LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sỹ này là công trình nghiên cứu khoa học độc

lập của tôi. Các nội dung nghiên cứu và kết quả, các số liệu nêu trong luận văn là

trung thực có nguồn gốc rõ ràng và đáng tin cậy.

Tác giả luận văn

Phạm Thị Tƣơi

ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự giúp đỡ hết sức nhiệt tình và hiệu

quả của Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS Tăng Văn Nghĩa.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn tới tập thể cán bộ, giảng viên Cơ sở Quảng

Ninh, Khoa Luật, Khoa Sau đại học Trƣờng Đại học Ngoại thƣơng đã giúp đỡ tôi

trong thời gian học tập và hoàn thành khóa học tại Nhà trƣờng.

Tôi xin cảm ơn đồng nghiệp, bàn bè, cơ quan và gia đình đã tạo mọi điều

kiện giúp đỡ tôi trong thời gian qua để tôi hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc tìm kiếm tài liệu, nghiên cứu và tìm

hiểu thực tế nhƣng do thời gian hạn chế nên Luận văn không tránh khỏi những sai

sót. Tác giả rất mong nhận đƣợc sự quan tâm đóng góp ý kiến của Quý thầy cô, bạn

bè, đồng nghiệp và độc giả.

Trân trọng cảm ơn!

Tác giả luận văn

Phạm Thị Tƣơi

iii

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN

Tên luận văn: “Quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật

Cạnh tranh năm 2018”

Luận văn đã đạt các kết quả chính nhƣ sau:

- Đã phân tích khái niệm cạnh tranh không lành mạnh và khái quát pháp luật

cạnh tranh không lành mạnh.

- Nêu và phân tích các quy định về cạnh tranh không lành mạnh theo quy

định của pháp luật Việt Nam (Luật Cạnh tranh năm 2018) và thẩm quyền xử lý

hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

- Phân tích và nhận xét một số vụ việc cạnh tranh không lành mạnh điển hình

tại Việt Nam.

- Nêu những hạn chế trong việc xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

- Nêu xu hƣớng cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam trong thời gian

tới, những đề xuất xử lý và giải quyết tranh chấp liên quan đến hành vi cạnh tranh

không lành mạnh tại Việt Nam.

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. ii

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN............................. iii

MỤC LỤC .......................................................................................................... i

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ......................................................................... iv

LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................... 1

2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................ 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................... 4

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................ 4

5. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................... 5

6. Kết cấu của Luận văn ............................................................................... 5

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH . 6

1.1. Khái quát về hành vi cạnh tranh không lành mạnh .................................. 6

1.1.1 Khái niệm ........................................................................................... 6

1.1.2 Đặc điểm của hành vi CTKLM .......................................................... 9

1.1.3. Phân loại hành vi CTKLM .............................................................. 13

1.2. Khái quát về pháp luật chống CTKLM.................................................. 14

1.2.1. Khái niệm pháp luật chống CTKLM ............................................... 14

1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật chống CTKLM ...... 15

1.2.3. Vai trò của pháp luật chống CTKLM .............................................. 16

1.2.4. Nội dung điều chỉnh của pháp luật chống CTKLM ........................ 18

1.3. Khái quát sự ra đời của Luật Cạnh tranh năm 2018 .............................. 19

ii

CHƢƠNG II. .................................................................................................... 24

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG

LÀNH MẠNH - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC

ÁP DỤNG ................................................................................................................. 24

2.1. Quy định của Luật Cạnh tranh năm 2018 về hành vi CTKLM ............. 24

2.1.1. Xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh ................................. 24

2.1.2. Ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của DN............................ 25

2.1.3. Cung cấp thông tin không trung thực về DN khác .......................... 26

2.1.4. Gây rối hoạt động kinh doanh của DN ............................................ 28

2.1.5 Lôi kéo khách hàng bất chính ........................................................... 30

2.1.6. Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dƣới giá thành toàn bộ ................ 30

2.1.7 Các hành vi CTKLM khác bị cấm theo quy định của luật khác ...... 31

2.2. Quy định về chế tài áp dụng đối với hành vi CTKLM .......................... 36

2.3. Thực trạng xử lý các hành vi CTKLM .................................................. 38

2.3.1. Tổng quan xử lý các hành vi CTKLM ............................................ 38

2.3.2. Một số vụ việc cụ thể về xử lý các hành vi CTKLM ...................... 52

2.4. Một số vấn đề đặt ra trong việc xử lý, giải quyết hành vi CTKLM 54

2.4.1. Về quy định của pháp luật ............................................................. 54

2.4.2. Vấn đề giải quyết tranh chấp về CTKLM ...................................... 55

2.4.3. Vấn đề “Tố tụng kép” trong việc bồi thường thiệt hại ................. 57

2.4.4. Vấn đề văn hóa, thói quen kinh doanh.......................................... 57

CHƢƠNG III. ................................................................................................... 59

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ

CTKLM Ở VIỆT NAM ............................................................................................ 59

3.1. Xu hƣớng CTKLM trên thị trƣờng và nhu cầu xử lý tại Việt Nam59

iii

3.2. Một số giải pháp cụ thể ........................................................................ 61

3.2.1. Về hoàn thiện một số quy định của pháp luật ............................... 61

3.2.1.1. Đối với hành vi CTKLM ......................................................... 61

3.2.1.2. Đảm bảo sự hài hòa, tính tƣơng thích giữa các luật liên quan 65

3.2.2. Hoàn thiện trình tự, thủ tục xử lý các vụ việc CTKLM .................. 66

3.2.2.1. Giải pháp về thẩm quyền giải quyết vụ việc ........................... 67

3.2.2.2. Về bồi thƣờng thiệt hại do hành vi CTKLM gây ra ................ 67

3.2.2.3. Về cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính đối với quyết định

xử lý vụ việc CTKLM ................................................................................... 74

3.2.2.4. Chế tài áp dụng đối với các hành vi CTKLM cần phải đủ mạnh

....................................................................................................................... 74

3.2.2.5 Cần áp dụng hòa giải trong giải quyết các vụ việc cạnh tranh . 75

3.2.3. Một số đề xuất khác ......................................................................... 75

3.2.3.1. Tăng cƣờng khả năng phối hợp giữa các cơ quan, bộ, ngành

trong việc giải quyết những vụ việc liên quan đến CTKLM ........................ 75

3.2.3.2. Phổ biến kiến thức pháp luật về cạnh tranh nói chung và pháp

luật về chống CTKLM nói riêng ................................................................... 76

3.2.3.3. Nâng cao ý thức pháp luật và tự bảo vệ của DN và ngƣời tiêu

dùng ............................................................................................................... 77

3.2.3.4. Xây dựng đạo đức kinh doanh của DN ................................... 79

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 82

iv

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Nội dung viết tắt

STT Ký hiệu viết tắt 1 2 3 DN CTKLM CTVBVNTD Doanh nghiệp Cạnh tranh không lành mạnh Cạnh tranh và bảo vệ ngƣời tiêu dùng

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong bối cảnh nền kinh tế nƣớc ta đang tăng trƣởng theo hƣớng toàn cầu hóa

và hội nhập kinh tế quốc tế, thì cạnh tranh là quá trình tất yếu xảy ra trong quá trình

phát triển của các ngành kinh tế. Sự đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các nhà sản

xuất kinh doanh đã mang lại một ƣu điểm lớn là đảm bảo thị trƣờng luôn mở cửa

cho các ngành mới, doanh nghiệp mới, buộc các doanh nghiệp (DN) luôn luôn phải

cải thiện mình, phải dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tƣ liệu sản xuất nhằm

giành đƣợc những điều kiện thuận lợi nhất về sản xuất, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ

để thu đƣợc lợi nhuận lớn nhất, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, đồng thời

mang lại lợi ích cho ngƣời tiêu dùng.

Cạnh tranh là một quy luật và thuộc tính tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế. Cạnh tranh là một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Song cạnh

gay gắt quá sẽ dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh (CTKLM). Các hành vi

CTKLM giữa các DN đã xâm hại quyền tự do kinh doanh, gây hậu quả xấu cho môi

trƣờng kinh doanh, cho các DN làm ăn chân chính và cho ngƣời tiêu dùng. Cơ chế

thị trƣờng cũng đặt ra nhu cầu phải thiết lập và duy trì một môi trƣờng cạnh tranh

công bằng và bình đẳng cho các chủ thể kinh doanh. Đây cũng là một điều kiện để

Việt Nam thực hiện cam kết sau khi gia nhập WTO. Vấn đề chống CTKLM và

chống hạn chế cạnh tranh (độc quyền) tiếp tục là vấn đề nóng bỏng và sôi động của

khoa học pháp lý nói chung và khoa học pháp lý kinh tế nói riêng không chỉ đối với

các quốc gia đã có nền kinh tế thị trƣờng phát triển mà cả ngay ở các quốc gia mới

chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng, trong đó có Việt Nam. Những năm qua, ở

nƣớc ta vấn đề cạnh tranh đã thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều giới, nhiều nhà

khoa học và có một số công trình nghiên cứu vấn đề này lần lƣợt ra đời. Pháp luật

vừa góp phần bình ổn các quan hệ kinh tế vừa điều chỉnh quan hệ kinh tế để nền

kinh tế phát triển một cách lành mạnh, ổn định, có tổ chức, theo định hƣớng, mục

tiêu đã định. Các hoạt động CTKLM trên thị trƣờng giữa doanh nghiệp nƣớc ngoài

với doanh nghiệp trong nƣớc; giữa hàng nội và hàng ngoại; giữa các doanh nghiệp

thuộc khu vực kinh tế tƣ nhân và các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế quốc

2

doanh. vẫn đã và đang diễn ra không ngừng. Vì thế, việc xây dựng chế định pháp lý

về cạnh tranh, chống CTKLM và chống độc quyền trong chỉnh thể của hệ thống

pháp luật nói chung và khung pháp luật kinh tế nói riêng có tầm quan trọng đặc biệt

nhằm cải thiện môi trƣờng pháp lý, 5 khuyến khích hơn nữa các hoạt động đầu tƣ,

sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế trong và ngoài nƣớc. Nền kinh tế thị

trƣờng càng phát triển, sự vận động của các quan hệ kinh tế càng phong phú, đa

dạng thì quy mô và mức độ cạnh tranh ngày càng tăng, những hành vi CTKLM xuất

hiện ngày càng nhiều. Trong khi đó thực thi pháp luật cạnh tranh còn chƣa thực sự

có hiệu quả, Cơ quan quản lý cạnh tranh còn chƣa phát huy hết vai trò của mình

trong việc chống lại các hành vi CTKLM.

Đối với các DN, cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh

nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh (cải tiến thiết

bị công nghệ, sử dụng nguồn tài nguyên một cách tối ƣu…), ảnh hƣởng đến uy tín,

quyết định vị thế của doanh nghiệp trên thƣơng trƣờng. Vì vậy, chúng ta không thể

phủ nhận mặt tiêu cực của cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh (CTKLM) sẽ

gây ra những hậu quả tiêu cực, bị cuốn hút bởi các mục tiêu hạ giá thành, tăng lợi

nhuận…, các doanh nghiệp đã không chịu bỏ ra chi phí cho việc xử lý các chất thải,

ô nhiễm môi trƣờng và các vấn đề xã hội khác. Ngoài ra, cạnh tranh có thể có xu

hƣớng dẫn đến độc quyền…

Do đó, để điều chỉnh vấn đề cạnh tranh trong nền kinh tế các nƣớc nói chung

và trong lĩnh vực kinh doanh của các DN tại Việt Nam nói riêng đòi hỏi mỗi quốc

gia phải có một thể chế các quy định pháp luật về cạnh tranh phù hợp nhằm cải

thiện và hƣớng đến một môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh.

Đứng trƣớc những lý luận và thực tiễn nói trên việc nghiên cứu và xây dựng

pháp luật về vấn đề chống cạnh tranh không lành mạnh là rất cần thiết. Chính vì

vậy, em chọn đề tại “Quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật

Cạnh tranh năm 2018” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Những năm qua, ở nƣớc ta, pháp luật chống CTKLM ngày càng thu hút đƣợc

sự quan tâm đông đảo của các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực. Nhiều công trình

3

khoa học ở những phạm vi và mức độ tiếp cận khác nhau đã đề cập đến cơ sở lý

luận về cạnh tranh và pháp luật chống CTKLM, tìm hiểu nội dung pháp luật chống

CTKLM của một số nƣớc trên thế giới, nêu ra nhu cầu và phƣơng hƣớng xây dựng

pháp luật cạnh tranh nói chung và pháp luật chống CTKLM nói riêng ngày một

hoàn thiện hơn. Tiêu biểu phải kể đến một số tài liệu tham khảo và công trình

nghiên cứu nhƣ: Tài liệu tham khảo “Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh

trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn

Nhƣ Phát và Bùi Nguyên Khánh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; Tài liệu

tham khảo “Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống CTKLM ở Việt Nam” của

tác giả Đặng Vũ Huân, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; Tài liệu tham

khảo“cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở VN hiện nay” của Viện nghiên

cứu nhà nƣớc và pháp luật, Nxb công an nhân dân, Hà nội, 2001; Tài liệu tham

khảo “Pháp luật 6 chống cạnh tranh không lành mạnh” của tác giả Nguyễn Nhƣ

Phát, Viện nghiên cứu nhà nƣớc và pháp luật, 2005. Luật cạnh tranh của Việt Nam

đƣợc Quốc hội thông qua ngày 03/12/2004 và chính thức có hiệu lực ngày

01/07/2005 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự điều tiết nền kinh tế theo cơ

chế thị trƣờng tại nƣớc ta. Sau thời điểm này cũng có nhiều tài liệu tham khảo và

công trình nghiên cứu về vấn đề này đƣợc đăng tải. Tiêu biểu nhƣ Đề tài NCKH cấp

bộ, Những nội dung cơ bản của Luật cạnh tranh Việt Nam năm 2004 và đề xuất áp

dụng của TS. Tăng Văn Nghĩa, 2005; Đề tài NCKH cấp bộ “Những vấn đề đặt ra và

giải pháp thực thi có hiệu quả Luật cạnh tranh trong thực tiễn” của TS Tăng Văn

Nghĩa, 2007; Tạp chí Luật học của Trƣờng ĐH Luật HN, số 6/2006 đăng bài “Đƣa

pháp luật chống CTKLM vào cuộc sống” của tác giả Nguyễn Nhƣ Phát; Luận án

tiến sỹ luật học “Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam” của tác

giả Lê Anh Tuấn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008; Giáo trình “Luật cạnh tranh” của

tác giả Tăng Văn Nghĩa, Nxb giáo dục Việt Nam, 2009... Ngoài ra còn rất nhiều bài

báo, tạp chí đã đƣa ra đƣợc thực trạng CTKLM, xây dựng và đóng góp ý kiến quý

báu cho việc hoàn thiện chính sách, pháp luật CTKLM đã đƣợc đăng tải trên các tạp

chí nhƣ Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí kinh tế. Tuy

nhiên từ đó đến nay, sau 13 năm Luật Cạnh tranh có hiệu lực, khi đất nƣớc Việt

Nam đang trên đà phát triển để hòa nhập đƣợc với sự phát triển công nghiệp hóa,

4

hiện đại hóa của đất nƣớc với các nƣớc trên thế giới, đòi hỏi Việt Nam phải đƣa ra

các chế tài để Luật cạnh tranh phù hợp với tình hình của đất nƣớc mình ngày

12/6/2018 Quốc hội đã ban hành Luật Cạnh tranh số 23/2018/QH14 của Việt Nam

sửa đổi, bổ sung một số Điều Luật tại Luật Cạnh tranh năm 2004. Đồng thời xây

dựng nền kinh tế cạnh tranh ngày càng lành mạnh hơn trong quá trình hội nhập và

phát triển. Luận văn này sẽ kế thừa những đặc điểm, nguyên tắc mang tính lý luận

chung và tập trung nghiên cứu chuyên sâu quy định về hành vi CTKLM theo Luật

cạnh tranh năm 2018.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của Luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về

CTKLM trong các quy định pháp luật hiện nay và sự cần thiết phải hoàn thiện vấn

đề này; đồng thời đƣa ra giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về hành vi CTKLM

trên thực tế xảy ra ở Việt Nam.

Để thực hiện đƣợc mục đích trên, nhiệm vụ của Luận văn là:

- Làm rõ, đƣa ra những vấn đề lý luận về quy định hành vi CTKLM theo Luật

canh tranh năm 2018.

- Nghiên cứu, tìm hiểu về cạnh tranh, pháp Luật Cạnh tranh nói chung và

pháp luật chống CTKLM nói riêng.

- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật CTKLM trên thị trƣờng

cũng nhƣ thực trạng xử lý và giải quyết tranh chấp về CTKLM ở Việt Nam hiện

nay.

- Đƣa ra những phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm hoàn thiện đƣa ra giải pháp

nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về hành vi CTKLM ở Việt Nam.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tƣợng nghiên cứu là quy định về hành vi CTKLM theo Luật Cạnh tranh

năm 2018. Trình tự, thủ tục, khiếu nại, khởi kiện, các biện pháp xử lý, chế tài áp

dụng đối với hành vi CTKLM; giải quyết tranh chấp liên quan đến CTKLM trên thị

trƣờng Việt Nam.

5

- Phạm vi nghiên cứu:

Về nội dung, Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu trong mối quan hệ giữa

các quy định về các hành vi CTKLM trong Luật Cạnh tranh năm 2018 với các quy

định liên quan tới cạnh tranh trong một số đạo luật chuyên ngành khác về thƣơng

mại, quảng cáo, hay bảo vệ ngƣời tiêu dùng…

Về thời gian, Luận văn lấy mốc thời gian nghiên cứu những vấn đề cạnh tranh,

pháp luật cạnh tranh, vụ việc CTKLM là năm 2018 khi Luật Cạnh tranh đƣợc sửa

đổi, bổ sung cho đến năm 2025 trên cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm tăng cƣờng

xử lý các hành vi CTKLM trên thị trƣờng Việt Nam.

Về không gian, các hành vi CTKLM xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để hoàn thiện Luận văn, các phƣơng pháp đƣợc sử dụng bao gồm: phƣơng

pháp phân tích – tổng hợp, phƣơng pháp so sánh – đối chiếu, hệ thống hóa… nhằm

làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu về hành vi CTKLM cũng nhƣ việc xử lý và giải

quyết tranh chấp từ các hành vi này.

6. Kết cấu của Luận văn

Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Mục lục và Danh mục tài liệu tham khảo, luận

văn đƣợc chia làm 03 chƣơng nhƣ sau:

- Chƣơng I. Một số vấn đề về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

- Chƣơng II. Quy định của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh –

thực trạng và một số vấn đề đặt ra trong việc áp dụng

- Chƣơng III: Một số giải pháp hoàn thiện và thực thi pháp luật về cạnh tranh

không lành mạnh ở Việt Nam.

6

CHƢƠNG I.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

1.1. Khái quát về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

1.1.1 Khái niệm

Cạnh tranh là sản phẩm tất yếu của sự phát triển kinh tế xã hội. Trong mọi

phƣơng diện của cuộc sống ý thức vƣơn lên luôn là yếu tố chủ đạo hƣớng suy nghĩ

và hành động của con ngƣời. Hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) là một lĩnh

vực quan trọng trong đời sống xã hội, trong đó ý thức vƣơn lên không đơn thuần là

mong muốn đạt đƣợc một mục tiêu nào đó mà còn là tham vọng trở thành ngƣời

đứng đầu. Suy nghĩ và hành động trong SXKD bị chi phối rất nhiều bởi tính kinh tế

khắc nghiệt. Trong giai đoạn hiện nay, yếu tố coi là khắc nghiệt nhất là cạnh tranh.

Môi trƣờng hoạt động của DN ngày nay đầy biến động và cạnh tranh hiện nay là

cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các chủ thể kinh tế tham gia vào thị trƣờng

nhằm giành giật nhiều các lợi ích kinh tế hơn về mình. Để đạt đƣợc mục tiêu của

mình, chủ thể tham gia cạnh tranh có khả năng sử dụng nhiều cách thức khác nhau,

tạo ra tình trạng cạnh tranh ở những mức độ khác nhau, thậm chí sử dụng cả những

hành vi trái pháp luật, đi ngƣợc lại các nguyên tắc trung thực, thiện chí, hay những

thông lệ, tập quán đƣợc chấp nhận và tồn tại lâu dài trong kinh doanh, nhằm tối ƣu

hóa lợi thế cạnh tranh bất chính cho mình. CTKLM xuất hiện từ một trong những

con đƣờng nhƣ vậy.

Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về hành vi CTKLM. Hiểu theo nghĩa

rộng thì hành vi CTKLM bao gồm tất cả các hành vi cạnh tranh bằng việc sử dụng

các thủ đoạn bất chính, xâm hại tới các hoạt động cạnh tranh trên thị trƣờng, xâm

hại đến quyền tự do cạnh tranh một cách công bằng của các DN. Theo quan niệm

này, các hành vi hạn chế cạnh tranh nhƣ: thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và lạm dụng

vị trí thống lĩnh thị trƣờng cũng đƣợc đƣa vào khía cạnh của CTKLM.

Theo luật sƣ Đặng Kim Ngân Hà, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh

đang gây thiệt hại nặng nề, ảnh hƣởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của

Universal Network Connection (UNC).

7

Luật sƣ Đặng Kim Ngân Hà - đại diện của Công ty Universal Network Connection

(UNC)

Nêu quan điểm về câu chuyện “cạnh tranh không lành mạnh”, luật sƣ Đặng Kim

Ngân Hà - đại diện của Công ty Universal Network Connection (UNC) cho hay,

Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh là một trong những quyền đƣợc pháp

luật tôn trọng đƣợc quy định tại điều 3 Luật cạnh tranh 2018, cụ thể: Hành vi cạnh

tranh không lành mạnh là hành vi của doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí,

trung thực, tập quán thƣơng mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt

hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác.

Điều 45 nêu: Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm nhƣ sau: Gây rối hoạt

động kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở,

làm gián đoạn hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp đó. Lôi kéo khách

hàng bất chính bằng các hình thức sau đây: Đƣa thông tin gian dối hoặc gây nhầm

lẫn cho khách hàng về doanh nghiệp mà doanh nghiệp cung cấp nhằm thu hút khách

hàng của doanh nghiệp khác.

Và Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh

đƣợc xác lập trên cơ sở hoạt động cạnh tranh trong kinh doanh.

8

Với kinh nghiệm cố vấn pháp lý cho các doanh nghiệp nƣớc ngoài và nhà nƣớc qua

nhiều năm, tôi nhận thấy rằng hành vi cạnh tranh không lành mạnh luôn là vấn đề

hàng đầu đƣợc các nhà lãnh đạo quan tâm và trăn trở, bởi vì hành vi cạnh tranh

không lành mạnh có thể tấn công doanh nghiệp khi các nhân viên chủ chốt rời đi và

làm việc cho đối thủ cạnh tranh, sử dụng (hoặc có thể sử dụng) thông tin bí mật

kinh doanh làm lợi cho đối thủ cạnh tranh trực tiếp của doanh nghiệp hoặc thành lập

nên một công ty mới cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp là chuyện không mới tại

Việt Nam cũng nhƣ trên thế giới.

Các trƣờng hợp về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhƣ: Sau khi nghỉ việc

tại doanh nghiệp, các nhân viên cũ để bắt đầu liên hệ với khách hàng hiện tại và

tiềm năng tƣơng lai của doanh nghiệp, xúi giục, lôi kéo, khích động khách hàng phá

vỡ hợp đồng của doanh nghiệp, dẫn tới các tổn hại đến uy tín và lợi ích kinh tế của

doanh nghiệp. Các nhân viên cũ của doanh nghiệp bắt đầu thành lập một công ty

mới với tên thƣơng mại dễ gây nhầm lẫn và kinh doanh sản phẩm dịch vụ tƣơng

ứng để cạnh tranh trực tiếp và đồng thời sử dụng mạng xã hội để nói xấu, không

đúng sự thật nhằm bôi nhọ, vu khống, xuyên tạc, xúc phạm danh dự, uy tín của

doanh nghiệp. (Nguồn: thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/xu-ly-the-nao-voi-hanh-

vi-canh-tranh-khong-lanh-manh-1042582.html)

Hành vi CTKLM là hành vi của DN trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập

quán thƣơng mại, các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt

hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của DN khác. Luật Cạnh tranh 2018 điều chỉnh chung

về các quan hệ cạnh tranh. Việc điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh, miễn trừ đối với thỏa

thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm và thông báo tập trung kinh tế phải áp dụng quy định của

Luật Cạnh tranh 2018. Trƣờng hợp Luật khác có quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh,

hình thức tập trung kinh tế, hành vi CTKLM và việc xử lý hành vi CTKLM khác với quy

định của Luật này thì áp dụng quy định của Luật đó.

Nhƣ vậy, CTKLM là những hành vi cạnh tranh đi ngƣợc lại các nguyên tắc xã

hội tốt đẹp, tập quán và truyền thống kinh doanh thông thƣờng, xâm phạm hoặc đe

dọa tới lợi ích của các chủ thể kinh doanh xâm hại đến lợi ích của Nhà nƣớc, quyền

và lợi ích hợp pháp của DN khác hoặc của ngƣời tiêu dùng.

9

1.1.2 Đặc điểm của hành vi CTKLM

Theo Luật cạnh tranh năm 2018, hành vi CTKLM có những đặc điểm cơ bản

sau:

Thứ nhất, CTKLM là hành vi của DN trong quá trình kinh doanh

Đặc điểm này thể hiện quy định về đối tƣợng áp dụng của Luật Cạnh tranh.

Theo đó, chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh chỉ bao gồm các DN thuộc mọi thành

phần kinh tế, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, DN nƣớc ngoài hoạt động tại Việt

Nam, các hiệp hội ngành nghề. Những đối tƣợng còn lại nhƣ các đơn vị sự nghiệp,

các tổ chức của ngƣời tiêu dùng, các đơn vị truyền thông, các tổ chức phi kinh tế…

không là đối tƣợng áp dụng các quy định của pháp luật về CTKLM. Đôi khi, thực tế

phát sinh những tình huống một số tổ chức phi kinh tế, các đơn vị truyền thông…

thực hiện những hành vi xâm phạm đến quyền cạnh tranh lành mạnh của DN, ví dụ

tung tin không trung thực về DN, về hàng hóa. dịch vụ… Với việc giới hạn chủ thể

thực hiện hành vi, pháp Luật Cạnh tranh không áp dụng để xử lý những tình huống

trên. Mặt khác, đặc điểm này cũng khẳng định hành vi CTKLM xảy ra trong kinh

doanh ở mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, mọi công đoạn của quá trình

kinh doanh. Pháp luật về hành vi CTKLM đƣợc áp dụng cho mọi ngành nghề, mọi

lĩnh vực kinh tế. Nói cách khác, pháp luật không giới hạn áp dụng cho bất kỳ ngành

nghề, lĩnh vực hoặc hoạt động kinh doanh nào của kinh tế quốc dân.

