VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ NGỌC THỦY
CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI
NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ NGỌC THỦY
CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI
NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS .TS. TRẦN ĐÌNH HẢO
Hà Nội, năm 2020
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tác giả đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tạo
điều kiện của các Thầy Cô khoa Luật và các Thầy cô giáo Học viện Khoa học xã hội
đã nhiệt tình chỉ dạy, hướng dẫn. Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành và
sâu sắc nhất đến người hướng dẫn khoa học là PGS.TS Trần Đình Hảo đã tận tình
hướng dẫn để tác giả hoàn thành luận văn này.
Ngoài ra tác giả cũng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ts. Luật sư Nguyễn Thị Kim
Vinh, Ts. Dương Quỳnh Hoa và các anh, chị, em ở Tòa án nhân dân Cấp Cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh, Tòa kinh tế TP.Hồ Chí Minh, Tạp chí Kinh tế Châu Á- Thái
Bình Dương đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện để tác giả bổ sung hoàn thiện luận văn.
Luận văn là công trình nghiên cứu độc lập của tác giả nên không thể tránh được những
thiếu sót, rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, của các
thầy giáo, cô giáo và các bạn đồng nghiệp để luận văn được tốt hơn.
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Thủy
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng những thông tin, số liệu và kết quả nghiên cứu trong
luận văn thạc sỹ Luật học “Công nhận và cho thi hành Phán quyết nước ngoài ở
Việt Nam hiện nay” của tôi là hoàn toàn trung thực, các thông tin, tài liệu trình bày
trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Tuy nhiên không tránh khỏi những thiếu
sót, luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tác giả dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO - Học viện Khoa học xã hội.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
NGUYỄN THỊ NGỌC THỦY
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ VIỆC CÔNG NHẬN VÀ
CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI NƯỚC
NGOÀI ....................................................................................................................... 5
1.1. Khái niệm phán quyết trọng tài nước ngoài ........................................................ 5
1.2. Khái niệm công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng Tài nước ngoài .. 10
1.3. Cơ sở pháp luật về việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của
Trọng tài nước ngoài ................................................................................................. 11
1.4. Nguyên tắc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài
nước ngoài. ................................................................................................................ 14
1.5. Thẩm quyền, điều kiện, trình tự, thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
phán quyết của Trọng tài nước ngoài. ....................................................................... 16
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ VIỆC
CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM PHÁN QUYẾT
CỦA TRỌNG TÀI NƯỚC NGOÀI 22
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về việc công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam Phán quyết Trọng tài nước ngoài ................................................................. 22
2.1.1. Đối với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ............................................. 26
2.1.2. Đối với Luật Trọng tài thương mại năm 2010 ....................................... 31
2.2. Thực tiễn giải quyết đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng
tài nước ngoài tại Việt Nam .................................................................................. 42
2.3. Đánh giá chung .............................................................................................. 55
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG NHẬN VÀ CHO THI
HÀNH TẠI VIỆT NAM PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI NƯỚC NGOÀI . 59
3.1. Quan điểm, định hướng hoàn thiện pháp luật về công nhận và cho thi hành tại
Việt nam phán quyết của trọng tài nước ngoài ..................................................... 59
3.1.1. Quan điểm về góc nhìn thực tiễn ............................................................ 59
3.1.2. Về hướng dẫn xây dựng pháp luật ......................................................... 63
3.1.3. Về công tác cán bộ ................................................................................. 65
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
phán quyết của trọng tài nước ngoài ..................................................................... 66
3.2.1. Phương hướng hoàn thiện các quy định ................................................ 66
3.2.2. Một số yêu cầu và giải pháp ................................................................... 67
3.2.3. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về thủ tục công nhận
và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài .................................... 68
3.2.4. Hoàn thiện các quy định Luật Trọng tài thương mại liên quan đến thủ tục
công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài thương mại nước ngoài 70
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi về công nhận và cho thi hành phán
quyết của trọng tài nước ngoài ở Việt Nam hiện nay
3.3.1. Nâng cao nhận thức, phổ biến về tư pháp quốc tế và các điều ước quốc
tế liên quan đến giải quyết tranh chấp kinh tế có yếu tố nước ngoài và đầu tư
nước ngoài mà Việt Nam đã ký kết và tham gia. .............................................. 70
3.3.2. Giải pháp tăng cường vai trò của Tòa án trong việc hỗ trợ hoạt động của
trọng tài ............................................................................................................ 71
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự
LTTTM : Luật Trọng tài Thương mại
TAND : Tòa án nhân dân
CƯ 1958 : Công ước New York năm 1958
HĐTPTANDTC :Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
HĐXX : Hội đồng xét xử
PQTTNN : Phán quyết trọng tài nước ngoài
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 20 năm qua Việt Nam đã tham gia Công ước New York năm 1958 (CƯ
1958) về Công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài (PQTTNN). Tuy
nhiên, PQTTNN được công nhận chưa nhiều bởi trong hệ thống pháp luật về giải quyết
tranh chấp PQTTNN phát sinh từ hoạt động thương mại toàn cầu còn được phát luật
Việt Nam qui định ở Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015.
Trên thực tế, Tòa án và trọng tài thương mại đều là những hình thức giải quyết
tranh chấp trong kinh doanh, thương mại. Thủ tục của hai cơ quan này đều dựa trên
những nguyên tắc chung như tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự, đảm bảo
sự độc lập của người tài phán.
Việc các giải quyết các tranh chấp thương mại bằng trọng tài là cách giải quyết
tranh chấp đã xuất hiện từ rất lâu và hiện nay cách giải quyết bằng trọng tài đang được
các thương nhân, doanh nghiệp trên thế giới ưa chuộng giải quyết tranh chấp thay vì
tòa án.
Chính vì vậy, Công nhận và cho thi hành phán quyết Trọng tài nước ngoài ở
Việt Nam hiện nay là một vấn đề mà các nhà đầu tư, doanh nghiệp nước ngoài đặc biệt
quan tâm. Tuy nhiên, đối với thủ tục công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước
ngoài theo quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam vẫn còn tồn tại những điểm
bất cập, chưa đồng bộ, chưa thống nhất, thể hiện rõ nét sự phân biệt đối xử đối với phán
quyết của Trọng tài nước ngoài, vì vậy nhiều quyết định dẫn đến kết quả chưa phù hợp
với nội dung CƯ 1958.
Hiện nay, việc Công nhận và thi hành PQTTNN ở Việt Nam hiện nay còn gặp
nhiều khó khăn cho việc thực thi, nhiều phán quyết chưa được thi hành tại Việt Nam
dẫn đến hình thành tâm lý phân vân có nên thực hiện tranh chấp theo thể thức trọng
tài bởi họ thiếu niềm tin đối với hiệu lực phán quyết trọng tài nhất là các PQTTNN
được thực thi ở Việt Nam. Điều đó, vô hình dung làm cản trở những nỗ lực của Nhà
nước Việt Nam trong việc đưa tranh chấp bằng trọng tài thành công cụ pháp lý hữu
ích giải quyết các tranh chấp thương mại bên cạnh Tòa án. Đặc biệt, trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế ngoài việc Việt Nam phải thực hiện đúng những cam kết
trong các điều ước quốc tế chúng ta đã tham gia thì còn đòi hỏi pháp luật cần tiếp tục
8
được bổ sung, hoàn thiện nhằm bảo đảm sự tương thích với các quy định của pháp
9
10
luật về kinh tế quốc tế, dần dần từng bước đáp ứng được yêu cầu giải quyết
các tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
Tuy nhiên với tình hình quan hệ văn hóa - xã hội và kinh tế của Việt Nam với
thế giới đang mở ra tầm cao mới, năm 1995 Việt Nam đã chính thức tham gia CƯ
1958, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho việc kết nối giao thương. Bên cạnh đó, nhiều
Hiệp định thương mại tự do giữa Việt nam và các nước trên thế giới đã được ký kết.
Có nghĩa là, giữa Việt Nam và các nước trên thế giới đã và đang có nhiều những giao
dịch thương mại đồng nghĩa với việc sẽ sảy ra các tranh chấp thương mại giữa các
thương nhân, doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp, thương nhân toàn cầu.
Từ sự phát triển và giao thoa văn hóa, kinh tế giữa Việt Nam và các nền kinh tế thế
giới, sẽ có nhiều hoạt động kinh doanh phải giải quyết tranh chấp thương mại bằng
hình thức trọng tài.
Ngày nay, các chủ thể của tranh chấp kinh doanh thường lựa chọn phương thức
giải quyết tranh chấp Trọng tài do các ưu điểm về bảo mật thông tin, tiết kiệm thời
gian, công sức cũng như tiền bạc. Nhưng cũng chính vì bảo mật thông tin, ít công bố
nên tác giả cũng gặp khó khăn trong việc thực tế đi thu thập tài liệu.
Do đó, đề tài nghiên cứu: “Công nhận và cho thi hành Phán quyết của trọng
tài nước ngoài ở Việt Nam hiện nay” của tác giả mang tính cấp thiết, điều này hy
vọng được các ban ngành trong lĩnh vực pháp luật cũng như Đảng và Nhà nước quan
tâm. Nhận thức được sự cầp thiết đó cho nên tác giả đã chọn đề tài “Công nhận và
cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.” làm luận văn
thạc sĩ luật học.
Tình hình nghiên cứu đề tài.
Mặc dù công nhận và thi hành các phán quyết của Trọng tài nước ngoài ở Việt
Nam số vụ được công nhận rất ít, lý do mà việc Công nhận và thi hành các Phán
quyết của Trọng tài nước ngoài ở Việt Nam gặp khó khăn do nhiều yếu tố mang lại
trong đó có yếu tố con người. Chính vì vậy, cũng không ít các hội thảo và các công
trình nghiên cứu về vấn đề này nhưng chưa gỡ được nút thắt của hệ thống. Ngoài
các chế định về Pháp luật mà Việt Nam đã điều chỉnh cho phù hợp với thông lệ
1
quốc tế thì nhiều nhà nghiên cứu và cán bộ làm công tác thực tiễn trăn trở quan
tâm, được thể hiện qua một vài công trình khoa học sau:
- Nguyễn Văn Đức, Thi hành phán quyết trọng tài thương mại - Mối quan
hệ giữa Trọng tài và Tòa án, Luận văn Thạc sĩ Luật học, TPHCM, 2010.
- Nguyễn Tiến Lộc, Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Trọng tài - Thực
trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ Luật học, TPHCM, 2000.
- Nguyễn Trung Tín, Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam các quyết
định của Trọng tài kinh tế, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 2002.
- Trương Quốc Tuấn, Giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế bằng
con đường Trọng tài, Luận văn Thạc sĩ Luật học, TPHCM, 2003.
- Nguyễn Văn Bình, Thực trạng và hướng hoàn thiện Trọng tài thương mại
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, Luận văn Thạc sĩ Luật học, TPHCM, 2003.
- Phan Thông Anh, Mối quan hệ giữa Tòa án và Trọng tài trong quá trình
giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận
văn Thạc sĩ Luật học, TPHCM, 2005.
- Trần Dự Yên, Hiệu lực của quyết định trọng tài đối với vấn đề thi hành
trong pháp luật và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ Luật học, TPHCM, 2006.
- Đặng Quang Phương, Những vấn đề lý luận và thực tiễn của công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài,
quyết định của Trọng tài nước ngoài, Đề tài khoa học cấp cơ sở của Tòa án nhân
dân tối cao, Hà Nội, 2009.
Mặc dù vậy, nhưng vì nhiều lý do và nhiều quy định đã tạo ra sự sai biệt giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật của các nước khác cũng là thành viên của Công ước News York 1958, dẫn đến khó khăn trong việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn của tác giả đưa ra giải pháp khoa học mong mỏi hoàn thiện pháp luật
về Công nhận và cho thì hành Phán quyết của trọng tài nước ngoài ở Việt Nam hiện
2
nay, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thực thi các phán quyết trọng tài nước ngoài
ở Việt Nam hiện nay, đẩy mạnh quan hệ tư pháp thúc đẩy phát triển nền kinh tế đất
nước. Qua đó, dần hoàn thiện công tác xây dựng pháp luật, thể chế, tăng cường các
biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển nguồn nhân lực về đội ngũ Thẩm
phán, Trọng tài, phải đáp ứng đầy đủ bao gồm có cả việc thay đổi và xây dựng pháp
luật phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là việc công nhận và cho thì hành Phán
quyết trọng tài của nước ngoài ở Việt Nam hiện nay. Các quy định, hạn chế và bất
cập về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam.
3.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định theo CƯ 1958, Bộ Luật Tố tụng dân sự năm
2015, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 về Công nhận và cho thì hành Phán quyết
trọng tài của nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, luận văn này còn tham khảo một số ý kiến của chuyên gia, Thẩm
phán và các nhà nghiên cứu về Công nhận và cho thì hành Phán quyết trọng tài nước
ngoài ở Việt Nam làm cơ sở cho việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật và thi hành
pháp luật về Công nhận và cho thì hành Phán quyết trọng tài nước ngoài ở Việt Nam
hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành
của Pháp luật Việt Nam và CƯ 1958, Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Trọng
tài thương mại năm 2010, luận văn nghiên cứu dựa trên phương pháp luận tư tưởng
Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc phân tích, giải quyết các vấn đề.
Trên cơ sở phương pháp luận nêu trên, luận văn sử dụng một số phương pháp cụ thể
như phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích tổng hợp, so sánh đối chiếu, thống kê
và phỏng vấn một số chuyên gia…
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
3
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trên cơ
sở đó nhằm mục đích hướng đến hoàn thiện pháp luật về Công nhận và cho thì hành
Phán quyết trọng tài nước ngoài ở Việt Nam hiện nay. Qua đó, nâng cao hiệu quả,
điều chỉnh và rút kinh nghiệm để thực thi các phán quyết trọng tài nước ngoài ở Việt
Nam. Góp phần đưa thực tiễn vào giải quyết các vấn đề liên quan đến pháp lý trong
việc thực hiện nghiêm các qui định của pháp luật Việt Nam cũng như các qui định
khác mà Việt Nam đã ký kết với các quốc gia khác trên thế giới. Góp phần giảm tải
về giải quyết các tranh chấp thương mại bên cạnh Tòa án, trong bối cảnh thương mại
hóa toàn cầu đòi hỏi pháp luật hiện hành phải tuân thủ luật chơi quốc tế. Hy vọng
luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến đối tượng được nghiên
cứu sau này.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu thành ba chương và phần tài liệu tham khảo kèm theo
như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận và pháp luật về việc công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài.
Chương 2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về việc công nhận và cho thi hành
tại Việt Vam phán quyết của trọng tài nước ngoài.
Chương 3. Hoàn thiện pháp luật về công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
phán quyết của trọng tài nước ngoài.
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ VIỆC CÔNG NHẬN VÀ CHO THI
HÀNH TẠI VIỆT NAM PHÁN QUYẾT
CỦA TRỌNG TÀI NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm phán quyết trọng tài nước ngoài
Công nhận và cho thi hành PQTTNN có nghĩa là thừa nhận giá trị pháp lý và
áp dụng các biện pháp qui định của pháp luật để thực hiện Phán quyết Trọng tài nước
ngoài trên lãnh thổ của nước mà bên yêu cầu được thi hành.
Song song đó, khái niệm “phán quyết trọng tài nước ngoài” là khái niệm đóng
vai trò chủ đạo cho toàn bộ quy trình công nhận và cho thi hành. Một khi đã xác định
chính xác thế nào là PQTTNN thì quy trình công nhận và cho thi hành mới diễn ra
một cách đúng đắn.
Chính vì vậy, mà ngay từ những phần đầu tiên của CƯ 1958 đã khẳng định về
khái niệm phán quyết trọng tài nước ngoài. Cho nên, Điều I (1) CƯ có nêu ra các yếu
tố để xác nhận một phán quyết trọng tài có phải là phán quyết trọng tài nước ngoài
hay không, đó là vấn đề trọng tâm. Đồng thời, Công ước còn được áp dụng cho những
Phán quyết trọng tài không được coi là phán quyết trong nước tại quốc gia nơi việc
công nhận và thi hành chúng khi được yêu cầu.
Điều I (3) CƯ cho rằng: Thuật ngữ “các phán quyết trọng tài” bao gồm không
chỉ những phán quyết được ban hành bởi các Trọng tài viên được chỉ định cho từng
vụ mà còn bao gồm những phán quyết được ban hành bởi các tổ chức trọng tài thường
trực được các bên đưa vụ việc ra giải quyết.
Căn cứ vào Điều 1 CƯ nêu rõ: “Công ước này áp dụng đối với việc công nhận
và thi hành các phán quyết trọng tài được ban hành tại lãnh thổ của một Quốc gia
khác với Quốc gia nơi có yêu cầu công nhận và thi hành phán quyết trọng tài đó, xuất
phát từ các tranh chấp giữa các thể nhân hay pháp nhân. Công ước còn được áp dụng
cho những phán quyết trọng tài không được coi là phán quyết trong nước tại Quốc
gia nơi việc công nhận và thi hành chúng được yêu cầu.
5
PQTTNN được xem là yếu tố chủ yếu vì đây là yếu tố có tính căn bản, có tính
nền tảng để các quốc gia thành viên khi xây dựng những quy định pháp luật trong
nước của mình phải tuyệt đối tuân thủ. Vì lẽ đó cho nên (Điều I) CƯ cũng khẳng
định: Khi ký kết, phê chuẩn, hoặc gia nhập Công ước này, hoặc thông báo phạm vi
áp dụng Công ước theo điều X, bất kỳ Quốc gia nào cũng có thể trên cơ sở có đi có
lại tuyên bố rằng Quốc gia đó sẽ áp dụng Công ước đối với việc công nhận và thi
hành các quyết định được đưa ra tại lãnh thổ một Quốc gia thành viên khác mà thôi.
Quốc gia đó còn có thể tuyên bố chỉ áp dụng Công ước cho các tranh chấp phát sinh
từ các quan hệ pháp lý dù là quan hệ hợp đồng hay không thì cũng được coi là quan
hệ thương mại theo pháp luật quốc gia của Quốc gia đó. Như vậy, có thể thấy rằng,
yếu tố chủ yếu để CƯ xem một phán quyết trọng tài nước ngoài có thể thuộc đối
tượng điều chỉnh của mình hay không chính là nguyên tắc lãnh thổ. Tức là ở đây yếu
tố lãnh thổ có vai trò quyết định về tính nước ngoài của một phán quyết Trọng tài.
Theo đó, bất kỳ phán quyết nào được tuyên tại một quốc gia khác với quốc gia
của Tòa án công nhận và cho thi hành đều có thể thuộc phạm vi của CƯ. Có nghĩa là
“Phán quyết Trọng tài nước ngoài” bất kể là nước nơi Phán quyết Trọng tài được
tuyên có phải là thành viên công ước hay không. Chính vì vậy, quốc tịch, nơi thường
trú hoặc nơi tạm trú, hoặc trụ sở của các bên không liên quan đến việc xác định liệu
một phán quyết có phải là Phán quyết trọng tài nước ngoài hay không. Một ví dụ sau
đây, trọng tài VACC tuyên phán quyết tại Việt Nam nhằm giải quyết tranh chấp giữa
hai doanh nghiệp của Singapore thì phán quyết này là PQTTNN. Ngoài ra, một Phán
quyết được tuyên trong lãnh thổ của quốc gia nơi tiến hành việc công nhận và cho thi
hành nhưng không được xem là Phán quyết Trọng tài trong nước thì cũng được xem
là PQTTNN.
Tóm lại, yếu tố về mặt lãnh thổ là vấn đề quan trọng, đã được áp dụng một
cách rộng rãi và chiếm đa số trên hầu hết các quốc gia thành viên của CƯ 1958. Song
song đó, CƯ 1958 còn cho phép các nước thành viên vận dụng thêm, một phán quyết
được tuyên ngay trên lãnh thổ của nước được yêu cầu công nhận và cho thi hành cũng
có thể xem là PQTTNN nếu phán quyết này không được xem là Phán quyết trong
6
nước. Nếu như với yếu tố quan trọng vốn được ưu tiên là “nguyên tắc lãnh thổ”, thì
yếu tố ít quan trọng hơn lại tập trung vào tính “không phải trong nước”của một
PQTTNN.
Có thể hiểu rằng, khi yếu tố quan trọng được quy định một cách rõ ràng và cụ
thể thì thứ yếu lại hoàn toàn được CƯ 1958 bỏ ngỏ, đây cũng là một đều kiện thuận
lợi cho các nước có tham giam gia CƯ 1958. Cho nên, việc xác định thế nào là một
“Phán quyết Trọng tài” không phải trong nước sẽ được điều chỉnh do pháp luật của
quốc gia nơi tiến hành công nhận và cho thi hành. Như vậy, giải pháp này nhiều
chuyên gia cho rằng tính bỏ ngỏ của CƯ là vô cùng hợp lý và thuyết phục, bởi các lý
do sau:
(i) mỗi quốc gia có truyền thống và nhận thức pháp luật nói chung, cũng như
truyền thống đối với việc công nhận và cho thi hành Phán quyết Trọng tài nước ngoài
nói riêng, vốn dĩ pháp luật mỗi nước thực tế là khác nhau, nên việc đặt ra một quy
trình “chuẩn” cho tất cả các quốc gia thành viên CƯ là điều không thể;
(ii) xuất phát từ cách thức và hành động mà một quốc gia thành viên quan niệm
về việc công nhận và cho thi hành Phán quyết Trọng tài nước ngoài tại quốc gia của
mình sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến cách nhìn của Tòa án quốc gia đó về tính “không
phải trong nước” của một Phán quyết Trọng tài.
Ví dụ như, việc thừa nhận và cho phép thi hành tại Việt Nam PQTTNN có thể
được tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam và Phán quyết trọng tài nước ngoài được tuyên
tại lãnh thổ Việt Nam nhưng không do trọng tài Việt Nam tuyên, theo những nguyên
tắc và trình tự pháp lí nhất định.
Tòa án Việt Nam xem xét việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
PQTTNN trong trường hợp Phán quyết được tuyên tại nước hoặc của trọng tài của
nước mà Việt Nam và nước đó đã kí kết hoặc tham gia điều ước quốc tế về vấn đề
này. Ngoài ra, trên cơ sở Việt Nam đã kí kết với nhiều quốc gia về các Hiệp định
thương mại, thì PQTTNN cũng có thể được Tòa án Việt Nam dựa trên các yếu tố đó
để xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam trên cơ sở “có đi có lại”.
7
PQTTNN được thi hành tại Việt Nam sau khi được tòa án Việt Nam có quyết
định công nhận và cho thi hành.
Khoản 1, Điều 425 Bộ luật TTDS năm 2015 qui định: “Tổ chức, cá nhân được
thi hành, người đại diện hợp pháp của họ có quyền gửi đơn yêu cầu Tòa án công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam Phán quyết của trọng tài nước ngoài nếu tổ chức phải
thi hành có trụ sở tại Việt Nam, cá nhân phải thi hành cư trú, làm việc tại Việt Nam
hoặc nếu tài sản liên quan đến việc thi hành có tại Việt Nam…”
Tòa án có thẩm quyền xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
quyết định của trọng tài nước ngoài là Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương nơi tổ chức phải thi hành đóng trụ sở chính, nơi cá nhân phải thi hành cư
trú, làm việc hoặc nơi có tài sản liên quan.
