......../.......

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ................/............... \

Ftc d.4t94 006E HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ HÒA

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ

TẠI THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018

......../.......

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ HÒA

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ

TẠI THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 08 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HUỲNH VĂN THỚI

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ................/...............

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực

hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, khảo sát tình hình thực tiễn và sự hướng

dẫn tận tình của PGS.TS. Huỳnh Văn Thới.

Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được

công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Thừa Thiên Huế, ngày 15 tháng 9 năm 2018

Học viên

Nguyễn Thị Hòa

LƠI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến lãnh đạo

Học viện Hành chính Quốc gia, cùng tập thể các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến

sỹ và cán bộ quản lý của Học viện đã tận tình truyền đạt những kiến thức

khoa học quý báu và tạo các điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành chương

trình cao học chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.

Xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Huỳnh Văn Thới đã tận tình hướng

dẫn bản thân tôi nghiên cứu hoàn thành tốt luận văn này.

Trong quá trình thực hiện, luận văn sẽ không tránh khỏi những hạn chế,

thiếu sót nhất định, rất mong nhận được sự chia sẻ và góp ý của quý thầy, cô

giáo và người đọc.

Xin trân trọng cảm ơn!

Học viên

Nguyễn Thị Hòa

MỤC LỤC

Trang bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục viết tắt MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA THỰC HIỆN PHÁP

LUẬT VỀ BẦU CỬ ................................................................................................... 7

1.1. Khái quát thực hiện pháp luật về bầu cử .......................................................... 7

1.1.1.Khái niệm thực hiện pháp luật về bầu cử ....................................................... 7

1.1.2. Nguyên tắc thực hiện pháp luật về bầu cử .................................................... 9

1.1.3. Vai trò thực hiện pháp luật về bầu cử .......................................................... 12

1.2. Nội dung thực hiện pháp luật về bầu cử ......................................................... 13

1.2.1. Chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện pháp luật về bầu cử ............................... 13

1.2.2. Lập kế hoạch thực hiện luật về bầu cử ........................................................ 15

1.2.3. Tổ chức bộ máy, nhân sự thực hiện pháp luật về bầu cử ......................... 16

1.2.4. Bảo đảm điều kiện thực hiện pháp luật về bầu cử..................................... 18

1.2.5. Giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bầu cử; giải quyết khiếu

nại tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bầu cử ................................................... 21

1.2.6. Tổng kết thực hiện pháp luật về bầu cử ...................................................... 24

1.3. Kinh nghiệm đúc kết thực hiện pháp luật về bầu cử .................................... 27

1.3.1. Kinh nghiệm thực hiện pháp luật về bầu cử ở một số nước .................... 27

1.3.2. Kinh nghiệm thực hiện pháp luật về bầu cử ở một số địa phương ......... 30

1.3.3. Kinh nghiệm đúc kết cho công tác thực hiện pháp luật ở thành phố Huế,

tỉnh Thừa Thiên Huế .................................................................................................. 38

Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................... 40

Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ

TẠI THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ .................................. 41

2.1. Điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế xã hội tác động đến thực hiện pháp

luật về bầu cử của thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.................................... 41

2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội ............................................. 41

2.1.2. Điều kiện chính trị- hành chính ................................................................... 42

2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố Huế, tỉnh Thừa

Thiên Huế ..................................................................................................................... 42

2.2.1. Về chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện pháp luật về bầu cử .............................. 42

2.2.2. Về lâp kế hoạch thực hiện pháp luật về bầu cử ......................................... 44

2.2.3. Về tổ chưc bộ máy, nhân sự thực hiện pháp luật về bầu cử .................... 60

2.2.4. Về bảo đảm điều kiện thực hiện pháp luật về bầu cử ............................... 62

2.2.5. Về hoạt động giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bầu cử; giải

quyết khiếu nại tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bầu cử. ........................... 64

2.2.6. Về tổng kết thực hiện pháp luât về bầu cử ................................................. 66

2.3. Đánh giá kết quả thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố Huế, tỉnh

Thừa Thiên Huế .......................................................................................................... 67

2.3.1. Kết quả đạt được .............................................................................................. 67

2.3.2. Hạn chế, thiếu sót ............................................................................................ 69

2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế thiếu sót .............................................................. 71

Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................... 72

Chương 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ TẠI THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH

THỪA THIÊN HUẾ ................................................................................................ 73

3.1. Quan điểm hoàn thiện công tác thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành

phố Huế ........................................................................................................................ 73

3.2. Giải pháp hoàn thiện thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố Huế,

tỉnh Thừa Thiên Huế .................................................................................................. 76

3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong công tác thực hiện

pháp luật về bầu cử ..................................................................................................... 76

3.2.2. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bầu cử, nâng

cao nhận thức và ý thức của người dân về bầu cử ................................................ 78

3.2.3. Tăng cường vận động, hướng dẫn ................................................................ 80

3.2.4. Tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực Tổ bầu cử .................................. 83

3.2.5. Tăng cường giám sát, kiểm tra đối với hoạt động bầu cử....................... 83

3.2.6. Ứng dụng công nghệ thông tin trong thống kê, tổng hợp kết quả bầu cử

nhằm đảm bảo tính khoa học, nhanh và chính xác ............................................... 86

Tiểu kết chương 3 ..................................................................................................... 89

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

HĐBC Hội đồng bầu cử

HĐND Hội đồng nhân dân

Luật Bầu cử

MTTQVN Luật Bầu cử đại biều Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 Mặt trận tổ quốc Việt Nam

UBBC Ủy ban bầu cử

UBND Ủy ban nhân dân

UBTVQH Uỷ ban thường vụ Quốc hội

MỞ ĐẦU

1. Lý do nghiên cứu đề tài

Bầu cử là hình thức dân chủ trực tiếp, là phương thức thể hiện ý chí,

nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng Nhà nước

nói chung và cơ quan đại diện, cơ quan quyền lực nhà nước từ trung ương đến

địa phương ở nước Việt Nam ta nói riêng.

Thực hiện pháp luật về bầu cử không những liên quan đến quyền và nghĩa

vụ của mỗi công dân mà còn liên quan đến chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã

hội, quốc phòng, an ninh, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan

nhà nước, thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà

nước quản lý.

Tổng kết, đánh giá nhiều cuộc bầu cử của đất nước đã diễn ra thành

công tốt đẹp, bảo đảm dân chủ, bình đẳng, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm,

phát huy tinh thần dân chủ, công khai, minh bạch trong từng bước triển khai

thực hiện. Các cuộc bầu cử diễn ra trong tình hình an ninh ổn định, trật tự, an

toàn xã hội được bảo đảm. Kết quả bầu cử cơ bản bảo đảm mục tiêu kế hoạch

đề ra, tỷ lệ đại biểu là phụ nữ, là người dân tộc thiểu số, đại biểu trẻ tuổi, có

trình độ trên đại học cao nhiệm kỳ sau cao hơn so với nhiệm kỳ trước, phản

ánh được tính đại diện rộng rãi cho các tầng lớp nhân dân. Tuy vậy, thực tiễn

công tác tổ chức triển khai thực hiện bầu cử ở một số nơi trên thực tế vẫn còn

nhiều hạn chế.

Thành phố Huế là thành phố duy nhất của tỉnh Thừa Thiên Huế có mật

độ dân số đông, thành phần đa dạng, là địa phương tập trung toàn bộ các cơ

quan, ban ngành cấp tỉnh; nơi tập trung công tác của phần lớn các đại biểu

Quốc hội, đại biểu HĐND nên công tác thực hiện pháp luật về bầu cử đóng

1

vai trò hết sức quan trọng trong việc tổ chức triển khai hoạt động này trên địa

bàn thành phố.

Vì vậy, nghiên cứu công tác tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử nói

chung và thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố Huế nói riêng, nhằm làm

rõ hơn từ cơ sở lý luận đến thực tiễn việc thực hiện pháp luật về bầu cử và

đưa ra những ý kiến góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bầu

cử trên địa bàn thành phố Huế trong thời gian đến là vấn đề hết sức cần thiết.

Đây chính là lý do học viên lựa chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về bầu cử

tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế” làm luận văn Thạc sĩ Luật Hiến

pháp và luật Hành chính.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Trong thời gian qua, một số công trình nghiên cứu khoa học về bầu cử

đã được công bố như:

- Luận án tiến sĩ Luật học “Chế độ bầu cử ở nước ta - những vấn đề lý

luận và thực tiễn” của Vũ Văn Nhiêm Đại học quốc gia Hà Nội, 2009. Tác

giả đã nêu và phân tích cơ sở lý luận về chế độ bầu cử trong xã hội dân chủ

nói chung và ở Việt Nam nói riêng.Thực tiễn tổ chúc thực hiện chế độ bầu cử

ở Việt Nam. Tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm đổi mới chế độ bầu cử để

phát huy dân chủ.

- Luận văn thạc sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về bầu cử những vấn

đề lý luận và thực tiễn” của Trần Diệu Hương Đại học quốc gia Hà Nội, 2013.

Tác giả đã phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chế độ bầu cử,

nghiên cứu tổng kết thực tiễn, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về

chế độ bầu cử của Việt Nam về những bất cập, tồn tại và nguyên nhân. Từ đó

đưa ra những giải pháp khắc phục tồn tại và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp

luật về bầu cử ở Việt Nam trong thời gian tới.

2

- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Thực hiện pháp luật bầu cử HĐND cấp

xã qua thực tiễn tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên” của Trần Thị Thu Hà

Viện Nhà nước và pháp luật, 2010. Tác giả nêu, phân tích và đánh giá thực

trạng và đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc

còn tồn tại trong quá trình trình thực thi pháp luật bầu cử đại biểu HĐND cấp

xã nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bầu cử đại biểu HĐND cấp

xã.

Bên cạnh nhưng công trình nghiên cứu khoa học nêu trên, nhiều vấn đề

liên quan đến họat động bầu cử cũng được đề cập trong một số bài tham luận,

bài viết đăng tải trên một số báo, tạp chí, các trang thông tin điện tử của Quốc

Hội, HĐND một số tỉnh và một số báo cáo, tài liệu nghiên cứu về hoạt động

bầu cử cụ thể như:

- Bài viết “Một số vấn đề về thể chế bầu cử ở nước ta hiện nay”

PGS.TS. Nguyễn Thị Tâm, bài được đăng tải trên trang Web

lyluanchinhtri.vn;

- Bài viết “Quá trình hoàn thiện pháp luật về bầu cử ở Việt Nam” PGS,

TS. Nguyễn Quốc Sửu, bài được đăng tải trên trang Web

tapchicongsan.org.vn;

- Bài viết “Quốc Hội nước ta qua các kỳ bầu cử” theo quochoi.vn, bài

được đăng tải trên trang Web btgcp.gov.vn;

- Bài viết “Các nguyên tắc cơ bản của bầu cử ở nước ta hiện nay”

PGS.TS Vũ Văn Phúc, bài được đăng tải trên trang Web

tapchicongsan.gov.vn;

- Bài viết “Vai trò của MTTQVN trong bầu cử đại biểu Quốc hội và

HĐND” ThS Nguyễn Thanh Bình, bài được đăng trên Tạp chí Lý luận chính

trị số 4-2016;

3

- Bài viết “Nâng cao tỷ lệ nữ trong Quốc hội và HĐND các cấp” của

Xuân Hà, bài được đăng tải trên trang Web tapchicongsan.gov.vn;

- Bài viết “Bầu cử dân chủ - cơ chế bảo đảm thực hiện quyền lực chính

trị của nhân dân lao động” của Đào Đoan Hùng, bài được đăng Tạp chí dân

chủ và pháp luật số 1-2018.

Hiện tại, học viên chưa tìm thấy công trình nào nghiên cứu một cách

đầy đủ cả về mặt lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật về bầu cử tại

thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chính vì vậy, trên cơ sở kế thừa các kết

quả của các công trình nghiên cứu liên quan, luận văn nghiên cứu những vấn

đề lý luận và thực tiễn của việc thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố

Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế trong nhiệm kỳ 2016-2021 để từ đó đưa ra các giải

pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác thực hiện pháp luật về bầu cử nói

chung và trên địa bàn thành phố Huế nói riêng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở lý luận và pháp lý của thực hiện pháp luật về bầu cử, luận

văn phân tích thực trạng, từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện công tác

thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, các nhiệm vụ nghiên cứu là:

- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận, pháp lý về bầu cử;

- Phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện pháp về bầu cử trên địa bàn

thành phố Huế trong thời gian qua;

- Đề ra giải pháp để góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về

bầu cử trong những nhiệm kỳ tiếp theo.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

4

Luận văn nghiên cứu công tác thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành

phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Công tác tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử trên địa bàn thành phố

Huế nhiệm kỳ 2016-2021.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của

chủ nghĩa Mác - Lê nin, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay về thực

hiện pháp luật về bầu cử, bám sát tình hình thực tế và điều kiện tự nhiên, xã

hội ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu của luận văn tác giả sử dụng một số

phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:

Phương pháp nghiên cứu văn bản: Được sử dụng để thu thập, phân tích

và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu,

bao gồm các văn kiện của Đảng, văn bản Luật, văn bản của các cơ quan nhà

nước ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo,

các thống kê của các cơ quan, đơn vị liên quan trực tiếp hoăc gián tiếp đến

việc thực hiện pháp luật về bầu cử.

Phương pháp thống kê, thu thập thông tin: tiến hành nghiên cứu báo

cáo của các cơ quan, đơn vị về tình hình tổ chức triển khai thực hiện, tổng kết

công tác bầu cử; trên cơ sở đó tổng hợp, so sánh thực trạng thực hiện giữa các

cơ quan, đơn vị trên các mặt nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu.

Phương pháp phân tích, đánh giá: Đề tài tiến hành phân tích, đánh

giá thực trạng thực hiện pháp luật về bầu cử để từ đó chỉ ra được những mặt

5

mạnh, mặt yếu trong thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố Huế, từ đó

làm cơ sở cho những đề xuất, giải pháp ở Chương 3.

6. Ý nghĩa của luận văn

Luận văn góp phần đề tài hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về

bầu cử và thực hiện pháp luật về bầu cử, đánh giá thực trạng thực hiện pháp

luật về bầu cử của thành phố Huế, từ đó đưa ra các giải pháp góp phần nâng

cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bầu cử ở thành phố Huế.

Luận văn có tính thời sự khi đóng góp ý kiến, giúp cho việc tổ chức

thực hiện pháp luật về bầu cử trong nhiệm kỳ tới đạt hiệu quả hơn.

Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong thực tế thực hiện

pháp luật về bầu cử ở thành phố Huế trong nhiệm kỳ tới hoặc sẽ là nguồn tư

liệu tham khảo hữu ích cho những người quan tâm, nghiên cứu pháp luật về

bầu cử.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được kết

cấu gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của thực hiện pháp luật về bầu cử

Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố Huế,

tỉnh Thừa Thiên Huế.

Chương 3: Quan điểm, giải pháp hoàn thiện công tác thực hiện pháp

luật về bầu cử tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế

6

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ

1.1. Khái quát thực hiện pháp luật về bầu cử

1.1.1.Khái niệm thực hiện pháp luật về bầu cử

Pháp luật bầu cử bao gồm tổng thể các quy định pháp luật điều chỉnh các

mối quan hệ xã hội liên quan đến quyền bầu cử, quyền ứng cử, các quy trình

tiến hành bầu cử và xác định kết quả bầu cử.

Pháp luật bầu cử giống như các chế định pháp luật khác, không chỉ chứa

đựng các quy phạm pháp luật về quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể

tham gia các mối quan hệ bầu cử mà còn chứa đựng các quy phạm có tính thủ

tục, quy định trình tự bầu cử và xác định kết quả bầu cử [14, tr. 340].

Thực tế cho thấy, pháp luật về bầu cử đã được hình thành kể từ bản Hiến

pháp đầu tiên (Hiến pháp năm 1946) của nước Việt Nam ra đời, đến các bản

Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 và năm 2013 đã tiếp tục ghi nhận

và phát triển quyền bầu cử, ứng cử với tư cách là quyền chính trị cơ bản của

công dân.

Có thể thấy rằng các quy phạm pháp luật về bầu cử được chia thành 3

nhóm sau:

Nhóm thứ nhất quy định chung về bầu cử, bao gồm các quy phạm pháp

luật xác định nguyên tắc bầu cử; tuổi ứng cử và tuổi bầu cử; tiêu chuẩn của

người ứng cử; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong công tác bầu cử, ngày

bầu cử và kinh phí tổ chức bầu cử.

Nhóm thứ hai quy định nội dung của cuộc bầu cử. Nhóm này bao gồm

các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc tổ chức và trình tự tiến hành bầu cử;

cụ thể hoá các nguyên tắc bầu cử; quy định về quy trình bầu cử từ việc xác

định ngày bầu cử, phương thức tổ chức đơn vị bầu cử, khu vực bỏ phiếu, tổ

7

chức phụ trách bầu cử, lập danh sách cử tri, danh sách ứng cử viên, hiệp

thương, tổ chức tuyên truyền, vận động bầu cử, trình tự bỏ phiếu, kiểm phiếu

và xác định kết quả bầu cử, bầu cử bổ sung và tổng kết bầu cử.

Nhóm thứ ba là tổng thể các quy phạm pháp luật quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành pháp luật bầu cử.

Từ phân tích trên, có thể định nghĩa: Pháp luật về bầu cử là tổng thể các

quy phạm pháp luật thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, quyền và

nghĩa vụ của công dân, do cơ quan nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các

mối quan hệ xã hội liên quan đến quyền bầu cử, quyền ứng cử, các quy trình

tiến hành bầu cử và xác định kết quả bầu cử.

Thực hiện pháp luật là bước tiếp theo sau khi văn bản pháp luật được

ban hành để đưa các quy phạm pháp luật trở thành các quy tắc xử sự của các

chủ thể pháp luật làm cho các yêu cầu, quy định của văn bản pháp luật cử trở

thành hiện thực đi vào cuộc sống.

Để tổ chức thực hiện các quy định pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ

xã hội liên quan đến quyền bầu cử, quyền ứng cử, các quy trình tiến hành bầu

cử và xác định kết quả bầu cử, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp tục

ban hành các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các quy định đó

nhằm mục đích làm cho những quy định này đi vào cuộc sống, trở thành

những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể tham gia hoạt động bầu cử.

Thực hiện pháp luật về bầu cử là một quá trình hoạt động có mục đích

làm cho những quy định của pháp luật về bầu cử đi vào cuộc sống, trở

thành những hành vi thực tế, hợp pháp trong mối quan hệ xã hội liên quan

đến quyền bầu cử, quyền ứng cử, các quy trình tiến hành bầu cử và xác định

kết quả bầu cử khi tham gia quan hệ pháp luật về bầu cử.

Thực hiện pháp luật về bầu cử có những đặc điểm sau đây:

8

Thứ nhất, chủ thể tham gia bầu cử là công dân có đủ điều kiện theo quy

định thực hiện quyền bầu cử và quyền ứng cử của mình.

Thứ hai, chủ thể thực hiện pháp luật về bầu được hình thành từ các cơ

quan nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị - xã hội và các tổ chức hữu quan

khác.

Thứ ba, quá trình thực hiện pháp luật về bầu cử được bảo đảm bằng cả

hệ thống chính trị .

Thứ tư, thời gian thực hiện được ấn định cụ thể.

Thứ năm, thực hiện pháp luật về bầu cử để củng cố và hoàn thiện cơ

quan quyền lực nhà nước.

1.1.2. Nguyên tắc thực hiện pháp luật về bầu cử

- Nguyên tắc thực hiện công khai, dân chủ:

Điều 13, Điều 26 Luật Bầu cử quy định, trong quá trình thực hiện pháp

luật về bầu cử, Hội đồng bầu cử quốc gia và các tổ chức phụ trách bầu cử ở

địa phương hoạt động theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số. Các cuộc

họp được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên của Hội đồng

bầu cử quốc gia các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương tham dự; các

quyết định được thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán

thành.

- Nguyên tắc lập danh sách cử tri:

Điều 29, Luật Bầu cử quy định, mọi công dân có quyền bầu cử đều được

ghi tên vào danh sách cử tri và được phát thẻ cử tri, trừ các trường hợp đang

bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp

luật, người bị kết án tử hình đang trong thời gian chờ thi hành án, người đang

chấp hành hình phạt tù mà không được hưởng án treo, người mất năng lực

hành vi dân sự thì không được ghi tên vào danh sách cử tri. Mỗi công dân chỉ

được ghi tên vào một danh sách cử tri ở nơi mình thường trú hoặc tạm trú. Cử

9

tri là người tạm trú và có thời gian đăng ký tạm trú tại địa phương chưa đủ 12

tháng, cử tri là quân nhân ở các đơn vị vũ trang nhân dân được ghi tên vào

danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp

huyện ở nơi tạm trú hoặc đóng quân. Công dân Việt Nam ở nước ngoài trở về

Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau khi danh sách cử tri đã được niêm yết

đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ, thì đến UBND cấp xã xuất trình

Hộ chiếu có ghi quốc tịch Việt Nam để được ghi tên vào danh sách cử tri và

nhận thẻ cử tri bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện,

cấp xã (nếu xuất trình tại nơi đăng ký thường trú) hoặc bầu đại biểu Quốc hội

và đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện (nêu xuất trình tại nơi đăng ký tạm

trú). Cử tri là người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện

pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được ghi tên

vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cấp tỉnh nơi

người đó đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở

giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.

- Nguyên tắc vận động bầu cử:

Điều 63 Luật Bầu cử quy định việc vận động bầu cử được tiến hành dân

chủ, công khai, bình đẳng, đúng pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.

Người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu HĐND ở đơn vị bầu cử nào

thì thực hiện vận động bầu cử tại đơn vị bầu cử đó. Các tổ chức phụ trách bầu

cử và thành viên của các tổ chức này không được vận động cho người ứng cử.

- Nguyên tắc bỏ phiếu:

Điều 69 Luật Bầu cử quy định mỗi cử tri có quyền bỏ một phiếu bầu đại

biểu Quốc hội và bỏ một phiếu bầu đại biểu HĐND tương ứng với mỗi cấp

HĐND. Cử tri phải tự mình, đi bầu cử, không được nhờ người khác bầu cử

thay. khi bầu cử phải xuất trình thẻ cử tri. Cử tri không thể tự viết được phiếu

bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ

10

phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri. Trường hợp cử tri vì khuyết tật

không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu. Trong

trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, khuyết tật không thể đến phòng bỏ phiếu

được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở, chỗ điều trị

của cử tri để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Đối với cử tri là

người đang bị tạm giam, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo

dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc mà trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt

buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc không tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng hoặc

cử tri là người đang bị tạm giữ tại nhà tạm giữ thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu

phụ và phiếu bầu đến trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ

sở cai nghiện bắt buộc để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Khi

cử tri viết phiếu bầu, không ai được xem, kể cả thành viên Tổ bầu cử. Nếu

viết hỏng, cử tri có quyền đổi phiếu bầu khác. Khi cử tri bỏ phiếu xong, Tổ

bầu cử có trách nhiệm đóng dấu “Đã bỏ phiếu” vào thẻ cử tri. Mọi người phải

tuân theo nội quy phòng bỏ phiếu.

- Nguyên tắc xác định người trúng cử:

Điều 78 Luật Bầu cử quy định kết quả bầu cử được tính, trên số phiếu

bầu hợp lệ và chỉ được công nhận khi đã có quá một nửa tổng số cử tri trong

danh sách cử tri tại đơn vị bầu cử tham gia bầu cử, trừ trường hợp bầu cử lại

thì ngày bầu cử được tiến hành chậm nhất là 15 ngày sau ngày bầu cử đầu

tiên. Trong cuộc bầu cử lại, cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người

ứng cử tại cuộc bầu cử đầu tiên. Nếu bầu cử lại mà số cử tri đi bầu cử vẫn

chưa đạt quá một nửa tổng số cử tri trong danh sách cử tri thì kết quả bầu cử

lại được công nhận mà không tổ chức bầu cử lại lần thứ hai. Người trúng cử

phải là người ứng cử đạt số phiếu bầu quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ.

Trường hợp số người ứng cử đạt số phiếu bầu quá một nửa tổng số phiếu bầu

hợp lệ nhiều hơn số lượng đại biểu mà đơn vị bầu cử được bầu thì những

11

người trúng cử là những người có số phiếu bầu cao hơn. Trường hợp cuối

danh sách trúng cử có nhiều người được số phiếu bầu bằng và nhiều hơn số

lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử thì người nhiều tuổi

hơn là người trúng cử.

1.1.3. Vai trò thực hiện pháp luật về bầu cử

Thực hiện pháp luật về bầu cử là một tiến trình không những liên quan

đến quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân mà còn liên quan đến chế độ chính

trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức

và hoạt động của cơ quan nhà nước, thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng lãnh

đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý. Có thể nói, thực hiện pháp luật về

bầu cử có vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng và phát triển cơ quan

quyền lực nhà nước, đồng thời là phương thức thể hiện quyền lực của nhân

dân.

- Thực hiện pháp luật về bầu cử là phương thức tiếp tục xây dựng, củng

cố và hoàn thiện cơ quan quyền lực nhà nước.

Thông qua các cuộc bầu cử, nhân dân trực tiếp lựa chọn, bầu ra những

người tiêu biểu về đức, tài, xứng đáng là đại diện cho ý chí, nguyện vọng và

quyền làm chủ của nhân dân trong Quốc hội và HĐND. Chính vì vậy, bầu cử

ở nước ta luôn là một sự kiện chính trị trọng đại. Mỗi cuộc bầu cử là một đợt

sinh hoạt chính trị toàn dân, ngày hội lớn của dân tộc.

