LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan Luận văn này là công trình do tôi thực hiện. Mọi số liệu, kết
quả nghiên cứu đã công bố đƣợc tham khảo trong Luận án đều trung thực và trích
dẫn nguồn đúng quy định. Những kết quả nghiên cứu của Luận văn chƣa từng đƣợc
công bố trong bất kỳ công trình của tác giả nào khác.
Tác giả luận văn
Phạm Văn Thắng
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp, tác giả đã nhận đƣợc sự hƣớng dẫn, chỉ
đạo nhiệt tình và quý báu của PGS, TS Tăng Văn Nghĩa và tập thể thầy, cô Khoa
Sau đại học, Khoa Luật – Trƣờng Đại học Ngoại thƣơng.
Nhân dịp này, tác giả gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới PGS, TS Tăng Văn
Nghĩa và thầy, cô Khoa sau đại học, Khoa Luật – Trƣờng Đại học Ngoại thƣơng.
Tác giả cũng gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới gia đình, ngƣời thân, bạn bè và
đồng nghiệp đã giúp đỡ, hỗ trợ tài liệu và tạo mọi điều kiện tốt nhất đồng thời đã có
những ý kiến đóng góp quý báu để hoàn thành công trình nghiên cứu cuối khoá của
Trƣờng đại học ngoại thƣơng.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc tìm kiếm tài liệu, nghiên cứu và tìm
hiểu thực tế nhƣng do thời gian hạn chế nên Luận văn không tránh khỏi những sai
sót. Tác giả rất mong nhận đƣợc sự quan tâm đóng góp ý kiến của Quý thầy cô, bạn
bè, đồng nghiệp và độc giải.
Trân trọng cảm ơn.
Tác giả luận văn
Phạm Văn Thắng
iii
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
Tên luận văn: “Quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh: Thực tiễn
và khuyến nghị xử lý tại Việt Nam”
Luận văn đã đạt các kết quả chính nhƣ sau:
- Đã phân tích khái niệm cạnh tranh không lành mạnh và khái quát pháp luật
cạnh tranh không lành mạnh.
- Nêu và phân tích các quy định về cạnh tranh không lành mạnh theo quy
định của pháp luật Việt Nam (Luật Cạnh tranh năm 2004 và có một phần đề cập tới
Luật Cạnh tranh năm 2018) và thẩm quyền xử lý hành vi cạnh tranh không lành
mạnh.
- Phân tích và nhận xét một số vụ việc cạnh tranh không lành mạnh điển hình
tại Việt Nam.
- Nêu những hạn chế trong việc xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
- Nêu xu hƣớng cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam trong thời gian tới
và những đề xuất xử lý và giải quyết tranh chấp liên quan đến hành vi cạnh tranh
không lành mạnh tại Việt Nam.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................. 1 2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................. 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 4 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 4 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................ 5 6. Kết cấu của Luận văn .................................................................................. 5 CHƢƠNG I. KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH ............................................................................................. 6 1.1. Khái quát về cạnh tranh không lành mạnh............................................... 6 1.2. Khái quát về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh .................... 7 1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh .................................................................................................. 7 1.2.2. Khái niệm pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ................. 8 1.2.3. Vai trò của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ................ 9 1.2.4. Nội dung điều chỉnh của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ................................................................................................................... 11 1.3. Quy định của Luật Cạnh tranh về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ............................................................................................................................... 12 1.3.1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn ...................................................................... 12 1.3.2. Xâm phạm bí mật kinh doanh ......................................................... 14 1.3.3. Ép buộc trong kinh doanh ................................................................ 16 1.3.4. Gièm pha doanh nghiệp khác .......................................................... 17 1.3.5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác ................... 19 1.3.6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh ............................... 20 1.3.7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ............................. 22 1.3.8. Phân biệt đối xử của hiệp hội .......................................................... 24 1.3.9. Bán hàng đa cấp bất chính ............................................................... 26 1.3.10. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong một số lĩnh vực khác..................................................................................................................... 28 CHƢƠNG II. HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH, THỰC TRẠNG XỬ LÝ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM .................................................................................. 33
ii
2.1. Quy định của pháp luật về xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh ....................................................................................................................... 33 2.1.1. Thẩm quyền xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh ................ 33 2.1.2. Các chế tài áp dụng đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh .. 34 2.2. Thực trạng xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ................... 36 2.2.1. Tổng quan xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ............. 36 2.2.2. Một số vụ việc cụ thể về xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ................................................................................................................... 43 2.3. Một số vấn đề đặt ra trong việc xử lý, giải quyết hành vi cạnh tranh không lành mạnh .................................................................................................... 48 2.3.1. Về quy định của pháp luật ............................................................... 48 2.3.2. Vấn đề giải quyết tranh chấp về cạnh tranh không lành mạnh ........ 49 2.3.3. Vấn đề “Tố tụng kép” trong việc bồi thƣờng thiệt hại .................... 51 2.3.4. Vấn đề văn hóa, thói quen kinh doanh ............................................ 52 CHƢƠNG III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT XỬ LÝ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH .............................................. 54 3.1. Xu hƣớng cạnh tranh không lành mạnh và nhu cầu xử lý tại Việt Nam. ............................................................................................................................... 54 3.2. Một số đề xuất cụ thể nhằm đảm bảo hiệu quả việc xử lý và giải quyết tranh chấp về cạnh tranh không lành mạnh ........................................................... 56 3.2.1. Về cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp ....................................... 56 3.2.1.1. Đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh ......................... 56 3.2.1.2. Đảm bảo sự hài hòa, tính tƣơng thích giữa các luật liên quan 60 3.2.2. Hoàn thiện trình tự, thủ tục xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh ................................................................................................................... 61 3.2.2.1. Giải pháp về thẩm quyền giải quyết tranh chấp ...................... 61 3.2.2.2. Về bồi thƣờng thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra ................................................................................................... 62 3.2.2.3. Về cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính đối với quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh ................................................... 69 3.2.2.4. Chế tài áp dụng đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cần phải đủ mạnh................................................................................. 69 3.2.2.5 Cần áp dụng hòa giải trong giải quyết các vụ việc cạnh tranh . 70 3.2.3. Một số đề xuất khác ......................................................................... 70 3.2.3.1. Tăng cƣờng khả năng phối hợp giữa các cơ quan, bộ, ngành trong việc giải quyết những vụ việc cạnh tranh không lành mạnh ............... 70
iii
3.2.3.2. Phổ biến kiến thức pháp luật về cạnh tranh nói chung và pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh nói riêng ................................... 71 3.2.3.3. Nâng cao ý thức pháp luật và tự bảo vệ của doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng ............................................................................................. 72 3.2.3.4. Xây dựng đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp ................... 74 3.2.3.5. Phát huy vai trò thƣơng lƣợng và hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh .................... 75 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 78
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện chính sách đổi mới toàn diện, Nhà nƣớc đã tập trung xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm quản lý có hiệu quả nền kinh tế và xã hội. Nền
kinh tế vận hành theo cơ chế thị trƣợng có sự quản lý của Nhà nƣớc theo định hƣớng
Xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới đƣợc coi là một bƣớc
chuyển đột phá của công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà nƣớc ta khởi xƣớng, lãnh
đạo thực hiện từ năm 1986. Cơ chế kinh tế thị trƣờng đặt ra nhu cầu phải thiết lập và
duy trì một môi trƣờng cạnh tranh công bằng cho tất cả các chủ thể kinh doanh. Xây
dựng hệ thống pháp luật bảo đảm cạnh tranh minh bạch, bình đẳng giữa các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế là một trong những nội dung quan trọng đã
đƣợc đề cập trong các văn kiện của Đảng nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Việc xây dựng và ban hành Luật Cạnh tranh
đƣợc coi là trụ cột trong hệ thống pháp luật kinh tế công, là “Hiến pháp của kinh tế
thị trƣờng”, đã cho thấy tầm quan trọng của Luật Cạnh tranh trong đời sống kinh tế.
Qua hơn 10 năm áp du ̣ng, Luâ ̣t Ca ̣nh tranh năm 2004 tuy đã phần nào phát huy đƣơ ̣c
hiê ̣u quả (Phùng Văn Thành, 2016, tr. 21), nhƣng cũng có khá nhiều ha ̣n chế , đôi khi mớ i chỉ nhƣ “vật trang trí” và chƣa làm tốt vai trò hiến pháp của nền kinh tế1. Nếu nhƣ ca ̣nh tranh là đô ̣ng lƣ̣c cho sƣ̣ phá t triển củ a nền kinh tế thì ca ̣nh tranh không
lành mạnh sẽ “giết chết hiệu quả kinh doanh” (Phạm Tất Thắng, 2016).
Kể tƣ̀ khi mở cƣ̉ a kinh tế , các hoạt động kinh doanh , thƣơng ma ̣i đã và đang
. Hành vi cạnh tranh trên thƣơng trƣờng của mỗi diễn ra sôi đô ̣ng hơn bao giờ hết
chủ thể kinh doanh ngày càng trở nên gay gắt và quyết liệt đã khiến cho mô ̣t số
tình trạng này doanh nghiê ̣p thƣ̣c hiê ̣n các hành vi ca ̣nh tranh không lành ma ̣nh và
hiê ̣n nay đã trở nên khó kiểm soát. Các số liê ̣u đƣơ ̣c công bố trong Bản tin Ca ̣nh
tranh và ngƣờ i tiêu dù ng củ a Cu ̣c quản lý ca ̣nh tranh và bảo vê ̣ ngƣờ i tiêu dù ng số
các vụ cạnh tranh không lành mạnh đang ngày càng nhiều và tinh vi , tuy nhiên mƣ́ c
1 Quan điểm củ a PGS, TS Pha ̣m Duy Nghĩ khi trả lờ i phỏng vấn báo chí. https://baomoi.com/luat-canh-tranh- chua-lam-tot-vai-tro-hien-phap-cua-nen-kinh-te/c/24019866.epi
2
phạt theo các quy địn h hiê ̣n hành chƣa đủ sƣ́ c răn đe 2 khiến cho tình tra ̣ng này vẫn tiếp tu ̣c diễn ra vớ i mƣ́ c đô ̣ ngày càng gay gắt hơn .
Đứng trƣớc đòi hỏi của lý luận và thực tiễn nói trên việc nghiên cứu và xây
dựng pháp luật về vấn đề chống cạnh tranh không lành mạnh là rất cần thiết. Chính
vì vậy, em chọn đề tại “Quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh: thực
tiễn và khuyến nghị xử lý tại Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Những năm qua, ở nƣớc ta pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh thu
hút sự quan tâm của các nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhiều công
trình khoa học ở những mức độ, phạm vi tiếp cận khác nhau đã đề cập đến cơ sở lý
luận cạnh tranh và pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Tiêu biểu nhƣ tài liệu tham khảo và công trình nghiên cứu nhƣ:
- “Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Nhƣ Phát và Bùi Nguyên Khánh,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001. Tác giả Nguyễn Nhƣ Phát còn có công trình nghiên cƣ́ u về “Cạnh tranh và xây dựng pháp Luật Cạnh tranh ở Việt Nam hiện
nay” của Viện nghiên cứu nhà nƣớc và pháp luật, Nxb Công an nhân dân năm 2001.
Trong các công trình này , các tác giả đã biện giải vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thi ̣ trƣờ ng và đƣa ra các kiến nghi ̣ nhằm xây dƣ̣ng chính sách và pháp luâ ̣t cạnh tranh ở Việt Nam.
- Luận án tiến sỹ luật học “Pháp Luật Cạnh tranh không lành mạnh ở Việt
Nam” của tác giả Lê Anh Tuấn, Đại học quốc gia Hà Nội, 2008. Tác giả đã trình bày
những đặc điểm, tính chất chung, cơ cấu của pháp luật cạnh tranh và vấn đề nhận
dạng thị trƣờng. Làm rõ mối quan hệ giữa pháp luật chống cạnh tranh không lành
2 Ví dụ, Công tyTNHH Điện tử SamsungVina đã thực hiện quảng cáo sản phẩm điều hòa không khí Samsung 2010 với những nội dung quảng cáo thiếu chính xác, khiến ngƣời tiêu dùng có thể hiểu sai về tính năng, công dụng sản phẩm. Tuy nhiên , mƣ́ c pha ̣t chỉ là 30 triê ̣u đồng (Quyết định số 126/QĐ-QLCT xử phạt Công ty TNHH Điện tử Samsung Vina). Có thể xem các vụ việc về cạnh tranh không lành mạnh khác tại Bản tin Cạnh tranh và Ngƣờ i tiêu dù ng số 23/2010 tại: http://www.vca.gov.vn/Newsletters/CanhTranh_23_forweb.pdf (truy câ ̣p ngày 5/12/2018).
3
mạnh với các luật chuyên ngành và với các lĩnh vực pháp luật liên quan đến áp dụng
chế tài. Nghiên cứu so sánh và nêu lên một số mô hình lập pháp về cạnh tranh không
lành mạnh và xu hƣ ớng phát triển của pháp luật về chống ca ̣nh tranh không lành
mạnh ở các nƣớc trên thế giới. Tìm hiểu thực trạng pháp luật về chống ca ̣nh tranh
không lành ma ̣nh ở Việt Nam qua việc phân tích, bình luận, đánh giá thực trạng các
quy định của Luật cạnh tranh năm 2004 và các luật chuyên ngành khác có liên quan
điều chỉnh các hành vi ca ̣nh tranh không lành mạnh. Nhận dạng các biểu hiện của
hành vi ca ̣nh tranh không lành ma ̣nh di ễn ra trên thị trƣờng hiện nay. Phân tích các
quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục xử lý đối với hành vi ca ̣nh tranh
không lành ma ̣nh và đƣa ra các ki ến nghị và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện
pháp luật và hỗ trợ bảo đảm thực thi pháp luật chống ca ̣nh tranh không lành ma ̣nh.
- Đề tài NĐT cấp nhà nƣớc: Hoàn thiện chế độ cạnh tranh thông qua việc tăng
cường thực thi Luật Cạnh tranh, tăng cường năng lực thể chế và các bên có liên
quan – bài học kinh nghiệm của CHLB Đức, cơ quan chủ trì: Trƣờng Đại học Ngoại
thƣơng; Nghiệm thu năm 2014 đã đề cập rất nhiều tới hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong nền kinh tế hiện nay, thực tiễn xử lý theo quy định cũng nhƣ những
khuyến nghị cần thiết cho việc thực thi Luật Cạnh tranh có hiệu quả.
Ngoài ra còn rất nhiều bài báo, tạp chí đã đƣa ra thực trạng cạnh tranh không
lành mạnh và đƣa ra những ý kiến đóng góp cho việc hoàn thiện chế định pháp luật
ở các giác độ khác nhau và cho các lĩnh vƣ̣c chuyên biê ̣t khác nhau . Chẳng ha ̣n, tác giả Ngô Quốc Chiến , trong bài viết “M ột số điều khoản độc quyền trong hợp đồng
nhƣợng quyền thƣơng mại. So sánh pháp luật Việt Nam , Pháp và Liên minh châu
i ngoa ̣i , số 67/2014 đã phân tích các quy đi ̣nh về Âu” đăng trên ta ̣p chí Kinh tế đố cạnh tranh không lành mạnh trong Luật cạnh tranh năm 2004 áp dụng đối với hoạt
đô ̣ng nhƣơ ̣ng quyền thƣơng ma ̣i để chỉ ra các bất câ ̣p . Tác giả cũng đã so sánh các quy đi ̣nh củ a pháp luật Việt Nam với pháp luật và thực tiễn xét xử tại Liên minh châu Âu để đƣa ra mô ̣t số khuyến nghi ̣ đối vớ i Viê ̣t Nam.
Gần đây hơn, tác giả Nguyễn Lan Anh , trong bài viết về “Luâ ̣t Ca ̣nh tranh năm 2004 và những yêu cầu sửa đổi” đăng trên ta ̣p chí Kinh tế đối ngoa ̣i năm 2017 đã
4
phân tích các ha ̣n chế củ a Luâ ̣t ca ̣nh tranh năm 2004 và đề xuất một số giải pháp cụ thể vào Dƣ̣ thảo luâ ̣t ca ̣nh tranh sƣ̉ a đổi , trong đó có nô ̣i dung về xƣ̉ lý các hành vi phản cạnh tranh bằng các biện pháp dân sự .
Các công trình nghiên cứu trên sẽ là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích để tác
giả thực hiện công trình nghiên cứu độc lập của mình nhằm góp phần vào việc làm
rõ thực trạng cạnh tranh và xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam
và đƣa ra một số khuyến nghị cho việc tăng cƣờng xử lý, giải quyết các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về
cạnh tranh không lành mạnh, đánh giá thực trạng về cạnh tranh không lành mạnh ở
Việt Nam, từ đó đƣa ra những khuyến nghị nhằm xử lý và giải quyết tranh chấp một
cách thỏa đáng các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thực tế xảy ra ở Việt
Nam.
Để thực hiện đƣợc mục đích trên, nhiệm vụ của Luận văn là:
- Nghiên cứu, tìm hiểu về cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh nói chung và
pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh nói riêng.
- Nghiên cứu các loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh và nghiên cứu thực
trạng cạnh tranh không lành mạnh trên thị trƣờng cũng nhƣ thực trạng xử lý và giải
quyết tranh chấp về cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam hiện nay.
- Đƣa ra những đề xuất xử lý, giải quyết hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở
Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu là hành vi cạnh tranh không lành mạnh và những quy
định tƣơng ứng theo Luật Cạnh tranh năm 2004 (do Luật Cạnh tranh năm 2018 chƣa
có hiệu lực tại thời điểm hiện tại); trình tự, thủ tục, khiếu nại, khởi kiện, các biện
pháp xử lý, chế tài áp dụng đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh; giải quyết
tranh chấp liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh trên thị trƣờng Việt Nam.
5
- Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung, Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu trong mối quan hệ giữa
các quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong Luật Cạnh tranh với
các quy định liên quan tới cạnh tranh trong một số đạo luật kinh tế chuyên sâu về
thƣơng mại, quảng cáo, pháp luật bảo vệ ngƣời tiêu dùng…
Về thời gian, Luận văn lấy mốc thời gian nghiên cứu những vấn đề cạnh tranh,
pháp luật cạnh tranh, vụ việc cạnh tranh không lành mạnh là năm 2004 khi Luật
Cạnh tranh đƣợc ban hành cho đến năm 2025 trên cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm
tăng cƣờng xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trƣờng Việt Nam.
Về không gian, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh xảy ra trên lãnh thổ
Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thiện Luận văn, các phƣơng pháp đƣợc sử dụng bao gồm: phƣơng
pháp phân tích – tổng hợp, phƣơng pháp so sánh – đối chiếu, hệ thống hóa… nhằm
làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu về hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng nhƣ
việc xử lý và giải quyết tranh chấp từ các hành vi này.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Mục lục và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn đƣợc chia làm 03 chƣơng nhƣ sau:
- Chƣơng I. Khái quát pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh
- Chƣơng II. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh, thực trạng xử lý và giải
quyết tranh chấp về cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam
- Chƣơng III. Một số đề xuất về xử lý và giải quyết tranh chấp về cạnh tranh
không lành mạnh.
6
CHƢƠNG I. KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH
1.1. Khái quát về cạnh tranh không lành mạnh
Cạnh tranh với bản chất là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh trong việc
giành ƣu thế của mình trên thị trƣờng để đạt đƣợc đƣợc mục tiêu nào đó. Để đạt
đƣợc mục tiêu của mình, chủ thể tham gia cạnh tranh có khả năng sử dụng nhiều
cách thức khác nhau, tạo ra tình trạng cạnh tranh ở những mức độ khác nhau, thậm
chỉ sử dụng cả những hành vi trái với chuẩn mực đạo đức kinh doanh để cạnh tranh.
Cạnh tranh không lành mạnh xuất hiện từ một trong những con đƣờng nhƣ vậy.
Cạnh tranh không lành mạnh trƣớc hết là một khái niệm bắt nguồn từ những
quy định mang tính nguyên tắc trong luật tƣ, cụ thể là trong luật dân sự, theo đó các
chủ thể trong giao dịch (dân sự hay thƣơng mại) phải đảm bảo tôn trọng thuần
phong và đạo đức xã hội, tập quán kinh doanh thông thƣờng của mỗi quốc gia. Với
quy định nhƣ vậy, giao dịch thƣơng mại trên thị trƣờng cũng phải đảm bảo tôn trọng
những quy tắc trong xã hội về đạo đức kinh doanh thông thƣờng. Sự phát triển đa
dạng của các hoạt động kinh doanh trong điều kiện tự do hóa thƣơng mại, tự do cạnh
tranh ở các nền kinh tế theo cơ chế thị trƣờng đã kéo theo những hành vi cạnh tranh
đa dạng, phức tạp nhằm dành đƣợc lợi thế nhất định cho mình, thậm chí gây thiệt hại
cho đối thủ cạnh tranh khác.
Nhƣ vậy cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cạnh tranh đi ngƣợc lại
các nguyên tắc xã hội tốt đẹp, tập quán và truyền thống kinh doanh thông thƣờng,
xâm phạm lợi ích của các chủ thể kinh doanh khác, lợi ích của ngƣời tiêu dùng và
lợi ích chung của xã hội. Cạnh tranh không lành mạnh luôn có bản chất là không tốt
đẹp, không công bằng và bất chính nhằm vào đối thủ cạnh tranh cụ thể nào đó hoặc
gây bất lợi cho ngƣời tiêu dùng. Những thủ đoạn gây cản trở hoạt động hoặc gây
thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp đến chủ thể kinh doanh khác cũng nhƣ cho ngƣời
tiêu dùng luôn là những dấu hiệu đặc trƣng của hành vi này.
7
1.2. Khái quát về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh
Trƣớc năm 1986 nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung.
Những hạn chế của nền kinh tế này làm cho năng suất lao động trong các tổ chức
đơn vị sản xuất kinh tế, kinh doanh đã không đƣợc nâng cao, cạnh tranh có thể coi là
xa lạ đối với hoạt động kinh doanh. Nhƣng kể từ sau năm 1986, Việt Nam chuyển từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội
chủ nghĩa thì tính hiệu quả và tính kinh tế của nền kinh tế theo cơ chế thị trƣờng đã
cao hơn rất nhiều. Với quan điểm “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật”, Đảng Cô ̣ng sản Việt Nam đã chỉ đạo mạnh mẽ quá trình tổng kết,
phân tích đánh giá thực tiễn, từ đó xác định các mục tiêu, nhiệm vụ cho từng thời
gian cụ thể. Nghị quyết đại hội Đại biểu toàn quốc khóa VI (1986) với đƣờng lối đổi
mới nền kinh tế theo hƣớng phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Doanh nghiệp thuộc các nền kinh tế khác cùng tồn tại
bình đẳng. Điều này đã tạo nên sự cạnh tranh của các chủ thể tham gia thị trƣờng
cạnh tranh. Tại đại hội lần thứ VIII của Đảng đã tổng kết 10 năm thực hiện đƣờng
lối đổi mới và khẳng định: “Nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội”.
Chính đƣờng lối đổi mới nền kinh tế theo hƣớng phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần định hƣớng xã hội chủ nghĩa đã tạo nên sự cạnh tranh của các chủ thể tham gia
thị trƣờng và mở cửa cho thị trƣờng cạnh tranh hoạt động.
Trong những năm đầu của thời kì đổi mới, chúng ta chƣa ban hành Luật Cạnh
tranh với tƣ cách là một đạo luật độc lập điều chỉnh các quan hệ cạnh tranh, nhƣng
cũng đã có một số quy phạm pháp luật nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác
nhau điều chỉnh vấn đề này. Luật Thƣơng mại năm 1997 là văn bản đầu tiên đã quy
định cấm những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đó là các hành vi: gièm pha
thương nhân khác, ngăn cản, lôi kéo, đe dọa nhân viên hoặc khách hàng của thương
nhân khác, lừa dối khách hàng, gây nhầm lẫn cho khách hàng, khuyến mại bất hợp
pháp… (Điều 8, 9).
8
Bộ Luật hình sự năm 1999 và sau này là Bộ luật hình sự năm 2015 sƣ̉ a đổi
năm 2017 cũng đề cập tới một số tội nhƣ: Điều 192 quy định về tội: “Sản xuất, buôn
bán hàng giả”; Điều 193 quy định về tội: “Sản xuất, buôn bán hàng giả là lƣơng
thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm”; Điều 197 quy định về tội: “Quảng cáo gian
dối”; Điều 198 quy định về tội: “Lừa dối khách hàng”...
Trong Luật Quảng cáo năm 2012 các hành vi quảng cáo bị cấm đã đƣợc quy
định nhƣ: quảng cáo gian dối, quảng cáo nói xấu, so sánh hoặc gây nhầm lẫn với cơ
sở sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ của ngƣời khác… Ngoài ra, còn có một số
quy định pháp luật trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, chúng khoán, đấu thầu…
cũng điều chỉnh một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên, những quy định trên mới chỉ là sự liệt kê chứ chƣa đi vào đời sống
kinh tế xã hội do còn thiếu các quy định cụ thể về cơ chế áp dụng cũng nhƣ các chế
tài áp dụng với doanh nghiệp vi phạm.