Tại Việt Nam từ khi gia nhập CƯ 1958 đến nay, trải qua nhiều văn bản pháp
luật từ Pháp lệnh Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài
nước ngoài năm 1995, Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, và Luật Trọng tài thương mại
2010 đến Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đều sử dụng thuật ngữ “phán quyết của
trọng tài nước ngoài” thay vì thuật ngữ “phán quyết trọng tài nước ngoài” là đúng
hơn. Trên thực tế diễn giải một cách dài dòng hơn là “phán quyết của trọng tài nước
ngoài”. Để được hiểu nghĩa rộng theo quan niệm của pháp luật Việt Nam hiện thời
thì “phán quyết của trọng tài nước ngoài” chính là phán quyết được tuyên ở trong
hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam bởi trọng tài nước ngoài (trọng tài được thành lập theo
quy định của pháp luật nước ngoài) nhằm giải quyết các tranh chấp tức là PQTTNN.
Có hai vấn đề cần làm rõ từ định nghĩa này: trọng tài được thành lập theo quy
định của pháp luật nước ngoài và nơi tuyên phán quyết.
Căn cứ Luật trọng tài thương mại 2010, được qui định tại khoản 11(Điều 3):
“trọng tài nước ngoài là trọng tài được thành lập theo quy định của pháp luật trọng
tài nước ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn để tiến hành giải quyết tranh chấp ở
ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam”. Như vậy, trong qui định
pháp luật hiện hành của Việt Nam, một phán quyết có phải là “phán quyết của trọng
tài nước ngoài” hay không thì Điều 3 (12) Luật Trọng tài thương mại cũng khẳng
8
định: “phán quyết của trọng tài nước ngoài” là phán quyết do trọng tài nước ngoài
tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc ở trong lãnh thổ Việt Nam để giải quyết tranh
chấp do các bên thỏa thuận lựa chọn.
Song song đó, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, với tư cách là đạo luật điều
chỉnh toàn bộ quy trình công nhận và cho thi hành “Phán quyết Trọng tài nước ngoài”
ở Việt Nam thì cũng dẫn chiếu ngược lại các quy định của Luật Trọng tài thương mại
(Điều 424 (3) Bộ luật tố tụng dân sự 2015).
Hiểu một cách đơn giản là cho dù Phán quyết Trọng tài được tuyên tại Việt
Nam hay ngoài lãnh thổ Việt Nam, chỉ cần do trọng tài nước ngoài tuyên thì đều được
xem là “Phán quyết Trọng tài nước ngoài”, điều đó được hiểu như sau:
a) Trọng tài nước ngoài ban hành phán quyết ngoài lãnh thổ Việt Nam (áp
dụng nguyên tắc lãnh thổ).
b) Trọng tài nước ngoài ban hành Phán quyết trong lãnh thổ Việt Nam thì
trường hợp này là (phán quyết được ban hành trên lãnh thổ của nước công
nhận và cho thi hành nhưng không phải là phán quyết trong nước).
Có thể hiểu thêm là: Một phán quyết do trọng tài được thành lập theo pháp
luật Việt Nam ban hành trong lãnh thổ của một nước khác là PQTTNN, như vậy sẽ
phù hợp và sát sao với nguyên tắc lãnh thổ của CƯ hơn. Trọng tài nước ngoài là
Trọng tài được thành lập theo quy định của pháp luật, trọng tài nước ngoài do các bên
thỏa thuận lựa chọn để tiến hành giải quyết tranh chấp ở ngoài lãnh thổ Việt Nam
hoặc trong lãnh thổ Việt Nam.
Tóm lại, dù có cần giải nghĩa ra thì “Phán quyết trọng tài nước ngoài” cũng là
“Phán quyết của trọng tài nước ngoài” và được hiểu rằng: Phán quyết do Trọng tài
nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc được tuyên ở trong lãnh thổ Việt
Nam để giải quyết tranh chấp thương mại do các bên thỏa thuận lựa chọn.
9
1.2. Khái niệm công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng Tài nước
ngoài
Việc công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài hiện nay
được hầu hết các nước áp dụng theo CƯ 1958, CƯ được thông qua vào ngày
10/6/1958 và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 7/6/1959.
CƯ có tổng cộng 16 điều, trong đó 9 điều quy định về các thủ tục gia nhập, ký
kết, phê chuẩn của các quốc gia thành viên, về hiệu lực của công ước, các điều còn
lại quy định về thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài,
việc từ bỏ tham gia công ước, việc sử dụng công ước của các quốc gia và trách nhiệm
của Liên Hợp quốc trong việc triển khai thi hành công ước. Như vậy, mục tiêu của
CƯ 1958 là tạo ra những tiêu chuẩn pháp lý chung cho tất cả các nước tham gia về
việc công nhận các thỏa thuận trọng tài cũng như việc công nhận và thi hành các phán
quyết của trọng tài nước ngoài.
Theo đó, chính vì mục tiêu chuẩn về pháp lý cho nên các quốc gia thành viên
CƯ không được phân biệt đối xử đối với các PQTTNN và có nghĩa vụ phải đảm bảo
các PQTTNN được công nhận và có khả năng thi hành giống như các phán quyết
trọng tài trong nước.
Ngoài ra, CƯ 1958 còn yêu cầu Tòa án của các nước thành viên trao hiệu lực
đầy đủ cho thỏa thuận trọng tài bằng cách từ chối giải quyết các các tranh chấp có
dẫn chiếu đến một thoả thuận trọng tài. Như vậy, điều này cũng cho thấy tính chất
chuẩn mực về pháp lý của công ước cũng như những mục tiêu yêu cầu đề ra.
Ngày 28/7/1995, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký Quyết
định số 453/QĐ-CTN về việc tham gia Công ước về công nhận và thi hành Phán
quyết trọng tài nước ngoài. Được biết cho đến nay đã có 157 quốc gia và vùng lãnh
thổ tham gia CƯ 1958.
Ngoài ra, Việt Nam đã ký kết với 18 nước Hiệp định song phương, trong đó
có 14 hiệp định về tương trợ tư pháp đề cập đến quy định về công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài, PQTTNN. Bao gồm: Liên
bang Nga, Séc, Xlôvakia, Ba Lan, Hungari, Bungari, CuBa, CHDCND Lào, Trung
10
Quốc, CHDCND Triều Tiên, Ucraina, Belarut, Pháp, Mông Cổ. Tất cả các Hiệp định
song phương này đều có quy định về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định
dân sự của toà án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài. Chế định công
nhận và thi hành bản án, quyết định của nước ngoài trong các Hiệp định tương trợ
tư pháp thường bao gồm các nội dung: phạm vi công nhận và thi hành; về điều kiện
công nhận và thi hành; về nội dung đơn yêu cầu công nhận và thi hành; thủ tục công
nhận và thi hành; việc chuyển tiền và tài sản để đảm bảo thi hành quyết định. a/ Phạm
vi công nhận và thi hành: các bản án, quyết định của nước ngoài được công nhận và
cho thi hành bao gồm: bản án, quyết định dân sự; phần dân sự trong bản án hình sự;
các quyết định của Trọng tài thương mại. Đặc biệt trong một số các Hiệp định tương
trợ tư pháp ký với các nước còn phân biệt các bản án, quyết định dân sự có tính chất
tài sản và bản án, quyết định không mang tính chất tài sản trong việc công nhận và
cho thi hành. Điều 51 Hiệp định với Nga quy định đối với các bản án, quyết định dân
sự không mang tính tài sản của Bên ký kết này được công nhận trên lãnh thổ của Bên
ký kết kia mà không phải qua một thủ tục đặc biệt nào. Như vậy, ở đây có thể hiểu
việc Toà án xem xét công nhận và cho thi hành chủ yếu đặt ra đối với các bản án,
quyết định có tính chất tài sản và trong tương lai sẽ phải áp dụng các biện pháp
cưỡng chế thi hành nếu người phải thi hành án không tự nguyện thi hành. b/ Điều
kiện công nhận và thi hành: các Hiệp định đều quy định rất cụ thể các điều kiện đặt
ra đối với một bản án, quyết định để có thể được công nhận và cho thi hành. Tóm lại:
Thứ nhất, bản án, quyết định phải có hiệu lực pháp luật trên lãnh thổ nước tuyên bản
án, quyết định đó; Thứ hai, bản án, quyết định được cơ quan có thẩm quyền tuyên;
Thứ ba, các thủ tục tố tụng phải được đảm bảo.
1.3. Cơ sở pháp luật về việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán
quyết của Trọng tài nước ngoài
Sau khi tham gia CƯ 1958 vào năm 1995, đến nay Việt Nam đã nội luật hóa
các quy định của Công ước thể hiện tại BLTTDS năm 2015, Luật trọng tài thương
mại năm 2010 làm cơ sở pháp lý cho việc công nhận PQTTNN. Vấn đề công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam PQTTNN hiện đã được quy định tại Phần thứ bảy
11
(Chương XXXV và Chương XXXVII): Thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam Phán quyết Trọng tài nước ngoài của BLTTDS năm 2015.
Những phán quyết được xem xét và cho thi hành tại Việt Nam quy định tại
Điều 424. Phán quyết của Trọng tài nước ngoài được công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam, và quy định đó được xác định tai Điều 67 của Luật Trọng tài Thương Mại
năm 2010: : Phán quyết Trọng tài được thi hành theo qui định của pháp luật thi hành
án dân sự.”
Theo Điều 424 BLTTDS năm 2015;
+ Phán quyết của Trọng tài nước ngoài sau đây được xem xét công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam:
a) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài mà nước đó và Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam cùng là thành viên của điều ước quốc tế về công nhận và cho thi hành
phán quyết của Trọng tài nước ngoài;
b) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài không thuộc trường hợp quy định tại
điểm (a) khoản này trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại.
+ Phán quyết của Trọng tài nước ngoài quy định tại khoản 1 Điều này được
xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam là phán quyết cuối cùng của Hội
đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp, chấm dứt tố tụng trọng tài
và có hiệu lực thi hành.
+ Trọng tài nước ngoài, Phán quyết của Trọng tài nước ngoài quy định tại
khoản 1 Điều này được xác định theo quy định của Luật trọng tài thương mại của
Việt Nam.
Việc công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài là một
việc làm tất yếu để thi hành. Việc thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại
Việt Nam được thực hiện trên cơ sở quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án có
thẩm quyền về công nhận và cho thi hành (khoản 3 Điều 427 BLTTDS) về bảo đảm
hiệu lực quyết định của Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành hoặc không công
nhận Phán quyết của Trọng tài nước ngoài; Phán quyết của Trọng tài nước ngoài chỉ
12
được thi hành tại Việt Nam sau khi quyết định của Tòa án Việt Nam công nhận và
cho thi hành Phán quyết của Trọng tài nước ngoài đó có hiệu lực pháp luật.
Theo đó, việc công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài được
quy định trong BLTTDS, phù hợp với CƯ 1958 mà Việt Nam gia nhập từ năm 1995.
Như vậy, Phán quyết trọng tài là quyết định giải quyết toàn bộ tranh chấp và
chấm dứt tố tụng trọng tài (khác với Quyết định trọng tài là quyết định được ban hành
trong quá trình giải quyết tranh chấp). Theo cuốn hướng dẫn của Hội đồng quốc tế về
trọng tài thương mại (viết tắt là ICCa) diễn giải CƯ 1958 có viết “Thể thức trọng tài
là một phương thức giải quyết tranh chấp trong đó các bên thống nhất đưa tranh chấp
ra một bên thứ ba là bên sẽ đưa ra quyết định chung thẩm và có tính ràng buộc thay
vì đưa ra Tòa án”.
Phán quyết trọng tài có 3 ý nhĩa sau:
+ Có sự đồng thuận dựa trên thỏa thuận của các bên;
+ Là biện pháp giải quyết tranh chấp có tính chất chung thẩm (có hiệu lực pháp
luật ngay) và ràng buộc các bên;
+ Là phương thức thay thế tố tụng tại Tòa án.
- Phán quyết Trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn
bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài (khoản 10 Điều 3 Luật TTTM)
và khoản 2 Điều 424 BLTTDS năm 2015 quy định: “Phán quyết của Trọng tài nước
ngoài quy định tại khoản 1 Điều này được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam là phán quyết cuối cùng của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ
tranh chấp, chấm dứt tố tụng trọng tài và có hiệu lực thi hành”
- Trọng tài nước ngoài là Trọng tài được thành lập theo quy định của pháp
luật trọng tài nước ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn để tiến hành giải quyết tranh
chấp ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam (khoản 11 Điều 3 Luật
TTTM).
- PQTTNN là phán quyết do Trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ
Việt Nam hoặc ở trong lãnh thổ Việt Nam để giải quyết tranh chấp do các bên thỏa
thuận lựa chọn (khoản 12 Điều 3 Luật TTTM).
13
- PQTTNN được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
có hiệu lực pháp luật như quyết định của Tòa án của Việt Nam khi có hiệu lực pháp
luật.
- Địa điểm giải quyết tranh chấp là nơi Hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết
tranh chấp theo sự thỏa thuận lựa chọn của các bên hoặc do Hội đồng trọng tài quyết
định nếu các bên không có thỏa thuận. Nếu địa điểm giải quyết tranh chấp được tiến
hành trên lãnh thổ Việt Nam thì phán quyết phải được coi là tuyên tại Việt Nam mà
không phụ thuộc vào nơi Hội đồng trọng tài tiến hành phiên họp để ra phán quyết đó
(khoản 11 Điều 3 Luật TTTM).
Có thể nói, khi Tòa án được yêu cầu công nhận phán quyết trọng tài, Tòa án
không chỉ được yêu cầu công nhận hiệu lực pháp lý của phán quyết, mà còn phải đảm
bảo phán quyết đó được thi hành.
BLTTDS năm 2015 cũng quy định rằng: “Phán quyết được công nhận sẽ được
thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự và chỉ được thi hành sau khi có quyết định
của Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài
có hiệu lực pháp luật” (Điều 427 BLTTDS).
Cho nên, trên cơ sở luật định thì việc công nhận và cho thi hành phán quyết
của trọng tài nước ngoài ở Việt Nam hiện nay là một thủ tục tố tụng đặc biệt do Tòa
án tiến hành để xem xét, và cho công nhận PQTTNN trên phạm vi lãnh thổ của Việt
Nam.
1.4. Nguyên tắc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của
Trọng tài nước ngoài.
Để đảm bảo quyền lợi của các chủ thể liên quan, trên cơ sở chủ quyền quốc
gia, việc công nhận, thi hành PQTTNN phải tuân theo một số nguyên tắc công nhận
và cho thi hành PQTTNN ở Việt Nam pháp lý nhất định bao gồm:
Trên cơ sở Công ước New York 1958, khi gia nhập Việt Nam đã giới hạn
phạm vi áp dụng của Công ước New York 1958 tại Quyết định số 453/QĐ-CTN ngày
28-7-1995 của Chủ tịch nước về việc tham gia Công ước New York 1958. Theo quy
định tại Điều 2 của Quyết định số 453/QĐ- CTN ngày 28-7-1995 của Chủ tịch nước
14
về việc tham gia Công ước New York 1958 thì Việt Nam đưa ra 3 điều bảo lưu cơ
bản đó là:
(1) Công ước chỉ áp dụng đối với việc công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài được tuyên tại lãnh thổ của các q uốc gia thành viên của Công ước; đối với quyết định của Trọng tài nước ngoài tuyên tại lãnh thổ của quốc gia chưa ký kết hoặc tham gia Công ước, Công ước được áp dụng tại Việt Nam theo nguyên tắc có đi có lại.
(2) Chỉ áp dụng Công ước đối với “t ranh chấp phát sinh từ các quan hệ p háp
luật thương mại.”
(3) Mọi sự giải thích Công ước trước Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.
Tuy nhiên, sau đó tại Điều 21 Pháp lệnh công nhận và cho thi hành quyết định
của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam quy định: ”Trường hợp điều ước quốc tế
mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác quy
định của pháp lệnh này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế” và nay tại khoản
3 Điều 2 BLTTDS năm 2015 quy định: ”Bộ luật tố tụng dân sự được áp dụng đối
với việc giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài; trường hợp điều ước quốc
tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác thì áp
dụng quy định của điều ước quốc tế đó”
Theo quy định tại Điều 424 BLTTDS năm 2015 thì Toà án Việt Nam xem xét
đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước
ngoài theo 2 nguyên tắc cơ bản như sau.
- Theo quy định tại Điều 424 BLTTDS năm 2015 thì Toà án Việt Nam xem xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài theo 2 nguyên tắc cơ bản:
Thứ nhất, dựa trên cơ sở điều ước quốc tế:
a) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài mà nước đó và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cùng là thành viên của điều ước quốc tế về công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài;
b) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại.
Tuy nhiên, trong thực tiễn còn vướng mắc bởi pháp luật chưa định ra được
15
thẩm quyền, trình tự cũng như thủ tục cho việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại.
1.5. Thẩm quyền, điều kiện, trình tự, thủ tục công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài.
- Đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài
+ Người có quyền nộp đơn yêu cầu (khoản 1 Điều 425 BLTTDS):
+ Hình thức và nội dung đơn yêu cầu (Điều 452 BLTTDS) (khoản 2 Điều 452
BLTTDS).
a) Các giấy tờ, tài liệu kèm theo (Điều 453 BLTTDS)
- Đối với đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài
nước ngoài theo Công ước 1958 thì các giấy tờ, tài liệu kèm theo được quy định trong
Công ước 1958.
- Đối với đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước
ngoài trong trường hợp không có điều ước quốc tế hoặc điều ước quốc tế không quy
định thì đơn yêu cầu phải kèm theo các giấy tờ, tài liệu sau:
+ Bản chính hoặc bản sao có chứng thực phán quyết của Trọng tài nước ngoài;
+ Bản chính hoặc bản sao có chứng thực thỏa thuận trọng tài giữa các bên.
Nếu phán quyết trọng tài và thỏa thuận trọng tài không được lập bằng tiếng
Việt, người nộp đơn phải gửi kèm theo bản dịch đã được công chứng, chứng thực hợp
pháp của các văn bản này. Công ước 1958 quy định rằng, bản dịch phải được cán bộ
hoặc phiên dịch có trình độ chứng thực hoặc cơ quan ngoại giao hoặc lãnh sự xác
nhận (Điều IV Công ước 1958).
b) Thời hạn nộp đơn (Điều 451 BLTTDS) Thời hạn nộp đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài
nước ngoài là 3 năm kể từ ngày phán quyết trọng tài nước ngoài có hiệu lực pháp
luật. Trong trường hợp do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà họ
không thể nộp đơn trong thời hạn 3 năm thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc
trở ngại khách quan sẽ không được tính vào thời hạn nộp đơn.
c) Xử lý đơn + Nhận và thụ lý đơn của Tòa án
- Nhận đơn: (khoản 1 Điều 451 và Điều 454 BLTTDS).
16
+ Tòa án có thẩm quyền thụ lý, giải quyết
- Cấp Tòa án có thẩm quyền
Loại việc công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài
thuộc nhóm vụ việc kinh doanh thương mại được quy định tại khoản 5 Điều 31
BLTTDS 2015.
Nên theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 37, điểm
a khoản 3 Điều 38 của Bộ luật TTDS 2015 thì Tòa án có thẩm quyền xem xét đơn
yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài là Tòa kinh
tế Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
- Thẩm quyền theo lãnh thổ:
Theo điểm e khoản 2 Điều 39 BLTTDS năm 2015 thì Tòa án có thẩm quyền
giải quyết là Tòa án nơi:
+ Cá nhân phải thi hành án cư trú hoặc làm việc;
+ Cơ quan hoặc tổ chức phải thi hành án có trụ sở;
+ Có tài sản liên quan đến việc thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài.
Theo khoản 2 Điều 424 BLTTDS 2015 thì: “Phán quyết của Trọng tài nước
ngoài quy định tại khoản 1 Điều này được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam là phán quyết cuối cùng của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ
tranh chấp, chấm dứt tố tụng trọng tài và có hiệu lực thi hành”.
+ Tiến hành thủ tục thụ lý vụ việc khi đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm
theo đã đủ điều kiện thụ lý, và Thẩm phán thực hiện như sau:
(i) Thông báo cho người yêu cầu về việc nộp lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân
sự trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo nộp lệ phí, trừ
trường hợp người đó được miễn hoặc không phải nộp lệ phí theo quy định của pháp
luật về phí, lệ phí;
(ii) Tòa án tiến hành thụ lý khi người nộp đơn xuất trình biên lai nộp lệ phí
(Luật án phí, lệ phí Tòa án và Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016);
(iii) Thụ lý việc dân sự kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu nếu người yêu cầu
được miễn hoặc không phải nộp lệ phí.
17
+ Thụ lý đơn yêu cầu (Điều 455 BLTTDS).
+ (Điều 456 BLTTDS): Sau khi thụ lý mà Tòa án đã nhận đơn thấy rằng việc
giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại
Việt Nam thuộc thẩm quyền của Tòa án khác, thì Tòa án đã thụ lý vụ việc phải ra
quyết định chuyển hồ sơ cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho Viện kiểm sát
và các bên liên quan.
Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận được thông báo, các đương sự có quyền
khiếu nại và Viện kiểm sát có quyền kiến nghị đối với quyết định chuyển hồ sơ vụ
việc. Thủ tục giải quyết khiếu nại và kiến nghị được thực hiện theo quy định tại (Điều
41): Chuyển vụ việc dân sự cho Tòa án khác; giải quyết tranh chấp về thẩm quyền và
Điều 456 BLTTDS).
d) Xem xét đơn yêu cầu + Chuẩn bị xét đơn yêu cầu
- (khoản 1 Điều 457 BLTTDS).
- Những trường hợp không công nhận cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước
ngoài ở Việt Nam hiện nay.
+ Tại Điều V Công ước 1958 quy định:
“Việc công nhận và thi hành quyết định có thể bị từ chối, theo yêu cầu của bên
phải thi hành, chỉ khi nào bên đó chuyển tới cơ quan có thẩm quyền nơi việc công
nhận và thi hành được yêu cầu, bằng chứng rằng:
Các bên của thỏa thuận nói ở điều II, theo luật áp dụng đối với các bên, không
có đủ năng lực, hoặc thoả thuận nói trên không có giá trị theo luật mà các bên chịu
sự điều chỉnh, nếu không có chỉ dẫn về điều này, theo luật của Quốc gia nơi ra phán
quyết;
Nếu bên phải thi hành quyết định không được thông báo thích đáng về việc
chỉ định trọng tài viên hay về tố tụng trọng tài hoặc do một nguyên nhân gì khác
không thể trình bày vụ việc của mình; hoặc Quyết định giải quyết một tranh chấp
không được dự liệu trong các điều khoản của đơn yêu cầu đưa ra trọng tài giải quyết
hay nằm ngoài các điều khoản đó, hoặc quyết định trọng tài gồm các quyết định về
18
các vấn đề ngoài phạm vi yêu cầu xét xử bằng trọng tài. Tuy nhiên, nếu các quyết
định về các vấn đề được yêu cầu xét xử bằng trọng tài có thể tách rời khỏi các quyết
định về các vấn đề không được yêu cầu, thì phần của quyết định trọng tài gồm các
quyết định về vấn đề được yêu cầu có thể được công nhận và thi hành;
Thành phần trọng tài xét xử hoặc thủ tục xét xử trọng tài không phù hợp với
thoả thuận của các bên hoặc, nếu không có thoả thuận đó, không phù hợp với luật của
nước tiến hành trọng tài;
Quyết định chưa có hiệu lực ràng buộc đối với các bên, hoặc bị huỷ hay đình
hoãn bởi cơ quan có thẩm quyền của nước hoặc theo luật của nước nơi quyết định
được lập”
- Trên cơ sở các quy định của Điều V Công ước 1958, Việt Nam đã nội luật
hóa những quy định này tại Điều 459 BLTTDS năm 2015.
