BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ------------/------------ BỘ NỘI VỤ ----/----
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
CAO HỢP THANH
TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT DÂN QUÂN TỰ VỆ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02
Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN HẬU THÀNH
HÀ NỘI, NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của
cá nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Trần Hậu
Thành. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn
này trung thực và chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Học viên
Cao Hợp Thanh
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin được bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đến thầy hướng dẫn
khoa học TS. Trần Hậu Thành đã tận tình hướng dẫn và đóng góp nhiều ý
kiến khoa học trong thời gian tác giả thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Hành chính Quốc
gia, Khoa Sau đại học, Khoa Nhà nước – Pháp luật cùng toàn thể các thầy, cô
giáo đã nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành
luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn Bộ Tư lệnh thủ đô Hà Nội, Ban chỉ huy quân sự
các quận (huyện) trên địa bàn thành phố Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi trong quá trình nghiên cứu, tìm kiếm tài liệu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới tất cả thầy cô
giáo, cơ quan, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp luôn là nguồn động viên quý
báu cho tôi hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn
Cao Hợp Thanh
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
Chương 1. CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT DÂN
QUÂN TỰ VỆ .................................................................................................. 8
1.1. Khái quát chung pháp luật về dân quân tự vệ ...................................... 8
1.1.1. Khái niệm, vai trò và nhiệm vụ của dân quân tự vệ .......................... 8
1.1.2. Nội dung pháp luật dân quân tự vệ .................................................. 12
1.2. Khái niệm, hình thức và nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về
dân quân tự vệ ............................................................................................... 21
1.2.1 Khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ ................. 21
1.2.2. Các hình thức tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ.......... 22
1.2.3. Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ .................. 23
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện pháp luật về dân
quân tự vệ ....................................................................................................... 26
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 34
Chương 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT DÂN QUÂN
TỰ VỆ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ..................................... 35
2.1. Khái quát về tình hình dân quân tự vệ thủ đô Hà Nội ....................... 35
2.1.1. Tình hình lực lượng dân quân tự vệ thủ đô Hà Nội .......................... 35
2.1.2. Đặc thù của lực lượng dân quân tự vệ tại Thành phố Hà Nội .......... 41
2.2. Tình hình tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ trên địa
bàn thành phố Hà Nội .................................................................................. 42
2.3.1. Tình hình tuyên truyền, phổ biến pháp luật về dân quân tự vệ trên
địa bàn thành phố Hà Nội ............................................................................. 42
2.2.2. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác
phổ biến pháp luật về dân quân tự vệ .......................................................... 51
2.2.3. Tình hình tổ chức thực hiện các nội dung về pháp luật dân quân tự
vệ trên địa bàn Hà Nội. .................................................................................. 55
2.3 Đánh giá tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ trên địa bàn
Hà Nội. ............................................................................................................ 58
2.3.1. Kết quả đạt được ................................................................................... 58
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân ..................................................................... 59
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 65
Chương 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP ĐẢM BẢOB TỔ CHỨC THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN QUÂN TỰ VỆ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI ................................................................................................. 66
3.1. Quan điểm bảo đảm tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ ........... 66
3.1.1. Quán triệt các nguyên tắc xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ ....... 66
3.1.2. Xác định rõ trách nhiệm trong tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự
vệ ..................................................................................................................... 68
3.1.3. Chú trọng kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện Luật Dân quân
tự vệ ................................................................................................................. 72
3.2. Giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật về Dân quân tự vệ ...... 74
3.2.1. Những giải pháp định hướng việc tổ chức thực hiện Luật Dân quân
tự vệ ................................................................................................................. 74
3.2.2 Giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ từ thực
tiễn thành phố Hà Nội ................................................................................... 76
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 94
KẾT LUẬN .................................................................................................... 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 96
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
BLLĐ: Bạo lực lật đổ
BTL: Bộ Tư lệnh
DQTV: Dân quân tự vệ
BCHQS: Ban chỉ huy quân sự
GDQPAN: Giáo dục quốc phòng, an ninh
UBND: Ủy ban nhân dân
HĐND: Hội đồng nhân dân
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Dân quân tự vệ là một lực lượng chiến
lược trong chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân, làm nòng cốt cho toàn
dân đánh giặc bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ địa phương.
Đánh giá về vai trò Dân quân tự vệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói
"Dân quân tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là lực lượng vô
địch, là bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận kẻ thù nào dù hung bạo đến đâu
hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó thì địch nào cũng phải tan rã”.
Trong tình hình hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện
hai nhiệm vụ xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Chúng ta phải đối
phó với chiến lược "diễn biến hoà bình”, BLLĐ và sẵn sàng đánh thắng chiến
tranh xâm lược của kẻ thù. Do đó, lực lượng dân quân tự vệ là một trong
những công cụ để bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đất nước, bảo
vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ tính mạng và tài sản của Nhà nước và nhân dân
tại địa phương, cơ sở.
Hà Nội là thủ đô của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Với vị
trí chiến lược, tầm quan trọng đặc biệt của Thủ đô Hà Nội đối với cả nước,
Theo đó, BTL Thủ đô Hà Nội là đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng, đặt dưới
sự quản lý, chỉ huy của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, chức năng tham mưu cho
Đảng bộ, chính quyền thành phố Hà Nội thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn
dân và công tác quân sự địa phương; giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội thực hiện quản lý nhà nước về lĩnh
vực quân sự, quốc phòng trên địa bàn; tổ chức thực hiện việc xây dựng, quản
lý, chỉ huy các đơn vị thường trực và lực lượng dự bị động viên, dân quân, tự
1
vệ (DQTV) thuộc quyền.
Tuy nhiên, công tác dân quân tự vệ tại thủ đô Hà Nội vẫn còn những
hạn chế, bất cập cả về nhận thức, tổ chức thực hiện. Trách nhiệm xây dựng,
quản lý nhà nước về dân quân tự vệ của địa phương, cơ quan, tổ chức còn hạn
chế. Công tác đăng ký, quản lý dân quân tự vệ chưa chặt chẽ, gặp nhiều khó
khăn. Việc tổ chức xây dựng lực lượng dân quân tự vệ còn nhiều bất cập.
Chất lượng huấn luyện dân quân tự vệ có địa phương chưa bảo đảm. Khả
năng huy động, phối hợp của lực lượng dân quân tự vệ với các lực lượng khác
trong tuần tra, canh gác, bảo vệ mục tiêu, xử trí các tình huống phức tạp ở địa
phương còn chậm, hiệu quả chưa cao, v.v.
Sở dĩ có tình hình trên, trước hết là do tính pháp lý của các quy định
hiện hành về tổ chức lực lượng tự vệ chưa cao; giữa các luật chưa đồng bộ,
thống nhất, dẫn đến việc tổ chức còn lúng túng cả về phương pháp và biện
pháp tiến hành.
Từ việc nghiên cứu, tổ chức thực hiện xây dựng lực lượng dân quân tự
vệ những năm qua, đặt ra vấn đề cần thiết phải nghiên cứu đề tài “Tổ chức
thực hiện luật dân quân tự vệ - Từ thực tiễn thành phố Hà Nội”
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Trong những năm gần đây, việc thực hiện luật dân quân tự vệ đã được
các cấp quản lý từ Trung ương đến địa phương quan tâm, hiện đã có những
bài báo, đề án viết về thực hiện luật dân quân tự vệ như sau:
- Bài báo: “Thực hiện Luật Dân quân tự vệ ở Vĩnh Phúc”, tác giả Đại tá
Nguyễn Xuân Thuyết, Chỉ huy trưởng BCHQS Tỉnh, đăng trên tạp chí quốc
phòng toàn dân, bài báo đã viết Luật Dân quân tự vệ được Quốc hội khoá XII
thông qua tại Kỳ họp thứ 6, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2010. Đây là sự
phát triển về tư duy quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta; tiếp tục khẳng
định vị trí, vai trò chiến lược của lực lượng này đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ
2
quốc thời kỳ mới. Để sớm đưa Luật vào cuộc sống, tỉnh Vĩnh Phúc đã tích
cực, chủ động triển khai thực hiện, được Bộ Quốc phòng và Quân khu 2 đánh
giá là đơn vị đi đầu trong tổ chức thực hiện Luật kịp thời, đạt chất lượng, hiệu
quả cao.
- Đề án “xây dựng lực lượng dân quân tự vệ tỉnh Lạng Sơn giai đoạn
2016-2020”. Đề án là sự cụ thể hoá pháp luật về dân quân tự vệ, là cơ sở pháp
lý để thanh tra, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện công tác dân
quân tự vệ trên địa bàn tỉnh.
Đề án được thực hiện sẽ bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong lãnh đạo,
chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác dân quân tự vệ ở tất cả các cấp, các ngành
trong tỉnh, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp của lực lượng dân quân tự
vệ. Thể hiện sự quan tâm, chăm lo của cấp uỷ, chính quyền, các cấp, các
ngành và nhân dân đối với lực lượng dân quân tự vệ. Là cơ sở thực tiễn để
nghiên cứu, đề nghị với Đảng, Nhà nước điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung những
vấn đề vướng mắc, bất cập nảy sinh trong quá trình thực hiện pháp luật về dân
quân tự vệ.
- Bài báo “Phát triển Dân quân tự vệ Việt Nam – Kết quả và bài học
kinh nghiệm” trên báo quân đội nhân dân của Trung tướng Nguyễn Duy
Nguyên - Cục trưởng Cục Dân quân tự vệ (Bộ Tổng tham mưu), bài báo đã
tổng kết DQTV có vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng DQTV vững mạnh, rộng khắp để luôn có sự phát
triển là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các
ngành, các tổ chức đoàn thể xã hội. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, trực
tiếp là của các cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở, để nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động của DQTV, phải nắm vững sự nghiệp đổi mới của đất nước để
điều chỉnh, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật về DQTV, nghị định của
Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành luật, các chỉ thị, mệnh lệnh, các
3
quy định cụ thể của cấp trên, đồng thời phải căn cứ vào thực tiễn của mỗi địa
phương, cơ sở, cơ quan, tổ chức, đơn vị để tổ chức, xây dựng DQTV vững
mạnh, thực sự là lực lượng nòng cốt trong đấu tranh chống “diễn biến hòa
bình”, “bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù địch ở cơ sở; sẵn sàng chiến đấu
và chiến đấu thắng lợi, bảo vệ vững chắc địa phương cơ sở, cơ quan, tổ chức,
góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- “Thống nhất, đồng bộ trong triển khai các văn bản pháp luật về dân
quân, tự vệ”, tác giả Nguyễn Duy Nguyên – Cục trưởng Cục Dân quân tự vệ
trên báo Quân đội nhân dân, ngày 31/8/2016, bài báo đã viết những năm qua,
Đảng và Nhà nước ta thường xuyên quan tâm và có chủ trương, giải pháp xây
dựng dân quân tự vệ (DQTV), giáo dục quốc phòng và an ninh (GDQPAN);
từng bước bổ sung, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, nhằm nâng
cao hiệu lực quản lý nhà nước về DQTV, góp phần xây dựng nền quốc phòng
toàn dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Tuy nhiên, luật dân quân tự vệ năm 2009 đã được ban hành thực hiện
từ 2010 nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể việc tổ
chức thực hiện luật dân quân tự vệ tại một địa phương nhất định.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát, phân tích,
đánh giá kỹ lưỡng thực trạng tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ từ thực
tiễn thành phố Hà Nội, qua các quan điểm của Đảng và Nhà nước đề ra các
giải pháp nhằm đảm bảo việc tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ đáp ứng
yêu cầu bảo vệ và xây dựng tổ quốc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được những mục đích trên, đề tài đi
vào giải quyết các nhiệm vụ sau:
Một là: Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về dân quân tự vệ và quản
4
lý nhà nước về dân quân tự vệ.
Hai là: Đánh giá việc tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ
trên địa bàn thành phố Hà Nội thời gian qua.
Ba là: Đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức thực
hiện luật dân quân tự vệ trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức thực hiện luật
dân quân tự vệ. Đồng thời, đánh giá kết quả tổ chức thực hiện luật dân quân
tự vệ trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Đối tượng khảo sát chủ yếu là lực lượng dân quân tự vệ trên địa bàn
thành phố Hà Nội
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng và giải pháp đảm bảo tổ chức
thực hiện Luật Dân quân tự vệ.
Về thời gian
Đề tài tiến hành điều tra, nghiên cứu việc tổ chức thực hiện Luật Dân
quân tự vệ ở thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 - 2016. Đề xuất phương hướng
và giải pháp giai đoạn 2017 - 2020 và định hướng đến năm 2030.
Về không gian
Nghiên cứu trên phạm vi thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Phương pháp luận
-
5
và hội nhập.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng các phương pháp sau
- Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp: Phương pháp sử dụng tài liệu,
các bản báo cáo của các tác giả đã nghiên cứu, đã đánh giá. Phương pháp
phân tích tài liệu được sử dụng từ việc chọn đối tượng, thu thập những thông
tin cần thiết đến việc phân tích thông tin và dữ liệu thu thập được. Đề tài có
sử dụng một số tài liệu như sách, báo, tài liệu tuyên truyền, tạp chí mạng, các
trang web có liên quan đến lĩnh vực dân quân tự vệ.
- Ngoài ra đề tài còn sử dụng phương pháp nghiên cứu, thu thập số liệu,
xử lý số liệu, phương pháp quy nạp... làm căn cứ phân tích thực trạng quản lý
nhà nước về dân quân tự vệ ở Hà Nội từ khi có đường lối xây dựng lực lượng
dân quân tự vệ và các vấn đề mang tính thời sự đang được toàn xã hội quan
tâm. Trên cơ sở đó nhằm chỉ rõ những vấn đề tồn tại đặt ra đối với quản lý
nhà nước về dân quân tự vệ trong bảo vệ và xây dựng đất nước thời kỳ hội
nhập quốc tế.
6. Những đóng góp về khoa học của đề tài
6.1. Về lý luận
Nghiên cứu góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về Luật Dân quân tự
vệ và việc thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ trong bảo vệ và xây dựng đất
nước thời kỳ hội nhập quốc tế.
6.2. Về thực tiễn
- Nghiên cứu chỉ ra những vấn đề cần được quan tâm giải quyết đối với
vấn đề tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ.
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên và những nhà
quản lý trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và xây dựng lược lượng dân quân
6
tự vệ.
- Với những kết quả nghiên cứu đã đạt được trên đây, luận văn có thể
làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu thực tiễn về tổ chức thực hiện
Luật Dân quân tự vệ ở nước ta.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo; luận văn
gồm 03 chương, 8 tiết
Chương 1: Cơ sở pháp lý của tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ.
Chương 2: Thực trạng tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ trên địa
bàn thành phố Hà Nội.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện Luật Dân
7
quân tự vệ trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 1
CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC
THỰC HIỆN LUẬT DÂN QUÂN TỰ VỆ
1.1. Khái quát chung pháp luật về dân quân tự vệ
1.1.1. Khái niệm, vai trò và nhiệm vụ của dân quân tự vệ
- Khái niệm
Theo Luật Dân quân tự vệ năm 2010: Dân quân tự vệ là lực lượng vũ
trang quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác; là thành phần của lực
lượng vũ trang nhân dân; là lực lượng bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền,
bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước, làm nòng cốt
cùng toàn dân đánh giặc ở địa phương, cơ sở khi có chiến tranh. Lực lượng
này được tổ chức ở xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) gọi là dân
quân; được tổ chức ở cơ quan của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế (gọi chung là cơ quan,
tổ chức) gọi là tự vệ.
Nội dung xây dựng dân quân tự vệ
- Phương châm xây dựng: Xây dựng dân quân tự vệ theo hướng “vững
mạnh, rộng khắp, coi trọng chất lượng là chính”.
+ Vững mạnh : Được thể hiện là chất lượng phải toàn diện cả về chính trị
tư tưởng, tổ chức, trình độ chính trị, quân sự và chuyên môn nghiệp vụ, biên chế
trang bị hợp lí, thống nhất, có kỷ luật nghiêm, cơ động nhanh sẵn sàng chiến đấu
tốt. Mỗi tổ chức dân quân tự vệ phải luôn vững vàng.
+ Rộng khắp: Lực lượng dân quân tự vệ được xây dựng ở hầu hết các
làng, bản, xóm, ấp xã, phường, các tổ chức kinh tế, chính trị xã hội, ở đâu có
tổ chức Đảng, chính quyền và có dân, đều phải tổ chức dân quân tự vệ, kể cả
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trường hợp các doanh nghiệp ngoài
8
quốc doanh không đủ điều kiện (không có tổ chức Đảng) tổ chức dân quân tự
vệ nếu có yêu cầu thì giám đốc doanh nghiệp đề nghị và được Bộ chỉ huy
quân sự tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương) đồng ý thì công dân được
tham gia dân quân tự vệ ở địa phương (nơi cư trú). Giám đốc doanh nghiệp
phải bảo đảm thời gian và tạo điều kiện cho công nhân tham gia dân quân tự
vệ hoạt động.
+ Coi trọng chất lượng là chính: Chỉ tuyển chọn đưa vào đội ngũ
những công dân có lí lịch rõ ràng, có hộ khẩu thường trú tại địa phương, có
phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, chấp hành đúng các chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, các quy định ở địa phương, có sức
khoẻ phù hợp.
- Tổ chức, biên chế, trang bị của lực lượng dân quân tự vệ:
Tổ chức, biên chế, vũ khí, trang bị của lực lượng dân quân tự vệ phải
phù hợp với tính chất, yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng - an ninh thời bình, thời
chiến, đặc điểm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và điều kiện cụ thể của từng
bộ, ngành, địa phương và cơ sở.
+ Về tổ chức:
Dân quân tự vệ được tổ chức thành 2 lực lượng: lực lượng nòng cốt (lực
lượng chiến đấu) và lực lượng rộng rãi (lực lượng phục vụ chiến đấu).
Lực lượng DQTV nòng cốt : Bao gồm dân quân tự vệ bộ binh, binh
chủng và dân quân tự vệ biển (đối với vùng biển), được tổ chức thành lực
lượng cơ động và lực lượng tại chỗ. Đối với xã (phường) thuộc địa bàn trọng
điểm về quốc phòng an ninh, biên giới ven biển, hải đảo có yêu cầu chiến đấu
cao thì được xem xét tổ chức lực lượng dân quân thường trực.
Nhiệm vụ của lực lượng cơ động là chiến đấu, tiêu hao, tiêu diệt, chi
viện cho lực lượng chiến đấu tại chỗ, khi cần thiết có thể cơ động chiến đấu
9
trên địa bàn địa phương khác. Nhiệm vụ của lực lượng chiến đấu tại chỗ là
chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu trên địa bàn địa phương theo kế hoạch, phương
án, khi cần có thể tăng cường cho lực lượng chiến đấu cơ động.
Lực lượng dân quân tự vệ rộng rãi: Gồm cán bộ, chiến sĩ dân quân tự
vệ nòng cốt đã hoàn thành nghĩa vụ dân quân tự vệ và công dân trong độ tuổi
quy định (nam từ đủ 18 đến hết 45 nữ từ đủ 18 đến hết 40 tuổi).
Nhiệm vụ phục vụ chiến đấu, vận chuyển tiếp tế, khắc phục hậu quả
chiến đấu, bảo vệ và sơ tán nhân dân.
Về quy mô: Tổ chức từ cấp tổ, tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn (cấp
đại đội ở xã, phường lớn; cấp cấp tiểu đoàn ở các doanh nghiệp nhà nước do
quân khu trở lên quy định).
+ Biên chế : Biên chế dân quân tự vệ được thống nhất trong toàn quốc.
Số lượng cán bộ cán bộ chiến sĩ từng đơn vị do Bộ Quốc phòng quy định
+ Về cơ cấu và chức năng của cán bộ quân sự cơ sở, phân đội:
Cơ cấu biên chế ban chỉ huy quân sự được tổ chức ở xã, phường, thị trấn,
các doanh nghiệp của địa phương và các ngành của nhà nước gồm 3 người:
chỉ huy trưởng, chính trị viên và phó chỉ huy trưởng. Ban chỉ huy quân sự cơ
sở chịu trách nhiệm làm tham mưu giúp cấp uỷ, chính quyền cấp mình tổ
chức triển khai công tác hoạt động dân quân tự vệ. Cấp xã, phường, thị trấn
chỉ huy trưởng là thành viên uỷ ban nhân dân, là đảng viên, thường nằm trong
cơ cấu cấp uỷ địa phương. Các cơ sở khác, chỉ huy trưởng có thể kiêm nhiệm
hoặc không kiêm nhiệm. Bí thư đảng uỷ, Bí thư chi bộ các cơ sở kiêm chính
trị viên chịu trách nhiệm về công tác đảng, công tác chính trị trong dân quân
tự vệ. Phó chỉ huy trưởng ở xã phường là cán bộ chuyên trách, các phó chỉ
huy cơ sở còn lại là chuyên trách hoặc kiêm nhiệm. Xã đội trưởng, chính trị
viên xã đội, xã đội phó và tương đương do chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp
huyện bổ nhiệm theo đề nghị của uỷ ban nhân dân cấp xã sau khi đã thống
10
nhất với huyện đội trưởng. Thôn đội trưởng, trung đội trưởng, tiểu đội trưởng
và khẩu đội trưởng dân quân tự vệ do Huyện đội trưởng bổ nhiệm theo đề
nghị của của xã đội trưởng. Cơ cấu cán bộ tiểu đoàn, đại đội, gồm chỉ huy
trưởng, chính trị viên, phó chỉ huy trưởng. Cấp trung đội, tiểu đội và tương
đương có một cấp trưởng, một cấp phó.
+ Về vũ khí, trang bị của dân quân tự vệ:
Vũ khí, trang bị cho dân quân tự vệ từ các nguồn do Bộ Quốc phòng cấp,
các địa phương tự chế tạo hoặc thu được của địch. Song, dù từ nguồn nào, vũ
khí trang bị đó cũng đều là tài sản của nhà nước giao cho dân quân tự vệ quản
lí. Do vậy, phải được đăng kí, quản lí, bảo quản chặt chẽ ; sử dụng đúng mục
đích và đúng quy định của pháp luật.
- Giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự đối với dân quân tự vệ
+ Giáo dục chính trị: Giáo dục chính trị cho lực lượng dân quân tự vệ là
một nội dung quan trọng hàng đầu, nhằm làm cho dân quân tự vệ nâng cao
nhận thức về chính trị, lập trường tư tưởng vững vàng, đạo đức cách mạng
trong sáng. Trên cơ sở đó phát huy tinh thần trách nhiệm, sẵn sàng hoàn thành
nhiệm vụ, bảo vệ quê hương, làng xóm, địa phương, đơn vị mình.
Nội dung giáo dục cần tập trung không ngừng tăng cường bản chất cách
mạng và ý thức giác ngộ giai cấp cho cán bộ, chiến sĩ dân quân tự vệ, trên cơ
sở đó, thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng, nhận rõ bản chất, âm
mưu thủ đoạn của kẻ thù. Giáo dục truyền thống dân tộc, tinh thần yêu nước,
yêu chế độ xã hội chủ nghĩa ; mục tiêu lí tưởng của Đảng; con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội mà đảng và nhân dân ta lựa chọn; quán triệt hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ củng cố quốc phòng - an
ninh, chống “Diễn biến hoà bình” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch :
công tác quốc phòng địa phương, xây dựng lực lượng nhân dân. Một số nội
dung cơ bản về Hiến pháp, pháp luật, Pháp lệnh về dân quân tự vệ, nội dung
11
phương pháp tiến hành vận động quần chúng,...
+ Huấn luyện quân sự: Hằng năm, lực lượng dân quân tự vệ được huấn
luyện theo nội dung, chương trình do Bộ Quốc phòng quy định, nội dung
huấn luyện phải phù hợp và sát với cơ sở do chỉ huy quân sự địa phương các
cấp xác định cụ thể. Huấn luyện toàn diện cả chiến thuật, kĩ thuật, cả bộ binh
và các binh chủng, chuyên môn kĩ thuật,... Thời gian huấn luyện theo quy
định của pháp lệnh.
1.1.2. Nội dung pháp luật dân quân tự vệ
Luật DQTV được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(Khóa XII) thông qua tại kỳ họp thứ 6 ngày 23/11/2009 và được Chủ tịch
nước ký Lệnh số 20/2009/L-CTN ngày 04/12/2009 công bố Luật DQTV. Luật
DQTV gồm 9 chương, 66 điều. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2010.
Luật Dân quân tự vệ quy định nhiều nội dung quan trọng như: Nghĩa vụ
tham gia dân quân tự vệ; tổ chức, nhiệm vụ, hoạt động của dân quân tự vệ;
chế độ, chính sách đối với dân quân tự vệ và trách nhiệm quản lý nhà nước về
dân quân tự vệ.
Trong quản lý Nhà nước về DQTV, Luật xác định rõ trách nhiệm của
UBND các cấp và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, cụ thể là:
UBND các cấp có trách nhiệm trình HĐND cùng cấp phê chuẩn, quyết
định quy hoạch, kế hoạch, đề án tổ chức, hoạt động, chế độ, chính sách đối
với dân quân tự vệ và dự toán thu, chi ngân sách bảo đảm cho dân quân tự vệ;
chỉ đạo và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về dân quân tự vệ ở địa
phương; ban hành văn bản chỉ đạo xây dựng lực lượng dân quân tự vệ theo
thẩm quyền; chỉ đạo việc tổ chức, đào tạo, huấn luyện, hoạt động của dân
quân tự vệ; thi hành các biện pháp huy động, sử dụng dân quân tự vệ thực
hiện nhiệm vụ; chỉ đạo việc quản lý và kiểm tra vận chuyển, sử dụng vũ khí,
vật liệu nổ của dân quân tự vệ; bảo đảm hậu cần, tài chính, thực hiện chế độ,
12
chính sách cho dân quân tự vệ theo quy định của pháp luật; tổ chức thực hiện
quyết định mở rộng lực lượng dân quân tự vệ của cấp có thẩm quyền; phối
hợp với thanh tra quốc phòng thanh tra việc thực hiện pháp luật về dân quân
tự vệ; kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về dân
quân tự vệ; tổ chức sơ kết, tổng kết và thực hiện việc thi đua, khen thưởng về
công tác dân quân tự vệ.
Đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, có trách nhiệm:Tổ chức thực
hiện sự chỉ đạo của cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về dân
quân tự vệ; chỉ đạo xây dựng và thực hiện kế hoạch tổ chức, huấn luyện, hoạt
động của đơn vị tự vệ nòng cốt thuộc quyền theo sự chỉ đạo, hướng dẫn của
cơ quan quân sự địa phương; bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện
cho việc thực hiện nhiệm vụ tổ chức, huấn luyện, hoạt động của tự vệ nòng
cốt thuộc cơ quan, tổ chức; tổ chức thực hiện quyết định mở rộng lực lượng
dân quân tự vệ của cấp có thẩm quyền; phối hợp với thanh tra quốc phòng
thanh tra việc thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ; kiểm tra, sơ kết, tổng kết
và thực hiện việc thi đua, khen thưởng về công tác dân quân tự vệ thuộc cơ
quan, tổ chức; phối hợp với cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong việc
tổ chức, huấn luyện, hoạt động và bảo đảm chế độ, chính sách cho dân quân
tự vệ.
Xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, trong đó có lực lượng DQTV
là một nội dung quan trọng trong đường lối quân sự của Đảng. Quán triệt và
triển khai thực hiện nghiêm túc Luật DQTV và các văn bản hướng dẫn thi
hành (đến thời điểm hiện nay, Chính phủ đã ban hành 2 Nghị định, Bộ quốc
phòng và các Bộ liên quan đã ban hành hơn 20 Thông tư, Quyết định hướng
dẫn thực hiện) sẽ góp phần tăng cường hiệu lực quản lý của chính quyền, bảo
đảm an ninh chính trị, an toàn xã hội ở địa phương, cơ sở.
Thành phần của DQTV: gồm DQTV nòng cốt và DQTV rộng rãi.
13
- DQTV nòng cốt: là lực lượng gồm những công dân trong độ tuổi thực
hiện nghĩa vụ tham gia DQTV, được tuyển chọn vào phục vụ có thời hạn
trong các đơn vị DQTV. Bao gồm:
+ DQTV cơ động: là lực lượng được tổ chức thành các đơn vị sẵn sàng
cơ động làm nhiệm vụ trên các địa bàn khi có lệnh của cấp có thầm quyền;
+ DQTV tại chỗ: là lực lượng được tổ chức và hoạt động ở thôn, ấp,
bản, buôn, phum, sóc, khóm, tổ dân phố (sau đây gọi chung là thôn) và ở cơ
quan, tổ chức làm nhiệm vụ tại chỗ, sẵn sàng tăng cường cho DQTV cơ động;
+ DQTV biển: là lực lượng được tổ chức ở cấp xã ven biển, xã đảo và
cơ quan, tổ chức có phương tiện hoạt động trên biển để làm nhiệm vụ trên các
vùng biển Việt Nam;
+ DQTV phòng không, pháo binh, công binh, trinh sát, thông tin,
phòng hóa, y tế: là lực lượng thuộc DQTV nòng cốt đảm nhệm công tác
chuyên môn, chuyên ngành theo quy định.
- DQTV rộng rãi: là lực lượng gồm những công dân trong độ tuổi thực
hiện nghĩa vụ tham gia DQTV đã được đăng ký, quản lý để sẵn sàng mở rộng
lực lượng và huy động khi có lệnh của cấp có thẩm quyền.
Ngày 28/3 hàng năm là ngày truyền thống của lực lượng DQTV.
a/ Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của dân quân tự vệ.
Tổ chức và hoạt động của DQTV theo 3 nguyên tắc cơ bản sau:
- DQTV đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống
lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý điều hành của Chính phủ mà trực tiếp là sự
lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương các cấp; sự chỉ
huy thống nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và sự chỉ huy trực tiếp của chỉ
huy trưởng cơ quan quân sự địa phương.
- Tổ chức và hoạt động của DQTV phải tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật; dựa vào dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân và hệ thống
14
chính trị để thực hiện nhiệm vụ.
- Tổ chức, biên chế của DQTV phải căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh, gắn với địa bàn và nhiệm vụ của đơn vị sản xuất, công tác,
bảo đảm thuận tiện cho chỉ đạo, quản lý, chỉ huy và phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội của từng địa phương.
b/ Nhiệm vụ của dân quân tự vệ
Dân quân tự vệ có các nhiệm vụ:
- Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và phục vụ chiến đấu để bảo vệ địa
phương, cơ sở; phối hợp với các đơn vị Bộ đội Biên phòng, Hải quân, Cảnh
sát biển và lực lượng khác bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia và
chủ quyền, quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam.
- Phối hợp với các đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và lực
lượng khác trên địa bàn tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, khu vực
phòng thủ; giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, chính
quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, của Nhà nước.
- Thực hiện nhiệm vụ phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch
bệnh, tìm kiếm, cứu nạn, bảo vệ và phòng, chống cháy rừng, bảo vệ môi
trường và nhiệm vụ phòng thủ dân sự khác.
- Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh; tham
gia xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, xây dựng và phát triển kinh tế - xã
hội tại địa phương, cơ sở.
- Học tập chính trị, pháp luật, huấn luyện quân sự và diễn tập.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
c/ Độ tuổi, thời hạn thực hiện nghĩa vụ tham gia DQTV trong thời
bình. Tiêu chuẩn và tuyển chọn vào DQTV nòng cốt
Độ tuổi thực hiện nghĩa vụ tham gia DQTV trong thời bình là: công
15
dân nam từ đủ 18 tuổi đến hết 45 tuổi, công dân nữ từ đủ 18 tuổi đến hết 40
tuổi có nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ; nếu tình nguyện tham gia dân quân
tự vệ thì có thể đến 50 tuổi đối với nam và đến 45 tuổi đối với nữ.
Thời hạn thực hiện nghĩa vụ tham gia DQTV trong thời bình là:
- Thời hạn thực hiện nghĩa vụ tham gia DQTV nòng cốt là 4 năm.
- Căn cứ tình hình thực tế, tính chất nhiệm vụ và yêu cầu công tác, thời
hạn thực hiện nghĩa vụ tham gia DQTV nòng cốt có thể được kéo dài đối với
dân quân không quá 2 năm, đối với tự vệ và chỉ huy đơn vị DQTV có thể kéo
dài hơn nhưng không quá độ tuổi quy định của Luật DQTV.
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, người đứng đầu cơ quan, tổ chức
quyết định kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ tham gia DQTV nòng cốt theo
quy định của Luật DQTV.
- Công dân hoàn thành nghĩa vụ tham gia DQTV nòng cốt được Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp Giấy
chứng nhận hoàn thành nghĩa vụ tham gia DQTV nòng cốt.
- Công dân đã hoàn thành nghĩa vụ tham gia DQTV nòng cốt, nhưng
còn trong độ tuổi quy định của Luật DQTV thì chuyển sang DQTV rộng rãi
hoặc được đăng ký vào quân nhân dự bị theo quy định của pháp luật.
Tiêu chuẩn vào DQTV nòng cốt là:
- Lý lịch rõ ràng;
- Chấp hành tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước.
- Đủ sức khỏe thực hiện nghĩa vụ tham gia DQTV.
Tuyển chọn vào DQTV nòng cốt phải:
- Bảo đảm công khai, dân chủ, công bằng;
- Hàng năm BCH quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh chỉ
đạo và hướng dẫn BCH quân sự cấp xã, BCH quân sự cơ quan, tổ chức ở cơ
16
sở hoặc đơn vị tự vệ nơi không có BCH quân sự lập kế hoạch và thực hiện
tuyển chọn công dân đủ tiêu chuẩn vào DQTV nòng cốt phù hợp với tình hình
địa bàn, dân cư, điều kiện kinh tế - xã hội và yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng,
an ninh ở địa phương, cơ sở.
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ
chức quyết định danh sách DQTV nòng cốt.
d/ Những chế độ, chính sách chung đối với dân quân tự vệ
DQTV được hưởng chế độ, chính sách trong trường hợp:
- Khi được huy động làm nhiệm vụ;
- Thực hiện quyết định điều động của cấp có thẩm quyền.
Chế độ, chính sách đối với DQTV được quy định như sau:
- Đối với dân quân (trừ dân quân biển và dân quân thường trực)
được hưởng:
+ Trợ cấp ngày công lao động theo mức do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định, nhưng không thấp hơn hệ số
0,08 mức lương tối thiểu chung; nếu làm nhiệm vụ từ 22 giờ đến 06 giờ hoặc ở
nơi có yếu tố nguy hiểm, độc hại thì được hưởng chế độ theo quy định của Bộ
luật Lao động.
+ Khi làm nhiệm vụ cách xa nơi cư trú, không có điều kiện đi, về hàng
ngày thì được bố trí nơi nghỉ, hỗ trợ phương tiện, chi phí đi lại hoặc thanh
toán tiền tàu, xe một lần đi, về; được hỗ trợ tiền ăn theo mức do Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định.
- Tự vệ (trừ tự vệ biển) được trả nguyên lương, các khoản phúc lợi, phụ
cấp đi đường và tiền tàu, xe theo chế độ hiện hành.
- Cấp quyết định điều động DQTV làm nhiệm vụ thì bảo đảm chế độ,
chính sách quy định của Luật DQTV.
- Dân quân nòng cốt đã hoàn thành nghĩa vụ tham gia DQTV, nếu tiếp
17
tục được kéo dài thời hạn tham gia thực hiện nghĩa vụ thì ngoài chế độ theo
quy định chung, khi được huy động làm nhiệm vụ được hưởng trợ cấp ngày
công lao động tăng thêm. Mức trợ cấp tăng thêm, do Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định nhưng không thấp hơn hệ
số 0,04 mức lương tối thiểu chung.
e/ Chế độ, chính sách đối với DQTV biển, DQTV thường trực được quy
định như sau
Chế độ, chính sách đối với DQTV biển được quy định:
DQTV biển khi huấn luyện, làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự, tìm
kiếm cứu nạn trên biển được hưởng các chế độ, chính sách sau đây:
- Dân quân được trợ cấp ngày công lao động, mức trợ cấp không thấp
hơn hệ số 0,12 mức lương tối thiểu chung; được hỗ trợ tiền ăn như chiến sỹ
hải quân trên tàu cấp một neo đậu tai căn cứ;
- Tự vệ được trả nguyên lương, các khoản phúc lợi, phụ cấp tiền tàu, xe
theo chế độ hiện hành.
DQTV biển trong thời gian làm nhiệm vụ tham gia bảo vệ chủ quyền trên
các vùng biển, đảo được hưởng các chế độ, chính sách do Chính phủ quy định.
Chế độ, chính sách đối với DQTV thường trực được quy định:
- DQTV thường trực được trợ cấp ngày công lao động không thấp hơn
hệ số 0,08 mức lương tối thiểu chung, được bố trí nơi ăn nghỉ.
- Dân quân nòng cốt đã hoàn thành nghĩa vụ tham gia DQTV, trong đó
ít nhất 12 tháng làm nhiệm vụ dân quân thường trực thì được miễn thực hiện
nghĩa vụ quân sự tại ngũ và được hỗ trợ như sau:
+ 01 tháng lương tối thiểu chung đối với trường hợp có từ đủ 12 tháng
đến dưới 18 tháng;
+ 02 tháng lương tối thiểu chung đối với trường hợp có từ đủ 18 tháng
đến dưới 24 tháng;
18
+ 03 tháng lương tối thiểu chung đối với trường hợp có từ đủ 24
tháng trở lên.
g/ Chế độ, chính sách đối với DQTV bị ốm, bị tai nạn, bị chết, bị thương,
hy sinh
Chế độ, chính sách đối với DQTV bị ốm, bị tai nạn, bị chết, bị thương,
hy sinh được quy định:
- Cán bộ, chiến sỹ DQTV bị ốm, bị tai nạn, bị thương trong khi thực
hiện nhiệm vụ theo quy định của Luật Dân quân tự vệ, nếu chưa tham gia bảo
hiểm y tế thì được thanh toán tiền khám bệnh, chữa bệnh. Trường hợp làm
nhiệm vụ quy định tại khoản 4, 5, 6 - Điều 8 - Luật Dân quân tự vệ, nếu bị tai
nạn làm giảm khả năng lao động theo kết luận của Hội đồng giám định y khoa
thì được xét trợ cấp tùy theo mức độ suy giảm khả năng lao động; nếu bị chết
thì được hưởng chế độ tiền tuất, tiền mai táng phí.
- Cán bộ, chiến sỹ DQTV làm nhiệm vụ quy định tại khoản 1, 2, 3 - Điều
8 - Luật Dân quân tự vệ và thực hiện quyết định điều động của cấp có thẩm
quyền theo quy định của Luật DQTV, nếu bị thương thì được xét hưởng chính
sách như thương binh; nếu hy sinh được xét công nhận là liệt sỹ theo quy định
của pháp luật.
- Chính phủ quy định điều kiện, thủ tục, hồ sơ, kinh phí và cơ quan chịu
trách nhiệm bảo đảm chế độ, chính sách cho cán bộ, chiến sỹ DQTV.
h/ Khen thưởng đối với DQTV được quy định như sau
Luật DQTV quy định:
- Cán bộ, chiến sỹ DQTV có thành tích trong thực hiện nhiệm vụ; cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong tổ chức và hoạt động của DQTV thì
được khen thưởng theo quy định của pháp luật vewè thi đua, khen thưởng.
- Cơ quan quân sự cáccâp, Ban CHQS cấp xã, Ban CHQS cơ quan, tổ
chức ở cơ sở, Ban CHQS bộ, ngành trung ương chủ trì, phối hợp với cơ quan
19
thi, khen thưởng cùng cấp tổ chức thực hiện công tác thi đua, khen thưởng trong
DQTV dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương
hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức và sự chỉ đạo, quản lý của cơ quan quân
sự cấp trên.
- Tổ chức phong trào thi đua quyết thắng trong DQTV gắn với phong
trào thi đua của địa phương, cơ quan, tổ chức.
- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chủ trì phối hợp với Bộ trưởng Bộ Nội
vụ hướng dẫn công tác thi đua, khen thưởng trong DQTV theo quy định
của pháp luật.
k/ Xử lý DQTV vi phạm được quy định như sau
Các quy định về xử lý DQTV vi phạm như sau:
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi chống đối, cản trở việc tổ chức,
hoạt động của DQTV, vi phạm các quy định khác của pháp luật về DQTV thì
tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc
bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Cán bộ, chiến sĩ DQTV khi làm nhiệm vụ vi phạm kỷ luật, vi phạm
pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ lật, xử phạt
hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường theo quy định của pháp luật.
- DQTV nòng cốt tạm thời không được thực hiện nghĩa vụ tham gia
DQTV khi bị khởi tố, tạm giữ, tạm giam; nếu bị phạt tù thì đương nhiên
bị tước danh hiệu DQTV nòng cốt kể từ ngày bản án của tòa có hiệu lực
pháp luật.
l/ Các hình thức kỷ luật đối với DQTV
Hình thức xử lý kỷ luật đối với DQTV như sau:
- Đối với chiến sĩ DQTV, khi làm nhiệm vụ nếu vi phạm quy định của
Luật DQTV hoặc quy định khác của pháp luật có liên quan thì áp dụng một
20
trong các hình thức kỷ luật sau:
+ Khiển trách;
+ Cảnh cáo;
+ Tước danh hiệu DQTV nòng cốt.
- Đối với cán bộ DQTV, khi làm nhiệm vụ nếu vi phạm quy định của
Luật DQTV hoặc quy định khác của pháp luật có liên quan thì áp dụng một
trong các hình thức kỷ luật sau:
+ Khiển trách;
+ Cảnh cáo;
+ Giáng chức;
+ Cách chức.
- Đối với tổ chức DQTV, nếu vi phạm quy định của Luật DQTV
hoặc quy định khác của pháp luật có liên quan thì áp dụng một trong các
hình thức kỷ luật sau:
+ Khiển trách;
+ Cảnh cáo;
1.2. Khái niệm, hình thức và nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về
dân quân tự vệ
1.2.1 Khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ
Chúng ta đều biết nhà nước đặt ra pháp luật là để điều chỉnh các quan hệ
xã hội theo chiều hướng mà nó mong muốn. Theo đó, việc thực hiện pháp luật
là hoạt động không thể thiếu kể từ khi pháp luật xuất hiện. Thực hiện pháp
luật về dân quân tự vệ trước hết là một trong những hình thức để thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, thể hiện bằng hành vi hợp pháp của
các chủ thể pháp luật. Đây là giai đoạn không thể thiếu và vô cùng quan trọng
của cơ chế điều chỉnh pháp luật. Tuy nhiên, thực hiện pháp luật về dân quân
tự vệ do nhiều chủ thể khác nhau thì sẽ tiến hành với nhiều cách thức khác
21
nhau, vì thế, bằng cách quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể
tham gia vào một quan hệ xã hội nhất định, nhà nước có thể tác động lên các
quan hệ xã hội, điều chỉnh chúng theo chiều hướng nhà nước mong muốn. Do
đó, pháp luật chỉ điều chỉnh hành vi hay xử sự của con người mà không thể
điều chỉnh suy nghĩ hay tư tưởng của họ, bởi vì, không ai có thể “đọc” được
hay dự đoán được chính xác ý nghĩ của người khác khi nó đang tồn tại trong
đầu họ, tức là khi nó chưa được thể hiện ra bên ngoài thành những hành vi
hay xử sự cụ thể để mà điều chỉnh. Vì lý do này mà chỉ có thể căn cứ vào
hành vi xác định hay xử sự thực tế của một chủ thể nào đó rồi đối chiếu với
các quy định cụ thể của pháp luật mà ta có thể xác định được là họ có thực
hiện pháp luật về dân quân tự vệ hay không hay không.
Khái niệm: tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ là một quá
trình hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật về dân quân
tự vệ đi vào thực tiễn cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp
của các chủ thể pháp luật.
1.2.2. Các hình thức tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ
- Tuân theo (tuân thủ) pháp luật về dân quân tự vệ : Là hình thức thực
hiện pháp luật về dân quan tự vệ trong đó các chủ thể kiềm chế, giữ mình để
không thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm. Ví dụ: chủ thể chốn không
tham gia lực lượng dân quân tự vệ ở cơ quan tổ chức khi có yêu cầu. Đây là
hình thức thực hiện các quy phạm pháp luật cấm đoán trong thực tế và là hình
thức thực hiện pháp luật bằng không hành động.