Chính vì vậy, ngày 3 tháng 12 năm 2004 tại kì họp thứ VI, quốc hội khóa XI
đã thông qua Luật Cạnh tranh 2004 và ngày 12 tháng 6 năm 2018, Quốc hội thông
qua Luật Cạnh tranh mới, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2019. Luật
Cạnh tranh cùng các nghị định hƣớng dẫn là những văn bản trực tiếp điều chỉnh các
hành vi hạn chế cạnh tranh và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
1.2.2. Khái niệm pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
Trƣớc hết, để hiểu đƣợc khái niệm trên chúng ta phải làm rõ đƣợc khái niệm
pháp luật cạnh tranh. Pháp luật cạnh tranh nếu đƣợc hiểu theo nghĩa rộng bao gồm
pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, pháp luật chống hạn chế cạnh tranh,
những quy định điều chỉnh hoạt động tố tụng cạnh tranh và tất cả các quy phạm
pháp luật điều chỉnh hoạt động cạnh tranh trong các văn bản pháp luật có liên quan.
Theo nghĩa hẹp, pháp luật cạnh tranh là một đạo luật và những văn bản hƣớng dẫn
thi hành điều chỉnh hoạt động cạnh tranh nhằm bảo vệ tự do cạnh tranh, cơ cấu thị
trƣờng cũng nhƣ môi trƣờng cạnh tranh bình đẳng và công bằng (Tăng Văn Nghĩa,
2013).
9
Nhƣ vậy các khái niệm trên về Luật Cạnh tranh đều thể hiện một điểm chung:
pháp luật cạnh tranh là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều tiết và kiểm soát cạnh
tranh nhằm tạo môi trƣờng cạnh tranh bình đẳng, hợp pháp bảo vệ lợi ích quốc gia,
lợi ích của doanh nghiệp và của ngƣời tiêu dùng, góp phần thúc đẩy kinh tế đất nƣớc
phát triển. Pháp luật cạnh tranh là công cụ của Nhà nƣớc để đảm bảo môi trƣờng
cạnh tranh lành mạnh.
Qua đó có thể hiểu pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh là tổng hợp
các quy phạm pháp luật điều chỉnh những hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cụ thể của mọi chủ thể tham gia thị
trƣờng nhằm mục đích cạnh tranh, thể hiện tính không lành mạnh có thể vô tình
hoặc cố ý gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh. Tính không lành mạnh của hành vi
cạnh tranh phụ thuộc vào nhiều yếu tố của quan hệ thị trƣờng và đƣợc điều chỉnh về
cơ bản theo nguyên tắc chung của pháp luật dân sự.
1.2.3. Vai trò của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
Cơ sở pháp lý quan trọng tạo điều kiện bảo đảm cho cạnh tranh tồn tại là các
quy định về tự do kinh doanh và quyền đƣợc tồn tại bình đẳng của các doanh
nghiệp. Chỉ khi nào đƣợc tự do gia nhập thị trƣờng, tự do giao kết, và đảm bảo
quyền sở hữu thì lúc đó các chủ thể tham gia thị trƣờng mới có đủ năng lực để quyết
định phƣơng thức kinh doanh. Khi đó, cạnh tranh mới có môi trƣờ ng để tồn tại, và
phát huy tác dụng.
Với tƣ cách là lĩnh vực pháp luật đặc thù của nền kinh tế thị trƣờng, pháp luật
cạnh tranh bảo vệ cạnh tranh bằng cách chống lại các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh và loại bỏ hạn chế cạnh tranh. Có thể thấy, pháp luật chống cạnh tranh không
lành mạnh – một bộ phận của pháp luật cạnh tranh có những vai trò cơ bản sau:
Thứ nhất, cạnh tranh là một hoạt động của nền kinh tế thị trƣờng. Cạnh tranh
vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Môi trƣờng cạnh tranh tốt giúp
phát huy đƣợc tiềm lực và sức mạnh kinh doanh vốn có của các chủ thể tham gia thị
trƣờng.
10
Việc bảo đảm môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh luôn đồng nghĩa với việc phải
ngăn chặn và loại trừ những hành vi cạnh tranh thiếu lành mạnh nhƣ kiểm soát đƣợc
độc quyền. Muốn ngăn chặn cạnh tranh thiếu lành mạnh, một mặt phải không ngừng
hoàn thiện cơ chế pháp luật để không còn kẽ hở cho những hành vi gian lận. Mặt
khác ngay bản thân quy đi ̣nh pháp luật, bên cạnh những quy định xác lập khung
pháp lý cho sự cạnh tranh, cũng cần có những quy định đối với những hành vi không
lành mạnh, bảo vệ quyền lợi của các chủ thể bị các hành vi đó xâm hại.
Pháp luật cạnh tranh bảo đảm cạnh tranh lành mạnh bằng cách quy định các
nguyên tắc trong cạnh tranh, quy định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và
các biện pháp xử lý vi phạm đối với các hành vi này.
Thứ hai, điều tiết quá trình cạnh tranh, tôn trọng và bảo đảm quyền lợi hợp
pháp của ngƣời tiêu dùng, bảo vệ quyền lợi của chủ thể kinh doanh, nhà nƣớc và xã
hội.
Thị trƣờng hình thành từ mối quan hệ qua lại giữa ngƣời mua và ngƣời bán,
hay rộng hơn là ngƣời sản xuất và ngƣời tiêu dùng dƣới quy luật cung cầu và quy
luật giá trị. Ngƣời tiêu dùng có quyền lựa chọn hàng hóa cũng nhƣ ngƣời cung ứng
hàng hóa và trả tiền cho sự lựa chọn đó. Về phía ngƣời sản xuất, lợi nhuận không chỉ
là mục tiêu, động lực mà còn là phƣơng thức tồn tại của họ. Việc nâng cao năng lực
sản xuất sẽ mở rộng khả năng đáp ứng các nhu cầu luôn thay đổi và ngày một tăng
của ngƣời tiêu dùng. Nhƣ vậy, cạnh tranh tham gia vào mọi phƣơng diện của nền
kinh tế, nó sàng lọc và lành mạnh hóa thị trƣờng, thúc đẩy sản xuất và điều tiết tiêu
dùng.
Thứ ba, răn đe và nghiêm cấm mọi hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Tính răn đe thể hiện rất rõ trong việc Luật Cạnh tranh năm 2004 cũng nhƣ Luật
Cạnh tranh năm 2018 quy định các hình thức xử lý vi phạm đối với các chủ thể thực
hiện những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tùy theo tính chất, mức độ vi
phạm, hậu quả hành vi mà các chủ thể vi phạm có thể bị xử phạt hành chính, bồi
thƣờng thiệt hại, thậm chí bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
11
Mục đích mà pháp luật cạnh tranh quy định nhƣ vậy là để răn đe và nghiêm
cấm các chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Qua đó tạo tâm lý,
thái độ tôn trọng pháp luật của các chủ thể kinh doanh.
1.2.4. Nội dung điều chỉnh của pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh
Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ra đời nhằm đảm bảo thƣơng mại
đƣợc diễn ra một cách công bằng và không bị tác động tiêu cực bởi những hành vi
cạnh tranh không lành mạnh, không phù hợp với chuẩn mực đạo đức kinh doanh
thông thƣờng. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh cuất hiện là do nhu cầu
của thị trƣờng, nhất là trong phạm vi châu Âu – nơi mà thị trƣờng cũng nhƣ tự do
thƣơng mại xuất hiện từ rất sớm. Ban đầu khái niệm pháp luật cạnh tranh đƣợc hiểu
đồng nghĩa với pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh theo cách hiểu ngày
nay.
Về nguyên tắc, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh điều chỉnh những
hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành
vi cụ thể của mọi chủ thể tham gia thị trƣờng (kể cả không phải doanh nghiệp) nhằm
mục đích cạnh tranh, thể hiện tính không lành mạnh có thể vô tình hoặc cố ý gây
thiệt hại cho một đối thủ cạnh tranh hay một bạn hàng cụ thể. Tính không lành mạnh
của hành vi cạnh tranh phụ thuộc vào nhiều yếu tố của quan hệ thị trƣờng và đƣợc
điều chỉnh cơ bản theo nguyên tắc chung của pháp luật dân sự (luật tƣ). Điều này đã
đƣợc chứng minh bởi thực tế (chẳng hạn ở Pháp, Italia) ngay cả khi không có đạo
luật về chống cạnh tranh không lành mạnh với tính cách là một chế định pháp luật
riêng biệt, pháp luật dân sự vẫn có thể đƣợc áp dụng để chống lại các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia thị trƣờng.
Trong một số trƣờng hợp đặc biệt, hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể bị xử
lý về mặt hình sự. Dƣới cả hai giác độ xử lý trên thì pháp luật chỉ can thiệp khi có sự
khiếu kiện của ngƣời có quyền lợi và lợi ích liên quan. Các chế tài phần lớn là buộc
phải đình chỉ hành vi và bồi thƣờng thiệt hại xảy ra.
12
1.3. Quy định của Luật Cạnh tranh về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh
Sự ra đời của Luật Cạnh tranh năm 2004 đã đánh dấu bƣớc phát triển quan
trọng trong việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật cho
nền kinh tế theo cơ chế thị trƣờng ở nƣớc ta. Trong điều kiện kinh tế thị trƣờng, việc
xuất hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là tất yếu. Luật Cạnh tranh năm
2004 quy định những hành vi cạnh tranh không lành mạnh sau đây:
1.3.1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn3
Hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn là việc doanh nghiệp sử dụng chỉ dẫn chứa đựng
thông tin gây nhầm lẫn về tên thƣơng mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tƣợng kinh
doanh, bao bì...làm lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ nhằm mục
đích cạnh tranh. Chỉ dẫn (gây nhầm lẫn) cũng đƣợc quy định tƣơng tự tại khoản 2,
Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ. Theo đó chỉ dẫn thƣơng mại là các dấu hiệu, thông tin
nhằm hƣớng dẫn thƣơng mại hàng hóa, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thƣơng mại,
biểu tƣợng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của
hàng hóa, nhãn hiệu hàng hóa. Việc chỉ dẫn gây nhầm lẫn là việc lợi dụng chỉ dẫn
thƣơng mại đã đƣợc đầu tƣ, hình thành và phát triển bởi các chủ thể khác và sẽ mang
lại lợi ích kinh tế khi sử dụng chúng. Việc sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn cũng có thể
đƣợc thể hiện thông qua các hành vi gắn với chỉ dẫn thƣơng mại đó lên hàng hóa,
bao bì hàng hóa, phƣơng tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch để kinh doanh, phƣơng tiện
quảng cáo, bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu hàng hóa có gắn chỉ
dẫn thƣơng mại đó.
Nhằm đảm bảo cạnh tranh công bằng cũng nhƣ bảo vệ quyền lợi của khách
hàng, của ngƣời tiêu dùng trƣớc hết thể hiện không rõ ràng về nhãn hiệu hàng hóa,
tên thƣơng mại, bao bì, chỉ dẫn địa lý... Luật Cạnh tranh quy định cấm doanh nghiệp
sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ, làm sai
lệch nhận thức của khách hàng nhằm mục đích cạnh tranh. Đồng thời luật cũng quy
định cấm doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm
3 Quy định này đã bị huỷ bỏ theo Luật Cạnh tranh năm 2018.
13
lẫn (Điều 40). Đây chính là việc kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn
gây nhầm lẫn ở cấp độ thứ hai. Doanh nghiệp kinh doanh ở đây là khách hàng của
doanh nghiệp sử dụng các chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về hàng hóa,
dịch vụ đối với ngƣời tiêu dùng.
Việc nhầm lẫn do chỉ dẫn sai không chỉ là nhầm lẫn làm sai lệch nhận thức của
khách hàng về hàng hóa, dịch vụ cung cấp, về chỉ dẫn thƣơng mại của hàng hóa mà
còn tạo ra sự nhầm lẫn với hàng hóa, dịch vụ với thƣơng nhân khác. Mục đích của
hành vi chủ thể kinh doanh ở đây chính là thông qua sự nhầm lẫn của khách hàng để
họ có thể chấp nhận hàng hóa hoặc dịch vụ mà trong sự nhận thức thông thƣờng họ
không chấp nhận hàng hóa, dịch vụ nhƣ vậy. Điều này có thể làm thiệt hại không chỉ
đối với ngƣời tiêu dùng mà còn cả đối với chủ thể kinh doanh khác cùng loại hàng
hóa hoặc dịch vụ tƣơng tự (bị tổn hại từ việc chỉ dẫn gây nhầm lẫn).
Biểu hiện bên ngoài của việc chỉ dẫn gây nhầm lẫn thông qua nhiều cách thức
khác nhau, nhƣng tựu chung lại chúng đều làm cho khách hàng cũng nhƣ ngƣời tiêu
dùng nhận thức không đúng về hàng hóa, dịch vụ. Việc sử dụng chỉ dẫn gây nhầm
lẫn mang tính lợi dụng thành quả của chủ thể kinh doanh khác một cách trái phép
ngay cả khi giữa các bên không tồn tại quan hệ cạnh tranh. Đây cũng chính là lý do
hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn nói riêng và hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói
chung bị xem xét xử lý không cần xét đến thị trƣờng liên quan. Mức độ cao nhất của
chỉ dẫn gây nhầm lẫn là sản xuất và phân phối hàng giả. Do tính chất và mức độ
nguy hại của việc sản xuất và phân phối hàng giả, hành vi này không chỉ bị xử lý
theo pháp luật cạnh tranh mà còn có thể bị xử lý theo pháp luật hình sự. Sự nguy hại
cho khách hàng, ngƣời tiêu dùng trong trƣờng hợp này có thể thấy khi họ sử dụng
hàng hóa giả thuộc nhóm hàng hóa nhạy cảm, đòi hỏi độ an toàn cao nhƣ dƣợc
phẩm, thực phẩm, linh kiện máy móc đòi hỏi sự an toàn hay trình độ công nghệ
cao... Mặt khác sản xuất và cung cấp hàng hóa có chỉ dẫn gây nhầm lẫn còn vi phạm
cả đối tƣợng đƣợc bảo vệ bởi pháp luật sở hữu trí tuệ liên quan đến bảo hộ nhãn
hiệu, tên thƣơng mại và chỉ dẫn địa lý của hàng hóa. Tuy nhiên, các đối tƣợng đó
phải là hợp pháp, có nghĩa là đã đƣợc đăng ký và bảo hộ theo quy định của pháp
14
luật, hoặc đã đƣợc xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp đối tƣợng đó (đối với tên
thƣơng mại).
Nhƣ vậy việc quy kết một hàng hóa dịch vụ có thể gây nhầm lẫn chỉ đặt ra khi
nó xâm phạm lợi ích liên quan đến sản phẩm cụ thể đã đƣợc đăng ký bảo hộ, hoặc
tồn tại trên thực tế đƣợc pháp luật thừa nhận.
1.3.2. Xâm phạm bí mật kinh doanh
Trong môi trƣờng kinh doanh có cạnh tranh, doanh nghiệp luôn có những
thông tin quan trọng, thậm chỉ liên quan đến sự tồn tại của doanh nghiệp để có đƣợc
ƣu thế riêng trong kinh doanh. Những thông tin này luôn luôn đƣợc lƣu giữ kín và
đƣợc coi là “bí mật kinh doanh”. Bí mật kinh doanh có thể đƣợc coi là vũ khí lợi hại
của doanh nghiệp, khi nó bị phổ biến hoặc xâm phạm doanh nghiệp sẽ không còn ƣu
thế của riêng mình nữa. Do tính bí mật và có giá trị sinh lợi (nếu đƣợc tiếp cận) của
các thông tin liên quan đến nội dung và phƣơng pháp kinh doanh, bí mật kinh doanh
đƣợc coi là đối tƣợng bảo vệ của pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Bí mật kinh doanh có thể bao gồm: phƣơng pháp kinh doanh, phƣơng pháp
tính giá, thông tin nhạy cảm về thị trƣờng, thông tin về quản trị quan hệ khách hàng,
nguồn nguyên liệu...kể cả bí quyết kỹ thuật đều có thể là những tài liệu riêng đƣợc
lƣu giữ dƣới chế độ bảo mật cao thấp tùy theo mức độ đánh giá của chủ sở hữu. Vì
mục tiêu lợi nhuận và lợi thế cạnh tranh các bí mật kinh doanh luôn là đối tƣợng của
các đối thủ cạnh tranh săn tìm để chiếm đoạt nhằm tạo lợi thế cạnh tranh. Bởi vậy bí
mật kinh doanh là một trong những công cụ phƣơng tiện đƣợc bảo vệ để khai thác
lợi ích cũng nhƣ duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Bí mật kinh doanh
không chỉ là đối tƣợng quan trọng đƣợc bảo vệ bởi pháp luật cạnh tranh trƣớc sự
xâm hại của các đối thủ cạnh tranh mà chúng còn đƣợc bảo vệ bởi pháp luật sở hữu
trí tuệ (khoản 3 Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ). Nếu pháp luật cạnh tranh bảo vệ quyền của chủ thể có bí mật kinh doanh trƣớc sự xâm hại với mục đích cạnh tranh không
lành mạnh thì pháp luật sở hữu trí tuệ bảo vệ quyền chủ sở hữu với bí mật kinh
doanh dƣới giác độ của chủ sở hữu hợp pháp đối với quyền sở hữu công nghiệp.
15
Dƣới giác độ của pháp luật cạnh tranh, bí mật cạnh tranh không phải bí mật
thông thƣờng, nó phải thỏa mãn những điều kiện nhất định để có thể trở thành đối
tƣợng đƣợc bảo vệ pháp luật chống cạnh tranh không làm mạnh
Theo quy định tại khoản 10 Điều 3 Luật Cạnh tranh, bí mật kinh doanh là
thông tin có đủ điều kiện sau đây:
a) Không phải là hiểu biết thông thƣờng;
b) Có khả năng áp dụng trong kinh doanh và khi đƣợc sử dụng sẽ tạo cho
ngƣời nắm giữ thông tin đó có lợi thế hơn so với ngƣời không nắm giữ hoặc không
sử dụng thông tin đó;
c) Đƣợc chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để thông tin đó
không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận đƣợc.
Nội dung trên tƣơng tự nhƣ quy định tại Điều 84 Luật sở hữu trí tuệ về điều
kiện chung đối với bí mật kinh doanh đƣợc bảo hộ.
Việc một doanh nghiệp xâm phạm bí mật kinh doanh thông qua tiếp cận thu
thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của doanh nghiệp khác sẽ gây những bất lợi
cạnh tranh cho doanh nghiệp đó. Vì vậy để đảm bảo môi trƣờng cạnh tranh lành
mạnh, công bằng, Luật Cạnh tranh cấm doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây:
Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các
biện pháp bảo mật của ngƣời sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh đó.
Tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không đƣợc phép của
chủ sở hữu bí mật kinh doanh.
Vi phạm hợp đồng bảo mật, lừa gạt, lợi dụng lòng tin của ngƣời có nghĩa vụ
bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông tin thuộc bí mật kinh doanh của chủ
sở hữu bí mật kinh doanh đó.
Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của ngƣời khác khi ngƣời
này làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh, làm thủ tục
lƣu hành sản phẩm, hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan
16
nhà nƣớc hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh, xin cấp giấy
phép liên quan đến kinh doanh, hoặc đƣợc lƣu hành sản phẩm.
Tóm lại bí mật kinh doanh là tài sản trí tuệ của doanh nghiệp đƣợc pháp luật
bảo vệ. Việc tiếp cận, sử dụng bí mật kinh doanh của một doanh nghiệp bằng con
đƣờng trái phép vì mục đích cạnh tranh sẽ bị quy kết là vi phạm pháp luật chống
cạnh tranh không lành mạnh.
1.3.3. Ép buộc trong kinh doanh
Tự do kinh doanh là quyền không thể thiếu đƣợc của bất kỳ chủ thể kinh doanh
về mặt thực tế cũng nhƣ tiềm năng. Vì mục tiêu đạt đƣợc lợi thế cạnh tranh chủ thể
kinh doanh có sử dụng những hành vi cạnh tranh không lành mạnh thông qua việc
dồn khách hàng vào tình thế bắt buộc phải chấp nhận ký kết hợp đồng, hoặc chấp
nhận các điều kiện thƣơng mại không mong muốn mà do điều kiện hoàn cảnh nào
đó đã không có cách lựa chọn nào khác.
Ép buộc kinh doanh thƣờng xuất hiện từ những quan hệ kinh doanh không có
sự tƣơng xứng về thế mạnh thị trƣờng giữa các bên. Theo đó bên có thế mạnh sẽ
khai thách lợi thế của mình để ép buộc chủ thể kinh doanh nhỏ hơn phải chấp nhận
hợp đồng hoặc điều kiện mà bên có thế mạnh đƣa ra. Bởi vậy chủ thể kinh doanh
nhỏ phải từ bỏ hoặc ngừng giao dịch những doanh nghiệp thuộc mối quan hệ cũ của
họ. Điều 42 Luật Cạnh tranh quy định: Cấm doanh nghiệp ép buộc khách hàng, đối
tác kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng hành vi đe dọa hoặc cƣỡng ép để buộc
họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó.
Dƣới giác độ pháp luật dân sự những giao dịch dân sự, thƣơng mại nhƣ vậy
thiếu sự tự nguyện, xâm phạm quyền tự định đoạt của một trong các bên tham gia và
chúng có thể bị tuyên bố vô hiệu. Việc ép buộc thể hiện bằng cách gây áp lực, đe
dọa gây thiệt hại buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác làm
theo ý chí của mình, nếu không khách hàng, đối tác doanh nghiệp sẽ phải chịu
những hậu quả bất lợi mà doanh nghiệp ép buộc tạo ra. Hậu quả bất lợi dƣờng nhƣ
không tránh khỏi đối với khách hàng/đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác làm
cho họ buộc phải làm theo những yêu cầu của doanh nghiệp tiến hành hành vi ép
17
cuộc đó chuyển sang giao dịch với mình hoặc với một chủ thể khác đƣợc chỉ định.
Hành vi ép buộc có thể thực hiện thông qua mọi con đƣờng, mọi mối quan hệ trong
giao dịch cũng nhƣ ngoài giao dịch để đạt đƣợc mục đích kinh doanh không lành
mạnh. Bởi vậy hành vi ép buộc trong kinh doanh thể hiện động cơ và mục đích xấu
của chủ thể tiến hành hành vi.
Dƣới giác độ nghiên cứu, chủ thể tiến hành hành vi ép buộc trong kinh doanh
có thể là chủ doanh nghiệp, nhân viên của doanh nghiệp, hoặc bất kỳ cá nhân nào
khác giúp sức với mục đích cạnh tranh không lành mạnh. Việc chứng minh đƣợc
động cơ, mục đích....của những hành vi này là điều kiện cơ bản để có thể quy kết
chủ thể đó có vi phạm quy định về chống cạnh tranh không lành mạng hay không.
1.3.4. Gièm pha doanh nghiệp khác4
Trong điều kiện kinh doanh trên thị trƣờng tự do, việc đƣa tin không đúng sự
thật do cố ý hay vô ý về chủ thể kinh doanh khác là điều rất dễ xảy ra. Thông tin
không đúng sự thật đó theo hƣớng tiêu cực và gây bất lợi cho chủ thể kinh doanh
nếu nó đƣợc phổ biến ra ngoài. Đƣa thông tin xấu về một doanh nghiệp không đúng
sự thật chính là hình thức của việc gièm pha doanh nghiệp. Gièm pha doanh nghiệp
khác nhằm làm cho doanh nghiệp này mất uy tín, kéo theo đó mất khách hàng và thu
hẹp thị phần là những thiệt hại khó lƣờng đối với bên bị thiệt hại do hành vi gièm
pha. Để chống lại thủ đoạn cạnh tranh này, ngay cả pháp luật dân sự của các quốc
gia đều có những quy định mang tính nguyên tắc nhằm bảo vệ nhân phẩm, danh dự,
và uy tín của mọi pháp nhân và thể nhân.
Bên cạnh những quy định chung của pháp luật dân sự, trong lĩnh vực kinh
doanh thông thƣờng vẫn có các quy định riêng dành cho các thƣơng nhân với tƣ
cách là chủ thể tham gia cạnh tranh trên thị trƣờng. Trong thực tiễn, chủ thể kinh
doanh vì mục đích cạnh tranh có thể sử dụng cả những thông tin không đúng sự thật
nhằm gây tổn hại đến lợi ích hợp pháp của đối thủ cạnh tranh khác.
4 Hành vi này cũng đƣợc sửa đổi nhỏ theo Luật Cạnh tranh năm 2018.
18
Dƣới giác độ của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, mọi hành vi
trực tiếp hay gián tiếp đƣa ra thông tin không trung thực, gây ảnh hƣởng xấu đến uy
tín, tình trạng tài chính và các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác đƣợc
định danh là hành vi “gièm pha thƣơng nhân khác”. Điều 43 Luật Cạnh tranh quy
định: “Cấm doanh nghiệp gièm pha doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp hoặc
gián tiếp đƣa ra thông tin không trung thực, gây ảnh hƣởng xấu đến uy tín, tình trạng
tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó”.
Pháp luật cạnh tranh chỉ cấm và tác động đến những hành vi gièm pha, bôi nhọ
doanh nghiệp khi hành vi đó đƣợc thực hiện vì mục đích cạnh tranh. Chủ thể tiến
hành hành vi này có thể là bất kỳ ai, thông qua bất kỳ cách thức nào để gièm pha
doanh nghiệp khác nhƣ: thực hiện thủ đoạn bôi nhọ, lăng mạ, hạ thấp uy tín kinh
doanh của đối thủ cạnh tranh là trƣờng hợp điển hình về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh ở dạng này. Tuy nhiên để một hành vi gièm pha doanh nghiệp khác bị
cấm, nó phải thỏa mãn những điều kiện sau:
Gièm pha doanh nghiệp khác tức là sự gièm pha đó phải có đối tƣợng là chủ
thể kinh doanh cụ thể, đang tồn tại và có thể cùn hoặc không cùng quan hệ cạnh
tranh.