Thứ hai, là hành vi cạnh tranh trái với các chuẩn mực thông thƣờng về

đạo đức kinh doanh

Đặc điểm này là căn cứ lý luận để xác định bản chất không lành mạnh của

hành vi. Tuy nhiên, “trái với chuẩn mực thông thƣờng về đạo đức kinh doanh” là

thuật ngữ trừu tƣợng cả về pháp lý lẫn lý thuyết. Đây là những căn cứ rất khó xác

định. Bởi vậy, cơ quan có thẩm quyền không thể sử dụng khái niệm hành vi không

lành mạnh để quy kết một hành vi cụ thể của DN là không lành mạnh. Để khắc

phục tình trạng trên, pháp luật cạnh tranh đã tập trung giải quyết hai nội dung sau:

Một, vì các phƣơng pháp cạnh tranh rất đa dạng, bao gồm thủ đoạn gây nhầm

lẫn, gian dối, gièm pha, bóc lột, gây rối, nên Luật Cạnh tranh năm 2018 đã liệt kê

10

các hành vi cạnh tranh bị coi là không lành mạnh và quy định cấu thành pháp lý của

chúng. Pháp luật cạnh tranh của hầu hết các nƣớc nhƣ Cộng hoà liên bang Đức,

Nhật bản… đều có cách tiếp cận tƣơng tự, tức là ngoài việc đƣa ra khái niệm về

hành vi CTKLM (Điều 1 Luật Chống CTKLM Cộng hòa Liên bang Đức quy định:

“Người nào trong quan hệ thương mại mà có những hành vi nhằm mục đích cạnh

tranh, song những hành vi này chống lại truyền thống kinh doanh lành mạnh thì

buộc phải chấm dứt hành vi đó và bồi thường thiệt hại”) còn liệt kê và mô tả từng

hành vi bị coi là không lành mạnh trong cạnh tranh. Khái niệm hành vi CTKLM

đƣợc quy định trong Luật Cạnh tranh Việt Nam và của các nƣớc chỉ có ý nghĩa về

mặt lý thuyết. Trong thực tế, việc áp dụng sẽ căn cứ vào các quy định về từng hành

vi vi phạm cụ thể nhƣ chỉ dẫn gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh, dèm pha

DN khác….

Hai, các chuẩn mực thông thƣờng về đạo đức kinh doanh đƣợc xác định dựa

vào hai căn cứ sau đây:

– Căn cứ luật định là những tiêu chuẩn đã đƣợc định lƣợng hoá bằng pháp

luật, một khi hành vi đi trái với các quy định pháp luật sẽ đƣợc xem là không lành

mạnh. Trong trƣờng hợp này, hành vi CTKLM đồng nghĩa với hành vi cạnh tranh

bất hợp pháp. Theo đó, hành vi CTKLM có thể là hành vi của tổ chức, cá nhân kinh

doanh vi phạm điều cấm của pháp luật (bao gồm các quy định cấm của Luật Cạnh

tranh và các văn bản pháp luật khác nhƣ pháp luật thƣơng mại, pháp luật về quản lý

giá, pháp luật về sở hữu trí tuệ…) hoặc là hành vi vi phạm các tiêu chuẩn lành mạnh

đƣợc pháp luật quy định nhƣ pháp luật khuyến mại quy định giới hạn của giá trị

khuyến mại nhƣ sau: “mức giảm giá tối đa đối với hàng hóa, dịch vụ đƣợc khuyến

mại không đƣợc vƣợt quá 50% giá hàng hóa, dịch vụ đó ngay trƣớc thời gian

khuyến mại (Điều 6 Nghị định số 37/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thƣơng

mại về hoạt động xúc tiến thƣơng mại.).

– Các tập quán kinh doanh thông thƣờng đã đƣợc thừa nhận rộng rãi đƣợc áp

dụng đối với những hành vi chƣa đƣợc pháp luật dự liệu là CTKLM. Nói cách khác,

căn cứ này là biện pháp dự phòng để áp dụng cho những trƣờng hợp pháp luật chƣa

quy định về một hành vi cụ thể nhƣng khi hành vi này đƣợc thực hiện đã xâm hại

11

đến quyền cạnh tranh của các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác, quyền lợi hợp pháp

của ngƣời tiêu dùng và trái với tập quán kinh doanh. Căn cứ này đã mở rộng

khả năng điều chỉnh và khắc phục đƣợc tình trạng chóng lạc hậu của pháp Luật

Cạnh tranh. Cho đến nay, Luật Cạnh tranh chƣa quy định những tập quán kinh

doanh nào đƣợc coi là các chuẩn mực đạo đức thông thƣờng.

Tính trái chuẩn mực đạo đức thông thƣờng trong kinh doanh của hành vi

CTKLM đòi hỏi pháp Luật Cạnh tranh phải luôn đƣợc chỉnh lý, bổ sung cho phù

hợp với thực tiễn. Nhận thức về các dấu hiệu, biểu hiện không lành mạnh cụ thể

luôn thay đổi và có sự khác biệt theo từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể nhƣ sau:

– Quan niệm về tính không lành mạnh là kết quả của những ý niệm liên quan

đến xã hội học, kinh tế học, đạo đức học của một xã hội nhất định nên có thể dẫn

đến hiện tƣợng hành vi cạnh tranh bị coi là CTKLM ở nƣớc này, nhƣng đƣợc coi là

lành mạnh ở nƣớc khác.

– Trên thị trƣờng, những hành vi cạnh tranh luôn thay đổi không ngừng về

hình thức thể hiện và phƣơng thức cạnh tranh, làm xuất hiện những thủ đoạn

CTKLM mới muôn mầu, muôn vẻ. Vì vậy, phạm vi của khái niệm CTKLM cũng

phải luôn đƣợc bổ sung bởi sự nhận thức của con ngƣời về bản chất không lành

mạnh của những hành vi mới phát sinh.

– Hiện nay, pháp Luật Cạnh tranh của các nƣớc, các học thuyết liên quan đến

cạnh tranh chƣa đƣa ra đƣợc những tiêu chuẩn chung về tính lành mạnh của hành vi

cạnh tranh mà chỉ mới dựa vào việc phân tích các hậu quả của hành vi cạnh tranh

đối với đời sống kinh tế, xã hội để xác định sự lành mạnh và mức độ biểu hiện của

các hành vi đó. Theo sự thay đổi và phát triển của thị trƣờng, nhận thức về mức độ

ảnh hƣởng của từng hành vi trên thị trƣờng cũng thay đổi. Có những thời điểm nhất

định, hành vi nào đó có thể sẽ là nguy hiểm cho xã hội, nhƣng ở thời điểm khác lại

không có điều kiện để gây hại cho đối thủ hoặc cho ngƣời tiêu dùng. Sự thay đổi đó

đã làm cho phạm vi của khái niệm CTKLM luôn biến đổi.

Thứ ba, hành vi CTKLM gây thiệt hại, có thể gây thiệt hại đến lợi ích của

Nhà nƣớc, DN khác và ngƣời tiêu dùng

12

Hành vi CTKLM có đối tƣợng xâm hại cụ thể là lợi ích của Nhà Nƣớc, của

các DN khác và ngƣời tiêu dùng. Bên cạnh đó, thiệt hại mà hành vi gây ra có thể là

hiện thực (đã xảy ra) nhƣng cũng có thể chỉ là tiềm năng (có căn cứ để xác định

rằng hậu quả chắc chắn sẽ xảy ra nếu không ngăn chặn hành vi). Do đó, một số

hành vi CTKLM có cấu thành vật chất (thiệt hại là dấu hiệu bắt buộc) nhƣ dèm pha

DN khác; một số hành vi có cấu thành hình thức (thiệt hại không là dấu hiệu bắt

buộc mà có thể chỉ là sự suy đoán nếu hành vi tiếp tục đƣợc thực hiện), ví dụ hành

vi quảng cáo không trung thực….

Đặc điểm về hậu quả của hành vi giúp cho chúng ta phân biệt dƣới góc độ lý

thuyết hành vi CTKLM và hành vi hạn chế cạnh tranh. Hành vi hạn chế cạnh tranh

là những xử sự của DN hoặc nhóm DN làm thay đổi một cách tiêu cực tình trạng

cạnh tranh hoặc làm giảm tác dụng của cạnh tranh đối với thị trƣờng. Hành vi hạn

chế cạnh tranh có thể gây thiệt hại cho một, một số đội tƣợng cụ thể, song nghiêm

trọng hơn là làm cản trở, suy giảm hoặc sai lệch cạnh tranh. Trong khi đó, hành vi

CTKLM chỉ gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác hoặc cho ngƣời

tiêu dùng, xâm hại đến trật tự quản lý cạnh tranh của nhà nƣớc mà không cản trở,

sai lệch hay làm giảm tình trạng cạnh tranh của thị trƣờng. Vì vậy, cách thức và

mức độ xử lý đối với hai loại hành vi này khác nhau. Dƣới góc độ lịch sử phát

triển, những đặc điểm về hậu quả của hành vi CTKLM thay đổi theo thời gian phụ

thuộc vào nhận thức của con ngƣời về tính nguy hại và mức độ xâm hại của hành vi

đó đối với lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ. Ở thời kỳ đầu tiên, pháp Luật Cạnh tranh

chỉ nhằm chống lại các biểu hiện không lành mạnh xâm phạm lợi ích của đối thủ

cạnh tranh theo quan niệm cạnh tranh phải là sự đối đầu giữa các đối thủ trên thị

trƣờng, vì vậy những hành vi xâm hại lợi ích ngƣời tiêu dùng không nằm trong khái

niệm CTKLM. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng, những hành vi

không lành mạnh đƣợc thực hiện với khách hàng (ngƣời tiêu dùng), tƣởng chừng

nhƣ không liên quan đến các đối thủ cạnh tranh nhƣng thực tế cũng làm tổn hại và

thậm chí phá vỡ trật tự và hệ thống cạnh tranh hiện hành. Do đó, quan niệm về hành

vi CTKLM đã làm cho pháp luật chống CTKLM mở rộng phạm vi sang cả những

hành vi xâm hại lợi ích của khách hàng, của ngƣời tiêu dùng.

13

Hơn 20 năm phát triển thị trƣờng của Việt Nam cho thấy CTKLM đang diễn

ra trong tất cả các ngành kinh tế. Ngoài khu vực độc quyền của các DN Nhà nƣớc, ở

các khu vực khác của thị trƣờng Việt Nam đã có sự tồn tại của cạnh tranh ở những

mức độ nhất định. Trong bối cảnh thực hiện nền kinh tế thị trƣờng, ở đâu có cạnh

tranh, ở đó có CTKLM. Các biểu hiện CTKLM cũng diễn ra trên các thị trƣờng hoá

mỹ phẩm, nƣớc giải khát và trong lĩnh vực quảng cáo, khuyến mại, mua bán…. Các

hành vi CTKLM rất đa dạng và luôn thay đổi về hình thức thực hiện. Ví dụ trong

lĩnh vực quảng cáo, có thể nghi ngờ tính trung thực của thông tin đƣợc cung cấp (về

khả năng tăng cƣờng trí thông minh của các lọai thuốc dinh dƣỡng, về tác động của

các sản phẩm sữa cho trẻ em…), về sự so sánh của các DN kinh doanh hóa mỹ

phẩm.

1.1.3. Phân loại hành vi CTKLM

Hành vi CTKLM đƣợc phân thành nhiều loại khác nhau, tùy thuộc vào tiêu chí

cũng nhƣ mục đích phân loại. Tuy nhiên, các hành vi CTKLM đều có chung một

bản chất là đều tạo ra lợi thế không chính đáng trong tƣơng quan cạnh tranh trên thị

trƣờng và có thể chia thành ba nhóm:

Nhóm 1: các hành vi mang tính chất lợi dụng

Đây là nhóm hành vi CTKLM mang tính điển hình, đƣợc thể hiện dƣới nhiều

hình thức khác nhau nhƣ gây ra những nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ,

xâm phạm bí mật kinh doanh… dẫn đến việc chiếm đoạt, sử dụng trái phép lợi thế

cạnh tranh của các DN khác, nó đƣợc quy định rõ tại Điều 40, 41 Luật Cạnh tranh,

chính là hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn và hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh.

Theo đó, hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn là hành vi xâm hại đến tên thƣơng mại, khẩu

hiệu kinh doanh, bao bì… đƣợc in trên sản phẩm hàng hóa, hay dịch vụ của đối thủ

cạnh tranh. Xâm phạm bí mật kinh doanh là tiếp nhận, thu thập, sử dụng, tiết lộ

hoặc vi phạm hợp đồng bảo mật, có hành vi lừa gạt hay lợi dụng ngƣời có nghĩa vụ

bảo mật để có đƣợc thông tin bí mật kinh doanh của đối thủ cạnh tranh khi chƣa có

sự đồng ý của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó. Với mục đích là tạo nên sự nhầm

lẫn, với cái nhìn khác của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ của DN khác là đối thủ

cạnh tranh với DN mình.

14

Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh là hành vi nhằm chiếm đoạt những kinh

nghiệm, tƣ liệu sản xuất, bí mật kinh doanh của các đối thủ cạnh tranh nhằm tạo lợi

thế phát triển, thu hút khách hàng cho DN mình.

Phƣơng pháp xác định hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn là so sánh giữa các dấu

hiệu để có thể nhận biết hàng hóa, dịch vụ của DN đang sử dụng bị coi là đã có

hành vi sử dụng những thông tin gây nhầm lẫn cho khách hàng.

Nhóm 2: Các hành vi mang tính công kích

Nhóm hành vi này bản chất là tấn công, triệt tiêu, đƣa ra những thông tin sai

lệch làm mất uy tín, làm suy giảm lợi thế cạnh tranh hoặc mua chuộc, lôi kéo nhân

viên của đối thủ cạnh tranh, nó tác động thẳng tới đối thủ cạnh tranh của bên vi

phạm, nhƣng do tính chất trực diện của hành vi, các bên liên quan thƣờng có

khuynh hƣớng sử dụng các quy định trực tiếp về gây thiệt hại về bồi thƣờng thiệt

hại của pháp luật dân sự để giải quyết tranh chấp một cách triệt để, thay vì áp dụng

các quy định riêng của pháp luật về CTKLM.

Theo Luật Cạnh tranh Việt Nam nhóm hành vi này đƣợc quy định tại Điều 45

hành vi ép buộc trong kinh doanh, hành vi gièm pha DN khác, hành vi gây rối hoạt

động kinh doanh của doanh kéo bất nghiệp khác.

Nhóm 3: Nhóm hành vi lôi kéo bất chính khách hàng

Theo Điều 45, Luật Cạnh tranh 2018 bản chất của nhóm hành vi này là tạo ra

lợi thế CTKLM, dùng thủ đoạn để lôi kéo khách hàng mà chủ yếu là ngƣời tiêu

dùng, đối tƣợng chịu tác động trực tiếp

1.2. Khái quát về pháp luật chống CTKLM

1.2.1. Khái niệm pháp luật chống CTKLM

Trƣớc hết, để hiểu đƣợc khái niệm trên chúng ta phải làm rõ đƣợc khái niệm

pháp Luật Cạnh tranh. Pháp Luật Cạnh tranh nếu đƣợc hiểu theo nghĩa rộng bao

gồm pháp luật chống CTKLM, pháp luật chống hạn chế cạnh tranh, những quy định

điều chỉnh hoạt động tố tụng cạnh tranh và tất cả các quy phạm pháp luật điều chỉnh

hoạt động cạnh tranh trong các văn bản pháp luật có liên quan. Theo nghĩa hẹp,

pháp Luật Cạnh tranh là một đạo luật và những văn bản hƣớng dẫn thi hành điều

15

chỉnh hoạt động cạnh tranh nhằm bảo vệ tự do cạnh tranh, cơ cấu thị trƣờng cũng

nhƣ môi trƣờng cạnh tranh bình đẳng và công bằng (Tăng Văn Nghĩa, 2013).

Nhƣ vậy các khái niệm trên về Luật Cạnh tranh đều thể hiện một điểm chung:

pháp Luật Cạnh tranh là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều tiết và kiểm soát

cạnh tranh nhằm tạo môi trƣờng cạnh tranh bình đẳng, hợp pháp bảo vệ lợi ích quốc

gia, lợi ích của DN và của ngƣời tiêu dùng, góp phần thúc đẩy kinh tế đất nƣớc phát

triển. Luật Cạnh tranh là công cụ của Nhà nƣớc để đảm bảo môi trƣờng cạnh tranh

lành mạnh.

Qua đó có thể hiểu pháp luật chống CTKLM là tổng hợp các quy phạm pháp

luật điều chỉnh những hành vi CTKLM. Vậy Hành vi CTKLM là hành vi cụ thể của

mọi chủ thể tham gia thị trƣờng nhằm mục đích cạnh tranh, thể hiện tính không lành

mạnh có thể vô tình hoặc cố ý gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh. Tính không lành

mạnh của hành vi cạnh tranh phụ thuộc vào nhiều yếu tố của quan hệ thị trƣờng và

đƣợc điều chỉnh về cơ bản theo nguyên tắc chung của pháp luật dân sự.

1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật chống CTKLM

Trƣớc năm 1986, nền kinh tế Việt Nam vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập

trung. Vì vậy có rất nhiều hạn chế trong nền kinh tế làm cho năng suất lao động

trong các đơn vị sản xuất kinh doanh chất lƣợng đạt không cao, cạnh tranh có thể

coi là không có đối với hoạt động kinh doanh. Nhƣng kể từ sau năm 1986, Việt

Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trƣờng định

hƣớng xã hội chủ nghĩa thì tính hiệu quả và tính kinh tế của nền kinh tế theo cơ chế

thị trƣờng đã cao hơn rất nhiều. Với quan điểm “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá

đúng sự thật, nói rõ sự thật.” Đảng đã chỉ đạo mạnh mẽ quá trình tổng kết, phân tích

đánh giá thực tiễn, từ đó xác định các mục tiêu, nhiệm vụ cho từng thời gian cụ thể.

Nghị quyết đại hội Đại biểu toàn quốc khóa VI (1986) với đƣờng lối đổi mới nền

kinh tế theo hƣớng phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định

hƣớng xã hội chủ nghĩa. DN thuộc các nền kinh tế khác cùng tồn tại bình đẳng.

Điều này đã tạo nên sự cạnh tranh của các chủ thể tham gia thị trƣờng cạnh tranh.

Tại Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã tổng kết 10 năm thực hiện đƣờng lối đổi mới

và khẳng định: “Nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội”. Chính đƣờng

16

lối đổi mới nền kinh tế theo hƣớng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định

hƣớng xã hội chủ nghĩa đã tạo nên sự cạnh tranh của các chủ thể tham gia thị trƣờng

và mở cửa cho thị trƣờng cạnh tranh hoạt động.

Trong những năm đầu của thời kì đổi mới, chúng ta chƣa có pháp Luật Cạnh

tranh với tƣ cách là một đạo luật độc lập điều chỉnh các quan hệ cạnh tranh, nhƣng

cũng đã có một số quy phạm pháp luật nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác

nhau điều chỉnh vấn đề này. Luật Thƣơng mại năm 1997 là văn bản đầu tiên đã quy

định cấm những hành vi CTKLM, đó là các hành vi: gièm pha thương nhân khác,

ngăn cản, lôi kéo, đe dọa nhân viên hoặc khách hàng của thương nhân khác, lừa

dối khách hàng, gây nhầm lẫn cho khách hàng, khuyến mại bất hợp pháp… (Điều 8,

9).

Bộ Luật hình sự 2015 cũng đề cập tới một số tội nhƣ: Điều 192 quy định về

tội: “Sản xuất, buôn bán hàng giả”; Điều 193 quy định về tội: “Sản xuất, buôn bán

hàng giả là lƣơng thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm”; Điều 197 quy định về tội:

“Quảng cáo gian dối”; Điều 198 quy định về tội: “Lừa dối khách hàng”...

Tuy nhiên, những quy định trên mới chỉ là sự liệt kê chứ chƣa đi vào đời sống

kinh tế xã hội do còn thiếu các quy định cụ thể về cơ chế áp dụng cũng nhƣ các chế

tài áp dụng với doanh nghiệp vi phạm.

Chính vì vậy, ngày 3 tháng 12 năm 2004 tại kì họp thứ VI, quốc hội khóa XI

đã thông qua Luật Cạnh tranh 2004 và ngày 12 tháng 6 năm 2018, Quốc hội thông

qua Luật Cạnh tranh mới, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2019.

Luật Cạnh tranh cùng các nghị định hƣớng dẫn là những văn bản trực tiếp điều

chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh và các hành vi CTKLM.

1.2.3. Vai trò của pháp luật chống CTKLM

Để đảm bảo cạnh tranh tồn tại thì các quy định về tự do kinh doanh và quyền

đƣợc tồn tại bình đẳng là cơ sở pháp lý của các DN. Khi nào đƣợc tự do gia nhập thị

trƣờng, tự do giao kết và đảm bảo quyền sở hữu thì lúc đó các chủ thể tham gia thị

trƣờng mới có đủ năng lực để quyết định phƣơng thức kinh doanh. Khi đó, cạnh

tranh mới có thể tồn tại và phát huy tác dụng. Là lĩnh vực pháp luật đặc thù của nền

17

kinh tế thị trƣờng, Luật Cạnh tranh bảo vệ cạnh tranh bằng cách chống lại các hành

vi CTKLM và loại bỏ hạn chế cạnh tranh. Có thể thấy, pháp Luật chống CTKLM –

một bộ phận của Luật Cạnh tranh có những vai trò cơ bản sau:

Cạnh tranh là một hoạt động của nền kinh tế thị trƣờng, vừa có tác động tích

cực, vừa có tác động tiêu cực. Môi trƣờng cạnh tranh tốt giúp phát huy đƣợc tiềm

lực và sức mạnh kinh doanh vốn có của các chủ thể tham gia thị trƣờng. Việc bảo

đảm môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh luôn đồng nghĩa với việc phải ngăn chặn và

loại trừ những hành vi cạnh tranh thiếu lành mạnh nhƣ kiểm soát đƣợc độc quyền.

Muốn ngăn chặn cạnh tranh thiếu lành mạnh, một mặt phải không ngừng hoàn thiện

cơ chế pháp luật để không còn khẽ hở cho những hành vi gian lận. Mặt khác ngay

bản thân quy chế pháp luật, bên cạnh những quy định xác lập khung pháp lý cho sự

cạnh tranh, cũng cần có những quy định đối với những hành vi không lành mạnh,

bảo vệ quyền lợi của các chủ thể bị các hành vi đó xâm hại.

Luật Cạnh tranh năm 2018 bảo đảm cạnh tranh lành mạnh bằng cách quy định

các nguyên tắc trong cạnh tranh, quy định các hành vi CTKLM và các biện pháp xử

lý vi phạm đối với các hành vi này.

Thứ hai, điều tiết quá trình cạnh tranh, tôn trọng và bảo đảm quyền lợi hợp

pháp của ngƣời tiêu dùng, bảo vệ quyền lợi của chủ thể kinh doanh, nhà nƣớc và xã

hội. Thị trƣờng hình thành từ mối quan hệ qua lại giữa ngƣời mua và ngƣời bán,

hay rộng hơn là giữa ngƣời sản xuất và ngƣời tiêu dùng dƣới quy luật cung cầu và

quy luật giá trị. Ngƣời tiêu dùng có quyền lựa chọn hàng hóa cũng nhƣ ngƣời cung

ứng hàng hóa và trả tiền cho sự lựa chọn đó. Về phía ngƣời sản xuất, lợi nhuận

không chỉ là mục tiêu, động lực mà còn là phƣơng thức tồn tại của họ. Việc nâng

cao năng lực sản xuất sẽ mở rộng khả năng đáp ứng các nhu cầu luôn thay đổi và

ngày một tăng của ngƣời tiêu dùng. Nhƣ vậy, cạnh tranh tham gia vào mọi phƣơng

diện của nền kinh tế, nó sàng lọc và lành mạnh hóa thị trƣờng, thúc đẩy sản xuất và

điều tiết tiêu dùng.

- Thứ ba, răn đe và nghiêm cấm mọi hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Tính răn đe thể hiện rất rõ trong Luật Cạnh tranh 2018 quy định các hình thức

xử lý vi phạm đối với các chủ thể thực hiện những hành vi cạnh tranh không lành

18

mạnh. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, hậu quả hành vi mà các chủ thể vi phạm

có thể bị xử phạt hành chính, bồi thƣờng thiệt hại, thậm chí bị truy cứu trách nhiệm

hình sự.

Mục đích mà pháp Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định nhƣ vậy là để răn đe

và nghiêm cấm các chủ thể thực hiện hành vi CTKLM. Qua đó tạo tâm lý, thái độ

tôn trọng pháp luật của các chủ thể kinh doanh.

1.2.4. Nội dung điều chỉnh của pháp luật chống CTKLM

Pháp Luật chống CTKLM ra đời nhằm đảm bảo thƣơng mại đƣợc diễn ra một

cách công bằng và không bị tác động tiêu cực bởi những hành vi CTKLM, không

phù hợp với chuẩn mực đạo đức kinh doanh thông thƣờng. Pháp Luật chống

CTKLM xuất hiện là do nhu cầu của thị trƣờng, nhất là trong phạm vi Châu Âu –

nơi mà thị trƣờng cũng nhƣ tự do thƣơng mại xuất hiện từ rất sớm. Ban đầu khái

niệm pháp Luật Cạnh tranh đƣợc hiểu đồng nghĩa với pháp Luật chống CTKLM

theo cách hiểu ngày nay.

Về nguyên tắc, pháp Luật chống CTKLM điều chỉnh những hành vi CTKLM.

Hành vi CTKLM là hành vi cụ thể của mọi chủ thể tham gia thị trƣờng (kể cả không

phải doanh nghiệp) nhằm mục đích cạnh tranh, thể hiện tính không lành mạnh có

thể vô tình hoặc cố ý gây thiệt hại cho một đối thủ cạnh tranh hay một bạn hàng cụ

thể. Tính không lành mạnh của hành vi cạnh tranh phụ thuộc vào nhiều yếu tố của

quan hệ thị trƣờng và đƣợc điều chỉnh cơ bản theo nguyên tắc chung của pháp luật

dân sự (luật tƣ). Điều này đã đƣợc chứng minh bởi thực tế (chẳng hạn ở Pháp,

Italia) ngay cả khi không có đạo luật về chống CTKLM với tính cách là một chế

định pháp luật riêng biệt, pháp luật dân sự vẫn có thể đƣợc áp dụng để chống lại các

hành vi CTKLM, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia thị trƣờng.

Trong một số trƣờng hợp đặc biệt, hành vi CTKLM có thể bị xử lý về mặt hình sự.

Dƣới cả hai giác độ xử lý trên thì pháp luật chỉ can thiệp khi có sự khiếu kiện của

ngƣời có quyền lợi và lợi ích liên quan. Các chế tài phần lớn là buộc phải đình chỉ

hành vi và bồi thƣờng thiệt hại xảy ra.

19

1.3. Khái quát sự ra đời của Luật Cạnh tranh năm 2018

Ngày 03/12/2004, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật Cạnh

tranh, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2005. Sự ra đời của Luật Cạnh tranh 2004 là dấu

mốc quan trọng trong quá trình tạo lập một hành lang pháp lý chính thức và thống

nhất cho hoạt động cạnh tranh của các DN trên thị trƣờng. Luật Cạnh tranh 2004 và

các văn bản quy định chi tiết, hƣớng dẫn thi hành đã tạo điều kiện thuận lợi trong

hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh, hội đồng cạnh tranh đồng thời thể hiện

sự rõ ràng, minh bạch đối với cộng đồng DN qua đó thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh

trong nhiều ngành, lĩnh vực của nền kinh tế.

