LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan Luận văn này là công trình do tôi thực hiện. Mọi số liệu, kết

quả nghiên cứu đã công bố đƣợc tham khảo trong Luận án đều trung thực và trích

dẫn nguồn đúng quy định. Những kết quả nghiên cứu của Luận văn chƣa từng đƣợc

công bố trong bất kỳ công trình của tác giả nào khác.

Tác giả luận văn

Phạm Văn Thắng

ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp, tác giả đã nhận đƣợc sự hƣớng dẫn, chỉ

đạo nhiệt tình và quý báu của PGS, TS Tăng Văn Nghĩa và tập thể thầy, cô Khoa

Sau đại học, Khoa Luật – Trƣờng Đại học Ngoại thƣơng.

Nhân dịp này, tác giả gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới PGS, TS Tăng Văn

Nghĩa và thầy, cô Khoa sau đại học, Khoa Luật – Trƣờng Đại học Ngoại thƣơng.

Tác giả cũng gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới gia đình, ngƣời thân, bạn bè và

đồng nghiệp đã giúp đỡ, hỗ trợ tài liệu và tạo mọi điều kiện tốt nhất đồng thời đã có

những ý kiến đóng góp quý báu để hoàn thành công trình nghiên cứu cuối khoá của

Trƣờng đại học ngoại thƣơng.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc tìm kiếm tài liệu, nghiên cứu và tìm

hiểu thực tế nhƣng do thời gian hạn chế nên Luận văn không tránh khỏi những sai

sót. Tác giả rất mong nhận đƣợc sự quan tâm đóng góp ý kiến của Quý thầy cô, bạn

bè, đồng nghiệp và độc giải.

Trân trọng cảm ơn.

Tác giả luận văn

Phạm Văn Thắng

iii

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN

Tên luận văn: “Quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh: Thực tiễn

và khuyến nghị xử lý tại Việt Nam”

Luận văn đã đạt các kết quả chính nhƣ sau:

- Đã phân tích khái niệm cạnh tranh không lành mạnh và khái quát pháp luật

cạnh tranh không lành mạnh.

- Nêu và phân tích các quy định về cạnh tranh không lành mạnh theo quy

định của pháp luật Việt Nam (Luật Cạnh tranh năm 2004 và có một phần đề cập tới

Luật Cạnh tranh năm 2018) và thẩm quyền xử lý hành vi cạnh tranh không lành

mạnh.

- Phân tích và nhận xét một số vụ việc cạnh tranh không lành mạnh điển hình

tại Việt Nam.

- Nêu những hạn chế trong việc xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

- Nêu xu hƣớng cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam trong thời gian tới

và những đề xuất xử lý và giải quyết tranh chấp liên quan đến hành vi cạnh tranh

không lành mạnh tại Việt Nam.

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................. 1 2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................. 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 4 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 4 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................ 5 6. Kết cấu của Luận văn .................................................................................. 5 CHƢƠNG I. KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH ............................................................................................. 6 1.1. Khái quát về cạnh tranh không lành mạnh............................................... 6 1.2. Khái quát về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh .................... 7 1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh .................................................................................................. 7 1.2.2. Khái niệm pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ................. 8 1.2.3. Vai trò của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ................ 9 1.2.4. Nội dung điều chỉnh của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ................................................................................................................... 11 1.3. Quy định của Luật Cạnh tranh về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ............................................................................................................................... 12 1.3.1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn ...................................................................... 12 1.3.2. Xâm phạm bí mật kinh doanh ......................................................... 14 1.3.3. Ép buộc trong kinh doanh ................................................................ 16 1.3.4. Gièm pha doanh nghiệp khác .......................................................... 17 1.3.5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác ................... 19 1.3.6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh ............................... 20 1.3.7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ............................. 22 1.3.8. Phân biệt đối xử của hiệp hội .......................................................... 24 1.3.9. Bán hàng đa cấp bất chính ............................................................... 26 1.3.10. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong một số lĩnh vực khác..................................................................................................................... 28 CHƢƠNG II. HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH, THỰC TRẠNG XỬ LÝ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM .................................................................................. 33

ii

2.1. Quy định của pháp luật về xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh ....................................................................................................................... 33 2.1.1. Thẩm quyền xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh ................ 33 2.1.2. Các chế tài áp dụng đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh .. 34 2.2. Thực trạng xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ................... 36 2.2.1. Tổng quan xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ............. 36 2.2.2. Một số vụ việc cụ thể về xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ................................................................................................................... 43 2.3. Một số vấn đề đặt ra trong việc xử lý, giải quyết hành vi cạnh tranh không lành mạnh .................................................................................................... 48 2.3.1. Về quy định của pháp luật ............................................................... 48 2.3.2. Vấn đề giải quyết tranh chấp về cạnh tranh không lành mạnh ........ 49 2.3.3. Vấn đề “Tố tụng kép” trong việc bồi thƣờng thiệt hại .................... 51 2.3.4. Vấn đề văn hóa, thói quen kinh doanh ............................................ 52 CHƢƠNG III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT XỬ LÝ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH .............................................. 54 3.1. Xu hƣớng cạnh tranh không lành mạnh và nhu cầu xử lý tại Việt Nam. ............................................................................................................................... 54 3.2. Một số đề xuất cụ thể nhằm đảm bảo hiệu quả việc xử lý và giải quyết tranh chấp về cạnh tranh không lành mạnh ........................................................... 56 3.2.1. Về cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp ....................................... 56 3.2.1.1. Đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh ......................... 56 3.2.1.2. Đảm bảo sự hài hòa, tính tƣơng thích giữa các luật liên quan 60 3.2.2. Hoàn thiện trình tự, thủ tục xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh ................................................................................................................... 61 3.2.2.1. Giải pháp về thẩm quyền giải quyết tranh chấp ...................... 61 3.2.2.2. Về bồi thƣờng thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra ................................................................................................... 62 3.2.2.3. Về cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính đối với quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh ................................................... 69 3.2.2.4. Chế tài áp dụng đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cần phải đủ mạnh................................................................................. 69 3.2.2.5 Cần áp dụng hòa giải trong giải quyết các vụ việc cạnh tranh . 70 3.2.3. Một số đề xuất khác ......................................................................... 70 3.2.3.1. Tăng cƣờng khả năng phối hợp giữa các cơ quan, bộ, ngành trong việc giải quyết những vụ việc cạnh tranh không lành mạnh ............... 70

iii

3.2.3.2. Phổ biến kiến thức pháp luật về cạnh tranh nói chung và pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh nói riêng ................................... 71 3.2.3.3. Nâng cao ý thức pháp luật và tự bảo vệ của doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng ............................................................................................. 72 3.2.3.4. Xây dựng đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp ................... 74 3.2.3.5. Phát huy vai trò thƣơng lƣợng và hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh .................... 75 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 78

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thực hiện chính sách đổi mới toàn diện, Nhà nƣớc đã tập trung xây dựng và

hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm quản lý có hiệu quả nền kinh tế và xã hội. Nền

kinh tế vận hành theo cơ chế thị trƣợng có sự quản lý của Nhà nƣớc theo định hƣớng

Xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới đƣợc coi là một bƣớc

chuyển đột phá của công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà nƣớc ta khởi xƣớng, lãnh

đạo thực hiện từ năm 1986. Cơ chế kinh tế thị trƣờng đặt ra nhu cầu phải thiết lập và

duy trì một môi trƣờng cạnh tranh công bằng cho tất cả các chủ thể kinh doanh. Xây

dựng hệ thống pháp luật bảo đảm cạnh tranh minh bạch, bình đẳng giữa các doanh

nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế là một trong những nội dung quan trọng đã

đƣợc đề cập trong các văn kiện của Đảng nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế

thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Việc xây dựng và ban hành Luật Cạnh tranh

đƣợc coi là trụ cột trong hệ thống pháp luật kinh tế công, là “Hiến pháp của kinh tế

thị trƣờng”, đã cho thấy tầm quan trọng của Luật Cạnh tranh trong đời sống kinh tế.

Qua hơn 10 năm áp du ̣ng, Luâ ̣t Ca ̣nh tranh năm 2004 tuy đã phần nào phát huy đƣơ ̣c

hiê ̣u quả (Phùng Văn Thành, 2016, tr. 21), nhƣng cũng có khá nhiều ha ̣n chế , đôi khi mớ i chỉ nhƣ “vật trang trí” và chƣa làm tốt vai trò hiến pháp của nền kinh tế1. Nếu nhƣ ca ̣nh tranh là đô ̣ng lƣ̣c cho sƣ̣ phá t triển củ a nền kinh tế thì ca ̣nh tranh không

lành mạnh sẽ “giết chết hiệu quả kinh doanh” (Phạm Tất Thắng, 2016).

Kể tƣ̀ khi mở cƣ̉ a kinh tế , các hoạt động kinh doanh , thƣơng ma ̣i đã và đang

. Hành vi cạnh tranh trên thƣơng trƣờng của mỗi diễn ra sôi đô ̣ng hơn bao giờ hết

chủ thể kinh doanh ngày càng trở nên gay gắt và quyết liệt đã khiến cho mô ̣t số

tình trạng này doanh nghiê ̣p thƣ̣c hiê ̣n các hành vi ca ̣nh tranh không lành ma ̣nh và

hiê ̣n nay đã trở nên khó kiểm soát. Các số liê ̣u đƣơ ̣c công bố trong Bản tin Ca ̣nh

tranh và ngƣờ i tiêu dù ng củ a Cu ̣c quản lý ca ̣nh tranh và bảo vê ̣ ngƣờ i tiêu dù ng số

các vụ cạnh tranh không lành mạnh đang ngày càng nhiều và tinh vi , tuy nhiên mƣ́ c

1 Quan điểm củ a PGS, TS Pha ̣m Duy Nghĩ khi trả lờ i phỏng vấn báo chí. https://baomoi.com/luat-canh-tranh- chua-lam-tot-vai-tro-hien-phap-cua-nen-kinh-te/c/24019866.epi

2

phạt theo các quy địn h hiê ̣n hành chƣa đủ sƣ́ c răn đe 2 khiến cho tình tra ̣ng này vẫn tiếp tu ̣c diễn ra vớ i mƣ́ c đô ̣ ngày càng gay gắt hơn .

Đứng trƣớc đòi hỏi của lý luận và thực tiễn nói trên việc nghiên cứu và xây

dựng pháp luật về vấn đề chống cạnh tranh không lành mạnh là rất cần thiết. Chính

vì vậy, em chọn đề tại “Quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh: thực

tiễn và khuyến nghị xử lý tại Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Những năm qua, ở nƣớc ta pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh thu

hút sự quan tâm của các nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhiều công

trình khoa học ở những mức độ, phạm vi tiếp cận khác nhau đã đề cập đến cơ sở lý

luận cạnh tranh và pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh.

Tiêu biểu nhƣ tài liệu tham khảo và công trình nghiên cứu nhƣ:

- “Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền

kinh tế thị trường ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Nhƣ Phát và Bùi Nguyên Khánh,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001. Tác giả Nguyễn Nhƣ Phát còn có công trình nghiên cƣ́ u về “Cạnh tranh và xây dựng pháp Luật Cạnh tranh ở Việt Nam hiện

nay” của Viện nghiên cứu nhà nƣớc và pháp luật, Nxb Công an nhân dân năm 2001.

Trong các công trình này , các tác giả đã biện giải vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thi ̣ trƣờ ng và đƣa ra các kiến nghi ̣ nhằm xây dƣ̣ng chính sách và pháp luâ ̣t cạnh tranh ở Việt Nam.

- Luận án tiến sỹ luật học “Pháp Luật Cạnh tranh không lành mạnh ở Việt

Nam” của tác giả Lê Anh Tuấn, Đại học quốc gia Hà Nội, 2008. Tác giả đã trình bày

những đặc điểm, tính chất chung, cơ cấu của pháp luật cạnh tranh và vấn đề nhận

dạng thị trƣờng. Làm rõ mối quan hệ giữa pháp luật chống cạnh tranh không lành

2 Ví dụ, Công tyTNHH Điện tử SamsungVina đã thực hiện quảng cáo sản phẩm điều hòa không khí Samsung 2010 với những nội dung quảng cáo thiếu chính xác, khiến ngƣời tiêu dùng có thể hiểu sai về tính năng, công dụng sản phẩm. Tuy nhiên , mƣ́ c pha ̣t chỉ là 30 triê ̣u đồng (Quyết định số 126/QĐ-QLCT xử phạt Công ty TNHH Điện tử Samsung Vina). Có thể xem các vụ việc về cạnh tranh không lành mạnh khác tại Bản tin Cạnh tranh và Ngƣờ i tiêu dù ng số 23/2010 tại: http://www.vca.gov.vn/Newsletters/CanhTranh_23_forweb.pdf (truy câ ̣p ngày 5/12/2018).

3

mạnh với các luật chuyên ngành và với các lĩnh vực pháp luật liên quan đến áp dụng

chế tài. Nghiên cứu so sánh và nêu lên một số mô hình lập pháp về cạnh tranh không

lành mạnh và xu hƣ ớng phát triển của pháp luật về chống ca ̣nh tranh không lành

mạnh ở các nƣớc trên thế giới. Tìm hiểu thực trạng pháp luật về chống ca ̣nh tranh

không lành ma ̣nh ở Việt Nam qua việc phân tích, bình luận, đánh giá thực trạng các

quy định của Luật cạnh tranh năm 2004 và các luật chuyên ngành khác có liên quan

điều chỉnh các hành vi ca ̣nh tranh không lành mạnh. Nhận dạng các biểu hiện của

hành vi ca ̣nh tranh không lành ma ̣nh di ễn ra trên thị trƣờng hiện nay. Phân tích các

quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục xử lý đối với hành vi ca ̣nh tranh

không lành ma ̣nh và đƣa ra các ki ến nghị và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện

pháp luật và hỗ trợ bảo đảm thực thi pháp luật chống ca ̣nh tranh không lành ma ̣nh.

- Đề tài NĐT cấp nhà nƣớc: Hoàn thiện chế độ cạnh tranh thông qua việc tăng

cường thực thi Luật Cạnh tranh, tăng cường năng lực thể chế và các bên có liên

quan – bài học kinh nghiệm của CHLB Đức, cơ quan chủ trì: Trƣờng Đại học Ngoại

thƣơng; Nghiệm thu năm 2014 đã đề cập rất nhiều tới hành vi cạnh tranh không lành

mạnh trong nền kinh tế hiện nay, thực tiễn xử lý theo quy định cũng nhƣ những

khuyến nghị cần thiết cho việc thực thi Luật Cạnh tranh có hiệu quả.

Ngoài ra còn rất nhiều bài báo, tạp chí đã đƣa ra thực trạng cạnh tranh không

lành mạnh và đƣa ra những ý kiến đóng góp cho việc hoàn thiện chế định pháp luật

ở các giác độ khác nhau và cho các lĩnh vƣ̣c chuyên biê ̣t khác nhau . Chẳng ha ̣n, tác giả Ngô Quốc Chiến , trong bài viết “M ột số điều khoản độc quyền trong hợp đồng

nhƣợng quyền thƣơng mại. So sánh pháp luật Việt Nam , Pháp và Liên minh châu

i ngoa ̣i , số 67/2014 đã phân tích các quy đi ̣nh về Âu” đăng trên ta ̣p chí Kinh tế đố cạnh tranh không lành mạnh trong Luật cạnh tranh năm 2004 áp dụng đối với hoạt

đô ̣ng nhƣơ ̣ng quyền thƣơng ma ̣i để chỉ ra các bất câ ̣p . Tác giả cũng đã so sánh các quy đi ̣nh củ a pháp luật Việt Nam với pháp luật và thực tiễn xét xử tại Liên minh châu Âu để đƣa ra mô ̣t số khuyến nghi ̣ đối vớ i Viê ̣t Nam.

Gần đây hơn, tác giả Nguyễn Lan Anh , trong bài viết về “Luâ ̣t Ca ̣nh tranh năm 2004 và những yêu cầu sửa đổi” đăng trên ta ̣p chí Kinh tế đối ngoa ̣i năm 2017 đã

4

phân tích các ha ̣n chế củ a Luâ ̣t ca ̣nh tranh năm 2004 và đề xuất một số giải pháp cụ thể vào Dƣ̣ thảo luâ ̣t ca ̣nh tranh sƣ̉ a đổi , trong đó có nô ̣i dung về xƣ̉ lý các hành vi phản cạnh tranh bằng các biện pháp dân sự .

Các công trình nghiên cứu trên sẽ là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích để tác

giả thực hiện công trình nghiên cứu độc lập của mình nhằm góp phần vào việc làm

rõ thực trạng cạnh tranh và xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam

và đƣa ra một số khuyến nghị cho việc tăng cƣờng xử lý, giải quyết các hành vi cạnh

tranh không lành mạnh hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của Luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về

cạnh tranh không lành mạnh, đánh giá thực trạng về cạnh tranh không lành mạnh ở

Việt Nam, từ đó đƣa ra những khuyến nghị nhằm xử lý và giải quyết tranh chấp một

cách thỏa đáng các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thực tế xảy ra ở Việt

Nam.

Để thực hiện đƣợc mục đích trên, nhiệm vụ của Luận văn là:

- Nghiên cứu, tìm hiểu về cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh nói chung và

pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh nói riêng.

- Nghiên cứu các loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh và nghiên cứu thực

trạng cạnh tranh không lành mạnh trên thị trƣờng cũng nhƣ thực trạng xử lý và giải

quyết tranh chấp về cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam hiện nay.

- Đƣa ra những đề xuất xử lý, giải quyết hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở

Việt Nam.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tƣợng nghiên cứu là hành vi cạnh tranh không lành mạnh và những quy

định tƣơng ứng theo Luật Cạnh tranh năm 2004 (do Luật Cạnh tranh năm 2018 chƣa

có hiệu lực tại thời điểm hiện tại); trình tự, thủ tục, khiếu nại, khởi kiện, các biện

pháp xử lý, chế tài áp dụng đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh; giải quyết

tranh chấp liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh trên thị trƣờng Việt Nam.

5

- Phạm vi nghiên cứu:

Về nội dung, Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu trong mối quan hệ giữa

các quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong Luật Cạnh tranh với

các quy định liên quan tới cạnh tranh trong một số đạo luật kinh tế chuyên sâu về

thƣơng mại, quảng cáo, pháp luật bảo vệ ngƣời tiêu dùng…

Về thời gian, Luận văn lấy mốc thời gian nghiên cứu những vấn đề cạnh tranh,

pháp luật cạnh tranh, vụ việc cạnh tranh không lành mạnh là năm 2004 khi Luật

Cạnh tranh đƣợc ban hành cho đến năm 2025 trên cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm

tăng cƣờng xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trƣờng Việt Nam.

Về không gian, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh xảy ra trên lãnh thổ

Việt Nam.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để hoàn thiện Luận văn, các phƣơng pháp đƣợc sử dụng bao gồm: phƣơng

pháp phân tích – tổng hợp, phƣơng pháp so sánh – đối chiếu, hệ thống hóa… nhằm

làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu về hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng nhƣ

việc xử lý và giải quyết tranh chấp từ các hành vi này.

6. Kết cấu của Luận văn

Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Mục lục và Danh mục tài liệu tham khảo, luận

văn đƣợc chia làm 03 chƣơng nhƣ sau:

- Chƣơng I. Khái quát pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh

- Chƣơng II. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh, thực trạng xử lý và giải

quyết tranh chấp về cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam

- Chƣơng III. Một số đề xuất về xử lý và giải quyết tranh chấp về cạnh tranh

không lành mạnh.

6

CHƢƠNG I. KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG CẠNH TRANH

KHÔNG LÀNH MẠNH

1.1. Khái quát về cạnh tranh không lành mạnh

Cạnh tranh với bản chất là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh trong việc

giành ƣu thế của mình trên thị trƣờng để đạt đƣợc đƣợc mục tiêu nào đó. Để đạt

đƣợc mục tiêu của mình, chủ thể tham gia cạnh tranh có khả năng sử dụng nhiều

cách thức khác nhau, tạo ra tình trạng cạnh tranh ở những mức độ khác nhau, thậm

chỉ sử dụng cả những hành vi trái với chuẩn mực đạo đức kinh doanh để cạnh tranh.

Cạnh tranh không lành mạnh xuất hiện từ một trong những con đƣờng nhƣ vậy.

Cạnh tranh không lành mạnh trƣớc hết là một khái niệm bắt nguồn từ những

quy định mang tính nguyên tắc trong luật tƣ, cụ thể là trong luật dân sự, theo đó các

chủ thể trong giao dịch (dân sự hay thƣơng mại) phải đảm bảo tôn trọng thuần

phong và đạo đức xã hội, tập quán kinh doanh thông thƣờng của mỗi quốc gia. Với

quy định nhƣ vậy, giao dịch thƣơng mại trên thị trƣờng cũng phải đảm bảo tôn trọng

những quy tắc trong xã hội về đạo đức kinh doanh thông thƣờng. Sự phát triển đa

dạng của các hoạt động kinh doanh trong điều kiện tự do hóa thƣơng mại, tự do cạnh

tranh ở các nền kinh tế theo cơ chế thị trƣờng đã kéo theo những hành vi cạnh tranh

đa dạng, phức tạp nhằm dành đƣợc lợi thế nhất định cho mình, thậm chí gây thiệt hại

cho đối thủ cạnh tranh khác.

Nhƣ vậy cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cạnh tranh đi ngƣợc lại

các nguyên tắc xã hội tốt đẹp, tập quán và truyền thống kinh doanh thông thƣờng,

xâm phạm lợi ích của các chủ thể kinh doanh khác, lợi ích của ngƣời tiêu dùng và

lợi ích chung của xã hội. Cạnh tranh không lành mạnh luôn có bản chất là không tốt

đẹp, không công bằng và bất chính nhằm vào đối thủ cạnh tranh cụ thể nào đó hoặc

gây bất lợi cho ngƣời tiêu dùng. Những thủ đoạn gây cản trở hoạt động hoặc gây

thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp đến chủ thể kinh doanh khác cũng nhƣ cho ngƣời

tiêu dùng luôn là những dấu hiệu đặc trƣng của hành vi này.

7

1.2. Khái quát về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh

1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật chống cạnh tranh

không lành mạnh

Trƣớc năm 1986 nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung.

Những hạn chế của nền kinh tế này làm cho năng suất lao động trong các tổ chức

đơn vị sản xuất kinh tế, kinh doanh đã không đƣợc nâng cao, cạnh tranh có thể coi là

xa lạ đối với hoạt động kinh doanh. Nhƣng kể từ sau năm 1986, Việt Nam chuyển từ

nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội

chủ nghĩa thì tính hiệu quả và tính kinh tế của nền kinh tế theo cơ chế thị trƣờng đã

cao hơn rất nhiều. Với quan điểm “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,

nói rõ sự thật”, Đảng Cô ̣ng sản Việt Nam đã chỉ đạo mạnh mẽ quá trình tổng kết,

phân tích đánh giá thực tiễn, từ đó xác định các mục tiêu, nhiệm vụ cho từng thời

gian cụ thể. Nghị quyết đại hội Đại biểu toàn quốc khóa VI (1986) với đƣờng lối đổi

mới nền kinh tế theo hƣớng phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo

định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Doanh nghiệp thuộc các nền kinh tế khác cùng tồn tại

bình đẳng. Điều này đã tạo nên sự cạnh tranh của các chủ thể tham gia thị trƣờng

cạnh tranh. Tại đại hội lần thứ VIII của Đảng đã tổng kết 10 năm thực hiện đƣờng

lối đổi mới và khẳng định: “Nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội”.

Chính đƣờng lối đổi mới nền kinh tế theo hƣớng phát triển nền kinh tế nhiều thành

phần định hƣớng xã hội chủ nghĩa đã tạo nên sự cạnh tranh của các chủ thể tham gia

thị trƣờng và mở cửa cho thị trƣờng cạnh tranh hoạt động.

Trong những năm đầu của thời kì đổi mới, chúng ta chƣa ban hành Luật Cạnh

tranh với tƣ cách là một đạo luật độc lập điều chỉnh các quan hệ cạnh tranh, nhƣng

cũng đã có một số quy phạm pháp luật nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác

nhau điều chỉnh vấn đề này. Luật Thƣơng mại năm 1997 là văn bản đầu tiên đã quy

định cấm những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đó là các hành vi: gièm pha

thương nhân khác, ngăn cản, lôi kéo, đe dọa nhân viên hoặc khách hàng của thương

nhân khác, lừa dối khách hàng, gây nhầm lẫn cho khách hàng, khuyến mại bất hợp

pháp… (Điều 8, 9).

8

Bộ Luật hình sự năm 1999 và sau này là Bộ luật hình sự năm 2015 sƣ̉ a đổi

năm 2017 cũng đề cập tới một số tội nhƣ: Điều 192 quy định về tội: “Sản xuất, buôn

bán hàng giả”; Điều 193 quy định về tội: “Sản xuất, buôn bán hàng giả là lƣơng

thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm”; Điều 197 quy định về tội: “Quảng cáo gian

dối”; Điều 198 quy định về tội: “Lừa dối khách hàng”...

Trong Luật Quảng cáo năm 2012 các hành vi quảng cáo bị cấm đã đƣợc quy

định nhƣ: quảng cáo gian dối, quảng cáo nói xấu, so sánh hoặc gây nhầm lẫn với cơ

sở sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ của ngƣời khác… Ngoài ra, còn có một số

quy định pháp luật trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, chúng khoán, đấu thầu…

cũng điều chỉnh một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực này.

Tuy nhiên, những quy định trên mới chỉ là sự liệt kê chứ chƣa đi vào đời sống

kinh tế xã hội do còn thiếu các quy định cụ thể về cơ chế áp dụng cũng nhƣ các chế

tài áp dụng với doanh nghiệp vi phạm.