- Tòa án Việt nam cũng không công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán
quyết của Trọng tài nước ngoài khi xét thấy:
+ Theo khoản (2 Điều V) CƯ 1958 thì: Cơ quan có thẩm quyền của nước, nơi
việc công nhận và thi hành đó được yêu cầu cho rằng:
“Đối tượng của vụ tranh chấp không thể giải quyết được bằng trọng tài theo
luật pháp của nước đó; hoặc việc công nhận và thi hành quyết định sẽ trái với trật tự
công cộng của nước đó”.
+ Theo khoản 2 Điều 459 BLTTDS năm 2015 thì nếu Tòa án Việt Nam xét
thấy:
(a) “Theo pháp luật Việt Nam, vụ tranh chấp không được giải quyết theo thể
thức trọng tài”
Tức là nội dung tranh chấp giữa các bên không thể giải quyết bằng trọng tài
hoặc “không được trọng tài” theo quy định của nước nơi thực thi phán quyết. Căn cứ
này giống như căn cứ hủy phán quyết trọng tài. Mặt khác, một tranh chấp có thể được
coi là không thể gọi là phán quyết trọng tài nước ngoài nếu nó thuộc thẩm quyền riêng
biệt của Tòa án Việt Nam theo Điều 470 BLTTDS.
19
(b) “Việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết trọng tài trái với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”
Điều 14 (2) NQ 01/2014/HĐTP giải thích rằng: “Phán quyết trọng tài trái với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” tức là phán quyết vi phạm các nguyên
tắc xử sự cơ bản có hiệu lực khi thực hiện của pháp luật Việt Nam.
a. Thủ tục sơ thẩm - Hội đồng xét đơn yêu cầu phải đánh giá chứng cứ do các bên xuất trình một
cách cẩn trọng, kỹ lưỡng và vô tư. Tòa án chỉ được kiểm tra và đối chiếu phán quyết
của Trọng tài nước ngoài, giấy tờ, tài liệu kèm theo đơn yêu cầu với các quy định tại
Chương XXXV và Chương XXXVII của Bộ luật TTDS, các quy định khác có liên
quan của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên để làm cơ sở cho việc ra quyết định công nhận hoặc không công
nhận phán quyết đó.
b. Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
Quyết định của Tòa án nhân dân cấp cao có thể bị xem xét lại theo thủ tục
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm (khoản 6 Điều 462 BLTTDS) và quyết định sơ thẩm
của TAND cấp tỉnh không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật cũng có
thể bị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm.
Thủ tục, căn cứ và các vấn đề khác liên quan đến việc xem xét lại quyết định
của Tòa án nhân dân cấp cao về việc công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng
tài nước ngoài được thực hiện theo quy định tại chương XX và chương XXI phần thứ
V của Bộ luật tố tụng dân sự.
Kết Luận Chương 1
Đề tài Công nhận và cho thi hành Phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt
Nam được một số tác giả trong nước nghiên cứu, đánh giá, qua nhiều nghiên cứu cho
thấy sự không tương đồng trong khái niệm về phán quyết trọng tài nước ngoài. Luận
văn tập trung nghiên cứu về pháp luật Phán quyết trọng tài về Công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam hiện nay thông qua việc phân tích những vấn đề lý luận và thực
tiễn của pháp luật, trách nhiệm của cơ quan tố tụng và từ đó đưa ra giải pháp hoàn
20
thiện để phù hợp với bối cảnh thương mại hóa toàn cầu mà Việt Nam và các quốc gia
trên thế giới đã ký kết, từ đó đưa ra các giải pháp bổ sung để dần hoàn thiện cho lĩnh
vực pháp luật này. Công nhận và cho thi hành Phán quyết Trọng tài tại Việt Nam hiện
nay là một thủ tục chặt chẽ nhưng khá cởi mở phù hợp cho các quốc gia trên thế giới
tham gia trong lĩnh vực giao thương kinh doanh thương mại. Điều quan trọng nhất là
chúng ta có một điều ước quốc tế Công ước New York 1958 để làm kim chỉ nam cho
các nước tham gia, CƯ ra đời được quốc tế đón nhận và khẳng định Công ước New
York 1958 là công cụ đa phương thành công nhất trong lĩnh vực pháp luật thương
mại quốc tế. CƯlà trung tâm của tập hợp các hiệp ước và luật trọng tài nhằm bảo đảm
việc công nhận phán quyết trọng tài và thỏa thuận trọng tài. Tòa án trên khắp thế giới
đã áp dụng và diễn giải Công ước này trong hơn năm mươi năm qua, theo cách giải
quyết ngày càng thống nhất và hài hòa hơn.
Trong khuôn khổ chương I của luận văn nêu ra tác giả tóm tắt các khái niệm
về Phán quyết trọng tài nước ngoài, khái niệm công nhận và cho thi hành phán quyết
của Trọng Tài nước ngoài, cơ sở, nguyên tắc và thẩm quyền, trình tự thủ tục quy trình
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài. Từ đây
là cơ sở cho việc nghiên cứu thực trạng, đánh giá thực tiễn pháp luật Việt Nam về
việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài ở
chương tiếp theo.
21
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ VIỆC CÔNG NHẬN VÀ CHO
THI HÀNH TẠI VIỆT VAM PHÁN QUYẾT
CỦA TRỌNG TÀI NƯỚC NGOÀI
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về việc công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam Phán quyết Trọng tài nước ngoài
Thế nhưng trên thực tế, phán quyết trọng tài chỉ liên quan tới các bên tranh
chấp là bên có nghĩa vụ thi hành phán quyết phải thực hiện những yêu cầu nhất
định mà họ không mong muốn khi đưa tranh chấp ra giải quyết trước Trọng tài. Từ
thực tiễn pháp lý cho thấy, phán quyết trọng tài nước ngoài có thể được thi hành
bằng một trong hai cách: thứ nhất, bên có nghĩa vụ thi hành tự nguyện thực hiện
theo các yêu cầu của phán quyết trọng tài; thứ hai, bên có nghĩa vụ thi hành bị
cưỡng chế thi hành trong trường hợp không tự nguyện thực hiện hoặc chưa thực
22
hiện.
Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là: trong trường hợp người có nghĩa vụ thi hành tự
nguyện thực hiện thì có được coi là công nhận và thi hành phán quyết trọng tài hay
không? Song song đó, nếu như việc “công nhận và thi hành” được hiểu theo thực
tiễn nêu trên thì việc tự nguyện thực hiện cũng được xem là công nhận và cho thi
hành phán quyết trọng tài. Cho nên, trong trường hợp này, việc công nhận và thi
hành phán quyết trọng tài không đặt ra những vấn đề pháp lý quá phức tạp, cho nên
trong thực trạng pháp luật cũng như trong khoa học pháp lý, trường hợp này ít được
đặt ra và giải quyết. Tuy nhiên, chính vì không đặt ra những vấn đề quá phức tạp
dẫn đến việc công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài gặp
khó khăn. Dẫn đến việc cần quan tâm ở đây là trong trường hợp bên phải thi hành
không tự nguyện thi hành thì việc công nhận và thi hành phán quyết của Trọng
tài được hiểu và giải quyết theo hướng như thế nào?
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quy định trong trường hợp bên phải thi hành
phán quyết trọng tài không tự nguyện thi hành thì có thể “cưỡng chế” thi hành theo
yêu cầu của bên được thi hành. Như vậy, sự cưỡng chế trên không thể do bên được
thi hành hoặc Trọng tài thực hiện, bởi vì họ đều không phải là người thực thi quyền
lực Nhà nước để cưỡng chế thi hành. Chính vì vậy, “Việc công nhận và cho thi hành
Phán quyết trọng tài trong trường hợp bên phải thi hành không tự nguyện thực hiện
chỉ có thể do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tức là Tòa án thực hiện”
Thực tế pháp luật và khoa học pháp lý đều thống nhất rằng, việc công nhận
và cho thi hành phán quyết trọng tài là một loại việc trong tố tụng dân sự. Trong
thời gian này khi Tòa án xem xét công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài
đóng vai trò quan trọng nhất. Cho nên việc “công nhận” và cho “thi hành” nó có ý
nghĩa xuất phát từ mục đích của việc công nhận và thi hành. Vì thế, nếu “công
nhận” và cho “thi hành” được tách thành hai chế định độc lập thì vẫn có ý nghĩa
thực tiễn. Bởi lẽ, đã công nhận thì tức là phải thi hành.
Như vậy mục đích của việc “công nhận” là gì, tại sao phải có cơ quan quyền
lực Nhà nước Công nhận? Công nhận tức là dung quyền lực Nhà nước để ngăn
ngừa các bên tranh chấp tiếp tục khởi kiện ở vụ việc đã được giải quyết thì mục
23
đích của “thi hành” là buộc bên có nghĩa vụ phải thi hành trong trường hợp họ
không tự nguyện thực hiện.
Cho nên, theo tác giả Hoàng Phước Hiệp thì việc Công nhận và cho thi hành
luôn luôn đi song song nhau cho dù được tách bạch thì phạm trù “công nhận” được
hiểu một cách đơn giản là thừa nhận giá trị pháp lý của một quyết định nào đó, còn
“thi hành” là thừa nhận hiệu lực cưỡng chế thi hành của quyết định đó. Vì lẽ đó,
nếu phán quyết trọng tài nếu như không tự nguyện thi hành thì có thể có trường
hợp đó chỉ được công nhận nhưng lại không cần thi hành, trong khi đó, nếu một
phán quyết của Trọng tài được thi hành thì cũng có nghĩa là phán quyết đó đã được
công nhận. Vì việc thi hành phán quyết trọng tài không chỉ là việc công nhận hiệu
lực của phán quyết đó mà còn bao gồm cả việc đưa phán quyết đó vào cuộc sống
(đảm bảo thực thi phán quyết giảm các áp lực về các biện pháp cưỡng chế). Do
đó, nếu Tòa án có thẩm quyền đã ra quyết định cho thi hành phán quyết trọng tài
thì cũng có nghĩa là Tòa án đã công nhận hiệu lực của phán quyết trọng tài. Nói
cho cùng Công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài cho dù đứng ở góc độ
nào thì cũng có ý nghĩa thực tiễn, đi vào đời sống kinh doanh.
Như vậy, từ định nghĩa và các quan điểm trên có thể xác định rằng: “Thủ tục
công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài là cách thức mà Tòa án
của một quốc gia thừa nhận giá trị pháp lý của một phán quyết trọng tài nước ngoài
và làm cho phán quyết trọng tài nước ngoài đó có hiệu lực thi hành trên thực tế với
nội dung và theo trình tự do pháp luật quy định”.
Trình tự, thủ tục yêu cầu Tòa án công nhận và cho thi hành phán quyết trọng
tài ở các quốc gia có sự khác nhau, chủ yếu phụ thuộc vào vấn đề quốc gia đó có
thừa nhận phán quyết của Trọng tài có giá trị chung thẩm hay không?
Về vấn đề trên, có ý kiến cho rằng: Pháp luật về trọng tài ở một số nước, đặc
biệt là các quốc gia theo hệ thống pháp luật chung (Common Law), quy định cơ
chế kháng cáo đối với phán quyết trọng tài trên cơ sở tuân theo pháp luật. Quy định
trên là cần thiết nhằm mục đích ngăn ngừa những quyết định không đúng của
24
Trọng tài, được áp dụng trong trường hợp có những vi phạm pháp luật rõ ràng khi
đưa ra phán quyết trọng tài. Điều đó có nghĩa là, cho dù thừa nhận tính chung thẩm
của phán quyết trọng tài, nhưng không có nghĩa là phán quyết trọng tài đó mặc
nhiên được “công nhận và thi hành”.
Tức là, cho dù việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài không đặt ra
những vấn đề pháp lý quá phức tạp, cho nên trong thực trạng pháp luật cũng như
trong khoa học pháp lý, trường hợp này ít được đặt ra và giải quyết. Có nghĩa là
thực trang Công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài sẽ có khẽ hơ dẫn đến
việc cần cơ quan nhà nước ra công nhận phán quyết cần có nhiều chế định, dần
hoàn thiện để đi đến sự lựa chọn chế tài cơ bản.
Mặc dù trên phương diện về điều kiện kinh tế, nhanh gọn và đặc biệt là bảo
mật thông tin việc giải quyết tranh chấp Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh
chấp ngày càng được các thương nhân ưa chuộng, bởi các ưu điểm mà phương thức
giải quyết tranh chấp này mang lại. Tuy nhiên, thực trạng về các quy định pháp luật
về việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Phán quyết Trọng tài nước ngoài còn
nhiều điều chưa thực sự tương thích với các qui định của pháp luật quốc tế qui định.
Năm 2003 Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại và ngày
17/6/2010 Quốc hội khóa 12 đã thông qua Luật Trọng tài thương mại (Luật TTTM)
để thay thế Pháp lệnh Trọng tài thương mại nhằm đưa ra các quy định hợp lý, đầy đủ
và chặt chẽ hơn cho hoạt động trọng tài, tạo thêm sự lựa chọn cho các thương nhân
Việt Nam trong giải quyết tranh chấp. Tùy theo ý chí, sự lựa chọn của các bên mà
tranh chấp có thể được giải quyết bằng trọng tài Việt Nam hoặc được giải quyết bằng
trọng tài nước ngoài. Trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng hoặc sau khi có
tranh chấp các bên có thể thỏa thuận việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Tại Việt Nam, một khi các bên lựa chọn trọng tài Việt Nam là phương thức
giải quyết tranh chấp thì khi có phán quyết, một trong các bên không đồng ý với phán
quyết trọng tài sẽ có quyền yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài.
Trong trường hợp các bên lựa chọn Trọng tài nước ngoài, đó là trọng tài được
thành lập theo quy định của pháp luật trọng tài nước ngoài, do các bên thỏa thuận,
25
lựa chọn để giải quyết tranh chấp ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt
Nam điều đó có nghĩa là cho dù phán quyết được tuyên ở trong hay ngoài lãnh thổ
Việt Nam đều có hiệu lực như nhau.
Theo đó, Phán quyết do trọng tài nước ngoài ban hành được coi là PQTTNN.
Các PQTTNN sẽ không bị Tòa án Việt Nam hủy theo Luật TTTM như phán quyết
của “trọng tài trong nước”. Mà dựa trên các nguyên tắc cơ bản và luật định của pháp
luật để Công nhận và cho thi hành Phán quyết trọng tài nước ngoài hoặc không cho
công nhận.
+ PQTTNN muốn có giá trị pháp lý tại Việt Nam, muốn được thi hành trên
lãnh thổ Việt Nam thì phải thực hiện theo thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam PQTTNN. Thực trạng pháp luật về thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài sau đây cho chúng ta thấy còn nhiều chồng
chéo trong thủ tục được ban hành.
+ Bộ luật TTDS
+ Luật TTTM
+ Luật THADS …
Tuy nhiên, thực tiễn pháp lý cho thấy các quy định này vẫn còn tồn tại những
vấn đề bất cập, chưa tương thích, chưa đồng bộ và thống nhất với CƯ 1958.
2.1.1. Đối với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
Để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu hội
nhập và thực hiện cam kết quốc tế về hoàn thiện thủ tục giải quyết các vụ việc có yếu
tố nước ngoài, BLTTDS 2015 cũng đã có nhiều quy định về thủ tục giải quyết các
yêu cầu, tranh chấp có yếu tố nước ngoài như:
Các quy định về giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
PQTTNN cũng đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng nhằm khắc phục những bất
cập hiện nay về trình tự, thủ tục giải quyết đơn yêu cầu; về chủ thể có quyền nộp đơn
yêu cầu; về thời hạn yêu cầu…
Theo đó, bên cạnh việc có quyền nộp đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành
PQTTNN. Đồng thời, thời hạn nộp đơn yêu cầu cũng có những sửa đổi cơ bản theo
26
hướng thời hạn yêu cầu được quy định dài hơn là 03 năm đối với yêu cầu công nhận
và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài kể từ ngày PQTTNN có hiệu
lực pháp luật.
Sửa đổi, bổ sung các quy định về quyền, nghĩa vụ tố tụng, năng lực pháp luật
tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự của người nước ngoài, cơ quan, tổ
chức nước ngoài, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam của cơ quan, tổ chức
nước ngoài và tổ chức quốc tế, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam,
Nhà nước nước ngoài, bổ sung quy định về việc cho phép xem lại các quyết định của
Tòa án theo thủ tục qui định.
Sửa đổi quy định về thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam trong giải quyết
các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam
đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài theo hướng quy định đầy đủ, cụ thể
hơn được qui trong bộ luật TTDS năm 2015.
Thay đổi căn bản thủ tục thông báo, tống đạt văn bản tố tụng của Tòa án cho
đương sự ở nước ngoài nhằm đa dạng hóa các phương thức tống đạt, thông báo văn
bản tố tụng của Tòa án cho đương sự ở nước ngoài nhằm đảm bảo hiệu quả và rút
ngắn thời gian của việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở nước ngoài.
BLTTDS năm 2015 cũng đã bổ sung thêm các phương thức tống đạt mới như:
Tống đạt theo đường dịch vụ bưu chính, tống đạt qua văn phòng đại diện, chi nhánh
của họ tại Việt Nam, trường hợp thực hiện các phương thức tống đạt không có kết
quả thì Tòa án tiến hành niêm yết công khai và thông báo trên Cổng thông tin điện tử
của Tòa án (nếu có), Cổng thông tin điện tử của cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài.
Bổ sung quy định mới về việc người khởi kiện, người yêu cầu có quyền yêu
cầu Tòa án đề nghị cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài xác định địa chỉ của đương
sự trong trường hợp không xác định được địa chỉ của đương sự ở nước ngoài thì có
thể yêu cầu Tòa án Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền tìm kiếm người vắng mặt
tại nơi cư trú, tuyên bố đương sự mất tích hoặc đã chết theo quy định của pháp luật
Việt Nam hoặc pháp luật nước ngoài hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
27
nghĩa Việt Nam là thành viên và bổ sung quy định về thu thập chứng cứ ở nước ngoài.
Quy định mới, đặc thù về thủ tục thông báo về việc thụ lý, ngày mở phiên họp,
phiên tòa, thời hạn mở phiên tòa, phiên họp hòa giải đối với vụ việc có yếu tố nước
ngoài; về thời hạn kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án xét xử vụ án dân sự có
yếu tố nước ngoài; về xử lý kết quả tống đạt văn bản tố tụng của Tòa án cho đương
sự ở nước ngoài và kết quả yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thu thập
chứng cứ; về tống đạt, thông báo văn bản tố tụng và xử lý kết quả tống đạt, thông báo
văn bản tố tụng của Tòa án cấp phúc thẩm cho đương sự ở nước ngoài; về xác định
và cung cấp pháp luật nước ngoài để Tòa án áp dụng trong việc giải quyết vụ việc
dân sự có yếu tố nước ngoài.
+ Quy định chung về thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán
quyết của Trọng tài nước ngoài (Chương XXXV)
+ Quy định cụ thể Phán quyết của Trọng tài nước ngoài được công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam (Điều 424) bao gồm:
BLTTDS 2015 cũng không định nghĩa phán quyết của Trọng tài nước ngoài
mà quy định cụ thể phán quyết của Trọng tài nước ngoài được xem xét công nhận và
cho thi hành ở Việt Nam gồm: Phán quyết của Trọng tài nước ngoài mà nước đó và
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ký kết, trừ trường hợp đương nhiên được
công nhận quy định tại (Điều 431) của BLTTDS. Phán quyết của Trọng tài nước
ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam có hiệu lực
pháp luật như quyết định của Tòa án Việt Nam đã có hiệu lực pháp luật và được thi
hành theo thủ tục thi hành án dân sự. Như vậy, phán quyết của Trọng tài nước ngoài
chỉ được thi hành tại Việt Nam sau khi quyết định của Tòa án Việt Nam công nhận
và cho thi hành thì phán quyết của Trọng tài nước ngoài đó có hiệu lực thi hành.
+ Quy định về việc gửi quyết định của Tòa án về công nhận và cho thi hành
phán quyết của Trọng tài nước ngoài (Điều 428).
Theo quy định này, Tòa án có trách nhiệm chuyển giao trực tiếp hoặc qua dịch
vụ bưu chính hoặc thông qua Bộ Tư pháp quyết định của Tòa án cho người được thi
hành, người phải thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài hoặc người đại diện
28
hợp pháp của họ, Viện Kiểm Sát(VKS) cùng cấp và cơ quan thi hành án dân sự theo
quy định của Bộ luật này.
+ Quy định về việc bảo đảm quyền chuyển tiền, tài sản thi hành phán quyết
của Trọng tài nước ngoài (Điều 429)
Nhà nước Việt Nam bảo đảm việc chuyển tiền, tài sản thi hành phán quyết của
Trọng tài nước ngoài đã được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành từ Việt
Nam ra nước ngoài. Việc chuyển tiền, tài sản này được thực hiện theo quy định của
pháp luật Việt Nam.
+Thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết
của Trọng tài nước ngoài (Chương XXXVII)
- Quy định cụ thể về thời hạn gửi đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài (Điều 451).
BLTTDS 2015 đã quy định cụ thể thời hạn gửi đơn yêu cầu công nhận và cho
thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài. Theo đó, trong thời hạn 03 năm, kể từ
ngày phán quyết của Trọng tài nước ngoài có hiệu lực pháp luật, người được thi hành,
người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ có
quyền gửi đơn đến Bộ Tư pháp Việt Nam theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc Tòa án có thẩm quyền của Việt
Nam theo quy định của BLTTDS trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên không quy định hoặc không có điều ước quốc
tế liên quan để yêu cầu Tòa án công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết đó.
Trường hợp người làm đơn chứng minh được vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại
khách quan mà không thể gửi đơn đúng thời hạn thì thời gian có sự kiện bất khả kháng
hoặc trở ngại khách quan đó không tính vào thời hạn gửi đơn.
+ Quy định đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết
của Trọng tài nước ngoài và giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu (Điều 452 và
Điều 453)
BLTTDS 2015 sửa đổi, bổ sung quy định mới, theo đó đương sự có thể lựa
chọn gửi đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng
29
tài nước ngoài thông qua Bộ Tư pháp hoặc gửi trực tiếp đến Tòa án Việt Nam có
thẩm quyền. Đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của
Trọng tài nước ngoài phải có các nội dung theo quy định.
+ (Điều 454) - Quy định việc chuyển hồ sơ cho Tòa án trong trường hợp người
yêu cầu gửi đơn qua Bộ Tư pháp Việt Nam
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu và giấy
tờ, tài liệu gửi kèm theo đơn quy định thì Bộ Tư pháp phải chuyển cho Tòa án có
thẩm quyền. Trường hợp Bộ Tư pháp đã chuyển hồ sơ cho Tòa án mà sau đó Bộ Tư
pháp lại nhận được thông báo của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cho biết
đang xem xét hoặc đã hủy bỏ, đình chỉ thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài
thì Bộ Tư pháp phải thông báo ngay bằng văn bản cho Tòa án biết.
