghiệp vụ cho mỗi thành viên Tổ
bầu cử nắm chắc được những quy định về bầu cử sẽ thực hiện nhanh, chính
xác hơn.
Phòng Nội vụ thành phố là đơn vị chủ trì xây dựng kế hoạch tổ chức bồi
dưỡng tập huấn nghiệp vụ về bầu cử đối với các Tổ bầu bầu cử, trong đó xác
định nội dung, thời gian, báo cáo viên, thành phần cụ thể rõ ràng.
3.2.5. Tăng cường giám sát, kiểm tra đối với hoạt động bầu cử
Để đánh giá một cuộc bầu cử có thực sự dân chủ hay không, người ta
thường xem xét các mục tiêu và phương thức tiến hành bầu cử đạt được ở
mức độ nào, có đảm bảo được nguyên tắc dân chủ hay không (giữa các tổ
83
chức, các ứng cử viên và các cử tri). Điều này phụ thuộc một phần quan trọng
vào công tác tổ chức giám sát bầu cử.
Trong thời gian qua, công tác giám sát bầu cử trên phạm vi cả nước nói
chung và trên địa bàn thành phố Huế nói riêng còn chưa được quan tâm một
cách đúng mức. Chưa xây dựng chương trình, kế hoạch chính thức để thực
hiện kiểm tra, giám sát bầu cử trên địa bàn thành phố Huế. Ngoài những kết
quả đã đạt được trong thời gian qua, tại địa bàn thành phố Huế vẫn còn một số
tồn tại, tình trạng đi bầu thay gần như không còn diễn ra trong kỳ bầu cử gần
đây (nhiệm kỳ 2016-2021), nhưng tình trạng “bầu đại”, “bầu hộ” vẫn diễn ra
phổ biến. Nhiều trường hợp đi bầu cử rất sớm nhưng đến địa điểm bầu cử thì
lấy phiếu và gạch đại cho xong việc, coi như “hoàn thành nghĩa vụ”, họ
không cần biết người ứng cử là ai, làm gì, ở đâu, quá trình công tác như thế
nào. Hệ quả của hiện tượng này là kết quả bầu cử chưa đúng với thực tế, chưa
bầu được những đại biểu nổi bật nhất, xứng đáng đại diện cho nhân dân. Vật
đâu là nguyên nhân của hiện tượng trên? Bước đầu có thể đưa ra mấy lý do
sau đây:
Một là, do ý thức công dân của cử tri yếu kém. Cử tri thuộc nhóm đối
tượng này thường là những người có trình độ học vấn thấp, thiếu hiểu biết về
quyền và nghĩa vụ của mình hoặc thờ ơ với thực tiễn chính trị diễn ra xung
quanh, cho rằng ai trúng cử, ai không trúng cử cũng không ảnh hưởng đến
cuộc sống của họ.
Hai là, do chạy theo thành tích, muốn Tổ bầu cử hoàn thành sớm nhiệm
vụ nên tổ bầu cử “làm ngơ” với hiện tượng cử tri “bầu đại”, “bầu hộ”. Tình
trạng này là một trong những hiện tượng phổ biến ở nhiều địa điểm bầu cử ở
nước ta.
Để khắc phục hiện tượng này, Thường trực HĐND, UBND, Ủy ban
MTTQ Việt Nam Thành phố, Phường nên tăng cường công tác kiểm tra, giám
84
sát ngay từ khâu đầu tiên thành lập các UBBC đến khâu kiểm phiếu, tổng kết
kết quả bầu cử. Trong đó nên đặc biệt trú trọng giám sát những nội dung sau:
Thứ nhất, giám sát, kiểm tra việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến nâng
cao nhận thức của công dân về quyền và nghĩa vụ của cử tri của địa phương
làm như thế nào, có phù hợp và đạt hiệu quả chưa để kịp thời có hướng điều
chỉnh;
Thứ hai, giám sát việc niêm yết và phổ biến danh sách, tiểu sử của người
ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND;
Thứ ba, trong ngày bầu cử, giám sát việc Tổ bầu cử có hướng dẫn cử tri
tiếp cận, tìm hiểu thông tin người ứng cử trước khi bầu cử hay không? Đôn
đốc Tổ bầu cử có những biện pháp kịp thời đảm bảo cử tri trong ngày đi bầu
đã có những thông tin cơ bản về người ứng cử để bầu được những cá nhân ưu
tú, nổi bật nhất.