Chính vì vậy, ngày 3 tháng 12 năm 2004 tại kì họp thứ VI, quốc hội khóa XI

đã thông qua Luật Cạnh tranh 2004 và ngày 12 tháng 6 năm 2018, Quốc hội thông

qua Luật Cạnh tranh mới, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2019. Luật

Cạnh tranh cùng các nghị định hƣớng dẫn là những văn bản trực tiếp điều chỉnh các

hành vi hạn chế cạnh tranh và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

1.2.2. Khái niệm pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh

Trƣớc hết, để hiểu đƣợc khái niệm trên chúng ta phải làm rõ đƣợc khái niệm

pháp luật cạnh tranh. Pháp luật cạnh tranh nếu đƣợc hiểu theo nghĩa rộng bao gồm

pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, pháp luật chống hạn chế cạnh tranh,

những quy định điều chỉnh hoạt động tố tụng cạnh tranh và tất cả các quy phạm

pháp luật điều chỉnh hoạt động cạnh tranh trong các văn bản pháp luật có liên quan.

Theo nghĩa hẹp, pháp luật cạnh tranh là một đạo luật và những văn bản hƣớng dẫn

thi hành điều chỉnh hoạt động cạnh tranh nhằm bảo vệ tự do cạnh tranh, cơ cấu thị

trƣờng cũng nhƣ môi trƣờng cạnh tranh bình đẳng và công bằng (Tăng Văn Nghĩa,

2013).

9

Nhƣ vậy các khái niệm trên về Luật Cạnh tranh đều thể hiện một điểm chung:

pháp luật cạnh tranh là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều tiết và kiểm soát cạnh

tranh nhằm tạo môi trƣờng cạnh tranh bình đẳng, hợp pháp bảo vệ lợi ích quốc gia,

lợi ích của doanh nghiệp và của ngƣời tiêu dùng, góp phần thúc đẩy kinh tế đất nƣớc

phát triển. Pháp luật cạnh tranh là công cụ của Nhà nƣớc để đảm bảo môi trƣờng

cạnh tranh lành mạnh.

Qua đó có thể hiểu pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh là tổng hợp

các quy phạm pháp luật điều chỉnh những hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cụ thể của mọi chủ thể tham gia thị

trƣờng nhằm mục đích cạnh tranh, thể hiện tính không lành mạnh có thể vô tình

hoặc cố ý gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh. Tính không lành mạnh của hành vi

cạnh tranh phụ thuộc vào nhiều yếu tố của quan hệ thị trƣờng và đƣợc điều chỉnh về

cơ bản theo nguyên tắc chung của pháp luật dân sự.

1.2.3. Vai trò của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh

Cơ sở pháp lý quan trọng tạo điều kiện bảo đảm cho cạnh tranh tồn tại là các

quy định về tự do kinh doanh và quyền đƣợc tồn tại bình đẳng của các doanh

nghiệp. Chỉ khi nào đƣợc tự do gia nhập thị trƣờng, tự do giao kết, và đảm bảo

quyền sở hữu thì lúc đó các chủ thể tham gia thị trƣờng mới có đủ năng lực để quyết

định phƣơng thức kinh doanh. Khi đó, cạnh tranh mới có môi trƣờ ng để tồn tại, và

phát huy tác dụng.

Với tƣ cách là lĩnh vực pháp luật đặc thù của nền kinh tế thị trƣờng, pháp luật

cạnh tranh bảo vệ cạnh tranh bằng cách chống lại các hành vi cạnh tranh không lành

mạnh và loại bỏ hạn chế cạnh tranh. Có thể thấy, pháp luật chống cạnh tranh không

lành mạnh – một bộ phận của pháp luật cạnh tranh có những vai trò cơ bản sau:

Thứ nhất, cạnh tranh là một hoạt động của nền kinh tế thị trƣờng. Cạnh tranh

vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Môi trƣờng cạnh tranh tốt giúp

phát huy đƣợc tiềm lực và sức mạnh kinh doanh vốn có của các chủ thể tham gia thị

trƣờng.

10

Việc bảo đảm môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh luôn đồng nghĩa với việc phải

ngăn chặn và loại trừ những hành vi cạnh tranh thiếu lành mạnh nhƣ kiểm soát đƣợc

độc quyền. Muốn ngăn chặn cạnh tranh thiếu lành mạnh, một mặt phải không ngừng

hoàn thiện cơ chế pháp luật để không còn kẽ hở cho những hành vi gian lận. Mặt

khác ngay bản thân quy đi ̣nh pháp luật, bên cạnh những quy định xác lập khung

pháp lý cho sự cạnh tranh, cũng cần có những quy định đối với những hành vi không

lành mạnh, bảo vệ quyền lợi của các chủ thể bị các hành vi đó xâm hại.

Pháp luật cạnh tranh bảo đảm cạnh tranh lành mạnh bằng cách quy định các

nguyên tắc trong cạnh tranh, quy định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và

các biện pháp xử lý vi phạm đối với các hành vi này.

Thứ hai, điều tiết quá trình cạnh tranh, tôn trọng và bảo đảm quyền lợi hợp

pháp của ngƣời tiêu dùng, bảo vệ quyền lợi của chủ thể kinh doanh, nhà nƣớc và xã

hội.

Thị trƣờng hình thành từ mối quan hệ qua lại giữa ngƣời mua và ngƣời bán,

hay rộng hơn là ngƣời sản xuất và ngƣời tiêu dùng dƣới quy luật cung cầu và quy

luật giá trị. Ngƣời tiêu dùng có quyền lựa chọn hàng hóa cũng nhƣ ngƣời cung ứng

hàng hóa và trả tiền cho sự lựa chọn đó. Về phía ngƣời sản xuất, lợi nhuận không chỉ

là mục tiêu, động lực mà còn là phƣơng thức tồn tại của họ. Việc nâng cao năng lực

sản xuất sẽ mở rộng khả năng đáp ứng các nhu cầu luôn thay đổi và ngày một tăng

của ngƣời tiêu dùng. Nhƣ vậy, cạnh tranh tham gia vào mọi phƣơng diện của nền

kinh tế, nó sàng lọc và lành mạnh hóa thị trƣờng, thúc đẩy sản xuất và điều tiết tiêu

dùng.

Thứ ba, răn đe và nghiêm cấm mọi hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Tính răn đe thể hiện rất rõ trong việc Luật Cạnh tranh năm 2004 cũng nhƣ Luật

Cạnh tranh năm 2018 quy định các hình thức xử lý vi phạm đối với các chủ thể thực

hiện những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tùy theo tính chất, mức độ vi

phạm, hậu quả hành vi mà các chủ thể vi phạm có thể bị xử phạt hành chính, bồi

thƣờng thiệt hại, thậm chí bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

11

Mục đích mà pháp luật cạnh tranh quy định nhƣ vậy là để răn đe và nghiêm

cấm các chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Qua đó tạo tâm lý,

thái độ tôn trọng pháp luật của các chủ thể kinh doanh.

1.2.4. Nội dung điều chỉnh của pháp luật chống cạnh tranh không lành

mạnh

Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ra đời nhằm đảm bảo thƣơng mại

đƣợc diễn ra một cách công bằng và không bị tác động tiêu cực bởi những hành vi

cạnh tranh không lành mạnh, không phù hợp với chuẩn mực đạo đức kinh doanh

thông thƣờng. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh cuất hiện là do nhu cầu

của thị trƣờng, nhất là trong phạm vi châu Âu – nơi mà thị trƣờng cũng nhƣ tự do

thƣơng mại xuất hiện từ rất sớm. Ban đầu khái niệm pháp luật cạnh tranh đƣợc hiểu

đồng nghĩa với pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh theo cách hiểu ngày

nay.

Về nguyên tắc, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh điều chỉnh những

hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành

vi cụ thể của mọi chủ thể tham gia thị trƣờng (kể cả không phải doanh nghiệp) nhằm

mục đích cạnh tranh, thể hiện tính không lành mạnh có thể vô tình hoặc cố ý gây

thiệt hại cho một đối thủ cạnh tranh hay một bạn hàng cụ thể. Tính không lành mạnh

của hành vi cạnh tranh phụ thuộc vào nhiều yếu tố của quan hệ thị trƣờng và đƣợc

điều chỉnh cơ bản theo nguyên tắc chung của pháp luật dân sự (luật tƣ). Điều này đã

đƣợc chứng minh bởi thực tế (chẳng hạn ở Pháp, Italia) ngay cả khi không có đạo

luật về chống cạnh tranh không lành mạnh với tính cách là một chế định pháp luật

riêng biệt, pháp luật dân sự vẫn có thể đƣợc áp dụng để chống lại các hành vi cạnh

tranh không lành mạnh, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia thị trƣờng.

Trong một số trƣờng hợp đặc biệt, hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể bị xử

lý về mặt hình sự. Dƣới cả hai giác độ xử lý trên thì pháp luật chỉ can thiệp khi có sự

khiếu kiện của ngƣời có quyền lợi và lợi ích liên quan. Các chế tài phần lớn là buộc

phải đình chỉ hành vi và bồi thƣờng thiệt hại xảy ra.

12

1.3. Quy định của Luật Cạnh tranh về hành vi cạnh tranh không lành

mạnh

Sự ra đời của Luật Cạnh tranh năm 2004 đã đánh dấu bƣớc phát triển quan

trọng trong việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật cho

nền kinh tế theo cơ chế thị trƣờng ở nƣớc ta. Trong điều kiện kinh tế thị trƣờng, việc

xuất hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là tất yếu. Luật Cạnh tranh năm

2004 quy định những hành vi cạnh tranh không lành mạnh sau đây:

1.3.1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn3

Hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn là việc doanh nghiệp sử dụng chỉ dẫn chứa đựng

thông tin gây nhầm lẫn về tên thƣơng mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tƣợng kinh

doanh, bao bì...làm lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ nhằm mục

đích cạnh tranh. Chỉ dẫn (gây nhầm lẫn) cũng đƣợc quy định tƣơng tự tại khoản 2,

Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ. Theo đó chỉ dẫn thƣơng mại là các dấu hiệu, thông tin

nhằm hƣớng dẫn thƣơng mại hàng hóa, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thƣơng mại,

biểu tƣợng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của

hàng hóa, nhãn hiệu hàng hóa. Việc chỉ dẫn gây nhầm lẫn là việc lợi dụng chỉ dẫn

thƣơng mại đã đƣợc đầu tƣ, hình thành và phát triển bởi các chủ thể khác và sẽ mang

lại lợi ích kinh tế khi sử dụng chúng. Việc sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn cũng có thể

đƣợc thể hiện thông qua các hành vi gắn với chỉ dẫn thƣơng mại đó lên hàng hóa,

bao bì hàng hóa, phƣơng tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch để kinh doanh, phƣơng tiện

quảng cáo, bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu hàng hóa có gắn chỉ

dẫn thƣơng mại đó.

Nhằm đảm bảo cạnh tranh công bằng cũng nhƣ bảo vệ quyền lợi của khách

hàng, của ngƣời tiêu dùng trƣớc hết thể hiện không rõ ràng về nhãn hiệu hàng hóa,

tên thƣơng mại, bao bì, chỉ dẫn địa lý... Luật Cạnh tranh quy định cấm doanh nghiệp

sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ, làm sai

lệch nhận thức của khách hàng nhằm mục đích cạnh tranh. Đồng thời luật cũng quy

định cấm doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm

3 Quy định này đã bị huỷ bỏ theo Luật Cạnh tranh năm 2018.

13

lẫn (Điều 40). Đây chính là việc kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn

gây nhầm lẫn ở cấp độ thứ hai. Doanh nghiệp kinh doanh ở đây là khách hàng của

doanh nghiệp sử dụng các chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về hàng hóa,

dịch vụ đối với ngƣời tiêu dùng.

Việc nhầm lẫn do chỉ dẫn sai không chỉ là nhầm lẫn làm sai lệch nhận thức của

khách hàng về hàng hóa, dịch vụ cung cấp, về chỉ dẫn thƣơng mại của hàng hóa mà

còn tạo ra sự nhầm lẫn với hàng hóa, dịch vụ với thƣơng nhân khác. Mục đích của

hành vi chủ thể kinh doanh ở đây chính là thông qua sự nhầm lẫn của khách hàng để

họ có thể chấp nhận hàng hóa hoặc dịch vụ mà trong sự nhận thức thông thƣờng họ

không chấp nhận hàng hóa, dịch vụ nhƣ vậy. Điều này có thể làm thiệt hại không chỉ

đối với ngƣời tiêu dùng mà còn cả đối với chủ thể kinh doanh khác cùng loại hàng

hóa hoặc dịch vụ tƣơng tự (bị tổn hại từ việc chỉ dẫn gây nhầm lẫn).

Biểu hiện bên ngoài của việc chỉ dẫn gây nhầm lẫn thông qua nhiều cách thức

khác nhau, nhƣng tựu chung lại chúng đều làm cho khách hàng cũng nhƣ ngƣời tiêu

dùng nhận thức không đúng về hàng hóa, dịch vụ. Việc sử dụng chỉ dẫn gây nhầm

lẫn mang tính lợi dụng thành quả của chủ thể kinh doanh khác một cách trái phép

ngay cả khi giữa các bên không tồn tại quan hệ cạnh tranh. Đây cũng chính là lý do

hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn nói riêng và hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói

chung bị xem xét xử lý không cần xét đến thị trƣờng liên quan. Mức độ cao nhất của

chỉ dẫn gây nhầm lẫn là sản xuất và phân phối hàng giả. Do tính chất và mức độ

nguy hại của việc sản xuất và phân phối hàng giả, hành vi này không chỉ bị xử lý

theo pháp luật cạnh tranh mà còn có thể bị xử lý theo pháp luật hình sự. Sự nguy hại

cho khách hàng, ngƣời tiêu dùng trong trƣờng hợp này có thể thấy khi họ sử dụng

hàng hóa giả thuộc nhóm hàng hóa nhạy cảm, đòi hỏi độ an toàn cao nhƣ dƣợc

phẩm, thực phẩm, linh kiện máy móc đòi hỏi sự an toàn hay trình độ công nghệ

cao... Mặt khác sản xuất và cung cấp hàng hóa có chỉ dẫn gây nhầm lẫn còn vi phạm

cả đối tƣợng đƣợc bảo vệ bởi pháp luật sở hữu trí tuệ liên quan đến bảo hộ nhãn

hiệu, tên thƣơng mại và chỉ dẫn địa lý của hàng hóa. Tuy nhiên, các đối tƣợng đó

phải là hợp pháp, có nghĩa là đã đƣợc đăng ký và bảo hộ theo quy định của pháp

14

luật, hoặc đã đƣợc xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp đối tƣợng đó (đối với tên

thƣơng mại).

Nhƣ vậy việc quy kết một hàng hóa dịch vụ có thể gây nhầm lẫn chỉ đặt ra khi

nó xâm phạm lợi ích liên quan đến sản phẩm cụ thể đã đƣợc đăng ký bảo hộ, hoặc

tồn tại trên thực tế đƣợc pháp luật thừa nhận.

1.3.2. Xâm phạm bí mật kinh doanh

Trong môi trƣờng kinh doanh có cạnh tranh, doanh nghiệp luôn có những

thông tin quan trọng, thậm chỉ liên quan đến sự tồn tại của doanh nghiệp để có đƣợc

ƣu thế riêng trong kinh doanh. Những thông tin này luôn luôn đƣợc lƣu giữ kín và

đƣợc coi là “bí mật kinh doanh”. Bí mật kinh doanh có thể đƣợc coi là vũ khí lợi hại

của doanh nghiệp, khi nó bị phổ biến hoặc xâm phạm doanh nghiệp sẽ không còn ƣu

thế của riêng mình nữa. Do tính bí mật và có giá trị sinh lợi (nếu đƣợc tiếp cận) của

các thông tin liên quan đến nội dung và phƣơng pháp kinh doanh, bí mật kinh doanh

đƣợc coi là đối tƣợng bảo vệ của pháp luật về sở hữu trí tuệ.

Bí mật kinh doanh có thể bao gồm: phƣơng pháp kinh doanh, phƣơng pháp

tính giá, thông tin nhạy cảm về thị trƣờng, thông tin về quản trị quan hệ khách hàng,

nguồn nguyên liệu...kể cả bí quyết kỹ thuật đều có thể là những tài liệu riêng đƣợc

lƣu giữ dƣới chế độ bảo mật cao thấp tùy theo mức độ đánh giá của chủ sở hữu. Vì

mục tiêu lợi nhuận và lợi thế cạnh tranh các bí mật kinh doanh luôn là đối tƣợng của

các đối thủ cạnh tranh săn tìm để chiếm đoạt nhằm tạo lợi thế cạnh tranh. Bởi vậy bí

mật kinh doanh là một trong những công cụ phƣơng tiện đƣợc bảo vệ để khai thác

lợi ích cũng nhƣ duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Bí mật kinh doanh

không chỉ là đối tƣợng quan trọng đƣợc bảo vệ bởi pháp luật cạnh tranh trƣớc sự

xâm hại của các đối thủ cạnh tranh mà chúng còn đƣợc bảo vệ bởi pháp luật sở hữu

trí tuệ (khoản 3 Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ). Nếu pháp luật cạnh tranh bảo vệ quyền của chủ thể có bí mật kinh doanh trƣớc sự xâm hại với mục đích cạnh tranh không

lành mạnh thì pháp luật sở hữu trí tuệ bảo vệ quyền chủ sở hữu với bí mật kinh

doanh dƣới giác độ của chủ sở hữu hợp pháp đối với quyền sở hữu công nghiệp.

15

Dƣới giác độ của pháp luật cạnh tranh, bí mật cạnh tranh không phải bí mật

thông thƣờng, nó phải thỏa mãn những điều kiện nhất định để có thể trở thành đối

tƣợng đƣợc bảo vệ pháp luật chống cạnh tranh không làm mạnh

Theo quy định tại khoản 10 Điều 3 Luật Cạnh tranh, bí mật kinh doanh là

thông tin có đủ điều kiện sau đây:

a) Không phải là hiểu biết thông thƣờng;

b) Có khả năng áp dụng trong kinh doanh và khi đƣợc sử dụng sẽ tạo cho

ngƣời nắm giữ thông tin đó có lợi thế hơn so với ngƣời không nắm giữ hoặc không

sử dụng thông tin đó;

c) Đƣợc chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để thông tin đó

không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận đƣợc.

Nội dung trên tƣơng tự nhƣ quy định tại Điều 84 Luật sở hữu trí tuệ về điều

kiện chung đối với bí mật kinh doanh đƣợc bảo hộ.

Việc một doanh nghiệp xâm phạm bí mật kinh doanh thông qua tiếp cận thu

thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của doanh nghiệp khác sẽ gây những bất lợi

cạnh tranh cho doanh nghiệp đó. Vì vậy để đảm bảo môi trƣờng cạnh tranh lành

mạnh, công bằng, Luật Cạnh tranh cấm doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây:

Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các

biện pháp bảo mật của ngƣời sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh đó.

Tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không đƣợc phép của

chủ sở hữu bí mật kinh doanh.

Vi phạm hợp đồng bảo mật, lừa gạt, lợi dụng lòng tin của ngƣời có nghĩa vụ

bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông tin thuộc bí mật kinh doanh của chủ

sở hữu bí mật kinh doanh đó.

Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của ngƣời khác khi ngƣời

này làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh, làm thủ tục

lƣu hành sản phẩm, hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan

16

nhà nƣớc hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh, xin cấp giấy

phép liên quan đến kinh doanh, hoặc đƣợc lƣu hành sản phẩm.

Tóm lại bí mật kinh doanh là tài sản trí tuệ của doanh nghiệp đƣợc pháp luật

bảo vệ. Việc tiếp cận, sử dụng bí mật kinh doanh của một doanh nghiệp bằng con

đƣờng trái phép vì mục đích cạnh tranh sẽ bị quy kết là vi phạm pháp luật chống

cạnh tranh không lành mạnh.

1.3.3. Ép buộc trong kinh doanh

Tự do kinh doanh là quyền không thể thiếu đƣợc của bất kỳ chủ thể kinh doanh

về mặt thực tế cũng nhƣ tiềm năng. Vì mục tiêu đạt đƣợc lợi thế cạnh tranh chủ thể

kinh doanh có sử dụng những hành vi cạnh tranh không lành mạnh thông qua việc

dồn khách hàng vào tình thế bắt buộc phải chấp nhận ký kết hợp đồng, hoặc chấp

nhận các điều kiện thƣơng mại không mong muốn mà do điều kiện hoàn cảnh nào

đó đã không có cách lựa chọn nào khác.

Ép buộc kinh doanh thƣờng xuất hiện từ những quan hệ kinh doanh không có

sự tƣơng xứng về thế mạnh thị trƣờng giữa các bên. Theo đó bên có thế mạnh sẽ

khai thách lợi thế của mình để ép buộc chủ thể kinh doanh nhỏ hơn phải chấp nhận

hợp đồng hoặc điều kiện mà bên có thế mạnh đƣa ra. Bởi vậy chủ thể kinh doanh

nhỏ phải từ bỏ hoặc ngừng giao dịch những doanh nghiệp thuộc mối quan hệ cũ của

họ. Điều 42 Luật Cạnh tranh quy định: Cấm doanh nghiệp ép buộc khách hàng, đối

tác kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng hành vi đe dọa hoặc cƣỡng ép để buộc

họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó.

Dƣới giác độ pháp luật dân sự những giao dịch dân sự, thƣơng mại nhƣ vậy

thiếu sự tự nguyện, xâm phạm quyền tự định đoạt của một trong các bên tham gia và

chúng có thể bị tuyên bố vô hiệu. Việc ép buộc thể hiện bằng cách gây áp lực, đe

dọa gây thiệt hại buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác làm

theo ý chí của mình, nếu không khách hàng, đối tác doanh nghiệp sẽ phải chịu

những hậu quả bất lợi mà doanh nghiệp ép buộc tạo ra. Hậu quả bất lợi dƣờng nhƣ

không tránh khỏi đối với khách hàng/đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác làm

cho họ buộc phải làm theo những yêu cầu của doanh nghiệp tiến hành hành vi ép

17

cuộc đó chuyển sang giao dịch với mình hoặc với một chủ thể khác đƣợc chỉ định.

Hành vi ép buộc có thể thực hiện thông qua mọi con đƣờng, mọi mối quan hệ trong

giao dịch cũng nhƣ ngoài giao dịch để đạt đƣợc mục đích kinh doanh không lành

mạnh. Bởi vậy hành vi ép buộc trong kinh doanh thể hiện động cơ và mục đích xấu

của chủ thể tiến hành hành vi.

Dƣới giác độ nghiên cứu, chủ thể tiến hành hành vi ép buộc trong kinh doanh

có thể là chủ doanh nghiệp, nhân viên của doanh nghiệp, hoặc bất kỳ cá nhân nào

khác giúp sức với mục đích cạnh tranh không lành mạnh. Việc chứng minh đƣợc

động cơ, mục đích....của những hành vi này là điều kiện cơ bản để có thể quy kết

chủ thể đó có vi phạm quy định về chống cạnh tranh không lành mạng hay không.

1.3.4. Gièm pha doanh nghiệp khác4

Trong điều kiện kinh doanh trên thị trƣờng tự do, việc đƣa tin không đúng sự

thật do cố ý hay vô ý về chủ thể kinh doanh khác là điều rất dễ xảy ra. Thông tin

không đúng sự thật đó theo hƣớng tiêu cực và gây bất lợi cho chủ thể kinh doanh

nếu nó đƣợc phổ biến ra ngoài. Đƣa thông tin xấu về một doanh nghiệp không đúng

sự thật chính là hình thức của việc gièm pha doanh nghiệp. Gièm pha doanh nghiệp

khác nhằm làm cho doanh nghiệp này mất uy tín, kéo theo đó mất khách hàng và thu

hẹp thị phần là những thiệt hại khó lƣờng đối với bên bị thiệt hại do hành vi gièm

pha. Để chống lại thủ đoạn cạnh tranh này, ngay cả pháp luật dân sự của các quốc

gia đều có những quy định mang tính nguyên tắc nhằm bảo vệ nhân phẩm, danh dự,

và uy tín của mọi pháp nhân và thể nhân.

Bên cạnh những quy định chung của pháp luật dân sự, trong lĩnh vực kinh

doanh thông thƣờng vẫn có các quy định riêng dành cho các thƣơng nhân với tƣ

cách là chủ thể tham gia cạnh tranh trên thị trƣờng. Trong thực tiễn, chủ thể kinh

doanh vì mục đích cạnh tranh có thể sử dụng cả những thông tin không đúng sự thật

nhằm gây tổn hại đến lợi ích hợp pháp của đối thủ cạnh tranh khác.

4 Hành vi này cũng đƣợc sửa đổi nhỏ theo Luật Cạnh tranh năm 2018.

18

Dƣới giác độ của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, mọi hành vi

trực tiếp hay gián tiếp đƣa ra thông tin không trung thực, gây ảnh hƣởng xấu đến uy

tín, tình trạng tài chính và các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác đƣợc

định danh là hành vi “gièm pha thƣơng nhân khác”. Điều 43 Luật Cạnh tranh quy

định: “Cấm doanh nghiệp gièm pha doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp hoặc

gián tiếp đƣa ra thông tin không trung thực, gây ảnh hƣởng xấu đến uy tín, tình trạng

tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó”.

Pháp luật cạnh tranh chỉ cấm và tác động đến những hành vi gièm pha, bôi nhọ

doanh nghiệp khi hành vi đó đƣợc thực hiện vì mục đích cạnh tranh. Chủ thể tiến

hành hành vi này có thể là bất kỳ ai, thông qua bất kỳ cách thức nào để gièm pha

doanh nghiệp khác nhƣ: thực hiện thủ đoạn bôi nhọ, lăng mạ, hạ thấp uy tín kinh

doanh của đối thủ cạnh tranh là trƣờng hợp điển hình về hành vi cạnh tranh không

lành mạnh ở dạng này. Tuy nhiên để một hành vi gièm pha doanh nghiệp khác bị

cấm, nó phải thỏa mãn những điều kiện sau:

Gièm pha doanh nghiệp khác tức là sự gièm pha đó phải có đối tƣợng là chủ

thể kinh doanh cụ thể, đang tồn tại và có thể cùn hoặc không cùng quan hệ cạnh

tranh.