+ (Điều 455) - Quy định về thụ lý hồ sơ
Yêu cầu công nhận và cho thi hành Phán quyết của Trọng tài nước ngoài là
việc dân sự. Vì vậy BLTTDS 2015 quy định: Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận được hồ sơ do Bộ Tư pháp chuyển đến hoặc nhận được đơn và giấy tờ, tài
liệu kèm theo do người có đơn yêu cầu gửi đến, Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào
các điều 363 (thủ tục nhận và xử lý đơn yêu cầu), 364 (trả lại đơn yêu cầu) và 365
(thông báo thụ lý đơn yêu cầu) của Bộ luật để xem xét, thụ lý và thông báo bằng văn
bản cho người được thi hành, người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của
họ tại Việt Nam, VKS cùng cấp và Bộ Tư pháp.
+ (Điều 456) - Quy định chuyển hồ sơ cho Tòa án khác, giải quyết tranh chấp
về thẩm quyền.
BLTTDS 2015 bổ sung quy định cụ thể việc chuyển hồ sơ cho Tòa án khác,
giải quyết tranh chấp về thẩm quyền. Theo đó, trường hợp sau khi thụ lý mà Tòa án
xét thấy việc giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết
của Trọng tài nước ngoài thuộc thẩm quyền của Tòa án khác của Việt Nam thì Tòa
án đã thụ lý ra quyết định chuyển hồ sơ cho Tòa án có thẩm quyền và xóa tên yêu cầu
đó trong sổ thụ lý. Quyết định này phải được gửi ngay cho VKS cùng cấp và đương
sự. Đương sự có quyền khiếu nại, VKS có quyền kiến nghị đối với quyết định này
30
trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định. Trình tự, thủ tục
giải quyết khiếu nại, kiến nghị, giải quyết tranh chấp về thẩm quyền được thực hiện
theo quy định tại Điều 41 BLTTDS 2015.
+ Quy định về chuẩn bị xét đơn yêu cầu (Điều 457)
Mặc dù là việc dân sự nhưng do có yếu tố nước ngoài nên BLTTDS 2015 quy
định thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu của loại việc dân sự có tính chất đặc thù này
là 2 tháng. Trong thời hạn 02 tháng, kể từ ngày thụ lý, tuỳ từng trường hợp mà Tòa
án ra một trong các quyết định : a) Tạm đình chỉ việc xét đơn yêu cầu quy định tại
khoản 2 Điều 457 BLTTDS 2015; b) Đình chỉ việc xét đơn yêu cầu quy định tại khoản
3 Điều 457 BLTTDS 2015; c) Mở phiên họp xét đơn yêu cầu quy định tại Điều 458
BLTTDS 2015.
Theo khoản 5 Điều 61 Luật TTTM thì phán quyết trọng tài là chung thẩm và
có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Tuy nhiên, Khoản 2 Điều 66 Luật TTTM năm
2010 lại quy định: Đối với phán quyết của Trọng tài vụ việc, bên được thi hành có
quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán
quyết trọng tài sau khi phán quyết được đăng ký theo quy định, tại Điều 62 của Luật
TTTM, và thời hạn đăng ký là 1 năm kể từ ngày ban hành phán quyết. Vấn đề đặt ra
là thời hiệu yêu cầu thi hành án được tính bắt đầu từ thời điểm nào là chính xác: kể
từ ngày có phán quyết trọng tài hay từ khi phán quyết đó được đăng ký tại tòa án?
Có thể thấy, sự không thống nhất giữa các quy định pháp luật nói trên đã khiến
cho thời hiệu thi hành phán quyết trọng tài vụ việc chỉ còn chưa được 4 năm kể từ
ngày phán quyết trọng tài có hiệu lực chứ không phải 5 năm. Do đó cần có quy định
cụ thể hơn về vấn đề này.
2.1.2. Đối với Luật Trọng tài thương mại năm 2010
Ngày 17/06/2010, Luật Trọng tài thương mại số 54/2010/QHXII được Quốc
hội khóa XII kỳ họp thứ 7 thông qua, thay thế cho Pháp lệnh Trọng tài thương mại
năm 2003. Luật mới ra đời đã tiếp cận các chuẩn mực của pháp luật và thực tiễn trọng
tài thương mại quốc tế hiện đại, có tính kế thừa và tính đến điều kiện thực tế của Việt
Nam. Tuy nhiên, bên cạnh đó Luật TTTM 2010 vẫn còn những điểm bất cập cần
31
được sửa đổi, bổ sung trong thời gian tới.
Phán quyết của Trọng tài nước ngoài được công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam (Điều 424) khoản 3: “Trọng tài nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài
quy định tại khoản 1 Điều này được xác định theo quy định của Luật TTTM của Việt
Nam.”
BLTTDS 2015 quy định tại Điều 424: Trọng tài nước ngoài được xác định
theo quy định của Luật trọng tài thương mại của Việt Nam.
Trong khi đó, Luật trọng tài thương mại năm 2010 của Việt Nam lại quy định
Trọng tài nước ngoài là Trọng tài được thành lập theo pháp luật nước ngoài; phán
quyết của Trọng tài nước ngoài là phán quyết do Trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài
lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam.
Qui định ở Luật TTTM về Công nhận và cho thi hành PQTTNN có tính mở
hơn, nhưng pháp luật Việt Nam đã làm người thực thi dẫn chiếu nhiều nội dung trùng
lặp để chỉ giải quyết một vấn đề là công nhận hay không công nhận. Tuy nhiên, nếu
định nghĩa Trọng tài nước ngoài như quy định của Luật trọng tài thương mại 2010
của Việt Nam thì đối với trường hợp Trọng tài vụ việc (Trọng tài ad - hoc) sẽ không
có căn cứ để xác định đó là Trọng tài nước ngoài hay Trọng tài Việt Nam vì Hội đồng
trọng tài này (có khi chỉ gồm một trọng tài viên) được lựa chọn và thành lập theo sự
thỏa thuận của các bên, không thuộc và không theo quy tắc tố tụng của bất cứ một tổ
chức trọng tài nào, không theo pháp luật của bất cứ một quốc gia nào.
Việc không xác định được Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp là trong nước
hay nước ngoài sẽ dẫn đến sự lúng túng của Tòa án Việt Nam khi nhận được đơn yêu
cầu công nhận và cho thi hành hoặc đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của một
bên tranh chấp vì luật Việt Nam có sự phân biệt đối xử giữa “phán quyết của Trọng
tài trong nước” và “phán quyết của Trọng tài nước ngoài”
Đối với phán quyết của Trọng tài trong nước, luật áp dụng là Luật trọng tài
thương mại, còn đối với PQTTNN thì luật áp dụng lại là BLTTDS và CƯ 1958.
Trong khi đó, được biết luật của các nước phát triển hầu như không có sự
phân biệt đối xử giữa giữa phán quyết của “Trọng tài trong nước” với “phán quyết
32
của Trọng tài nước ngoài”. Bởi ở các nước này, dù là phán quyết của Trọng tài nước
ngoài hay Trọng tài trong nước, muốn được thi hành trên lãnh thổ của họ thì đều phải
được Tòa án sở tại công nhận và cho thi hành. Đồng thời họ vẫn có quy định cho
phép một bên có quyền nộp đơn đến Tòa án yêu cầu hủy phán quyết trọng tài nếu có
căn cứ theo quy định.
Thực trạng nêu trên tác giả thấy rằng một mặt pháp luật Việt Nam đã phản ánh
chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế về kinh tế của Việt Nam. Nhưng mặt khác,
với nhiều PQTTNN trong suốt thời gian qua không được Tòa án Việt Nam công nhận,
đã làm dấy lên nỗi lo ngại của các doanh nghiệp nước ngoài về sự “thiên vị” của hệ
thống tư pháp Việt Nam dành cho các doanh nghiệp trong nước. Thực trạng đó đòi
hỏi các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước Việt Nam cần phải nhanh chóng tìm ra
nguyên nhân tại sao, và giải pháp khắc phục các thiếu sót của pháp luật và người thực
thi pháp luật nếu có. Điều đó cần phải quan tâm sát sao để tạo dựng niềm tin của cộng
đồng quốc tế vào sự công minh của nền tư pháp Việt Nam trong việc giải quyết các
tranh chấp thương mại quốc tế.
* Thực trạng Pháp luật và thực thi về công nhận và cho thi hành PQTTNN
đang là vấn đề nan giải, một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng yêu cầu công nhận
và cho thi hành PQTTNN có nhiều nguy cơ bị Tòa án Việt Nam từ chối nó liên quan
đến những vấn đề sau đây:
- Giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành
PQTTNN: Điều IV CƯ 1958 quy định người yêu cầu công nhận và cho thi hành
PQTTNN phải nộp kèm theo đơn yêu cầu bản gốc hoặc bản sao được chứng thực hợp
lệ của phán quyết trọng tài và thỏa thuận trọng tài, trong khi đó, BLTTDS 2015 (Điều
453) cũng có quy định tương tự.
Như vậy, mặc dù đến nay Việt Nam đã tham gia CƯ và có tới 157 nước tham
gia CƯ 1958 tuy nhiên, các văn bản nói trên không có quy định cụ thể và TAND tối
cao cũng không có hướng dẫn thế nào là bản sao hợp pháp trong trường hợp thỏa
thuận trọng tài được các bên xác lập bằng phương tiện điện tử (hợp đồng hoặc thỏa
33
thuận trọng tài là giao dịch điện tử). Đặc biệt là trong trường hợp giao dịch điện tử
đó không có chữ ký điện tử kèm theo.
Trong thực tế đã có trường hợp người yêu cầu nộp kèm theo đơn bản sao thỏa
thuận trọng tài (là điều khoản trọng tài trong hợp đồng) giữa các bên có chứng thực
sao y của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài nhưng theo trình bày của bên yêu
cầu, đây là bản sao in từ máy vi tính, không phải là bản sao y từ bản chính của hợp
đồng do hợp đồng này được bên Việt Nam (tức bên phải thi hành) gửi cho bên nước
ngoài bằng skype (tức là phương tiện điện tử) trong khi bên Việt Nam phủ nhận việc
ký và gửi bản hợp đồng này cho bên nước ngoài. Sẽ khó thực thi nếu bên Việt Nam
phủ nhận, nhưng nếu chứng minh được vấn đế này thì với phương tiện công nghệ
hiện nay là không khó, bởi thư điện tử cũng là một hình thức được thể hiện lưu nộp
làm bằng chứng mà các bên không thể gian dối.
Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là, dù bản sao thỏa thuận trọng tài nói trên đã được
cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài chứng thực sao y (đồng thời đã được hợp
pháp hóa lãnh sự) thì TA Việt Nam có chấp nhận là bản sao hợp pháp hay không?
Nếu như không chấp nhận thì Tòa án sẽ giải quyết như thế nào trong khi CƯ 1958
cũng như BLTTDS (cả luật 2004 và luật 2015) đều không có quy định để xử lý tình
huống này. Nó sẽ dẫn đến hệ lụy cho bên phải thi hành mà vẫn phải có nghĩa vụ
chứng minh.
Như vậy, đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh
cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp; “đương sự phản đối yêu cầu của người khác
đối với mình cũng phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để
chứng minh cho sự phản đối đó.” Theo quy định tại BLTTDS 2015 (Điều 91).
- Nghĩa vụ chứng minh
Như vậy, đây chính là nghĩa vụ chứng minh của bên yêu cầu theo nguyên tắc
quy định tại Điều 91 nói trên của BLTTDS 2015 và Điều IV của CƯ 1958 đã quy
định: người yêu cầu công nhận và cho thi hành PQTTNN phải nộp kèm theo đơn yêu
cầu bản gốc hoặc bản sao được chứng thực hợp lệ của phán quyết trọng tài và thỏa
34
thuận trọng tài và (Điều 453) BLTTDS 2015 đã quy định kèm theo đơn yêu cầu phải
có bản sao hợp pháp PQTTNN và bản sao hợp pháp thỏa thuận trọng tài.
Điều V của CƯ quy định: Việc công nhận và cho thi hành phán quyết có thể
bị từ chối, theo yêu cầu của bên phải thi hành, chỉ khi nào bên đó cung cấp cho cơ
quan có thẩm quyền nơi việc công nhận và cho thi hành được yêu cầu, bằng chứng
rằng thỏa thuận trọng tài hoặc việc giải quyết của Trọng tài rơi vào các trường hợp
không được công nhận:
Các bên của thỏa thuận nói ở điều II CƯ, theo luật áp dụng đối với các bên,
không có đủ năng lực, hoặc thoả thuận nói trên không có giá trị theo luật mà các bên
chịu sự điều chỉnh, nếu không có chỉ dẫn về điều này, theo luật của Quốc gia nơi ra
quyết định; hoặc nếu bên phải thi hành quyết định không được thông báo thích đáng
về việc chỉ định trọng tài viên hay về tố tụng trọng tài hoặc do một nguyên nhân gì
khác không thể trình bày vụ việc của mình; hoặc
Quyết định giải quyết một tranh chấp không được dự liệu trong các điều khoản
của đơn yêu cầu đưa ra trọng tài giải quyết hay nằm ngoài các điều khoản đó, hoặc
quyết định trọng tài gồm các quyết định về các vấn đề ngoài phạm vi yêu cầu xét xử
bằng trọng tài. Tuy nhiên, nếu các quyết định về các vấn đề được yêu cầu xét xử bằng
trọng tài có thể tách rời khỏi các quyết định về các vấn đề không được yêu cầu, thì
phần của quyết định trọng tài gồm các quyết định về vấn đề được yêu cầu có thể được
công nhận và thi hành; hoặc
Thành phần trọng tài xét xử hoặc thủ tục xét xử trọng tài không phù hợp với
thoả thuận của các bên hoặc, nếu không có thoả thuận đó, không phù hợp với luật của
nước tiến hành trọng tài; hoặc
Quyết định chưa có hiệu lực ràng buộc đối với các bên, hoặc bị huỷ hay đình
hoãn bởi cơ quan có thẩm quyền của nước hoặc theo luật của nước nơi quyết định
được lập.
Việc công nhận và thi hành quyết định trọng tài còn có thể bị từ chối nếu như
cơ quan có thẩm quyền của nước, nơi việc công nhận và thi hành đó được yêu cầu
cho rằng: “Đối tượng của vụ tranh chấp không thể giải quyết được bằng trọng tài theo
35
luật pháp của nước đó; hoặc Việc công nhận và thi hành quyết định sẽ trái với trật tự
công cộng của nước đó”. Điều V của CƯ 1958 nêu.
Như vậy, CƯ đã quy định bên phản đối việc công nhận PQTTNN phải có
nghĩa vụ chứng minh PQTTNN rơi vào một trong các trường hợp không được công
nhận và ngược lại.
Tuy nhiên, khi quy định về các trường hợp Tòa án không nhận PQTTNN,
BLTTDS 2004 lại không quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên nào nên trong
thực tiễn đã phát sinh nhiều quan điểm áp dụng khác nhau như: Nhằm khắc phục
thiếu sót nói trên của BLTTDS 2015 (Điều 459) đã quy định rõ hơn về căn cứ để Tòa
án không công nhận PQTTNN.
Tuy nhiên, BLTTDS 2015 vẫn chưa khẳng định một cách rõ ràng nghĩa vụ
chứng minh thuộc về bên nào như quy định tai Điều V của CƯ 1958. Ngoài ra, trong
khi (Điều V) CƯ 1958 quy định phán quyết của trọng tài nước ngoài có thể bị từ chối
công nhận (“may be refused”) khi rơi vào những trường hợp nhất định (tức là Tòa án
vẫn có thể công nhận khi phán quyết của trọng tài nước ngoài rơi vào những trường
hợp này) thì cả BLTTDS 2004 (Điều 370) và BLTTDS 2015 (Điều 459) đều quy định
Tòa án Việt Nam sẽ không công nhận khi Phán quyết của trọng tài nước ngoài rơi
vào những trường hợp không được công nhận, tức là các Thẩm phán Việt Nam không
có sự lựa chọn nào khác khi xảy ra những trường hợp như vậy. Tức là, nếu chỉ chọn
theo các điều luật đã qui định nêu trên thì sẽ bất lợi cho bên được thi hành PQTTNN
tại Việt Nam.
Ngoài ra, Pháp luật Việt Nam cũng qui định tại điểm b khoản 2 Điều 459
BLTTDS năm 2015, việc không công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định
của trọng tài nước ngoài khi xét thấy quyết định đó trái với “các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật Việt Nam”. Trên thực tế nếu Tòa án áp dụng căn cứ này để không công
nhận phán quyết trọng tài nước ngoài, ít nhiều làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư
kinh doanh, hội nhập kinh tế. Điều này có vẻ như luật định và Tòa án áp đặt luật Việt
Nam để thực hiện cho các PQTTNN, điều này sẽ dẫn đến việc căn cứ xem xét của
Tòa án Việt Nam sẽ không phù hợp với việc mở cửa hội nhập kinh tế thế giới, làm
36
ảnh hưởng môi trường kinh doanh của Việt nam, đi ngược lại những nỗ lực giao
thương của Việt Nam đối với các nước trên thế giới.
Trong khi đó, Luật trọng tài của nhiều quốc gia trên thế giới được xây dựng
theo tinh thần quy định nói trên của CƯ cho nên các thẩm phán ở những nước này
vẫn có thể công nhận phán quyết của trọng tài nước ngoài khi rơi vào những trường
hợp quy định mặc dù họ có quyền từ chối theo Điều V của CƯ. Cụ thể là: đối với
những phán quyết trọng tài đã bị cơ quan có thẩm quyền của nước nơi phán quyết đã
được tuyên hoặc của nước có pháp luật được áp dụng hủy bỏ hoặc đình chỉ thi hành
thì Tòa án nơi yêu cầu công nhận vẫn có thể công nhận và cho thi hành trên lãnh thổ
của nước họ. Ví dụ: Tòa án của các nước Pháp, Mỹ, Nhật,…
- Như thế nào là trái với các nguyên tắc cơ bản của Pháp luật Việt Nam?
+ Không công nhận PQTTNN vì lý do việc công nhận và cho thi hành
PQTTNN tại VN sẽ “trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”? Theo
Khoản 2 Điều 459 BLTTDS 2015 quy định PQTTNN cũng không được công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam nếu Tòa án Việt Nam xét thấy việc công nhận và cho
thi hành PQTTNN tại Việt Nam sẽ “trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam”. Tuy nhiên, giải thích như thế nào là “nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam” thì hiện nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau.
+ Như thế nào là “nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, khái niệm của
cụm từ trên theo Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng
Thẩm phán TAND tối cao có giải thích thế nào là “trái với các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam”. Cụ thể: “Điểm đ Khoản 2 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-
HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao giải thích: “Phán
quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam là phán quyết
trọng tài vi phạm các nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây
dựng và thực hiện pháp luật Việt Nam.” Tuy nhiên, việc giải thích này vẫn còn rất
chung chung, chưa cụ thể, hơn nữa, văn bản này chỉ hướng dẫn việc áp dụng Luật
Trọng tài thương mại 2010 để giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trong nước,
không hướng dẫn BLTTDS để giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành
37
PQTTNN tại Việt Nam.
+ Tại điểm b khoản 2 Điều 459 BLTTDS năm 2015, cũng nêu rõ, việc không
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài khi xét
thấy quyết định đó trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Khái niệm “nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” chưa được hướng dẫn
cụ thể, chưa được làm rõ như thế nào là trái, đồng thời các Thẩm phán Việt Nam chưa
có cách hiểu thống nhất nên trong thực tiễn giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi
hành PQTTNN tại Việt Nam cũng như yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trong nước.
Việc này cho thấy đã có sự áp dụng không thống nhất luật để áp dụng, thậm chí có
trường hợp có dấu hiệu lạm dụng từ ngữ, gây bức xúc cho bên được thi hành.
+ Hơn nữa, Điều V của CƯ chỉ dùng cụm từ “chính sách công” hoặc “trật tự
công” (nguyên văn tiếng Anh: “public policy”). Cụm từ “nguyên tắc cơ bản của pháp
luật” từ các qui định ở luật Việt Nam, còn chưa rõ nghĩa.
Trong khi đó, nhiều chuyên gia về lĩnh vực này cho rằng khái niệm “chính
sách công” hoặc “trật tự công” cũng có nội dung tương tự như khái niệm “nguyên tắc
cơ bản của pháp luật”, chính vì vậy cho nên dù luật của Việt Nam có dùng thuật ngữ
“trật tự công” như CƯ 1958 thì cũng không làm cho “nguyên tắc cơ bản của pháp
luật” trở nên rõ nghĩa hơn, và “nguyên tắc cơ bản của pháp luật” có thể thay thế từ
ngữ phù hợp hơn.
Thiết nghĩ, trật tự công trong CƯ đã nhắc đến một phần nhỏ ảnh hưởng đến
lợi ích công cộng của quốc gia tham gia CƯ, còn nguyên tắc cơ bản của pháp luật
mang tính chất rộng lớn và nó bảo vệ quyền lợi quốc gia nhưng cũng dễ bị lạm quyền
cho một quyết định khi tranh chấp (Doanh nghiệp, Thương nhân tranh chấp).
Theo đó, nếu dùng thuật ngữ “trật tự công” khi quy định các căn cứ để không
công nhận PQTTNN thì chỉ khi nào về nội dung, mà Tòa án Việt Nam thấy rằng
PQTTNN xâm phạm lợi ích công cộng hoặc lợi ích của Nhà nước Việt Nam, thì Tòa
án Việt Nam mới không công nhận phán quyết đó. Như vậy sẽ hạn chế rất nhiều cho
việc “lạm dụng căn cứ về nội dung” của Hội đồng để không công nhận PQTTNN ở
Việt Nam.
38
Điều đó cũng là lý do vì sao quan điểm của những nhà làm luật về trọng tài ở
các nước là họ tôn trọng và bảo trợ cho hoạt động của trọng tài, kể cả trọng tài trong
nước lẫn trọng tài nước ngoài. Xuất phát từ quan điểm tôn trọng sự lựa chọn phương
thức giải quyết tranh chấp của các doanh nghiệp, thương nhân và bảo vệ bên nào tôn
trọng sự thỏa thuận đó, tức là thực thi và tôn trọng phán quyết trọng tài. Và điều đó
cũng dễ hiểu tại sao CƯ 1958 cũng như luật các nước ưa dùng thuật ngữ “trật tự
công” chứ không dùng thuật ngữ “nguyên tắc cơ bản của pháp luật” như luật Việt
Nam để thực thi. Việc này chắc chắn cản trở, ảnh hưởng đến việc công nhận và cho
thi hành PQTTNN tại Việt Nam.
- Vấn đề thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam
+ Tương tự BLTTDS 2004, Điều 470 BLTTDS năm 2015 quy định vụ án dân
sự có liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam
thuộc thẩm quyền giải quyết riêng biệt của Tòa án Việt Nam. Từ quy định này đặt ra
hai vấn đề có nhiều ý kiến giải thích khác nhau:
+ Thứ nhất, thế nào là “liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản”?
Có phải đó là tất cả các tranh chấp liên quan đến quyền đối với bất động sản hay chỉ
là những tranh chấp mà trong đó các bên có yêu cầu Tòa án xác định ai là người chủ
sở hữu bất động sản hoặc chủ sử dụng đất?
Liên quan đến vấn đề này, TAND tối cao có hướng dẫn tại Nghị quyết số
03/2012/NQ-HĐTP ngày 31/12/2012 rằng: tranh chấp về bất động sản là tranh chấp
ai là người chủ sở hữu bất động sản hoặc chủ sử dụng đất. Tuy nhiên, hướng dẫn này
không phải để giải thích thẩm quyền giải quyết “riêng biệt” của Tòa án Việt Nam đối
với vụ án có yếu tố nước ngoài mà chỉ để giải thích Điều 35 của Bộ luật này về thẩm
quyền theo lãnh thổ của Tòa án Việt Nam.
