BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ------------/------------ BỘ NỘI VỤ ----/----

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

CAO HỢP THANH

TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT DÂN QUÂN TỰ VỆ

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số: 60 38 01 02

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN HẬU THÀNH

HÀ NỘI, NĂM 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của

cá nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Trần Hậu

Thành. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn

này trung thực và chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào.

Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

Học viên

Cao Hợp Thanh

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin được bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đến thầy hướng dẫn

khoa học TS. Trần Hậu Thành đã tận tình hướng dẫn và đóng góp nhiều ý

kiến khoa học trong thời gian tác giả thực hiện luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Hành chính Quốc

gia, Khoa Sau đại học, Khoa Nhà nước – Pháp luật cùng toàn thể các thầy, cô

giáo đã nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành

luận văn.

Tôi xin gửi lời cảm ơn Bộ Tư lệnh thủ đô Hà Nội, Ban chỉ huy quân sự

các quận (huyện) trên địa bàn thành phố Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho

tôi trong quá trình nghiên cứu, tìm kiếm tài liệu.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới tất cả thầy cô

giáo, cơ quan, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp luôn là nguồn động viên quý

báu cho tôi hoàn thành luận văn.

Tác giả luận văn

Cao Hợp Thanh

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1

Chương 1. CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT DÂN

QUÂN TỰ VỆ .................................................................................................. 8

1.1. Khái quát chung pháp luật về dân quân tự vệ ...................................... 8

1.1.1. Khái niệm, vai trò và nhiệm vụ của dân quân tự vệ .......................... 8

1.1.2. Nội dung pháp luật dân quân tự vệ .................................................. 12

1.2. Khái niệm, hình thức và nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về

dân quân tự vệ ............................................................................................... 21

1.2.1 Khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ ................. 21

1.2.2. Các hình thức tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ.......... 22

1.2.3. Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ .................. 23

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện pháp luật về dân

quân tự vệ ....................................................................................................... 26

Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 34

Chương 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT DÂN QUÂN

TỰ VỆ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ..................................... 35

2.1. Khái quát về tình hình dân quân tự vệ thủ đô Hà Nội ....................... 35

2.1.1. Tình hình lực lượng dân quân tự vệ thủ đô Hà Nội .......................... 35

2.1.2. Đặc thù của lực lượng dân quân tự vệ tại Thành phố Hà Nội .......... 41

2.2. Tình hình tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ trên địa

bàn thành phố Hà Nội .................................................................................. 42

2.3.1. Tình hình tuyên truyền, phổ biến pháp luật về dân quân tự vệ trên

địa bàn thành phố Hà Nội ............................................................................. 42

2.2.2. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác

phổ biến pháp luật về dân quân tự vệ .......................................................... 51

2.2.3. Tình hình tổ chức thực hiện các nội dung về pháp luật dân quân tự

vệ trên địa bàn Hà Nội. .................................................................................. 55

2.3 Đánh giá tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ trên địa bàn

Hà Nội. ............................................................................................................ 58

2.3.1. Kết quả đạt được ................................................................................... 58

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân ..................................................................... 59

Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 65

Chương 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP ĐẢM BẢOB TỔ CHỨC THỰC

HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN QUÂN TỰ VỆ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH

PHỐ HÀ NỘI ................................................................................................. 66

3.1. Quan điểm bảo đảm tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ ........... 66

3.1.1. Quán triệt các nguyên tắc xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ ....... 66

3.1.2. Xác định rõ trách nhiệm trong tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự

vệ ..................................................................................................................... 68

3.1.3. Chú trọng kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện Luật Dân quân

tự vệ ................................................................................................................. 72

3.2. Giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật về Dân quân tự vệ ...... 74

3.2.1. Những giải pháp định hướng việc tổ chức thực hiện Luật Dân quân

tự vệ ................................................................................................................. 74

3.2.2 Giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ từ thực

tiễn thành phố Hà Nội ................................................................................... 76

Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 94

KẾT LUẬN .................................................................................................... 95

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 96

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CNXH: Chủ nghĩa xã hội

XHCN: Xã hội chủ nghĩa

BLLĐ: Bạo lực lật đổ

BTL: Bộ Tư lệnh

DQTV: Dân quân tự vệ

BCHQS: Ban chỉ huy quân sự

GDQPAN: Giáo dục quốc phòng, an ninh

UBND: Ủy ban nhân dân

HĐND: Hội đồng nhân dân

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Dân quân tự vệ là một lực lượng chiến

lược trong chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân, làm nòng cốt cho toàn

dân đánh giặc bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ địa phương.

Đánh giá về vai trò Dân quân tự vệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói

"Dân quân tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là lực lượng vô

địch, là bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận kẻ thù nào dù hung bạo đến đâu

hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó thì địch nào cũng phải tan rã”.

Trong tình hình hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện

hai nhiệm vụ xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Chúng ta phải đối

phó với chiến lược "diễn biến hoà bình”, BLLĐ và sẵn sàng đánh thắng chiến

tranh xâm lược của kẻ thù. Do đó, lực lượng dân quân tự vệ là một trong

những công cụ để bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đất nước, bảo

vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ tính mạng và tài sản của Nhà nước và nhân dân

tại địa phương, cơ sở.

Hà Nội là thủ đô của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Với vị

trí chiến lược, tầm quan trọng đặc biệt của Thủ đô Hà Nội đối với cả nước,

Theo đó, BTL Thủ đô Hà Nội là đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng, đặt dưới

sự quản lý, chỉ huy của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, chức năng tham mưu cho

Đảng bộ, chính quyền thành phố Hà Nội thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn

dân và công tác quân sự địa phương; giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Chủ

tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội thực hiện quản lý nhà nước về lĩnh

vực quân sự, quốc phòng trên địa bàn; tổ chức thực hiện việc xây dựng, quản

lý, chỉ huy các đơn vị thường trực và lực lượng dự bị động viên, dân quân, tự

1

vệ (DQTV) thuộc quyền.

Tuy nhiên, công tác dân quân tự vệ tại thủ đô Hà Nội vẫn còn những

hạn chế, bất cập cả về nhận thức, tổ chức thực hiện. Trách nhiệm xây dựng,

quản lý nhà nước về dân quân tự vệ của địa phương, cơ quan, tổ chức còn hạn

chế. Công tác đăng ký, quản lý dân quân tự vệ chưa chặt chẽ, gặp nhiều khó

khăn. Việc tổ chức xây dựng lực lượng dân quân tự vệ còn nhiều bất cập.

Chất lượng huấn luyện dân quân tự vệ có địa phương chưa bảo đảm. Khả

năng huy động, phối hợp của lực lượng dân quân tự vệ với các lực lượng khác

trong tuần tra, canh gác, bảo vệ mục tiêu, xử trí các tình huống phức tạp ở địa

phương còn chậm, hiệu quả chưa cao, v.v.

Sở dĩ có tình hình trên, trước hết là do tính pháp lý của các quy định

hiện hành về tổ chức lực lượng tự vệ chưa cao; giữa các luật chưa đồng bộ,

thống nhất, dẫn đến việc tổ chức còn lúng túng cả về phương pháp và biện

pháp tiến hành.

Từ việc nghiên cứu, tổ chức thực hiện xây dựng lực lượng dân quân tự

vệ những năm qua, đặt ra vấn đề cần thiết phải nghiên cứu đề tài “Tổ chức

thực hiện luật dân quân tự vệ - Từ thực tiễn thành phố Hà Nội”

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Trong những năm gần đây, việc thực hiện luật dân quân tự vệ đã được

các cấp quản lý từ Trung ương đến địa phương quan tâm, hiện đã có những

bài báo, đề án viết về thực hiện luật dân quân tự vệ như sau:

- Bài báo: “Thực hiện Luật Dân quân tự vệ ở Vĩnh Phúc”, tác giả Đại tá

Nguyễn Xuân Thuyết, Chỉ huy trưởng BCHQS Tỉnh, đăng trên tạp chí quốc

phòng toàn dân, bài báo đã viết Luật Dân quân tự vệ được Quốc hội khoá XII

thông qua tại Kỳ họp thứ 6, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2010. Đây là sự

phát triển về tư duy quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta; tiếp tục khẳng

định vị trí, vai trò chiến lược của lực lượng này đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ

2

quốc thời kỳ mới. Để sớm đưa Luật vào cuộc sống, tỉnh Vĩnh Phúc đã tích

cực, chủ động triển khai thực hiện, được Bộ Quốc phòng và Quân khu 2 đánh

giá là đơn vị đi đầu trong tổ chức thực hiện Luật kịp thời, đạt chất lượng, hiệu

quả cao.

- Đề án “xây dựng lực lượng dân quân tự vệ tỉnh Lạng Sơn giai đoạn

2016-2020”. Đề án là sự cụ thể hoá pháp luật về dân quân tự vệ, là cơ sở pháp

lý để thanh tra, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện công tác dân

quân tự vệ trên địa bàn tỉnh.

Đề án được thực hiện sẽ bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong lãnh đạo,

chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác dân quân tự vệ ở tất cả các cấp, các ngành

trong tỉnh, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp của lực lượng dân quân tự

vệ. Thể hiện sự quan tâm, chăm lo của cấp uỷ, chính quyền, các cấp, các

ngành và nhân dân đối với lực lượng dân quân tự vệ. Là cơ sở thực tiễn để

nghiên cứu, đề nghị với Đảng, Nhà nước điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung những

vấn đề vướng mắc, bất cập nảy sinh trong quá trình thực hiện pháp luật về dân

quân tự vệ.

- Bài báo “Phát triển Dân quân tự vệ Việt Nam – Kết quả và bài học

kinh nghiệm” trên báo quân đội nhân dân của Trung tướng Nguyễn Duy

Nguyên - Cục trưởng Cục Dân quân tự vệ (Bộ Tổng tham mưu), bài báo đã

tổng kết DQTV có vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng DQTV vững mạnh, rộng khắp để luôn có sự phát

triển là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các

ngành, các tổ chức đoàn thể xã hội. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, trực

tiếp là của các cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở, để nâng cao chất lượng, hiệu

quả hoạt động của DQTV, phải nắm vững sự nghiệp đổi mới của đất nước để

điều chỉnh, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật về DQTV, nghị định của

Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành luật, các chỉ thị, mệnh lệnh, các

3

quy định cụ thể của cấp trên, đồng thời phải căn cứ vào thực tiễn của mỗi địa

phương, cơ sở, cơ quan, tổ chức, đơn vị để tổ chức, xây dựng DQTV vững

mạnh, thực sự là lực lượng nòng cốt trong đấu tranh chống “diễn biến hòa

bình”, “bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù địch ở cơ sở; sẵn sàng chiến đấu

và chiến đấu thắng lợi, bảo vệ vững chắc địa phương cơ sở, cơ quan, tổ chức,

góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- “Thống nhất, đồng bộ trong triển khai các văn bản pháp luật về dân

quân, tự vệ”, tác giả Nguyễn Duy Nguyên – Cục trưởng Cục Dân quân tự vệ

trên báo Quân đội nhân dân, ngày 31/8/2016, bài báo đã viết những năm qua,

Đảng và Nhà nước ta thường xuyên quan tâm và có chủ trương, giải pháp xây

dựng dân quân tự vệ (DQTV), giáo dục quốc phòng và an ninh (GDQPAN);

từng bước bổ sung, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, nhằm nâng

cao hiệu lực quản lý nhà nước về DQTV, góp phần xây dựng nền quốc phòng

toàn dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Tuy nhiên, luật dân quân tự vệ năm 2009 đã được ban hành thực hiện

từ 2010 nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể việc tổ

chức thực hiện luật dân quân tự vệ tại một địa phương nhất định.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát, phân tích,

đánh giá kỹ lưỡng thực trạng tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ từ thực

tiễn thành phố Hà Nội, qua các quan điểm của Đảng và Nhà nước đề ra các

giải pháp nhằm đảm bảo việc tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ đáp ứng

yêu cầu bảo vệ và xây dựng tổ quốc.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được những mục đích trên, đề tài đi

vào giải quyết các nhiệm vụ sau:

Một là: Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về dân quân tự vệ và quản

4

lý nhà nước về dân quân tự vệ.

Hai là: Đánh giá việc tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ

trên địa bàn thành phố Hà Nội thời gian qua.

Ba là: Đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức thực

hiện luật dân quân tự vệ trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức thực hiện luật

dân quân tự vệ. Đồng thời, đánh giá kết quả tổ chức thực hiện luật dân quân

tự vệ trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Đối tượng khảo sát chủ yếu là lực lượng dân quân tự vệ trên địa bàn

thành phố Hà Nội

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung

Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng và giải pháp đảm bảo tổ chức

thực hiện Luật Dân quân tự vệ.

Về thời gian

Đề tài tiến hành điều tra, nghiên cứu việc tổ chức thực hiện Luật Dân

quân tự vệ ở thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 - 2016. Đề xuất phương hướng

và giải pháp giai đoạn 2017 - 2020 và định hướng đến năm 2030.

Về không gian

Nghiên cứu trên phạm vi thành phố Hà Nội.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài

5.1. Phương pháp luận

-

5

và hội nhập.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Tác giả sử dụng các phương pháp sau

- Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp: Phương pháp sử dụng tài liệu,

các bản báo cáo của các tác giả đã nghiên cứu, đã đánh giá. Phương pháp

phân tích tài liệu được sử dụng từ việc chọn đối tượng, thu thập những thông

tin cần thiết đến việc phân tích thông tin và dữ liệu thu thập được. Đề tài có

sử dụng một số tài liệu như sách, báo, tài liệu tuyên truyền, tạp chí mạng, các

trang web có liên quan đến lĩnh vực dân quân tự vệ.

- Ngoài ra đề tài còn sử dụng phương pháp nghiên cứu, thu thập số liệu,

xử lý số liệu, phương pháp quy nạp... làm căn cứ phân tích thực trạng quản lý

nhà nước về dân quân tự vệ ở Hà Nội từ khi có đường lối xây dựng lực lượng

dân quân tự vệ và các vấn đề mang tính thời sự đang được toàn xã hội quan

tâm. Trên cơ sở đó nhằm chỉ rõ những vấn đề tồn tại đặt ra đối với quản lý

nhà nước về dân quân tự vệ trong bảo vệ và xây dựng đất nước thời kỳ hội

nhập quốc tế.

6. Những đóng góp về khoa học của đề tài

6.1. Về lý luận

Nghiên cứu góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về Luật Dân quân tự

vệ và việc thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ trong bảo vệ và xây dựng đất

nước thời kỳ hội nhập quốc tế.

6.2. Về thực tiễn

- Nghiên cứu chỉ ra những vấn đề cần được quan tâm giải quyết đối với

vấn đề tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ.

- Luận văn là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên và những nhà

quản lý trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và xây dựng lược lượng dân quân

6

tự vệ.

- Với những kết quả nghiên cứu đã đạt được trên đây, luận văn có thể

làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu thực tiễn về tổ chức thực hiện

Luật Dân quân tự vệ ở nước ta.

7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo; luận văn

gồm 03 chương, 8 tiết

Chương 1: Cơ sở pháp lý của tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ.

Chương 2: Thực trạng tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ trên địa

bàn thành phố Hà Nội.

Chương 3: Quan điểm, giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện Luật Dân

7

quân tự vệ trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Chương 1

CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC

THỰC HIỆN LUẬT DÂN QUÂN TỰ VỆ

1.1. Khái quát chung pháp luật về dân quân tự vệ

1.1.1. Khái niệm, vai trò và nhiệm vụ của dân quân tự vệ

- Khái niệm

Theo Luật Dân quân tự vệ năm 2010: Dân quân tự vệ là lực lượng vũ

trang quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác; là thành phần của lực

lượng vũ trang nhân dân; là lực lượng bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền,

bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước, làm nòng cốt

cùng toàn dân đánh giặc ở địa phương, cơ sở khi có chiến tranh. Lực lượng

này được tổ chức ở xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) gọi là dân

quân; được tổ chức ở cơ quan của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức

chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế (gọi chung là cơ quan,

tổ chức) gọi là tự vệ.

Nội dung xây dựng dân quân tự vệ

- Phương châm xây dựng: Xây dựng dân quân tự vệ theo hướng “vững

mạnh, rộng khắp, coi trọng chất lượng là chính”.

+ Vững mạnh : Được thể hiện là chất lượng phải toàn diện cả về chính trị

tư tưởng, tổ chức, trình độ chính trị, quân sự và chuyên môn nghiệp vụ, biên chế

trang bị hợp lí, thống nhất, có kỷ luật nghiêm, cơ động nhanh sẵn sàng chiến đấu

tốt. Mỗi tổ chức dân quân tự vệ phải luôn vững vàng.

+ Rộng khắp: Lực lượng dân quân tự vệ được xây dựng ở hầu hết các

làng, bản, xóm, ấp xã, phường, các tổ chức kinh tế, chính trị xã hội, ở đâu có

tổ chức Đảng, chính quyền và có dân, đều phải tổ chức dân quân tự vệ, kể cả

các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trường hợp các doanh nghiệp ngoài

8

quốc doanh không đủ điều kiện (không có tổ chức Đảng) tổ chức dân quân tự

vệ nếu có yêu cầu thì giám đốc doanh nghiệp đề nghị và được Bộ chỉ huy

quân sự tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương) đồng ý thì công dân được

tham gia dân quân tự vệ ở địa phương (nơi cư trú). Giám đốc doanh nghiệp

phải bảo đảm thời gian và tạo điều kiện cho công nhân tham gia dân quân tự

vệ hoạt động.

+ Coi trọng chất lượng là chính: Chỉ tuyển chọn đưa vào đội ngũ

những công dân có lí lịch rõ ràng, có hộ khẩu thường trú tại địa phương, có

phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, chấp hành đúng các chủ trương, chính

sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, các quy định ở địa phương, có sức

khoẻ phù hợp.

- Tổ chức, biên chế, trang bị của lực lượng dân quân tự vệ:

Tổ chức, biên chế, vũ khí, trang bị của lực lượng dân quân tự vệ phải

phù hợp với tính chất, yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng - an ninh thời bình, thời

chiến, đặc điểm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và điều kiện cụ thể của từng

bộ, ngành, địa phương và cơ sở.

+ Về tổ chức:

Dân quân tự vệ được tổ chức thành 2 lực lượng: lực lượng nòng cốt (lực

lượng chiến đấu) và lực lượng rộng rãi (lực lượng phục vụ chiến đấu).

Lực lượng DQTV nòng cốt : Bao gồm dân quân tự vệ bộ binh, binh

chủng và dân quân tự vệ biển (đối với vùng biển), được tổ chức thành lực

lượng cơ động và lực lượng tại chỗ. Đối với xã (phường) thuộc địa bàn trọng

điểm về quốc phòng an ninh, biên giới ven biển, hải đảo có yêu cầu chiến đấu

cao thì được xem xét tổ chức lực lượng dân quân thường trực.

Nhiệm vụ của lực lượng cơ động là chiến đấu, tiêu hao, tiêu diệt, chi

viện cho lực lượng chiến đấu tại chỗ, khi cần thiết có thể cơ động chiến đấu

9

trên địa bàn địa phương khác. Nhiệm vụ của lực lượng chiến đấu tại chỗ là

chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu trên địa bàn địa phương theo kế hoạch, phương

án, khi cần có thể tăng cường cho lực lượng chiến đấu cơ động.

Lực lượng dân quân tự vệ rộng rãi: Gồm cán bộ, chiến sĩ dân quân tự

vệ nòng cốt đã hoàn thành nghĩa vụ dân quân tự vệ và công dân trong độ tuổi

quy định (nam từ đủ 18 đến hết 45 nữ từ đủ 18 đến hết 40 tuổi).

Nhiệm vụ phục vụ chiến đấu, vận chuyển tiếp tế, khắc phục hậu quả

chiến đấu, bảo vệ và sơ tán nhân dân.

Về quy mô: Tổ chức từ cấp tổ, tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn (cấp

đại đội ở xã, phường lớn; cấp cấp tiểu đoàn ở các doanh nghiệp nhà nước do

quân khu trở lên quy định).

+ Biên chế : Biên chế dân quân tự vệ được thống nhất trong toàn quốc.

Số lượng cán bộ cán bộ chiến sĩ từng đơn vị do Bộ Quốc phòng quy định

+ Về cơ cấu và chức năng của cán bộ quân sự cơ sở, phân đội:

Cơ cấu biên chế ban chỉ huy quân sự được tổ chức ở xã, phường, thị trấn,

các doanh nghiệp của địa phương và các ngành của nhà nước gồm 3 người:

chỉ huy trưởng, chính trị viên và phó chỉ huy trưởng. Ban chỉ huy quân sự cơ

sở chịu trách nhiệm làm tham mưu giúp cấp uỷ, chính quyền cấp mình tổ

chức triển khai công tác hoạt động dân quân tự vệ. Cấp xã, phường, thị trấn

chỉ huy trưởng là thành viên uỷ ban nhân dân, là đảng viên, thường nằm trong

cơ cấu cấp uỷ địa phương. Các cơ sở khác, chỉ huy trưởng có thể kiêm nhiệm

hoặc không kiêm nhiệm. Bí thư đảng uỷ, Bí thư chi bộ các cơ sở kiêm chính

trị viên chịu trách nhiệm về công tác đảng, công tác chính trị trong dân quân

tự vệ. Phó chỉ huy trưởng ở xã phường là cán bộ chuyên trách, các phó chỉ

huy cơ sở còn lại là chuyên trách hoặc kiêm nhiệm. Xã đội trưởng, chính trị

viên xã đội, xã đội phó và tương đương do chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp

huyện bổ nhiệm theo đề nghị của uỷ ban nhân dân cấp xã sau khi đã thống

10

nhất với huyện đội trưởng. Thôn đội trưởng, trung đội trưởng, tiểu đội trưởng

và khẩu đội trưởng dân quân tự vệ do Huyện đội trưởng bổ nhiệm theo đề

nghị của của xã đội trưởng. Cơ cấu cán bộ tiểu đoàn, đại đội, gồm chỉ huy

trưởng, chính trị viên, phó chỉ huy trưởng. Cấp trung đội, tiểu đội và tương

đương có một cấp trưởng, một cấp phó.

+ Về vũ khí, trang bị của dân quân tự vệ:

Vũ khí, trang bị cho dân quân tự vệ từ các nguồn do Bộ Quốc phòng cấp,

các địa phương tự chế tạo hoặc thu được của địch. Song, dù từ nguồn nào, vũ

khí trang bị đó cũng đều là tài sản của nhà nước giao cho dân quân tự vệ quản

lí. Do vậy, phải được đăng kí, quản lí, bảo quản chặt chẽ ; sử dụng đúng mục

đích và đúng quy định của pháp luật.

- Giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự đối với dân quân tự vệ

+ Giáo dục chính trị: Giáo dục chính trị cho lực lượng dân quân tự vệ là

một nội dung quan trọng hàng đầu, nhằm làm cho dân quân tự vệ nâng cao

nhận thức về chính trị, lập trường tư tưởng vững vàng, đạo đức cách mạng

trong sáng. Trên cơ sở đó phát huy tinh thần trách nhiệm, sẵn sàng hoàn thành

nhiệm vụ, bảo vệ quê hương, làng xóm, địa phương, đơn vị mình.

Nội dung giáo dục cần tập trung không ngừng tăng cường bản chất cách

mạng và ý thức giác ngộ giai cấp cho cán bộ, chiến sĩ dân quân tự vệ, trên cơ

sở đó, thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng, nhận rõ bản chất, âm

mưu thủ đoạn của kẻ thù. Giáo dục truyền thống dân tộc, tinh thần yêu nước,

yêu chế độ xã hội chủ nghĩa ; mục tiêu lí tưởng của Đảng; con đường đi lên

chủ nghĩa xã hội mà đảng và nhân dân ta lựa chọn; quán triệt hai nhiệm vụ

chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ củng cố quốc phòng - an

ninh, chống “Diễn biến hoà bình” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch :

công tác quốc phòng địa phương, xây dựng lực lượng nhân dân. Một số nội

dung cơ bản về Hiến pháp, pháp luật, Pháp lệnh về dân quân tự vệ, nội dung

11

phương pháp tiến hành vận động quần chúng,...

+ Huấn luyện quân sự: Hằng năm, lực lượng dân quân tự vệ được huấn

luyện theo nội dung, chương trình do Bộ Quốc phòng quy định, nội dung

huấn luyện phải phù hợp và sát với cơ sở do chỉ huy quân sự địa phương các

cấp xác định cụ thể. Huấn luyện toàn diện cả chiến thuật, kĩ thuật, cả bộ binh

và các binh chủng, chuyên môn kĩ thuật,... Thời gian huấn luyện theo quy

định của pháp lệnh.

1.1.2. Nội dung pháp luật dân quân tự vệ

Luật DQTV được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

(Khóa XII) thông qua tại kỳ họp thứ 6 ngày 23/11/2009 và được Chủ tịch

nước ký Lệnh số 20/2009/L-CTN ngày 04/12/2009 công bố Luật DQTV. Luật

DQTV gồm 9 chương, 66 điều. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2010.