Hành vi gièm pha phải xuất phát từ một chủ thể kinh doanh hoặc ngƣời giúp

đỡ cho chủ thể này một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.

Đối tƣợng của hành vi gièm pha có thể liên quan đến các mặt doanh nghiệp

khác nhƣ: uy tín, văn hóa doanh nghiệp, quy trình hoạt động, chất lƣợng sản phẩm,

cách thức bán hàng, tiềm lực kinh tế - tài chính...

Cũng cần phải phân biệt giữa gièm pha, bôi nhọ... với những đánh giá, nhận

xét về sản xuất, kinh doanh...của doanh nghiệp khác. Đây cũng là vấn đề xuất hiện

phổ biến trong thực tiễn kinh doanh. Nhận định, đánh giá về một chủ thể kinh doanh

nào đó là không tránh khỏi. Tuy nhiên những nhận định, đánh giá đó không có mục

đích cạnh tranh, mang thái độ chủ quan và thông thƣờng không bị cấm dƣới giác độ

của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh.

19

Hiện nay trên mạng Internet có nhiều trang mạng, blog...đang trở thành

phƣơng tiện bị lạm dụng cho những hành vi gièm pha, bôi nhọ doanh nghiệp khác

mà chƣa có biện pháp kiểm soát hữu hiệu. Mặc dù vậy, việc xác định một hành vi

đƣa thông tin xấu về một doanh nghiệp khác là hành vi gièm pha theo Luật Cạnh

tranh trở nên khá phức tạp.

1.3.5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác

Về nguyên tắc, chủ thể kinh doanh có thể sử dụng bất kỳ phƣơng tiện cạnh

tranh hợp pháp nào để đạt đƣợc lợi thế trong kinh doanh. Tuy nhiên nếu doanh

nghiệp muốn hoạt động kinh doanh của mình diễn ra thuận lợi bằng cách gây rối,

cản trở hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác thì bị coi là bất hợp pháp.

Điều 44 Luật Cạnh tranh quy định: “Cấm doanh nghiệp gây rối hoạt động kinh

doanh hợp pháp của doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp, hoặc gián tiếp cản

trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó. Bên cạnh đó trong

từng lĩnh vực kinh doanh có liên quan, cũng có thể có quy định bổ sung về gây rối

hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác.

Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác có thể là bất kể các hành

vi trực tiếp hay gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp khác. Về bản chất, hành vi gây rối hoạt động của bất kỳ chủ thể nào trong xã

hội luôn luôn mang bản chất là hành vi xấu. Hành vi này đƣợc tiến hành nhằm vào

doanh nghiệp nào đó với mục đích cạnh tranh mới đƣợc coi là cạnh tranh không lành

mạnh. Chẳng hạn nhƣ hành vi phá rối tại cơ sở kinh doanh, gây nhiễu hệ thống

thông tin liên lạc, làm trục trặc nguồn điện năng phục vụ kinh doanh, thiết kế, sắp

đặt chƣớng ngại vật ...tại địa điểm, cơ sở kinh doanh của đối thủ cạnh tranh đều có

thể bị coi là hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác.

Về hình thức biểu hiện và tính chất của hành vi này là gây rối hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp khác cũng là chiến lƣợc ngăn cản hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp khác. Theo quy định của Luật Cạnh tranh Hoa Kỳ thì không chia nhỏ

ba hành vi mà nó quy định gộp cả hai hành vi ép buộc trong kinh doanh vào gây rối

hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên Luật Cạnh tranh Việt Nam đã quy định tách biệt 3

20

hành vi ra thành những hành vi khác nhau thể hiện ở chỗ: Nếu ép buộc trong kinh

doanh sử dụng các thủ đoạn có tính chất côn đồ với khách hàng, với đối tác kinh

doanh của doanh nghiệp khác; nếu gièm pha là việc sử dụng các thông tin không

trung thực về doanh nghiệp khác thì gây rối hoạt động kinh doanh là sử dụng bất cứ

công cụ nào ngoài những thủ đoạn nói trên, thì hành vi gây rối hoạt động của doanh

nghiệp khác có thể đƣợc biểu hiện dƣới hai hình thức:

Thứ nhất, là hành vi nhằm cản trợ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

khác, Hành vi này đƣợc biểu hiện dƣới hình thức nhƣ tác động trực tiếp tới nguồn

cung cấp nguyên liệu, cản trở việc tiêu thụ hàng hóa…

Thứ hai, những hành vi làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Hành vi này biểu hiện dƣới những cách thức nhƣ dụ dỗ, mua chuộc cán bộ, công

nhân viên kỹ thuật có trình độ cao của doanh nghiệp cạnh tranh thôi việc để sang

doanh nghiệp mình làm với mức lƣơng cao hơn, kích động, xúi giục công nhân

doanh nghiệp cạnh tranh đình công, bãi công…

Nhìn chung gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác là hành vi có

mục đích xấu trong cạnh tranh. Điều kiện áp dụng đối với hành vi này là:

Chủ thể tiến hành hành vi là doanh nghiệp (trên thực tế, doanh nghiệp có thể

chỉ là chủ mƣu, ngƣời thực hiện là ngƣời giúp sức hoặc theo sự thỏa thuận).

Chủ thể bị gây rối cũng là doanh nghiệp, doanh nghiệp này không nhất thiết

cùng trong quan hệ cạnh tranh với doanh nghiệp tiến hành hành vi (do bản chất của

hành vi cạnh tranh không lành mạnh không nhất thiết phải xét đến hàng hóa, dịch vụ

trong thị trƣờng liên quan.

Hành vi gây rối không phù hợp với chuẩn mực đạo đức kinh doanh thông

thƣờng, nhằm gây rối, cản trở hoặc phá hoại hoạt động kinh doanh bình thƣờng của

doanh nghiệp khác.

1.3.6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Nhƣ chúng ta đã biết, quảng cáo là một trong những phƣơng tiện cạnh tranh

của doanh nghiệp. Mục đích của quảng cáo là để giới thiệu, khuyếch trƣơng hàng

21

hóa, dịch vụ của doanh nghiệp. Quảng cáo là việc giới thiệu đến khách hàng về hình

ảnh của doanh nghiệp, hoạt động kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ...nhằm cung cấp

thông tin, đẩy nhanh tốc độ giao dịch giữa nhà cung cấp và khách hàng. Quảng cáo

có thể làm cho khách hàng tiềm năng thành khách hàng thực tế của doanh nghiệp.

Ngày nay nhu cầu quảng cáo nhằm giới thiệu sản phẩm đến ngƣời tiêu dùng của

doanh nghiệp ngày càng tăng, đƣợc thể hiện trên phƣơng tiện thông tin đại chúng,

các xuất bản phẩm, các loại bảng biển, pano, áp phích... Điều 102 Luật thƣơng mại

2005 quy định: “Quảng cáo thƣơng mại là hoạt động xúc tiến thƣơng mại của

thƣơng nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch

vụ của mình”.

Từ khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, có thể coi quảng cáo

nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hành vi quảng cáo không trung thực và không

thiện chí của doanh nghiệp, thƣơng nhân nhằm mục đích cạnh tranh. Không trung

thực thể hiện ở việc cung cấp những thông tin sai lệch, gian dối để lôi kéo khách

hàng. Không thiện chí thể hiện ở việc công kích hoặc lợi dụng hoạt động kinh doanh

của đối thủ để nâng cao vị thế của mình. Nhằm bảo vệ các doanh nghiệp, ngƣời tiêu

dùng và duy trì môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh, Điều 45 Luật Cạnh tranh quy định

cụ thể các hành vi quảng cáo bị cấm sau đây:

- So sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại

của doanh nghiệp khác.

- Bắt chƣớc một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng;

việc bắt chƣớc một sản phẩm quảng cáo khác có thể thông qua hình ảnh quảng cáo,

nội dung quảng cáo… tƣơng tự làm cho ngƣời tiêu dùng nhầm tƣởng sản phẩm đang

quảng cáo là sản phẩm quảng cáo trƣớc đó.

- Đƣa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về giá, số lƣợng,

chất lƣợng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản xuất, nơi sản xuất,

ngƣời gia công, nơi gia công, hoặc cách thức sử dụng, phƣơng thức phục vụ, thời

hạn bảo hành, hoặc các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác.

22

- Các hoạt động quảng cáo khác mà pháp luật có quy định cấm. Đây là một quy

định có tính chất mở của Luật Cạnh tranh năm 2004 để cấm các hoạt động quảng

cáo khác đƣợc quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật ngoài Luật Cạnh

tranh nhƣ Luật Thƣơng mại, Luật Quảng cáo...

Nhìn chung, Luật Cạnh tranh năm 2004 đã có những chế định khá đầy đủ để

điều chỉnh hành vi quảng cáo không lành mạnh. Các hành vi quảng cáo luôn biến

đổi không ngừng và có những biểu hiện hết sức phong phú. Vì vậy, vấn đề hoàn

thiện chế định này cần đƣợc chú trọng.

Tóm lại, những quảng cáo với mục đích cạnh tranh không lành mạnh bao gồm

quảng cáo so sánh nhằm hạ thấp chất lƣợng hàng hóa, dịch vụ của thƣơng nhân khác

(quảng cáo so sánh); quảng cáo hàng hóa của mình trên cơ sở bắt chƣớc, lạm dụng

uy tín của một sản phẩm khác cùng loại (bắt chƣớc, lạm dụng uy tín); sử dụng sản

phẩm quảng cáo hoặc những thông tin có thể gây nhầm lẫn lừa dối khách hàng để dụ

dỗ khách hàng (quảng cáo không trung thực). Những hoạt động quảng cáo nhƣ vậy

bị cấm theo quy định của Luật Cạnh tranh.

1.3.7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Theo khoản 1 Điều 88 Luật Thƣơng mại 2005, khuyến mại là “hoạt động xúc

tiến thƣơng mại của thƣơng nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng

dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định”. Trong điều kiện tự

do cạnh tranh, các hoạt động khuyến mại của doanh nghiệp ngày càng trở nên đa

dạng, phong phú, theo đó cũng xuất hiện những thủ thuật khuyến mại nhằm cạnh

tranh không lành mạnh. Khi khuyến mại bị lạm dụng quá mức có thể làm các doanh

nghiệp vừa và nhỏ phá sản. Hệ quả là ngƣời tiêu dùng sẽ không còn cơ hội để lựa

chọn nhà cung cấp khác và doanh nghiệp khuyến mãi sau khi chiếm lĩnh đƣợc thị

trƣờng sẽ bỏ khuyến mãi và có thể áp dụng những điều kiện thƣơng mại bất lợi cho

khách hàng.

Dƣới giác độ kinh tế, khuyến mại mang lại lợi ích trực tiếp và trƣớc mắt cho

khách hàng, làm cho các giao dịch giữa doanh nghiệp và khách hàng đƣợc thúc đẩy.

Do có lợi ích trƣớc mắt, khách hàng bởi các biện pháp khuyến mại cho doanh

23

nghiệp có thể xây dựng và củng cố mối quan hệ với khách hàng tốt hơn. Tuy nhiên

nếu khuyến mại bị lạm dụng nhằm lôi kéo khách hàng, nó có thể gây thiệt hại cho

các chủ thể cạnh tranh khác, đặc biệt là doang nghiệp vừa và nhỏ. Trƣờng hợp

nghiêm trọng, doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể bị phá sản do không thể thực hiện

đƣợc chiến lƣợc cạnh tranh tƣơng ứng. Hệ quả là ngƣời tiêu dùng sẽ không còn cơ

hội lựa chọn nhà cung cấp khác và doanh nghiệp khuyến mại sau khi đã chiếm lĩnh

đƣợc thị trƣờng sẽ bỏ khuyến mại và áp đặt những điều kiện bất lợi với khách hàng.

Pháp luật cạnh tranh tiếp cận khuyến mại ở mặt trái của hành vi, nghĩa là chỉ đề cập

tới khuyến mại có mục đích cạnh tranh không lành mạnh và chúng có thể bị cấm.

Do đó, Điều 46 Luật Cạnh tranh năm 2004 cấm các hoạt động khuyến mại sau

đây:

- Tổ chức khuyến mại gian dối về giải thƣởng. Hành vi này nhằm lôi kéo

khách hàng, ngƣời tiêu dùng tham gia vào chƣơng trình khuyến mại một cách không

trung thực. Hành vi này có thể thực hiện bằng nhiều cách thức nhƣ: không có giải

thƣởng, hoặc có nhƣng không đúng với những gì đã công bố, cách thức lựa chọn

ngƣời trúng thƣởng gian dối đƣa ngƣời ngầm chỉ định nhận giải thƣởng.

- Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa

đối khách hàng. Hành vi này doanh nghiệp đƣa ra những thông tin không đúng đối

tƣợng về khuyến mại, hàng hóa, dịch vụ có kèm theo khuyến mại nhằm lừa dối

khách hàng. Trƣờng hợp này có thể hiểu nếu không có thông tin về khuyến mại gian

dối nhƣ vậy, khách hàng sẽ không lựa chọn sản phẩm của doanh nghiệp.

- Phân biệt đối xử với các khách hàng nhƣ nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến

mại khác nhau trong cùng một chƣơng trình khuyến mại. Đây là hành vi phân biệt

đối xử trực tiếp đến quyền lợi chính đáng của khách hàng, ngƣời tiêu dùng . Doanh

nghiệp đã lạm dụng khuyến mại để thu hút khách hàng mà không thực hiện trao giá

trị khuyến mại bình đẳng giữa họ với trƣờng hợp tƣơng tự.

- Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhƣng lại yêu cầu khách hàng đổi

hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng

để dùng hàng hóa của mình;

24

- Các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật có quy định cấm.

Ngoài ra để xác định một khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh cũng

cần xem xét những dấu hiệu bổ sung sau đây:

-Liệu khuyến mại có giá trị quá lớn trong mối tƣơng quan với giá trị của hàng

hóa, dịch vụ đƣợc cung cấp hay không, chẳng hạn nhƣ “mua 2 tặng 1”?

- Liệu khuyến mại có thời gian quá dài hay không? Nếu khuyến mại trong thời

gian dài, đồng nghĩa với doanh nghiệp bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ giá thấp

nhằm tạo lợi thế cạnh tranh.

- Liệu hàng hóa mua và sản phẩm khuyến mại có quan hệ gần gũi với nhau hay

không? Trong mối quan hệ nếu hàng hóa mua bán và sản phẩm khuyến mại có quan

hệ phụ thuộc vào nhau và với giá trị nhỏ thƣờng chấp nhận.

- Liệu việc đƣa ra khuyến mại có hợp lý về việc thúc đẩy quan hệ mua bán

hàng hóa hay không?

- Liệu khuyến mại có phù hợp với chuẩn mực đạo đức kinh doanh hay không?

Nhƣ vậy, bên cạnh nhƣng mặt tích cực của hoạt động khuyến mại thì nó cũng

đang bộc lộ những hạn chế ngày một nhiều hơn trong nền kinh tế thị trƣờng… Luật

Cạnh tranh năm 2004 đã có những quy định bƣớc đầu tại cơ sở để các cơ quan nhà

nƣớc có thẩm quyền áp dụng trong quá trình đấu tranh chống lại hành vi này.

1.3.8. Phân biệt đối xử của hiệp hội

Việc thành lập các hiệp hội nhằm liên kết giữa các doanh nghiệp độc lập trong

ngành hoặc nghề là nhu cầu phát triển của nền kinh tế hiện đại, tạo ra những sức

mạnh chung để hỗ trợ phát triển kỹ thuật, phát triển thị trƣờng và đầu tƣ trong ngành

nghề đó.

Hiệp hội dƣới giác độ của Luật Cạnh tranh đƣợc hiểu là những tổ chức đƣợc

thành lập trên cơ sở tự nguyện của các doanh nghiệp thành viên có cùng chung

những mục đích cũng nhƣ lợi ích mà các doanh nghiệp riêng lẻ trong quá trình hoạt

động không thể đạt đƣợc. Hiệp hội cũng là nơi cung cấp những thông tin hữu ích về

25

các lĩnh vực trên thị trƣờng trong nƣớc và quốc tế, nơi học hỏi, trao đổi kinh nghiệm

giữa các doanh nghiệp, đồng thời hiệp hội cũng là tổ chức điều phối các hoạt động

của thành viên. Hiệp hội cũng có thể thực hiện nhiều chức năng khách nhau theo tôn

chỉ và mục đích của chúng. Thông qua một hoạt động có tính quản lý chung, hiệp

hội có một số hành vi mang tính quản lý, ấn định các quy tắc, tiêu chuẩn, điều kiện

kỹ thuật, phân chia thị trƣờng...trong sản xuất, kinh doanh. Điều này có thể dẫn đến

những hậu quả hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh trên thị trƣờng.

Hiệp hội cũng là nơi, nguyên nhân dẫn đến những hoạt động mang tính cạnh tranh

không lành mạnh, nếu hiệp hội từ chối việc gia nhập hoặc rút khỏi hiệp hội của các

doanh nghiệp có đủ điều kiện mà từ chối mang tính phân biệt.

Với những đặc điểm riêng về hoạt động của hiệp hội và hậu quả mang tính bất

lợi cho doanh nghiệp có liên quan. Điều 47 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định cấm

hiệp hội nghành nghề thực hiện các hành vi sau đây:

- Từ chối doanh nghiệp có đủ điều kiện gia nhập hoặc rút khỏi hiệp hội nếu

việc từ chối đó mang tính phân biệt đối xử và làm cho doanh nghiệp đó bị bất lợi

trong cạnh tranh.

- Hạn chế bất hợp lý trong hoạt động kinh doanh hoặc các hoạt động khác có

liên quan tới mục đích kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên. Việc hiệp hội

đƣa ra bất kỳ chính sách nào hoặc thực hiện bất kỳ hành vi nào nhằm hạn chế bất

hợp lý hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên của hiệp hội đều bị

coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

- Xem xét trong mối tƣơng quan với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh

khác đƣợc quy định trong Luật Cạnh tranh năm 2004 thì hành vi phân biệt đối xử

của hiệp hội của hành vi cạnh tranh không lành mạnh không có hiệp hội (khoản 4

Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004). Mà tính chất của hành vi này là hoạt động tập

thể chứ không phải nhằm vào một đối tƣợng cụ thể. Vậy phải chăng nên xếp hành vi

này vào nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh.

26

1.3.9. Bán hàng đa cấp bất chính

Mặc dù vẫn còn có những ý kiến khác nhau về phạm vi điều chỉnh của Luật

cạnh tranh, trong giai đoạn xây dựng Luật Cạnh tranh cơ quan lâ ̣p pháp đã mở rộng nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh đến cả hoạt động bán hàng đa cấp5.

Có thể hiểu bản hàng đa cấp là một hình thức bán hàng trực tiếp, trong đó hàng

hóa đƣợc bán trực tiếp từ nhà phân phối độc lập đến ngƣời tiêu dùng mà không nhất

thiết phải thông qua địa điểm bán lẻ cố định. Mối quan hệ giữa nhà phân phối và

doanh nghiệp trong mạng lƣới bán hàng đa cấp là mối quan hệ của việc tham gia,

hoặc rút khỏi mạng lƣới bán hàng. Doanh nghiệp là chủ sở hữu hàng hóa, ngƣời

phân phối nhận tiền thù lao từ doanh nghiệp.

Mức thù lao tính trên cơ sở doanh số bán hàng trực tiếp của nhà phân phối và

doanh số của những ngƣời bán hàng cấp dƣới trong mạng lƣới bán hàng của nhà

phân phối.

Cùng với sự phát triển của phƣơng thức bán hàng đa cấp (chân chính), mô hình

kinh doanh kim tự tháp cũng xuất hiện chứa đựng nhiều bất cập liên quan đến quyền

lợi của các thành viên tham gia và khách hàng. Đây là mô hình kinh doanh dễ bị lạm

dụng nhằm thu lợi bất chính. Theo quy định của Luật Cạnh tranh, về nguyên tắc bán

hàng đa cấp không vi phạm pháp luật. Pháp luật chỉ cấm hành vi này khi có dấu hiệu

bất chính.

Việc phân biệt giữa bán hàng đa cấp thông thƣờng và bán hàng đa cấp bất

chính cũng dựa vào tiêu chí, đặc điểm của cạnh tranh không lành mạnh. Ngƣời ta

thƣờng dựa vào các tiêu chí nhƣ: việc thực hiện nghĩa vụ đặt cọc, nguồn gốc tiền

thƣởng, có mua lại hàng hóa đã giao cho ngƣời bán hàng hay không...

Điều 48 Luật Cạnh tranh năm 2004 cấm doanh nghiệp thực hiện các hành vi

bán hàng đa cấp nhằm thu lợi bất chính từ việc tuyển dụng ngƣời tham gia mạng

lƣới bán hàng đa cấp nhƣ sau:

5 Hành vi này cũng đƣợc loại bỏ theo Luật Cạnh tranh năm 2018.

27

- Yêu cầu ngƣời muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lƣợng hàng hóa

ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền để đƣợc tham gia vào mạng lƣới bán hàng đa

cấp. Đặt cọc về bản chất là một trong những biện pháp bảo thực hiện nghĩa vụ dân

sự. Tuy nhiên trong phƣơng thức bán hàng đa cấp, đặt cọc –một biện pháp đƣợc sử

dụng nhƣ là việc buộc ngƣời muốn tham gia phải mua quyền đƣợc tham gia vào

mạng lƣới bán hàng mà không liên quan đến việc đảm bảo thực hiện nghĩa vụ. Thực

tế xảy ra trƣờng hợp doanh nghiệp bán hàng đa cấp yêu cầu ngƣời muốn tham gia

vào mạng lƣới này phải đặt cọc hoặc phải mua một lƣợng hàng hóa ban đầu rồi

chiếm dụng tiền, lừa đảo, thu lợi bất chính từ những ngƣời muốn tham gia mạng bán

hàng đa cấp.

- Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho

ngƣời tham gia để bán lại. Đây là hành vi của thành viên tham gia mạng lƣới bán

hàng đa cấp khi chấm dứt hợp đồng bán hàng đa cấp có thể đƣợc trả lại hàng hóa đã

mua từ doanh nghiệp bán hàng đa cấp và đƣợc nhận lại số tiền tối thiểu bằng 90% số

tiền đã bỏ ra để mua hàng hóa sau khi trừ đi chi phí hợp lý.Việc mua lại hàng hóa

trên nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của ngƣời tiêu dùng và của ngƣời tham gia bán

hàng đa cấp. Tuy nhiên trên thực tế nhiều doanh nghiệp bán hàng đa cấp không cam

kết mua lại hàng hóa mức giá ít nhất 90% giá hàng hóa đã bán cho ngƣời tham gia

để bán lại, gây thiệt hại cho ngƣời tham gia và ngƣời tiêu dùng.

- Cho ngƣời tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thƣởng, lợi ích kinh tế khác chủ

yếu từ việc dụ dỗ ngƣời khác tham gia mạng lƣới bán hàng đa cấp. Ngƣời tham gia

mạng lƣới bán hàng đa cấp phải làm cho hàng hóa đến tay ngƣời tiêu dùng. Nếu

ngƣời này chỉ giới thiệu cho ngƣời khác tham gia vào mạng lƣới bán hàng đa cấp thì

sẽ dẫn đến trƣờng hợp những ngƣời tham gia không quan tâm đến việc bán hàng mà

chỉ tìm cách lôi kéo, dụ dỗ càng nhiều ngƣời tham gia vào mạng lƣới càng tốt để

hƣởng tiền hoa hồng. Những ngƣời bị dụ dỗ đó phải trả tiền mua quyền tham gia vào

mạng lƣới bán hàng nhƣng chƣa chắc đã nhận đƣợc tiền hoa hồng vì chƣa biết có

khả năng bán đƣợc hàng hay không nên họ lại tiếp tục dụ dỗ những ngƣời khác tham

gia vào mạng lƣới. Doanh nghiệp đƣợc lợi vì không cần bán hàng đến tay ngƣời tiêu

dùng mà vẫn tiêu thụ đƣợc hàng hóa với giá cao.

28

- Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lƣới bán hàng

đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ ngƣời khác

tham gia.

Trong những năm gần đây, phƣơng thức bán hàng đa cấp xuất hiện ngày càng

nhiều với quy mô cũng mở rộng hơn tại thị trƣờng Việt Nam. Bởi vậy các hành vi

bán hàng đa cấp bất chính có xu hƣớng gia tăng.

1.3.10. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong một số lĩnh vực khác

Ngoài 9 loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong Luật Cạnh tranh (2004)

bị cấm thì vẫn còn khả năng có những hành vi khác cũng sẽ bị cấm, nếu: về nội hàm,

chúng thể hiện đầy đủ các dấu hiệu của hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đƣợc

định nghĩa trong khoản 4, Điều 3 của Luật này và hành vi đó đƣợc quy định trong

những đạo luật có liên quan khác.

- Hành vi cạnh tranh cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.

Nhìn chung săn tìm, nắm bắt, lợi dụng và thậm chí lạm dụng các tài sản trí tuệ,

bất kể đối tƣợng đó đã đƣợc bảo hộ hay chƣa để tạo lợi thế cạnh tranh luôn là động

cơ của chủ thể kinh doanh. Nguyên nhân của điều này là khi sử dụng các đối tƣợng

của quyền sở hữu trí tuệ chủ thể kinh doanh đều có thể giành đƣợc lợi thế cho mình.

Các đối tƣợng của quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là quyền sở hữu công nghiệp nhƣ

nhãn hiệu, bí quyết kỹ thuật, sáng chế...rất dễ bị sử dụng trái phép, làm nhái hàng

hóa nhằm gây nhầm lẫn lừa dối khách hàng.