- Thi hành (chấp hành) pháp luật về dân quân tự vệ: Là hình thức thực
hiện pháp luật trong đó các chủ thể thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của mình
bằng hành động tích cực. Ví dụ, Thanh niên trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ
tham gia lực lượng tự vệ cơ quan hàng năm. Đây là hình thức thực hiện các
quy phạm pháp luật bắt buộc trong thực tế và là hình thức thực hiện pháp luật
22
bằng hành động.
- Sử dụng (vận dụng) pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật trong
đó các chủ thể thực hiện quyền chủ thể của mình, tức là thực hiện những hành
vi mà pháp luật cho phép. Đây là hình thức thực hiện các quy phạm cho phép,
vì vậy, chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền của mình,
- Áp dụng pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó nhà nước
(thông qua các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền) tổ chức cho các
chủ thể khác thực hiện các quy định của pháp luật. Như vậy, áp dụng pháp
luật là hình thức thực hiện pháp luật có sự can thiệp của nhà nước hay là hình
thức thực hiện pháp luật của các cơ quan, tổ chức và nhân viên nhà nước.
Trong bốn hình thức thực hiện pháp luật chỉ có hình thức này là luôn luôn có
sự hiện diện của nhà nước thông qua các chủ thể có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật.
1.2.3. Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ
Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ được quy định ở
Nghị định số 03/2016/NĐ-CP ngày 05 tháng 01 năm 2016 của Chính phủ quy
định chi tiết và biện pháp thi hành một số điều của Luật Dân quân tự vệ
Nghị định gồm 27 điều, quy định chi tiết, biện pháp thi hành một số
điều của Luật Dân quân tự vệ về: Tổ chức tự vệ trong doanh nghiệp; số
lượng Chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự cấp xã; nhiệm vụ, quyền hạn, cơ chế
phối hợp hoạt động của Ban chỉ huy quân sự Bộ, ngành Trung ương; con
dấu của Ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn, Ban chỉ huy quân sự cơ
quan, tổ chức ở cơ sở, Ban chỉ huy quân sự Bộ, ngành Trung ương; nguồn
kinh phí; cấp xã trọng điểm về quốc phòng, an ninh; điều kiện thành lập Ban
chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức ở cơ sở; phân cấp quản lý Ban chỉ huy
quân sự cơ quan, tổ chức ở cơ sở, đơn vị dân quân tự vệ; chế độ, chính sách
đối với dân quân tự vệ; hỗ trợ phương tiện, kinh phí đi lại cho dân quân tự
23
vệ khi thực hiện nhiệm vụ.
Nghị định áp dụng đối với công dân Việt Nam, cơ quan của Nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp của
Việt Nam; cá nhân, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cư trú và hoạt
động tại Việt Nam liên quan đến dân quân tự vệ.
Nghị định quy định cụ thể về quyết định công dân thực hiện nghĩa vụ
tham gia dân quân tự vệ; quyết định công dân hoàn thành nghĩa vụ tham gia
dân quân tự vệ; giấy phép sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ của dân quân tự vệ;
điều kiện tổ chức tự vệ trong doanh nghiệp; trình tự, thủ tục thành lập đơn vị
tự vệ trong doanh nghiệp; thẩm quyền thành lập, giải thể đơn vị tự vệ trong
doanh nghiệp; điều kiện thành lập Ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức ở cơ
sở; xã, phường, thị trấn trọng điểm về quốc phòng, an ninh; số lượng Chỉ huy
phó Ban chỉ huy quân sự cấp xã; nhiệm vụ, quyền hạn của Ban chỉ huy quân
sự Bộ, ngành Trung ương; cơ chế hoạt động của Ban chỉ huy quân sự Bộ,
ngành Trung ương; phân cấp quản lý Ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức ở
cơ sở, đơn vị dân quân tự vệ; con dấu của Ban chỉ huy quân sự; trang phục,
sao mũ, phù hiệu của dân quân tự vệ; tiêu chuẩn, định mức trang thiết bị nơi
làm việc của Ban chỉ huy quân sự cấp xã; phụ cấp trách nhiệm quản lý, chỉ
huy đơn vị; chế độ phụ cấp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiền ăn, công tác
phí, trợ cấp của Chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự cấp xã; phụ cấp của Thôn
đội trưởng; hỗ trợ phương tiện, chi phí đi lại cho dân quân tự vệ; chế độ phụ
cấp thâm niên, phụ cấp đặc thù quốc phòng, quân sự; chế độ, chính sách đối
với dân quân tự vệ làm nhiệm vụ tham gia bảo vệ chủ quyền, quyền chủ
quyền biển, đảo; chế độ, chính sách đối với dân quân chưa tham gia bảo hiểm
y tế, bảo hiểm xã hội khi thực hiện nhiệm vụ bị ốm, bị chết; chế độ, chính
sách đối với dân quân chưa tham gia bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội khi thực
24
hiện nhiệm vụ bị tai nạn, bị chết; chế độ, chính sách đối với dân quân tự vệ bị
chết, hy sinh, bị thương; chế độ báo, tạp chí; nguồn kinh phí chi cho dân quân
tự vệ; hiệu lực và trách nhiệm thi hành.
Theo Nghị định, mức phụ cấp trách nhiệm quản lý, chỉ huy đơn vị dân
quân tự vệ được tính và chi trả theo tháng, bằng mức lương cơ sở nhân với hệ
số quy định cụ thể: Tiểu đội trưởng, Khẩu đội trưởng: 0,10; Trung đội trưởng,
Thôn đội trưởng: 0,12; Đại đội phó, Chính trị viên phó đại đội, Hải đội phó,
Chính trị viên phó hải đội: 0,15; Đại đội trưởng, Chính trị viên đại đội, Hải
đội trưởng, Chính trị viên hải đội, Trung đội trưởng dân quân cơ động: 0,20;
Tiểu đoàn phó, Chính trị viên phó tiểu đoàn, Hải đoàn phó, Chính trị viên phó
hải đoàn: 0,21; Tiểu đoàn trưởng, Chính trị viên tiểu đoàn, Hải đoàn trưởng,
Chính trị viên hải đoàn, Chỉ huy phó, chính trị viên phó Ban chỉ huy quân sự
cấp xã, Chỉ huy phó, Chính trị viên phó Ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức
ở cơ sở: 0,22; Chỉ huy trưởng, Chính trị viên Ban chỉ huy quân sự cấp xã, Chỉ
huy trưởng, Chính trị viên Ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức ở cơ sở, Chỉ
huy phó, Chính trị viên phó Ban chỉ huy quân sự Bộ, ngành Trung ương:
0,24; Chỉ huy trưởng, Chính trị viên Ban chỉ huy quân sự Bộ, ngành Trung
ương: 0,25.
Thời gian được hưởng phụ cấp trách nhiệm tính từ ngày có quyết định bổ
nhiệm và thực hiện cho đến khi có quyết định thôi giữ chức vụ đó; trường hợp
giữ chức vụ từ 15 ngày trở lên trong tháng thì được hưởng phụ cấp cả tháng,
giữ chức vụ dưới 15 ngày trong tháng thì được hưởng 50% phụ cấp trách
nhiệm của tháng đó.
Nghị định cũng quy định chế độ phụ cấp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
tiền ăn, công tác phí, trợ cấp của Chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự cấp xã;
phụ cấp của Thôn đội trưởng; hỗ trợ phương tiện, chi phí đi lại cho dân quân
25
tự vệ; chế độ phụ cấp thâm niên; chế độ phụ cấp đặc thù quốc phòng, quân sự;
chế độ, chính sách đối với dân quân tự vệ làm nhiệm vụ tham gia bảo vệ chủ
quyền, quyền chủ quyền biển, đảo...
Nghị định nêu rõ, dân quân tự vệ trong thời gian làm nhiệm vụ tham gia
bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam theo quyết định điều động của cấp có thẩm quyền được
hưởng các chế độ, chính sách.
Cụ thể, đối với dân quân được trợ cấp ngày công lao động, mức trợ cấp
bằng hệ số 0,25 mức lương cơ sở; được hưởng tiêu chuẩn tiền ăn mỗi người
mỗi ngày bằng 0,1 mức lương cơ sở. Đối với thuyền trưởng, máy trưởng được
trợ cấp thêm một khoản phụ cấp trách nhiệm mỗi người mỗi ngày bằng 0,08
mức lương cơ sở.
Đối với tự vệ được trả nguyên lương, các khoản phụ cấp hiện hưởng,
phúc lợi theo chế độ hiện hành và được hưởng thêm 50% lương ngạch bậc
tính theo ngày thực tế huy động; được hưởng tiêu chuẩn tiền ăn mỗi người
mỗi ngày bằng 0,1 mức lương cơ sở; nếu mức thực tế thấp hơn quy định trên
thì được áp dụng chính sách như đối với dân quân.
Bên cạnh đó, Nghị định cũng quy định cán bộ chiến sĩ dân quân tự vệ
nếu bị chết, hy sinh, bị thương trong khi làm nhiệm vụ được xem xét, xác
nhận là liệt sĩ, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh theo
quy định tại Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện pháp luật về dân
quân tự vệ
Qua thực tiễn tình hình thực hiện pháp luật dân quân tự vệ ở nước ta cho
thấy hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ ở nước ta
hiện nay phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, trong đó, chủ yếu là trình độ kiến
thức, hiểu biết pháp luật của các chủ thể pháp luật; công tác phổ biến, tuyên
26
truyền, giáo dục pháp luật (đối với đại bộ phận nhân dân, vai trò quan trọng
nhất thuộc về các phương tiện truyền thông); vai trò, trách nhiệm của các cơ
quan chức năng trong hoạt động thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ.
Thứ nhất, ý thức pháp luật về dân quân tự vệ.
“Ý thức pháp luật là toàn bộ các học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan
niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ của con người đối với
pháp luật, trình độ hiểu biết pháp luật, thái độ, sự đánh giá về pháp luật của
các gia cấp, các tầng lớp xã hội, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong
hành vi ứng xử của con người, trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức và
hoạt động của các thiết chế xã hội”
Ý thức pháp luật thể hiện ở trình độ nhận thức, hiểu biết về pháp luật,
tình cảm, thái độ của con người đối với pháp luật, thể hiện sự đánh giá về tính
hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người, trong tổ
chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội dưới môi
trường điều chỉnh của pháp luật. Qua đó, có thể thấy rằng ý thức pháp luật là
cơ sở, nền tảng, định hướng và điều tiết hoạt động thực hiện pháp luật của các
chủ thể; đồng thời là tiền đề để hình thành thói quen “sống và làm việc theo
pháp luật” trong xã hội.
Trong tiến trình phát triển hàng ngàn năm của lịch sử loài người, ta thấy
các tầng lớp xã hội sẽ không thể thực hiện pháp luật một cách nghiêm túc,
đúng đắn nếu thiếu kiến thức, hiểu biết pháp luật. Tính chất đúng hay sai,
mức độ sâu sắc hay hời hợt trong suy nghĩ, tình cảm đối với các vấn đề pháp
luật cũng phụ thuộc vào trình độ tri thức, hiểu biết pháp luật của công chúng.
Nếu đa số người dân có một trình độ hiểu biết nhất định về pháp luật thì họ sẽ
tích cưc tham gia các sự kiện pháp lý đang diễn ra dựa trên các chuẩn mực
pháp luật từ đó sẽ thực hiện pháp luật đúng đắn, hợp lý. Khi các tầng lớp nhân
dân có một trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức pháp luật ở một mức độ nhất
27
định thì đội ngũ cán bộ, công chức các cấp, các ngành, nhất là cán bộ, công
chức làm công tác thực thi, bảo vệ pháp luật, buộc cũng phải nâng cao trình
độ hiểu biết pháp luật của chính mình, tức là họ cần có ý thức pháp luật ở một
trình độ cao hơn. Bên cạnh những mặt tích cực của hoạt động thực hiện pháp
luật, vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Đó là vấn đề người dân thiếu
kiến thức, hiểu biết về pháp luật dẫn đến việc thực hiện pháp luật một cách
thụ động. Thực tế chỉ ra rằng, khi người dân thiếu kiến thức, hiểu biết pháp
luật và ý thức chấp hành kém thì dễ dẫn đến các hành vi sai lệch, phạm pháp,
phạm tội. Điều đó có ảnh hưởng tiêu cực tới ý thức pháp luật và việc thực
hiện pháp luật của những người khác, vì họ rất dễ bị phản ứng dây chuyền
theo cơ chế lây lan tâm lý. Do đó, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật
cho các tầng lớp nhân dân, trang bị cho người dân những kiến thức, hiểu biết
nhất định về pháp luật là một việc rất cần thiết và cấp bách.
Trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện
nay, mọi công dân trong xã hội đều phải sống và làm việc theo pháp luật. Đặc
biệt là đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, nếu thiếu ý thức pháp luật ở trình
độ cao thì không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ thực hiện và áp dụng pháp luật
của mình trong quá trình giải quyết các công việc liên quan đến lợi ích của
người dân. Sống và làm việc theo pháp luật là nghĩa vụ, là trách nhiệm của
mỗi công dân. Bên cạnh việc nâng cao trình độ tri thức pháp luật cho đội ngũ
cán bộ, công chức các cấp, các ngành, chúng ta cũng cần quan tâm đúng mức
tới công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho các tầng lớp nhân dân, trang
bị cho người dân những kiến thức, hiểu biết nhất định về pháp luật. Từ đó tạo
thành thói quen “sống và làm việc theo pháp luật” trong hành vi của các chủ
thể pháp luật và hoạt động thực hiện pháp luật sẽ đạt được hiệu quả.
Thứ hai, vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng đối với công tác
phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ cho các tầng lớp
28
nhân dân.
Để nâng cao ý thức pháp luật cho các đối tượng, chủ thể khác nhau,
trước hết cần phải đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp
luật cho họ bằng nhiều hình thức khác nhau. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật là sự tác động chủ động, tích cực của chủ thể giáo dục lên đối tượng
giáo dục nhằm mục đích cung cấp, trang bị kiến thức pháp luật, hình thành
tình cảm, thái độ tích cực đối với pháp luật, tạo lập thói quen tuân thủ, chấp
hành và sử dụng pháp luật cho các đối tượng xã hội.
Điều đó được thể hiện rõ trong Nghị quyết số 61/2007/NQ- CP ngày
07/12/2007 của Chính phủ về việc tiếp tục thực hiện chỉ thị số 32- CT/TW
của Ban bí thư Trung ương Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân “Sử dụng, khai
thác và vận dung linh hoạt các hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục
pháp luật đảm bảo tính phù hợp giữa phổ biến, giáo dục pháp luật với tư vấn
pháp luật, trợ giúp, hòa giải cơ sở, giải quyết tranh chấp”. Hiện nay, Đảng và
Nhà nước ta luôn coi trọng công tác phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp
luật “Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật, huy
động các lực lượng đoàn thể, chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các phương tiện
thông tin đại chúng tham gia các đợt vận động thiết lập trật tự, kỷ cương và
các hoạt động thường xuyên, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật
trong các cơ quan nhà nước và xã hội”. Cùng với các phương tiện thông tin
đại chúng có thể đưa đến cho đông đảo công chúng các thông tin, kiến thức
pháp luật một cách nhanh chóng nhất, cập nhật nhất, rộng rãi nhất và phù hợp
nhất với nhiều đối tượng xã hội.
Ở nước ta hiện nay, đã có đủ các loại hình là báo in, báo nói, báo hình và
báo điện tử ( trên mạng internet). Với thống kê của các nhà nghiên cứu thì các
phương tiện thông tin đại chúng đã và đang phát triển rộng khắp trên cả nước:
29
553 cơ quan báo chí, hàng trăm đài phát thanh, truyền hình ph. Với lực lượng
hùng hát triển nhanh chóng, tăng trưởng viễn thông Internet thuộc loại cao
trên thế giới với tốc độ bình quân là 32,5%/năm. Với sự lớn mạnh đó, trước
hết các phương tiện thông tin đại chúng cần làm tốt vai trò cung cấp thông tin
đầy đủ và đa dạng hơn về các sự việc, sự kiện, hiện tượng pháp lí xảy ra trong
đời sống pháp luật ở các địa phương cũng như trên cả nước; cung cấp những
tri thức pháp luật cần thiết cho các tầng lớp nhân dân; tuyên truyền cho các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; biểu
dương những tấm gương “người tốt, việc tốt” trong công tác triển khai thực
hiện pháp luật và áp dụng pháp luật; phê phán và lên án những hành vi tiêu
cực, vi phạm pháp luật.
Các phương tiện thông tin đại chúng cần dành thời lượng nhiều hơn cho
việc đăng tải những thông tin về các văn bản, chính sách pháp luật mới của
Nhà nước và của chính quyền các cấp một cách đầy đủ và chi tiết. Cần mở
thêm các chuyên mục mới về phổ biến, giáo dục pháp luật với thời lượng dài
hơn, thông tin đa dạng, phong phú hơn và hình thức thể hiện hấp dẫn hơn.
Các báo nói và báo hình cần chú ý đến khung giờ phát song các chương trình
phổ biến, giáo dục pháp luật sao cho phù hợp với các nhóm đối tượng xã hội
khác nhau. Các phương tiện thông tin đại chúng cũng cần dành một thời
lượng thích đáng cho việc đăng tải, phát sóng các thông tin về đời sống pháp
luật đã được kiểm chứng chính thức và mang tính xây dựng. Đặc biệt, khi có
các sự việc, sự kiện, hiện tượng pháp luật diễn ra có tầm quan trọng liên quan
đến lợi ích của đất nước, của dân tộc, động chạm đến các giá trị, chuẩn mực,
pháp luật cơ bản như: Đường lối đối nội, đối ngoại, sửa đổi Hiến pháp, xây
dựng và ban hành các bộ luật cơ bản, các vụ án đặc biệt nghiêm trọng xảy ra,
các hành vi tiêu cực,…Khi đó, định hướng thông tin của báo chí chính là phải
kịp thời đưa ra đường lối, quan điểm chính thống của Đảng và Nhà nước, ý
30
kiến kết luận chính thức của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp thông tin phải đi liền với
việc tuân thủ nguyên tắc tính chân thật, phản ánh đúng bản chất của vấn đề:
khen ngợi biểu dương mà không tô hồng; lên án, phê phán nhưng không bôi
nhọ. Khi phản ánh các sự việc, sự kiện, hiện tượng pháp luật diễn ra trong xã
hội, các phương tiện thông tin đại chúng cần tránh hai khuynh hướng: Đó là,
phản ánh thiếu chọn lọc, thiếu sự cân nhắc, đưa tin tùy tiện, dễ dãi, chưa được
kiểm chứng dẫn đến làm phức tạp hóa những vấn đề vốn đã phức tạp; Hoặc là
khuynh hướng bưng bít, cắt xén làm khô khan thông tin về đời sống pháp
luật, dẫn đến làm mất lòng tin của nhân dân.
Thứ ba, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong hoạt động thực
hiện pháp luật về dân quân tự vệ.
Hoạt động thực hiện pháp luật là hoạt động của các cá nhân, các tổ chức
và của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức xã hội được nhà
nước ủy quyền. Do đó, để nâng cao hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp
luật, ngoài các biện pháp áp dụng đối với các tầng lớp nhân dân, còn rất cần
thiết phải tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong
hoạt động thực hiện pháp luật.
Ở nước ta hiện nay, có thể thấy rằng đa số người dân có ý thức tự giác,
tích cực và nghiêm chỉnh trong việc thực hiện pháp luật. Tuy nhiên, những
khuyết điểm, sai phạm xảy tra trong hoạt động thực hiện pháp luật vẫn còn
tương đối phổ biến, đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện
nay. Nghị quyết hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương khóa IX đã
khái quát thực trạng này như sau: “ Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất
đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa không giữ dung
kỷ cương, phép nước xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng”. Có
tình trạng này là do nhiều lúc, nhiều nơi, các cơ quan chức năng của nhà
31
nước còn xem nhẹ, buông lỏng vai trò, trách nhiệm quản lý trong lĩnh vực,
ngành mà mình phụ trách, chưa phát huy hết vai trò, chức năng quản lý của
mình. Đây là một nguyên nhân cơ bản làm giảm sút hiệu quả hoạt động thực
hiện pháp luật. Vì vậy, các cơ quan chức năng cần tăng cường hơn nữa vai
trò, trách nhiệm của mình:
- Quốc hội phải thường xuyên xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn đời sống xã hội, nhất
là các văn bản pháp luật hướng dẫn thực hiện pháp luật. Đây là điều kiện
tiên quyết đảm bảo cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm túc và
hiệu quả.
- Các cơ quan công an, tòa án, viện kiểm sát, thanh tra và các cơ quan
khác có liên quan phải nghiêm chỉnh thực hiện các quy phạm pháp luật, giữ
đúng vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của mình, tích cực tham gia quản
lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực
hiện pháp luật, đồng thời tạo các điều kiện cần thiết để người dân có thể tham
gia giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và thực hiện pháp luật một
cách thuận lợi.
- Các cơ quan chức năng cần phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời
các hiện tượng tiêu cực, các hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật, vì “tình
trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ
nghĩa cá nhân và tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận
cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng”, góp phần củng cố niềm tin của nhân
dân đối với pháp luật.
- Bản thân mỗi cán bộ, công chức nhà nước phải luôn luôn gương mẫu
trong việc thực hiện pháp luật; thường xuyên học tập, nâng cao trình độ hiểu
biết về văn hóa, pháp luật; nâng cao trình độ học vấn, năng lực chuyên môn
32
nghiệp vụ; không để bản thân lâm vào tình trạng quan liêu, né tránh trách
nhiệm pháp lý của cá nhân, thói dựa dẫm, ỷ lại vào cấp trên; giải quyết công
việc sai nguyên tắc, thái độ thờ ơ với công việc, tiêu xài lãng phí tiền cơ quan,
không tuân thủ các quy định của cơ quan chủ quản, đặc biệt là sự tha hóa về
đạo đức. Phải có thái độ hòa nhã, tôn trọng trong quá trình hướng dẫn nhân
33
dân thực hiện pháp luật.