Để đảm bảo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu HĐND
được dân chủ, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm, bầu được những đại biểu đủ
tiêu chuẩn, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, công tác giám sát,
kiểm tra của Thường trực HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp
đối với hoạt động bầu cử tại địa phương thể hiện tính dân chủ.
Thực tế tại thành phố Huế trong thời gian qua đã tổ chức triển khai phối
hợp với cơ quan liên quan về giám sát kiểm tra theo chương trình kế hoạch
của Tỉnh và thực hiện hoạt động giám sát, kiểm tra đối với các tổ chức phụ
trách bầu cử trên đại bàn. Nhìn chung, nội dung giám sát kiểm tra trên địa bàn
thành phố Huế được Mặt trận thành phố tổ chức thực hiện chủ yếu, Thường
trực HĐND và UBND còn thực hiện lồng ghép chưa có chương trình kế
hoạch chính thức triển khai hoạt động này. Điều này ít nhiều làm ảnh hưởng
đến tính dân chủ, minh bạch giảm hiệu quả trong hoạt động bầu cử. Để tăng
cường công tác giám sát, kiểm tra của Thường trực HĐND, UBND, Ủy ban
85
MTTQ Việt Nam các cấp đối với hoạt động bầu cử tại địa phương, bước đầu
đưa ra một số giải pháp sau:
UBBC thành phố Huế xây dựng kế hoạch Kiểm tra, giám sát công tác
bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND trên địa bàn thành phố để triển
khai giám, kiểm tra đầy đủ các nội dung theo quy định như: giám sát, kiểm tra
việc thành lập UBBC, ban bầu cử, Tổ bầu cử; văn bản dự kiến cơ cấu, thành
phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử, hồ sơ ứng cử viên; hội nghị hiệp
thương; việc ấn định và công bố số đơn vị bầu cử và số lượng đại biểu ứng cử
tại các đơn vị bầu cử; việc lập danh sách cử tri và viết và cấp thẻ cử tri; công
tác tổ chức tập huấn cho thành viên Ban bầu cử, Tổ bầu cử và lực lượng tham
gia phục vụ bầu cử, chuẩn bị các biểu mẫu tổng hợp; công tác thông tin, tuyên
truyền phục vụ cuộc bầu cử: phanô, khẩu hiệu, băng rôn; việc phân bổ danh
sách những người ứng cử đại biểu HĐND phường theo từng đơn vị bầu cử;
hội nghị tiếp xúc cử tri; công tác trang trí tại khu vực bỏ phiếu; công tác bảo
đảm an ninh - trật tự, an toàn - xã hội trước, trong và sau ngày bầu cử; những
sự việc nổi cộm, nhạy cảm liên quan đến cuộc bầu cử; các điều kiện về cơ sở
vật chất phục vụ cho công tác bầu cử, hòm phiếu, hòm phiếu phụ…
Việc giám sát, kiểm tra phải được tiến hành thường xuyên trong suốt
thời gian trước, trong và sau ngày bầu cử.
Thành phần tham gia đoàn giám sát kiểm tra phải đầy đủ các cơ quan
Đảng, chính quyền, Công an, Quân đội, mặt trận và các đoàn thể.
3.2.6. Ứng dụng công nghệ thông tin trong thống kê, tổng hợp kết quả bầu
cử nhằm đảm bảo tính khoa học, nhanh và chính xác
Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương
tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại (chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông)
nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông
tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người.