Để đảm bảo việc sử dụng tài sản trí tuệ nói chung và các đối tƣợng của sở hữu

trí tuệ nói riêng một cách công bằng. Điều 130 Luật sở hữu trí tuệ quy định các hành

vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ bao gồm:

Sử dụng chỉ dẫn thƣơng mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động

kinh doanh, nguồn gốc thƣơng mại của hàng hoá, dịch vụ;

Sử dụng chỉ dẫn thƣơng mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính

năng, chất lƣợng, số lƣợng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện

cung cấp hàng hoá, dịch vụ;

29

Sử dụng nhãn hiệu đƣợc bảo hộ tại một nƣớc là thành viên của điều ƣớc quốc

tế có quy định cấm ngƣời đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng

nhãn hiệu đó mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu ngƣời

sử dụng là ngƣời đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó

không đƣợc sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng;

Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tƣơng tự

gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thƣơng mại đƣợc bảo hộ của ngƣời khác hoặc chỉ

dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi

dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thƣơng mại, chỉ

dẫn địa lý tƣơng ứng.

Trong các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đƣợc điều chỉnh bởi văn bản

pháp luật cuyên ngành, hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu trí

tuệ chiếm tỷ lệ nhiều nhất. Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới

chỉ dẫn thƣơng mại, nhãn hiệu, làm hàng giả... cản trở hoạt động thƣơng mại, gây

tổn hại cho ngƣời tiêu dùng trở thành vấn đề nổi cộm, đặt ra yêu cầu phải giải quyết

nhanh chóng.

- Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong Luật Chuyển giao công nghệ.

Về nguyên tắc, hợp đồng chuyển giao công nghệ là sự thỏa thuận giữa bên

chuyển giao và bên đƣợc chuyển giao đối tƣợng của quyền sở hữu trí tuệ công

nghiệp – công nghệ. Các bên tham gia hợp đồng có quyền tự do thỏa thuận các điều

khoản của hợp đồng và quyền này đƣợc ghi nhận trong pháp luật về hợp đồng.

Luật chuyển giao công nghệ năm 2017 không quy định trực tiếp mà chỉ đƣa

các quy định có liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực

chuyển giao công nghệ. Theo đó, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm

(Điều 12 Luật Chuyển giao công nghệ):

- Lừa dối, giả tạo trong việc lập, thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ,

hợp đồng dịch vụ chuyển giao công nghệ, nội dung công nghệ trong hợp đồng, hồ sơ

dự án đầu tƣ.

30

- Cản trở, từ chối cung cấp thông tin về hoạt động chuyển giao công nghệ theo

yêu cầu của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền.

- Tiết lộ bí mật công nghệ trái quy định của pháp luật, cản trở hoạt động

chuyển giao công nghệ.

Ngoài các quy định cơ bản trên, Luật chuyển giao công nghệ cho phép các bên

hầu nhƣ đƣợc tự do thỏa thuận trong hợp đồng chuyển giao công nghệ nhƣ độc

quyền hoặc không độc quyền sử dụng công nghệ, đƣợc chuyển giao lại hoặc không

đƣợc chuyển giao lại, phạm vi lãnh thổ đƣợc bán sản phẩm do công nghệ đƣợc

chuyển giao tạo ra...

-Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng.

Dịch vụ ngân hàng, tài chính là những dịch vụ kinh doanh năng động và đóng

vao trò quan trọng trong việc cung cấp và điều tiết nguồn vốn của thị trƣờng. Tuy

nhiên kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro và cũng dễ bị lạm

dụng để cạnh tranh không lành mạnh làm ảnh hƣởng đến các ngân hàng, tổ chức tín

dụng khác cũng nhƣ khách hàng ngân hàng, tổ chức tín dụng

Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng có thể đƣợc

thể hiện bằng hình thức sau đây:

- Khuyến mại bất hợp lý. Ví dụ: Thƣởng giá trị bằng tiền cho khách hàng đến

gửi tiền

- Lôi kéo khách hàng của tổ chức tín dụng khác thông qua việc mua chuộc, dụ

dỗ...bất hợp lý.

- Gièm pha, đƣa thông tin sai sự thật làm tổn hại đến lợi ích của ngân hàng, tổ

chức tín dụng.

- Đƣa thông tin sai sự thật về tình trạng kinh doanh của tổ chức tín dụng gây

bất lợi cho khách hàng có quan hệ kinh doanh với tổ chức tín dụng.

- Đƣa thông tin sai sự thật nhằm thao túng thị trƣờng vàng, ngoại tệ có lợi ích

cho bên đƣa thông tin đó.

31

Tại Điều 9 Luật Các tổ chức tín dụng quy định về cạnh tranh nhƣ sau:

- Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài đƣợc hợp tác và cạnh

tranh trong hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác theo quy định của

pháp luật.

- Nghiêm cấm hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc hành vi cạnh tranh không lành

mạnh có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ

quốc gia, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng, lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và

lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Ngoài ra, một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân

hàng khác có thể do chính phủ quy định.

Ngoài các lĩnh vực trên, nhiều lĩnh vực pháp luật khác cũng đƣợc đề cập bổ

sung có liên quan tới hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo đặc thù của ngành

hay lĩnh vực chuyên biệt tƣơng ứng, chẳng hạn nhƣ Luật điện lực, Luật kinh doanh

bảo hiểm, Luật an toàn thực phẩm....Cùng với Luật Cạnh tranh 2004 những quy định

này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hoàn thiện chế định pháp luật về chống

hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đồng thời tạo môi trƣờng pháp lý đảm bảo các

hoạt động cạnh tranh đƣợc diễn ra một cách công bằng, bình đẳng, và trung thực

trên thị trƣờng Việt Nam.

Nhƣ vậy, qua những quy định trên của pháp luật về các hành vi cạnh tranh

không lành mạnh, chúng ta có thể thấy những quy định này đã bám khá sát vào tình

hình thực tế của các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đang diễn ra tại Việt Nam.

Với định hƣớng tạo lập và duy trì môi trƣờng kinh doanh lành mạnh, Luật Cạnh

tranh đã quy định cấm các loại hành vi này và không có ngoại lệ miễn trừ. Cho đến

nay, trên cơ sở của các quy định về cạnh tranh không lành mạnh, Cục Quản lý cạnh tranh6 đã ra quyết định xử lý nhiều vụ việc liên quan đến hành vi cạnh tranh không

lành mạnh. Tuy nhiên, trên thực tế thì các hành vi cạnh tranh không lành mạnh lại

6 Kể từ năm 2017, cơ quan này đã đổi tên và thay đổi một số chức năng thành Cục Cạnh tranh và bảo vệ ngƣời tiêu dùng (Cục CT&BVNTD). Trừ khi liên quan đến quy định cũ có đề cập tới Cục Quản lý cạnh tranh, trong Luận văn này, cơ quan cạnh tranh sẽ đƣợc sử dụng chủ yếu là Cục CT&BVNTD.

32

diễn ra vô cùng đa dạng và phức tạp. Chính vì vậy cần có sự nghiên cứu và nhận

thức đầy đủ về hành vi cạnh tranh không lành mạnh để có biện pháp xử lý thích hợp

là cần thiết.

33

CHƢƠNG II. HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH, THỰC

TRẠNG XỬ LÝ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CẠNH TRANH

KHÔNG LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM

2.1. Quy định của pháp luật về xử lý đối với hành vi cạnh tranh không

lành mạnh

2.1.1. Thẩm quyền xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Trong hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nƣớc về cạnh tranh, theo quy định

của Luật Cạnh tranh có hai cơ quan là cơ quan quản lý cạnh tranh và hội đồng cạnh

tranh.

Theo quy định của pháp luật hiện hành thì cơ quan quản lý Nhà nƣớc đối với

các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là Cục CT&BVNTD. Theo Điều 1 Nghị

định 06/2006/NĐ-CP: “Cục quản lý cạnh tranh là cơ quan trực thuộc Bộ thương

mại, có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ thương mại thực hiện chức năng quản lý Nhà

nước về cạnh tranh, Cục quản lý cạnh tranh có tư cách pháp nhân, kinh phí hoạt

động do ngân sách Nhà nước cấp”. Theo khoản 2 Điều 49 Luật Cạnh tranh 2004, cơ

quan quản lý cạnh tranh có nhiệm vụ, quyền hạn sau:

1- Kiểm soát quá trình tập trung kinh tế theo quy định của Luật này;

2- Thụ lý hồ sơ đề nghị hƣởng miễn trừ, đề xuất ý kiến để Bộ trƣởng Bộ

thƣơng mại quyết định hoặc trình Thủ trƣớng chính phủ quyết định;

3- Điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh và

hành vi cạnh tranh không lành mạnh;

4- Xử lý, xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh;

5- Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các quy định của Luật này thì có một vấn đề đáng lƣu ý là nếu theo

mục 3 và mục 4 trên đây, cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ có thẩm quyền xem xét và

xử lý cả các vụ việc liên quan tới cạnh tranh không lành mạnh và thậm chí còn có

thẩm quyền xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Nhƣ vậy Cục

CT&BVNTD vừa là cơ quan hành chính thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về

34

cạnh tranh, điều tiết cạnh tranh trên thị trƣờng, đồng thời là cơ quan Tƣ pháp, cơ

quan xét xử đặc biệt đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh đƣợc giải quyết

bởi ban điều tra và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Thẩm quyền của Cục CT&BVNTD thể hiện trọng tâm ở hoạt động điều tra các

vụ việc cạnh tranh liên quan tới hành vi cạnh tranh không lành mạnh, bao gồm cả

việc xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Về bản chất, hành vi cạnh

tranh không lành mạnh là hành vi nhằm vào một hoặc một số đối thủ cạnh tranh nào

đó mà không ảnh hƣởng trong phạm vi rộng lớn của thị trƣờng. Hậu quả của hành vi

này thông thƣờng chỉ xảy ra với đối thủ cạnh tranh. Vì vậy, chế tài áp dụng đối với

hành vi này thƣờng là đình chỉ hành vi và bồi thƣờng thiệt hại (nếu có). Tuy nhiên,

thẩm quyền xử lý, xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh

tranh Việt Nam lại không bao gồm bồi thƣờng thiệt hại xảy ra với các bên liên quan.

Cơ quan quản lý cạnh tranh có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cảnh báo,

tịch thu tang vật, phƣơng tiện sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh, buộc cải

chính công khai, phạt tiền theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật về

cạnh tranh hoặc theo quy định của pháp luật có liên quan đối với hành vi vi phạm

quy định về cạnh tranh không lành mạnh và các hành vi khác vi phạm quy định về

thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trƣờng, lạm dụng vị trí

độc quyền hoặc tập trung kinh tế.

2.1.2. Các chế tài áp dụng đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đều trực tiếp hay gián tiếp gây thiệt

hại cho các quan hệ đƣợc pháp Luật Cạnh tranh bảo vệ. Do đó, các chủ thể thực hiện

hành vi này phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý nhất định.

*) Trách nhiệm hành chính:

Việc xử lý hành vi vi phạm về cạnh tranh không đƣợc lành mạnh đƣợc quy

định tại mục 8 Chƣơng V Luật Cạnh tranh năm 2004 và đƣợc hƣớng dẫn chi tiết

trong các Nghị định 105/2005/NĐ-CP, Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21 tháng

7 năm 2014 của chính phủ quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp

35

luật trong lĩnh vực cạnh tranh (tƣ̀ nay go ̣i tắt là Nghi ̣ đi ̣nh 71), cũng nhƣ trong Pháp

lệnh xử lý vi phạm hành chính. Khoản 1 Điều 3 Nghị định 71 tại khoản 1 Điều 3 quy

định các hình thức xử phạt chính gồm:

- Cảnh cáo.

- Phạt tiền.

Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về

cạnh tranh còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:

- Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; tƣớc quyền sử dụng giấy

phép, chứng chỉ hành nghề;

- Tịch thu tang vật, phƣơng tiện đƣợc sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh

tranh bao gồm cả tịch thu khoản lợi nhuận thu đƣợc từ việc thực hiện hành vi vi

phạm.

Ngoài các hình thức xử phạt theo quy định nêu trên, doanh nghiệp vi phạm còn

có thể bị áp dụng một hoặc một số biện pháp khắc phục hậu quả sau:

- Buộc cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trƣờng;

- Buộc chia, tách doanh nghiệp đã sáp nhập, hợp nhất; buộc bán lại phần doanh

nghiệp đã mua;

- Buộc cải chính công khai;

- Buộc loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao

dịch kinh doanh;

- Buộc sử dụng hoặc bán lại các sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công

nghiệp đã mua nhƣng không sử dụng;

- Buộc loại bỏ những biện pháp ngăn cản, kìm hãm doanh nghiệp khác tham

gia thị trƣờng hoặc phát triển kinh doanh;

- Buộc khôi phục các điều kiện phát triển kỹ thuật, công nghệ mà doanh nghiệp

đã cản trở;

36

- Buộc loại bỏ các điều kiện bất lợi đã áp đặt cho khách hàng;

- Buộc khôi phục lại các điều khoản hợp đồng đã thay đổi mà không có lý do

chính đáng;

- Buộc khôi phục lại hợp đồng đã hủy bỏ mà không có lý do chính đáng.

*) Trách nhiệm dân sự:

Tổ chức, cá nhân có hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại đến lợi

ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi

thƣờng. Việc bồi thƣờng thiệt hại đƣợc thực hiện theo các quy định của Bộ luật Dân

sự năm 2015.

*) Trách nhiệm hình sự:

Pháp nhân thƣơng mại, cá nhân có hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể

bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại

chƣơng XVIII: “Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” của Bộ luật Hình sự năm

2015 bao gồm: tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 192); tội sản xuất, buôn bán

hàng giả là lƣơng thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (điều 194);

tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú ý,

thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 195), tội vi phạm quy định về

cạnh tranh (Điều 217), tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phƣơng thức đa cấp

(Điều 217a)… Hình phạt có thể áp dụng đối với những ngƣời phạm các tội danh trên

thƣờng là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn.

2.2. Thực trạng xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh

2.2.1. Tổng quan xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế thị trƣờng

ngày càng đa dạng và phát triển trên tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh nên viê ̣c

xảy ra các tranh chấp là điều khó tránh khỏi . Việc lựa chọn hình thức giải quyết

tranh chấp nào vừa đảm bảo có lợi cho doanh nghiệp, vừa duy trì các mối quan hệ

làm ăn là việc doanh nghiệp cần cân nhắc. Việc giải quyết tranh chấp dựa trên

37

nguyên tắc quan trọng là quyền tự định đoạt giữa các bên. Cơ quan nhà nƣớc có

thẩm quyền chỉ can thiệp khi có yêu cầu của một trong các bên.

Kể từ khi Luật Cạnh tranh năm 2004 có hiệu lực, Cục QLCT đã thụ lý và giải

quyết một khối lƣợng lớn các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh. Số lƣợng các vụ

việc cạnh tranh không lành mạnh lớn hơn rất nhiều so với vụ việc hạn chế cạnh

tranh. Trong năm 2016, Cục đã tiếp nhận 18 hồ sơ đề nghị tham vấn hoặc phản ánh

đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trong đó chủ yếu là các hành vi bán

hàng đa cấp bất chính (Cục QLCT&BVNTD, 2016, tr. 11). Trong năm 2017, đã ban

hành quyết định điều tra đối với 19 vụ việc liên quan đến 12 hành vi cạnh tranh

không lành mạnh, trong đó có 18 vụ việc đã ban hành quyết định xử lý (thu ngân

sách nhà nƣớc tổng số tiền phạt là 2.691.000.000 đồng) và 01 vụ việc đang trong

quá trình điều tra. Trong 19 vụ việc đƣợc điều tra và xử lý, có 01 vụ việc liên quan

đến hành vi quảng cáo so sánh trực tiếp, 08 vụ việc liên quan đến hành vi quảng cáo

đƣa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho ngƣời tiêu dùng, 10 vụ việc liên quan

đến hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động bán hàng đa cấp (Cục

QLCT&BVNTD, 2017, tr. 17).

*) Thông qua Cục CT&BVNTD:

Lịch sử xây dựng và phát triển của pháp luật cạnh tranh trên thế giới cho thấy

có quan quản lý cạnh tranh có vai trò quyết định trong việc đảm bảo thực thi luật

cạnh tranh có hiệu quả. Mỗi quốc gia, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể

đã xây dựng mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh với đặc điểm riêng biệt, song mục

đích chung của các cơ quan này là đảm bảo thực thi luật cạnh tranh một cách có hiệu

quả.

Cục CT&BVNTD là cơ quan thuộc Bộ Công thƣơng có tƣ cách pháp nhân, có

con dấu và tài khoản riêng. Trụ sở chính đặt tại Hà Nội. Ngoài ra để tăng cƣờng

công quác quản lý của Cục CT&BVNTD còn có thêm hai chinh nhánh tại thành phố

Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng. Các đơn vị trực thuộc gồm: Ban điều tra vụ

việc hạn chế cạnh tranh, Ban giám sát và quản lý cạnh tranh, Ban điều tra và xử lý

hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Ban bảo vệ ngƣời tiêu dùng, Ban xử lý chống

38

bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ, Ban hợp tác quốc tế, Văn phòng, Trung tâm

thông tin, Trung tâm đào tạo điều tra viên.

Chức năng của Cục CT&BVNTD là giúp Bộ trƣởng Bộ công thƣơng thực hiện

quản lý nhà nƣớc về cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng, chống bán phá

giá, chống trợ cấp và tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nƣớc ngoài vào Việt Nam; và

đặc biệt là thực hiện việc điều tra, ra quyết định xử lý hành vi cạnh tranh không lành

mạnh.

Cục CT&BVNTD đã và đang nỗ lực trong mọi hoạt động nhằm thúc đẩy môi

trƣờng cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng

trƣớc những hành vi hạn chế cạnh tranh, tạo môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh hơn

cho sản xuất trong nƣớc, hỗ trợ ngành sản xuất trong nƣớc, phòng chống các vụ kiện

bán phá giá, trợ cấp, tự vệ của nƣớc ngoài và chống các hành vi cạnh tranh không

lành mạnh là một trong những mục tiêu then chốt của Cục CT&BVNTD.

Luật Cạnh tranh ra đời là cơ sở pháp lý để xây dựng môi trƣờng cạnh tranh

lành mạnh, công bằng thế nhƣng vai trò của nó hầu nhƣ vắng bóng trƣớc hàng loạt

vụ việc. Một thực tế cho thấy từ khi Luật Cạnh tranh ra đời đến nay Cục

CT&BVNTD là cơ quan nhà nƣớc đƣợc giao nhiệm vụ bảo vệ ngƣời tiêu dùng, bảo

vệ doanh nghiệp làm ăn chân chính nhƣng vẫn chƣa làm đƣợc nhiều việc nhƣ kỳ

vọng. Số vụ xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh còn ít, nhiều vụ việc xử lý

chƣa đƣợc dứt điểm.

Các vụ kiện liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh chủ yếu là bán

hàng đa cấp bất chính, quảng cáo sai lệch, thông tin sai lệch về sản phẩm nhằm cạnh

tranh không lành mạnh.

Kết quả thống kê cho thấy số lƣợng các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh

Cục CT&BVNTD đã điều tra và xử lý chƣa nhiều, chƣa tƣơng xứng với nhu cầu,

song phần lớn các vụ việc đã qua giải quyết là đình chỉ điều tra sơ bộ, thƣơng lƣợng

và hòa giải hoặc phạt tiền. Đây cũng có lẽ là nguyên nhân khiến cho nhiều vụ việc vi

phạm cạnh tranh không lành mạnh tiếp diễn và đối tƣợng chịu ảnh hƣởng nhiều nhất

chính là các doanh nghiệp.

39

Qua điều tra tâm lý của các doanh nghiệp khi có tranh chấp xảy ra cho thấy

53,42% doanh nghiệp đƣợc điều tra cho biết đối với các tranh chấp về cạnh tranh họ

sẽ gửi đơn đến tòa án kinh tế chứ không gửi đến Cục CT&BVNTD, trong đó 47%

cho rằng đây không phải là cơ quan tƣ pháp nên phán quyết không có hiệu lực, còn

21,36% doanh nghiệp không kiện tại Cục CT&BVNTD do họ không tin ở khả năng

xét xử công bằng. Ngoài ra một số ý kiến tỏ ra quan ngại về chức năng hành pháp

lẫn chức năng tƣ pháp của Cục CT&BVNTD. Thực tế này cho thấy các doanh

nghiệp vẫn chƣa đề cao vai trò của Cục CT&BVNTD.

Bên cạnh đó, kết quả xử lý cạnh tranh chỉ dừng lại ở việc hòa giải, nhắc nhở

cao hơn là xử phạt hành chính nên tính răn đe còn chƣa cao, đôi khi không đạt đƣợc

mức độ hài lòng củ a bị hại. Chủ trƣơng chung của Cục CT&BVNTD thì việc thực

thi Luật Cạnh tranh không phải chỉ là điều tra hay xử phạt vi phạm mà công việc

chính của cơ quan quản lý cạnh tranh là làm thế nào để các doanh nghiệp không vi

phạm hoặc nếu có và chƣa đến mức quá nặng thì có thể hòa giải với nhau. Tuy nhiên

nhiều chuyên gia lại không đồng tình với ý kiến này. Họ cho rằng chính việc giải

quyết không triệt để kiểu nửa vời này, nghĩa là cứ hòa giải nên nhiều doanh nghiệp

không thiết tha đến khiếu kiện hay nhờ các cơ quan chức năng giải quyết.

Trong thời gian tới dự kiến số lƣợng các vụ cạnh tranh không lành mạnh do

Cục CT&BVNTD tiếp nhận và xử lý tăng lên đáng kể. Do thực tiễn hoạt động thị

trƣờng với tình hình kinh tế suy thoái, các doanh nghiệp sẽ tìm đến các biện pháp

cạnh tranh mạnh mẽ hơn và có thể dẫn đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Bên cạnh đó thông qua hoạt động tích cực tuyên truyền và triển khai điều tra xử lý

các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của cục trong thời gian vừa qua, cộng đồng

doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng đã hiểu biết nhiều hơn về pháp luật cạnh tranh và

hoạt dộng điều tra xử lý của Cục, các hoạt động khiếu nại đến Cục vì thế tăng lên

đáng kể.

*) Thông qua Tòa án:

Trong bối cảnh nền kinh tế nƣớc ta chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng, các

tranh chấp kinh tế không đơn thuần là tranh chấp giữa hai chủ thể giao kết hợp đồng

40

kinh tế mà còn là những dạng tranh chấp khác nhau phát sinh trong quá trình sản

xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tòa án là một thiết chế nhà nƣớc, hoạt động của

Tòa án là một hoạt động rất đặc biệt, mang tính kỹ thuật cao và cũng tham gia vào

việc xử lý, giải quyết hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên vai trò của

Tòa án trong việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh còn bị hạn chế. Sự

hạn chế đó xuất phát từ nguyên nhân sau:

- Các vụ việc đƣợc giải quyết bằng Tòa án ở Việt Nam thƣờng kéo dài và trải

qua nhiều giai đoạn tố tụng, trải qua giai đoạn xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm (đối

với các vụ có kháng cáo). Trung bình thời gian giải quyết ở mỗi giai đoạn khoảng 04

tháng. Có những vụ lại phải trải qua nhiều lần xét xử nhƣ sơ thẩm, phúc thẩm, giám

đốc thẩm nên thời gian giải quyết có thể kéo dài hàng năm. Do đó ngƣời khởi kiện

có tâm lý e ngại khi giải quyết bằng Tòa án.

- Các vụ về cạnh tranh không lành mạnh thƣờng mang tính chuyên môn cao,

do đó đòi hỏi thẩm phán phải là ngƣời có trình độ chuyên môn và hiểu biết sâu rộng

về lĩnh vực này, số thẩm phán đáp ứng yêu cầu này còn hạn chế ở Việt Nam.

- Vấn đề bồi thƣờng thiệt hại trong các vụ việc về cạnh tranh không lành

mạnh thƣờng đƣợc đặt làm yếu tố trọng tâm. Song Bộ luật dân sự lại không quy định

phƣơng thức bồi thƣờng cho bị hại mà chỉ quy định vào căn cứ phát sinh trách

nhiệm bồi thƣờng thiệt hại. Vấn đề xác định mức độ thiệt hại là vấn đề phức tạp, khó

đạt đƣợc độ chính xác. Do vậy trong nhiều trƣờng hợp không đạt đƣợc mức độ thỏa

đáng cho cả phía ngƣời có hành vi vi phạm và ngƣời bị hại.

- Hiện nay cũng chƣa có một phƣơng thức giải quyết tranh chấp nào đƣợc

quy định cụ thể khi có tranh chấp xảy ra giữa ngƣời tiêu dùng và doanh nghiệp. Do

vậy ngƣời tiêu dùng khó có thể kiện thẳng lên Tòa án khi quyền lợi của họ bị xâm

phạm.

*) Các vụ việc do các cơ quan khác xử lý:

Trong năm 2008, theo thống kê của Cục CT&BVNTD từ thông tin các cơ

quan hữu quan cung cấp, thực tiễn xử lý các vụ việc liên quan nhƣ sau:

41

- Trong năm 2008, theo thông tin từ Cục sở hữu trí tuệ, cơ quan này đã đánh

giá và cho ý kiến chuyên môn về hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến

quyền sở hữu trí tuệ căn cứ theo đề nghị của các cơ quan, tổ chức liên quan. Cần lƣu

ý, Cục sở hữu trí tuệ là cơ quan quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, tuy

nhiên cơ quan này không có chức năng xử lý vi phạm. Do đó, căn cứ thực hiện

khiếu nại theo thủ tục hành chính hoặc khởi kiện ra Tòa án để bảo vệ quyền lợi của

mình.