Tiểu kết chương 1
Luật Dân quân tự vệ được quốc hội thông qua năm 2009 và được ban
hành và thực hiện từ năm 2010, việc tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ
về vấn đề cơ bản đã được tổng kết trong chương 1 của Luận văn đó là các
phần về khái niệm và nội dung pháp luật về dân quân tự vệ, các hình thức tổ
chức Luật Dân quân tự vệ, nội dung tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ từ
những nội dung và hình thức này luận văn có thể tiếp tục nghiên cứu thực
trạng việc tổ chức Luật Dân quân tự vệ từ thực tiễn của Thành phố Hà Nội
Tại chương 1 của luận văn cũng đã tổng kết được những nhân tố ảnh
hưởng đến tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ, qua việc xác định ý thức
pháp luật về dân quân tự vệ của mọi người dân trong thực hiện Luật Dân quân
tự vệ, vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng đối với công tác phổ
biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ cho các tầng lớp
nhân dân và cuối cùng là trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong hoạt
động thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ. Qua việc nghiên cứu các nhân tố
tác động để làm cơ sở lý luận để luận văn có thể nghiên cứu các giải pháp
đảm bảo tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ trên địa bàn thành phố Hà
34
Nội ở phần sau được tốt hơn.
Chương 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT
DÂN QUÂN TỰ VỆ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát về tình hình dân quân tự vệ thủ đô Hà Nội
2.1.1. Tình hình lực lượng dân quân tự vệ thủ đô Hà Nội
Thành phố Hà Nội hiện nay có 30 quận (huyện), theo cơ cấu tổ chức về
dân quân tự vệ thì ở Thành phố là Bộ tư lệnh thủ đô Hà Nội, các quận (huyện)
là các Ban chỉ huy quân sự quận (huyện), các phường (xã, thị trấn) là các Ban
chỉ huy quân sự phường (xã, thị trấn).
Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội được thành lập theo sắc lệnh số 16 của Chủ
tịch nước Việt Nam ngày 16 tháng 7 năm 2008 về việc tổ chức lại Quân khu
Thủ đô Hà Nội thành Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội. Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội
trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam có "chức năng tham mưu cho Ðảng bộ
Đảng CSVN và chính quyền thành phố Hà Nội thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng toàn dân và công tác quân sự địa phương; giúp Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng và Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội thực hiện quản lý nhà
nước về lĩnh vực quân sự, quốc phòng tại địa phương; tổ chức thực hiện xây
dựng, quản lý, chỉ huy các đơn vị lực lượng thường trực và lực lượng dự bị
động viên, dân quân tự vệ thuộc quyền. Năm 2015, toàn thành phố thành lập
mới 11 Ban CHQS cơ quan, tổ chức cơ sở. Đến nay, tỷ lệ dân quân tự vệ
chiếm 19,5%. Chỉ đạo tổ chức có chất lượng việc luyện tập chuyển trạng thái
SSCĐ và hướng dẫn các Ban CHQS quận, huyện, thị xã hoàn thành lập quy
hoạch xây dựng thế trận khu vực phòng thủ. Trong năm có 119/117 xã,
phường, thị trấn tổ chức diễn tập đạt 101,7% chỉ tiêu năm. Bộ tư lệnh Thủ đô
đã hoàn thành đề án đào tạo cán bộ quân sự, xã, phường, thị trấn. Cùng với
hoàn thành các nhiệm vụ huấn luyện, SSCĐ, Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội đã chỉ
35
đạo, huy động kịp thời cán bộ, chiến sĩ lực lượng thường trực, dân quân cơ
động, tự vệ của các cơ sở và phương tiện phối hợp cùng với các đơn vị quân
đội và các lực lượng khác trên địa bàn tham gia xử lý thiên tai, cháy nổ, cháy
rừng, tìm kiếm cứu nạn, hỏa hoạn xảy ra trên địa bàn, góp phần giản thiểu
thiệt hại cho nhân dân.
Số lượng dân quân tự vệ thành phố Hà Nội được phân cấp theo ban chỉ
huy quân sự quận (huyện) các quận (huyện) có biên chế chính thức gồm 25
cán bộ, chiến sĩ, tổng số toàn thành phố là 750 cán bộ, chiến sĩ tại các Ban chỉ
huy quân sự quận (huyện, thị xã).
Tổ chức Ban CHQS và cán bộ dân quân tự vệ
Số lượng cán bộ Ban CHQS cấp xã, phường, thị trấn:
Đối với xã và phường trên địa bàn thành phố Hà nội biên chế 05 cán bộ
Ban CHQS, gồm: 01 Chỉ huy trưởng, 01 Chính trị viên, 02 Chỉ huy phó, 01
Chính trị viên phó;
Chỉ huy trưởng phải là đảng viên, là công chức cấp xã và tham gia
cấp ủy;
Chính trị viên là Bí thư đảng ủy cấp xã kiêm nhiệm;
Chính trị viên phó do Bí thư hoặc Phó Bí thư Đoàn cấp xã kiêm nhiệm;
Chỉ huy phó là cán bộ không chuyên trách.
Số lượng cán bộ Ban CHQS cơ quan, tổ chức ở cơ sở:
Biên chế 4 người, gồm: 01 Chỉ huy trưởng, 01 Chính trị viên, 01 Chỉ
huy phó, 01 Chính trị viên phó;
Căn cứ yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, quân sự, khu vực hoạt động, đơn vị
quản lý đa ngành nghề, đa lĩnh vực biên chế 05 người, gồm: 01 Chỉ huy Trưởng,
01 Chính trị viên, 02 Chỉ huy phó (trong đó có 1 Chỉ huy phó do cán bộ chuyên
trách công tác quốc phòng, quân sự đảm nhiệm), 01 Chính trị viên phó.
Chỉ huy trưởng là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ
36
quan, tổ chức kiêm nhiệm;
Chính trị viên là Bí thư chi bộ (Đảng bộ) cơ quan, tổ chức kiêm nhiệm;
Chính trị viên phó do cán bộ Đoàn thanh niên kiêm nhiệm;
Chỉ huy phó thường do cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức
kiệm nhiệm.
Cán bộ quản lý, chỉ huy đơn vị dân quân tự vệ gồm:
Tiểu đội trưởng, Khẩu đội trưởng;
Trung đội trưởng;
Thôn đội trưởng; (căn cứ tình hình cụ thể có thể bố trí Thôn đội trưởng ở
thôn nơi đặt trụ sở hoặc gần trụ sở UBND cấp xã kiêm Trung đội trưởng dân
quân cơ động xã, huyện. Đối với thôn tổ chức trung đội, hoặc tiểu đội, hoặc tổ
dân quân tại chỗ chức danh Trung đội trưởng, hoặc Tiểu đội trưởng, hoặc Tổ
trưởng dân quân tại chỗ do Thôn đội trưởng kiêm nhiệm).
Trưởng thôn kiêm nhiệm thôn đội trưởng khi có yêu cầu (trừ Thôn đội
trưởng kiêm Trung đội trưởng dân quân cơ động cấp huyện).
Đại đội tự vệ có Ban chỉ huy đại đội, biên chế 04 đồng chí, gồm: Đại đội
trưởng, Chính trị viên, Phó Đại đội trưởng quân sự, Chính trị viên phó đại đội.
Số lượng các phường thuộc các quận nội thành
Số TT Số lượng các phường Tên quận
Ba Đình 1 14
Bắc Từ Liêm 2 13
Cầu Giấy 3 8
Đống Đa 4 21
Hà Đông 5 17
Hai Bà Trưng 6 20
Hoàn Kiếm 7 18
Hoàng Mai 8 14
37
Long Biên 9 14
10 Nam Từ Liêm 10
11 Tây Hồ 8
12 Thanh Xuân 11
Tổng số 168 phường
Số lượng các xã thuộc các huyện ngoại thành
Số TT Tên huyện Số lượng các xã, phường, thị trấn
1 Ba vì 1 thị trấn + 30 xã = 31
2 Chương Mỹ 2 thị trấn + 30 xã = 32
3 Đan Phượng 1 thị trấn + 15 xã = 16
4 Đông Anh 1 thị trấn + 23 xã = 24
5 Gia Lâm 2 thị trấn + 20 xã = 22
6 Hoài Đức 1 thị trấn + 19 xã = 20
7 Mê Linh 2 thị trấn + 16 xã = 18
8 Mỹ Đức 1 thị trấn + 21 xã = 22
9 Phú Xuyên 2 thị trấn + 26 xã = 28
10 Phúc Thọ 1 thị trấn + 22 xã = 23
11 Quốc Oai 1 thị trấn + 20 xã = 21
12 Sóc Sơn 1 thị trấn + 25 xã = 26
13 Sơn Tây 9 phường + 6 xã = 15
14 Thạch Thất 1 thị trấn + 22 xã = 23
15 Thanh Oai 1 thị trấn + 20 xã = 21
16 Thanh Trì 1 thị trấn + 15 xã = 16
17 Thường Tín 1 thị trấn + 28 xã = 29
18 Ứng Hòa 1 thị trấn + 28 xã = 29
Tổng số 417 xã, phường, thị trấn
38
Tổng số các phường, xã, thị trấn trên địa bàn thành phố Hà Nội là 585
Tổng số cán bộ, chiến sỹ làm công tác tại Ban chỉ huy quân sự phường,
xã thị trấn là: 2.925 người.
Tổ chức biên chế lực lượng dân quân tự vệ
Tổng số DQTV toàn thành phố: 92.000 người đạt 1,18 % so với dân số
Tổng số DQTV nòng cốt: 82.270 người, đạt 1,06 %; so với dân số
- Lực lượng dân quân: 49.360 người = 60%;
- Lực lượng tự vệ: 32.910 người = 40%
- Nam DQTV: 65.820 người;
- Nữ DQTV: 16.450 người;
- Tỷ lệ Đoàn viên: 44.425 người = 54% ;
- Tỷ lệ Đảng viên: 17.270 người = 21%;
- Là bộ đội phục viên Xuất ngũ: 4.113 người = 5%
- DQTV năm thứ nhất: 3.520 người;
Tổ chức biên chế
Tổng số đầu mối DQTV 2.670 đơn vị (dân quân 420 đầu mối, tự vệ
2.250 đầu mối), trong đó:
- Cấp đại đội: 30;
- Cấp trung đội: 1.830;
- Cấp tiểu đội, khẩu đội: 5.970;
- Cấp tổ: 11.550;
- Lực lượng DQTV cơ động: 12.990 người
- Lực lượng DQTV Phòng không, Pháo binh, Thông tin, Trinh sát, Y
tế, Phòng hóa, Công binh: 12.750 người
- Lực lượng DQTV tại chỗ: 56.160 người
- Chất lượng cán bộ Ban CHQS phường, xã thị trấn
39
+ Số đã qua đào tạo Chỉ huy trưởng quân sự: 1.110 đ/c
+ Số chưa qua đào tạo Chỉ huy trưởng quân sự: 150 đ/c ( 90 đ/c đã làm
hồ sơ thi ngành quân sự cơ sở năm 2016, 60 đ/c đang đề nghị miễm nhiệm)
+ Là Đảng viên: 1.197 đ/c = 95 %
+ Là thành viên UBND: 378 đ/c = 30 %
+ Là đại biểu HĐND: 328 đ/c = 26,19%
- Chỉ huy trưởng Ban CHQS phường
+ Tổng số: 585 đồng chí
+ Số đã qua đào tạo Chỉ huy trưởng quân sự: 550 đ/c
+ Là Đảng ủy viên: 123 đ/c = 21,42 %
+ Là thành viên UBND: 550 đ/c = 94,85%
+ Là đại biểu HĐND: 415 đ/c = 71,42%
Thực hiện luân phiên lực lượng DQTV nòng cốt
- Từ tháng 01/2014 đến nay đã luân phiên cho ra, cấp giấy chứng nhận
hoàn thành nhiệm vụ trong lực lượng DQTV: 34.230 người đạt tỷ lệ: 13,9%
(khối dân quân đạt 20,18%)
- Kết nạp mới 33.990 đ/c = 13, 8 % ( khối dân quân đạt 20,18%)
Xây dựng lực lượng tự vệ doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
- Tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn: 1.710 đơn vị
- Tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh có tổ chức Đảng: 540 đơn vị
- Tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh có tổ chức Đảng đã xây dựng
được lực lượng tự vệ: 390 đơn vị.
Quản lý lực lượng DQTV rộng rãi: Ban CHQS các quận (huyện) đã chỉ
đạo Ban CHQS phường (xã), Ban CHQS các cơ quan, tổ chức tổ chức đăng
ký quản lý chặt chẽ công dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ DQTV để sẵn
sàng mở rộng lực lượng trong các trạng thái và huy động khi có lệnh của cấp
trên. Tính đến nay đã đăng ký và quản lý 558.510 người đủ điều kiện để mở
40
rộng lực lượng DQTV trong các trạng thái bảo đảm theo đúng quy định.
Việc xây dựng Kế hoạch mở rộng quy mô lực lượng DQTV theo quy định
của Bộ quốc phòng và chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội.
- Trên cơ sở Kế hoạch, hướng dẫn của Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Ban
CHQS các quận (huyện) trên địa bàn thủ đô Hà Nội đã tiến hành xây dựng kế
hoạch mở rộng lực lượng dân quân tự vệ trong các trạng thái theo đúng quy
định của Thông tư 33/2016/TT – BQP và gửi Phòng DQTV thẩm định
- Chỉ đạo Ban CHQS phường (xã), Ban CHQS các cơ quan tổ chức tiến
hành xây dựng, thẩm định và phê duyệt theo đúng quy định
2.1.2. Đặc thù của lực lượng dân quân tự vệ tại Thành phố Hà Nội
Là trung tâm chính trị, hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa,
giáo dục, khoa học, kinh tế và giao dịch quốc tế, Thủ đô Hà Nội có vị trí đặc
biệt quan trọng đối với cả nước. Vì thế, xây dựng lực lượng vũ trang Thủ đô
vững mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Thủ đô trong mọi tình huống
là vấn đề quan trọng.
Lực lượng dân quân tự vệ tại Thành phố Hà Nội có những đặc thù riêng
như sau:
Thứ nhất, Lực lượng dân quân tự vệ Thành phố Hà Nội trực thuộc Bộ tư
lệnh Thủ đô, không như các tỉnh, thành phố lực lượng dân quân tự vệ thuộc
Ban chỉ huy quân sự Tỉnh, thành phố.
Thứ hai, đây là một trong những lực lượng bảo vệ Thủ đô Hà Nội, trung
tâm văn hóa, chính trị, kinh tế của cả nước.
Thứ ba, Lực lượng dân quân tự vệ tại Thành phố Hà Nội hoạt động theo
Luật Dân quân tự vệ năm 2009, tuy nhiên do đặc thù riêng còn chịu sự tác
động của Luật Thủ đô.
Lực lượng dân quân tự vệ thành phố Hà Nội tiếp tục được xây dựng theo
hướng “vững mạnh, rộng khắp”, coi trọng xây dựng lực lượng dân quân tự vệ
41
ở cơ sở xã (phường, thị trấn) và các cơ quan, tổ chức, loại hình doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế. Trong đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
quân sự xã (phường, thị trấn) trình độ trung cấp chuyên nghiệp và cao đẳng,
đại học chuyên ngành quân sự cơ sở được thực hiện đạt hiệu quả cao. Các đơn
vị dân quân cơ động được tăng cường huấn luyện đêm, huấn luyện chiến thuật
sát với các tình huống và đặc điểm địa bàn. Lực lượng dân quân tự vệ binh
chủng (phòng không, pháo binh) tập trung huấn luyện nâng cao hiệu quả các
bài bắn bảo vệ mục tiêu, khu vực được phân công. Cùng với đó, Thành phố
tập trung chỉ đạo cơ quan quân sự các cấp nâng cao chất lượng và tỷ lệ diễn
tập chiến đấu trị an xã (phường, thị trấn), tăng cường luyện tập vào ban đêm,
sẵn sàng cơ động chiến đấu bảo vệ địa bàn, bảo vệ vững chắc Thủ đô Hà Nội
trong mọi tình huống.
2.2. Tình hình tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ trên
địa bàn thành phố Hà Nội
2.3.1. Tình hình tuyên truyền, phổ biến pháp luật về dân quân tự vệ
trên địa bàn thành phố Hà Nội
Tình hình thực hiện công tác tuyên truyền pháp luật về dân quân tự vệ
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản
quy định và hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện pháp luật. Như thực hiện
pháp luật về luật lao động, luật môi trường, luật an toàn giao thông,...ví dụ
điển hình là vấn đề thực hiện dân chủ ở cơ sở ở nước ta hiện nay. Quy chế
thực hiện dân chủ ở phường (xã) ra đời là một biểu hiện sinh động nhằm cụ
thể hóa phương châm “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” của Đảng.
Qua thời gian triển khai và thực hiện đã thực sự phát huy quyền làm chủ, sức
sáng tạo của nhân dân, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của
các tầng lớp nhân dân tham gia phát triển kinh tế xã hội ở địa phương góp
phần tác động tích cực tới công tác xây dựng Đảng, xây dựng Chính quyền,
42
phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; Xây dựng
các cộng đồng dân cư tự quản ở phường, xã, thị trấn, các khu dân cư, tổ dân
phố… Tạo ra sự chuyển biến tích cực về ý thức và phong cách làm việc của
cán bộ Đảng, Chính quyền, đoàn thể theo hướng gần dân, tôn trọng dân và có
trách nhiệm với dân hơn. Có thể nhận thấy qua những năm thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở, bầu không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội đã được tạo ra,
quyền làm chủ của nhân dân được mở rộng, lòng tin của nhân dân vào chế độ
ngày càng được củng cố, từ đó thúc đẩy sự phát triển Kinh tế -Văn hóa- Xã
hội, An ninh quốc phòng ở địa phương, biểu hiện rõ nhất là trong phát triển
kinh tế, xây dựng nếp sống văn hóa ở xã, phường, thị trấn.
Để triển khai thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành đề án 1602/QĐ-TTg về “Phê duyệt Đề án tổ chức tuyên
truyền, phổ biến Luật Dân quân tự vệ” một cách thống nhất, hiệu quả trên
toàn quốc, Bộ Quốc phòng (BQP) đã ban hành Thông tư số 96/2010/TT-BQP
“Quy định việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, bồi dưỡng, tập huấn
pháp luật về dân quân tự vệ (DQTV)”. Theo đó, Bộ Tổng Tham mưu (BTTM)
được giao nhiệm vụ chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan, xây dựng Kế
hoạch số 1523/KH-TM về “Triển khai thực hiện Đề án 1602”; thành lập Ban
Chỉ đạo Đề án và Cơ quan Thường trực; ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng
dẫn các bộ, ngành, quân khu, địa phương tiến hành tổ chức tập huấn cán bộ,
tổ chức thi và xây dựng mô hình điểm cấp xã về tuyên truyền, phổ biến Luật
DQTV và các văn bản pháp lý liên quan. Trên cơ sở đó, các quân khu, Bộ Tư
lệnh Thủ đô Hà Nội, các cơ quan, tổ chức ở Trung ương, cấp ủy, chính quyền
các địa phương và cơ quan chức năng đã nghiên cứu, quán triệt và ban hành
các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn cấp dưới tổ chức thực hiện.
Nội dung quan trọng hàng đầu trong triển khai thực hiện Đề án 1602 là
tổ chức tập huấn cho các đối tượng theo 4 cấp (toàn quốc, quân khu, tỉnh và
43
huyện) và tập huấn khối các bộ, ngành Trung ương. Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà
Nội đã tổ chức 9 lớp, tập huấn cho 3.129 cán bộ; Tổ chức thi tìm hiểu pháp
luật về DQTV là hình thức tuyên truyền, phổ biến Luật DQTV có hiệu quả,
được thực tiễn khẳng định và các địa phương, các ngành, các cấp quan tâm.
Đối tượng dự thi là: chỉ huy trưởng ban chỉ huy quân sự (CHQS) cấp xã, chỉ
huy trưởng ban CHQS cấp huyện, Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Bộ Tư
lệnh Thủ đô Hà Nội. Nội dung thi gồm: nhận thức về pháp luật về DQTV (thi
tự luận, vấn đáp và trắc nghiệm); bắn súng K54 bài 1 và bắn súng tiểu liên
AK bài 1. Thời gian tiến hành hội thi: từ tháng 4 đến tháng 9-2011. Để tổ
chức các hội thi thành công, BTTM đã chủ trì phối hợp với Tổng Cục Chính
trị, Tổng Cục Hậu cần, Tổng Cục Kỹ thuật chỉ đạo, hướng dẫn các quân khu,
địa phương tổ chức các hội thi tìm hiểu pháp luật về DQTV ở cả 4 cấp
(huyện, tỉnh, quân khu và toàn quốc). BTTM đã ban hành Kế hoạch số
16/KH-TM về “Tổ chức Hội thi tìm hiểu pháp luật về DQTV và công tác
DQTV năm 2011”; thành lập Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức Hội thi và ban hành
các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức hội thi, đồng thời nghiên cứu xây
dựng các bộ đề thi.
Thực hiện các kế hoạch, hướng dẫn trên, các địa phương đã thành lập các
ban chỉ đạo, ban tổ chức hội thi; giúp cấp ủy, chính quyền tiến hành công tác
chuẩn bị chu đáo cho các hội thi. Nhờ đó, hội thi các cấp được tổ chức chặt chẽ,
nghiêm túc, chất lượng, hiệu quả. Qua các hội thi, cán bộ dự thi có điều kiện
nghiên cứu sâu, nắm chắc những nội dung chủ yếu của pháp luật về DQTV và
gắn với cương vị, chức trách, góp phần đưa Luật DQTV vào cuộc sống.
Cấp xã có nhiều đối tượng chịu sự điều chỉnh của pháp luật về DQTV,
do đó, công tác tuyên tuyền, phổ biến pháp luật về DQTV ở cơ sở cho cán bộ,
đảng viên, nhân dân và lực lượng vũ trang có ý nghĩa rất quan trọng. Thực
hiện công tác này, BTTM đã chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan ban
44
hành Hướng dẫn số 334/HD-TM về “Tổ chức xây dựng điểm cấp xã về tuyên
truyền pháp luật về DQTV”. Theo đó, mỗi tỉnh (thành phố) trực thuộc Trung
ương xây dựng một xã điểm về tuyên truyền, phổ biến pháp luật về DQTV.
Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của cấp ủy, chính quyền địa
phương, những mô hình điểm được xây dựng đã thực sự phát huy tác dụng,
nhiều nơi đã có cách làm sáng tạo, hiệu quả, như: lồng ghép tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về DQTV với các phong trào “Xây dựng nông thôn mới”,
“Xóa đói giảm nghèo”... các hoạt động quốc phòng, quân sự, lễ hội truyền
thống và các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao... Đặc biệt,
nhiều nơi còn tổ chức tuyên truyền pháp luật về DQTV bằng hình thức “sân
khấu hóa” rất có hiệu quả. Hiện nay, các tỉnh (thành phố) đang tiến hành rút
kinh nghiệm để nhân rộng mô hình này.
Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về DQTV trên các
phương tiện thông tin đại chúng đã được tiến hành một cách tích cực, hiệu quả.
BQP đã phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức tập huấn, bồi dưỡng
kiến thức pháp luật về DQTV cho lãnh đạo, phóng viên, biên tập viên. Đến nay,
thời lượng tin, bài, chuyên trang, chuyên mục về DQTV trên các phương tiện
thông tin đại chúng đều tăng mạnh. BQP còn chỉ đạo cơ quan chức năng phối
hợp với Điện ảnh Quân đội xây dựng phim tài liệu về truyền thống của lực lượng
DQTV, về công tác huấn luyện, hoạt động sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ biên giới,
biển, đảo và tham gia các nhiệm vụ khác của lực lượng DQTV.
Cục DQTV đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan biên soạn 9 đầu sách, tài
liệu liên quan đến pháp luật về DQTV để phát hành rộng rãi từ Trung ương
đến cơ sở và trở thành “cẩm nang” đối với cán bộ quân sự địa phương và các
ngành, phục vụ trực tiếp cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện
Luật DQTV.
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về DQTV theo Đề án 1602 đã
45
đạt được kết quả tích cực, khá toàn diện; trong đó, nhiều mục tiêu đạt kết quả
tốt, vượt kế hoạch đề ra. Qua đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ
cán bộ các cấp đối với công tác DQTV, nhất là, việc vận dụng các quy định
của Luật sát với cương vị, chức trách được giao, góp phần nâng cao chất
lượng tổng hợp của lực lượng DQTV, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước
và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ QP-AN. Qua đó, góp phần nâng cao ý thức
pháp luật và làm chủ pháp luật của nhân dân, tăng cường mối liên hệ giữa
nhân dân với hệ thống chính trị ở cơ sở. Đến nay, nhiều tỉnh (thành phố) đã
thông qua và phê duyệt Đề án Xây dựng lực lượng DQTV giai đoạn 2011-
2015. Đây là kết quả phản ánh rõ nhất về nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy,
chính quyền và nhân dân với việc triển khai thực hiện Luật DQTV.
Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, nơi đặt trụ
sở các cơ quan Trung ương của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị -
xã hội, cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế; là trung tâm lớn về
kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ; nơi diễn ra các hoạt
động đối nội, đối ngoại của cả nước. Đồng thời, đây là địa bàn trọng điểm
chống phá của các thế lực thù địch. Vì vậy, thực hiện tốt nhiệm vụ quốc
phòng - an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện để Hà Nội
phát triển toàn diện, tương xứng với tầm vóc của Thủ đô nghìn năm văn
hiến có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trên cơ sở quán triệt sâu sắc đường lối quân sự, quốc phòng, các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, Chính phủ, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng,
nhất là Nghị quyết 28-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X); Nghị định
152/2007/NĐ-CP của Chính phủ về xây dựng khu vực phòng thủ, Bộ Tư lệnh
Thủ đô đã chủ động thực hiện tốt chức năng tham mưu cho Thành ủy, Ủy ban
nhân dân Thành phố lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng khu vực phòng thủ phù hợp
46
với yêu cầu và đặc thù của Thủ đô. Theo đó, Bộ Tư lệnh đã phối hợp chặt chẽ
với các sở, ban, ngành tham mưu với Thành ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố
ban hành đồng bộ các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng tiềm lực, thế trận khu vực
phòng thủ Thành phố ngày càng vững chắc. Trên cơ sở tham mưu của Bộ Tư
lệnh, Thành ủy Hà Nội đã ban hành Chương trình 06-CTr/TU, ngày 12-01-
2009 về thực hiện Nghị quyết 28-NQ/TW của Bộ Chính trị. Trong đó, tập
trung vào kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an
ninh; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn
với thế trận an ninh nhân dân; xây dựng tiềm lực, thế trận khu vực phòng thủ,
mà cốt lõi là quy hoạch và từng bước đầu tư xây dựng thế trận quân sự của
khu vực phòng thủ, xây dựng lực lượng vũ trang, v.v. Qua tổng kết 10 năm
thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) và sơ kết 05 năm thực hiện
Nghị định 152/2007/NĐ-CP của Chính phủ, Bộ Tư lệnh Thủ đô đã tham mưu
cho Ủy ban nhân dân Thành phố trình Hội đồng nhân dân Thành phố ra Nghị
quyết 30/2013/NQ-HĐND, ngày 06-12-2013 về “Xây dựng khu vực phòng
thủ Thành phố Hà Nội đến năm 2020 và những năm tiếp theo”, làm cơ sở để
tiếp tục chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Cùng với đó, Bộ Tư lệnh chỉ đạo các cơ
quan, đơn vị, nhất là cơ quan quân sự các quận, huyện chủ động nắm chắc
tình hình, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương đẩy mạnh kết hợp
phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh ngay
trong các chiến lược phát triển, quy hoạch tổng thể, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội ở các cấp, ngành, lĩnh vực. Mặt khác, Bộ Tư lệnh phát huy tốt vai
trò, trách nhiệm trong thẩm định các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
Thành phố về lĩnh vực quốc phòng theo thẩm quyền và tham mưu cho Ủy ban
nhân dân Thành phố phê duyệt các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng - an ninh của Thành phố, như: Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
47
thành phố Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm
2050,… đảm bảo kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội với
tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng - an ninh trên địa bàn Thủ đô. Bộ
Tư lệnh cũng chủ động nghiên cứu, xây dựng phương án điều chỉnh Quy
hoạch tổng thể bố trí quốc phòng kết hợp phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn
2011 - 2020 trên địa bàn Thành phố và hoàn thành Quy hoạch thế trận quân
sự khu vực phòng thủ Thành phố giai đoạn 2010 - 2015. Đồng thời, tham
mưu cho Thành phố xây dựng và triển khai thực hiện các đề án bảo đảm quốc
phòng - an ninh, nhất là cho xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, xây
dựng các công trình phòng thủ, v.v.
Với vai trò là Cơ quan thường trực của Hội đồng Giáo dục quốc phòng
và an ninh, Bộ Tư lệnh Thủ đô luôn chủ động tham mưu cho Thành phố đẩy
mạnh thực hiện công tác giáo dục quốc phòng và an ninh; trong đó, đặc biệt
chú trọng đối tượng là đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp; chức sắc, chức việc
tôn giáo và học sinh, sinh viên. Chỉ tính từ năm 2010 đến nay, Bộ Tư lệnh đã
phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan Trung ương bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng và an ninh cho 3.499 đồng chí thuộc đối tượng 2; 7.989 đồng chí thuộc
đối tượng 3; chỉ đạo bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho 277.136
đồng chí thuộc đối tượng 2,3,4 và chức sắc, chức việc tôn giáo; giáo dục quốc
phòng và an ninh cho 210.264 lượt học sinh, 398.679 sinh viên. Bộ Tư lệnh
phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan thông tin đại
chúng tổ chức tốt việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục quốc phòng và an ninh
cho toàn dân; đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu xuyên tạc của các thế
lực thù địch và các phần tử chống đối, lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân
quyền”, “tôn giáo” để chống phá. Bộ Tư lệnh chỉ đạo lực lượng vũ trang Thủ
đô phát huy vai trò “đội quân công tác”, tăng cường công tác dân vận, tham
48
gia xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh. Các đơn vị, cơ quan quân sự có
nhiều hoạt động thiết thực trong việc giúp dân xóa đói, giảm nghèo, “đền ơn,
đáp nghĩa”,… góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, nâng cao
nhận thức về xây dựng khu vực phòng thủ, phát huy sức mạnh tổng hợp của
các cấp, các ngành, đoàn thể và nhân dân Thủ đô trong thực hiện nhiệm vụ
quốc phòng - an ninh trên địa bàn.
Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội còn phối hợp với các sở, ban, ngành, cơ quan
chức năng hoàn thành khảo sát khả năng động viên nền kinh tế quốc dân đảm
bảo nhu cầu năm đầu chiến tranh, khảo sát hệ thống công trình dân dụng phục
vụ mục đích quốc phòng. Đặc biệt, đã tham mưu cho Thành phố và các địa
phương huy động các nguồn lực và ngân sách xây dựng thế trận quân sự trong
khu vực phòng thủ theo quy hoạch, lộ trình đã xác định. Những năm qua,
Thành phố đã đầu tư hàng trăm tỉ đồng để xây dựng các hạng mục, như: căn
cứ chiến đấu, sở chỉ huy, các công trình phòng thủ, chốt chiến dịch,... hình
thành thế trận liên hoàn, vững chắc giữa các cấp.
Với vai trò là trung tâm hiệp đồng trong tham mưu và chỉ huy thống
nhất các lực lượng vũ trang thuộc quyền, Bộ Tư lệnh Thủ đô thường xuyên
nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện quyết tâm, kế hoạch tác chiến
khu vực phòng thủ và kế hoạch sẵn sàng chiến đấu; kế hoạch phòng, chống
lụt, bão, tìm kiếm cứu nạn; phòng, chống cháy nổ, cháy rừng, v.v. Hiện nay,
Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội đã triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong
công tác quân sự và đang thi công lắp đặt mạng máy tính diện rộng phục vụ
nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của Bộ Tư lệnh. Để nâng cao năng lực chỉ
đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền các cấp và trình độ tổ chức chỉ huy,
hiệp đồng tác chiến phòng thủ của lực lượng vũ trang, Bộ Tư lệnh tham mưu
cho cấp ủy, chính quyền địa phương nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, quy chế
về xây dựng, hoạt động của khu vực phòng thủ; củng cố, kiện toàn, nâng cao
49
hiệu quả hoạt động của các tổ chức khu vực phòng thủ; đặc biệt là tăng
cường tổ chức luyện tập, diễn tập ở các cấp theo phương án tác chiến phòng
thủ. Chỉ tính từ năm 2010 đến nay, Thành phố đã chỉ đạo và tổ chức diễn tập
khu vực phòng thủ cho 24 lượt quận, huyện, thị xã; diễn tập chiến đấu - trị
an cho 480 lượt xã, phường, thị trấn. Năm 2013, tổ chức thành công cuộc
diễn tập khu vực phòng thủ thành phố Hà Nội (HN-13) đạt kết quả tốt, được
Bộ Quốc phòng đánh giá cao.
Phổ biến, giáo dục pháp luật là công tác thường xuyên, quan trọng đối
với toàn quân và toàn dân ta, nhằm trang bị kiến thức và nâng cao ý thức chấp
hành kỷ luật và pháp luật Nhà nước đối với mọi người dân. Trước yêu cầu cao
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công tác này cần tiếp tục được coi
trọng đổi mới, nâng cao chất lượng..
Ngay sau khi Luật DQTV có hiệu lực thi hành, Bộ tư lệnh thủ đô Hà Nội
đã chỉ đạo các địa phương, đơn vị tổ chức quán triệt và tuyên truyền, phổ biến
Luật DQTV nhằm nâng cao nhận thức pháp luật về DQTV và công tác DQTV
cho đội ngũ cán bộ chỉ huy quân sự các cấp, các ngành và nhân dân. Công tác
tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật DQTV theo quyết định 1602/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn Quân khu được triển khai bằng nhiều
biện pháp tích cực và hiệu quả. Bộ Tư lệnh thủ đô đã chỉ đạo các cơ quan, địa
phương, nhà trường tổ chức triển khai Hội thi tìm hiểu pháp luật về DQTV
nói chung và Luật DQTV nói riêng theo Kế hoạch số 16/KH-TM và Hướng
dẫn số 166/HD-TM của Bộ Tổng tham mưu. Đây là một trong những hình
thức tuyên truyền, giáo dục hiệu quả, trực tiếp đến mọi công dân, nhất là đối
với cán bộ chỉ huy trực tiếp làm công tác tham mưu xây dựng và chỉ đạo lực
lượng DQTV huấn luyện, hoạt động tác chiến - trị an tại cơ sở.
Hội thi tìm hiểu về Luật DQTV được tiến hành sâu rộng từ cơ sở đến cấp
Bộ tư lệnh thủ đô. Để Hội thi đạt kết quả tốt, Quân khu chọn các quận Ba
50
Đình, huyện Đan Phượng, làm “điểm” cho cấp huyện để rút kinh nghiệm chỉ
đạo các huyện (quận) tổ chức Hội thi được chặt chẽ, mang lại hiệu quả giáo
dục cao. Hội thi tìm hiểu Luật DQTV cấp quân khu đã được tổ chức nghiêm
túc, đúng kế hoạch và bảo đảm chất lượng. Hiện tại, Bộ tư lệnh thủ đô đang
chuẩn bị lực lượng tham dự tìm hiểu pháp luật về DQTV do Bộ Tổng tham
mưu tổ chức. Thông qua việc tổ chức Hội thi của cấp cơ sở, lãnh đạo, chính
quyền các cấp đã nhận thức đúng ý nghĩa, tầm quan trọng của Luật DQTV và
tập trung chỉ đạo các sở, ngành chức năng có liên quan phối hợp chặt chẽ
cùng cơ quan quân sự các cấp tổ chức có hiệu quả công tác DQTV năm 2016.
Hội thi không chỉ thu hút sự tham gia của các thành phần trong lực lượng vũ
trang, mà còn lan tỏa đến các sở, ngành, đoàn thể các cấp, thu hút đông đảo
đoàn viên, thanh niên trên địa bàn hưởng ứng và tham gia nhiệt tình. Ngoài
các đối tượng dự thi theo quy định, Thành phố còn mở rộng đến các đại đội
trực thuộc, ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức; thường vụ quận (huyện)
đoàn; cán bộ phụ trách an ninh - quốc phòng trên địa bàn dân cư.
Có thể nói, Hội thi tìm hiểu pháp luật về DQTV và công tác DQTV trên
địa bàn Bộ tư lệnh thủ đô đã đạt được mục đích, yêu cầu đề ra. Qua Hội thi,
càng khẳng định: Luật DQTV góp phần nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà
nước đối với công tác DQTV; cụ thể hoá một bước chủ trương, đường lối của
Đảng về công tác quốc phòng nói chung, công tác DQTV nói riêng. Qua đó,
góp phần giúp cho đội ngũ cán bộ các cấp làm tốt công tác tham mưu và chỉ
đạo xây dựng, huấn luyện, hoạt động của lực lượng DQTV đúng chức năng,
nhiệm vụ và luật pháp.
2.2.2. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm
công tác phổ biến pháp luật về dân quân tự vệ
Đội ngũ cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được quan tâm
bồi dưỡng, tập huấn, nâng cao năng lực thực tiễn và nghiệp vụ chuyên môn.
51
Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật được lựa chọn phù hợp với những vấn
đề thời sự của đất nước, đặc điểm từng đối tượng, địa bàn, tình hình nhiệm vụ
của các cơ quan, đơn vị; gắn công tác phổ biến, giáo dục pháp luật với quán
triệt, học tập các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc
phòng và Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Tiếp tục đẩy
mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đồng thời,
triển khai thực hiện nghiêm túc các chuyên đề phổ biến, giáo dục pháp luật do
Bộ ban hành; chú trọng phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng đặc
thù và nâng cao chất lượng công tác này trong các học viện, nhà trường quân
đội. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho lực lượng dân quân tự vệ, dự
bị động viên được các cơ quan quân sự địa phương thực hiện với chất lượng,
hiệu quả ngày càng cao, gắn với học tập chính trị, huấn luyện quân sự, giáo
dục quốc phòng, xây dựng khu vực phòng thủ... Hình thức phổ biến, giáo dục
pháp luật có sự đổi mới, phù hợp với đặc điểm đơn vị và đối tượng. Triển
khai thực hiện nghiêm túc “Ngày Pháp luật”, xây dựng “Tủ sách pháp luật”,
từng bước đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật của bộ đội. Các mô hình phổ
biến, giáo dục pháp luật đã được khẳng định trong thực tiễn những năm trước
đây, như: “Tổ tư vấn tâm lý, pháp lý quân nhân”; “Mỗi ngày một câu hỏi
pháp luật”, “Mỗi tuần học một điều luật”; thi tìm hiểu pháp luật trên mạng
viễn thông; phát hành bộ tài liệu về kỹ năng sống; ngân hàng câu hỏi pháp
luật; sân khấu hóa “Ngày Pháp luật”; lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật
với biểu diễn văn nghệ; thi tìm hiểu pháp luật; “Đề án Tăng cường phổ biến,
giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân giai đoạn 2013 - 2016”… tiếp tục
phát huy trong điều kiện mới, với cách làm mới, làm phong phú thêm nội
dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng, có sức hấp
dẫn, thu hút, cổ vũ mọi người tích cực tham gia. Nhờ đó, lượng thông tin pháp
52
luật đến với cán bộ và nhân dân ngày càng phong phú, đa dạng, hấp dẫn, góp
phần điều chỉnh nhận thức, hành vi của cán bộ, nhân dân đối với pháp luật về
dân quân tự vệ.
Để đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng DQTV theo đúng quy định của
Luật, Bộ tư lệnh thủ đô chú trọng đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ quân sự xã (phường, thị trấn) theo Quyết định số 799/QĐ-TTg, ngày 25-5-
2011 của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Đề án đào tạo cán bộ quân sự xã
(phường, thị trấn) trình độ cao đẳng, đại học ngành quân sự cơ sở đến năm
2020 và những năm tiếp theo”. Thực tiễn công tác đào tạo cán bộ quân sự cấp
xã trên địa bàn Thủ đô trong những năm qua được cấp ủy, chính quyền các
cấp đặc biệt quan tâm: Từ năm 2011 đến năm 2016 các địa phương trên địa
bàn Bộ tư lệnh thủ đô đã tổ chức được 31 khóa đào tạo chỉ huy trưởng quân
sự xã (phường, thị trấn), cho 2830 đồng chí. Đội ngũ cán bộ qua đào tạo có sự
trưởng thành về mọi mặt, phát huy tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính
quyền các địa phương, cơ sở thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng
hằng năm. Trong số cán bộ đó, có 85,46% tham gia cấp ủy địa phương;
94,5% là thành viên Ủy ban nhân dân; nhiều đồng chí đã đảm nhiệm chức vụ
cao hơn trong hệ thống chính trị ở cơ sở…
Để tạo điều kiện cho chỉ huy trưởng và chỉ huy phó Ban Chỉ huy Quân
sự cấp xã được đào tạo đạt trình độ trung cấp chuyên nghiệp ngành quân sự
cơ sở trở lên theo Luật DQTV, Bộ tư lệnh thủ đô đang tập trung chỉ đạo các
địa phương rà soát chất lượng đầu vào, chủ động xây dựng kế hoạch tổ chức
đào tạo hoàn thiện cho số cán bộ đã qua các khóa đào tạo chương trình 14
tháng (Quyết định 54/QĐ-BQP), bảo đảm đúng tiêu chuẩn theo quy định của
Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trong tổ chức xây dựng lực lượng DQTV, Bộ tư lệnh thủ đô chỉ đạo các
địa phương, đơn vị chú trọng tuyển chọn đầu vào và thực hiện tốt nhiệm vụ
53
huấn luyện, diễn tập cho lực lượng DQTV, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quân
sự, quốc phòng của từng địa phương, cơ sở. Căn cứ vào Luật DQTV, Bộ tư
lệnh thủ đô chỉ đạo cơ quan quân sự các Quận, huyện tham mưu cho Uỷ ban
nhân dân Quận, huyện ban hành chỉ thị, hướng dẫn các xã (phường) thực hiện
công tác DQTV, nhất là quy trình tổ chức xây dựng lực lượng và kế hoạch
tuyển chọn đầu vào. Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ tư lệnh, cơ quan quân sự
các cấp tiến hành tổ chức đăng ký công dân trong độ tuổi DQTV và lập kế
hoạch phát triển, luân phiên DQTV ở cấp quận, huyện (thị xã) và cơ sở (xã,
phường, thị trấn) theo Luật, bảo đảm công khai, dân chủ, có sự tham gia tích
cực của nhân dân. Đến nay, lực lượng DQTV nòng cốt trên địa bàn Bộ tư lệnh
thue đô cơ bản có đủ số lượng và chất lượng theo quy định. Hiện nay, tỷ lệ
dân quân nòng cốt đạt 1,31% dân số; có đủ thành phần cơ động, tại chỗ, binh
chủng, chuyên ngành. Những năm qua, Bộ Tư lệnh đã tham mưu cho Thành
phố tổ chức đào tạo sĩ quan dự bị bằng nguồn ngân sách địa phương để bổ
sung đủ cán bộ cho các đơn vị dự bị động viên. Đồng thời, chỉ đạo cơ quan
quân sự các quận, huyện phối hợp với địa phương đẩy mạnh thực hiện Đề án
“Quy hoạch, đào tạo Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn
đến năm 2020” của Thành phố, tiến tới chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, nâng cao
chất lượng công tác quân sự, quốc phòng từ cơ sở. Đến nay, Thành phố tuyển
chọn và đào tạo được 13 khóa Chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn
trình độ đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp ngành quân sự cơ sở.