86
Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển của thời đại, hầu hết các hoạt
động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…của đất nước ta không thể không ứng
dụng công nghệ thông tin trong tổ chức triển khai thực hiện. Vai trò của công
nghệ thông tin mang lại nhiều thuận lợi hiệu quả mà công nghệ thông tin
mang lại cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân đã ứng dụng nó.
Đối với hoạt động bầu cử nước ta, mặc dù Nhà nước ta từ Trung ương
đến địa phương đã ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động bầu cử. Tuy
nhiên, hầu hết đã và đang ở giai đoạn truyền tải và khai thác thông tin văn bản
quy phạm pháp luật, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn điều hành về bầu cử; hoạt
động tuyên truyền, phổ biến…Còn đối với hoạt động kiểm phiếu, thống kê,
tổng hợp kết quả bầu cử chưa được triển khai áp dụng chung trên toàn vẹn
lãnh thổ.
Trên thực tế, một số thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh
đã triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thống kê, tổng
hợp tình hình bầu cử của cử tri, thống kê, tổng hợp kết quả bỏ phiếu. Đây chỉ
là hoạt động mang tính địa phương.
Với thực tế công tác bầu cử tại thành phố Huế, nhất là công tác kiểm
phiếu, tổng hợp kết quả bầu cử tại UBND thành phố Huế chủ yếu đang thực
hiện bằng phương pháp thủ công nên tốn nhiều thời gian và nhiều nhân lực
cho công tác thống kê tổng hợp kết quả bầu cử. Một yêu cầu đặt ra trong thời
đại công nghệ thông tin 4.0 như hiện nay thì kết quả phải nhanh, gọn, chính
xác, ít tốn công thời gian và nhân lực; đồng thời, góp phần công khai, minh
bạch thông tin bầu cử đảm bảo tính dân chủ, công bằng trong kết quả bầu cử
là một vấn đề cấp thiết. Do đó, để góp phần công khai, minh bạch thông tin từ
đó tằng cường tính công bằng và hiệu quả bước đầu cần phải tin học hóa
trong hoạt động thống kê, tổng hợp kết quả bầu cử từ UBBC thành phố đến
các Tổ bầu cử.
87
Để góp phần công khai, minh bạch thông tin về kết quả bầu cử từ đó
đảm bảo tính công bằng giữa các ứng cử viên, bước đầu cần phải tin học hóa
trong hoạt động thống kê, tổng hợp kết quả bầu cử từ UBBC thành phố đến
UBBC và Tổ bầu cử tại các phường. Đó là công cụ hỗ trợ công tác bầu cử
mang tính khả thi, bước đầu đề xuất giải pháp tin học hóa cụ thể như sau.
- UBBC thành phố xây dựng các bảng mẫu thống kê dành cho cấp
phường (bằng Excel)và cung cấp cho các UBBC tại các phường. Cho phép
các Tổ bầu cử thu thập và tổng hợp số liệu nhanh tại Tổ bầu cử của mình và
gửi về UBBC thành phố.
- UBBC xây dựng biểu mẫu tổng hợp dành cho UBBC thành phố
(bằng Excel), cho phép ở UBND thành phố Huế tự động tổng hợp từ kết quả
từ các file số liệu của các Tổ bầu cử.
- UBND thành phố thuê chuyên gia công nghệ thông tin xây dựng một
phần mềm thống kê tổng họp kết quả bầu cử dành cho UBBC, Tổ bầu cử các
phường, cho phép các Tổ bầu cử thu thập và tổng hợp cập nhật số liệu nhanh
tại Tổ bầu cử của mình thông qua phần mềm.
- Trên thành phố, phần mềm sẽ tự động tổng hợp từ kết quả từ các file
số liệu của các Tổ bầu cử; kết quả sẽ hiển thị khi qua khâu phê duyệt của cấp
thẩm quyền là chủ tịch UBBC.