+ Thứ hai, thẩm quyền riêng biệt này chỉ áp dụng để loại trừ thẩm quyền của
Tòa án nước ngoài hay loại trừ cả thẩm quyền của Trọng tài nước ngoài lẫn Trọng tài
Việt Nam?
- Trong thực tiễn đã có trường hợp Tòa án Việt Nam áp dụng quy định của
BLTTDS để tuyên bố thỏa thuận trọng tài (trong đó các bên chọn Trọng tài nước
39
ngoài) giải quyết tranh chấp phát sinh từ một hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp
bằng quyền sử dụng đất trong một công ty có vốn đầu tư nước ngoài là vô hiệu và sau
đó, khi Trọng tài nước ngoài thụ lý và ra phán quyết giải quyết vụ tranh chấp thì
không được Tòa án Việt Nam công nhận.
Quan điểm của người viết bài này về 2 vấn đề nói trên như sau:
- Thứ nhất, vụ án dân sự có liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản
cần được hiểu là vụ án dân sự mà trong đó các bên có tranh chấp ai là người chủ sở
hữu bất động sản hoặc chủ sử dụng đất.
- Thứ hai, thẩm quyền “riêng biệt” này được áp dụng để loại trừ thẩm quyền
của Tòa án nước ngoài và cả thẩm quyền của Trọng tài nước ngoài lẫn Trọng tài Việt
Nam (Xuất phát từ nguyên tắc việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của quốc gia phải luôn
thuộc thẩm quyền của Tòa án quốc gia đó chứ không thể giao cho Tòa án nước ngoài
hoặc một chức phi chính phủ được).
- Căn cứ pháp luật, luật để áp dụng “Phán quyết của Trọng tài nước ngoài”
+ Nếu căn cứ Luật Trọng tài 2010 và BLTTDS và CƯ 1958 để áp dụng thì sẽ
dẫn đến việc Tòa án Việt Nam lúng túng trong việc không xác định được Trọng tài
giải quyết vụ tranh chấp là “trong nước” hay “nước ngoài” khi nhận được đơn yêu
cầu công nhận và cho thi hành hoặc đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của một
bên tranh chấp. Thì luật Việt Nam cần có sự qui định và phân biệt rõ giữa phán quyết
của Trọng tài trong nước với Phán quyết của Trọng tài nước ngoài:
+ Trên thực tế, đối với phán quyết của Trọng tài trong nước, có thể yêu cầu thi
hành ngay mà không cần phải có quyết định công nhận của Tòa án nhưng một bên có
quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, luật áp dụng là Luật trọng tài thương mại 2010.
+ Đối với Phán quyết của Trọng tài nước ngoài, muốn được thi hành trên lãnh
thổ Việt Nam phải được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành PTTNN, luật
áp dụng lại là BLTTDS và CƯ 1958. Như vậy, đúng ra thực thi pháp luật về Công
nhận và cho thi hành PQTTNN chỉ cần căn cứ, áp dụng hai bộ luật nêu trên.
+ BLTTDS 2015 quy định tại Điều 424: Trọng tài nước ngoài được xác định
theo quy định của Luật trọng tài thương mại của Việt Nam. Trong khi đó, Luật trọng
40
tài thương mại năm 2010 của Việt Nam lại quy định Trọng tài nước ngoài là Trọng
tài được thành lập theo pháp luật nước ngoài; Phán quyết của Trọng tài nước ngoài
là Phán quyết do Trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong
lãnh thổ Việt Nam. Các qui định chồng chéo, làm cho người thực thi pháp luật đôi
khi như đứng giữa hai dòng nước.
Tuy nhiên, nếu định nghĩa Trọng tài nước ngoài như quy định của Luật trọng
tài thương mại của Việt Nam thì đối với trường hợp Trọng tài vụ việc là Trọng tài
(ad - hoc) sẽ không có căn cứ để xác định đó là Trọng tài nước ngoài hay Trọng tài
Việt Nam vì Hội đồng trọng tài này (có khi chỉ gồm một trọng tài viên) được lựa chọn
và thành lập theo sự thỏa thuận của các bên, không thuộc và không theo quy tắc tố
tụng của bất cứ một tổ chức trọng tài nào và có nghĩa là cũng không theo pháp luật
của bất cứ một quốc gia nào, và đối với Trọng tài ad – hoc đặc biệt là nhanh chóng,
mềm dẻo, không có quy chế hoạt động riêng giải quyết xong thì giải tán, nhưng phán
quyết của Trọng tài ad – hoc vẫn được công nhận.
Trong khi đó, luật của các nước phát triển hầu như không có sự phân biệt đối
xử giữa giữa phán quyết của Trọng tài trong nước với Phán quyết của Trọng tài nước
ngoài. Ở các nước này, dù là phán quyết của Trọng tài nước ngoài hay Trọng tài trong
nước, muốn được thi hành trên lãnh thổ của họ thì đều phải được Tòa án sở tại công
nhận và cho thi hành. Đồng thời, họ vẫn có quy định cho phép một bên có quyền nộp
đơn đến Tòa án yêu cầu hủy phán quyết trọng tài nếu có căn cứ theo quy định.
+ Sự tham gia của Viện kiểm sát
Đây là vấn đề khác biệt giữa Pháp luật Việt Nam và Pháp luật các nước, Pháp luật các nước không quy định về việc tham gia của cơ quan công tố vào quy trình công nhận và cho thi hành phán quyết của TTNN, đồng thời khi đọc các quyết định của tòa án nước ngoài liên quan đến việc công nhận hoặc không công nhận PQTTNN, không bản án nào có đề cập đến sự tham gia của các cơ quan công tố.
Do tính đặc thù của thiết chế Viện kiểm sát (VKS) của Việt Nam cũng như mô hình tố tụng, VKS có vai trò quan trọng trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động tuân thủ pháp luật của không chỉ các đương sự, những người có quyền và nghĩa vụ liên quan, mà còn cả cơ quan có thẩm quyền công nhận và cho thi hành PQTTNN (Hội đồng xét đơn yêu cầu tức là tòa án). VKS không tham gia vào việc ra quyết định có công nhận PQTTNN, vì chỉ có tòa án có thẩm quyền này. Tuy nhiên sự hiện diện
41
của VKS, thông qua việc thực hiện các quyền hạn và chức năng của mình có ảnh hưởng không nhỏ đến việc công nhận và cho thi hành PQTTNN. Vậy thì chức năng của VKS thể hiện ở đâu? Chức năng đó thể hiện một số điểm như sau: (1) nghiên cứu các hồ sơ, giấy tờ liên quan đến yêu cầu công nhận và cho thi hành, bao gồm phán quyết trọng tài, thỏa thuận trọng tài và các giấy tờ khác; (2) tham gia phiên họp giải quyết đơn yêu cầu; (3) phát biểu ý kiến tại phiên họp; (4) kháng nghị quyết định của tòa án về việc đình chỉ, tạm đình chỉ việc xét đơn cũng như việc công nhận hay không công nhận PQTTNN; (5) ở các phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm liên quan đến việc xem xét lại quyết định của tòa án về việc công nhận và cho thi hành PQTTNN, VKS cũng có các quyền tương tự.
Tuy nhiên, theo quy định mới của Bộ luật TTDS năm 2015 (khoản 2 Điều 458) thì nếu VKS vắng mặt, Hội đồng xét đơn vẫn tiến hành phiên họp. Như vậy, dù không tham gia trực tiếp phiên họp nhưng VKS vẫn đảm bảo được việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình trong tố tụng.
2.2. Thực tiễn giải quyết đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán
quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam
- Trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng hoặc sau khi có tranh chấp
các bên có thể thỏa thuận việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Tùy theo ý chí,
sự lựa chọn của các bên mà tranh chấp có thể được giải quyết bằng trọng tài Việt
Nam hoặc được giải quyết bằng trọng tài nước ngoài. Việc Công nhận và cho thi hành
Phán quyết Trọng tài nước ngoài có một ý nghĩa quan trọng, đảm bảo khả năng thi
hành các quyết định trong Phán quyết đã được cơ quan tài phán Trọng tài nước ngoài
tuyên. Từ đó, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người được thi hành cũng như tránh
tình trạng về cùng một vụ việc nhưng lại bị xét xử 2 lần.
Theo ông Nguyễn Công Phú Phó Chánh Tòa Kinh tế TAND TPHCM thì trong
những năm vừa qua, số lượng đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
PQTTNN có xu hướng không ổn định.
Cụ thể, tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, nếu như năm
2012 có 11 đơn yêu cầu, năm 2013 tăng lên 19 đơn yêu cầu. Nhưng số đơn yêu cầu
trong các năm từ 2014-2017 thì lại giảm, số đơn chỉ có khoảng 2-3 đơn mỗi năm.
Trong đó, có khá nhiều đơn yêu cầu không được Tòa án Việt Nam chấp nhận, tỷ lệ
không công nhận chiếm hơn 30% số đơn được giải quyết. Điều cần lưu ý là trong hầu
42
hết các trường hợp yêu cầu công nhận và cho thi hành PQTTNN tại Tòa án Việt Nam,
bên phải thi hành là các doanh nghiệp Việt Nam.
- Tại Tòa Kinh tế TAND tối cao, tháng 3/2014 nhận được báo cáo của 07
TAND tỉnh, thành phố về việc thụ lý 12 đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài, Tòa án đã giải quyết 11 vụ việc, trong
đó có 01 vụ Tòa án đã đình chỉ giải quyết do người yêu cầu đã xin rút đơn yêu cầu,
01 vụ Tòa án đã chấp nhận đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng
tài nước ngoài tại Việt Nam, còn lại 09 vụ Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định không
chấp nhận đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng
tài nước ngoài.
- Theo số liệu của Bộ Tư pháp, năm 2010 chỉ có 04 đơn yêu cầu, thì năm 2011
là 08 đơn yêu cầu, năm 2012 là 36 đơn yêu cầu và từ tháng 1 đến tháng 10/2013 có
11 đơn yêu cầu. Nhưng theo số liệu thống kê của TAND tối cao thì năm 2010 Tòa án
đã thụ lý giải quyết 3/3 đơn yêu cầu, năm 2011 thụ lý 02 đơn yêu cầu nhưng chưa
giải quyết, năm 2012 tổng số đơn yêu cầu là 16 đơn (có 2 đơn năm 2011 chuyển sang)
đã giải quyết được 15 đơn yêu cầu, năm 2013 thụ lý 26 đơn yêu cầu (trong đó có 1
đơn năm 2012 chuyển sang) đã giải quyết 17 đơn, còn lại 7 đơn chưa giải quyết. Năm
2014 thụ lý 14 đơn yêu cầu.
- Trong số các vụ mà Tòa án các tỉnh, thành phố thụ lý năm 2013 và năm 2014
có trên 10 vụ là phán quyết của trọng tài thuộc Hiệp hội Bông quốc tế (ICA). Các đơn
yêu cầu chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh…
và một vài tỉnh như tỉnh Bình Dương, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Một số tỉnh khác cũng nhận được đơn yêu cầu như: Thái Bình, Phú Thọ,
Long An, Hà Nam… nhưng số vụ hầu như rất ít.
- Số lượng báo cáo được gửi về Tòa kinh tế TAND tối cao của 07 Tòa án đã
thụ lý vào năm 2013 và đầu năm 2014 là 12 vụ, đã giải quyết 11 vụ, trong đó chỉ có
01 vụ được chấp nhận đơn yêu cầu. Như vậy chỉ 1/12 vụ được công nhận và cho thi
hành cho thấy tỷ lệ số vụ không được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận đơn yêu cầu
công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài là rất cao.
43
- Theo thống kê tại Tòa Cấp Cao Tại Thành phố Hồ Chí Minh số án từ năm
2009 đến tháng 9 năm 2019 tổng cộng là 40 quyết định phúc thẩm xem xét lại quyết
định sơ thẩm, trong đó có 04 quyết định bị sửa, 04 rút kháng cáo đình chỉ xét xử
Phúc thẩm và còn lại là giữ nguyên quyết định sơ thẩm. Theo đó, Phán quyết trọng
tài nước ngoài được công nhận cho thi hành tại Việt Nam do Tòa án Cấp Cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh xem xét chiếm khoảng 70% so với số vụ có yêu cầu.
+ Xem qua hai ví dụ sau về quyết định chấp nhận kháng cáo của người phải
thi hành là Công ty TNHH A kháng cáo Phán quyết sơ thẩm tại Việt Nam lên Tòa án
nhân dân Cấp cao tại TP.HCM.
Cụ thể: Vụ thứ nhất: Tại Quyết định giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam Phán quyết của Trọng tài nước ngoài số 156/2015/QĐST-KDTM
ngày 26/2/2015của Tòa án nhân dân tỉnh B quyết định Công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam Phán quyết của trọng tài nước ngoài của TAND tỉnh B có đoạn nhận định:
“….Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Phán quyết trọng tài nước G…. ngày 01
tháng 1 năm 2012; Quyết định sơ thẩm tuyên lệ phí tòa án và quyền kháng cáo theo
luật định…”
Tuy nhiên, quyết định này của Tòa sơ thẩm bị Tòa cấp phúc thẩm sửa tuyên
không công nhận và cho thi hành Phán quyết của Trọng tài nước ngoài với lý do Tòa
sơ thẩm chưa tôn trọng sự thỏa thuận của các bên đương sự trong hợp đồng rằng các
bên chọn Hội đồng Trọng tài viên để giải quyết tranh chấp chứ không phải chọn một
Trọng tài viên giải quyết tranh chấp.
Ví dụ thứ hai: Tòa án nhân dân tỉnh C quyết định: …Căn cứ vào khoản 3 Điều
458 Bộ luật tố tụng dân sự đình chỉ việc giải quyết đơn yêu cầu thụ lý số
04/2017/TLST- KDTM ngày 23/5/2017 về việc; “Yêu cầu Công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam Phán quyết trọng tài nước ngoài giữa các bên đương sự…” sau đó người
được thi hành kháng cáo.
Căn cứ theo qui định tại điểm đ khoản 3 Điều 457 Bộ luật tố tụng dân sự thì
Tòa án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu khi: “Tòa án không xác định được
địa điểm nơi có tài sản tại Việt Nam của người phải thi hành theo yêu cầu của người
44
được thi hành phán quyết trọng tài.” Tòa án tỉnh B đã căn cứ viện dẫn điều luật nêu
trên để đình chỉ giải quyết đơn yêu cầu của đương sự mà cho rằng phía người yêu cầu
không cung cấp được địa chỉ của người phải thi hành và không cung cấp được địa
điểm nơi có tài sản tại Việt Nam của người phải thi hành làm căn cứ đình chỉ việc xét
đơn yêu cầu trong trường hợp này là chưa phù hợp với điều luật như đã viện dẫn.
Theo đó, Tòa Phúc thẩm có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người được thi
hành và hủy quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu của Tòa án cấp sơ thẩm…
Điều này cho thấy trình độ của thẩm phán xem xét cho công nhận và thi hành
phán quyết trọng tài chưa đồng đều sẽ gây nên ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực
thi Phán quyết trọng tài nước ngoài.
Chỉ đơn giản, thông qua hoạt động thực tiễn giải quyết đơn yêu cầu công nhận
và cho thi hành PQTTNN tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và Tòa án
nhân dân Cấp Cao tại Thành phố Hồ Chí Minh thì sẽ cho chúng ta nhìn thấy một số
khó khăn, vướng mắc trong việc thực thi CƯ 1958 ở Việt Nam, những nguyên nhân
đó đã dẫn đến thực trạng yêu cầu công nhận và cho thi hành PQTTNN có nhiều nguy
cơ bị Tòa án Việt Nam từ chối.
- Như vậy, với chính sách mở cửa mở cửa và hội nhập quốc tế về kinh tế của
Việt Nam được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, nhưng thực tiễn phản ánh một
nút thắt do đâu bởi nhiều Phán quyết trọng tài nước ngoài không được Tòa án Việt
Nam công nhận. Điều này đã làm dấy lên nỗi lo ngại của các doanh nghiệp nước
ngoài về sự “thiên vị” của hệ thống tư pháp Việt Nam đã dành cho các doanh nghiệp
trong nước hoặc có hay không Tòa án không nghiêm túc thực hiện các qui định của
pháp luật, và việc Tòa án không xem xét một cách thấu đáo để thực thi Phán quyết
Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam có gì đó không ổn là do yếu về pháp luật thực sự
hay không? Điều đó đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin vào công lý của các
thương nhân, doanh nghiệp kinh doanh thương mại. Theo thẩm phán tòa kinh tế
TAND TP.HCM hầu hết các trường hợp yêu cầu công nhận và cho thi hành PQTTNN
tại Tòa án Việt Nam, bên phải thi hành phần lớn là các doanh nghiệp Việt Nam. Điều
này cho thấy nguyên nhân dẫn đến việc không công nhận và thi hành khi bên phải thi
45
hành là thương nhân và DN việt Nam. Từ thực tiễn nêu trên đó đòi hỏi các cơ quan
có thẩm quyền của Nhà nước Việt Nam cần phải nhanh chóng tìm ra nguyên nhân
chủ quan hay khách quan, hạn chế và khắc phục các thiếu sót của pháp luật, cần
nghiên cứu kỹ điều gì đang sảy ra trong khi hệ thống Tòa án đang quá tải về án tồn
đọng. Song song đó với việc thực thi pháp luật, để tạo dựng niềm tin của cộng đồng
quốc tế vào sự công minh của nền tư pháp Việt Nam trong việc giải quyết các tranh
chấp thương mại quốc tế. Việc hạn chế cho thi hành Phán quyết Trọng tài nước ngoài
rõ ràng tạo tiền đề cho việc ứ đọng án tại Tòa án, từ những phán quyết này được xem
xét công tâm thì các thương nhân Việt Nam sẽ ủng hộ nhiều hơn về phương thức
trọng tài… Bởi, việc lựa chọn giải quyết bằng tranh chấp trọng tài nó có tính nhanh
nhẹn, quyết đoán và tính bảo mật cao cho nên nhiều thương nhân, doanh nghiệp kinh
doanh thương mại lựa chọn, không chỉ nó đã quen thuộc trên thế giới bởi tính mềm
dẻo mà CƯ mang lại, tại Việt Nam các thương gia, Doanh nghiệp cũng đã quen dần
với phương thức này. Nhưng đối với các thương nhân và doanh nghiệp Việt Nam đã
quen dần với các giải quyết bằng tòa án, có thể thân quen, có quan hệ và ưu ái trong
việc xét xử bằng tòa án là nhiều cấp, thậm chí rất nhiều vụ giải quyết theo kiểu chạy
án…cho nên việc lấy quan hệ trong công việc đặt vào việc xem xét từ tòa án bằng
trọng tài thương mại là một việc hết sức nguy hại.
- Được biết, hiện nay khi xét đơn yêu cầu ở một số vụ việc xem xét công nhận
và cho thi hành PQTTNN, một số Hội đồng xét đơn yêu cầu đã “xem xét” luôn lại
nội dung vụ kiện đó để tìm ra những “sai sót” trong việc xét đơn, điều đó đi ngược
lại với các qui định pháp luật cũng như vi phạm nguyên tắc được qui định tại các
chương và điều luật của Việt Nam cũng như điều ước quốc tế qui định.
Như vậy, lỗi thường hay gặp phải là Hội đồng xét đơn yêu cầu so sánh việc áp
dụng luật của nước ngoài với pháp luật trong nước, để xem lại nội dung vụ kiện có
đúng với pháp luật của Việt Nam hay không, sau đó mới ra quyết định công nhận và
cho thi hành hay không công nhận. Về cơ bản, Hội đồng xem xét đơn có thể đã không
hiểu qui định của pháp luật, hoặc cố tình không hiểu hoặc nắm không vững trình tự
của việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài để thực thi. Đồng
46
thời, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong thủ tục xét đơn yêu cầu công
nhận và cho thi hành bản án, quyết định của nước ngoài theo pháp luật hiện nay cũng
còn quá hời hợt.
Nhận thấy phán quyết trọng tài sinh ra là để thực hiện thi hành mà phán quyết
trọng tài đã bị “từ chối” nhiều ở nước ta thì công lý vẫn chưa được đảm bảo tức mới
chỉ được đảm bảo một phần.
- Song song đó, những thủ tục công nhận và cho thi hành Phán quyết trọng tài
nước ngoài chỉ có qui định đầu mối nhận đơn là Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối, là
nơi trực tiếp tiếp nhận hồ sơ, thu lệ phí và có trách nhiệm như là "cầu nối" giữa các
cơ quan có thẩm quyền trong nước với thương nhân, tổ chức qui định tại: “ Trong
thời hạn 03 năm, kể từ ngày phán quyết của Trọng tài nước ngoài có hiệu lực pháp
luật, người được thi hành, người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan hoặc người đại
diện hợp pháp của họ có quyền gửi đơn đến Bộ Tư pháp Việt Nam theo quy định của
điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc Tòa án
có thẩm quyền của Việt Nam theo quy định của Bộ luật này trong trường hợp điều
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên không quy định
hoặc không có điều ước quốc tế liên quan để yêu cầu Tòa án công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam phán quyết đó” (Điều 451 BLTTDS năm 2015).
Tuy vậy, khi các Toà án tiến hành thụ lý đơn cũng như trong quá trình xét xử,
được biết trên thực tế là các Toà án bỏ quên việc thông báo cũng như báo cáo về Bộ
Tư pháp về các hoạt động của mình, dẫn đến việc Bộ Tư pháp bị động trước các vấn
đề mà cá nhân, tổ chức nước ngoài yêu cầu.
- Như vậy, thực tiễn pháp luật về công nhận và cho thi hành Phán quyết trọng
tài nước ngoài tại Việt Nam vẫn còn đâu đó những khó khăn và trì truệ. Nếu như
trong thời gian tiếp theo không có sự hướng dẫn giải quyết thì sẽ sảy ra tương tự như
các vụ việc nêu trên. Đồng thời, trên thực tế Toà án nhân dân tối cao hiện nay cũng
chưa quan tâm đúng mức về vấn đề này, nhân lực giải quyết xem xét tại Tòa án đang
yếu và không tìm hiểu kỹ về pháp luật đối với các vụ tranh chấp dẫn đến tình trạng
mỗi toà án của từng tỉnh thành giải quyết theo một kiểu, không nhất quán và gây tâm
47
lý không tốt cho các thương nhân, tổ chức nước ngoài. Điều này cần phải thay đổi
sớm để không ảnh hưởng đến tình hình hoạt động kinh doanh cho các Doanh nghiệp,
Thương nhân Việt Nam trong khi Việt Nam đã và đang nổ lực mở rộng quan hệ làm
ăn với các nước trên thế giới và vùng lãnh thổ.
- Từ những việc nêu trên tác giả luận văn có thể đặt ra những trăn trở lo lắng.
Thiết nghĩ nhà làm luật cần sớm điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế, ngoài
ra cần phải có chế tài để cho các Thẩm phán được giao quyền thụ lý vụ việc ý thức
pháp luật để đảm bảo việc thực thi PQTTNN tại Việt Nam đúng pháp luật. Điều đó
giúp cho việc áp dụng luật để giải quyết PQTTNN tại Việt Nam đúng như thông lệ
quốc tế, trong bối cảnh mà Việt Nam đang quan hệ với các nước trong khu vực và
trên thế giới, điều này cũng chứng minh vị thế của Việt Nam hiện nay trên trường thế
giới.