Bên cạnh đó, các địa phương và cơ quan quân sự các cấp còn quan tâm thực
hiện tốt công tác tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ, bảo đảm hoàn thành
100% chỉ tiêu, đúng luật, chất lượng có bước đột phá về trình độ văn hóa, là
địa phương dẫn đầu cả nước về tỷ lệ công dân nhập ngũ có trình độ đại học,
cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp (năm 2014 là 40%, đợt 1 năm 2015 là
49,3%). Công tác giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự cho DQTV được các
54
địa phương, cơ sở quan tâm, triển khai thực hiện đầy đủ nội dung, thời gian
theo đúng quy định. Ngoài huấn luyện thường xuyên, các địa phương còn tổ
chức hội thi xã (phường, thị) đội trưởng giỏi; hội thi mô hình, học cụ huấn
luyện DQTV; Công tác diễn tập được thực hiện theo kế hoạch; mỗi năm, các
tỉnh đều tổ chức diễn tập tác chiến - trị an cho 20 - 25% đầu mối đơn vị cấp
xã. Năm 2010, các địa phương đã chỉ đạo 17 quận (huyện, thị xã), 225 xã
(phường, thị trấn) tổ chức diễn tập tác chiến - trị an, 11 xã diễn tập phòng
chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn, 10 xã diễn tập phòng không nhân dân, 12 xã
diễn tập các hình thức chiến thuật DQTV.
2.2.3. Tình hình tổ chức thực hiện các nội dung về pháp luật dân
quân tự vệ trên địa bàn Hà Nội.
Sau khi Luật DQTV được ban hành, Bộ CHQS thủ đô Hà Nội đã chủ
động phối hợp với các sở, ban, ngành có liên quan tham mưu cho Thành uỷ,
HĐND, UBND thành phố lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện sát với đặc
điểm tình hình của địa phương.
Bộ Tư lệnh thủ đô Hà Nội đã tham mưu cho Thành ủy và UBND
Thành phố ban hành chỉ thị Chỉ thị số 07-CT/TU của Thành ủy, Chỉ thị số
12/CT-UBND của UBND Thành phố về tổ chức thi tìm hiểu pháp luật về
DQTV; thành phố đã chỉ đạo quận Ba Đình làm điểm để rút kinh nghiệm
trong toàn thành phố. Bộ CHQS thành phố tổ chức hội thi tìm hiểu pháp luật
DQTV và công tác DQTV đạt kết quả tốt. Công tác tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về DQTV kết hợp giữa tuyên truyền theo chuyên đề với tuyên
truyền thường xuyên, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, truyền
thanh nội bộ, các hoạt động giao lưu văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao...
Nét mới trong công tác tuyên truyền là Bộ tư lệnh thủ đô đã tham mưu, chỉ
đạo thị trấn, xã, phường làm điểm việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật
55
DQTV bằng hình thức sân khấu hoá, được cấp trên ghi nhận, đánh giá cao.
Để bảo đảm chế độ, chính sách cho hoạt động của lực lượng DQTV,
Bộ CHQS thành phố đã phối hợp với các cơ quan có liên quan tham mưu cho
HĐND thành phố ban hành nghị quyết số 13/2010/NQ-HĐND ngày
10/12/2010 Về cơ cấu tổ chức (thời bình); phân cấp nhiệm vụ chi và định mức
chi từ ngân sách địa phương thực hiện theo Luật Dân quân tự vệ, trên địa bàn
thành phố Hà Nội quy định mức phụ cấp, trợ cấp đối với lực lượng DQTV;
UBND thành phố ban hành quyết định 10/2011/QĐ-UBND ngày
02/03/2011về việc phân cấp nhiệm vụ chi thực hiện Luật Dân quân tự vệ giữa
các cấp ngân sách và một số chế độ, chính sách đối với lực lượng dân quân tự
vệ trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Các mức này đều cao hơn quy định của
Luật DQTV; khi Nhà nước điều chỉnh mức lương tối thiểu, thì mức phụ cấp,
trợ cấp này cũng được điều chỉnh tương ứng. Đây là một yếu tố quan trọng
giúp lực lượng DQTV yên tâm công tác, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao.
Thực hiện Chỉ thị số 16-CT/TW (ngày 5-10-2002) của Ban Bí thư T.Ư
(khoá IX) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng DQTV và
dự bị động viên trong tình hình mới”, Đảng uỷ, Bộ CHQS thành phố đã tham
mưu cho Thành uỷ, UBND Thành phố ban hành nhiều chủ trương, biện pháp
lãnh đạo, chỉ đạo nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các
tổ chức đảng, trọng tâm là giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên. Triển khai
thực hiện Quyết định 1902 (ngày 15-10-2010) của Thủ tướng Chính phủ về
“Phê duyệt đề án xây dựng mô hình điểm tổ chức, huấn luyện, hoạt động và
những biện pháp quản lý lực lượng DQTV”. Cơ quan quân sự các cấp đã làm
tốt chức năng tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương và các cơ quan,
doanh nghiệp tiến hành rà soát, củng cố, xây dựng lực lượng DQTV đúng quy
định của Luật, các văn bản hướng dẫn thi hành và điều kiện thực tế của địa
56
phương, cơ quan, đơn vị. Việc xây dựng lực lượng DQTV vững mạnh cũng là
một trong những nội dung quan trọng trong tiểu đề án “Xây dựng, bảo vệ
vững chắc khu vực phòng thủ, phục vụ Đề án thí điểm phát triển kinh tế - xã
hội nhanh, bền vững thành phố Hà Nội” mà Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội đang
triển khai nghiên cứu, xây dựng; trong đó, DQTV là lực lượng sẵn sàng tham
gia giải quyết các tình huống phức tạp và khẩn cấp. Lực lượng DQTV hiện
được xây dựng đúng tỉ lệ, thành phần theo quy định (đảng viên trên 24%,
đoàn viên trên 51%).
Sau khi Luật DQTV chính thức có hiệu lực, vào tháng 9-2010, Hà Nội
đã tổ chức hội thao DQTV với nhiều nội dung, nhằm đưa công tác huấn luyện
của lực lượng này sát với yêu cầu nhiệm vụ. Vừa qua, Bộ tư lệnh thủ đô thành
phố phối hợp với Ban Dân vận Thành phố và Công an thành phố mở lớp tập
huấn tham mưu giải quyết các vấn đề phức tạp ở cơ sở cho các đồng chí là
chính trị viên Ban CHQS cấp huyện, cấp xã và chỉ huy trưởng Ban CHQS cấp
xã; Bộ CHQS thành phố mở lớp huấn luyện cho lực lượng dân quân thường
trực làm nhiệm vụ ở xã, phường, thị trấn sẵn sàng tham gia giải quyết các tình
huống phức tạp ở địa phương, cơ sở. Tỉnh đã thực hiện cấp giấy chứng nhận
hoàn thành nghĩa vụ DQTV nòng cốt và lựa chọn DQTV đủ tiêu chuẩn, huấn
luyện bổ sung chuyển thành quân nhân dự bị hạng 1. UBND thành phố cũng
đã phê duyệt và triển khai thực hiện đề án xây dựng trụ sở làm việc cho Ban
CHQS cấp xã, sẽ hoàn thành trong 3-5 năm, với số tiền hàng trăm tỷ đồng.
Trong năm 2016 thành phố đã bảo đảm đủ 100% quân trang theo mẫu mới;
cấp kinh phí để mua sắm trang, thiết bị cho Ban CHQS cấp xã phục vụ công
tác huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu. Số kinh phí này dùng để mua sắm súng
AK và CKC để huấn luyện cho lực lượng dân quân tại 100% xã, phường, thị
57
trấn (không phải sử dụng súng thật trong huấn luyện).
2.3 Đánh giá tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ trên địa
bàn Hà Nội.
2.3.1. Kết quả đạt được
Có thể khẳng định từ khi Luật DQTV có hiệu lực, cơ quan quân sự các
cấp đã phát huy tốt vai trò nòng cốt, chủ động phối hợp với các sở, ban,
ngành, đoàn thể tham mưu lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai đồng bộ, hiệu
quả. Nhờ đó công tác DQTV của thành phố tiếp tục được phát triển mạnh mẽ,
có tính đột phá, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành nhiệm vụ công tác
QS, QPĐP.
Thực hiện Luật Dân quân tự vệ, Bộ tư lệnh thủ đô Hà Nội đã chỉ đạo các
Ban Chỉ huy quân sự quận, huyện tổ chức đăng ký công dân trong độ tuổi dân
quân tự vệ được 58.072/65.250 công dân trong độ tuổi đạt 89%. Tổ chức rà
soát kết nạp mới 8.480 DQTV đạt 12,58%, cấp giấy chứng nhận hoàn thành
nghĩa vụ Dân quân 4 năm trở lên cho 8.480 đ/c đạt 12,58% tổng số Dân quân
tự vệ.
Ban CHQS các quận đã tham mưu với Quận ủy HĐND và UBND quận
lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện toàn diện công tác Quốc phòng, quân
sự địa phương đạt chất lượng hiệu qủa tốt, trong đó các nhiệm vụ hoàn thành
xuất sắc đó là: Công tác Quy hoạch thế trận quân sự trong KVPT; công tác
Tổng điều tra quân nhân dự bị, phương tiện kỹ thuật của nền kinh tế quốc
dân; nhiệm vụ trực sẵn sàng chiến đấu bảo vệ các ngày lễ, các sự kiện chính
trị, các mục tiêu trên địa bàn, điển hình là bảo đảm an ninh, an toàn trong thực
hiện nhiệm vụ A70; công tác tập huấn, huấn luyện, hội thao; công tác xây
dựng lực lượng dân quân tự vệ; thực hiện chế độ theo Quyết định 62 của Thủ
58
tướng Chính phủ.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế
Một số cơ quan quân sự địa phương còn thiếu chủ động, linh hoạt, chưa
tạo sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ trong tham mưu giúp cấp ủy, uỷ ban nhân
dân thực hiện Đề án này. Có địa phương còn “khoán trắng” cho cơ quan quân
sự; chưa tích cực, chủ động trong triển khai nhân rộng mô hình điểm ở cấp xã.
Hiệu quả tuyên truyền, phổ biến ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân
tộc thiểu số và các doanh nghiệp còn thấp. Một số cán bộ, đảng viên, nhất là
khối doanh nghiệp chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò của của công tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật về DQTV...
Tuy đạt được một số kết quả quan trọng, nhưng sau hơn năm năm triển
khai thực hiện Luật DQTV, các địa phương trên địa bàn Quân khu vẫn còn
một số hạn chế. Ngay cả các xã (phường, thị trấn) được chọn làm điểm, tuy có
chuyển biến, tiến bộ, nhưng vẫn thiếu vững chắc; vai trò tham mưu của một
số cơ quan quân sự cho cấp ủy, chính quyền còn hạn chế; sự phối hợp với các
cơ quan, ban, ngành chức năng thiếu đồng bộ; tỷ lệ đảng viên trong DQTV
chưa đạt chỉ tiêu mà Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân khu nhiệm kỳ
2010 - 2015 đề ra; chế độ, chính sách đối với DQTV còn nhiều bất cập,...
Việc thực hiện Luật DQTV, một số văn bản quy phạm pháp luật đã bộc
lộ vướng mắc, bất cập, cần có các văn bản mới điều chỉnh cho phù hợp với sự
phát triển kinh tế, xã hội, QPAN. Xuất phát từ tình hình trên, Chính phủ đã
ban hành 2 nghị định, đó là: Nghị định số 03/2016/NĐ-CP ngày 5-1-2016 của
Chính phủ Quy định chi tiết và biện pháp thi hành một số điều của Luật
DQTV (thay thế Nghị định số 58/2010/NĐ-CP ngày 1-6-2010 của Chính
phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật DQTV);
59
Nghị định số 133/2015/NĐ-CP ngày 28-12-2015 của Chính phủ Quy định
việc phối hợp của DQTV với các lực lượng trong hoạt động bảo vệ an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở; bảo vệ và phòng, chống cháy rừng...
Tuy nhiên, qua thực tế kiểm tra ở một số địa phương trên địa bàn thành
phố Hà Nội cho thấy, công tác triển khai thực hiện văn bản mới còn chậm,
một số cán bộ ở Ban CHQS cấp xã, phường khi được hỏi về công tác xây
dựng lực lượng, hoạt động của DQTV theo nội dung văn bản mới đều chưa
nắm được, ảnh hưởng đến kết quả tham mưu, đề xuất với cấp ủy, chính quyền
địa phương, cơ sở về công tác quốc phòng, quân sự địa phương...
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác DQTV, các bộ, ngành, địa
phương cần tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện các văn bản mới ban hành.
Đây là nhiệm vụ rất quan trọng, nhằm giúp mọi cán bộ, đảng viên, các tầng
lớp nhân dân hiểu, nắm được những nội dung cơ bản của pháp luật về DQTV,
để từ đó đề cao trách nhiệm trong thực hiện. Vì vậy, các bộ, ngành, quân khu,
địa phương cần tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn, tuyên truyền, phổ biến, quán triệt,
nhằm bảo đảm sự thống nhất nhận thức, đồng thuận trong tổ chức thực hiện.
Các văn bản mới nêu rõ việc phân cấp quản lý Ban CHQS cơ quan, tổ
chức ở cơ sở, đơn vị DQTV. Đây là một trong những nội dung quy định mới
cần tập trung nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện. Về trang phục cho
DQTV, như: Quần, áo, sao, mũ, phù hiệu... văn bản mới quy định phải bảo
đảm chất lượng theo tiêu chuẩn quốc gia trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng.
Đồng thời, chế độ, chính sách cho cán bộ, chiến sĩ DQTV cũng được quy định
cụ thể, phù hợp với quy định của luật, sát với thực tiễn về yêu cầu nhiệm vụ
xây dựng DQTV và khả năng bảo đảm của từng địa phương. Đặc biệt, theo
quy định của Nghị định số 03/2016/NĐ-CP, các địa phương không thực hiện
thu quỹ QPAN, giảm đóng góp của người dân.
Đối với Nghị định số 133/2015/NĐ-CP của Chính phủ, khi nghiên cứu,
60
quán triệt cần tập trung một số điểm: Quy chế phối hợp hoạt động của các lực
lượng được quy định cụ thể, từ thẩm quyền ban hành, nội dung cơ bản của
quy chế, trách nhiệm của các cấp xây dựng quy chế và tổ chức thực hiện tại
Điều 4. Thẩm quyền điều động DQTV theo quy chế phối hợp hoạt động bảo
vệ biên giới đất liền và bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền trên các vùng biển
Việt Nam tại Điều 5. Đây là nội dung mới so với Nghị định 74/2010/NĐ-CP,
bảo đảm sự liên thông, thống nhất với Nghị định số 06/2007/NĐ-CP, Nghị
định số 34/2014/NĐ-CP và Nghị định số 161/2003/NĐ-CP về trách nhiệm
chủ trì, trách nhiệm phối hợp trong bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở
khu vực biên giới.
Thẩm quyền điều động DQTV theo quy chế phối hợp hoạt động bảo vệ an
ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở tại Điều 6. Nội dung này có bổ
sung, phát triển và cụ thể so với Nghị định số 74/2010/NĐ-CP, bảo đảm phù
hợp Nghị định số 32/2009/NĐ-CP của Chính phủ về tình trạng khẩn cấp về
quốc phòng, thiết quân luật, giới nghiêm; Nghị định số 74/2002/NĐ-CP của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Tình trạng
khẩn cấp về an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.
Trao đổi thông tin, giao ban, sơ kết, tổng kết tại Điều 9 đã tiếp thu và điều
chỉnh cụ thể chi tiết phù hợp cho từng cấp, so với Nghị định số 74/2010/NĐ-
CP với 3 nội dung mới: Ban CHQS cấp xã, Ban CHQS cơ quan, tổ chức ở cơ
sở, người đứng đầu cơ quan, tổ chức (nơi không có Ban CHQS cơ quan, tổ
chức ở cơ sở) phối hợp với cơ quan, đơn vị chủ trì tổ chức giao ban mỗi tháng
một lần; sơ kết sáu tháng đầu năm và tổng kết hằng năm về hoạt động phối
hợp. Ban CHQS cấp huyện phối hợp với cơ quan, đơn vị chủ trì tổ chức giao
ban vào cuối quý I, cuối quý III; sơ kết 6 tháng đầu năm và tổng kết hằng năm
về hoạt động phối hợp. Việc giao ban, sơ kết, tổng kết về phối hợp hoạt động
61
có thể lồng ghép vào giao ban, sơ kết, tổng kết của cơ quan, đơn vị chủ trì.
Phối hợp của DQTV trong bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền trên các
vùng biển Việt Nam tại Điều 13. Đây là nội dung mới so với Nghị định
74/2010/NĐ-CP, phản ánh đúng thực tế hiện nay DQTV hoạt động phối hợp
với nhiều đơn vị như: Bộ đội Biên phòng, Hải quân, Cảnh sát biển, Kiểm ngư
và các lực lượng khác liên quan thực hiện nhiệm vụ, chức năng tại Điều 40
Luật DQTV. Khắc phục được sự chồng chéo giữa các lực lượng phối hợp bảo
vệ an ninh khu vực biên giới, đồng thời liên thông với Nghị định số
06/2007/NĐ-CP, Nghị định số 34/2014/NĐ-CP và Nghị định số 161/2003/NĐ-
CP về trách nhiệm chủ trì, trách nhiệm phối hợp trong bảo vệ an ninh, trật tự,
an toàn xã hội ở khu vực biên giới.
Cơ quan quân sự địa phương các cấp, ban CHQS bộ, ngành Trung ương
phải chủ động, tích cực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu
cơ quan, tổ chức thực hiện tốt pháp luật về DQTV. Ban hành các văn bản lãnh
đạo, chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương, cơ sở trong tổ chức thực hiện công
tác DQTV. UBND các cấp chỉ đạo cơ quan chức năng thuộc quyền rà soát,
điều chỉnh, bổ sung quy hoạch, kế hoạch, đề án tổ chức, hoạt động, chế độ,
chính sách đối với DQTV giai đoạn 2016-2020 theo quy định của Nghị định
số 03/2016/NĐ-CP; xây dựng quy chế, điều chỉnh kế hoạch phối hợp hoạt
động giữa các lực lượng với DQTV theo quy định của Nghị định số
133/2015/NĐ-CP. Ban CHQS cấp huyện chỉ đạo kiện toàn, củng cố Ban
CHQS cấp xã sau bầu cử Hội đồng nhân dân cấp xã nhiệm kỳ 2016-2021 và
xây dựng kế hoạch tổ chức, huấn luyện, diễn tập, hoạt động của DQTV.
2.3.2.2. Nguyên nhân của hạn chế
Thứ nhất, Do nhận thức của các cấp, các ngành trên địa bàn thành phố Hà
Nội về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác PBGDPL về dân quân tự
vệ chưa đầy đủ, chưa có sự quan tâm đúng mức và phối hợp vào cuộc giữa các
62
ban, ngành, các đoàn thể. Hình thức PBGDPL về dân quân tự vệ có nơi còn
đơn điệu, không hấp dẫn, thu hút người nghe cũng là nguyên nhân ảnh hưởng
đến chất lượng PBGDPL về dân quân tự vệ.
Thứ hai, Hiện nay, hình thức chủ yếu vẫn là tuyên truyền miệng, qua
phương tiện thông tin đại chúng, cấp phát tờ gấp, tờ rơi, qua tủ sách pháp luật.
Những hình thức giáo dục pháp luật khác như hòa giải ở cơ sở, câu lạc bộ, hội
thi thu hút được đông đảo người tham gia, nhưng ít có điều kiện tổ chức. Chất
lượng dạy học môn Giáo dục công dân, môn Pháp luật ở các trường học còn
thấp. Đội ngũ làm công tác PBGDPL về dân quân tự vệ đa số là kiêm nhiệm
nên về mặt nào đó chưa thật toàn tâm, toàn ý với hoạt động PBGDPL về dân
quân tự vệ. Kiến thức pháp luật, năng lực sư phạm, kỹ năng truyền đạt của một
số báo cáo viên, truyền truyền viên còn hạn chế nên ảnh hưởng không nhỏ đến
hiệu quả giáo dục pháp luật.
Thứ ba, Công tác đăng ký, quản lý dân quân rộng rãi chưa chặt chẽ,
công dân trong độ tuổi dân quân tự vệ, thống kê chưa đầy đủ, còn thiếu nhiều
thông tin, tỷ lệ nữ trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ DQTV còn thấp.
Triển khai thực hiện công tác đăng ký công dân trong độ tuổi thực hiện
nghĩa vụ quân sự còn hạn chế như: Việc cập nhật các thông tin khi có thay đổi
của công dân trong độ tuổi sẵn sàng nhập ngũ chưa kịp thời nhất là đối với
công dân thi đỗ vào các trường cao đẳng, đại học;
Thứ tư, Mặt khác, chế độ thù lao đối với những người làm công tác GDPL
về dân quân tự vệ chưa tương xứng, nên chưa tạo động lực mạnh mẽ cho họ
khi thực hiện nhiệm vụ PBGDPL về dân quân tự vệ.
Thực hiện chế độ chính sách theo Quyết định 62 của Thủ tướng Chính
phủ còn chậm; công tác phối hợp với Hội Cựu chiến binh, cán bộ lao động
thương binh và xã hội trong việc giải quyết một số chế độ về chính sách hậu
phương quân đội theo Thông tư 158/TT-BQP ngày 15/8/2011 của Bộ Quốc
63
phòng về một số chế độ chính sách đối với cán bộ Quân đội nghỉ hưu chưa
chặt chẽ. Việc thực hiện chế độ tang lễ đối với cấp úy; chế độ giám định
thương tật, chế độ giám định bệnh hiểm nghèo hiệu quả chưa cao;
Kinh phí dành cho hoạt động PBGDPL về dân quân tự vệ có nơi còn khó
khăn, nhất là ở cơ sở, mất cân đối giữa nhu cầu và khả năng đáp ứng. Cùng với
điều kiện khó khăn về cơ sở vật chất, máy móc thiết bị, phương tiện đi lại...
cũng ảnh hưởng tới hiệu quả PBGDPL về dân quân tự vệ, từ đó dẫn tới kỷ
cương, phép nước bị có nơi còn lỏng lẻo, chưa nghiêm .
Kinh phí chi cho công tác Quốc phòng, quân sự địa phường thông
qua HĐND phường còn thấp chưa đạt được so với chỉ tiêu nhiệm vụ theo
64
quy định.