88
Tiểu kết chương 3
Trong thực hiện pháp luật về bầu cử, để hoạt động này đạt hiệu quả, việc
đúc rút kinh nghiệm tổ chức thực hiện qua mỗi cuộc bầu cử có ý nghĩa quan
trọng, giúp cho việc nhìn nhận lại thực tế, trên cơ sở phân tích, đánh giá thực
trạng để rút ra những kết luận khoa học.
Luận văn đã đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiểu quả thực hiện
pháp luật trên địa bàn thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế: phát huy vai trò
lãnh, chỉ đạo của cấp ủy Đảng đối với các cấp, các ngành trong hoạt động bầu
cử; tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bầu cử,
nâng cao nhận thức và ý thức của người dân về bầu cử; tập huấn, bồi dưỡng
nâng cao năng lực Tổ bầu cử; tăng cường công tác giám sát, kiểm tra của
Thường trực HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp đối với hoạt
động bầu cử tại địa phương; ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác
thống kê, tổng hợp kết quả bầu cử nhằm đảm bảo tính khoa học, nhanh và
chính xác.
Các giải pháp đặt ra phải được tiến hành một cách đồng bộ để tăng hiệu
quả thực hiện trên thực tế.
89
KẾT LUẬN
Thực hiện pháp luật về bầu cử là một quá trình hoạt động có mục đích
làm cho những quy định của pháp luật về bầu cử đi vào cuộc sống, trở
thành những hành vi thực tế, hợp pháp trong mối quan hệ xã hội liên quan đến
quyền bầu cử, quyền ứng cử, các quy trình tiến hành bầu cử và xác định kết
quả bầu cử khi tham gia quan hệ pháp luật về bầu cử. Thực hiện pháp luật về
bầu cử có vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng và phát triển cơ quan
quyền lực nhà nước. Đồng thời là phương thức thể hiện quyền lực của nhân
dân.
Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về vai trò của bầu cử, việc tổ chức
thực hiện pháp luật về bầu cử trên địa bàn thành phố Huế trong thời gian qua
đã đươc các cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể đặc biệt quan
tâm trú trọng, xem đây là một nhiệm vụ chính trị trọng tâm. Dưới sự lãnh đạo
của Thường vụ Thành ủy, các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo của Thường trực
HĐND, UBND thành phố, sự phối hợp chặt chẽ của Ủy ban MTTQ Việt Nam
cùng với sự hoạt động tích cực của UBBC các cấp, các đơn vị cơ quan, ban
ngành, đoàn thể cho đến nay đảm bảo đúng theo quy định của Luật bầu cử
bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND.
Thành phố và các Phường đã quán triệt thực hiện nghiêm túc theo tinh
thần chỉ đạo của Trung ương, Tỉnh và Thường vụ Thành ủy về tổ chức cuộc
bầu cử, bảo đảm công tác bầu cử được thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân ngay từ khâu thực hiện quy trình của công tác bầu cử, thực
hiện mở rộng dân chủ trong việc giới thiệu người ra ứng cử và lấy ý kiến nhận
xét về người ứng cử tại địa bàn nơi cư trú, thực hiện tốt chủ trương bầu cử có
số dư tối thiểu ở mỗi Đơn vị bầu cử theo luật định, kịp thời xử lý những
vướng mắc xảy ra trong quá trình tổ chức bầu cử.