Trải qua 14 lần bầu cử, qua mỗi lần bầu chúng ta càng thấy Nhà nước

pháp quyền của chúng ta là một bước phát triển. Bởi, qua thực tiễn thi hành

pháp luật về bầu cử chúng ta rút ra được những hạn chế, bất cập, từ đó kịp

thời nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Hiến pháp và thực tiễn đổi

mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, HĐND các cấp. Khi các quy định về

bầu cử được quy chi tiết, cụ thể phù hợp với Hiến pháp và thực tiễn thì việc

thi hành pháp luật về bầu cử được các cơ quan, tổ chức, đơn vị và nhân dân

12

thực hiện thuận lợi và nghiêm túc, thể hiện tinh thần dân chủ, công khai, minh

bạch từ đó Nhân dân ta tìm ra được những cá nhân thực sự vì dân, có uy tín,

trình độ, đạo đức, năng lực để giao đảm nhận các vị trí quan trọng trong trong

bộ máy Nhà nước từ trung ương đến địa phương. Từ đó Nhà nước ta ngày

một phát triển, vững mạnh.

- Thực hiện pháp luật về bầu cử là phương thức để nhân dân thực hiện

quyền lực của của mình.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận Nhà

nước ta là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; do Nhân dân

làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Nhân dân thực hiện

quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua

Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước. Công dân đủ

mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có

quyền ứng cử vào Quốc hội, HĐND.

Như vậy, quyền lực của Nhân dân đã được Hiến pháp ghi nhận. Làm sao

để đảm bảo cho nhân dân thực hiện được quyền của mình một cách đầy đủ,

trọn vẹn nhất? Pháp luật về bầu cử ra đời đã trả lời cho câu hỏi này. Pháp luật

bầu cử bao gồm tổng thể các quy định pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ

xã hội liên quan đến quyền bầu cử, quyền ứng cử, các quy trình tiến hành bầu

cử và xác định kết quả bầu cử. Đây là một biện pháp bảo đảm cho nhân dân

thực hiện đày đủ và trọn vẹn nhất quyền lực của mình.

1.2. Nội dung thực hiện pháp luật về bầu cử

1.2.1. Chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện pháp luật về bầu cử

Trước kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, UBTVQH thành

lập HĐBC để thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ

chức bầu cử trong cả nước. HĐBC có từ mười lăm đến hai mươi mốt người

gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký và các uỷ viên là đại diện

13

UBTVQH, Chính phủ, Uỷ ban trung ương MTTQ Việt Nam và một số cơ

quan, tổ chức hữu quan. HĐBC được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng trong

việc tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND, từ việc chuẩn bị danh sách

những người ứng cử đại biểu Quốc hội; quy định mẫu thẻ cử tri và phiếu bầu

cử, tổng kết kết quả bầu cử; tổ chức chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền,

vận động bầu cử, công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong cuộc

bầu cử.

HĐBC quốc gia, UBTVQH, Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban trung ương

MTTQ Việt Nam, các bộ ngành có liên quan ban hành các văn bản lãnh đạo,

chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử từ Trung ương đến cơ sở. Các cấp ủy

Đảng, MTTQ, chính quyền, các tổ chức đoàn thể ở các địa phương tiến hành

các công việc chuẩn bị bầu cử và lãnh đạo, chỉ đạo công tác bầu cử ở địa

phương. Các tổ chức phụ trách bầu cử đã được thành lập theo đúng quy trình

và triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật [7, tr 2].

Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan, các

tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương đã ban hành các kế hoạch triển khai cụ

thể để thi hành pháp luật về bầu cử.

Theo chỉ đạo và hướng dẫn của HĐBC quốc gia về công tác bầu cử, Thủ

tướng Chính phủ giao Bộ Nội vụ là cơ quan thường trực, chịu trách nhiệm

tham mưu, giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, cơ quan

ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các cấp ban hành các văn bản

hướng dẫn về bầu cử, thực hiện công tác bầu cử; kiểm tra, đôn đốc việc thực

hiện bảo đảm đúng các quy định về bầu cử.

Bộ Trưởng Bộ Nội vụ ban hành Thông tư hướng dẫn các tỉnh, thành phố

trực thuộc Trung ương triển khai thực hiện các nội dung công tác bầu cử; tổng

hợp và biên soạn tài liệu tập huấn nghiệp vụ bầu cử. Qua các hội nghị tập

huấn, Bộ Nội vụ và các cơ quan liên quan ở Trung ương trực tiếp hướng dẫn,

14

trả lời những kiến nghị của địa phương hoặc tiếp thu để báo cáo các cơ quan

có thẩm quyền xem xét, ban hành văn bản hướng dẫn bổ sung.

Tổ chức các hội nghị giao ban công tác bầu cử tại 3 khu vực Bắc -

Trung - Nam, với sự tham gia của UBBC cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã của

63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để kịp thời đánh giá tình hình triển

khai công tác bầu cử của các địa phương theo kế hoạch của HĐBC cử quốc

gia; hướng dẫn, giải quyết các vấn đề vướng mắc, khó khăn phát sinh và đề

xuất, kiến nghị của địa phương; đồng thời, tổng hợp báo cáo HĐBC quốc gia

xem xét, có văn bản hướng dẫn bổ sung về công tác bầu cử [8, tr 2].

Trên cơ sở đó, tại địa phương các cơ quan, đơn vị tổ chức triển khai tập

huấn nghiệp vụ bầu cử theo quy định cho toàn thể đội ngũ cán bộ, công chức,

viên chức được giao nhiệm vụ thực hiện công tác bầu cử, nhằm đảm bảo thực

hiện công tác bầu củ được thống nhất và đúng quy định.

1.2.2. Lập kế hoạch thực hiện luật về bầu cử

Việc lập kế hoạch thực hiện pháp luật về bầu cử được các cơ quan, tổ

chức, đơn vị và nhân dân thực hiện theo quy định Luật Bầu cử và các văn bản

hướng dẫn thi hành, bao gồm các nội dung sau:

1) Công bố ngày bầu cử;

2) Thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử;

3) Về tổ chức các hội nghị triển khai công tác bầu cử, hội nghị giới thiệu

người ứng cử, hội nghị hiệp thương và hội nghị cử tri;

4) Công tác thông tin, tuyên truyền và vận động bầu cử;

5) Công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong bầu cử;

6) Lập và niêm yết danh sách cử tri, người ứng cử;

7) Tổ chức ngày bầu cử;

8) Công bố kết quả bầu cử.

15

1.2.3. Tổ chức bộ máy, nhân sự thực hiện pháp luật về bầu cử

- Ở Trung ương:

HĐBC quốc gia do Quốc hội thành lập, có từ mười lăm đến hai mươi

mốt thành viên gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên là đại diện

UBTVQH, Chính phủ, Ủy ban trung ương MTTQ Việt Nam và một số cơ

quan, tổ chức hữu quan. Chủ tịch HĐBC quốc gia do Quốc hội bầu, miễn

nhiệm theo đề nghị của UBTVQH. Các Phó Chủ tịch và các Ủy viên HĐBC

quốc gia do Quốc hội phê chuẩn theo đề nghị của Chủ tịch HĐBC quốc gia.

HĐBC quốc gia thành lập các tiểu ban để giúp HĐBC quốc gia thực hiện

nhiệm vụ, quyền hạn trong từng lĩnh vực (Điều 12 Luật Bầu cử).

- Ở địa phương:

UBBC ở tỉnh có từ hai mươi mốt đến ba mươi mốt thành viên gồm Chủ

tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên là đại diện Thường trực HĐND,

UBND, Ủy ban MTTQ Việt Nam cùng cấp và một số cơ quan, tổ chức hữu

quan.

UBBC ở huyện có từ mười một đến mười lăm thành viên; UBBC ở xã có

từ chín đến mười một thành viên. Thành viên UBBC ở huyện, ở xã gồm Chủ

tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên là đại diện Thường trực HĐND, Ủy ban

nhân dân, Ủy ban MTTQ Việt Nam cùng cấp và một số cơ quan, tổ chức hữu

quan (Điều 22 Luật Bầu cử).

Ban bầu cử đại biểu HĐND cấp tỉnh có từ mười một đến mười ba thành

viên. Ban bầu cử đại biểu HĐND cấp huyện có từ chín đến mười một thành

viên. Ban bầu cử đại biểu HĐND cấp xã có từ bảy đến chín thành viên. Ban

bầu cử gồm Trưởng ban, các Phó Trưởng ban và các Ủy viên (Điều 24 Luật

Bầu cử).

Tổ bầu cử có từ mười một đến hai mươi mốt thành viên gồm Tổ trưởng,

Thư ký và các Ủy viên là đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ

16

chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đại diện cử tri ở địa phương. Đối với

huyện không có đơn vị hành chính xã, thị trấn thì UBND huyện sau khi thống

nhất với Thường trực HĐND và Ban thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam

cùng cấp quyết định thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử có từ

mười một đến hai mươi mốt thành viên gồm Tổ trưởng, Thư ký và các Ủy

viên là đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,

tổ chức xã hội, đại diện cử tri ở địa phương. Đơn vị vũ trang nhân dân được

xác định là khu vực bỏ phiếu riêng được thành lập một Tổ bầu cử có từ năm

đến chín thành viên gồm Tổ trưởng, Thư ký và các Ủy viên là đại diện chỉ

huy đơn vị và đại diện quân nhân của đơn vị vũ trang nhân dân đó. Trong

trường hợp đơn vị vũ trang nhân dân và địa phương có chung một khu vực bỏ

phiếu thì UBND cấp xã sau khi thống nhất với Thường trực HĐND, Ban

thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam cùng cấp và chỉ huy đơn vị vũ trang

nhân dân quyết định thành lập Tổ bầu cử có từ mười một đến hai mươi mốt

thành viên gồm Tổ trưởng, Thư ký và các Ủy viên là đại diện cơ quan nhà

nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, đại diện cử tri

ở địa phương, đại diện chỉ huy đơn vị và đại diện quân nhân của đơn vị vũ

trang nhân dân đó (Điều 25 Luật Bầu cử).

Theo Điều 4 Thông tư 02/2016/TT-BNV ngày 01/02/2016 của Bộ

trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch UBBC cấp tỉnh, Chủ tịch UBBC cấp huyện, Chủ

tịch UBBC cấp xã; Trưởng ban Ban bầu cử đại biểu Quốc hội, Trưởng ban

Ban bầu cử đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và Tổ trưởng Tổ bầu

cử (sau đây gọi chung là người đứng đầu tổ chức phụ trách bầu cử) chịu trách

nhiệm phân công nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của từng thành viên tổ chức phụ

trách bầu cử cấp mình từ giai đoạn chuẩn bị, triển khai, tổ chức ngày bầu cử,

các công việc tiến hành sau ngày bầu cử cho đến khi kết thúc cuộc bầu cử.

Trong đó, phân công một thành viên chịu trách nhiệm tổng hợp chung công

17

tác bầu cử của UBBC và của Ban bầu cử. Căn cứ điều kiện cụ thể, các tổ chức

phụ trách bầu cử có thể trưng tập cán bộ, công chức, viên chức của các cơ

quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,

tổ chức xã hội giúp việc cho tổ chức phụ trách bầu cử theo quyết định của

người đứng đầu tổ chức phụ trách bầu cử [11, tr 3].

1.2.4. Bảo đảm điều kiện thực hiện pháp luật về bầu cử.

- Điều kiện về chính trị :

Tính phù hợp về chính trị khi thực hiện pháp luật về bầu cử là yêu cầu

bắt buộc phải hiện thực hóa được đường lối, chủ trương, chính sách của

Đảng. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng là định hướng chủ yếu để

các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thể chế hóa thành pháp luật.

Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò

đặc biệt quan trọng, là yếu tố quan trọng nhất, hạt nhân lãnh đạo của cả hệ

thống chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và xã hội đã được

quy định tại Hiến pháp, được khẳng định qua thực tiễn đấu tranh cách mạng

và quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Để thực hiện các cuộc bầu cử đại biểu

Quốc hội và đại biểu HĐND thành công, cần tăng cường vai trò lãnh đạo của

các cấp ủy Đảng về công tác bầu cử, bảo đảm phát huy dân chủ và sự lãnh

đạo tập trung, thống nhất của Đảng trong công tác cán bộ; phát huy vai trò

tiền phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên...

Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã xác định: “Đảng

lãnh đạo bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ

trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm

tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất

lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng

viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh

đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua các tổ chức đảng và đảng

18

viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ

trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao

năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai

trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ

thống chính trị”.

Chính vì những lý do nêu trên, đối với cuộc bầu cử gần đây nhất - cuộc

bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021,

ngày 04/01/2016, Bộ Chính trị đã có Chỉ thị số 51-CT/TW yêu cầu các cấp

ủy, các tổ chức Đảng lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt những yêu cầu nhiệm vụ

trước, trong và sau bầu cử. Trong đó, phải có kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo cụ

thể việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tổ chức thắng lợi cuộc bầu cử; bảo

đảm cuộc bầu cử được tiến hành dân chủ, bình đẳng, đúng pháp luật, an toàn,

tiết kiệm và thực sự là ngày hội của toàn dân. Lãnh đạo tốt công tác nhân sự,

bảo đảm phát huy dân chủ và sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng

trong công tác cán bộ; gắn kết quả nhân sự của đại hội Đảng các cấp và quy

hoạch cán bộ với công tác chuẩn bị nhân sự để giới thiệu những người tiêu

biểu, có quan điểm, lập trường chính trị vững vàng, đủ tiêu chuẩn theo quy

định của pháp luật, có năng lực, điều kiện thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc

hội và đại biểu HĐND. Không đưa vào danh sách ứng cử người có biểu hiện

cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực; có tư tưởng cục bộ, bảo thủ; đang bị

thanh tra, kiểm tra dấu hiệu vi phạm; đã bị các cơ quan có thẩm quyền kết

luận không trung thực; người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra

những vụ, việc tham nhũng, lãng phí, mất đoàn kết nghiêm trọng.

Bộ Chính trị cũng yêu cầu các cấp ủy Đảng, các tổ chức Đảng phải lãnh

đạo bầu đủ số lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp, đặc biệt coi

trọng chất lượng đại biểu. Đồng thời, bảo đảm cơ cấu hợp lý về số đại biểu là

người đang công tác ở cơ quan Đảng, nhà nước, lực lượng vũ trang, Mặt trận

19

Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, giảm hợp lý số đại biểu công tác tại cơ

quan hành chính; tăng số lượng đại biểu chuyên trách; bảo đảm tỷ lệ người

ứng cử là phụ nữ, người dân tộc thiểu số theo đúng quy định của Luật Bầu cử;

có tỷ lệ hợp lý đại biểu các tôn giáo, đại biểu tái cử, đại biểu trẻ tuổi, đại biểu

là các nhà khoa học, trí thức, văn nghệ sĩ, đại biểu xuất thân từ công nhân,

nông dân, doanh nhân, đại diện các hiệp hội, nghiệp đoàn về các lĩnh vực sản

xuất, kinh doanh.

Việc lựa chọn, giới thiệu người ứng cử và việc tự ứng cử đại biểu Quốc

hội, đại biểu HĐND phải bảo đảm theo đúng quy trình pháp luật quy định và

hướng dẫn của các cơ quan Trung ương có thẩm quyền. Lãnh đạo tốt việc tổ

chức hiệp thương giới thiệu người ra ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu

HĐND các cấp; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong công tác bầu cử;

bảo đảm các điều kiện thuận lợi để mọi công dân thực hiện đầy đủ quyền ứng

cử, bầu cử theo quy định của pháp luật.

Bộ Chính trị yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, đề cao

trách nhiệm, tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực tham gia bầu cử.

- Điều kiện pháp lý:

Luật bầu cử là đạo luật quan trọng quy định về quyền bầu cử, ứng cử là

một trong các quyền chính trị cơ bản của công dân đã được quy định trong

Hiến pháp để công dân thực hiện đầy đủ quyền bầu cử, ứng cử của mình;

Luật Bầu cử bảo đảm phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện, hoàn cảnh

thực tiễn về kinh tế - xã hội của đất nước.

Trên cơ sở Luật bầu cử, công tác chuẩn bị các điều kiện vật chất, kỹ

thuật phục vụ cuộc bầu cử được thực hiện theo hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ

Nội vụ tại Thông tư số 02/2016/TT-BNV như: khắc con dấu của các tổ chức

phụ trách bầu cử, in ấn tài liệu, băng rôn, khẩu hiệu tuyên truyền bầu cử, hòm

phiếu, phiếu bầu, chuẩn bị địa điểm, phòng bỏ phiếu... được hướng dẫn một

20

cách cụ thể, đảm bảo điều kiện, phương tiện vật chất, kỹ thuật cho ngày

bầu cử.

- Điều kiện kinh phí:

Luật bầu cử quy định kinh phí tổ chức bầu cử do ngân sách nhà nước

cấp. Nhằm bảo đảm kinh phí, hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí bầu

cử, Bộ Trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 06/2016/TT-BTC ngày

14/01/2016 hướng dẫn việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh

phí bầu cử ĐBQH khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-

2021.

Theo đó, cùng với số kinh phí phục vụ bầu cử do ngân sách Trung ương

đảm bảo, căn cứ tình hình thực tế tại địa phương, yêu cầu công việc và khả

năng ngân sách địa phương, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

báo cáo Thường trực HĐND cùng cấp xem xét, quyết định bổ sung kinh phí

từ ngân sách địa phương để phục vụ cho công tác bầu cử tại địa phương. Kinh

phí phục vụ cho công tác bầu cử phải được các cơ quan, đơn vị quản lý chặt

chẽ, chi tiêu theo đúng chế độ, đúng mục đích, có hiệu quả; sử dụng các

phương tiện phục vụ các cuộc bầu cử trước đây hiện còn sử dụng được, huy

động các phương tiện đang được trang bị ở các cơ quan, đơn vị để phục vụ

cho nhiệm vụ bầu cử đảm bảo tiết kiệm chi cho ngân sách nhà nước.

1.2.5. Giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bầu cử; giải quyết

khiếu nại tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bầu cử

- Tổ chức hoạt động giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bầu cử:

Hoạt động UBTVQH:

Thực hiện khoản 3 Điều 4 Luật bầu cử về thực hiện việc tổ chức giám

sát công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, bảo đảm cho việc

bầu cử được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm, ngày

05/03/2016, UBTVQH ban hành Kế hoạch số 1054/KH-UBTVQH13 về giám

21

sát, kiểm tra công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu

HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-202 để tổ chức giám sát công tác bầu cử đại

biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, bảo đảm cho việc bầu cử được tiến hành

dân chủ, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm.

Hoạt động của MTTQ Việt Nam:

Để triển khai hoạt động tham gia giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội

và đại biểu HĐND các cấp của MTTQ Việt Nam theo quy định tại Khoản 5

Điều 4 Luật bầu cử, nhằm đảm bảo cuộc bầu cư có được tổ chức dân chủ,

đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm, bầu được những đại biểu đủ tiêu chuẩn, đại

diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân hay không, ngày 16/02/2016, Ban

Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã ban hành văn bản số

35/HD-MTTW-BTT về hướng dẫn công tác giám sát của MTTQ Việt Nam

đối với hoạt động của các tổ chức phụ trách bầu cử; giám sát việc giới thiệu

người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND và thủ tục, hồ sơ ứng cử;

giám sát việc tổ chức lấy ý kiến cử tri nơi cư trú đối với người ứng cử; giám

sát việc lập danh sách cử tri và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về danh sách

cử tri; giám sát việc niêm yết danh sách những người ứng cử; việc xóa tên

người trong danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp;

giám sát việc tiếp xúc giữa cử tri với người ứng cử vận động bầu cử; giám sát

việc vận động bầu cử bằng phương tiện thông tin đại chúng và tuyên truyền

về bầu cử; giám sát trình tự bầu cử, thể thức bỏ phiếu trong ngày bầu cử.

Hoạt động của Thường trực HĐND, UBND các cấp:

Đối với Thường trực HĐND, UBND các cấp, trong phạm vi nhiệm vụ,

quyền hạn của mình có trách nhiệm giám sát, kiểm tra và thực hiện công tác

bầu cử theo quy định của Luật bầu cử và các văn bản quy phạm pháp luật

khác có liên quan.

22

- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử:

Về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về người ứng cử, khiếu nại về danh

sách cử tri; khiếu nại, tố cáo về người ứng cử, lập danh sách người ứng cử

theo quy định tại Điều 61; giải quyết khiếu nại về kết quả bầu cử theo quy

định tại Điều 87 Luật bầu cử.

Đối với việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị liên quan đến người ứng cử đại

biểu Quốc hội, việc lập danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội

được gửi đến Ban bầu cử đại biểu Quốc hội, UBBC ở tỉnh, HĐBC quốc gia

do các cơ quan này giải quyết. Trường hợp người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị

không đồng ý với kết quả giải quyết của Ban bầu cử, UBBC thì có quyền

khiếu nại đến HĐBC quốc gia. Quyết định của HĐBC quốc gia là quyết định

cuối cùng.

Việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị liên quan đến người ứng cử đại biểu

HĐND, việc lập danh sách những người ứng cử đại biểu HĐND ở cấp nào thì

được gửi đến Ban bầu cử đại biểu HĐND ở cấp đó. Trường hợp người khiếu

nại, tố cáo, kiến nghị không đồng ý với kết quả giải quyết của Ban bầu cử thì

có quyền khiếu nại đến UBBC ở cấp tương ứng. Quyết định của UBBC là

quyết định cuối cùng .

Trong thời hạn 10 ngày trước ngày bầu cử, HĐBC quốc gia, UBBC, Ban

bầu cử ngừng việc xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về người

ứng cử và việc lập danh sách những người ứng cử.

Để hạn chế việc khiếu nại, tố cáo tập trung vào ngày diễn ra sự kiện quan

trọng của đất nước, Thanh tra Chính phủ cũng đã ban hành Kế hoạch số

564/KH-TTCP ngày 24/3/2016 về kiểm tra, theo dõi, đôn đốc công tác tiếp

công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và Kế hoạch số 634/KH-TTCP ngày

30/3/2016 về phối hợp tổ chức tiếp công dân, đảm bảo an ninh trật tự phục vụ

cuộc bầu cử.

23

- Xử lý vi phạm pháp luật về bầu cử:

Điều 95, Luật Bầu cử quy định người nào dùng thủ đoạn lừa gạt, mua

chuộc hoặc cưỡng ép làm trở ngại việc bầu cử, ứng cử của công dân; vi phạm

các quy định về vận động bầu cử; người có trách nhiệm trong công tác bầu cử

mà giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu bầu hoặc dùng thủ đoạn khác để làm sai

lệch kết quả bầu cử hoặc vi phạm các quy định khác của pháp luật về bầu cử

thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm

hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

1.2.6. Tổng kết thực hiện pháp luật về bầu cử

Tổng kết công tác bầu cử được quy định từ Điều 83, 84, 85, 86, 87 và

Điều 88 Luật Bầu cử. Theo đó:

Sau khi nhận, kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Quốc

hội của các Ban bầu cử và giải quyết khiếu nại, tố cáo (nếu có), UBBC ở tỉnh,

lập biên bản xác định kết quả bầu cử ở địa phương. Biên bản xác định kết quả

bầu cử đại biểu Quốc hội ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có các nội

dung sau đây: Số lượng đơn vị bầu cử; Số lượng người ứng cử; Tổng số cử tri

của địa phương; Số lượng cử tri đã tham gia bỏ phiếu, tỷ lệ so với tổng số cử

tri của địa phương; Số phiếu hợp lệ; Số phiếu không hợp lệ; Số phiếu bầu cho

mỗi người ứng cử; Danh sách những người trúng cử theo từng đơn vị bầu cử;

Những khiếu nại, tố cáo do Tổ bầu cử, Ban bầu cử đã giải quyết; Những việc

quan trọng đã xảy ra và kết quả giải quyết; Những khiếu nại, tố cáo do UBBC

ở tỉnh đã giải quyết; Những khiếu nại, tố cáo và kiến nghị chuyển đến HĐBC

quốc gia. Biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội ở tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ương được lập thành bốn bản, có chữ ký của Chủ tịch,

các Phó Chủ tịch Ủy ban bầu cử. Biên bản được gửi đến HĐBC quốc gia,

UBTVQH, Ủy ban trung ương MTTQVN, Ủy ban MTTQVN cấp tỉnh chậm

nhất là 07 ngày sau ngày bầu cử.

24

- Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội:

Sau khi nhận, kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu cử của các Ban

bầu cử, UBBC ở tỉnh và giải quyết khiếu nại, tố cáo (nếu có), Hội đồng bầu

cử quốc gia lập biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội trong cả

nước. Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội có các nội dung sau

đây; Tổng số đại biểu Quốc hội được bầu; Tổng số người ứng cử; Tổng số cử

tri trong cả nước; Tổng số cử tri đã tham gia bỏ phiếu, tỷ lệ so với tổng số cử

tri trong cả nước; Số phiếu hợp lệ; Số phiếu không hợp lệ; Số phiếu bầu cho

mỗi người ứng cử; Danh sách những người trúng cử theo từng đơn vị bầu cử;

Những việc quan trọng đã xảy ra và kết quả giải quyết; Những khiếu nại, tố

cáo do Hội đồng bầu cử quốc gia đã giải quyết.

Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội được lập thành năm

bản, có chữ ký của Chủ tịch, các Phó Chủ tịch HĐBC quốc gia. Biên bản

được gửi đến UBTVQH, Chính phủ, Ủy ban trung ương MTTQVN và trình

Quốc hội khóa mới.

- Biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu HĐND:

Sau khi nhận, kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu cử của các Ban

bầu cử và giải quyết khiếu nại, tố cáo (nếu có), UBBC lập biên bản tổng kết

cuộc bầu cử đại biểu HĐND mà mình chịu trách nhiệm tổ chức. Biên bản

tổng kết cuộc bầu cử đại biểu HĐND có các nội dung sau đây: tổng số đại

biểu HĐND được bầu của đơn vị hành chính; tổng số người ứng cử; tổng số

cử tri của đơn vị hành chính; tổng số cử tri đã tham gia bỏ phiếu, tỷ lệ so với

tổng số cử tri của đơn vị hành chính; số phiếu hợp lệ; số phiếu không hợp lệ;

số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử; danh sách những người trúng cử theo

từng đơn vị bầu cử; những việc quan trọng đã xảy ra và kết quả giải quyết;

những khiếu nại, tố cáo do UBBC đã giải quyết.

- Công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử:

25

HĐBC quốc gia căn cứ vào biên bản tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước

công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử đại biểu Quốc hội

chậm nhất là 20 ngày sau ngày bầu cử.

UBBC căn cứ vào biên bản tổng kết cuộc bầu cử công bố kết quả bầu cử

và danh sách những người trúng cử đại biểu HĐND ở cấp mình chậm nhất là

10 ngày sau ngày bầu cử.

- Giải quyết khiếu nại về kết quả bầu cử:

Khiếu nại về kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội phải được gửi đến HĐBC

quốc gia chậm nhất là 05 ngày kể từ ngày công bố kết quả bầu cử đại biểu

Quốc hội. Khiếu nại về kết quả bầu cử đại biểu HĐND phải được gửi đến

UBBC chậm nhất là 05 ngày kể từ ngày công bố kết quả bầu cử đại biểu

HĐND. HĐBC quốc gia có trách nhiệm xem xét, giải quyết khiếu nại về kết

quả bầu cử đại biểu Quốc hội trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được

khiếu nại. UBBC có trách nhiệm xem xét, giải quyết khiếu nại về kết quả bầu

cử đại biểu HĐND trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại.

Quyết định giải quyết khiếu nại của HĐBC quốc gia, UBBC là quyết định

cuối cùng.

- Xác nhận tư cách của người trúng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu

HĐND:

Căn cứ vào kết quả tổng kết bầu cử đại biểu Quốc hội, kết quả giải quyết

khiếu nại, tố cáo liên quan đến người trúng cử đại biểu Quốc hội, HĐBC quốc

gia tiến hành xác nhận tư cách của người trúng cử đại biểu Quốc hội, cấp giấy

chứng nhận đại biểu Quốc hội khóa mới cho người trúng cử và báo cáo Quốc

hội khóa mới về kết quả xác nhận tư cách đại biểu Quốc hội tại kỳ họp

đầu tiên.

Căn cứ vào kết quả tổng kết bầu cử đại biểu HĐND, kết quả giải quyết

khiếu nại, tố cáo liên quan đến người trúng cử đại biểu HĐND, UBBC tiến

26

hành xác nhận tư cách của người trúng cử đại biểu HĐND cấp mà mình chịu

trách nhiệm tổ chức bầu cử, cấp giấy chứng nhận đại biểu HĐND khóa mới

cho người trúng cử và báo cáo HĐND khóa mới về kết quả xác nhận tư cách

đại biểu HĐND tại kỳ họp đầu tiên.

1.3. Kinh nghiệm đúc kết thực hiện pháp luật về bầu cử

1.3.1. Kinh nghiệm thực hiện pháp luật về bầu cử ở một số nước

Pháp luật về bầu cử của các quốc gia là sự thể chế hoá các quy định về

chế độ bầu cử của mỗi nước. Pháp luật bầu cử bao gồm tổng thể các quy định

pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội liên quan đến quyền bầu cử,

quyền ứng cử, các quy trình tiến hành bầu cử và xác định kết quả bầu cử.

Theo báo cáo nghiên cứu kinh nghiệm một số nước về hình thức văn bản

QPPL về bầu cử và mô hình cơ quan phụ trách bầu cử quốc gia thì có nhiều

quốc gia chỉ có một luật bầu cử chung như Hàn Quốc, Nhật bản, Phần Lan,

Đức. Có nhiều quốc gia có nhiều luật luật bầu cử như: Luật bầu cử thượng

viện, Luật bầu cử hạ viện, Luật bầu cử cơ quan đại diện cấp tỉnh, Luật bầu cử

cơ quan đại diện cấp xã như Campuchia, Luật bầu cử liên bang, Luật bầu cử

riêng của các bang như Canada.

Trong khuôn khổ đề tài luận văn, việc nghiên cứu tập trung vào văn bản

pháp luật và cơ quan phụ trách bầu cử của các nước có những điểm tương

đồng với Việt Nam như Hàn quốc và Nhật bản .

- Tổng quan pháp luật về bầu cử ở Hàn Quốc:

Tại Hàn Quốc, các hoạt động về bầu cử được điều chỉnh bởi Hiến pháp

và chủ yếu bởi Luật Bầu cử chức vụ công. Bên cạnh đó, một số luật như: Luật

về xuất nhập cảnh và Tư cách pháp lý của người Hàn Quốc ở nước ngoài

(trong đó có điều chỉnh một số trường hợp người Hàn Quốc tại nước ngoài

tham gia bầu cử), Luật Đảng phái chính trị (trong đó có điều chỉnh một số

hoạt động đối với Đảng phái chính trị khi tham gia tranh cử) v.v… cũng điều

27

chỉnh một phần đối với hoạt động bầu cử. Hiện nay, hoạt động bầu cử tại Hàn

Quốc được điều chỉnh bởi Luật Bầu cử chức vụ công số 10303 ban hành ngày

17 tháng 3 năm 2010. Luật gồm 14 Chương và 279 điều. Theo đó, “Luật này

áp dụng đối với các cuộc bầu cử Tổng thống, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội,

bầu cử các thành viên Hội đồng địa phương và người đứng đầu chính quyền

địa phương”(Điều 2). Như vậy, hoạt động bầu cử tại Hàn Quốc được điều

chỉnh chung bởi một luật tại cả cấp trung ương lẫn địa phương.

Theo Điều 114 của Hiến pháp Hàn Quốc, UBBC quốc gia là một cơ

quan hiến định độc lập. UBBC quốc gia là cơ quan quản lý các cuộc bầu cử,

trưng cầu dân ý của quốc gia nhằm tạo sự công bằng và xử lý với các vấn đề

hành chính liên quan đến các đảng chính trị và các quỹ chính trị. Nhiệm kỳ và

quyền hạn của mỗi Ủy viên bầu cử được đảm bảo đúng theo quy định của

Hiến pháp và pháp luật để bảo đảm thực hiện công bằng các nhiệm vụ mà

không chịu ảnh hưởng của bất kỳ sự can thiệp bên ngoài nào.

UBBC Quốc gia có các nhiệm vụ và trách nhiệm sau đây: quản lý các

cuộc bầu cử; quản lý các cuộc bỏ phiếu; giám sát nghĩa vụ, trách nhiệm của

các đảng phái chính trị trong công tác bầu cử; quản lý các vấn đề về bầu cử

trong việc quản lý các quỹ chính trị; thực hiện các hoạt động nhằm thúc đẩy

sự công bằng, minh bạch trong bầu cử; tuyên truyền, giáo dục về nền bầu cử

dân chủ cho công chúng; Trao đổi và hợp tác quốc tế; nghiên cứu về bầu cử

và hệ thống chính trị [5- tr 16, 41,44].

- Tổng quan pháp luật về bầu cử ở Nhật Bản:

Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, Luật Bầu cử các cơ quan nhà

nước của Nhật Bản quy định chi tiết về các cuộc bầu cử toàn quốc và địa

phương. Trước đây, có nhiều luật quy định về bầu cử (như Luật bầu cử Hạ

viện, Luật bầu cử thượng viện, Luật bầu cử chính quyền địa phương…),

nhưng từ năm 1950 các luật này được hợp nhất thành Luật Bầu cử các cơ

28

quan nhà nước.

Luật Bầu cử các cơ quan nhà nước quy định các nguyên tắc được quy

định trong Hiến pháp liên quan đến bầu cử cho cả bầu cử ở cấp độ quốc gia và

địa phương.

Hiến pháp Nhật quy định chính thể dân chủ đại nghị và đảm bảo bầu cử

phổ thông, công bằng và bỏ phiếu kín. Đây là những nguyên tắc cơ bản của

hệ thống bầu cử, được áp dụng cho các cuộc bầu cử Quốc hội, các hội đồng

địa phương và những người đứng đầu chính quyền thành phố. Bầu cử phổ

thông đảm bảo quyền bầu cử của tất cả người dân Nhật từ 20 tuổi trở lên.

Ở Nhật bản có ba loại bầu cử, gồm tổng tuyển cử bầu ra Hạ viện, được tổ

chức 4 năm một lần (trừ trường hợp hạ viện bị giải tán sớm hơn), tiếp đến là

bầu cử Thượng viện được tổ chức 3 năm một lần để chọn ra một nửa số thành

viên của Thượng viện và bầu cử ở địa phương được tổ chức 4 năm một lần tại

các quận, thành phố và làng xã. Các cuộc bầu cử được giám sát bởi các

UBBC dưới sự chỉ đạo chung của Hội đồng Quản lý Bầu cử Trung ương (Hội

đồng Quản lý Bầu cử của Trung ương là một cơ quan thuộc Bộ Nội vụ và

Truyền thông).

Nhiệm vụ của Hội đồng Quản lý Bầu cử Trung ương là phụ trách việc

bầu cử hạ nghị sĩ và thượng nghị sĩ theo quy định của hệ thống bầu cử của

Nhật Bản. Hội đồng Quản lý Bầu cử Trung ương là cơ quan độc lập, gồm có

5 thành viên được bổ nhiệm bởi Thủ tướng trên cơ sở tiến cử của Quốc hội.

Nhiệm kì của các thành viên là 3 năm.

Các Ủy ban Quản lý bầu cử cấp tỉnh: có trách nhiệm phụ trách việc bầu

cử hạ nghị sĩ theo hình thức bầu cử đa số một đại diện và bầu cử các thượng

nghị sĩ từ các đơn vị bầu cử, thống đốc từ các tỉnh và các thành viên của hội

đồng địa phương cấp tỉnh. Các ủy ban quản lý bầu cử cấp tỉnh gồm có 4 thành

viên được chọn bởi các hội đồng cấp tỉnh. Nhiệm kì của các thành viên Hội

29

đồng này là 4 năm.

Ủy ban Quản lý bầu cử cấp thành phố, thị xã (thành phố, thị trấn và làng)

có trách nhiệm quản lý các cuộc bầu cử các lãnh đạo của địa bàn cấp thành

phố, thị xã và các thành viên của Hội đồng thành thị. Ủy ban gồm có 4 người

và được Hội đồng thành thị lựa chọn với nhiệm kì 4 năm.

Thêm vào đó, các ủy ban quản lý bầu cử còn được thành lập ở một số

khu vực đặc biệt tại các khu vực hành chính của 12 thành phố trong Tokyo để

thực hiện các chức năng được giao phó [5- tr18,61] .

1.3.2. Kinh nghiệm thực hiện pháp luật về bầu cử ở một số địa phương

* Thực hiện pháp luật về bầu cử ở Thành phố Đồng Hới, tỉnh

Quảng Bình:

Theo Báo cáo số 55/BC-UBBC ngày 07/6/2016 về kết quả cuộc bầu cử đại

biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 trên

địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình thì tình hình tổ chức triển khai,

thực hiện pháp luật về bầu cử qua những nội dung sau:

- Tình hình tổ chức triển khai thực hiện:

Thực hiện Chỉ thị số 51-CT/TW ngày 04/01/2016 của Bộ Chính, Ban

Thường vụ Thành ủy Đồng Hới đã ban hành Chỉ thị số 01-CT/TU ngày

29/02/2016 để lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIV và bầu cử

đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021. Đã tổ chức hội nghị cán bộ

chủ chốt của tỉnh để triển khai công tác bầu cử; quyết định thành lập Ban chỉ

đạo bầu cử gồm 14 đồng chí, giới thiệu nhân sự UBBC tỉnh gồm 15 đồng chí.

Đã chỉ đạo Uỷ ban bầu cử Thành phố xây dựng kế hoạch triển khai công tác

bầu cử đảm bảo tiến độ thời gian theo luật định.

+ Thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử, xác định và ấn định số đơn vị

bầu cử, số đại biểu được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội và đại

biểu HĐND các cấp.

30

+ Việc tuyên truyền, vận động trong nhân dân về cuộc bầu cử; thực hiện

chế độ thông tin, báo cáo đối với cuộc bầu cử; công tác hiệp thương; việc tập

huấn nghiệp vụ công tác tổ chức bầu cử cho các thành viên tổ chức phụ trách

bầu cử.

+ Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo: Chấp hành nghiêm túc chế độ

thông tin báo cáo, đầy đủ, kịp thời, chính xác tình hình công tác bầu cử theo

các nội dung quy định của Sở Nội vụ, UBBCtỉnh…đảm bảo theo hướng dẫn

của cấp trên.

+ Tổ chức các hội nghị như: Hội nghị cán bộ cốt cán thành phố; Hội

nghị tập huấn nghiệp vụ bầu cử; Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất; Hội nghị

hiệp thương lần thứ hai; Hội nghị hiệp thương lần thứ ba;Hội nghị tổ chức lấy

ý kiến cử tri nơi cư trú, nơi công tác.

+ Việc lập và niêm yết danh sách cử tri, danh sách người ứng cử, tổ chức

tiếp xúc cử tri, vận động bầu cử của những người ứng cử đại biểu Quốc hội và

đại biểu HĐND các cấp theo đúng thời gian quy định.

+ Công tác giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo có liên quan đến cuộc

bầu cử: Sau khi tiếp nhận đơn thư có liên quan đến các ứng cử viên xã

phường: 16 đơn. Đã thực hiện chuyển đơn cho cơ quan có thẩm quyền giải

quyết theo quy định.

+ Công tác bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội được chú

trọng. Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội thời gian trước,

trong và sau ngày bầu cử trên địa bàn thành phố cơ bản ổn định; không khí

vui tươi, lành mạnh, an toàn. Công an thành phố, Ban chỉ huy Quân sự thành

phố, lực lượng dân phòng các địa phương đã triển khai tốt kế hoạch bảo vệ

cuộc bầu cử.

31

- Về kinh phí và cơ sở vật chất - kỹ thuật cho cuộc bầu cử:

Các tài liệu liên quan đến công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu

HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021 đã phát hành đầy đủ đến các địa

phương, cơ quan, đơn vị thành phố và tại Hội nghị tập huấn nghiệp vụ bầu cử.

Các loại văn bản, biểu mẫu; danh sách, tiểu sử tóm tắt của các ứng cử viên;

phiếu bầu... đã được chuyển về các địa phương, tổ bầu cử đầy đủ và được bảo

vệ an toàn.

Về kinh phí phục vụ bầu cử được trích từ nguồn ngân sách tỉnh; Từ

nguồn ngân sách thành phố; Từ nguồn ngân sách xã, phường.

- Kết quả đạt được:

Nhìn chung cơ cấu đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 hợp lý,

tính đại diện và chất lượng đại biểu nâng cao hơn. Không có đơn vị bầu cử,

khu vực bỏ phiếu phải tiến hành bầu cử lại. Không có đơn vị bầu cử, khu vực

bỏ phiếu nào phải tiến hành bầu cử thêm; Không có đơn vị bầu cử, khu vực bỏ

phiếu bị hủy kết quả bầu cử do vi phạm pháp luật nghiêm trọng.

- Bài học kinh nghiệm:

Với sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của

các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo kịp thời có hiệu quả của UBND tỉnh, Sở Nội vụ

và của Thường vụ thành uỷ, Ban chỉ đạo Bầu cử thành phố; sự chủ động, tích

cực, cố gắng vượt qua khó khăn của các cấp, các ngành, các địa phương, các

tổ chức bầu cử từ thành phố đến các xã phường. Sau 4 tháng tích cực chuẩn

bị, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND các

cấp nhiệm kỳ 2016-2021 trên địa bàn thành phố thành công tốt đẹp; đảm bảo

dân chủ, bình đẳng, đúng luật định, an toàn, tiết kiệm, đáp ứng được lòng

mong đợi của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thành phố, thực sự là đợt sinh

hoạt chính trị dân chủ rộng rãi, là ngày hội lớn của toàn dân.

32

Sự chỉ đạo, kiểm tra tích cực, điều chỉnh kịp thời của các đồng chí trong

Ban chỉ đạo bầu cử, các đồng chí trong UBBC thành phố, các đồng chí trong

Ban bầu cử các cấp, các đồng chí trong Tổ cán bộ, chuyên viên giúp việc của

Uỷ ban bầu cử thành phố; việc tập huấn nghiệp vụ cụ thể, kỹ lưỡng nên công

tác chuẩn bị cho cuộc bầu cử được thực hiện chu đáo, tiến hành bầu cử đúng

luật định.

Đã làm tốt việc phân bổ số lượng, thành phần, cơ cấu và lựa chọn người

ứng cử. Tiến hành hiệp thương, tiếp xúc cử tri nơi công tác, nơi cư trú, tiếp

xúc cử tri để vận động bầu cử đúng quy định, dân chủ, cởi mở.

Thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu HĐND

các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021 thể hiện sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành

động của Đảng bộ và nhân dân thành phố Đồng Hới, thực sự là ngày hội của

toàn dân.

- Tồn tại, hạn chế:

+ Công tác tuyên truyền một số địa phương chưa được quan tâm đúng

mức; một số khu vực bỏ phiếu chưa được chú trọng đến công tác trang trí.

+ Việc phổ biến tuyên truyền tiểu sử tóm tắt những người ứng cử đại biểu

Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021 còn hạn

chế, chưa tạo điều kiện tốt để cử tri nắm chắc, nắm rõ và đầy đủ những thông tin

toàn diện các ứng cử viên để cử tri lựa chọn trong quá trình bầu cử. Việc niêm yết

danh sách chính thức, tiểu sử tóm tắt các ứng cử viên ở một số khu vực bỏ phiếu

còn chậm và có sai sót.

+ Công tác cấp kinh phí bầu cử của tỉnh còn chậm. Vì vậy việc đảm bảo

kinh phí cho các đơn vị, địa phương có thời điểm chưa kịp thời [41].

33

* Thực hiện pháp luật về bầu cử ở Thành phố Sông Công, tỉnh Thái

Nguyên:

Theo Báo cáo số 68/BC-UBBC ngày 08/6/2016 về tổng kết cuộc bầu cử đại

biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 trên

địa bàn thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên thì tình hình tổ chức triển khai,

thực hiện pháp luật về bầu cử ở những nội dung sau:

- Tình hình ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn:

Để đảm bảo công tác lãnh chỉ đạo cuộc bầu cử được thống nhất, thông

suốt, Ban thường vụ Thành ủy, UBND, UBBC Thành phố Sông Công đã ban

hành các văn bản chỉ đạo hướng như Chị Thị số 05-CT/TU ngày 27/01/2016

về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp nhiệm

kỳ 2016-2021; Quyết định 96-QĐ/TU ngày 28/01/2016 về thành lập Ban chỉ

đạo bầu cử; Quyết định 97-QĐ/TU ngày 28/01/2016 về thành lập Tổ công tác

giúp việc Ban Chỉ đạo, UBBC thành phố (bao gồm các tổ công tác nhân sự,

Tổ công tác thông tin tuyên truyền, tổ công tác an ninh trật tự)

Thành ủy đã ban hành hướng dẫn số 02-HD/TU ngày 03/02/2016 về

công tác nhân sự đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp thành phố

SÔng công nhiệm kỳ 2016-2021.

UBND Thành phố ban hành Chỉ thị số 177/CT-UBND ngày 03/02/2016

về tổ chức triển khai cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các

cấp thành phố Sông công nhiệm kỳ 2016-2021; Quyết định 504/QĐ-UBND

ngày 03/02/2016 về thành lập UBBC đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND

các cấp thành phố Sông công nhiệm kỳ 2016-2021.

Ngay sau khi thành lập, UBBC thành phố Sông Công cũng đã kịp thời

ban hành Quyết định số 03/QĐ-UBBC ngày 03/02/2016 về kế hoạch tổ chức

bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp thành phố Sông công

nhiệm kỳ 2016-2021 trên địa bàn thành phố; Quyết định số 05/QĐ-UBBC

34

ngày 22/02/2016 về thành lập Tổ công tác giúp việc UBBC Thành phố và ban

hành nhiều văn bản hướng dẫn một số nội dung khác liên quan đến cuộc bầu

cử trên địa bàn thành phố.

- Công tác triển khai thực hiện:

Ngày 04/02/2016, Thành ủy, HĐND, UBND, thành phố đã tổ chức Hội

nghị triển khai công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp

nhiệm kỳ 2016-2021 đến toàn thể các cơ quan, đơn vị, lực lượng vũ trang, các

xã, phường, thị trấn theo đúng chỉ đạo của Tỉnh. Hội nghị đã triển khai hướng

dẫn các văn bản của Trung ương, của Tỉnh, Thành ủy, UBND Thành phố,

Ban chỉ đạo, UBBC thành phố tới các đại biểu thuộc các Chi Đảng bộ thuộc

Thành ủy, các cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang, Đảng ủy, HĐND, UBND,

UBMTTQ các xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố, đồng thời chỉ đạo

các xã, phường, thị trấn trong ngày 05/02/2016 tổ chức Hội nghị triển khai

đến các cơ quan, đơn vị, xóm, tổ dân phố theo thời gian quy định.

- Về thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử:

Tổ chức phụ trách bầu cử trên địa bàn thành phố Sông Công bao gồm

UBBC thành phố với 15 thành viên; 11 UBBC xã, phường với 119 thành viên

UBND Tỉnh Thái Nguyên đã ban hành quyết định thành lập các Ban bầu

cử đại biểu HĐND Tỉnh trên địa bàn thành phố gồm 02 ban bầu cử với 26

thành viên.

UBND Thành phố Sông Công cũng ban hành các quyết định thành lập

11 Ban bầu cử đại biểu HĐND Thành phố tại 11 xã, phường với 117 thành

viên.

Về thành lập Ban bầu cử HĐND xã, phường, tính đến ngày 13/3/2016,

UBND các xã, phường đã thành lập 81 Ban bầu cử đại biểu HĐND cấp xã,

phường với tổng số 723 thành viên. Theo đó, UBND Thành phố Sông Công

cũng đã ban hành quyết định phê chuẩn 83 khu vực bỏ phiếu (bao gồm 81 khu

35

vực bỏ phiếu ở khu dân cư và 02 khu vực bỏ phiếu tại đơn vị lực lượng vũ

trang)

Về thành lập các Tổ bầu cử, tính đến ngày 30/3/2016, UBND các xã,

phường đã thành lập 83 Tổ bầu cử với tổng số 1072 thành viên.

- Về xác định và ấn định số đơn vị bầu cử, số đại biểu được bầu:

Tính đến ngày 03/3/2016 công tác ấn định đơn vị bầu cử đại biểu HĐND

Thành phố là 11 đơn vị với tổng số đại biểu được bầu là 30 đại biểu; đơn vị

bầu cử Đại biểu HĐND cấp xã là 81 đơn vị với tổng số đại biểu được bầu là

281 địa biểu.

- Về công tác Hiệp thương, giới thiệu đại biểu:

Công tác hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu HĐND

Thành phố và các đại biểu HĐND cấp xã, phường đã được UBMTTQ thành

phố, UBMTTQ xã, phường tổ chức thực hiện đầy đủ các bước của quy trình

hiệp thương, bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu, thành phần người được giới thiệu và

tiến hành hội nghị hiệp thương dân chủ, đúng tiến độ thời gian quy định cho

từng công việc. Theo đó sau 3 lần hiệp thương danh sách những người ứng cử

đại biểu HĐND Thành phố được xác định là 49 người; danh sách những

người ứng cử đại biểu HĐND cấp xã được xác định là 481 người

- Về tổ chức tập huấn nghiệp vụ bầu cử và tập huấn kỹ năng vận động

bầu cử:

UBBC Thành phố Sông Công đã tổ chức 11 lớp tập huấn nghiệp vụ cho

1072 thành viên cảu Tổ bầu cử. Tổ chức 02 Hội nghị tập huấn kỹ năng vận

động bầu cử cho 530 ứng cử viên đại biểu HĐND thành phố và đại biểu

HĐND xã, phường.

- Về công tác tuyên truyền, vận động trong nhân dân về bầu cử:

UBND thành phố, Ban tuyên giáo thành ủy đã ban hành kế hoạch tuyên

truyền cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ

36

2016-2021 trên địa bàn thành phố. Theo đó, Phòng Văn hóa thông tin, Đài

truyền thanh- truyền hình thành phố được giao nhiệm vụ chủ trì tổ chức tuyên

truyền bằng nhiều hình thức phong phú để tuyên truyền các thông tin, các quy

định pháp luật về bầu cử, tuyền tải những diễn biến của quá trình bầu cử trên

địa bàn. Đã tiến hành được 60 cuộc tuyên truyền trên phạm vi toàn thành phố

bằng các hình thức như tuyên tuyền trực tiêp, giao lưu văn hóa văn nghệ, Hội

thi tìm hiểu về bầu cử, tuyên truyền bằng xe lưu động, trên hệ thống loa

truyền thanh…

- Về công bố và niêm yết danh sách ứng cử viên:

Tính dến ngày 02/5/2016 việc công bố và niêm yết danh sách những

người ứng cử được tổ chức thực hiện theo dung quy định.