Hành vi gièm pha phải xuất phát từ một chủ thể kinh doanh hoặc ngƣời giúp
đỡ cho chủ thể này một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Đối tƣợng của hành vi gièm pha có thể liên quan đến các mặt doanh nghiệp
khác nhƣ: uy tín, văn hóa doanh nghiệp, quy trình hoạt động, chất lƣợng sản phẩm,
cách thức bán hàng, tiềm lực kinh tế - tài chính...
Cũng cần phải phân biệt giữa gièm pha, bôi nhọ... với những đánh giá, nhận
xét về sản xuất, kinh doanh...của doanh nghiệp khác. Đây cũng là vấn đề xuất hiện
phổ biến trong thực tiễn kinh doanh. Nhận định, đánh giá về một chủ thể kinh doanh
nào đó là không tránh khỏi. Tuy nhiên những nhận định, đánh giá đó không có mục
đích cạnh tranh, mang thái độ chủ quan và thông thƣờng không bị cấm dƣới giác độ
của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
19
Hiện nay trên mạng Internet có nhiều trang mạng, blog...đang trở thành
phƣơng tiện bị lạm dụng cho những hành vi gièm pha, bôi nhọ doanh nghiệp khác
mà chƣa có biện pháp kiểm soát hữu hiệu. Mặc dù vậy, việc xác định một hành vi
đƣa thông tin xấu về một doanh nghiệp khác là hành vi gièm pha theo Luật Cạnh
tranh trở nên khá phức tạp.
1.3.5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác
Về nguyên tắc, chủ thể kinh doanh có thể sử dụng bất kỳ phƣơng tiện cạnh
tranh hợp pháp nào để đạt đƣợc lợi thế trong kinh doanh. Tuy nhiên nếu doanh
nghiệp muốn hoạt động kinh doanh của mình diễn ra thuận lợi bằng cách gây rối,
cản trở hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác thì bị coi là bất hợp pháp.
Điều 44 Luật Cạnh tranh quy định: “Cấm doanh nghiệp gây rối hoạt động kinh
doanh hợp pháp của doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp, hoặc gián tiếp cản
trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó. Bên cạnh đó trong
từng lĩnh vực kinh doanh có liên quan, cũng có thể có quy định bổ sung về gây rối
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác.
Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác có thể là bất kể các hành
vi trực tiếp hay gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp khác. Về bản chất, hành vi gây rối hoạt động của bất kỳ chủ thể nào trong xã
hội luôn luôn mang bản chất là hành vi xấu. Hành vi này đƣợc tiến hành nhằm vào
doanh nghiệp nào đó với mục đích cạnh tranh mới đƣợc coi là cạnh tranh không lành
mạnh. Chẳng hạn nhƣ hành vi phá rối tại cơ sở kinh doanh, gây nhiễu hệ thống
thông tin liên lạc, làm trục trặc nguồn điện năng phục vụ kinh doanh, thiết kế, sắp
đặt chƣớng ngại vật ...tại địa điểm, cơ sở kinh doanh của đối thủ cạnh tranh đều có
thể bị coi là hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác.
Về hình thức biểu hiện và tính chất của hành vi này là gây rối hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp khác cũng là chiến lƣợc ngăn cản hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp khác. Theo quy định của Luật Cạnh tranh Hoa Kỳ thì không chia nhỏ
ba hành vi mà nó quy định gộp cả hai hành vi ép buộc trong kinh doanh vào gây rối
hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên Luật Cạnh tranh Việt Nam đã quy định tách biệt 3
20
hành vi ra thành những hành vi khác nhau thể hiện ở chỗ: Nếu ép buộc trong kinh
doanh sử dụng các thủ đoạn có tính chất côn đồ với khách hàng, với đối tác kinh
doanh của doanh nghiệp khác; nếu gièm pha là việc sử dụng các thông tin không
trung thực về doanh nghiệp khác thì gây rối hoạt động kinh doanh là sử dụng bất cứ
công cụ nào ngoài những thủ đoạn nói trên, thì hành vi gây rối hoạt động của doanh
nghiệp khác có thể đƣợc biểu hiện dƣới hai hình thức:
Thứ nhất, là hành vi nhằm cản trợ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
khác, Hành vi này đƣợc biểu hiện dƣới hình thức nhƣ tác động trực tiếp tới nguồn
cung cấp nguyên liệu, cản trở việc tiêu thụ hàng hóa…
Thứ hai, những hành vi làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Hành vi này biểu hiện dƣới những cách thức nhƣ dụ dỗ, mua chuộc cán bộ, công
nhân viên kỹ thuật có trình độ cao của doanh nghiệp cạnh tranh thôi việc để sang
doanh nghiệp mình làm với mức lƣơng cao hơn, kích động, xúi giục công nhân
doanh nghiệp cạnh tranh đình công, bãi công…
Nhìn chung gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác là hành vi có
mục đích xấu trong cạnh tranh. Điều kiện áp dụng đối với hành vi này là:
Chủ thể tiến hành hành vi là doanh nghiệp (trên thực tế, doanh nghiệp có thể
chỉ là chủ mƣu, ngƣời thực hiện là ngƣời giúp sức hoặc theo sự thỏa thuận).
Chủ thể bị gây rối cũng là doanh nghiệp, doanh nghiệp này không nhất thiết
cùng trong quan hệ cạnh tranh với doanh nghiệp tiến hành hành vi (do bản chất của
hành vi cạnh tranh không lành mạnh không nhất thiết phải xét đến hàng hóa, dịch vụ
trong thị trƣờng liên quan.
Hành vi gây rối không phù hợp với chuẩn mực đạo đức kinh doanh thông
thƣờng, nhằm gây rối, cản trở hoặc phá hoại hoạt động kinh doanh bình thƣờng của
doanh nghiệp khác.
1.3.6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Nhƣ chúng ta đã biết, quảng cáo là một trong những phƣơng tiện cạnh tranh
của doanh nghiệp. Mục đích của quảng cáo là để giới thiệu, khuyếch trƣơng hàng
21
hóa, dịch vụ của doanh nghiệp. Quảng cáo là việc giới thiệu đến khách hàng về hình
ảnh của doanh nghiệp, hoạt động kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ...nhằm cung cấp
thông tin, đẩy nhanh tốc độ giao dịch giữa nhà cung cấp và khách hàng. Quảng cáo
có thể làm cho khách hàng tiềm năng thành khách hàng thực tế của doanh nghiệp.
Ngày nay nhu cầu quảng cáo nhằm giới thiệu sản phẩm đến ngƣời tiêu dùng của
doanh nghiệp ngày càng tăng, đƣợc thể hiện trên phƣơng tiện thông tin đại chúng,
các xuất bản phẩm, các loại bảng biển, pano, áp phích... Điều 102 Luật thƣơng mại
2005 quy định: “Quảng cáo thƣơng mại là hoạt động xúc tiến thƣơng mại của
thƣơng nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ của mình”.
Từ khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, có thể coi quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hành vi quảng cáo không trung thực và không
thiện chí của doanh nghiệp, thƣơng nhân nhằm mục đích cạnh tranh. Không trung
thực thể hiện ở việc cung cấp những thông tin sai lệch, gian dối để lôi kéo khách
hàng. Không thiện chí thể hiện ở việc công kích hoặc lợi dụng hoạt động kinh doanh
của đối thủ để nâng cao vị thế của mình. Nhằm bảo vệ các doanh nghiệp, ngƣời tiêu
dùng và duy trì môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh, Điều 45 Luật Cạnh tranh quy định
cụ thể các hành vi quảng cáo bị cấm sau đây:
- So sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại
của doanh nghiệp khác.
- Bắt chƣớc một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng;
việc bắt chƣớc một sản phẩm quảng cáo khác có thể thông qua hình ảnh quảng cáo,
nội dung quảng cáo… tƣơng tự làm cho ngƣời tiêu dùng nhầm tƣởng sản phẩm đang
quảng cáo là sản phẩm quảng cáo trƣớc đó.
- Đƣa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về giá, số lƣợng,
chất lƣợng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản xuất, nơi sản xuất,
ngƣời gia công, nơi gia công, hoặc cách thức sử dụng, phƣơng thức phục vụ, thời
hạn bảo hành, hoặc các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác.
22
- Các hoạt động quảng cáo khác mà pháp luật có quy định cấm. Đây là một quy
định có tính chất mở của Luật Cạnh tranh năm 2004 để cấm các hoạt động quảng
cáo khác đƣợc quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật ngoài Luật Cạnh
tranh nhƣ Luật Thƣơng mại, Luật Quảng cáo...
Nhìn chung, Luật Cạnh tranh năm 2004 đã có những chế định khá đầy đủ để
điều chỉnh hành vi quảng cáo không lành mạnh. Các hành vi quảng cáo luôn biến
đổi không ngừng và có những biểu hiện hết sức phong phú. Vì vậy, vấn đề hoàn
thiện chế định này cần đƣợc chú trọng.
Tóm lại, những quảng cáo với mục đích cạnh tranh không lành mạnh bao gồm
quảng cáo so sánh nhằm hạ thấp chất lƣợng hàng hóa, dịch vụ của thƣơng nhân khác
(quảng cáo so sánh); quảng cáo hàng hóa của mình trên cơ sở bắt chƣớc, lạm dụng
uy tín của một sản phẩm khác cùng loại (bắt chƣớc, lạm dụng uy tín); sử dụng sản
phẩm quảng cáo hoặc những thông tin có thể gây nhầm lẫn lừa dối khách hàng để dụ
dỗ khách hàng (quảng cáo không trung thực). Những hoạt động quảng cáo nhƣ vậy
bị cấm theo quy định của Luật Cạnh tranh.
1.3.7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Theo khoản 1 Điều 88 Luật Thƣơng mại 2005, khuyến mại là “hoạt động xúc
tiến thƣơng mại của thƣơng nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định”. Trong điều kiện tự
do cạnh tranh, các hoạt động khuyến mại của doanh nghiệp ngày càng trở nên đa
dạng, phong phú, theo đó cũng xuất hiện những thủ thuật khuyến mại nhằm cạnh
tranh không lành mạnh. Khi khuyến mại bị lạm dụng quá mức có thể làm các doanh
nghiệp vừa và nhỏ phá sản. Hệ quả là ngƣời tiêu dùng sẽ không còn cơ hội để lựa
chọn nhà cung cấp khác và doanh nghiệp khuyến mãi sau khi chiếm lĩnh đƣợc thị
trƣờng sẽ bỏ khuyến mãi và có thể áp dụng những điều kiện thƣơng mại bất lợi cho
khách hàng.
Dƣới giác độ kinh tế, khuyến mại mang lại lợi ích trực tiếp và trƣớc mắt cho
khách hàng, làm cho các giao dịch giữa doanh nghiệp và khách hàng đƣợc thúc đẩy.
Do có lợi ích trƣớc mắt, khách hàng bởi các biện pháp khuyến mại cho doanh
23
nghiệp có thể xây dựng và củng cố mối quan hệ với khách hàng tốt hơn. Tuy nhiên
nếu khuyến mại bị lạm dụng nhằm lôi kéo khách hàng, nó có thể gây thiệt hại cho
các chủ thể cạnh tranh khác, đặc biệt là doang nghiệp vừa và nhỏ. Trƣờng hợp
nghiêm trọng, doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể bị phá sản do không thể thực hiện
đƣợc chiến lƣợc cạnh tranh tƣơng ứng. Hệ quả là ngƣời tiêu dùng sẽ không còn cơ
hội lựa chọn nhà cung cấp khác và doanh nghiệp khuyến mại sau khi đã chiếm lĩnh
đƣợc thị trƣờng sẽ bỏ khuyến mại và áp đặt những điều kiện bất lợi với khách hàng.
Pháp luật cạnh tranh tiếp cận khuyến mại ở mặt trái của hành vi, nghĩa là chỉ đề cập
tới khuyến mại có mục đích cạnh tranh không lành mạnh và chúng có thể bị cấm.
Do đó, Điều 46 Luật Cạnh tranh năm 2004 cấm các hoạt động khuyến mại sau
đây:
- Tổ chức khuyến mại gian dối về giải thƣởng. Hành vi này nhằm lôi kéo
khách hàng, ngƣời tiêu dùng tham gia vào chƣơng trình khuyến mại một cách không
trung thực. Hành vi này có thể thực hiện bằng nhiều cách thức nhƣ: không có giải
thƣởng, hoặc có nhƣng không đúng với những gì đã công bố, cách thức lựa chọn
ngƣời trúng thƣởng gian dối đƣa ngƣời ngầm chỉ định nhận giải thƣởng.
- Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa
đối khách hàng. Hành vi này doanh nghiệp đƣa ra những thông tin không đúng đối
tƣợng về khuyến mại, hàng hóa, dịch vụ có kèm theo khuyến mại nhằm lừa dối
khách hàng. Trƣờng hợp này có thể hiểu nếu không có thông tin về khuyến mại gian
dối nhƣ vậy, khách hàng sẽ không lựa chọn sản phẩm của doanh nghiệp.
- Phân biệt đối xử với các khách hàng nhƣ nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến
mại khác nhau trong cùng một chƣơng trình khuyến mại. Đây là hành vi phân biệt
đối xử trực tiếp đến quyền lợi chính đáng của khách hàng, ngƣời tiêu dùng . Doanh
nghiệp đã lạm dụng khuyến mại để thu hút khách hàng mà không thực hiện trao giá
trị khuyến mại bình đẳng giữa họ với trƣờng hợp tƣơng tự.
- Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhƣng lại yêu cầu khách hàng đổi
hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng
để dùng hàng hóa của mình;
24
- Các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật có quy định cấm.
Ngoài ra để xác định một khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh cũng
cần xem xét những dấu hiệu bổ sung sau đây:
-Liệu khuyến mại có giá trị quá lớn trong mối tƣơng quan với giá trị của hàng
hóa, dịch vụ đƣợc cung cấp hay không, chẳng hạn nhƣ “mua 2 tặng 1”?
- Liệu khuyến mại có thời gian quá dài hay không? Nếu khuyến mại trong thời
gian dài, đồng nghĩa với doanh nghiệp bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ giá thấp
nhằm tạo lợi thế cạnh tranh.
- Liệu hàng hóa mua và sản phẩm khuyến mại có quan hệ gần gũi với nhau hay
không? Trong mối quan hệ nếu hàng hóa mua bán và sản phẩm khuyến mại có quan
hệ phụ thuộc vào nhau và với giá trị nhỏ thƣờng chấp nhận.
- Liệu việc đƣa ra khuyến mại có hợp lý về việc thúc đẩy quan hệ mua bán
hàng hóa hay không?
- Liệu khuyến mại có phù hợp với chuẩn mực đạo đức kinh doanh hay không?
Nhƣ vậy, bên cạnh nhƣng mặt tích cực của hoạt động khuyến mại thì nó cũng
đang bộc lộ những hạn chế ngày một nhiều hơn trong nền kinh tế thị trƣờng… Luật
Cạnh tranh năm 2004 đã có những quy định bƣớc đầu tại cơ sở để các cơ quan nhà
nƣớc có thẩm quyền áp dụng trong quá trình đấu tranh chống lại hành vi này.
1.3.8. Phân biệt đối xử của hiệp hội
Việc thành lập các hiệp hội nhằm liên kết giữa các doanh nghiệp độc lập trong
ngành hoặc nghề là nhu cầu phát triển của nền kinh tế hiện đại, tạo ra những sức
mạnh chung để hỗ trợ phát triển kỹ thuật, phát triển thị trƣờng và đầu tƣ trong ngành
nghề đó.
Hiệp hội dƣới giác độ của Luật Cạnh tranh đƣợc hiểu là những tổ chức đƣợc
thành lập trên cơ sở tự nguyện của các doanh nghiệp thành viên có cùng chung
những mục đích cũng nhƣ lợi ích mà các doanh nghiệp riêng lẻ trong quá trình hoạt
động không thể đạt đƣợc. Hiệp hội cũng là nơi cung cấp những thông tin hữu ích về
25
các lĩnh vực trên thị trƣờng trong nƣớc và quốc tế, nơi học hỏi, trao đổi kinh nghiệm
giữa các doanh nghiệp, đồng thời hiệp hội cũng là tổ chức điều phối các hoạt động
của thành viên. Hiệp hội cũng có thể thực hiện nhiều chức năng khách nhau theo tôn
chỉ và mục đích của chúng. Thông qua một hoạt động có tính quản lý chung, hiệp
hội có một số hành vi mang tính quản lý, ấn định các quy tắc, tiêu chuẩn, điều kiện
kỹ thuật, phân chia thị trƣờng...trong sản xuất, kinh doanh. Điều này có thể dẫn đến
những hậu quả hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh trên thị trƣờng.
Hiệp hội cũng là nơi, nguyên nhân dẫn đến những hoạt động mang tính cạnh tranh
không lành mạnh, nếu hiệp hội từ chối việc gia nhập hoặc rút khỏi hiệp hội của các
doanh nghiệp có đủ điều kiện mà từ chối mang tính phân biệt.
Với những đặc điểm riêng về hoạt động của hiệp hội và hậu quả mang tính bất
lợi cho doanh nghiệp có liên quan. Điều 47 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định cấm
hiệp hội nghành nghề thực hiện các hành vi sau đây:
- Từ chối doanh nghiệp có đủ điều kiện gia nhập hoặc rút khỏi hiệp hội nếu
việc từ chối đó mang tính phân biệt đối xử và làm cho doanh nghiệp đó bị bất lợi
trong cạnh tranh.
- Hạn chế bất hợp lý trong hoạt động kinh doanh hoặc các hoạt động khác có
liên quan tới mục đích kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên. Việc hiệp hội
đƣa ra bất kỳ chính sách nào hoặc thực hiện bất kỳ hành vi nào nhằm hạn chế bất
hợp lý hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên của hiệp hội đều bị
coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
- Xem xét trong mối tƣơng quan với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
khác đƣợc quy định trong Luật Cạnh tranh năm 2004 thì hành vi phân biệt đối xử
của hiệp hội của hành vi cạnh tranh không lành mạnh không có hiệp hội (khoản 4
Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004). Mà tính chất của hành vi này là hoạt động tập
thể chứ không phải nhằm vào một đối tƣợng cụ thể. Vậy phải chăng nên xếp hành vi
này vào nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh.
26
1.3.9. Bán hàng đa cấp bất chính
Mặc dù vẫn còn có những ý kiến khác nhau về phạm vi điều chỉnh của Luật
cạnh tranh, trong giai đoạn xây dựng Luật Cạnh tranh cơ quan lâ ̣p pháp đã mở rộng nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh đến cả hoạt động bán hàng đa cấp5.
Có thể hiểu bản hàng đa cấp là một hình thức bán hàng trực tiếp, trong đó hàng
hóa đƣợc bán trực tiếp từ nhà phân phối độc lập đến ngƣời tiêu dùng mà không nhất
thiết phải thông qua địa điểm bán lẻ cố định. Mối quan hệ giữa nhà phân phối và
doanh nghiệp trong mạng lƣới bán hàng đa cấp là mối quan hệ của việc tham gia,
hoặc rút khỏi mạng lƣới bán hàng. Doanh nghiệp là chủ sở hữu hàng hóa, ngƣời
phân phối nhận tiền thù lao từ doanh nghiệp.
Mức thù lao tính trên cơ sở doanh số bán hàng trực tiếp của nhà phân phối và
doanh số của những ngƣời bán hàng cấp dƣới trong mạng lƣới bán hàng của nhà
phân phối.
Cùng với sự phát triển của phƣơng thức bán hàng đa cấp (chân chính), mô hình
kinh doanh kim tự tháp cũng xuất hiện chứa đựng nhiều bất cập liên quan đến quyền
lợi của các thành viên tham gia và khách hàng. Đây là mô hình kinh doanh dễ bị lạm
dụng nhằm thu lợi bất chính. Theo quy định của Luật Cạnh tranh, về nguyên tắc bán
hàng đa cấp không vi phạm pháp luật. Pháp luật chỉ cấm hành vi này khi có dấu hiệu
bất chính.
Việc phân biệt giữa bán hàng đa cấp thông thƣờng và bán hàng đa cấp bất
chính cũng dựa vào tiêu chí, đặc điểm của cạnh tranh không lành mạnh. Ngƣời ta
thƣờng dựa vào các tiêu chí nhƣ: việc thực hiện nghĩa vụ đặt cọc, nguồn gốc tiền
thƣởng, có mua lại hàng hóa đã giao cho ngƣời bán hàng hay không...
Điều 48 Luật Cạnh tranh năm 2004 cấm doanh nghiệp thực hiện các hành vi
bán hàng đa cấp nhằm thu lợi bất chính từ việc tuyển dụng ngƣời tham gia mạng
lƣới bán hàng đa cấp nhƣ sau:
5 Hành vi này cũng đƣợc loại bỏ theo Luật Cạnh tranh năm 2018.
27
- Yêu cầu ngƣời muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lƣợng hàng hóa
ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền để đƣợc tham gia vào mạng lƣới bán hàng đa
cấp. Đặt cọc về bản chất là một trong những biện pháp bảo thực hiện nghĩa vụ dân
sự. Tuy nhiên trong phƣơng thức bán hàng đa cấp, đặt cọc –một biện pháp đƣợc sử
dụng nhƣ là việc buộc ngƣời muốn tham gia phải mua quyền đƣợc tham gia vào
mạng lƣới bán hàng mà không liên quan đến việc đảm bảo thực hiện nghĩa vụ. Thực
tế xảy ra trƣờng hợp doanh nghiệp bán hàng đa cấp yêu cầu ngƣời muốn tham gia
vào mạng lƣới này phải đặt cọc hoặc phải mua một lƣợng hàng hóa ban đầu rồi
chiếm dụng tiền, lừa đảo, thu lợi bất chính từ những ngƣời muốn tham gia mạng bán
hàng đa cấp.
- Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho
ngƣời tham gia để bán lại. Đây là hành vi của thành viên tham gia mạng lƣới bán
hàng đa cấp khi chấm dứt hợp đồng bán hàng đa cấp có thể đƣợc trả lại hàng hóa đã
mua từ doanh nghiệp bán hàng đa cấp và đƣợc nhận lại số tiền tối thiểu bằng 90% số
tiền đã bỏ ra để mua hàng hóa sau khi trừ đi chi phí hợp lý.Việc mua lại hàng hóa
trên nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của ngƣời tiêu dùng và của ngƣời tham gia bán
hàng đa cấp. Tuy nhiên trên thực tế nhiều doanh nghiệp bán hàng đa cấp không cam
kết mua lại hàng hóa mức giá ít nhất 90% giá hàng hóa đã bán cho ngƣời tham gia
để bán lại, gây thiệt hại cho ngƣời tham gia và ngƣời tiêu dùng.
- Cho ngƣời tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thƣởng, lợi ích kinh tế khác chủ
yếu từ việc dụ dỗ ngƣời khác tham gia mạng lƣới bán hàng đa cấp. Ngƣời tham gia
mạng lƣới bán hàng đa cấp phải làm cho hàng hóa đến tay ngƣời tiêu dùng. Nếu
ngƣời này chỉ giới thiệu cho ngƣời khác tham gia vào mạng lƣới bán hàng đa cấp thì
sẽ dẫn đến trƣờng hợp những ngƣời tham gia không quan tâm đến việc bán hàng mà
chỉ tìm cách lôi kéo, dụ dỗ càng nhiều ngƣời tham gia vào mạng lƣới càng tốt để
hƣởng tiền hoa hồng. Những ngƣời bị dụ dỗ đó phải trả tiền mua quyền tham gia vào
mạng lƣới bán hàng nhƣng chƣa chắc đã nhận đƣợc tiền hoa hồng vì chƣa biết có
khả năng bán đƣợc hàng hay không nên họ lại tiếp tục dụ dỗ những ngƣời khác tham
gia vào mạng lƣới. Doanh nghiệp đƣợc lợi vì không cần bán hàng đến tay ngƣời tiêu
dùng mà vẫn tiêu thụ đƣợc hàng hóa với giá cao.
28
- Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lƣới bán hàng
đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ ngƣời khác
tham gia.
Trong những năm gần đây, phƣơng thức bán hàng đa cấp xuất hiện ngày càng
nhiều với quy mô cũng mở rộng hơn tại thị trƣờng Việt Nam. Bởi vậy các hành vi
bán hàng đa cấp bất chính có xu hƣớng gia tăng.
1.3.10. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong một số lĩnh vực khác
Ngoài 9 loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong Luật Cạnh tranh (2004)
bị cấm thì vẫn còn khả năng có những hành vi khác cũng sẽ bị cấm, nếu: về nội hàm,
chúng thể hiện đầy đủ các dấu hiệu của hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đƣợc
định nghĩa trong khoản 4, Điều 3 của Luật này và hành vi đó đƣợc quy định trong
những đạo luật có liên quan khác.
- Hành vi cạnh tranh cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
Nhìn chung săn tìm, nắm bắt, lợi dụng và thậm chí lạm dụng các tài sản trí tuệ,
bất kể đối tƣợng đó đã đƣợc bảo hộ hay chƣa để tạo lợi thế cạnh tranh luôn là động
cơ của chủ thể kinh doanh. Nguyên nhân của điều này là khi sử dụng các đối tƣợng
của quyền sở hữu trí tuệ chủ thể kinh doanh đều có thể giành đƣợc lợi thế cho mình.
Các đối tƣợng của quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là quyền sở hữu công nghiệp nhƣ
nhãn hiệu, bí quyết kỹ thuật, sáng chế...rất dễ bị sử dụng trái phép, làm nhái hàng
hóa nhằm gây nhầm lẫn lừa dối khách hàng.