Luật Dân quân tự vệ quy định nhiều nội dung quan trọng như: Nghĩa vụ

tham gia dân quân tự vệ; tổ chức, nhiệm vụ, hoạt động của dân quân tự vệ;

chế độ, chính sách đối với dân quân tự vệ và trách nhiệm quản lý nhà nước về

dân quân tự vệ.

Trong quản lý Nhà nước về DQTV, Luật xác định rõ trách nhiệm của

UBND các cấp và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, cụ thể là:

UBND các cấp có trách nhiệm trình HĐND cùng cấp phê chuẩn, quyết

định quy hoạch, kế hoạch, đề án tổ chức, hoạt động, chế độ, chính sách đối

với dân quân tự vệ và dự toán thu, chi ngân sách bảo đảm cho dân quân tự vệ;

chỉ đạo và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về dân quân tự vệ ở địa

phương; ban hành văn bản chỉ đạo xây dựng lực lượng dân quân tự vệ theo

thẩm quyền; chỉ đạo việc tổ chức, đào tạo, huấn luyện, hoạt động của dân

quân tự vệ; thi hành các biện pháp huy động, sử dụng dân quân tự vệ thực

hiện nhiệm vụ; chỉ đạo việc quản lý và kiểm tra vận chuyển, sử dụng vũ khí,

vật liệu nổ của dân quân tự vệ; bảo đảm hậu cần, tài chính, thực hiện chế độ,

12

chính sách cho dân quân tự vệ theo quy định của pháp luật; tổ chức thực hiện

quyết định mở rộng lực lượng dân quân tự vệ của cấp có thẩm quyền; phối

hợp với thanh tra quốc phòng thanh tra việc thực hiện pháp luật về dân quân

tự vệ; kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về dân

quân tự vệ; tổ chức sơ kết, tổng kết và thực hiện việc thi đua, khen thưởng về

công tác dân quân tự vệ.

Đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, có trách nhiệm:Tổ chức thực

hiện sự chỉ đạo của cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về dân

quân tự vệ; chỉ đạo xây dựng và thực hiện kế hoạch tổ chức, huấn luyện, hoạt

động của đơn vị tự vệ nòng cốt thuộc quyền theo sự chỉ đạo, hướng dẫn của

cơ quan quân sự địa phương; bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện

cho việc thực hiện nhiệm vụ tổ chức, huấn luyện, hoạt động của tự vệ nòng

cốt thuộc cơ quan, tổ chức; tổ chức thực hiện quyết định mở rộng lực lượng

dân quân tự vệ của cấp có thẩm quyền; phối hợp với thanh tra quốc phòng

thanh tra việc thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ; kiểm tra, sơ kết, tổng kết

và thực hiện việc thi đua, khen thưởng về công tác dân quân tự vệ thuộc cơ

quan, tổ chức; phối hợp với cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong việc

tổ chức, huấn luyện, hoạt động và bảo đảm chế độ, chính sách cho dân quân

tự vệ.

Xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, trong đó có lực lượng DQTV

là một nội dung quan trọng trong đường lối quân sự của Đảng. Quán triệt và

triển khai thực hiện nghiêm túc Luật DQTV và các văn bản hướng dẫn thi

hành (đến thời điểm hiện nay, Chính phủ đã ban hành 2 Nghị định, Bộ quốc

phòng và các Bộ liên quan đã ban hành hơn 20 Thông tư, Quyết định hướng

dẫn thực hiện) sẽ góp phần tăng cường hiệu lực quản lý của chính quyền, bảo

đảm an ninh chính trị, an toàn xã hội ở địa phương, cơ sở.

Thành phần của DQTV: gồm DQTV nòng cốt và DQTV rộng rãi.

13

- DQTV nòng cốt: là lực lượng gồm những công dân trong độ tuổi thực

hiện nghĩa vụ tham gia DQTV, được tuyển chọn vào phục vụ có thời hạn

trong các đơn vị DQTV. Bao gồm:

+ DQTV cơ động: là lực lượng được tổ chức thành các đơn vị sẵn sàng

cơ động làm nhiệm vụ trên các địa bàn khi có lệnh của cấp có thầm quyền;

+ DQTV tại chỗ: là lực lượng được tổ chức và hoạt động ở thôn, ấp,

bản, buôn, phum, sóc, khóm, tổ dân phố (sau đây gọi chung là thôn) và ở cơ

quan, tổ chức làm nhiệm vụ tại chỗ, sẵn sàng tăng cường cho DQTV cơ động;

+ DQTV biển: là lực lượng được tổ chức ở cấp xã ven biển, xã đảo và

cơ quan, tổ chức có phương tiện hoạt động trên biển để làm nhiệm vụ trên các

vùng biển Việt Nam;

+ DQTV phòng không, pháo binh, công binh, trinh sát, thông tin,

phòng hóa, y tế: là lực lượng thuộc DQTV nòng cốt đảm nhệm công tác

chuyên môn, chuyên ngành theo quy định.

- DQTV rộng rãi: là lực lượng gồm những công dân trong độ tuổi thực

hiện nghĩa vụ tham gia DQTV đã được đăng ký, quản lý để sẵn sàng mở rộng

lực lượng và huy động khi có lệnh của cấp có thẩm quyền.

Ngày 28/3 hàng năm là ngày truyền thống của lực lượng DQTV.

a/ Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của dân quân tự vệ.

Tổ chức và hoạt động của DQTV theo 3 nguyên tắc cơ bản sau:

- DQTV đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống

lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý điều hành của Chính phủ mà trực tiếp là sự

lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương các cấp; sự chỉ

huy thống nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và sự chỉ huy trực tiếp của chỉ

huy trưởng cơ quan quân sự địa phương.

- Tổ chức và hoạt động của DQTV phải tuân thủ Hiến pháp và pháp

luật; dựa vào dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân và hệ thống

14

chính trị để thực hiện nhiệm vụ.

- Tổ chức, biên chế của DQTV phải căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ quốc

phòng, an ninh, gắn với địa bàn và nhiệm vụ của đơn vị sản xuất, công tác,

bảo đảm thuận tiện cho chỉ đạo, quản lý, chỉ huy và phù hợp với điều kiện

kinh tế - xã hội của từng địa phương.

b/ Nhiệm vụ của dân quân tự vệ

Dân quân tự vệ có các nhiệm vụ:

- Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và phục vụ chiến đấu để bảo vệ địa

phương, cơ sở; phối hợp với các đơn vị Bộ đội Biên phòng, Hải quân, Cảnh

sát biển và lực lượng khác bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia và

chủ quyền, quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam.

- Phối hợp với các đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và lực

lượng khác trên địa bàn tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, khu vực

phòng thủ; giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, chính

quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, của Nhà nước.

- Thực hiện nhiệm vụ phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch

bệnh, tìm kiếm, cứu nạn, bảo vệ và phòng, chống cháy rừng, bảo vệ môi

trường và nhiệm vụ phòng thủ dân sự khác.

- Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối,

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh; tham

gia xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, xây dựng và phát triển kinh tế - xã

hội tại địa phương, cơ sở.

- Học tập chính trị, pháp luật, huấn luyện quân sự và diễn tập.

- Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.

c/ Độ tuổi, thời hạn thực hiện nghĩa vụ tham gia DQTV trong thời

bình. Tiêu chuẩn và tuyển chọn vào DQTV nòng cốt

Độ tuổi thực hiện nghĩa vụ tham gia DQTV trong thời bình là: công

15

dân nam từ đủ 18 tuổi đến hết 45 tuổi, công dân nữ từ đủ 18 tuổi đến hết 40

tuổi có nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ; nếu tình nguyện tham gia dân quân

tự vệ thì có thể đến 50 tuổi đối với nam và đến 45 tuổi đối với nữ.

Thời hạn thực hiện nghĩa vụ tham gia DQTV trong thời bình là:

- Thời hạn thực hiện nghĩa vụ tham gia DQTV nòng cốt là 4 năm.

- Căn cứ tình hình thực tế, tính chất nhiệm vụ và yêu cầu công tác, thời

hạn thực hiện nghĩa vụ tham gia DQTV nòng cốt có thể được kéo dài đối với

dân quân không quá 2 năm, đối với tự vệ và chỉ huy đơn vị DQTV có thể kéo

dài hơn nhưng không quá độ tuổi quy định của Luật DQTV.

- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, người đứng đầu cơ quan, tổ chức

quyết định kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ tham gia DQTV nòng cốt theo

quy định của Luật DQTV.

- Công dân hoàn thành nghĩa vụ tham gia DQTV nòng cốt được Chủ

tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp Giấy

chứng nhận hoàn thành nghĩa vụ tham gia DQTV nòng cốt.

- Công dân đã hoàn thành nghĩa vụ tham gia DQTV nòng cốt, nhưng

còn trong độ tuổi quy định của Luật DQTV thì chuyển sang DQTV rộng rãi

hoặc được đăng ký vào quân nhân dự bị theo quy định của pháp luật.

Tiêu chuẩn vào DQTV nòng cốt là:

- Lý lịch rõ ràng;

- Chấp hành tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật

của Nhà nước.

- Đủ sức khỏe thực hiện nghĩa vụ tham gia DQTV.

Tuyển chọn vào DQTV nòng cốt phải:

- Bảo đảm công khai, dân chủ, công bằng;

- Hàng năm BCH quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh chỉ

đạo và hướng dẫn BCH quân sự cấp xã, BCH quân sự cơ quan, tổ chức ở cơ

16

sở hoặc đơn vị tự vệ nơi không có BCH quân sự lập kế hoạch và thực hiện

tuyển chọn công dân đủ tiêu chuẩn vào DQTV nòng cốt phù hợp với tình hình

địa bàn, dân cư, điều kiện kinh tế - xã hội và yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng,

an ninh ở địa phương, cơ sở.

- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ

chức quyết định danh sách DQTV nòng cốt.

d/ Những chế độ, chính sách chung đối với dân quân tự vệ

DQTV được hưởng chế độ, chính sách trong trường hợp:

- Khi được huy động làm nhiệm vụ;

- Thực hiện quyết định điều động của cấp có thẩm quyền.

Chế độ, chính sách đối với DQTV được quy định như sau:

- Đối với dân quân (trừ dân quân biển và dân quân thường trực)

được hưởng:

+ Trợ cấp ngày công lao động theo mức do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định, nhưng không thấp hơn hệ số

0,08 mức lương tối thiểu chung; nếu làm nhiệm vụ từ 22 giờ đến 06 giờ hoặc ở

nơi có yếu tố nguy hiểm, độc hại thì được hưởng chế độ theo quy định của Bộ

luật Lao động.

+ Khi làm nhiệm vụ cách xa nơi cư trú, không có điều kiện đi, về hàng

ngày thì được bố trí nơi nghỉ, hỗ trợ phương tiện, chi phí đi lại hoặc thanh

toán tiền tàu, xe một lần đi, về; được hỗ trợ tiền ăn theo mức do Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định.

- Tự vệ (trừ tự vệ biển) được trả nguyên lương, các khoản phúc lợi, phụ

cấp đi đường và tiền tàu, xe theo chế độ hiện hành.

- Cấp quyết định điều động DQTV làm nhiệm vụ thì bảo đảm chế độ,

chính sách quy định của Luật DQTV.

- Dân quân nòng cốt đã hoàn thành nghĩa vụ tham gia DQTV, nếu tiếp

17

tục được kéo dài thời hạn tham gia thực hiện nghĩa vụ thì ngoài chế độ theo

quy định chung, khi được huy động làm nhiệm vụ được hưởng trợ cấp ngày

công lao động tăng thêm. Mức trợ cấp tăng thêm, do Ủy ban nhân dân cấp

tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định nhưng không thấp hơn hệ

số 0,04 mức lương tối thiểu chung.

e/ Chế độ, chính sách đối với DQTV biển, DQTV thường trực được quy

định như sau

Chế độ, chính sách đối với DQTV biển được quy định:

DQTV biển khi huấn luyện, làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự, tìm

kiếm cứu nạn trên biển được hưởng các chế độ, chính sách sau đây:

- Dân quân được trợ cấp ngày công lao động, mức trợ cấp không thấp

hơn hệ số 0,12 mức lương tối thiểu chung; được hỗ trợ tiền ăn như chiến sỹ

hải quân trên tàu cấp một neo đậu tai căn cứ;

- Tự vệ được trả nguyên lương, các khoản phúc lợi, phụ cấp tiền tàu, xe

theo chế độ hiện hành.

DQTV biển trong thời gian làm nhiệm vụ tham gia bảo vệ chủ quyền trên

các vùng biển, đảo được hưởng các chế độ, chính sách do Chính phủ quy định.

Chế độ, chính sách đối với DQTV thường trực được quy định:

- DQTV thường trực được trợ cấp ngày công lao động không thấp hơn

hệ số 0,08 mức lương tối thiểu chung, được bố trí nơi ăn nghỉ.

- Dân quân nòng cốt đã hoàn thành nghĩa vụ tham gia DQTV, trong đó

ít nhất 12 tháng làm nhiệm vụ dân quân thường trực thì được miễn thực hiện

nghĩa vụ quân sự tại ngũ và được hỗ trợ như sau:

+ 01 tháng lương tối thiểu chung đối với trường hợp có từ đủ 12 tháng

đến dưới 18 tháng;

+ 02 tháng lương tối thiểu chung đối với trường hợp có từ đủ 18 tháng

đến dưới 24 tháng;

18

+ 03 tháng lương tối thiểu chung đối với trường hợp có từ đủ 24

tháng trở lên.

g/ Chế độ, chính sách đối với DQTV bị ốm, bị tai nạn, bị chết, bị thương,

hy sinh

Chế độ, chính sách đối với DQTV bị ốm, bị tai nạn, bị chết, bị thương,

hy sinh được quy định:

- Cán bộ, chiến sỹ DQTV bị ốm, bị tai nạn, bị thương trong khi thực

hiện nhiệm vụ theo quy định của Luật Dân quân tự vệ, nếu chưa tham gia bảo

hiểm y tế thì được thanh toán tiền khám bệnh, chữa bệnh. Trường hợp làm

nhiệm vụ quy định tại khoản 4, 5, 6 - Điều 8 - Luật Dân quân tự vệ, nếu bị tai

nạn làm giảm khả năng lao động theo kết luận của Hội đồng giám định y khoa

thì được xét trợ cấp tùy theo mức độ suy giảm khả năng lao động; nếu bị chết

thì được hưởng chế độ tiền tuất, tiền mai táng phí.

- Cán bộ, chiến sỹ DQTV làm nhiệm vụ quy định tại khoản 1, 2, 3 - Điều

8 - Luật Dân quân tự vệ và thực hiện quyết định điều động của cấp có thẩm

quyền theo quy định của Luật DQTV, nếu bị thương thì được xét hưởng chính

sách như thương binh; nếu hy sinh được xét công nhận là liệt sỹ theo quy định

của pháp luật.

- Chính phủ quy định điều kiện, thủ tục, hồ sơ, kinh phí và cơ quan chịu

trách nhiệm bảo đảm chế độ, chính sách cho cán bộ, chiến sỹ DQTV.

h/ Khen thưởng đối với DQTV được quy định như sau

Luật DQTV quy định:

- Cán bộ, chiến sỹ DQTV có thành tích trong thực hiện nhiệm vụ; cơ

quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong tổ chức và hoạt động của DQTV thì

được khen thưởng theo quy định của pháp luật vewè thi đua, khen thưởng.

- Cơ quan quân sự cáccâp, Ban CHQS cấp xã, Ban CHQS cơ quan, tổ

chức ở cơ sở, Ban CHQS bộ, ngành trung ương chủ trì, phối hợp với cơ quan

19

thi, khen thưởng cùng cấp tổ chức thực hiện công tác thi đua, khen thưởng trong

DQTV dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương

hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức và sự chỉ đạo, quản lý của cơ quan quân

sự cấp trên.

- Tổ chức phong trào thi đua quyết thắng trong DQTV gắn với phong

trào thi đua của địa phương, cơ quan, tổ chức.

- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chủ trì phối hợp với Bộ trưởng Bộ Nội

vụ hướng dẫn công tác thi đua, khen thưởng trong DQTV theo quy định

của pháp luật.

k/ Xử lý DQTV vi phạm được quy định như sau

Các quy định về xử lý DQTV vi phạm như sau:

- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi chống đối, cản trở việc tổ chức,

hoạt động của DQTV, vi phạm các quy định khác của pháp luật về DQTV thì

tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc

bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

- Cán bộ, chiến sĩ DQTV khi làm nhiệm vụ vi phạm kỷ luật, vi phạm

pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ lật, xử phạt

hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi

thường theo quy định của pháp luật.

- DQTV nòng cốt tạm thời không được thực hiện nghĩa vụ tham gia

DQTV khi bị khởi tố, tạm giữ, tạm giam; nếu bị phạt tù thì đương nhiên

bị tước danh hiệu DQTV nòng cốt kể từ ngày bản án của tòa có hiệu lực

pháp luật.

l/ Các hình thức kỷ luật đối với DQTV

Hình thức xử lý kỷ luật đối với DQTV như sau:

- Đối với chiến sĩ DQTV, khi làm nhiệm vụ nếu vi phạm quy định của

Luật DQTV hoặc quy định khác của pháp luật có liên quan thì áp dụng một

20

trong các hình thức kỷ luật sau:

+ Khiển trách;

+ Cảnh cáo;

+ Tước danh hiệu DQTV nòng cốt.

- Đối với cán bộ DQTV, khi làm nhiệm vụ nếu vi phạm quy định của

Luật DQTV hoặc quy định khác của pháp luật có liên quan thì áp dụng một

trong các hình thức kỷ luật sau:

+ Khiển trách;

+ Cảnh cáo;

+ Giáng chức;

+ Cách chức.

- Đối với tổ chức DQTV, nếu vi phạm quy định của Luật DQTV

hoặc quy định khác của pháp luật có liên quan thì áp dụng một trong các

hình thức kỷ luật sau:

+ Khiển trách;

+ Cảnh cáo;

1.2. Khái niệm, hình thức và nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về

dân quân tự vệ

1.2.1 Khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ

Chúng ta đều biết nhà nước đặt ra pháp luật là để điều chỉnh các quan hệ

xã hội theo chiều hướng mà nó mong muốn. Theo đó, việc thực hiện pháp luật

là hoạt động không thể thiếu kể từ khi pháp luật xuất hiện. Thực hiện pháp

luật về dân quân tự vệ trước hết là một trong những hình thức để thực hiện

các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, thể hiện bằng hành vi hợp pháp của

các chủ thể pháp luật. Đây là giai đoạn không thể thiếu và vô cùng quan trọng

của cơ chế điều chỉnh pháp luật. Tuy nhiên, thực hiện pháp luật về dân quân

tự vệ do nhiều chủ thể khác nhau thì sẽ tiến hành với nhiều cách thức khác

21

nhau, vì thế, bằng cách quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể

tham gia vào một quan hệ xã hội nhất định, nhà nước có thể tác động lên các

quan hệ xã hội, điều chỉnh chúng theo chiều hướng nhà nước mong muốn. Do

đó, pháp luật chỉ điều chỉnh hành vi hay xử sự của con người mà không thể

điều chỉnh suy nghĩ hay tư tưởng của họ, bởi vì, không ai có thể “đọc” được

hay dự đoán được chính xác ý nghĩ của người khác khi nó đang tồn tại trong

đầu họ, tức là khi nó chưa được thể hiện ra bên ngoài thành những hành vi

hay xử sự cụ thể để mà điều chỉnh. Vì lý do này mà chỉ có thể căn cứ vào

hành vi xác định hay xử sự thực tế của một chủ thể nào đó rồi đối chiếu với

các quy định cụ thể của pháp luật mà ta có thể xác định được là họ có thực

hiện pháp luật về dân quân tự vệ hay không hay không.

Khái niệm: tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ là một quá

trình hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật về dân quân

tự vệ đi vào thực tiễn cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp

của các chủ thể pháp luật.

1.2.2. Các hình thức tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ

- Tuân theo (tuân thủ) pháp luật về dân quân tự vệ : Là hình thức thực

hiện pháp luật về dân quan tự vệ trong đó các chủ thể kiềm chế, giữ mình để

không thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm. Ví dụ: chủ thể chốn không

tham gia lực lượng dân quân tự vệ ở cơ quan tổ chức khi có yêu cầu. Đây là

hình thức thực hiện các quy phạm pháp luật cấm đoán trong thực tế và là hình

thức thực hiện pháp luật bằng không hành động.

- Thi hành (chấp hành) pháp luật về dân quân tự vệ: Là hình thức thực

hiện pháp luật trong đó các chủ thể thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của mình

bằng hành động tích cực. Ví dụ, Thanh niên trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ

tham gia lực lượng tự vệ cơ quan hàng năm. Đây là hình thức thực hiện các

quy phạm pháp luật bắt buộc trong thực tế và là hình thức thực hiện pháp luật

22

bằng hành động.

- Sử dụng (vận dụng) pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật trong

đó các chủ thể thực hiện quyền chủ thể của mình, tức là thực hiện những hành

vi mà pháp luật cho phép. Đây là hình thức thực hiện các quy phạm cho phép,

vì vậy, chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền của mình,

- Áp dụng pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó nhà nước

(thông qua các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền) tổ chức cho các

chủ thể khác thực hiện các quy định của pháp luật. Như vậy, áp dụng pháp

luật là hình thức thực hiện pháp luật có sự can thiệp của nhà nước hay là hình

thức thực hiện pháp luật của các cơ quan, tổ chức và nhân viên nhà nước.

Trong bốn hình thức thực hiện pháp luật chỉ có hình thức này là luôn luôn có

sự hiện diện của nhà nước thông qua các chủ thể có thẩm quyền theo quy định

của pháp luật.

1.2.3. Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ

Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ được quy định ở

Nghị định số 03/2016/NĐ-CP ngày 05 tháng 01 năm 2016 của Chính phủ quy

định chi tiết và biện pháp thi hành một số điều của Luật Dân quân tự vệ

Nghị định gồm 27 điều, quy định chi tiết, biện pháp thi hành một số

điều của Luật Dân quân tự vệ về: Tổ chức tự vệ trong doanh nghiệp; số

lượng Chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự cấp xã; nhiệm vụ, quyền hạn, cơ chế

phối hợp hoạt động của Ban chỉ huy quân sự Bộ, ngành Trung ương; con

dấu của Ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn, Ban chỉ huy quân sự cơ

quan, tổ chức ở cơ sở, Ban chỉ huy quân sự Bộ, ngành Trung ương; nguồn

kinh phí; cấp xã trọng điểm về quốc phòng, an ninh; điều kiện thành lập Ban

chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức ở cơ sở; phân cấp quản lý Ban chỉ huy

quân sự cơ quan, tổ chức ở cơ sở, đơn vị dân quân tự vệ; chế độ, chính sách

đối với dân quân tự vệ; hỗ trợ phương tiện, kinh phí đi lại cho dân quân tự

23

vệ khi thực hiện nhiệm vụ.

Nghị định áp dụng đối với công dân Việt Nam, cơ quan của Nhà nước, tổ

chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp của

Việt Nam; cá nhân, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cư trú và hoạt

động tại Việt Nam liên quan đến dân quân tự vệ.

Nghị định quy định cụ thể về quyết định công dân thực hiện nghĩa vụ

tham gia dân quân tự vệ; quyết định công dân hoàn thành nghĩa vụ tham gia

dân quân tự vệ; giấy phép sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ của dân quân tự vệ;

điều kiện tổ chức tự vệ trong doanh nghiệp; trình tự, thủ tục thành lập đơn vị

tự vệ trong doanh nghiệp; thẩm quyền thành lập, giải thể đơn vị tự vệ trong

doanh nghiệp; điều kiện thành lập Ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức ở cơ

sở; xã, phường, thị trấn trọng điểm về quốc phòng, an ninh; số lượng Chỉ huy

phó Ban chỉ huy quân sự cấp xã; nhiệm vụ, quyền hạn của Ban chỉ huy quân

sự Bộ, ngành Trung ương; cơ chế hoạt động của Ban chỉ huy quân sự Bộ,

ngành Trung ương; phân cấp quản lý Ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức ở

cơ sở, đơn vị dân quân tự vệ; con dấu của Ban chỉ huy quân sự; trang phục,

sao mũ, phù hiệu của dân quân tự vệ; tiêu chuẩn, định mức trang thiết bị nơi

làm việc của Ban chỉ huy quân sự cấp xã; phụ cấp trách nhiệm quản lý, chỉ

huy đơn vị; chế độ phụ cấp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiền ăn, công tác

phí, trợ cấp của Chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự cấp xã; phụ cấp của Thôn

đội trưởng; hỗ trợ phương tiện, chi phí đi lại cho dân quân tự vệ; chế độ phụ

cấp thâm niên, phụ cấp đặc thù quốc phòng, quân sự; chế độ, chính sách đối

với dân quân tự vệ làm nhiệm vụ tham gia bảo vệ chủ quyền, quyền chủ

quyền biển, đảo; chế độ, chính sách đối với dân quân chưa tham gia bảo hiểm

y tế, bảo hiểm xã hội khi thực hiện nhiệm vụ bị ốm, bị chết; chế độ, chính

sách đối với dân quân chưa tham gia bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội khi thực

24

hiện nhiệm vụ bị tai nạn, bị chết; chế độ, chính sách đối với dân quân tự vệ bị

chết, hy sinh, bị thương; chế độ báo, tạp chí; nguồn kinh phí chi cho dân quân

tự vệ; hiệu lực và trách nhiệm thi hành.