UBBC thành phố đã biên soạn tiểu sử tóm tắt người ứng cử đại biểu

HĐND Thành phố, đồng thời tiếp nhận tiểu sử tóm tắt những người ứng cử

đại biểu HĐND Tỉnh, đại biểu Quốc hội để các xã phường cấp phát đến các

hộ gia đình và niêm yết tại điểm bỏ phiếu.

- Về tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri:

Thực hiện kế hoạch tiếp xúc cử tri vận động bầu cử của UBMTTQ Tỉnh,

UBMTTQ Thành phố và UBMTTQ xã, phường, tại đại bàn thành phố Sông

Công đã tổ chức được 02 Hội nghị tiếp xúc cử tri ứng cử viên là đại biểu

Quốc hội; 11 cuộc tiếp xúc cử tri ứng cử viên đại biểu HĐND tỉnh; 113 cuộc

tiếp xúc cử tri ứng cử viên đại biểu HĐND Thành phố và đại biểu HĐND xã,

phường.

Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo: UBND thành phố, UBND các xã,

phường có đơn thư giải quyết kịp thời đúng theo quy định.

Công tác bảo vệ an ninh trật tự: Công an, Ban chỉ huy quân sự thành

phố, xã, phường tập trung chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch, đồng

thời xây dựng phương án bảo vệ triển khai đến từng khu vực bỏ phiếu.

37

Về công tác kiểm tra: UBBC thành phố tiến hành kiểm tra thường xuyên

tại các xã, phường về công tác bầu cử. Qua bầu cử, UBBC thành phố đã kịp

thời phát hiện và hướng dẫn các tổ chức phụ trách bầu cử khắc phục những

sai sót, vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện pháp luật về

bầu cử [40].

1.3.3. Kinh nghiệm đúc kết cho công tác thực hiện pháp luật ở thành phố

Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế

Thứ nhất, làm tốt công tác quán triệt các chỉ đạo, hướng dẫn triển khai

quán triệt Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ương Đảng, Quốc Hội, Hội đồng bầu

cử quốc gia; Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; Tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ

theo hướng dẫn tại các Thông tư của các Bộ; các văn bản hướng khác của các

cơ quan, tổ chức hữu quan và các văn bản của Tỉnh về công tác bầu cử.

Thứ hai, ban hành kịp thời các văn bản chỉ đạo điều hành đến các cơ

quan, đoàn thể và UBND các phường về công tác chuẩn bị phải được thực

hiện ngay từ việc xây dựng kế hoạch, thành lập các tổ chức phục vụ bầu cử,

các tổ chức bầu cử, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các ngành thành viên đến

việc chuẩn bị tài liệu hướng dẫn, tập huấn nghiệp vụ... Trong đó, công tác

chuẩn bị về nhân sự, công tác tuyên truyền, công tác giải quyết khiếu nại, tố

cáo liên quan đến bầu cử và bảo đảm an ninh trật tự phục vụ cuộc bầu cử đều

được xây dựng kế hoạch chi tiết, cụ thể ở từng ngành từ thành phố đến các

phường.

Thứ ba, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ban ngành,

đoàn thể từ thành phố đến các phường trong thực hiện công tác bầu cử.

Thứ tư, chú trọng công tác tuyên truyền. Công tác tổ chức quán triệt và

tuyên truyền thường xuyên, sâu rộng về cuộc bầu cử, nội dung tuyên truyền

tập trung vào Luật Bầu cử để cử tri biết rõ quyền và nghĩa vụ của mình. Hình

thức tuyên truyền cũng rất đa dạng, phong phú thông qua các cuộc họp, hệ

38

thống đài truyền thanh cơ sở và tuyên truyền trực tiếp; thời gian tuyên truyền

linh hoạt, phù hợp với từng nhóm đối tượng.

Thứ năm, tăng cường kiểm tra giám sát để kịp thời phát hiện, xử lý

những vấn đề vướng mắc, phát sinh; uốn nắn những lệch lạc trong thực hiện

các bước của quy trình bầu cử.

39

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1, luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về bầu cử. Nội

dung thực hiện pháp luật về bầu cử, đồng thời đi sâu tìm hiểu quá trình thực

hiện pháp luật về bầu cử của một số nước trên thế giới, một số địa phương ở

là thành phố trực thuộc tỉnh ở miền Bắc và miền Trung để rút ra kinh nghiệm

trong quá trình thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố Huế, tỉnh Thừa

Thiên Huế.

Những nội dung lý luận thực hiện pháp luật về bầu cử tại chương 1 là

luận cứ khoa học để phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về bầu

cử tại địa bàn thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế tại chương 2.

40

Chương 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ

TẠI THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

2.1. Điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế xã hội tác động đến thực hiện

pháp luật về bầu cử của thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội

Thành phố Huế là thành phố trực thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế, thuộc vùng

đồng bằng duyên hải miền Trung Việt Nam. Dưới thời phong kiến, Thành

phố Huế từng là kinh đô của Việt Nam dưới triều nhà Nguyễn (1802 - 1945).

Ngày nay, với diện tích tự nhiên 71,68 km2, thành phố Huế là trung tâm

chính trị - kinh tế, văn hóa - xã hội và khoa học - kỹ thuật của Tỉnh. Với vai

trò là trung tâm đa chức năng, Huế được Chính phủ công nhận là đô thị loại

một, là đô thị trung tâm cấp quốc gia trọng điểm kinh tế miền Trung nên tập

trung nhiều thành phần trong xã hội cùng sinh sống, học tập và làm việc.

Huế là trung tâm Phật giáo lớn của cả nước với hàng trăm chùa lớn nhỏ.

Người Huế từ nhỏ đã biết chắp tay cúi lạy, đã biết niệm Nam mô A di đà Phật

và được đến với chùa vào các dịp rằm hay lễ tết nên tư tưởng Phật giáo thấm

nhuần trong người Huế. Chính vì vậy, con người Huế được nhận xét chung là

trầm lặng, kín đáo trong lề lối ứng xử, phong cách giao tiếp, phong cách sống

rất dè dặt, ít bày tỏ những chính kiến riêng. Ở Huế, vai trò người đàn ông

trong gia đình được đề cao, đặc biệt là người chồng, người cha có một ví trị

hết sức quan trọng, là trụ cột của cả gia đình. Người cha, người chồng trong

gia đình có quyền quyết định mọi chuyện của gia đình, người phụ nữ và con

cái trong gia đình luôn nhất quán theo ý kiến của cha, ông.

Chính đặc điểm riêng có này của vùng đất Huế đã ảnh hưởng không nhỏ

đến công tác lập danh sách cử tri, công tác tuyên truyền, phổ biến về bầu cử;

41

ảnh hưởng quyền ứng cử của công dân, ảnh hưởng đến chính kiến trong bầu

cử và các công tác khác liên quan đến hoạt động bầu cử.

2.1.2. Điều kiện chính trị- hành chính

Hiện nay, Thành phố Huế có 27 đơn vị hành chính cấp phường, dân số

thành phố là 354.124 người với đại đa số là người kinh, có một phần nhỏ là

dân tộc Cơtu, Tà Ôi, Vân Kiều. Thành phố Huế có 4 tôn giáo là Phật giáo,

Công giáo, Cao đài, Tin lành. Tín đồ các tôn giáo chiếm 60% dân số toàn

thanh phố. Đa phần tôn giáo ở Thành phố Huế có quan hệ gần gũi với chính

quyền, tích cực tham gia vào các phong trào thi đua yêu nước, chấp hành

nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tình hình an

ninh tôn giáo cơ bản ổn định, các thành phần tôn giáo tích cực xây dựng cuộc

sống hài hòa “tốt đời - đẹp đạo”, tích cực xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân

tộc, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương.

Tuy nhiên, có không ít những thành phần, tổ chức phản động, lợi dụng tôn

giáo, lợi dụng những vụ việc bức xúc trong nhân dân để gây kích động, lôi

kéo nhiều thành phần gây mất an ninh trật tự trên địa bàn. Đặc điểm này ảnh

hưởng không nhỏ đến công tác triển khai bầu cử của thành phố Huế trong thời

gian qua.

2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố Huế, tỉnh

Thừa Thiên Huế

2.2.1. Về chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện pháp luật về bầu cử

Quán triệt tinh thần Chỉ thị số 51-CT/TW ngày 04/01/2015 của Bộ

Chính trị về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại

biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021, Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày

13/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức cuộc bầu cử đại biểu Quốc

hội khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021, Tỉnh

ủy Thừa Thiên Huế đã ban hành Chỉ thị số 02-CT/TU ngày 25/01/2016 về

42

lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND

các cấp nhiệm kỳ 2016-2021.

Thực hiện Kế hoạch số 01/KH-UBBC ngày 02/02/2016 của UBBC tỉnh

Thừa Thiên Huế về việc triển khai công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa

XIV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021 và để cuộc bầu cử đại

biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu HĐND các cấp được tổ chức đảm bảo dân

chủ, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm và thực sự là ngày hội của toàn dân,

công tác chỉ đạo bầu cử của Thành phố đã được tiến hành khẩn trương,

nghiêm túc.

Để đảm bảo tốt công tác lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa

XIV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021, Thường vụ

Thành ủy đã ban hành Quyết định số 71-QĐ/TU ngày 01/02/2016 về việc

thành lập Ban chỉ đạo bầu cử gồm 16 thành viên; Ban Chỉ đạo công tác bầu cử

đã ban hành Thông báo số 51-TB/BCĐ ngày 16/02/2016 về việc phân công

nhiệm vụ trong Ban Chỉ đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu

cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 cho các đồng chí trong Ban

chỉ đạo. Thường vụ Thành ủy ra Thông báo số 50-TB/TU ngày 16/02/2016 về

công tác chỉ đạo bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và HĐND các cấp,

nhiệm kỳ 2016-2021; Thông báo số 59-TB/TU ngày 01/3/2016 về công tác

nhân sự ứng cử đại biểu HĐND Phường, nhiệm kỳ 2016-2021. Đồng thời, chỉ

đạo Thường vụ Đảng ủy các phường thành lập Ban chỉ đạo của 27 phường để

lãnh đạo và chỉ đạo toàn diện công tác bầu cử trên địa bàn, trên cơ sở đó phân

công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên Ban Chỉ đạo bầu cử ở các phường.

UBND Thành phố đã ban hành Quyết định số 617/QĐ-UBND ngày

04/02/2016 về việc thành lập UBBC đại biểu HĐND thành phố gồm 15 thành

viên; UBBC Thành phố đã ban hành Quyết định số 04/QĐ-UBBC ngày

19/02/2016 về việc phân công công việc cho các thành viên UBBC thành phố.

43

Sau khi thống nhất với UBND, Thường trực HĐND và Ban Thường trực

UBMT Thành phố, UBBC Thành phố đã ban hành Kế hoạch số 01/KH-UBBC

ngày 04/02/2016 để chỉ đạo và hướng dẫn cơ quan, đơn vị, tổ chức có liên quan

về nội dung công việc, thời hạn của các bước tiến hành bầu cử đại biểu Quốc

hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021.

UBND 27 Phường đã thành lập 27 UBBC gồm 297 thành viên để chỉ

đạo việc tổ chức bầu cử đại biểu HĐND ở địa phương. Theo đó, UBBC các

phường đã ban hành Kế hoạch triển khai các nội dung công việc, thời hạn của

các bước tiến hành bầu cử theo quy định.

Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố Huế đã xây dựng

kế hoạch số 16/2016/KH-UBMT ngày 03/2/2016 triển khai thực hiện công tác

bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ

2016 – 2021.

2.2.2. Về lâp kế hoạch thực hiện pháp luật về bầu cử

* Về công bố ngày bầu cử:

Ngay sau khi UBTVQH ấn định và công bố ngày bầu cử đại biểu Quốc

hội khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021 vào

ngày Chủ nhật 22/5/2016, từ ngày 25/01/2016 đến ngày 30/01/2016 UBND

Thành phố và UBND các phường thuộc địa bàn Thành phố Huế đã đồng loạt

phối hợp với các đơn vị có liên quan để tổ chức hội nghị triển khai về ngày

bầu cử, chủ trương và kế hoạch bầu cử đại viểu Quốc hội và đại biểu HĐND

đến toàn bộ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động nhằm chuẩn bị

công tác bầu cử được tiến hành một cách thắng lợi nhất.

* Về thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử:

- Thành lập UBBC:

Thực hiện Điều 21 Luật Bầu cử; Điều 3 Thông tư số 02/2016/TT-BNV

ngày 01/02/2016 của Bộ Nội vụ về hướng dẫn nghiệp vụ công tác tổ chức bầu

44

cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-

2021, đồng thời sau khi thống nhất với Thường trực HĐND thành phố và Ban

Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố, UBND Thành phố Huế đã

ban hành Quyết định số 617/QĐ-UBND ngày 04/02/2016 về việc thành lập

UBBC Đại biểu Quốc hội khóa XIV và Đại biểu HĐND thành phố, nhiệm kỳ

2016 – 2021 bao gồm 15 thành viên là những người có phẩm chất chính trị, đạo

đức tốt, được quần chúng tín nhiệm, hiểu biết pháp luật và có kinh nghiệm thực

hiện công tác bầu cử tham gia vào các tổ chức phụ trách bầu cử.

Tại các Phường, UBND các phường cũng đã thành lập 27 UBBC phường

với 297 thành viên.

- Thành lập các Ban bầu cử:

Ban bầu cử đại biểu Quốc hội:

Thực hiện khoản 1 Điều 24 Luật Bầu cử, theo yêu cầu của UBND Tỉnh

Thừa Thiên Huế, UBND Thành phố Huế đã cử các đại diện gồm đại diện lãnh

đạo UBND, Thường trực HĐND, Trưởng phòng Nội vụ tham gia Ban bầu cử

đại biểu Quốc hội khóa XIV của Tỉnh.

Ngày 11/3/2016, UBND Tỉnh đã ban hành Quyết định số 450/QĐ-

UBND về việc thành lập Ban bầu cử đại biểu Quốc hội số 2 bao gồm Thành

phố Huế và Thị xã Hương Thủy thuộc đơn vị bầu cử số 2 của tỉnh Thừa Thiên

Huế. Ban bầu cử đại biểu Quốc hội đơn vị bầu cử số 2 đã ban hành Công văn

số 02/BBCQH2 ngày 29/4/2016 về việc phân công công việc của các thành

viên Ban bầu cử Quốc hội số 2 và Thông báo số 03/BBCQH2-TB về việc

kiểm tra công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV trên địa bàn thành phố

Huế và thị xã Hương Thủy tỉnh Thừa Thiên Huế và phân công thành viên

theo dõi chỉ đạo các địa phương trong ngày bầu cử.

Ban bầu cử đại biểu HĐND Tỉnh:

45

Thực hiện khoản 2 Điều 24 Luật Bầu cử về thành lập Ban bầu cử đại

biểu Quốc hội, theo yêu cầu của UBND Tỉnh Thừa Thiên Huế, UBND Thành

phố Huế đã cử các đại diện lãnh đạo UBND, HĐND thành phố Huế và các

đại diện lãnh đạo UBND, ban ngành đoàn thể phường tham gia Ban bầu cử

đại biểu HĐND Tỉnh Thừa Thiên Huế.

Theo đó, nhằm tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn về bầu cử

trên địa bàn thành phố Huế được thành công và đúng quy định, đến ngày

11/3/2016, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã ban hành các Quyết định số

455/QĐ-UBND, Quyết định số 456/QĐ-UBND, Quyết định số 457/QĐ-

UBND, Quyết định số 458/QĐ-UBND về việc thành lập 04 Ban bầu cử đại

biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế với 44 người gồm đại diện cơ quan nhà

nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội. Ban bầu cử

gồm Trưởng ban, các Phó Trưởng ban và các Ủy viên của 04 đơn vị bầu cử

tại các Đơn vị bầu cử số 4;5;6 và 7.

Ban bầu cử đại biểu HĐND Thành phố:

Ngay sau khi UBBC thành phố Huế ấn định số đơn vị bầu cử, danh sách

các đơn vị bầu cử và số lượng đại biểu được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử đại biểu

HĐND Thành phố, nhiệm kỳ 2016-2021 đến ngày 10/3/2016, sau khi thống

nhất với Thường trực HĐND và Ban thường trực ủy ban MTTQ Việt Nam

cùng cấp, UBND thành phố ban hành các Quyết định về việc thành lập 08

Ban bầu cử đại biểu HĐND trên địa bàn Thành phố Huế tương ứng 08 Đơn vị

bầu cử Thành phố. Mỗi Ban bầu cử gồm có 09 thành viên. Số lượng thành

viên 8 Ban bầu cử thành phố là 72 người.

Ban bầu cử đại biểu HĐND các phường:

Các UBND phường đã thống nhất với Thường trực HĐND và Ban

thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam cùng cấp về việc thành lập Ban bầu cử

đại biểu HĐND cấp phường.

46

Tính đến hết ngày 13/3/2016, UBND 27 phường thuộc thành phố Huế đã

thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử đại biểu HĐND một Ban bầu cử có từ 07 đến

09 thành viên gồm đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính

trị - xã hội, tổ chức xã hội, đại diện cử tri ở địa phương. Theo đó, UBND 27

phường đã ban hành 169 quyết định thành lập 169 Ban bầu cử với Số lượng

thành viên Ban bầu cử phường là 1418 người.

- Thành lập các Tổ bầu cử:

Tính đến ngày 02/4/2016 trên địa bàn thành phố Huế, các Tổ bầu cử đã

được thành lập đúng quy định:

+ Tại các phường, sau khi thống nhất với Thường trực HĐND và Ban

thường trực Ủy ban MTTQ Phường, UBND các phường hoàn thành việc

thành lập 186 Tổ bầu cử tương ứng 186 Khu vực bỏ phiếu tại 169 Đơn vị bầu

cử để thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp

ở 27 phường thuộc thành phố với số lượng thành viên là 3.813 người.

+ Tại các đơn vị lực lượng vũ trang bao gồm: Công an tỉnh Thừa Thiên

Huế; Cảnh sát phòng cháy chữa cháy; Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh

Thừa Thiên Huế; Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thừa Thiên Huế; Bệnh viện Quân

y 268 và Công an thành phố Huế đã thành lập 06 Tổ bầu cử độc lập tương

ứng tại 06 khu vực được phê chuẩn khu vực bỏ phiếu riêng với số lượng

thành viên là 52 người.

+ UBBC thành phố Huế đã ban hành Quyết định số 05/QĐ-UBND ngày

22/02/2015 về việc trưng tập cán bộ, công chức tham gia vào công tác bầu cử

đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021

đối với 17 thành viên và Công văn số 06/UBBC ngày 22/02/2016 về phân

công công việc cho cán bộ công chức trưng tập tham gia theo từng đơn vị bầu

cử của thành phố. UBND thành phố thành lập Tổ giúp việc gồm 14 thành viên

để tham mưu, giúp việc cho UBBC thành phố Huế. Tại các phường, tính đến

47

ngày 24/02/2016 UBND các phường cũng thành lập các Tiểu ban giúp việc

cho UBBC phường trong quá trình thực hiện bầu cử.

* Về tổ chức các hội nghị quán triệt, phổ biến, hội nghị hiệp thương:

- Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Thường vụ Thành ủy, UBND thành

phố đã tổ chức Hội nghị triển khai công tác bầu cử trong cán bộ chủ chốt gồm

thủ trưởng các ban ngành, thủ trưởng các đơn vị Trung ương, Tỉnh có liên

quan, các đơn vị lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn, UBND phường, UBBC

phường, các Ban bầu cử Tỉnh trên địa bàn Thành phố, các Ban bầu cử Thành

phố, các Ban bầu cử phường, các Tổ bầu cử để quán triệt các chỉ thị triển khai

bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm

kỳ 2016-2021, UBND các phường cũng đã đồng loạt tổ chức hội nghị cán bộ

chủ chốt để quán triệt và triển khai công tác bầu cử.

- Trên địa bàn thành phố Huế đã tiến hành tổ chức Hội nghị giới thiệu

người ứng cử và lấy ý kiến nhận xét, tín nhiệm của cử tri nơi công tác của các

cơ quan, tổ chức, đơn vị và tổ dân phố, thành phần và số lượng cử tri tham dự

các hội nghị đều đảm bảo và đạt trên 2/3 số cử tri được triệu tập; đã có nhiều

ý kiến bày tỏ nhận xét và tín nhiệm của mình đối với người được giới thiệu

ứng cử. Kết quả như sau:

+ Cấp thành phố đã có 67 người được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND

thành phố và được cử tri tín nhiệm 100%, hồ sơ người ứng cử được gửi đến

UBBC thành phố theo đúng quy định;

+ Cấp phường đã có 1223 người được giới thiệu ứng cử với sự tín

nhiệm cao và đến cuối ngày 13/3/2016, UBBC các phường đã nhận thêm 04

hồ sơ tự ứng cử (trong đó Kim Long 01 người và Thuận Thành 03 người tự

ứng cử) nâng tổng số người ứng cử HĐND cấp phường lên 1227 người.

- Quá trình giới thiệu người ứng cử của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và

tổ dân phố đảm bảo đúng thành phần, trình tự và thời gian. Tuy nhiên, việc tổ

48

chức giới thiệu người ra ứng cử, tại một số cơ quan, tổ chức, đơn vị vẫn có sự

nhầm lẫn về trình tự, thời gian tổ chức các hội nghị, thành phần tham dự,

người chủ trì hội nghị..., qua quá trình theo dõi giám sát, Ban Thường trực Ủy

ban MTTQ thành phố và các phường đã hướng dẫn cho các cơ quan, tổ chức,

đơn vị kịp thời điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung đảm bảo thời gian và nội dung

yêu cầu.

- Ban thường trực Ủy ban MTTQ Thành phố, Phường tổ chức Hội nghị

Hiệp thương lần thứ nhất với thành phần gồm Ban thường trực UB MTTQ,

đại diện ban lãnh đạo các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại diện UBBC,

Thường trực HĐND, UBND cùng cấp. Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất

thỏa thuận về cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử đại

biểu HĐND của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội,

đơn vị vũ trang, cơ quan Nhà nước cùng cấp và của đơn vị sự nghiệp, tổ chức

kinh tế, các đơn vị hành chính, cấp dưới trên địa bàn.

+ Ở cấp thành phố: Số đại biểu được bầu là 40 đại biểu; Số người dự

kiến giới thiệu ứng cử là 67 (trong đó: nữ 25 người chiếm 37,31%, trẻ dưới 35

tuổi 17 người chiếm 25,57%, ngoài Đảng 08 người chiếm 11,94% và tái cử 15

người chiếm 37,5%)

+ Ở cấp phường: Số đại biểu được bầu là 698 đại biểu; Số người dự kiến

giới thiệu ứng cử là 1.245 (trong đó: nữ 472 người chiếm 37,82%, trẻ dưới 35

tuổi 287 người chiếm 22,99%, ngoài Đảng 365 người chiếm 29,24% và tái cử

436 người chiếm 62,4%).

Với tinh thần trách nhiệm của mình, Ban thường trực Ủy ban MTTQ

Việt Nam và các tổ chức thành viên về cơ bản đã đồng tình với dự kiến của

Thường trực HĐND. Đồng thời cũng đã có những đề nghị với Thường trực

HĐND xem xét, điều chỉnh về tỷ lệ nữ, trẻ, ngoài Đảng; xác định cụ thể số

lượng ứng cử viên cho từng cơ cấu thành phần theo cơ quan, tổ chức, đơn vị

49

đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật; chú ý đến cơ cấu của các thành

phần kinh tế, nhất là những đơn vị kinh tế có vị trí quan trọng trong nền kinh

tế thành phố như: du lịch, thương mại, công nghiệp, dịch vụ…

Căn cứ vào kết quả Hiệp thương lần thứ nhất, Thường trực HĐND

Thành phố, Phường điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ

quan, tổ chức, đơn vị, địa phương được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND cấp

mình.

- Thành phố, Phường tập trung tiến hành hội nghị Hiệp thương lần thứ 2

để lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu HĐND các cấp.

+ Ở cấp thành phố: Tổng số đại biểu được bầu là 40 đại biểu. Tại hội

nghị hiệp thương lần thứ hai, các đại biểu đã thống nhất để lập danh sách sơ

bộ những người ứng cử đại biểu HĐND gồm 67 người. Trong đó: Nữ: 25

người, chiếm tỉ lệ 37,31%; Trẻ: 17 người, chiếm 25,37%; Ngoài Đảng: 8

người, chiếm 11,94%; Tái cử: 15 người, chiếm 37,5%.

+ Ở cấp phường: Tổng số đại biểu được bầu là 698 đại biểu. Tại hội nghị

hiệp thương lần thứ hai, các đại biểu đã thống nhất để lập danh sách sơ bộ

những người ứng cử đại biểu HĐND gồm 1.227 người. Trong đó: Nữ: 474

người, chiếm tỉ lệ 38,63%; Trẻ: 309 người, chiếm 25,18%; Dân tộc: 1 người,

chiếm 0,0008 %; Ngoài Đảng: 387 người, chiếm 31,54%; Tái cử: 423 người,

chiếm 60,60%.