Tiểu kết chương 2
Chương 2 của luận văn là việc nghiên cứu thực trạng công tác tổ chức
thực hiện Luật Dân quân tự vệ từ thực tiễn thủ đô Hà Nội, trong chương này
đã thực hiện nghiên cứu khái quát lực lượng dân quân tự vệ trên địa bàn thành
phố Hà Nội về số lượng, chất lượng và cơ cấu tổ chức của Bộ tư lệnh Thủ đô
Hà Nội và Ban chỉ huy quân sự các quận (huyện) và các phường, xã , thị trấn,
qua đó có cái nhìn tổng quan về lực lượng dân quân tự vệ, để tiếp nghiên cứu
thực trạng tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ từ thực tiễn Thành phố Hà
Nội qua các mặt tuyên truyền, phổ biến pháp luật về dân quân tự vệ trên địa
bàn thành phố Hà Nội, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
làm công tác phổ biến pháp luật về dân quân tự vệ và tổ chức thực hiện các
nội dung về pháp luật dân quân tự vệ trên địa bàn Hà Nội. Từ đó có thể đánh
giá tìm ra các mặt đã đạt được cũng như những hạn chế của việc tổ chức thực
hiện Luật Dân quân tự vệ từ thực tiễn của Thủ đô Hà Nội, qua các mặt hạn
chế trên cũng tìm ra được các nguyên nhân hạn chế để có thể tìm các giải
pháp khắc phục nhằm đảm bảo việc thực hiện Luật Dân quân tự vệ trên địa
65
bàn thành phố Hà Nội được tốt hơn.
Chương 3
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN QUÂN TỰ VỆ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Quan điểm bảo đảm tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ
3.1.1. Quán triệt các nguyên tắc xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ
Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ lớn mạnh rộng khắp coi trọng chất
lượng là chính , không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp trước hết là chính
trị. Đây chính là vấn đề mang tính nguyên tắc và cũng là vấn đề mang tính
chất cơ bản hàng đầu trong xây dựng lực lượng dân quân tự vệ hiện nay.
Trước tiên phải xây dựng kỷ cương, chặt chẽ về tổ chức, nghiêm về kỷ luật và
xây dựng một cách toàn diện về tổ chức, biên chế, lãnh đạo , có cơ chế lãnh
đạo đúng và huấn luyện tốt. Lực lượng dân quân tự vệ thực sự phải là nòng
cốt của phong trào toàn dân đánh giặc của địa phương và cơ sở. Trong quá
trình xây dựng lực lượng dân quân tự vệ cần phải đáp ứng yêu cầu vững mạnh
và rộng khắp, hơn nữa luôn coi trọng cả chất lượng và số lượng bởi vì chúng
có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo điều kiện cùng nhau phát triển. Đồng
thời còn ảnh hưởng lẫn nhau để đảm bảo đáp ứng được nhiệm vụ lâu dài mà
Đảng và nhà nước đã đề ra. Ngoài ra số lượng lực lượng vũ trang là quan
trọng, song chất lượng là mặt căn bản.
Nhận thức rõ vị trí chiến lược của DQTV trong sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng lực lượng DQTV vững mạnh. Hệ
thống quan điểm của Đảng về xây dựng lực lượng DQTV được thể hiện
trong nhiều văn kiện (Nghị quyết, chỉ thị). Để góp phần thống nhất nhận
thức, quan điểm cơ bản của Đảng về nguyên tắc xây dựng lực lượng DQTV
để các địa phương, các ngành, các cấp tiếp tục quán triệt trong quá trình tổ
66
chức thực hiện.
Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, quản
lý, điều hành của các bộ, ngành, chính quyền địa phương và chỉ huy trực tiếp
của cơ quan quân sự; gắn xây dựng DQTV với kiện toàn và nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị cơ sở.
Hai là, xây dựng lực lượng DQTV “vững mạnh, rộng khắp”, không
ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, trước hết là chất lượng chính trị.
Ba là, DQTV là LLVT quần chúng, có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; xây dựng lực lượng DQTV là
trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị.
Từ các nguyên tắc trên cần phát huy sức mạnh tổng hợp để xây dựng
LLVT của Đảng ta. DQTV là một bộ phận của LLVT nhân dân, xây dựng lực
lượng DQTV là một nội dung quan trọng trong đường lối quốc phòng toàn
dân của Đảng. Trước yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới,
Đảng ta chủ trương xây dựng tỉnh (thành phố) thành khu vực phòng thủ vững
chắc. DQTV là một thành phần của khu vực phòng thủ, là lực lượng nòng cốt
của thế trận làng, xã. Do đó, các địa phương, cơ sở, trước hết là cấp ủy đảng,
chính quyền cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức triển khai công tác xây dựng lực lượng DQTV. Trong công tác giáo dục
chính trị, cần tập trung quán triệt hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng trong
tình hình mới; nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương; nâng cao nhận thức
về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong chiến lược “diễn biến hòa
bình”, bạo loạn lật đổ... Trong huấn luyện quân sự, nắm vững phương châm
“Cơ bản, thiết thực, chất lượng”, coi trọng việc nâng cao năng lực, phương
pháp tổ chức huấn luyện của đội ngũ cán bộ. Huấn luyện DQTV sử dụng
thành thạo vũ khí, trang bị trong biên chế; tổ chức diễn tập sát với thực tiễn
yêu cầu, nhiệm vụ QP-AN của địa phương, nhằm xử lý kịp thời, có hiệu quả
67
các tình huống xảy ra trên địa bàn. Mặt khác, cần chú trọng bảo đảm chế độ,
chính sách đối với DQTV; có chính sách hỗ trợ các xã nghèo trọng điểm về
QP-AN, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo.
3.1.2. Xác định rõ trách nhiệm trong tổ chức thực hiện Luật Dân quân
tự vệ
Trong việc đưa Luật Dân quân tự vệ vào thực thi cần xác định rõ trách
nhiệm các cơ quan quản lý nhà nước trong việc tổ chức thực hiện như sau:
Trách nhiệm của Bộ Quốc phòng, cơ quan quân sự các cấp và Ban chỉ
huy quân sự cấp xã
Bộ Quốc phòng có trách nhiệm sau:
-Trình Chính phủ ban hành và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
về dân quân tự vệ theo thẩm quyền;
- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và tổ chức thực hiện pháp luật về dân
quân tự vệ;
- Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách, đề án tổ chức, xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng,
huấn luyện, hoạt động, quản lý và nghiên cứu khoa học quân sự về dân quân
tự vệ;
- Quyết định xã trọng điểm về quốc phòng, an ninh theo quy định của
Chính phủ;
- Tổ chức, hướng dẫn thanh tra, kiểm tra, sơ kết, tổng kết, thực hiện
công tác thi đua khen thưởng; giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp
luật về dân quân tự vệ;
- Thực hiện hợp tác quốc tế về dân quân tự vệ.
Bộ Tổng tham mưu chủ trì phối hợp với các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ
Quốc phòng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thực hiện quản lý nhà
68
nước về dân quân tự vệ.
Bộ Tư lệnh Quân khu có trách nhiệm giúp Bộ Quốc phòng thực hiện
quản lý nhà nước về dân quân tự vệ trong phạm vi địa bàn quân khu, hướng
dẫn Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thống nhất nội dung, biện pháp thực hiện công
tác dân quân tự vệ.
Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Bộ chỉ huy quân sự cấp tỉnh, Ban chỉ huy
quân sự cấp huyện, Ban chỉ huy quân sự cấp xã có trách nhiệm chủ trì, phối
hợp với cơ quan hữu quan giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp tổ chức thực hiện
quản lý nhà nước về dân quân tự vệ ở địa phương.
Trách nhiệm của các bộ, ngành
Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng chỉ đạo, hướng dẫn
việc phối hợp hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã
hội giữa Công an nhân dân và dân quân tự vệ ở địa phương, cơ sở.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Quốc
phòng bố trí ngân sách chi đầu tư xây dựng cơ bản theo quy định của Luật
này và Luật ngân sách nhà nước.
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Quốc
phòng, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn lập dự toán, chấp
hành và quyết toán ngân sách nhà nước cho tổ chức, huấn luyện, hoạt động
và chế độ, chính sách của dân quân tự vệ theo quy định của Luật ngân sách
nhà nước.
Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng chỉ đạo, hướng dẫn địa
phương, bộ, ngành, cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ Ban chỉ huy quân sự cấp xã; thực hiện chế độ, chính sách
đối với cán bộ Ban chỉ huy quân sự cấp xã, Ban chỉ huy quân sự bộ, ngành
69
trung ương, Ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức ở cơ sở.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc
phòng hướng dẫn địa phương, bộ, ngành, cơ quan, tổ chức thực hiện chế độ,
chính sách đối với dân quân tự vệ theo quy định của pháp luật.
Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng ban hành
chương trình khung về đào tạo trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học
ngành quân sự cơ sở; phối hợp xây dựng quy hoạch, kế hoạch, đề án đào tạo,
bồi dưỡng cho cán bộ dân quân tự vệ theo quy định của Luật giáo dục và các
quy định khác của pháp luật có liên quan.
Các bộ, ngành và cơ quan, tổ chức ở trung ương, trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình, phối hợp với Bộ Quốc phòng thực hiện:
- Ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật để thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng dân quân tự vệ
theo quy định của pháp luật;
- Chỉ đạo, tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước về công
tác dân quân tự vệ trong thời bình, thời chiến theo nhiệm vụ được giao;
- Kết hợp việc xây dựng, huấn luyện hoạt động của dân quân tự vệ gắn
với thực hiện các nhiệm vụ chính trị trong quy hoạch, kế hoạch của bộ,
ngành, cơ quan, tổ chức.
Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp
- Trình Hội đồng nhân dân cùng cấp phê chuẩn, quyết định quy hoạch,
kế hoạch, đề án tổ chức, hoạt động, chế độ, chính sách đối với dân quân tự vệ
và dự toán thu, chi ngân sách bảo đảm cho dân quân tự vệ.
- Chỉ đạo và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về dân quân tự vệ ở
địa phương; ban hành văn bản chỉ đạo xây dựng lực lượng dân quân tự vệ
theo thẩm quyền.
- Chỉ đạo việc tổ chức, đào tạo, huấn luyện, hoạt động của dân quân tự
70
vệ; thi hành các biện pháp huy động, sử dụng dân quân tự vệ thực hiện nhiệm
vụ; chỉ đạo việc quản lý và kiểm tra vận chuyển, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ
của dân quân tự vệ; bảo đảm hậu cần, tài chính, thực hiện chế độ, chính sách
cho dân quân tự vệ theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức thực hiện quyết định mở rộng lực lượng dân quân tự vệ của
cấp có thẩm quyền; phối hợp với thanh tra quốc phòng thanh tra việc thực
hiện pháp luật về dân quân tự vệ; kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử
lý vi phạm pháp luật về dân quân tự vệ.
- Tổ chức sơ kết, tổng kết và thực hiện việc thi đua, khen thưởng về
công tác dân quân tự vệ.
Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức
-Tổ chức thực hiện sự chỉ đạo của cấp có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật về dân quân tự vệ.
- Chỉ đạo xây dựng và thực hiện kế hoạch tổ chức, huấn luyện, hoạt
động của đơn vị tự vệ nòng cốt thuộc quyền theo sự chỉ đạo, hướng dẫn của
cơ quan quân sự địa phương.
- Bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện cho việc thực hiện
nhiệm vụ tổ chức, huấn luyện, hoạt động của tự vệ nòng cốt thuộc cơ quan,
tổ chức.
- Tổ chức thực hiện quyết định mở rộng lực lượng dân quân tự vệ của
cấp có thẩm quyền; phối hợp với thanh tra quốc phòng thanh tra việc thực
hiện pháp luật về dân quân tự vệ; kiểm tra, sơ kết, tổng kết và thực hiện việc
thi đua, khen thưởng về công tác dân quân tự vệ thuộc cơ quan, tổ chức.
- Phối hợp với cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong việc tổ chức,
71
huấn luyện, hoạt động và bảo đảm chế độ, chính sách cho dân quân tự vệ.
3.1.3. Chú trọng kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện Luật Dân
quân tự vệ
Quốc Hội thực hiện công tác giám sát việc thực hiện Luật Dân quân tự
vệ qua hoạt động gián tiếp tại các kỳ họp quốc hội, Hoạt động giám sát trực
tiếp của các đại biểu Quốc hội như giám sát việc thi hành Luật dân quân tự vệ
ở địa phương; tiếp xúc cử tri để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của cử tri
phản ánh lên Quốc hội và các cơ quan Nhà nước khác; giám sát việc giải
quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo về việc thực hiện Luật Dân quân tự vệ.
Các cấp ủy Đảng tổ chức thực hiện giám sát hoạt động đảm bảo việc
thực hiện Luật Dân quân tự vệ của các cơ quan cùng cấp.
Hội đồng nhân dân các cấp tổ chức thực hiện việc giám sát quá trình
thực hiện Luật Dân quân tự vệ. Ban Pháp chế Hội đồng nhân dân các quận
(huyện) đề nghị Ban Chỉ huy Quân sự các quận (huyện) tăng cường công tác
kiểm tra, chỉ đạo Ban Chỉ huy Quân sự xã, phường, thị trấn tham mưu đề xuất
việc giải ngạch hoặc quyết định kéo dài thời gian phục vụ của lực lượng dân
quân tự vệ; tăng cường công tác tuyên truyền các văn bản Luật liên quan đến
Dân quân tự vệ.
Bộ Quốc phòng (Cục dân quân tự vệ) thực hiện kiểm tra đôn đốc việc
thực hiện Luật Dân quân tự vệ ở các địa phương.
Bộ tư lệnh thủ đô Hà Nội thực hiện công tác kiểm tra việc thực hiện Luật
Dân quân tự vệ tại các quận (huyện) trên địa bàn thành phố Hà Nội, kiểm tra
các công tác tuyên truyền, hướng dẫn và tổ chức đánh giá việc thực hiện Luật
Dân quân tự vệ.
Bộ chỉ huy quân sự trực tiếp kiểm tra việc thực hiện Luật Dân quân tự
vệ; Nghị định số 58/NĐ-CP của Chính phủ nay là Nghị định số 03/2016 /NĐ
– CP ngày 05/01/2016 của Chính phủ về Quy định chi tiết và hướng dẫn thi
72
hành một số điều của Luật Dân quân tự vệ; các quận (huyện) tổ chức quán
triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc đạt chất lượng hiệu quả, trong quá trình
tổ chức thực hiện luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, chặt chẽ
của Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội.
Tổ chức đánh giá sự phù hợp, thống nhất, đồng bộ giữa Luật Dân quân
tự vệ với Hiến pháp năm 2013, các văn bản quy phạm pháp luật và điều ước
quốc tế có liên quan; những hạn chế vướng mắc, bất cập của Luật dân quân tự
vệ và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành.
Phương hướng, nhiệm vụ và đề xuất chủ trương, giải pháp nâng cao chất
lượng tổng hợp, tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về dân quân tự vệ
trong tình hình mới. Khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc
trong thực hiện công tác dân quân tự vệ.
Các sở, ngành thành phố, UBND quận, huyện, thị xã, UBND xã,
phường, thị trấn, cơ quan, tổ chức có Ban Chỉ huy quân sự cơ quan tổ chức ở
cơ sở hoặc có đơn vị tự vệ, doanh nghiệp quân đội có tổ chức tự vệ không tổ
chức hội nghị tổng kết, báo cáo tổng kết bằng văn bản, hoàn thành trước ngày
31/8/2017. Tổng kết thực hiện Luật dân quân tự vệ ở cấp thành phố hoàn
thành trước ngày 30/9/2017.
Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội chủ trì hướng dẫn nội dung tổng kết thực
hiện Luật Dân quân tự vệ để các sở, ngành thành phố, các địa phương triển
khai tổ chức thực hiện; phối hợp với Văn phòng UBND thành phố và các cơ
quan liên quan chuẩn bị chu đáo mọi mặt giúp UBND thành phố tổ chức Hội
nghị tổng kết thực hiện Luật Dân quân tự vệ đúng thời gian quy định, đạt chất
73
lượng, hiệu quả.
3.2. Giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật về Dân quân tự vệ
3.2.1. Những giải pháp định hướng việc tổ chức thực hiện Luật Dân
quân tự vệ
Để việc thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ ở nước ta hiện nay hoạt
động có hiệu quả, cần có một số giải pháp định hướng như:
Thứ nhất, Quan tâm và chú trọng tới yếu tố kinh tế, nhất là vấn đề phát
triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Yếu tố
kinh tế có ảnh hưởng rất lớn tới ý thức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ:
Nền kinh tế- xã hội phát triển năng động, bền vững sẽ là điều kiện thuận lợi
cho hoạt động thực hiện, tác động tích cực tới việc nâng cao hiểu biết pháp
luật, ý thức pháp luật về dân quân tự vệ của các tầng lớp xã hội. Ngược lại,
nền kinh tế- xã hội chậm phát triển, kém năng động và hiệu quả sẽ có thể ảnh
hưởng tiêu cực tới việc thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật. Yếu tố
kinh tế là nền tảng của sự nhận thức, hiểu biết pháp luật và thực hiện pháp
luật về dân quân tự vệ nên có tác động mạnh mẽ tới hoạt động thực hiện pháp
luật của các chủ thể pháp luật. Từ đó, niềm tin của các chủ thể đối với pháp
luật được củng cố, hoạt động thực hiện pháp luật sẽ mang tính tích cực, thuận
chiều, phù hợp với các giá trị, chuẩn mực pháp luật hiện hành. Chú trọng tới
việc thực hiện chính sách xã hội đảm bảo các nguyên tắc của công bằng xã
hội. Nó là điều kiện cần thiết cho sự ổn định chính trị, tăng cường pháp chế và
đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội,..nhờ đó, ý thức tôn trọng, chấp
hành pháp luật cũng được nâng lên một bước và việc thực hiện pháp luật của
các chủ thể trở nên tự giác và chủ động hơn.
Thứ hai, Chú ý tới yếu tố chính trị, tạo ra môi trường chính trị- xã hội ổn
định, phát triển bền vững. xây dựng cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo
của Đảng phù hợp với thực tiễn, tăng cường tính chất và mức độ của nền dân
74
chủ xã hội. Yếu tố chính trị củng cố ý thức và niềm tin chính trị của cán bộ
đảng viên và quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, điều này có
ảnh hưởng mạnh mẽ tới hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp luật về dân
quân tự vệ của các chủ thể thực hiện pháp luật, đặc biệt là các cá nhân, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật.
Thứ ba, Hoàn thiện các quy định của pháp luật về dân quân tự vệ một
cách toàn diện và đồng bộ, đảm bảo thống nhất và mang tính khả thi trước
yêu cầu mở rộng nền dân chủ xã hội và phát triển bền vững: Điều đó tạo điều
kiện cho các chủ thể thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ có thể tuân thủ
pháp luật một cách dễ dàng và nhanh chóng, mặc dù đây là cách xử sự thụ
động của các chủ thể, nhưng nó cũng có biểu hiện sự tự giác, nghiêm chỉnh
thực hiện pháp luật; cùng với đó, có thể chấp hành pháp luật và sử dụng pháp
luật thuận lợi nhất. Một hệ thống pháp luật có chất lượng thì phải đảm bảo các
yêu cầu trên, đặc biệt là tính khả khi, nghĩa là các quy định pháp luật phải có
khả năng thực hiện được trong những điều kiện kinh tế, chính trị- xã hội hiện
tại của đất nước. Theo đó các quy định pháp luật về dân quân tự vệ được ban
hành phải phù hợp với cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật hiện hành. Khi
ban hành pháp luật về dân quân tự vệ phải xem xét tới điều kiện về kinh tế,
chính trị, xã hội của đất nước có cho phép thực hiện được quy định hoặc văn
bản pháp luật đó hay không. Đồng thời cần phải tính đến các điều kiện khác
như tổ chức bộ máy nhà nước, trình độ đội ngũ cán bộ, công chức, dư luận xã
hội trong việc tiếp nhận quy định hoặc văn bản pháp luật đó, trình độ văn hóa
và kiến thức pháp lí của nhân dân.
Thứ tư, Cùng với việc quan tâm phát triển kinh tế và ổn định chính trị thì
vấn đề văn hóa- lối sống trong cộng đồng dân cư cũng rất quan trọng. Với
những mặt, những khía cạnh biểu hiện của mình như phong tục tập quán,
truyền thống văn hóa, lễ nghi, tín ngưỡng…có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt
75
động thực hiện pháp luật thể hiện trên các mặt: phong tục tập quán trong cộng
đồng xã hội có ảnh hưởng nhất định tới hoạt động thực hiện pháp luật về dân
quân tự vệ của các tầng lớp nhân dân, thể hiện đặc biệt rõ nét ở khu vực nông
thôn. Lối sống thành thị quan hệ dòng họ, thân tộc bộc lộ những tác động nhất
định tới việc thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ, đặc biệt là tác động mạnh
mẽ của dư luận xã hội.
3.2.2 Giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện Luật Dân quân tự vệ từ
thực tiễn thành phố Hà Nội
3.2.2.1. Nhóm giải pháp về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ
Xây dựng, củng cố lực lượng DQTV là nhiệm vụ của cả hệ thống chính
trị và toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để hoàn thành nhiệm vụ trên,
chúng ta cần nắm chắc đường lối của Đảng về xây dựng dân quân tự vệ, bám
sát thực tiễn và làm tốt những vấn đề sau:
Một là, tổ chức tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho mọi cán
bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nhận thức đầy đủ, sâu sắc vị trí, vai trò
của lực lượng DQTV đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai là, Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tiếp tục quán triệt những quan
điểm cơ bản của Đảng về tăng cường quốc phòng, an ninh, nhất là Nghị quyết
Trung ương 8 (khóa XI) của Bộ Chính trị về: "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới"; Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng
các tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới;
Nghị định số 152/2007/NĐ-CP của Chính phủ về khu vực phòng thủ; Kết
luận số 41-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục thực hiện
Chỉ thị số 16-CT/TW về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng
DQTV và lực lượng DBĐV trong tình hình mới" nhằm tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng, cần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục để các
76
tổ chức, các lực lượng, mọi cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân nhận thức
đúng về vị trí, vai trò của lực lượng DQTV và nhiệm vụ xây dựng lực lượng
DQTV.