Tuy nhiên, sau hơn 13 năm thi hành, với sự thay đổi sâu sắc của bối cảnh kinh

tế - xã hội, xu hƣớng hội nhập quốc tế cũng nhƣ những hạn chế, bất cập trong nội

dung quy định ngày càng bộc lộ rõ khiến Luật Cạnh tranh 2004 thực tế không phát

huy đƣợc hiệu quả trong việc điều chỉnh hành vi cạnh tranh, chống lại những hành

vi CTKLM, Cụ thể nhƣ sau:

- Với xu thế toàn cầu hoá và mở cửa thị trƣờng, phạm vi hoạt động của các DN

ngày càng có xu hƣớng mở rộng trên phạm vi quốc tế. Thực tiễn tại Việt Nam cũng

nhƣ thế giới đã cho thấy ngày càng có nhiều hành vi phản cạnh tranh xuyên biên

giới, đặc biệt là thoả thuận hạn chế cạnh tranh và tập trung kinh tế, gây tác động

phản cạnh tranh đối với nhiều quốc gia, xâm phạm lợi ích của ngƣời tiêu dùng trong

phạm vi nhiều nƣớc, trong đó Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Tuy

nhiên, quy định về phạm vi điều chỉnh của Luật Cạnh tranh 2004 hiện chƣa rõ ràng

về việc liệu có điều chỉnh các hành vi xảy ra bên ngoài lãnh thổ nhƣng có tác động

tiêu cực đến môi trƣờng cạnh tranh tại Việt Nam hay không. Với quy định về phạm

vi điều chỉnh chƣa rõ ràng, các cơ quan cạnh tranh hiện đang gặp khó khăn, lúng

túng bởi thiếu cơ sở pháp lý vững chắc để tiến hành điều tra, xử lý các hành vi phản

cạnh tranh xảy ra bên ngoài lãnh thổ nhƣng có ảnh hƣởng tiêu cực đến môi trƣờng

cạnh tranh tại Việt Nam.

- Quy định về đối tƣợng áp dụng tại Điều 2 Luật Cạnh tranh 2004 không bao quát

hết các đối tƣợng, mới quy định về các tổ chức, cá nhân kinh doanh và hiệp hội

ngành nghề, mà chƣa quy định đối tƣợng là các tổ chức, cá nhân có liên quan khác

20

(không phải tổ chức, cá nhân kinh doanh) tƣơng thích với các hành vi đƣợc điều

chỉnh trong Luật.

- Các khái niệm và cách xác định trong Luật Cạnh tranh 2004 vẫn còn xa lạ, khó

hiểu, phức tạp đối với nhiều chủ thể kinh doanh, ví dụ nhƣ nguồn thông tin để xác

định thị trƣờng sản phẩm liên quan thể hiện trong văn bản luật không đƣợc công

khai một cách chính thống khiến cho các DN lúng túng khi cần thu thập, sử dụng,

gây khó khăn trong việc đàm phán kinh doanh, quy định về thị phần và cách xác

định thị phần đối với một số thị trƣờng đặc thù rất khó khăn trong việc xác định

doanh thu của DN để tính thị phần. Bên cạnh đó, khái niệm “hành vi hạn chế cạnh

tranh” tại khoản 3 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004 coi hành vi tập trung kinh tế là một

hành vi hạn chế cạnh tranh là chƣa phù hợp do không phản ánh đúng bản chất và

ảnh hƣởng của hành vi này đến môi trƣờng cạnh tranh. Khái niệm “hành vi cạnh

tranh không lành mạnh” tại Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004 mở rộng hậu quả

của hành vi là “thiệt hại đến lợi ích của Nhà nƣớc” là không cần thiết và chƣa phù

hợp với bản chất của hành vi.

- Luật Cạnh tranh 2004 quy định 08 dạng hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và

quy định cấm theo hai cách gồm cấm tuyệt đối và cấm trên cơ sở thị phần kết hợp

của doanh nghiệp tham gia thỏa thuận trên thị trƣờng liên quan. Việc không quy

định cấm theo nguyên tắc vi phạm mặc nhiên đối với một số hành vi thỏa thuận hạn

chế cạnh tranh nghiêm trọng là chƣa hợp lý và không phù hợp với xu thế phát triển

của pháp luật cạnh tranh trên thế giới.

- Hành vi CTKLM đƣợc quy định trong nhiều văn bản luật khác nhau nhƣ Luật

Quảng cáo, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Thƣơng mại… đƣợc thi hành bởi các cơ quan

quản lý nhà nƣớc khác nhau dẫn đến chồng chéo về thẩm quyền xử lý, hoặc khả

năng đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan hay những tranh luận trên bình diện xã

hội do chạm đến những nhóm quyền lợi khác nhau.

- Theo quy định tại Điều 7 của Luật Cạnh tranh 2018 , Việt Nam hiện nay duy trì

mô hình cơ quan cạnh tranh, bao gồm Chính phủ là cơ quan đầu não thống nhất

quản lý nhà nƣớc về cạnh tranh. Bộ công thƣơng là cơ quan đầu mối giúp Chính

phủ thực hiện quản lý nhà nƣớc về cạnh tranh. Trong đó, ủy ban quốc gia là cơ quan

21

thuộc bộ công thƣơng có nhiệm vụ tham mƣu giúp Bộ trƣởng Bộ công thƣơng thực

hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về cạnh tranh, tiến hành tố tụng cạnh tranh, kiểm

soát tập trung kinh tế, quyết định việc miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh

tranh bị cấm; giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh và các nhiệm

vụ khác theo quy định của Luật này và quy định của Luật khác có liên quan. Cơ

quan điều tra vụ việc cạnh tranh và các đơn vị chức năng khác là bộ máy giúp việc

của Ủy ban Cạnh tranh quốc gia.

Do những hạn chế, bất cập tại Luật Cạnh tranh năm 2004, cùng với vị trí và vai trò

của cạnh tranh trong phát triển kinh tế đất nƣớc, Luật Cạnh tranh 2004 cần đƣợc sửa

đổi, bổ sung để phục vụ cho mục tiêu quan trọng nhất là:“Tạo lập, duy trì và bảo

đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp trên thị

trường, từ đó tăng cường khả năng tiếp cận thị trường, phân bổ hiệu quả các nguồn

lực,nâng cao hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”.

Việc sửa đổi Luật Cạnh tranh 2004 cần đƣợc thực hiện theo hƣớng kết hợp chặt chẽ

giữa tƣ duy kinh tế và tƣ duy pháp lý trong đó nhấn mạnh mục tiêu tăng cƣờng hiệu

quả cho công tác thực thi luật. Luật Cạnh tranh 2018 đƣợc ban hành đã khắc phục

đƣợc những nhƣợc điểm của Luật Cạnh tranh 2004 và tiệm cận đƣợc với pháp luật

về cạnh tranh của các nƣớc trên thế giới, đáp ứng đƣợc xu hƣớng phát triển kinh tế

cũng nhƣ mục tiêu bảo vệ môi trƣờng cạnh tranh và bảo vệ các chủ thể DN trên thị

trƣờng.

22

Kết luận chƣơng I

Nghiên cứu quy định về Luật CTKLM trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam luôn

là vấn đề nóng và đƣợc các nhà nghiên cứu đƣa lên hàng đầu, nó đóng vai trò quan

trọng trong việc điều chỉnh hành vi kinh doanh của các chủ thể tham gia nền kinh tế

thị trƣờng. Các quy định khái quát về hành vi CTKLM nói chung và các quy định

chi tiết về hành vi CTKLM theo Luật Cạnh tranh năm 2018 nói riêng. Ở Việt Nam

hiện nay có thể đánh giá khái quát là tƣơng đối phù hợp trong điều kiện phát triển

kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, để có thể đƣa ra đƣợc những kiến nghị nhằm hoàn thiện

và nâng cao hiệu quả thực thi các quy định về hành vi CTKLM cần có sự tìm hiểu

rõ hơn về thực trạng quy định pháp luật, cũng nhƣ thực tiễn áp dụng các quy định

về hành vi CTKLM trong đời sống hiện nay, để từ đó có thể rút ra những nhận xét,

23

đánh giá ƣu điểm và hạn chế của pháp luật về quy định đối với hành vi CTKLM ở

Việt Nam. Đây cũng chính là vấn đề đƣợc trình bày tại Chƣơng 2 của luận văn.

24

CHƢƠNG II.

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC ÁP DỤNG

2.1. Quy định của Luật Cạnh tranh năm 2018 về hành vi CTKLM

Luật Cạnh tranh 2018 quy định những hành vi CTKLM sau đây:

2.1.1. Xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh

Bí mật kinh doanh là thành quả đầu tƣ dƣới dạng thông tin đáp ứng đủ các

điều kiện: không phải là hiểu biết thông thƣờng, khi sử dụng trong kinh doanh tạo

cho ngƣời nắm giữ thông tin có lợi thế so với ngƣời không nắm giữ hoặc không sử

dụng bí mật kinh doanh đó. Nó đƣợc chủ thông tin bảo mật bằng các biện pháp cần

thiết để thông tin đó không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận đƣợc (theo Điều 84

Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh dƣới các hình thức sau đây:

Tiếp cận, thu thập thông tin bí mật trong kinh doanh bằng cách chống lại các

biện pháp bảo mật của ngƣời sở hữu thông tin đó. Vậy thông tin đủ điều kiện đƣợc

xem là bí mật kinh doanh là những thông tin đó không phải là hiểu biết thông

thƣờng và có khả năng áp dụng trong kinh doanh; khi đƣợc sử dụng sẽ tạo cho

ngƣời nắm giữ thông tin đó có lợi thế hơn so với ngƣời không nắm giữ hoặc không

sử dụng thông tin đó. Những thông tin trên đƣợc chủ sở hữu bảo mật bằng các biện

pháp cần thiết để thông tin đó không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận đƣợc.

Ví dụ: công thức chế biến đố uống nhẹ mang tên Coca Cola là một bí mật kinh

doanh của công ty Coca Cola. Chỉ một vài ngƣời trong công ty biết đƣợc công thức

này; và nó đƣợc giữ bí mật trong một chiếc hầm của ngân hàng ở Atlanta, bang

Georgia; những ngƣời biết đƣợc công thức bí mật này đã ký hợp đồng không tiết lộ.

Chính vì quyết định giữ bí mật về công thức này thay vì đang ký cấp bằng sáng chế,

đến nay, công ty Coca Cola vẫn là DN duy nhất có thể sản xuất đƣợc loại nƣớc

uống đặc biệt đƣợc toàn cầu ƣa chuộng. Còn nếu công thức này đƣợc cấp bằng sáng

chế (chỉ đƣơc bảo hộ tối đa là 20 năm, sau đó sẽ trở thành tài sản chung của nhân

loại), mọi thành phần và công đoạn chế biến Coca Cola sẽ đƣợc bộc lộ công khai,

25

và cả thế giới đều có thể sản xuất Coca Cola. Bí mật kinh doanh có thể liên quan

đến các loại thông tin khác nhau nhƣ kỹ thuật và khoa học (công thức sản xuất, cấu

tạo kỹ thuật, mã máy tính, dữ liệu thử nghiệm…); thƣơng mại (danh sách các nhà

cung cấp và khách hàng, các chiến lƣợc tiếp thị, quảng cáo và kinh doanh, kết quả

nghiên cứu thị trƣờng, phƣơng pháp bán hàng…); tài chính (cơ cấu giá nội bộ, danh

mục giá…); thông tin phủ định (tình trạng bế tắc trong nghiên cứu, các giải pháp kỹ

thuật đã bị rút bỏ…)… Cũng theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ thì các thông tin

bí mật sau đây không đƣợc bảo hộ với danh nghĩa bí mật kinh doanh nhƣ bí mật về

nhân thân, nhƣ tình trạng hôn nhân, tài sản của cá nhân, bí mật về quản lý nhà nƣớc,

bí mật về quốc phòng, an ninh, các thông tin bí mật khác không liên quan đến kinh

doanh.

Tiết lộ, sử dụng thông tin bí mật trong kinh doanh mà không đƣợc phép của

chủ sở hữu thông tin đó. Đối với một DN đang hoạt động hay một DN mới, muốn

tồn tại, phát triển và đứng vững trong môi trƣờng này, cần phải có đủ năng lực tự

tạo ra hay tiếp nhận đƣợc các thông tin hữu ích cần thiết để tạo ra và cung cấp các

hàng hóa và dịch vụ mới hoặc cải tiến ra thị trƣờng. Những thông tin hữu ích nhƣ

vậy chính là “bí mật kinh doanh” (hay còn đƣợc gọi là “bí mật thƣơng mại”). Các

đối thủ cạnh tranh thƣờng tìm ra cách thức để tiếp cận những thông tin này theo

cách dễ dàng, chẳng hạn nhƣ mua chuộc hay chỉ là thuê lại các nhân viên chủ chốt

của bạn – những ngƣời đã tạo ra hoặc đƣợc phép tiếp cận những thông tin bí mật và

hữu ích mà đang mang lại lợi thế cạnh tranh cho DN của bạn.

2.1.2. Ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của DN

Tự do kinh doanh là quyền không thể thiếu đƣợc của bất kỳ chủ thể kinh

doanh về mặt thực tế cũng nhƣ tiềm năng. Vì mục tiêu đạt đƣợc lợi thế cạnh tranh

chủ thể kinh doanh có sử dụng những hành vi CTKLM thông qua việc dồn khách

hàng vào tình thế bắt buộc phải chấp nhận ký kết hợp đồng, hoặc thừa nhận các điều

kiện thƣơng mại không mong muốn mà do điều kiện hoàn cảnh nào đó đã không có

cách lựa chọn nào khác.

Ép buộc kinh doanh thƣờng xuất hiện từ những quan hệ kinh doanh không có

sự tƣơng xứng về thế mạnh thị trƣờng giữa các bên. Theo đó bên có thế mạnh sẽ

26

khai thách lợi thế của mình để ép buộc chủ thể kinh doanh nhỏ hơn phải chấp nhận

hợp đồng hoặc điều kiện mà bên có thế mạnh đƣa ra. Bởi vậy chủ thể kinh doanh

nhỏ phải từ bỏ hoặc ngừng giao dịch những DN thuộc mối quan hệ cũ của họ.

Khoản 2 Điều 45 Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định: Cấm doanh nghiệp ép buộc

khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng hành vi đe dọa hoặc

cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó.

Dƣới giác độ pháp luật dân sự những giao dịch dân sự, thƣơng mại nhƣ vậy

thiếu sự tự nguyện, xâm phạm quyền tự định đoạt của một trong các bên tham gia

và chúng có thể bị tuyên bố vô hiệu. Việc ép buộc thể hiện bằng cách gây áp lực, đe

dọa gây thiệt hại buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của DN khác làm theo ý chí

của mình, nếu không khách hàng, đối tác DN sẽ phải chịu những hậu quả bất lợi mà

DN ép buộc tạo ra. Hậu quả bất lợi dƣờng nhƣ không tránh khỏi đối với khách

hàng/đối tác kinh doanh của DN khác làm cho họ buộc phải làm theo những yêu

cầu của DN tiến hành hành vi ép cuộc đó chuyển sang giao dịch với mình hoặc với

một chủ thể khác đƣợc chỉ định. Hành vi ép buộc có thể thực hiện thông qua mọi

con đƣờng, mọi mối quan hệ trong giao dịch cũng nhƣ ngoài giao dịch để đạt đƣợc

mục đích kinh doanh không lành mạnh. Bởi vậy hành vi ép buộc trong kinh doanh

thể hiện động cơ và mục đích xấu của chủ thể tiến hành hành vi.

Dƣới giác độ nghiên cứu, chủ thể tiến hành hành vi ép buộc trong kinh doanh

có thể là chủ DN, nhân viên của DN, hoặc bất kỳ cá nhân nào khác giúp sức với

mục đích CTKLM. Việc chứng minh đƣợc động cơ, mục đích....của những hành vi

này là điều kiện cơ bản để có thể quy kết chủ thể đó có vi phạm quy định về chống

CTKLM hay không.

2.1.3. Cung cấp thông tin không trung thực về DN khác

Trong điều kiện kinh doanh trên thị trƣờng tự do, việc đƣa tin không đúng sự

thật do cố ý hay vô ý về chủ thể kinh doanh khác là điều rất dễ xảy ra. Thông tin

không đúng sự thật đó theo hƣớng tiêu cực và gây bất lợi cho chủ thể kinh doanh

nếu nó đƣợc phổ biến ra ngoài. Đƣa thông tin xấu về một DN không đúng sự thật

chính là hình thức của việc cung cấp thông tin không trung thực về DN. Đƣa thông

tin không trung thực DN khác nhằm làm cho DN này mất uy tín, kéo theo đó mất

27

khách hàng và thu hẹp thị phần là những thiệt hại khó lƣờng đối với bên bị thiệt hại

do hành vi cung cấp thông tin sai lệch. Để chống lại thủ đoạn cạnh tranh này, ngay

cả pháp Luật dân sự của các quốc gia đều có những quy định mang tính nguyên tắc

nhằm bảo vệ nhân phẩm, danh dự, và uy tín của mọi pháp nhân và thể nhân.

Bên cạnh những quy định chung của pháp Luật dân sự, trong lĩnh vực kinh

doanh thông thƣờng vẫn có các quy định riêng dành cho các thƣơng nhân với tƣ

cách là chủ thể tham gia cạnh tranh trên thị trƣờng. Trong thực tiễn, chủ thể kinh

doanh vì mục đích cạnh tranh có thể sử dụng cả những thông tin không đúng sự thật

nhằm gây tổn hại đến lợi ích hợp pháp của đối thủ cạnh tranh khác.

Dƣới giác độ của pháp Luật chống CTKLM, mọi hành vi trực tiếp hay gián

tiếp đƣa ra thông tin không trung thực, gây ảnh hƣởng xấu đến uy tín, tình trạng tài

chính và các hoạt động kinh doanh của DN khác đƣợc định danh là hành vi “gièm

pha thƣơng nhân khác”. Khoản 3 Điều 45 Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định:

“Cấm DN cung cấp thông tin không trung thực về DN khác bằng cách trực tiếp

hoặc gián tiếp đƣa ra thông tin không trung thực về DN gây ảnh hƣởng xấu đến uy

tín, tình trạng tài chính hoặc hoạt động kinh doanh của DN đó”.

Pháp Luật Cạnh tranh chỉ cấm và tác động đến những hành cung cấp thông tin

không trung thực về DN khi hành vi đó đƣợc thực hiện vì mục đích cạnh tranh. Chủ

thể tiến hành hành vi này có thể là bất kỳ ai, thông qua bất kỳ cách thức nào để cung

cấp thông tin không trung thực về DN khác nhƣ: thực hiện thủ đoạn bôi nhọ, lăng

mạ, hạ thấp uy tín kinh doanh của đối thủ cạnh tranh là trƣờng hợp điển hình về

hành vi CTKLM ở dạng này, Tuy nhiên để một hành vi cung cấp thông tin không

trung thực về DN khác bị cấm, nó phải thỏa mãn những điều kiện sau:

Cung cấp thông tin không trung thực về DN khác tức là việc cung cấp thông

tin không trung thực đó phải có đối tƣợng là chủ thể kinh doanh cụ thể, đang tồn tại

và có thể cùng hoặc không cùng quan hệ cạnh tranh.

Hành vi cung cấp thông tin không trung thực phải xuất phát từ một chủ thể

kinh doanh hoặc ngƣời giúp đỡ cho chủ thể này một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.

28

Đối tƣợng của hành vi cung cấp thông tin không trung thực có thể liên quan

đến các mặt DN khác nhƣ: uy tín, văn hóa DN, quy trình hoạt động, chất lƣợng sản

phẩm, cách thức bán hàng, tiềm lực kinh tế - tài chính...

Cũng cần phải phân biệt giữa cung cấp thông tin không trung thực, gièm pha,

bôi nhọ... với những đánh giá, nhận xét về sản xuất, kinh doanh...của DN khác. Đây

cũng là vấn đề xuất hiện phổ biến trong thực tiễn kinh doanh. Nhận định, đánh giá

về một chủ thể kinh doanh nào đó là không tránh khỏi. Tuy nhiên, những nhận

định, đánh giá đó không có mục đích cạnh tranh, mang thái độ chủ quan và thông

thƣờng không bị cấm dƣới giác độ của pháp luật chống CTKLM.

Hiện nay trên mạng Internet có nhiều trang mạng, blog...đang trở thành

phƣơng tiện bị làm dụng cho những hành vi cung cấp thông tin không trung thực,

bôi nhọ DN khác mà chƣa có biện pháp kiểm soát hữu hiệu. Mặc dù vậy, việc xác

định một hành vi đƣa thông tin xấu về một DN khác là hành vi cung cấp thông tin

không trung thực theo Luật Cạnh tranh trở lên khá phức tạp.

2.1.4. Gây rối hoạt động kinh doanh của DN

Về nguyên tắc, chủ thể kinh doanh có thể sử dụng bất kỳ phƣơng tiện cạnh

tranh hợp pháp nào để đạt đƣợc lợi thế trong kinh doanh. Tuy nhiên, nếu DN muốn

hoạt động kinh doanh của mình diễn ra thuận lợi bằng cách gây rối, cản trở hoạt

động kinh doanh của DN khác thì bị coi là bất hợp pháp.

Khoản 4 Điều 45 Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định: “Cấm DNgây rối hoạt

động kinh doanh của DN khác bằng cách trực tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động

kinh doanh của doanh nghiệp đó”. Bên cạnh đó trong từng lĩnh vực kinh doanh có

liên quan, cũng có thể có quy định bổ sung về gây rối hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp khác.

Gây rối hoạt động kinh doanh của DN khác có thể là bất kể các hành vi trực

tiếp hay gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của DN khác. Về

bản chất, hành vi gây rối hoạt động của bất kỳ chủ thể nào trong xã hội luôn luôn

mang bản chất là hành vi xấu. Hành vi này đƣợc tiến hành nhằm vào DN nào đó với

mục đích cạnh tranh mới đƣợc coi là CTKLM. Chẳng hạn nhƣ hành vi phá rối tại cơ

29

sở kinh doanh, gây nhiễu hệ thống thông tin liên lạc, làm trục trặc nguồn điện năng

phục vụ kinh doanh, thiết kế, sắp đặt chƣớng ngại vật ... tại địa điểm, cơ sở kinh

doanh của đối thủ cạnh tranh đều có thể bị coi là hành vi gây rối hoạt động kinh

doanh của DN khác.

Về hình thức biểu hiện và tính chất của hành vi này là gây rối hoạt động kinh

doanh của DN khác cũng là chiến lƣợc ngăn cản hoạt động kinh doanh của DN

khác. Theo quy định của Luật Cạnh tranh Hoa Kỳ thì không chia nhỏ ba hành vi mà

nó quy định gộp cả hai hành vi ép buộc trong kinh doanh vào gây rối hoạt động

kinh doanh. Tuy nhiên, Luật Cạnh tranh Việt Nam đã quy định tách biệt 3 hành vi

ra thành những hành vi khác nhau thể hiện ở chỗ: Nếu ép buộc trong kinh doanh sử

dụng các thủ đoạn có tính chất côn đồ với khách hàng, với đối tác kinh doanh của

DN khác; nếu dèm pha là việc sử dụng các thông tin không trung thực về DN khác

thì gây rối hoạt động kinh doanh là sử dụng bất cứ công cụ nào ngoài những thủ

đoạn nói trên. Hành vi gây rối hoạt động của DN khác có thể đƣợc biểu hiện dƣới

hai hình thức:

Thứ nhất, là hành vi nhằm cản trợ hoạt động kinh doanh của DN khác, Hành

vi này đƣợc biểu hiện dƣới hình thức nhƣ tác động trực tiếp tới nguồn cung cấp

nguyên liệu, cản trở việc tiêu thụ hàng hóa…

Thứ hai, những hành vi làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của DN. Hành vi

này biểu hiện dƣới những cách thức nhƣ dụ dỗ, mua chuộc cán bộ, công nhân viên

kỹ thuật có trình độ cao của DN cạnh tranh thôi việc để sang DN mình làm với mức

lƣơng cao hơn, kích động, xúi giục công nhân DN cạnh tranh đình công, bãi công…

Nhìn chung, gây rối hoạt động kinh doanh của DN khác là hành vi có mục

đích xấu trong cạnh tranh. Điều kiện áp dụng đối với hành vi này là:

Chủ thể tiến hành hành vi là DN (trên thực tế, DN có thể chỉ là chủ mƣu,

ngƣời thực hiện là ngƣời giúp sức hoặc theo sự thỏa thuận).

Chủ thể bị gây rối cũng là DN, vì thế DN này không nhất thiết cùng trong

quan hệ cạnh tranh với DN tiến hành hành vi (do bản chất của hành vi CTKLM

không nhất thiết phải xét đến hàng hóa, dịch vụ trong thị trƣờng liên quan.

30

Hành vi gây rối không phù hợp với chuẩn mực đạo đức kinh doanh thông

thƣờng, nhằm gây rối, cản trở hoặc phá hoại hoạt động kinh doanh bình thƣờng của

DN khác.

2.1.5 Lôi kéo khách hàng bất chính

Việc lôi kéo khách hàng bất chính bằng rất nhiều hình thức khác nhau, nhƣng

theo Khoản 5 Điều 45 Luật Cạnh tranh năm 2018 nổi bật lên hai hình thức sau:

Thứ nhất, đƣa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về DN

hoặc hàng hóa, dịch vụ, khuyến mại, điều kiện giao dịch liên quan đến hàng hóa,

dịch vụ mà DN cung cấp nhằm thu hút khách hàng của DN khác. Trong điều kiện tự

do cạnh tranh, các hoạt động khuyến mại, đƣa ra những điều kiện giao dịch có lợi

của DN ngày càng trở nên đa dạng, phong phú, theo đó cũng xuất hiện những thủ

thuật khuyến mại, điều kiện giao dịch liên quan đến hàng hóa nhằm CTKLM. Khi

khuyến mại bị lạm dụng quá mức có thể làm các DN vừa và nhỏ phá sản. Hậu quả

là ngƣời tiêu dùng sẽ không còn cơ hội để lựa chọn nhà cung cấp khác và DN

khuyến mãi sau khi chiếm lĩnh đƣợc thị trƣờng sẽ bỏ khuyến mãi và có thể áp dụng

những điều kiện thƣơng mại bất lợi cho khách hàng.

Thứ hai, so sánh hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại

của DN khác nhƣng không chứng minh đƣợc nội dung. Việc đƣa ra những chính

sách ƣu đãi lớn đối với hàng hóa của mình đem ra so sánh với hàng hóa dịch vụ

cùng loại của DN khác nhằm lợi dụng điểm yếu của khách hàng đánh vào sản phẩm

của DN khác, gây mất uy tín cũng nhƣ chất lƣợng của DN khác, nhằm chuộc lợi về

hàng hóa cho DN mình đó là hành vi không chung thực. Tuy nhiên, để lạm dụng

đƣợc việc đó DN cần phải đƣa ra những lỗi do DN khác mắc phải về sản phẩm đã

lƣu hành trên thị trƣờng, thƣờng thì các DN muốn cạnh tranh sẽ đƣa ra những lỗi

không trung thực, không đúng với thực tế gây ảnh hƣởng uy tín, chất lƣợng của DN

khác.