- Thanh tra Khoa học công nghệ: theo thông tin từ thanh tra Bộ khoa học công

nghệ, hoạt động của cơ quan này trong thời gian vừa qua tập trung vào các hành vi

xâm phạm quyền, số lƣợng vụ việc cạnh tranh không lành mạnh không nhiều. Một

trong những nguyên nhân dẫn đến số lƣợng vụ việc cạnh tranh không lành mạnh

không nhiều là do thủ tục khiếu nại theo pháp luật về sở hữu trí tuệ có nhiều điểm

phức tạp khiến việc thực hiện gặp khó khăn. Cụ thể trong năm 2008, thanh tra Bộ

khoa học công nghệ mới chỉ tiếp nhận 1 vụ việc khiếu nại về cạnh tranh không lành

mạnh, tuy nhiên sau đó không xử lý do bên khiếu nại rút đơn.

Thanh tra các sở khoa học công nghệ tại địa phƣơng cũng có tiếp nhận và xem

xét một số vụ việc khiếu nại về cạnh tranh không lành mạnh, tuy nhiên do quy định

về thủ tục giải quyết còn chƣa rõ ràng nên chƣa xử lý vụ việc nào trong thực tiễn.

- Lực lƣợng quản lý thị trƣờng: đây là lực lƣợng chịu trách nhiệm chính trong

việc kiểm tra và xử lý gian lận thƣơng mại và các vi phạm khác trong hoạt động

thƣơng mại trên thị trƣờng. Trong năm 2008, số lƣợng vụ việc do lực lƣợng quản lý

thị trƣờng rất lớn, tuy nhiên tập trung chủ yếu vào các vi phạm về hàng giả, hàng

lậu, không có thông tin về vụ việc liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành

mạnh.

Nhận xét:

Trong điều kiện kinh tế thị trƣờng nƣớc ta hiện nay ngoài việc giải quyết tranh

chấp cạnh tranh không lành mạnh thông qua Cục CT&BVNTD hay Tòa án còn

thông qua trọng tại hay thƣơng lƣợng, hòa giải. Với phƣơng thức thƣơng lƣợng, hòa

giải có ƣu điểm là đơn giản, gọn nhẹ, ít tốn kém. Song nhƣợc điểm của phƣơng thức

42

này là tính cƣỡng chế không cao và phụ thuộc nhiều vào sự thiện chí của hai bên.

Với phƣơng thức trọng tài có tính linh động, chủ động, nhanh chóng, tiết kiệm thời

gian, đảm bảo bí mật song phƣơng thức này chi phí tƣơng đối cao và không phải lúc

nào cũng trôi chảy thuận lợi nhƣ thi hành bản án của Tòa án.

Do vậy, mặc dù số lƣợng các vụ cạnh tranh không lành mạnh tƣơng đối nhiều

nhƣng các doanh nghiệp Việt Nam vẫn có thói quen khởi kiện đến Tòa án và những

năm gần đây một số vụ việc thông qua Cục CT&BVNTD. Song các cơ quan này

chƣa phát huy đƣợc hết năng lực để tƣơng xứng với nhu cầu thực tế.

Từ khi Luật Cạnh tranh ra đời đến nay, Cục CT&BVNTD vẫn chƣa phát huy

đƣợc hết tác dụng nhƣ mong đợi. Số lƣợng các vụ việc Cục tiếp nhận còn quá ít, chủ

yếu các vụ liên quan đến bán hàng đa cấp và quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành

mạnh. Trong số các vụ đƣợc cục tiếp nhận thì chỉ một số vụ có kết luận cuối cùng,

một số ít vụ chỉ dừng lại ở việc điều tra sơ bộ hay trả lại hồ sơ cho ngƣời khởi kiện.

Các doanh nghiệp khi bị xâm phạm thì cũng không hào hứng với việc khiếu

kiện lên Cục CT&BVNTD do thời gian khiếu kiện dài, kết quả xử lý chỉ là xử phạt

hành chính nên mức độ răn đe còn chƣa cao. Hơn nữa thẩm quyền xử lý tranh chấp

của Cục CT&BVNTD còn chƣa cao do tính độc lập chƣa coi trọng, trong quá trình

xử lý phụ thuộc nhiều vào bộ, ngành khác.

Trong thời gian gần đây, cộng đồng doanh nghiệp cũng nhƣ bộ ngành khác đã

hiểu hơn về Luật Cạnh tranh năm 2004 cũng nhƣ vai trò của Cục CT&BVNTD, do

vậy số lƣợng vụ việc tiếp nhận của Cục tăng lên đáng kể.

Việc xử lý cạnh tranh không lành mạnh tại Tòa án có ƣu điểm là công khai,

minh bạch, có tính cƣỡng chế cao song nó có nhƣợc điểm là thời gian giải quyết kéo

dài, trải qua nhiều giai đoạn tố tụng gây tâm lý nặng nề cho ngƣời khởi kiện cũng

nhƣ ngƣời bị kiện. Thêm vào đó, hình thức giải quyết này không đảm bảo tính bảo

mật cho những doanh nghiệp có những thông tin quan trọng.

Ngƣời bị hại dù có quyết định đệ đơn kiện bằng con đƣờng nào thì cũng phải

cân nhắc đến các yếu tố trên để giảm thiểu thiệt hại cũng nhƣ công sức của cho

43

doanh nghiệp mình. Pháp luật cũng cần có cơ chế thông thoáng hơn để tạo điều kiện

tốt nhất cho bị hại và cộng động ngƣời tiêu dùng có thể dễ dàng đệ đơn kiện lên các

cơ quan thực thi pháp luật đầu tranh đòi quyền lợi chính đáng cho mình cũng nhƣ

loại bỏ những hành vi cạnh tranh không lành mạnh cho nền kinh tế.

2.2.2. Một số vụ việc cụ thể về xử lý các hành vi cạnh tranh không lành

mạnh

Vụ việc 1: Vụ việc quảng cáo so sánh trực tiếp sản phẩm thức ăn chăn nuôi

Tháng 12 năm 2016, nhận đƣợc đơn khiếu nại của Công ty TNHH Kim Lợi

Đại Thành cho rằng Công ty TNHH Woosung Việt Nam đã tổ chức hội nghị khách

hàng trong đó có so sánh trực tiếp sản phẩm của mình với sản phẩm của Công ty

TNHH Kim Lợi Đại Thành.

Tháng 01 năm 2017, tiến hành điều tra vụ việc. Kết quả điều tra cho thấy:

Bên bị điều tra đã tổ chức sự kiện “sử dụng hiệu quả thức ăn chăn nuôi” tại

một nhà hàng ở tỉnh Bến Tre với sự tham gia của hơn 200 khách hàng và hộ nông

dân nuôi heo.

Tại sự kiện, bên bị điều tra đã phát cho khách hàng các tài liệu “cân heo đối

chứng”, trong đó có thông tin so sánh sản phẩm thức ăn chăn nuôi của mình với sản

phẩm thức ăn chăn nuôi của của Công ty TNHH Kim Lợi Đại Thành và kết luận sản

phẩm của mình có hiệu quả tốt hơn sản phẩm của của Công ty TNHH Kim Lợi Đại

Thành.

Căn cứ kết quả điều tra, xác định bên bị điều tra đã thực hiện hành vi quảng

cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh dƣới hình thức so sánh trực tiếp hàng hóa,

dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác, vi phạm

quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật Cạnh tranh. Theo đó, ban hành quyết định xử lý

vụ việc, trong đó phạt Công ty TNHH Woosung Việt Nam với mức phạt 70.000.000 đồng (Cục QLCT&BVNTD, 2017)7.

7 Cục QLCT và Bảo vệ NTD, Báo cáo thường niên 2017, trang 10.

44

Vụ việc 2: Trường hợp của Công ty cổ phần Dược Traphaco, địa chỉ 75 Yên

ninh -Ba Đình – Hà Nội là chủ sở hữu của giấy chứng nhận số 03763 đối với sản

phẩm thuộc nhóm 5, trong đó có dòng nƣớc súc miệng T-B đang đƣợc tiêu thụ tại

Việt Nam gần 10 năm nay. Sản phẩm nƣớc súc miệng T-P của Công ty TNHH

Hoàng Hƣơng với thiết kế nhãn hàng hóa gắn ngoài chai nƣớc tƣơng tự với sản

phẩm nƣớc súc miệng T-B của Công ty Traphaco đã gây nhầm lẫn cho ngƣời tiêu

dùng tại Việt Nam và ảnh hƣởng nghiêm trọng tới uy tín, quyền lợi chính đáng của

chủ nhãn hiệu. Theo quyền sở hữu đã đƣợc đăng ký của Traphaco, mẫu sản phẩm

nƣớc súc miệng T-B của Công ty (dƣới chai nhựa thể tích 500 ml), có màu trắng và

xanh nhạt. Nhìn từ chính diện, chữ T-B đƣợc viết hoa, màu đỏ. Nhìn sang bên phải

là hình miệng 1 cô gái đang cƣời với hàm răng trắng thể hiện công dụng của sản

phẩm - đây là một yếu tố mang tính phân biệt cao của sản phẩm T-B, phía trên là

công ty Traphaco và địa chỉ. Phía sau của nhãn hàng hóa là phần ghi công thức (acid

boric 15 g; tá dƣợc, gồm tinh dầu quế, bạc hà, nƣớc), mã số, mã vạch, số đăng ký, lô

sản xuất và hạn dùng.

Trong khi đó công ty TNHH Hoàng Hƣơng ở số 6, ngõ 111, Láng Hạ, Đống

Đa tiến hành sản xuất sản phẩm nƣớc súc miệng T-P. Về mẫu sản phẩm nƣớc súc

miệng T-P của công ty TNHH Hoàng Hƣơng (cùng dạng chai nhựa, thể tích 500ml),

nƣớc trong suốt. Phần nhãn hàng hóa đƣợc thể hiên trên nền màu xanh nhạt tƣơng tự

với sản phẩm T-B. Nhìn từ chính diện chữ T-P đƣợc viết hoa màu đỏ. Bình thƣờng

nếu không đọc rõ 2 chữ này thì rất dễ gây nhầm lẫn, bên dƣới chữ P là chữ 500ml

màu đỏ. Nhìn sang phía bên phải là phần trình bày giống hệt sản phẩm T-B cũng là

hình miệng một cô gái đang cƣời với hàm răng trắng, các yếu tố khác đều trình bày

tƣơng tự, chỉ khác phần tên công ty và địa chỉ mà thôi…

*) Xử lý vụ việc: Tại công văn số 521/SHTT-TTKN ngày 22/3/2006, Cục sở

hữu trí tuệ xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh của Công ty TNHH Hoàng

Hƣơng vi phạm khoản 1 Điều 29 Nghị định 59/2000/NĐ-CP ngày 3/10/2000 của

Chính phủ về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn

địa lý và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công

nghiệp mà tại khoản 1 Điều 39 và Điều 40 của Luật Cạnh tranh. Ngày 13/6/2006

45

Chi cục quản lý thị trƣờng thành phố Hà Nội đã lập biên bản và ra quyết định xử

phạt vi phạm hành chính 10.000.000đ theo khoản 2 điểm a Điều 50 Nghị định 120-

2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ.

Vụ việc 3: Nước tương Chin-su quảng cáo, khuyến mại nhằm cạnh tranh không

lành mạnh

Ngày 15/7/2007, Hiệp hội lƣơng thực thực phẩm TP. Hồ Chí Minh đã có công

văn gửi Sở công thƣơng TP. Hồ Chí Minh phản ánh chƣơng trình quảng cáo, khuyến

mại sản phẩm nƣớc tƣơng Tam thái tử vi phạm luật cạnh tranh, gây hiểu lầm cho

ngƣời tiêu dùng về các nhãn hiệu nƣớc tƣơng khác. Cụ thể chƣơng trình quảng cáo

này giới thiệu một em bé gái cầm chai nƣớc tƣơng có cặn rồi hỏi: “Nƣớc tƣơng này

có cặn, có dùng đƣợc không mẹ?” Ngay sau đó, đài chiếu chai nƣớc tƣơng nhãn hiệu

Tam thái tử với lời thuyết minh: “Nƣớc tƣơng Tam thái tử không độc tố 3-MCPD,

không cặn, đảm bảo sức khỏe”. Đặc biệt tham gia chƣơng trình này khách hàng sẽ

đƣợc tặng miễn phí hàng ngàn chai nƣớc tƣơng Tam thái tử không cặn với điều kiện

hết sức dễ dàng. Chỉ cần mang chai nƣớc tƣơng đang sử dụng thuộc bất kì nhãn hiệu

nào và còn ít nhất ¼ chai cùng tờ rơi có điền đầy đủ thông tin đến các điểm đổi là

nhận đƣợc ngay 1 chai Tam thái tử mới. Về mặt đạo đức kinh doanh, đây là hình

thức kinh doanh, cạnh tranh không lành mạnh. Còn về mặt pháp lý, chƣơng trình

quảng cáo khuyến mãi trên có hành vi vi phạm luật cạnh tranh.

*) Xử lý vụ việc: Ngày 9/7/2007, Sở Công thƣơng tỉnh An Giang đã có công

văn đề nghị Công ty TNHH Thiết kế quảng cáo Sao Ban Mai- đơn vị thực hiện

chƣơng trình quảng cáo cho nhãn nƣớc tƣơng Tam thái tử chấm dứt ngay chƣơng

trình dự định tổ chức tại chợ Long Xuyên. Việc chấm dứt phải công bố công khai tại

nơi tổ chức khuyến mãi hoặc ít nhất trên một phƣơng tiện thông tin đại chúng. Sở

công thƣơng An Giang cho biết việc đình chỉ nƣớc tƣơng Tam thái tử khuyến mãi là

do chƣơng trình này vi phạm khoản 9 Điều 100 Luật Thƣơng mại về khuyến mãi

nhằm cạnh tranh không lành mạnh và khoản 4 Điều 46 Luật Cạnh tranh về tặng

hàng hóa nhƣng yêu cầu khách hàng đổi quà cùng loại. Sở Công thƣơng TP. Hồ Chí

46

Minh đã có biện pháp yêu cầu nhà sản xuất nƣớc tƣơng Tam thái tử ngƣng chƣơng

trình quảng cáo, thu hồi toàn bộ tờ rơi.

Vụ việc 4: công ty TNHH Noni Vina quảng cáo sai lệch và bán hàng đa cấp

bất chính:

Công ty TNHH Noni Vina, một công ty phân phối sản phẩm nƣớc trái nhàu ở

Việt Nam. “Để có thể trở thành thành viên cấp I của mạng lƣới phân phối, các phân

phối viên phải mua 1 thùng 4 chai nƣớc Tahitian Noni Juice với giá gốc là 2,7 triệu

đồng, giá phân phối là 3,2 triệu đồng. Nếu thành viên cấp I giới thiệu đƣợc thêm 3

ngƣời khác tham gia vào mạng lƣới (mỗi ngƣời lại đóng 2,7 triệu đồng) thì sẽ đƣợc

hƣởng hoa hồng 20% tổng số tiền những ngƣời này mua sản phẩm, 3 ngƣời sau này

đƣợc coi là thành viên cấp II. Nếu thành viên cấp II này giới thiệu đƣợc thêm 3

ngƣời khác tham gia vào mạng lƣới thì thành viên cấp I sẽ tự động đƣợc hƣởng thêm

5% tổng số tiền mà 3 thành viên cấp III nộp để mua sản phẩm”. Theo tính toán khi

phát triển mạng lƣới đến tầng thứ VIII thì số tiền hoa hồng đƣợc chuyển về tài

khoản của “ngƣời lôi kéo” ban đầu là 56,2 triệu đồng mặc dù ngƣời này không phải

làm gì ngoài việc rủ rê đƣợc 3 ngƣời mới tham gia vào mạng lƣới phân phối. Nhƣ

vậy theo mô hình trả hoa hồng này, thu nhập có đƣợc không phải xuất phát từ việc

bán sản phẩm mà là do chiếm dụng tiền của các thành viên tiếp theo trong mạng

lƣới.

*) Xử lý vụ việc:

- Thời gian: tháng 10-12/2008, vụ việc này đã đƣợc Cục CT&BVNTD khởi

xƣớng và điều tra đối với hoạt động bán hàng đa cấp. Kết quả điều tra là Cục

CT&BVNTD đã xác định đƣợc hành vi của công ty Noni Vina là quảng cáo sai lệch

và buộc ngƣời tham gia đóng tiền để tham gia bán hàng đa cấp.

- Kết quả: quyết định phạt 100 triệu đồng (Quyết định số 118/QĐ-QLCT ngày

30/12/2008).

Vụ việc 5: Tháng 6 năm 2009, Tổng công ty viễn thông quân đội Viettel có văn

bản gửi Cục CT&BVNTD và Thanh tra Bộ thông tin- truyền thông “tố” Mobifone

47

cạnh tranh không lành mạnh8. Theo nội dung đơn cảu Viettel, thời gian qua tại một

số tỉnh miền Tây nhƣ Đồng Tháp, Sóc Trăng, Hậu Giang, Cần Thơ… xuất hiện các

poster quảng cáo giá cƣớc dịch vụ mới của Mobifone. Các poster này đã in thông tin

từ một bài báo so sánh giá cƣớc của Mobifone thấp hơn giá cƣớc của Viettel 10

đồng/phút ở tất cả gói cƣớc tƣơng ứng giữa 2 mạng và ở cƣớc thuê bao trả sau thì

thấp hơn 1000 đồng/tháng. Nghiêm trọng hơn Mobifone còn thực hiện chƣơng trình

“đổi sim mạng khác lấy sim Mobifone có 230.000 đồng trong tài khoản”. Cụ thể

khách hàng có Sim của mạng khác còn tài khoản dƣới 15.000 đồng và hạn sử dụng,

có thể đổi miễn phí một Sim Mobizone của Mobifone có sẵn tài khoản 50.000 đồng,

mỗi tháng tặng thêm 15.000 đồng trong 12 tháng.

*) Xử lý vụ việc: Hành vi này của Mobifone đã vi phạm nghiêm trọng pháp

Luật Cạnh tranh khi gián tiếp vi phạm cả hai điều luật là: Cấm quảng cáo so sánh

trực tiếp và tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhƣng lại yêu cầu khách hàng

thay đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang

sử dụng để dùng hàng hóa của mình. Do đó, Mobifone đã phải chấm dứt hành vi

này.

Ngoài các vụ việc trên còn có thể kể đến các tranh chấp nhƣng chƣa đƣợ c xƣ̉ lý triê ̣t để , nhƣ vu ̣ c ông ty Tôn Hoa Sen kiê ̣n công ty thép Nam Kim vì đã tuyển du ̣ng ông Phạm Văn Trung, ngƣờ i làm viê ̣c lâu năm cho Tôn Hoa Sen và tƣ̀ ng giữ chức vụ tổ ng giám đốc củ a công ty này trong vòng 15 ngày. Lý do mà công ty Tôn Hoa Sen đƣa ra là ông Trung là nhân viên lâu năm , lại đã giữ chức vụ quan trọng trong công

ty nên đã nắm giƣ̃ các thông tin mâ ̣t quan tro ̣ng cấu thành bí quyết kinh doanh của Tôn Hoa Sen, nay la ̣i làm viê ̣c cho đối thủ ca ̣nh tranh thì đã vi pha ̣m điều khoản bảo . Ngoài ra , công ty Thép Nam mâ ̣t thông tin và không ca ̣nh tranh trong hơ ̣p đồng Kim cũng đã thƣ̣c hiê ̣n hành vi ca ̣nh tranh kh ông lành ma ̣nh khi đã tuyển du ̣ng ông Trung, mà thực chất của việc tuyển dụng này là nhằm khai thác các kỹ năng và

8 Thị trường viễn thông di động: Ai quản, quản ai, xem tại: https://baomoi.com/thi-truong-vien-thong-di- dong-ai-quan-quan-ai/c/2901984.epi

48

thông tin mà ông Trung có đƣơ ̣c khi làm viê ̣c cho Tôn Hoa Sen 9. Vụ việc này đã kéo dài nhiều năm nhƣng vẫn chƣa có kết luận bằng một bản án của Tòa.

Các vụ việc nêu trên cho thấy tính chất phức tạp của các vụ việc cạnh tranh

không lành ma ̣nh. Các vụ việc này không chỉ liên quan đến pháp luật cạnh tranh , mà

còn cả các ngành luật khác nhƣ luật sở hữu trí tuệ, luâ ̣t dân sƣ̣, luâ ̣t bảo vê ̣ ngƣờ i tiêu dùng, luâ ̣t lao đô ̣ng và thâ ̣m chí cả Hiến pháp.

2.3. Một số vấn đề đặt ra trong việc xử lý, giải quyết hành vi cạnh tranh

không lành mạnh

Xét thực tiễn hoạt động thị trƣờng với nhiều hiện tƣợng cạnh tranh không lành

mạnh trong các lĩnh vực khác nhau, có thể thấy số lƣợng vụ việc do Cục

CT&BVNTD xử lý còn chƣa nhiều. Mặt khác số lƣợng vụ việc liên quan đến cạnh

tranh không lành mạnh do các cơ quan khác xử lý theo thẩm quyền cũng hạn chế.

Trong số các vụ việc đƣợc xử lý số lƣợng vụ việc liên quan đến các hành vi cạnh

tranh không lành mạnh nhƣ chỉ dẫn gây nhầm lẫn, quảng cáo, gièm pha doanh

nghiệp khác, gây rối hoạt động của doanh nghiệp khác, ép buộc trong kinh doanh…

còn chƣa nhiều.

2.3.1. Về quy định của pháp luật

Về quy định của pháp luật, trong Luật Cạnh tranh Việt Nam chƣa có các văn

bản hƣớng dẫn chi tiết về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nhiều quy định dừng

lại ở mức định tính do chƣa thể định lƣợng gây khó khăn cho việc áp dụng trên thực

tế (chẳng hạn nhƣ Điều 44 Luật Cạnh tranh quy định hành vi gây rối hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp khác là hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián

đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó). Nội dung quy định chƣa cụ thể có

thể gây khó khăn cho cơ quan quản lý, mà còn cho cả các tổ chức, cá nhân liên quan

để trong việc nhận thức, tìm hiểu và vận dụng pháp luật cạnh tranh để bảo vệ quyền

lợi chính đáng của họ. Riêng đối với hoạt động bán hàng đa cấp, do đã có Nghị định

số 110/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/8/2005 về quản lý hoạt động bán hàng

9 Có thể xem tóm tắt diễn biến vụ kiện tại : https://tinnhanhchungkhoan.vn/doanh-nghiep/hoa-sen-va-cuu-ceo- hai-ben-cung-kien-31138.html (truy câ ̣p ngày 5/12/2018).

49

đa cấp quy định chi tiết về thẩm quyền quản lý nhà nƣớc của Cục CT&BVNTD,

cũng nhƣ các Sở Công thƣơng địa phƣơng, trong đó có thẩm quyền kiểm tra, giám

sát trong lĩnh vực này nói chung, việc điều tra và xử lý vi phạm có rất nhiều thuận

lợi, dẫn đến số lƣợng vụ việc Cục xử lý trong lĩnh vực này nhiều hơn đáng kể (9 trên

tổng số 15 vụ việc).

Việc chồng lấn giữa pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh và các lĩnh vực

pháp luật khác là một điểm cơ bản rất khó thay đổi và đƣợc chấp nhận trong hệ

thống pháp luật của nhiều quốc gia và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Vấn

đề này hiện này cũng đã đƣợc giải quyết cơ bản trong Luật Cạnh tranh năm 2018.

Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam đã thiếu những quy định giải quyết xung đột pháp lý

cũng nhƣ phân định thẩm quyền của các cơ quan thực thi. Tình trạng chồng lấn thẩm

quyền, thiếu khả năng hợp tác hiệu quả của các cơ quan thực thi trong khi luật nội

dung còn chƣa cụ thể đã gây khó khăn rất nhiều cho hoạt động triển khai thực thi

pháp luật, không chỉ đối với Cục CT&BVNTD mà còn đối với cả các cơ quan khác,

thể hiện qua số lƣợng vụ việc liên quan đƣợc các cơ quan khác xử lý nhƣ thanh tra,

hay quản lý thị trƣờng là không nhiều. Lấy ví dụ nhƣ các quy định chống thông tin,

quảng cáo so sánh, nói xấu doanh nghiệp khác, hoặc quảng cáo gian dối, gây nhầm

lẫn tại Pháp lệnh quảng cáo và nhiều văn vản khác đƣợc ban hành trƣớc Luật Cạnh

tranh một thời gian dài, tuy nhiên theo thông tin từ cơ quan thanh tra văn hóa, số

lƣợng vụ việc đƣợc cơ quan này xử lý đến nay vẫn không đáng kể.

2.3.2. Vấn đề giải quyết tranh chấp về cạnh tranh không lành mạnh

Xuất phát từ thực tế các vụ việc về cạnh tranh không lành mạnh xảy ra trong

thời gian qua, có nhiều vụ việc đòi hỏi nhà cơ quan chức năng phải nghiên cứu và áp

dụng cơ chế giải quyết tranh chấp đối với một số vụ việc về cạnh tranh không lành

mạnh. Với cơ chế xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhƣ hiện nay, số vụ

việc đƣợc cơ quan quản lý cạnh tranh xử lý rõ ràng không phản ánh đúng thực trạng

về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đang diễn ra. Điều đó cũng phản ánh

đúng việc thiếu nguồn nhân lực để xử lý triệt để các vụ việc về cạnh tranh không

lành mạnh. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh mới đƣợc tiếp cận chủ yếu theo

50

hƣớng xử lý mà ít trƣờng hợp đi vào giải quyết tranh chấp do khiếu kiện của một

trong các bên.