- Thành phố, Phường tập trung tiến hành hội nghị Hiệp thương lần thứ

ba. Hội nghị hiệp thương lần thứ ba căn cứ vào tiêu chuẩn của đại biểu

HĐND, cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử của cơ

quan, tổ chức, đơn vị và kết quả lấy ý kiến cử tri để lựa chọn, lập danh sách

những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu HĐND Thành phố, Phường.

+ Ở cấp thành phố: Tổng số đại biểu được bầu là 40 đại biểu. Tại hội

nghị hiệp thương lần thứ ba, các đại biểu đã thống nhất lập danh sách những

50

người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu HĐND thành phố gồm 64 người. Trong

đó Nữ: 23 người, chiếm tỉ lệ 35,9%; Trẻ: 15 người, chiếm 23,4%; Ngoài

Đảng: 7 người, chiếm 10,9%; Tái cử: 15 người, chiếm 37,5%; Tôn giáo: 1

người, chiếm 2%. Trên đại học: 16 người, chiếm 25,0%; Đại học: 48 người,

chiếm 75,0%.

+ Ở cấp phường: Tổng số đại biểu được bầu là 698 đại biểu. Tại hội nghị

hiệp thương lần thứ ba, các đại biểu đã thống nhất lập danh sách những người

đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu HĐND thành phố gồm 1.155 người. Trong đó

Nữ: 442 người, chiếm tỉ lệ 38,3%; Trẻ: 286 người, chiếm 24,8%; Ngoài

Đảng: 360 người, chiếm 31,2%; Tái cử: 409 người, chiếm 58,60%; Tôn giáo:

14 người, chiếm 1,21%; Tự ứng cử: 1 người, chiếm 0,09%. Trên đại học: 12

người, chiếm 1,04%; đại học: 479 người, chiếm 41,47%; dưới đại học: 664

người, chiếm 57,5%.

- Trên cơ sở danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu HĐND, theo

quy định của Luật Bầu cử, Ủy ban MTTQ thành phố và Ủy ban MTTQ các

phường trên địa ban thành phố Huế đã tổ chức hội nghị lấy ý kiến nhận xét và

tín nhiệm của cử tri nơi cư trú.

Hội nghị tổ chức lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri nơi cư trú

trên địa bàn thành phố đã được đồng loạt tổ chức. Với đặc trưng thành phố là

địa bàn trung tâm của Tỉnh Thừa Thiên Huế nên số lượng người ứng cử đại

biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp cư trú trên địa bàn thành phố Huế có

số lượng lớn hơn các huyện, thị xã trong Tỉnh, trong đó: ứng cử đại biểu Quốc

hội có 08 người, ứng cử đại biểu HĐND Tỉnh 61 người, người ứng cử đại

biểu HĐND các địa phương khác là 191 người, ứng cử đại biểu HĐND các

phường thuộc thành phố là 1227 người và ứng cử HĐND thành phố là: 61/67

người (có 06 người ứng cử của thành phố cư trú ở các địa bàn các huyện, thị

xã). Do có sự tập huấn và chuẩn bị khá chu đáo, nhiều đơn vị đã chủ động lên

51

lịch sớm, phối hợp việc lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri nơi cư trú

đối với ứng cử viên Quốc Hội và HĐND các cấp để tổ chức cùng lúc trên địa

bàn.

Nhìn chung, việc tổ chức lấy ý kiến cử tri nơi cư trú đã được các tổ chức

phụ trách bầu cử tổ chức chu đáo, đúng luật và đúng lịch, đảm bảo dân chủ,

công khai. Thành phần người ứng cử và đại diện các cơ quan, tổ chức, đơn vị,

tổ dân phố có người ứng cử đều được mời tham dự hội nghị này. Số lượng cử

tri tham dự hội nghị đảm bảo quy định từ 55 cử tri trở lên (khoản 3 Điều 2

Nghị quyết số 1134/2016/UBTVQH13). Nơi có số cử tri tham dự cao nhất là

150 cử tri, nơi thấp nhất là 57 cử tri đại diện hộ gia đình đến dự. Tuy nhiên

cũng có 02 tổ dân phố phải tổ chức lại hội nghị cử tri vì số lượng cử tri tham

dự không đủ theo quy định. Có 01 người ứng cử vắng mặt do đi công tác xa

không về kịp.

Kết quả với biểu quyết bằng hình thức giơ tay, 67 ứng cử viên đại biểu

HĐND thành phố và 1.227 ứng cử viên đại biểu HĐND cấp phường được cử

tri tín nhiệm giới thiệu.

* Về thông tin, tuyên truyền và vận động bầu cử:

- Công tác thông tin, tuyên truyền về bầu cử:

UBND thành phố Huế đã ban hành Kế hoạch số 62/KH-UBND ngày

21/02/2016 về tổ chức các hoạt động chào mừng và tuyên truyền cuộc bầu cử

đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ

2016-2021. Kế hoạch này hướng tới mục đích làm cho mọi người nhận thức

rõ vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của cuộc bầu cử; nêu cao trách nhiệm,

nghĩa vụ công dân trong việc tham gia thực hiện bầu cử, lựa chọn, bầu ra

những người tiêu biểu về đức, tài, xứng đáng là đại diện cho ý chí, nguyện

vọng và quyền làm chủ của nhân dân trong Quốc hội và HĐND các cấp

nhiệm kỳ 2016 – 2021.

52

Để tăng cường chỉ đạo các ngành, các địa phương triển khai thực hiện

công tác tuyên truyên bầu cử nghiêm túc, hiệu quả, đúng tiến độ, UBND

Thành phố chia hoạt động tuyên truyền thành 3 đợt vào những thời điểm khác

nhau, với các nội dung cần tập trung tuyên truyền khác nhau.

Để công tác tuyên truyền, phổ biến về bầu cử được sâu, rộng và đạt hiệu

quả, UBND thành phố Huế đã phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ quan

đơn vị:

+ Phòng Văn hóa và Thông tin Thành phố Huế: hướng dẫn, kiểm tra,

đôn đốc các cơ quan tuyên truyền của Thành phố, UBND các Phường tổ chức

các hoạt động thông tin, tuyên truyền cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa

XIV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021; thực hiện theo

dõi, tổng hợp các hoạt động thông tin, tuyên truyền trên địa bàn báo cáo theo

quy định.

+Trung tâm Văn hóa Thành phố Huế: xây dựng Kế hoạch tổ chức tuyên

truyền cổ động trực quan, tuyên truyền lưu động; phối hợp với các ban, ngành

tổ chức các hoạt động văn nghệ chào mừng.

+ Đài Truyền thanh Thành phố, Cổng Thông tin điện tử Thành phố: mở

các chuyên mục, chuyên đề đăng tải, giới thiệu điểm mới của Luật Bầu cử;

phân tích về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND; các danh sách

các ứng viên, tiểu sử những người ứng cử...; sử dụng hình thức phỏng vấn, tọa

đàm, phóng sự, đăng tải ý kiến cử tri, ý kiến của người ứng cử... Thông báo

về diễn biến và kết quả bầu cử. Chuẩn bị các điều kiện để thông tin, phản ánh

các hoạt động diễn ra trong thời gian trước, trong và sau cuộc bầu cử.

+ Các cơ quan, ban ngành, đoàn thể thuộc Thành phố, UBND các

Phường: tuyên truyền sâu rộng, đậm nét về công tác bầu cử đến mọi tầng lớp

nhân dân.

53

Công tác tuyên truyền được đẩy mạnh dưới nhiều hình thức như: qua các

phương tiện thông tin đại chúng, cổ động trực quan, qua hội nghị tiếp xúc cử

tri, họp dân.

- Vận động bầu cử:

Ban thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố Huế chủ trì phối

hợp với UBND thành phố, Thường trực HĐND chọn địa điểm và xây dựng

lịch tiếp xúc cử tri. Ban thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố đã tổ

chức 23 buổi tiếp xúc cử tri với ứng cử viên đại biểu Quốc hội, đại biểu

HĐND Tỉnh và đại biểu HĐND thành phố. Ban thường trực Ủy ban MTTQ

Việt Nam 27 phường đã chủ trì và tổ chức 169 buổi tiếp xúc cử tri với ứng cử

viên đại biểu HĐND phường với 4.647 lượt cử tri tham dự tiếp xúc với người

ứng cử đại biểu Quốc hội và HĐND tỉnh, thành phố; có 182 lượt cử tri phát

biểu ý kiến với 466 ý kiến tham gia gửi gắm đến các ứng cử viên đại biểu

Quốc hội và HĐND Tỉnh, thành phố.

Các hội nghị tiếp xúc cử tri vận động bầu cử diễn ra trong không khí

nghiêm túc, trật tự, đoàn kết, tin tưởng. Cử tri đã phát huy dân chủ, nhiệt tình

tham gia ý kiến đóng góp để xây dựng và phát triển với thành phố và tỉnh,

đóng góp ý kiến và gởi gắm niềm tin vào các ứng cử viên; mong muốn đại

biểu Quốc hội và HĐND các cấp sẽ phát huy vai trò, nâng cao trách nhiệm

trong việc xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới; đề ra các

quyết sách đúng đắn, giám sát việc thực hiện các chủ trương chính sách của

Nhà nước kịp thời, hiệu quả để các chủ trương chính sách thực sự đi vào đời

sống của nhân dân.

Các chương trình hành động của ứng cử viên đều hướng đến những

nhiệm vụ của người đại biểu HĐND, tích cực góp phần nâng cao hiệu lực,

hiệu quả hoạt động của Quốc hội, HĐND đáp ứng ngày càng tốt hơn sự

nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng đất

54

nước và quê hương ngày càng phát triển. Tùy theo vị trí công tác và đặc điểm

ngành nghề của mình, nhiều ứng cử viên đã trình bày suy nghĩ và định hướng

hoạt động của mình nếu trúng cử và nhận được sự đồng tình cao của cử tri

thành phố.

* Về bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong bầu cử:

Công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong bầu cử

được thành phố Huế đặc biệt chú trọng. Ban chỉ đạo bầu cử, UBBC, UBND

thành phố đã chỉ đạo Công an thành phố, Ban Chỉ huy quân sự Thành phố và

Công an các phường, Ban Chỉ huy quân sự các phường, Dân quân tự vệ các

phường xây dựng kế hoạch và phương án cụ thể để bảo đảm an ninh chính trị,

trật tự an toàn xã hội, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho cuộc bầu cử, đặc biệt lên

phương án tuần tra canh gác tại các địa điểm Khu vực bỏ phiếu, niêm yết

danh sách cử tri, danh sách chính thức, tiểu sử tóm tắt của ứng cử viên.

Công an, Quân sự đã phối hợp tham mưu cấp ủy và chính quyền quản lý

vũ khí, vật liệu nổ, phòng cháy, chữa cháy, tuyệt đối không để xảy ra cháy nổ

trong ngày bầu cử; Công tác trật tự an toàn giao thông trong ngày bầu cử

được đảm bảo thông suốt.

Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội thời gian trước, trong

và sau ngày bầu cử trên địa bàn thành phố Huế cơ bản ổn định; không khí vui

tươi, lành mạnh, an toàn. Công an thành phố, Ban chỉ huy Quân sự thành phố,

lực lượng dân phòng các địa phương đã triển khai tốt kế hoạch bảo vệ cuộc

bầu cử, không có vấn đề gì phức tạp lớn nảy sinh.

* Lập và niêm yết danh sách cử tri, người ứng cử:

UBBC tại các phường trên địa bàn thành phố Huế đã lập danh sách cử

tri, tiến hành hết sức cẩn thận nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của cử tri:

xác định, phân loại cử tri được quyền bầu cử đối với từng cấp đại biểu HĐND

và các trường hợp không được tham gia bỏ phiếu, áp dụng các biện pháp hành

55

chính về quản lý hộ khẩu, nhân thân; tiến hành rà soát những người có đăng

ký thường trú, tạm trú, những người đi lao động xa; những trường hợp là học

sinh nội trú… Danh sách cử tri do UBND phường lập theo từng khu vực bỏ

phiếu. Danh sách cử tri trong đơn vị lực lượng vũ trang do chỉ huy đơn vị lập

theo đơn vị lực lượng để đưa vào danh sách cử tri của khu vực bỏ phiếu nơi

đơn vị đóng quân.

Công tác niêm yết danh sách cử tri được tiến hành nghiêm túc, đúng quy

định và thời hạn. Niêm yết danh sách cử tri tại trụ sở UBND các phường và

những địa điểm công cộng của khu vực bỏ phiếu, đồng thời thông báo rộng

rãi để nhân dân biết và kiểm tra.

Việc lập danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu HĐND được

các tổ phụ trách bầu cử trên địa bàn thành phố Huế tiến hành thực hiện

nghiêm túc, đúng quy định. Danh sách được ghi rõ họ, tên, ngày, tháng, năm

sinh, giới tính, quê quán, nơi thường trú, dân tộc, tôn giáo, trình độ học vấn,

chuyên môn, nghề nghiệp, chức vụ, nơi công tác của người ứng cử.

UBBC Thành phố, UBBC các Phường đã lập và Công bố Danh sách

chính thức những người ứng cử đại biểu HĐND Thành phố, Phường, nhiệm

kỳ 2016-2021 theo Đơn vị bầu cử, cụ thể ở cấp Thành phố theo 08 đơn vị bầu

cử, gồm 64 ứng cử viên, ở cấp Phường theo 169 đơn vị bầu cử gồm 1.155 ứng

cử viên.

* Về tổ chức ngày bầu cử:

Cấp ủy, chính quyền thành phố Huế đã tập trung chỉ đạo thực hiện tốt

công tác chuẩn bị bầu cử; các thành viên Ban Chỉ đạo bầu cử thành phố Huế,

UBBC thành phố Huế đã tích cực chỉ đạo, kiểm tra các đơn vị, địa phương từ

việc chuẩn bị đến tổ chức ngày bầu cử.

UBBC các phường thường xuyên báo cáo tiến độ tổ chức thực hiện công

tác chuẩn bị bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND tại địa phương để

56

UBBC thành phố kịp thời nắm bắt những diễn biến thực tế về việc thi hành

các quy định về bầu cử, qua đó, kịp thời khắc phục những khó khăn vướng

mắc trong quá trình triển khai nhằm đảm bảo đến ngày bầu cử mọi công việc

đều được chuẩn bị chu đáo.

UBND thành phố và các phường đã phối hợp, hướng dẫn các tổ chức

phụ trách bầu cử trong quá trình thực hiện công tác bầu cử như: phân công

công việc cho từng thành viên tổ bầu cử; thực hiện rà soát, kiểm tra lại toàn

bộ các phương tiện vật chất – kỹ thuật phục vụ ngày bầu cử; công tác quản lý

chặt chẽ phiếu bầu, tất cả công việc chuẩn bị nhằm đảm bảo sẵn sàng cho

cuộc bầu cử được diễn ra an toàn, dân chủ, đúng luật và đạt kết quả tốt.

Trong ngày bầu cử, các Tổ bầu cử người quan sát và hướng dẫn cử tri

cách thức bỏ phiếu theo quy định. Với tinh thần trách nhiệm của cử tri, chỉ

sau 1 giờ bầu cử đã có nhiều khu vực bỏ phiếu có 100 % cử tri đi bầu như

Bệnh viện Quân y 268, Công An Thành phố Huế, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên

Phòng tỉnh Thừa Thiên Huế, Công An Tỉnh Thừa Thiên Huế, Cảnh sát Phòng

cháy chữa cháy Tỉnh Thừa Thiên Huế…Đến thời điểm 10 giờ sáng

22/5/2016, một số phường có tỷ lệ cử tri đi bầu cao như phường Phú Hậu

96%, phường Hương Long 94,4 %, phường Phường Đúc 90 %, phường Phú

Bình 90%...

Sau 19 giờ tối cùng ngày các Tổ bầu cử đã tuyên bố kết thúc bỏ phiếu và

tiến hành kiểm phiếu (kiểm kê, kiểm tra, kiểm đếm và phân loại phiếu bầu),

niêm phong phiếu với sự chứng kiến của cử tri bảo đảm đúng luật. Sau khi

nhận và kiểm tra lại các tài liệu và biên bản của UBBC các phường gửi lên,

UBBC thành phố gửi về UBBC Tỉnh đúng theo quy định.

* Về công bố kết quả bầu cử:

57

Thực hiện khoản 2 Điều 86 Luật Bầu cử về công bố kết quả bầu cử,

UBBC thành phố Huế căn cứ vào biên bản tổng kết cuộc bầu cử của UBBC

thành phố và các phường để công bố kết quả bầu cử trên địa ban thành phố.

Ngày 30/5/2016, UBBCThành phố Huế đã có công bố số 66/CB-UBBC

về kết quả bầu cử đại biểu HĐND thành phố, khóa XII, nhiệm kỳ 2016-2021

với nội dung như sau:

- Kết quả bầu cử đại biểu HĐND Thành phố, khóa XII, nhiệm kỳ

2016-2021:

Tổng số đại biểu được ấn định cho HĐND Thành phố: 40 đại biểu

Tổng số đại biểu HĐND Thành phố đã bầu được: 40 đại biểu

Số lượng đơn vị bầu cử: 08 đơn vị

Tổng số cử tri trong danh sách: 275.525 cử tri

Số cử tri đã tham gia bỏ phiếu: 275.491 cử tri

Tỷ lệ cử tri đi bầu so với cử tri trong danh sách: 99,99 %

Số phiếu phát ra: 275.49 phiếu

Số phiếu thu vào: 275.380 phiếu (đạt 99,96% so với số phiếu phát ra)

Số phiếu hợp lệ: 272.816 phiếu (đạt 99,07% so với số phiếu thu vào)

Số phiếu không hợp lệ: 2.564 phiếu (đạt 0,93% so với số phiếu thu vào)

Người trúng cử có số phiếu cao nhất: 79,71% so với số phiếu hợp lệ

Người trúng cử có số phiếu thấp nhất: 56,67% so với số phiếu hợp lệ

Đại biểu trúng cử dưới: 35 tuổi: 04 đạt tỉ lệ: 10,00%

Đại biểu trúng cử là Nữ: 11 đạt tỉ lệ 27,50%

Đại biểu trúng cử là tôn giáo: 02 đạt tỉ lệ 5,00%

Đại biểu trúng cử tái cử: 13 đạt tỉ lệ 32,50%

Đại biểu trúng cử ngoài Đảng: 01 đạt tỉ lệ 2,50%

Về trình độ chuyên môn:

Đại biểu trúng cử có trình độ Cao đẳng: 01 đạt tỉ lệ 2,50%

58

Đại biểu trúng cử có trình độ Đại học: 27 đạt tỉ lệ 67,50%

Đại biểu trúng cử có trình độ sau Đại học: 12 đạt tỉ lệ 30,00%

Về trình độ lý luận chính trị:

Đại biểu trúng cử có trình độ Trung cấp: 12 đạt tỉ lệ 30,00%

Đại biểu trúng cử có trình độ Cao cấp; Cử nhân: 25 đạt tỉ lệ 62,50%

- Kết quả bầu cử đại biểu HĐND 27 phường

Tổng số cử tri ghi trong danh sách: 240.502 người

Tổng số cử tri đã đi bầu: 240.493 người

Số phiếu phát ra: 240.493

Số phiếu thu vào: 240.391 đạt 99,96% so với số phiếu phát ra

Số phiếu hợp lệ: 237.713 đạt 99,89% so với số phiếu thu vào

Số phiếu không hợp lệ: 2.678 đạt 1,11% so với số phiếu thu vào

Số đại biểu được bầu: 698 người; Số đại biểu trúng cử: 694 đại biểu

Có 4 đơn vị bầu thiếu 01 đại biểu (phường An Hòa; phường Phú Bình;

phường Phước Vĩnh; phường Thủy Biều) số người trúng cử đại biểu HĐND

đều đảm bảo quá hai phần ba số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn

vị bầu cử.

Đại biểu trúng cử dưới 35 tuổi: 156 đạt tỉ lệ: 22,48%

Đại biểu trúng cử là Nữ: 212 đạt tỉ lệ 30,55%

Đại biểu trúng cử là dân tộc thiểu số: 01 đạt tỉ lệ: 0,144%

Đại biểu trúng cử là tôn giáo: 47 đạt tỉ lệ 6,77%

Đại biểu trúng cử tái cử: 352 đạt tỉ lệ 50,72%

Đại biểu trúng cử ngoài Đảng: 115 đạt tỉ lệ 16,6%

Về trình độ chuyên môn:

Đại biểu trúng cử có trình độ Trung cấp: 109 đạt tỉ lệ 15,71%

Đại biểu trúng cử có trình độ Cao đẳng: 23 đạt tỉ lệ 3,31%

Đại biểu trúng cử có trình độ Đại học: 371 đạt tỉ lệ 53,46%

59

Đại biểu trúng cử có trình độ sau Đại học: 14 đạt tỉ lệ 2,02%

Về trình độ lý luận chính trị:

Đại biểu trúng cử có trình độ Trung cấp: 342 đạt tỉ lệ 49,28%

Đại biểu trúng cử có trình độ Cao cấp; Cử nhân: 24 đạt tỉ lệ 3,46%

2.2.3. Về tổ chưc bộ máy, nhân sự thực hiện pháp luật về bầu cử

* Về tổ chưc bộ máy, nhân sự tại UBND thành phố Huế:

Ngày 04/02/2016, UBND thành phố Huế ban hành Quyết định số

617/QĐ-UBND về việc thành lập UBBC Đại biểu Quốc hội khóa XIV và Đại

biểu HĐND thành phố, nhiệm kỳ 2016 – 2021 bao gồm 15 thành viên như:

Chủ tịch HĐND thành phố; Chủ tịch UBND thành phố; Phó Chủ tịch HĐND

thành phố; Chủ tịch UBMT TQVN thành phố; Trưởng phòng Nội vụ; Trưởng

Ban Tổ chức Thành ủy; Trưởng Công an thành phố; Chỉ huy Trưởng ban chỉ

huy quân sự thành phố; Chánh Văn phòng HĐND&UBND thành phố; Trưởng

phòng Tài chính thành phố; Bí thư Thành đoàn; Chủ tịch Hội Phụ nữ thành

phố; Chủ tịch liên đoàn lao động thành phố; Chủ tịch Hội nông dân thành phố;

Chủ tịch Hội cựu chiến binh thành phố. Đây là những người có phẩm chất

chính trị, đạo đức tốt, được quần chúng tín nhiệm, hiểu biết pháp luật và có

kinh nghiệm thực hiện công tác bầu cử tham gia vào các tổ chức phụ trách bầu

cử.

Bên cạnh đó, UBBC thành phố đã ban hành Quyết định số 05/QĐ-UBBC

ngày 22/02/2015 về việc trưng tập cán bộ, công chức các phòng chuyên môn

các ban ngành thuộc thành phố Huế tham gia vào công tác bầu cử đại biểu

Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021 bao gồm

17 thành viên. Đồng thời đã ban hành văn bản phân công số 06/UBBC ngày

22/02/2016 về phân công công việc cho cán bộ công chức trưng tập tham gia

theo từng đơn vị bầu cử của thành phố.

60

Phòng Nội vụ là cơ quan chủ trì tham mưu UBND thành phố triển khai

thực hiện có hiệu quả công tác bầu cử trên địa bàn. Địa điểm làm việc của

UBBC thành phố được đặt tại phòng Nội vụ thành phố.

* Về tổ chưc bộ máy, nhân sự tại UBND các Phường:

Đến ngày 07/02/2016, UBND các phường cũng đã thành lập 27 UBBC

phường với 297 thành viên như: Chủ tịch HĐND phường; Chủ tịch UBND

phường; Phó Chủ tịch HĐND phường; Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam

phường; Trưởng Công an phường; Phường đội Trưởng; công chức Văn phòng

- thống kê phường; Bí thư đoàn phường; Chủ tịch Hội cựu chiến binh phường.

Đây là những người có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, được quần chúng tín

nhiệm, hiểu biết pháp luật và có kinh nghiệm thực hiện công tác bầu cử tham

gia vào các tổ chức phụ trách bầu cử.

UBND các phường cũng đã thành lập các Tiểu ban giúp việc cho UBBC

phường như: Tiểu ban tuyên truyền có 5 thành viên; Tiểu ban bảo vệ chính trị

nội bộ, giải quyết khiếu nại tố cáo có 5 thành viên; Tiểu ban chỉ đạo công tác

tổ chức, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, trật tự đô thị có 11 thành

viên; Tiểu ban phục vụ ngân sách và đời sống có 16 thành viên; Tiểu ban tổng

hợp có 7 thành viên.

Ngay sau khi UBBC phường ấn định các đơn vị bầu cử của cấp mình,

UBND thành phố hướng dẫn UBND phường thống nhất với Thường trực

HĐND và Ban thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam phường quyết định

thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử đại biểu HĐND một Ban bầu cử có từ 07 đến

09 thành viên gồm đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính

trị - xã hội, tổ chức xã hội, đại diện cử tri ở địa phương. Số lượng thành viên

Ban bầu cử phường: 1418 người tại 169 Ban bầu cử.

Đồng thời, sau khi ấn định khu vực bỏ phiếu, UBND các phường đã tiến

hành thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu 01 Tổ bầu cử. UBND các phường hoàn

61

thành việc thành lập 186 Tổ bầu cử tương ứng 186 Khu vực bỏ phiếu tại 169

Đơn vị bầu cử để thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu

HĐND các cấp ở 27 phường thuộc thành phố với số lượng thành viên: 3.813

người. Đơn vị lực lượng vũ trang thành lập 06 Tổ bầu cử độc lập tương ứng

tại 06 khu vực được phê chuẩn khu vực bỏ phiếu riêng với số lượng thành

viên: 52 người.