2.1.6. Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ

Trong thời buổi cạnh tranh kinh tế thị trƣờng hiện nay, việc bán hàng hóa,

cung ứng dịch vụ đòi hỏi DN phải có những kỹ năng bán hàng riêng, cũng nhƣ chất

31

lƣợng sản phẩm tốt, giá thành rẻ nhằm lôi kéo khách hàng. Nhƣng cũng có không ít

các DN lợi dụng vào điểm này mà kinh doanh bất chính. Theo Khoản 6 Điều 45

Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định “Cấm DN bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ

dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ DN khác cùng

kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó” nếu các DN kinh doanh cùng một mặt hàng,

việc đƣa ra những chính sách khuyến mại, cũng nhƣ tăng giảm giá thành phải áp

dụng đúng luật, nhƣng cũng có một số DN muốn đẩy nhanh hàng hóa, dịch vụ đã

đƣa ra các chính sách bán hàng sai quy định và tự ý giảm giá thành sản phẩm nhằm

chuộc lợi và lôi kéo khách hàng.

2.1.7 Các hành vi CTKLM khác bị cấm theo quy định của luật khác

Ngoài sáu loại hành vi CTKLM trong Luật Cạnh tranh 2018 bị cấm thì vẫn

còn khả năng có những hành vi khác cũng sẽ bị cấm, nếu: về nội hàm, chúng thể

hiện đầy đủ các dấu hiệu của hành vi CTKLM, và hành vi đó đƣợc quy định trong

những đạo luật có liên quan khác.

- Hành vi CTKLM trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.

Nhìn chung săn tìm, nắm bắt, lợi dụng và thậm chí lạm dụng các tài sản trí tuệ,

bất kể đối tƣợng đó đã đƣợc bảo hộ hay chƣa để tạo lợi thế cạnh tranh luôn là động

cơ của chủ thể kinh doanh. Nguyên nhân của điều này là khi sử dụng các đối tƣợng

của quyền sở hữu trí tuệ chủ thể kinh doanh đều có thể giành đƣợc lợi thế cho mình.

Các đối tƣợng của quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là quyền sở hữu công nghiệp nhƣ

nhãn hiệu, bí quyết kỹ thuật, sáng chế... rất dễ bị sử dụng trái phép, làm nhái hàng

hóa nhằm gây nhầm lẫn lừa dối khách hàng.

Để đảm bảo việc sử dụng tài sản trí tuệ nói chung và các đối tƣợng của sở hữu

trí tuệ nói riêng một cách công bằng. Điều 130 Luật sở hữu trí tuệ quy định các

hành vi CTKLM về sở hữu trí tuệ bao gồm:

Sử dụng chỉ dẫn thƣơng mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động

kinh doanh, nguồn gốc thƣơng mại của hàng hoá, dịch vụ;

32

Sử dụng chỉ dẫn thƣơng mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính

năng, chất lƣợng, số lƣợng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ, về điều kiện

cung cấp hàng hoá, dịch vụ;

Sử dụng nhãn hiệu đƣợc bảo hộ tại một nƣớc là thành viên của điều ƣớc quốc

tế có quy định cấm ngƣời đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng

nhãn hiệu đó mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu

ngƣời sử dụng là ngƣời đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử

dụng đó không đƣợc sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính

đáng;

Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tƣơng tự

gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thƣơng mại đƣợc bảo hộ của ngƣời khác hoặc chỉ

dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi

dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thƣơng mại, chỉ

dẫn địa lý tƣơng ứng.

Trong các hành vi CTKLM đƣợc điều chỉnh bởi văn bản pháp luật chuyên

ngành, hành vi CTKLM liên quan đến sở hữu trí tuệ chiếm tỷ lệ nhiều nhất. Những

hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới chỉ dẫn thƣơng mại, nhãn hiệu,

làm hàng giả... cản trở hoạt động thƣơng mại, gây tổn hại cho ngƣời tiêu dùng trở

thành vấn đề nổi cộm, đặt ra yêu cầu phải giải quyết nhanh chóng.

- Hành vi CTKLM trong Luật Chuyển giao công nghệ.

Về nguyên tắc, hợp đồng chuyển giao công nghệ là sự thỏa thuận giữa bên

chuyển giao và bên đƣợc chuyển giao đối tƣợng của quyền sở hữu trí tuệ công

nghiệp – công nghệ. Các bên tham gia hợp đồng có quyền tự do thỏa thuận các điều

khoản của hợp đồng và quyền này đƣợc ghi nhận trong pháp luật về hợp đồng.

Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017 không quy định trực tiếp mà chỉ đƣa

các quy định có liên quan đến hành vi CTKLM trong lĩnh vực chuyển giao công

nghệ. Theo đó, các hành vi CTKLM bao gồm (Điều 12 Luật Chuyển giao công

nghệ):

33

- Lừa dối, giả tạo trong việc lập, thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ,

hợp đồng dịch vụ chuyển giao công nghệ, nội dung công nghệ trong hợp đồng, hồ

sơ dự án đầu tƣ.

- Cản trở, từ chối cung cấp thông tin về hoạt động chuyển giao công nghệ theo

yêu cầu của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền.

- Tiết lộ bí mật công nghệ trái quy định của pháp luật, cản trở hoạt động

chuyển giao công nghệ.

Ngoài các quy định cơ bản trên, Luật Chuyển giao công nghệ cho phép các

bên hầu nhƣ đƣợc tự do thỏa thuận trong hợp đồng chuyển giao công nghệ nhƣ độc

quyền hoặc không độc quyền sử dụng công nghệ, đƣợc chuyển giao lại hoặc không

đƣợc chuyển giao lại, phạm vi lãnh thổ đƣợc bán sản phẩm do công nghệ đƣợc

chuyển giao tạo ra...

-Hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng.

Dịch vụ ngân hàng, tài chính là những dịch vụ kinh doanh năng động và đóng

vao trò quan trọng trong việc cung cấp và điều tiết nguồn vốn của thị trƣờng. Tuy

nhiên kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro và cũng dễ bị

lạm dụng để CTKLM làm ảnh hƣởng đến các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác

cũng nhƣ khách hàng ngân hàng, tổ chức tín dụng

Các hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng có thể đƣợc thể hiện bằng hình

thức sau đây:

- Khuyến mại bất hợp lý. Ví dụ: Thƣởng giá trị bằng tiền cho khách hàng đến

gửi tiền.

- Lôi kéo khách hàng của tổ chức tín dụng khác thông qua việc mua chuộc, dụ

dỗ... bất hợp lý.

- Gièm pha, đƣa thông tin sai sự thật làm tổn hại đến lợi ích của ngân hàng, tổ

chức tín dụng.

- Đƣa thông tin sai sự thật về tình trạng kinh doanh của tổ chức tín dụng gây

bất lợi cho khách hàng có quan hệ kinh doanh với tổ chức tín dụng.

34

- Đƣa thông tin sai sự thật nhằm thao túng thị trƣờng vàng, ngoại tệ có lợi ích

cho bên đƣa thông tin đó.

Tại Điều 9 Luật Các tổ chức tín dụng quy định về cạnh tranh nhƣ sau:

- Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài đƣợc hợp tác và cạnh

tranh trong hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác theo quy định của

pháp luật.

- Nghiêm cấm hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc hành vi CTKLM có nguy cơ

gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn

của hệ thống các tổ chức tín dụng, lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp

của tổ chức, cá nhân.

Ngoài ra, một số hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng khác có thể do

chính phủ quy định.

Ngoài các lĩnh vực trên, nhiều lĩnh vực pháp luật khác cũng đƣợc đề cập bổ

sung có liên quan tới hành vi CTKLM theo đặc thù của ngành hay lĩnh vực chuyên

biệt tƣơng ứng, chẳng hạn nhƣ Luật điện lực, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật an

toàn thực phẩm.... Cùng với Luật Cạnh tranh 2018 những quy định này có ý nghĩa

rất quan trọng trong việc hoàn thiện chế định pháp luật về chống hành vi CTKLM,

đồng thời tạo môi trƣờng pháp lý đảm bảo các hoạt động cạnh tranh đƣợc diễn ra

một cách công bằng, bình đẳng, và trung thực trên thị trƣờng Việt Nam.

Nhƣ vậy, qua những quy định trên của pháp luật về các hành vi CTKLM,

chúng ta có thể thấy những quy định này đã bám khá sát vào tình hình thực tế của

các hành vi CTKLM đang diễn ra tại Việt Nam. Với định hƣớng tạo lập và duy trì

môi trƣờng kinh doanh lành mạnh, Luật Cạnh tranh năm 2018 đã đƣa ra quy định

cấm các loại hành vi này và không có ngoại lệ miễn trừ. Cho đến nay, trên cơ sở của

các quy định về CTKLM, Cục Quản lý cạnh tranh đã ra quyết định xử lý nhiều vụ

việc liên quan đến hành vi CTKLM. Tuy nhiên, trên thực tế thì các hành vi CTKLM

lại diễn ra vô cùng đa dạng và phức tạp. Chính vì vậy cần có sự nghiên cứu và nhận

thức đầy đủ về hành vi CTKLM để có biện pháp xử lý thích hợp là cần thiết.

35

Căn cứ Điều 3, Nghị định số 75/2019/NĐ-CP ngày 26 tháng 9 năm 2019 “

Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh” nêu rõ:

1. Đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính về cạnh tranh, tổ chức, cá nhân vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính sau đây:

a) Cảnh cáo;

b) Phạt tiền.

2. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính về cạnh tranh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung sau đây:

a) Tƣớc quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 12 tháng;

b) Tịch thu tang vật vi phạm, phƣơng tiện đƣợc sử dụng để vi phạm;

c) Tịch thu khoản lợi nhuận thu đƣợc từ việc thực hiện hành vi vi phạm;

d) Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc văn bản tƣơng đƣơng.

3. Ngoài các hình thức xử phạt theo quy định tại các khoản 1 và khoản 2 Điều này, tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính về cạnh tranh còn có thể bị buộc áp dụng một hoặc một số biện pháp khắc phục hậu quả sau đây:

a) Buộc cải chính công khai;

b) Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phƣơng tiện kinh doanh, vật phẩm;

c) Buộc cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trƣờng, lạm dụng vị trí độc quyền;

d) Buộc loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng, thỏa thuận hoặc giao dịch kinh doanh;

đ) Buộc chia, tách, bán lại một phần hoặc toàn bộ vốn góp, tài sản của doanh nghiệp hình thành sau tập trung kinh tế;

e) Buộc chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền về giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của doanh nghiệp nhận sáp nhập, doanh nghiệp mua lại, doanh nghiệp mới hình thành sau tập trung kinh tế;

g) Buộc cung cấp đầy đủ các thông tin, tài liệu;

h) Buộc khôi phục các điều kiện phát triển kỹ thuật, công nghệ mà doanh nghiệp đã cản trở;

i) Buộc loại bỏ các điều kiện bất lợi đã áp đặt cho khách hàng;

k) Buộc khôi phục lại các điều khoản hợp đồng, hợp đồng đã thay đổi hoặc hủy bỏ mà không có lý do chính đáng;

l) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu.

36

4. Thời hạn áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại điểm e khoản 3 Điều này phải đƣợc nêu trong quyết định xử lý, xử phạt.

5. Trƣờng hợp cơ quan nhà nƣớc thực hiện hành vi quy định tại khoản 1 Điều 8 của Luật Cạnh tranh, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia yêu cầu cơ quan nhà nƣớc chấm dứt hành vi vi phạm và khắc phục hậu quả. Cơ quan nhà nƣớc đƣợc yêu cầu phải chấm dứt hành vi vi phạm, khắc phục hậu quả và bồi thƣờng thiệt hại theo quy định của pháp luật. Nhƣ vậy, Nghị định đã đƣa ra chi tiết các hình thức xử phạt vi phạm hành chính về cạnh tranh đối với từng trƣờng hợp, đối tƣợng vi phạm. Với quy định trên, sẽ giúp cho việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh đƣợc thực hiện có hiệu quả, khắc phục đƣợc những thiếu sót trong quy định cũ, hƣớng đến môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh trong tƣơng lai.

2.2. Quy định về chế tài áp dụng đối với hành vi CTKLM

Đối tƣợng bị áp dụng chế tài đối với hành vi CTKLM là các chủ thể thuộc đối

tƣợng điều chỉnh của Luật Cạnh tranh thực hiện hành vi CTKLM bị cấm.

Các hành vi CTKLM đều trực tiếp hay gián tiếp gây thiệt hại cho các quan hệ

đƣợc pháp Luật Cạnh tranh bảo vệ. Do đó, các chủ thể thực hiện hành vi này phải

gánh chịu trách nhiệm pháp lý nhất định.

*) Trách nhiệm hành chính:

Việc xử lý hành vi vi phạm về CTKLM đƣợc quy định tại Điều 110 Chƣơng

IX Luật Cạnh tranh năm 2018, Nghị định 105/2005/NĐ-CP, pháp lệnh xử lý vi

phạm hành chính. Nghị định số: 75/2019/NĐ-CP ngày 26 tháng 9 năm 2019 của

chính phủ quy định chi tiết Luật Cạnh tranh năm 2018 về xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực cạnh tranh, tại khoản 2 Điều 110 quy định có hình thức xử phạt

chính gồm:

- Cảnh cáo.

- Phạt tiền.

Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về

cạnh tranh còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:

- Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký DN hoặc văn bản tƣơng đƣơng, tƣớc

quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề;

37

- Tịch thu tang vật, phƣơng tiện đƣợc sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh

tranh.

- Tịch thu khoản lợi nhuận thu đƣợc từ việc thực hiện hành vi vi phạm.

Ngoài các hình thức xử phạt theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này, tổ

chức, cá nhân vi phạm pháp luật về cạnh tranh còn có thể bị áp dụng một hoặc một

số biện pháp khắc phục hậu quả sau đây:

- Cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trƣờng, lạm dụng vị trí

độc quyền;

- Loại bỏ điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng, thỏa thuận hoặc

giao dịch kinh doanh;

- Chia, tách bán lại một phần hoặc toàn bộ vốn góp, tài sản của doanh nghiệp

hình thành sau tập trung kinh tế;

- Chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền về giá mua, giá bán

hàng hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của doanh

nghiệp hình thành sau tập trung kinh tế;

- Cải chính công khai;

- Các biện pháp cần thiết khác để khắc phục tác động của hành vi vi phạm.

- Chính phủ quy định chi tiết các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục

hậu quả đối với từng hành vi vi phạm quy định của pháp luật về cạnh tranh.

*) Trách nhiệm dân sự:

Tổ chức, cá nhân có hành vi CTKLM gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nƣớc,

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi thƣờng. Việc bồi

thƣờng thiệt hại đƣợc thực hiện theo đúng các quy định của Bộ Luật Dân sự năm

2015.

*) Trách nhiệm hình sự:

Pháp nhân thƣơng mại, cá nhân có hành vi CTKLM có thể bị truy cứu trách

nhiệm hình sự nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại chƣơng XVIII:

“Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” của Bộ luật Hình sự năm 2015 bao

38

gồm: tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 192); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là

lƣơng thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (điều 194); tội sản xuất,

buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú ý, thuốc bảo

vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 195), tội vi phạm quy định về cạnh

tranh (Điều 217), tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phƣơng thức đa cấp

(Điều 217a)… Hình phạt có thể áp dụng đối với những ngƣời phạm các tội danh

trên thƣờng là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn.

2.3. Thực trạng xử lý các hành vi CTKLM

2.3.1. Tổng quan xử lý các hành vi CTKLM

Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế thị trƣờng

ngày càng đa dạng và phát triển trên tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Khi đó

tất yếu sẽ dẫn đến các tranh chấp. Việc lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp nào

vừa đảm bảo có lợi cho DN, vừa duy trì các mối quan hệ làm ăn là việc DN cần cân

nhắc đến. Việc giải quyết tranh chấp dựa trên nguyên tắc quan trọng là quyền tự

định đoạt giữa các bên. Cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền chỉ can thiệp khi có yêu

cầu của một trong các bên. Việc thành lập cơ quan đầu mối là rất quan trọng.

Vì vậy, Ủy ban Cạnh tranh quốc gia thành lập dựa trên cơ sở kiện toàn bộ máy

và sắp xếp lại bộ máy. Việc thành lập Ủy ban là thu gọn thành 1 đầu mối nhƣng làm

nhiều việc, tránh 2 đầu mối làm 1 việc.

Mới đây, Bộ Công Thƣơng vừa công bố dự thảo Nghị định quy định chi tiết chức

năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Cạnh tranh quốc gia để lấy ý kiến các

bên liên quan. Theo đó, Bộ Công Thƣơng muốn thành lập Ủy ban Cạnh tranh quốc

gia (gọi tắt là Ủy ban) trên cơ sở hợp nhất Cục Cạnh tranh và Bảo vệ ngƣời tiêu

dùng với Hội đồng Cạnh tranh.

Ngay sau khi dự thảo này đƣợc công bố, đã có rất nhiều thông tin, bài báo liên quan

phản ánh việc thành lập Ủy ban và nhân sự giúp việc cho cơ quan này. Thông tin rõ

hơn về dự thảo này với báo chí trong buổi họp báo thƣờng kỳ của Bộ Công Thƣơng

chiều 5/4/2019, ông Nguyễn Sinh Nhật Tân - Cục trƣởng Cục Cạnh tranh và Bảo vệ

ngƣời tiêu dùng đã lý giải cơ sở để ra đời Ủy ban Cạnh tranh quốc gia.

39

Ủy ban Cạnh tranh quốc gia có nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương, giúp

Chính phủ hoàn thiện quy trình tố tụng cạnh tranh để xử lý, điều tra các vụ việc liên

quan đến tham nhũng, cạnh tranh không lành mạnh…

Theo ông Nguyễn Sinh Nhật Tân, tháng 6/2018, Quốc hội đã thông qua Luật Cạnh

tranh 2018, thay thế Luật Cạnh tranh 2014. Luật này có hiệu lực vào 1/7/2019.

Trong Luật Cạnh tranh 2018 có nhiều nội dung liên quan đến điều chỉnh hành vi bị

cấm, hoạt động cạnh tranh không lành mạnh, tập trung kinh tế... do đó, Quốc hội

cho rằng, cần phải có mô hình cơ quan đủ năng lực, trình độ và tầm để thực thi Luật

này.

Điều số 46 Luật Cạnh tranh 2018 quy định thực thi Luật Cạnh tranh là Hội đồng

cạnh tranh quốc gia. Bên cạnh đó, Luật Cạnh tranh 2018 cũng quy định rõ về chức

năng, nhiệm vụ của Ủy ban là giúp Bộ trƣởng Bộ Công Thƣơng, giúp Chính phủ

40

quản lý về cạnh tranh, giúp hoàn thiện quy trình tố tụng cạnh tranh để xử lý, điều tra

các vụ việc liên quan đến tham nhũng, cạnh tranh không lành mạnh…

“Thủ tƣớng đã giao Bộ Công Thƣơng xây dựng Nghị định hƣớng dẫn Luật Cạnh

tranh 2018. Trên cơ sở đó, Bộ Công Thƣơng đã xây dựng 3 Nghị định, trong đó có

Nghị định liên quan đến mô hình Ủy ban Cạnh tranh quốc gia. Khi Nghị định này

đƣợc Chính phủ thông qua, đây sẽ là cơ sở pháp lý để Ủy ban Cạnh tranh quốc gia

ra đời, dự kiến sẽ có hiệu lực vào ngày 1/7/2019.

Ngoài nhiệm vụ giúp Bộ trƣởng Bộ Công Thƣơng, giúp Chính phủ thì Ủy ban còn

thực hiện nghĩa vụ nữa bảo vệ ngƣời tiêu dùng, thực thi Luật Bảo vệ quyền lợi

ngƣời tiêu dùng 2011. Ủy ban thành lập dựa trên cơ sở kiện toàn bộ máy và sắp xếp

lại bộ máy. Việc thành lập Ủy ban là thu gọn làm 1 đầu mối nhƣng làm nhiều việc,

tránh 2 đầu mối làm 1 việc”, ông Nguyễn Sinh Nhật Tân thông tin.

Theo dự thảo, Chủ tịch Ủy ban do Thủ tƣớng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo

đề nghị của Bộ trƣởng Bộ Công Thƣơng. Dự kiến bộ máy giúp việc cho Ủy ban

gồm 8 đơn vị: Cục Điều tra và Giám sát cạnh tranh (dự kiến 25-30 biên chế); Cục

Bảo vệ ngƣời tiêu dùng (dự kiến 25-30 biên chế); Vụ Thƣ ký xử lý vụ việc cạnh

tranh: 10-15 biên chế;

Vụ Quản lý hoạt động kinh doanh theo phƣơng thức đa cấp: 10-15 biên chế; Vụ

Hợp tác quốc tế: 10-15 biên chế; Vụ Thanh tra pháp chế: 10-15 biên chế; Văn

phòng Ủy ban Cạnh tranh quốc gia và bảo vệ ngƣời tiêu dùng: 10-15 biên chế;

Văn phòng Quản lý cạnh tranh và Bảo vệ ngƣời tiêu dùng tại TP HCM: 8-10 biên

chế. Ngoài ra còn có 1 đơn vị sự nghiệp là Trung tâm Thông tin tƣ vấn và đào tạo:

20-25 biên chế.

Nhƣ vậy, tổng biên chế, nhân sự dự kiến của các đơn vị sau khi thành lập Ủy ban là

khoảng 130 biên chế công chức và 25 biên chế viên chức. Hiện tổng biên chế đƣợc

giao của 2 cơ quan trƣớc khi hợp nhất là 58 công chức và 10 viên chức biên chế.

Trong giai đoạn 2020-2025, việc thành lập Ủy ban sẽ giúp tăng khoảng 70-80 biên

chế công chức; 15 biên chế viên chức.

"Số lƣợng biên chế, nhân sự còn thiếu sẽ đƣợc rà soát, sắp xếp, điều chuyển từ các

đơn vị của Bộ Công Thƣơng hoặc các bộ, ngành khác nhằm bảo đảm các nguyên

41

tắc không tăng biên chế trong tổng số biên chế của Bộ và biên chế hành chính nhà

nƣớc nói chung. Việc bổ sung sẽ triển khai theo lộ trình 5 năm”, dự thảo nêu rõ.

Liên quan đến việc gia tăng biên chế sau khi Ủy ban đƣợc thành lập, Cục trƣởng

Cục Cạnh tranh và Bảo vệ ngƣời tiêu dùng cho biết: “Ủy ban thành lập vẫn đảm bảo

tổng biên chế không đƣợc thay đổi, nhƣng có sự điều chuyển cán bộ trong nội bộ,

không nằm ngoài tổng biên chế đã đƣợc Bộ Nội vụ phê duyệt”.

Khẳng định lại vấn đề này, Thứ trƣởng Bộ Công Thƣơng Đỗ Thắng Hải cũng nhấn

mạnh, “nguyên tắc chung là không tăng biên chế của Bộ khi sắp xếp lại tổ chức".

(Theo nguồn Hạ vũ (2019) tạp chí công thƣơng: http://tapchicongthuong.vn/bai-

viet/vi-sao-thanh-lap-uy-ban-canh-tranh-quoc-gia-61645.htm).

Để hạn chế các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, yêu cầu đặt ra là cần

thống nhất các quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong các văn bản

Luật chuyên ngành, đồng thời nâng các mức xử phạt đối với các hành vi này.

Theo Cục Quản lý Cạnh tranh, tính đến hết năm 2018, đã có gần 400 hồ sơ

khiếu nại về các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh (CTKLM), trong đó hơn 200

vụ đã đƣợc điều tra, xử lý. Các vụ việc CTKLM diễn ra dƣới nhiều hình thức, theo

nhiều dạng hành vi vi phạm khác nhau.

Căn cứ theo nhóm hành vi vi phạm, nhóm vụ việc liên quan đến hành vi quảng

cáo nhằm CTKLM chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số các vụ việc đƣợc điều tra,

xử lý (chiếm tới 62%), tiếp theo là các vụ việc liên quan tới hành vi bán hàng đa cấp

bất chính (chiếm 17%). Bên cạnh đó là hành vi dèm pha doanh nghiệp (DN) khác,

bán hàng đa cấp bất chính. Số vụ việc liên quan tới các dạng hành vi khác nhƣ chỉ

dẫn gây nhầm lẫn, gây rối hoạt động của DN khác, xâm phạm bí mật kinh doanh

chiếm tỷ lệ thấp.

Để hạn hạn chế hành vi CTKLM trong thời kỳ hội nhập kinh tế, mới đây

Chính phủ đã ban hành Nghị định 75/2019/NĐ-CP (ngày 26/09/2019) quy định về

xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh. Theo đó, các mức phạt đối

với hành vi vi phạm quy định về CTKLM đã đƣợc quy định rõ.

Tuy nhiên, theo các chuyên gia phân tích, để hoàn thiện các quy định pháp

luật về CTKLM, vẫn cần thống nhất các quy định về hành vi CTKLM trong các văn

42

bản Luật chuyên ngành, cụ thể hành vi CTKLM trong lĩnh vực sỡ hữu trí tuệ trong

Luật Sở hữu trí tuệ, hành vi quảng cáo nhằm CTKLM trong Luật Quảng cáo, hành

vi khuyến mại trong Luật Thƣơng mại…

Bên cạnh đó, trong thời gian tới, cần xem xét mức xử phạt và hình thức xử

phạt đối với các hành vi CTKLM (mức phát tối đa hiện nay là 1 tỷ đồng đối với

hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dƣới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả

năng dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp khác cùng kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ).

Trên thực tế, những hành vi CTKLM có thể mang lại lợi ích khổng lồ cho DN,

nhiều hơn rất nhiều so với số tiền phạt họ phải gánh chịu.

Ngoài ra, hiện tại Bộ luật hình sự năm 2015, Luật sửa đổi Bộ luật hình sự

năm 2017 đã bƣớc đầu có quy định việc xử lý hình sự đối với một số hành vi

CTKLM nhƣ tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 192, tội đầu cơ (Điều 196), tội

quảng cáo gian dối (Điều 197), tội lừa dối khách hàng (Điều 198). Tuy nhiên, còn

nhiều hành vi CTKLM mà pháp luật nhiều quốc gia quy định là tội phạm mà Bộ

Luật hình sự của Việt Nam chƣa quy định, trong đó có hành vi xâm phạm bí mật

kinh doanh, hoạt động tình báo công nghiệp…

Cùng với việc hoàn thiện các quy định pháp luật về CTKLM, các cơ quan

quản lý nhà nƣớc cũng cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật về CTKLM. Đối tƣợng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về

CTKLM chủ yếu nên hƣớng tới là cộng đồng doanh nghiệp. Nội dung tuyên truyền

cần giúp các DN nhận diện những hành vi CTKLM và quyền khiếu nại, khởi kiện

của DN bị xâm hại, các hình thức chế tài có thể áp dụng đối với DN có hành vi vi

phạm.

Ngoài ra, đấu tranh với các hành vi CTKLM là nhiệm vụ khá mới mẻ đối với

Việt Nam nhƣng lại là lĩnh vực mà nhiều quốc gia trên thế giới có kinh nghiệm.

Trong bối cảnh ấy, việc tham khảo, học tập kinh nghiệm nƣớc ngoài trong việc xử

lý các vấn đề về cạnh tranh, trong đó có CTKLM là rất cần thiết.