Để đảm bảo việc sử dụng tài sản trí tuệ nói chung và các đối tƣợng của sở hữu
trí tuệ nói riêng một cách công bằng. Điều 130 Luật sở hữu trí tuệ quy định các hành
vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ bao gồm:
Sử dụng chỉ dẫn thƣơng mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động
kinh doanh, nguồn gốc thƣơng mại của hàng hoá, dịch vụ;
Sử dụng chỉ dẫn thƣơng mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính
năng, chất lƣợng, số lƣợng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện
cung cấp hàng hoá, dịch vụ;
29
Sử dụng nhãn hiệu đƣợc bảo hộ tại một nƣớc là thành viên của điều ƣớc quốc
tế có quy định cấm ngƣời đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng
nhãn hiệu đó mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu ngƣời
sử dụng là ngƣời đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó
không đƣợc sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng;
Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tƣơng tự
gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thƣơng mại đƣợc bảo hộ của ngƣời khác hoặc chỉ
dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi
dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thƣơng mại, chỉ
dẫn địa lý tƣơng ứng.
Trong các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đƣợc điều chỉnh bởi văn bản
pháp luật cuyên ngành, hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu trí
tuệ chiếm tỷ lệ nhiều nhất. Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới
chỉ dẫn thƣơng mại, nhãn hiệu, làm hàng giả... cản trở hoạt động thƣơng mại, gây
tổn hại cho ngƣời tiêu dùng trở thành vấn đề nổi cộm, đặt ra yêu cầu phải giải quyết
nhanh chóng.
- Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong Luật Chuyển giao công nghệ.
Về nguyên tắc, hợp đồng chuyển giao công nghệ là sự thỏa thuận giữa bên
chuyển giao và bên đƣợc chuyển giao đối tƣợng của quyền sở hữu trí tuệ công
nghiệp – công nghệ. Các bên tham gia hợp đồng có quyền tự do thỏa thuận các điều
khoản của hợp đồng và quyền này đƣợc ghi nhận trong pháp luật về hợp đồng.
Luật chuyển giao công nghệ năm 2017 không quy định trực tiếp mà chỉ đƣa
các quy định có liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
chuyển giao công nghệ. Theo đó, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm
(Điều 12 Luật Chuyển giao công nghệ):
- Lừa dối, giả tạo trong việc lập, thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ,
hợp đồng dịch vụ chuyển giao công nghệ, nội dung công nghệ trong hợp đồng, hồ sơ
dự án đầu tƣ.
30
- Cản trở, từ chối cung cấp thông tin về hoạt động chuyển giao công nghệ theo
yêu cầu của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền.
- Tiết lộ bí mật công nghệ trái quy định của pháp luật, cản trở hoạt động
chuyển giao công nghệ.
Ngoài các quy định cơ bản trên, Luật chuyển giao công nghệ cho phép các bên
hầu nhƣ đƣợc tự do thỏa thuận trong hợp đồng chuyển giao công nghệ nhƣ độc
quyền hoặc không độc quyền sử dụng công nghệ, đƣợc chuyển giao lại hoặc không
đƣợc chuyển giao lại, phạm vi lãnh thổ đƣợc bán sản phẩm do công nghệ đƣợc
chuyển giao tạo ra...
-Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng.
Dịch vụ ngân hàng, tài chính là những dịch vụ kinh doanh năng động và đóng
vao trò quan trọng trong việc cung cấp và điều tiết nguồn vốn của thị trƣờng. Tuy
nhiên kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro và cũng dễ bị lạm
dụng để cạnh tranh không lành mạnh làm ảnh hƣởng đến các ngân hàng, tổ chức tín
dụng khác cũng nhƣ khách hàng ngân hàng, tổ chức tín dụng
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng có thể đƣợc
thể hiện bằng hình thức sau đây:
- Khuyến mại bất hợp lý. Ví dụ: Thƣởng giá trị bằng tiền cho khách hàng đến
gửi tiền
- Lôi kéo khách hàng của tổ chức tín dụng khác thông qua việc mua chuộc, dụ
dỗ...bất hợp lý.
- Gièm pha, đƣa thông tin sai sự thật làm tổn hại đến lợi ích của ngân hàng, tổ
chức tín dụng.
- Đƣa thông tin sai sự thật về tình trạng kinh doanh của tổ chức tín dụng gây
bất lợi cho khách hàng có quan hệ kinh doanh với tổ chức tín dụng.
- Đƣa thông tin sai sự thật nhằm thao túng thị trƣờng vàng, ngoại tệ có lợi ích
cho bên đƣa thông tin đó.
31
Tại Điều 9 Luật Các tổ chức tín dụng quy định về cạnh tranh nhƣ sau:
- Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài đƣợc hợp tác và cạnh
tranh trong hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác theo quy định của
pháp luật.
- Nghiêm cấm hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc hành vi cạnh tranh không lành
mạnh có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ
quốc gia, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng, lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Ngoài ra, một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân
hàng khác có thể do chính phủ quy định.
Ngoài các lĩnh vực trên, nhiều lĩnh vực pháp luật khác cũng đƣợc đề cập bổ
sung có liên quan tới hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo đặc thù của ngành
hay lĩnh vực chuyên biệt tƣơng ứng, chẳng hạn nhƣ Luật điện lực, Luật kinh doanh
bảo hiểm, Luật an toàn thực phẩm....Cùng với Luật Cạnh tranh 2004 những quy định
này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hoàn thiện chế định pháp luật về chống
hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đồng thời tạo môi trƣờng pháp lý đảm bảo các
hoạt động cạnh tranh đƣợc diễn ra một cách công bằng, bình đẳng, và trung thực
trên thị trƣờng Việt Nam.
Nhƣ vậy, qua những quy định trên của pháp luật về các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh, chúng ta có thể thấy những quy định này đã bám khá sát vào tình
hình thực tế của các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đang diễn ra tại Việt Nam.
Với định hƣớng tạo lập và duy trì môi trƣờng kinh doanh lành mạnh, Luật Cạnh
tranh đã quy định cấm các loại hành vi này và không có ngoại lệ miễn trừ. Cho đến
nay, trên cơ sở của các quy định về cạnh tranh không lành mạnh, Cục Quản lý cạnh tranh6 đã ra quyết định xử lý nhiều vụ việc liên quan đến hành vi cạnh tranh không
lành mạnh. Tuy nhiên, trên thực tế thì các hành vi cạnh tranh không lành mạnh lại
6 Kể từ năm 2017, cơ quan này đã đổi tên và thay đổi một số chức năng thành Cục Cạnh tranh và bảo vệ ngƣời tiêu dùng (Cục CT&BVNTD). Trừ khi liên quan đến quy định cũ có đề cập tới Cục Quản lý cạnh tranh, trong Luận văn này, cơ quan cạnh tranh sẽ đƣợc sử dụng chủ yếu là Cục CT&BVNTD.
32
diễn ra vô cùng đa dạng và phức tạp. Chính vì vậy cần có sự nghiên cứu và nhận
thức đầy đủ về hành vi cạnh tranh không lành mạnh để có biện pháp xử lý thích hợp
là cần thiết.
33
CHƢƠNG II. HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH, THỰC
TRẠNG XỬ LÝ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM
2.1. Quy định của pháp luật về xử lý đối với hành vi cạnh tranh không
lành mạnh
2.1.1. Thẩm quyền xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Trong hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nƣớc về cạnh tranh, theo quy định
của Luật Cạnh tranh có hai cơ quan là cơ quan quản lý cạnh tranh và hội đồng cạnh
tranh.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì cơ quan quản lý Nhà nƣớc đối với
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là Cục CT&BVNTD. Theo Điều 1 Nghị
định 06/2006/NĐ-CP: “Cục quản lý cạnh tranh là cơ quan trực thuộc Bộ thương
mại, có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ thương mại thực hiện chức năng quản lý Nhà
nước về cạnh tranh, Cục quản lý cạnh tranh có tư cách pháp nhân, kinh phí hoạt
động do ngân sách Nhà nước cấp”. Theo khoản 2 Điều 49 Luật Cạnh tranh 2004, cơ
quan quản lý cạnh tranh có nhiệm vụ, quyền hạn sau:
1- Kiểm soát quá trình tập trung kinh tế theo quy định của Luật này;
2- Thụ lý hồ sơ đề nghị hƣởng miễn trừ, đề xuất ý kiến để Bộ trƣởng Bộ
thƣơng mại quyết định hoặc trình Thủ trƣớng chính phủ quyết định;
3- Điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh và
hành vi cạnh tranh không lành mạnh;
4- Xử lý, xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh;
5- Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào các quy định của Luật này thì có một vấn đề đáng lƣu ý là nếu theo
mục 3 và mục 4 trên đây, cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ có thẩm quyền xem xét và
xử lý cả các vụ việc liên quan tới cạnh tranh không lành mạnh và thậm chí còn có
thẩm quyền xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Nhƣ vậy Cục
CT&BVNTD vừa là cơ quan hành chính thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về
34
cạnh tranh, điều tiết cạnh tranh trên thị trƣờng, đồng thời là cơ quan Tƣ pháp, cơ
quan xét xử đặc biệt đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh đƣợc giải quyết
bởi ban điều tra và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Thẩm quyền của Cục CT&BVNTD thể hiện trọng tâm ở hoạt động điều tra các
vụ việc cạnh tranh liên quan tới hành vi cạnh tranh không lành mạnh, bao gồm cả
việc xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Về bản chất, hành vi cạnh
tranh không lành mạnh là hành vi nhằm vào một hoặc một số đối thủ cạnh tranh nào
đó mà không ảnh hƣởng trong phạm vi rộng lớn của thị trƣờng. Hậu quả của hành vi
này thông thƣờng chỉ xảy ra với đối thủ cạnh tranh. Vì vậy, chế tài áp dụng đối với
hành vi này thƣờng là đình chỉ hành vi và bồi thƣờng thiệt hại (nếu có). Tuy nhiên,
thẩm quyền xử lý, xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh
tranh Việt Nam lại không bao gồm bồi thƣờng thiệt hại xảy ra với các bên liên quan.
Cơ quan quản lý cạnh tranh có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cảnh báo,
tịch thu tang vật, phƣơng tiện sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh, buộc cải
chính công khai, phạt tiền theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật về
cạnh tranh hoặc theo quy định của pháp luật có liên quan đối với hành vi vi phạm
quy định về cạnh tranh không lành mạnh và các hành vi khác vi phạm quy định về
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trƣờng, lạm dụng vị trí
độc quyền hoặc tập trung kinh tế.
2.1.2. Các chế tài áp dụng đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đều trực tiếp hay gián tiếp gây thiệt
hại cho các quan hệ đƣợc pháp Luật Cạnh tranh bảo vệ. Do đó, các chủ thể thực hiện
hành vi này phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý nhất định.
*) Trách nhiệm hành chính:
Việc xử lý hành vi vi phạm về cạnh tranh không đƣợc lành mạnh đƣợc quy
định tại mục 8 Chƣơng V Luật Cạnh tranh năm 2004 và đƣợc hƣớng dẫn chi tiết
trong các Nghị định 105/2005/NĐ-CP, Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21 tháng
7 năm 2014 của chính phủ quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp
35
luật trong lĩnh vực cạnh tranh (tƣ̀ nay go ̣i tắt là Nghi ̣ đi ̣nh 71), cũng nhƣ trong Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính. Khoản 1 Điều 3 Nghị định 71 tại khoản 1 Điều 3 quy
định các hình thức xử phạt chính gồm:
- Cảnh cáo.
- Phạt tiền.
Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về
cạnh tranh còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:
- Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; tƣớc quyền sử dụng giấy
phép, chứng chỉ hành nghề;
- Tịch thu tang vật, phƣơng tiện đƣợc sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh
tranh bao gồm cả tịch thu khoản lợi nhuận thu đƣợc từ việc thực hiện hành vi vi
phạm.
Ngoài các hình thức xử phạt theo quy định nêu trên, doanh nghiệp vi phạm còn
có thể bị áp dụng một hoặc một số biện pháp khắc phục hậu quả sau:
- Buộc cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trƣờng;
- Buộc chia, tách doanh nghiệp đã sáp nhập, hợp nhất; buộc bán lại phần doanh
nghiệp đã mua;
- Buộc cải chính công khai;
- Buộc loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao
dịch kinh doanh;
- Buộc sử dụng hoặc bán lại các sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công
nghiệp đã mua nhƣng không sử dụng;
- Buộc loại bỏ những biện pháp ngăn cản, kìm hãm doanh nghiệp khác tham
gia thị trƣờng hoặc phát triển kinh doanh;
- Buộc khôi phục các điều kiện phát triển kỹ thuật, công nghệ mà doanh nghiệp
đã cản trở;
36
- Buộc loại bỏ các điều kiện bất lợi đã áp đặt cho khách hàng;
- Buộc khôi phục lại các điều khoản hợp đồng đã thay đổi mà không có lý do
chính đáng;
- Buộc khôi phục lại hợp đồng đã hủy bỏ mà không có lý do chính đáng.
*) Trách nhiệm dân sự:
Tổ chức, cá nhân có hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại đến lợi
ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi
thƣờng. Việc bồi thƣờng thiệt hại đƣợc thực hiện theo các quy định của Bộ luật Dân
sự năm 2015.
*) Trách nhiệm hình sự:
Pháp nhân thƣơng mại, cá nhân có hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể
bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại
chƣơng XVIII: “Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” của Bộ luật Hình sự năm
2015 bao gồm: tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 192); tội sản xuất, buôn bán
hàng giả là lƣơng thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (điều 194);
tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú ý,
thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 195), tội vi phạm quy định về
cạnh tranh (Điều 217), tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phƣơng thức đa cấp
(Điều 217a)… Hình phạt có thể áp dụng đối với những ngƣời phạm các tội danh trên
thƣờng là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn.
2.2. Thực trạng xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
2.2.1. Tổng quan xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế thị trƣờng
ngày càng đa dạng và phát triển trên tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh nên viê ̣c
xảy ra các tranh chấp là điều khó tránh khỏi . Việc lựa chọn hình thức giải quyết
tranh chấp nào vừa đảm bảo có lợi cho doanh nghiệp, vừa duy trì các mối quan hệ
làm ăn là việc doanh nghiệp cần cân nhắc. Việc giải quyết tranh chấp dựa trên
37
nguyên tắc quan trọng là quyền tự định đoạt giữa các bên. Cơ quan nhà nƣớc có
thẩm quyền chỉ can thiệp khi có yêu cầu của một trong các bên.
Kể từ khi Luật Cạnh tranh năm 2004 có hiệu lực, Cục QLCT đã thụ lý và giải
quyết một khối lƣợng lớn các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh. Số lƣợng các vụ
việc cạnh tranh không lành mạnh lớn hơn rất nhiều so với vụ việc hạn chế cạnh
tranh. Trong năm 2016, Cục đã tiếp nhận 18 hồ sơ đề nghị tham vấn hoặc phản ánh
đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trong đó chủ yếu là các hành vi bán
hàng đa cấp bất chính (Cục QLCT&BVNTD, 2016, tr. 11). Trong năm 2017, đã ban
hành quyết định điều tra đối với 19 vụ việc liên quan đến 12 hành vi cạnh tranh
không lành mạnh, trong đó có 18 vụ việc đã ban hành quyết định xử lý (thu ngân
sách nhà nƣớc tổng số tiền phạt là 2.691.000.000 đồng) và 01 vụ việc đang trong
quá trình điều tra. Trong 19 vụ việc đƣợc điều tra và xử lý, có 01 vụ việc liên quan
đến hành vi quảng cáo so sánh trực tiếp, 08 vụ việc liên quan đến hành vi quảng cáo
đƣa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho ngƣời tiêu dùng, 10 vụ việc liên quan
đến hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động bán hàng đa cấp (Cục
QLCT&BVNTD, 2017, tr. 17).
*) Thông qua Cục CT&BVNTD:
Lịch sử xây dựng và phát triển của pháp luật cạnh tranh trên thế giới cho thấy
có quan quản lý cạnh tranh có vai trò quyết định trong việc đảm bảo thực thi luật
cạnh tranh có hiệu quả. Mỗi quốc gia, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể
đã xây dựng mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh với đặc điểm riêng biệt, song mục
đích chung của các cơ quan này là đảm bảo thực thi luật cạnh tranh một cách có hiệu
quả.
Cục CT&BVNTD là cơ quan thuộc Bộ Công thƣơng có tƣ cách pháp nhân, có
con dấu và tài khoản riêng. Trụ sở chính đặt tại Hà Nội. Ngoài ra để tăng cƣờng
công quác quản lý của Cục CT&BVNTD còn có thêm hai chinh nhánh tại thành phố
Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng. Các đơn vị trực thuộc gồm: Ban điều tra vụ
việc hạn chế cạnh tranh, Ban giám sát và quản lý cạnh tranh, Ban điều tra và xử lý
hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Ban bảo vệ ngƣời tiêu dùng, Ban xử lý chống
38
bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ, Ban hợp tác quốc tế, Văn phòng, Trung tâm
thông tin, Trung tâm đào tạo điều tra viên.
Chức năng của Cục CT&BVNTD là giúp Bộ trƣởng Bộ công thƣơng thực hiện
quản lý nhà nƣớc về cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng, chống bán phá
giá, chống trợ cấp và tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nƣớc ngoài vào Việt Nam; và
đặc biệt là thực hiện việc điều tra, ra quyết định xử lý hành vi cạnh tranh không lành
mạnh.
Cục CT&BVNTD đã và đang nỗ lực trong mọi hoạt động nhằm thúc đẩy môi
trƣờng cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng
trƣớc những hành vi hạn chế cạnh tranh, tạo môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh hơn
cho sản xuất trong nƣớc, hỗ trợ ngành sản xuất trong nƣớc, phòng chống các vụ kiện
bán phá giá, trợ cấp, tự vệ của nƣớc ngoài và chống các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh là một trong những mục tiêu then chốt của Cục CT&BVNTD.
Luật Cạnh tranh ra đời là cơ sở pháp lý để xây dựng môi trƣờng cạnh tranh
lành mạnh, công bằng thế nhƣng vai trò của nó hầu nhƣ vắng bóng trƣớc hàng loạt
vụ việc. Một thực tế cho thấy từ khi Luật Cạnh tranh ra đời đến nay Cục
CT&BVNTD là cơ quan nhà nƣớc đƣợc giao nhiệm vụ bảo vệ ngƣời tiêu dùng, bảo
vệ doanh nghiệp làm ăn chân chính nhƣng vẫn chƣa làm đƣợc nhiều việc nhƣ kỳ
vọng. Số vụ xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh còn ít, nhiều vụ việc xử lý
chƣa đƣợc dứt điểm.
Các vụ kiện liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh chủ yếu là bán
hàng đa cấp bất chính, quảng cáo sai lệch, thông tin sai lệch về sản phẩm nhằm cạnh
tranh không lành mạnh.
Kết quả thống kê cho thấy số lƣợng các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh
Cục CT&BVNTD đã điều tra và xử lý chƣa nhiều, chƣa tƣơng xứng với nhu cầu,
song phần lớn các vụ việc đã qua giải quyết là đình chỉ điều tra sơ bộ, thƣơng lƣợng
và hòa giải hoặc phạt tiền. Đây cũng có lẽ là nguyên nhân khiến cho nhiều vụ việc vi
phạm cạnh tranh không lành mạnh tiếp diễn và đối tƣợng chịu ảnh hƣởng nhiều nhất
chính là các doanh nghiệp.
39
Qua điều tra tâm lý của các doanh nghiệp khi có tranh chấp xảy ra cho thấy
53,42% doanh nghiệp đƣợc điều tra cho biết đối với các tranh chấp về cạnh tranh họ
sẽ gửi đơn đến tòa án kinh tế chứ không gửi đến Cục CT&BVNTD, trong đó 47%
cho rằng đây không phải là cơ quan tƣ pháp nên phán quyết không có hiệu lực, còn
21,36% doanh nghiệp không kiện tại Cục CT&BVNTD do họ không tin ở khả năng
xét xử công bằng. Ngoài ra một số ý kiến tỏ ra quan ngại về chức năng hành pháp
lẫn chức năng tƣ pháp của Cục CT&BVNTD. Thực tế này cho thấy các doanh
nghiệp vẫn chƣa đề cao vai trò của Cục CT&BVNTD.
Bên cạnh đó, kết quả xử lý cạnh tranh chỉ dừng lại ở việc hòa giải, nhắc nhở
cao hơn là xử phạt hành chính nên tính răn đe còn chƣa cao, đôi khi không đạt đƣợc
mức độ hài lòng củ a bị hại. Chủ trƣơng chung của Cục CT&BVNTD thì việc thực
thi Luật Cạnh tranh không phải chỉ là điều tra hay xử phạt vi phạm mà công việc
chính của cơ quan quản lý cạnh tranh là làm thế nào để các doanh nghiệp không vi
phạm hoặc nếu có và chƣa đến mức quá nặng thì có thể hòa giải với nhau. Tuy nhiên
nhiều chuyên gia lại không đồng tình với ý kiến này. Họ cho rằng chính việc giải
quyết không triệt để kiểu nửa vời này, nghĩa là cứ hòa giải nên nhiều doanh nghiệp
không thiết tha đến khiếu kiện hay nhờ các cơ quan chức năng giải quyết.
Trong thời gian tới dự kiến số lƣợng các vụ cạnh tranh không lành mạnh do
Cục CT&BVNTD tiếp nhận và xử lý tăng lên đáng kể. Do thực tiễn hoạt động thị
trƣờng với tình hình kinh tế suy thoái, các doanh nghiệp sẽ tìm đến các biện pháp
cạnh tranh mạnh mẽ hơn và có thể dẫn đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Bên cạnh đó thông qua hoạt động tích cực tuyên truyền và triển khai điều tra xử lý
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của cục trong thời gian vừa qua, cộng đồng
doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng đã hiểu biết nhiều hơn về pháp luật cạnh tranh và
hoạt dộng điều tra xử lý của Cục, các hoạt động khiếu nại đến Cục vì thế tăng lên
đáng kể.
*) Thông qua Tòa án:
Trong bối cảnh nền kinh tế nƣớc ta chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng, các
tranh chấp kinh tế không đơn thuần là tranh chấp giữa hai chủ thể giao kết hợp đồng
40
kinh tế mà còn là những dạng tranh chấp khác nhau phát sinh trong quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tòa án là một thiết chế nhà nƣớc, hoạt động của
Tòa án là một hoạt động rất đặc biệt, mang tính kỹ thuật cao và cũng tham gia vào
việc xử lý, giải quyết hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên vai trò của
Tòa án trong việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh còn bị hạn chế. Sự
hạn chế đó xuất phát từ nguyên nhân sau:
- Các vụ việc đƣợc giải quyết bằng Tòa án ở Việt Nam thƣờng kéo dài và trải
qua nhiều giai đoạn tố tụng, trải qua giai đoạn xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm (đối
với các vụ có kháng cáo). Trung bình thời gian giải quyết ở mỗi giai đoạn khoảng 04
tháng. Có những vụ lại phải trải qua nhiều lần xét xử nhƣ sơ thẩm, phúc thẩm, giám
đốc thẩm nên thời gian giải quyết có thể kéo dài hàng năm. Do đó ngƣời khởi kiện
có tâm lý e ngại khi giải quyết bằng Tòa án.
- Các vụ về cạnh tranh không lành mạnh thƣờng mang tính chuyên môn cao,
do đó đòi hỏi thẩm phán phải là ngƣời có trình độ chuyên môn và hiểu biết sâu rộng
về lĩnh vực này, số thẩm phán đáp ứng yêu cầu này còn hạn chế ở Việt Nam.
- Vấn đề bồi thƣờng thiệt hại trong các vụ việc về cạnh tranh không lành
mạnh thƣờng đƣợc đặt làm yếu tố trọng tâm. Song Bộ luật dân sự lại không quy định
phƣơng thức bồi thƣờng cho bị hại mà chỉ quy định vào căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thƣờng thiệt hại. Vấn đề xác định mức độ thiệt hại là vấn đề phức tạp, khó
đạt đƣợc độ chính xác. Do vậy trong nhiều trƣờng hợp không đạt đƣợc mức độ thỏa
đáng cho cả phía ngƣời có hành vi vi phạm và ngƣời bị hại.
- Hiện nay cũng chƣa có một phƣơng thức giải quyết tranh chấp nào đƣợc
quy định cụ thể khi có tranh chấp xảy ra giữa ngƣời tiêu dùng và doanh nghiệp. Do
vậy ngƣời tiêu dùng khó có thể kiện thẳng lên Tòa án khi quyền lợi của họ bị xâm
phạm.
*) Các vụ việc do các cơ quan khác xử lý:
Trong năm 2008, theo thống kê của Cục CT&BVNTD từ thông tin các cơ
quan hữu quan cung cấp, thực tiễn xử lý các vụ việc liên quan nhƣ sau:
41
- Trong năm 2008, theo thông tin từ Cục sở hữu trí tuệ, cơ quan này đã đánh
giá và cho ý kiến chuyên môn về hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến
quyền sở hữu trí tuệ căn cứ theo đề nghị của các cơ quan, tổ chức liên quan. Cần lƣu
ý, Cục sở hữu trí tuệ là cơ quan quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, tuy
nhiên cơ quan này không có chức năng xử lý vi phạm. Do đó, căn cứ thực hiện
khiếu nại theo thủ tục hành chính hoặc khởi kiện ra Tòa án để bảo vệ quyền lợi của
mình.