Nhìn chung, công tác bầu cử là nhiệm vụ trọng tâm của toàn bộ hệ thống

chính trị. Do đó, đại diện của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ

quốc và đoàn thể là nhân sự nòng cốt trong công tác thực hiện pháp luật về

bầu cử.

* Về tâp tập huấn nghiệp vụ bầu cử:

- Ngày 01/3/2016: UBBC thành phố tổ chức Hội nghị tập huấn nghiệp

vụ bầu cử đợt 1 đối với 271 cán bộ, công chức (đối tượng: Tổ cán bộ, công

chức giúp việc UBBC thành phố, Ban bầu cử đại biểu HĐND thành phố, Chủ

tịch, Phó Chủ tịch, Thư ký UBBC các phường).

- Ngày 17/4/2016 và ngày 27/4/2016: UBBC thành phố tổ chức Hội nghị

tập huấn nghiệp vụ bầu cử đợt 3 đối với 859 cán bộ, công chức và thành viên

Tổ bầu cử.

- Tại UBND các phường, trên cơ sở đã được tập huấn về nghiệp vụ bầu

cử, Chủ tịch UBBC các phường cũng đã tiến hành tổ chức tập huấn lại cho

các thành viên của các tổ bầu cử về nghiệp vụ bầu cử thuộc chức năng, nhiệm

vụ quyền hạn của Tổ bầu cử.

2.2.4. Về bảo đảm điều kiện thực hiện pháp luật về bầu cử

- Thành phố Huế đã tiến hành tổ chức thành lập bộ máy làm việc với

đội ngũ nhân sự ỏ theo quy định: 28 UBBC (01 UBBC thành phố, 27 UBBC

phường ); 177 Ban bầu cử (08 BBC thành phố, 196 BBC phường); 192 Tổ

bầu cử (186 TBC tại các phường, 06 TBC tại các đơn vị lực lượng vũ trang);

62

312 thành viên UBBC của thành phố và các phường; 1940 thành viên Ban

bầu cử của thành phố và các phường; 3865 thành viên Tổ bầu cử.

- Để bảo đảm công tác chuẩn bị cho bầu cử được kịp thời theo đúng tiến

độ, trong thời gian chờ nguồn kinh phí bầu cử từ Tỉnh cấp về, Thành ủy Huế

đã chỉ đạo UBND thành phố căn cứ vào dự toán ngân sách thành phố năm

2016 đã được HĐND thành phố Huế thông qua tại Nghị quyết số

18/2015/NQ-HĐND ngày 18/12/2015 của HĐND thành phố khóa XI kỳ họp

thứ 11 về dự toán ngân sách năm 2016 và Quyết định số 8880/QĐ-UBND

ngày 28/12/2015 của UBND thành phố về việc giao dự toán Ngân sách nhà

nước thành phố năm 2016, tạm ứng từ ngân sách thành phố để chi cho các

đơn vị, UBND các phường thuộc địa bàn thành phố tổ chức triển khai nhiệm

vụ. Mức chi trước mắt tạm thời bằng 60-70% theo định mức chi của đợt bầu

cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ trước. Việc tạm

ứng ngân sách được thực hiện trên tinh thần hướng dẫn tại Quyết định số

378/QĐ-UBND ngày 04/3/2016 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế về việc quy

định một số mức chi kinh phí bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu

HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 422/QĐ-

UBND ngày 09/3/2016 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế về việc kinh phí

phục vụ bầu cử.

Tổng kinh phí phục vụ công tac bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và

đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 trên địa bàn thành phố Huế là:

5.703.000.000.

Kinh phí trên đã được chi xây dựng các báo cáo, văn bản hướng dẫn; chi

in ấn tài liệu; chi vận hành trang thông tin điện tử; chi cho an ninh, trật tự,

thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn và vận động bầu cử; chi tổ chức các hội

nghị; chi cho công tác chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát; chi công tác

tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; chi phí hành chính...

63

Nhìn chung, do chủ động kinh phí, không chỉ các cơ quan, đơn vị cấp

thành phố mà UBND các phường đã thực hiện tốt lịch trình, thời gian, các

bước công việc thực hiện bầu cử trên địa bàn thành phố được đảm bảo, đạt kết

quả tốt.

- Nhằm bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác bầu cử trên địa

bàn thành phố được chu đáo, kịp thời, UBBC thành phố Huế đã nhận và phân

phối tài liệu phục vụ bầu cử gồm Luật bầu cử, Luật Tổ chức chính quyền địa

phương, tổng hợp các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ bầu cử, đĩa CD tổng hợp

các văn bản hướng dẫn bầu cử; lịch trình bầu cử của Hội đồng bầu cử Quốc

gia; các mẫu hóa biểu, bảng liên quan đến tổng hợp kết quả trước, trong và

sau ngày bầu cử… Tất cả các tài liệu, mẫu biểu, bảng đã mẫu hóa chuyển

UBBC các phường bằng văn bản giấy và file điện tử đảm bảo phục vụ tốt cho

ngày bầu cử.

2.2.5. Về hoạt động giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bầu cử;

giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bầu cử.

- Thành phố Huế đã phối hợp các cơ quan, đơn vị liên quan của thành

phố cùng với đoàn giám sát, kiểm tra của Trung ương, Ủy ban MTTQ Việt

Nam Tỉnh để kiểm tra giám sát một số điểm bầu cử trên địa bàn thành phố.

- Thường trực HĐND và UBND thành phố Huế tiến hành về cơ sở giám

sát, kiểm tra việc thành lập các tổ phụ trách bầu cử tại các phường về cơ cấu,

thành phần, số lượng thành viên Tổ bầu cử, Ban bầu cử, UBBC, việc thực

hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức phụ trách bầu cử trong suốt thời

gian trước, trong và sau ngày bầu cử; giám sát, kiểm tra việc giải quyết khiếu

nại, tố cáo của UBBC thành phố, UBBC phường về người ứng cử trên địa bàn

thành phố Huế.

- Thực tế, trong công tác giám sát về thực hiện pháp luật về bầu cử trên

địa bàn thành phố Huế, vai trò của Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố Huế

64

đã phát huy hiệu quả và toàn diện thông qua họat động hướng dẫn, chỉ đạo

đến Ủy ban MTTQ Việt Nam các phường. Thông qua các hình thức giám sát

trực tiếp như: tổ chức các Hội nghị hiệp thương, Hội nghị cử tri nơi cư trú,

Hội nghị gặp gỡ tiếp xúc giữa ứng cử viên với cử tri để vận động bầu cử và

qua hình thức gián tiếp như: tiếp dân và xử lý đơn thư khiếu nại của công dân,

phản ánh ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; tuyên truyền, vận động

cử tri thực hiện quyền bầu cử, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng,

thông qua hoạt động của các tổ chức phụ trách bầu cử, Ủy ban MTTQ Việt

Nam từ thành phố đến cơ sở đã phát huy vai trò, chức năng nhiệm vụ của

mình tích cực tham gia giám sát vào các hoạt động bầu cử ở địa phương.

Giám sát trình tự bầu cử, thể thức bỏ phiếu trong ngày bầu cử 22/5/2016 tại

các khu vực bỏ phiếu được thực hiện đảm bảo đúng theo quy định của pháp

luật.

Về tham gia vào các tổ chức phụ trách bầu cử, Thường trực HĐND,

UBND và Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội của

thành phố và các phường đã cử người tham gia với tư cách là thành viên Ban

Chỉ đạo bầu cử Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm

kỳ 2016-2021; đồng thời tham gia UBBC đại biểu HĐND vai trò Phó Chủ

tịch UBBC. Tại thành phố và tại 27 phường, đồng chí Chủ tịch Ủy ban

MTTQ Việt Nam thành phố và Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam các

phường đều tham gia UBBC cùng cấp với vị trí là Phó Chủ tịch UBBC qua đó

cũng đã góp phần không nhỏ vào công tác giám sát bầu cử chung của địa

phương.

- Trong quá trình thực nhiệm vụ giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp

luật về bầu cử trên địa bàn, thành phố Huế đã kịp thời phát hiện được những

sai sót ở một số công đoạn trong quá trình bầu cử, như: việc giới thiệu người

ra ứng cử ở một số cơ quan, tổ chức, đơn vị còn bị nhầm lẫn về thời gian,

65

thành phần tham dự và chủ trì hội nghị; phát hiện hồ sơ ứng cử chưa hợp lệ…

qua đó đã kịp thời đề xuất UBBC các cấp sửa đổi, bổ sung đảm bảo theo yêu

cầu luật định. Tuy nhiên, hoạt động giám sát, kiểm tra chung của Thường trực

HĐND và của UBND chưa được quan tâm đúng mức và toàn diện.

- UBBC thành phố Huế đã tiếp nhận 04 đơn, (trong đó: 03 đơn kiến

nghị, 01 khiếu nại). Đơn thư liên quan đến 02 ứng cử viên HĐND phường, 02

ứng cử viên HĐND thành phố.

Theo thời gian luật định, UBBC thành phố và UBBC phường tiến hành

giải quyết và đã có công văn và báo cáo trả lời về việc giải quyết các nội dung

theo đơn yêu cầu đảm bảo khách quan đúng quy định.

Nhìn chung tình hình đơn thư khiếu nại tố cáo liên quan đến công tác

bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 – 2021

trên địa bàn thành phố ít, nội dung khiếu nại không quá gay gắt đặc biệt đối

với các ứng cử viên. Việc tiếp nhận và giải quyết đơn thư khiếu nại kịp thời,

đảm bảo theo quy định của pháp luật.

- Thành phố Huế quán triệt các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có

liên quan chủ động nắm tình hình và tổ chức xử lý khi có vi phạm xảy ra

Trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về bầu cử trên địa bàn thành phố

Huế thời gian qua chưa xảy ra tình trạng vi phạm pháp luật về bầu cử.

2.2.6. Về tổng kết thực hiện pháp luât về bầu cử

Thực hiện theo Luật Bầu cử, thành phố Huế đã tiến hành tổng kết công

tác bầu cử. Chủ trì thực hiện là UBBC 27 phường và UBBC thành phố Huế.

Sau khi tiến hành theo trình tự như: lập các biên bản tổng kết cuộc bầu

cử đại biểu HĐND; Công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng

cử; Giải quyết khiếu nại về kết quả bầu cử thì UBND 27 phường và UBND

thành phố tiến hành xác nhận tư cách của người trúng cử đại biểu HĐND.

Việc xác nhận tư cách của người trúng cử được UBBC 27 phường và UBBC

66

thành phố thực hiện bằng hình thức ban hành Nghị quyết. Theo đó, 28 UBBC

(27 Phường, 1 thành phố) đã ban hành 28 Nghị quyết xác nhận tư cách đại

biểu HĐND nhiệm kỳ 2016-2021 cho 40 đại biểu HĐND thành phố và 694

đại biểu HĐND cấp phường và cấp giấy chứng nhận đại biểu HĐND khóa

mới cho người trúng cử.

Đồng thời, nhằm đánh giá chung công tác tổ chức triển khai thực hiện

hoạt động bầu cử trên địa bàn thành phố Huế, ngày 15/6/2016 UBBC Thành

phố đã tổ chức hội nghị tổng kết công tác Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV

và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016 -2021. Hội nghị báo cáo, đánh giá

quá trình tổ chức triển khai các quy định về bầu cử, kết quả đạt được từ việc

ban hành các văn bản chỉ đạo điều hành, tổ chức nhân sự, kinh phí, tuyên

truyền phổ biến pháp luật, tổ chức hội nghị hiệp thương, tiếp xúc cử tri, vận

động bầu cử, công tác kiểm tra, giám sát, thống kê tổng hợp đến xác nhận tư

cách đại biểu được các cơ quan, tổ chức hữu quan chung tay thực hiện thành

công tốt đẹp. Bên cạnh đó việc tổng kết công tác bầu cử cũng chỉ ra nhiều tồn

tại hạn chế trong quá trình thực hiện như: quán triệt các văn bản cấp trên,

trong quá trình giới thiệu người ứng cử, công tác hiệp thương, công tác kiểm

phiếu và lập biên bản…

2.3. Đánh giá kết quả thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố Huế,

tỉnh Thừa Thiên Huế

2.3.1. Kết quả đạt được

Một là, công tác chỉ đạo, hướng dẫn bầu cử ở địa phương được tiến

hành chủ động, kịp thời và quy củ. Sau khi Hội nghị triển khai công tác bầu

cử ở địa phương, thành phố Huế và các phường đã thành lập Ban chỉ đạo về

tổ chức thực hiện công tác bầu cử; tổ chức Hội nghị quán triệt, Hội nghị tập

huấn công tác bầu cử đến lãnh đạo chủ chốt, những người trực tiếp thực hiện

công tác bầu cử. Ban chỉ đạo bầu cử thành phố và các tổ chức phụ trách bầu

67

cử ở các phường đã phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên phụ trách

theo địa bàn và lĩnh vực để bảo đảm thực hiện toàn diện, đồng bộ công tác

bầu cử trên địa bàn. Hoạt động giám sát, kiểm tra công tác bầu cử trên đại bàn

thành phố được triển khai định kỳ; chủ động giải quyết các vướng mắc phát

sinh

Hai là, thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử trên địa bàn thành phố

đúng kế hoạch và hoạt động hiệu quả. UBND thành phố Huế và UBND các

phường trong phạm vi nhiệm vụ được giao đã thành lập UBBC, Ban bầu cử,

Tổ bầu cử theo đúng tiến độ và thời gian quy định của Luật Bầu cử. Đồng

thời, đã thành lập các tiểu ban của UBBCnhư: Tiểu ban nhân sự, Tiểu ban

tuyên truyền và Tiểu ban an ninh để phục công tác chỉ đạo, tổ chức bầu cử.

Ba là, tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri vận động bầu cử đúng đắn, thực

chất. Công tác tổ chức tiếp xúc cử tri vận động bầu cử cho các ứng cử viên

đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp ứng cử trên địa bàn thành phố được tổ

chức theo đúng quy định của Luật Bầu cử và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Tại thành phố Huế, hoạt động này được giao Ban thường trực Ủy ban MTTQ

thành phố chủ trì và tổ chức 23 buổi tiếp xúc cử tri với ứng cử viên đại biểu

Quốc hội, HĐND Tỉnh và thành phố, Ban thường trực Ủy ban MTTQ 27

phường đã chủ trì và tổ chức 169 buổi tiếp xúc cử tri với ứng cử viên đại biểu

HĐND phường. Tại các điểm tiếp xúc đã có sự phối hợp của các cơ quan, tổ

chức đơn vị chuẩn bị chu đáo, nghiêm túc, tạo điều kiện thuận lợi cho các ứng

cử viên và cử tri tham dự.

Bốn là, lập và niêm yết danh sách người ứng cử, cử tri công khai, thuận

lợi cho tiếp cận thông tin. Thực hiện theo quy định Luật Bầu cử, các văn bản

hướng dẫn của cơ quan Trung ương, Tỉnh và Thành phố UBND 27 phường

thuộc thành phố Huế đã lập và niêm yết danh sách cử tri, người ứng cử, bảo

đảm đầy đủ, chính xác, tạo điều kiện thuận lợi cho cử tri thực hiện quyền bầu

68

cử. Danh sách, tiểu sử người ứng cử theo từng cấp bầu cử, tạo thuận lợi cho

cử tri xem xét, lựa chọn.

Năm là, triển khai bài bản hoạt động thông tin tuyên truyền. Hình thức

đa dạng, phong phú, sinh động như; nôi dung tuyên hợp với từng đối tượng,

từng địa bàn giúp cho cử tri địa phương nắm được thông tin, tạo nên không

khí tin tưởng, phấn khởi; đấu tranh với những luận điệu sai trái, vu khống

xuyên tạc về cuộc bầu cử góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc bầu cử.

2.3.2. Hạn chế, thiếu sót

Một là, một số tổ chức phụ trách bầu cử ở phường chưa phát huy tốt vai

trò, trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trong

việc thực hiện quy trình hiệp thương lựa chọn, giới thiệu những người ứng cử

đại biểu HĐND ở cấp phường ở một số đơn vị còn lúng túng, chưa nghiên

cứu kỹ các văn bản hướng dẫn nên có đơn vị số lượng người ra ứng cử so với

số lượng được bầu chưa đảm bảo được số dư (chủ yếu xảy ra ở bước 1 của

quy trình hiệp thương). Thực tế, đã có không ít người vận dụng các kiến thức,

kinh nghiệm từ các lần bầu cử trước đây để áp dụng cho công việc triển khai

mà không nhận ra các khác biệt về quy trình hiệp thương được quy định trong

các văn bản mới, dễ tạo ra sót trong khi thực hiện. Ủy ban MTTQ Việt Nam

nhiều phường có biểu hiện lúng túng trong quá trình hiệp thương lần thứ nhất

trong việc phân bổ cơ cấu, số lượng, thành phần người ra ứng cử cho các cơ

quan, tổ chức, đơn vị và khu dân cư do thông báo dự kiến của Thường trực

HĐND phường không cụ thể địa chỉ hiệp thương giới thiệu, ngay cả thông báo

điều chỉnh sau hiệp thương lần thứ nhất, dẫn đến có khó khăn, chậm trễ, không

tìm ra người hoặc không đúng thành phần khi thông báo cho các cơ quan, tổ

chức, đơn vị và khu dân cư giới thiệu; bên cạnh đó việc phân biệt đối tượng

giới thiệu ứng cử là cán bộ công chức phường với cán bộ và các thành phần

69

thuộc khu dân cư không có sự phân biệt rõ ràng, dẫn đến phân bổ không cụ

thể, sai sót, phải điều chỉnh nhiều lần...

Hai là, công tác giới thiệu ứng cử viên bầu vào HĐND Thành phố chưa

toàn diện dẫn đến một số Đoàn thể chính trị không có đại biểu tham gia

HĐND Thành phố trong nhiệm kỳ mới. Theo hướng dẫn của Mặt trận trung

ương số 1685/MTTW-BTT ngày 04/02/2016, việc dự kiến phân bổ giới thiệu

người ứng cử phải nhiều hơn ít nhất gấp hai lần trở lên so với số lượng đại

biểu được bầu để đảm bảo số dư là một yêu cầu rất cao, khó khăn khi tìm

người và đảm bảo số lượng hợp lý sau này khi đưa vào danh sách chính thức

ứng cử. Trong công tác quy hoạch cán bộ, việc tham gia ứng cử làm đại biểu

HĐND các cấp được chi phối bởi nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước, các

đoàn thể chính trị -xã hội, nhưng quá trình thực hiện chưa được hướng dẫn và

nghiên cứu áp dụng kịp thời nên có sai sót, vướng mắc về độ tuổi, thời gian

tham gia nhiệm kỳ, phải điều chỉnh, thay đổi nhiều lần cho phù hợp; về trình

độ văn hóa, việc vận dụng khái niệm có trình độ văn hóa cũng không có sự

thống nhất nên ở phường có nhiều lúng túng...

Ba là, công tác tiếp xúc cử tri, vận động bầu cử còn hạn chế. Tại các hội

nghị tiếp xúc cử tri để lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cư tri nơi cư trú và

hội nghị tiếp xúc cử tri vận động bầu cử số lượng cử tri tham dự còn quá thấp,

có nơi chưa đảm bảo số lượng cử tri theo quy định, thành phần cử tri hầu hết

là cử tri đại diện gồm bí thư chi bộ, tổ trưởng dân phố, trưởng ban công tác,

còn người dân khác chưa thực sự quan tâm, hầu như chưa tham gia các buổi

tiếp xúc...

Bốn là, việc phổ biến Luật Bầu cử và các văn bản có liên quan đến công

tác bầu cử ở một số nơi chưa sâu và đầy đủ. Việc tổ chức tuyên truyền và học

tập Luật Bầu cử ở Tổ dân phố có nơi làm chưa kỹ dẫn đến cử tri chưa nhận

thức rõ về quyền và nghĩa vụ của mình đối với việc lựa chọn ứng cử viên để

70

bầu vào Quốc hội và HĐND các cấp; việc hướng dẫn nguyên tắc và thể lệ bầu

cử một số khu vực bỏ phiếu chưa cụ thể, không nhắc nhở kỹ sự khác biệt về

số dư của các cấp bầu cử nên dẫn đến tình trạng phiếu không hợp lệ ở một số

đơn vị còn cao. Công tác tuyên truyền chưa thật sâu rộng đến cử tri nhất là

tiểu sử tóm tắt, danh sách ứng cử viên.

Năm là, một bộ phận nhân dân chưa thực sự quan tâm đến công tác bầu

cử, kể cả một số cử tri là sinh viên chưa thể hiện quyền lựa chọn của mình

qua sử dụng lá phiếu. Qua giám sát bầu cử số lượng phiếu trắng, phiếu không

hợp lệ còn nhiều, tình trạng gạch phiếu một cách ngẫu nhiên vẫn còn xảy ra,

vẫn còn tình trạng đi bầu thay ở một số địa phương...

Sáu là, công tác kiểm phiếu ở một số Tổ bầu cử còn kéo dài, thậm chí có

Tổ bầu cử phải kiểm phiếu lại nhiều lần; việc lập các biên bản, biểu mẫu theo

quy định còn để nhiều sai sót; do đó làm ảnh hưởng đến việc kiểm tra, tổng

hợp kết quả bầu cử chung của toàn Thành phố.

2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế thiếu sót

Công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ đối với toàn thể đội ngũ là thành

viên của Tổ bầu cử chưa được thực hiện kỹ lưỡng, chuyên sâu nên chưa nâng

cao được năng lực của các thành viên Tổ bầu cử.

Công tác giới thiệu người ứng cử, tổ chức các Hội nghị hiệp thương, Hội

nghị tiếp xúc cử tri còn mang tính hình thức.

Việc tuyên truyền, quán triệt Luật bầu cử và các văn bản có liên quan

đến công tác bầu cử ở một số nơi chưa sâu và đầy đủ; việc tổ chức tuyên

truyền và học tập Luật bầu cử ở Tổ dân phố có nơi làm chưa kỹ dẫn đến cử tri

chưa nhận thức rõ về quyền và nghĩa vụ của mình đối với việc lựa chọn ứng

cử viên để bầu vào Quốc hội và HĐND các cấp

71

Tiểu kết chương 2

Luận văn đã tập trung phân tích những yếu tố điều kiện tự nhiên, kinh tế,

chính trị văn hóa tác động đến công tác thực hiện pháp luật về bầu cử trên địa

bàn thành phố Huế. Tập trung đi sâu, tổng hợp đánh giá thực trạng tình hình

kết quả đạt đươc của thực hiện pháp luật về bầu cử. Qua tổng hợp, phân tích,

luận văn đã đánh giá và chỉ rõ được kết quả đạt được, những hạn chế bất cập

rút ra bài học kinh nghiệm.

Những kết luận về thực trạng thực hiện pháp luật về bầu cử trên địa bàn

thành phố Huế tại chương 2 và cơ sở lý luận đã nêu ở chương 1 sẽ là những

luận cứ khoa học cho việc đề ra các phương hướng và giải pháp bảo đảm thực

hiện có hiệu quả pháp luật về bầu cử trên địa bàn thành phố Huế tỉnh Thừa

Thiên Huế trong thời gian đến.

72

Chương 3

QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

CÔNG TÁC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ TẠI THÀNH

PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

3.1. Quan điểm hoàn thiện công tác thực hiện pháp luật về bầu cử tại

thành phố Huế

Một là, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bầu cử để lựa

chọn và bầu ra những người ưu tú, đại diện cho các tầng lớp nhân dân tham

gia trong cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương; nâng cao chất lượng đại

biểu.

Trong thực hiện pháp luật về bầu cử, để hoạt động này đạt hiệu quả,

cần nâng cao nhận thức về vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong công

tác tổ chức triển khai thực hiện bầu cử, bảo đảm phát huy dân chủ và sự lãnh

đạo tập trung, thống nhất của Đảng trong công tác cán bộ; phát huy vai trò

tiền phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên.

Thực tế qua nhiều kỳ bầu cử, trên phạm vi cả nước có thể thấy rằng sự

lãnh đạo của Đảng đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, các cấp ủy

Đảng còn bộc lộ một số hạn chế mang tính chất chung. Ở thành phố Huế nói

riêng cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Đó là, thực hiện tuyêt đối hóa hoặc

vận dụng một cách máy móc các quan điểm chỉ đạo của các cấp ủy cấp trên,

chưa có biện pháp triển khai hợp lý. Điều này là biểu hiện của tình trạng dân

chủ hình thức trong quá trình thực hiện pháp luật về bầu cử, từ khâu giới thiệu

ứng cử viên, tiếp xúc cử tri đến khâu bỏ phiếu diễn ra hết sức phổ biến. Quá

trình hiệp thương bầu cử còn nặng về hợp thức hóa sự chỉ đạo, định hướng từ

cấp trên, nên ở chừng mực nào đó chưa thể lựa chọn được những đại biểu

xứng đáng nhất, chưa phát huy được tính tích cực của người dân.

73

Chính vì vậy, việc chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ là vấn đề then

chốt, là công việc thường xuyên và liên tục của công tác xây dựng Đảng. Để

có được “nguồn” đội ngũ Đảng viên vững vàng về chính trị, giỏi về chuyên

môn, có phẩm chất đạo đức trong sang, có uy tín đối với quần chúng nhân

dân… để các tổ chức cơ sở đảng giới thiệu để nhân dân lựa chọn, ủy thác. Đó

thực sự là phương sách chăm lo xâu dựng, phát triển và tiến cử người xứng

đáng cho đất nước.