Theo điều tra về nhu cầu và nguyện vọng giải quyết cạnh tranh xoay quanh

phản ứng của bên vi phạm quyền lợi trƣớc các hành vi cạnh tranh không lành mạnh

nhƣ sau. Đối với các hành vi kinh doanh làm ảnh hƣởng tới quyền lợi của ngƣời tiêu

dùng thì hầu hết ngƣời tiêu dùng cho biết họ sẽ khiếu nại ngƣời bán nếu hàng hóa có

chất lƣợng không đúng nhƣ quảng cáo. Nếu ngƣời bán không giải quyết thỏa đáng

thì hầu nhƣ không đi kiện vì do sợ mất thời gian và chi phí, một số ít sợ không thằng

kiện hay không biết kiện ở đâu. Đối với hành vi cạnh tranh của đối thủ cạnh tranh,

thì hầu hết các doanh nghiệp bị hại sẽ đi kiện khi bị đối thủ cạnh tranh tung tin thất

thiệt. Tuy nhiên họ chỉ đi kiện khi có bằng chứng rõ ràng về việc đối thủ cạnh tranh

có hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Khi chọn giải pháp đi kiện thì không nhiều

các doanh nghiệp chọn giải pháp khiếu nại ra Cục CT&BVNTD vì họ cho rằng cơ

quan này không phải là cơ quan tƣ pháp nên phán quyết có hiệu lực không cao và

quan trọng là quyền và lợi ích bị vi phạm không đƣợc giải quyết thỏa đáng.

Việc xử lý trƣớc tiên bằng các hình thức xử phạt hành chính đối với các hành

vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ không khuyến khích việc gửi đơn tới cơ quan

quản lý cạnh tranh để bảo vệ quyền lợi cho mình. Họ sẽ mất thời gian và chi phí

theo kiện mà không đƣợc bù đắp về thiệt hại. Đây cũng là nguyên nhân tại sao các

vụ ciệc cạnh tranh không lành mạnh vẫn chƣa đƣợc đƣa tới cơ quan quản lý cạnh

tranh để giải quyết (cho tới 01/09/2006, lần đầu tiên hành vi cạnh tranh không lành

mạnh bị xử lý hành chính trên lãnh thổ Việt Nam bởi thanh tra Bộ Khoa học và

Công nghệ với công ty cổ phần dƣợc phẩm Hà Tây với tổng số tiền phạt là 10,5 triệu

đồng).

Ngoài ra, để khiếu nại hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải trải qua nhiều

khâu: khiếu nại, điều tra không chính thức, điều tra chính thức (tiêu tốn khoảng 5, 6

tháng) sau đó vụ việc mới đƣợc đƣa ra xử lý. Với cách xử lý chậm chạp nhƣ vậy sẽ

không giải quyết đƣợc những vụ vi phạm mang tính thời sƣ̣. Thêm vào đó, quy định

buộc doanh nghiệp khiếu nại phải nộp phí 10 triệu đồng khi đề nghị điều tra hành vi

51

cạnh tranh không lành mạnh cũng là chƣa hợp lí. Thực tế, các doanh nghiệp “nạn

nhân” mực dù thiệt thòi rất lớn về uy tín và tài sản nhƣng họ không muốn ra tòa.

Hơn nữa, không phải lúc nào một hành vi cạnh tranh không lành mạnh diễn ra

cũng bị cơ quan quản lý cạnh tranh phát hiện để xử lý, mà ngƣời phát hiện đầu tiên

hành vi đó phải là chủ thể bị xâm phạm bởi hành vi đó. Nhƣng nếu chủ thể bị xâm

hại đó không khiếu nại tới cơ quan quản lý cạnh tranh và cơ quan quản lý cạnh tranh

không phát hiện ra thì hành vi đó đƣơng nhiên không bị xử lý. Thực trạng này rất dễ

xảy ra trong tình trạng hiểu biết pháp luật của ngƣời dân ở nƣớc ta còn thấp. Lấy ví

dụ nhƣ vị cạnh tranh “hi hữu” bằng mắm tôm giữa hai cửa hàng chuyên kinh doanh

tơ lụa Hadong Silk và Tân Thành Silk. Cửa hàng Tân Thành Silk ở cùng số nhà,

nhƣng do bị khuất bên trong nên bị cửa hàng Hadong Silk giành hết khách. Chủ hiệu

Tân Thành Silk đã dùng hai chậu mắm tôm và lòng lợn thối trong nhà, dùng quạt

công nghiệp và quạt hơi ra ngoài khiến khách hàng không thể chịu nổi mùi hôi thối

đã bỏ đi. Hậu quả là cửa hàng Hadong Silk bị ảnh hƣởng mất khách hàng, thiệt hại

trong 2 tháng liền lên tới năm, sáu chục triệu đồng. Khi đƣợc hỏi về cách xử lý vụ

việc thì ông phó chủ tịch Ủy ban nhân dân phƣờng Hàng Gai (Hoàn Kiếm – Hà Nội)

trả lời “… Phƣờng không biết dựa vào văn bản nào để xử lý cả…”. Các cơ quan

chức năng cũng lâm vào tình trạng tƣơng tự. Đây là những thách thức rất lớn đặt ra

trong quá trình xử lý, giải quyết tranh chấp phát sinh do hành vi cạnh tranh không

lành mạnh

2.3.3. Vấn đề “Tố tụng kép” trong việc bồi thường thiệt hại

Luật Cạnh tranh không phân chia riêng biệt thẩm quyền xử lý các vụ vi phạm

pháp Luật Cạnh tranh không lành mạnh cho Tòa án dân sự mà giao cho Cục

CT&BVNTD trực tiếp xử lý. Vấn đề này cũng chƣa đƣợc thay đổi theo Luật Cạnh

tranh năm 2018. Theo quy định tại Điều 118, khoản 2 Luật Cạnh tranh: “Đối với

hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh không lành mạnh và các hành vi khác vi

phạm quy định của Luật này không thuộc trường hợp tại khoản 1 Điều này, cơ quan

có thẩm quyền xử phạt tiến hành phạt tiền theo quy định của pháp luật về xử lý vi

phạm hành chính hoặc theo quy định của pháp luật có liên quan”. Nhƣ vậy về cơ

52

bản hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ đƣợc xử lý theo pháp luật hành chính.

Trƣớc đó, Điều 117 có quy định: “Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về

cạnh tranh gây thiệt hại tới lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân khác thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật”.

Ngƣời ta có thể hiểu đƣợc rằng, bên bị thiệt hại muốn đƣợc bồi thƣờng thiệt hại phải

kiện ra Tòa dân sự (Toà án nhân dân) để bù đắp thiệt hại bởi hành vi cạnh tranh

không lành mạnh. Nhƣ vậy sẽ cần 2 giai đoạn tố tụng riêng biệt để bảo vệ quyền và

lợi ích của mình.

Hơn nữa, khi xem xét vụ việc cạnh tranh không lành mạnh, các Tòa án Việt

Nam có xu hƣớng xem xét cả nội dung lẫn hình thức vụ việc. Trong trƣờng hợp này

ngƣời khiếu nại về cạnh tranh không lành mạnh sẽ phải thực hiện liên tiếp hai thủ

tục tố tụng tại cơ quan quản lý cạnh tranh (để đình chỉ vi phạm) và Tòa án (để yêu

cầu bồi thƣờng thiệt hại). Có thể thấy cách làm nhƣ vậy tƣơng đối phức tạp, mất thời

gian, mặt khác còn đặt ra vấn đề thẩm quyền của Tòa án xử lý.

2.3.4. Vấn đề văn hóa, thói quen kinh doanh

Văn hóa và thói quen kinh doanh của doanh nghiệp là một trong những yếu tố

quan trọng có ảnh hƣởng lớn hành vi kinh doanh và có thể dẫn tới hành vi cạnh

tranh lành mạnh (hoặc không lành mạnh). Văn hóa và thói quen kinh doanh không

chỉ là yếu tố giúp doanh nghiệp tạo dựng uy tín mà còn cơ sở nền tảng để doanh

nghiệp cạnh tranh lành mạnh, tôn trọng lợi ích của doanh nghiệp cùng cạnh tranh,

của ngƣời tiêu dùng. Văn hoá và thói quen kinh doanh cũng thể hiện trình độ phát

triển của doanh nghiệp, của quản trị doanh nghiệp và trách nhiệm xã hội của doanh

nghiệp. Thông thƣờng, nếu văn hóa và thói quen kinh doanh của doanh nghiệp thấp,

các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, cạnh tranh không công bằng trên thị

trƣờng càng nhiều và ngƣợc lại (Tăng Văn Nghĩa , 2014, tr. 96). Trong điều kiện kinh doanh tại Việt Nam hiện nay – do thời gian chuyển đổi cơ kinh tế (thị trƣờng)

chƣa nhiều, những thói quen kinh doanh tốt chƣa đƣợc nhấn mạnh, nguy xuất hiện

hành vi cạnh tranh không lành mạnh là rất cao do doanh nghiệp luôn đặt mục tiêu lợi

nhuận quá cao.

53

Tóm lại, trên thị trƣờng Việt Nam hiện nay các hành vi cạnh tranh không lành

mạnh ngày càng nảy sinh phức tạp và tinh vi hơn gây khó khăn cho doanh nghiệp,

ảnh hƣởng tới lợi ích của ngƣời tiêu dùng và làm phƣơng hại tới cả nền kinh tế. Với

thực trạng nhƣ vậy thì vấn đề phát huy vai trò của các cơ quan chức năng, của pháp

luật trong việc ngăn chặn, xử lý doanh nghiệp có hành vi vi phạm pháp luật là hết

sức cần thiết.

54

CHƢƠNG III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT XỬ LÝ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH

CHẤP VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

3.1. Xu hƣớng cạnh tranh không lành mạnh và nhu cầu xử lý tại Việt

Nam.

Trong xu thế chung của nền kinh tế thị trƣờng, trong thời gian tới chắc chắn số

lƣợng các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh do cơ quan cạnh tranh tiếp nhận và

xem xét xử lý dự kiến sẽ tăng lên đáng kể. Do thực tiễn hoạt động thị trƣờng với tình

hình kinh tế có dấu hiệu suy thoái, các doanh nghiệp sẽ tìm kiếm các biện pháp cạnh

tranh mạnh mẽ hơn, có thể dẫn đến các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Mặt

khác, với việc mở cửa nhiều ngành, lĩnh vực kinh doanh để đáp ứng các cam kết của

nƣớc ta trong việc hội nhập WTO cũng nhƣ các hiệp định thƣơng mại tự do thế hệ

mới (FTA), các doanh nghiệp, tập đoàn nƣớc ngoài sẽ tham gia sâu rộng hơn vào

đời sống kinh tế trong nƣớc, từ đó có thể xuất hiện các dạng thức cạnh tranh mới,

đòi hỏi cơ quan quản lý có sự nghiên cứu, đánh giá cả hai mặt tích cực, tiêu cực và

đề xuất các biện pháp điều chỉnh nếu cần thiết.

Tỷ lệ các vụ việc do Cục CT&BVNTD chủ động tiến hành điều tra sẽ giảm đi,

đồng thời các vụ việc điều tra theo khiếu nại của các bên liên quan sẽ gia tăng. Xu

hƣớng này phù hợp với bản chất của yêu cầu điều chỉnh các hành vi cạnh tranh

không lành mạnh. Do cơ chế thị trƣờng cho phép các doanh nghiệp tự do hoạt động

kinh doanh và cạnh tranh, họ có thể lựa chọn và sáng tạo nhiều các biện pháp cạnh

tranh đa dạng và phong phú xuất phát từ mục tiêu lợi nhuận. Quy định của pháp luật

cũng nhƣ cơ quan quản lý nhà nƣớc không thể can thiệp quá rộng hoặc quá sâu vào

các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nếu không sẽ kìm hãm động lực phát

triển của các doanh nghiệp trên thị trƣờng. Các hành vi cạnh tranh chỉ bị điều chỉnh,

ngăn chặn khi trở nên thái quá, gây ảnh hƣởng tiêu cực tới lợi ích của các tổ chức, cá

nhân khác và của cả xã hội. Do đó, các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh về dài

hạn sẽ chủ yếu dựa trên cơ sở khiếu nại của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại hoặc đe dọa

bị thiệt hại. Nếu các bên liên quan thể hiện ý chí chấp nhận hành vi cạnh tranh, coi

là hoạt động thực tiễn thông thƣờng trên thị trƣờng, cơ quan quản lý sẽ không xem

xét can thiệp, ngăn chặn hành vi đó.

55

Qua phân tích cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam trong giai đoạn hiện

nay, thấy các thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh ngày càng tinh vi nên rất khó

kiểm soát. Tuy mức độ gay gắt, quyết liệt chƣa thể bằng các nƣớc phát triển nhƣng

cũng gây nhiều tiêu cực cho nền kinh tế, ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích hợp pháp

cùa doanh nghiệp, ngƣời tiêu dùng và lợi ích xã hội nói chung.

Các chủ thể kinh doanh vừa và nhỏ và cạnh tranh lành mạnh chịu sức ép nặng

nề từ các đối thủ tiềm năng về sức mạnh kinh tế cũng nhƣ thủ đoạn cạnh tranh

không lành mạnh. Do vây hơn lúc nào hết, các chủ thể kinh doành này thực sự cần

một môi trƣờng kinh doanh bình đẳng, lành mạnh để tồn tại và phát triển.

Hơn nữa với những quy định của pháp luật hiện hành dù cho có đƣợc thực hiện

nghiêm chỉnh nhƣng cũng chƣa đủ điều kiện về tiền đề pháp lý để chống lại hành vi

cạnh tranh không lành mạnh đã, đang và sẽ diễn ra. Bởi vì các quy định nằm rải rác

ở nhiều văn bản thuộc các lĩnh vực khác nhau, vừa không nêu rõ những dấu hiệu đặc

trƣng của hành vi vi phạm vì thế việc thực thi có nhiều hạn chế.

Bên cạnh những thiếu sót của pháp luật, cơ chế đảm bảo trật tự quản lý cạnh

tranh là nh mạnh cũng chƣa đƣợc xác lập phù hợp, vững chắc. Kinh nghiệm của các nƣớc cho thấy ngay cả khi xây dựng đƣợc một hệ thống cơ quan chuyên trách việc

đấu tranh chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì kết quả vẫn còn nhiều

hạn chế. Trong khi đó ở nƣớc ta hiện nay Cục CT&BVNTD của Bộ công thƣơng

chuyên trách trong lĩnh vực này hoạt động chƣa thật sự hiệu quả.

Cùng những đòi hỏi của việc thực thi thị trƣờng, chúng ta đã là thành viên của

khối ASEAN, APEC, WTO, khu vực mâ ̣u dịch tự do ASEAN (AFTA) cũng nhƣ ký

kết nhiều hiệp định thƣơng mại tự do thế hệ mới... điều đó có nghĩa chúng ta có cơ

hội thúc đẩy giao lƣu kinh tế, thu hút đầu tƣ, chuyển giao công nghệ... vừa phải cam

kết thực hiện mọi tuyên bố, mọi hiệp định về kinh tế của tổ chức đó nhƣ cắt giảm

thuế quan, loại bỏ hạn chế sản lƣợng hàng nhập khẩu, mở cửa thị trƣờng... Điều đó

có nghĩa là nền kinh tế thị trƣờng của nƣớc ta ngày càng phát triển và cơ hội cho các

hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngày càng gia tăng.

56

Chính vì vậy nhu cầu về xử lý và giải quyết tranh chấp cạnh tranh không lành

mạnh ở nƣớc ta một cách thỏa đáng là tất yếu khách quan. Đòi hỏi chúng ta phải

thiết lập và duy trì trật tự cạnh tranh, chống lại các hành vi cạnh tranh không lành

mạnh thông qua việc xử và giải quyết nhóm hành vi này một cách hữu hiệu.

3.2. Một số đề xuất cụ thể nhằm đảm bảo hiệu quả việc xử lý và giải quyết

tranh chấp về cạnh tranh không lành mạnh

3.2.1. Về cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp

3.2.1.1. Đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh

a) Về khái niệm cạnh tranh không lành mạnh

Với mô hình một luật điều chỉnh cả hành vi hạn chế cạnh tranh và chống cạnh

tranh không lành mạnh đã khép lại những tranh luận của giới khoa học pháp lý xung

quanh việc ban hành một hay nhiều điều luật về cạnh tranh ở Việt Nam khi so sánh

với hệ thống pháp luật cạnh tranh của nhiều nƣớc trên thế giới, mà ở đó pháp luật

cạnh tranh đƣợc ban hành ở nhiều đạo luật (Ở Hoa Kì có ít nhất 6 đạo luật, Trung

Quốc có Luật Cạnh tranh không lành mạnh và Luật kiểm soát độc quyền…)

Nhƣ chúng ta đã phân tích tại phần Chƣơng I về khái niệm cạnh tranh không

lành mạnh tại khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh thì việc cần thiết hiện nay là làm rõ

nội dung “các chuẩn mực thông thƣờng về đạo đức kinh doanh”. Tƣơng tự nhƣ vậy,

Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành

vi của doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại

và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến

quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác” (khoản 6 Điều 3). Về cơ bản,

Luật Cạnh tranh mới không tiếp tục quy định một số hành vi cạnh tranh không lành

mạnh đã đƣợc quy định trong một số luật khác và khẳng định nguyên tắc các hành vi

cạnh tranh không lành mạnh đã đƣợc quy định tại các luật khác đƣợc thực hiện theo

pháp luật từng ngành đó để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Tuy

nhiên, do nền kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta chỉ mới hình thành nên các thông lệ, tập

quán thƣơng mại tại Việt Nam chƣa đủ thời gian để hình thành các chuẩn mực đạo

đức kinh doanh đƣợc tổ chức, cá nhân cùng nhận thức giống nhau và tự nguyện thực

57

hiện nhƣ những quy tắc xử xự có tính chất bắt buộc, do đó cần làm rõ nội dung này

làm căn cứ thống nhất trong việc xây dựng và áp dụng toàn bộ các quy định về cạnh

tranh không lành mạnh. Có thể xác định các tiêu chí này bằng những nguyên tắc cơ

bản của giao dịch dân sự, thƣơng mại nhƣ:

- Nguyên tắc trung thực.

- Nguyên tắc thiện chí.

- Nguyên tắc hợp tác.

- Nguyên tắc khác (phù hợp với nhu cầu và thực tiễn…)

Trong các loại hành vi đƣợc coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo

quy định của Luật Cạnh tranh, có một số hành vi mà pháp luật của các quốc gia khác

quan niệm là hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhƣng chƣa đƣợc Luật Cạnh tranh

của Việt Nam cụ thể hóa là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Chẳng hạn nhƣ

hành vi chấm dứt đột ngột quan hệ kinh doanh với đối tác mà không đƣợc báo trƣớc

một thời gian hợp lí theo quy định của pháp luật Cộng hòa Pháp là hành vi cạnh

tranh không lành mạnh (Điều L.442-6, I, 5° Bô ̣ luâ ̣t thƣơng ma ̣i ) nhƣng Luật Cạnh

tranh Việt Nam không coi hành vi này là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Các

hành vi bán hàng hóa với giá quá thấp, từ chối giao dịch kinh doanh không có lí do

chính đáng, phân biệt về giá theo pháp luật một số nƣớc cũng có thể xếp vào loại

hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhƣng Luật Cạnh tranh Việt Nam không xếp

vào loại hành vi này mà có lẽ những loại hành vi này chỉ có thể bị xử lý theo các quy

định về phòng chống hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh trong Luật cạnh tranh. Ngoài

ra, nhiều hành vi có chung bản chất nhƣng Luật Cạnh tranh lại tách ra thành các

hành vi riêng biệt nhƣ ép buộc trong kinh doanh, gièm pha doanh nghiệp khác, gây

rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác.

b) Về hướng dẫn thi hành các quy định về chống cạnh tranh không lành mạnh:

Mặc dù Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc hƣớng dẫn, quy định chi tiết

để thực thi Luật Cạnh tranh, song việc hƣớng dẫn vẫn chủ yếu dành cho các quy

định về hạn chế cạnh tranh và tố tụng cạnh tranh. Luật Cạnh tranh mới đƣợc thông

58

qua năm 2018, cho đến nay vấn chƣa có văn bản hƣớng dẫn thi hành. Đây sẽ là

những việc phải đƣợc triển khai trƣớc khi Luật có hiệu lực. Bên cạnh đó, những vấn

đề sau cần phải đƣợc chú trọng giải quyết:

Thứ nhất, loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh nào sẽ đƣợc áp dụng cơ chế

xử lý hành chính nhƣ Luật Cạnh tranh đã quy định. Hiện tại các hành vi cạnh tranh

không lành mạnh vẫn có thể bị xử lý về mặt hành chính bởi nhiều hình thức khác

nhau mà không đƣợc giải quyết trực tiếp từ các quy định của Bộ luật Dân sự 2015.

Thứ hai, hình thức xử lý hành chính đối với hành vi cạnh tranh không lành

mạnh nhƣ thế nào là phù hợp. Theo quy định tại Điều 117 Luật Cạnh tranh: “hành vi

vi phạm luật này có thể bị xử lý về mặt hành chính nhƣ sau:

- Hình thức xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền

- Hình thức xử phạt bổ sung nhƣ thu hồi giấy đăng kí kinh doanh, tƣớc quyền

xử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, tịch thu tang vật, phƣơng tiện đƣợc xử

dụng để vi phạm pháp luật cạnh tranh”.

Tuy nhiên theo Khoản 2 Điều 119, cơ quan quản lý cạnh tranh chỉ có thể đƣợc

áp dụng hình thức sau: “cảnh cáo, tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi

phạm pháp luật về cạnh tranh, cải chính công khai, phạt tiền theo quy định của

pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc theo quy định của pháp luật có liên

quan”. Vấn đề đặt ra ở đây là cơ quan cạnh tranh có quyền buộc chấm dứt hành vi

vi phạm hay không? Thêm vào đó, ngoài các biện pháp mà cơ quan quản lý cạnh

tranh đƣợc quyền áp dụng kể trên, chủ thể có hành vi vi phạm còn có thể bị áp dụng

biện pháp nào khác nhƣ đã quy định tại Điều 117 hay không? Nếu có thì cơ quan

nào có thẩm quyền áp dụng. Đây là những vấn đề cần có hƣớng dẫn cụ thể.

Thứ ba, về thủ tục điều tra, xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Luật

Cạnh tranh đã quy định tƣơng đối rõ trình tự, thủ tục điều tra, xử lý hành vi cạnh

tranh không lành mạnh. Tuy nhiên vẫn còn nhiều nội dung khá quan trọng liên quan

tới chủ quyền và lợi ích của các bên liên quan trong vụ việc chƣa đƣợc Luật đề cập

tới, cụ thể là: Luật Cạnh tranh chƣa hề quy định nghĩa vụ gửi các giấy tờ, hồ sơ

59

khiếu nại cho bên bị khiếu nại biết để trả lời. Luật cũng chƣa quy định thời hạn gửi

các quyết định liên quan đến việc điều tra, xử lý hành vi cạnh tranh không lành

mạnh khi đã có đề nghị của điều tra viên… Việc thiếu các quy định kể trên có thể

dẫn tới sự tùy tiện trong quá trình áp dụng, làm giảm hiệu quả phòng chống các hành

vi cạnh tranh không lành mạnh, vì thế trong thời gian tới cần có văn bản hƣớng dẫn

cụ thể vấn đề này.

c) Về chủ thể bị áp dụng các quy định về chông cạnh tranh không lành mạnh

Thông thƣờng pháp Luật Cạnh tranh tác động đến tất cả các chủ thể tham gia

thị trƣờng tiến hành các hoạt động kinh doanh khi hành vi của họ có dấu hiệu không

lành mạnh. Đối tƣợng áp dụng, theo quy định tại Điều 2 của Luật Cạnh tranh 2004,

bao gồm “các tổ chức, cá nhân kinh doanh (được gọi chung là doanh nghiệp) và các hiệp hội ngành nghề”10. Tuy nhiên khái niệm doanh nghiệp ở trên mới chỉ đƣợc

hiểu theo nghĩa hẹp, cho nên, nhiều nhóm chủ thể khác cũng tham gia thị trƣờng đã

bị bỏ sót. Các văn phòng đại diện và chi nhánh của thƣơng nhân nƣớc ngoài tại Việt

nam, nếu hoạt động của chúng (không phải là kinh doanh) ảnh hƣởng tiêu cực tới

cạnh tranh thì cũng phải chịu sự điều chỉnh của Luật. Đó là chƣa kể đến các loại

hình “bán kinh doanh” khác nhƣ nhà in, nhà xuất bản, các tạp chí, báo chƣa đƣợc coi

là doanh nghiệp theo cách hiểu của Luật Cạnh tranh. Do đó nếu những chủ thể này

thực hiện hành vi cạnh tranh có thể coi là cạnh tranh không lành mạnh theo quy định

của văn bản pháp luật đối với chủ thể đó, thuộc ngành nghề đó, bởi vì không thỏa

mãn yếu tố chủ thể theo quy định của Luật Cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh

không lành mạnh.

Tuy nhiên, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh của hầu hết các nƣớc

đều theo quy định tất cả các chủ thể tham gia thị trƣờng nhằm mục đích cạnh tranh

đều có thể là đại chỉ áp dụng của Luật chứ không nhất thiết là doanh nghiệp. Pháp

luật chống cạnh tranh không lành mạnh không chỉ điều chỉnh các hành vi của các

10 Luật Cạnh tranh năm 2018, Điều 2 (Đối tƣợng áp dụng) quy định: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh (sau đây gọi chung là doanh nghiệp) bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam”.

60

chủ thể kinh doanh mà còn phải điều chỉnh cả những hành vi của những cá nhân, tổ

chức, cơ quan không phải chủ thể kinh doanh, nhƣng hành vi của họ “ trợ giúp” cho

cạnh tranh của ngƣời khác gây ảnh hƣởng tiêu cực tới môi trƣờng cạnh tranh. Qua

đó, có thể thấy rằng trƣờng hợp một cá nhân nếu tiến hành vi trợ giúp vì mục đích

cạnh tranh của một doanh nghiệp nào đó có dấu hiệu “không lành mạnh” thì cũng

cần đƣợc xem xét để xử lý.