- Thanh tra Khoa học công nghệ: theo thông tin từ thanh tra Bộ khoa học công
nghệ, hoạt động của cơ quan này trong thời gian vừa qua tập trung vào các hành vi
xâm phạm quyền, số lƣợng vụ việc cạnh tranh không lành mạnh không nhiều. Một
trong những nguyên nhân dẫn đến số lƣợng vụ việc cạnh tranh không lành mạnh
không nhiều là do thủ tục khiếu nại theo pháp luật về sở hữu trí tuệ có nhiều điểm
phức tạp khiến việc thực hiện gặp khó khăn. Cụ thể trong năm 2008, thanh tra Bộ
khoa học công nghệ mới chỉ tiếp nhận 1 vụ việc khiếu nại về cạnh tranh không lành
mạnh, tuy nhiên sau đó không xử lý do bên khiếu nại rút đơn.
Thanh tra các sở khoa học công nghệ tại địa phƣơng cũng có tiếp nhận và xem
xét một số vụ việc khiếu nại về cạnh tranh không lành mạnh, tuy nhiên do quy định
về thủ tục giải quyết còn chƣa rõ ràng nên chƣa xử lý vụ việc nào trong thực tiễn.
- Lực lƣợng quản lý thị trƣờng: đây là lực lƣợng chịu trách nhiệm chính trong
việc kiểm tra và xử lý gian lận thƣơng mại và các vi phạm khác trong hoạt động
thƣơng mại trên thị trƣờng. Trong năm 2008, số lƣợng vụ việc do lực lƣợng quản lý
thị trƣờng rất lớn, tuy nhiên tập trung chủ yếu vào các vi phạm về hàng giả, hàng
lậu, không có thông tin về vụ việc liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành
mạnh.
Nhận xét:
Trong điều kiện kinh tế thị trƣờng nƣớc ta hiện nay ngoài việc giải quyết tranh
chấp cạnh tranh không lành mạnh thông qua Cục CT&BVNTD hay Tòa án còn
thông qua trọng tại hay thƣơng lƣợng, hòa giải. Với phƣơng thức thƣơng lƣợng, hòa
giải có ƣu điểm là đơn giản, gọn nhẹ, ít tốn kém. Song nhƣợc điểm của phƣơng thức
42
này là tính cƣỡng chế không cao và phụ thuộc nhiều vào sự thiện chí của hai bên.
Với phƣơng thức trọng tài có tính linh động, chủ động, nhanh chóng, tiết kiệm thời
gian, đảm bảo bí mật song phƣơng thức này chi phí tƣơng đối cao và không phải lúc
nào cũng trôi chảy thuận lợi nhƣ thi hành bản án của Tòa án.
Do vậy, mặc dù số lƣợng các vụ cạnh tranh không lành mạnh tƣơng đối nhiều
nhƣng các doanh nghiệp Việt Nam vẫn có thói quen khởi kiện đến Tòa án và những
năm gần đây một số vụ việc thông qua Cục CT&BVNTD. Song các cơ quan này
chƣa phát huy đƣợc hết năng lực để tƣơng xứng với nhu cầu thực tế.
Từ khi Luật Cạnh tranh ra đời đến nay, Cục CT&BVNTD vẫn chƣa phát huy
đƣợc hết tác dụng nhƣ mong đợi. Số lƣợng các vụ việc Cục tiếp nhận còn quá ít, chủ
yếu các vụ liên quan đến bán hàng đa cấp và quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh. Trong số các vụ đƣợc cục tiếp nhận thì chỉ một số vụ có kết luận cuối cùng,
một số ít vụ chỉ dừng lại ở việc điều tra sơ bộ hay trả lại hồ sơ cho ngƣời khởi kiện.
Các doanh nghiệp khi bị xâm phạm thì cũng không hào hứng với việc khiếu
kiện lên Cục CT&BVNTD do thời gian khiếu kiện dài, kết quả xử lý chỉ là xử phạt
hành chính nên mức độ răn đe còn chƣa cao. Hơn nữa thẩm quyền xử lý tranh chấp
của Cục CT&BVNTD còn chƣa cao do tính độc lập chƣa coi trọng, trong quá trình
xử lý phụ thuộc nhiều vào bộ, ngành khác.
Trong thời gian gần đây, cộng đồng doanh nghiệp cũng nhƣ bộ ngành khác đã
hiểu hơn về Luật Cạnh tranh năm 2004 cũng nhƣ vai trò của Cục CT&BVNTD, do
vậy số lƣợng vụ việc tiếp nhận của Cục tăng lên đáng kể.
Việc xử lý cạnh tranh không lành mạnh tại Tòa án có ƣu điểm là công khai,
minh bạch, có tính cƣỡng chế cao song nó có nhƣợc điểm là thời gian giải quyết kéo
dài, trải qua nhiều giai đoạn tố tụng gây tâm lý nặng nề cho ngƣời khởi kiện cũng
nhƣ ngƣời bị kiện. Thêm vào đó, hình thức giải quyết này không đảm bảo tính bảo
mật cho những doanh nghiệp có những thông tin quan trọng.
Ngƣời bị hại dù có quyết định đệ đơn kiện bằng con đƣờng nào thì cũng phải
cân nhắc đến các yếu tố trên để giảm thiểu thiệt hại cũng nhƣ công sức của cho
43
doanh nghiệp mình. Pháp luật cũng cần có cơ chế thông thoáng hơn để tạo điều kiện
tốt nhất cho bị hại và cộng động ngƣời tiêu dùng có thể dễ dàng đệ đơn kiện lên các
cơ quan thực thi pháp luật đầu tranh đòi quyền lợi chính đáng cho mình cũng nhƣ
loại bỏ những hành vi cạnh tranh không lành mạnh cho nền kinh tế.
2.2.2. Một số vụ việc cụ thể về xử lý các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh
Vụ việc 1: Vụ việc quảng cáo so sánh trực tiếp sản phẩm thức ăn chăn nuôi
Tháng 12 năm 2016, nhận đƣợc đơn khiếu nại của Công ty TNHH Kim Lợi
Đại Thành cho rằng Công ty TNHH Woosung Việt Nam đã tổ chức hội nghị khách
hàng trong đó có so sánh trực tiếp sản phẩm của mình với sản phẩm của Công ty
TNHH Kim Lợi Đại Thành.
Tháng 01 năm 2017, tiến hành điều tra vụ việc. Kết quả điều tra cho thấy:
Bên bị điều tra đã tổ chức sự kiện “sử dụng hiệu quả thức ăn chăn nuôi” tại
một nhà hàng ở tỉnh Bến Tre với sự tham gia của hơn 200 khách hàng và hộ nông
dân nuôi heo.
Tại sự kiện, bên bị điều tra đã phát cho khách hàng các tài liệu “cân heo đối
chứng”, trong đó có thông tin so sánh sản phẩm thức ăn chăn nuôi của mình với sản
phẩm thức ăn chăn nuôi của của Công ty TNHH Kim Lợi Đại Thành và kết luận sản
phẩm của mình có hiệu quả tốt hơn sản phẩm của của Công ty TNHH Kim Lợi Đại
Thành.
Căn cứ kết quả điều tra, xác định bên bị điều tra đã thực hiện hành vi quảng
cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh dƣới hình thức so sánh trực tiếp hàng hóa,
dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác, vi phạm
quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật Cạnh tranh. Theo đó, ban hành quyết định xử lý
vụ việc, trong đó phạt Công ty TNHH Woosung Việt Nam với mức phạt 70.000.000 đồng (Cục QLCT&BVNTD, 2017)7.
7 Cục QLCT và Bảo vệ NTD, Báo cáo thường niên 2017, trang 10.
44
Vụ việc 2: Trường hợp của Công ty cổ phần Dược Traphaco, địa chỉ 75 Yên
ninh -Ba Đình – Hà Nội là chủ sở hữu của giấy chứng nhận số 03763 đối với sản
phẩm thuộc nhóm 5, trong đó có dòng nƣớc súc miệng T-B đang đƣợc tiêu thụ tại
Việt Nam gần 10 năm nay. Sản phẩm nƣớc súc miệng T-P của Công ty TNHH
Hoàng Hƣơng với thiết kế nhãn hàng hóa gắn ngoài chai nƣớc tƣơng tự với sản
phẩm nƣớc súc miệng T-B của Công ty Traphaco đã gây nhầm lẫn cho ngƣời tiêu
dùng tại Việt Nam và ảnh hƣởng nghiêm trọng tới uy tín, quyền lợi chính đáng của
chủ nhãn hiệu. Theo quyền sở hữu đã đƣợc đăng ký của Traphaco, mẫu sản phẩm
nƣớc súc miệng T-B của Công ty (dƣới chai nhựa thể tích 500 ml), có màu trắng và
xanh nhạt. Nhìn từ chính diện, chữ T-B đƣợc viết hoa, màu đỏ. Nhìn sang bên phải
là hình miệng 1 cô gái đang cƣời với hàm răng trắng thể hiện công dụng của sản
phẩm - đây là một yếu tố mang tính phân biệt cao của sản phẩm T-B, phía trên là
công ty Traphaco và địa chỉ. Phía sau của nhãn hàng hóa là phần ghi công thức (acid
boric 15 g; tá dƣợc, gồm tinh dầu quế, bạc hà, nƣớc), mã số, mã vạch, số đăng ký, lô
sản xuất và hạn dùng.
Trong khi đó công ty TNHH Hoàng Hƣơng ở số 6, ngõ 111, Láng Hạ, Đống
Đa tiến hành sản xuất sản phẩm nƣớc súc miệng T-P. Về mẫu sản phẩm nƣớc súc
miệng T-P của công ty TNHH Hoàng Hƣơng (cùng dạng chai nhựa, thể tích 500ml),
nƣớc trong suốt. Phần nhãn hàng hóa đƣợc thể hiên trên nền màu xanh nhạt tƣơng tự
với sản phẩm T-B. Nhìn từ chính diện chữ T-P đƣợc viết hoa màu đỏ. Bình thƣờng
nếu không đọc rõ 2 chữ này thì rất dễ gây nhầm lẫn, bên dƣới chữ P là chữ 500ml
màu đỏ. Nhìn sang phía bên phải là phần trình bày giống hệt sản phẩm T-B cũng là
hình miệng một cô gái đang cƣời với hàm răng trắng, các yếu tố khác đều trình bày
tƣơng tự, chỉ khác phần tên công ty và địa chỉ mà thôi…
*) Xử lý vụ việc: Tại công văn số 521/SHTT-TTKN ngày 22/3/2006, Cục sở
hữu trí tuệ xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh của Công ty TNHH Hoàng
Hƣơng vi phạm khoản 1 Điều 29 Nghị định 59/2000/NĐ-CP ngày 3/10/2000 của
Chính phủ về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn
địa lý và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công
nghiệp mà tại khoản 1 Điều 39 và Điều 40 của Luật Cạnh tranh. Ngày 13/6/2006
45
Chi cục quản lý thị trƣờng thành phố Hà Nội đã lập biên bản và ra quyết định xử
phạt vi phạm hành chính 10.000.000đ theo khoản 2 điểm a Điều 50 Nghị định 120-
2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ.
Vụ việc 3: Nước tương Chin-su quảng cáo, khuyến mại nhằm cạnh tranh không
lành mạnh
Ngày 15/7/2007, Hiệp hội lƣơng thực thực phẩm TP. Hồ Chí Minh đã có công
văn gửi Sở công thƣơng TP. Hồ Chí Minh phản ánh chƣơng trình quảng cáo, khuyến
mại sản phẩm nƣớc tƣơng Tam thái tử vi phạm luật cạnh tranh, gây hiểu lầm cho
ngƣời tiêu dùng về các nhãn hiệu nƣớc tƣơng khác. Cụ thể chƣơng trình quảng cáo
này giới thiệu một em bé gái cầm chai nƣớc tƣơng có cặn rồi hỏi: “Nƣớc tƣơng này
có cặn, có dùng đƣợc không mẹ?” Ngay sau đó, đài chiếu chai nƣớc tƣơng nhãn hiệu
Tam thái tử với lời thuyết minh: “Nƣớc tƣơng Tam thái tử không độc tố 3-MCPD,
không cặn, đảm bảo sức khỏe”. Đặc biệt tham gia chƣơng trình này khách hàng sẽ
đƣợc tặng miễn phí hàng ngàn chai nƣớc tƣơng Tam thái tử không cặn với điều kiện
hết sức dễ dàng. Chỉ cần mang chai nƣớc tƣơng đang sử dụng thuộc bất kì nhãn hiệu
nào và còn ít nhất ¼ chai cùng tờ rơi có điền đầy đủ thông tin đến các điểm đổi là
nhận đƣợc ngay 1 chai Tam thái tử mới. Về mặt đạo đức kinh doanh, đây là hình
thức kinh doanh, cạnh tranh không lành mạnh. Còn về mặt pháp lý, chƣơng trình
quảng cáo khuyến mãi trên có hành vi vi phạm luật cạnh tranh.
*) Xử lý vụ việc: Ngày 9/7/2007, Sở Công thƣơng tỉnh An Giang đã có công
văn đề nghị Công ty TNHH Thiết kế quảng cáo Sao Ban Mai- đơn vị thực hiện
chƣơng trình quảng cáo cho nhãn nƣớc tƣơng Tam thái tử chấm dứt ngay chƣơng
trình dự định tổ chức tại chợ Long Xuyên. Việc chấm dứt phải công bố công khai tại
nơi tổ chức khuyến mãi hoặc ít nhất trên một phƣơng tiện thông tin đại chúng. Sở
công thƣơng An Giang cho biết việc đình chỉ nƣớc tƣơng Tam thái tử khuyến mãi là
do chƣơng trình này vi phạm khoản 9 Điều 100 Luật Thƣơng mại về khuyến mãi
nhằm cạnh tranh không lành mạnh và khoản 4 Điều 46 Luật Cạnh tranh về tặng
hàng hóa nhƣng yêu cầu khách hàng đổi quà cùng loại. Sở Công thƣơng TP. Hồ Chí
46
Minh đã có biện pháp yêu cầu nhà sản xuất nƣớc tƣơng Tam thái tử ngƣng chƣơng
trình quảng cáo, thu hồi toàn bộ tờ rơi.
Vụ việc 4: công ty TNHH Noni Vina quảng cáo sai lệch và bán hàng đa cấp
bất chính:
Công ty TNHH Noni Vina, một công ty phân phối sản phẩm nƣớc trái nhàu ở
Việt Nam. “Để có thể trở thành thành viên cấp I của mạng lƣới phân phối, các phân
phối viên phải mua 1 thùng 4 chai nƣớc Tahitian Noni Juice với giá gốc là 2,7 triệu
đồng, giá phân phối là 3,2 triệu đồng. Nếu thành viên cấp I giới thiệu đƣợc thêm 3
ngƣời khác tham gia vào mạng lƣới (mỗi ngƣời lại đóng 2,7 triệu đồng) thì sẽ đƣợc
hƣởng hoa hồng 20% tổng số tiền những ngƣời này mua sản phẩm, 3 ngƣời sau này
đƣợc coi là thành viên cấp II. Nếu thành viên cấp II này giới thiệu đƣợc thêm 3
ngƣời khác tham gia vào mạng lƣới thì thành viên cấp I sẽ tự động đƣợc hƣởng thêm
5% tổng số tiền mà 3 thành viên cấp III nộp để mua sản phẩm”. Theo tính toán khi
phát triển mạng lƣới đến tầng thứ VIII thì số tiền hoa hồng đƣợc chuyển về tài
khoản của “ngƣời lôi kéo” ban đầu là 56,2 triệu đồng mặc dù ngƣời này không phải
làm gì ngoài việc rủ rê đƣợc 3 ngƣời mới tham gia vào mạng lƣới phân phối. Nhƣ
vậy theo mô hình trả hoa hồng này, thu nhập có đƣợc không phải xuất phát từ việc
bán sản phẩm mà là do chiếm dụng tiền của các thành viên tiếp theo trong mạng
lƣới.
*) Xử lý vụ việc:
- Thời gian: tháng 10-12/2008, vụ việc này đã đƣợc Cục CT&BVNTD khởi
xƣớng và điều tra đối với hoạt động bán hàng đa cấp. Kết quả điều tra là Cục
CT&BVNTD đã xác định đƣợc hành vi của công ty Noni Vina là quảng cáo sai lệch
và buộc ngƣời tham gia đóng tiền để tham gia bán hàng đa cấp.
- Kết quả: quyết định phạt 100 triệu đồng (Quyết định số 118/QĐ-QLCT ngày
30/12/2008).
Vụ việc 5: Tháng 6 năm 2009, Tổng công ty viễn thông quân đội Viettel có văn
bản gửi Cục CT&BVNTD và Thanh tra Bộ thông tin- truyền thông “tố” Mobifone
47
cạnh tranh không lành mạnh8. Theo nội dung đơn cảu Viettel, thời gian qua tại một
số tỉnh miền Tây nhƣ Đồng Tháp, Sóc Trăng, Hậu Giang, Cần Thơ… xuất hiện các
poster quảng cáo giá cƣớc dịch vụ mới của Mobifone. Các poster này đã in thông tin
từ một bài báo so sánh giá cƣớc của Mobifone thấp hơn giá cƣớc của Viettel 10
đồng/phút ở tất cả gói cƣớc tƣơng ứng giữa 2 mạng và ở cƣớc thuê bao trả sau thì
thấp hơn 1000 đồng/tháng. Nghiêm trọng hơn Mobifone còn thực hiện chƣơng trình
“đổi sim mạng khác lấy sim Mobifone có 230.000 đồng trong tài khoản”. Cụ thể
khách hàng có Sim của mạng khác còn tài khoản dƣới 15.000 đồng và hạn sử dụng,
có thể đổi miễn phí một Sim Mobizone của Mobifone có sẵn tài khoản 50.000 đồng,
mỗi tháng tặng thêm 15.000 đồng trong 12 tháng.
*) Xử lý vụ việc: Hành vi này của Mobifone đã vi phạm nghiêm trọng pháp
Luật Cạnh tranh khi gián tiếp vi phạm cả hai điều luật là: Cấm quảng cáo so sánh
trực tiếp và tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhƣng lại yêu cầu khách hàng
thay đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang
sử dụng để dùng hàng hóa của mình. Do đó, Mobifone đã phải chấm dứt hành vi
này.
Ngoài các vụ việc trên còn có thể kể đến các tranh chấp nhƣng chƣa đƣợ c xƣ̉ lý triê ̣t để , nhƣ vu ̣ c ông ty Tôn Hoa Sen kiê ̣n công ty thép Nam Kim vì đã tuyển du ̣ng ông Phạm Văn Trung, ngƣờ i làm viê ̣c lâu năm cho Tôn Hoa Sen và tƣ̀ ng giữ chức vụ tổ ng giám đốc củ a công ty này trong vòng 15 ngày. Lý do mà công ty Tôn Hoa Sen đƣa ra là ông Trung là nhân viên lâu năm , lại đã giữ chức vụ quan trọng trong công
ty nên đã nắm giƣ̃ các thông tin mâ ̣t quan tro ̣ng cấu thành bí quyết kinh doanh của Tôn Hoa Sen, nay la ̣i làm viê ̣c cho đối thủ ca ̣nh tranh thì đã vi pha ̣m điều khoản bảo . Ngoài ra , công ty Thép Nam mâ ̣t thông tin và không ca ̣nh tranh trong hơ ̣p đồng Kim cũng đã thƣ̣c hiê ̣n hành vi ca ̣nh tranh kh ông lành ma ̣nh khi đã tuyển du ̣ng ông Trung, mà thực chất của việc tuyển dụng này là nhằm khai thác các kỹ năng và
8 Thị trường viễn thông di động: Ai quản, quản ai, xem tại: https://baomoi.com/thi-truong-vien-thong-di- dong-ai-quan-quan-ai/c/2901984.epi
48
thông tin mà ông Trung có đƣơ ̣c khi làm viê ̣c cho Tôn Hoa Sen 9. Vụ việc này đã kéo dài nhiều năm nhƣng vẫn chƣa có kết luận bằng một bản án của Tòa.
Các vụ việc nêu trên cho thấy tính chất phức tạp của các vụ việc cạnh tranh
không lành ma ̣nh. Các vụ việc này không chỉ liên quan đến pháp luật cạnh tranh , mà
còn cả các ngành luật khác nhƣ luật sở hữu trí tuệ, luâ ̣t dân sƣ̣, luâ ̣t bảo vê ̣ ngƣờ i tiêu dùng, luâ ̣t lao đô ̣ng và thâ ̣m chí cả Hiến pháp.
2.3. Một số vấn đề đặt ra trong việc xử lý, giải quyết hành vi cạnh tranh
không lành mạnh
Xét thực tiễn hoạt động thị trƣờng với nhiều hiện tƣợng cạnh tranh không lành
mạnh trong các lĩnh vực khác nhau, có thể thấy số lƣợng vụ việc do Cục
CT&BVNTD xử lý còn chƣa nhiều. Mặt khác số lƣợng vụ việc liên quan đến cạnh
tranh không lành mạnh do các cơ quan khác xử lý theo thẩm quyền cũng hạn chế.
Trong số các vụ việc đƣợc xử lý số lƣợng vụ việc liên quan đến các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh nhƣ chỉ dẫn gây nhầm lẫn, quảng cáo, gièm pha doanh
nghiệp khác, gây rối hoạt động của doanh nghiệp khác, ép buộc trong kinh doanh…
còn chƣa nhiều.
2.3.1. Về quy định của pháp luật
Về quy định của pháp luật, trong Luật Cạnh tranh Việt Nam chƣa có các văn
bản hƣớng dẫn chi tiết về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nhiều quy định dừng
lại ở mức định tính do chƣa thể định lƣợng gây khó khăn cho việc áp dụng trên thực
tế (chẳng hạn nhƣ Điều 44 Luật Cạnh tranh quy định hành vi gây rối hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp khác là hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián
đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó). Nội dung quy định chƣa cụ thể có
thể gây khó khăn cho cơ quan quản lý, mà còn cho cả các tổ chức, cá nhân liên quan
để trong việc nhận thức, tìm hiểu và vận dụng pháp luật cạnh tranh để bảo vệ quyền
lợi chính đáng của họ. Riêng đối với hoạt động bán hàng đa cấp, do đã có Nghị định
số 110/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/8/2005 về quản lý hoạt động bán hàng
9 Có thể xem tóm tắt diễn biến vụ kiện tại : https://tinnhanhchungkhoan.vn/doanh-nghiep/hoa-sen-va-cuu-ceo- hai-ben-cung-kien-31138.html (truy câ ̣p ngày 5/12/2018).
49
đa cấp quy định chi tiết về thẩm quyền quản lý nhà nƣớc của Cục CT&BVNTD,
cũng nhƣ các Sở Công thƣơng địa phƣơng, trong đó có thẩm quyền kiểm tra, giám
sát trong lĩnh vực này nói chung, việc điều tra và xử lý vi phạm có rất nhiều thuận
lợi, dẫn đến số lƣợng vụ việc Cục xử lý trong lĩnh vực này nhiều hơn đáng kể (9 trên
tổng số 15 vụ việc).
Việc chồng lấn giữa pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh và các lĩnh vực
pháp luật khác là một điểm cơ bản rất khó thay đổi và đƣợc chấp nhận trong hệ
thống pháp luật của nhiều quốc gia và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Vấn
đề này hiện này cũng đã đƣợc giải quyết cơ bản trong Luật Cạnh tranh năm 2018.
Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam đã thiếu những quy định giải quyết xung đột pháp lý
cũng nhƣ phân định thẩm quyền của các cơ quan thực thi. Tình trạng chồng lấn thẩm
quyền, thiếu khả năng hợp tác hiệu quả của các cơ quan thực thi trong khi luật nội
dung còn chƣa cụ thể đã gây khó khăn rất nhiều cho hoạt động triển khai thực thi
pháp luật, không chỉ đối với Cục CT&BVNTD mà còn đối với cả các cơ quan khác,
thể hiện qua số lƣợng vụ việc liên quan đƣợc các cơ quan khác xử lý nhƣ thanh tra,
hay quản lý thị trƣờng là không nhiều. Lấy ví dụ nhƣ các quy định chống thông tin,
quảng cáo so sánh, nói xấu doanh nghiệp khác, hoặc quảng cáo gian dối, gây nhầm
lẫn tại Pháp lệnh quảng cáo và nhiều văn vản khác đƣợc ban hành trƣớc Luật Cạnh
tranh một thời gian dài, tuy nhiên theo thông tin từ cơ quan thanh tra văn hóa, số
lƣợng vụ việc đƣợc cơ quan này xử lý đến nay vẫn không đáng kể.
2.3.2. Vấn đề giải quyết tranh chấp về cạnh tranh không lành mạnh
Xuất phát từ thực tế các vụ việc về cạnh tranh không lành mạnh xảy ra trong
thời gian qua, có nhiều vụ việc đòi hỏi nhà cơ quan chức năng phải nghiên cứu và áp
dụng cơ chế giải quyết tranh chấp đối với một số vụ việc về cạnh tranh không lành
mạnh. Với cơ chế xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhƣ hiện nay, số vụ
việc đƣợc cơ quan quản lý cạnh tranh xử lý rõ ràng không phản ánh đúng thực trạng
về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đang diễn ra. Điều đó cũng phản ánh
đúng việc thiếu nguồn nhân lực để xử lý triệt để các vụ việc về cạnh tranh không
lành mạnh. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh mới đƣợc tiếp cận chủ yếu theo
50
hƣớng xử lý mà ít trƣờng hợp đi vào giải quyết tranh chấp do khiếu kiện của một
trong các bên.