Theo Nghị định, mức phụ cấp trách nhiệm quản lý, chỉ huy đơn vị dân

quân tự vệ được tính và chi trả theo tháng, bằng mức lương cơ sở nhân với hệ

số quy định cụ thể: Tiểu đội trưởng, Khẩu đội trưởng: 0,10; Trung đội trưởng,

Thôn đội trưởng: 0,12; Đại đội phó, Chính trị viên phó đại đội, Hải đội phó,

Chính trị viên phó hải đội: 0,15; Đại đội trưởng, Chính trị viên đại đội, Hải

đội trưởng, Chính trị viên hải đội, Trung đội trưởng dân quân cơ động: 0,20;

Tiểu đoàn phó, Chính trị viên phó tiểu đoàn, Hải đoàn phó, Chính trị viên phó

hải đoàn: 0,21; Tiểu đoàn trưởng, Chính trị viên tiểu đoàn, Hải đoàn trưởng,

Chính trị viên hải đoàn, Chỉ huy phó, chính trị viên phó Ban chỉ huy quân sự

cấp xã, Chỉ huy phó, Chính trị viên phó Ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức

ở cơ sở: 0,22; Chỉ huy trưởng, Chính trị viên Ban chỉ huy quân sự cấp xã, Chỉ

huy trưởng, Chính trị viên Ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức ở cơ sở, Chỉ

huy phó, Chính trị viên phó Ban chỉ huy quân sự Bộ, ngành Trung ương:

0,24; Chỉ huy trưởng, Chính trị viên Ban chỉ huy quân sự Bộ, ngành Trung

ương: 0,25.

Thời gian được hưởng phụ cấp trách nhiệm tính từ ngày có quyết định bổ

nhiệm và thực hiện cho đến khi có quyết định thôi giữ chức vụ đó; trường hợp

giữ chức vụ từ 15 ngày trở lên trong tháng thì được hưởng phụ cấp cả tháng,

giữ chức vụ dưới 15 ngày trong tháng thì được hưởng 50% phụ cấp trách

nhiệm của tháng đó.

Nghị định cũng quy định chế độ phụ cấp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,

tiền ăn, công tác phí, trợ cấp của Chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự cấp xã;

phụ cấp của Thôn đội trưởng; hỗ trợ phương tiện, chi phí đi lại cho dân quân

25

tự vệ; chế độ phụ cấp thâm niên; chế độ phụ cấp đặc thù quốc phòng, quân sự;

chế độ, chính sách đối với dân quân tự vệ làm nhiệm vụ tham gia bảo vệ chủ

quyền, quyền chủ quyền biển, đảo...

Nghị định nêu rõ, dân quân tự vệ trong thời gian làm nhiệm vụ tham gia

bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo của nước Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam theo quyết định điều động của cấp có thẩm quyền được

hưởng các chế độ, chính sách.

Cụ thể, đối với dân quân được trợ cấp ngày công lao động, mức trợ cấp

bằng hệ số 0,25 mức lương cơ sở; được hưởng tiêu chuẩn tiền ăn mỗi người

mỗi ngày bằng 0,1 mức lương cơ sở. Đối với thuyền trưởng, máy trưởng được

trợ cấp thêm một khoản phụ cấp trách nhiệm mỗi người mỗi ngày bằng 0,08

mức lương cơ sở.

Đối với tự vệ được trả nguyên lương, các khoản phụ cấp hiện hưởng,

phúc lợi theo chế độ hiện hành và được hưởng thêm 50% lương ngạch bậc

tính theo ngày thực tế huy động; được hưởng tiêu chuẩn tiền ăn mỗi người

mỗi ngày bằng 0,1 mức lương cơ sở; nếu mức thực tế thấp hơn quy định trên

thì được áp dụng chính sách như đối với dân quân.

Bên cạnh đó, Nghị định cũng quy định cán bộ chiến sĩ dân quân tự vệ

nếu bị chết, hy sinh, bị thương trong khi làm nhiệm vụ được xem xét, xác

nhận là liệt sĩ, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh theo

quy định tại Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng.

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện pháp luật về dân

quân tự vệ

Qua thực tiễn tình hình thực hiện pháp luật dân quân tự vệ ở nước ta cho

thấy hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ ở nước ta

hiện nay phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, trong đó, chủ yếu là trình độ kiến

thức, hiểu biết pháp luật của các chủ thể pháp luật; công tác phổ biến, tuyên

26

truyền, giáo dục pháp luật (đối với đại bộ phận nhân dân, vai trò quan trọng

nhất thuộc về các phương tiện truyền thông); vai trò, trách nhiệm của các cơ

quan chức năng trong hoạt động thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ.

Thứ nhất, ý thức pháp luật về dân quân tự vệ.

“Ý thức pháp luật là toàn bộ các học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan

niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ của con người đối với

pháp luật, trình độ hiểu biết pháp luật, thái độ, sự đánh giá về pháp luật của

các gia cấp, các tầng lớp xã hội, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong

hành vi ứng xử của con người, trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức và

hoạt động của các thiết chế xã hội”

Ý thức pháp luật thể hiện ở trình độ nhận thức, hiểu biết về pháp luật,

tình cảm, thái độ của con người đối với pháp luật, thể hiện sự đánh giá về tính

hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người, trong tổ

chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội dưới môi

trường điều chỉnh của pháp luật. Qua đó, có thể thấy rằng ý thức pháp luật là

cơ sở, nền tảng, định hướng và điều tiết hoạt động thực hiện pháp luật của các

chủ thể; đồng thời là tiền đề để hình thành thói quen “sống và làm việc theo

pháp luật” trong xã hội.

Trong tiến trình phát triển hàng ngàn năm của lịch sử loài người, ta thấy

các tầng lớp xã hội sẽ không thể thực hiện pháp luật một cách nghiêm túc,

đúng đắn nếu thiếu kiến thức, hiểu biết pháp luật. Tính chất đúng hay sai,

mức độ sâu sắc hay hời hợt trong suy nghĩ, tình cảm đối với các vấn đề pháp

luật cũng phụ thuộc vào trình độ tri thức, hiểu biết pháp luật của công chúng.

Nếu đa số người dân có một trình độ hiểu biết nhất định về pháp luật thì họ sẽ

tích cưc tham gia các sự kiện pháp lý đang diễn ra dựa trên các chuẩn mực

pháp luật từ đó sẽ thực hiện pháp luật đúng đắn, hợp lý. Khi các tầng lớp nhân

dân có một trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức pháp luật ở một mức độ nhất

27

định thì đội ngũ cán bộ, công chức các cấp, các ngành, nhất là cán bộ, công

chức làm công tác thực thi, bảo vệ pháp luật, buộc cũng phải nâng cao trình

độ hiểu biết pháp luật của chính mình, tức là họ cần có ý thức pháp luật ở một

trình độ cao hơn. Bên cạnh những mặt tích cực của hoạt động thực hiện pháp

luật, vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Đó là vấn đề người dân thiếu

kiến thức, hiểu biết về pháp luật dẫn đến việc thực hiện pháp luật một cách

thụ động. Thực tế chỉ ra rằng, khi người dân thiếu kiến thức, hiểu biết pháp

luật và ý thức chấp hành kém thì dễ dẫn đến các hành vi sai lệch, phạm pháp,

phạm tội. Điều đó có ảnh hưởng tiêu cực tới ý thức pháp luật và việc thực

hiện pháp luật của những người khác, vì họ rất dễ bị phản ứng dây chuyền

theo cơ chế lây lan tâm lý. Do đó, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật

cho các tầng lớp nhân dân, trang bị cho người dân những kiến thức, hiểu biết

nhất định về pháp luật là một việc rất cần thiết và cấp bách.

Trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện

nay, mọi công dân trong xã hội đều phải sống và làm việc theo pháp luật. Đặc

biệt là đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, nếu thiếu ý thức pháp luật ở trình

độ cao thì không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ thực hiện và áp dụng pháp luật

của mình trong quá trình giải quyết các công việc liên quan đến lợi ích của

người dân. Sống và làm việc theo pháp luật là nghĩa vụ, là trách nhiệm của

mỗi công dân. Bên cạnh việc nâng cao trình độ tri thức pháp luật cho đội ngũ

cán bộ, công chức các cấp, các ngành, chúng ta cũng cần quan tâm đúng mức

tới công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho các tầng lớp nhân dân, trang

bị cho người dân những kiến thức, hiểu biết nhất định về pháp luật. Từ đó tạo

thành thói quen “sống và làm việc theo pháp luật” trong hành vi của các chủ

thể pháp luật và hoạt động thực hiện pháp luật sẽ đạt được hiệu quả.

Thứ hai, vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng đối với công tác

phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ cho các tầng lớp

28

nhân dân.

Để nâng cao ý thức pháp luật cho các đối tượng, chủ thể khác nhau,

trước hết cần phải đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp

luật cho họ bằng nhiều hình thức khác nhau. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục

pháp luật là sự tác động chủ động, tích cực của chủ thể giáo dục lên đối tượng

giáo dục nhằm mục đích cung cấp, trang bị kiến thức pháp luật, hình thành

tình cảm, thái độ tích cực đối với pháp luật, tạo lập thói quen tuân thủ, chấp

hành và sử dụng pháp luật cho các đối tượng xã hội.

Điều đó được thể hiện rõ trong Nghị quyết số 61/2007/NQ- CP ngày

07/12/2007 của Chính phủ về việc tiếp tục thực hiện chỉ thị số 32- CT/TW

của Ban bí thư Trung ương Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,

nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân “Sử dụng, khai

thác và vận dung linh hoạt các hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục

pháp luật đảm bảo tính phù hợp giữa phổ biến, giáo dục pháp luật với tư vấn

pháp luật, trợ giúp, hòa giải cơ sở, giải quyết tranh chấp”. Hiện nay, Đảng và

Nhà nước ta luôn coi trọng công tác phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp

luật “Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật, huy

động các lực lượng đoàn thể, chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các phương tiện

thông tin đại chúng tham gia các đợt vận động thiết lập trật tự, kỷ cương và

các hoạt động thường xuyên, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật

trong các cơ quan nhà nước và xã hội”. Cùng với các phương tiện thông tin

đại chúng có thể đưa đến cho đông đảo công chúng các thông tin, kiến thức

pháp luật một cách nhanh chóng nhất, cập nhật nhất, rộng rãi nhất và phù hợp

nhất với nhiều đối tượng xã hội.

Ở nước ta hiện nay, đã có đủ các loại hình là báo in, báo nói, báo hình và

báo điện tử ( trên mạng internet). Với thống kê của các nhà nghiên cứu thì các

phương tiện thông tin đại chúng đã và đang phát triển rộng khắp trên cả nước:

29

553 cơ quan báo chí, hàng trăm đài phát thanh, truyền hình ph. Với lực lượng

hùng hát triển nhanh chóng, tăng trưởng viễn thông Internet thuộc loại cao

trên thế giới với tốc độ bình quân là 32,5%/năm. Với sự lớn mạnh đó, trước

hết các phương tiện thông tin đại chúng cần làm tốt vai trò cung cấp thông tin

đầy đủ và đa dạng hơn về các sự việc, sự kiện, hiện tượng pháp lí xảy ra trong

đời sống pháp luật ở các địa phương cũng như trên cả nước; cung cấp những

tri thức pháp luật cần thiết cho các tầng lớp nhân dân; tuyên truyền cho các

chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; biểu

dương những tấm gương “người tốt, việc tốt” trong công tác triển khai thực

hiện pháp luật và áp dụng pháp luật; phê phán và lên án những hành vi tiêu

cực, vi phạm pháp luật.

Các phương tiện thông tin đại chúng cần dành thời lượng nhiều hơn cho

việc đăng tải những thông tin về các văn bản, chính sách pháp luật mới của

Nhà nước và của chính quyền các cấp một cách đầy đủ và chi tiết. Cần mở

thêm các chuyên mục mới về phổ biến, giáo dục pháp luật với thời lượng dài

hơn, thông tin đa dạng, phong phú hơn và hình thức thể hiện hấp dẫn hơn.

Các báo nói và báo hình cần chú ý đến khung giờ phát song các chương trình

phổ biến, giáo dục pháp luật sao cho phù hợp với các nhóm đối tượng xã hội

khác nhau. Các phương tiện thông tin đại chúng cũng cần dành một thời

lượng thích đáng cho việc đăng tải, phát sóng các thông tin về đời sống pháp

luật đã được kiểm chứng chính thức và mang tính xây dựng. Đặc biệt, khi có

các sự việc, sự kiện, hiện tượng pháp luật diễn ra có tầm quan trọng liên quan

đến lợi ích của đất nước, của dân tộc, động chạm đến các giá trị, chuẩn mực,

pháp luật cơ bản như: Đường lối đối nội, đối ngoại, sửa đổi Hiến pháp, xây

dựng và ban hành các bộ luật cơ bản, các vụ án đặc biệt nghiêm trọng xảy ra,

các hành vi tiêu cực,…Khi đó, định hướng thông tin của báo chí chính là phải

kịp thời đưa ra đường lối, quan điểm chính thống của Đảng và Nhà nước, ý

30

kiến kết luận chính thức của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp thông tin phải đi liền với

việc tuân thủ nguyên tắc tính chân thật, phản ánh đúng bản chất của vấn đề:

khen ngợi biểu dương mà không tô hồng; lên án, phê phán nhưng không bôi

nhọ. Khi phản ánh các sự việc, sự kiện, hiện tượng pháp luật diễn ra trong xã

hội, các phương tiện thông tin đại chúng cần tránh hai khuynh hướng: Đó là,

phản ánh thiếu chọn lọc, thiếu sự cân nhắc, đưa tin tùy tiện, dễ dãi, chưa được

kiểm chứng dẫn đến làm phức tạp hóa những vấn đề vốn đã phức tạp; Hoặc là

khuynh hướng bưng bít, cắt xén làm khô khan thông tin về đời sống pháp

luật, dẫn đến làm mất lòng tin của nhân dân.

Thứ ba, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong hoạt động thực

hiện pháp luật về dân quân tự vệ.

Hoạt động thực hiện pháp luật là hoạt động của các cá nhân, các tổ chức

và của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức xã hội được nhà

nước ủy quyền. Do đó, để nâng cao hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp

luật, ngoài các biện pháp áp dụng đối với các tầng lớp nhân dân, còn rất cần

thiết phải tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong

hoạt động thực hiện pháp luật.

Ở nước ta hiện nay, có thể thấy rằng đa số người dân có ý thức tự giác,

tích cực và nghiêm chỉnh trong việc thực hiện pháp luật. Tuy nhiên, những

khuyết điểm, sai phạm xảy tra trong hoạt động thực hiện pháp luật vẫn còn

tương đối phổ biến, đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện

nay. Nghị quyết hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương khóa IX đã

khái quát thực trạng này như sau: “ Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất

đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa không giữ dung

kỷ cương, phép nước xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng”. Có

tình trạng này là do nhiều lúc, nhiều nơi, các cơ quan chức năng của nhà

31

nước còn xem nhẹ, buông lỏng vai trò, trách nhiệm quản lý trong lĩnh vực,

ngành mà mình phụ trách, chưa phát huy hết vai trò, chức năng quản lý của

mình. Đây là một nguyên nhân cơ bản làm giảm sút hiệu quả hoạt động thực

hiện pháp luật. Vì vậy, các cơ quan chức năng cần tăng cường hơn nữa vai

trò, trách nhiệm của mình:

- Quốc hội phải thường xuyên xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp

luật đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn đời sống xã hội, nhất

là các văn bản pháp luật hướng dẫn thực hiện pháp luật. Đây là điều kiện

tiên quyết đảm bảo cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm túc và

hiệu quả.

- Các cơ quan công an, tòa án, viện kiểm sát, thanh tra và các cơ quan

khác có liên quan phải nghiêm chỉnh thực hiện các quy phạm pháp luật, giữ

đúng vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của mình, tích cực tham gia quản

lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp

chế xã hội chủ nghĩa. Phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực

hiện pháp luật, đồng thời tạo các điều kiện cần thiết để người dân có thể tham

gia giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và thực hiện pháp luật một

cách thuận lợi.

- Các cơ quan chức năng cần phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời

các hiện tượng tiêu cực, các hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật, vì “tình

trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ

nghĩa cá nhân và tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận

cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng”, góp phần củng cố niềm tin của nhân

dân đối với pháp luật.

- Bản thân mỗi cán bộ, công chức nhà nước phải luôn luôn gương mẫu

trong việc thực hiện pháp luật; thường xuyên học tập, nâng cao trình độ hiểu

biết về văn hóa, pháp luật; nâng cao trình độ học vấn, năng lực chuyên môn

32

nghiệp vụ; không để bản thân lâm vào tình trạng quan liêu, né tránh trách

nhiệm pháp lý của cá nhân, thói dựa dẫm, ỷ lại vào cấp trên; giải quyết công

việc sai nguyên tắc, thái độ thờ ơ với công việc, tiêu xài lãng phí tiền cơ quan,

không tuân thủ các quy định của cơ quan chủ quản, đặc biệt là sự tha hóa về

đạo đức. Phải có thái độ hòa nhã, tôn trọng trong quá trình hướng dẫn nhân

33

dân thực hiện pháp luật.

Tiểu kết chương 1

Luật Dân quân tự vệ được quốc hội thông qua năm 2009 và được ban

hành và thực hiện từ năm 2010, việc tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ

về vấn đề cơ bản đã được tổng kết trong chương 1 của Luận văn đó là các

phần về khái niệm và nội dung pháp luật về dân quân tự vệ, các hình thức tổ

chức Luật Dân quân tự vệ, nội dung tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ từ

những nội dung và hình thức này luận văn có thể tiếp tục nghiên cứu thực

trạng việc tổ chức Luật Dân quân tự vệ từ thực tiễn của Thành phố Hà Nội

Tại chương 1 của luận văn cũng đã tổng kết được những nhân tố ảnh

hưởng đến tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ, qua việc xác định ý thức

pháp luật về dân quân tự vệ của mọi người dân trong thực hiện Luật Dân quân

tự vệ, vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng đối với công tác phổ

biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ cho các tầng lớp

nhân dân và cuối cùng là trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong hoạt

động thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ. Qua việc nghiên cứu các nhân tố

tác động để làm cơ sở lý luận để luận văn có thể nghiên cứu các giải pháp

đảm bảo tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ trên địa bàn thành phố Hà

34

Nội ở phần sau được tốt hơn.

Chương 2

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT

DÂN QUÂN TỰ VỆ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Khái quát về tình hình dân quân tự vệ thủ đô Hà Nội

2.1.1. Tình hình lực lượng dân quân tự vệ thủ đô Hà Nội

Thành phố Hà Nội hiện nay có 30 quận (huyện), theo cơ cấu tổ chức về

dân quân tự vệ thì ở Thành phố là Bộ tư lệnh thủ đô Hà Nội, các quận (huyện)

là các Ban chỉ huy quân sự quận (huyện), các phường (xã, thị trấn) là các Ban

chỉ huy quân sự phường (xã, thị trấn).

Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội được thành lập theo sắc lệnh số 16 của Chủ

tịch nước Việt Nam ngày 16 tháng 7 năm 2008 về việc tổ chức lại Quân khu

Thủ đô Hà Nội thành Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội. Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội

trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam có "chức năng tham mưu cho Ðảng bộ

Đảng CSVN và chính quyền thành phố Hà Nội thực hiện nhiệm vụ quốc

phòng toàn dân và công tác quân sự địa phương; giúp Bộ trưởng Bộ Quốc

phòng và Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội thực hiện quản lý nhà

nước về lĩnh vực quân sự, quốc phòng tại địa phương; tổ chức thực hiện xây

dựng, quản lý, chỉ huy các đơn vị lực lượng thường trực và lực lượng dự bị

động viên, dân quân tự vệ thuộc quyền. Năm 2015, toàn thành phố thành lập

mới 11 Ban CHQS cơ quan, tổ chức cơ sở. Đến nay, tỷ lệ dân quân tự vệ

chiếm 19,5%. Chỉ đạo tổ chức có chất lượng việc luyện tập chuyển trạng thái

SSCĐ và hướng dẫn các Ban CHQS quận, huyện, thị xã hoàn thành lập quy

hoạch xây dựng thế trận khu vực phòng thủ. Trong năm có 119/117 xã,

phường, thị trấn tổ chức diễn tập đạt 101,7% chỉ tiêu năm. Bộ tư lệnh Thủ đô

đã hoàn thành đề án đào tạo cán bộ quân sự, xã, phường, thị trấn. Cùng với

hoàn thành các nhiệm vụ huấn luyện, SSCĐ, Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội đã chỉ

35

đạo, huy động kịp thời cán bộ, chiến sĩ lực lượng thường trực, dân quân cơ

động, tự vệ của các cơ sở và phương tiện phối hợp cùng với các đơn vị quân

đội và các lực lượng khác trên địa bàn tham gia xử lý thiên tai, cháy nổ, cháy

rừng, tìm kiếm cứu nạn, hỏa hoạn xảy ra trên địa bàn, góp phần giản thiểu

thiệt hại cho nhân dân.

Số lượng dân quân tự vệ thành phố Hà Nội được phân cấp theo ban chỉ

huy quân sự quận (huyện) các quận (huyện) có biên chế chính thức gồm 25

cán bộ, chiến sĩ, tổng số toàn thành phố là 750 cán bộ, chiến sĩ tại các Ban chỉ

huy quân sự quận (huyện, thị xã).

Tổ chức Ban CHQS và cán bộ dân quân tự vệ

Số lượng cán bộ Ban CHQS cấp xã, phường, thị trấn:

Đối với xã và phường trên địa bàn thành phố Hà nội biên chế 05 cán bộ

Ban CHQS, gồm: 01 Chỉ huy trưởng, 01 Chính trị viên, 02 Chỉ huy phó, 01

Chính trị viên phó;

Chỉ huy trưởng phải là đảng viên, là công chức cấp xã và tham gia

cấp ủy;

Chính trị viên là Bí thư đảng ủy cấp xã kiêm nhiệm;

Chính trị viên phó do Bí thư hoặc Phó Bí thư Đoàn cấp xã kiêm nhiệm;

Chỉ huy phó là cán bộ không chuyên trách.

Số lượng cán bộ Ban CHQS cơ quan, tổ chức ở cơ sở:

Biên chế 4 người, gồm: 01 Chỉ huy trưởng, 01 Chính trị viên, 01 Chỉ

huy phó, 01 Chính trị viên phó;

Căn cứ yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, quân sự, khu vực hoạt động, đơn vị

quản lý đa ngành nghề, đa lĩnh vực biên chế 05 người, gồm: 01 Chỉ huy Trưởng,

01 Chính trị viên, 02 Chỉ huy phó (trong đó có 1 Chỉ huy phó do cán bộ chuyên

trách công tác quốc phòng, quân sự đảm nhiệm), 01 Chính trị viên phó.

Chỉ huy trưởng là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ

36

quan, tổ chức kiêm nhiệm;

Chính trị viên là Bí thư chi bộ (Đảng bộ) cơ quan, tổ chức kiêm nhiệm;

Chính trị viên phó do cán bộ Đoàn thanh niên kiêm nhiệm;

Chỉ huy phó thường do cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức

kiệm nhiệm.

Cán bộ quản lý, chỉ huy đơn vị dân quân tự vệ gồm:

Tiểu đội trưởng, Khẩu đội trưởng;

Trung đội trưởng;

Thôn đội trưởng; (căn cứ tình hình cụ thể có thể bố trí Thôn đội trưởng ở

thôn nơi đặt trụ sở hoặc gần trụ sở UBND cấp xã kiêm Trung đội trưởng dân

quân cơ động xã, huyện. Đối với thôn tổ chức trung đội, hoặc tiểu đội, hoặc tổ

dân quân tại chỗ chức danh Trung đội trưởng, hoặc Tiểu đội trưởng, hoặc Tổ

trưởng dân quân tại chỗ do Thôn đội trưởng kiêm nhiệm).

Trưởng thôn kiêm nhiệm thôn đội trưởng khi có yêu cầu (trừ Thôn đội

trưởng kiêm Trung đội trưởng dân quân cơ động cấp huyện).

Đại đội tự vệ có Ban chỉ huy đại đội, biên chế 04 đồng chí, gồm: Đại đội

trưởng, Chính trị viên, Phó Đại đội trưởng quân sự, Chính trị viên phó đại đội.