(Nguồn:http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/can-hoan-thien-cac-quy-

dinh-cua-phap-luat-ve-canh-tranh-khong-lanh-manh-315686.html)

43

*) Thông qua Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng (CTVBVNTD):

Lịch sử xây dựng và phát triển của pháp Luật Cạnh tranh trên thế giới cho thấy

cơ quan quản lý cạnh tranh có vai trò quyết định trong việc đảm bảo thực thi Luật

Cạnh tranh có hiệu quả. Mỗi quốc gia, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ

thể đã xây dựng mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh với đặc điểm riêng biệt, song

mục đích chung của các cơ quan này là đảm bảo thực thi Luật Cạnh tranh một cách

có hiệu quả.

Cục Cạnh tranh và Bảo vệ ngƣời tiêu dùng là cơ quan thuộc Bộ Công thƣơng

có tƣ cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng. Trụ sở chính đặt tại Hà Nội.

Ngoài ra để tăng cƣờng công quác quản lý của Cục CTVBVNTD còn có thêm hai

chinh nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Đà Nẵng. Các đơn vị trực

thuộc gồm: Ban điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh, Ban giám sát và quản lý cạnh

tranh, Ban điều tra và xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Ban bảo vệ ngƣời

tiêu dùng, Ban xử lý chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ, Ban hợp tác quốc

tế, Văn phòng, Trung tâm thông tin, Trung tâm đào tạo điều tra viên.

Chức năng của Cục CTVBVNTD là giúp Bộ trƣởng Bộ công thƣơng thực hiện

quản lý nhà nƣớc về cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng, chống bán phá

giá, chống trợ cấp và tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nƣớc ngoài vào Việt Nam; và

đặc biệt là thực hiện việc điều tra, ra quyết định xử lý hành vi CTKLM.

Cục CTVBVNTD đã và đang nỗ lực trong mọi hoạt động nhằm thúc đẩy môi

trƣờng cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quyền lợi của DN và ngƣời tiêu dùng trƣớc

những hành vi hạn chế cạnh tranh, tạo môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh hơn cho

sản xuất trong nƣớc, hỗ trợ ngành sản xuất trong nƣớc, phòng chống các vụ kiện

bán phá giá, trợ cấp, tự vệ của nƣớc ngoài và chống các hành vi CTKLM là một

trong những mục tiêu then chốt của Cục cạnh tranh và bảo vệ ngƣời tiêu dùng.

Luật Cạnh tranh ra đời là cơ sở pháp lý để xây dựng môi trƣờng cạnh tranh

lành mạnh, công bằng thế nhƣng vai trò của nó hầu nhƣ vắng bóng trƣớc hàng loạt

vụ việc. Một thực tế cho thấy từ khi Luật Cạnh tranh ra đời đến nay Cục

CTVBVNTD là cơ quan nhà nƣớc đƣợc giao nhiệm vụ bảo vệ ngƣời tiêu dùng, bảo

44

vệ DN làm ăn chân chính nhƣng vẫn chƣa làm đƣợc nhiều việc nhƣ kỳ vọng. Số vụ

xử lý hành vi CTKLM còn ít, nhiều vụ việc xử lý chƣa đƣợc dứt điểm.

Các vụ kiện liên quan đến hành vi CTKLM chủ yếu là bán hàng đa cấp bất

chính, quảng cáo sai lệch, thông tin sai lệch về sản phẩm nhằm CTKLM.

Tính đến hết năm 2018, có gần 400 hồ sơ khiếu nại, trong đó hơn 200 vụ đã

đƣợc điều tra, xử lý. Các vụ việc CTKLM thƣờng diễn ra dƣới nhiều hình thức, theo

nhiều dạng hành vi vi phạm khác nhau. Thông qua xử lý các hành vi CTKLM đã thu

về ngân sách nhà nƣớc tổng số tiền phạt và chi phí xử lý đáng kể. Nếu năm 2007,

tổng số tiền phạt mới chỉ là 85 triệu đồng, thì năm 2008, tổng số tiền phạt đã tăng

lên gần gấp 10 lần (khoảng 805 triệu đồng), và đến năm 2016 là 2,114 tỷ đồng.

(Tapchitaichinh.vn)

Cụ thể, trong năm 2018 Cục đã tiến hành kiểm tra và xử phạt 04 DN bán hàng

đa cấp về hành vi vi phạm pháp luật bán hàng đa cấp với số tiền là 1.060.000.000

đồng, nổi bật là vụ Công ty cổ phần tập đoàn Sản xuất Thƣơng mại Quốc tế

Greenlife: địa chỉ trụ sở chính tại thôn Kim Tỉnh, xã Trung Thành, Thị xã Phổ Yên,

tỉnh Thái Nguyên do hoạt động bán hàng đa cấp tại địa phƣơng khi chƣa có xác

nhận tiếp nhận hồ sơ thông báo hoạt động bán hàng đa cấp của Sở Công Thƣơng.

Bên cạnh đó, DN này đã không thực hiện nghĩa vụ sửa đổi, bổ sung giấy chứng

nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp khi có thay đổi, bổ sung liên quan đến hồ

sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định

của pháp luật, cung cấp thông tin sai lệch hoặc gây nhầm lẫn về công dụng của hàng

hóa để dụ dỗ ngƣời khác tham gia bán hàng đa cấp... Ngoài quyết định xử phạt bằng

tiền 510 triệu đồng về hành vi vi phạm pháp luật bán hàng đa cấp, Cục CTVBVNTD

đã ban hành quyết định thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp

đối với DN này, đồng thời yêu cầu Greenlife tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ của

mình trƣớc pháp luật, trong đó có nghĩa vụ bảo đảm quyền lợi chính đáng của ngƣời

tham gia Bán hàng đa cấp trong mạng lƣới của DN.

Trong khi đó, với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Mỹ phẩm Thƣờng Xuân, trụ

sở chính tại 100-102 Nguyễn Văn Trỗi, phƣờng 8, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ

Chí Minh, Cục CTVBVNTD đã ra quyết định xử phạt với số tiền 170 triệu đồng do

45

tổ chức hoạt động bán hàng đa cấp tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng khi

chƣa có xác nhận bằng văn bản của Sở Công Thƣơng tỉnh, thành phố đó về việc tiếp

nhận hồ sơ thông báo hoạt động bán hàng đa cấp. Ngoài ra, DN này cũng không

thực hiện thủ tục đề nghị sửa đổi, bổ sung Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán

hàng đa cấp khi có thay đổi liên quan đến hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đăng

ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định...

Liên quan đến Công ty Trách nhiệm hữu hạn Unicity Marketing Việt Nam trụ

sở chính tại 141 đƣờng Cộng hòa, Phƣờng 12, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí

Minh, Cục Cạnh tranh và Bảo vệ ngƣời tiêu dùng đa ra quyết định xử phạt với số

tiền 240 triệu đồng.

Nhƣ vậy, số tiền xử phạt của Cục CTVBVNTD với 3 DN trên đã lên tới 920

triệu đồng.

Thống kê cho thấy, tính đến hết năm 2018, số lƣợng DN có giấy chứng nhận

đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp đã giảm xuống còn 33 DN, trong đó 2 DN đang

tạm dừng hoạt động bán hàng đa cấp.

Cũng trong năm 2018, Cục CTVBVNTD đã trực tiếp tiến hành kiểm tra đối

với 4 DN bán hàng đa cấp qua đó đã tiến hành xử phạt 950 triệu đồng đối với 3

doanh nghiệp gồm: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Nhã Khắc Lâm (30 triệu đồng);

Công ty Cổ phần Everrichs (620 triệu đồng), Công ty Cổ phần Sản xuất và Thƣơng

mại Sen Việt Group (300 triệu đồng).

Ngoài ra, Cục cũng đã điều tra, xử phạt đối với một số DN khác: Thiên Ngọc

Minh Uy (140 triệu đồng); Công ty Trách nhiệm hữu hạn Herbalife Việt Nam (140

triệu đồng); Công ty Cổ phần Queenet Quốc tế (240 triệu đồng); Công ty Trách

nhiệm hữu hạn World Việt Nam (80 triệu đồng); Công ty Ngƣời lái xe mặt trời (51

triệu đồng); Công ty TNHH Visi Việt Nam (30 triệu đồng).

Căn cứ kết quả kiểm tra, xử lý vi phạm, Cục đã thu hồi giấy chứng nhận đăng

ký hoạt động bán hàng đa cấp của Công ty Cổ phần Everrichs và Công ty Trách

nhiệm hữu hạn BHIP (theo Cục Cạnh tranh và Bảo vệ ngƣời tiêu dùng)

46

Trong 8 tháng đầu năm 2019, Cục CTVBVNTD – Bộ Công Thƣơng tiếp tục

tiếp nhận và giải quyết số lƣợng lớn các phản ánh, khiếu nại của ngƣời tiêu dùng.

Cụ thể, thông qua Tổng đài tƣ vấn, hỗ trợ ngƣời tiêu dùng 1800.6838: Cục

Cạnh tranh và Bảo vệ ngƣời tiêu dùng ghi nhận có 6.646 cuộc gọi đến, trong đó, các

Tổng đài viên đã tiếp nhận và trả lời 3.706 cuộc gọi, chiếm tỷ lệ 55,76%. Cùng với

đó, qua hệ thống email: vcca@moit.gov.vn hoặc qua đƣờng gửi văn bản trực tiếp,

Cục tiếp nhận 376 vụ việc khiếu nại của ngƣời tiêu dùng. Qua quá trình xác minh và

hỗ trợ các bên giải quyết khiếu nại, Cục CTVBVNTD cung cấp một số thông tin, cụ

thể nhƣ sau:

* Phƣơng thức gửi khiếu nại của ngƣời tiêu dùng

Số liệu tiếp nhận khiếu nại cho thấy, phƣơng thức gửi qua email vẫn chiếm

tỷ lệ cao tuyệt đối (354 vụ việc, chiếm 94% các vụ việc khiếu nại gửi tới Cục). Qua

tổng hợp, phần lớn ngƣời tiêu dùng sử dụng phƣơng thức gửi qua email là ngƣời

dân có địa chỉ tại các tỉnh, thành phố lớn. Trong khi đó, 6% vụ việc còn lại gửi qua

đƣờng bƣu điện đa số là do ngƣời dân có địa chỉ tại một số vùng sâu, vùng xa, vùng

nông thôn gửi.

* Kết quả giải quyết khiếu nại

Đến hết ngày 31 tháng 8 năm 2019, Cục CTVBVNTD đã hỗ trợ giải quyết

thành công hoặc chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền để xử lý 360 vụ việc trong

tổng số 375 vụ việc tiếp nhận (chiếm khoảng 96%). Số lƣợng khiếu nại còn lại đang

đƣợc Cục phối hợp với các cơ quan liên quan, DN và ngƣời tiêu dùng để giải quyết.

* Hành vi bị khiếu nại

Chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các nhóm hành vi bị khiếu nại là hành vi về

Bảo vệ thông tin của ngƣời tiêu dùng. Nhóm hành vi này chiếm 36% tổng số khiếu

nại tới Cục. Trong đó, nội dung khiếu nại chủ yếu tập trung vào việc doanh nghiệp

thu thập trái phép thông tin của ngƣời tiêu dùng, không ghi nhận yêu cầu chỉnh sửa

thông tin của ngƣời tiêu dùng, dẫn tới việc tiếp tục sử dụng thông tin của ngƣời tiêu

dùng vào các mục đích xâm phạm quyền lợi của ngƣời tiêu dùng.

47

Nhóm hành vi có tỷ lệ khiếu nại cao liên quan đến các nội dung về Giao kết

hợp đồng, cụ thể: không tạo điều kiện để ngƣời tiêu dùng tìm hiểu và nghiên cứu

nội dung hợp đồng trƣớc khi ký; không tƣ vấn đầy đủ thông tin về hợp đồng trƣớc

khi ký; không gửi bản sao hợp đồng để ngƣời tiêu dùng lƣu trữ sau khi ký; nội dung

hợp đồng không đúng nhƣ nội dung tƣ vấn ban đầu…Nhóm hành vi này chiếm tỷ lệ

22% trong tổng số các khiếu nại gửi tới Cục.

Nhóm tỷ lệ tiếp theo chiếm 16% tổng số khiếu nại liên quan đến hành vi cung

cấp thông tin. Theo đó, ngƣời tiêu dùng khiếu nại việc tổ chức, cá nhân cung cấp

thông tin không chính xác, không đầy đủ, không thuận tiện…, dẫn đến ngƣời tiêu

dùng khó khăn hoặc bị hiểu nhầm trong việc đƣa ra quyết định mua bán, sử dụng dịch

vụ.

Nhóm hành vi liên quan đến Số lƣợng, chất lƣợng, thời gian giao hàng

chiếm tỷ lệ cao tiếp theo là 12%. Các hành vi này chủ yếu liên quan đến việc giao

hàng chậm, số lƣợng, chất lƣợng hàng không đúng nhƣ nội dung quảng cáo, trong

đó, phần lớn giao dịch liên quan của ngƣời tiêu dùng đƣợc thực hiện thông qua các

sàn thƣơng mại điện tử hoặc qua các trang mạng xã hội.

Nhóm hành vi liên quan đến thực hiện Bảo hành chiếm 3% và 11% còn lại

liên quan đến các nhóm hành vi khác.

Biểu đồ: Phân chia vụ việc khiếu nại theo hành vi

48

(theo tƣ liệu của Cục Cạnh tranh và Bảo vệ ngƣời tiêu dùng)

* Sản phẩm, dịch vụ bị khiếu nại

Trong 8 tháng đầu năm 2019, ngành hàng bị khiếu nại nhiều nhất là “Tài

chính, bảo hiểm, ngân hàng” (chiếm 40,37%). Sau đó là nhóm “Điện thoại, viễn

thông” (chiếm 20,65%) và nhóm “Đồ điện tử gia dụng” (chiếm 9,38%).

Đáng chú ý, đây là lần đầu tiên nhóm hàng “Tài chính, bảo hiểm, ngân

hàng” có tỷ lệ khiếu nại lớn hơn nhiều lần so với các nhóm hàng hóa, dịch vụ còn

lại. Chủ thể liên quan trong nhóm hàng này bao gồm không chỉ các ngân hàng, công

ty tài chính mà trong đó đã bắt đầu xuất hiện sự liên quan của nhiều mô hình tƣ vấn

cho vay trực tuyến (cho vay ngang hàng – P2P lending). Các mô hình này hiện đang

có sự phát triển mở rộng và gia tăng nhanh chóng cả về số lƣợng khách hàng và giá

trị giải ngân, do vậy, kéo theo xu hƣớng gia tăng khiếu nại trong nhóm dịch vụ này.

Biểu đồ: Phân chia vụ việc khiếu nại theo ngành hàng, lĩnh vực

(theo tƣ liệu của Cục Cạnh tranh và Bảo vệ ngƣời tiêu dùng)

Qua kết quả điều tra của các năm cho thấy số lƣợng các vụ việc CTKLM do

Cục CTVBVNTD đã điều tra và xử lý đã tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, chƣa tƣơng

xứng với nhu cầu, phần lớn các vụ việc đã qua giải quyết là đình chỉ điều tra sơ bộ,

thƣơng lƣợng và hòa giải hoặc phạt tiền. Đây cũng có lẽ là nguyên nhân khiến cho

nhiều vụ việc vi phạm CTKLM tiếp diễn và đối tƣợng chịu ảnh hƣởng nhiều nhất

chính là các DN.

49

Bên cạnh đó, kết quả xử lý cạnh tranh chỉ dừng lại ở việc hòa giải, nhắc nhở

cao hơn là xử phạt hành chính nên tính răn đe còn chƣa cao, đôi khi không đạt đƣợc

mức độ hài lòng cùa bị hại. Chủ trƣơng chung của Cục CTVBVNTD thì việc thực

thi Luật Cạnh tranh không phải chỉ là điều tra hay xử phạt vi phạm mà công việc

chính của cơ quan quản lý cạnh tranh là làm thế nào để các DNkhông vi phạm hoặc

nếu có và chƣa đến mức quá nặng thì có thể hòa giải với nhau. Tuy nhiên, nhiều

chuyên gia lại không đồng tình với ý kiến này. Họ cho rằng chính việc giải quyết

không triệt để kiểu nửa vời này, nghĩa là cứ hòa giải nên nhiều doanh nghiệp không

thiết tha đến khiếu kiện hay nhờ các cơ quan chức năng giải quyết.

Trong thời gian tới dự kiến số lƣợng các vụ CTKLM do Cục CTVBVNTD

tiếp nhận và xử lý tăng lên đáng kể. Do thực tiễn hoạt động thị trƣờng với tình hình

kinh tế suy thoái, các doanh nghiệp sẽ tìm đến các biện pháp cạnh tranh mạnh mẽ

hơn và có thể dẫn đến hành vi CTKLM. Bên cạnh đó thông qua hoạt động tích cực

tuyên truyền và triển khai điều tra xử lý các hành vi CTKLMcủa cục trong thời gian

vừa qua, cộng đồng DNvà ngƣời tiêu dùng đã hiểu biết nhiều hơn về pháp Luật

Cạnh tranh và hoạt động điều tra xử lý của Cục, các hoạt động khiếu nại đến Cục vì

thế tăng lên đáng kể.

*) Thông qua Tòa án:

Trong bối cảnh nền kinh tế nƣớc ta chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng, các

tranh chấp kinh tế không đơn thuần là tranh chấp giữa hai chủ thể giao kết hợp đồng

kinh tế mà còn là những dạng tranh chấp khác nhau phát sinh trong quá trình sản

xuất kinh doanh của DN. Tòa án là một thiết chế nhà nƣớc, hoạt động của Tòa án là

một hoạt động rất đặc biệt, mang tính kỹ thuật cao và cũng tham gia vào việc xử lý,

giải quyết hành vi CTKLM. Nhận thấy vai trò của Tòa án trong việc xử lý các hành

vi CTKLM còn bị hạn chế. Sự hạn chế đó xuất phát từ nguyên nhân sau:

- Các vụ việc đƣợc giải quyết bằng Tòa án ở Việt Nam thƣờng kéo dài và trải

qua nhiều giai đoạn tố tụng, trải qua giai đoạn xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm

(đối với các vụ có kháng cáo). Trung bình thời gian giải quyết ở mỗi giai đoạn

khoảng 04 tháng. Có những vụ lại phải trải qua nhiều lần xét xử nhƣ sơ thẩm, phúc

50

thẩm, giám đốc thẩm nên thời gian giải quyết có thể kéo dài hàng năm. Do đó ngƣời

khởi kiện có tâm lý e ngại khi giải quyết bằng Tòa án.

- Các vụ về CTKLM thƣờng mang tính chuyên môn cao, do đó đòi hỏi thẩm

phán phải là ngƣời có trình độ chuyên môn và hiểu biết sâu rộng về lĩnh vực này, số

thẩm phán đáp ứng yêu cầu này còn hạn chế ở Việt Nam.

- Vấn đề bồi thƣờng thiệt hại trong các vụ việc về CTKLM thƣờng đƣợc đặt

làm yếu tố trọng tâm. Song Bộ Luật dân sự lại không quy định phƣơng thức bồi

thƣờng cho bị hại mà chỉ quy định vào căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng

thiệt hại. Vấn đề xác định mức độ thiệt hại là vấn đề phức tạp, khó đạt đƣợc độ

chính xác. Do vậy trong nhiều trƣờng hợp không đạt đƣợc mức độ thỏa đáng cho cả

phía ngƣời có hành vi vi phạm và ngƣời bị hại.

- Hiện nay cũng chƣa có một phƣơng thức giải quyết tranh chấp nào đƣợc quy

định cụ thể khi có tranh chấp xảy ra giữa ngƣời tiêu dùng và DN. Do vậy ngƣời tiêu

dùng khó có thể kiện thẳng lên Tòa án khi quyền lợi của họ bị xâm phạm.

*) Các vụ việc do các cơ quan khác xử lý:

Trong năm 2008, theo thống kê của Cục CTVBVNTD từ thông tin các cơ

quan hữu quan cung cấp, thực tiễn xử lý các vụ việc liên quan nhƣ sau:

- Trong năm 2008, theo thông tin từ Cục sở hữu trí tuệ, cơ quan này đã đánh

giá và cho ý kiến chuyên môn về hành vi CTKLM liên quan đến quyền sở hữu trí

tuệ căn cứ theo đề nghị của các cơ quan, tổ chức liên quan. Cần lƣu ý, Cục sở hữu

trí tuệ là cơ quan quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, tuy nhiên cơ quan

này không có chức năng xử lý vi phạm. Do đó, căn cứ thực hiện khiếu nại theo thủ

tục hành chính hoặc khởi kiện ra Tòa án để bảo vệ quyền lợi của mình.

- Thanh tra Khoa học công nghệ: theo thông tin từ thanh tra Bộ khoa học công

nghệ, hoạt động của cơ quan này trong thời gian vừa qua tập trung vào các hành vi

xâm phạm quyền, số lƣợng vụ việc CTKLM không nhiều. Một trong những nguyên

nhân dẫn đến số lƣợng vụ việc CTKLM không nhiều là do thủ tục khiếu nại theo

pháp luật về sở hữu trí tuệ có nhiều điểm phức tạp khiến việc thực hiện gặp khó

khăn. Cụ thể trong năm 2008, thanh tra Bộ khoa học công nghệ mới chỉ tiếp nhận 1

51

vụ việc khiếu nại về CTKLM, tuy nhiên sau đó không xử lý do bên khiếu nại rút

đơn.

Thanh tra các sở khoa học công nghệ tại địa phƣơng cũng có tiếp nhận và xem

xét một số vụ việc khiếu nại về CTKLM, tuy nhiên do quy định về thủ tục giải

quyết còn chƣa rõ ràng nên chƣa xử lý vụ việc nào trong thực tiễn.

- Lực lƣợng quản lý thị trƣờng: đây là lực lƣợng chịu trách nhiệm chính trong

việc kiểm tra và xử lý gian lận thƣơng mại và các vi phạm khác trong hoạt động

thƣơng mại trên thị trƣờng. Trong năm 2008, số lƣợng vụ việc do lực lƣợng quản lý

thị trƣờng rất lớn, tuy nhiên tập trung chủ yếu vào các vi phạm về hàng giả, hàng

lậu, không có thông tin về vụ việc liên quan đến hành vi CTKLM.

Nhận xét: Trong điều kiện kinh tế thị trƣờng nƣớc ta hiện nay ngoài việc giải

quyết tranh chấp CTKLM thông qua Cục CTVBVNTD hay Tòa án còn thông qua

trọng tại hay thƣơng lƣợng, hòa giải. Với phƣơng thức thƣơng lƣợng, hòa giải có ƣu

điểm là đơn giản, gọn nhẹ, ít tốn kém. Song nhƣợc điểm của phƣơng thức này là

tính cƣỡng chế không cao và phụ thuộc nhiều vào sự thiện chí của hai bên. Với

phƣơng thức trọng tài có tính linh động, chủ động, nhanh chóng, tiết kiệm thời gian,

đảm bảo bí mật song phƣơng thức này chi phí tƣơng đối cao và không phải lúc nào

cũng trôi chảy thuận lợi nhƣ thi hành bản án của Tòa án.

Do vậy, mặc dù số lƣợng các vụ CTKLM tƣơng đối nhiều nhƣng các DN Việt

Nam vẫn có thói quen khởi kiện đến Tòa án và những năm gần đây một số vụ việc

thông qua Cục CTVBVNTD. Song các cơ quan này chƣa phát huy đƣợc hết năng

lực để tƣơng xứng với nhu cầu thực tế.

Từ khi Luật Cạnh tranh năm 2018 đƣợc ban hành đã bổ sung thêm một số quy

định mới, bãi bỏ một số quy định cũ không cần thiết, thay thế một số quy định đã

lỗi thời, đƣa ra những quy định hoàn toàn mới nhằm phát huy thế mạnh của Cục

CTVBVNTD. Tuy nhiên vẫn chƣa phát huy đƣợc hết tác dụng nhƣ mong đợi. Số

lƣợng các vụ việc Cục tiếp nhận còn quá ít, chủ yếu các vụ liên quan đến bán hàng

đa cấp và quảng cáo nhằm CTKLM. Trong số các vụ đƣợc Cục tiếp nhận thì chỉ

một số vụ có kết luận cuối cùng, một số ít vụ chỉ dừng lại ở việc điều tra sơ bộ hay

trả lại hồ sơ cho ngƣời khởi kiện.

52

Các DN khi bị xâm phạm thì cũng không hào hứng với việc khiếu kiện lên

Cục CTVBVNTD do thời gian khiếu kiện dài, kết quả xử lý chỉ là xử phạt hành

chính nên mức độ răn đe còn chƣa tốt. Hơn nữa thẩm quyền xử lý tranh chấp của

Cục CTVBVNTD còn chƣa cao do tính độc lập chƣa coi trọng, trong quá trình xử

lý phụ thuộc nhiều vào bộ, ngành khác.

Trong thời gian gần đây, cộng đồng DN cũng nhƣ bộ ngành khác đã hiểu hơn

về Luật Cạnh tranh năm 2018 cũng nhƣ vai trò của Cục CTVBVNTD, do vậy số

lƣợng vụ việc tiếp nhận của Cục tăng lên đáng kể.

Việc xử lý CTKLM tại Tòa án có ƣu điểm là công khai, minh bạch, có tính

cƣỡng chế cao song nó có nhƣợc điểm là thời gian giải quyết kéo dài, trải qua nhiều

giai đoạn tố tụng gây tâm lý nặng nề cho ngƣời khởi kiện cũng nhƣ ngƣời bị kiện.

Thêm vào đó, hình thức giải quyết này không đảm bảo tính bảo mật cho những

doanh nghiệp có những thông tin quan trọng.

Ngƣời bị hại dù có quyết định đệ đơn kiện bằng con đƣờng nào thì cũng phải

cân nhắc đến các yếu tố trên để giảm thiểu thiệt hại cũng nhƣ công sức của cho DN

mình. Pháp luật cũng cần có cơ chế thông thoáng hơn để tạo điều kiện tốt nhất cho

bị hại và cộng động ngƣời tiêu dùng có thể dễ dàng đệ đơn kiện lên các cơ quan

thực thi pháp luật đầu tranh đòi quyền lợi chính đáng cho mình cũng nhƣ loại bỏ

những hành vi CTKLM cho nền kinh tế.

2.3.2. Một số vụ việc cụ thể về xử lý các hành vi CTKLM

Vụ việc 1: Trường hợp của Công ty Cổ phần thương mại dịch vụ An Sương

quảng cáo nhằm CTKLM

Các bên liên quan Công ty Cổ phần Ô tô Đô Thành khiếu nại Công ty Cổ phần

Thƣơng mại Dịch vụ An Sƣơng 2.

Nội dung vụ việc Căn cứ khiếu nại của Công ty Cổ phần Ô tô Đô Thành về

việc Công ty Cổ phần Thƣơng mại Dịch vụ An Sƣơng đã có hành vi đăng video clip

mang tên So sánh xe tải Tera 230 và IZ49 trên kênh Youtube “Ô tô An Sƣơng –

Chìa khóa trao tay” từ cuối năm 2017 với nội dung so sánh giữa sản phẩm ô tô tải

53

Tera 230 của Công ty An Sƣơng với sản phẩm xe tải IZ49 của Công ty Cổ phần Ô

tô Đô Thành.