- Khi nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới, các thương nhân Việt Nam “bơi ra biển lớn” ngày một nhiều hơn thì đồng thời
cũng xuất hiện các tranh chấp kinh tế, thương mại nhiều hơn. Trong số đó có một số
vụ việc đã được trọng tài nước ngoài giải quyết, ví dụ như vụ việc một thương nhân
Việt Nam kiện một Doanh nghiệp Thái Lan về hợp đồng xuất khẩu gạo mới đây, từ
đó xuất hiện nhu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài
ngày một nhiều hơn; số đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài
nước ngoài gia tăng rõ rệt trong những năm gần đây nhưng thực thi không đáng kể.
- Thực trạng trên một mặt phản ánh chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế về
kinh tế của Việt Nam nhưng mặt khác, với nhiều PQTTNN không được Tòa án Việt
Nam công nhận, đã làm dấy lên nỗi lo ngại của các doanh nghiệp nước ngoài về sự
thiên vị của hệ thống tư pháp Việt Nam dành cho các doanh nghiệp nước nhà. Thực
trạng đó đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước Việt Nam cần phải nhanh
chóng tìm ra nguyên nhân, khắc phục các thiếu sót của pháp luật và việc thực thi pháp
luật.
48
- Từ thực tiễn giải quyết đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành Phán quyết
trọng tài nước ngoài tại Việt Nam trong những năm qua có thể rút ra một vài vấn đề
cơ bản như sau:
+ Thứ nhất: Trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày thụ lý, tùy tình hình cụ thể của
vụ việc đó mà Tòa án phải ra một trong các quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ
giải quyết; nếu không có căn cứ để tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải quyết đơn yêu cầu
thì Tòa án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu, theo quy định tại Điều 457 BLTTDS.
Tuy nhiên, Tòa án thụ lý, giải quyết rất chậm đơn yêu cầu công nhận và cho
thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài.
Chỉ trong trường hợp hồ sơ mà Tòa án nhận được có những điểm chưa rõ, cần
yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đã gửi đơn giải thích về những điểm chưa rõ đó thì
thời hạn xét đơn yêu cầu mới được kéo dài thêm 02 tháng.
Đồng thời, Tòa án phải mở phiên họp trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày ra
quyết định mở phiên họp xét đơn yêu cầu. Tòa án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát
cùng cấp nghiên cứu trong thời hạn 15 ngày trước ngày mở phiên họp; hết thời hạn
này, Viện kiểm sát phải gửi trả lại hồ sơ cho Tòa án để mở phiên họp xét đơn yêu
cầu. Như vậy qui định này chuyển qua Viện kiểm sát cùng cấp phải thêm 15 ngày
nữa. Trên thực tế, có rất nhiều vụ việc mà Tòa án đã thụ lý đơn yêu cầu không giải
quyết đúng theo thời hạn mà luật đã quy định.
Từ thực trạng nêu trên thể nói rằng những quy định của pháp luật có phần khó
hiểu, không rõ ràng, nhưng Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao chưa có Nghị quyết
hướng dẫn. Cho nên, nguyên nhân của việc giải quyết chậm là do các Thẩm phán ở
nhiều Tòa án ít gặp, ít khi thụ lý giải quyết loại vụ việc như thế này nên chưa có kinh
nghiệm. Đặc biệt hiểu biết chưa sâu sát vào vấn đề thực tế dẫn đến lúng túng trong
quá trình giải quyết, hoặc một số Thẩm phán đi dự các Hội thảo có chuyên đề về vấn
đề này thì lại không được giao để giải quyết vụ việc.
+ Thứ 2: Đáng lẽ, khi xem xét việc Hội đồng trọng tài có vi phạm về việc gửi
thông báo, giấy tờ, tài liệu, giấy triệu tập, thông báo về chỉ định Trọng tài viên, về thủ
tục giải quyết là phải trên cơ sở các quy định của Trung tâm trọng tài, nơi Hội đồng
49
trọng tài được thành lập, mang quốc tịch và các Điều ước, Hiệp định quốc tế mà Việt
Nam là thành viên… Nhưng một số Hội đồng xét đơn đã có những nhận thức hết sức
sai lầm về áp dụng pháp luật dẫn đến việc gửi thông báo giấy tờ không đúng.
Song song đó, nhìn nhận ở góc độ thực tiễn, khi xem xét đánh giá các vấn đề
cụ thể cần phải xem xét đến các “thói quen thương mại” mà trước đó các bên đã thực
hiện. Ví dụ như: khi Trọng tài gửi thông báo, tài liệu qua email cá nhân, Hội đồng
xét đơn đã không xem xét trong quá trình giao dịch, khi ký kết hoặc thực hiện hợp
đồng các bên có liên lạc, giao dịch với nhau qua địa chỉ email đó không, mà lại cho
rằng liên lạc với pháp nhân qua email cá nhân cán bộ doanh nghiệp là không hợp
thức, doanh nghiệp không nhận được… hoặc không hiểu đúng khi nào áp dụng công
ước, điều ước quốc tế.v.v…
Do không xem xét kỹ cho nên Hội đồng xét đơn chỉ căn cứ vào quy định trong
BLTTDS về tống đạt, thông báo để xem xét, đánh giá từ đó dẫn đến việc xác định
Hội đồng trọng tài đã vi phạm việc thông báo về chỉ định Trọng tài viên, về thủ tục
giải quyết tranh chấp…
Nếu trong quá trình xét đơn thiếu nghiên cứu các qui định pháp luật của Hội
đồng xét đơn, không nắm được các nguyên tắc cơ bản khi áp dụng pháp luật trong
mọi trường hợp thì sẽ dẫn đến việc: “không cho công nhận và thi hành phán quyết”
rất dễ sảy ra.
Điều này được quy định rất cụ thể, rõ ràng tại khoản 3 Điều 2 BLTTDS như
sau: “Bộ luật tố tụng dân sự được áp dụng đối với việc giải quyết vụ việc dân sự có
yếu tố nước ngoài; trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc
tế đó”.
+ Thứ 3: Ở Việt Nam có những căn cứ hủy Phán quyết trọng tài thì lại được
qui định tại điều 68 Luật Trọng tài thương mại 2010. Hủy phán quyết trọng tài tiếp
tục lại nằm trọng Luật trọng tài thương mại, còn công nhận và cho thi hành lại nằm
trong BLTTDS và CƯ 1958. Điều này cho thấy sự không đồng nhất, chồng chéo của
pháp luật.
50
Qui định về trường hợp không thỏa thuận trọng tài, Tòa án cho rằng các bên
ký kết thỏa thuận trọng tài không có năng lực để ký kết thỏa thuận đó, tức là người
ký kết thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền ký kết và áp dụng điểm a khoản 1
Điều 370 BLTTDS 2004 và BLTTDS 2015 Điều 459: “Các bên ký kết thỏa thuận
trọng tài không có năng lực để ký kết thỏa thuận đó theo pháp luật được áp dụng cho
mỗi bên”, để không công nhận phán quyết trọng tài.
Nói cách khác, trong luật cũng không qui định riêng biệt về trường hợp không
có thỏa thuận trọng tài đối với trường hợp không công nhận Phán quyết trọng tài nước
ngoài. Khi chúng ta đã là thành viên của CƯ 1958 và một trong những căn cứ mà Tòa
án có thể từ chối Phán quyết trọng tài nước ngoài theo Điều V- CƯ cũng không có
căn cứ riêng biệt cho trường hợp không có thỏa thuận trọng tài như một số nước khác.
- Đối với trường hợp Hội đồng xét đơn cho rằng thỏa thuận trọng tài không có
giá trị pháp lý, được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Dưới đây là một số trường
hợp:
+ Hội đồng xét đơn đã không hiểu được là thỏa thuận trọng tài có tính độc lập
tương đối so với hợp đồng thương mại, hợp đồng chính. Khi Hội đồng thấy hợp đồng
thương mại bị vô hiệu thì lập tức đã cho rằng thỏa thuận trọng tài cũng vô hiệu theo,
cho nên Hội đồng đã sai từ đây vì là nhận thức hết sức sai lầm khi xem xét.
+ Điểm đặc biệt của thỏa thuận trọng tài là cho dù thỏa thuận trọng tài có nằm
trong hợp đồng thương mại hay nằm trong một văn bản riêng thì thỏa thuận trọng tài
vẫn có tính độc lập tương đối của nó. Từ đó có thể suy ra rằng cho dù hợp đồng chính,
giao dịch thương mại bị vô hiệu, nhưng thỏa thuận trọng tài vẫn có giá trị pháp lý.
+ Cũng có trường hợp người đại diện hợp pháp của pháp nhân ký kết hợp
đồng, sau đó bên đương sự này và Tòa án cho rằng người ký kết hợp đồng đã vượt
quá “thẩm quyền”, ví dụ theo quy định nội bộ của doanh nghiệp, người đại diện của
doanh nghiệp chỉ được ký kết giá trị hợp đồng là 2 triệu USD, nhưng người đại diện
của doanh nghiệp đã ký kết hợp đồng trị giá 2,2 hoặc có trường hợp 2,5 triệu USD.
Do đó, việc trọng tài thụ lý giải quyết khi thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu là vi phạm
thẩm quyền. Dưới đây là một đoạn nhận định của Hội đồng xét đơn tại quyết định số
51
08/2013/KDTM ngày 20/5/2013 của TAND thành phố H: “Như vậy, việc ông ĐVM
với tư cách là Tổng giám đốc Công ty tham gia ký kết các hợp đồng có giá trị tới
304.697.584.000 đồng là vô hiệu, vì Quyết định số 933/QĐ-D1915 ngày 31/12/2009
của Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty về việc phân cấp ủy quyền thì ông Minh
không được ký kết các hợp đồng vượt quá 50% vốn Điều lệ (qui định nội bộ).
Tại khoản 2 Điều 18 Luật TTTM :Thoả thuận trọng tài vô hiệu: “Người xác
lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.” Do đó,
thỏa thuận trọng tài trong các hợp đồng nói trên do ông ĐVM ký đã vô hiệu. Ông
ĐVM là người không có năng lực để ký kết thỏa thuận trọng tài theo quy định của
pháp luật Việt Nam.”
- Như vậy có thể kết luận nhận định của Hội đồng xét đơn làm không đúng,
bởi ông ĐVM là Tổng giám đốc, người đại diện hợp pháp của pháp nhân, có đủ thẩm
quyền và năng lực ký kết thỏa thuận trọng tài. Quy định nội bộ nêu trên của doanh
nghiệp mà Hội đồng xét đơn trích dẫn thực chất không ảnh hưởng gì đến giá trị pháp
lý của thỏa thuận trọng tài. Do đó, việc Hội đồng xét đơn cho rằng “ông ĐVM là
người không có năng lực để ký kết thỏa thuận trọng tài” và xem đó là một căn cứ để
hủy phán quyết trọng tài là sai lầm nghiêm trọng về áp dụng pháp luật.
- Cũng có trường hợp người ký kết hợp đồng và thỏa thuận trọng tài của Công
ty nước ngoài không ghi rõ tên và chức danh trong hợp đồng. Trong đăng ký kinh
doanh cũng như tài liệu gửi kèm đơn đề nghị Tòa án công nhận và cho thi hành quyết
định trọng tài nước ngoài không có tài liệu nào thể hiện người đại diện cho Công ty
nước ngoài có thẩm quyền ký kết hợp đồng hay thỏa thuận trọng tài. Tại phiên họp
bên Công ty nước ngoài mới trình bày và nộp bổ sung xác nhận của Chủ tịch và Giám
đốc Công ty xác nhận người đã ký kết hợp đồng và thỏa thuận trọng tài là người có
thẩm quyền ký kết. Hội đồng xét đơn đã xác định người ký kết hợp đồng và thỏa
thuận trọng tài đại diện cho Công ty nước ngoài là không có năng lực ký kết thỏa
thuận trọng tài. Việc Công ty xác nhận tư cách của người ký kết hợp đồng và thỏa
thuận trọng tài chỉ mới được nộp tại phiên họp và việc xác nhận về thẩm quyền người
ký thỏa thuận trọng tài được lập sau thời điểm ký kết thỏa thuận trọng tài nên không
52
có giá trị thay thế giấy ủy quyền. Căn cứ vào đó cho nên Hội đồng xét đơn không
công nhận phán quyết trọng tài. Hoặc có trường hợp theo đăng ký kinh doanh thì
người đại diện cho bên nước ngoài đều phải ký tập thể có hai chữ ký hoặc ủy quyền
tập thể với hai chữ ký, nhưng hợp đồng và thỏa thuận trọng tài chỉ có một chữ ký,
Hội đồng xét đơn cho là không hợp lệ, thỏa thuận trọng tài không có giá trị. Hoặc có
trường hợp Chi nhánh pháp nhân ký kết hợp đồng và thỏa thuận trọng tài, mặc dù
pháp nhân biết việc ký kết hợp đồng và thỏa thuận trọng tài nhưng không phản đối
và hợp đồng đã được thực hiện một phần, nhưng một bên đương sự (đơn vị có tư
cách pháp nhân) đã yêu cầu Tòa án không công nhận phán quyết trọng tài với lý do
người ký kết thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền, không được ủy quyền, nên
thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu, Tòa án đã chấp nhận đề nghị này của đương sự cũng
không đúng.
Tòa án đã căn cứ vào pháp luật Việt Nam hoặc không nghiên cứu kỹ từng vụ
việc để xét không công nhận đối với các trường hợp nói trên, trong khi Việt Nam đã
tham gia Công ước quốc tế, và BLTTDS qui định thì phải căn cứ vào pháp luật của
chính nước mà Công ty mang quốc tịch để xác định.
+ Thứ 4: Tòa án đã áp dụng điểm b) Điều 459: “Việc công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
Ngoài ra, nhiều trường hợp Hội đồng xét đơn vẫn xem xét giải quyết lại nội
dung vụ tranh chấp, từ đó cũng dẫn đến việc bị không công nhận phán quyết trọng tài
một cách vô căn cứ. Khi Hội đồng xét đơn cho rằng phán quyết trọng tài giải quyết
sai về nội dung, Hội đồng xét đơn vừa viện dẫn các quy định cụ thể của pháp luật nội
dung vừa suy diễn một số quy định thuộc về nguyên tắc cơ bản của BLTTDS, Luật
TTTM… để không công nhận phán quyết trọng tài nước ngoài.
+ Nghiên cứu các quyết định mà Hội đồng xét đơn áp dụng điểm b khoản 2
Điều 459 BLTTDS năm 2015(2. Phán quyết của Trọng tài nước ngoài cũng không
được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam, nếu Toà án Việt Nam xét thấy: điểm
(b): “Việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước
53
ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” để không công nhận
phán quyết của Trọng tài nước ngoài. Điều này dễ dàng nhận thấy Hội đồng xét đơn
đã diễn dải, suy diễn theo chủ quan ý chí của mình về việc phán quyết trọng tài của
nước ngoài (và cả phán quyết trọng tài trong nước khi áp dụng điểm đ khoản 2 Điều
68 Luật TTTM) đã vi phạm nguyên tắc cơ bản nào đó của pháp luật.
- Tức là khi Tòa án xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, nghĩa vụ
chứng minh được xác định:
(i) Bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài được quy định tại các điểm a,b,c,d
tại khoản 2 điều 68, có nghĩa vụ chứng minh Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết
thuộc một trong các trường hợp đó;
(ii) Đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài qui định tại điểm đ khoản 2 Điều
68, Tòa án có trách nhiệm chủ động xác minh thu thập chứng cứ để quyết định hủy
hay không hủy Phán quyết trọng tài. Điều này đồng nghĩa với việc, Điều 68 Luật
Trọng tài Thương mại cho Hội đồng Tòa án một quyền lực rất lớn để xem xét công
nhận hay không công nhận, trên thực tế đã được qui định tại khoản 4 (Điều 458)
BLTTDS.
Việc Hội đồng xét đơn hiểu không đúng khi áp dụng điểm b khoản 2 (Điều
459) BLTTDS và việc xem xét lại nội dung vụ tranh chấp đã được trọng tài giải quyết
là vi phạm khoản 4 Điều 458 BLTTDS (Hội đồng không xét xử lại vụ tranh chấp đã
được Trọng tài nước ngoài giải quyết mà chỉ kiểm tra, đối chiếu quyết định của Trọng
tài nước ngoài, các giấy tờ, tài liệu kèm theo với các quy định của Bộ luật này, các
quy định khác của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc
gia nhập có liên quan để ra quyết định).
+ Thứ 5: chỉ căn cứ vào pháp luật Việt Nam để xác định Phán quyết của Hội
đồng trọng tài, thủ tục giải quyết tranh chấp của Trung tâm trọng tài nước ngoài không
phù hợp với pháp luật Việt Nam. Trên thực tế, có những trường hợp Hội đồng xét
đơn đã:
(i) Chưa xem xét đánh giá một cách khách quan toàn diện đầy đủ, chỉ căn cứ
vào các quy định của pháp luật Việt Nam để xác định Thành phần của Hội đồng trọng
54
tài nước ngoài, thủ tục giải quyết tranh chấp của Trọng tài nước ngoài không phù hợp
với pháp luật Việt Nam;
(ii) Chưa xem xét, đánh giá một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ các tài
liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc; chưa yêu cầu các đương sự cung cấp đầy đủ
tài liệu về những vấn đề các bên còn có ý kiến khác nhau…
Những sai sót trong quá trình xem xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành
phán quyết của trọng tài nước ngoài (cũng như hủy phán quyết trọng tài trong nước)
trong thời gian vừa qua là rất đáng báo động, cần phải được rút kinh nghiệm kịp thời.
Việc hủy phán quyết trọng tài trong nước, không công nhận và cho thi hành
phán quyết của trọng tài nước ngoài không đúng sẽ tác động tiêu cực đến nhiều mặt
của đời sống xã hội; gián tiếp “khuyến khích” các doanh nghiệp vi phạm hợp đồng,
vi phạm thỏa thuận, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước. Cũng
từ đó, các thương nhân nước ngoài sẽ ngại ký kết các hợp đồng với đối tác Việt Nam,
giảm niềm tin của các doanh nghiệp đối với việc lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh
chấp, ảnh hưởng đến hoạt động trọng tài, một phương thức giải quyết tranh chấp đang
được nhà nước khuyến khích bên cạnh Tòa án.
Điều đáng quan ngại đối với việc không công nhận và cho thi hành phán quyết
trọng tài nước ngoài không đúng, thiếu sức thuyết phục không chỉ ảnh hưởng đến môi
trường đầu tư và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam mà còn ảnh hưởng đến uy
tín, danh dự của nền tư pháp Việt Nam.
2.3. Đánh giá chung
Giữa tòa án và trọng tài có sự khác biệt rõ về tính chất pháp lý, thẩm quyền.
Tòa án là cơ quan nhà nước nằm trong hệ thống cơ quan tư pháp. Trong quá trình tố
tụng, tòa án nhân danh Nhà nước để xem xét, xử lý vi phạm pháp luật nhằm duy trì
trật tự công cộng và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các nhà kinh doanh.
Trong khi các trung tâm trọng tài là các tổ chức phi chính phủ, mang tính chất
xã hội, nghề nghiệp. Các trung tâm trọng tài không do Nhà nước quyết định thành
lập, mà do các trọng tài viên thỏa thuận xin phép Nhà nước để được thành lập. Các
trung tâm trọng tài không nằm trong cơ cấu thiết chế nào của bộ máy nhà nước và
55
cũng không phải là một cơ quan xét xử của Nhà nước. Trong khi đó, Trọng tài được
thành lập nhằm cung cấp cho các nhà kinh doanh một cơ chế giải quyết tranh chấp
nhanh chóng, đơn giản, thuận tiện, phù hợp với tâm lý, thời gian của thương nhân và
doanh nghiệp. Chính sự khác biệt cơ bản này làm nên sự khác biệt về tố tụng giữa hai
cơ quan trên.
Nếu xét về thẩm quyền theo vụ việc, thì Tòa án có thẩm quyền rộng hơn tức
là giải quyết hầu hết tất cả tranh chấp trong kinh doanh mà trọng tài chỉ giải quyết vụ
việc liên quan đến tranh chấp thương mại. Trong khi đó, thẩm quyền của trọng tài
cũng chỉ được xác lập khi có sự thỏa thuận của các bên trong tranh chấp.
Tuy nhiên, thẩm quyền theo lãnh thổ thì không phải vụ tranh chấp trong kinh
doanh nào cũng được Tòa án thụ lý giải quyết. Đơn kiện chỉ được Tòa án thụ lý giải
quyết khi được chuyển đến tòa án có thẩm quyền giải quyết. Ngược lại với Tòa án thì
ở cơ chế Trọng tài được các bên tranh chấp có quyền lựa chọn bất cứ Trung tâm trọng
tài nào để giải quyết theo ý muốn và sự tín nhiệm của thương nhân, doanh nghiệp.
Khi tranh chấp đã được các bên thỏa thuận đưa ra Trung tâm trọng tài nào giải quyết
thì trung tâm đó có quyền thụ lý tranh chấp. Như vậy, ở đây cho thấy về thẩm quyền
vụ việc thì Tòa án có thẩm quyền rộng hơn so với Trọng tài, còn thẩm quyền lãnh thổ
trong tố tụng trọng tài lại không phải đặt ra, tức là Trọng tài có thể giải quyết vụ việc
ngoài lãnh thổ.
Như đã phân tích ở trên, Trọng tài chỉ xét xử một lần đối với các tranh chấp
kinh doanh, thương mại, và đặc biệt PQTT là chung thẩm, có hiệu lực thi hành, không
bị kháng cáo, kháng nghị. Đây là nguyên tắc đặc trưng của Tố tụng trọng tài so với
Tòa án. Điều này xuất phát từ bản chất của Tố tụng trọng tài là nhân danh ý chí và
quyền định đoạt của các bên đương sự. Khi họ đã lựa chọn và tín nhiệm người phán
xử cho mình thì đương nhiên phải tuân thủ quyết định đó. Đối với Tòa án thì khi xét
xử sẽ có nhiều cấp từ sơ thẩm đến phúc thẩm, thậm chí sẽ bị xem xét lại theo thủ tục
giám đốc thẩm và tái thẩm. Chính vì vậy, do xuất phát từ nguyên tắc tự nguyện nên
các bên đương sự hoàn toàn có thể lựa chọn các hình thức trọng tài mà họ cho là phù
hợp, lựa chọn trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận giữa các chủ thể, không phải chịu sự
56
áp đặt ý chí của bất cứ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào.
Do vậy, khi có tranh chấp xảy ra, các bên chỉ có thể đưa vụ tranh chấp ra trung
tâm trọng tài để giải quyết khi đã có sự thỏa thuận trước. Điều này có nghĩa là sự thỏa
thuận trọng tài là điều kiện quyết định quyền khởi kiện của đương sự đây là điều mà
trong tố tụng tòa án không có. Ngoài ra, Trọng tài không có nguyên tắc xét xử tập thể
như tòa án. Việc chọn một hay nhiều trọng tài viên để giải quyết tranh chấp cho mình
là quyền của các bên tranh chấp mà pháp luật không can thiệp. Tức là Pháp luật chỉ
can thiệp khi các bên không thỏa thuận được về cách thức lựa chọn trọng tài viên.
Chính vì sự khác biệt cho thấy sự lựa chọn tranh chấp bằng trọng tài có ý nghĩa
quan trọng không chỉ nước ngoài mà trong nước cũng vậy. Cho nên, việc công
nhận và cho thi hành PQTTNN ở Việt Nam hiện nay có những ý nghĩa cơ bản
sau:
+ Về phương diện chính trị, thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các quốc
gia, thể hiện quyền tài phán độc lập của mỗi quốc gia cũng như thể hiện sự tôn trọng,
thiện chí của quốc gia với quốc gia khác, thể hiện chính sách bảo hộ quyền và lợi ích
hợp pháp không chỉ của cá nhân, tổ chức nước mình mà còn cả lợi ích của cá nhân,tổ
chức nước ngoài.