Số lượng các phường thuộc các quận nội thành

Số TT Số lượng các phường Tên quận

Ba Đình 1 14

Bắc Từ Liêm 2 13

Cầu Giấy 3 8

Đống Đa 4 21

Hà Đông 5 17

Hai Bà Trưng 6 20

Hoàn Kiếm 7 18

Hoàng Mai 8 14

37

Long Biên 9 14

10 Nam Từ Liêm 10

11 Tây Hồ 8

12 Thanh Xuân 11

Tổng số 168 phường

Số lượng các xã thuộc các huyện ngoại thành

Số TT Tên huyện Số lượng các xã, phường, thị trấn

1 Ba vì 1 thị trấn + 30 xã = 31

2 Chương Mỹ 2 thị trấn + 30 xã = 32

3 Đan Phượng 1 thị trấn + 15 xã = 16

4 Đông Anh 1 thị trấn + 23 xã = 24

5 Gia Lâm 2 thị trấn + 20 xã = 22

6 Hoài Đức 1 thị trấn + 19 xã = 20

7 Mê Linh 2 thị trấn + 16 xã = 18

8 Mỹ Đức 1 thị trấn + 21 xã = 22

9 Phú Xuyên 2 thị trấn + 26 xã = 28

10 Phúc Thọ 1 thị trấn + 22 xã = 23

11 Quốc Oai 1 thị trấn + 20 xã = 21

12 Sóc Sơn 1 thị trấn + 25 xã = 26

13 Sơn Tây 9 phường + 6 xã = 15

14 Thạch Thất 1 thị trấn + 22 xã = 23

15 Thanh Oai 1 thị trấn + 20 xã = 21

16 Thanh Trì 1 thị trấn + 15 xã = 16

17 Thường Tín 1 thị trấn + 28 xã = 29

18 Ứng Hòa 1 thị trấn + 28 xã = 29

Tổng số 417 xã, phường, thị trấn

38

Tổng số các phường, xã, thị trấn trên địa bàn thành phố Hà Nội là 585

Tổng số cán bộ, chiến sỹ làm công tác tại Ban chỉ huy quân sự phường,

xã thị trấn là: 2.925 người.

Tổ chức biên chế lực lượng dân quân tự vệ

Tổng số DQTV toàn thành phố: 92.000 người đạt 1,18 % so với dân số

Tổng số DQTV nòng cốt: 82.270 người, đạt 1,06 %; so với dân số

- Lực lượng dân quân: 49.360 người = 60%;

- Lực lượng tự vệ: 32.910 người = 40%

- Nam DQTV: 65.820 người;

- Nữ DQTV: 16.450 người;

- Tỷ lệ Đoàn viên: 44.425 người = 54% ;

- Tỷ lệ Đảng viên: 17.270 người = 21%;

- Là bộ đội phục viên Xuất ngũ: 4.113 người = 5%

- DQTV năm thứ nhất: 3.520 người;

Tổ chức biên chế

Tổng số đầu mối DQTV 2.670 đơn vị (dân quân 420 đầu mối, tự vệ

2.250 đầu mối), trong đó:

- Cấp đại đội: 30;

- Cấp trung đội: 1.830;

- Cấp tiểu đội, khẩu đội: 5.970;

- Cấp tổ: 11.550;

- Lực lượng DQTV cơ động: 12.990 người

- Lực lượng DQTV Phòng không, Pháo binh, Thông tin, Trinh sát, Y

tế, Phòng hóa, Công binh: 12.750 người

- Lực lượng DQTV tại chỗ: 56.160 người

- Chất lượng cán bộ Ban CHQS phường, xã thị trấn

39

+ Số đã qua đào tạo Chỉ huy trưởng quân sự: 1.110 đ/c

+ Số chưa qua đào tạo Chỉ huy trưởng quân sự: 150 đ/c ( 90 đ/c đã làm

hồ sơ thi ngành quân sự cơ sở năm 2016, 60 đ/c đang đề nghị miễm nhiệm)

+ Là Đảng viên: 1.197 đ/c = 95 %

+ Là thành viên UBND: 378 đ/c = 30 %

+ Là đại biểu HĐND: 328 đ/c = 26,19%

- Chỉ huy trưởng Ban CHQS phường

+ Tổng số: 585 đồng chí

+ Số đã qua đào tạo Chỉ huy trưởng quân sự: 550 đ/c

+ Là Đảng ủy viên: 123 đ/c = 21,42 %

+ Là thành viên UBND: 550 đ/c = 94,85%

+ Là đại biểu HĐND: 415 đ/c = 71,42%

Thực hiện luân phiên lực lượng DQTV nòng cốt

- Từ tháng 01/2014 đến nay đã luân phiên cho ra, cấp giấy chứng nhận

hoàn thành nhiệm vụ trong lực lượng DQTV: 34.230 người đạt tỷ lệ: 13,9%

(khối dân quân đạt 20,18%)

- Kết nạp mới 33.990 đ/c = 13, 8 % ( khối dân quân đạt 20,18%)

Xây dựng lực lượng tự vệ doanh nghiệp ngoài quốc doanh:

- Tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn: 1.710 đơn vị

- Tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh có tổ chức Đảng: 540 đơn vị

- Tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh có tổ chức Đảng đã xây dựng

được lực lượng tự vệ: 390 đơn vị.

Quản lý lực lượng DQTV rộng rãi: Ban CHQS các quận (huyện) đã chỉ

đạo Ban CHQS phường (xã), Ban CHQS các cơ quan, tổ chức tổ chức đăng

ký quản lý chặt chẽ công dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ DQTV để sẵn

sàng mở rộng lực lượng trong các trạng thái và huy động khi có lệnh của cấp

trên. Tính đến nay đã đăng ký và quản lý 558.510 người đủ điều kiện để mở

40

rộng lực lượng DQTV trong các trạng thái bảo đảm theo đúng quy định.

Việc xây dựng Kế hoạch mở rộng quy mô lực lượng DQTV theo quy định

của Bộ quốc phòng và chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội.

- Trên cơ sở Kế hoạch, hướng dẫn của Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Ban

CHQS các quận (huyện) trên địa bàn thủ đô Hà Nội đã tiến hành xây dựng kế

hoạch mở rộng lực lượng dân quân tự vệ trong các trạng thái theo đúng quy

định của Thông tư 33/2016/TT – BQP và gửi Phòng DQTV thẩm định

- Chỉ đạo Ban CHQS phường (xã), Ban CHQS các cơ quan tổ chức tiến

hành xây dựng, thẩm định và phê duyệt theo đúng quy định

2.1.2. Đặc thù của lực lượng dân quân tự vệ tại Thành phố Hà Nội

Là trung tâm chính trị, hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa,

giáo dục, khoa học, kinh tế và giao dịch quốc tế, Thủ đô Hà Nội có vị trí đặc

biệt quan trọng đối với cả nước. Vì thế, xây dựng lực lượng vũ trang Thủ đô

vững mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Thủ đô trong mọi tình huống

là vấn đề quan trọng.

Lực lượng dân quân tự vệ tại Thành phố Hà Nội có những đặc thù riêng

như sau:

Thứ nhất, Lực lượng dân quân tự vệ Thành phố Hà Nội trực thuộc Bộ tư

lệnh Thủ đô, không như các tỉnh, thành phố lực lượng dân quân tự vệ thuộc

Ban chỉ huy quân sự Tỉnh, thành phố.

Thứ hai, đây là một trong những lực lượng bảo vệ Thủ đô Hà Nội, trung

tâm văn hóa, chính trị, kinh tế của cả nước.

Thứ ba, Lực lượng dân quân tự vệ tại Thành phố Hà Nội hoạt động theo

Luật Dân quân tự vệ năm 2009, tuy nhiên do đặc thù riêng còn chịu sự tác

động của Luật Thủ đô.

Lực lượng dân quân tự vệ thành phố Hà Nội tiếp tục được xây dựng theo

hướng “vững mạnh, rộng khắp”, coi trọng xây dựng lực lượng dân quân tự vệ

41

ở cơ sở xã (phường, thị trấn) và các cơ quan, tổ chức, loại hình doanh nghiệp

thuộc các thành phần kinh tế. Trong đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

quân sự xã (phường, thị trấn) trình độ trung cấp chuyên nghiệp và cao đẳng,

đại học chuyên ngành quân sự cơ sở được thực hiện đạt hiệu quả cao. Các đơn

vị dân quân cơ động được tăng cường huấn luyện đêm, huấn luyện chiến thuật

sát với các tình huống và đặc điểm địa bàn. Lực lượng dân quân tự vệ binh

chủng (phòng không, pháo binh) tập trung huấn luyện nâng cao hiệu quả các

bài bắn bảo vệ mục tiêu, khu vực được phân công. Cùng với đó, Thành phố

tập trung chỉ đạo cơ quan quân sự các cấp nâng cao chất lượng và tỷ lệ diễn

tập chiến đấu trị an xã (phường, thị trấn), tăng cường luyện tập vào ban đêm,

sẵn sàng cơ động chiến đấu bảo vệ địa bàn, bảo vệ vững chắc Thủ đô Hà Nội

trong mọi tình huống.

2.2. Tình hình tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ trên

địa bàn thành phố Hà Nội

2.3.1. Tình hình tuyên truyền, phổ biến pháp luật về dân quân tự vệ

trên địa bàn thành phố Hà Nội

Tình hình thực hiện công tác tuyên truyền pháp luật về dân quân tự vệ

Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản

quy định và hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện pháp luật. Như thực hiện

pháp luật về luật lao động, luật môi trường, luật an toàn giao thông,...ví dụ

điển hình là vấn đề thực hiện dân chủ ở cơ sở ở nước ta hiện nay. Quy chế

thực hiện dân chủ ở phường (xã) ra đời là một biểu hiện sinh động nhằm cụ

thể hóa phương châm “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” của Đảng.

Qua thời gian triển khai và thực hiện đã thực sự phát huy quyền làm chủ, sức

sáng tạo của nhân dân, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của

các tầng lớp nhân dân tham gia phát triển kinh tế xã hội ở địa phương góp

phần tác động tích cực tới công tác xây dựng Đảng, xây dựng Chính quyền,

42

phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; Xây dựng

các cộng đồng dân cư tự quản ở phường, xã, thị trấn, các khu dân cư, tổ dân

phố… Tạo ra sự chuyển biến tích cực về ý thức và phong cách làm việc của

cán bộ Đảng, Chính quyền, đoàn thể theo hướng gần dân, tôn trọng dân và có

trách nhiệm với dân hơn. Có thể nhận thấy qua những năm thực hiện Quy chế

dân chủ ở cơ sở, bầu không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội đã được tạo ra,

quyền làm chủ của nhân dân được mở rộng, lòng tin của nhân dân vào chế độ

ngày càng được củng cố, từ đó thúc đẩy sự phát triển Kinh tế -Văn hóa- Xã

hội, An ninh quốc phòng ở địa phương, biểu hiện rõ nhất là trong phát triển

kinh tế, xây dựng nếp sống văn hóa ở xã, phường, thị trấn.

Để triển khai thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ, Thủ tướng Chính

phủ đã ban hành đề án 1602/QĐ-TTg về “Phê duyệt Đề án tổ chức tuyên

truyền, phổ biến Luật Dân quân tự vệ” một cách thống nhất, hiệu quả trên

toàn quốc, Bộ Quốc phòng (BQP) đã ban hành Thông tư số 96/2010/TT-BQP

“Quy định việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, bồi dưỡng, tập huấn

pháp luật về dân quân tự vệ (DQTV)”. Theo đó, Bộ Tổng Tham mưu (BTTM)

được giao nhiệm vụ chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan, xây dựng Kế

hoạch số 1523/KH-TM về “Triển khai thực hiện Đề án 1602”; thành lập Ban

Chỉ đạo Đề án và Cơ quan Thường trực; ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng

dẫn các bộ, ngành, quân khu, địa phương tiến hành tổ chức tập huấn cán bộ,

tổ chức thi và xây dựng mô hình điểm cấp xã về tuyên truyền, phổ biến Luật

DQTV và các văn bản pháp lý liên quan. Trên cơ sở đó, các quân khu, Bộ Tư

lệnh Thủ đô Hà Nội, các cơ quan, tổ chức ở Trung ương, cấp ủy, chính quyền

các địa phương và cơ quan chức năng đã nghiên cứu, quán triệt và ban hành

các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn cấp dưới tổ chức thực hiện.

Nội dung quan trọng hàng đầu trong triển khai thực hiện Đề án 1602 là

tổ chức tập huấn cho các đối tượng theo 4 cấp (toàn quốc, quân khu, tỉnh và

43

huyện) và tập huấn khối các bộ, ngành Trung ương. Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà

Nội đã tổ chức 9 lớp, tập huấn cho 3.129 cán bộ; Tổ chức thi tìm hiểu pháp

luật về DQTV là hình thức tuyên truyền, phổ biến Luật DQTV có hiệu quả,

được thực tiễn khẳng định và các địa phương, các ngành, các cấp quan tâm.

Đối tượng dự thi là: chỉ huy trưởng ban chỉ huy quân sự (CHQS) cấp xã, chỉ

huy trưởng ban CHQS cấp huyện, Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Bộ Tư

lệnh Thủ đô Hà Nội. Nội dung thi gồm: nhận thức về pháp luật về DQTV (thi

tự luận, vấn đáp và trắc nghiệm); bắn súng K54 bài 1 và bắn súng tiểu liên

AK bài 1. Thời gian tiến hành hội thi: từ tháng 4 đến tháng 9-2011. Để tổ

chức các hội thi thành công, BTTM đã chủ trì phối hợp với Tổng Cục Chính

trị, Tổng Cục Hậu cần, Tổng Cục Kỹ thuật chỉ đạo, hướng dẫn các quân khu,

địa phương tổ chức các hội thi tìm hiểu pháp luật về DQTV ở cả 4 cấp

(huyện, tỉnh, quân khu và toàn quốc). BTTM đã ban hành Kế hoạch số

16/KH-TM về “Tổ chức Hội thi tìm hiểu pháp luật về DQTV và công tác

DQTV năm 2011”; thành lập Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức Hội thi và ban hành

các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức hội thi, đồng thời nghiên cứu xây

dựng các bộ đề thi.

Thực hiện các kế hoạch, hướng dẫn trên, các địa phương đã thành lập các

ban chỉ đạo, ban tổ chức hội thi; giúp cấp ủy, chính quyền tiến hành công tác

chuẩn bị chu đáo cho các hội thi. Nhờ đó, hội thi các cấp được tổ chức chặt chẽ,

nghiêm túc, chất lượng, hiệu quả. Qua các hội thi, cán bộ dự thi có điều kiện

nghiên cứu sâu, nắm chắc những nội dung chủ yếu của pháp luật về DQTV và

gắn với cương vị, chức trách, góp phần đưa Luật DQTV vào cuộc sống.

Cấp xã có nhiều đối tượng chịu sự điều chỉnh của pháp luật về DQTV,

do đó, công tác tuyên tuyền, phổ biến pháp luật về DQTV ở cơ sở cho cán bộ,

đảng viên, nhân dân và lực lượng vũ trang có ý nghĩa rất quan trọng. Thực

hiện công tác này, BTTM đã chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan ban

44

hành Hướng dẫn số 334/HD-TM về “Tổ chức xây dựng điểm cấp xã về tuyên

truyền pháp luật về DQTV”. Theo đó, mỗi tỉnh (thành phố) trực thuộc Trung

ương xây dựng một xã điểm về tuyên truyền, phổ biến pháp luật về DQTV.

Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của cấp ủy, chính quyền địa

phương, những mô hình điểm được xây dựng đã thực sự phát huy tác dụng,

nhiều nơi đã có cách làm sáng tạo, hiệu quả, như: lồng ghép tuyên truyền, phổ

biến pháp luật về DQTV với các phong trào “Xây dựng nông thôn mới”,

“Xóa đói giảm nghèo”... các hoạt động quốc phòng, quân sự, lễ hội truyền

thống và các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao... Đặc biệt,

nhiều nơi còn tổ chức tuyên truyền pháp luật về DQTV bằng hình thức “sân

khấu hóa” rất có hiệu quả. Hiện nay, các tỉnh (thành phố) đang tiến hành rút

kinh nghiệm để nhân rộng mô hình này.

Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về DQTV trên các

phương tiện thông tin đại chúng đã được tiến hành một cách tích cực, hiệu quả.

BQP đã phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức tập huấn, bồi dưỡng

kiến thức pháp luật về DQTV cho lãnh đạo, phóng viên, biên tập viên. Đến nay,

thời lượng tin, bài, chuyên trang, chuyên mục về DQTV trên các phương tiện

thông tin đại chúng đều tăng mạnh. BQP còn chỉ đạo cơ quan chức năng phối

hợp với Điện ảnh Quân đội xây dựng phim tài liệu về truyền thống của lực lượng

DQTV, về công tác huấn luyện, hoạt động sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ biên giới,

biển, đảo và tham gia các nhiệm vụ khác của lực lượng DQTV.

Cục DQTV đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan biên soạn 9 đầu sách, tài

liệu liên quan đến pháp luật về DQTV để phát hành rộng rãi từ Trung ương

đến cơ sở và trở thành “cẩm nang” đối với cán bộ quân sự địa phương và các

ngành, phục vụ trực tiếp cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện

Luật DQTV.

Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về DQTV theo Đề án 1602 đã

45

đạt được kết quả tích cực, khá toàn diện; trong đó, nhiều mục tiêu đạt kết quả

tốt, vượt kế hoạch đề ra. Qua đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ

cán bộ các cấp đối với công tác DQTV, nhất là, việc vận dụng các quy định

của Luật sát với cương vị, chức trách được giao, góp phần nâng cao chất

lượng tổng hợp của lực lượng DQTV, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước

và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ QP-AN. Qua đó, góp phần nâng cao ý thức

pháp luật và làm chủ pháp luật của nhân dân, tăng cường mối liên hệ giữa

nhân dân với hệ thống chính trị ở cơ sở. Đến nay, nhiều tỉnh (thành phố) đã

thông qua và phê duyệt Đề án Xây dựng lực lượng DQTV giai đoạn 2011-

2015. Đây là kết quả phản ánh rõ nhất về nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy,

chính quyền và nhân dân với việc triển khai thực hiện Luật DQTV.

Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, nơi đặt trụ

sở các cơ quan Trung ương của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị -

xã hội, cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế; là trung tâm lớn về

kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ; nơi diễn ra các hoạt

động đối nội, đối ngoại của cả nước. Đồng thời, đây là địa bàn trọng điểm

chống phá của các thế lực thù địch. Vì vậy, thực hiện tốt nhiệm vụ quốc

phòng - an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, giữ vững môi

trường hòa bình, ổn định trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện để Hà Nội

phát triển toàn diện, tương xứng với tầm vóc của Thủ đô nghìn năm văn

hiến có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Trên cơ sở quán triệt sâu sắc đường lối quân sự, quốc phòng, các nghị

quyết, chỉ thị của Đảng, Chính phủ, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng,

nhất là Nghị quyết 28-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X); Nghị định

152/2007/NĐ-CP của Chính phủ về xây dựng khu vực phòng thủ, Bộ Tư lệnh

Thủ đô đã chủ động thực hiện tốt chức năng tham mưu cho Thành ủy, Ủy ban

nhân dân Thành phố lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng khu vực phòng thủ phù hợp

46

với yêu cầu và đặc thù của Thủ đô. Theo đó, Bộ Tư lệnh đã phối hợp chặt chẽ

với các sở, ban, ngành tham mưu với Thành ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố

ban hành đồng bộ các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo thực

hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng tiềm lực, thế trận khu vực

phòng thủ Thành phố ngày càng vững chắc. Trên cơ sở tham mưu của Bộ Tư

lệnh, Thành ủy Hà Nội đã ban hành Chương trình 06-CTr/TU, ngày 12-01-

2009 về thực hiện Nghị quyết 28-NQ/TW của Bộ Chính trị. Trong đó, tập

trung vào kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an

ninh; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn

với thế trận an ninh nhân dân; xây dựng tiềm lực, thế trận khu vực phòng thủ,

mà cốt lõi là quy hoạch và từng bước đầu tư xây dựng thế trận quân sự của

khu vực phòng thủ, xây dựng lực lượng vũ trang, v.v. Qua tổng kết 10 năm

thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) và sơ kết 05 năm thực hiện

Nghị định 152/2007/NĐ-CP của Chính phủ, Bộ Tư lệnh Thủ đô đã tham mưu

cho Ủy ban nhân dân Thành phố trình Hội đồng nhân dân Thành phố ra Nghị

quyết 30/2013/NQ-HĐND, ngày 06-12-2013 về “Xây dựng khu vực phòng

thủ Thành phố Hà Nội đến năm 2020 và những năm tiếp theo”, làm cơ sở để

tiếp tục chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Cùng với đó, Bộ Tư lệnh chỉ đạo các cơ

quan, đơn vị, nhất là cơ quan quân sự các quận, huyện chủ động nắm chắc

tình hình, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương đẩy mạnh kết hợp

phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh ngay

trong các chiến lược phát triển, quy hoạch tổng thể, kế hoạch phát triển kinh

tế - xã hội ở các cấp, ngành, lĩnh vực. Mặt khác, Bộ Tư lệnh phát huy tốt vai

trò, trách nhiệm trong thẩm định các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của

Thành phố về lĩnh vực quốc phòng theo thẩm quyền và tham mưu cho Ủy ban

nhân dân Thành phố phê duyệt các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc

phòng - an ninh của Thành phố, như: Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội

47

thành phố Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Chiến lược phát

triển kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm

2050,… đảm bảo kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội với

tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng - an ninh trên địa bàn Thủ đô. Bộ

Tư lệnh cũng chủ động nghiên cứu, xây dựng phương án điều chỉnh Quy

hoạch tổng thể bố trí quốc phòng kết hợp phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn

2011 - 2020 trên địa bàn Thành phố và hoàn thành Quy hoạch thế trận quân

sự khu vực phòng thủ Thành phố giai đoạn 2010 - 2015. Đồng thời, tham

mưu cho Thành phố xây dựng và triển khai thực hiện các đề án bảo đảm quốc

phòng - an ninh, nhất là cho xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, xây

dựng các công trình phòng thủ, v.v.

Với vai trò là Cơ quan thường trực của Hội đồng Giáo dục quốc phòng

và an ninh, Bộ Tư lệnh Thủ đô luôn chủ động tham mưu cho Thành phố đẩy

mạnh thực hiện công tác giáo dục quốc phòng và an ninh; trong đó, đặc biệt

chú trọng đối tượng là đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp; chức sắc, chức việc

tôn giáo và học sinh, sinh viên. Chỉ tính từ năm 2010 đến nay, Bộ Tư lệnh đã

phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan Trung ương bồi dưỡng kiến thức quốc

phòng và an ninh cho 3.499 đồng chí thuộc đối tượng 2; 7.989 đồng chí thuộc

đối tượng 3; chỉ đạo bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho 277.136

đồng chí thuộc đối tượng 2,3,4 và chức sắc, chức việc tôn giáo; giáo dục quốc

phòng và an ninh cho 210.264 lượt học sinh, 398.679 sinh viên. Bộ Tư lệnh

phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan thông tin đại

chúng tổ chức tốt việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục quốc phòng và an ninh

cho toàn dân; đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu xuyên tạc của các thế

lực thù địch và các phần tử chống đối, lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân

quyền”, “tôn giáo” để chống phá. Bộ Tư lệnh chỉ đạo lực lượng vũ trang Thủ

đô phát huy vai trò “đội quân công tác”, tăng cường công tác dân vận, tham

48

gia xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh. Các đơn vị, cơ quan quân sự có

nhiều hoạt động thiết thực trong việc giúp dân xóa đói, giảm nghèo, “đền ơn,

đáp nghĩa”,… góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, nâng cao

nhận thức về xây dựng khu vực phòng thủ, phát huy sức mạnh tổng hợp của

các cấp, các ngành, đoàn thể và nhân dân Thủ đô trong thực hiện nhiệm vụ

quốc phòng - an ninh trên địa bàn.

Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội còn phối hợp với các sở, ban, ngành, cơ quan

chức năng hoàn thành khảo sát khả năng động viên nền kinh tế quốc dân đảm

bảo nhu cầu năm đầu chiến tranh, khảo sát hệ thống công trình dân dụng phục

vụ mục đích quốc phòng. Đặc biệt, đã tham mưu cho Thành phố và các địa

phương huy động các nguồn lực và ngân sách xây dựng thế trận quân sự trong

khu vực phòng thủ theo quy hoạch, lộ trình đã xác định. Những năm qua,

Thành phố đã đầu tư hàng trăm tỉ đồng để xây dựng các hạng mục, như: căn

cứ chiến đấu, sở chỉ huy, các công trình phòng thủ, chốt chiến dịch,... hình

thành thế trận liên hoàn, vững chắc giữa các cấp.