Kết quả xử lý: Qua quá trình điều tra,Cục CTVBVNTD kết luận Công ty Cổ

phần Thƣơng mại dịch vụ An Sƣơng đã “thực hiện hành vi quảng cáo nhằm

CTKLM dƣới hình thức so sánh trực tiếp hành hóa của mình và hàng hóa của DN

khác” vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật Cạnh tranh và đã xử phạt Công ty

Cổ phần Thƣơng mại dịch vụ An Sƣơng số tiền phạt 60 triệu đồng.

Vụ việc 2: Quảng cáo gây nhầm lẫn về xuất sứ, hàng hóa, nơi sản xuất của

công ty trách nhiệm hữu hạn xuất khẩu MUMUSO Việt Nam.

Bên liên quan Công ty trách nhiệm hữu hạn Xuất nhập khẩu Mumuso Việt

Nam

Nội dung vụ việc Trên cơ sở kết luận kiểm tra đột xuất của Đoàn kiểm tra Bộ

Công Thƣơng đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn Xuất nhập khẩu Mumuso Việt

Nam, Cục Cạnh tranh và Bảo vệ môi trƣờng đã khởi xƣớng điều tra Công ty đối với

hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn cho ngƣời tiêu dùng về nơi sản xuất, xuất xứ hàng

hóa, vi phạm quy định tại khoản 3 Điều 45 Luật Cạnh tranh của Công ty trách

nhiệm hữu hạn Xuất nhập khẩu Mumuso Việt Nam theo thủ tục tố tụng cạnh tranh.

Cụ thể: Mặc dù nguồn gốc sản phẩm của Công ty chủ yếu từ Trung Quốc

(chiếm trên 99,29%) nhƣng Công ty đã quảng cáo công khai tại cửa ra vào các địa

điểm kinh doanh: “Mumuso; Giá chỉ từ 22.000; KOREA”. Ngoài ra, trong các túi

đựng sản phẩm dành cho ngƣời tiêu dùng khi mua sản phẩm tại các điểm kinh

doanh của Công ty cũng có nội dung quảng cáo chữ KOREA (Hàn Quốc) nhƣ trên.

Kết quả xử lý Cục CTVBVNTD kết luận Công ty đã có hành vi cung cấp

thông tin gây nhầm lẫn cho khách hàng về xuất xứ hàng hóa, nơi sản xuất của sản

phẩm (gây nhầm lẫn giữa Hàn Quốc và Trung Quốc) vi phạm pháp Luật Cạnh tranh

và xử phạt Công ty trách nhiệm hữu hạn Xuất nhập khẩu Mumuso Việt Nam số tiền

phạt 110 triệu đồng.

54

2.4. Một số vấn đề đặt ra trong việc xử lý, giải quyết hành vi CTKLM

Xét thực tiễn hoạt động thị trƣờng với nhiều hiện tƣợng CTKLM trong các

lĩnh vực khác nhau, có thể thấy số lƣợng vụ việc do Cục CTVBVNTD xử lý còn

chƣa nhiều. Mặt khác, số lƣợng vụ việc liên quan đến CTKLM do các cơ quan khác

xử lý theo thẩm quyền cũng hạn chế. Trong số các vụ việc đƣợc xử lý số lƣợng vụ

việc liên quan đến các hành vi CTKLM nhƣ chỉ dẫn gây nhầm lẫn, quảng cáo, gièm

pha DN khác, gây rối hoạt động của DN khác, ép buộc trong kinh doanh… còn

chƣa nhiều.

2.4.1. Về quy định của pháp luật

Về quy định của pháp luật, trong Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2018 chƣa

có các văn bản hƣớng dẫn chi tiết về hành vi CTKLM, nhiều quy định dừng lại ở

mức định tính do chƣa thể định lƣợng gây khó khăn cho việc áp dụng trên thực tế.

Nội dung quy định chƣa cụ thể có thể gây khó khăn cho cơ quan quản lý, mà còn

cho cả các tổ chức, cá nhân liên quan để trong việc nhận thức, tìm hiểu và vận dụng

pháp Luật Cạnh tranh để bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ. Riêng đối với hoạt

động bán hàng đa cấp, do đã có Nghị định số 110/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày

24/8/2005 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp quy định chi tiết về thẩm quyền

quản lý nhà nƣớc của Cục CTVBVNTD, cũng nhƣ các Sở Công thƣơng địa

phƣơng, trong đó có thẩm quyền kiểm tra, giám sát trong lĩnh vực này nói chung,

việc điều tra và xử lý vi phạm có rất nhiều thuận lợi, dẫn đến số lƣợng vụ việc Cục

xử lý trong lĩnh vực này nhiều hơn đáng kể (9 trên tổng số 15 vụ việc).

Việc chồng lấn giữa pháp luật về CTKLM và các lĩnh vực pháp luật khác là

một điểm cơ bản rất khó thay đổi và đƣợc chấp nhận trong hệ thống pháp luật của

nhiều quốc gia và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Vấn đề này hiện này cũng

đã đƣợc giải quyết cơ bản trong Luật Cạnh tranh năm 2018. Tuy nhiên, pháp Luật

Việt Nam đã thiếu những quy định giải quyết xung đột pháp lý cũng nhƣ phân định

thẩm quyền của các cơ quan thực thi. Tình trạng chồng lấn thẩm quyền, thiếu khả

năng hợp tác hiệu quả của các cơ quan thực thi trong khi Luật nội dung còn chƣa cụ

thể đã gây khó khăn rất nhiều cho hoạt động triển khai thực thi pháp luật, không chỉ

đối với Cục CTVBVNTD mà còn đối với cả các cơ quan khác, thể hiện qua số

55

lƣợng vụ việc liên quan đƣợc các cơ quan khác xử lý nhƣ thanh tra, hay quản lý thị

trƣờng là không nhiều. Lấy ví dụ nhƣ các quy định chống thông tin, quảng cáo so

sánh, nói xấu DN khác, hoặc quảng cáo gian dối, gây nhầm lẫn tại pháp lệnh quảng

cáo và nhiều văn vản khác đƣợc ban hành trƣớc Luật Cạnh tranh một thời gian dài,

tuy nhiên theo thông tin từ cơ quan thanh tra văn hóa, số lƣợng vụ việc đƣợc cơ

quan này xử lý đến nay vẫn không đáng kể.

2.4.2. Vấn đề giải quyết tranh chấp về CTKLM

Xuất phát từ thực tế các vụ việc về CTKLM xảy ra trong thời gian qua, có

nhiều vụ việc đòi hỏi nhà cơ quan chức năng phải nghiên cứu và áp dụng cơ chế

giải quyết tranh chấp đối với một số vụ việc về CTKLM. Với cơ chế xử lý các hành

vi CTKLM nhƣ hiện nay, số vụ việc đƣợc cơ quan quản lý cạnh tranh xử lý rõ ràng

không phản ánh đúng thực trạng về các hành vi CTKLM đang diễn ra. Điều đó cũng

phản ánh đúng việc thiếu nguồn nhân lực để xử lý triệt để các vụ việc về CTKLM.

Hành vi CTKLM mới đƣợc tiếp cận chủ yếu theo hƣớng xử lý mà ít trƣờng hợp đi

vào giải quyết tranh chấp do khiếu kiện của một trong các bên.

Theo điều tra về nhu cầu và nguyện vọng giải quyết cạnh tranh xoay quanh

phản ứng của bên vi phạm quyền lợi trƣớc các hành vi CTKLM nhƣ sau. Đối với

các hành vi kinh doanh làm ảnh hƣởng tới quyền lợi của ngƣời tiêu dùng thì hầu hết

ngƣời tiêu dùng cho biết họ sẽ khiếu nại ngƣời bán nếu hàng hóa có chất lƣợng

không đúng nhƣ quảng cáo. Nếu ngƣời bán không giải quyết thỏa đáng thì hầu nhƣ

không đi kiện vì do sợ mất thời gian và chi phí, một số ít sợ không thằng kiện hay

không biết kiện ở đâu. Đối với hành vi cạnh tranh của đối thủ cạnh tranh, thì hầu hết

các DN bị hại sẽ đi kiện khi bị đối thủ cạnh tranh tung tin thất thiệt. Tuy nhiên, họ

chỉ đi kiện khi có bằng chứng rõ ràng về việc đối thủ cạnh tranh có hành vi

CTKLM. Khi chọn giải pháp đi kiện thì không nhiều các DN chọn giải pháp khiếu

nại ra Cục CTVBVNTD vì họ cho rằng cơ quan này không phải là cơ quan tƣ pháp

nên phán quyết có hiệu lực không cao và quan trọng là quyền và lợi ích bị vi phạm

không đƣợc giải quyết thỏa đáng.

Việc xử lý trƣớc tiên bằng các hình thức xử phạt hành chính đối với các hành

vi CTKLM sẽ không khuyến khích việc gửi đơn tới cơ quan quản lý cạnh tranh để

56

bảo vệ quyền lợi cho mình. Họ sẽ mất thời gian và chi phí theo kiện mà không đƣợc

bù đắp về thiệt hại. Đây cũng là nguyên nhân tại sao các vụ việc CTKLM vẫn chƣa

đƣợc đƣa tới cơ quan quản lý cạnh tranh để giải quyết (cho tới 01/09/2006, lần đầu

tiên hành vi CTKLM bị xử lý hành chính trên lãnh thổ Việt Nam bởi thanh tra Bộ

Khoa học và Công nghệ với công ty cổ phần dƣợc phẩm Hà Tây với tổng số tiền

phạt là 10,5 triệu).

Ngoài ra, để khiếu nại hành vi CTKLM phải trải qua nhiều khâu: khiếu nại,

điều tra không chính thức, điều tra chính thức (tiêu tốn khoảng 5, 6 tháng) sau đó vụ

việc mới đƣợc đƣa ra xử lý. Với cách xử lý chậm chạp nhƣ vậy sẽ không giải quyết

đƣợc những vụ vi phạm mang tính thức thời. Thêm vào đó, quy định buộc DN

khiếu nại phải nộp phí 10 triệu đồng khi đề nghị điều tra hành vi CTKLM cũng là

chƣa hợp lí. Thực tế, các DN “nạn nhân” mặc dù thiệt thòi rất lớn về uy tín và tài

sản nhƣng họ không muốn ra tòa.

Hơn nữa, không phải lúc nào một hành vi CTKLM diễn ra cũng bị cơ quan

quản lý cạnh tranh phát hiện để xử lý, mà ngƣời phát hiện đầu tiên hành vi đó phải

là chủ thể bị xâm phạm bởi hành vi đó. Nhƣng nếu chủ thể bị xâm hại đó không

khiếu nại tới cơ quan quản lý cạnh tranh và cơ quan quản lý cạnh tranh không phát

hiện ra thì hành vi đó đƣơng nhiên không bị xử lý. Thực trạng này rất dễ xảy ra

trong tình trạng hiểu biết pháp luật của ngƣời dân ở nƣớc ta còn thấp. Lấy ví dụ nhƣ

vụ cạnh tranh “hy hữu” bằng mắm tôm giữa hai cửa hàng chuyên kinh doanh tơ lụa

Hadong Silk và Tân Thành Silk. Cửa hàng Tân Thành Silk ở cùng số nhà, nhƣng do

bị khuất bên trong nên bị cửa hàng Hadong Silk giành hết khách. Chủ hiệu Tân

Thành Silk đã dùng hai chậu mắm tôm và lòng lợn thối trong nhà, dùng quạt công

nghiệp và quạt hơi ra ngoài khiến khách hàng không thể chịu nổi mùi hôi thối đã bỏ

đi. Hậu quả là cửa hàng Hadong Silk bị ảnh hƣởng mất khách hàng, thiệt hại trong 2

tháng liền lên tới năm, sáu chục triệu đồng. Khi đƣợc hỏi về cách xử lý vụ việc thì

ông phó chủ tịch Ủy ban nhân dân phƣờng Hàng Gai (Hoàn Kiếm – Hà Nội) trả lời

“… Phƣờng không biết dựa vào văn bản nào để xử lý cả…”. Các cơ quan chức năng

cũng lâm vào tình trạng tƣơng tự. Đây là những thách thức rất lớn đặt ra trong quá

trình xử lý, giải quyết tranh chấp phát sinh do hành vi CTKLM.

57

2.4.3. Vấn đề “Tố tụng kép” trong việc bồi thường thiệt hại

Luật Cạnh tranh không phân chia riêng biệt thẩm quyền xử lý các vụ vi phạm

pháp Luật CTKLM cho Tòa án dân sự mà giao cho Cục CTVBVNTD trực tiếp xử

lý. Vấn đề này cũng chƣa đƣợc thay đổi theo Luật Cạnh tranh năm 2018. Theo quy

định tại Điều 118, khoản 2 Luật Cạnh tranh: “Đối với hành vi vi phạm quy định về

CTKLM và các hành vi khác vi phạm quy định của Luật này không thuộc trường

hợp tại khoản 1 Điều này, cơ quan có thẩm quyền xử phạt tiến hành phạt tiền theo

quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc theo quy định của pháp

luật có liên quan”. Nhƣ vậy về cơ bản hành vi CTKLM sẽ đƣợc xử lý theo pháp

luật hành chính. Trƣớc đó, Điều 117 có quy định: “Tổ chức, cá nhân có hành vi vi

phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại tới lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi

ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định

của pháp luật”. Ngƣời ta có thể hiểu đƣợc rằng, bên bị thiệt hại muốn đƣợc bồi

thƣờng thiệt hại phải kiện ra Tòa dân sự (Toà án Nhân dân) để bù đắp thiệt hại bởi

hành vi CTKLM. Nhƣ vậy sẽ cần 2 giai đoạn tố tụng riêng biệt để bảo vệ quyền và

lợi ích của mình thông qua chế tài bồi thƣờng thiệt hại đƣợc áp dụng theo thủ tục tố

tụng dân sự tại tòa án.

Hơn nữa, khi xem xét vụ việc CTKLM, các Tòa án Việt Nam có xu hƣớng

xem xét cả nội dung lẫn hình thức vụ việc. Trong trƣờng hợp này ngƣời khiếu nại

về CTKLM sẽ phải thực hiện liên tiếp hai thủ tục tố tụng tại cơ quan quản lý cạnh

tranh (để đình chỉ vi phạm) và Tòa án (để yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại). Có thể thấy

cách làm nhƣ vậy tƣơng đối phức tạp, mất thời gian, mặt khác còn đặt ra vấn đề

thẩm quyền của Tòa án xử lý.

2.4.4. Vấn đề văn hóa, thói quen kinh doanh

Văn hóa và thói quen kinh doanh của DN là một trong những yếu tố quan

trọng có ảnh hƣởng lớn hành vi kinh doanh và có thể dẫn tới hành vi cạnh tranh

lành mạnh (hoặc không lành mạnh). Văn hóa và thói quen kinh doanh không chỉ là

yếu tố giúp DN tạo dựng uy tín mà còn cơ sở nền tảng để DN cạnh tranh lành mạnh,

tôn trọng lợi ích của DN cùng cạnh tranh, của ngƣời tiêu dùng. Văn hoá và thói

quen kinh doanh cũng thể hiện trình độ phát triển của DN, của quản trị doanh

58

nghiệp và trách nhiệm xã hội của DN. Thông thƣờng, nếu văn hóa và thói quen kinh

doanh của DN thấp, các hành vi CTKLM, cạnh tranh không công bằng trên thị trƣờng các nhiều và ngƣợc lại1. Trong điều kiện kinh doanh tại Việt Nam hiện nay –

do thời gian chuyển đổi cơ kinh tế (thị trƣờng) chƣa nhiều, những thói quen kinh

doanh tốt chƣa đƣợc nhấn mạnh, nguy xuất hiện hành vi CTKLM là rất cao do DN

luôn đặt mục tiêu lợi nhuận quá cao.

Tóm lại, trên thị trƣờng Việt Nam hiện nay các hành vi CTKLM ngày càng

nảy sinh phức tạp và tinh vi hơn gây khó khăn cho DN, ảnh hƣởng tới lợi ích của

ngƣời tiêu dùng và làm phƣơng hại tới cả nền kinh tế. Với thực trạng nhƣ vậy thì

vấn đề phát huy vai trò của các cơ quan chức năng, của pháp luật trong việc ngăn

chặn, xử lý DN có hành vi vi phạm pháp luật là hết sức cần thiết.

Kết luận chƣơng 2

Qua việc tìm hiểu những nội dung cơ bản của pháp luật quy định về hành vi

CTKLM cũng nhƣ thực trạng xử lý hành vi CTKLM ở Việt Nam những năm gần

đây, có thể thấy những quy định về hành vi CTKLM ở nƣớc ta đã bắt đầu phát huy

tác dụng nhất định, từng bƣớc tiếp cận với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, quy định về

hành vi CTKLM theo Luật Cạnh tranh năm 2018 cũng còn nhiều hạn chế về quy

định vẫn còn mang nặng tính xử phạt hành chính, chƣa chú trọng tới các quy định

xử phạt khác, bất cập do quá trình lập pháp chƣa theo kịp với diễn biến của thị

trƣờng, dẫn đến tình trạng các hành vi không ngừng nảy sinh với nhiều phƣơng

thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi và khó phát hiện hơn, hay mức xử phạt hành vi đã

dần trở nên lỗi thời, không có tính nghiêm minh và răn đe của pháp luật. Việc bổ

sung, thay đổi các nội dung, quy định của Luật Cạnh tranh đã trở thành một yêu cầu

cấp bách để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển. Với những hạn chế nhất định đã

đƣợc chỉ ra ở Chƣơng 2, thì sang chƣơng 3 của Luận văn tác giả hƣớng tới nêu lên

một số đề xuất, hƣớng xử lý, để khắc phục những bất cập của pháp luật hiện hành.

1 Đề tài NĐT cấp nhà nƣớc: Hoàn thiện chế độ cạnh tranh thông qua việc tăng cường thực thi Luật Cạnh tranh, tăng cường năng lực thể chế và các bên có liên quan – bài học kinh nghiệm của CHLB Đức, (tr. 96); Cơ quan chủ trì: Trƣờng Đại học Ngoại thƣơng, 2014.

59

CHƢƠNG III.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ CTKLM Ở VIỆT NAM

3.1. Xu hƣớng CTKLM trên thị trƣờng và nhu cầu xử lý tại Việt Nam

Hiện nay, với xu thế chung của nền kinh tế thị trƣờng, trong thời gian tới chắc

chắn số lƣợng các vụ việc CTKLM do cơ quan cạnh tranh tiếp nhận và xem xét xử

lý dự kiến sẽ tăng lên đáng kể do áp lực cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ. Do thực

tiễn hoạt động thị trƣờng với tình hình kinh tế có dấu hiệu suy thoái, các doanh

nghiệp sẽ tìm kiếm các biện pháp cạnh tranh mạnh mẽ hơn, có thể dẫn đến các hành

vi cạnh tranh không lành mạnh. Mặt khác, với việc mở cửa nhiều ngành, lĩnh vực

kinh doanh để đáp ứng các cam kết của nƣớc ta trong việc hội nhập WTO cũng nhƣ

các hiệp định thƣơng mại tự do thế hệ mới FTAs, các DN, tập đoàn nƣớc ngoài sẽ

tham gia sâu rộng hơn vào đời sống kinh tế trong nƣớc, từ đó có thể xuất hiện các

dạng thức cạnh tranh mới, đòi hỏi cơ quan quản lý có sự nghiên cứu, đánh giá cả hai

mặt tích cực, tiêu cực và đề xuất các biện pháp điều chỉnh nếu cần thiết.

Tỷ lệ các vụ việc do Cục CTVBVNTD chủ động tiến hành điều tra sẽ giảm đi,

đồng thời các vụ việc điều tra theo khiếu nại của các bên liên quan sẽ gia tăng. Xu

hƣớng này phù hợp với bản chất của yêu cầu điều chỉnh các hành vi CTKLM cũng

nhƣ kinh nghiệm quốc tế. Do cơ chế thị trƣờng cho phép các DN tự do hoạt động

kinh doanh và cạnh tranh, họ có thể lựa chọn và sáng tạo nhiều các biện pháp cạnh

tranh đa dạng và phong phú xuất phát từ mục tiêu lợi nhuận. Quy định của pháp luật

cũng nhƣ cơ quan quản lý nhà nƣớc không thể can thiệp quá rộng hoặc quá sâu vào

các hoạt động kinh doanh của DN, nếu không sẽ kìm hãm động lực phát triển của

các DN trên thị trƣờng. Các hành vi cạnh tranh chỉ bị điều chỉnh, ngăn chặn khi trở

nên thái quá, gây ảnh hƣởng tiêu cực tới lợi ích của các tổ chức, cá nhân khác và

của cả xã hội. Do đó, các vụ việc CTKLM về dài hạn sẽ chủ yếu dựa trên cơ sở

khiếu nại của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại hoặc đe dọa bị thiệt hại. Nếu các bên liên

quan thể hiện ý chí chấp nhận hành vi cạnh tranh, coi là hoạt động thực tiễn thông

thƣờng trên thị trƣờng, cơ quan quản lý sẽ không xem xét can thiệp, ngăn chặn hành

vi đó.

60

Qua phân tích CTKLM ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, thấy các thủ

đoạn CTKLM ngày càng tinh vi nên rất khó kiểm soát. Tuy mức độ gay gắt, quyết

liệt chƣa thể bằng các nƣớc phát triển nhƣng cũng gây nhiều tiêu cực cho nền kinh

tế, ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của DN, ngƣời tiêu dùng và lợi ích xã

hội nói chung.

Các chủ thể kinh doanh vừa và nhỏ và cạnh tranh lành mạnh chịu sức ép nặng

nề từ các đối thủ tiềm năng về sức mạnh kinh tế cũng nhƣ thủ đoạn CTKLM. Do

vậy hơn lúc nào hết, các chủ thể kinh doanh này thực sự cần một môi trƣờng kinh

doanh bình đẳng, lành mạnh để tồn tại và phát triển.

Hơn nữa với những quy định của pháp luật hiện hành dù cho có đƣợc thực

hiện nghiêm chỉnh nhƣng cũng chƣa đủ điều kiện về tiền đề pháp lý để chống lại

hành vi CTKLM đã, đang và sẽ diễn ra. Bởi vì các quy định nằm rải rác ở nhiều văn

bản thuộc các lĩnh vực khác nhau, vừa không nêu rõ những dấu hiệu đặc trƣng của

hành vi vi phạm vì thế việc thực thi có nhiều hạn chế.

Bên cạnh những thiếu sót của pháp luật, cơ chế đảm bảo trật tự quản lý cạnh

tranh lành mạnh cũng chƣa đƣợc xác lập phù hợp, vững chắc. Kinh nghiệm của các

nƣớc cho thấy ngay cả khi xây dựng đƣợc một hệ thống cơ quan chuyên trách việc

đấu tranh chống các hành vi CTKLM thì kết quả vẫn còn nhiều hạn chế. Trong khi

đó, ở nƣớc ta hiện nay Cục CTVBVNTD của Bộ công thƣơng chuyên trách trong

lĩnh vực này hoạt động chƣa thật sự hiệu quả.

Cùng những đòi hỏi của việc thực thi thị trƣờng, chúng ta đã là thành viên của

khối ASEAN, APEC, WTO, khu vực mâu dịch tự do ASEAN (AFTA) cũng nhƣ ký

kết nhiều hiệp định thƣơng mại tự do thế hệ mới - FTAs... điều đó có nghĩa Việt

Nam có cơ hội thúc đẩy giao lƣu kinh tế, thu hút đầu tƣ, chuyển giao công nghệ...

vừa phải cam kết thực hiện mọi tuyên bố, mọi hiệp định về kinh tế của tổ chức đó

nhƣ cắt giảm thuế quan, loại bỏ hạn chế sản lƣợng hàng nhập khẩu, mở cửa thị

trƣờng... Cho nên nền kinh tế thị trƣờng của nƣớc ta ngày càng phát triển và cơ hội

cho các hành vi CTKLM ngày càng gia tăng.

Chính vì vậy nhu cầu về xử lý và giải quyết tranh chấp CTKLM ở nƣớc ta một

cách thỏa đáng là tất yếu khách quan. Đòi hỏi chúng ta phải thiết lập và duy trì trật

61

tự cạnh tranh, chống lại các hành vi CTKLM thông qua việc xử và giải quyết nhóm

hành vi này một cách hữu hiệu.

3.2. Một số giải pháp cụ thể

3.2.1. Về hoàn thiện một số quy định của pháp luật

3.2.1.1. Đối với hành vi CTKLM

a) Khái niệm CTKLM

Với mô hình một luật điều chỉnh cả hành vi hạn chế cạnh tranh và chống cạnh

tranh không lành mạnh đã khép lại những tranh luận của giới khoa học pháp lý xung

quanh việc ban hành một hay nhiều điều luật về cạnh tranh ở Việt Nam khi so sánh

với hệ thống pháp Luật Cạnh tranh của nhiều nƣớc trên thế giới, mà ở đó pháp Luật

Cạnh tranh đƣợc ban hành ở nhiều đạo luật (Ở Hoa Kì có ít nhất 6 đạo luật, Trung

Quốc có Luật CTKLM và Luật kiểm soát độc quyền…)

Nhƣ chúng ta đã phân tích tại phần Chƣơng I về khái niệm CTKLM tại khoản

4 Điều 3 Luật Cạnh tranh thì việc cần thiết hiện nay là làm rõ nội dung “các chuẩn

mực thông thƣờng về đạo đức kinh doanh”. Tƣơng tự nhƣ vậy, Luật Cạnh tranh

năm 2018 quy định “Hành vi CTKLM là hành vi của DN trái với nguyên tắc thiện

chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây

thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của DN khác”

(khoản 6 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2018). Về cơ bản, Luật Cạnh tranh mới

không tiếp tục quy định một số hành vi CTKLM đã đƣợc quy định trong một số luật

khác và khẳng định nguyên tắc các hành vi CTKLM đã đƣợc quy định tại các luật

khác đƣợc thực hiện theo pháp luật từng ngành đó để đảm bảo tính thống nhất của

hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, do nền kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta chỉ mới hình

thành nên các thông lệ, tập quán thƣơng mại tại Việt Nam chƣa đủ thời gian để hình

thành các chuẩn mực đạo đức kinh doanh đƣợc tổ chức, cá nhân cùng nhận thức

giống nhau và tự nguyện thực hiện nhƣ những quy tắc xử xự có tính chất bắt buộc,

do đó cần làm rõ nội dung này làm căn cứ thống nhất trong việc xây dựng và áp

dụng toàn bộ các quy định về CTKLM. Có thể xác định các tiêu chí này bằng

những nguyên tắc cơ bản của giao dịch dân sự, thƣơng mại nhƣ:

62

- Nguyên tắc trung thực.

- Nguyên tắc thiện chí.

- Nguyên tắc hợp tác.