90
Thường trực HĐND, UBND, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt
Nam các cấp đã phối hợp chặt chẽ có hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ bầu
cử, bảo đảm sự lãnh đạo của Thường vụ Thành ủy và các cấp ủy Đảng, các
ban ngành, đoàn thể, các cơ quan Trung ương, Tỉnh, các đơn vị lực lượng vũ
trang, các Trường Đại học và Cao đẳng Trung học Chuyên nghiệp đóng trên
địa bàn Thành phố đã tích cực phối hợp cùng địa phương triển khai, thực hiện
tốt nhiệm vụ bầu cử. Nhân dân Thành phố đã tích cực tham gia cuộc bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp, qua đó thể hiện sự đoàn kết,
nhất trí cao từ nhận thức đến hành động của Chính quyền và nhân dân Thành
phố. UBBC Thành phố, Phường và các Tổ chức phụ trách bầu cử, cán bộ
tham gia trưng tập bầu cử, Tổ chuyên viên giúp việc đã hoàn thành tốt nhiệm
vụ, quyền hạn của mình trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bầu cử, bảo đảm
tốt nội dung, quy trình và thời gian theo luật định. Đặc biệt là ý thức, trách
nhiệm của từng thành viên UBBC, các Ban bầu cử, cán bộ tham gia trưng tập,
các Tổ bầu cử đã phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ tại các Khu vực bỏ phiếu,
tuyên truyền và vận động cử tri đi bầu đủ và kết thúc sớm, làm tốt công tác
kiểm phiếu, lập biên bản kiểm phiếu và kết quả bầu cử.
Công tác tuyên truyền cho cuộc bầu cử đã được tiến hành thường
xuyên, liên tục góp phần tích cực làm cho cuộc bầu cử thực sự là ngày hội lớn
của nhân dân Thành phố; Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền và tổ chức học
tập cho ngày bầu cử nên cử tri Thành phố đã tích cực, hăng hái tham gia cuộc
bầu cử, bảo đảm tỷ lệ cử tri đi bầu cao, chất lượng bầu cử tốt, góp phần vào
thành công của cuộc bầu cử; công tác bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội trước, trong và sau ngày bầu cử được đảm bảo an toàn tuyệt đối.
Công tác tập huấn nghiệp vụ công tác bầu cử được triển khai chu đáo,
cụ thể nên việc tổng hợp kết quả bầu cử từ Tổ bầu cử, Ban bầu cử, UBBC
Phường đến Thành phố được thực hiện nhanh chóng, chính xác, báo cáo và
91
chuyển giao hồ sơ, biểu mẫu, bảng thống kê kết quả bầu cử đúng thời gian
quy định. Kết quả bầu cử của các Phường các tỷ lệ đều cơ bản đảm bảo,
không có đơn vị bầu cử nào thiếu đại biểu nên không có trường hợp bầu thêm
trực tiếp lựa chọn, bầu ra những người tiêu biểu về đức, tài, xứng đáng là đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân trong Quốc hội
và HĐND. Chính vì vậy, bầu cử ở nước ta luôn là một sự kiện chính trị trọng
đại. Mỗi cuộc bầu cử là một đợt sinh hoạt chính trị toàn dân, ngày hội lớn của
dân tộc.
Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, việc thực hiện pháp luật
về bầu cử trên địa bàn thành phố Huế vẫn còn một số tồn tại hạn chế.
Việc đúc rút kinh nghiệm qua thực tế triển khai thực hiện, định hướng
những giải pháp đảm hoàn thiện thực hiện pháp luật về bầu cử là một việc
làm rất quan trọng trong việc xây dựng và phát triển cơ quan quyền lực nhà
nước. Đồng thời là phương thức thể hiện quyền lực của Nhân dân./.
92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chỉ đạo bầu cử (2016), Thông báo số 51-TB/BCĐ ngày 16/02/2016 của
Ban Chỉ đạo công tác bầu cử về việc phân công nhiệm vụ trong Ban Chỉ
đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND các
cấp nhiệm kỳ 2016-2021
2. Ban Tổ chức Trung ương (2016), Hướng dẫn số 38-HD/BTCTW ngày
31/01/2016 của Ban Tổ chức Trung ương về công tác nhân sự ĐBQH khóa
XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021.
3. Ban Tuyên giáo Trung ương (2106), Hướng dẫn số 169-HD/BTGTW ngày
15/01/2016 của Ban Tuyên giáo Trung ương tuyên truyền cuộc bầu cử
ĐBQH khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021.
4. Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương (2016), Hướng dẫn số 82/HD-
BTĐKT ngày 20/01/2016 của Ban Thi đua- Khen thưởng Trung ương thực
hiện công tác thi đua, khen thưởng trong tổ chức bầu cử ĐBQH khóa XIV
và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021.
5. Báo cáo nghiên cứu kinh nghiệm một số nước về hình thức văn bản QPPL
quy định về bầu cử và mô hình cơ quan phụ trách bầu cử quốc gia,
http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View
_Detail.aspx?ItemID=969&TabIndex=2
6. Báo cáo số 207/BC-CP ngày 16/7/2016 của Chính phủ Báo cáo tổng kết
công tác bầu cử nhiệm kỳ 2016-2021, https://thuvienphapluat.vn/van-
ban/Bo-may-hanh-chinh/Bao-cao-207-BC-CP-cong-tac-bau-cu-dai-bieu-
Quoc-hoi-khoa-XIV-dai-bieu-Hoi-dong-nhan-dan-2016-2021-2016-
334425.aspx
7. Báo cáo tóm tắt tổng kết công tác bầu cử nhiệm kỳ 2016-2021 của UBTV
Quốc hội.
8. Báo cáo tổng hợp ý kiến các cơ quan, tổ chức góp ý dự thảo Luật Bầu cử
củaUBTVQuốchội,http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUT
HAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=969&TabIndex=2
9. Báo cáo tổng quan về bầu cử của một số nước trên thế giới của Ban soạn
thảo dự án luật Bầu cử.
10. Bộ Chính trị (2016), Chỉ thị số 51-CT/TW ngày 04/01/2016 của Bộ Chính
trị về lãnh đạo cuộc bầu cử ĐBQH khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND
các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021.
11. Bộ Nội vụ (2016), Thông tư số 02/2016/TT-BNV ngày 01/02/2016 của Bộ
Nội vụ hướng dẫn nghiệp vụ công tác tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội
khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021.
12. Bộ Tài chính (2016), Thông tư số 06/2016/TT-BTC ngày 14/01/2016 của
Bộ Tài chính hướng dẫn việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán
kinh phí bầu cử ĐBQH khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ
2016- 2021.
13. Bộ Thông tin và Truyền thông (2016), Kế hoạch số 151/KH-BTTTT ngày
15/01/2016 của Bộ Thông tin và Truyền thông thông tin, tuyên truyền
cuộc bầu cử ĐBQH khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-
2021.
14. Đại học luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam (tái bản
lần thứ 20 có sửa đổi bổ sung)
15. Đào Đoan Hùng (2018), Bầu cử dân chủ - cơ chế bảo đảm thực hiện
quyền lực chính trị của nhân dân lao động, Tạp chí dân chủ và pháp luật số
1-2018.
16. Hội đồng bầu cử quốc gia (2016), Kế hoạch số 40/KH-HĐBCQG ngày
29/01/2016 của Hội đồng bầu cử quốc gia triển khai công tác bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 –
2021.
17. Hội đồng bầu cử quốc gia (2016), Nghị quyết số 41/NQ-HĐBCQG ngày
29/01/2016 của Hội đồng bầu cử quốc gia quy định các mẫu văn bản trong
công tác bầu cử; hướng dẫn về hồ sơ ứng cử và thời hạn nộp hồ sơ ứng cử
ĐBQH khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021.
18. Hội đồng bầu cử quốc gia (2016), Phân công số 04/PC-HĐBCQG ngày
15/12/2015 của Hội đồng bầu cử quốc gia về thành viên Hội đồng bầu cử
quốc gia.
19. Nguyễn Thị Tâm (2015), Một số vấn đề về thể chế bầu cử ở nước ta hiện
nay, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-dan/item/1167-mot-so-
van-de-ve-the-che-bau-cu-o-nuoc-ta-hien-nay.html.