+ Đảm bảo khả năng thi hành các PQTTNN được cơ quan tài phán nước
ngoài tuyên cũng như đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án cũng
như tránh tình trạng cùng một vụ việc mà được giải quyết hai lần. Điều này thể hiện
qua việc Tòa án một nước cho phép những trật tự phân xử của Trọng tài nước ngoài
được thực thi trên lãnh thổ Việt Nam, dựa trên nghĩa vụ quốc tế nói chung cũng như
nghĩa vụ theo các Hiệp định đã được Việt Nam kí kết.
Kết Luận Chương 2
Tổng quan về thực trạng pháp luật và thực tiễn về việc công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam PQTTNN còn nhiều hạn chế. Điều này đặt ra nhiều trăn trở cho
các cơ quan soạn thảo luật, các nhà làm luật nhận ra những hạn chế, thiếu sót của các
chế định pháp luật Việt Nam từ hiện trạng pháp luật và thực tiễn thi hành. Ngoài
những thực trạng, căn cứ đang chồng chéo giữa Luật Trọng tài Thương mại 2010 và
57
BLTTDS, thì các Hội đồng thẩm phán còn thiếu và yếu kinh nghiệm cũng như chưa
quan tâm sâu sát về vấn đề này. Đồng thời, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hữu
quan trong thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành Phán quyết trọng tài
nước ngoài theo pháp luật hiện nay cũng còn quá hời hợt.
Qua nghiên cứu những thực trạng pháp luật và thự tiễn cho thi hành tại Việt
Nam PQTTNN hình như chưa có chế tài cho các Hội đồng xét đơn. Nếu Hội đồng
đánh giá nhận định sai một vấn đề hoặc không xem xét kỹ nội dung của một PQTTNN
thì sẽ cho thi hành sai, quyết định sai dẫn đến các thương nhân, doanh nghiệp nước
ngoài không tin vào cơ quan luật pháp của Việt Nam. Điều đó, đi ngược lại với Nhà
nước Việt nam cũng như Công ước và các Hiệp định mà Việt Nam đã tham gia ký
kết. Đồng thời, việc này sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình hoạt động kinh
doanh thương mại khi Việt Nam gia nhập WTO và các Hiệp định thương mại khác.
Những ví dụ thực tiễn và so sánh với những quy định pháp luật của một số
Thẩm phán trong lĩnh vực xét xử, từ đó hy vọng sẽ có chế tài về trách nhiệm cho Hội
đồng xem xét đơn về Công nhận và cho thi hành PQTTNN. Luận văn chỉ ra được
những kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho Việt Nam trong quá trình điều chỉnh
pháp luật cũng như thực thi pháp luật một cách hiệu quả hơn. Những nghiên cứu về
thực trạng pháp luật và thực tiễn cho thi hành, những lý luận ở chương này là nền
tảng nhận thức khoa học làm cơ sở định hướng cho việc tiếp tục nghiên cứu ở chương
sau trên góc độ khoa học pháp lý về Công nhận và cho thi hành PQTTNN ở Việt
Nam.
58
Chương 3
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH TẠI
VIỆT NAM PHÁN QUYẾT
CỦA TRỌNG TÀI NƯỚC NGOÀI
3.1. Quan điểm, định hướng hoàn thiện pháp luật về công nhận và cho thi
hành tại Việt nam phán quyết của trọng tài nước ngoài
3.1.1. Quan điểm về góc nhìn thực tiễn
Từ những thực tiễn đang diễn ra nêu ở Chương 2, cho thấy những bất cập về
Công nhận và cho thi hành PQTTNN ở Việt Nam đang đặt ra nhiều khó khăn trở
ngại. Để khắc phục những sai lầm, thiếu sót từng bước nâng cao chất lượng xét đơn
yêu cầu công nhận và cho thi hành PQTTNN, sau đây là một số vấn đề cần chú ý khi
xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành Phán quyết trọng tài nước ngoài.
- Thứ nhất:
Khi xét đơn yêu cầu, ngoài việc căn cứ các quy định của pháp luật Việt Nam
về các vấn đề có liên quan, Hội đồng xét đơn yêu cầu còn phải căn cứ vào Điều ước
quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có liên quan, pháp luật của nước mà các
bên đã chọn để áp dụng hoặc theo pháp luật của nước nơi quyết định đã được tuyên
(nếu các bên không chọn pháp luật áp dụng); quy tắc trọng tài của Trọng tài nước
ngoài mà các bên thỏa thuận lựa chọn giải quyết tranh chấp.
Ví dụ, khi xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định
của Trọng tài thuộc Hiệp hội Bông quốc tế (ICA) có trụ sở tại Liverpool Vương quốc
Anh, ngoài việc kiểm tra, đối chiếu quyết định của Trọng tài thuộc Hiệp hội Bông
quốc tế, các giấy tờ, tài liệu kèm theo với các quy định có liên quan về xét đơn yêu
cầu của BLTTDS, Hội đồng xét đơn yêu cầu còn phải căn cứ vào CƯ 1958 về công
nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài; Quy tắc trọng tài của Trọng
tài thuộc Hiệp hội Bông quốc tế (ICA) và pháp luật mà các bên đương sự lựa chọn để
giải quyết.
- Thứ hai:
59
Hội đồng xét đơn yêu cầu phải thực hiện đúng quy định tại khoản 4 Điều 458
BLTTDS là không được xét xử lại vụ tranh chấp đã được Trọng tài nước ngoài giải
quyết; chỉ kiểm tra, đối chiếu quyết định của Trọng tài nước ngoài, các giấy tờ, tài
liệu kèm theo với các quy định trong quy tắc tố tụng trọng tài giải quyết việc tranh
chấp, các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có liên quan, quy định
của BLTTDS, các quy định khác của pháp luật Việt Nam để giải quyết. Phải có chế
tài và trách nhiệm liên đới khi Hội đồng xem xét lại đơn vi phạm khoản 4 Điều 458.
Bên cạnh đó, khi xem xét các tài liệu, chứng cứ, đặc biệt là các chứng cứ có
liên quan đến thủ tục tố tụng như tống đạt các văn bản tố tụng của trọng tài, thì phải
căn cứ vào các quy định trong quy tắc trọng tài để xem xét, làm rõ việc Trọng tài
nước ngoài đã gửi các văn bản thông báo cho bên Việt Nam đã theo đúng Quy tắc
trọng tài của Trọng tài nước ngoài, mà các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp hay
không? Không thể chỉ cứ đơn thuần cho rằng việc gửi các văn bản tố tụng trọng tài
vào thư điện tử cá nhân của một nhân viên trong Công ty của bên Việt Nam, thực
chất email này thường liên hệ trao đổi về công việc, để cho rằng Công ty của bên Việt
Nam không được thông báo kịp thời và hợp thức về việc chỉ định Trọng tài viên, về
thủ tục giải quyết vụ tranh chấp tại Trọng tài nước ngoài. Bởi lẽ, theo quy định tại
các khoản 3, 4, 5 và khoản 15 Điều 3 Luật thương mại năm 2005 về thói quen trong
hoạt động thương mại, tập quán thương mại, về thông điệp dữ liệu và các hình thức
có giá trị tương đương văn bản, thì việc gửi thông báo qua thư điện tử tức là (email)
cá nhân có thể được chấp nhận nếu có căn cứ cho rằng đây là “thói quen” trong hoạt
động thương mại. Hoặc nói chính xác hơn là các bên đã sử dụng hình thức giao tiếp
đó trong quá trình ký kết, thực hiện hợp đồng...
Như vậy, nếu có căn cứ cho rằng trong quá trình giao dịch, ký kết và thực hiện
hợp đồng trước đó mà các bên đã sử dụng chính địa chỉ thư điện tử cá nhân của nhân
viên Công ty để thực hiện các giao dịch, có liên quan đến việc giao dịch, ký kết và
thực hiện hợp đồng… thì việc gửi thông báo của Trọng tài nước ngoài đến địa chỉ
này cũng phải được Hội đồng chấp nhận.
60
Ngoài ra, việc gửi thông báo thủ tục tố tụng trọng tài qua thư điện tử, thì bên
yêu cầu công nhận và cho thi hành ở Việt Nam PQTTNN còn cung cấp chứng cứ về
việc gửi thông báo, tài liệu có liên quan đến phán quyết trọng tài cho phía Việt Nam…
bằng việc chuyển phát nhanh quốc tế, bằng fax, điện báo...
Đối với trường hợp trên, nếu bên phải thi hành không thừa nhận đã nhận được
các văn bản tố tụng của Trọng tài nước ngoài thì Hội đồng xét đơn yêu cầu bên phải
thi hành phán quyết trọng tài cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh về việc không
nhận được các văn bản tố tụng đó. Bởi vì, nghĩa vụ chứng minh là thuộc bên phải thi
hành phán quyết trọng tài, chứ không phải là bên yêu cầu công nhận và cho thi hành
PQTTNN.
Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết cũng có thể yêu cầu bên yêu cầu công
nhận và cho thi hành ở Việt Nam PQTTNN cung cấp tài liệu, chứng cứ về việc bên
phải thi hành phán quyết trọng tài đã được cơ quan có thẩm quyền của phía Việt Nam
ví dụ như (Bưu điện) chuyển giao tới đúng địa chỉ mà các bên trước đây vẫn giao
dịch, hoặc là địa chỉ giao dịch cuối cùng trước khi tranh chấp, trước khi khởi kiện các
văn bản tố tụng đó. Có nghĩa là, bên yêu cầu công nhận và cho thi hành Phán quyết
cũng có thể được cung cấp giao dịch trước đó với bên phải thi hành Phán quyết cho
Hội đồng xét đơn.
Trong trường hợp cần thiết và theo yêu cầu của đương sự, Tòa án cần tiến hành
xác minh, kiểm tra tài liệu mà các bên cung cấp chứng cứ (có thể trực tiếp hoặc bằng
văn bản yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ) nhằm bảo đảm cho
việc giải quyết vụ việc dân sự được đúng pháp luật.
Việc gửi thông báo, văn bản, tống đạt giấy tờ tài liệu thế nào được coi là hợp
lệ trong tố tụng trọng tài nước ngoài, hiện nay các Thẩm phán còn nhận thức khác
nhau. Nói tóm lại Thẩm phán Việt Nam chưa sâu sát vào quá trình xem xét giải quyết
thụ lý Phán quyết trọng tài nước ngoài. Do đó, có Thẩm phán căn cứ vào tố tụng dân
sự của Việt Nam để xem xét, đánh giá, đây là nhận thức sai lầm. Ví dụ: nếu một bên
thay đổi địa chỉ liên lạc (thư điện tử, số fax…), nơi đặt trụ sở, văn phòng… mà không
thông báo cho đối tác bên kia biết, nên đối tác và Trung tâm trọng tài vẫn gửi thông
61
báo, tống đạt giấy tờ, tài liệu đến đúng địa chỉ (cũ) mà trước đây các bên vẫn giao
dịch; dù bị đơn không nhận được các văn bản tố tụng đó, nhưng việc gửi các văn bản
tố tụng đã được thực hiện đúng theo thỏa thuận trọng tài hoặc theo đúng quy tắc tố
tụng trọng tài, nơi trọng tài ra phán quyết mang quốc tịch… thì việc gửi tài liệu, văn
bản tố tụng đó vẫn được coi là tống đạt hợp lệ, không vi phạm tố tụng trọng tài về
vấn đề này.
- Thứ ba:
+ Về căn cứ xác định thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài:
Hội đồng xét đơn yêu cầu khi xem xét vấn đề này, cần căn cứ vào pháp luật
được áp dụng cho mỗi bên để xác định người ký kết thỏa thuận trọng tài, tức người
ký đó có thẩm quyền để ký kết thỏa thuận trọng tài đó hay không; không thể căn cứ
quy định của pháp luật Việt Nam để xác định người ký kết thỏa thuận trọng tài của
phía nước ngoài không có năng lực để ký kết thỏa thuận trọng tài đó và ngược lại,
không thể căn cứ quy định của pháp luật của nước ngoài để xác định người ký thỏa
thuận trọng tài của phía Việt Nam không có năng lực để ký kết thỏa thuận đó hay
không.
- Thứ tư:
+ Về căn cứ xác định giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài: Khi xem xét vấn
đề này, Hội đồng xét đơn yêu cầu cần căn cứ vào pháp luật của nước mà các bên đã
chọn để áp dụng, hoặc căn cứ vào pháp luật của nước nơi quyết định đã được tuyên,
nếu các bên không chọn pháp luật áp dụng cho thoả thuận đó, để xác định thoả thuận
trọng tài có giá trị pháp lý hay không?
Hợp đồng chính có vô hiệu, thỏa thuận trọng tài vẫn có giá trị pháp lý, tức là
không được nhầm lẫn bởi thỏa thuận trọng tài độc lập với hợp đồng chính, dù nó có
nằm trong một hoặc một vài điều khoản trong hợp đồng chính, trong phụ lục hợp
đồng. Nhưng trong quá trình xem xét, Hội đồng vẫn nhầm lẫn trong vấn đề này, bởi
khi Hợp đồng chính vô hiệu nhưng thỏa thuận trọng tài vẫn có giá trị pháp lý.
- Thứ năm:
62
+ Về căn cứ xác định thành phần của Trọng tài nước ngoài, thủ tục giải quyết
tranh chấp của Trọng tài nước ngoài.
Khi xem xét vấn đề này, Hội đồng xét đơn yêu cầu cần căn cứ vào thoả thuận
trọng tài hoặc căn cứ vào pháp luật của nước nơi quyết định của Trọng tài nước ngoài
được tuyên, nếu thoả thuận trọng tài không quy định về các vấn đề đó, để xác định
thành phần của Trọng tài nước ngoài, thủ tục giải quyết tranh chấp của Trọng tài nước
ngoài có phù hợp với thoả thuận trọng tài hoặc với pháp luật của nước nơi quyết định
của Trọng tài nước ngoài được tuyên hay không.
Để từng bước nâng cao chất lượng xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
trong nước cũng như công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài, tác
giả có một vài kiến nghị, đề xuất như sau:
3.1.2. Về hướng dẫn xây dựng pháp luật
- Cần sớm tiến hành nghiên cứu thật sâu rộng và xem xét tổng kết các chuyên
đề về thực tiễn giải quyết đơn yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài Việt Nam, đơn yêu
cầu công nhận và cho thi hành Phán quyết trọng tài nước ngoài từ thực tiễn đó rút ra
các kinh nghiệm dẫn đến sai lầm, thiếu sót, nguyên nhân của các sai lầm thiếu sót ở
nơi nào, tại sao? để từ đó làm cơ sở cho việc ra văn bản hướng dẫn, thi hành.
- Cần ban hành văn bản hướng dẫn việc áp dụng các quy định của BLTTDS
về vấn đề công nhận và cho thi hành PQTTNN.
- Trong quá trình áp dụng các quy định tại Chương XXXVII, Phần thứ 7
BLTTDS cho thấy một trong những nguyên nhân giải quyết đơn yêu cầu công nhận
và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam rất chậm là do có
những quy định chưa hợp lý.
- Theo quy định tại Điều 454 BLTTDS thì đơn yêu cầu công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài phải được gửi đến Bộ Tư
pháp, sau đó đơn mới được chuyển đến Tòa án có thẩm quyền. Dù Điều 457 quy định
trong thời hạn 05 ngày Bộ Tư pháp phải chuyển hồ sơ cho Tòa án, nhưng thực tế cũng
phải từ 01 đến 02 tháng, hoặc cũng có trường hợp mất thời gian nhiều hơn. Vì vậy,
dẫn đến việc Tòa án có thẩm quyền chậm trễ kết thúc vụ việc.
63
Theo quy định hiện hành thì đơn yêu cầu phải chuyển Bộ Tư pháp, sau đó
mới được chuyển đến Tòa án. Thiết nghĩ, không có ai chịu trách nhiệm về chuyển
đơn từ, cho nên cần quy định đơn yêu cầu phải gửi ngay tới TAND tối cao, từ đó
TAND tối cao kiểm tra hồ sơ đã đầy đủ giấy tờ, tài liệu theo luật quy định chưa, sau
đó chuyển ngay đến TAND có thẩm quyền giải quyết. Ngoài ra, khi nhận được đơn
thì TAND tối cao phải có bộ phận chuyên theo dõi việc xử lý như thế nào, thời gian
như thế nào để gửi báo cáo Bộ Tư Pháp, điều này sẽ hạn chế việc kéo dài như hiện
nay.
- Hiện Việt Nam là một trong hơn 157 nước tham gia CƯ. Công ước quốc tế
này có hiệu lực pháp lý cao nhất điều chỉnh việc công nhận và cho thi hành PQTTNN,
cho nên thời hiệu yêu cầu không phải là 01 năm như quy định hiện hành mà phải dài
hơn, ít ra cũng phải 05 năm (có những nước quy định thời hiệu yêu cầu tới 10 năm).
- Hiện nay, BLTTDS quy định việc giải quyết đơn yêu cầu được thực hiện
theo hai cấp xét xử. Tuy nhiên, Quyết định của Tòa phúc thẩm TAND tối cao là quyết
định cuối cùng, không có giám đốc thẩm. Như vậy, thực tiễn thời gian qua cho thấy,
một tỷ lệ đáng kể quyết định xét đơn yêu cầu có hiệu lực pháp luật, nhưng có những
sai lầm nghiêm trọng, song không có cơ chế sửa sai, điều đó gây trở ngại và giấy lên
những bức xúc cho đối tác nước ngoài.
Như vậy, để việc giải quyết đơn yêu cầu không mất thời gian quá dài về công
nhận và cho thi hành phán quyết Trọng tài nước ngoài thì cần có cơ chế kiểm soát,
sửa chữa sai thì nên quy định cho TAND cấp cao giải quyết vấn đề này; quyết định
của TAND cấp cao có hiệu lực thi hành. Đồng thời, quy định một thời gian hợp lý để
TAND tối cao xem xét đơn khiếu nại theo trình tự giám đốc thẩm, nếu đương sự có
yêu cầu và TAND tối cao xét thấy quyết định xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi
hành PQTTNN của TAND cấp cao có sai lầm nghiêm trọng. Thì Chánh án TAND
tối cao kháng nghị và Hội đồng Thẩm phán xét xử giám đốc thẩm. Đây là một sự lựa
chọn phù hợp với tình hình hiện nay, nên cần được bổ sung vào BLTTDS.
- Điều 5.1 của CƯ 1958 đã quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc bên phải thi
hành phán quyết trọng tài. Phán quyết trọng tài đã được một cơ quan tài phán tư ban
64
hành. Do đó, bên phải thi hành phán quyết muốn từ chối công nhận và cho thi hành
thì phải đưa ra các chứng cứ chứng minh trước Tòa án. Vì vậy, cần phải có nghĩa vụ
chứng minh, cung cấp chứng cứ thuộc về bên phải thi hành phán quyết trọng tài, nếu
muốn được Tòa án chấp nhận yêu cầu từ chối công nhận và cho thi hành PQTTNN.
Trong BLTTDS hiện hành chưa có quy định rõ về vấn đề này.
Về việc hỗ trợ hoạt động của Trọng tài nước ngoài, hiện nay BLTTDS năm
2015 và Luật TTTM 2010 chưa quy định, nên khi Trọng tài nước ngoài yêu cầu thì
Tòa án Việt Nam không có cơ sở pháp lý xem xét. Như vậy, chưa phù hợp với quy
định tại luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của Liên hợp quốc, cho nên cần
phải bổ sung vào BLTTDS thẩm quyền này cho Tòa án.
3.1.3. Về công tác cán bộ
- TAND tối cao cần có một bộ phận chuyên theo dõi việc thụ lý, giải quyết và
hướng dẫn các vướng mắc về áp dụng pháp luật trọng tài (gồm có Luật TTTM và các
quy định về công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài được
quy định trong BLTTDS).
Hiện nay, nhiều Tòa án không bố trí Thẩm phán chuyên về một loại việc, nên
người được cử đi tập huấn, nhưng sau đó không được phân công giải quyết loại việc
đã được tập huấn, điều này dẫn đến vừa tốn tiền của Nhà nước mà lại không vận dụng
được việc cần làm. Cho nên cần thiết phải bố trí các Thẩm phán có năng lực chuyên
giải quyết loại việc này.
- Cần tổ chức nhiều đợt tập huấn chuyên sâu từng chủ đề về trọng tài giúp cho
các Thẩm phán có cách tiếp xem xét đúng từng vụ việc.
Ví dụ: Các chuyên đề rút kinh nghiệm từ các sai sót trong thực tiễn xét xử thời
gian vừa qua; chuyên đề về những nội dung cơ bản của các Điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên; phần quy định về công nhận và cho thi hành phán quyết Trọng tài
nước ngoài trong BLTTDS và các văn bản pháp luật khác có liên quan, các chuyên
đề về những nội dung cơ bản trong Luật TTTM.
65
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài
3.2.1. Phương hướng hoàn thiện các quy định
Nhằm tăng cường hợp tác giữa hệ thống tư pháp của các nước trong khu vực
và trên thế giới, trong mọi nổ lực của Đảng và Nhà nước là ngày càng hợp tác và quan
hệ sâu rộng trên thế giới để giao lưu hợp tác và đặc biệt là phát triển kinh tế, chính vì
vậy việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam cần
được đặt ra cấp thiết để tìm được giải pháp hữu hiệu tại Việt Nam. Thực tế cho thấy,
với xu hướng phát triển kinh tế gắn liền với hợp tác giữa các đối tác đến từ nhiều
quốc gia khác nhau, thì việc xảy ra tranh chấp và giải quyết tranh chấp ở trọng tài
quốc tế giữa các quốc gia là không thể tránh khỏi. Nếu không thực thi tốt pháp luật
thì việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài, sẽ gặp nhiều khó khăn cho
chính các thương nhân và Doanh nghiệp Việt Nam ở một nước khác. Chính vì thế mà
cần phải nhận thấy luật chơi công bằng trên đất nước chúng ta thì mới thuận lợi trên
đất nước khác nếu có vụ việc tương tự sảy ra với thương nhân và DN Việt Nam. Các
bên tranh chấp cần lòng tin vào việc tiến hành thủ tục tố tụng một cách minh bạch,
hợp pháp, cho nên việc xem xét cho công nhận và thi hành một cách công bằng và
khách quan rất quan trọng trong quan hệ kinh tế thế giới như hiện nay.
Nếu như PQTTNN tại Việt Nam tiếp tục có rào cản thì vô hình trung sẽ dẫn
đến những khó khăn cho sự phát triển kinh tế, trước tiên là giữa Việt Nam và các
nước trong khu vực và trên thế giới.
Thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài thương mại nước
ngoài đã quy định trong hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước vẫn
còn tồn tại những điểm chồng chéo, không rõ ràng, chưa nắm bắt rõ những điều nêu
trong CƯ 1958 và Bộ luật TTDS của Việt Nam cũng chưa thể hiện rõ nét. Vì vậy,
việc công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam
phải ban hành văn bản hướng dẫn sâu sát hơn.
66
3.2.2. Một số yêu cầu và giải pháp
Một là, thiết lập khuôn khổ pháp lý đầy đủ cho việc công nhận và thi hành
PQTTNN giữa Việt Nam và các nước.