Với vai trò là trung tâm hiệp đồng trong tham mưu và chỉ huy thống

nhất các lực lượng vũ trang thuộc quyền, Bộ Tư lệnh Thủ đô thường xuyên

nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện quyết tâm, kế hoạch tác chiến

khu vực phòng thủ và kế hoạch sẵn sàng chiến đấu; kế hoạch phòng, chống

lụt, bão, tìm kiếm cứu nạn; phòng, chống cháy nổ, cháy rừng, v.v. Hiện nay,

Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội đã triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong

công tác quân sự và đang thi công lắp đặt mạng máy tính diện rộng phục vụ

nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của Bộ Tư lệnh. Để nâng cao năng lực chỉ

đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền các cấp và trình độ tổ chức chỉ huy,

hiệp đồng tác chiến phòng thủ của lực lượng vũ trang, Bộ Tư lệnh tham mưu

cho cấp ủy, chính quyền địa phương nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, quy chế

về xây dựng, hoạt động của khu vực phòng thủ; củng cố, kiện toàn, nâng cao

49

hiệu quả hoạt động của các tổ chức khu vực phòng thủ; đặc biệt là tăng

cường tổ chức luyện tập, diễn tập ở các cấp theo phương án tác chiến phòng

thủ. Chỉ tính từ năm 2010 đến nay, Thành phố đã chỉ đạo và tổ chức diễn tập

khu vực phòng thủ cho 24 lượt quận, huyện, thị xã; diễn tập chiến đấu - trị

an cho 480 lượt xã, phường, thị trấn. Năm 2013, tổ chức thành công cuộc

diễn tập khu vực phòng thủ thành phố Hà Nội (HN-13) đạt kết quả tốt, được

Bộ Quốc phòng đánh giá cao.

Phổ biến, giáo dục pháp luật là công tác thường xuyên, quan trọng đối

với toàn quân và toàn dân ta, nhằm trang bị kiến thức và nâng cao ý thức chấp

hành kỷ luật và pháp luật Nhà nước đối với mọi người dân. Trước yêu cầu cao

của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công tác này cần tiếp tục được coi

trọng đổi mới, nâng cao chất lượng..

Ngay sau khi Luật DQTV có hiệu lực thi hành, Bộ tư lệnh thủ đô Hà Nội

đã chỉ đạo các địa phương, đơn vị tổ chức quán triệt và tuyên truyền, phổ biến

Luật DQTV nhằm nâng cao nhận thức pháp luật về DQTV và công tác DQTV

cho đội ngũ cán bộ chỉ huy quân sự các cấp, các ngành và nhân dân. Công tác

tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật DQTV theo quyết định 1602/QĐ-TTg

của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn Quân khu được triển khai bằng nhiều

biện pháp tích cực và hiệu quả. Bộ Tư lệnh thủ đô đã chỉ đạo các cơ quan, địa

phương, nhà trường tổ chức triển khai Hội thi tìm hiểu pháp luật về DQTV

nói chung và Luật DQTV nói riêng theo Kế hoạch số 16/KH-TM và Hướng

dẫn số 166/HD-TM của Bộ Tổng tham mưu. Đây là một trong những hình

thức tuyên truyền, giáo dục hiệu quả, trực tiếp đến mọi công dân, nhất là đối

với cán bộ chỉ huy trực tiếp làm công tác tham mưu xây dựng và chỉ đạo lực

lượng DQTV huấn luyện, hoạt động tác chiến - trị an tại cơ sở.

Hội thi tìm hiểu về Luật DQTV được tiến hành sâu rộng từ cơ sở đến cấp

Bộ tư lệnh thủ đô. Để Hội thi đạt kết quả tốt, Quân khu chọn các quận Ba

50

Đình, huyện Đan Phượng, làm “điểm” cho cấp huyện để rút kinh nghiệm chỉ

đạo các huyện (quận) tổ chức Hội thi được chặt chẽ, mang lại hiệu quả giáo

dục cao. Hội thi tìm hiểu Luật DQTV cấp quân khu đã được tổ chức nghiêm

túc, đúng kế hoạch và bảo đảm chất lượng. Hiện tại, Bộ tư lệnh thủ đô đang

chuẩn bị lực lượng tham dự tìm hiểu pháp luật về DQTV do Bộ Tổng tham

mưu tổ chức. Thông qua việc tổ chức Hội thi của cấp cơ sở, lãnh đạo, chính

quyền các cấp đã nhận thức đúng ý nghĩa, tầm quan trọng của Luật DQTV và

tập trung chỉ đạo các sở, ngành chức năng có liên quan phối hợp chặt chẽ

cùng cơ quan quân sự các cấp tổ chức có hiệu quả công tác DQTV năm 2016.

Hội thi không chỉ thu hút sự tham gia của các thành phần trong lực lượng vũ

trang, mà còn lan tỏa đến các sở, ngành, đoàn thể các cấp, thu hút đông đảo

đoàn viên, thanh niên trên địa bàn hưởng ứng và tham gia nhiệt tình. Ngoài

các đối tượng dự thi theo quy định, Thành phố còn mở rộng đến các đại đội

trực thuộc, ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức; thường vụ quận (huyện)

đoàn; cán bộ phụ trách an ninh - quốc phòng trên địa bàn dân cư.

Có thể nói, Hội thi tìm hiểu pháp luật về DQTV và công tác DQTV trên

địa bàn Bộ tư lệnh thủ đô đã đạt được mục đích, yêu cầu đề ra. Qua Hội thi,

càng khẳng định: Luật DQTV góp phần nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà

nước đối với công tác DQTV; cụ thể hoá một bước chủ trương, đường lối của

Đảng về công tác quốc phòng nói chung, công tác DQTV nói riêng. Qua đó,

góp phần giúp cho đội ngũ cán bộ các cấp làm tốt công tác tham mưu và chỉ

đạo xây dựng, huấn luyện, hoạt động của lực lượng DQTV đúng chức năng,

nhiệm vụ và luật pháp.

2.2.2. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm

công tác phổ biến pháp luật về dân quân tự vệ

Đội ngũ cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được quan tâm

bồi dưỡng, tập huấn, nâng cao năng lực thực tiễn và nghiệp vụ chuyên môn.

51

Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật được lựa chọn phù hợp với những vấn

đề thời sự của đất nước, đặc điểm từng đối tượng, địa bàn, tình hình nhiệm vụ

của các cơ quan, đơn vị; gắn công tác phổ biến, giáo dục pháp luật với quán

triệt, học tập các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc

phòng và Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Tiếp tục đẩy

mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đồng thời,

triển khai thực hiện nghiêm túc các chuyên đề phổ biến, giáo dục pháp luật do

Bộ ban hành; chú trọng phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng đặc

thù và nâng cao chất lượng công tác này trong các học viện, nhà trường quân

đội. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho lực lượng dân quân tự vệ, dự

bị động viên được các cơ quan quân sự địa phương thực hiện với chất lượng,

hiệu quả ngày càng cao, gắn với học tập chính trị, huấn luyện quân sự, giáo

dục quốc phòng, xây dựng khu vực phòng thủ... Hình thức phổ biến, giáo dục

pháp luật có sự đổi mới, phù hợp với đặc điểm đơn vị và đối tượng. Triển

khai thực hiện nghiêm túc “Ngày Pháp luật”, xây dựng “Tủ sách pháp luật”,

từng bước đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật của bộ đội. Các mô hình phổ

biến, giáo dục pháp luật đã được khẳng định trong thực tiễn những năm trước

đây, như: “Tổ tư vấn tâm lý, pháp lý quân nhân”; “Mỗi ngày một câu hỏi

pháp luật”, “Mỗi tuần học một điều luật”; thi tìm hiểu pháp luật trên mạng

viễn thông; phát hành bộ tài liệu về kỹ năng sống; ngân hàng câu hỏi pháp

luật; sân khấu hóa “Ngày Pháp luật”; lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật

với biểu diễn văn nghệ; thi tìm hiểu pháp luật; “Đề án Tăng cường phổ biến,

giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân giai đoạn 2013 - 2016”… tiếp tục

phát huy trong điều kiện mới, với cách làm mới, làm phong phú thêm nội

dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng, có sức hấp

dẫn, thu hút, cổ vũ mọi người tích cực tham gia. Nhờ đó, lượng thông tin pháp

52

luật đến với cán bộ và nhân dân ngày càng phong phú, đa dạng, hấp dẫn, góp

phần điều chỉnh nhận thức, hành vi của cán bộ, nhân dân đối với pháp luật về

dân quân tự vệ.

Để đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng DQTV theo đúng quy định của

Luật, Bộ tư lệnh thủ đô chú trọng đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán

bộ quân sự xã (phường, thị trấn) theo Quyết định số 799/QĐ-TTg, ngày 25-5-

2011 của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Đề án đào tạo cán bộ quân sự xã

(phường, thị trấn) trình độ cao đẳng, đại học ngành quân sự cơ sở đến năm

2020 và những năm tiếp theo”. Thực tiễn công tác đào tạo cán bộ quân sự cấp

xã trên địa bàn Thủ đô trong những năm qua được cấp ủy, chính quyền các

cấp đặc biệt quan tâm: Từ năm 2011 đến năm 2016 các địa phương trên địa

bàn Bộ tư lệnh thủ đô đã tổ chức được 31 khóa đào tạo chỉ huy trưởng quân

sự xã (phường, thị trấn), cho 2830 đồng chí. Đội ngũ cán bộ qua đào tạo có sự

trưởng thành về mọi mặt, phát huy tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính

quyền các địa phương, cơ sở thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng

hằng năm. Trong số cán bộ đó, có 85,46% tham gia cấp ủy địa phương;

94,5% là thành viên Ủy ban nhân dân; nhiều đồng chí đã đảm nhiệm chức vụ

cao hơn trong hệ thống chính trị ở cơ sở…

Để tạo điều kiện cho chỉ huy trưởng và chỉ huy phó Ban Chỉ huy Quân

sự cấp xã được đào tạo đạt trình độ trung cấp chuyên nghiệp ngành quân sự

cơ sở trở lên theo Luật DQTV, Bộ tư lệnh thủ đô đang tập trung chỉ đạo các

địa phương rà soát chất lượng đầu vào, chủ động xây dựng kế hoạch tổ chức

đào tạo hoàn thiện cho số cán bộ đã qua các khóa đào tạo chương trình 14

tháng (Quyết định 54/QĐ-BQP), bảo đảm đúng tiêu chuẩn theo quy định của

Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Trong tổ chức xây dựng lực lượng DQTV, Bộ tư lệnh thủ đô chỉ đạo các

địa phương, đơn vị chú trọng tuyển chọn đầu vào và thực hiện tốt nhiệm vụ

53

huấn luyện, diễn tập cho lực lượng DQTV, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quân

sự, quốc phòng của từng địa phương, cơ sở. Căn cứ vào Luật DQTV, Bộ tư

lệnh thủ đô chỉ đạo cơ quan quân sự các Quận, huyện tham mưu cho Uỷ ban

nhân dân Quận, huyện ban hành chỉ thị, hướng dẫn các xã (phường) thực hiện

công tác DQTV, nhất là quy trình tổ chức xây dựng lực lượng và kế hoạch

tuyển chọn đầu vào. Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ tư lệnh, cơ quan quân sự

các cấp tiến hành tổ chức đăng ký công dân trong độ tuổi DQTV và lập kế

hoạch phát triển, luân phiên DQTV ở cấp quận, huyện (thị xã) và cơ sở (xã,

phường, thị trấn) theo Luật, bảo đảm công khai, dân chủ, có sự tham gia tích

cực của nhân dân. Đến nay, lực lượng DQTV nòng cốt trên địa bàn Bộ tư lệnh

thue đô cơ bản có đủ số lượng và chất lượng theo quy định. Hiện nay, tỷ lệ

dân quân nòng cốt đạt 1,31% dân số; có đủ thành phần cơ động, tại chỗ, binh

chủng, chuyên ngành. Những năm qua, Bộ Tư lệnh đã tham mưu cho Thành

phố tổ chức đào tạo sĩ quan dự bị bằng nguồn ngân sách địa phương để bổ

sung đủ cán bộ cho các đơn vị dự bị động viên. Đồng thời, chỉ đạo cơ quan

quân sự các quận, huyện phối hợp với địa phương đẩy mạnh thực hiện Đề án

“Quy hoạch, đào tạo Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn

đến năm 2020” của Thành phố, tiến tới chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, nâng cao

chất lượng công tác quân sự, quốc phòng từ cơ sở. Đến nay, Thành phố tuyển

chọn và đào tạo được 13 khóa Chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn

trình độ đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp ngành quân sự cơ sở.

Bên cạnh đó, các địa phương và cơ quan quân sự các cấp còn quan tâm thực

hiện tốt công tác tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ, bảo đảm hoàn thành

100% chỉ tiêu, đúng luật, chất lượng có bước đột phá về trình độ văn hóa, là

địa phương dẫn đầu cả nước về tỷ lệ công dân nhập ngũ có trình độ đại học,

cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp (năm 2014 là 40%, đợt 1 năm 2015 là

49,3%). Công tác giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự cho DQTV được các

54

địa phương, cơ sở quan tâm, triển khai thực hiện đầy đủ nội dung, thời gian

theo đúng quy định. Ngoài huấn luyện thường xuyên, các địa phương còn tổ

chức hội thi xã (phường, thị) đội trưởng giỏi; hội thi mô hình, học cụ huấn

luyện DQTV; Công tác diễn tập được thực hiện theo kế hoạch; mỗi năm, các

tỉnh đều tổ chức diễn tập tác chiến - trị an cho 20 - 25% đầu mối đơn vị cấp

xã. Năm 2010, các địa phương đã chỉ đạo 17 quận (huyện, thị xã), 225 xã

(phường, thị trấn) tổ chức diễn tập tác chiến - trị an, 11 xã diễn tập phòng

chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn, 10 xã diễn tập phòng không nhân dân, 12 xã

diễn tập các hình thức chiến thuật DQTV.

2.2.3. Tình hình tổ chức thực hiện các nội dung về pháp luật dân

quân tự vệ trên địa bàn Hà Nội.

Sau khi Luật DQTV được ban hành, Bộ CHQS thủ đô Hà Nội đã chủ

động phối hợp với các sở, ban, ngành có liên quan tham mưu cho Thành uỷ,

HĐND, UBND thành phố lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện sát với đặc

điểm tình hình của địa phương.

Bộ Tư lệnh thủ đô Hà Nội đã tham mưu cho Thành ủy và UBND

Thành phố ban hành chỉ thị Chỉ thị số 07-CT/TU của Thành ủy, Chỉ thị số

12/CT-UBND của UBND Thành phố về tổ chức thi tìm hiểu pháp luật về

DQTV; thành phố đã chỉ đạo quận Ba Đình làm điểm để rút kinh nghiệm

trong toàn thành phố. Bộ CHQS thành phố tổ chức hội thi tìm hiểu pháp luật

DQTV và công tác DQTV đạt kết quả tốt. Công tác tuyên truyền, phổ biến

pháp luật về DQTV kết hợp giữa tuyên truyền theo chuyên đề với tuyên

truyền thường xuyên, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, truyền

thanh nội bộ, các hoạt động giao lưu văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao...

Nét mới trong công tác tuyên truyền là Bộ tư lệnh thủ đô đã tham mưu, chỉ

đạo thị trấn, xã, phường làm điểm việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật

55

DQTV bằng hình thức sân khấu hoá, được cấp trên ghi nhận, đánh giá cao.

Để bảo đảm chế độ, chính sách cho hoạt động của lực lượng DQTV,

Bộ CHQS thành phố đã phối hợp với các cơ quan có liên quan tham mưu cho

HĐND thành phố ban hành nghị quyết số 13/2010/NQ-HĐND ngày

10/12/2010 Về cơ cấu tổ chức (thời bình); phân cấp nhiệm vụ chi và định mức

chi từ ngân sách địa phương thực hiện theo Luật Dân quân tự vệ, trên địa bàn

thành phố Hà Nội quy định mức phụ cấp, trợ cấp đối với lực lượng DQTV;

UBND thành phố ban hành quyết định 10/2011/QĐ-UBND ngày

02/03/2011về việc phân cấp nhiệm vụ chi thực hiện Luật Dân quân tự vệ giữa

các cấp ngân sách và một số chế độ, chính sách đối với lực lượng dân quân tự

vệ trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Các mức này đều cao hơn quy định của

Luật DQTV; khi Nhà nước điều chỉnh mức lương tối thiểu, thì mức phụ cấp,

trợ cấp này cũng được điều chỉnh tương ứng. Đây là một yếu tố quan trọng

giúp lực lượng DQTV yên tâm công tác, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt

nhiệm vụ được giao.

Thực hiện Chỉ thị số 16-CT/TW (ngày 5-10-2002) của Ban Bí thư T.Ư

(khoá IX) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng DQTV và

dự bị động viên trong tình hình mới”, Đảng uỷ, Bộ CHQS thành phố đã tham

mưu cho Thành uỷ, UBND Thành phố ban hành nhiều chủ trương, biện pháp

lãnh đạo, chỉ đạo nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các

tổ chức đảng, trọng tâm là giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên. Triển khai

thực hiện Quyết định 1902 (ngày 15-10-2010) của Thủ tướng Chính phủ về

“Phê duyệt đề án xây dựng mô hình điểm tổ chức, huấn luyện, hoạt động và

những biện pháp quản lý lực lượng DQTV”. Cơ quan quân sự các cấp đã làm

tốt chức năng tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương và các cơ quan,

doanh nghiệp tiến hành rà soát, củng cố, xây dựng lực lượng DQTV đúng quy

định của Luật, các văn bản hướng dẫn thi hành và điều kiện thực tế của địa

56

phương, cơ quan, đơn vị. Việc xây dựng lực lượng DQTV vững mạnh cũng là

một trong những nội dung quan trọng trong tiểu đề án “Xây dựng, bảo vệ

vững chắc khu vực phòng thủ, phục vụ Đề án thí điểm phát triển kinh tế - xã

hội nhanh, bền vững thành phố Hà Nội” mà Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội đang

triển khai nghiên cứu, xây dựng; trong đó, DQTV là lực lượng sẵn sàng tham

gia giải quyết các tình huống phức tạp và khẩn cấp. Lực lượng DQTV hiện

được xây dựng đúng tỉ lệ, thành phần theo quy định (đảng viên trên 24%,

đoàn viên trên 51%).

Sau khi Luật DQTV chính thức có hiệu lực, vào tháng 9-2010, Hà Nội

đã tổ chức hội thao DQTV với nhiều nội dung, nhằm đưa công tác huấn luyện

của lực lượng này sát với yêu cầu nhiệm vụ. Vừa qua, Bộ tư lệnh thủ đô thành

phố phối hợp với Ban Dân vận Thành phố và Công an thành phố mở lớp tập

huấn tham mưu giải quyết các vấn đề phức tạp ở cơ sở cho các đồng chí là

chính trị viên Ban CHQS cấp huyện, cấp xã và chỉ huy trưởng Ban CHQS cấp

xã; Bộ CHQS thành phố mở lớp huấn luyện cho lực lượng dân quân thường

trực làm nhiệm vụ ở xã, phường, thị trấn sẵn sàng tham gia giải quyết các tình

huống phức tạp ở địa phương, cơ sở. Tỉnh đã thực hiện cấp giấy chứng nhận

hoàn thành nghĩa vụ DQTV nòng cốt và lựa chọn DQTV đủ tiêu chuẩn, huấn

luyện bổ sung chuyển thành quân nhân dự bị hạng 1. UBND thành phố cũng

đã phê duyệt và triển khai thực hiện đề án xây dựng trụ sở làm việc cho Ban

CHQS cấp xã, sẽ hoàn thành trong 3-5 năm, với số tiền hàng trăm tỷ đồng.

Trong năm 2016 thành phố đã bảo đảm đủ 100% quân trang theo mẫu mới;

cấp kinh phí để mua sắm trang, thiết bị cho Ban CHQS cấp xã phục vụ công

tác huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu. Số kinh phí này dùng để mua sắm súng

AK và CKC để huấn luyện cho lực lượng dân quân tại 100% xã, phường, thị

57

trấn (không phải sử dụng súng thật trong huấn luyện).

2.3 Đánh giá tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ trên địa

bàn Hà Nội.

2.3.1. Kết quả đạt được

Có thể khẳng định từ khi Luật DQTV có hiệu lực, cơ quan quân sự các

cấp đã phát huy tốt vai trò nòng cốt, chủ động phối hợp với các sở, ban,

ngành, đoàn thể tham mưu lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai đồng bộ, hiệu

quả. Nhờ đó công tác DQTV của thành phố tiếp tục được phát triển mạnh mẽ,

có tính đột phá, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành nhiệm vụ công tác

QS, QPĐP.

Thực hiện Luật Dân quân tự vệ, Bộ tư lệnh thủ đô Hà Nội đã chỉ đạo các

Ban Chỉ huy quân sự quận, huyện tổ chức đăng ký công dân trong độ tuổi dân

quân tự vệ được 58.072/65.250 công dân trong độ tuổi đạt 89%. Tổ chức rà

soát kết nạp mới 8.480 DQTV đạt 12,58%, cấp giấy chứng nhận hoàn thành

nghĩa vụ Dân quân 4 năm trở lên cho 8.480 đ/c đạt 12,58% tổng số Dân quân

tự vệ.

Ban CHQS các quận đã tham mưu với Quận ủy HĐND và UBND quận

lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện toàn diện công tác Quốc phòng, quân

sự địa phương đạt chất lượng hiệu qủa tốt, trong đó các nhiệm vụ hoàn thành

xuất sắc đó là: Công tác Quy hoạch thế trận quân sự trong KVPT; công tác

Tổng điều tra quân nhân dự bị, phương tiện kỹ thuật của nền kinh tế quốc

dân; nhiệm vụ trực sẵn sàng chiến đấu bảo vệ các ngày lễ, các sự kiện chính

trị, các mục tiêu trên địa bàn, điển hình là bảo đảm an ninh, an toàn trong thực

hiện nhiệm vụ A70; công tác tập huấn, huấn luyện, hội thao; công tác xây

dựng lực lượng dân quân tự vệ; thực hiện chế độ theo Quyết định 62 của Thủ

58

tướng Chính phủ.

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

2.3.2.1. Hạn chế

Một số cơ quan quân sự địa phương còn thiếu chủ động, linh hoạt, chưa

tạo sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ trong tham mưu giúp cấp ủy, uỷ ban nhân

dân thực hiện Đề án này. Có địa phương còn “khoán trắng” cho cơ quan quân

sự; chưa tích cực, chủ động trong triển khai nhân rộng mô hình điểm ở cấp xã.

Hiệu quả tuyên truyền, phổ biến ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân

tộc thiểu số và các doanh nghiệp còn thấp. Một số cán bộ, đảng viên, nhất là

khối doanh nghiệp chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò của của công tác

tuyên truyền, phổ biến pháp luật về DQTV...

Tuy đạt được một số kết quả quan trọng, nhưng sau hơn năm năm triển

khai thực hiện Luật DQTV, các địa phương trên địa bàn Quân khu vẫn còn

một số hạn chế. Ngay cả các xã (phường, thị trấn) được chọn làm điểm, tuy có

chuyển biến, tiến bộ, nhưng vẫn thiếu vững chắc; vai trò tham mưu của một

số cơ quan quân sự cho cấp ủy, chính quyền còn hạn chế; sự phối hợp với các

cơ quan, ban, ngành chức năng thiếu đồng bộ; tỷ lệ đảng viên trong DQTV

chưa đạt chỉ tiêu mà Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân khu nhiệm kỳ

2010 - 2015 đề ra; chế độ, chính sách đối với DQTV còn nhiều bất cập,...

Việc thực hiện Luật DQTV, một số văn bản quy phạm pháp luật đã bộc

lộ vướng mắc, bất cập, cần có các văn bản mới điều chỉnh cho phù hợp với sự

phát triển kinh tế, xã hội, QPAN. Xuất phát từ tình hình trên, Chính phủ đã

ban hành 2 nghị định, đó là: Nghị định số 03/2016/NĐ-CP ngày 5-1-2016 của

Chính phủ Quy định chi tiết và biện pháp thi hành một số điều của Luật

DQTV (thay thế Nghị định số 58/2010/NĐ-CP ngày 1-6-2010 của Chính

phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật DQTV);

59

Nghị định số 133/2015/NĐ-CP ngày 28-12-2015 của Chính phủ Quy định

việc phối hợp của DQTV với các lực lượng trong hoạt động bảo vệ an ninh

chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở; bảo vệ và phòng, chống cháy rừng...

Tuy nhiên, qua thực tế kiểm tra ở một số địa phương trên địa bàn thành

phố Hà Nội cho thấy, công tác triển khai thực hiện văn bản mới còn chậm,

một số cán bộ ở Ban CHQS cấp xã, phường khi được hỏi về công tác xây

dựng lực lượng, hoạt động của DQTV theo nội dung văn bản mới đều chưa

nắm được, ảnh hưởng đến kết quả tham mưu, đề xuất với cấp ủy, chính quyền

địa phương, cơ sở về công tác quốc phòng, quân sự địa phương...

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác DQTV, các bộ, ngành, địa

phương cần tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện các văn bản mới ban hành.