Hai là, phát huy dân chủ, hoàn thiện cơ chế bầu cử; bảo đảm sự phù hợp

và tính thống nhất của hệ thống pháp luật để công dân thực hiện đầy đủ quyền

bầu cử, ứng cử.

Để phát huy tính dân chủ trong bầu cử thì toàn bộ tình hình, diễn biến quá

trình tổ chức thực hiện bầu cử từ giai đoạn công bố ngày bầu cử đến khâu hiệp

thương, lập danh sách người ứng cử, tiểu sử người ứng cử; về hội nghị tiếp xúc

cử tri, trả lời phỏng vấn của những người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại

biểu Hội đồng nhân dân…cần được phổ biến công khai để nhân dân biết thì chỉ

có công tác tuyên truyền, phổ biến mới phản ánh được toàn diện cuộc bầu cử đến

được với toàn thể nhân dân. Do đó, trong quá trình tiến hành cuộc bầu cử, công

tác tuyên truyền có vai trò đặc biệt quan trọng, tuyên truyền phổ biến kịp thời sẽ

tạo khí thế phấn khởi, tăng cường niềm tin, sự ủng hộ của nhân dân đối với

đường lối đổi mới của Đảng của Nhà nước.

Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật góp phần không nhỏ trong việc

đổi mới. nâng cao nhận thức, ý thức của người dân về bầu cử. Người dân nhận

thức được việc bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân

dân là phương thức cơ bản để mọi công dân thực hiện được quyền làm chủ đất

nước, tham gia quản lý nhà nước.Thông qua bầu cử nhân dân lựa chọn được

được những người xúng đáng nhất, thay mặt mình quyết định những vấn đề

quan trọng của đất nước và những vấn đề quan trọng ở địa phương.

74

Trong thời gian qua, công tác tuyên truyền phổ biến về bầu cử đã phát huy

được hiệu quả, góp phần không nhỏ vào thành công của các cuộc bầu cử. Tuy

nhiên, nhìn lại kết quả tuyên tuyền phổ biến về bầu cử trong thời gian qua vẫn

còn một số tồn tại như: việc triển khai công tác tuyên truyền về bầu cử trên các

phương tiện thông tin đại chúng vẫn còn một số hạn chế. Nội dung tuyên truyền

về bầu cử ở giai đoạn đầu chưa nổi bật, bị chìm lẫn giữa nhiều sự kiện văn hóa

khác của địa phương. Một số nội dung, về tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội và

đại biểu HĐND; quyền và nghĩa vụ của người ứng cử; quyền và nghĩa vụ của cử

tri; các quy định về trình tự bầu cử và thể thức bầu cử chưa được phổ biến

thường xuyên, liên tục nên chưa tác động nhiều vào nhận thức của người dân,

chưa đổi mới được ý thức của một bộ phận dân cư về bầu cử.

Bên cạnh đó, công việc chuẩn bị bầu cử như hội nghị lấy ý kiến nhận xét

và tín nhiệm của cử tri nơi cư trú về những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân

dân; về cơ cấu, thành phần đại biểu; công tác vận động bầu cử của người ứng cử,

các hoạt động kiểm tra tình hình bầu cử…chưa được phản ánh toàn diện nên

chưa thực sự tạo được niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của đảng của cơ

quan nhà nước.

Ba là, đánh giá, tổng kết thực tiễn qua các cuộc bầu cử và việc thi hành

các văn bản pháp luật về bầu cử; sửa đổi, bổ sung, khắc phục những hạn chế,

bất cập.

Để triển khai cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại

biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021, Đảng ủy, chính quyền,

các cơ quan, tổ chức đã kịp thời ban hành nhiều văn bản để tổ chức triển khai

thực hiện bầu cử.

Mặc dù, các văn bản pháp luật về bầu cử đã có nhiều đóng góp quan

trọng vào kết quả cuộc bầu cử, nhưng qua thực tiễn thực hiện pháp luật về bầu

cử vẫn còn những hạn chế, bất cập. Việc đánh giá, tổng kết thực tiễn qua các

75

cuộc bầu cử và việc thi hành các văn bản pháp luật về bầu cử để đút rút ra bài

học kinh nghiệm sửa đổi, bổ sung, khắc phục những hạn chế, bất cập.

Chính vì vậy, sau tổng kết thực hiện bầu cử, các đơn vị thực hiện pháp

luật về bầu cử đều có kiến nghị đề xuất tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung

cho phù hợp với Hiến pháp và thực tiễn thi hành.

3.2. Giải pháp hoàn thiện thực hiện pháp luật về bầu cử tại thành phố

Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế

3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong công tác thực

hiện pháp luật về bầu cử

Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do

Nhân dân, vì Nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân mà

nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội

ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trong hệ thống chính trị

nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng, là yếu tố

quan trọng nhất, hạt nhân lãnh đạo của cả hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo

của Đảng với Nhà nước và xã hội đã được quy định tại Hiến pháp, được

khẳng định qua thực tiễn đấu tranh cách mạng và quá trình xây dựng, bảo vệ

Tổ quốc.

Trong thực hiện pháp luật về bầu cử, để hoạt động này đạt hiệu quả, cần

nâng cao nhận thức về vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong công tác tổ

chức triển khai thực hiện bầu cử, bảo đảm phát huy dân chủ và sự lãnh đạo

tập trung, thống nhất của Đảng trong công tác cán bộ; phát huy vai trò tiền

phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên.

Thực tế qua nhiều kỳ bầu cử, trên phạm vi cả nước có thể thấy rằng sự

lãnh đạo của Đảng đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, các cấp ủy

Đảng còn bộc lộ một số hạn chế mang tính chất chung. Ở thành phố Huế nói

riêng cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Đó là, thực hiện tuyêt đối hóa hoặc

76

vận dụng một cách máy móc các quan điểm chỉ đạo của các cấp ủy cấp trên,

chưa có biện pháp triển khai hợp lý. Điều này là biểu hiện của tình trạng dân

chủ hình thức trong quá trình thực hiện pháp luật về bầu cử, từ khâu giới thiệu

ứng cử viên, tiếp xúc cử tri đến khâu bỏ phiếu diễn ra hết sức phổ biến. Quá

trình hiệp thương bầu cử còn nặng về hợp thức hóa sự chỉ đạo, định hướng từ

cấp trên, nên ở chừng mực nào đó chưa thể lựa chọn được những đại biểu

xứng đáng nhất, chưa phát huy được tính tích cực của người dân.

Một vấn đề thực tế hiện nay chúng ta đang mắc phải cản trở lớn nhất

trong bầu cử để thực hiện tối đa ý chí của Nhân dân, tạo niềm tin lớn hơn của

Nhân dân vào các cơ quan dân cử, đó là vấn đề tự ứng cử và vấn đề giới thiệu

ứng cử viên cho mỗi đơn vị bầu cử. Vì thế, trong nhiều cuộc bầu cử, nhiều

đơn vị còn tồn tại biểu hiện tinh thần phong trào, hình thức.

Trong quá trình lãnh đạo củng cố, xây dựng chính quyền ở địa phương

thực sự là cơ quan đại diện của dân, do dân, vì dân, đổi mới nhận thức tầm

quan trọng về lãnh, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng đối với quá trình thực hiện

pháp luật về bầu cử là một yêu cầu cấp thiết và cần tập trung vào một số nội

dung sau:

Nâng cao nhận thức về vai trò lãnh, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính

quyền trong sự phối hợp của Măt trận tổ quốc và các đoàn thể đối với công

tác thực hiện pháp luật về bầu cử; bảo đảm cho cấp ủy Đảng luôn nhận biết

được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, từ đó đề ra những chủ trương, giải

pháp phù hợp với cuộc sống, được nhân dân ủng hộ, tin cậy vào sự lãnh đạo

của Đảng.

Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ là vấn đề then chốt, là công việc

thường xuyên và liên tục của công tác xây dựng Đảng. Để có được “nguồn”

đội ngũ Đảng viên vững vàng về chính trị, giỏi về chuyên môn, có phẩm chất

đạo đức trong sang, có uy tín đối với quần chúng nhân dân… để các tổ chức

77

cơ sở đảng giới thiệu để nhân dân lựa chọ, ủy thác. Đó thực sự là phương

sách chăm lo xây dựng, phát triển và tiến cử người xứng đáng cho đất nước.

3.2.2. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bầu cử,

nâng cao nhận thức và ý thức của người dân về bầu cử

Trong thực hiện pháp luật về bầu cử, chủ thể đông đảo nhất, quyết định

sự thành bại của cuộc bầu cử chính là cử tri. Tuy nhiên, trên thực tế, không

phải cử tri nào cũng có nhận thức hiểu biết giống nhau, cho nên việc truyên

truyền phổ biến cần tăng cường, đổi mới phương thức cho phù hợp với thành

phần cử tri và phù hợp với từng địa phương.

Đối với đội ngũ cán bộ công chức, viên chức, người lao động trong các

cơ quan, tổ chức có nhiều điều kiện hơn trong việc tiếp cận thông tin pháp

luật nói chung và pháp luật về bầu cử nói riêng. Đặc biệt đối với đội ngũ cán

bộ công chức là thành viên của các Tổ chức phụ trách bầu cử càng có điều

kiện tiếp cận pháp luật về bầu cử nhiều hơn các đối tượng khác. Nên thông

qua các cuộc tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ bầu cử, các buổi họp triển khai

công tác bầu cử…có nội dung và phương pháp tuyên truyền phổ biến riêng.

Đối với cử tri là quần chúng nhân dân người lao động phổ thông, công

nhân, nội trợ, buôn bán, người già, sinh viên, quân nhân…họ là thành phần

chiếm đa số trong xã hội. Việc tuyên tuyền các quy định về quyền bầu cử và

ứng cử của công dân, nghĩa vụ, trách nhiệm của cử tri trong công tác bầu cử;

các hoạt động trong quá trình tiếp xúc cử tri; các quy định về trình tự, thể thức

bầu cử; tiêu chuẩn người ứng cử đại biểu Quốc hội, tiêu chuẩn đại biểu

HĐND; quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc xây dựng bộ máy nhà

nước nói chung và Quốc hội, HĐND nói riêng…có nội dung và phương pháp

tuyên truyền phổ biến riêng.

Nhận thức về ý nghĩa của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu

HĐND; quyền ứng cử, quyền và nghĩa vụ bầu cử của nhân dân là một vấn đề

78

then chốt trong việc người dân có ý thức bầu cử chính xác và lựa chọn ra

được những cá nhân ưu tú, xuất sắc đại diện cho bản thân mình khi tham gia

điều hành và xây dựng nhà nước. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức, ý thức của

nhân dân phải đặc biệt quan tâm chú trọng.

Phải tuyên truyền, phổ biến, giáo dục để Nhân dân hiểu các quy định về

bầu cử, giúp cho các tầng lớp Nhân dân hiểu rõ bản chất dân chủ của chế độ

ta; hiểu rõ mục đích, ý nghĩa, các quy định của pháp luật về bầu cử, qua đó

tích cực tự giác thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân của mình;

Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua các buổi tiếp

xúc cử tri, họp dân phố, UBND Thành phố và các Phường phải truyền tải mọi

thông tin bầu cử. Từ văn bản Luật đến các văn bản hướng dẫn, quy trình bầu

cử đến được người dân. Khi nhân dân hiểu luật, nắm vững quy trình bầu cử

thì mỗi lá phiếu của họ có ý nghĩa đích thực góp phần quyết định lựa chọn

những người ưu tú đại diện cho họ trong điều hành xây dựng nhà nước.

Công tác tuyện truyền, phổ biến pháp luật về bầu cử trong thời gian tới ở

thành phố Huế cấn chú trọng:

Thứ nhất, các cấp ủy đảng tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả công

tác thông tin, tuyên truyền về bầu cử; tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc

công tác tuyên truyền bầu cử để tập trung toàn thể các cơ quan ban ban ngành

đoàn thể trong việc đổi mơi nhận thức, nâng cao ý thức người dân về bầu cử.

Thứ hai, công tác thông tin, tuyên truyền thời gian tới cần được đẩy

mạnh, quyết liệt, kịp thời, rộng khắp hơn nữa và tập trung vào nội dung tuyên

truyền phổ biến; các hình thức tuyên truyền về bầu cử cần sáng tạo và linh

hoạt hơn nữa;

Thứ ba, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, lợi

dụng bầu cử để kích động, gây rối, chia rẽ của các thế lực thù địch;

79

Thứ tư, tăng cường vai trò của Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục

pháp luật thành phố Huế trong công tác chủ trì triển khai tuyên truyền, phổ

biến về bầu cử đến các cơ quan, đơn vị; Phòng Văn hóa thông tin phải chủ trì,

đi đầu trong tuyên truyền, phổ biến thông tin về bầu cử.

3.2.3. Tăng cường vận động, hướng dẫn

* Vận động bầu cử:

Việc vận động bầu cử của người ứng cử được tiến hành bằng các hình

thức gặp gỡ, tiếp xúc cử tri tại Hội nghị tiếp xúc cử tri ở địa phương nơi mình

ứng cử và bằng hình thức thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để

người ứng cử báo cáo với cử tri về dự kiến chương trình hành động của mình

nhằm thực hiện trách nhiệm đại biểu nếu được bầu làm đại biểu. Bên cạnh

đó, trao đổi những vấn đề mà cử tri quan tâm. Những hoạt động này đều

nhằm mục đích tạo điều kiện giúp cho người ứng cử thể hiện được chương

trình hành động của mình nếu được bầu; tạo điều kiện để cử tri tiếp xúc với

người ứng cử để hiểu rõ hơn về người ứng cử, từ đó sẽ có những cân nhắc, so

sánh và lựa chọn bầu những người đủ tiêu chuẩn và ưu tú nhất đại diện cho

nhân dân.

Chính vì vậy, việc vận động bầu cử phải được tiến hành dân chủ, công

khai, bình đẳng, đúng pháp luật bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Trong quá

trình vận động, tạo được không khí cởi mở, thẳng thắn trao đổi những vấn đề

cử tri đưa ra cũng như những dự kiến chương trình hành động của người ứng

cử. Như vậy, vận động bầu cử có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không thể thiếu

trong quá trình bầu cử. Vận động bầu cử là cho hoạt động bầu cử được khách

quan, dân chủ hơn, công bằng hơn. Vận động bầu cử đảm bảo tính công bằng

cho các ứng cử và cho cử tri.

Về mặt cách thức, quy trình vận động bầu cử đã được quy định cụ thể,

còn về thực tế triển khai thực hiện trên thực tế, qua thực tế vẫn còn một số tồn

80

tại là một số cuộc tiếp xúc cử tri vẫn mang nặng tính hình thức, số lượng cử

tri tham dự còn ít, thời gian ngắn nên việc đọc tiểu sử và các chương trình

hành động của người ứng cử đã chiếm nhiều thời gian nên thời gian trao đổi,

đối thoại ngắn chưa thật sâu sắc, thỏa đáng. Do vậy, để hoạt động vận động

bầu cử thể hiện đúng tinh thần dân chủ, khách quan, công bằng, nên khắc

phục bằng những cách sau:

Thứ nhất, tạo nhiều kênh sâu rộng, đổi mới phương thức để đông đảo cử

tri có thể tiếp xúc trực tiếp và cả gián tiếp với ứng cử viên.

Thứ hai, ứng cử viên phải xây dựng chương trình hành động thuyết

phục, sát thực tế, nội dung ngắn gọn, súc tích, mạch lạc, nắm vững tình hình

địa phương nơi ứng cử cũng như những vấn đề cử tri đang quan tâm, bức xúc.

Lý lịch trích ngang, khả năng hoạt động, năng lực, phong cách, sự tâm huyết,

cầu thị và cam kết xác đáng đáp ứng tâm tư, nguyện vọng cử tri chính là

những yếu tố để cử tri chọn ra được người xứng đáng đại diện cho mình.

* Hướng dẫn thực hiện bầu cử:

Để thực hiện pháp luật về bầu cử được dân chủ, khách quan và chính

xác, các cơ quan, tổ chức thực hiện bầu cử đã trực tiếp hoặc gián tiếp tiếp cận

các văn bản hướng dẫn thi hành bầu cử để triển khai bầu cử tại địa phương.

Tuy nhiên, với tình trạng cứ đến mỗi kỳ bầu cử các cơ quan nhà nước cấp

trên, Đảng, Mặt trận đều cùng nhau ban hành các chỉ thị, nghị quyết, thông

báo, hướng dẫn, kế hoạch, công văn…nhằm chỉ đạo một cách “sát sao” về

công tác bầu cử. Điều này tạo nên tình trạng địa phương phải tiếp thu, tuân

thủ một lúc quá nhiều văn điều chỉnh, hướng dẫn của các cơ quan từ Trung

ương đến các cơ quan ở địa phương, dẫn tới người thực hiện phải nghiên cứu

“dàn trải”, nhiều văn bản hướng dẫn chưa sát với dẫn đến lung túng trong áp

dụng thực hiện. Vì vậy, công tác hướng dẫn cần tập trung vào các nội dung

sau:

81

Thứ nhất, thành phố Huế nên hệ thống hóa các văn bản của Trung ương,

của Tỉnh để triển khai về các Tổ chức phụ trách bầu cử ở các phường được cơ

bản, đầy đủ, rõ ràng nhất về thực hiện bầu cử, đảm bảo được tính thống nhất,

tính toàn vẹn của quy định về bầu cử. Đồng thời, đảm bảo tính công khai,

minh bạch của các văn bản đó.

Thứ hai, với chức năng là cơ quan chủ trì tham mưu, giúp UBND thành

phố trong việc tổ chức và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu

cử đại biểu HĐND các cấp trên địa bàn theo quy định của pháp luật và hướng

dẫn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Nội vụ Thành phố Huế cần tập

trung, hệ thống hóa các văn bản luật, văn bản hướng dẫn từ Trung ương đến

Tỉnh để tạo hệ thống văn bản áp dụng một cách đầy đủ, rõ ràng, khoa học

nhất trong công tác bầu cử. Bên cạnh đó, phải kịp thời chuyển tải các văn bản

đó đến với cơ sở.

Thứ ba, chú trọng công tác hướng dẫn nghiệp vụ về bầu cử, từ việc tổ

chức Hội nghị triển khai về công tác bầu cử của địa phương cần phải tiến

hành thực sự có hiệu quả. Trong công tác tập huấn cần đầu tư công sức và

kinh phí để tập huấn nghiệp vụ cho các tổ chức phụ trách bầu cử ở các

phường, nhất là thành viên của các Tổ bầu cử. Đây là tổ chức trực tiếp thực

hiện bầu cử ở cấp cơ sở, trực tiếp tiếp xúc với cử tri và thi hành các quy định

về bầu cử. Thực tiễn qua các cuộc bầu cử, những sai sót của các thành viên

Tổ bầu cử là nguyên nhân dẫn đến các vi phạm trong bầu cử, các khiếu nại, tố

cáo, phản ánh về bầu cử, hệ quả là một số khu vực bầu cử phải làm đi làm lại

nhiều lần về việc lập danh sách ứng cử viên, tiểu sử tóm tắt ở một số đơn vị

phường còn nhiều sai sót cơ bản, thiếu chính xác. Do vậy, đây là bài học quý

báu trong thực tiễn chuẩn bị tổ chức bầu cử cần phải nghiêm túc rút kinh

nghiệm và triển khai có hiệu quả trên thực tế.

82

3.2.4. Tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực Tổ bầu cử

Với nhiều nhiệm vụ và quyền hạn được trao, Tổ bầu cử gánh trên vai

trách nhiệm rất nặng nề với những nhiệm vụ mang tính quyết định sự thành

công của cuộc bầu cử. Do đó, năng lực trình độ của Tổ bầu cử cần hết sức

quan tâm.

Thực tế, trên địa bàn thành phố Huế có 192 Tổ bầu cử, với 3865 thành

viên. Việc tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ đối với các Tổ bầu cử được giao cho

UBND các phường tự tổ chức nên ở chừng mực nào đó các kiến thức nghiệp

vụ bầu cử chưa được triển khai và tiếp thu đầy đủ dẫn tới một số tồn tại như:

việc phân biệt đối tượng giới thiệu ứng cử là cán bộ công chức phường với

cán bộ và các thành phần thuộc khu dân cư không có sự phân biệt rõ ràng, dẫn

đến phân bổ không cụ thể, sai sót, phải điều chỉnh nhiều lần... Tổ bầu cử thực

hiện công tác kiểm phiếu kéo dài, thậm chí có Tổ bầu cử phải kiểm phiếu lại

nhiều lần; việc lập các biên bản, biểu mẫu theo quy định còn để nhiều sai sót;

do đó làm ảnh hưởng đến việc kiểm tra, tổng hợp kết quả bầu cử chung của

toàn Thành phố.

Chính vì vậy, giải pháp phải tập huấn chuyên sâu cho toàn thể đội ngũ

thành viên của Tổ bầu cử nhằm nâng cao nghiệp vụ cho mỗi thành viên Tổ

bầu cử nắm chắc được những quy định về bầu cử sẽ thực hiện nhanh, chính

xác hơn.

Phòng Nội vụ thành phố là đơn vị chủ trì xây dựng kế hoạch tổ chức bồi

dưỡng tập huấn nghiệp vụ về bầu cử đối với các Tổ bầu bầu cử, trong đó xác

định nội dung, thời gian, báo cáo viên, thành phần cụ thể rõ ràng.

3.2.5. Tăng cường giám sát, kiểm tra đối với hoạt động bầu cử

Để đánh giá một cuộc bầu cử có thực sự dân chủ hay không, người ta

thường xem xét các mục tiêu và phương thức tiến hành bầu cử đạt được ở

mức độ nào, có đảm bảo được nguyên tắc dân chủ hay không (giữa các tổ

83

chức, các ứng cử viên và các cử tri). Điều này phụ thuộc một phần quan trọng

vào công tác tổ chức giám sát bầu cử.

Trong thời gian qua, công tác giám sát bầu cử trên phạm vi cả nước nói

chung và trên địa bàn thành phố Huế nói riêng còn chưa được quan tâm một

cách đúng mức. Chưa xây dựng chương trình, kế hoạch chính thức để thực

hiện kiểm tra, giám sát bầu cử trên địa bàn thành phố Huế. Ngoài những kết

quả đã đạt được trong thời gian qua, tại địa bàn thành phố Huế vẫn còn một số

tồn tại, tình trạng đi bầu thay gần như không còn diễn ra trong kỳ bầu cử gần

đây (nhiệm kỳ 2016-2021), nhưng tình trạng “bầu đại”, “bầu hộ” vẫn diễn ra

phổ biến. Nhiều trường hợp đi bầu cử rất sớm nhưng đến địa điểm bầu cử thì

lấy phiếu và gạch đại cho xong việc, coi như “hoàn thành nghĩa vụ”, họ

không cần biết người ứng cử là ai, làm gì, ở đâu, quá trình công tác như thế

nào. Hệ quả của hiện tượng này là kết quả bầu cử chưa đúng với thực tế, chưa

bầu được những đại biểu nổi bật nhất, xứng đáng đại diện cho nhân dân. Vật

đâu là nguyên nhân của hiện tượng trên? Bước đầu có thể đưa ra mấy lý do

sau đây:

Một là, do ý thức công dân của cử tri yếu kém. Cử tri thuộc nhóm đối

tượng này thường là những người có trình độ học vấn thấp, thiếu hiểu biết về

quyền và nghĩa vụ của mình hoặc thờ ơ với thực tiễn chính trị diễn ra xung

quanh, cho rằng ai trúng cử, ai không trúng cử cũng không ảnh hưởng đến

cuộc sống của họ.

Hai là, do chạy theo thành tích, muốn Tổ bầu cử hoàn thành sớm nhiệm

vụ nên tổ bầu cử “làm ngơ” với hiện tượng cử tri “bầu đại”, “bầu hộ”. Tình

trạng này là một trong những hiện tượng phổ biến ở nhiều địa điểm bầu cử ở

nước ta.

Để khắc phục hiện tượng này, Thường trực HĐND, UBND, Ủy ban

MTTQ Việt Nam Thành phố, Phường nên tăng cường công tác kiểm tra, giám

84

sát ngay từ khâu đầu tiên thành lập các UBBC đến khâu kiểm phiếu, tổng kết

kết quả bầu cử. Trong đó nên đặc biệt trú trọng giám sát những nội dung sau:

Thứ nhất, giám sát, kiểm tra việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến nâng

cao nhận thức của công dân về quyền và nghĩa vụ của cử tri của địa phương

làm như thế nào, có phù hợp và đạt hiệu quả chưa để kịp thời có hướng điều

chỉnh;

Thứ hai, giám sát việc niêm yết và phổ biến danh sách, tiểu sử của người

ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND;

Thứ ba, trong ngày bầu cử, giám sát việc Tổ bầu cử có hướng dẫn cử tri

tiếp cận, tìm hiểu thông tin người ứng cử trước khi bầu cử hay không? Đôn

đốc Tổ bầu cử có những biện pháp kịp thời đảm bảo cử tri trong ngày đi bầu

đã có những thông tin cơ bản về người ứng cử để bầu được những cá nhân ưu

tú, nổi bật nhất.

Để đảm bảo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu HĐND

được dân chủ, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm, bầu được những đại biểu đủ

tiêu chuẩn, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, công tác giám sát,

kiểm tra của Thường trực HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp

đối với hoạt động bầu cử tại địa phương thể hiện tính dân chủ.