3.2.1.2. Đảm bảo sự hài hòa, tính tương thích giữa các luật liên quan

Để điều tra một vụ việc cạnh tranh nhất là vụ việc cạnh tranh liên quan đến

hành vi lạm dụng luôn phải sử dụng đến kết quả từ quá trình thực thi pháp luật thuế

để tính doanh thu, pháp luật kiểm toán để tính chi phí, thủ tục xử lý hành vi vi phạm.

Do đó sự không phù hợp tƣơng thích với hệ thống luật liên quan đến cạnh tranh sẽ

gây nhiều khó khăn cho quá trình thực thi luật cạnh tranh. Do vậy Luật Cạnh tranh

cần đặt trong mối quan hệ chặt chẽ và đảm bảo sự tƣơng thích với các chế định pháp

luật khách nhƣ Luật kiểm toán, Luật thƣơng mại, Luật thuế... và có sự tham gia của

cơ quan quản lý cạnh tranh trong quá trình soạn thảo hoặc sửa đổi những luật liên

quan sẽ là một nhân tố quan trọng đảm bảo tính tƣơng thích giữa các luật từ khía

cạnh, chính sách cạnh tranh.

Việc Việt Nam đã trở thành thành viên của công ƣớc Paris về bảo hộ quyền sở

hữu công nghiệp và là thành viên chính thức của WTO thì Việt Nam từng bƣớc thực

thi Hiệp định TRIPS. Theo đó các quốc gia khi gia nhập có nghĩa vụ ban hành cả

luật nội dung và luật hình thức với các thiết chế khác để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ

một cách có hiệu quả trƣớc hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Với chức năng

thúc đẩy tự do hóa thƣơng mại và diễn đàn cho các cuộc đàm phán thƣơng mại

WTO là tổ chức có sứ mệnh thực hiện chức năng đó. Theo đó các rào cản thƣơng

mại phải đƣợc giảm xuống thấp hơn là một trong những mục tiêu có ý nghĩa nhất

giúp thƣơng mại phát triển. Điều này đòi hỏi các nƣớc thành viên phải thực hiện

“minh bạch hóa”, thúc đẩy “cạnh tranh công bằng”. Bên cạnh đó Việt Nam cần đáp

ứng các nhu cầu hội nhập quốc tế. Pháp luật Việt Nam cần phải có sự phù hợp với

pháp luật quốc tế và khu vực.

61

Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam phải tạo ra môi

trƣờng pháp lý an toàn, bình đẳng cho các chủ thể kinh doanh trên thị trƣờng, phù

hợp với “luật chơi” chung của nền thƣơng mại thế giới.

Bên cạnh đó pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh phải là công cụ thúc

đẩy khả năng cạnh tranh lành mạnh trong nƣớc phát triển, bảo vệ môi trƣờng và các

chủ thể kinh doanh trong nƣớc khỏi bị xâm phạm bởi các hành vi cạnh tranh không

lành mạnh từ phía các chủ thể kinh doanh nƣợc ngoài đảm bảo hội nhập và phát

triển.

Mặc dù Việt Nam là thành viên của nhiều tổ chức thƣơng mại và kinh tế của

khu vực và thế giới, song việc thƣờng xuyên rà soát, duy trì và tăng cƣờng tính

tƣơng thích và hội nhập với khu vực và thế giới cũng nhƣ các tổ chức thƣơng mại là

hoàn toàn cần thiết.

3.2.2. Hoàn thiện trình tự, thủ tục xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành

mạnh

Khác với các đạo luật khác nhƣ Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình

sự là những Luật mang tính chất hình thức quy định về trình tự, thủ tục giải quyết

các vụ việc dân sự, hình sự thì Luật Cạnh tranh lại vừa mang tính chất nội dung, vừa

mang tính chất hình thức điều chỉnh cả về các hành vi, quan hệ cạnh tranh, cả về

trình tự thủ tục xử lý nội dung, cần thiết phải có những điều chỉnh, hoàn thiện các

quy định về tố tụng cạnh tranh của Luật và các văn bản hƣớng dẫn liên quan nhằm

đảm bảo hiệu lực thực thi pháp luật cạnh tranh.

3.2.2.1. Giải pháp về thẩm quyền giải quyết tranh chấp

Năng lực và thẩm quyền của các cơ quan giải quyết tranh chấp cũng nhƣ

những quy định của Luật Cạnh tranh còn nhiều hạn chế. Vì vậy mặc dù số lƣợng các

vụ việc cạnh tranh không lành mạnh gia tăng với tính chất mức độ ngày càng phức

tạp song một số vụ đƣợc các cơ quan đứng ra giải quyết tranh chấp còn nhiều hạn

chế, chƣa tƣơng xứng với nhu cầu. Mặt khác theo quy định tại khoản 2 Điều 118

Luật Cạnh tranh (2004) quy định: “Đối với hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh

62

không lành mạnh và các hành vi khác vi phạm quy định của luật này không thuộc

quy định tại khoản 1 Điều này, cơ quan có thẩm quyền xử phạt tiến hành phạt tiền

theo quy định của pháp luật về xử lý hành vi vi phạm hành chính hoặc theo quy định

của pháp luật có liên quan”. Do có sự chồng chéo thẩm quyền xử lý hành vi cạnh

tranh không lành mạnh nên doanh nghiệp không biết tố cáo ở đâu, tố cáo nhƣ thế

nào. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến doanh nghiệp ngại tố cáo.

Ví dụ nhƣ trƣờng hợp một doanh nghiệp có hành vi cạnh tranh không lành

mạnh tổng hợp vi phạm từ nhiều hành vi khác nhau nhƣ bản quyền tác giả, nhãn

hiệu hàng hóa... nằm trên bao bì sản phẩm. Khi đó Thanh tra bộ khoa học và công

nghệ chỉ xử lý đến vấn đề liên quan đến bảo hộ thƣơng hiệu hàng hóa. Bộ Văn hóa

thể thao và du lịch xử lý vấn đề liên quan đến quyền tác giả, – Bộ công thƣơng lại

chịu trách nhiệm phát hiện và xử lý hành vi này.

Do vậy Luật Cạnh tranh cần quy định rõ ràng, cụ thể trách nhiệm của từng cơ

quan. Tuy nhiên nếu để một cơ quan chuyên môn duy nhất chuyên môn hóa xử lý

hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì cần phải có quy định đến sự hỗ trợ về mặt

kỹ thuật đặc thù cho từng cơ quan có liên quan.

3.2.2.2. Về bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra

Có thể thấy rằng, Luật Cạnh tranh mặc dù đã có quy định về các hành vi cạnh

tranh không lành mạnh nhƣng mới chỉ dừng lại ở giác độ cấm đoán hành chính. Vấn

đề bồi thƣờng thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra không đƣợc

quy định trong Luật Cạnh tranh năm 2004 cũng nhƣ Luật Cạnh tranh năm 2018, dù

chỉ là việc dẫn chiếu cụ thể đến pháp luật dân sự. Sự dẫn chiếu tới pháp luật dân sự

chỉ đƣợc quy định theo nghị định hƣớng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh.

Theo quy định của pháp luật dân sự thì vấn đề khởi kiện đòi bồi thƣờng thiệt

hại đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ đƣợc áp dụng theo quy định về

Bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng đƣợc quy định trong Bộ Luật dân sự năm 2015.

Thông thƣờng các chế tài trong Bộ luật dân sự thƣờng nhẹ hơn các luật chuyên

ngành khác. Do đó tính chất răn đe các hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ kém

63

hiệu quả nếu vẫn chƣa có một văn bản dƣới luật nào quy định cụ thể về chế định bồi

thƣờng thiệt hại trong lĩnh vực cạnh tranh không lành lạnh.

Mục đích của chế định cạnh tranh không lành mạnh là bù đắp thiệt hại cho bên

vi phạm bởi các hành vi cạnh tranh đi ngƣợc lại với những tập quán thƣơng mại lành

mạnh gây ra. Các yếu tố của trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại này bắt nguồn từ chế

định bồi thƣờng ngoài hợp đồng đƣợc quy định trong bộ luật dân sự, gồm: Hành vi

cạnh tranh không lành mạnh, lỗi, thiệt hại xảy ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cạnh tranh không lành mạnh và thiệt hại xảy ra11.

Bộ luật Dân sự quy định nguyên tắc, căn cứ trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại

ngoài hợp đồng. Thiệt hại trong cạnh tranh không lành mạnh cũng giống nhƣ trong

Bộ luật Dân sự tức là thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại đó là

trực tiếp và đã xảy ra trên thực tế, không phải là thiệt hại ở dạng khả năng xảy ra.

Theo quan điểm truyền thống trong việc xác định thiệt hại do các hành vi cạnh

tranh không lành mạnh gây ra thì thiệt hại đƣợc thể hiện thông qua mất đi một lƣợng

khách hàng thƣờng xuyên hoặc mất một số hợp đồng. Chứng cứ thể hiện bằng việc

kinh doanh giảm sút.

Bộ luật dân sự chỉ để cập đến một số trƣờng hợp đƣợc bồi thƣờng nhƣ sau:

- Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm.

- Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm.

- Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm.

- Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.

Nhƣ vậy, theo Bộ luật Dân sự, thực tiễn xử lý các hành vi tranh chấp cạnh

tranh không lành mạnh sẽ chƣa có một căn cứ pháp lý cụ thể làm cơ sở xác định

thiệt hại. Hiện nay để xác định mức trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại, chúng ta vẫn

áp dụng cách tính chung giống nhƣ bồi thƣờng thiệt hại với tài sản hữu hình. Thẩm

11 Ngày 28/12, TAND TPHCM đã tuyên án vụ tranh chấp bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng giữa nguyên đơn là công ty Ánh Dƣơng Việt Nam (Vinasun) và bị đơn là Công ty TNHH Grab (Grab), theo đó, Grab phải bồi thƣờng cho Vinasun 4,8 tỉ đồng. Vụ việc đã dấy lên tranh cãi rất lớn về bản án của Tòa án liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

64

phán sẽ chịu trách nhiệm đánh giá tinh chất và mức độ thiệt hại. Đây là công việc

khá phức tạp và mất thời gian bởi vì đƣơng sự phải đƣa ra chứng cứ để chứng minh

tác động của cạnh tranh không lành mạnh đến biên độ giảm doanh thu, mức độ suy

yếu năng lực cạnh tranh và những yếu tố thu hút khách hàng.

Một số cách xác định thiệt hại chính nhƣ sau:

a) Thiệt hại thực tế của đƣơng sự:

Việc xác định thiệt hại thực tế của ngƣời bị thiệt hại dựa trên các thiệt hại thực

tế nhƣ sau:

- Tổn thất về tài sản.

- Mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận.

- Tổn thất về cơ hội kinh doanh.

- Chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại.

Đối với căn cứ xác định thiệt hại về tài sản thì ngƣời bị thiệt hại phải chứng

minh, trong đó sẽ gặp một số trở ngại lớn nhƣ: Với những tài sản vô hình nhƣ danh

tiếng, uy tín công thi thì khó xác định đƣợc tổn thất. Bên bị thiệt hại có trách nhiệm

cung cấp các vấn đề sau Tòa án nhƣ vấn đề tài chính, lợi nhuận công ty...điều này

doanh nghiệp đều muốn bảo mật hay những bí mật kinh doanh nhƣ những thiết kế,

kiểu dáng công nghiệp đang trong quá trình bảo mật cần đƣợc đƣa ra công khai để

tính toán... Do đó để tính toán dựa trên tổn thất này không phải là một lựa chọn khả

thi cho ngƣời bị thiệt hại.

Trong các thiệt hại trên thì mức độ giảm sút về thu nhập và lợi nhuận là một

trong những căn cứ quan trọng nhất để tính toán thiệt hại của nguyên đơn trên thực

tế. Đây cũng đƣợc coi là thiệt hại cơ bản và thƣờng là thiệt hại lớn nhất của nguyên

đơn. Chính vì vậy việc xác định một cách đúng đắn và đầy đủ những tổn thất về thu

nhập và lợi nhuận của nguyên đơn. Điều này giúp nguyên đơn có cơ sở để đƣợc bồi

thƣờng một cách đầy đủ và thỏa đáng trên cơ sở bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp

đồng.

65

Pháp luật và thực tiễn xét xử của nhiều nƣớc trên thế giới cho thấy các hành vi

cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp thì việc xác định lợi

nhuận bị mất của nguyên đơn dựa trên công thức kế toán cơ bản nhƣ sau:

- Lợi nhuận bị mất = (số lƣợng hàng hóa không bán đƣợc do hành vi xâm

phạm) x (lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm).

- Tuy nhiên để áp dụng chính xác công thức này trong một số trƣờng hợp

không phải dễ dàng.

b) Thiệt hại về cơ hội kinh doanh của ngƣời bị thiệt hại:

Tổn thất về cơ hội kinh doanh là thiệt hại chƣa xảy ra trên thực tế tại thời điểm

bị xâm hại mà chắc chắn sẽ xảy ra trong tƣơng lai bởi các hành vi xâm hại Trong

lĩnh vực cạnh tranh không lành mạnh, đặc biệt là các vụ án liên quan đến sở hữu

công nghiệp, ngƣời bị thiệt hại sẽ mất đi những cơ hội thu lợi từ việc khai thác, sử

dụng hoặc kinh doanh đối tƣợng quyền sở hữu công nghiệp do giá trị quyền sở hữu

công nghiệp không còn nữa. Nhận thấy rằng nếu việc xác định những lợi nhuận thu

đƣợc cho rằng chắc chắn nguyên đơn sẽ thu đƣợc nếu không có hành vi xâm phạm

xảy ra là điều khó khăn và phức tạp thì việc xác định những tồn thất xảy ra trong

tƣơng lai còn khó khăn gấp bội do tính giả định của nó. Điều này thực sự khó khăn

cho sự chứng minh của nguyên đơn. Do vậy tính đúng đắn của việc xác định tổn thất

theo căn cứ này hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng của ngƣời bị hại. Trong khi đó

pháp luật của các nƣớc chỉ quy định cơ sở và quyền của ngƣời bị hại chứ không

hƣớng dẫn cụ thể cho ngƣời bị hại thực hiện quyền đó. Do vậy cần có văn bản dƣới

luật quy định và hƣớng dẫn họ thực hiện điều này. Từ đó giúp cho nguyên đơn đƣợc

bồi thƣờng hợp lý nhất, rút ngắn thời hạn tố tụng và giảm chi phí phát sinh cho cả

hai bên nguyên đơn và bị đơn trong quá trình tố tụng.

c) Chi phí ngăn chặn và khắc phục thiệt hại.

Các chi phí hợp lý để ngăn chặn và khắc phục thiệt hại bao gồm: Chi phí cho

việc tạm giữ, bảo quản, lƣu kho bãi đối với hàng hóa bị xâm phạm quyền sở hữu

công nghiệp. Chi phí cho việc thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy

66

định của pháp luật. Chi phí thuê dịch vụ giám định, ngăn chặn, khắc phục hành vi

xâm phạm bản quyền và chi phí cho việc thông báo cải chính trên phƣơng tiện thông

tin đại chúng. Nhìn chung có thể phân chia các chi phí trên thành: Chi phí ngăn chặn

và hạn chế thiệt hại, chi phí tố tụng và chi phí khắc phục thiệt hại.

Chi phí ngăn chặn và hạn chế thiệt hại:

Đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công

nghiệp, các chi phí cho việc tạm giữ, lƣu kho, lƣu bãi đối với hàng hóa bị xâm

phạm, chi phí để thuê dịch vụ giám định đƣợc xếp vào chi phí ngăn chặn và hạn chế

thiệt hại.

Nhìn chung bất cứ chi phí nào phát sinh trong quá trình tiến hành các biện

pháp cần thiết nhằm hạn chế, ngăn chặn hành vi xâm phạm và thiệt hại xảy ra đều có

thể đƣợc xem xét bồi thƣờng trong quan hệ nhân quả với hành vi xâm phạm.

Bên cạnh tính thực tế thiệt hại thì tính hợp lý cũng rất quan trọng. Việc bồi

thƣờng phải ở mức độ hợp lý và phù hợp với quy định của pháp luật, bảo đảm đƣợc

quyền và lợi ích chính đáng của các đƣơng sự trong vụ án.

Thực tế cho thấy mọi mất mát của ngƣời bị hại khó có thể đƣợc xác định và

bồi thƣờng một cách triệt để. Trong nỗ lực nhằm ngăn chặn và hạn chế hậu quả từ

hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra, chủ thể vi phạm có thể tiến hành cùng

một lúc nhiều biện pháp khác nhau và đồng thời chịu chi phí phát sinh liên quan.

Trong những chi phí mà chủ thể vi phạm phải bỏ ra để ngăn chặn và khắc phục thiệt

hại có những chi phí mà chủ thể bị hại có thể chứng minh ngay đƣợc bằng hóa đơn,

chứng từ nhƣng cũng có những chi phí không thể chứng minh bằng hóa đơn chứng

từ. Thông thƣờng chỉ những chi phí đƣợc cho là cần thiết và đƣợc xuất trình hóa

đơn, chứng từ hợp pháp mới đƣợc xem xét bồi thƣờng. Tính hợp lý sẽ đƣợc cân

nhắc trong từng hoàn cảnh cụ thể và phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan, chủ

quan, khả năng của đƣơng sự.

Để có thể xác định đƣợc chi phí hợp lý và hợp pháp đòi hỏi phải có văn bản

dƣới luật hƣớng dẫn của văn bản dƣời luật. Bên cạnh đó cần sự hiểu biết và tính

67

công minh, đạo đức nghề nghiệp của thẩm phán đƣợc đặt lên trên hết để có thể đánh

giá một cách hiệu quả và công minh tránh gây thiệt hại và tổn thất cho cả ngƣời vi

phạm và ngƣời bị vi phạm.

Chi phí tố tụng:

Chi phí tố tụng là những chi phí phát sinh trong quá trình đƣơng sự tham gia tố

tụng tại Tòa án. Chi phí tố tụng có thể bao gồm chi phí thực hiện các biện pháp khẩn

cấp tạm thời, chi phí giám định, án phí, lệ phí tòa án...

Các chi phí thông thƣờng dễ dàng đƣợc chấp nhận xác định để bồi thƣờng

những thiệt hại phát sinh bởi thực tế và cần thiết của nó đã đƣợc Tòa án xem xét

trong quá trình đƣa ra những quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hay

quyết định trƣng cầu giám định thì chi phí đó cũng đƣợc xem xét bồi thƣờng trên cơ

sở tính cần thiết, thực tế và hợp lý.

Chi phí để khắc phục thiệt hại:

Nhằm khôi phục uy tín của ngƣời bị vi phạm thì phải hiệu đính những quảng

cáo bị vi phạm và những quảng cáo gây nhầm lẫn nếu có. Ngƣời có hành vi phạm

luật sở hữu trí tuệ có thể bị Tòa án yêu cầu thực hiện một chiến dịch quảng cảo

nhằm khắc phục sự nhầm lẫn hoặc lừa dối khách hàng do hành vi vi phạm cạnh

tranh không lành mạnh gây ra hoặc phải bồi thƣờng các chi phí quảng cáo thực tế

hoặc dự tính chi phí nhằm khắc phục thiệt hại cho chủ thể bị hại.

Do đó việc xác định các chi phí cho hoạt động này trƣớc hết cần đảm bảo các

mục tiêu trên nhƣng vẫn phải đảm bảo tính hợp lý của nó.

Bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời tiêu dùng:

Việc xác định mức độ bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời tiêu dùng do hành vi

cạnh tranh không lành mạnh gây ra là tƣơng đối phức tạp. Ngƣời ta chỉ có thể xác

định đƣợc thiệt hại định tính, còn về mặt định lƣợng, để xác định đƣợc mức độ thiệt

hại một cách chính xác thì rất khó và cần phải có thời gian lâu dài. Hơn nữa không

thể xác định đƣợc thiệt hai cho từng khách hàng trong một số lƣợng rất đông khách

hàng. Tác giả xin đề xuất nhƣ sau:

68

Với những khách hàng nào chứng minh đƣợc mình đã mua phải những hàng

giả, hàng kém chất lƣợng, giá thành quá cao so với thị trƣờng...do những hành vi

cạnh tranh không lành mạnh thông qua phiếu mua hàng, hóa đơn...thì nên có quy

định mức độ bồi thƣờng cho những khách hàng đó nhƣ hoàn lại một phần hay toàn

bộ tiền hàng, đổi lại hàng chất lƣợng...

Ngoài việc bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời tiêu dùng theo hình thức trên và để

đảm bảo công bằng cho tất cả khách hàng cần có một quy định và hƣớng dẫn đề

ngƣời vi phạm phải nộp phạt một khoản tiền bồi thƣờng cho ngƣời tiêu dùng thông

qua một quỹ phúc lợi xã hội chung.

d) Sử dụng thực tiễn tƣ pháp trong việc giải quyết vụ việc cạnh tranh không

lành mạnh.

Sử dụng thực tiễn tƣ pháp trong việc giải quyết tranh chấp đã và đang trở thành

một xu hƣớng ở nhiều nƣớc trên thế giới và ngày càng bộc lộ nhiều ƣu điểm của nó.

Có thể khẳng định Luật Cạnh tranh của các nƣớc trên thế giới nói chung và của

Việt Nam nói riêng vẫn còn nhiều khe hở. Pháp Luật Cạnh tranh không thể liệt kê

đƣợc hết các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong khi đó cách hành vi diễn ra

ngày càng nhiều và đa dạng, mức độ tinh vi ngày càng cao, do vậy pháp luật không

thể bao trùm hết đƣợc.

Các điều tra viên phải đối diện những vụ việc thực tế chƣa xảy ra ở Việt Nam,

những vụ việc mang tính chất mới mẻ cũng nhƣ không đƣợc quy định rõ ràng trong

luật. Do vậy các vụ việc xử lý cạnh tranh không lành mạnh nếu có thể phải đƣợc

tuyên bố công khai để cơ quan chức năng cũng nhƣ công chúng có đƣợc thông tin

cũng nhƣ có đƣợc căn cứ để xử lý những vụ việc tƣơng tự xảy ra sau này.

Có những nguyên nhân sau dẫn đến xu thế này:

Các quy định của pháp luật có liên quan cạnh tranh thƣờng khá chung chung,

chủ yếu dừng lại ở những vấn đề có tình nguyên tắc, trong khi vụ việc cạnh tranh

trong thực tế lại đa dạng, muôn màu muôn vẻ với những tình tiết thực tiễn mà các

69

nhà làm luật chƣa lƣờng hết đƣợc. Với những trƣờng hợp nhƣ vậy, Tòa án nhân dân

tối cao cần phát triển án lệ liên quan đến vấn đề này.

Quá trình điều tra của một vụ việc cạnh tranh lớn (nhƣ sáp nhập) là việc hoàn

toàn không đơn giản, đòi hỏi sự phân tích của nhiều chuyên gia và nhiều cơ quan

khác nhau có liên quan. Nếu một vụ việc đƣợc giải quyết thỏa đáng, hợp lý đƣợc

đƣa ra nhƣ một cơ sở pháp lý nhằm đƣa ra kết luận nhanh chóng cho các vụ việc

tƣơng tự về sau.

3.2.2.3. Về cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính đối với quyết định xử lý vụ

việc cạnh tranh không lành mạnh

Khoản 1 Điều 115 Luật Cạnh tranh quy định: “Trường hợp không nhất trí với

quy định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, các bên liên

quan có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với một phần hoặc toàn bộ nội dung

của quyết định giải quyết khiếu nại ra Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương có thẩm quyền”. Việc giải quyết đơn kiện tại Tòa hành chính đối với

quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, trong đó hành

vi cạnh tranh không lành mạnh đƣợc thực hiện theo pháp luật về thủ tục giải quyết

các vụ án hành chính.

Vấn đề đặt ra là Tòa hành chính sẽ xem xét lại toàn bộ vụ việc từ đầu, xem xét

cả nội dung về thủ tục cạnh tranh đã đƣợc áp dụng bởi các cơ quan tiến hành tố tụng

cạnh tranh hay chỉ xem xét về mặt hình thức? Giá trị pháp lý của quyết định giải

quyết khiếu nại của Tòa án nhƣ thế nào? Quyết định có giá trị chung thẩm nhƣ kinh

nghiệm của một số quốc gia trên thế giới hay phải tuân thủ đầy đủ thủ tục từ sơ

thẩm, phúc thẩm, tới giám đốc thẩm? Điều này cần có văn bản hƣớng dẫm cụ thể

của Tòa án nhân dân tối cao, đặc biệt là cơ chế phối hợp giữa cơ quan cạnh tranh và

Tòa án trong việc xem xét, giải quyết đơn kiện.

3.2.2.4. Chế tài áp dụng đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cần

phải đủ mạnh

70

Mức phạt tiền nhƣ theo các quy định hiện nay còn thấp. Do đó, khó mà ngăn

chặn đƣợc tình trạng quảng cáo, khuyến mại… nhằm cạnh tranh không lành mạnh

đang có xu hƣớng ngày càng phổ biến. Với những lợi ích to lớn từ việc cạnh tranh

không lành mạnh đem lại thì số tiền phạt quy định trong pháp luật hiện nay không

thấm vào đâu, do đó trên thực tế đã có không ít doanh nghiệp chấp nhận bị phạt để

thực hiện hành vi “chơi xấu” của mình. Rõ ràng, quy định mức phạt tiền nhƣ hiện

nay là bất hợp lí và chƣa đủ sức răn đe.