Đây là nhiệm vụ rất quan trọng, nhằm giúp mọi cán bộ, đảng viên, các tầng

lớp nhân dân hiểu, nắm được những nội dung cơ bản của pháp luật về DQTV,

để từ đó đề cao trách nhiệm trong thực hiện. Vì vậy, các bộ, ngành, quân khu,

địa phương cần tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn, tuyên truyền, phổ biến, quán triệt,

nhằm bảo đảm sự thống nhất nhận thức, đồng thuận trong tổ chức thực hiện.

Các văn bản mới nêu rõ việc phân cấp quản lý Ban CHQS cơ quan, tổ

chức ở cơ sở, đơn vị DQTV. Đây là một trong những nội dung quy định mới

cần tập trung nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện. Về trang phục cho

DQTV, như: Quần, áo, sao, mũ, phù hiệu... văn bản mới quy định phải bảo

đảm chất lượng theo tiêu chuẩn quốc gia trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng.

Đồng thời, chế độ, chính sách cho cán bộ, chiến sĩ DQTV cũng được quy định

cụ thể, phù hợp với quy định của luật, sát với thực tiễn về yêu cầu nhiệm vụ

xây dựng DQTV và khả năng bảo đảm của từng địa phương. Đặc biệt, theo

quy định của Nghị định số 03/2016/NĐ-CP, các địa phương không thực hiện

thu quỹ QPAN, giảm đóng góp của người dân.

Đối với Nghị định số 133/2015/NĐ-CP của Chính phủ, khi nghiên cứu,

60

quán triệt cần tập trung một số điểm: Quy chế phối hợp hoạt động của các lực

lượng được quy định cụ thể, từ thẩm quyền ban hành, nội dung cơ bản của

quy chế, trách nhiệm của các cấp xây dựng quy chế và tổ chức thực hiện tại

Điều 4. Thẩm quyền điều động DQTV theo quy chế phối hợp hoạt động bảo

vệ biên giới đất liền và bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền trên các vùng biển

Việt Nam tại Điều 5. Đây là nội dung mới so với Nghị định 74/2010/NĐ-CP,

bảo đảm sự liên thông, thống nhất với Nghị định số 06/2007/NĐ-CP, Nghị

định số 34/2014/NĐ-CP và Nghị định số 161/2003/NĐ-CP về trách nhiệm

chủ trì, trách nhiệm phối hợp trong bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở

khu vực biên giới.

Thẩm quyền điều động DQTV theo quy chế phối hợp hoạt động bảo vệ an

ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở tại Điều 6. Nội dung này có bổ

sung, phát triển và cụ thể so với Nghị định số 74/2010/NĐ-CP, bảo đảm phù

hợp Nghị định số 32/2009/NĐ-CP của Chính phủ về tình trạng khẩn cấp về

quốc phòng, thiết quân luật, giới nghiêm; Nghị định số 74/2002/NĐ-CP của

Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Tình trạng

khẩn cấp về an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.

Trao đổi thông tin, giao ban, sơ kết, tổng kết tại Điều 9 đã tiếp thu và điều

chỉnh cụ thể chi tiết phù hợp cho từng cấp, so với Nghị định số 74/2010/NĐ-

CP với 3 nội dung mới: Ban CHQS cấp xã, Ban CHQS cơ quan, tổ chức ở cơ

sở, người đứng đầu cơ quan, tổ chức (nơi không có Ban CHQS cơ quan, tổ

chức ở cơ sở) phối hợp với cơ quan, đơn vị chủ trì tổ chức giao ban mỗi tháng

một lần; sơ kết sáu tháng đầu năm và tổng kết hằng năm về hoạt động phối

hợp. Ban CHQS cấp huyện phối hợp với cơ quan, đơn vị chủ trì tổ chức giao

ban vào cuối quý I, cuối quý III; sơ kết 6 tháng đầu năm và tổng kết hằng năm

về hoạt động phối hợp. Việc giao ban, sơ kết, tổng kết về phối hợp hoạt động

61

có thể lồng ghép vào giao ban, sơ kết, tổng kết của cơ quan, đơn vị chủ trì.

Phối hợp của DQTV trong bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền trên các

vùng biển Việt Nam tại Điều 13. Đây là nội dung mới so với Nghị định

74/2010/NĐ-CP, phản ánh đúng thực tế hiện nay DQTV hoạt động phối hợp

với nhiều đơn vị như: Bộ đội Biên phòng, Hải quân, Cảnh sát biển, Kiểm ngư

và các lực lượng khác liên quan thực hiện nhiệm vụ, chức năng tại Điều 40

Luật DQTV. Khắc phục được sự chồng chéo giữa các lực lượng phối hợp bảo

vệ an ninh khu vực biên giới, đồng thời liên thông với Nghị định số

06/2007/NĐ-CP, Nghị định số 34/2014/NĐ-CP và Nghị định số 161/2003/NĐ-

CP về trách nhiệm chủ trì, trách nhiệm phối hợp trong bảo vệ an ninh, trật tự,

an toàn xã hội ở khu vực biên giới.

Cơ quan quân sự địa phương các cấp, ban CHQS bộ, ngành Trung ương

phải chủ động, tích cực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu

cơ quan, tổ chức thực hiện tốt pháp luật về DQTV. Ban hành các văn bản lãnh

đạo, chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương, cơ sở trong tổ chức thực hiện công

tác DQTV. UBND các cấp chỉ đạo cơ quan chức năng thuộc quyền rà soát,

điều chỉnh, bổ sung quy hoạch, kế hoạch, đề án tổ chức, hoạt động, chế độ,

chính sách đối với DQTV giai đoạn 2016-2020 theo quy định của Nghị định

số 03/2016/NĐ-CP; xây dựng quy chế, điều chỉnh kế hoạch phối hợp hoạt

động giữa các lực lượng với DQTV theo quy định của Nghị định số

133/2015/NĐ-CP. Ban CHQS cấp huyện chỉ đạo kiện toàn, củng cố Ban

CHQS cấp xã sau bầu cử Hội đồng nhân dân cấp xã nhiệm kỳ 2016-2021 và

xây dựng kế hoạch tổ chức, huấn luyện, diễn tập, hoạt động của DQTV.

2.3.2.2. Nguyên nhân của hạn chế

Thứ nhất, Do nhận thức của các cấp, các ngành trên địa bàn thành phố Hà

Nội về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác PBGDPL về dân quân tự

vệ chưa đầy đủ, chưa có sự quan tâm đúng mức và phối hợp vào cuộc giữa các

62

ban, ngành, các đoàn thể. Hình thức PBGDPL về dân quân tự vệ có nơi còn

đơn điệu, không hấp dẫn, thu hút người nghe cũng là nguyên nhân ảnh hưởng

đến chất lượng PBGDPL về dân quân tự vệ.

Thứ hai, Hiện nay, hình thức chủ yếu vẫn là tuyên truyền miệng, qua

phương tiện thông tin đại chúng, cấp phát tờ gấp, tờ rơi, qua tủ sách pháp luật.

Những hình thức giáo dục pháp luật khác như hòa giải ở cơ sở, câu lạc bộ, hội

thi thu hút được đông đảo người tham gia, nhưng ít có điều kiện tổ chức. Chất

lượng dạy học môn Giáo dục công dân, môn Pháp luật ở các trường học còn

thấp. Đội ngũ làm công tác PBGDPL về dân quân tự vệ đa số là kiêm nhiệm

nên về mặt nào đó chưa thật toàn tâm, toàn ý với hoạt động PBGDPL về dân

quân tự vệ. Kiến thức pháp luật, năng lực sư phạm, kỹ năng truyền đạt của một

số báo cáo viên, truyền truyền viên còn hạn chế nên ảnh hưởng không nhỏ đến

hiệu quả giáo dục pháp luật.

Thứ ba, Công tác đăng ký, quản lý dân quân rộng rãi chưa chặt chẽ,

công dân trong độ tuổi dân quân tự vệ, thống kê chưa đầy đủ, còn thiếu nhiều

thông tin, tỷ lệ nữ trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ DQTV còn thấp.

Triển khai thực hiện công tác đăng ký công dân trong độ tuổi thực hiện

nghĩa vụ quân sự còn hạn chế như: Việc cập nhật các thông tin khi có thay đổi

của công dân trong độ tuổi sẵn sàng nhập ngũ chưa kịp thời nhất là đối với

công dân thi đỗ vào các trường cao đẳng, đại học;

Thứ tư, Mặt khác, chế độ thù lao đối với những người làm công tác GDPL

về dân quân tự vệ chưa tương xứng, nên chưa tạo động lực mạnh mẽ cho họ

khi thực hiện nhiệm vụ PBGDPL về dân quân tự vệ.

Thực hiện chế độ chính sách theo Quyết định 62 của Thủ tướng Chính

phủ còn chậm; công tác phối hợp với Hội Cựu chiến binh, cán bộ lao động

thương binh và xã hội trong việc giải quyết một số chế độ về chính sách hậu

phương quân đội theo Thông tư 158/TT-BQP ngày 15/8/2011 của Bộ Quốc

63

phòng về một số chế độ chính sách đối với cán bộ Quân đội nghỉ hưu chưa

chặt chẽ. Việc thực hiện chế độ tang lễ đối với cấp úy; chế độ giám định

thương tật, chế độ giám định bệnh hiểm nghèo hiệu quả chưa cao;

Kinh phí dành cho hoạt động PBGDPL về dân quân tự vệ có nơi còn khó

khăn, nhất là ở cơ sở, mất cân đối giữa nhu cầu và khả năng đáp ứng. Cùng với

điều kiện khó khăn về cơ sở vật chất, máy móc thiết bị, phương tiện đi lại...

cũng ảnh hưởng tới hiệu quả PBGDPL về dân quân tự vệ, từ đó dẫn tới kỷ

cương, phép nước bị có nơi còn lỏng lẻo, chưa nghiêm .

Kinh phí chi cho công tác Quốc phòng, quân sự địa phường thông

qua HĐND phường còn thấp chưa đạt được so với chỉ tiêu nhiệm vụ theo

64

quy định.

Tiểu kết chương 2

Chương 2 của luận văn là việc nghiên cứu thực trạng công tác tổ chức

thực hiện Luật Dân quân tự vệ từ thực tiễn thủ đô Hà Nội, trong chương này

đã thực hiện nghiên cứu khái quát lực lượng dân quân tự vệ trên địa bàn thành

phố Hà Nội về số lượng, chất lượng và cơ cấu tổ chức của Bộ tư lệnh Thủ đô

Hà Nội và Ban chỉ huy quân sự các quận (huyện) và các phường, xã , thị trấn,

qua đó có cái nhìn tổng quan về lực lượng dân quân tự vệ, để tiếp nghiên cứu

thực trạng tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ từ thực tiễn Thành phố Hà

Nội qua các mặt tuyên truyền, phổ biến pháp luật về dân quân tự vệ trên địa

bàn thành phố Hà Nội, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ

làm công tác phổ biến pháp luật về dân quân tự vệ và tổ chức thực hiện các

nội dung về pháp luật dân quân tự vệ trên địa bàn Hà Nội. Từ đó có thể đánh

giá tìm ra các mặt đã đạt được cũng như những hạn chế của việc tổ chức thực

hiện Luật Dân quân tự vệ từ thực tiễn của Thủ đô Hà Nội, qua các mặt hạn

chế trên cũng tìm ra được các nguyên nhân hạn chế để có thể tìm các giải

pháp khắc phục nhằm đảm bảo việc thực hiện Luật Dân quân tự vệ trên địa

65

bàn thành phố Hà Nội được tốt hơn.

Chương 3

QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO

TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN QUÂN TỰ VỆ

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Quan điểm bảo đảm tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ

3.1.1. Quán triệt các nguyên tắc xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ

Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ lớn mạnh rộng khắp coi trọng chất

lượng là chính , không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp trước hết là chính

trị. Đây chính là vấn đề mang tính nguyên tắc và cũng là vấn đề mang tính

chất cơ bản hàng đầu trong xây dựng lực lượng dân quân tự vệ hiện nay.

Trước tiên phải xây dựng kỷ cương, chặt chẽ về tổ chức, nghiêm về kỷ luật và

xây dựng một cách toàn diện về tổ chức, biên chế, lãnh đạo , có cơ chế lãnh

đạo đúng và huấn luyện tốt. Lực lượng dân quân tự vệ thực sự phải là nòng

cốt của phong trào toàn dân đánh giặc của địa phương và cơ sở. Trong quá

trình xây dựng lực lượng dân quân tự vệ cần phải đáp ứng yêu cầu vững mạnh

và rộng khắp, hơn nữa luôn coi trọng cả chất lượng và số lượng bởi vì chúng

có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo điều kiện cùng nhau phát triển. Đồng

thời còn ảnh hưởng lẫn nhau để đảm bảo đáp ứng được nhiệm vụ lâu dài mà

Đảng và nhà nước đã đề ra. Ngoài ra số lượng lực lượng vũ trang là quan

trọng, song chất lượng là mặt căn bản.

Nhận thức rõ vị trí chiến lược của DQTV trong sự nghiệp bảo vệ Tổ

quốc, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng lực lượng DQTV vững mạnh. Hệ

thống quan điểm của Đảng về xây dựng lực lượng DQTV được thể hiện

trong nhiều văn kiện (Nghị quyết, chỉ thị). Để góp phần thống nhất nhận

thức, quan điểm cơ bản của Đảng về nguyên tắc xây dựng lực lượng DQTV

để các địa phương, các ngành, các cấp tiếp tục quán triệt trong quá trình tổ

66

chức thực hiện.

Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, quản

lý, điều hành của các bộ, ngành, chính quyền địa phương và chỉ huy trực tiếp

của cơ quan quân sự; gắn xây dựng DQTV với kiện toàn và nâng cao chất

lượng hệ thống chính trị cơ sở.

Hai là, xây dựng lực lượng DQTV “vững mạnh, rộng khắp”, không

ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, trước hết là chất lượng chính trị.

Ba là, DQTV là LLVT quần chúng, có vị trí chiến lược trong sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; xây dựng lực lượng DQTV là

trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị.

Từ các nguyên tắc trên cần phát huy sức mạnh tổng hợp để xây dựng

LLVT của Đảng ta. DQTV là một bộ phận của LLVT nhân dân, xây dựng lực

lượng DQTV là một nội dung quan trọng trong đường lối quốc phòng toàn

dân của Đảng. Trước yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới,

Đảng ta chủ trương xây dựng tỉnh (thành phố) thành khu vực phòng thủ vững

chắc. DQTV là một thành phần của khu vực phòng thủ, là lực lượng nòng cốt

của thế trận làng, xã. Do đó, các địa phương, cơ sở, trước hết là cấp ủy đảng,

chính quyền cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ

chức triển khai công tác xây dựng lực lượng DQTV. Trong công tác giáo dục

chính trị, cần tập trung quán triệt hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng trong

tình hình mới; nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương; nâng cao nhận thức

về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong chiến lược “diễn biến hòa

bình”, bạo loạn lật đổ... Trong huấn luyện quân sự, nắm vững phương châm

“Cơ bản, thiết thực, chất lượng”, coi trọng việc nâng cao năng lực, phương

pháp tổ chức huấn luyện của đội ngũ cán bộ. Huấn luyện DQTV sử dụng

thành thạo vũ khí, trang bị trong biên chế; tổ chức diễn tập sát với thực tiễn

yêu cầu, nhiệm vụ QP-AN của địa phương, nhằm xử lý kịp thời, có hiệu quả

67

các tình huống xảy ra trên địa bàn. Mặt khác, cần chú trọng bảo đảm chế độ,

chính sách đối với DQTV; có chính sách hỗ trợ các xã nghèo trọng điểm về

QP-AN, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo.

3.1.2. Xác định rõ trách nhiệm trong tổ chức thực hiện Luật Dân quân

tự vệ

Trong việc đưa Luật Dân quân tự vệ vào thực thi cần xác định rõ trách

nhiệm các cơ quan quản lý nhà nước trong việc tổ chức thực hiện như sau:

Trách nhiệm của Bộ Quốc phòng, cơ quan quân sự các cấp và Ban chỉ

huy quân sự cấp xã

Bộ Quốc phòng có trách nhiệm sau:

-Trình Chính phủ ban hành và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật

về dân quân tự vệ theo thẩm quyền;

- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và tổ chức thực hiện pháp luật về dân

quân tự vệ;

- Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng chiến lược, quy

hoạch, kế hoạch, chính sách, đề án tổ chức, xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng,

huấn luyện, hoạt động, quản lý và nghiên cứu khoa học quân sự về dân quân

tự vệ;

- Quyết định xã trọng điểm về quốc phòng, an ninh theo quy định của

Chính phủ;

- Tổ chức, hướng dẫn thanh tra, kiểm tra, sơ kết, tổng kết, thực hiện

công tác thi đua khen thưởng; giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp

luật về dân quân tự vệ;

- Thực hiện hợp tác quốc tế về dân quân tự vệ.

Bộ Tổng tham mưu chủ trì phối hợp với các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ

Quốc phòng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thực hiện quản lý nhà

68

nước về dân quân tự vệ.

Bộ Tư lệnh Quân khu có trách nhiệm giúp Bộ Quốc phòng thực hiện

quản lý nhà nước về dân quân tự vệ trong phạm vi địa bàn quân khu, hướng

dẫn Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thống nhất nội dung, biện pháp thực hiện công

tác dân quân tự vệ.

Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Bộ chỉ huy quân sự cấp tỉnh, Ban chỉ huy

quân sự cấp huyện, Ban chỉ huy quân sự cấp xã có trách nhiệm chủ trì, phối

hợp với cơ quan hữu quan giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp tổ chức thực hiện

quản lý nhà nước về dân quân tự vệ ở địa phương.

Trách nhiệm của các bộ, ngành

Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng chỉ đạo, hướng dẫn

việc phối hợp hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã

hội giữa Công an nhân dân và dân quân tự vệ ở địa phương, cơ sở.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Quốc

phòng bố trí ngân sách chi đầu tư xây dựng cơ bản theo quy định của Luật

này và Luật ngân sách nhà nước.

Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Quốc

phòng, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn lập dự toán, chấp

hành và quyết toán ngân sách nhà nước cho tổ chức, huấn luyện, hoạt động

và chế độ, chính sách của dân quân tự vệ theo quy định của Luật ngân sách

nhà nước.

Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng chỉ đạo, hướng dẫn địa

phương, bộ, ngành, cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện quy hoạch, đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ Ban chỉ huy quân sự cấp xã; thực hiện chế độ, chính sách

đối với cán bộ Ban chỉ huy quân sự cấp xã, Ban chỉ huy quân sự bộ, ngành

69

trung ương, Ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức ở cơ sở.

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc

phòng hướng dẫn địa phương, bộ, ngành, cơ quan, tổ chức thực hiện chế độ,

chính sách đối với dân quân tự vệ theo quy định của pháp luật.

Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng ban hành

chương trình khung về đào tạo trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học

ngành quân sự cơ sở; phối hợp xây dựng quy hoạch, kế hoạch, đề án đào tạo,

bồi dưỡng cho cán bộ dân quân tự vệ theo quy định của Luật giáo dục và các

quy định khác của pháp luật có liên quan.

Các bộ, ngành và cơ quan, tổ chức ở trung ương, trong phạm vi nhiệm

vụ, quyền hạn của mình, phối hợp với Bộ Quốc phòng thực hiện:

- Ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy

phạm pháp luật để thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng dân quân tự vệ

theo quy định của pháp luật;

- Chỉ đạo, tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước về công

tác dân quân tự vệ trong thời bình, thời chiến theo nhiệm vụ được giao;

- Kết hợp việc xây dựng, huấn luyện hoạt động của dân quân tự vệ gắn

với thực hiện các nhiệm vụ chính trị trong quy hoạch, kế hoạch của bộ,

ngành, cơ quan, tổ chức.

Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp

- Trình Hội đồng nhân dân cùng cấp phê chuẩn, quyết định quy hoạch,

kế hoạch, đề án tổ chức, hoạt động, chế độ, chính sách đối với dân quân tự vệ

và dự toán thu, chi ngân sách bảo đảm cho dân quân tự vệ.

- Chỉ đạo và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về dân quân tự vệ ở

địa phương; ban hành văn bản chỉ đạo xây dựng lực lượng dân quân tự vệ

theo thẩm quyền.

- Chỉ đạo việc tổ chức, đào tạo, huấn luyện, hoạt động của dân quân tự

70

vệ; thi hành các biện pháp huy động, sử dụng dân quân tự vệ thực hiện nhiệm

vụ; chỉ đạo việc quản lý và kiểm tra vận chuyển, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ

của dân quân tự vệ; bảo đảm hậu cần, tài chính, thực hiện chế độ, chính sách

cho dân quân tự vệ theo quy định của pháp luật.

- Tổ chức thực hiện quyết định mở rộng lực lượng dân quân tự vệ của

cấp có thẩm quyền; phối hợp với thanh tra quốc phòng thanh tra việc thực

hiện pháp luật về dân quân tự vệ; kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử

lý vi phạm pháp luật về dân quân tự vệ.

- Tổ chức sơ kết, tổng kết và thực hiện việc thi đua, khen thưởng về

công tác dân quân tự vệ.

Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức

-Tổ chức thực hiện sự chỉ đạo của cấp có thẩm quyền theo quy định của

pháp luật về dân quân tự vệ.

- Chỉ đạo xây dựng và thực hiện kế hoạch tổ chức, huấn luyện, hoạt

động của đơn vị tự vệ nòng cốt thuộc quyền theo sự chỉ đạo, hướng dẫn của

cơ quan quân sự địa phương.

- Bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện cho việc thực hiện

nhiệm vụ tổ chức, huấn luyện, hoạt động của tự vệ nòng cốt thuộc cơ quan,

tổ chức.

- Tổ chức thực hiện quyết định mở rộng lực lượng dân quân tự vệ của

cấp có thẩm quyền; phối hợp với thanh tra quốc phòng thanh tra việc thực

hiện pháp luật về dân quân tự vệ; kiểm tra, sơ kết, tổng kết và thực hiện việc

thi đua, khen thưởng về công tác dân quân tự vệ thuộc cơ quan, tổ chức.

- Phối hợp với cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong việc tổ chức,

71

huấn luyện, hoạt động và bảo đảm chế độ, chính sách cho dân quân tự vệ.

3.1.3. Chú trọng kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện Luật Dân

quân tự vệ

Quốc Hội thực hiện công tác giám sát việc thực hiện Luật Dân quân tự

vệ qua hoạt động gián tiếp tại các kỳ họp quốc hội, Hoạt động giám sát trực

tiếp của các đại biểu Quốc hội như giám sát việc thi hành Luật dân quân tự vệ

ở địa phương; tiếp xúc cử tri để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của cử tri

phản ánh lên Quốc hội và các cơ quan Nhà nước khác; giám sát việc giải

quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo về việc thực hiện Luật Dân quân tự vệ.

Các cấp ủy Đảng tổ chức thực hiện giám sát hoạt động đảm bảo việc

thực hiện Luật Dân quân tự vệ của các cơ quan cùng cấp.

Hội đồng nhân dân các cấp tổ chức thực hiện việc giám sát quá trình

thực hiện Luật Dân quân tự vệ. Ban Pháp chế Hội đồng nhân dân các quận

(huyện) đề nghị Ban Chỉ huy Quân sự các quận (huyện) tăng cường công tác

kiểm tra, chỉ đạo Ban Chỉ huy Quân sự xã, phường, thị trấn tham mưu đề xuất

việc giải ngạch hoặc quyết định kéo dài thời gian phục vụ của lực lượng dân

quân tự vệ; tăng cường công tác tuyên truyền các văn bản Luật liên quan đến

Dân quân tự vệ.

Bộ Quốc phòng (Cục dân quân tự vệ) thực hiện kiểm tra đôn đốc việc

thực hiện Luật Dân quân tự vệ ở các địa phương.

Bộ tư lệnh thủ đô Hà Nội thực hiện công tác kiểm tra việc thực hiện Luật

Dân quân tự vệ tại các quận (huyện) trên địa bàn thành phố Hà Nội, kiểm tra

các công tác tuyên truyền, hướng dẫn và tổ chức đánh giá việc thực hiện Luật

Dân quân tự vệ.

Bộ chỉ huy quân sự trực tiếp kiểm tra việc thực hiện Luật Dân quân tự

vệ; Nghị định số 58/NĐ-CP của Chính phủ nay là Nghị định số 03/2016 /NĐ

– CP ngày 05/01/2016 của Chính phủ về Quy định chi tiết và hướng dẫn thi

72

hành một số điều của Luật Dân quân tự vệ; các quận (huyện) tổ chức quán

triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc đạt chất lượng hiệu quả, trong quá trình

tổ chức thực hiện luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, chặt chẽ

của Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội.

Tổ chức đánh giá sự phù hợp, thống nhất, đồng bộ giữa Luật Dân quân

tự vệ với Hiến pháp năm 2013, các văn bản quy phạm pháp luật và điều ước

quốc tế có liên quan; những hạn chế vướng mắc, bất cập của Luật dân quân tự

vệ và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành.