Theo điều tra về nhu cầu và nguyện vọng giải quyết cạnh tranh xoay quanh
phản ứng của bên vi phạm quyền lợi trƣớc các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
nhƣ sau. Đối với các hành vi kinh doanh làm ảnh hƣởng tới quyền lợi của ngƣời tiêu
dùng thì hầu hết ngƣời tiêu dùng cho biết họ sẽ khiếu nại ngƣời bán nếu hàng hóa có
chất lƣợng không đúng nhƣ quảng cáo. Nếu ngƣời bán không giải quyết thỏa đáng
thì hầu nhƣ không đi kiện vì do sợ mất thời gian và chi phí, một số ít sợ không thằng
kiện hay không biết kiện ở đâu. Đối với hành vi cạnh tranh của đối thủ cạnh tranh,
thì hầu hết các doanh nghiệp bị hại sẽ đi kiện khi bị đối thủ cạnh tranh tung tin thất
thiệt. Tuy nhiên họ chỉ đi kiện khi có bằng chứng rõ ràng về việc đối thủ cạnh tranh
có hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Khi chọn giải pháp đi kiện thì không nhiều
các doanh nghiệp chọn giải pháp khiếu nại ra Cục CT&BVNTD vì họ cho rằng cơ
quan này không phải là cơ quan tƣ pháp nên phán quyết có hiệu lực không cao và
quan trọng là quyền và lợi ích bị vi phạm không đƣợc giải quyết thỏa đáng.
Việc xử lý trƣớc tiên bằng các hình thức xử phạt hành chính đối với các hành
vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ không khuyến khích việc gửi đơn tới cơ quan
quản lý cạnh tranh để bảo vệ quyền lợi cho mình. Họ sẽ mất thời gian và chi phí
theo kiện mà không đƣợc bù đắp về thiệt hại. Đây cũng là nguyên nhân tại sao các
vụ ciệc cạnh tranh không lành mạnh vẫn chƣa đƣợc đƣa tới cơ quan quản lý cạnh
tranh để giải quyết (cho tới 01/09/2006, lần đầu tiên hành vi cạnh tranh không lành
mạnh bị xử lý hành chính trên lãnh thổ Việt Nam bởi thanh tra Bộ Khoa học và
Công nghệ với công ty cổ phần dƣợc phẩm Hà Tây với tổng số tiền phạt là 10,5 triệu
đồng).
Ngoài ra, để khiếu nại hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải trải qua nhiều
khâu: khiếu nại, điều tra không chính thức, điều tra chính thức (tiêu tốn khoảng 5, 6
tháng) sau đó vụ việc mới đƣợc đƣa ra xử lý. Với cách xử lý chậm chạp nhƣ vậy sẽ
không giải quyết đƣợc những vụ vi phạm mang tính thời sƣ̣. Thêm vào đó, quy định
buộc doanh nghiệp khiếu nại phải nộp phí 10 triệu đồng khi đề nghị điều tra hành vi
51
cạnh tranh không lành mạnh cũng là chƣa hợp lí. Thực tế, các doanh nghiệp “nạn
nhân” mực dù thiệt thòi rất lớn về uy tín và tài sản nhƣng họ không muốn ra tòa.
Hơn nữa, không phải lúc nào một hành vi cạnh tranh không lành mạnh diễn ra
cũng bị cơ quan quản lý cạnh tranh phát hiện để xử lý, mà ngƣời phát hiện đầu tiên
hành vi đó phải là chủ thể bị xâm phạm bởi hành vi đó. Nhƣng nếu chủ thể bị xâm
hại đó không khiếu nại tới cơ quan quản lý cạnh tranh và cơ quan quản lý cạnh tranh
không phát hiện ra thì hành vi đó đƣơng nhiên không bị xử lý. Thực trạng này rất dễ
xảy ra trong tình trạng hiểu biết pháp luật của ngƣời dân ở nƣớc ta còn thấp. Lấy ví
dụ nhƣ vị cạnh tranh “hi hữu” bằng mắm tôm giữa hai cửa hàng chuyên kinh doanh
tơ lụa Hadong Silk và Tân Thành Silk. Cửa hàng Tân Thành Silk ở cùng số nhà,
nhƣng do bị khuất bên trong nên bị cửa hàng Hadong Silk giành hết khách. Chủ hiệu
Tân Thành Silk đã dùng hai chậu mắm tôm và lòng lợn thối trong nhà, dùng quạt
công nghiệp và quạt hơi ra ngoài khiến khách hàng không thể chịu nổi mùi hôi thối
đã bỏ đi. Hậu quả là cửa hàng Hadong Silk bị ảnh hƣởng mất khách hàng, thiệt hại
trong 2 tháng liền lên tới năm, sáu chục triệu đồng. Khi đƣợc hỏi về cách xử lý vụ
việc thì ông phó chủ tịch Ủy ban nhân dân phƣờng Hàng Gai (Hoàn Kiếm – Hà Nội)
trả lời “… Phƣờng không biết dựa vào văn bản nào để xử lý cả…”. Các cơ quan
chức năng cũng lâm vào tình trạng tƣơng tự. Đây là những thách thức rất lớn đặt ra
trong quá trình xử lý, giải quyết tranh chấp phát sinh do hành vi cạnh tranh không
lành mạnh
2.3.3. Vấn đề “Tố tụng kép” trong việc bồi thường thiệt hại
Luật Cạnh tranh không phân chia riêng biệt thẩm quyền xử lý các vụ vi phạm
pháp Luật Cạnh tranh không lành mạnh cho Tòa án dân sự mà giao cho Cục
CT&BVNTD trực tiếp xử lý. Vấn đề này cũng chƣa đƣợc thay đổi theo Luật Cạnh
tranh năm 2018. Theo quy định tại Điều 118, khoản 2 Luật Cạnh tranh: “Đối với
hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh không lành mạnh và các hành vi khác vi
phạm quy định của Luật này không thuộc trường hợp tại khoản 1 Điều này, cơ quan
có thẩm quyền xử phạt tiến hành phạt tiền theo quy định của pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính hoặc theo quy định của pháp luật có liên quan”. Nhƣ vậy về cơ
52
bản hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ đƣợc xử lý theo pháp luật hành chính.
Trƣớc đó, Điều 117 có quy định: “Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về
cạnh tranh gây thiệt hại tới lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân khác thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật”.
Ngƣời ta có thể hiểu đƣợc rằng, bên bị thiệt hại muốn đƣợc bồi thƣờng thiệt hại phải
kiện ra Tòa dân sự (Toà án nhân dân) để bù đắp thiệt hại bởi hành vi cạnh tranh
không lành mạnh. Nhƣ vậy sẽ cần 2 giai đoạn tố tụng riêng biệt để bảo vệ quyền và
lợi ích của mình.
Hơn nữa, khi xem xét vụ việc cạnh tranh không lành mạnh, các Tòa án Việt
Nam có xu hƣớng xem xét cả nội dung lẫn hình thức vụ việc. Trong trƣờng hợp này
ngƣời khiếu nại về cạnh tranh không lành mạnh sẽ phải thực hiện liên tiếp hai thủ
tục tố tụng tại cơ quan quản lý cạnh tranh (để đình chỉ vi phạm) và Tòa án (để yêu
cầu bồi thƣờng thiệt hại). Có thể thấy cách làm nhƣ vậy tƣơng đối phức tạp, mất thời
gian, mặt khác còn đặt ra vấn đề thẩm quyền của Tòa án xử lý.
2.3.4. Vấn đề văn hóa, thói quen kinh doanh
Văn hóa và thói quen kinh doanh của doanh nghiệp là một trong những yếu tố
quan trọng có ảnh hƣởng lớn hành vi kinh doanh và có thể dẫn tới hành vi cạnh
tranh lành mạnh (hoặc không lành mạnh). Văn hóa và thói quen kinh doanh không
chỉ là yếu tố giúp doanh nghiệp tạo dựng uy tín mà còn cơ sở nền tảng để doanh
nghiệp cạnh tranh lành mạnh, tôn trọng lợi ích của doanh nghiệp cùng cạnh tranh,
của ngƣời tiêu dùng. Văn hoá và thói quen kinh doanh cũng thể hiện trình độ phát
triển của doanh nghiệp, của quản trị doanh nghiệp và trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp. Thông thƣờng, nếu văn hóa và thói quen kinh doanh của doanh nghiệp thấp,
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, cạnh tranh không công bằng trên thị
trƣờng càng nhiều và ngƣợc lại (Tăng Văn Nghĩa , 2014, tr. 96). Trong điều kiện kinh doanh tại Việt Nam hiện nay – do thời gian chuyển đổi cơ kinh tế (thị trƣờng)
chƣa nhiều, những thói quen kinh doanh tốt chƣa đƣợc nhấn mạnh, nguy xuất hiện
hành vi cạnh tranh không lành mạnh là rất cao do doanh nghiệp luôn đặt mục tiêu lợi
nhuận quá cao.
53
Tóm lại, trên thị trƣờng Việt Nam hiện nay các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh ngày càng nảy sinh phức tạp và tinh vi hơn gây khó khăn cho doanh nghiệp,
ảnh hƣởng tới lợi ích của ngƣời tiêu dùng và làm phƣơng hại tới cả nền kinh tế. Với
thực trạng nhƣ vậy thì vấn đề phát huy vai trò của các cơ quan chức năng, của pháp
luật trong việc ngăn chặn, xử lý doanh nghiệp có hành vi vi phạm pháp luật là hết
sức cần thiết.
54
CHƢƠNG III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT XỬ LÝ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
3.1. Xu hƣớng cạnh tranh không lành mạnh và nhu cầu xử lý tại Việt
Nam.
Trong xu thế chung của nền kinh tế thị trƣờng, trong thời gian tới chắc chắn số
lƣợng các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh do cơ quan cạnh tranh tiếp nhận và
xem xét xử lý dự kiến sẽ tăng lên đáng kể. Do thực tiễn hoạt động thị trƣờng với tình
hình kinh tế có dấu hiệu suy thoái, các doanh nghiệp sẽ tìm kiếm các biện pháp cạnh
tranh mạnh mẽ hơn, có thể dẫn đến các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Mặt
khác, với việc mở cửa nhiều ngành, lĩnh vực kinh doanh để đáp ứng các cam kết của
nƣớc ta trong việc hội nhập WTO cũng nhƣ các hiệp định thƣơng mại tự do thế hệ
mới (FTA), các doanh nghiệp, tập đoàn nƣớc ngoài sẽ tham gia sâu rộng hơn vào
đời sống kinh tế trong nƣớc, từ đó có thể xuất hiện các dạng thức cạnh tranh mới,
đòi hỏi cơ quan quản lý có sự nghiên cứu, đánh giá cả hai mặt tích cực, tiêu cực và
đề xuất các biện pháp điều chỉnh nếu cần thiết.
Tỷ lệ các vụ việc do Cục CT&BVNTD chủ động tiến hành điều tra sẽ giảm đi,
đồng thời các vụ việc điều tra theo khiếu nại của các bên liên quan sẽ gia tăng. Xu
hƣớng này phù hợp với bản chất của yêu cầu điều chỉnh các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh. Do cơ chế thị trƣờng cho phép các doanh nghiệp tự do hoạt động
kinh doanh và cạnh tranh, họ có thể lựa chọn và sáng tạo nhiều các biện pháp cạnh
tranh đa dạng và phong phú xuất phát từ mục tiêu lợi nhuận. Quy định của pháp luật
cũng nhƣ cơ quan quản lý nhà nƣớc không thể can thiệp quá rộng hoặc quá sâu vào
các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nếu không sẽ kìm hãm động lực phát
triển của các doanh nghiệp trên thị trƣờng. Các hành vi cạnh tranh chỉ bị điều chỉnh,
ngăn chặn khi trở nên thái quá, gây ảnh hƣởng tiêu cực tới lợi ích của các tổ chức, cá
nhân khác và của cả xã hội. Do đó, các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh về dài
hạn sẽ chủ yếu dựa trên cơ sở khiếu nại của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại hoặc đe dọa
bị thiệt hại. Nếu các bên liên quan thể hiện ý chí chấp nhận hành vi cạnh tranh, coi
là hoạt động thực tiễn thông thƣờng trên thị trƣờng, cơ quan quản lý sẽ không xem
xét can thiệp, ngăn chặn hành vi đó.
55
Qua phân tích cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay, thấy các thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh ngày càng tinh vi nên rất khó
kiểm soát. Tuy mức độ gay gắt, quyết liệt chƣa thể bằng các nƣớc phát triển nhƣng
cũng gây nhiều tiêu cực cho nền kinh tế, ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
cùa doanh nghiệp, ngƣời tiêu dùng và lợi ích xã hội nói chung.
Các chủ thể kinh doanh vừa và nhỏ và cạnh tranh lành mạnh chịu sức ép nặng
nề từ các đối thủ tiềm năng về sức mạnh kinh tế cũng nhƣ thủ đoạn cạnh tranh
không lành mạnh. Do vây hơn lúc nào hết, các chủ thể kinh doành này thực sự cần
một môi trƣờng kinh doanh bình đẳng, lành mạnh để tồn tại và phát triển.
Hơn nữa với những quy định của pháp luật hiện hành dù cho có đƣợc thực hiện
nghiêm chỉnh nhƣng cũng chƣa đủ điều kiện về tiền đề pháp lý để chống lại hành vi
cạnh tranh không lành mạnh đã, đang và sẽ diễn ra. Bởi vì các quy định nằm rải rác
ở nhiều văn bản thuộc các lĩnh vực khác nhau, vừa không nêu rõ những dấu hiệu đặc
trƣng của hành vi vi phạm vì thế việc thực thi có nhiều hạn chế.
Bên cạnh những thiếu sót của pháp luật, cơ chế đảm bảo trật tự quản lý cạnh
tranh là nh mạnh cũng chƣa đƣợc xác lập phù hợp, vững chắc. Kinh nghiệm của các nƣớc cho thấy ngay cả khi xây dựng đƣợc một hệ thống cơ quan chuyên trách việc
đấu tranh chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì kết quả vẫn còn nhiều
hạn chế. Trong khi đó ở nƣớc ta hiện nay Cục CT&BVNTD của Bộ công thƣơng
chuyên trách trong lĩnh vực này hoạt động chƣa thật sự hiệu quả.
Cùng những đòi hỏi của việc thực thi thị trƣờng, chúng ta đã là thành viên của
khối ASEAN, APEC, WTO, khu vực mâ ̣u dịch tự do ASEAN (AFTA) cũng nhƣ ký
kết nhiều hiệp định thƣơng mại tự do thế hệ mới... điều đó có nghĩa chúng ta có cơ
hội thúc đẩy giao lƣu kinh tế, thu hút đầu tƣ, chuyển giao công nghệ... vừa phải cam
kết thực hiện mọi tuyên bố, mọi hiệp định về kinh tế của tổ chức đó nhƣ cắt giảm
thuế quan, loại bỏ hạn chế sản lƣợng hàng nhập khẩu, mở cửa thị trƣờng... Điều đó
có nghĩa là nền kinh tế thị trƣờng của nƣớc ta ngày càng phát triển và cơ hội cho các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngày càng gia tăng.
56
Chính vì vậy nhu cầu về xử lý và giải quyết tranh chấp cạnh tranh không lành
mạnh ở nƣớc ta một cách thỏa đáng là tất yếu khách quan. Đòi hỏi chúng ta phải
thiết lập và duy trì trật tự cạnh tranh, chống lại các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh thông qua việc xử và giải quyết nhóm hành vi này một cách hữu hiệu.
3.2. Một số đề xuất cụ thể nhằm đảm bảo hiệu quả việc xử lý và giải quyết
tranh chấp về cạnh tranh không lành mạnh
3.2.1. Về cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp
3.2.1.1. Đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
a) Về khái niệm cạnh tranh không lành mạnh
Với mô hình một luật điều chỉnh cả hành vi hạn chế cạnh tranh và chống cạnh
tranh không lành mạnh đã khép lại những tranh luận của giới khoa học pháp lý xung
quanh việc ban hành một hay nhiều điều luật về cạnh tranh ở Việt Nam khi so sánh
với hệ thống pháp luật cạnh tranh của nhiều nƣớc trên thế giới, mà ở đó pháp luật
cạnh tranh đƣợc ban hành ở nhiều đạo luật (Ở Hoa Kì có ít nhất 6 đạo luật, Trung
Quốc có Luật Cạnh tranh không lành mạnh và Luật kiểm soát độc quyền…)
Nhƣ chúng ta đã phân tích tại phần Chƣơng I về khái niệm cạnh tranh không
lành mạnh tại khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh thì việc cần thiết hiện nay là làm rõ
nội dung “các chuẩn mực thông thƣờng về đạo đức kinh doanh”. Tƣơng tự nhƣ vậy,
Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành
vi của doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại
và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến
quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác” (khoản 6 Điều 3). Về cơ bản,
Luật Cạnh tranh mới không tiếp tục quy định một số hành vi cạnh tranh không lành
mạnh đã đƣợc quy định trong một số luật khác và khẳng định nguyên tắc các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh đã đƣợc quy định tại các luật khác đƣợc thực hiện theo
pháp luật từng ngành đó để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Tuy
nhiên, do nền kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta chỉ mới hình thành nên các thông lệ, tập
quán thƣơng mại tại Việt Nam chƣa đủ thời gian để hình thành các chuẩn mực đạo
đức kinh doanh đƣợc tổ chức, cá nhân cùng nhận thức giống nhau và tự nguyện thực
57
hiện nhƣ những quy tắc xử xự có tính chất bắt buộc, do đó cần làm rõ nội dung này
làm căn cứ thống nhất trong việc xây dựng và áp dụng toàn bộ các quy định về cạnh
tranh không lành mạnh. Có thể xác định các tiêu chí này bằng những nguyên tắc cơ
bản của giao dịch dân sự, thƣơng mại nhƣ:
- Nguyên tắc trung thực.
- Nguyên tắc thiện chí.
- Nguyên tắc hợp tác.
- Nguyên tắc khác (phù hợp với nhu cầu và thực tiễn…)
Trong các loại hành vi đƣợc coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo
quy định của Luật Cạnh tranh, có một số hành vi mà pháp luật của các quốc gia khác
quan niệm là hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhƣng chƣa đƣợc Luật Cạnh tranh
của Việt Nam cụ thể hóa là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Chẳng hạn nhƣ
hành vi chấm dứt đột ngột quan hệ kinh doanh với đối tác mà không đƣợc báo trƣớc
một thời gian hợp lí theo quy định của pháp luật Cộng hòa Pháp là hành vi cạnh
tranh không lành mạnh (Điều L.442-6, I, 5° Bô ̣ luâ ̣t thƣơng ma ̣i ) nhƣng Luật Cạnh
tranh Việt Nam không coi hành vi này là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Các
hành vi bán hàng hóa với giá quá thấp, từ chối giao dịch kinh doanh không có lí do
chính đáng, phân biệt về giá theo pháp luật một số nƣớc cũng có thể xếp vào loại
hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhƣng Luật Cạnh tranh Việt Nam không xếp
vào loại hành vi này mà có lẽ những loại hành vi này chỉ có thể bị xử lý theo các quy
định về phòng chống hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh trong Luật cạnh tranh. Ngoài
ra, nhiều hành vi có chung bản chất nhƣng Luật Cạnh tranh lại tách ra thành các
hành vi riêng biệt nhƣ ép buộc trong kinh doanh, gièm pha doanh nghiệp khác, gây
rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác.
b) Về hướng dẫn thi hành các quy định về chống cạnh tranh không lành mạnh:
Mặc dù Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc hƣớng dẫn, quy định chi tiết
để thực thi Luật Cạnh tranh, song việc hƣớng dẫn vẫn chủ yếu dành cho các quy
định về hạn chế cạnh tranh và tố tụng cạnh tranh. Luật Cạnh tranh mới đƣợc thông
58
qua năm 2018, cho đến nay vấn chƣa có văn bản hƣớng dẫn thi hành. Đây sẽ là
những việc phải đƣợc triển khai trƣớc khi Luật có hiệu lực. Bên cạnh đó, những vấn
đề sau cần phải đƣợc chú trọng giải quyết:
Thứ nhất, loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh nào sẽ đƣợc áp dụng cơ chế
xử lý hành chính nhƣ Luật Cạnh tranh đã quy định. Hiện tại các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh vẫn có thể bị xử lý về mặt hành chính bởi nhiều hình thức khác
nhau mà không đƣợc giải quyết trực tiếp từ các quy định của Bộ luật Dân sự 2015.
Thứ hai, hình thức xử lý hành chính đối với hành vi cạnh tranh không lành
mạnh nhƣ thế nào là phù hợp. Theo quy định tại Điều 117 Luật Cạnh tranh: “hành vi
vi phạm luật này có thể bị xử lý về mặt hành chính nhƣ sau:
- Hình thức xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền
- Hình thức xử phạt bổ sung nhƣ thu hồi giấy đăng kí kinh doanh, tƣớc quyền
xử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, tịch thu tang vật, phƣơng tiện đƣợc xử
dụng để vi phạm pháp luật cạnh tranh”.
Tuy nhiên theo Khoản 2 Điều 119, cơ quan quản lý cạnh tranh chỉ có thể đƣợc
áp dụng hình thức sau: “cảnh cáo, tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi
phạm pháp luật về cạnh tranh, cải chính công khai, phạt tiền theo quy định của
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc theo quy định của pháp luật có liên
quan”. Vấn đề đặt ra ở đây là cơ quan cạnh tranh có quyền buộc chấm dứt hành vi
vi phạm hay không? Thêm vào đó, ngoài các biện pháp mà cơ quan quản lý cạnh
tranh đƣợc quyền áp dụng kể trên, chủ thể có hành vi vi phạm còn có thể bị áp dụng
biện pháp nào khác nhƣ đã quy định tại Điều 117 hay không? Nếu có thì cơ quan
nào có thẩm quyền áp dụng. Đây là những vấn đề cần có hƣớng dẫn cụ thể.
Thứ ba, về thủ tục điều tra, xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Luật
Cạnh tranh đã quy định tƣơng đối rõ trình tự, thủ tục điều tra, xử lý hành vi cạnh
tranh không lành mạnh. Tuy nhiên vẫn còn nhiều nội dung khá quan trọng liên quan
tới chủ quyền và lợi ích của các bên liên quan trong vụ việc chƣa đƣợc Luật đề cập
tới, cụ thể là: Luật Cạnh tranh chƣa hề quy định nghĩa vụ gửi các giấy tờ, hồ sơ
59
khiếu nại cho bên bị khiếu nại biết để trả lời. Luật cũng chƣa quy định thời hạn gửi
các quyết định liên quan đến việc điều tra, xử lý hành vi cạnh tranh không lành
mạnh khi đã có đề nghị của điều tra viên… Việc thiếu các quy định kể trên có thể
dẫn tới sự tùy tiện trong quá trình áp dụng, làm giảm hiệu quả phòng chống các hành
vi cạnh tranh không lành mạnh, vì thế trong thời gian tới cần có văn bản hƣớng dẫn
cụ thể vấn đề này.
c) Về chủ thể bị áp dụng các quy định về chông cạnh tranh không lành mạnh
Thông thƣờng pháp Luật Cạnh tranh tác động đến tất cả các chủ thể tham gia
thị trƣờng tiến hành các hoạt động kinh doanh khi hành vi của họ có dấu hiệu không
lành mạnh. Đối tƣợng áp dụng, theo quy định tại Điều 2 của Luật Cạnh tranh 2004,
bao gồm “các tổ chức, cá nhân kinh doanh (được gọi chung là doanh nghiệp) và các hiệp hội ngành nghề”10. Tuy nhiên khái niệm doanh nghiệp ở trên mới chỉ đƣợc
hiểu theo nghĩa hẹp, cho nên, nhiều nhóm chủ thể khác cũng tham gia thị trƣờng đã
bị bỏ sót. Các văn phòng đại diện và chi nhánh của thƣơng nhân nƣớc ngoài tại Việt
nam, nếu hoạt động của chúng (không phải là kinh doanh) ảnh hƣởng tiêu cực tới
cạnh tranh thì cũng phải chịu sự điều chỉnh của Luật. Đó là chƣa kể đến các loại
hình “bán kinh doanh” khác nhƣ nhà in, nhà xuất bản, các tạp chí, báo chƣa đƣợc coi
là doanh nghiệp theo cách hiểu của Luật Cạnh tranh. Do đó nếu những chủ thể này
thực hiện hành vi cạnh tranh có thể coi là cạnh tranh không lành mạnh theo quy định
của văn bản pháp luật đối với chủ thể đó, thuộc ngành nghề đó, bởi vì không thỏa
mãn yếu tố chủ thể theo quy định của Luật Cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh.
Tuy nhiên, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh của hầu hết các nƣớc
đều theo quy định tất cả các chủ thể tham gia thị trƣờng nhằm mục đích cạnh tranh
đều có thể là đại chỉ áp dụng của Luật chứ không nhất thiết là doanh nghiệp. Pháp
luật chống cạnh tranh không lành mạnh không chỉ điều chỉnh các hành vi của các
10 Luật Cạnh tranh năm 2018, Điều 2 (Đối tƣợng áp dụng) quy định: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh (sau đây gọi chung là doanh nghiệp) bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam”.
60
chủ thể kinh doanh mà còn phải điều chỉnh cả những hành vi của những cá nhân, tổ
chức, cơ quan không phải chủ thể kinh doanh, nhƣng hành vi của họ “ trợ giúp” cho
cạnh tranh của ngƣời khác gây ảnh hƣởng tiêu cực tới môi trƣờng cạnh tranh. Qua
đó, có thể thấy rằng trƣờng hợp một cá nhân nếu tiến hành vi trợ giúp vì mục đích
cạnh tranh của một doanh nghiệp nào đó có dấu hiệu “không lành mạnh” thì cũng
cần đƣợc xem xét để xử lý.