3.2.2.5 Cần áp dụng hòa giải trong giải quyết các vụ việc cạnh tranh

Trong các phƣơng thức giải quyết tranh chấp thì hòa giải là một trong những

phƣơng thức có nhiều ƣu điểm và đƣợc nhiều nƣớc trên thế giới áp dụng để giải

quyết các tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế nói chung. Bởi hòa giải có tác dụng giúp

cho bên “chơi xấu” và bên “bị chơi xấu” không mất nhiều thời gian, tiền bạc khi giải

quyết các vụ cạnh tranh. Khi hòa giải thành thì có nghĩa là ý chí của các bên đã

thống nhất và bên “chơi xấu” sẽ chấm dứt hành vi vi phạm. Việc thực thi Luật Cạnh

tranh không phải chỉ là giải quyết những vụ việc qua điều tra, xử phạt vi phạm hay

có những chế tài khác. Đa số công việc của các cơ quan quản lý cạnh tranh, không

chỉ ở Việt Nam là làm thế nào để các doanh nghiệp không vi phạm hoặc nếu có

(chƣa đến mức quá nặng) thì hòa giải với nhau? Thực tế cho thấy, hòa giải vẫn là

phƣơng thƣ́ c đƣơ ̣c cơ quan quản lý sƣ̉ du ̣ng nhiều nhất khi xử lý các hành vi không

lành mạnh. Nếu thực hiện đƣợc hòa giải sẽ rất có lợi cho các bên nhƣ tiết kiệm thời

gian, chi phí..

3.2.3. Một số đề xuất khác

3.2.3.1. Tăng cường khả năng phối hợp giữa các cơ quan, bộ, ngành trong việc

giải quyết những vụ việc cạnh tranh không lành mạnh

Do các hành vi cạnh tranh xuất hiện ở các lĩnh vực khác nhau, một số văn bản

pháp luật khác nhau và những quy định này đƣợc thực thi bởi một số cơ quan khác

bên cạnh cơ quan quản lý cạnh tranh. Vì lý do đó, có thể dẫn đến sự quy định và áp

dụng không thống nhất đối với các vụ việc cạnh tranh, chẳng hạn nhƣ việc thực thi

các quy định về chống cạnh tranh không lành mạnh, sở hữu trí tuệ, quản lý thị

71

trƣờng, bảo vệ ngƣời tiêu dùng… Hiện nay chƣa có bất kì một văn bản nào đề cập

đến sự phân định và phối hợp của các cơ quan thẩm quyền trong việc thực thi Luật

cạnh tranh. Sự phức tạp và chồng lấn về thẩm quyền theo các văn bản thực thi pháp

luật khác nhau, sẽ dẫn đến nhiều khó khăn trong việc tiến hành các thủ tục tố tụng

và ra quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh. Để giải quyết vấn đề này cần có một văn

bản có đủ hiệu lực pháp lý để phân định rõ thẩm quyền và phối hợp hoạt động của

các cơ quan trong việc đảm bảo thực thi pháp Luật Cạnh tranh có hiệu quả.

3.2.3.2. Phổ biến kiến thức pháp luật về cạnh tranh nói chung và pháp luật về

chống cạnh tranh không lành mạnh nói riêng

Công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về lĩnh vực này hiện nay chƣa rộng

khắp trong xã hội nhất là giới doanh nghiệp nên nhận thức, ý thức xã hội về vấn đề

này còn nhiều hạn chế. Bản thân hiệp hội có lĩnh vực gắn với quy định của pháp luật

về hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhƣng thực tế cũng chƣa đƣợc tiếp cận

nhiều với pháp luật về cạnh tranh. Ngƣời ta cũng đã ví Luật Cạnh tranh trong kinh

doanh cũng tựa nhƣ “nhạc thính phòng” trong đời sống văn hóa tinh thần, bởi vậy

không phải ai cũng biết và dễ dàng hiểu đƣợc Luật. Do đó nâng cao hiểu biết và

nhận thức của ngƣời dân, đặc biệt là chủ thể kinh doanh về Luật Cạnh tranh có ý

nghĩa rất quan trọng để đảm bảo thực thi Luật hiệu quả. Nếu các chủ thể kinh doanh

có kiến thức về pháp Luật Cạnh tranh thì những vụ việc vi phạm sẽ đƣợc giảm thiểu

đáng kể do ứng xử kinh doanh của họ phần nào đã có sự định hƣớng của pháp luật.

Từ kinh nghiệm của các nƣớc, các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền nên:

Thứ nhất, thƣờng xuyên tổ chức các lớp bồi dƣỡng, hội thảo tìm hiểu về kiến

thức pháp luật và thi hành pháp luật cạnh tranh nói chung và pháp luật về cạnh tranh

không lành mạnh nói riêng, trong đó đối tƣợng chủ yếu là các doanh nhân. Qua đây

có thể nâng cao hiểu biết pháp luật, đặc biệt là những vụ xử lý vi phạm đƣợc thông

tin tới tận tay doanh nghiệp sẽ là những cảnh báo trƣớc về hậu quả của vi phạm.

Thứ hai, phổ biến và tuyên truyền nội dung của Luật Cạnh tranh trên các

phƣơng tiện thông tin đại chúng nhƣ tổ chức các cuộc thi, tìm hiểu về Luật cạnh

tranh, diễn đàn đối thoại trực tiếp hoặc mời các chuyên gia về Luật Cạnh tranh giảng

72

dạy trên truyền hình, đài phát thanh, tổ chức các hội thảo… Những biện pháp này có

chi phí thấp nhƣng mang lại hiệu quả rất cao.

Thứ ba, giáo dục đạo đức kinh doanh cho thƣơng nhân, làm cho họ biết những

hậu quả xấu của việc kinh doanh bất chính cũng nhƣ lợi ích lâu dài từ việc cạnh

tranh lành mạnh, trung thực. Nếu một khi doanh nghiệp nhận thức đƣợc và chú trọng

đến đạo đức kinh doanh thì những hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ đƣợc

giảm bớt.

Tóm lại, đã đến lúc ngƣời tiêu dùng, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý phải

cộng tác chặt chẽ với nhau để chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Chỉ khi nào môi trƣờng sản xuất, kinh doanh thật sự lành mạnh, thì quyền lợi của

các doanh nghiệp có thƣơng hiệu mới đƣợc bảo đảm, sự phát triển của các doanh

nghiệp trong nƣớc mới bền vững và mạng lại lợi ích thiết thực cho thị trƣờng và

ngƣời tiêu dùng.

3.2.3.3. Nâng cao ý thức pháp luật và tự bảo vệ của doanh nghiệp và người

tiêu dùng

Về phía doanh nghiệp:

Tất cả các tổ chức cá nhân kinh doanh và hiệp hội nghề hoạt động trên lãnh thổ

Việt Nam đều chịu sự điều chỉnh của Luật Cạnh tranh. Điều này sẽ giúp doanh

nghiệp đƣợc hoạt động trong môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh, đƣợc bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên để có đƣợc điều này phụ thuộc vào sự hiểu

biết và tuân thủ pháp luật của họ. Song một thực tế cho thấy hiện nay có nhiều

doanh nghiệp đƣợc thành lập và hoạt động lâu đời vẫn chƣa nhận thức đầy đủ tầm

quan trọng của ý thức pháp luật trong kinh doanh. Họ chƣa thực sự hiểu biết pháp

luật cho họ những quyền gì, họ phải thực hiện những nghĩa vụ gì và pháp luật quy

định nhƣ thế nào với những hoạt động mà họ quan tâm. Điều này lý giải về lâu dài

để tạo môi trƣờng cạnh tranh không lành mạnh cần nâng cao nhận thức cho họ. Học

tập ở các nƣớc có nền kinh tế phát triển, các công ty lớn họ luôn có một bộ phận

chuyên trách về việc tham mƣu pháp luật cho doanh nghiệp hoặc họ sẵn sàng thuê tƣ

73

vấn pháp luật trong trƣờng hợp cần thiết. Vấn đề này hầu nhƣ ít gặp ở các doanh

nghiệp Việt Nam.

Bên cạnh đó doanh nghiệp cần nâng cao ý thức bảo vệ mình trƣớc các hành vi

cạnh tranh không lành mạnh của đối thủ cạnh tranh và bảo vệ thƣơng hiệu, xác lập

quyền sở hữu công nghiệp, liên tục cải tiến công nghệ, nâng cao trình độ cán bộ, đƣa

ra mẫu mã sản phẩm mang tính đặc trƣng đảm bảo an toàn cao để khó có thể có

hành vi xâm hại sở hữu công nghiệp, có cơ chế đảm bảo bí mật kinh doanh của

doanh nghiệp...

Nâng cao khả năng bảo vệ người tiêu dùng:

Trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay càng gay gắt, nhiều doanh nghiệp cạnh

tranh với nhau không chỉ với mục đích là loại bỏ nhau mà còn làm mọi cách để tồn

tại trên thị trƣờng, không những làm xâm hại đến quyền lợi của ngƣời tiêu dùng mà

còn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng và sức khỏe của ngƣời tiêu dùng. Điều

đáng lo ngại hiện nay là kiến thức tiêu dùng của ngƣời tiêu dùng Việt Nam hiện nay

còn ở mức rất thấp. Ngƣời tiêu dùng Việt Nam hiện nay chủ yếu sống ở vùng nông

thôn, ít đƣợc tiếp cận với các thông tin đầy đủ về chất lƣợng, vệ sinh an toàn thực

phẩm là những thông tin bảo vệ chính mình.

Thực tế cho thấy hội nhập kinh tế đang diễn ra hết sức sức sâu rộng và nhanh

chóng trong khi đó việc nâng cao kiến thức ngƣời tiêu dùng lại diễn ra chậm hơn.

Trong thời kỳ hội nhập kinh tế, các phƣơng thức xâm phạm quyền lợi của ngƣời tiêu

dùng lại diễn ra tinh vi hơn, đa dạng hơn và phổ biến nhiều so với trƣớc kia. Nhiều

hình thức kinh doanh mới, đan xen các hình thức mua bán hiện đại với sự giúp đỡ

của công nghệ làm cho ngƣời tiêu dùng dễ bị lừa gạt, không có khả năng chống đỡ,

không thể có đƣợc khả năng học hỏi, cập nhật thông tin nhanh và chủ động nhƣ thời

kỳ hội nhập này. Vì vậy mỗi ngƣời tiêu dùng hãy tự cập nhật học hỏi và bổ sung

kiến thức cho mình để tự bảo vệ những lợi ích chính đáng cho mình.

Mặt khác, thói quen mua hàng không lấy hóa đơn hoặc có hóa đơn nhƣng

không đƣợc lƣu giữ của ngƣời tiêu dùng Việt Nam gây nhiều khó khăn khi muốn

bảo vệ ngƣời tiêu dùng bị xâm phạm. Thói quen không đọc kỹ thông tin trong hợp

74

đồng mẫu (điều kiện giao dịch chung), trên bao bì khi mua sản phẩm thực tế đã

chứng kiến nhiều cảnh tƣợng cấp cứu vì sử dụng hàng hóa hết hạn sử dụng, thói

quen mua hàng theo phong trào ngay cả khi không có nhu cầu sử dụng... Các thói

quen này làm cho doanh nghiệp lợi dụng từ chối trách nhiệm của mình khi có tranh

chấp xảy ra. Những thói quen này của ngƣời tiêu dùng cần phải đƣợc thay đổi.

Một đặc điểm lớn nữa của ngƣời tiêu dùng Việt Nam có xu hƣớng chấp nhận

hoặc bằng lòng với thực tế, ngại va chạm khi quyền lợi của mình bị xâm hại. Khác

với ngƣời tiêu dùng các nƣớc có nền kinh tế phát triển, ngƣời tiêu dùng Việt Nam

chƣa có thói quen khiếu nại với các nhà kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, yêu cầu đổi

hàng hóa đúng chất lƣợng, đòi bồi thƣờng thiệt hại hoặc tố cáo lên cơ quan nhà nƣớc

có thẩm quyền. Do đó ngƣời tiêu dùng cần mạnh dạn khiếu nại, trƣớc hết là đòi

quyền lợi cho mình, sau là đòi quyền lợi cho cộng đồng ngƣời tiêu dùng.

Cần nhấn nhấn mạnh là việc khiếu nại của ngƣời tiêu dùng đối với cá nhân sản

xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ trƣớc hết theo nguyên tắc thƣơng lƣợng, hòa giải.

Vì vậy nếu việc thƣơng lƣợng hòa giải mà bù đắp đƣợc những mất mát của ngƣời

tiêu dùng thì nên dừng lại. Trƣờng hợp ngƣợc lại ngƣời tiêu dùng có thể kiện theo

quy định của pháp luật. Trong trƣờng hợp này ngƣời tiêu dùng nên cân nhắc là chắc

chắn quyền lợi của mình đã bị vi phạm và chuẩn bị chắc chứng cứ và lý lẽ trƣớc khi

khiếu nại.

Cuối cùng, mỗi ngƣời tiêu dùng cần nâng cao hiểu biết và nhận thức pháp luật,

tìm hiểu rõ về nguồn gốc và dịch vụ khi mua sắm để trở thành những “ngƣời tiêu

dùng thông thái”. Mỗi một ngƣời tiêu dùng thông thái sẽ góp một phần nhỏ của

mình phát hiện và tẩy chay những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong môi

trƣờng cạnh tranh khốc liệt hiện nay.

3.2.3.4. Xây dựng đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp

Đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp là một yêu cầu quan trọng đảm bảo cho

sự vận hành trôi chảy nền kinh tế thị trƣờng hiện nay. Luật Cạnh tranh chỉ quy định

chung về chuẩn mực đạo đức kinh doanh và biện pháp xử lý về mặt hành chính.

Song điều đó ít có tính răn đe và định hƣớng cho hành vi kinh doanh của doanh

75

nghiệp. Để hƣớng tới một môi trƣờng cạnh tranh văn minh, các doanh nghiệp trong

nền kinh tế thị trƣờng cần chú trong đạo đức kinh doanh, thậm chí xây dựng chƣơng

trình tuân thủ đạo lý kinh doanh, bộ quy tắc ứng xử,… để đảm bảo doanh nghiệp

phát triển bền vững và lâu dài.

Trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng của nƣớc ta hiện nay, việc xác định

chuẩn mực đạo đức kinh doanh đƣợc xét bởi các yếu tố: Đạo đức kinh doanh đƣợc

xác lập sẽ bảo đảm cho các nhà kinh doanh phát huy đƣợc tiềm năng, tài lực, vật lực

của họ để thực hiện kinh doanh có hiệu quả, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp về

danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản, lợi ích chính đáng của họ; đảm bảo các nhà kinh

doanh không bị xâm hại bởi các hành vi bất hợp pháp, cạnh tranh không lành mạnh

hay gian lận thƣơng mại, bị phân biệt đối xử hay chèn ép, ngăn cản họ thực hiện các

hoạt động kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh. Mặt khác, đạo đức kinh doanh đòi

hỏi các nhà kinh doanh phải luôn luôn chú ý đến các lợi ích chung của toàn xã hội,

phải hoạt động trong khuân khổ mà pháp luật quy định, quan tâm đến quyền và lợi

ích hợp pháp của các nhà kinh doanh khác và lợi ích của ngƣời tiêu dùng, không vì

lợi ích cá nhân mà gây thiệt hại cho quyền, lợi ích chính đáng của ngƣời khác và lợi

ích của xã hội.

Đạo đức kinh doanh đƣợc thể hiện ở sự trung thực trong kinh doanh, tôn trọng

đối thủ cạnh tranh, tôn trọng ngƣời tiêu dùng, cạnh tranh lành mạnh... Bên cạnh đó,

chuẩn mực đạo đức kinh doanh cũng đƣợc thể hiện ở việc nghiêm chỉnh thực hiện

pháp luật, phát triển kinh doanh, làm giàu chính đáng...

Việc xây dựng đạo đức kinh doanh cần phải đƣợc đƣa vào từng doanh nghiệp

và xây dựng thành văn hóa và lối sống doanh nghiệp. Bên cạnh đó đạo đức kinh

doanh cũng phải đƣợc thƣờng xuyên trau dồi và giáo dục bằng cách đƣa vào các

trƣờng cao đẳng, đại học để các nhà doanh nghiệp tƣơng lai hình thành nhận thức

các chuẩn mực kinh doanh tốt đẹp ngay từ khi bắt đầu sự nghiệp.

3.2.3.5. Phát huy vai trò thương lượng và hòa giải trong việc giải quyết tranh

chấp liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh

76

Thƣơng lƣợng và hòa giải có ý nghĩa rất lớn trong việc giải quyết tranh chấp

đặc biệt là tranh chấp liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh. Thƣơng lƣợng và

hòa giải giúp giảm bớt thời gian, tiền của, công sức của ngƣời tham gia tố tụng,

ngƣời bị tố tụng và các cơ quan chức năng đứng ra giải quyết tranh chấp. Điều đó

giúp giảm thiểu các thủ tục hành chính đôi khi là không cần thiết song nó vẫn phát

huy đƣợc tính chất cảnh cáo, răn đe của pháp luật. Xu hƣớng chung của pháp luật

Việt Nam cũng nhƣ pháp luật thế giới là ngày càng phát huy cao vai trò của thƣơng

lƣợng và hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến hành vi cạnh tranh

không lành mạnh. Để thƣơng lƣợng và hòa giải phát huy đƣợc vai trò tích cực của

nó cần lƣu ý các vấn đề sau:

- Pháp luật cần có những quy định cụ thể cho sự thƣơng lƣợng và hòa giải nhƣ

các quy tắc về hòa giải, các tổ chức hò giải, bộ máy hòa giải, ngƣời đứng ra hòa giải

để tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành các thiết chế có liên quan đến việc giải

quyết tranh chấp bằng Tòa án. Nhà nƣớc cũng khuyến khích các nhà kinh doanh nên

giải quyết tranh chấp bằng thƣơng lƣợng và hòa giải. Để tạo điều kiện cho việc

thƣơng lƣợng và hòa giải đƣợc dễ dàng và thuận tiện cần xây dựng quy trình hòa

giải và có hƣớng dẫn thủ tục hòa giải.

- Tăng cƣờng công tác hòa giải ngoài Tòa án:

Một thực tế hiện nay là khối lƣợng công việc của Tòa án rất nhiều, do vậy khi

Tòa án thụ lý, giải quyết các vụ án liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành

mạnh sẽ kéo dài thời gian. Các bên tranh chấp khi đã có sự thống nhất nên đến các

Trung tâm hoà giải ngoài Tòa án để hoà giải, sau khi hoà giải thành đề nghị Tòa án

ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đƣơng sự ngoài Tòa án theo quy định

của Bộ luật tố tụng dân sự.

77

KẾT LUẬN

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh chính là biểu hiện khuyết tật của nền kinh

tế thị trƣờng. Có thể có nhiều cách hiểu và cách định nghĩa khác nhau về hành vi

này bởi nó xuất phát từ những đặc điểm riêng của nó đặc biệt là tính khó xác định về

nội dung. Bên cạnh đó, hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng phụ thuộc vào

quan niệm đạo đức truyền thống và tập quán kinh doanh… của các vùng khác nhau.

Việc nhận diện những hành vi này đòi hỏi phải tìm hiểu những vấn đề thuộc về bản

chất của nó. Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, tùy vào tính chất của nó để

có thể có những cách xử lý cho phù hợp, do đó việc phân loại những hành vi này là

điều rất cần thiết.

Luật Cạnh tranh mới sẽ có hiệu lực từ 1/7/2019. Tuy nhiên, thực thi Luật Cạnh

tranh mới dƣới giác độ của chống cạnh tranh không lành mạnh sẽ phải đối mặt với

những vấn đề trên thực tế do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế số cũng nhƣ

phát sinh những mô hình kinh doanh mới – kinh tế chia sẻ (sharing economy) nhƣ

vụ tranh chấp giữa Vinasun và Grab đang giải quyết hiện nay. Chính vì vậy, việc

không ngừng trau dồi về kiến thức kinh doanh mới kết hợp với cạnh tranh có ý

nghĩa quan trọng trong việc xử lý hay giải quyết tranh chấp liên quan đến cạnh tranh

không lành mạnh.

Do Luật Cạnh tranh mới đã đƣợc thông qua và sắp có hiệu lức, những vấn đề

có tính chất thay đổi cơ bản nhƣ tạo cơ hội cho các bên có quyền lợi liên quan đƣợc

khởi kiện trực tiếp tòa án để bảo vệ quyền lợi cho mình nằm ngoài khả năng của

ngƣời viết và phạm vi của Luận văn này.

Với việc nghiện cứu Luận văn này, tác giả mong muốn đƣợc đóng góp một

phần nhỏ bé vào việc tăng cƣờng xử lý và giải quyết tranh chấp liên quan cạnh tranh

không lành mạnh. Song đây là một vấn đề khó và rộng, tác giả không tránh khỏi

những thiếu sót trong lần đầu nghiên cứu khoa học của mình nên rất mong nhận

đƣợc ý kiến đóng góp, phê bình của thầy cô và các bạn để có thể nghiên cứu vấn đề

này tốt hơn trong tƣơng lai.

78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Sách, luâ ̣n á n, tạp chí 1. Bùi Ngọc Cƣờng (2001), Một số vấn đề tự do kinh doanh trong pháp luật

kinh tế hiện hành ở Việt Nam, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001.

2. Ngô Quốc Chiến (2014), Một số điều khoản độc quyền trong hợp đồng

nhượng quyền thương mại. So sánh pháp luật Việt Nam, Pháp và Liên minh châu

Âu, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 67/2014.

3. Ngô Quốc Chiến (2014), Chế định nào cho các nghĩa vụ tiếp tục tồn tại

sau khi hợp đồng chấm dứt?, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 2 và 3 năm 2014.

4. Đỗ Văn Đại (2017), Luật Nghĩa vụ và bảo đảm thực hiê ̣n nghĩa vụ Viê ̣t Nam. Bản án và bình luận bản án , Nxb Hồng Đƣ́ c – Hô ̣i Luâ ̣t gia Viê ̣t Nam , xuất

bản lần thứ 3, 2017, tâ ̣p 1.

5. Cục Cạnh tranh và bảo vệ ngƣời tiêu dùng , Báo cáo thường niên năm

2016, năm 2017 và các năm trƣớc đó . Có thể xem đƣợc tại :

http://www.vca.gov.vn/Bublications.aspx?CateID=524 (truy câ ̣p ngày 5/12/2018).

6. Cục Cạnh tranh và bảo vệ ngƣời tiêu dùng , Bản tin cạnh tranh và người

6/2007 đến tháng 12/2016. Có thể xem đƣợc tại : tiêu dù ng , các số từ tháng

http://www.vca.gov.vn/Newsletter.aspx?CateID=99 (truy câ ̣p ngày 5/12/2018).

7. Đại học Luật Hà Nội (2006), Đưa pháp luật chống cạnh tranh không lành

mạnh vào cuộc sống, Tạp chí Luật học, số 6/2006.

8. Đặng Vũ Huân (2004), Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh

tranh không lành mạnh ở Việt nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004.

9. Nguyễn Hữu Huyên (2004), Luật Cạnh tranh của Pháp và Liên minh Châu

Âu, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội 2004.

10. Nguyễn Mạnh Kháng (2008), Bàn về chức năng tố tụng của Tòa án và vấn

đề độc lập của hoạt động xét xử, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, số 10/2008.

11. Đinh Mỹ Loan (2007), Xây dựng mô hình cơ quan quản lý nhà nước về

cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ trong thương mại quốc tế.

Kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam, Đề tài nghiên cứu cấp bộ năm 2007.

79

12. Phạm Duy Nghĩa (2002), Giáo trình Luật thương mại Việt Nam, Nxb Đại

học Quốc gia, Hà Nội, 2002.

13. Tăng Văn Nghĩa (2005), Những nội dung cơ bản của Luật cạnh tranh Việt

Nam năm 2004 và đề xuất áp dụng, Đề tài NCKH cấp bộ (Bộ GDĐT), Hà Nội 2005.

14. Tăng Văn Nghĩa (2007), Những vấn đề đặt ra và giải pháp thực thi có hiệu

quả Luật cạnh tranh trong thực tiễn, Đề tài NCKH cấp bộ (Bộ Thƣơng Mại), Hà

Nội, 2007.

15. Tăng Văn Nghĩa (2013), Giáo trình Pháp luật cạnh tranh, Nxb Giáo dục

Việt Nam, Hà Nội, 2013.

16. Phùng Văn Thành (2016), Đá nh giá một số mặt được của Luật cạnh tranh ,

Bản tin Cạnh tranh và Ngƣời tiêu dùng, số 60/2016.

17. Phạm Tất Thắng , Cạnh tranh không lành mạnh sẽ “giết chết” hiệu quả

kinh doanh, trong Hô ̣i thảo “Đánh giá tình hình th ực thi Luật Cạnh tranh Việt Nam

và định hƣớng hoàn thiện”, Cục Quản lý cạnh tranh , Bô ̣ Công Thƣơng , tháng

11/2016.

18. Lê Anh Tuấn (2008), Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt

Nam, Luận án tiến sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008.

19. Nguyễn Thị Hồng Vân, Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp

đồng nhượng quyền thương mại, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 03/2011.

Bản án, quyết đi ̣nh hành chính 20. Quyết định số 126/QĐ-QLCT ngày 20 tháng 9 năm 2010 của Cục quản lý

cạnh tranh xử phạt Công ty TNHH Điện tử Samsung Vina đối với hành vi quảng cáo

nhằm cạnh tranh không lành mạnh.

21. Quyết định số 129/QĐ-QLCT ngày 22/6/2010 của Cục quản lý cạnh tranh

xử phạt Công ty TNHH Supor Việt Nam đối với hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh

không lành mạnh.

22. Quyết định số 124/QĐ-QLCT ngày 20 tháng 9 năm 2010 của Cục quản lý

cạnh tranh xử phạt Công ty TNH Điện tử Sharp Việt Nam đối với hành vi quảng cáo

nhằm cạnh tranh không lành mạnh.

80

23. Quyết định số 128/QĐ-QLCT Ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Cục quản lý

cạnh tranh xử phạt Công ty TNHH LG Electronics Việt Nam đối với hành vi Quảng

cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.