Phương hướng, nhiệm vụ và đề xuất chủ trương, giải pháp nâng cao chất

lượng tổng hợp, tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về dân quân tự vệ

trong tình hình mới. Khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc

trong thực hiện công tác dân quân tự vệ.

Các sở, ngành thành phố, UBND quận, huyện, thị xã, UBND xã,

phường, thị trấn, cơ quan, tổ chức có Ban Chỉ huy quân sự cơ quan tổ chức ở

cơ sở hoặc có đơn vị tự vệ, doanh nghiệp quân đội có tổ chức tự vệ không tổ

chức hội nghị tổng kết, báo cáo tổng kết bằng văn bản, hoàn thành trước ngày

31/8/2017. Tổng kết thực hiện Luật dân quân tự vệ ở cấp thành phố hoàn

thành trước ngày 30/9/2017.

Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội chủ trì hướng dẫn nội dung tổng kết thực

hiện Luật Dân quân tự vệ để các sở, ngành thành phố, các địa phương triển

khai tổ chức thực hiện; phối hợp với Văn phòng UBND thành phố và các cơ

quan liên quan chuẩn bị chu đáo mọi mặt giúp UBND thành phố tổ chức Hội

nghị tổng kết thực hiện Luật Dân quân tự vệ đúng thời gian quy định, đạt chất

73

lượng, hiệu quả.

3.2. Giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật về Dân quân tự vệ

3.2.1. Những giải pháp định hướng việc tổ chức thực hiện Luật Dân

quân tự vệ

Để việc thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ ở nước ta hiện nay hoạt

động có hiệu quả, cần có một số giải pháp định hướng như:

Thứ nhất, Quan tâm và chú trọng tới yếu tố kinh tế, nhất là vấn đề phát

triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Yếu tố

kinh tế có ảnh hưởng rất lớn tới ý thức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ:

Nền kinh tế- xã hội phát triển năng động, bền vững sẽ là điều kiện thuận lợi

cho hoạt động thực hiện, tác động tích cực tới việc nâng cao hiểu biết pháp

luật, ý thức pháp luật về dân quân tự vệ của các tầng lớp xã hội. Ngược lại,

nền kinh tế- xã hội chậm phát triển, kém năng động và hiệu quả sẽ có thể ảnh

hưởng tiêu cực tới việc thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật. Yếu tố

kinh tế là nền tảng của sự nhận thức, hiểu biết pháp luật và thực hiện pháp

luật về dân quân tự vệ nên có tác động mạnh mẽ tới hoạt động thực hiện pháp

luật của các chủ thể pháp luật. Từ đó, niềm tin của các chủ thể đối với pháp

luật được củng cố, hoạt động thực hiện pháp luật sẽ mang tính tích cực, thuận

chiều, phù hợp với các giá trị, chuẩn mực pháp luật hiện hành. Chú trọng tới

việc thực hiện chính sách xã hội đảm bảo các nguyên tắc của công bằng xã

hội. Nó là điều kiện cần thiết cho sự ổn định chính trị, tăng cường pháp chế và

đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội,..nhờ đó, ý thức tôn trọng, chấp

hành pháp luật cũng được nâng lên một bước và việc thực hiện pháp luật của

các chủ thể trở nên tự giác và chủ động hơn.

Thứ hai, Chú ý tới yếu tố chính trị, tạo ra môi trường chính trị- xã hội ổn

định, phát triển bền vững. xây dựng cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo

của Đảng phù hợp với thực tiễn, tăng cường tính chất và mức độ của nền dân

74

chủ xã hội. Yếu tố chính trị củng cố ý thức và niềm tin chính trị của cán bộ

đảng viên và quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, điều này có

ảnh hưởng mạnh mẽ tới hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp luật về dân

quân tự vệ của các chủ thể thực hiện pháp luật, đặc biệt là các cá nhân, cơ

quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật.

Thứ ba, Hoàn thiện các quy định của pháp luật về dân quân tự vệ một

cách toàn diện và đồng bộ, đảm bảo thống nhất và mang tính khả thi trước

yêu cầu mở rộng nền dân chủ xã hội và phát triển bền vững: Điều đó tạo điều

kiện cho các chủ thể thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ có thể tuân thủ

pháp luật một cách dễ dàng và nhanh chóng, mặc dù đây là cách xử sự thụ

động của các chủ thể, nhưng nó cũng có biểu hiện sự tự giác, nghiêm chỉnh

thực hiện pháp luật; cùng với đó, có thể chấp hành pháp luật và sử dụng pháp

luật thuận lợi nhất. Một hệ thống pháp luật có chất lượng thì phải đảm bảo các

yêu cầu trên, đặc biệt là tính khả khi, nghĩa là các quy định pháp luật phải có

khả năng thực hiện được trong những điều kiện kinh tế, chính trị- xã hội hiện

tại của đất nước. Theo đó các quy định pháp luật về dân quân tự vệ được ban

hành phải phù hợp với cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật hiện hành. Khi

ban hành pháp luật về dân quân tự vệ phải xem xét tới điều kiện về kinh tế,

chính trị, xã hội của đất nước có cho phép thực hiện được quy định hoặc văn

bản pháp luật đó hay không. Đồng thời cần phải tính đến các điều kiện khác

như tổ chức bộ máy nhà nước, trình độ đội ngũ cán bộ, công chức, dư luận xã

hội trong việc tiếp nhận quy định hoặc văn bản pháp luật đó, trình độ văn hóa

và kiến thức pháp lí của nhân dân.

Thứ tư, Cùng với việc quan tâm phát triển kinh tế và ổn định chính trị thì

vấn đề văn hóa- lối sống trong cộng đồng dân cư cũng rất quan trọng. Với

những mặt, những khía cạnh biểu hiện của mình như phong tục tập quán,

truyền thống văn hóa, lễ nghi, tín ngưỡng…có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt

75

động thực hiện pháp luật thể hiện trên các mặt: phong tục tập quán trong cộng

đồng xã hội có ảnh hưởng nhất định tới hoạt động thực hiện pháp luật về dân

quân tự vệ của các tầng lớp nhân dân, thể hiện đặc biệt rõ nét ở khu vực nông

thôn. Lối sống thành thị quan hệ dòng họ, thân tộc bộc lộ những tác động nhất

định tới việc thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ, đặc biệt là tác động mạnh

mẽ của dư luận xã hội.

3.2.2 Giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ từ

thực tiễn thành phố Hà Nội

3.2.2.1. Nhóm giải pháp về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ

Xây dựng, củng cố lực lượng DQTV là nhiệm vụ của cả hệ thống chính

trị và toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để hoàn thành nhiệm vụ trên,

chúng ta cần nắm chắc đường lối của Đảng về xây dựng dân quân tự vệ, bám

sát thực tiễn và làm tốt những vấn đề sau:

Một là, tổ chức tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho mọi cán

bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nhận thức đầy đủ, sâu sắc vị trí, vai trò

của lực lượng DQTV đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa.

Hai là, Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tiếp tục quán triệt những quan

điểm cơ bản của Đảng về tăng cường quốc phòng, an ninh, nhất là Nghị quyết

Trung ương 8 (khóa XI) của Bộ Chính trị về: "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc

trong tình hình mới"; Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng

các tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới;

Nghị định số 152/2007/NĐ-CP của Chính phủ về khu vực phòng thủ; Kết

luận số 41-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục thực hiện

Chỉ thị số 16-CT/TW về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng

DQTV và lực lượng DBĐV trong tình hình mới" nhằm tăng cường sự lãnh

đạo của Đảng, cần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục để các

76

tổ chức, các lực lượng, mọi cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân nhận thức

đúng về vị trí, vai trò của lực lượng DQTV và nhiệm vụ xây dựng lực lượng

DQTV.

Ba là, Tập trung tuyên truyền, giáo dục về đường lối, quan điểm xây

dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân đáp

ứng yêu cầu tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc của Đảng; truyền

thống vẻ vang của lực lượng DQTV trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân

tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tình hình và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã

hội chủ nghĩa, nhiệm vụ của lực lượng DQTV trong thời kỳ mới; âm mưu, thủ

đoạn của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta... Để thực hiện tốt

các nội dung đó, cấp ủy, chính quyền các cấp, các tổ chức, lực lượng cần phải

tích cực, chủ động, vận dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp, huy động

mọi phương tiện, bảo đảm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn

vị. Có như vậy mới tạo thành sức mạnh tổng hợp, nâng cao nhận thức, trách

nhiệm của cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân trong xây dựng lực

lượng DQTV hiện nay.

Xây dựng, củng cố lực lượng DQTV phải gắn với xây dựng cơ sở vững

mạnh toàn diện, làm nền tảng để xây dựng khu vực phòng thủ của Bộ tư lệnh

thủ đô ngày càng vững chắc.

Tích cực, chủ động phòng, chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù

địch nhằm gây mất ổn định chính trị. Chỉ đạo lực lượng DQTV phối hợp với

bộ đội và các lực lượng khác để bảo vệ an ninh trật tự ở địa bàn. Giải quyết

kịp thời, đúng pháp luật những đòi hỏi chính đáng của nhân dân, không để các

thế lực thù địch lợi dụng kích động, xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính

sách của Đảng, Nhà nước. Thường xuyên nêu cao cảnh giác, chủ động chuẩn

bị các phương án đấu tranh ngăn chặn các nhóm phản động, kịp thời dập tắt

mọi âm mưu gây rối, bạo loạn. Động viên mọi cán bộ, chiến sĩ DQTV tích

77

cực chủ động, làm nòng cốt cùng toàn dân phòng, chống lụt bão, tìm kiếm,

cứu nạn, bảo vệ rừng, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch họa. Phối hợp tuyên

truyền, vận động người thân trong gia đình, mọi người chấp hành tốt chủ

trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, tích cực tham gia các phong trào

"xóa đói, giảm nghèo", "đền ơn, đáp nghĩa", "xây dựng nông thôn mới"... góp

phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa bàn cơ sở.

3.2.2.2. Nhóm giải pháp về công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật về dân quân tự vệ

Một số cơ quan quân sự địa phương còn thiếu chủ động, linh hoạt, chưa

tạo sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ trong tham mưu giúp cấp ủy, uỷ ban nhân

dân thực hiện Đề án này. Có địa phương còn “khoán trắng” cho cơ quan quân

sự; chưa tích cực, chủ động trong triển khai nhân rộng mô hình điểm ở cấp xã.

Hiệu quả tuyên truyền, phổ biến ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân

tộc thiểu số và các doanh nghiệp còn thấp. Một số cán bộ, đảng viên, nhất là

khối doanh nghiệp chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò của của công tác

tuyên truyền, phổ biến pháp luật về DQTV...

Để phát huy kết quả bước đầu và khắc phục những hạn chế, bất cập trên,

các cấp, các ngành, các địa phương cần tập trung thực hiện tốt những vấn đề

chủ yếu sau:

Một là, cần xác định rõ công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về

công tác quốc phòng, quân sự nói chung, pháp luật về DQTV nói riêng là

nhiệm vụ quan trọng thường xuyên của cả hệ thống chính trị, của các cấp, các

ngành, các cơ quan, tổ chức, địa phương và của lực lượng vũ trang. Nhiệm vụ

này cần được cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức lãnh

đạo, chỉ đạo thường xuyên, chặt chẽ, hiệu quả.

Hai là, cần có sự phối hợp giữa BQP với Bộ Thông tin và Truyền thông,

Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và các cơ quan thông

78

tấn, báo chí Trung ương trong việc tuyên truyền pháp luật về DQTV. Trong

đó, tập trung tuyên truyền cho khối các doanh nghiệp và các địa bàn vùng sâu,

vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Bên cạnh việc thường xuyên

đưa tin về các sự kiện, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam

cần duy trì việc phổ biến kiến thức trên VTV2, mở chuyên mục phát sóng

định kỳ trong Chương trình Truyền hình Quân đội nhân dân về công tác

DQTV. Báo Quân đội nhân dân, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, Tạp chí

DQTV - Giáo dục quốc phòng... tiếp tục duy trì và phát huy các chuyên trang,

chuyên mục về giáo dục quốc phòng, qua đó kịp thời làm rõ quan điểm, chủ

trương của Đảng về công tác DQTV, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền,

đoàn thể và nhân dân trong xây dựng lực lượng DQTV. Mặt khác, báo chí

cũng là diễn đàn trao đổi kinh nghiệm và phát hiện những nhân tố mới, các

điển hình trong triển khai và thực hiện Luật DQTV.

Ba là, cần tiến hành tổng kết, rút kinh nghiệm về xây dựng mô hình điểm

cấp xã về tuyên truyền, phổ biến pháp luật về DQTV và triển khai nhân rộng

mô hình này cho phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ của từng địa phương, cơ sở.

Bên cạnh đó, tiếp tục tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về DQTV

bằng nhiều hình thức, biện pháp khác, nhất là thông qua đội ngũ cán bộ, đảng

viên, báo cáo viên ở cơ sở. Hiện nay, cả nước có hàng vạn nhà văn hóa cấp

xã, thôn là thiết chế văn hóa có nhiều tiềm năng, nhưng chưa được sử dụng có

hiệu quả do nhiều nguyên nhân. Vì vậy, các địa phương cần đầu tư kinh phí,

huy động các nguồn lực, nhất là từ các doanh nghiệp, những người hảo tâm để

sửa chữa, nâng cấp, mua sắm trang, thiết bị, sách, báo, tài liệu, băng hình...

phục vụ cho công tác tuyên truyền pháp luật về DQTV. Trước mắt, mỗi nhà

văn hóa nên có tủ sách để phục vụ nhu cầu tìm hiểu pháp luật và đọc sách,

báo của nhân dân.

Bốn là, thông qua tuyên truyền, phổ biến và kết quả triển khai thực hiện

79

Luật DQTV, các địa phương, cơ sở, cần kịp thời phát hiện những vướng mắc,

bất cập và có những kiến nghị, đề xuất với cơ quan có thẩm quyền để nghiên

cứu, sửa đổi, bổ sung, giúp cho hệ thống pháp luật về DQTV ngày càng hoàn

thiện hơn, phù hợp với thực tiễn và yêu cầu, nhiệm vụ QP-AN trong tình hình

mới. Các cơ quan chức năng cần giúp BQP chủ trì phối hợp với Bộ Tư pháp,

Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục cập nhật, bổ sung, hoàn thiện hệ thống tài

liệu, giáo trình pháp luật về DQTV, in và phát hành các tài liệu này đến từng

địa phương, cơ sở.

Tổ chức phổ biến, giáo dục luật dân quân tự vệ trong các Ban chỉ huy

quân sự các quận, huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội.

Một là, phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy

các cấp đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luậ về dân quân tự vệ.

Sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và người chỉ huy ở các Ban chỉ huy

quân sự các quận, huyện là yếu tố quyết định đảm bảo cho công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật đạt hiệu quả thiết thực. Bởi vậy, cấp ủy, chỉ huy ban quân

sự quận, huyện cần bám sát tình hình, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng để có

chủ trương, biện pháp lãnh đạo tổ chức thực hiện toàn diện, đồng bộ, hiệu

quả; đưa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật vào nghị quyết lãnh đạo của

cấp ủy, chương trình, kế hoạch công tác của Ban chỉ huy quân sự các quận,

huyện và các tổ chức quần chúng. Phát huy vai trò của cấp ủy viên phụ trách

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong chỉ đạo, theo dõi, bám nắm đơn vị

và chịu trách nhiệm về kết quả tổ chức thực hiện. Cấp ủy, chỉ huy các cấp cần

nghiên cứu, nắm vững pháp luật, điều lệ, điều lệnh của quân đội, tình hình

chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội để lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức

tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ và nhân dân nhận thức đầy đủ về vị trí, ý

nghĩa, vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đối với xây dựng và

thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Trên cơ sở nghị quyết lãnh đạo của

80

cấp ủy, người chỉ huy cụ thể hóa thành kế hoạch, chương trình, phối hợp tổ

chức thực hiện; lồng ghép nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật với công tác

giáo dục chính trị, quản lý tư tưởng, duy trì nền nếp, chế độ, xử lý kiên quyết

mọi hành vi vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội và quy định của

đơn vị. Trong quá trình thực hiện, phải đổi mới phong cách lãnh đạo, chỉ đạo

theo hướng sâu sát cơ sở, bám nắm nhu cầu bộ đội, tình hình chấp hành kỷ

luật của đơn vị để triển khai thực hiện chương trình, đề án, kế hoạch công tác

phổ biến, giáo dục pháp luật đúng tiến độ, đảm bảo linh hoạt, sinh động,

phong phú, hiệu quả.

Hai là, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hội đồng phối hợp

phổ biến, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ các cấp.

Trước mắt, các cơ quan, đơn vị cần tập trung củng cố, kiện toàn hội

đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật cả về cơ cấu, nhân sự, thành phần,

phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, có chất lượng; hoàn thiện thể chế, quy chế

hoạt động, kế hoạch công tác của hội đồng. Đồng thời, tiến hành rà soát, đánh

giá chất lượng, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, báo cáo viên, tuyên truyền viên

pháp luật của đơn vị, làm cơ sở để xây dựng, bồi dưỡng, phát huy vai trò của

đội ngũ này trong thực hiện nhiệm vụ. Cán bộ làm công tác phổ biến, giáo

dục pháp luật phải được lựa chọn kỹ cả về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối

sống, kiến thức pháp luật, khả năng truyền đạt, ý thức tổ chức kỷ luật và có

sức cảm hóa, thu phục người nghe. Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục

pháp luật các cấp cần bám sát chức năng, nhiệm vụ, tăng cường theo dõi, đôn

đốc thực hiện chương trình, đề án phổ biến, giáo dục pháp luật đã được xác

định; kịp thời phát hiện những vấn đề vướng mắc, những nơi làm chưa tốt để

chấn chỉnh, rút kinh nghiệm. Hội đồng Phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật

Bộ Quốc phòng cần tham mưu, tư vấn cho chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân

sự các cấp làm tốt công tác quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật;

81

đề xuất nội dung, hình thức, biện pháp triển khai tuyên truyền các đề án, các

luật đã được thông qua và tiếp tục theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn các cơ quan,

đơn vị thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đúng tiến độ, hiệu quả.

Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật các cơ quan, đơn vị làm tốt

việc tham mưu, tư vấn, đề xuất nội dung, hình thức, biện pháp quản lý, chỉ

đạo, điều hành công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; hướng dẫn, tư vấn thực

hiện pháp luật về dân quân tự vệ bằng nhiều nội dung, hình thức phong phú,

sáng tạo, phù hợp với đặc thù quân đội. Phát huy vai trò nòng cốt trong phối

hợp với các cơ quan chức năng đảm bảo cho công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật được thực hiện một cách toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; tăng cường

chấn chỉnh khâu yếu, mặt yếu, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động.

Ba là, tích cực đổi mới nội dung, hình thức công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật về dân quân tự vệ.

Việc đổi mới phải xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm, tình

hình, nhận thức của các đối tượng trong đơn vị và mục đích, yêu cầu mà công

tác phổ biến, giáo dục pháp luật đề ra, phù hợp với sự phát triển của sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Về nội dung, cần bám sát

các chuyên đề phổ biến, giáo dục pháp luật của trên, cụ thể hóa sao cho sát

với đặc điểm của đơn vị và từng đối tượng. Đối với can bộ trong Bộ tư lệnh

Thủ đô cần được trang bị kiến thức lý luận chung về nhà nước và pháp luật;

pháp luật về quốc phòng, an ninh, kinh tế, hành chính và các văn bản pháp

luật liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn công tác. Các nhóm

đối tượng khác được phổ biến, giáo dục các quy định của pháp luật về dân

quân tự vệ. Đồng thời, các đơn vị cần tích cực tham gia phổ biến, tuyên

truyền, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ cho nhân dân trên địa bàn đóng

quân, nhất là trên vùng sâu, vùng xa.. Coi trọng công tác sơ kết, tổng kết, rút

kinh nghiệm, xác định mặt làm được, chưa làm được, tìm cách làm hay, nhân

82

tố mới để xây dựng và nhân rộng. Về hình thức, tiếp tục phát huy hiệu quả

các mô hình, cách làm đã được khẳng định; đồng thời, bám sát thực tiễn sinh

động trong môi trường quân đội để bổ sung, làm phong phú thêm nội dung,

hình thức, biện pháp phù hợp với nhu cầu pháp luật về dân quân tự vệ. Sử

dụng có hiệu quả Tủ sách, Ngăn sách pháp luật, không ngừng cập nhật nội

dung mới, phong phú, có tính giáo dục cao. Bên cạnh chương trình, đề án

giáo dục chung, các đơn vị cần tăng cường giáo dục bổ trợ và các hoạt động

giao lưu, văn hóa, văn nghệ, thi tìm hiểu pháp luật... bằng nhiều cách làm

sáng tạo, đa dạng, thu hút đông đảo cán bộ và nhân dân tham gia.

Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp trong triển khai tổ chức thực hiện.

Để công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ mang lại

hiệu quả thiết thực, cần có sự vào cuộc của các tổ chức, lực lượng, phương

tiện, tạo môi trường thuận lợi đưa văn hóa pháp luật vào cuộc sống hàng ngày

của cơ quan, đơn vị. Theo đó, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, duy

trì chuyên trang, chuyên mục, tăng dung lượng, thời lượng phát sóng về tuyên

truyền, phổ biến pháp luật; tăng cường thông tin về hoạt động xây dựng và

thực hiện pháp luật, các điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt” trong

chấp hành pháp luật. Đồng thời, nâng cao năng lực thực thi pháp luật, duy trì

nền nếp chính quy; giải quyết hài hòa các mối quan hệ; phối hợp với địa

phương nơi đóng quân, gia đình trong việc giáo dục pháp luật cho quân nhân.

Mặt khác, phải tạo điều kiện về kinh phí, vật chất, phương tiện hoạt động;

chăm lo bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần, động viên cán bộ, chiến sĩ tự

giác phấn đấu, rèn luyện theo các chuẩn mực pháp luật đề ra.

Tổ chức phổ biến, giáo dục luật dân quân tự vệ trong các Ban chỉ huy

quân sự các quận, huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội.

Một là, phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy

83

các cấp đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luậ về dân quân tự vệ.

Sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và người chỉ huy ở các Ban chỉ huy

quân sự các quận, huyện là yếu tố quyết định đảm bảo cho công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật đạt hiệu quả thiết thực. Bởi vậy, cấp ủy, chỉ huy ban quân

sự quận, huyện cần bám sát tình hình, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng để có

chủ trương, biện pháp lãnh đạo tổ chức thực hiện toàn diện, đồng bộ, hiệu

quả; đưa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật vào nghị quyết lãnh đạo của

cấp ủy, chương trình, kế hoạch công tác của Ban chỉ huy quân sự các quận,

huyện và các tổ chức quần chúng. Phát huy vai trò của cấp ủy viên phụ trách

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong chỉ đạo, theo dõi, bám nắm đơn vị

và chịu trách nhiệm về kết quả tổ chức thực hiện. Cấp ủy, chỉ huy các cấp cần

nghiên cứu, nắm vững pháp luật, điều lệ, điều lệnh của quân đội, tình hình

chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội để lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức

tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ và nhân dân nhận thức đầy đủ về vị trí, ý

nghĩa, vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đối với xây dựng và

thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Trên cơ sở nghị quyết lãnh đạo của

cấp ủy, người chỉ huy cụ thể hóa thành kế hoạch, chương trình, phối hợp tổ

chức thực hiện; lồng ghép nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật với công tác

giáo dục chính trị, quản lý tư tưởng, duy trì nền nếp, chế độ, xử lý kiên quyết

mọi hành vi vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội và quy định của

đơn vị. Trong quá trình thực hiện, phải đổi mới phong cách lãnh đạo, chỉ đạo

theo hướng sâu sát cơ sở, bám nắm nhu cầu bộ đội, tình hình chấp hành kỷ

luật của đơn vị để triển khai thực hiện chương trình, đề án, kế hoạch công tác

phổ biến, giáo dục pháp luật đúng tiến độ, đảm bảo linh hoạt, sinh động,

phong phú, hiệu quả.

Hai là, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hội đồng phối hợp

84

phổ biến, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ các cấp.

Trước mắt, các cơ quan, đơn vị cần tập trung củng cố, kiện toàn hội

đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật cả về cơ cấu, nhân sự, thành phần,

phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, có chất lượng; hoàn thiện thể chế, quy chế

hoạt động, kế hoạch công tác của hội đồng. Đồng thời, tiến hành rà soát, đánh

giá chất lượng, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, báo cáo viên, tuyên truyền viên

pháp luật của đơn vị, làm cơ sở để xây dựng, bồi dưỡng, phát huy vai trò của

đội ngũ này trong thực hiện nhiệm vụ. Cán bộ làm công tác phổ biến, giáo

dục pháp luật phải được lựa chọn kỹ cả về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối

sống, kiến thức pháp luật, khả năng truyền đạt, ý thức tổ chức kỷ luật và có

sức cảm hóa, thu phục người nghe. Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục

pháp luật các cấp cần bám sát chức năng, nhiệm vụ, tăng cường theo dõi, đôn

đốc thực hiện chương trình, đề án phổ biến, giáo dục pháp luật đã được xác

định; kịp thời phát hiện những vấn đề vướng mắc, những nơi làm chưa tốt để

chấn chỉnh, rút kinh nghiệm. Hội đồng Phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật

Bộ Quốc phòng cần tham mưu, tư vấn cho chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân

sự các cấp làm tốt công tác quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật;

đề xuất nội dung, hình thức, biện pháp triển khai tuyên truyền các đề án, các

luật đã được thông qua và tiếp tục theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn các cơ quan,

đơn vị thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đúng tiến độ, hiệu quả.

Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật các cơ quan, đơn vị làm tốt

việc tham mưu, tư vấn, đề xuất nội dung, hình thức, biện pháp quản lý, chỉ

đạo, điều hành công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; hướng dẫn, tư vấn thực

hiện pháp luật về dân quân tự vệ bằng nhiều nội dung, hình thức phong phú,

sáng tạo, phù hợp với đặc thù quân đội. Phát huy vai trò nòng cốt trong phối

hợp với các cơ quan chức năng đảm bảo cho công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật được thực hiện một cách toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; tăng cường

85

chấn chỉnh khâu yếu, mặt yếu, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động.

Ba là, tích cực đổi mới nội dung, hình thức công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật về dân quân tự vệ.

Việc đổi mới phải xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm, tình

hình, nhận thức của các đối tượng trong đơn vị và mục đích, yêu cầu mà công

tác phổ biến, giáo dục pháp luật đề ra, phù hợp với sự phát triển của sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Về nội dung, cần bám sát

các chuyên đề phổ biến, giáo dục pháp luật của trên, cụ thể hóa sao cho sát

với đặc điểm của đơn vị và từng đối tượng. Đối với can bộ trong Bộ tư lệnh

Thủ đô cần được trang bị kiến thức lý luận chung về nhà nước và pháp luật;

pháp luật về quốc phòng, an ninh, kinh tế, hành chính và các văn bản pháp

luật liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn công tác. Các nhóm

đối tượng khác được phổ biến, giáo dục các quy định của pháp luật về dân

quân tự vệ. Đồng thời, các đơn vị cần tích cực tham gia phổ biến, tuyên

truyền, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ cho nhân dân trên địa bàn đóng

quân, nhất là trên vùng sâu, vùng xa.. Coi trọng công tác sơ kết, tổng kết, rút

kinh nghiệm, xác định mặt làm được, chưa làm được, tìm cách làm hay, nhân

tố mới để xây dựng và nhân rộng. Về hình thức, tiếp tục phát huy hiệu quả

các mô hình, cách làm đã được khẳng định; đồng thời, bám sát thực tiễn sinh

động trong môi trường quân đội để bổ sung, làm phong phú thêm nội dung,

hình thức, biện pháp phù hợp với nhu cầu pháp luật về dân quân tự vệ. Sử

dụng có hiệu quả Tủ sách, Ngăn sách pháp luật, không ngừng cập nhật nội

dung mới, phong phú, có tính giáo dục cao. Bên cạnh chương trình, đề án

giáo dục chung, các đơn vị cần tăng cường giáo dục bổ trợ và các hoạt động

giao lưu, văn hóa, văn nghệ, thi tìm hiểu pháp luật... bằng nhiều cách làm

sáng tạo, đa dạng, thu hút đông đảo cán bộ và nhân dân tham gia.

86

Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp trong triển khai tổ chức thực hiện.

Để công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ mang lại

hiệu quả thiết thực, cần có sự vào cuộc của các tổ chức, lực lượng, phương

tiện, tạo môi trường thuận lợi đưa văn hóa pháp luật vào cuộc sống hàng ngày

của cơ quan, đơn vị. Theo đó, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, duy

trì chuyên trang, chuyên mục, tăng dung lượng, thời lượng phát sóng về tuyên

truyền, phổ biến pháp luật; tăng cường thông tin về hoạt động xây dựng và

thực hiện pháp luật, các điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt” trong

chấp hành pháp luật. Đồng thời, nâng cao năng lực thực thi pháp luật, duy trì

nền nếp chính quy; giải quyết hài hòa các mối quan hệ; phối hợp với địa

phương nơi đóng quân, gia đình trong việc giáo dục pháp luật cho quân nhân.

Mặt khác, phải tạo điều kiện về kinh phí, vật chất, phương tiện hoạt động;

chăm lo bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần, động viên cán bộ, chiến sĩ tự

giác phấn đấu, rèn luyện theo các chuẩn mực pháp luật đề ra.

3.2.2.3. Nhóm giải pháp về phát huy vai trò của cấp ủy Đảng, chính

quyền địa phương trong thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ trên địa bàn

thành phố Hà Nội

Trên cơ sở đó, đề ra những chủ trương, giải pháp thiết thực, hiệu quả

trong tổ chức và xây dựng lực lượng DQTV theo chức năng, nhiệm vụ của

từng địa phương, đơn vị, cơ sở và các tổ chức chính trị - xã hội... Để thực hiện

tốt nội dung này, chính quyền các cấp cần thực hiện tốt chức năng quản lý nhà

nước về nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương, công tác DQTV; kịp thời

ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện tốt các đề án xây dựng

DQTV của Bộ tư lệnh thủ đô Hà Nội theo đúng quy định. Trong xây dựng,

củng cố lực lượng DQTV phải được kết hợp với các hoạt động phục vụ nhiệm

vụ quốc phòng, an ninh tại cơ quan và địa phương; đồng thời, thông qua hoạt

động thực tiễn để đánh giá ưu điểm, khuyết điểm, kịp thời rút kinh nghiệm, từ

87

đó nâng cao chất lượng toàn diện của các đơn vị DQTV. Mặt khác, cần tăng

cường kiểm tra, đôn đốc trách nhiệm của cán bộ các cấp, các ngành trong hệ

thống chính trị, khắc phục những khuynh hướng đùn đẩy, khoán trắng cho Bộ

tư lệnh thủ đô, Ban Chỉ huy Quân sự các quận, huyện trong xây dựng lực

lượng DQTV tại địa phương, cơ sở.

Cơ quan quân sự địa phương các cấp cần bám sát địa bàn, nắm chắc

tình hình để làm tốt hơn nữa công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền

cùng cấp ban hành nghị quyết và các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo hằng năm về

công tác quốc phòng, quân sự địa phương, đưa công tác quản lý DQTV ngày

càng nền nếp, trở thành chế độ trên cơ sở nghĩa vụ gắn chặt với quyền lợi.

Làm tốt công tác nắm và quản lý nguồn, công khai danh sách tuyển chọn,

luân chuyển DQTV nòng cốt theo phương châm "Dân biết, dân bàn, dân cử",

được cấp ủy, chính quyền xã, phường, thị trấn, người đứng đầu cơ quan, tổ

chức phê duyệt. Tập trung xây dựng, củng cố lực lượng DQTV cơ động,

DQTV phòng không, DQTV thường trực vùng biên giới, hải đảo và địa bàn

trọng điểm nội địa, đảm bảo đủ về số lượng, có chất lượng chính trị tốt theo

đúng sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng. Coi trọng công tác tổ chức, xây dựng

lực lượng DQTV đủ mạnh để tăng cường lực lượng tham gia bảo vệ chủ

quyền và lãnh hải của Tổ quốc. Đồng thời, chú trọng xây dựng, củng cố lực

lượng tự vệ trong các loại hình doanh nghiệp tại địa phương đúng với Luật

DQTV và phù hợp với tình hình cụ thể của từng địa phương, doanh nghiệp.

Tiếp tục xây dựng, nâng cao chất lượng lãnh đạo của chi bộ quân sự xã,

phường, thị trấn và đào tạo đội ngũ cán bộ quân sự ở cơ sở. Căn cứ vào hướng

dẫn của trên, cấp ủy đề xuất ban hành chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối

quan hệ công tác và quy chế hoạt động của chi bộ quân sự cấp xã, phường, thị

trấn. Coi trọng lãnh đạo công tác phát triển đảng viên, đoàn viên; qua đó nâng

cao chất lượng chính trị của lực lượng DQTV. Tuyển chọn, đào tạo và sử

88

dụng cán bộ Ban Chỉ huy Quân sự xã, phường, thị trấn theo đúng quy chế,

quy trình công tác cán bộ của Đảng. Cấp ủy, chính quyền cơ sở phải thường

xuyên chăm lo chuẩn bị nguồn, gửi đi đào tạo, bồi dưỡng để chuẩn hóa trình

độ nghiệp vụ chuyên môn của chỉ huy trưởng, Phó Chỉ huy trưởng Ban Chỉ

huy Quân sự theo thẩm quyền. Hằng năm, đội ngũ cán bộ DQTV phải được

bồi dưỡng, tập huấn cập nhật kiến thức mới về kinh tế, chính trị, quốc phòng,

an ninh, đối ngoại và ôn luyện kiến thức cơ bản về quốc phòng, quân sự theo

quy định của Bộ Quốc phòng. Đồng thời, mỗi cán bộ trong Ban Chỉ huy Quân

sự phải không ngừng tự học tập, rèn luyện để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ

quốc phòng, quân sự ở cơ sở.

Trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN, trước xu thế hội nhập toàn diện đời sống kinh tế xã hội đất nước và

xây dựng Nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân,

vấn đề nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, PBGDPL về dân quân tự vệ

để qua đó củng cố, tăng cường hiệu lực pháp luật đang trở nên cấp thiết,

quan trọng. Để nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, PBGDPL về dân

quân tự vệ, nâng cao hiệu quả quản lý xã hội bằng pháp luật của các cấp

chính quyền, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của

chính quyền các cấp đối với công tác tuyên truyền, PBGDPLvề dân quân

tự vệ:

Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, cần tiếp tục quán triệt Chỉ thị

số 32/CT-TW của Ban Bí thư và đẩy mạnh thực hiện các Đề án, Chương

trình, Kế hoạch của Chính phủ, Bộ Tư pháp và UBND tỉnh về tăng cường

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2015 - 2020; đồng thời triển

khai thực hiện tốt Luật phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 và các văn bản

hướng dẫn thi hành và hưởng ứng có hiệu quả Ngày “Pháp luật Việt Nam”

89

hằng năm, qua đó tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của các

tổ chức Đảng và đảng viên về công tác giáo dục pháp luật, đưa công tác

PBGDPL về dân quân tự vệ vào trong Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

đảng viên hằng năm của Ban Thường vụ cấp ủy các cấp. Các cấp ủy phải

thường xuyên tiến hành xây dựng chương trình, kế hoạch PBGDPL về dân

quân tự vệ trên địa bàn cấp mình và phải luôn xác định vai trò gương mẫu và

tiên phong của đảng viên trong việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Đồng

thời phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát hoạt động, kịp thời đôn

đốc, chỉ đạo xử lý những vướng mắc nảy sinh trong quá trình PBGDPL về

dân quân tự vệ.

Bên cạnh việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thì sự tổ chức, chỉ đạo,

hướng dẫn của chính quyền địa phương là một trong những yếu tố vô cùng

quan trong. Để nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật, tăng cường pháp chế

XHCN, chính quyền địa phương cần thực hiện tốt những vấn đề sau:

Đối với Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp: Phải từng bước nâng

cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND nói chung và trong việc ra

Nghị quyết về công tác PBDGPL về dân quân tự vệ nói riêng. Trong quá

trình hoạt động của mình, HĐND không chỉ chú ý tới việc ban hành các văn

bản QPPL mà quan trọng hơn là phải chỉ đạo, giám sát hoạt động tuyên

truyền, PBGDPL về dân quân tự vệ, xem đây là biện pháp hàng đầu trong

việc đảm bảo thi hành Hiến pháp và pháp luật trên địa bàn.

Đối với ủy ban nhân dân (UBND) các cấp: Hằng năm, UBND cần

chủ động xây dựng kế hoạch giáo dục pháp luật cho địa phương. Kế hoạch

phải phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng, Quyết định, Chỉ thị của

Thủ tướng Chính phủ, các Đề án, Chương trình, Kế hoạch của Bộ Tư pháp,

UBND thành phố và phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh tế, xã hội của

90

từng địa phương. Thực hiện tốt việc kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm và

khen thưởng kịp thời những tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong

công tác PBGDPL về dân quân tự vệ.

Hai là, chú trọng xây dựng đội ngũ làm công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật - vai trò quyết định chất lượng tuyên truyền, PBGDPL về dân

quân tự vệ:

Do vậy, cần tuyển chọn những người có phẩm chất, năng lực, trình độ,

có khả năng tuyên truyền, giáo dục hoặc hòa giải tốt, có lòng nhiệt tình, say

mê với công việc giáo dục pháp luật. Bên cạnh đó, phải đặc biệt chú trọng

việc rà soát, phân loại, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp và định hướng nội dung

giáo dục pháp luật thường xuyên cho đội ngũ làm công tác giáo dục pháp

luật (chú ý cung cấp kiến thức, cần bồi dưỡng, rèn luyện kỹ năng tuyên

truyền, PBGDPL về dân quân tự vệ, giúp họ không chỉ có kiến thức vững

mà còn có khả năng truyền đạt thu hút người nghe và có hiệu quả nội dung

pháp luật).

Ba là, đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp PBGDPL về dân

quân tự vệ:

Cần đổi mới nội dung tuyền truyền, PBGDPL về dân quân tự vệ theo

hướng không chỉ đáp ứng nhu cầu kiến thức cơ bản về pháp luật, mà còn phải

thiết thực, đáp ứng yêu cầu thực tiễn để một mặt nâng cao trình độ nhận thức

cho các đối tượng, mặt khác giúp họ có khả năng vận dụng sáng tạo vào thực

tiễn cuộc sống. Trên cơ sở nội dung PBGDPL về dân quân tự vệ đã được cung

cấp, các báo cáo viên biên soạn lại cụ thể, phù hợp với đặc điểm, điều kiện,

trình độ nhận thức, tính chất công việc của từng đối tượng. Định kỳ cần tổ

chức sơ kết, đánh giá để xây dựng cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xác

định nội dung PBGDPL về dân quân tự vệ thời gian tiếp theo.

Cần đa dạng hóa hình thức, phương pháp tuyền truyền, PBGDPL về

91

dân quân tự vệ, không chỉ thông qua các hội nghị, hệ thống truyền thanh,

công tác hòa giải ở cơ sở, hoạt động câu lạc bộ phát luật mà bằng những

cách thức khác như tọa đàm, buổi nói chuyện, hoạt cảnh tình huống, lời ca,

tiếng hát, cung cấp các tin bài, cấp phát tài liệu hỏi đáp, tờ gấp, tờ rơi, panô,

áp phích, khai thác, tìm hiểu pháp luật qua tủ sách pháp luật,.... Cần xây

dựng và mở rộng hình thức tìm hiểu pháp luật qua các hoạt cảnh trên phát

thanh hoặc truyền hình, xây dựng trang web riêng về công tác tuyên truyền,

PBGDPL để người dân có thể cập nhật thông tin, trao đổi, bàn luận và tìm

hướng giải quyết cho những vấn đề bức xúc trong đời sống pháp luật.

Ngoài ra, cần lồng ghép việc tuyên truyền, PBGDPL về dân quân tự

vệ tại các buổi sinh hoạt cộng đồng. Xây dựng và phát huy phương châm

mỗi người dân là một tuyên truyền viên trong cộng đồng. Chú trọng nâng

cao hiệu quả hình thức thi tìm hiểu pháp luật. Đối với hình thức PBGDPL về

dân quân tự vệ qua hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp luật cần mở rộng phạm

vi hoạt động, không chỉ tư vấn tại trụ sở mà còn đến các thôn xóm, cụm dân

cư, tư vấn lưu động hoặc thông qua các câu lạc bộ trợ giúp pháp lý.

Bốn là, cần nâng cao chất lượng hoạt động công tác hòa giải ở cơ sở: Đây là hình thức có tác dụng giáo dục cao vì nó không chỉ giải quyết

tranh chấp thông qua cách hướng dẫn, thuyết phục các bên tự thương lượng

với nhau mà còn xuất phát từ đạo lý dân tộc Việt Nam, hòa thuận, đoàn kết,

“chín bỏ làm mười”. Hòa giải ở cơ sở vừa có tác dụng giáo dục hiệu quả vừa

có khả năng lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng. Khi tiến hành hòa giải cần

phân tích thấu đáo mọi khía cạnh, kiên nhẫn và mềm mỏng, vừa căn cứ vào

quy định pháp luật, vừa dùng tình cảm để thuyết phục. Phải xác định hòa

giải có thể không thành, nhưng nhất định buổi hòa giải đó sẽ là bài học giáo

dục pháp luật cho mọi người.

Năm là, nâng cao chất lượng dạy học pháp luật về dân quân tự vệ

92

trong trường học

Cần đổi mới nội dung, phương pháp dạy học và hình thức ngoại khóa

pháp luật; nâng cao chất lượng dạy học môn Giáo dục công dân, môn Pháp

luật ở các trường học.

Sáu là, phải thờng xuyên hệ thống hoá văn bản QPPL về dân quân tự vệ Để phát hiện và loại bỏ những quy định pháp luật lạc hậu, trùng lắp,

mâu thuẫn, kịp thời bổ sung những thiếu sót trong mặt bằng pháp luật; có kế

hoạch xây dựng pháp luật phù hợp với mỗi giai đoạn cụ thể; đẩy mạnh công

tác nghiên cứu khoa học pháp lý, nâng cao kỹ thuật lập pháp, mở rộng các

hình thức nhân dân tham gia vào việc xây dựng pháp luật... Đồng thời phải

đảm bảo đủ kinh phí, cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động công tác tuyên

truyền, PBGDPL về dân quân tự vệ.

Bảy là, tăng cường công tác tuyền truyền, PBGDPL về dân quân tự vệ

không tách rời với việc nâng cao trình độ dân trí và cải thiện đời sống cho

nhân dân:

Các cơ quan nhà nước cần tăng cường tổ chức thực hiện pháp luật,

đặc biệt là áp dụng pháp luật một cách đúng đắn và nghiêm minh, nâng cao

và cải thiện chất lượng cuộc s

PBGDPL về dân quân tự vệ

hóa pháp lý của người dân. Hiệu quả tác động này lại phụ thuộc vào trình độ

văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ, công chức, phụ thuộc vào việc họ thực

thi pháp luật, có thái độ tôn trọng pháp luật, nhất là trong điều kiện xây

dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh thì một trong những điều

kiện quan trọng là làm sao để người dân được tham gia tích cực vào hoạt

động quản lý xã hội bằng pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần

quan trọng trong việc thúc đẩy sự lớn mạnh của tính tích cực, đảm bảo hành

trang kiến thức pháp lý cần thiết cho sự tham gia vào hoạt động xây dựng và

93

thực thi pháp luật về dân quân tự vệ trong địa bàn thành phố Hà Nội.

Tiểu kết chương 3

Sau khi xác định những nguyên nhân của hạn chế trong việc tổ chức

thực hiện Luật Dân quân tự vệ từ thực tiễn của Thành phố Hà Nội qua các

quan điểm về việc quán triệt các nguyên tắc xây dựng lực lượng dân quân tự

vệ cùng với đó là việc xác định rõ trách nhiệm trong tổ chức thực hiện lực

lượng dân quân tự vệ và việc chú trọng kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực

hiện Luật Dân quân tự vệ luận văn đã đưa ra được các nhóm giải pháp, trong

đó có giải pháp mang tính định hướng và giải pháp cụ thể để đảm bảo việc

thực hiện Luật Dân quân tự vệ là các nhóm giải pháp như: “Nhóm giải pháp

về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, Nhóm giải pháp về công tác tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ, Nhóm giải pháp về

phát huy vai trò của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong thực hiện

pháp luật về dân quân tự vệ trên địa bàn thành phố Hà Nội”. Các giải pháp

này phần nào đã hoàn thành việc khắc phục được những nguyên nhân hạn chế

94

ở chương 2 của luận văn.

KẾT LUẬN

Từ việc tìm hiểu và phân tích trên, cùng với thực tiễn cuộc sống hàng

ngày có thể kết luận rằng tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ là

quá trình chuyển hóa từ “pháp luật trên giấy tờ” thành “pháp luật trong hành

động” ở các chủ thể trong xã hội. Đây là một quá trình phức tạp và lâu dài, do

đó, hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ ở nước ta

hiện nay phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Luận văn tổ chức thực hiện luật dân

quân tự vệ - từ thực tiễn thành phố Hà Nội đã đưa ra được các giải pháp để

đưa luật dân quân tự vệ đến với người dân thủ đô, việc thực hiện luật dân

quân tự vệ là trách nhiệm của mọi người dân của toàn xã hội và của các cơ

quan đơn vị trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Các giải pháp của luận văn đã đưa ra được những vấn đề về xây dựng lực

lượng dân quân tự vệ, xây dựng, củng cố lực lượng DQTV phải gắn với xây

dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, làm nền tảng để xây dựng khu vực phòng

thủ của bộ tư lệnh thủ đô ngày càng vững chắc, tổ chức phổ biến, giáo dục

luật dân quân tự vệ trong các ban chỉ huy quân sự các quận, huyện trên địa

bàn thành phố Hà Nội, phát huy vai trò của cấp ủy Đảng, chính quyền địa

phương trong thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ trên địa bàn thành phố Hà

Nội và giải pháp về công tác tuyên truyền pháp luật về dân quân tự vệ. Các

giải pháp này cơ bản đã giải quyết được những vấn đề về tổ chức thực hiện

95

luật dân quân tự vệ trên địa bàn thành phố Hà Nội trong các năm tiếp theo.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ương (2007), Về tổ chức Đảng trong Quân đội

nhân dân Việt Nam, Quy định số 105 ngày 20/11/2007, Hà Nội.

2. Ban Chấp hành Trung ương (2009), Kết luận Hội nghị lần thứ chín Ban

Chấp hành Trung ương khóa X, về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến

lược công tác cán bộ từ nay đến 2020, Hà Nội.

3. Bộ tổng Tham mưu (2004), Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

4. Chỉ lệnh số 82/CL-BQP ngày 14/11/2006 của BQP về sẵn sàng chiến đấu đối

với Quân đội nhân dân và Dân quân Tự vệ.

5. Chỉ lệnh số 285/CL-BTL ngày 20/10/2009 của Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thủ đô về

SSCĐ của lực lượng vũ trang Bộ Tư lệnh Thủ đô.

6. Chỉ thị số 09/CT-TTg ngày 24 tháng 3 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ

về việc tổng kết thực hiện Luật Dân quân tự vệ năm 2009;

7. Chỉ thị số 06/CT-UBND ngày 26/4/2017 của ủy ban nhân dân thành phố

Hà Nội về việc tổng kết thực hiện Luật Dân quân tự vệ năm 2009.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

11. Đề án “xây dựng lực lượng dân quân tự vệ tỉnh Lạng Sơn giai đoạn

2016-2020”.

12. Hiến pháp năm 2013

13. Hướng dẫn số 958/HD-BTL ngày 04/5/2017 của Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà

96

Nội về việc tổng kết thực hiện Luật Dân quân tự vệ năm 2009

14. Phạm Hồng Hương “Kết quả và kinh nghiệm sau 2 năm thực hiện Luật

DQTV”, Tạp chí quốc phòng toàn dân ngày 7/6/2012

15. Luật Dân quân tự vệ, Luật số 43/2009/QH 12 của Quốc hội nước Cộng

hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 23/11/2009

16. Nghị định số 03/2016/NĐ-CP của Chính phủ ngày 5/1/2016, quy định chi

tiết về biện pháp thi hành một số điều của Luật Dân quân tự vệ.

17. Nghị định số 133/2015/NĐ-CP ngày 28/12/2015 của Chính phủ Quy định

việc phối hợp của DQTV với các lực lượng trong hoạt động bảo vệ biên

giới, biển, đảo; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở;

bảo vệ và phòng, chống cháy rừng...

18. Quyết định số 1133/QĐ-BQP ngày 11 tháng 4 năm 2017 của Bộ trưởng

Bộ Quốc phòng về ban hành kế hoạch tổng kết thực hiện Luật Dân quân

tự vệ 2009.

19. Quyết định số 1073/QĐ-BTL ngày 18/5/2016 của Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà

Nội về Thanh tra việc đăng ký, quản lý, tổ chức biên chế, trang bị, huấn

luyện, hoạt động và bảo đảm chế độ chính sách cho lực lượng DQTV.

20. Thông tư số 193/2014/TT-BQP ngày 26/12/2014 của Bộ Quốc phòng về

Ban hành tiêu chuẩn, trang phục dân quân tự vệ

21. Nguyễn Xuân Thuyết,“Thực hiện Luật Dân quân tự vệ ở Vĩnh Phúc”, tạp

97

chí quốc phòng toàn dân, ngày 22/2/2012.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT DÂN QUÂN TỰ VỆ

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật hành chính

Mã số: 60.34.04.03

Người thực hiện: Cao Hợp Thanh

HÀ NỘI - NĂM 2017

98