3.2.1.2. Đảm bảo sự hài hòa, tính tương thích giữa các luật liên quan
Để điều tra một vụ việc cạnh tranh nhất là vụ việc cạnh tranh liên quan đến
hành vi lạm dụng luôn phải sử dụng đến kết quả từ quá trình thực thi pháp luật thuế
để tính doanh thu, pháp luật kiểm toán để tính chi phí, thủ tục xử lý hành vi vi phạm.
Do đó sự không phù hợp tƣơng thích với hệ thống luật liên quan đến cạnh tranh sẽ
gây nhiều khó khăn cho quá trình thực thi luật cạnh tranh. Do vậy Luật Cạnh tranh
cần đặt trong mối quan hệ chặt chẽ và đảm bảo sự tƣơng thích với các chế định pháp
luật khách nhƣ Luật kiểm toán, Luật thƣơng mại, Luật thuế... và có sự tham gia của
cơ quan quản lý cạnh tranh trong quá trình soạn thảo hoặc sửa đổi những luật liên
quan sẽ là một nhân tố quan trọng đảm bảo tính tƣơng thích giữa các luật từ khía
cạnh, chính sách cạnh tranh.
Việc Việt Nam đã trở thành thành viên của công ƣớc Paris về bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp và là thành viên chính thức của WTO thì Việt Nam từng bƣớc thực
thi Hiệp định TRIPS. Theo đó các quốc gia khi gia nhập có nghĩa vụ ban hành cả
luật nội dung và luật hình thức với các thiết chế khác để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
một cách có hiệu quả trƣớc hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Với chức năng
thúc đẩy tự do hóa thƣơng mại và diễn đàn cho các cuộc đàm phán thƣơng mại
WTO là tổ chức có sứ mệnh thực hiện chức năng đó. Theo đó các rào cản thƣơng
mại phải đƣợc giảm xuống thấp hơn là một trong những mục tiêu có ý nghĩa nhất
giúp thƣơng mại phát triển. Điều này đòi hỏi các nƣớc thành viên phải thực hiện
“minh bạch hóa”, thúc đẩy “cạnh tranh công bằng”. Bên cạnh đó Việt Nam cần đáp
ứng các nhu cầu hội nhập quốc tế. Pháp luật Việt Nam cần phải có sự phù hợp với
pháp luật quốc tế và khu vực.
61
Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam phải tạo ra môi
trƣờng pháp lý an toàn, bình đẳng cho các chủ thể kinh doanh trên thị trƣờng, phù
hợp với “luật chơi” chung của nền thƣơng mại thế giới.
Bên cạnh đó pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh phải là công cụ thúc
đẩy khả năng cạnh tranh lành mạnh trong nƣớc phát triển, bảo vệ môi trƣờng và các
chủ thể kinh doanh trong nƣớc khỏi bị xâm phạm bởi các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh từ phía các chủ thể kinh doanh nƣợc ngoài đảm bảo hội nhập và phát
triển.
Mặc dù Việt Nam là thành viên của nhiều tổ chức thƣơng mại và kinh tế của
khu vực và thế giới, song việc thƣờng xuyên rà soát, duy trì và tăng cƣờng tính
tƣơng thích và hội nhập với khu vực và thế giới cũng nhƣ các tổ chức thƣơng mại là
hoàn toàn cần thiết.
3.2.2. Hoàn thiện trình tự, thủ tục xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành
mạnh
Khác với các đạo luật khác nhƣ Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình
sự là những Luật mang tính chất hình thức quy định về trình tự, thủ tục giải quyết
các vụ việc dân sự, hình sự thì Luật Cạnh tranh lại vừa mang tính chất nội dung, vừa
mang tính chất hình thức điều chỉnh cả về các hành vi, quan hệ cạnh tranh, cả về
trình tự thủ tục xử lý nội dung, cần thiết phải có những điều chỉnh, hoàn thiện các
quy định về tố tụng cạnh tranh của Luật và các văn bản hƣớng dẫn liên quan nhằm
đảm bảo hiệu lực thực thi pháp luật cạnh tranh.
3.2.2.1. Giải pháp về thẩm quyền giải quyết tranh chấp
Năng lực và thẩm quyền của các cơ quan giải quyết tranh chấp cũng nhƣ
những quy định của Luật Cạnh tranh còn nhiều hạn chế. Vì vậy mặc dù số lƣợng các
vụ việc cạnh tranh không lành mạnh gia tăng với tính chất mức độ ngày càng phức
tạp song một số vụ đƣợc các cơ quan đứng ra giải quyết tranh chấp còn nhiều hạn
chế, chƣa tƣơng xứng với nhu cầu. Mặt khác theo quy định tại khoản 2 Điều 118
Luật Cạnh tranh (2004) quy định: “Đối với hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh
62
không lành mạnh và các hành vi khác vi phạm quy định của luật này không thuộc
quy định tại khoản 1 Điều này, cơ quan có thẩm quyền xử phạt tiến hành phạt tiền
theo quy định của pháp luật về xử lý hành vi vi phạm hành chính hoặc theo quy định
của pháp luật có liên quan”. Do có sự chồng chéo thẩm quyền xử lý hành vi cạnh
tranh không lành mạnh nên doanh nghiệp không biết tố cáo ở đâu, tố cáo nhƣ thế
nào. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến doanh nghiệp ngại tố cáo.
Ví dụ nhƣ trƣờng hợp một doanh nghiệp có hành vi cạnh tranh không lành
mạnh tổng hợp vi phạm từ nhiều hành vi khác nhau nhƣ bản quyền tác giả, nhãn
hiệu hàng hóa... nằm trên bao bì sản phẩm. Khi đó Thanh tra bộ khoa học và công
nghệ chỉ xử lý đến vấn đề liên quan đến bảo hộ thƣơng hiệu hàng hóa. Bộ Văn hóa
thể thao và du lịch xử lý vấn đề liên quan đến quyền tác giả, – Bộ công thƣơng lại
chịu trách nhiệm phát hiện và xử lý hành vi này.
Do vậy Luật Cạnh tranh cần quy định rõ ràng, cụ thể trách nhiệm của từng cơ
quan. Tuy nhiên nếu để một cơ quan chuyên môn duy nhất chuyên môn hóa xử lý
hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì cần phải có quy định đến sự hỗ trợ về mặt
kỹ thuật đặc thù cho từng cơ quan có liên quan.
3.2.2.2. Về bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra
Có thể thấy rằng, Luật Cạnh tranh mặc dù đã có quy định về các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh nhƣng mới chỉ dừng lại ở giác độ cấm đoán hành chính. Vấn
đề bồi thƣờng thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra không đƣợc
quy định trong Luật Cạnh tranh năm 2004 cũng nhƣ Luật Cạnh tranh năm 2018, dù
chỉ là việc dẫn chiếu cụ thể đến pháp luật dân sự. Sự dẫn chiếu tới pháp luật dân sự
chỉ đƣợc quy định theo nghị định hƣớng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh.
Theo quy định của pháp luật dân sự thì vấn đề khởi kiện đòi bồi thƣờng thiệt
hại đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ đƣợc áp dụng theo quy định về
Bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng đƣợc quy định trong Bộ Luật dân sự năm 2015.
Thông thƣờng các chế tài trong Bộ luật dân sự thƣờng nhẹ hơn các luật chuyên
ngành khác. Do đó tính chất răn đe các hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ kém
63
hiệu quả nếu vẫn chƣa có một văn bản dƣới luật nào quy định cụ thể về chế định bồi
thƣờng thiệt hại trong lĩnh vực cạnh tranh không lành lạnh.
Mục đích của chế định cạnh tranh không lành mạnh là bù đắp thiệt hại cho bên
vi phạm bởi các hành vi cạnh tranh đi ngƣợc lại với những tập quán thƣơng mại lành
mạnh gây ra. Các yếu tố của trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại này bắt nguồn từ chế
định bồi thƣờng ngoài hợp đồng đƣợc quy định trong bộ luật dân sự, gồm: Hành vi
cạnh tranh không lành mạnh, lỗi, thiệt hại xảy ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cạnh tranh không lành mạnh và thiệt hại xảy ra11.
Bộ luật Dân sự quy định nguyên tắc, căn cứ trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại
ngoài hợp đồng. Thiệt hại trong cạnh tranh không lành mạnh cũng giống nhƣ trong
Bộ luật Dân sự tức là thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại đó là
trực tiếp và đã xảy ra trên thực tế, không phải là thiệt hại ở dạng khả năng xảy ra.
Theo quan điểm truyền thống trong việc xác định thiệt hại do các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh gây ra thì thiệt hại đƣợc thể hiện thông qua mất đi một lƣợng
khách hàng thƣờng xuyên hoặc mất một số hợp đồng. Chứng cứ thể hiện bằng việc
kinh doanh giảm sút.
Bộ luật dân sự chỉ để cập đến một số trƣờng hợp đƣợc bồi thƣờng nhƣ sau:
- Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm.
- Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm.
- Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm.
- Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
Nhƣ vậy, theo Bộ luật Dân sự, thực tiễn xử lý các hành vi tranh chấp cạnh
tranh không lành mạnh sẽ chƣa có một căn cứ pháp lý cụ thể làm cơ sở xác định
thiệt hại. Hiện nay để xác định mức trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại, chúng ta vẫn
áp dụng cách tính chung giống nhƣ bồi thƣờng thiệt hại với tài sản hữu hình. Thẩm
11 Ngày 28/12, TAND TPHCM đã tuyên án vụ tranh chấp bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng giữa nguyên đơn là công ty Ánh Dƣơng Việt Nam (Vinasun) và bị đơn là Công ty TNHH Grab (Grab), theo đó, Grab phải bồi thƣờng cho Vinasun 4,8 tỉ đồng. Vụ việc đã dấy lên tranh cãi rất lớn về bản án của Tòa án liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
64
phán sẽ chịu trách nhiệm đánh giá tinh chất và mức độ thiệt hại. Đây là công việc
khá phức tạp và mất thời gian bởi vì đƣơng sự phải đƣa ra chứng cứ để chứng minh
tác động của cạnh tranh không lành mạnh đến biên độ giảm doanh thu, mức độ suy
yếu năng lực cạnh tranh và những yếu tố thu hút khách hàng.
Một số cách xác định thiệt hại chính nhƣ sau:
a) Thiệt hại thực tế của đƣơng sự:
Việc xác định thiệt hại thực tế của ngƣời bị thiệt hại dựa trên các thiệt hại thực
tế nhƣ sau:
- Tổn thất về tài sản.
- Mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận.
- Tổn thất về cơ hội kinh doanh.
- Chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại.
Đối với căn cứ xác định thiệt hại về tài sản thì ngƣời bị thiệt hại phải chứng
minh, trong đó sẽ gặp một số trở ngại lớn nhƣ: Với những tài sản vô hình nhƣ danh
tiếng, uy tín công thi thì khó xác định đƣợc tổn thất. Bên bị thiệt hại có trách nhiệm
cung cấp các vấn đề sau Tòa án nhƣ vấn đề tài chính, lợi nhuận công ty...điều này
doanh nghiệp đều muốn bảo mật hay những bí mật kinh doanh nhƣ những thiết kế,
kiểu dáng công nghiệp đang trong quá trình bảo mật cần đƣợc đƣa ra công khai để
tính toán... Do đó để tính toán dựa trên tổn thất này không phải là một lựa chọn khả
thi cho ngƣời bị thiệt hại.
Trong các thiệt hại trên thì mức độ giảm sút về thu nhập và lợi nhuận là một
trong những căn cứ quan trọng nhất để tính toán thiệt hại của nguyên đơn trên thực
tế. Đây cũng đƣợc coi là thiệt hại cơ bản và thƣờng là thiệt hại lớn nhất của nguyên
đơn. Chính vì vậy việc xác định một cách đúng đắn và đầy đủ những tổn thất về thu
nhập và lợi nhuận của nguyên đơn. Điều này giúp nguyên đơn có cơ sở để đƣợc bồi
thƣờng một cách đầy đủ và thỏa đáng trên cơ sở bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp
đồng.
65
Pháp luật và thực tiễn xét xử của nhiều nƣớc trên thế giới cho thấy các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp thì việc xác định lợi
nhuận bị mất của nguyên đơn dựa trên công thức kế toán cơ bản nhƣ sau:
- Lợi nhuận bị mất = (số lƣợng hàng hóa không bán đƣợc do hành vi xâm
phạm) x (lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm).
- Tuy nhiên để áp dụng chính xác công thức này trong một số trƣờng hợp
không phải dễ dàng.
b) Thiệt hại về cơ hội kinh doanh của ngƣời bị thiệt hại:
Tổn thất về cơ hội kinh doanh là thiệt hại chƣa xảy ra trên thực tế tại thời điểm
bị xâm hại mà chắc chắn sẽ xảy ra trong tƣơng lai bởi các hành vi xâm hại Trong
lĩnh vực cạnh tranh không lành mạnh, đặc biệt là các vụ án liên quan đến sở hữu
công nghiệp, ngƣời bị thiệt hại sẽ mất đi những cơ hội thu lợi từ việc khai thác, sử
dụng hoặc kinh doanh đối tƣợng quyền sở hữu công nghiệp do giá trị quyền sở hữu
công nghiệp không còn nữa. Nhận thấy rằng nếu việc xác định những lợi nhuận thu
đƣợc cho rằng chắc chắn nguyên đơn sẽ thu đƣợc nếu không có hành vi xâm phạm
xảy ra là điều khó khăn và phức tạp thì việc xác định những tồn thất xảy ra trong
tƣơng lai còn khó khăn gấp bội do tính giả định của nó. Điều này thực sự khó khăn
cho sự chứng minh của nguyên đơn. Do vậy tính đúng đắn của việc xác định tổn thất
theo căn cứ này hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng của ngƣời bị hại. Trong khi đó
pháp luật của các nƣớc chỉ quy định cơ sở và quyền của ngƣời bị hại chứ không
hƣớng dẫn cụ thể cho ngƣời bị hại thực hiện quyền đó. Do vậy cần có văn bản dƣới
luật quy định và hƣớng dẫn họ thực hiện điều này. Từ đó giúp cho nguyên đơn đƣợc
bồi thƣờng hợp lý nhất, rút ngắn thời hạn tố tụng và giảm chi phí phát sinh cho cả
hai bên nguyên đơn và bị đơn trong quá trình tố tụng.
c) Chi phí ngăn chặn và khắc phục thiệt hại.
Các chi phí hợp lý để ngăn chặn và khắc phục thiệt hại bao gồm: Chi phí cho
việc tạm giữ, bảo quản, lƣu kho bãi đối với hàng hóa bị xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp. Chi phí cho việc thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy
66
định của pháp luật. Chi phí thuê dịch vụ giám định, ngăn chặn, khắc phục hành vi
xâm phạm bản quyền và chi phí cho việc thông báo cải chính trên phƣơng tiện thông
tin đại chúng. Nhìn chung có thể phân chia các chi phí trên thành: Chi phí ngăn chặn
và hạn chế thiệt hại, chi phí tố tụng và chi phí khắc phục thiệt hại.
Chi phí ngăn chặn và hạn chế thiệt hại:
Đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công
nghiệp, các chi phí cho việc tạm giữ, lƣu kho, lƣu bãi đối với hàng hóa bị xâm
phạm, chi phí để thuê dịch vụ giám định đƣợc xếp vào chi phí ngăn chặn và hạn chế
thiệt hại.
Nhìn chung bất cứ chi phí nào phát sinh trong quá trình tiến hành các biện
pháp cần thiết nhằm hạn chế, ngăn chặn hành vi xâm phạm và thiệt hại xảy ra đều có
thể đƣợc xem xét bồi thƣờng trong quan hệ nhân quả với hành vi xâm phạm.
Bên cạnh tính thực tế thiệt hại thì tính hợp lý cũng rất quan trọng. Việc bồi
thƣờng phải ở mức độ hợp lý và phù hợp với quy định của pháp luật, bảo đảm đƣợc
quyền và lợi ích chính đáng của các đƣơng sự trong vụ án.
Thực tế cho thấy mọi mất mát của ngƣời bị hại khó có thể đƣợc xác định và
bồi thƣờng một cách triệt để. Trong nỗ lực nhằm ngăn chặn và hạn chế hậu quả từ
hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra, chủ thể vi phạm có thể tiến hành cùng
một lúc nhiều biện pháp khác nhau và đồng thời chịu chi phí phát sinh liên quan.
Trong những chi phí mà chủ thể vi phạm phải bỏ ra để ngăn chặn và khắc phục thiệt
hại có những chi phí mà chủ thể bị hại có thể chứng minh ngay đƣợc bằng hóa đơn,
chứng từ nhƣng cũng có những chi phí không thể chứng minh bằng hóa đơn chứng
từ. Thông thƣờng chỉ những chi phí đƣợc cho là cần thiết và đƣợc xuất trình hóa
đơn, chứng từ hợp pháp mới đƣợc xem xét bồi thƣờng. Tính hợp lý sẽ đƣợc cân
nhắc trong từng hoàn cảnh cụ thể và phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan, chủ
quan, khả năng của đƣơng sự.
Để có thể xác định đƣợc chi phí hợp lý và hợp pháp đòi hỏi phải có văn bản
dƣới luật hƣớng dẫn của văn bản dƣời luật. Bên cạnh đó cần sự hiểu biết và tính
67
công minh, đạo đức nghề nghiệp của thẩm phán đƣợc đặt lên trên hết để có thể đánh
giá một cách hiệu quả và công minh tránh gây thiệt hại và tổn thất cho cả ngƣời vi
phạm và ngƣời bị vi phạm.
Chi phí tố tụng:
Chi phí tố tụng là những chi phí phát sinh trong quá trình đƣơng sự tham gia tố
tụng tại Tòa án. Chi phí tố tụng có thể bao gồm chi phí thực hiện các biện pháp khẩn
cấp tạm thời, chi phí giám định, án phí, lệ phí tòa án...
Các chi phí thông thƣờng dễ dàng đƣợc chấp nhận xác định để bồi thƣờng
những thiệt hại phát sinh bởi thực tế và cần thiết của nó đã đƣợc Tòa án xem xét
trong quá trình đƣa ra những quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hay
quyết định trƣng cầu giám định thì chi phí đó cũng đƣợc xem xét bồi thƣờng trên cơ
sở tính cần thiết, thực tế và hợp lý.
Chi phí để khắc phục thiệt hại:
Nhằm khôi phục uy tín của ngƣời bị vi phạm thì phải hiệu đính những quảng
cáo bị vi phạm và những quảng cáo gây nhầm lẫn nếu có. Ngƣời có hành vi phạm
luật sở hữu trí tuệ có thể bị Tòa án yêu cầu thực hiện một chiến dịch quảng cảo
nhằm khắc phục sự nhầm lẫn hoặc lừa dối khách hàng do hành vi vi phạm cạnh
tranh không lành mạnh gây ra hoặc phải bồi thƣờng các chi phí quảng cáo thực tế
hoặc dự tính chi phí nhằm khắc phục thiệt hại cho chủ thể bị hại.
Do đó việc xác định các chi phí cho hoạt động này trƣớc hết cần đảm bảo các
mục tiêu trên nhƣng vẫn phải đảm bảo tính hợp lý của nó.
Bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời tiêu dùng:
Việc xác định mức độ bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời tiêu dùng do hành vi
cạnh tranh không lành mạnh gây ra là tƣơng đối phức tạp. Ngƣời ta chỉ có thể xác
định đƣợc thiệt hại định tính, còn về mặt định lƣợng, để xác định đƣợc mức độ thiệt
hại một cách chính xác thì rất khó và cần phải có thời gian lâu dài. Hơn nữa không
thể xác định đƣợc thiệt hai cho từng khách hàng trong một số lƣợng rất đông khách
hàng. Tác giả xin đề xuất nhƣ sau:
68
Với những khách hàng nào chứng minh đƣợc mình đã mua phải những hàng
giả, hàng kém chất lƣợng, giá thành quá cao so với thị trƣờng...do những hành vi
cạnh tranh không lành mạnh thông qua phiếu mua hàng, hóa đơn...thì nên có quy
định mức độ bồi thƣờng cho những khách hàng đó nhƣ hoàn lại một phần hay toàn
bộ tiền hàng, đổi lại hàng chất lƣợng...
Ngoài việc bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời tiêu dùng theo hình thức trên và để
đảm bảo công bằng cho tất cả khách hàng cần có một quy định và hƣớng dẫn đề
ngƣời vi phạm phải nộp phạt một khoản tiền bồi thƣờng cho ngƣời tiêu dùng thông
qua một quỹ phúc lợi xã hội chung.
d) Sử dụng thực tiễn tƣ pháp trong việc giải quyết vụ việc cạnh tranh không
lành mạnh.
Sử dụng thực tiễn tƣ pháp trong việc giải quyết tranh chấp đã và đang trở thành
một xu hƣớng ở nhiều nƣớc trên thế giới và ngày càng bộc lộ nhiều ƣu điểm của nó.
Có thể khẳng định Luật Cạnh tranh của các nƣớc trên thế giới nói chung và của
Việt Nam nói riêng vẫn còn nhiều khe hở. Pháp Luật Cạnh tranh không thể liệt kê
đƣợc hết các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong khi đó cách hành vi diễn ra
ngày càng nhiều và đa dạng, mức độ tinh vi ngày càng cao, do vậy pháp luật không
thể bao trùm hết đƣợc.
Các điều tra viên phải đối diện những vụ việc thực tế chƣa xảy ra ở Việt Nam,
những vụ việc mang tính chất mới mẻ cũng nhƣ không đƣợc quy định rõ ràng trong
luật. Do vậy các vụ việc xử lý cạnh tranh không lành mạnh nếu có thể phải đƣợc
tuyên bố công khai để cơ quan chức năng cũng nhƣ công chúng có đƣợc thông tin
cũng nhƣ có đƣợc căn cứ để xử lý những vụ việc tƣơng tự xảy ra sau này.
Có những nguyên nhân sau dẫn đến xu thế này:
Các quy định của pháp luật có liên quan cạnh tranh thƣờng khá chung chung,
chủ yếu dừng lại ở những vấn đề có tình nguyên tắc, trong khi vụ việc cạnh tranh
trong thực tế lại đa dạng, muôn màu muôn vẻ với những tình tiết thực tiễn mà các
69
nhà làm luật chƣa lƣờng hết đƣợc. Với những trƣờng hợp nhƣ vậy, Tòa án nhân dân
tối cao cần phát triển án lệ liên quan đến vấn đề này.
Quá trình điều tra của một vụ việc cạnh tranh lớn (nhƣ sáp nhập) là việc hoàn
toàn không đơn giản, đòi hỏi sự phân tích của nhiều chuyên gia và nhiều cơ quan
khác nhau có liên quan. Nếu một vụ việc đƣợc giải quyết thỏa đáng, hợp lý đƣợc
đƣa ra nhƣ một cơ sở pháp lý nhằm đƣa ra kết luận nhanh chóng cho các vụ việc
tƣơng tự về sau.
3.2.2.3. Về cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính đối với quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh không lành mạnh
Khoản 1 Điều 115 Luật Cạnh tranh quy định: “Trường hợp không nhất trí với
quy định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, các bên liên
quan có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với một phần hoặc toàn bộ nội dung
của quyết định giải quyết khiếu nại ra Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương có thẩm quyền”. Việc giải quyết đơn kiện tại Tòa hành chính đối với
quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, trong đó hành
vi cạnh tranh không lành mạnh đƣợc thực hiện theo pháp luật về thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính.
Vấn đề đặt ra là Tòa hành chính sẽ xem xét lại toàn bộ vụ việc từ đầu, xem xét
cả nội dung về thủ tục cạnh tranh đã đƣợc áp dụng bởi các cơ quan tiến hành tố tụng
cạnh tranh hay chỉ xem xét về mặt hình thức? Giá trị pháp lý của quyết định giải
quyết khiếu nại của Tòa án nhƣ thế nào? Quyết định có giá trị chung thẩm nhƣ kinh
nghiệm của một số quốc gia trên thế giới hay phải tuân thủ đầy đủ thủ tục từ sơ
thẩm, phúc thẩm, tới giám đốc thẩm? Điều này cần có văn bản hƣớng dẫm cụ thể
của Tòa án nhân dân tối cao, đặc biệt là cơ chế phối hợp giữa cơ quan cạnh tranh và
Tòa án trong việc xem xét, giải quyết đơn kiện.
3.2.2.4. Chế tài áp dụng đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cần
phải đủ mạnh
70
Mức phạt tiền nhƣ theo các quy định hiện nay còn thấp. Do đó, khó mà ngăn
chặn đƣợc tình trạng quảng cáo, khuyến mại… nhằm cạnh tranh không lành mạnh
đang có xu hƣớng ngày càng phổ biến. Với những lợi ích to lớn từ việc cạnh tranh
không lành mạnh đem lại thì số tiền phạt quy định trong pháp luật hiện nay không
thấm vào đâu, do đó trên thực tế đã có không ít doanh nghiệp chấp nhận bị phạt để
thực hiện hành vi “chơi xấu” của mình. Rõ ràng, quy định mức phạt tiền nhƣ hiện
nay là bất hợp lí và chƣa đủ sức răn đe.