Để tạo điều kiện cho việc công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài nước
ngoài được công nhận phù hợp với pháp luật hiện hành, việc quán triệt và xúc tiến
xây dựng một khuôn khổ pháp lý đầy đủ, rõ nét để việc công nhận và cho thi hành
thuận lợi hơn.
Quy định về thủ tục công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại
Việt Nam hiện nay cần chặt chẽ và có chế tà, cụ thể còn có những điểm bất cập cũng
cần được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể.
Đối với các quan điểm để làm sao mà phán quyết trọng tài nước ngoài được
công nhận và thi hành, thì pháp luật nên quy định rõ để chắc chắn rằng đủ điều kiện
theo pháp luật thì phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam được yêu cầu công
nhận và thi hành.
Cần tạo điều kiện cho việc công nhận và thi hành Phán quyết trọng tài nước
ngoài tại Việt Nam thì nên chăng cho bên gửi yêu cầu được thi hành PQTTNN tại
Việt Nam gửi thẳng đến Tòa Án, sau đó Tòa án một mặt xét đơn và một mặt gửi thông
báo đó cho Bộ Tư pháp, sẽ đảm bảo được quyền và lợi ích cho các bên và giảm thiểu
thời gian chờ đợi (không cần phải qua giai đoạn gửi đơn cho cơ quan có thẩm quyền
hoặc qua Bộ Tư pháp). Bên cạnh đó, theo tác giả đối với việc công nhận và cho thi
hành PQTTNN thì Việt Nam không nhất thiết phải ký kết điều ước quốc tế song
phương với các nước về công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước
ngoài mà chỉ cần viện dẫn CƯ nếu Việt Nam và nước ký kết đó đều là thành viên
CƯ. Còn đối với các quốc gia chưa ký kết hoặc chưa tham gia CƯ thì Việt Nam có
thể theo nguyên tắc “có đi có lại” để giải quyết vấn đề trên theo CƯ và pháp luật Việt
Nam qui định tại BLTTDS nhằm đảm bảo tính thống nhất.
+ Cần giải nghĩa rõ ràng phạm vi hẹp về những nguyên tắc cơ bản của pháp
luật Việt Nam cho việc Công nhận và cho thi hành PQTTNN.
Nếu Pháp luật Việt Nam cho rằng: căn cứ vi phạm “các nguyên tắc cơ bản của
67
pháp luật Việt Nam” là hủy phán quyết, thì cụm từ này còn quá rộng và chưa rõ ràng
và đặc biệt không tương thích với CƯ 1958 qui định. Chính vì vậy, nếu tiếp tục dùng
cụm từ này để giải quyết thì sẽ cản trở việc công nhận và cho thi hành PQTTNN. Có
nghĩa là làm cản trở việc công nhận và thi hành, không thích nghi với luật chơi quốc
tế mà Việt Nam đã ký kết. Như vậy chúng ta cần xem xét việc này nên sửa đổi hoặc
phải giải thích căn cứ này theo hướng tiếp cận với khái niệm pháp lý quốc tế.
Trật tự công để bảo vệ hữu hiệu chủ quyền và an ninh quốc gia và phù hợp với
trách nhiệm và nghĩa vụ pháp lý của Việt Nam theo các điều ước quốc tế mà Việt
Nam đã ký kết và gia nhập. Hoặc các nguyên tắc được thừa nhận về lẽ công bằng và
công lý trong pháp luật quốc tế. Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi cách giải thích để
tạo bình đẳng cùng có lợi và những nguyên tắc cơ bản khác của pháp luật quốc tế (the
Internationl Law Association- ILA, năm 2002).
Theo ý kiến tác giả, cần thiết lập bằng cách này hay cách khác khi Việt Nam
đã tham gia ký kết CƯ, thì phải phù hợp với tinh thần của CƯ 1958.
3.2.3. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về thủ tục công
nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài
- Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về thủ tục công nhận và
cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài ở Việt Nam phù hợp với CƯ 1958.
Bộ luật TTDS đã đáp ứng được những yêu câu cơ bản của CƯ. Tuy nhiên, so
với CƯ về Công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài thì những quy định
của Bộ LTTDS vẫn còn những điểm khác biệt, cần được sửa đổi để tương thích với
nội hàm của CƯ 1958.
+ Nên sử dụng thống nhất thuật ngữ “phán quyết trọng tài” trong Bộ luật
TTDS và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Như đã trình bày ở chương 1, cần được hiểu rõ là Phán quyết trọng tài là sau
khi các quyết định của trọng tài được thực thi thì ra Phán quyết, cho nên cần sửa đổi
các văn bản pháp luật với thuật ngữ: “Phán quyết trọng tài” không phải là “quyết định
trọng tài” và ngược lại cho phù hợp với quy định của pháp luật.
- Quy định cụ thể PQTTNN được xem xét theo thủ tục công nhận và cho thi
68
hành ở Việt Nam.
Mặc dù, Bộ luật TTDS hiện hành quy định cụ thể PQTTNN được công nhận
và cho thi hành ở Việt Nam. Nhưng một số cơ quan đã hiểu một cách nhầm lẫn giữa
“Phán quyết Trọng tài” và “Quyết định trọng tài” ở các Quyết định Công nhận và cho
thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài, hủy hoặc không cho thi hành cũng gặp phải
tình trạng tương tự, tức là các Thẩm phán còn nhầm lẫn và cho rằng Phán quyết trọng
tài là Quyết định trọng tài. Vì thế, theo tác giả, cần bổ sung hoặc hướng dẫn cụ thể
“Phán quyết Trọng tài nước ngoài” được xem xét theo thủ tục công nhận và cho thi
hành ở Việt Nam khác với “Quyết định trọng tài”.
- Hướng dẫn cụ thể các trường hợp Tòa án có quyền yêu cầu người gửi đơn
yêu cầu công nhận và cho thi hành giải thích những điểm chưa rõ trong hồ sơ.
Bộ LTTDS có quy định Tòa án có quyền yêu cầu người gửi đơn yêu cầu giải
thích những điểm chưa rõ trong hồ sơ. Do đó, theo quy định này có thể hiểu Tòa án
có quyền yêu cầu bên gửi đơn cung cấp thêm những tài liệu chứng cứ khác hay không,
mà Bộ LTTDS chưa quy định rõ. Như vậy, đối với vấn đề này cần sớm bổ sung các
quy định của Bộ luật TTDS hoặc có văn bản hướng dẫn cụ thể, rõ ràng tránh việc tạo
điều kiện để lạm dụng gây khó khăn cho bên yêu cầu công nhận và thi hành phán
quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, theo quy định tại (Điều IV) CƯ
thì người nộp đơn yêu cầu chỉ phải cung cấp bản gốc hoặc bản sao hợp lệ quyết định
trọng tài và thỏa thuận trọng tài. Ngoài ra, CƯ không có quy định gì khác về giấy tờ.
- Sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn cụ thể việc xác định thẩm quyền của Tòa
án đối với yêu cầu công nhận và cho thi hành PQTTNN ở Việt Nam và các trường
hợp trả lại đơn yêu cầu.
Theo quy định tại Điều 33, Điều 34 và Điều 35 Bộ luật TTDS thì Tòa án nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi người phải thi hành PQTTNN cư trú,
làm việc, nếu người phải thi hành là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành có trụ sở,
nếu người phải thi hành là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi
hành Phán quyết của Trọng tài nước ngoài có thẩm quyền xem xét yêu cầu công nhận
và cho thi hành ở Việt Nam PQTTNN.
69
Thực tiễn cho thấy, trụ sở hay nơi cư trú của người phải thi hành có thể thay
đổi, cho nên khi xác định thẩm quyền của Tòa án phải dựa vào trụ sở hay nơi cư trú
vào thời điểm nào, vấn đề này chưa được Bộ luật TTDS quy định rõ. Theo tác giả,
cần được quy định bổ sung trong Bộ luật TTDS khi xác định thẩm quyền của Tòa án
theo lãnh thổ, cơ quan có thẩm quyền nên căn cứ trụ sở hay nơi cư trú vào thời điểm
yêu cầu công nhận và thi hành PQTTNN, điều này tránh được những rắc rối cũng
như PQTTNN được công nhận hợp lệ hơn.
- Bổ sung quyền tham gia phiên họp giải quyết yêu cầu công nhận và thi hành
phán quyết trọng tài nước ngoài của bên yêu cầu.
Khoản 3, Điều 458 Bộ luật TTDS yêu cầu sự hiện diện của các bên phải thi
hành khi tiến hành phiên họp yêu cầu công nhận và thi hành phán quyết của Trọng
tài nước ngoài, nhưng lại quy định về sự hiện diện của bên phải thi hành hoặc người
đại diện vắng mặt hợp pháp lần thứ hai mà vẫn vắng mặt hoặc khi có một trong các
căn cứ qui định tại khoản 3 Điều 457, theo đó cần bổ sung vào Bộ LTTDS khi phiên
họp diễn ra cần có mặt cả bên phải thi hành và bên yêu cầu được thi hành.
3.2.4. Hoàn thiện các quy định Luật Trọng tài thương mại liên quan đến thủ
tục công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài thương mại nước ngoài
+ Thực tế cho thấy, Trọng tài thương mại quốc tế thuộc các tổ chức quốc tế
không thuộc sự quản lý của bất kỳ quốc gia nào, kể cả quốc gia đó có trụ sở. Theo
đó, nhái niệm “phán quyết của Trọng tài nước ngoài” như đã trình bày ở chương 1,
nên sửa để hiểu rằng khái niệm“phán quyết của Trọng tài nước ngoài” là “phán
quyết Trọng tài nước ngoài” cho phù hợp với CƯ.
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi về công nhận và cho thi hành
phán quyết của trọng tài nước ngoài ở Việt Nam hiện nay
3.3.1. Nâng cao nhận thức, phổ biến về tư pháp quốc tế và các điều ước quốc
tế liên quan đến giải quyết tranh chấp kinh tế có yếu tố nước ngoài và đầu tư nước
ngoài mà Việt Nam đã ký kết và tham gia.
+ Nền kinh tế Việt Nam đã và đang chuyển mình hòa nhập vào nền kinh tế thế
giới. Cần phổ biến các điều ước quốc tế trong đó có CƯ 1958 cũng như các Hiệp định
70
tương trợ tư pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam có tham gia hoạt động thương mại.
Điều đó thực sự cần thiết và quan trọng bởi khi cần giải quyết tranh chấp kinh tế có
yếu tố nước ngoài và đầu tư nước ngoài mà Việt Nam đã ký kết và tham gia. Cần phổ
biến cụ thể, sâu sát hoạt động tác nghiệp tư pháp quốc tế cho các cán bộ hoạt động tố
tụng dân sự kinh tế quốc tế, từ đó khi tiến hành công việc thì các cán bộ Toà án không
bị lúng túng khi xử lý các vấn đề trên.
Theo đó, để không thể bị động cần quan tâm đúng mức đến việc thực hiện, có phương án đề ra được một kế hoạch tổng thể cũng như kế hoạch của từng địa phương và mỗi ngành, các biện pháp phải đồng bộ và cụ thể giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến điều ước quốc tế.
TAND tối cao cần có một bộ phận chuyên theo dõi việc thụ lý, giải quyết và hướng dẫn các vướng mắc về áp dụng pháp luật trọng tài (gồm có Luật TTTM và các quy định về công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài được quy định trong BLTTDS).
- Nên bố trí các Thẩm phán có năng lực chuyên giải quyết loại việc này. Hiện nay, nhiều Tòa án không bố trí Thẩm phán chuyên về một loại việc, nên người được cử đi tập huấn, nhưng sau đó không được phân công giải quyết loại việc đã được tập huấn, nên hiệu quả tập huấn bị hạn chế.
- Nên tổ chức nhiều đợt tập huấn chuyên sâu từng chủ đề về trọng tài giúp cho
các Thẩm phán có cách nhìn đúng về PQTTNN. Tòa án, VKS chuyên gia và cán bộ
tư pháp khác cần phát huy đầy đủ trách nhiệm và tinh thần chủ động, sáng tạo trong
công tác, cần trao đổi kinh nghiệm hoạt động tư pháp quốc tế . Hoạt động bổ trợ tư
pháp quốc tế và giải quyết tranh chấp kinh tế quốc tế của chúng ta hiện nay còn ít,
vượt ra ngoài kiến thức kỹ năng đào tạo truyền thống, vậy cần rút kinh nghiệm, học
hỏi trong công tác xử lý tình huống pháp lý quốc tế. Cần sớm kịp thời thay đổi để
thực hiện và tham khảo kinh nghiệm phổ biến của các nước trên thế giới để có giải
pháp xử lý vấn đề, để khi có vướng mắc thì sẽ biết cách vận dụng thực tiễn một cách
mềm dẻo để giải quyết.
3.3.2. Giải pháp tăng cường vai trò của Tòa án trong việc hỗ trợ hoạt động
của trọng tài
Tòa án không thể cứ áp dụng các quy định của tố tụng dân sự để “xem xét” và
“giải quyết” các vấn đề thuộc thẩm quyền của trọng tài sẽ làm trì truệ hoạt động này
71
còn ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế quốc tế.
Như vậy, hệ thống Tòa án cần phát huy theo hướng tích cực, tránh tồn đọng
án và thể hiện rõ sự ủng hộ với hệ thống trọng tài, hạn chế từ chối hủy các phán quyết
trọng tài trừ khi rõ ràng PQTTNN đó có vi phạm được quy định cụ thể trong Luật
TTTM. Đây là một đòi hỏi hết sức quan trọng, Nhà nước cần tham gia kiểm soát hệ
thống Tòa án để ủng hộ nhiều hơn nữa công nhận và cho thi hành Phán quyết trọng
tài nước ngoài ở Việt Nam. Toàn bộ quá trình tham gia Công ước và các Hiệp định
thì PQTTNN có thể mất ý nghĩa nếu như một phán quyết có thể bị hủy tại Tòa án vì
những lý do “thiên vị” hoặc không tìm hiểu rõ luật qui định, không thấy quy định cụ
thể này trong Luật TTTM.
Trên thực tế tại Việt Nam, Tòa án chưa thực sự có một chính sách rõ ràng,
quan điểm thống nhất áp dụng luật qui định để ủng hộ mạnh mẽ hoạt động trọng tài.
Một số trường hợp phán quyết bị hủy vì những lý do rất chung như qui định: “không
tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” mà ở đây, các phán quyết
bị hủy không nêu cụ thể nguyên tắc cơ bản đó là nguyên tắc nào và bị vi phạm ở mục
nào, cụ thể ra sao thì cũng không dẫn chứng. Theo đó, khái niệm: “không tôn trọng
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” cũng thường bị các Thẩm phán Việt
Nam lạm dụng để không cho thi hành PQTTNN, như vậy theo tác giả cần sửa đổi
như đã phân tích trong luận văn này.
KẾT LUẬN
Thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam PQTTNN là một thủ tục tố
tụng đặc biệt do Tòa án tiến hành nhằm xem xét để công nhận tính hiệu lực của phán
đó ngoài trên phạm vi lãnh thổ của Việt Nam.
Trong khi nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với thế giới, việc tranh
chấp kinh doanh thương mại sẽ sảy ra nhiều hơn nữa trong tương lai gần. Để giải
quyết các tranh chấp đó, chúng ta có thể sử dụng nhiều phương pháp như thương
lượng, hòa giải, , trọng tài, tòa án,… Trọng tài thương mại với những ưu điểm của
mình là hình thức “tối ưu” để giải quyết các xung đột thương mại mà các bên không
thể tự giải quyết được, hoạt động thương mại trên thế giới đã và đang giải quyết theo
72
hình thức nêu trên. Tại Việt Nam, các quy định pháp luật về trọng tài thương mại
được xây dựng và hoàn thiện qua từng thời kỳ, có thể kể đến là Luật Trọng tài thương
mại 2010 đã hỗ trợ rất nhiều song song với BLTTDS để cho thi hành PQTTNN tại
Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế cụ thể là CƯ 1958.
Mặc dù có những cải tiến đáng kể về pháp luật và tư pháp ở nước ta, trong đó
có hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật trong nước.
Đồng thời ký kết các điều ước quốc tế trong lĩnh vực tư pháp quốc tế đặc biệt là việc
công nhận và thi hành PQTTNN ở Việt Nam hiện nay dần trở nên phong phú thông
dụng hơn. Cho nên, Việt Nam cần ban hành các văn bản pháp luật nhằm nội luật hoá
CƯ cho phù hợp với xu thế toàn cầu.
Công nhận và cho thi hành PQTTNN ở Việt Nam được quy định trong Bộ luật
TTDS, Luật TTTM về cơ bản đã đáp ứng được một số yêu cầu của việc: “Công nhận
và thi hành PQTTNN ở Việt Nam hiện nay”. Tuy nhiên, thực tiễn pháp lý cho thấy
các quy định này vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập, chưa đồng bộ, chưa thống nhất,
thể hiện rõ nét là sự phân biệt đối xử giữa phán quyết của Trọng tài trong nước với
phán quyết của Trọng tài nước ngoài, gây cản trở cho việc Công nhận và cho thi hành
PQTTNN ở Việt Nam hiện nay.
Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành chưa phù hợp với nội dung của CƯ,
vấn đề này đã gây ra nhiều khó khăn cho việc thực thi, hình thành tâm lý bất ổn, thiếu
niềm tin đối với hiệu lực của Phán quyết Trọng tài nước ngoài. Điều này vô hình
trung gây cản trở những nỗ lực của Nhà nước ta trong việc đưa Trọng tài trở thành
một công cụ pháp lý hữu hiệu giải quyết các tranh chấp thương mại trong nước cũng
như quốc tế bên cạnh Tòa án. Tuy nhiên, thực tế cho thấy thi hành pháp luật tại Việt
Nam về CƯ đã bộc lộ không ít những tồn tại về mặt lý luận và thực tiễn. Cho nên,
cần rút kinh nghiệm, từ đó đưa ra các kiến nghị một cách chi tiết nhằm hoàn thiện
pháp luật về công nhận và cho thi hành PQTTNN là thực sự cần thiết. Theo đó, đòi
hỏi pháp luật về Trọng tài thương mại phải sớm được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
nhằm đảm bảo sự tương thích với các quy định của pháp luật quốc tế, đáp ứng được
yêu cầu giải quyết các tranh chấp thương mại hiệu quả hơn và điều quan trọng là
73
Công nhận và cho thi hành PQTTNN tại Việt Nam được thực thi đúng pháp luật.
74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Văn Đại (2017) Pháp Luật Trọng tài Thương mại Việt Nam - Bản án và Bình
luận bản án, Nxb Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Nguyễn Ngọc Lâm (2014) Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Liên hiệp quốc (1958) Công ước New York 1958, ban hành ngày 10/6/1958, New
York.
4. Quốc hội (2015) Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, ban hành ngày 25/11/2015, Hà
Nội.
5. Nghị quyết 01 (2014) 01/2014- NQ/ HĐTP Ban hành ngày 20/03/2003 của HĐTP
TAND tối cao.
6. Nghị quyết 03 (2012) 01/2012- NQ/ HĐTP Ban hành ngày 31/12/2012 của HĐTP
TAND tối cao.
7. Nghị quyết số 326/2016// NQ- UBTVQH14 ngày 301/12/2016
8. Qui tắc trọng tài thuộcHiệp hội Bông quốc tế (ICA)
9. Quốc hội (2014) Luật Phá sản 2014, ban hành ngày 19/6/2014, Hà Nội.
10. Quốc hội (2010) Luật trọng tài thương mại 2010, ban hành ngày 17/6/2010,
Hà Nội.
11. Đỗ Văn Đại, Trần Hoàng Hải (2011) Pháp luật Việt Nam về Trọng tài thương
mại, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội
12. Đặng Trung Hà (2009) “Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài và những vấn đề đặt
ra trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”,
420. uP?uP_root=me&cmd=item&ID=11641>, (17/01/2009). 13. Nhà Pháp luật Việt – Pháp (2009) Kỷ yếu Hội thảo về Dự thảo Luật Trọng tài thương mại do Nhà Pháp luật Việt - Pháp tổ chức tại Hà Nội vào các ngày 24, 25/09/2009. 14. Lê Thế Phúc, Cơ sở lý luận và thực tiễn thi hành quy định công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài, Đề tài cấp cơ sở của Viện Khoa học xét xử (Tòa án nhân dân tối cao). 15. Quốc hội (2015) Bộ luật dân sự năm 2015, ban hành ngày 24/11/2015, Hà Nội. 16. Quốc hội (2004) Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, ban hành ngày 15/6/2004, Hà Nội. 17. Quốc hội (2015) Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, ban hành ngày 25/11/2015, Hà Nội. 18. Quốc hội (2008) Luật Thi hành án dân sự năm 2008, ban hành ngày 14/11/2008, Hà Nội. 19. Quốc hội (2014) Luật Thi hành án dân sự năm 2014, ban hành ngày 25/11/2014, Hà Nội. 20. Quốc hội (1997) Luật Thương mại năm 1997, ban hành ngày 10/5/1997, Hà Nội. 21. Quốc hội (2005) Luật Thương mại năm 2005, ban hành ngày 14/6/2005, Hà Nội. 22. Quốc hội (2010) Luật Trọng tài thương mại 2010, ban hành ngày 17/6/2010, Hà Nội. 23. Quốc hội (2009) Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án năm 2009, ban hành ngày 27/2/2009, Hà Nội. 24. Quốc hội (1995) Pháp lệnh về việc Công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài năm 1995, ban hành ngày 14/9/1995, Hà Nội. 25. Quốc hội (2003) Pháp lệnh về Trọng tài thương mại năm 2003, ban hành ngày 25/2/2003, Hà Nội. 26. Hải Thanh (2010) “Tòa án kinh tế và Trọng tài thương mại: Nhất bên trọng - nhất bên khinh ?”, Báo Tiền Phong Online, nhat- ben-trong-nhat-ben-khinh-516613.tpo>, (26/10/2010) 27. Thông tin Pháp luật Bộ Công thương, “Lịch sử phát triển Trọng tài trong giải quyết tranh chấp”, s_id=463>. 28. Nguyễn Trung Tín (2002) Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam các quyết định của Trọng tài kinh tế, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật. 29. Trung tâm Thương mại quốc tế, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (2001) Trọng tài và các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn, Giải quyết các tranh chấp thương mại như thế nào. 30. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009) Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội. 31. Ủy ban của Liên Hợp Quốc (1985) Luật Mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế, ngày ban hành 21/06/1985. 32. Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) (2006) Từ điển Luật học, Nhà xuất bản từ điển Bách Khoa - Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội. 33. Viện Khoa học xét xử (Tòa án nhân dân tối cao) (2009) Chuyên đề khoa học xét xử: Pháp luật về Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội. 34. LÊ NGUYỄN GIA THIỆN Giảng viên Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. 35. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1995), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 36. Trung tâm Từ điển học (Viện Ngôn ngữ học) (2000), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr.299, 510. 37. Pháp lệnh Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài 1995. 38. Bộ luật Tố tụng dân sự 2004.
39. Quyết định số 453/QĐ- CTN ngày 28-7-1995 của Chủ tịch nước về việc tham gia CƯ 1958 40. (Đặng Trung Hà https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2009/01/17/cng- nh%E1%BA%ADn-v-cho-thi-hnh-t%E1%BA%A1i-vi%E1%BB%87t-nam- b%E1%BA%A3n-n-quy%E1%BA%BFt-d%E1%BB%8Bnh-dn- s%E1%BB%B1-c%E1%BB%A7a-ta-n-n%C6%B0/) 41. Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) (2006), Từ điển Luật học, Nhà xuất bản từ điển Bách Khoa - Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội. 80