Thực tế tại thành phố Huế trong thời gian qua đã tổ chức triển khai phối

hợp với cơ quan liên quan về giám sát kiểm tra theo chương trình kế hoạch

của Tỉnh và thực hiện hoạt động giám sát, kiểm tra đối với các tổ chức phụ

trách bầu cử trên đại bàn. Nhìn chung, nội dung giám sát kiểm tra trên địa bàn

thành phố Huế được Mặt trận thành phố tổ chức thực hiện chủ yếu, Thường

trực HĐND và UBND còn thực hiện lồng ghép chưa có chương trình kế

hoạch chính thức triển khai hoạt động này. Điều này ít nhiều làm ảnh hưởng

đến tính dân chủ, minh bạch giảm hiệu quả trong hoạt động bầu cử. Để tăng

cường công tác giám sát, kiểm tra của Thường trực HĐND, UBND, Ủy ban

85

MTTQ Việt Nam các cấp đối với hoạt động bầu cử tại địa phương, bước đầu

đưa ra một số giải pháp sau:

UBBC thành phố Huế xây dựng kế hoạch Kiểm tra, giám sát công tác

bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND trên địa bàn thành phố để triển

khai giám, kiểm tra đầy đủ các nội dung theo quy định như: giám sát, kiểm tra

việc thành lập UBBC, ban bầu cử, Tổ bầu cử; văn bản dự kiến cơ cấu, thành

phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử, hồ sơ ứng cử viên; hội nghị hiệp

thương; việc ấn định và công bố số đơn vị bầu cử và số lượng đại biểu ứng cử

tại các đơn vị bầu cử; việc lập danh sách cử tri và viết và cấp thẻ cử tri; công

tác tổ chức tập huấn cho thành viên Ban bầu cử, Tổ bầu cử và lực lượng tham

gia phục vụ bầu cử, chuẩn bị các biểu mẫu tổng hợp; công tác thông tin, tuyên

truyền phục vụ cuộc bầu cử: phanô, khẩu hiệu, băng rôn; việc phân bổ danh

sách những người ứng cử đại biểu HĐND phường theo từng đơn vị bầu cử;

hội nghị tiếp xúc cử tri; công tác trang trí tại khu vực bỏ phiếu; công tác bảo

đảm an ninh - trật tự, an toàn - xã hội trước, trong và sau ngày bầu cử; những

sự việc nổi cộm, nhạy cảm liên quan đến cuộc bầu cử; các điều kiện về cơ sở

vật chất phục vụ cho công tác bầu cử, hòm phiếu, hòm phiếu phụ…

Việc giám sát, kiểm tra phải được tiến hành thường xuyên trong suốt

thời gian trước, trong và sau ngày bầu cử.

Thành phần tham gia đoàn giám sát kiểm tra phải đầy đủ các cơ quan

Đảng, chính quyền, Công an, Quân đội, mặt trận và các đoàn thể.

3.2.6. Ứng dụng công nghệ thông tin trong thống kê, tổng hợp kết quả bầu

cử nhằm đảm bảo tính khoa học, nhanh và chính xác

Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương

tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại (chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông)

nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông

tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người.

86

Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển của thời đại, hầu hết các hoạt

động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…của đất nước ta không thể không ứng

dụng công nghệ thông tin trong tổ chức triển khai thực hiện. Vai trò của công

nghệ thông tin mang lại nhiều thuận lợi hiệu quả mà công nghệ thông tin

mang lại cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân đã ứng dụng nó.

Đối với hoạt động bầu cử nước ta, mặc dù Nhà nước ta từ Trung ương

đến địa phương đã ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động bầu cử. Tuy

nhiên, hầu hết đã và đang ở giai đoạn truyền tải và khai thác thông tin văn bản

quy phạm pháp luật, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn điều hành về bầu cử; hoạt

động tuyên truyền, phổ biến…Còn đối với hoạt động kiểm phiếu, thống kê,

tổng hợp kết quả bầu cử chưa được triển khai áp dụng chung trên toàn vẹn

lãnh thổ.

Trên thực tế, một số thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh

đã triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thống kê, tổng

hợp tình hình bầu cử của cử tri, thống kê, tổng hợp kết quả bỏ phiếu. Đây chỉ

là hoạt động mang tính địa phương.

Với thực tế công tác bầu cử tại thành phố Huế, nhất là công tác kiểm

phiếu, tổng hợp kết quả bầu cử tại UBND thành phố Huế chủ yếu đang thực

hiện bằng phương pháp thủ công nên tốn nhiều thời gian và nhiều nhân lực

cho công tác thống kê tổng hợp kết quả bầu cử. Một yêu cầu đặt ra trong thời

đại công nghệ thông tin 4.0 như hiện nay thì kết quả phải nhanh, gọn, chính

xác, ít tốn công thời gian và nhân lực; đồng thời, góp phần công khai, minh

bạch thông tin bầu cử đảm bảo tính dân chủ, công bằng trong kết quả bầu cử

là một vấn đề cấp thiết. Do đó, để góp phần công khai, minh bạch thông tin từ

đó tằng cường tính công bằng và hiệu quả bước đầu cần phải tin học hóa

trong hoạt động thống kê, tổng hợp kết quả bầu cử từ UBBC thành phố đến

các Tổ bầu cử.

87

Để góp phần công khai, minh bạch thông tin về kết quả bầu cử từ đó

đảm bảo tính công bằng giữa các ứng cử viên, bước đầu cần phải tin học hóa

trong hoạt động thống kê, tổng hợp kết quả bầu cử từ UBBC thành phố đến

UBBC và Tổ bầu cử tại các phường. Đó là công cụ hỗ trợ công tác bầu cử

mang tính khả thi, bước đầu đề xuất giải pháp tin học hóa cụ thể như sau.

- UBBC thành phố xây dựng các bảng mẫu thống kê dành cho cấp

phường (bằng Excel)và cung cấp cho các UBBC tại các phường. Cho phép

các Tổ bầu cử thu thập và tổng hợp số liệu nhanh tại Tổ bầu cử của mình và

gửi về UBBC thành phố.

- UBBC xây dựng biểu mẫu tổng hợp dành cho UBBC thành phố

(bằng Excel), cho phép ở UBND thành phố Huế tự động tổng hợp từ kết quả

từ các file số liệu của các Tổ bầu cử.

- UBND thành phố thuê chuyên gia công nghệ thông tin xây dựng một

phần mềm thống kê tổng họp kết quả bầu cử dành cho UBBC, Tổ bầu cử các

phường, cho phép các Tổ bầu cử thu thập và tổng hợp cập nhật số liệu nhanh

tại Tổ bầu cử của mình thông qua phần mềm.

- Trên thành phố, phần mềm sẽ tự động tổng hợp từ kết quả từ các file

số liệu của các Tổ bầu cử; kết quả sẽ hiển thị khi qua khâu phê duyệt của cấp

thẩm quyền là chủ tịch UBBC.

88

Tiểu kết chương 3

Trong thực hiện pháp luật về bầu cử, để hoạt động này đạt hiệu quả, việc

đúc rút kinh nghiệm tổ chức thực hiện qua mỗi cuộc bầu cử có ý nghĩa quan

trọng, giúp cho việc nhìn nhận lại thực tế, trên cơ sở phân tích, đánh giá thực

trạng để rút ra những kết luận khoa học.

Luận văn đã đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiểu quả thực hiện

pháp luật trên địa bàn thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế: phát huy vai trò

lãnh, chỉ đạo của cấp ủy Đảng đối với các cấp, các ngành trong hoạt động bầu

cử; tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bầu cử,

nâng cao nhận thức và ý thức của người dân về bầu cử; tập huấn, bồi dưỡng

nâng cao năng lực Tổ bầu cử; tăng cường công tác giám sát, kiểm tra của

Thường trực HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp đối với hoạt

động bầu cử tại địa phương; ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác

thống kê, tổng hợp kết quả bầu cử nhằm đảm bảo tính khoa học, nhanh và

chính xác.

Các giải pháp đặt ra phải được tiến hành một cách đồng bộ để tăng hiệu

quả thực hiện trên thực tế.

89

KẾT LUẬN

Thực hiện pháp luật về bầu cử là một quá trình hoạt động có mục đích

làm cho những quy định của pháp luật về bầu cử đi vào cuộc sống, trở

thành những hành vi thực tế, hợp pháp trong mối quan hệ xã hội liên quan đến

quyền bầu cử, quyền ứng cử, các quy trình tiến hành bầu cử và xác định kết

quả bầu cử khi tham gia quan hệ pháp luật về bầu cử. Thực hiện pháp luật về

bầu cử có vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng và phát triển cơ quan

quyền lực nhà nước. Đồng thời là phương thức thể hiện quyền lực của nhân

dân.

Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về vai trò của bầu cử, việc tổ chức

thực hiện pháp luật về bầu cử trên địa bàn thành phố Huế trong thời gian qua

đã đươc các cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể đặc biệt quan

tâm trú trọng, xem đây là một nhiệm vụ chính trị trọng tâm. Dưới sự lãnh đạo

của Thường vụ Thành ủy, các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo của Thường trực

HĐND, UBND thành phố, sự phối hợp chặt chẽ của Ủy ban MTTQ Việt Nam

cùng với sự hoạt động tích cực của UBBC các cấp, các đơn vị cơ quan, ban

ngành, đoàn thể cho đến nay đảm bảo đúng theo quy định của Luật bầu cử

bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND.

Thành phố và các Phường đã quán triệt thực hiện nghiêm túc theo tinh

thần chỉ đạo của Trung ương, Tỉnh và Thường vụ Thành ủy về tổ chức cuộc

bầu cử, bảo đảm công tác bầu cử được thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm

chủ của nhân dân ngay từ khâu thực hiện quy trình của công tác bầu cử, thực

hiện mở rộng dân chủ trong việc giới thiệu người ra ứng cử và lấy ý kiến nhận

xét về người ứng cử tại địa bàn nơi cư trú, thực hiện tốt chủ trương bầu cử có

số dư tối thiểu ở mỗi Đơn vị bầu cử theo luật định, kịp thời xử lý những

vướng mắc xảy ra trong quá trình tổ chức bầu cử.

90

Thường trực HĐND, UBND, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt

Nam các cấp đã phối hợp chặt chẽ có hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ bầu

cử, bảo đảm sự lãnh đạo của Thường vụ Thành ủy và các cấp ủy Đảng, các

ban ngành, đoàn thể, các cơ quan Trung ương, Tỉnh, các đơn vị lực lượng vũ

trang, các Trường Đại học và Cao đẳng Trung học Chuyên nghiệp đóng trên

địa bàn Thành phố đã tích cực phối hợp cùng địa phương triển khai, thực hiện

tốt nhiệm vụ bầu cử. Nhân dân Thành phố đã tích cực tham gia cuộc bầu cử

đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp, qua đó thể hiện sự đoàn kết,

nhất trí cao từ nhận thức đến hành động của Chính quyền và nhân dân Thành

phố. UBBC Thành phố, Phường và các Tổ chức phụ trách bầu cử, cán bộ

tham gia trưng tập bầu cử, Tổ chuyên viên giúp việc đã hoàn thành tốt nhiệm

vụ, quyền hạn của mình trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bầu cử, bảo đảm

tốt nội dung, quy trình và thời gian theo luật định. Đặc biệt là ý thức, trách

nhiệm của từng thành viên UBBC, các Ban bầu cử, cán bộ tham gia trưng tập,

các Tổ bầu cử đã phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ tại các Khu vực bỏ phiếu,

tuyên truyền và vận động cử tri đi bầu đủ và kết thúc sớm, làm tốt công tác

kiểm phiếu, lập biên bản kiểm phiếu và kết quả bầu cử.

Công tác tuyên truyền cho cuộc bầu cử đã được tiến hành thường

xuyên, liên tục góp phần tích cực làm cho cuộc bầu cử thực sự là ngày hội lớn

của nhân dân Thành phố; Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền và tổ chức học

tập cho ngày bầu cử nên cử tri Thành phố đã tích cực, hăng hái tham gia cuộc

bầu cử, bảo đảm tỷ lệ cử tri đi bầu cao, chất lượng bầu cử tốt, góp phần vào

thành công của cuộc bầu cử; công tác bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn

xã hội trước, trong và sau ngày bầu cử được đảm bảo an toàn tuyệt đối.

Công tác tập huấn nghiệp vụ công tác bầu cử được triển khai chu đáo,

cụ thể nên việc tổng hợp kết quả bầu cử từ Tổ bầu cử, Ban bầu cử, UBBC

Phường đến Thành phố được thực hiện nhanh chóng, chính xác, báo cáo và

91

chuyển giao hồ sơ, biểu mẫu, bảng thống kê kết quả bầu cử đúng thời gian

quy định. Kết quả bầu cử của các Phường các tỷ lệ đều cơ bản đảm bảo,

không có đơn vị bầu cử nào thiếu đại biểu nên không có trường hợp bầu thêm

trực tiếp lựa chọn, bầu ra những người tiêu biểu về đức, tài, xứng đáng là đại

diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân trong Quốc hội

và HĐND. Chính vì vậy, bầu cử ở nước ta luôn là một sự kiện chính trị trọng

đại. Mỗi cuộc bầu cử là một đợt sinh hoạt chính trị toàn dân, ngày hội lớn của

dân tộc.

Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, việc thực hiện pháp luật

về bầu cử trên địa bàn thành phố Huế vẫn còn một số tồn tại hạn chế.

Việc đúc rút kinh nghiệm qua thực tế triển khai thực hiện, định hướng

những giải pháp đảm hoàn thiện thực hiện pháp luật về bầu cử là một việc

làm rất quan trọng trong việc xây dựng và phát triển cơ quan quyền lực nhà

nước. Đồng thời là phương thức thể hiện quyền lực của Nhân dân./.

92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chỉ đạo bầu cử (2016), Thông báo số 51-TB/BCĐ ngày 16/02/2016 của

Ban Chỉ đạo công tác bầu cử về việc phân công nhiệm vụ trong Ban Chỉ

đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND các

cấp nhiệm kỳ 2016-2021

2. Ban Tổ chức Trung ương (2016), Hướng dẫn số 38-HD/BTCTW ngày

31/01/2016 của Ban Tổ chức Trung ương về công tác nhân sự ĐBQH khóa

XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021.

3. Ban Tuyên giáo Trung ương (2106), Hướng dẫn số 169-HD/BTGTW ngày

15/01/2016 của Ban Tuyên giáo Trung ương tuyên truyền cuộc bầu cử

ĐBQH khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021.

4. Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương (2016), Hướng dẫn số 82/HD-

BTĐKT ngày 20/01/2016 của Ban Thi đua- Khen thưởng Trung ương thực

hiện công tác thi đua, khen thưởng trong tổ chức bầu cử ĐBQH khóa XIV

và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021.

5. Báo cáo nghiên cứu kinh nghiệm một số nước về hình thức văn bản QPPL

quy định về bầu cử và mô hình cơ quan phụ trách bầu cử quốc gia,

http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View

_Detail.aspx?ItemID=969&TabIndex=2

6. Báo cáo số 207/BC-CP ngày 16/7/2016 của Chính phủ Báo cáo tổng kết

công tác bầu cử nhiệm kỳ 2016-2021, https://thuvienphapluat.vn/van-

ban/Bo-may-hanh-chinh/Bao-cao-207-BC-CP-cong-tac-bau-cu-dai-bieu-

Quoc-hoi-khoa-XIV-dai-bieu-Hoi-dong-nhan-dan-2016-2021-2016-

334425.aspx

7. Báo cáo tóm tắt tổng kết công tác bầu cử nhiệm kỳ 2016-2021 của UBTV

Quốc hội.

8. Báo cáo tổng hợp ý kiến các cơ quan, tổ chức góp ý dự thảo Luật Bầu cử

củaUBTVQuốchội,http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUT

HAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=969&TabIndex=2

9. Báo cáo tổng quan về bầu cử của một số nước trên thế giới của Ban soạn

thảo dự án luật Bầu cử.

10. Bộ Chính trị (2016), Chỉ thị số 51-CT/TW ngày 04/01/2016 của Bộ Chính

trị về lãnh đạo cuộc bầu cử ĐBQH khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND

các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021.

11. Bộ Nội vụ (2016), Thông tư số 02/2016/TT-BNV ngày 01/02/2016 của Bộ

Nội vụ hướng dẫn nghiệp vụ công tác tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội

khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021.

12. Bộ Tài chính (2016), Thông tư số 06/2016/TT-BTC ngày 14/01/2016 của

Bộ Tài chính hướng dẫn việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán

kinh phí bầu cử ĐBQH khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ

2016- 2021.

13. Bộ Thông tin và Truyền thông (2016), Kế hoạch số 151/KH-BTTTT ngày

15/01/2016 của Bộ Thông tin và Truyền thông thông tin, tuyên truyền

cuộc bầu cử ĐBQH khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-

2021.

14. Đại học luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam (tái bản

lần thứ 20 có sửa đổi bổ sung)

15. Đào Đoan Hùng (2018), Bầu cử dân chủ - cơ chế bảo đảm thực hiện

quyền lực chính trị của nhân dân lao động, Tạp chí dân chủ và pháp luật số

1-2018.

16. Hội đồng bầu cử quốc gia (2016), Kế hoạch số 40/KH-HĐBCQG ngày

29/01/2016 của Hội đồng bầu cử quốc gia triển khai công tác bầu cử đại

biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 –

2021.

17. Hội đồng bầu cử quốc gia (2016), Nghị quyết số 41/NQ-HĐBCQG ngày

29/01/2016 của Hội đồng bầu cử quốc gia quy định các mẫu văn bản trong

công tác bầu cử; hướng dẫn về hồ sơ ứng cử và thời hạn nộp hồ sơ ứng cử

ĐBQH khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021.

18. Hội đồng bầu cử quốc gia (2016), Phân công số 04/PC-HĐBCQG ngày

15/12/2015 của Hội đồng bầu cử quốc gia về thành viên Hội đồng bầu cử

quốc gia.

19. Nguyễn Thị Tâm (2015), Một số vấn đề về thể chế bầu cử ở nước ta hiện

nay, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-dan/item/1167-mot-so-

van-de-ve-the-che-bau-cu-o-nuoc-ta-hien-nay.html.

20. Nguyễn Quốc Sửu, Quá trình hoàn thiện pháp luật về bầu cử ở Việt Nam,

http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Binh-luan/2016/38827/Qua-

trinh-hoan-thien-phap-luat-ve-bau-cu-o-Viet-Nam.aspx.

21. Nguyễn Thanh Bình (2016), Vai trò của MTTQVN trong bầu cử đại biểu

Quốc hội và HĐND, Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2016

22. Quốc hội (1997), Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội (sửa đổi bổ sung vào các

năm 2001, 2007, 2010)

23. Quốc hội (2003), Luật Bầu cử đại biểu HĐND năm 2003

24. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

năm 2013

25. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014

26. Quốc hội (2015), Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng

nhân dân năm 2015.

27. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015

28. Quốc hội (2015), Nghị quyết số 105/2015/QH13 của Quốc hội nước Cộng

hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về Ngày bầu cử ĐBQH khóa XIV và đại

biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021; thành lập Hội đồng bầu cử quốc

gia.

29. Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế (2016), Chỉ thị số 02-CT/TU ngày 25/01/2016

của Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội

khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021

30. Thành ủy (2016), Quyết định số 71-QĐ/TU ngày 01/02/2016 của Thường

vụ Thành ủy về việc thành lập Ban chỉ đạo bầu cử gồm 16 thành viên;

31. Thành ủy (2016), Thông báo số 50-TB/TU ngày 16/02/2016 Của Thường

vụ Thành ủy Huế về công tác chỉ đạo bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV

và HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021;

32. Trần Diệu Hương (2013), Hoàn thiện pháp luật về bầu cử những vấn đề lý

luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học

33. Trần Thị Thu Hà (2010), Thực hiện pháp luật bầu cử HĐND cấp xã qua

thực tiễn tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, Luận văn Thạc sĩ Luật học.

34. Thành ủy (2016), Thông báo số 59-TB/TU ngày 01/3/2016 của Thường vụ

Thành ủy Huế về công tác nhân sự ứng cử đại biểu HĐND Phường, nhiệm

kỳ 2016-2021.

35. Thủ Tướng Chính phủ (2016), Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 13/01/2016 của

Thủ tướng Chính phủ về tổ chức cuộc bầu cử ĐBQH khóa XIV và đại biểu

HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021.

36. UBBC thành phố Huế (2016), Báo cáo số 73/BC-UBBC ngày 6/6/2016 về

tổng kết công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các

cấp nhiệm kỳ 2016-2021 trên địa bàn thành phố Huế.

37. UBBC thành phố Huế (2016), Kế hoạch số 01/KH-UBBC ngày 04/02/2016

của UBBC thành phố Huế về việc triển khai công tác bầu cử đại biểu Quốc

hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021.

38. UBBC thành phố Huế (2016), Quyết định số 05/QĐ-UBND ngày

22/02/2016 của UBBC Thành phố Huế về việc trưng tập cán bộ, công

chức tham gia vào công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại

biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021.

39. UBBC thành phố Huế (2016), Quyết định số 06/QĐ-UBND ngày

22/02/2016 của UBBC Thành phố Huế về việc thành lập tổ giúp việc công

tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm

kỳ 2016-2021.

40. UBBC thành phố Sông Công (2016), Báo cáo số 68/BC-UBBC ngày

08/6/2016 về tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu

HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 trên địa bàn thành phố Sông Công, tỉnh

Thái Nguyên.

41. UBBC thành phố Đồng Hới (2016), Báo cáo số 55/BC-UBBC ngày

07/6/2016 về kết quả cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu

HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 trên địa bàn thành phố Huế.

42. UBBC (2016), Kế hoạch số 01/KH-UBBC ngày 02/02/2016 của UBBC tỉnh

Thừa Thiên Huế về việc triển khai công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa

XIV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021;

43. UBBC thành phố Huế (2016), Quyết định số 04/QĐ-UBBC ngày

19/02/2016 UBBC Thành phố Huế về việc phân công công việc cho các

thành viên UBBC thành phố.

44. UBTVQH (2014), Bản thuyết minh về dự án Luật Bầu cử của UBTV

Quốchội,http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LU

AT/View_Detail.aspx?ItemID=969&TabIndex=2

45. UBTVQH (2014), Báo cáo đánh giá tác động dự án Luật Bầu cử đại biểu

QuốchộivàHĐND,http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUT

HAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=969&TabIndex=2

46. UBTVQH (2014), Báo cáo Tổng kết thi hành pháp luật về bầu cử,

http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View

_Detail.aspx?ItemID=969&TabIndex=2

47. UBTVQH (2014), Báo cáo thẩm tra dự án Luật Bầu cử,

http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View

_Detail.aspx?ItemID=969&TabIndex=2

48. UBTVQH (2014), Báo cáo việc lồng ghép bình đẳng giới trong Dự án

LuậtBầucử,http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_

LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=969&TabIndex=2

49. UBTVQH (2014), Tờ trình Dự án Luật Bầu cử,

http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View

_Detail.aspx?ItemID=969&TabIndex=2

50. UBTVQH (2016), Nghị quyết số 1129/2016/UBTVQH13 ngày

14/01/2016 của UBTVQH công bố Ngày bầu cử ĐBQH khóa XIV và đại

biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021.

51. UBTVQH (2016), Nghị quyết số 1132/NQ-UBTVQH13 ngày 16/01/2016

của UBTVQH hướng dẫn việc xác định dự kiến cơ cấu, thành phần và

phân bổ số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND các cấp

nhiệm kỳ 2016- 2021.

52. UBTVQH (2016), Nghị quyết số 1134/2016/UBTVQH13 ngày

18/01/2016 của UBTVQH quy định chi tiết, hướng dẫn về việc tổ chức

Hội nghị cử tri; việc giới thiệu người ứng cử đại biểu HĐND cấp xã ở

thôn, tổ dân phố; việc hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc

hội, đại biểu HĐND trong bầu cử bổ sung.

53. UBTVQH (2016), Nghị quyết số 1135/2016/UBTVQH13 ngày

22/01/2016 của UBTVQH dự kiến số lượng, cơ cấu, thành phần ĐBQH

khóa XIV.

54. Ủy ban kiểm tra Trung ương (2016), Hướng dẫn số 20-

HD/UBKTTW ngày 12/01/2016 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương thực

hiện việc giải quyết tố cáo, khiếu nại về bầu cử ĐBQH khóa XIV và đại

biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021 của các cấp ủy, tổ chức Đảng,

Ủy ban Kiểm tra các cấp.

55. Ủy ban nhân dân thành phố Huế (2016), Quyết định số 617/QĐ-UBND

ngày 04/02/2016 của UBND Thành phố Huế về việc thành lập UBBC đại

biểu HĐND thành phố Huế;

56. Ủy ban Trung ương MTTQVN (2016), Thông tri số 07/TTr-MTTW-BTT

ngày 28/01/2016 của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQVN về

việc MTTQVN tham gia cuộc bầu cử ĐBQH khóa XIV và đại biểu HĐND

các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021.

57. Vũ Văn Nhiêm (2009), Chế độ bầu cử ở nước ta - những vấn đề lý luận và

thực tiễn, Luận án tiến sĩ Luật học

58. Vũ Văn Phúc (2016), Các nguyên tắc cơ bản của bầu cử ở nước ta hiện

nay,http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Binh-luan/2016/38806/Cac-

nguyen-tac-co-ban-cua-bau-cu-o-nuoc-ta-hien.aspx

59. Xuân Hà (2011), Nâng cao tỷ lệ nữ trong Quốc hội và HĐND các cấp,

http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Xay-dung-nha-nuoc-phap-

quyen/2011/12017/Nang-cao-ty-le-nu-trong-Quoc-hoi-va-Hoi-dong-

nhan.asp