- Nguyên tắc khác (phù hợp với nhu cầu và thực tiễn…)

Trong các loại hành vi đƣợc coi là hành vi CTKLM theo quy định của Luật

Cạnh tranh, có một số hành vi mà pháp luật của các quốc gia khác quan niệm là

hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhƣng chƣa đƣợc Luật Cạnh tranh của Việt

Nam cụ thể hóa là hành vi CTKLM. Chẳng hạn nhƣ hành vi chấm dứt đột ngột

quan hệ kinh doanh với đối tác mà không đƣợc báo trƣớc một thời gian hợp lí theo

quy định của pháp luật Cộng hòa Pháp là hành vi CTKLM nhƣng Luật Cạnh tranh

Việt Nam không coi hành vi này là hành vi CTKLM. Các hành vi bán hàng hóa với

giá quá thấp, từ chối giao dịch kinh doanh không có lí do chính đáng, phân biệt về

giá theo pháp luật một số nƣớc cũng có thể xếp vào loại hành vi CTKLM nhƣng

Luật Cạnh tranh Việt Nam không xếp vào loại hành vi này mà có lẽ những loại

hành vi này chỉ có thể bị xử lý theo các quy định về phòng chống hành vi lạm dụng

vị trí thống lĩnh trong Luật Cạnh tranh. Hơn nữa thì “nhiều hành vi có chung bản

chất nhƣng Luật Cạnh tranh lại tách ra thành các hành vi riêng biệt nhƣ ép buộc

trong kinh doanh, gièm pha doanh nghiệp khác, gây rối hoạt động kinh doanh của

DN khác”.

b) Về hƣớng dẫn thi hành các quy định về chống CTKLM:

Cho đến nay, vẫn chƣa có Nghị định quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành

Luật Cạnh tranh năm 2018. Những vấn đề sau cần phải đƣợc chú trọng khi ban

hành Nghị định này nhƣ:

Thứ nhất, loại hành vi CTKLM nào sẽ đƣợc áp dụng cơ chế xử lý hành chính

nhƣ Luật Cạnh tranh đã quy định. Hiện tại các hành vi CTKLM vẫn có thể bị xử lý

về mặt hành chính bởi nhiều hình thức khác nhau mà không đƣợc giải quyết trực

tiếp từ các quy định của Bộ luật Dân sự 2015.

63

Thứ hai, Nguyên tắc xử lý vi phạm, hình thức xử lý vi phạm và biện pháp

khắc phục hậu quả vi phạm pháp luật về cạnh tranh áp dụng nhƣ sau (Điều 110 Luật

Cạnh tranh):

1. Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh thì tuỳ theo

tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị

truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và

lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định

của pháp luật.

2. Đối với mỗi hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh, tổ chức, cá nhân vi

phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính sau đây:

a) Cảnh cáo;

b) Phạt tiền.

3. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về

cạnh tranh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung sau

đây:

a) Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký DN hoặc văn bản tương đương, tước

quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề;

b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh

tranh;

c) Tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.

4. Ngoài các hình thức xử phạt theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này,

tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về cạnh tranh còn có thể bị áp dụng một hoặc

một số biện pháp khắc phục hậu quả sau đây:

a) Cơ cấu lại DN lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc

quyền;

b) Loại bỏ điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng, thỏa thuận hoặc

giao dịch kinh doanh;

64

c) Chia, tách, bán lại một phần hoặc toàn bộ vốn góp, tài sản của doanh

nghiệp hình thành sau tập trung kinh tế;

d) Chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giá mua, giá

bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của DN

hình thành sau tập trung kinh tế;

đ) Cải chính công khai;

e) Các biện pháp cần thiết khác để khắc phục tác động của hành vi vi phạm.

Vấn đề đặt ra ở đây là cơ quan cạnh tranh có quyền buộc chấm dứt hành vi vi

phạm hay không? Thêm vào đó, ngoài các biện pháp mà cơ quan quản lý cạnh tranh

đƣợc quyền áp dụng kể trên, chủ thể có hành vi vi phạm còn có thể bị áp dụng biện

pháp nào khác nhƣ đã quy định tại Điều 113 hay không? Nếu có thì cơ quan nào có

thẩm quyền áp dụng. Đây là những vấn đề cần có hƣớng dẫn cụ thể.

Thứ ba, về thủ tục điều tra, xử lý hành vi CTKLM. Luật Cạnh tranh đã quy

định tƣơng đối rõ trình tự, thủ tục điều tra, xử lý hành vi CTKLM. Tuy nhiên vẫn

còn nhiều nội dung khá quan trọng liên quan tới chủ quyền và lợi ích của các bên

liên quan trong vụ việc chƣa đƣợc Luật đề cập tới, cụ thể là: Luật Cạnh tranh chƣa

hề quy định nghĩa vụ gửi các giấy tờ, hồ sơ khiếu nại cho bên bị khiếu nại biết để

trả lời. Luật cũng chƣa quy định thời hạn gửi các quyết định liên quan đến việc điều

tra, xử lý hành vi CTKLM khi đã có đề nghị của điều tra viên… Việc thiếu các quy

định kể trên có thể dẫn tới sự tùy tiện trong quá trình áp dụng, làm giảm hiệu quả

phòng chống các hành vi CTKLM, vì thế trong thời gian tới cần có văn bản hƣớng

dẫn cụ thể vấn đề này.

c) Về chủ thể bị áp dụng các quy định về chống CTKLM

Thông thƣờng pháp Luật Cạnh tranh tác động đến tất cả các chủ thể tham gia

thị trƣờng tiến hành các hoạt động kinh doanh khi hành vi của họ có dấu hiệu không

lành mạnh. Nguyên văn thuật ngữ đối tƣợng áp dụng, quy định tại Điều 2 của Luật

Cạnh tranh 2018 bao gồm “Các tổ chức, cá nhân kinh doanh (được gọi chung là

DN) bao gồm cả DN sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, DN hoạt động

trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và

65

DN nước ngoài hoạt động tại Việt Nam”2. Tuy nhiên khái niệm DN ở trên mới chỉ

đƣợc hiểu theo nghĩa hẹp, cho nên, nhiều nhóm chủ thể khác cũng tham gia thị

trƣờng đã bị bỏ sót. Các văn phòng đại diện và chi nhánh của thƣơng nhân nƣớc

ngoài tại Việt nam, nếu hoạt động của chúng (không phải là kinh doanh) ảnh hƣởng

tiêu cực tới cạnh tranh thì cũng phải chịu sự điều chỉnh của Luật. Đó là chƣa kể đến

các loại hình “bán kinh doanh” khác nhƣ nhà in, nhà xuất bản, các tạp chí, báo chƣa

đƣợc coi là doanh nghiệp theo cách hiểu của Luật Cạnh tranh. Do đó nếu những chủ

thể này thực hiện hành vi cạnh tranh có thể coi là CTKLM theo quy định của văn

bản pháp luật đối với chủ thể đó, thuộc ngành nghề đó, bởi vì không thỏa mãn yếu

tố chủ thể theo quy định của Luật Cạnh tranh đối với hành vi CTKLM.

Tuy nhiên, pháp luật chống CTKLM của hầu hết các nƣớc đều theo quy định

tất cả các chủ thể tham gia thị trƣờng nhằm mục đích cạnh tranh đều có thể là đại

chỉ áp dụng của Luật chứ không nhất thiết là DN. Pháp luật chống CTKLM không

chỉ điều chỉnh các hành vi của các chủ thể kinh doanh mà còn phải điều chỉnh cả

những hành vi của những cá nhân, tổ chức, cơ quan không phải chủ thể kinh doanh,

nhƣng hành vi của họ “ trợ giúp” cho cạnh tranh của ngƣời khác gây ảnh hƣởng tiêu

cực tới môi trƣờng cạnh tranh. Qua đó, có thể thấy rằng trƣờng hợp một cá nhân

nếu tiến hành hành vi trợ giúp vì mục đích cạnh tranh của một DN nào đó có dấu

hiệu “không lành mạnh” thì cũng cần đƣợc xem xét để xử lý.

3.2.1.2. Đảm bảo sự hài hòa, tính tương thích giữa các luật liên quan

Để điều tra một vụ việc cạnh tranh nhất là vụ việc cạnh tranh liên quan đến

hành vi lạm dụng luôn phải sử dụng đến kết quả từ quá trình thực thi pháp luật thuế

để tính doanh thu, pháp luật kiểm toán để tính chi phí, thủ tục xử lý hành vi vi

phạm. Do đó sự không phù hợp tƣơng thích với hệ thống luật liên quan đến cạnh

tranh sẽ gây nhiều khó khăn cho quá trình thực thi luật cạnh tranh. Vì vậy Luật

Cạnh tranh cần đặt trong mối quan hệ chặt chẽ và đảm bảo sự tƣơng thích với các

chế định pháp luật khách nhƣ Luật kiểm toán, Luật thƣơng mại, Luật thuế... và có

2 Luật Cạnh tranh năm 2018, Điều 2 (Đối tƣợng áp dụng) quy định “Tổ chức, cá nhân kinh doanh (sau đây gọi chung là doanh nghiệp) bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam”.

66

sự tham gia của cơ quan quản lý cạnh tranh trong quá trình soạn thảo hoặc sửa đổi

những luật liên quan sẽ là một nhân tố quan trọng đảm bảo tính tƣơng thích giữa các

luật từ khía cạnh, chính sách cạnh tranh.

Việc Việt Nam đã trở thành thành viên của công ƣớc Paris về bảo hộ quyền sở

hữu công nghiệp và là thành viên chính thức của WTO thì Việt Nam từng bƣớc thực

thi Hiệp định TRIPS. Theo đó các quốc gia khi gia nhập có nghĩa vụ ban hàng cả

luật nội dung và luật hình thức với các thiết chế khác để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ

một cách có hiệu quả trƣớc hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Với chức năng

thúc đẩy tự do hóa thƣơng mại và diễn đàn cho các cuộc đàm phán thƣơng mại

WTO là tổ chức có sứ mệnh thực hiện chức năng đó. Theo đó các rào cản thƣơng

mại phải đƣợc giảm xuống thấp hơn là một trong những mục tiêu có ý nghĩa nhất

giúp thƣơng mại phát triển. Điều này đòi hỏi các nƣớc thành viên phải thực hiện

“minh bạch hóa”, thúc đẩy “cạnh tranh công bằng”. Bên cạnh đó Việt Nam cần đáp

ứng các nhu cầu hội nhập quốc tế. Pháp luật Việt Nam cần phải có sự phù hợp với

pháp luật quốc tế và khu vực.

Pháp luật về chống CTKLM ở Việt Nam phải tạo ra môi trƣờng pháp lý an

toàn, bình đẳng cho các chủ thể kinh doanh trên thị trƣờng, phù hợp với “luật chơi”

chung của nền thƣơng mại thế giới.

Bên cạnh đó pháp luật chống CTKLM phải là công cụ thúc đẩy khả năng cạnh

tranh lành mạnh trong nƣớc phát triển, bảo vệ môi trƣờng và các chủ thể kinh doanh

trong nƣớc khỏi bị xâm phạm bởi các hành vi CTKLM từ phía các chủ thể kinh

doanh nƣợc ngoài đảm bảo hội nhập và phát triển.

Mặc dù Việt Nam là thành viên của nhiều tổ chức thƣơng mại và kinh tế của

khu vực và thế giới, song việc thƣờng xuyên rà soát, duy trì và tăng cƣờng tính

tƣơng thích và hội nhập với khu vực và thế giới cũng nhƣ các tổ chức thƣơng mại là

hoàn toàn cần thiết.

3.2.2. Hoàn thiện trình tự, thủ tục xử lý các vụ việc CTKLM

Khác với các đạo luật khác nhƣ Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình

sự là những Luật mang tính chất hình thức quy định về trình tự, thủ tục giải quyết

67

các vụ việc dân sự, hình sự thì Luật Cạnh tranh lại vừa mang tính chất nội dung,

vừa mang tính chất hình thức điều chỉnh cả về các hành vi, quan hệ cạnh tranh, cả

về trình tự thủ tục xử lý nội dung, cần thiết phải có những điều chỉnh, hoàn thiện

các quy định về tố tụng cạnh tranh của Luật và các văn bản hƣớng dẫn liên quan

nhằm đảm bảo hiệu lực thực thi pháp luật cạnh tranh.

3.2.2.1. Giải pháp về thẩm quyền giải quyết vụ việc

Năng lực và thẩm quyền của các cơ quan giải quyết vụ việc CTKLM theo quy

định của Luật Cạnh tranh còn nhiều vấn đề đặt ra. Vì vậy mặc dù số lƣợng các vụ

việc CTKLM gia tăng với tính chất mức độ ngày càng phức tạp song một số vụ

đƣợc các cơ quan đứng ra giải quyết tranh chấp còn nhiều hạn chế, chƣa tƣơng

xứng với nhu cầu. Mặt khác theo quy định tại khoản 2 Điều 113 Luật Cạnh tranh

(2018) quy định: “Đối với hành vi vi phạm quy định về CTKLM và các hành vi khác

vi phạm quy định của luật này không thuộc quy định tại khoản 1 Điều này, cơ quan

có thẩm quyền xử phạt tiến hành phạt tiền theo quy định của pháp luật về xử lý

hành vi vi phạm hành chính hoặc theo quy định của pháp luật có liên quan”. Do có

sự chồng chéo thẩm quyền xử lý hành vi CTKLM nên DN không biết tố cáo ở đâu,

tố cáo nhƣ thế nào. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến DN ngại tố

cáo.

Ví dụ nhƣ trƣờng hợp một DN có hành vi CTKLM tổng hợp vi phạm từ nhiều

hành vi khác nhau nhƣ bản quyền tác giả, nhãn hiệu hàng hóa... nằm trên bao bì sản

phẩm. Khi đó Thanh tra bộ khoa học và công nghệ chỉ xử lý đến vấn đề liên quan

đến bảo hộ thƣơng hiệu hàng hóa. Bộ Văn hóa thể thao và du lịch xử lý vấn đề liên

quan đến quyền tác giả, – Bộ Công thƣơng lại chịu trách nhiệm phát hiện và xử lý

hành vi này.

Do vậy Luật Cạnh tranh cần quy định rõ ràng, cụ thể trách nhiệm của từng cơ

quan. Tuy nhiên nếu để một cơ quan chuyên môn duy nhất chuyên môn hóa xử lý

hành vi CTKLM thì cần phải có quy định đến sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật đặc thù cho

từng cơ quan có liên quan.

3.2.2.2. Về bồi thường thiệt hại do hành vi CTKLM gây ra

68

Có thể thấy rằng, Luật Cạnh tranh mặc dù đã có quy định về các hành vi

CTKLM nhƣng mới chỉ dừng lại ở giác độ cấm đoán hành chính. Vấn đề bồi

thƣờng thiệt hại do hành vi CTKLM gây ra không đƣợc quy định trong Luật Cạnh

tranh năm 2018, dù chỉ là việc dẫn chiếu cụ thể đến pháp luật dân sự. Sự dẫn chiếu

tới pháp luật dân sự chỉ đƣợc quy định theo nghị định hƣớng dẫn thi hành Luật

Cạnh tranh.

Theo quy định của pháp luật dân sự thì vấn đề khởi kiện đòi bồi thƣờng thiệt

hại đối với hành vi CTKLM sẽ đƣợc áp dụng theo quy định về Bồi thƣờng thiệt hại

ngoài hợp đồng đƣợc quy định trong Bộ Luật dân sự năm 2015. Thông thƣờng các

chế tài trong Bộ luật dân sự thƣờng nhẹ hơn các luật chuyên ngành khác. Do đó tính

chất răn đe các hành vi CTKLM sẽ kém hiệu quả nếu vẫn chƣa có một văn bản dƣới

luật nào quy định cụ thể về chế định bồi thƣờng thiệt hại trong lĩnh vực CTKLM.

Mục đích của chế định CTKLM là bù đắp thiệt hại cho bên vi phạm bởi các

hành vi cạnh tranh đi ngƣợc lại với những tập quán thƣơng mại lành mạnh gây ra.

Các yếu tố của trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại này bắt nguồn từ chế định bồi

thƣờng ngoài hợp đồng đƣợc quy định trong bộ luật dân sự, gồm: Hành vi CTKLM,

lỗi, thiệt hại xảy ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi CTKLM và thiệt hại xảy ra3.

Bộ luật Dân sự quy định nguyên tắc, căn cứ trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại

ngoài hợp đồng. Thiệt hại trong CTKLM cũng giống nhƣ trong Bộ luật Dân sự tức

là thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại đó là trực tiếp và đã xảy ra

trên thực tế, không phải là thiệt hại ở dạng khả năng xảy ra.

Theo quan điểm truyền thống trong việc xác định thiệt hại do các hành vi

CTKLM gây ra thì thiệt hại đƣợc thể hiện thông qua mất đi một lƣợng khách hàng

thƣờng xuyên hoặc mất một số hợp đồng. Chứng cứ thể hiện bằng việc kinh doanh

giảm sút.

Bộ luật dân sự chỉ để cập đến một số trƣờng hợp đƣợc bồi thƣờng nhƣ sau:

3 Ngày 28/12/2018, TAND TPHCM đã tuyên án vụ tranh chấp bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng giữa nguyên đơn là công ty Ánh Dƣơng Việt Nam (Vinasun) và bị đơn là Công ty TNHH Grab (Grab), theo đó, Grab phải bồi thƣờng cho Vinasun 4,8 tỉ đồng. Vụ việc đã dấy lên tranh cãi rất lớn về bản án của Tòa án liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

69

- Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm.

- Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm.

- Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm.

- Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.

Nhƣ vậy, theo Bộ luật Dân sự, thực tiễn xử lý các hành vi tranh chấp CTKLM

sẽ chƣa có một căn cứ pháp lý cụ thể làm cơ sở xác định thiệt hại. Hiện nay để xác

định mức trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại, chúng ta vẫn áp dụng cách tính chung

giống nhƣ bồi thƣờng thiệt hại với tài sản hữu hình. Thẩm phán sẽ chịu trách nhiệm

đánh giá tinh chất và mức độ thiệt hại. Đây là công việc khá phức tạp và mất thời

gian bởi vì đƣơng sự phải đƣa ra chứng cứ để chứng minh tác động của CTKLM

đến biên độ giảm doanh thu, mức độ suy yếu năng lực cạnh tranh và những yếu tố

thu hút khách hàng.

Một số cách xác định thiệt hại chính nhƣ sau:

a) Thiệt hại thực tế của đƣơng sự:

Việc xác định thiệt hại thực tế của ngƣời bị thiệt hại dựa trên các thiệt hại thực

tế nhƣ sau:

- Tổn thất về tài sản.

- Mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận.

- Tổn thất về cơ hội kinh doanh.

- Chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại.

Đối với căn cứ xác định thiệt hại về tài sản thì ngƣời bị thiệt hại phải chứng

minh, trong đó sẽ gặp một số trở ngại lớn nhƣ: Với những tài sản vô hình nhƣ danh

tiếng, uy tín công thi thì khó xác định đƣợc tổn thất. Bên bị thiệt hại có trách nhiệm

cung cấp các vấn đề sau Tòa án nhƣ vấn đề tài chính, lợi nhuận công ty...điều này

DN đều muốn bảo mật hay những bí mật kinh doanh nhƣ những thiết kế, kiểu dáng

công nghiệp đang trong quá trình bảo mật cần đƣợc đƣa ra công khai để tính toán...

Do đó để tính toán dựa trên tổn thất này không phải là một lựa chọn khả thi cho

ngƣời bị thiệt hại.

70

Trong các thiệt hại trên thì mức độ giảm sút về thu nhập và lợi nhuận là một

trong những căn cứ quan trọng nhất để tính toán thiệt hại của nguyên đơn trên thực

tế. Đây cũng đƣợc coi là thiệt hại cơ bản và thƣờng là thiệt hại lớn nhất của nguyên

đơn. Chính vì vậy việc xác định một cách đúng đắn và đầy đủ những tổn thất về thu

nhập và lợi nhuận của nguyên đơn. Điều này giúp nguyên đơn có cơ sở để đƣợc bồi

thƣờng một cách đầy đủ và thỏa đáng trên cơ sở bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp

đồng.

Pháp luật và thực tiễn xét xử của nhiều nƣớc trên thế giới cho thấy các hành vi

CTKLM liên quan đến sở hữu công nghiệp thì việc xác định lợi nhuận bị mất của

nguyên đơn dựa trên công thức kế toán cơ bản nhƣ sau:

- Lợi nhuận bị mất = (số lƣợng hàng hóa không bán đƣợc do hành vi xâm

phạm) x (lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm).

- Tuy nhiên để áp dụng chính xác công thức này trong một số trƣờng hợp

không phải dễ dàng

b) Thiệt hại về cơ hội kinh doanh của ngƣời bị thiệt hại:

Tổn thất về cơ hội kinh doanh là thiệt hại chƣa xảy ra trên thực tế tại thời điểm

bị xâm hại mà chắc chắn sẽ xảy ra trong tƣơng lai bởi các hành vi xâm hại Trong

lĩnh vực CTKLM, đặc biệt là các vụ án liên quan đến sở hữu công nghiệp, ngƣời bị

thiệt hại sẽ mất đi những cơ hội thu lợi từ việc khai thác, sử dụng hoặc kinh doanh

đối tƣợng quyền sở hữu công nghiệp do giá trị quyền sở hữu công nghiệp không

còn nữa. Nhận thấy rằng nếu việc xác định những lợi nhuận thu đƣợc cho rằng chắc

chắn nguyên đơn sẽ thu đƣợc nếu không có hành vi xâm phạm xảy ra là điều khó

khăn và phức tạp thì việc xác định những tồn thất xảy ra trong tƣơng lai còn khó

khăn gấp bội do tính giả định của nó. Điều này thực sự khó khăn cho sự chứng

minh của nguyên đơn. Do vậy tính đúng đắn của việc xác định tổn thất theo căn cứ

này hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng của ngƣời bị hại. Trong khi đó pháp luật của

các nƣớc chỉ quy định cơ sở và quyền của ngƣời bị hại chứ không hƣớng dẫn cụ thể

cho ngƣời bị hại thực hiện quyền đó. Do vậy cần có văn bản dƣới luật quy định và

hƣớng dẫn họ thực hiện điều này. Từ đó giúp cho nguyên đơn đƣợc bồi thƣờng hợp

71

lý nhất, rút ngắn thời hạn tố tụng và giảm chi phí phát sinh cho cả hai bên nguyên

đơn và bị đơn trong quá trình tố tụng.

c) Chi phí ngăn chặn và khắc phục thiệt hại.

Các chi phí hợp lý để ngăn chặn và khắc phục thiệt hại bao gồm: Chi phí cho

việc tạm giữ, bảo quản, lƣu kho bãi đối với hàng hóa bị xâm phạm quyền sở hữu

công nghiệp. Chi phí cho việc thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy

định của pháp luật. Chi phí thuê dịch vụ giám định, ngăn chặn, khắc phục hành vi

xâm phạm bản quyền và chi phí cho việc thông báo cải chính trên phƣơng tiện

thông tin đại chúng. Nhìn chung có thể phân chia các chi phí trên thành: Chi phí

ngăn chặn và hạn chế thiệt hại, chi phí tố tụng và chi phí khắc phục thiệt hại.

Chi phí ngăn chặn và hạn chế thiệt hại:

Đối với các hành vi CTKLM liên quan đến sở hữu công nghiệp, các chi phí

cho việc tạm giữ, lƣu kho, lƣu bãi đối với hàng hóa bị xâm phạm, chi phí để thuê

dịch vụ giám định đƣợc xếp vào chi phí ngăn chặn và hạn chế thiệt hại.

Nhìn chung bất cứ chi phí nào phát sinh trong quá trình tiến hành các biện

pháp cần thiết nhằm hạn chế, ngăn chặn hành vi xâm phạm và thiệt hại xảy ra đều

có thể đƣợc xem xét bồi thƣờng trong quan hệ nhân quả với hành vi xâm phạm.

Bên cạnh tính thực tế thiệt hại thì tính hợp lý cũng rất quan trọng. Việc bồi

thƣờng phải ở mức độ hợp lý và phù hợp với quy định của pháp luật, bảo đảm đƣợc

quyền và lợi ích chính đáng của các đƣơng sự trong vụ án.

Thực tế cho thấy mọi mất mát của ngƣời bị hại khó có thể đƣợc xác định và

bồi thƣờng một cách triệt để. Trong nỗ lực nhằm ngăn chặn và hạn chế hậu quả từ

hành vi CTKLM gây ra, chủ thể vi phạm có thể tiến hành cùng một lúc nhiều biện

pháp khác nhau và đồng thời chịu chi phí phát sinh liên quan. Trong những chi phí

mà chủ thể vi phạm phải bỏ ra để ngăn chặn và khắc phục thiệt hại có những chi phí

mà chủ thể bị hại có thể chứng minh ngay đƣợc bằng hóa đơn, chứng từ nhƣng cũng

có những chi phí không thể chứng minh bằng hóa đơn chứng từ. Thông thƣờng chỉ

những chi phí đƣợc cho là cần thiết và đƣợc xuất trình hóa đơn, chứng từ hợp pháp

72

mới đƣợc xem xét bồi thƣờng. Tính hợp lý sẽ đƣợc cân nhắc trong từng hoàn cảnh

cụ thể và phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan, chủ quan, khả năng của đƣơng sự.

Để có thể xác định đƣợc chi phí hợp lý và hợp pháp đòi hỏi phải có văn bản

dƣới luật hƣớng dẫn của văn bản dƣời luật. Bên cạnh đó cần sự hiểu biết và tính

công minh, đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán đƣợc đặt lên trên hết để có thể

đánh giá một cách hiệu quả và công minh tránh gây thiệt hại và tổn thất cho cả

ngƣời vi phạm và ngƣời bị vi phạm.

Chi phí tố tụng:

Chi phí tố tụng là những chi phí phát sinh trong quá trình đƣơng sự tham gia

tố tụng tại Tòa án. Chi phí tố tụng có thể bao gồm chi phí thực hiện các biện pháp

khẩn cấp tạm thời, chi phí giám định, án phí, lệ phí tòa án...

Các chi phí thông thƣờng dễ dàng đƣợc chấp nhận xác định để bồi thƣờng

những thiệt hại phát sinh bởi thực tế và cần thiết của nó đã đƣợc Tòa án xem xét

trong quá trình đƣa ra những quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hay

quyết định trƣng cầu giám định thì chi phí đó cũng đƣợc xem xét bồi thƣờng trên cơ

sở tính cần thiết, thực tế và hợp lý.

Chi phí để khắc phục thiệt hại:

Nhằm khôi phục uy tín của ngƣời bị vi phạm thì phải hiệu đính những quảng

cáo bị vi phạm và những quảng cáo gây nhầm lẫn nếu có. Ngƣời có hành vi phạm

luật sở hữu trí tuệ có thể bị Tòa án yêu cầu thực hiện một chiến dịch quảng cảo

nhằm khắc phục sự nhầm lẫn hoặc lừa dối khách hàng do hành vi vi phạm CTKLM

gây ra hoặc phải bồi thƣờng các chi phí quảng cáo thực tế hoặc dự tính chi phí

nhằm khắc phục thiệt hại cho chủ thể bị hại.

Do đó việc xác định các chi phí cho hoạt động này trƣớc hết cần đảm bảo các

mục tiêu trên nhƣng vẫn phải đảm bảo tính hợp lý của nó.

Bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời tiêu dùng:

Việc xác định mức độ bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời tiêu dùng do hành vi

CTKLM gây ra là tƣơng đối phức tạp. Ngƣời ta chỉ có thể xác định đƣợc thiệt hại

định tính, còn về mặt định lƣợng, để xác định đƣợc mức độ thiệt hại một cách chính

73

xác thì rất khó và cần phải có thời gian lâu dài. Hơn nữa không thể xác định đƣợc

thiệt hai cho từng khách hàng trong một số lƣợng rất đông khách hàng. Tác giả xin

đề xuất nhƣ sau:

Với những khách hàng nào chứng minh đƣợc mình đã mua phải những hàng

giả, hàng kém chất lƣợng, giá thành quá cao so với thị trƣờng...do những hành vi

CTKLM thông qua phiếu mua hàng, hóa đơn...thì nên có quy định mức độ bồi

thƣờng cho những khách hàng đó nhƣ hoàn lại một phần hay toàn bộ tiền hàng, đổi

lại hàng chất lƣợng...

Ngoài việc bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời tiêu dùng theo hình thức trên và để

đảm bảo công bằng cho tất cả khách hàng cần có một quy định và hƣớng dẫn đề

ngƣời vi phạm phải nộp phạt một khoản tiền bồi thƣờng cho ngƣời tiêu dùng thông

qua một quỹ phúc lợi xã hội chung.

d) Sử dụng thực tiễn tƣ pháp trong việc giải quyết vụ việc CTKLM.

Sử dụng thực tiễn tƣ pháp trong việc giải quyết tranh chấp đã và đang trở

thành một xu hƣớng ở nhiều nƣớc trên thế giới và ngày càng bộc lộ nhiều ƣu điểm

của nó.

Có thể khẳng định Luật Cạnh tranh của các nƣớc trên thế giới nói chung và

của Việt Nam nói riêng vẫn còn nhiều khe hở. Pháp Luật Cạnh tranh không thể liệt

kê đƣợc hết các hành vi CTKLM trong khi đó cách hành vi diễn ra ngày càng nhiều

và đa dạng, mức độ tinh vi ngày càng cao, do vậy pháp luật không thể bao trùm hết

đƣợc.

Các điều tra viên phải đối diện những vụ việc thực tế chƣa xảy ra ở Việt Nam,

những vụ việc mang tính chất mới mẻ cũng nhƣ không đƣợc quy định rõ ràng trong

luật. Do vậy các vụ việc xử lý CTKLM nếu có thể phải đƣợc tuyên bố công khai để

cơ quan chức năng cũng nhƣ công chúng có đƣợc thông tin cũng nhƣ có đƣợc căn

cứ để xử lý những vụ việc tƣơng tự xảy ra sau này.

Có những nguyên nhân sau dẫn đến xu thế này:

Các quy định của pháp luật có liên quan cạnh tranh thƣờng khá chung chung,

chủ yếu dừng lại ở những vấn đề có tình nguyên tắc, trong khi vụ việc cạnh tranh

74

trong thực tế lại đa dạng, muôn màu muôn vẻ với những tình tiết thực tiễn mà các

nhà làm luật chƣa lƣờng hết đƣợc. Với những trƣờng hợp nhƣ vậy, Tòa án nhân dân

tối cao cần phát triển án lệ liên quan đến vấn đề này.

Quá trình điều tra của một vụ việc cạnh tranh lớn (nhƣ sáp nhập) là việc hoàn

toàn không đơn giản, đòi hỏi sự phân tích của nhiều chuyên gia và nhiều cơ quan

khác nhau có liên quan. Nếu một vụ việc đƣợc giải quyết thỏa đáng, hợp lý đƣợc

đƣa ra nhƣ một cơ sở pháp lý nhằm đƣa ra kết luận nhanh chóng cho các vụ việc

tƣơng tự về sau.

3.2.2.3. Về cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính đối với quyết định xử lý vụ

việc CTKLM

Khoản 1 Điều 115 Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định: “Sau 15 ngày kể từ

ngày quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có hiệu lực

pháp luật mà bên phải thi hành không tự nguyện thi hành hoặc không khởi kiện ra

Tòa án theo quy định tại Điều 103 của Luật này thì bên được thi hành. Ủy ban cạnh

tranh Quốc gia có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức thi hành

quyết định”. Việc giải quyết đơn kiện tại Tòa hành chính đối với quyết định giải

quyết khiếu nại, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, trong đó hành vi CTKLM

đƣợc thực hiện theo pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.

Vấn đề đặt ra là Tòa hành chính sẽ xem xét lại toàn bộ vụ việc từ đầu, xem xét

cả nội dung về thủ tục cạnh tranh đã đƣợc áp dụng bởi các cơ quan tiến hành tố tụng

cạnh tranh hay chỉ xem xét về mặt hình thức? Giá trị pháp lý của quyết định giải

quyết khiếu nại của Tòa án nhƣ thế nào? Quyết định có giá trị chung thẩm nhƣ kinh

nghiệm của một số quốc gia trên thế giới hay phải tuân thủ đầy đủ thủ tục từ sơ

thẩm, phúc thẩm, tới giám đốc thẩm? Điều này cần có văn bản hƣớng dẫn cụ thể

của Tòa án nhân dân tối cao, đặc biệt là cơ chế phối hợp giữa cơ quan cạnh tranh và

Tòa án trong việc xem xét, giải quyết đơn kiện.

3.2.2.4. Chế tài áp dụng đối với các hành vi CTKLM cần phải đủ mạnh

Mức phạt tiền nhƣ theo các quy định hiện nay còn thấp. Do đó, khó mà ngăn

chặn đƣợc tình trạng quảng cáo, khuyến mại… nhằm CTKLM đang có xu hƣớng

75

ngày càng phổ biến. Với những lợi ích to lớn từ việc CTKLM đem lại thì số tiền

phạt quy định trong pháp luật hiện nay không thấm vào đâu, do đó trên thực tế đã có

không ít DN chấp nhận bị phạt để thực hiện hành vi “chơi xấu” của mình. Rõ ràng,

quy định mức phạt tiền nhƣ hiện nay là bất hợp lí và chƣa đủ sức răn đe.

3.2.2.5 Cần áp dụng hòa giải trong giải quyết các vụ việc cạnh tranh

Trong các phƣơng thức giải quyết tranh chấp thì hòa giải là một trong những

phƣơng thức có nhiều ƣu điểm và đƣợc nhiều nƣớc trên thế giới áp dụng để giải

quyết các tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế nói chung. Bởi hòa giải có tác dụng giúp

cho bên “chơi xấu” và bên “bị chơi xấu” không mất nhiều thời gian, tiền bạc khi

giải quyết các vụ cạnh tranh. Khi hòa giải thành thì có nghĩa là ý chí của các bên đã

thống nhất và bên “chơi xấu” sẽ chấm dứt hành vi vi phạm. Việc thực thi Luật Cạnh

tranh không phải chỉ là giải quyết những vụ việc qua điều tra, xử phạt vi phạm hay

có những chế tài khác. Đa số công việc của các cơ quan quản lý cạnh tranh, không

chỉ ở Việt Nam là làm thế nào để các doanh nghiệp không vi phạm hoặc nếu có

(chƣa đến mức quá nặng) thì hòa giải với nhau? Thực tế cho thấy, hòa giải vẫn là

“án lệ” của cơ quan quản lý khi xử lý các hành vi không lành mạnh. Nếu thực hiện

đƣợc hòa giải sẽ rất có lợi cho các bên nhƣ tiết kiệm thời gian, chi phí..

3.2.3. Một số đề xuất khác

3.2.3.1. Tăng cường khả năng phối hợp giữa các cơ quan, bộ, ngành trong

việc giải quyết những vụ việc liên quan đến CTKLM

Do các hành vi cạnh tranh xuất hiện ở các lĩnh vực khác nhau, một số văn bản

pháp luật khác nhau và những quy định này đƣợc thực thi bởi một số cơ quan khác

bên cạnh cơ quan quản lý cạnh tranh. Vì lý do đó, có thể dẫn đến sự quy định và áp

dụng không thống nhất đối với các vụ việc cạnh tranh, chẳng hạn nhƣ việc thực thi

các quy định về chống CTKLM, sở hữu trí tuệ, quản lý thị trƣờng, bảo vệ ngƣời tiêu

dùng… Hiện nay chƣa có bất kì một văn bản nào đề cập đến sự phân định và phối

hợp của các cơ quan thẩm quyền trong việc thực thi Luật cạnh tranh. Sự phức tạp và

chồng lấn về thẩm quyền theo các văn bản thực thi pháp luật khác nhau, sẽ dẫn đến

nhiều khó khăn trong việc tiến hành các thủ tục tố tụng và ra quyết định xử lý vụ

việc cạnh tranh. Để giải quyết vấn đề này cần có một văn bản có đủ hiệu lực pháp lý

76

để phân định rõ thẩm quyền và phối hợp hoạt động của các cơ quan trong việc đảm

bảo thực thi pháp Luật Cạnh tranh có hiệu quả.

3.2.3.2. Phổ biến kiến thức pháp luật về cạnh tranh nói chung và pháp luật về

chống CTKLM nói riêng

Công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về lĩnh vực này hiện nay chƣa rộng

khắp trong xã hội nhất là giới DN nên nhận thức, ý thức xã hội về vấn đề này còn

nhiều hạn chế. Bản thân hiệp hội có lĩnh vực gắn với quy định của pháp luật về

hành vi CTKLM nhƣng thực tế cũng chƣa đƣợc tiếp cận nhiều với pháp luật về

cạnh tranh. Ngƣời ta cũng đã ví Luật Cạnh tranh trong kinh doanh cũng tựa nhƣ

“nhạc thính phòng” trong đời sống văn hóa tinh thần, bởi vậy không phải ai cũng

biết và dễ dàng hiểu đƣợc Luật. Do đó nâng cao hiểu biết và nhận thức của ngƣời

dân, đặc biệt là chủ thể kinh doanh về Luật Cạnh tranh có ý nghĩa rất quan trọng để

đảm bảo thực thi Luật hiệu quả. Nếu các chủ thể kinh doanh có kiến thức về pháp

Luật Cạnh tranh thì những vụ việc vi phạm sẽ đƣợc giảm thiểu đáng kể do ứng xử

kinh doanh của họ phần nào đã có sự định hƣớng của pháp luật. Từ kinh nghiệm

của các nƣớc, các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền nên:

Thứ nhất, thƣờng xuyên tổ chức các lớp bồi dƣỡng, hội thảo tìm hiểu về kiến

thức pháp luật và thi hành pháp Luật Cạnh tranh nói chung và pháp luật về CTKLM

nói riêng, trong đó đối tƣợng chủ yếu là các doanh nhân. Qua đây có thể nâng cao

hiểu biết pháp luật, đặc biệt là những vụ xử lý vi phạm đƣợc thông tin tới tận tay

DN sẽ là những cảnh báo trƣớc về hậu quả của vi phạm.

Thứ hai, phổ biến và tuyên truyền nội dung của Luật Cạnh tranh trên các

phƣơng tiện thông tin đại chúng nhƣ tổ chức các cuộc thi, tìm hiểu về Luật Cạnh

tranh, diễn đàn đối thoại trực tiếp hoặc mời các chuyên gia về Luật Cạnh tranh

giảng dạy trên truyền hình, đài phát thanh, tổ chức các hội thảo… Những biện pháp

này có chi phí thấp nhƣng mang lại hiệu quả rất cao.

Thứ ba, giáo dục đạo đức kinh doanh cho thƣơng nhân, làm cho họ biết những

hậu quả xấu của việc kinh doanh bất chính cũng nhƣ lợi ích lâu dài từ việc cạnh

tranh lành mạnh, trung thực. Nếu một khi DN nhận thức đƣợc và chú trọng đến đạo

đức kinh doanh thì những hành vi CTKLM sẽ đƣợc giảm bớt.

77

Tóm lại, đã đến lúc ngƣời tiêu dùng, DN và các cơ quan quản lý phải cộng tác

chặt chẽ với nhau để chống lại các hành vi CTKLM. Chỉ khi nào môi trƣờng sản

xuất, kinh doanh thật sự lành mạnh, thì quyền lợi của các DN có thƣơng hiệu mới

đƣợc bảo đảm, sự phát triển của các DN trong nƣớc mới bền vững và mạng lại lợi

ích thiết thực cho thị trƣờng và ngƣời tiêu dùng.

3.2.3.3. Nâng cao ý thức pháp luật và tự bảo vệ của DN và người tiêu dùng

Về phía DN:

Cần tuân thủ các quy định của pháp luật về kinh doanh nói chung, các chính

sách về cạnh tranh. Trong xu thế mới, việc tuân thủ pháp luật, cạnh tranh lành

mạnh, đây cũng là một cách để xây dựng thƣơng hiệu trên thị trƣờng. Đẩy mạnh

quan tâm, xúc tiến việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp

theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ về các nội dung thuộc chỉ dẫn hàng hóa. Mặt

khác, tự xây dựng cho mình một chiến lƣợc cạnh tranh chuyên nghiệp và dài hạn

nhƣ xây dựng và quảng bá thƣơng hiệu; xây dựng những kênh phân phối mới, các

sản phẩm mới; khai thác lợi thế cạnh tranh của riêng mình. Tất cả các tổ chức cá

nhân kinh doanh và hiệp hội nghề hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam đều chịu sự

điều chỉnh của Luật Cạnh tranh. Điều này sẽ giúp DN đƣợc hoạt động trong môi

trƣờng cạnh tranh lành mạnh, đƣợc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Thực tế cho thấy hiện nay có nhiều DN đƣợc thành lập và hoạt động lâu đời vẫn

chƣa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của ý thức pháp luật trong kinh doanh. Họ

chƣa thực sự hiểu biết pháp luật cho họ những quyền gì, họ phải thực hiện những

nghĩa vụ gì và pháp luật quy định nhƣ thế nào với những hoạt động mà họ quan

tâm. Điều này lý giải về lâu dài để tạo môi trƣờng CTKLM cần nâng cao nhận thức

cho họ. Học tập ở các nƣớc có nền kinh tế phát triển, các công ty lớn họ luôn có một

bộ phận chuyên trách về việc tham mƣu pháp luật cho DN hoặc họ sẵn sàng thuê tƣ

vấn pháp luật trong trƣờng hợp cần thiết. Vấn đề này hầu nhƣ ít gặp ở các DN Việt

Nam.

Bên cạnh đó DN cần nâng cao ý thức bảo vệ mình trƣớc các hành vi CTKLM

của đối thủ cạnh tranh và bảo vệ thƣơng hiệu, xác lập quyền sở hữu công nghiệp,

liên tục cải tiến công nghệ, nâng cao trình độ cán bộ, đƣa ra mẫu mã sản phẩm

78

mang tính đặc trƣng đảm bảo an toàn cao để khó có thể có hành vi xâm hại sở hữu

công nghiệp, có cơ chế đảm bảo bí mật kinh doanh của DN...

Nâng cao khả năng bảo vệ người tiêu dùng:

Trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay càng gay gắt, nhiều DN cạnh tranh với

nhau không chỉ với mục đích là loại bỏ nhau mà còn làm mọi cách để tồn tại trên thị

trƣờng, không những làm xâm hại đến quyền lợi của ngƣời tiêu dùng mà còn có thể

gây nguy hiểm đến tính mạng và sức khỏe của ngƣời tiêu dùng. Điều đáng lo ngại

hiện nay là kiến thức tiêu dùng của ngƣời tiêu dùng Việt Nam hiện nay còn ở mức

rất thấp. Ngƣời tiêu dùng Việt Nam hiện nay chủ yếu sống ở vùng nông thôn, ít

đƣợc tiếp cận với các thông tin đầy đủ về chất lƣợng, vệ sinh an toàn thực phẩm là

những thông tin bảo vệ chính mình.

Thực tế cho thấy hội nhập kinh tế đang diễn ra hết sức sức sâu rộng và nhanh

chóng trong khi đó việc nâng cao kiến thức ngƣời tiêu dùng lại diễn ra chậm hơn.

Trong thời kỳ hội nhập kinh tế, các phƣơng thức xâm phạm quyền lợi của ngƣời

tiêu dùng lại diễn ra tinh vi hơn, đa dạng hơn và phổ biến nhiều so với trƣớc kia.

Nhiều hình thức kinh doanh mới, đan xen các hình thức mua bán hiện đại với sự

giúp đỡ của công nghệ làm cho ngƣời tiêu dùng dễ bị lừa gạt, không có khả năng

chống đỡ, không thể có đƣợc khả năng học hỏi, cập nhật thông tin nhanh và chủ

động nhƣ thời kỳ hội nhập này. Vì vậy mỗi ngƣời tiêu dùng hãy tự cập nhật học hỏi

và bổ sung kiến thức cho mình để tự bảo vệ những lợi ích chính đáng cho mình.

Mặt khác, thói quen mua hàng không lấy hóa đơn hoặc có hóa đơn nhƣng

không đƣợc lƣu giữ của ngƣời tiêu dùng Việt Nam gây nhiều khó khăn khi muốn

bảo vệ ngƣời tiêu dùng bị xâm phạm. Thói quen không đọc kỹ thông tin trong hợp

đồng mẫu (điều kiện giao dịch chung), trên bao bì khi mua sản phẩm thực tế đã

chứng kiến nhiều cảnh tƣợng cấp cứu vì sử dụng hàng hóa hết hạn sử dụng, thói

quen mua hàng theo phong trào ngay cả khi không có nhu cầu sử dụng... Các thói

quen này làm cho DN lợi dụng từ chối trách nhiệm của mình khi có tranh chấp xảy

ra. Những thói quen này của ngƣời tiêu dùng cần phải đƣợc thay đổi.

Một đặc điểm lớn nữa của ngƣời tiêu dùng Việt Nam có xu hƣớng chấp nhận

hoặc bằng lòng với thực tế, ngại va chạm khi quyền lợi của mình bị xâm hại. Khác

79

với ngƣời tiêu dùng các nƣớc có nền kinh tế phát triển, ngƣời tiêu dùng Việt Nam

chƣa có thói quen khiếu nại với các nhà kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, yêu cầu đổi

hàng hóa đúng chất lƣợng, đòi bồi thƣờng thiệt hại hoặc tố cáo lên cơ quan nhà

nƣớc có thẩm quyền. Do đó ngƣời tiêu dùng cần mạnh dạn khiếu nại, trƣớc hết là

đòi quyền lợi cho mình, sau là đòi quyền lợi cho cộng đồng ngƣời tiêu dùng.

Cần nhấn nhấn mạnh là việc khiếu nại của ngƣời tiêu dùng đối với cá nhân sản

xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ trƣớc hết theo nguyên tắc thƣơng lƣợng, hòa giải.

Vì vậy, nếu việc thƣơng lƣợng hòa giải mà bù đắp đƣợc những mất mát của ngƣời

tiêu dùng thì nên dừng lại. Trƣờng hợp ngƣợc lại ngƣời tiêu dùng có thể kiện theo

quy định của pháp luật. Trong trƣờng hợp này ngƣời tiêu dùng nên cân nhắc là chắc

chắn quyền lợi của mình đã bị vi phạm và chuẩn bị chắc chứng cứ và lý lẽ trƣớc khi

khiếu nại.

Cuối cùng, mỗi ngƣời tiêu dùng cần nâng cao hiểu biết, nhận thức pháp luật,

tìm hiểu rõ về nguồn gốc và dịch vụ khi mua sắm để trở thành những “ngƣời tiêu

dùng thông thái”. Mỗi một ngƣời tiêu dùng thông thái sẽ góp một phần nhỏ của

mình phát hiện và tẩy chay những hành vi CTKLM trong môi trƣờng cạnh tranh

khốc liệt hiện nay.

3.2.3.4. Xây dựng đạo đức kinh doanh của DN

Đạo đức kinh doanh của DN là một yêu cầu quan trọng đảm bảo cho sự vận

hành trôi chảy nền kinh tế thị trƣờng hiện nay. Luật Cạnh tranh chỉ quy định chung

về chuẩn mực đạo đức kinh doanh và biện pháp xử lý về mặt hành chính. Song điều

đó ít có tính răn đe và định hƣớng cho hành vi kinh doanh của DN. Để hƣớng tới

một môi trƣờng cạnh tranh văn minh, các DN trong nền kinh tế thị trƣờng cần chú

trọng đạo đức kinh doanh, thậm chí xây dựng chƣơng trình tuân thủ đạo lý kinh

doanh, bộ quy tắc ứng xử,… để đảm bảo DN phát triển bền vững và lâu dài.

Trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng của nƣớc ta hiện nay, việc xác định

chuẩn mực đạo đức kinh doanh đƣợc xét bởi các yếu tố: Đạo đức kinh doanh đƣợc

xác lập sẽ bảo đảm cho các nhà kinh doanh phát huy đƣợc tiềm năng, tài lực, vật lực

của họ để thực hiện kinh doanh có hiệu quả, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp về

danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản, lợi ích chính đáng của họ; đảm bảo các nhà

80

kinh doanh không bị xâm hại bởi các hành vi bất hợp pháp, CTKLM hay gian lận

thƣơng mại, bị phân biệt đối xử hay chèn ép, ngăn cản họ thực hiện các hoạt động

kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh. Mặt khác, đạo đức kinh doanh đòi hỏi các nhà

kinh doanh phải luôn luôn chú ý đến các lợi ích chung của toàn xã hội, phải hoạt

động trong khuôn khổ mà pháp luật quy định, quan tâm đến quyền và lợi ích hợp

pháp của các nhà kinh doanh khác và lợi ích của ngƣời tiêu dùng, không vì lợi ích

cá nhân mà gây thiệt hại cho quyền, lợi ích chính đáng của ngƣời khác và lợi ích

của xã hội.

Đạo đức kinh doanh đƣợc thể hiện ở sự trung thực trong kinh doanh, tôn trọng

đối thủ cạnh tranh, tôn trọng ngƣời tiêu dùng, cạnh tranh lành mạnh... Bên cạnh đó,

chuẩn mực đạo đức kinh doanh cũng đƣợc thể hiện ở việc nghiêm chỉnh thực hiện

pháp luật, phát triển kinh doanh, làm giàu chính đáng...

Việc xây dựng đạo đức kinh doanh cần phải đƣợc đƣa vào từng DN và xây

dựng thành văn hóa và lối sống của DN. Bên cạnh đó đạo đức kinh doanh cũng phải

đƣợc thƣờng xuyên trau dồi, giáo dục bằng cách đƣa vào các trƣờng cao đẳng, đại

học để các nhà DN tƣơng lai hình thành nhận thức các chuẩn mực kinh doanh tốt

đẹp ngay từ khi bắt đầu sự nghiệp.

81

KẾT LUẬN

CTKLM chính là biểu hiện khuyết tật của nền kinh tế thị trƣờng. Có thể có

nhiều cách hiểu và cách định nghĩa khác nhau về hành vi này bởi nó xuất phát từ

những đặc điểm riêng của nó đặc biệt là tính không xác định về nội dung. Bên cạnh

đó, hành vi CTKLM cũng phụ thuộc vào quan niệm đạo đức truyền thống và tập

quán kinh doanh… của các vùng khác nhau. Việc nhận diện những hành vi này đòi

hỏi phải tìm hiểu những vấn đề thuộc về bản chất của nó.

Luật Cạnh tranh năm 2018 với một số đổi mới trong quy định liên quan đến

hành vi CTKLM sẽ góp phần tạo lập môi trƣờng kinh doanh, cạnh tranh công bằng

và bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế. Những hành vi

CTKLM, tùy vào tính chất của nó để có thể có những cách xử lý cho phù hợp, do

đó việc phân loại những hành vi này là điều rất cần thiết.

Việc thực thi Luật Cạnh tranh mới dƣới giác độ của chống CTKLM sẽ phải

đối mặt với những vấn đề trên thực tế do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế số

cũng nhƣ phát sinh những mô hình kinh doanh mới – kinh tế chia sẻ (Sharing

Economy) nhƣ vụ tranh chấp giữa Vinasun và Grab đang giải quyết hiện nay. Chính

vì vậy, việc không ngừng nâng cao nhận thức CTKLM để có các biện pháp chống

lại hành vi này trong tƣ duy cũng nhƣ hành động là cần thiết đối với DN.

Với việc nghiện cứu Luận văn này, tác giả mong muốn đƣợc đóng góp một

phần nhỏ bé vào việc tăng cƣờng xử lý và giải quyết tranh chấp liên quan CTKLM.

Song đây là một vấn đề khó và rộng, tác giả không tránh khỏi những thiếu sót trong

lần đầu nghiên cứu khoa học của mình nên rất mong nhận đƣợc ý kiến đóng góp,

phê bình của thầy cô và các bạn để có thể nghiên cứu vấn đề này tốt hơn trong

tƣơng lai.

82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bùi Ngọc Cƣờng, Một số vấn đề tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế

hiện hành ở Việt Nam, NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001.

2. Cục CT&BTNTD, Báo cáo thường niên năm 2016, năm 2017 (tải từ

Website của Bộ Công Thƣơng).

3. Vũ Thị Giang, Luận văn thạc sĩ Quản trị kinh doanh, Đề tài: cạnh tranh

không lành mạnh, thực trạng và những đề xuất xử lý vi phạm ở Việt Nam.

4. Đặng Hùng (2017), mạnh tay xử lý cạnh tranh du lịch không lành mạnh,

http://cand.com.vn/chuyendongvanhoa truy cập ngày 12/01/2017.

5. Đặng Vũ Huân, Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh

không lành mạnh ở Việt nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004.

6. Nguyễn Hữu Huyên, Luật Cạnh tranh của Pháp và Liên minh Châu Âu,

NXB Tƣ pháp, Hà Nội 2004.

7. Nguyễn Mạnh Kháng, Bàn về chức năng tố tụng của Tòa án và vấn đề độc

lập của hoạt động xét xử, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, số 10/2008.

8. Nguyễn Long (2017), Làm thế nào để tăng tính cạnh tranh cho du lịch Việt

Nam? http://enternews.vn truy cập ngày 18/1/2019.

9. Đinh Mỹ Loan, Xây dựng mô hình cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh,

chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ trong thương mại quốc tế. Kinh nghiệm

quốc tế và đề xuất cho Việt Nam, Đề tài nghiên cứu cấp bộ năm 2007.

10. Tăng Văn Nghĩa, Những nội dung cơ bản của Luật cạnh tranh Việt Nam

năm 2004 và đề xuất áp dụng, Đề tài NCKH cấp bộ (Bộ GDĐT), Hà Nội 2005.

11. Tăng Văn Nghĩa, Những vấn đề đặt ra và giải pháp thực thi có hiệu quả

Luật cạnh tranh trong thực tiễn, Đề tài NCKH cấp bộ (Bộ Thƣơng Mại), Hà Nội

2007.

12. Tăng Văn Nghĩa, Giáo trình Pháp luật cạnh tranh, NXB giáo dục Việt

Nam, Hà Nội 2013.

83

13. Nguyễn Nhƣ Phát (2006), “Đưa pháp luật chống cạnh tranh không lành

mạnh vào cuộc sống”, Tạp chí Luật học, số 6/2006.

14. Nguyễn Quỳnh (2017), Một doanh nghiệp du lịch vi phạm pháp luật cạnh

tranh, https://vov.vn/kinhte/doanhnghiep truy cập ngày 28/12/2017.

15. Lê Anh Tuấn, Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam,

Luận án tiến sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội 2008.

16. Báo điện tử Tổng cục Du lịch, cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại

khách du lịch, http://vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/13469, truy cập ngày

18/01/2018.

17. Lê Doanh Vĩnh (Chủ biên), Ths. Hoàng Xuân Bắc, Ths. Nguyễn Ngọc

Sơn, Giáo trình Luật Cạnh tranh, NXB Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.