20. Nguyễn Quốc Sửu, Quá trình hoàn thiện pháp luật về bầu cử ở Việt Nam,
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Binh-luan/2016/38827/Qua-
trinh-hoan-thien-phap-luat-ve-bau-cu-o-Viet-Nam.aspx.
21. Nguyễn Thanh Bình (2016), Vai trò của MTTQVN trong bầu cử đại biểu
Quốc hội và HĐND, Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2016
22. Quốc hội (1997), Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội (sửa đổi bổ sung vào các
năm 2001, 2007, 2010)
23. Quốc hội (2003), Luật Bầu cử đại biểu HĐND năm 2003
24. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2013
25. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014
26. Quốc hội (2015), Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân năm 2015.
27. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
28. Quốc hội (2015), Nghị quyết số 105/2015/QH13 của Quốc hội nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về Ngày bầu cử ĐBQH khóa XIV và đại
biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021; thành lập Hội đồng bầu cử quốc
gia.
29. Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế (2016), Chỉ thị số 02-CT/TU ngày 25/01/2016
của Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội
khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021
30. Thành ủy (2016), Quyết định số 71-QĐ/TU ngày 01/02/2016 của Thường
vụ Thành ủy về việc thành lập Ban chỉ đạo bầu cử gồm 16 thành viên;
31. Thành ủy (2016), Thông báo số 50-TB/TU ngày 16/02/2016 Của Thường
vụ Thành ủy Huế về công tác chỉ đạo bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV
và HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021;
32. Trần Diệu Hương (2013), Hoàn thiện pháp luật về bầu cử những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học
33. Trần Thị Thu Hà (2010), Thực hiện pháp luật bầu cử HĐND cấp xã qua
thực tiễn tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, Luận văn Thạc sĩ Luật học.
34. Thành ủy (2016), Thông báo số 59-TB/TU ngày 01/3/2016 của Thường vụ
Thành ủy Huế về công tác nhân sự ứng cử đại biểu HĐND Phường, nhiệm
kỳ 2016-2021.
35. Thủ Tướng Chính phủ (2016), Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 13/01/2016 của
Thủ tướng Chính phủ về tổ chức cuộc bầu cử ĐBQH khóa XIV và đại biểu
HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021.
36. UBBC thành phố Huế (2016), Báo cáo số 73/BC-UBBC ngày 6/6/2016 về
tổng kết công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các
cấp nhiệm kỳ 2016-2021 trên địa bàn thành phố Huế.
37. UBBC thành phố Huế (2016), Kế hoạch số 01/KH-UBBC ngày 04/02/2016
của UBBC thành phố Huế về việc triển khai công tác bầu cử đại biểu Quốc
hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021.
38. UBBC thành phố Huế (2016), Quyết định số 05/QĐ-UBND ngày
22/02/2016 của UBBC Thành phố Huế về việc trưng tập cán bộ, công
chức tham gia vào công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại
biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021.
39. UBBC thành phố Huế (2016), Quyết định số 06/QĐ-UBND ngày
22/02/2016 của UBBC Thành phố Huế về việc thành lập tổ giúp việc công
tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm
kỳ 2016-2021.
40. UBBC thành phố Sông Công (2016), Báo cáo số 68/BC-UBBC ngày
08/6/2016 về tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu
HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 trên địa bàn thành phố Sông Công, tỉnh
Thái Nguyên.
41. UBBC thành phố Đồng Hới (2016), Báo cáo số 55/BC-UBBC ngày
07/6/2016 về kết quả cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu
HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 trên địa bàn thành phố Huế.
42. UBBC (2016), Kế hoạch số 01/KH-UBBC ngày 02/02/2016 của UBBC tỉnh
Thừa Thiên Huế về việc triển khai công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa
XIV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021;
43. UBBC thành phố Huế (2016), Quyết định số 04/QĐ-UBBC ngày
19/02/2016 UBBC Thành phố Huế về việc phân công công việc cho các
thành viên UBBC thành phố.