3.2.2.5 Cần áp dụng hòa giải trong giải quyết các vụ việc cạnh tranh
Trong các phƣơng thức giải quyết tranh chấp thì hòa giải là một trong những
phƣơng thức có nhiều ƣu điểm và đƣợc nhiều nƣớc trên thế giới áp dụng để giải
quyết các tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế nói chung. Bởi hòa giải có tác dụng giúp
cho bên “chơi xấu” và bên “bị chơi xấu” không mất nhiều thời gian, tiền bạc khi giải
quyết các vụ cạnh tranh. Khi hòa giải thành thì có nghĩa là ý chí của các bên đã
thống nhất và bên “chơi xấu” sẽ chấm dứt hành vi vi phạm. Việc thực thi Luật Cạnh
tranh không phải chỉ là giải quyết những vụ việc qua điều tra, xử phạt vi phạm hay
có những chế tài khác. Đa số công việc của các cơ quan quản lý cạnh tranh, không
chỉ ở Việt Nam là làm thế nào để các doanh nghiệp không vi phạm hoặc nếu có
(chƣa đến mức quá nặng) thì hòa giải với nhau? Thực tế cho thấy, hòa giải vẫn là
phƣơng thƣ́ c đƣơ ̣c cơ quan quản lý sƣ̉ du ̣ng nhiều nhất khi xử lý các hành vi không
lành mạnh. Nếu thực hiện đƣợc hòa giải sẽ rất có lợi cho các bên nhƣ tiết kiệm thời
gian, chi phí..
3.2.3. Một số đề xuất khác
3.2.3.1. Tăng cường khả năng phối hợp giữa các cơ quan, bộ, ngành trong việc
giải quyết những vụ việc cạnh tranh không lành mạnh
Do các hành vi cạnh tranh xuất hiện ở các lĩnh vực khác nhau, một số văn bản
pháp luật khác nhau và những quy định này đƣợc thực thi bởi một số cơ quan khác
bên cạnh cơ quan quản lý cạnh tranh. Vì lý do đó, có thể dẫn đến sự quy định và áp
dụng không thống nhất đối với các vụ việc cạnh tranh, chẳng hạn nhƣ việc thực thi
các quy định về chống cạnh tranh không lành mạnh, sở hữu trí tuệ, quản lý thị
71
trƣờng, bảo vệ ngƣời tiêu dùng… Hiện nay chƣa có bất kì một văn bản nào đề cập
đến sự phân định và phối hợp của các cơ quan thẩm quyền trong việc thực thi Luật
cạnh tranh. Sự phức tạp và chồng lấn về thẩm quyền theo các văn bản thực thi pháp
luật khác nhau, sẽ dẫn đến nhiều khó khăn trong việc tiến hành các thủ tục tố tụng
và ra quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh. Để giải quyết vấn đề này cần có một văn
bản có đủ hiệu lực pháp lý để phân định rõ thẩm quyền và phối hợp hoạt động của
các cơ quan trong việc đảm bảo thực thi pháp Luật Cạnh tranh có hiệu quả.
3.2.3.2. Phổ biến kiến thức pháp luật về cạnh tranh nói chung và pháp luật về
chống cạnh tranh không lành mạnh nói riêng
Công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về lĩnh vực này hiện nay chƣa rộng
khắp trong xã hội nhất là giới doanh nghiệp nên nhận thức, ý thức xã hội về vấn đề
này còn nhiều hạn chế. Bản thân hiệp hội có lĩnh vực gắn với quy định của pháp luật
về hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhƣng thực tế cũng chƣa đƣợc tiếp cận
nhiều với pháp luật về cạnh tranh. Ngƣời ta cũng đã ví Luật Cạnh tranh trong kinh
doanh cũng tựa nhƣ “nhạc thính phòng” trong đời sống văn hóa tinh thần, bởi vậy
không phải ai cũng biết và dễ dàng hiểu đƣợc Luật. Do đó nâng cao hiểu biết và
nhận thức của ngƣời dân, đặc biệt là chủ thể kinh doanh về Luật Cạnh tranh có ý
nghĩa rất quan trọng để đảm bảo thực thi Luật hiệu quả. Nếu các chủ thể kinh doanh
có kiến thức về pháp Luật Cạnh tranh thì những vụ việc vi phạm sẽ đƣợc giảm thiểu
đáng kể do ứng xử kinh doanh của họ phần nào đã có sự định hƣớng của pháp luật.
Từ kinh nghiệm của các nƣớc, các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền nên:
Thứ nhất, thƣờng xuyên tổ chức các lớp bồi dƣỡng, hội thảo tìm hiểu về kiến
thức pháp luật và thi hành pháp luật cạnh tranh nói chung và pháp luật về cạnh tranh
không lành mạnh nói riêng, trong đó đối tƣợng chủ yếu là các doanh nhân. Qua đây
có thể nâng cao hiểu biết pháp luật, đặc biệt là những vụ xử lý vi phạm đƣợc thông
tin tới tận tay doanh nghiệp sẽ là những cảnh báo trƣớc về hậu quả của vi phạm.
Thứ hai, phổ biến và tuyên truyền nội dung của Luật Cạnh tranh trên các
phƣơng tiện thông tin đại chúng nhƣ tổ chức các cuộc thi, tìm hiểu về Luật cạnh
tranh, diễn đàn đối thoại trực tiếp hoặc mời các chuyên gia về Luật Cạnh tranh giảng
72
dạy trên truyền hình, đài phát thanh, tổ chức các hội thảo… Những biện pháp này có
chi phí thấp nhƣng mang lại hiệu quả rất cao.
Thứ ba, giáo dục đạo đức kinh doanh cho thƣơng nhân, làm cho họ biết những
hậu quả xấu của việc kinh doanh bất chính cũng nhƣ lợi ích lâu dài từ việc cạnh
tranh lành mạnh, trung thực. Nếu một khi doanh nghiệp nhận thức đƣợc và chú trọng
đến đạo đức kinh doanh thì những hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ đƣợc
giảm bớt.
Tóm lại, đã đến lúc ngƣời tiêu dùng, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý phải
cộng tác chặt chẽ với nhau để chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Chỉ khi nào môi trƣờng sản xuất, kinh doanh thật sự lành mạnh, thì quyền lợi của
các doanh nghiệp có thƣơng hiệu mới đƣợc bảo đảm, sự phát triển của các doanh
nghiệp trong nƣớc mới bền vững và mạng lại lợi ích thiết thực cho thị trƣờng và
ngƣời tiêu dùng.
3.2.3.3. Nâng cao ý thức pháp luật và tự bảo vệ của doanh nghiệp và người
tiêu dùng
Về phía doanh nghiệp:
Tất cả các tổ chức cá nhân kinh doanh và hiệp hội nghề hoạt động trên lãnh thổ
Việt Nam đều chịu sự điều chỉnh của Luật Cạnh tranh. Điều này sẽ giúp doanh
nghiệp đƣợc hoạt động trong môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh, đƣợc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên để có đƣợc điều này phụ thuộc vào sự hiểu
biết và tuân thủ pháp luật của họ. Song một thực tế cho thấy hiện nay có nhiều
doanh nghiệp đƣợc thành lập và hoạt động lâu đời vẫn chƣa nhận thức đầy đủ tầm
quan trọng của ý thức pháp luật trong kinh doanh. Họ chƣa thực sự hiểu biết pháp
luật cho họ những quyền gì, họ phải thực hiện những nghĩa vụ gì và pháp luật quy
định nhƣ thế nào với những hoạt động mà họ quan tâm. Điều này lý giải về lâu dài
để tạo môi trƣờng cạnh tranh không lành mạnh cần nâng cao nhận thức cho họ. Học
tập ở các nƣớc có nền kinh tế phát triển, các công ty lớn họ luôn có một bộ phận
chuyên trách về việc tham mƣu pháp luật cho doanh nghiệp hoặc họ sẵn sàng thuê tƣ
73
vấn pháp luật trong trƣờng hợp cần thiết. Vấn đề này hầu nhƣ ít gặp ở các doanh
nghiệp Việt Nam.
Bên cạnh đó doanh nghiệp cần nâng cao ý thức bảo vệ mình trƣớc các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh của đối thủ cạnh tranh và bảo vệ thƣơng hiệu, xác lập
quyền sở hữu công nghiệp, liên tục cải tiến công nghệ, nâng cao trình độ cán bộ, đƣa
ra mẫu mã sản phẩm mang tính đặc trƣng đảm bảo an toàn cao để khó có thể có
hành vi xâm hại sở hữu công nghiệp, có cơ chế đảm bảo bí mật kinh doanh của
doanh nghiệp...
Nâng cao khả năng bảo vệ người tiêu dùng:
Trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay càng gay gắt, nhiều doanh nghiệp cạnh
tranh với nhau không chỉ với mục đích là loại bỏ nhau mà còn làm mọi cách để tồn
tại trên thị trƣờng, không những làm xâm hại đến quyền lợi của ngƣời tiêu dùng mà
còn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng và sức khỏe của ngƣời tiêu dùng. Điều
đáng lo ngại hiện nay là kiến thức tiêu dùng của ngƣời tiêu dùng Việt Nam hiện nay
còn ở mức rất thấp. Ngƣời tiêu dùng Việt Nam hiện nay chủ yếu sống ở vùng nông
thôn, ít đƣợc tiếp cận với các thông tin đầy đủ về chất lƣợng, vệ sinh an toàn thực
phẩm là những thông tin bảo vệ chính mình.
Thực tế cho thấy hội nhập kinh tế đang diễn ra hết sức sức sâu rộng và nhanh
chóng trong khi đó việc nâng cao kiến thức ngƣời tiêu dùng lại diễn ra chậm hơn.
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế, các phƣơng thức xâm phạm quyền lợi của ngƣời tiêu
dùng lại diễn ra tinh vi hơn, đa dạng hơn và phổ biến nhiều so với trƣớc kia. Nhiều
hình thức kinh doanh mới, đan xen các hình thức mua bán hiện đại với sự giúp đỡ
của công nghệ làm cho ngƣời tiêu dùng dễ bị lừa gạt, không có khả năng chống đỡ,
không thể có đƣợc khả năng học hỏi, cập nhật thông tin nhanh và chủ động nhƣ thời
kỳ hội nhập này. Vì vậy mỗi ngƣời tiêu dùng hãy tự cập nhật học hỏi và bổ sung
kiến thức cho mình để tự bảo vệ những lợi ích chính đáng cho mình.
Mặt khác, thói quen mua hàng không lấy hóa đơn hoặc có hóa đơn nhƣng
không đƣợc lƣu giữ của ngƣời tiêu dùng Việt Nam gây nhiều khó khăn khi muốn
bảo vệ ngƣời tiêu dùng bị xâm phạm. Thói quen không đọc kỹ thông tin trong hợp
74
đồng mẫu (điều kiện giao dịch chung), trên bao bì khi mua sản phẩm thực tế đã
chứng kiến nhiều cảnh tƣợng cấp cứu vì sử dụng hàng hóa hết hạn sử dụng, thói
quen mua hàng theo phong trào ngay cả khi không có nhu cầu sử dụng... Các thói
quen này làm cho doanh nghiệp lợi dụng từ chối trách nhiệm của mình khi có tranh
chấp xảy ra. Những thói quen này của ngƣời tiêu dùng cần phải đƣợc thay đổi.
Một đặc điểm lớn nữa của ngƣời tiêu dùng Việt Nam có xu hƣớng chấp nhận
hoặc bằng lòng với thực tế, ngại va chạm khi quyền lợi của mình bị xâm hại. Khác
với ngƣời tiêu dùng các nƣớc có nền kinh tế phát triển, ngƣời tiêu dùng Việt Nam
chƣa có thói quen khiếu nại với các nhà kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, yêu cầu đổi
hàng hóa đúng chất lƣợng, đòi bồi thƣờng thiệt hại hoặc tố cáo lên cơ quan nhà nƣớc
có thẩm quyền. Do đó ngƣời tiêu dùng cần mạnh dạn khiếu nại, trƣớc hết là đòi
quyền lợi cho mình, sau là đòi quyền lợi cho cộng đồng ngƣời tiêu dùng.
Cần nhấn nhấn mạnh là việc khiếu nại của ngƣời tiêu dùng đối với cá nhân sản
xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ trƣớc hết theo nguyên tắc thƣơng lƣợng, hòa giải.
Vì vậy nếu việc thƣơng lƣợng hòa giải mà bù đắp đƣợc những mất mát của ngƣời
tiêu dùng thì nên dừng lại. Trƣờng hợp ngƣợc lại ngƣời tiêu dùng có thể kiện theo
quy định của pháp luật. Trong trƣờng hợp này ngƣời tiêu dùng nên cân nhắc là chắc
chắn quyền lợi của mình đã bị vi phạm và chuẩn bị chắc chứng cứ và lý lẽ trƣớc khi
khiếu nại.
Cuối cùng, mỗi ngƣời tiêu dùng cần nâng cao hiểu biết và nhận thức pháp luật,
tìm hiểu rõ về nguồn gốc và dịch vụ khi mua sắm để trở thành những “ngƣời tiêu
dùng thông thái”. Mỗi một ngƣời tiêu dùng thông thái sẽ góp một phần nhỏ của
mình phát hiện và tẩy chay những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong môi
trƣờng cạnh tranh khốc liệt hiện nay.
3.2.3.4. Xây dựng đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp
Đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp là một yêu cầu quan trọng đảm bảo cho
sự vận hành trôi chảy nền kinh tế thị trƣờng hiện nay. Luật Cạnh tranh chỉ quy định
chung về chuẩn mực đạo đức kinh doanh và biện pháp xử lý về mặt hành chính.
Song điều đó ít có tính răn đe và định hƣớng cho hành vi kinh doanh của doanh
75
nghiệp. Để hƣớng tới một môi trƣờng cạnh tranh văn minh, các doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trƣờng cần chú trong đạo đức kinh doanh, thậm chí xây dựng chƣơng
trình tuân thủ đạo lý kinh doanh, bộ quy tắc ứng xử,… để đảm bảo doanh nghiệp
phát triển bền vững và lâu dài.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng của nƣớc ta hiện nay, việc xác định
chuẩn mực đạo đức kinh doanh đƣợc xét bởi các yếu tố: Đạo đức kinh doanh đƣợc
xác lập sẽ bảo đảm cho các nhà kinh doanh phát huy đƣợc tiềm năng, tài lực, vật lực
của họ để thực hiện kinh doanh có hiệu quả, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp về
danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản, lợi ích chính đáng của họ; đảm bảo các nhà kinh
doanh không bị xâm hại bởi các hành vi bất hợp pháp, cạnh tranh không lành mạnh
hay gian lận thƣơng mại, bị phân biệt đối xử hay chèn ép, ngăn cản họ thực hiện các
hoạt động kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh. Mặt khác, đạo đức kinh doanh đòi
hỏi các nhà kinh doanh phải luôn luôn chú ý đến các lợi ích chung của toàn xã hội,
phải hoạt động trong khuân khổ mà pháp luật quy định, quan tâm đến quyền và lợi
ích hợp pháp của các nhà kinh doanh khác và lợi ích của ngƣời tiêu dùng, không vì
lợi ích cá nhân mà gây thiệt hại cho quyền, lợi ích chính đáng của ngƣời khác và lợi
ích của xã hội.
Đạo đức kinh doanh đƣợc thể hiện ở sự trung thực trong kinh doanh, tôn trọng
đối thủ cạnh tranh, tôn trọng ngƣời tiêu dùng, cạnh tranh lành mạnh... Bên cạnh đó,
chuẩn mực đạo đức kinh doanh cũng đƣợc thể hiện ở việc nghiêm chỉnh thực hiện
pháp luật, phát triển kinh doanh, làm giàu chính đáng...
Việc xây dựng đạo đức kinh doanh cần phải đƣợc đƣa vào từng doanh nghiệp
và xây dựng thành văn hóa và lối sống doanh nghiệp. Bên cạnh đó đạo đức kinh
doanh cũng phải đƣợc thƣờng xuyên trau dồi và giáo dục bằng cách đƣa vào các
trƣờng cao đẳng, đại học để các nhà doanh nghiệp tƣơng lai hình thành nhận thức
các chuẩn mực kinh doanh tốt đẹp ngay từ khi bắt đầu sự nghiệp.
3.2.3.5. Phát huy vai trò thương lượng và hòa giải trong việc giải quyết tranh
chấp liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh
76
Thƣơng lƣợng và hòa giải có ý nghĩa rất lớn trong việc giải quyết tranh chấp
đặc biệt là tranh chấp liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh. Thƣơng lƣợng và
hòa giải giúp giảm bớt thời gian, tiền của, công sức của ngƣời tham gia tố tụng,
ngƣời bị tố tụng và các cơ quan chức năng đứng ra giải quyết tranh chấp. Điều đó
giúp giảm thiểu các thủ tục hành chính đôi khi là không cần thiết song nó vẫn phát
huy đƣợc tính chất cảnh cáo, răn đe của pháp luật. Xu hƣớng chung của pháp luật
Việt Nam cũng nhƣ pháp luật thế giới là ngày càng phát huy cao vai trò của thƣơng
lƣợng và hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến hành vi cạnh tranh
không lành mạnh. Để thƣơng lƣợng và hòa giải phát huy đƣợc vai trò tích cực của
nó cần lƣu ý các vấn đề sau:
- Pháp luật cần có những quy định cụ thể cho sự thƣơng lƣợng và hòa giải nhƣ
các quy tắc về hòa giải, các tổ chức hò giải, bộ máy hòa giải, ngƣời đứng ra hòa giải
để tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành các thiết chế có liên quan đến việc giải
quyết tranh chấp bằng Tòa án. Nhà nƣớc cũng khuyến khích các nhà kinh doanh nên
giải quyết tranh chấp bằng thƣơng lƣợng và hòa giải. Để tạo điều kiện cho việc
thƣơng lƣợng và hòa giải đƣợc dễ dàng và thuận tiện cần xây dựng quy trình hòa
giải và có hƣớng dẫn thủ tục hòa giải.
- Tăng cƣờng công tác hòa giải ngoài Tòa án:
Một thực tế hiện nay là khối lƣợng công việc của Tòa án rất nhiều, do vậy khi
Tòa án thụ lý, giải quyết các vụ án liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành
mạnh sẽ kéo dài thời gian. Các bên tranh chấp khi đã có sự thống nhất nên đến các
Trung tâm hoà giải ngoài Tòa án để hoà giải, sau khi hoà giải thành đề nghị Tòa án
ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đƣơng sự ngoài Tòa án theo quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự.
77
KẾT LUẬN
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh chính là biểu hiện khuyết tật của nền kinh
tế thị trƣờng. Có thể có nhiều cách hiểu và cách định nghĩa khác nhau về hành vi
này bởi nó xuất phát từ những đặc điểm riêng của nó đặc biệt là tính khó xác định về
nội dung. Bên cạnh đó, hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng phụ thuộc vào
quan niệm đạo đức truyền thống và tập quán kinh doanh… của các vùng khác nhau.
Việc nhận diện những hành vi này đòi hỏi phải tìm hiểu những vấn đề thuộc về bản
chất của nó. Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, tùy vào tính chất của nó để
có thể có những cách xử lý cho phù hợp, do đó việc phân loại những hành vi này là
điều rất cần thiết.
Luật Cạnh tranh mới sẽ có hiệu lực từ 1/7/2019. Tuy nhiên, thực thi Luật Cạnh
tranh mới dƣới giác độ của chống cạnh tranh không lành mạnh sẽ phải đối mặt với
những vấn đề trên thực tế do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế số cũng nhƣ
phát sinh những mô hình kinh doanh mới – kinh tế chia sẻ (sharing economy) nhƣ
vụ tranh chấp giữa Vinasun và Grab đang giải quyết hiện nay. Chính vì vậy, việc
không ngừng trau dồi về kiến thức kinh doanh mới kết hợp với cạnh tranh có ý
nghĩa quan trọng trong việc xử lý hay giải quyết tranh chấp liên quan đến cạnh tranh
không lành mạnh.
Do Luật Cạnh tranh mới đã đƣợc thông qua và sắp có hiệu lức, những vấn đề
có tính chất thay đổi cơ bản nhƣ tạo cơ hội cho các bên có quyền lợi liên quan đƣợc
khởi kiện trực tiếp tòa án để bảo vệ quyền lợi cho mình nằm ngoài khả năng của
ngƣời viết và phạm vi của Luận văn này.
Với việc nghiện cứu Luận văn này, tác giả mong muốn đƣợc đóng góp một
phần nhỏ bé vào việc tăng cƣờng xử lý và giải quyết tranh chấp liên quan cạnh tranh
không lành mạnh. Song đây là một vấn đề khó và rộng, tác giả không tránh khỏi
những thiếu sót trong lần đầu nghiên cứu khoa học của mình nên rất mong nhận
đƣợc ý kiến đóng góp, phê bình của thầy cô và các bạn để có thể nghiên cứu vấn đề
này tốt hơn trong tƣơng lai.
78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách, luâ ̣n á n, tạp chí 1. Bùi Ngọc Cƣờng (2001), Một số vấn đề tự do kinh doanh trong pháp luật
kinh tế hiện hành ở Việt Nam, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001.
2. Ngô Quốc Chiến (2014), Một số điều khoản độc quyền trong hợp đồng
nhượng quyền thương mại. So sánh pháp luật Việt Nam, Pháp và Liên minh châu
Âu, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 67/2014.
3. Ngô Quốc Chiến (2014), Chế định nào cho các nghĩa vụ tiếp tục tồn tại
sau khi hợp đồng chấm dứt?, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 2 và 3 năm 2014.
4. Đỗ Văn Đại (2017), Luật Nghĩa vụ và bảo đảm thực hiê ̣n nghĩa vụ Viê ̣t Nam. Bản án và bình luận bản án , Nxb Hồng Đƣ́ c – Hô ̣i Luâ ̣t gia Viê ̣t Nam , xuất
bản lần thứ 3, 2017, tâ ̣p 1.
5. Cục Cạnh tranh và bảo vệ ngƣời tiêu dùng , Báo cáo thường niên năm
2016, năm 2017 và các năm trƣớc đó . Có thể xem đƣợc tại :
http://www.vca.gov.vn/Bublications.aspx?CateID=524 (truy câ ̣p ngày 5/12/2018).
6. Cục Cạnh tranh và bảo vệ ngƣời tiêu dùng , Bản tin cạnh tranh và người
6/2007 đến tháng 12/2016. Có thể xem đƣợc tại : tiêu dù ng , các số từ tháng
http://www.vca.gov.vn/Newsletter.aspx?CateID=99 (truy câ ̣p ngày 5/12/2018).
7. Đại học Luật Hà Nội (2006), Đưa pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh vào cuộc sống, Tạp chí Luật học, số 6/2006.
8. Đặng Vũ Huân (2004), Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh
tranh không lành mạnh ở Việt nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004.
9. Nguyễn Hữu Huyên (2004), Luật Cạnh tranh của Pháp và Liên minh Châu
Âu, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội 2004.
10. Nguyễn Mạnh Kháng (2008), Bàn về chức năng tố tụng của Tòa án và vấn
đề độc lập của hoạt động xét xử, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, số 10/2008.
11. Đinh Mỹ Loan (2007), Xây dựng mô hình cơ quan quản lý nhà nước về
cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ trong thương mại quốc tế.
Kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam, Đề tài nghiên cứu cấp bộ năm 2007.
79
12. Phạm Duy Nghĩa (2002), Giáo trình Luật thương mại Việt Nam, Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội, 2002.
13. Tăng Văn Nghĩa (2005), Những nội dung cơ bản của Luật cạnh tranh Việt
Nam năm 2004 và đề xuất áp dụng, Đề tài NCKH cấp bộ (Bộ GDĐT), Hà Nội 2005.
14. Tăng Văn Nghĩa (2007), Những vấn đề đặt ra và giải pháp thực thi có hiệu
quả Luật cạnh tranh trong thực tiễn, Đề tài NCKH cấp bộ (Bộ Thƣơng Mại), Hà
Nội, 2007.
15. Tăng Văn Nghĩa (2013), Giáo trình Pháp luật cạnh tranh, Nxb Giáo dục
Việt Nam, Hà Nội, 2013.
16. Phùng Văn Thành (2016), Đá nh giá một số mặt được của Luật cạnh tranh ,
Bản tin Cạnh tranh và Ngƣời tiêu dùng, số 60/2016.
17. Phạm Tất Thắng , Cạnh tranh không lành mạnh sẽ “giết chết” hiệu quả
kinh doanh, trong Hô ̣i thảo “Đánh giá tình hình th ực thi Luật Cạnh tranh Việt Nam
và định hƣớng hoàn thiện”, Cục Quản lý cạnh tranh , Bô ̣ Công Thƣơng , tháng
11/2016.
18. Lê Anh Tuấn (2008), Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt
Nam, Luận án tiến sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008.
19. Nguyễn Thị Hồng Vân, Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp
đồng nhượng quyền thương mại, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 03/2011.
Bản án, quyết đi ̣nh hành chính 20. Quyết định số 126/QĐ-QLCT ngày 20 tháng 9 năm 2010 của Cục quản lý
cạnh tranh xử phạt Công ty TNHH Điện tử Samsung Vina đối với hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
21. Quyết định số 129/QĐ-QLCT ngày 22/6/2010 của Cục quản lý cạnh tranh
xử phạt Công ty TNHH Supor Việt Nam đối với hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh.
22. Quyết định số 124/QĐ-QLCT ngày 20 tháng 9 năm 2010 của Cục quản lý
cạnh tranh xử phạt Công ty TNH Điện tử Sharp Việt Nam đối với hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
80
23. Quyết định số 128/QĐ-QLCT Ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Cục quản lý
cạnh tranh xử phạt Công ty TNHH LG Electronics Việt Nam đối với hành vi Quảng
cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.