44. UBTVQH (2014), Bản thuyết minh về dự án Luật Bầu cử của UBTV
Quốchội,http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LU
AT/View_Detail.aspx?ItemID=969&TabIndex=2
45. UBTVQH (2014), Báo cáo đánh giá tác động dự án Luật Bầu cử đại biểu
QuốchộivàHĐND,http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUT
HAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=969&TabIndex=2
46. UBTVQH (2014), Báo cáo Tổng kết thi hành pháp luật về bầu cử,
http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View
_Detail.aspx?ItemID=969&TabIndex=2
47. UBTVQH (2014), Báo cáo thẩm tra dự án Luật Bầu cử,
http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View
_Detail.aspx?ItemID=969&TabIndex=2
48. UBTVQH (2014), Báo cáo việc lồng ghép bình đẳng giới trong Dự án
LuậtBầucử,http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_
LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=969&TabIndex=2
49. UBTVQH (2014), Tờ trình Dự án Luật Bầu cử,
http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View
_Detail.aspx?ItemID=969&TabIndex=2
50. UBTVQH (2016), Nghị quyết số 1129/2016/UBTVQH13 ngày
14/01/2016 của UBTVQH công bố Ngày bầu cử ĐBQH khóa XIV và đại
biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021.
51. UBTVQH (2016), Nghị quyết số 1132/NQ-UBTVQH13 ngày 16/01/2016
của UBTVQH hướng dẫn việc xác định dự kiến cơ cấu, thành phần và
phân bổ số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND các cấp
nhiệm kỳ 2016- 2021.
52. UBTVQH (2016), Nghị quyết số 1134/2016/UBTVQH13 ngày
18/01/2016 của UBTVQH quy định chi tiết, hướng dẫn về việc tổ chức
Hội nghị cử tri; việc giới thiệu người ứng cử đại biểu HĐND cấp xã ở
thôn, tổ dân phố; việc hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc
hội, đại biểu HĐND trong bầu cử bổ sung.
53. UBTVQH (2016), Nghị quyết số 1135/2016/UBTVQH13 ngày
22/01/2016 của UBTVQH dự kiến số lượng, cơ cấu, thành phần ĐBQH
khóa XIV.
54. Ủy ban kiểm tra Trung ương (2016), Hướng dẫn số 20-
HD/UBKTTW ngày 12/01/2016 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương thực
hiện việc giải quyết tố cáo, khiếu nại về bầu cử ĐBQH khóa XIV và đại
biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021 của các cấp ủy, tổ chức Đảng,
Ủy ban Kiểm tra các cấp.
55. Ủy ban nhân dân thành phố Huế (2016), Quyết định số 617/QĐ-UBND
ngày 04/02/2016 của UBND Thành phố Huế về việc thành lập UBBC đại
biểu HĐND thành phố Huế;
56. Ủy ban Trung ương MTTQVN (2016), Thông tri số 07/TTr-MTTW-BTT
ngày 28/01/2016 của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQVN về
việc MTTQVN tham gia cuộc bầu cử ĐBQH khóa XIV và đại biểu HĐND
các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021.
57. Vũ Văn Nhiêm (2009), Chế độ bầu cử ở nước ta - những vấn đề lý luận và
thực tiễn, Luận án tiến sĩ Luật học
58. Vũ Văn Phúc (2016), Các nguyên tắc cơ bản của bầu cử ở nước ta hiện
nay,http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Binh-luan/2016/38806/Cac-
nguyen-tac-co-ban-cua-bau-cu-o-nuoc-ta-hien.aspx
59. Xuân Hà (2011), Nâng cao tỷ lệ nữ trong Quốc hội và HĐND các cấp,
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Xay-dung-nha-nuoc-phap-
quyen/2011/12017/Nang-cao-ty-le-nu-trong-Quoc-hoi-va-Hoi-dong-
nhan.asp