Ba là, Tập trung tuyên truyền, giáo dục về đường lối, quan điểm xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân đáp
ứng yêu cầu tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc của Đảng; truyền
thống vẻ vang của lực lượng DQTV trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tình hình và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, nhiệm vụ của lực lượng DQTV trong thời kỳ mới; âm mưu, thủ
đoạn của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta... Để thực hiện tốt
các nội dung đó, cấp ủy, chính quyền các cấp, các tổ chức, lực lượng cần phải
tích cực, chủ động, vận dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp, huy động
mọi phương tiện, bảo đảm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn
vị. Có như vậy mới tạo thành sức mạnh tổng hợp, nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân trong xây dựng lực
lượng DQTV hiện nay.
Xây dựng, củng cố lực lượng DQTV phải gắn với xây dựng cơ sở vững
mạnh toàn diện, làm nền tảng để xây dựng khu vực phòng thủ của Bộ tư lệnh
thủ đô ngày càng vững chắc.
Tích cực, chủ động phòng, chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch nhằm gây mất ổn định chính trị. Chỉ đạo lực lượng DQTV phối hợp với
bộ đội và các lực lượng khác để bảo vệ an ninh trật tự ở địa bàn. Giải quyết
kịp thời, đúng pháp luật những đòi hỏi chính đáng của nhân dân, không để các
thế lực thù địch lợi dụng kích động, xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước. Thường xuyên nêu cao cảnh giác, chủ động chuẩn
bị các phương án đấu tranh ngăn chặn các nhóm phản động, kịp thời dập tắt
mọi âm mưu gây rối, bạo loạn. Động viên mọi cán bộ, chiến sĩ DQTV tích
77
cực chủ động, làm nòng cốt cùng toàn dân phòng, chống lụt bão, tìm kiếm,
cứu nạn, bảo vệ rừng, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch họa. Phối hợp tuyên
truyền, vận động người thân trong gia đình, mọi người chấp hành tốt chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, tích cực tham gia các phong trào
"xóa đói, giảm nghèo", "đền ơn, đáp nghĩa", "xây dựng nông thôn mới"... góp
phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa bàn cơ sở.
3.2.2.2. Nhóm giải pháp về công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật về dân quân tự vệ
Một số cơ quan quân sự địa phương còn thiếu chủ động, linh hoạt, chưa
tạo sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ trong tham mưu giúp cấp ủy, uỷ ban nhân
dân thực hiện Đề án này. Có địa phương còn “khoán trắng” cho cơ quan quân
sự; chưa tích cực, chủ động trong triển khai nhân rộng mô hình điểm ở cấp xã.
Hiệu quả tuyên truyền, phổ biến ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân
tộc thiểu số và các doanh nghiệp còn thấp. Một số cán bộ, đảng viên, nhất là
khối doanh nghiệp chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò của của công tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật về DQTV...
Để phát huy kết quả bước đầu và khắc phục những hạn chế, bất cập trên,
các cấp, các ngành, các địa phương cần tập trung thực hiện tốt những vấn đề
chủ yếu sau:
Một là, cần xác định rõ công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
công tác quốc phòng, quân sự nói chung, pháp luật về DQTV nói riêng là
nhiệm vụ quan trọng thường xuyên của cả hệ thống chính trị, của các cấp, các
ngành, các cơ quan, tổ chức, địa phương và của lực lượng vũ trang. Nhiệm vụ
này cần được cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức lãnh
đạo, chỉ đạo thường xuyên, chặt chẽ, hiệu quả.
Hai là, cần có sự phối hợp giữa BQP với Bộ Thông tin và Truyền thông,
Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và các cơ quan thông
78
tấn, báo chí Trung ương trong việc tuyên truyền pháp luật về DQTV. Trong
đó, tập trung tuyên truyền cho khối các doanh nghiệp và các địa bàn vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Bên cạnh việc thường xuyên
đưa tin về các sự kiện, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam
cần duy trì việc phổ biến kiến thức trên VTV2, mở chuyên mục phát sóng
định kỳ trong Chương trình Truyền hình Quân đội nhân dân về công tác
DQTV. Báo Quân đội nhân dân, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, Tạp chí
DQTV - Giáo dục quốc phòng... tiếp tục duy trì và phát huy các chuyên trang,
chuyên mục về giáo dục quốc phòng, qua đó kịp thời làm rõ quan điểm, chủ
trương của Đảng về công tác DQTV, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền,
đoàn thể và nhân dân trong xây dựng lực lượng DQTV. Mặt khác, báo chí
cũng là diễn đàn trao đổi kinh nghiệm và phát hiện những nhân tố mới, các
điển hình trong triển khai và thực hiện Luật DQTV.
Ba là, cần tiến hành tổng kết, rút kinh nghiệm về xây dựng mô hình điểm
cấp xã về tuyên truyền, phổ biến pháp luật về DQTV và triển khai nhân rộng
mô hình này cho phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ của từng địa phương, cơ sở.
Bên cạnh đó, tiếp tục tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về DQTV
bằng nhiều hình thức, biện pháp khác, nhất là thông qua đội ngũ cán bộ, đảng
viên, báo cáo viên ở cơ sở. Hiện nay, cả nước có hàng vạn nhà văn hóa cấp
xã, thôn là thiết chế văn hóa có nhiều tiềm năng, nhưng chưa được sử dụng có
hiệu quả do nhiều nguyên nhân. Vì vậy, các địa phương cần đầu tư kinh phí,
huy động các nguồn lực, nhất là từ các doanh nghiệp, những người hảo tâm để
sửa chữa, nâng cấp, mua sắm trang, thiết bị, sách, báo, tài liệu, băng hình...
phục vụ cho công tác tuyên truyền pháp luật về DQTV. Trước mắt, mỗi nhà
văn hóa nên có tủ sách để phục vụ nhu cầu tìm hiểu pháp luật và đọc sách,
báo của nhân dân.
Bốn là, thông qua tuyên truyền, phổ biến và kết quả triển khai thực hiện
79
Luật DQTV, các địa phương, cơ sở, cần kịp thời phát hiện những vướng mắc,
bất cập và có những kiến nghị, đề xuất với cơ quan có thẩm quyền để nghiên
cứu, sửa đổi, bổ sung, giúp cho hệ thống pháp luật về DQTV ngày càng hoàn
thiện hơn, phù hợp với thực tiễn và yêu cầu, nhiệm vụ QP-AN trong tình hình
mới. Các cơ quan chức năng cần giúp BQP chủ trì phối hợp với Bộ Tư pháp,
Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục cập nhật, bổ sung, hoàn thiện hệ thống tài
liệu, giáo trình pháp luật về DQTV, in và phát hành các tài liệu này đến từng
địa phương, cơ sở.
Tổ chức phổ biến, giáo dục luật dân quân tự vệ trong các Ban chỉ huy
quân sự các quận, huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Một là, phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy
các cấp đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luậ về dân quân tự vệ.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và người chỉ huy ở các Ban chỉ huy
quân sự các quận, huyện là yếu tố quyết định đảm bảo cho công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật đạt hiệu quả thiết thực. Bởi vậy, cấp ủy, chỉ huy ban quân
sự quận, huyện cần bám sát tình hình, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng để có
chủ trương, biện pháp lãnh đạo tổ chức thực hiện toàn diện, đồng bộ, hiệu
quả; đưa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật vào nghị quyết lãnh đạo của
cấp ủy, chương trình, kế hoạch công tác của Ban chỉ huy quân sự các quận,
huyện và các tổ chức quần chúng. Phát huy vai trò của cấp ủy viên phụ trách
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong chỉ đạo, theo dõi, bám nắm đơn vị
và chịu trách nhiệm về kết quả tổ chức thực hiện. Cấp ủy, chỉ huy các cấp cần
nghiên cứu, nắm vững pháp luật, điều lệ, điều lệnh của quân đội, tình hình
chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội để lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức
tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ và nhân dân nhận thức đầy đủ về vị trí, ý
nghĩa, vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đối với xây dựng và
thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Trên cơ sở nghị quyết lãnh đạo của
80
cấp ủy, người chỉ huy cụ thể hóa thành kế hoạch, chương trình, phối hợp tổ
chức thực hiện; lồng ghép nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật với công tác
giáo dục chính trị, quản lý tư tưởng, duy trì nền nếp, chế độ, xử lý kiên quyết
mọi hành vi vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội và quy định của
đơn vị. Trong quá trình thực hiện, phải đổi mới phong cách lãnh đạo, chỉ đạo
theo hướng sâu sát cơ sở, bám nắm nhu cầu bộ đội, tình hình chấp hành kỷ
luật của đơn vị để triển khai thực hiện chương trình, đề án, kế hoạch công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật đúng tiến độ, đảm bảo linh hoạt, sinh động,
phong phú, hiệu quả.
Hai là, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hội đồng phối hợp
phổ biến, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ các cấp.
Trước mắt, các cơ quan, đơn vị cần tập trung củng cố, kiện toàn hội
đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật cả về cơ cấu, nhân sự, thành phần,
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, có chất lượng; hoàn thiện thể chế, quy chế
hoạt động, kế hoạch công tác của hội đồng. Đồng thời, tiến hành rà soát, đánh
giá chất lượng, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, báo cáo viên, tuyên truyền viên
pháp luật của đơn vị, làm cơ sở để xây dựng, bồi dưỡng, phát huy vai trò của
đội ngũ này trong thực hiện nhiệm vụ. Cán bộ làm công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật phải được lựa chọn kỹ cả về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống, kiến thức pháp luật, khả năng truyền đạt, ý thức tổ chức kỷ luật và có
sức cảm hóa, thu phục người nghe. Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục
pháp luật các cấp cần bám sát chức năng, nhiệm vụ, tăng cường theo dõi, đôn
đốc thực hiện chương trình, đề án phổ biến, giáo dục pháp luật đã được xác
định; kịp thời phát hiện những vấn đề vướng mắc, những nơi làm chưa tốt để
chấn chỉnh, rút kinh nghiệm. Hội đồng Phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật
Bộ Quốc phòng cần tham mưu, tư vấn cho chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân
sự các cấp làm tốt công tác quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật;
81
đề xuất nội dung, hình thức, biện pháp triển khai tuyên truyền các đề án, các
luật đã được thông qua và tiếp tục theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn các cơ quan,
đơn vị thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đúng tiến độ, hiệu quả.
Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật các cơ quan, đơn vị làm tốt
việc tham mưu, tư vấn, đề xuất nội dung, hình thức, biện pháp quản lý, chỉ
đạo, điều hành công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; hướng dẫn, tư vấn thực
hiện pháp luật về dân quân tự vệ bằng nhiều nội dung, hình thức phong phú,
sáng tạo, phù hợp với đặc thù quân đội. Phát huy vai trò nòng cốt trong phối
hợp với các cơ quan chức năng đảm bảo cho công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật được thực hiện một cách toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; tăng cường
chấn chỉnh khâu yếu, mặt yếu, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động.
Ba là, tích cực đổi mới nội dung, hình thức công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật về dân quân tự vệ.
Việc đổi mới phải xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm, tình
hình, nhận thức của các đối tượng trong đơn vị và mục đích, yêu cầu mà công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật đề ra, phù hợp với sự phát triển của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Về nội dung, cần bám sát
các chuyên đề phổ biến, giáo dục pháp luật của trên, cụ thể hóa sao cho sát
với đặc điểm của đơn vị và từng đối tượng. Đối với can bộ trong Bộ tư lệnh
Thủ đô cần được trang bị kiến thức lý luận chung về nhà nước và pháp luật;
pháp luật về quốc phòng, an ninh, kinh tế, hành chính và các văn bản pháp
luật liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn công tác. Các nhóm
đối tượng khác được phổ biến, giáo dục các quy định của pháp luật về dân
quân tự vệ. Đồng thời, các đơn vị cần tích cực tham gia phổ biến, tuyên
truyền, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ cho nhân dân trên địa bàn đóng
quân, nhất là trên vùng sâu, vùng xa.. Coi trọng công tác sơ kết, tổng kết, rút
kinh nghiệm, xác định mặt làm được, chưa làm được, tìm cách làm hay, nhân
82
tố mới để xây dựng và nhân rộng. Về hình thức, tiếp tục phát huy hiệu quả
các mô hình, cách làm đã được khẳng định; đồng thời, bám sát thực tiễn sinh
động trong môi trường quân đội để bổ sung, làm phong phú thêm nội dung,
hình thức, biện pháp phù hợp với nhu cầu pháp luật về dân quân tự vệ. Sử
dụng có hiệu quả Tủ sách, Ngăn sách pháp luật, không ngừng cập nhật nội
dung mới, phong phú, có tính giáo dục cao. Bên cạnh chương trình, đề án
giáo dục chung, các đơn vị cần tăng cường giáo dục bổ trợ và các hoạt động
giao lưu, văn hóa, văn nghệ, thi tìm hiểu pháp luật... bằng nhiều cách làm
sáng tạo, đa dạng, thu hút đông đảo cán bộ và nhân dân tham gia.
Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp trong triển khai tổ chức thực hiện.
Để công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ mang lại
hiệu quả thiết thực, cần có sự vào cuộc của các tổ chức, lực lượng, phương
tiện, tạo môi trường thuận lợi đưa văn hóa pháp luật vào cuộc sống hàng ngày
của cơ quan, đơn vị. Theo đó, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, duy
trì chuyên trang, chuyên mục, tăng dung lượng, thời lượng phát sóng về tuyên
truyền, phổ biến pháp luật; tăng cường thông tin về hoạt động xây dựng và
thực hiện pháp luật, các điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt” trong
chấp hành pháp luật. Đồng thời, nâng cao năng lực thực thi pháp luật, duy trì
nền nếp chính quy; giải quyết hài hòa các mối quan hệ; phối hợp với địa
phương nơi đóng quân, gia đình trong việc giáo dục pháp luật cho quân nhân.
Mặt khác, phải tạo điều kiện về kinh phí, vật chất, phương tiện hoạt động;
chăm lo bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần, động viên cán bộ, chiến sĩ tự
giác phấn đấu, rèn luyện theo các chuẩn mực pháp luật đề ra.
Tổ chức phổ biến, giáo dục luật dân quân tự vệ trong các Ban chỉ huy
quân sự các quận, huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Một là, phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy
83
các cấp đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luậ về dân quân tự vệ.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và người chỉ huy ở các Ban chỉ huy
quân sự các quận, huyện là yếu tố quyết định đảm bảo cho công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật đạt hiệu quả thiết thực. Bởi vậy, cấp ủy, chỉ huy ban quân
sự quận, huyện cần bám sát tình hình, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng để có
chủ trương, biện pháp lãnh đạo tổ chức thực hiện toàn diện, đồng bộ, hiệu
quả; đưa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật vào nghị quyết lãnh đạo của
cấp ủy, chương trình, kế hoạch công tác của Ban chỉ huy quân sự các quận,
huyện và các tổ chức quần chúng. Phát huy vai trò của cấp ủy viên phụ trách
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong chỉ đạo, theo dõi, bám nắm đơn vị
và chịu trách nhiệm về kết quả tổ chức thực hiện. Cấp ủy, chỉ huy các cấp cần
nghiên cứu, nắm vững pháp luật, điều lệ, điều lệnh của quân đội, tình hình
chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội để lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức
tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ và nhân dân nhận thức đầy đủ về vị trí, ý
nghĩa, vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đối với xây dựng và
thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Trên cơ sở nghị quyết lãnh đạo của
cấp ủy, người chỉ huy cụ thể hóa thành kế hoạch, chương trình, phối hợp tổ
chức thực hiện; lồng ghép nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật với công tác
giáo dục chính trị, quản lý tư tưởng, duy trì nền nếp, chế độ, xử lý kiên quyết
mọi hành vi vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội và quy định của
đơn vị. Trong quá trình thực hiện, phải đổi mới phong cách lãnh đạo, chỉ đạo
theo hướng sâu sát cơ sở, bám nắm nhu cầu bộ đội, tình hình chấp hành kỷ
luật của đơn vị để triển khai thực hiện chương trình, đề án, kế hoạch công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật đúng tiến độ, đảm bảo linh hoạt, sinh động,
phong phú, hiệu quả.
Hai là, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hội đồng phối hợp
84
phổ biến, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ các cấp.
Trước mắt, các cơ quan, đơn vị cần tập trung củng cố, kiện toàn hội
đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật cả về cơ cấu, nhân sự, thành phần,
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, có chất lượng; hoàn thiện thể chế, quy chế
hoạt động, kế hoạch công tác của hội đồng. Đồng thời, tiến hành rà soát, đánh
giá chất lượng, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, báo cáo viên, tuyên truyền viên
pháp luật của đơn vị, làm cơ sở để xây dựng, bồi dưỡng, phát huy vai trò của
đội ngũ này trong thực hiện nhiệm vụ. Cán bộ làm công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật phải được lựa chọn kỹ cả về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống, kiến thức pháp luật, khả năng truyền đạt, ý thức tổ chức kỷ luật và có
sức cảm hóa, thu phục người nghe. Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục
pháp luật các cấp cần bám sát chức năng, nhiệm vụ, tăng cường theo dõi, đôn
đốc thực hiện chương trình, đề án phổ biến, giáo dục pháp luật đã được xác
định; kịp thời phát hiện những vấn đề vướng mắc, những nơi làm chưa tốt để
chấn chỉnh, rút kinh nghiệm. Hội đồng Phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật
Bộ Quốc phòng cần tham mưu, tư vấn cho chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân
sự các cấp làm tốt công tác quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật;
đề xuất nội dung, hình thức, biện pháp triển khai tuyên truyền các đề án, các
luật đã được thông qua và tiếp tục theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn các cơ quan,
đơn vị thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đúng tiến độ, hiệu quả.
Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật các cơ quan, đơn vị làm tốt
việc tham mưu, tư vấn, đề xuất nội dung, hình thức, biện pháp quản lý, chỉ
đạo, điều hành công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; hướng dẫn, tư vấn thực
hiện pháp luật về dân quân tự vệ bằng nhiều nội dung, hình thức phong phú,
sáng tạo, phù hợp với đặc thù quân đội. Phát huy vai trò nòng cốt trong phối
hợp với các cơ quan chức năng đảm bảo cho công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật được thực hiện một cách toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; tăng cường
85
chấn chỉnh khâu yếu, mặt yếu, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động.
Ba là, tích cực đổi mới nội dung, hình thức công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật về dân quân tự vệ.
Việc đổi mới phải xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm, tình
hình, nhận thức của các đối tượng trong đơn vị và mục đích, yêu cầu mà công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật đề ra, phù hợp với sự phát triển của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Về nội dung, cần bám sát
các chuyên đề phổ biến, giáo dục pháp luật của trên, cụ thể hóa sao cho sát
với đặc điểm của đơn vị và từng đối tượng. Đối với can bộ trong Bộ tư lệnh
Thủ đô cần được trang bị kiến thức lý luận chung về nhà nước và pháp luật;
pháp luật về quốc phòng, an ninh, kinh tế, hành chính và các văn bản pháp
luật liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn công tác. Các nhóm
đối tượng khác được phổ biến, giáo dục các quy định của pháp luật về dân
quân tự vệ. Đồng thời, các đơn vị cần tích cực tham gia phổ biến, tuyên
truyền, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ cho nhân dân trên địa bàn đóng
quân, nhất là trên vùng sâu, vùng xa.. Coi trọng công tác sơ kết, tổng kết, rút
kinh nghiệm, xác định mặt làm được, chưa làm được, tìm cách làm hay, nhân
tố mới để xây dựng và nhân rộng. Về hình thức, tiếp tục phát huy hiệu quả
các mô hình, cách làm đã được khẳng định; đồng thời, bám sát thực tiễn sinh
động trong môi trường quân đội để bổ sung, làm phong phú thêm nội dung,
hình thức, biện pháp phù hợp với nhu cầu pháp luật về dân quân tự vệ. Sử
dụng có hiệu quả Tủ sách, Ngăn sách pháp luật, không ngừng cập nhật nội
dung mới, phong phú, có tính giáo dục cao. Bên cạnh chương trình, đề án
giáo dục chung, các đơn vị cần tăng cường giáo dục bổ trợ và các hoạt động
giao lưu, văn hóa, văn nghệ, thi tìm hiểu pháp luật... bằng nhiều cách làm
sáng tạo, đa dạng, thu hút đông đảo cán bộ và nhân dân tham gia.
86
Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp trong triển khai tổ chức thực hiện.
Để công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ mang lại
hiệu quả thiết thực, cần có sự vào cuộc của các tổ chức, lực lượng, phương
tiện, tạo môi trường thuận lợi đưa văn hóa pháp luật vào cuộc sống hàng ngày
của cơ quan, đơn vị. Theo đó, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, duy
trì chuyên trang, chuyên mục, tăng dung lượng, thời lượng phát sóng về tuyên
truyền, phổ biến pháp luật; tăng cường thông tin về hoạt động xây dựng và
thực hiện pháp luật, các điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt” trong
chấp hành pháp luật. Đồng thời, nâng cao năng lực thực thi pháp luật, duy trì
nền nếp chính quy; giải quyết hài hòa các mối quan hệ; phối hợp với địa
phương nơi đóng quân, gia đình trong việc giáo dục pháp luật cho quân nhân.
Mặt khác, phải tạo điều kiện về kinh phí, vật chất, phương tiện hoạt động;
chăm lo bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần, động viên cán bộ, chiến sĩ tự
giác phấn đấu, rèn luyện theo các chuẩn mực pháp luật đề ra.
3.2.2.3. Nhóm giải pháp về phát huy vai trò của cấp ủy Đảng, chính
quyền địa phương trong thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ trên địa bàn
thành phố Hà Nội
Trên cơ sở đó, đề ra những chủ trương, giải pháp thiết thực, hiệu quả
trong tổ chức và xây dựng lực lượng DQTV theo chức năng, nhiệm vụ của
từng địa phương, đơn vị, cơ sở và các tổ chức chính trị - xã hội... Để thực hiện
tốt nội dung này, chính quyền các cấp cần thực hiện tốt chức năng quản lý nhà
nước về nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương, công tác DQTV; kịp thời
ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện tốt các đề án xây dựng
DQTV của Bộ tư lệnh thủ đô Hà Nội theo đúng quy định. Trong xây dựng,
củng cố lực lượng DQTV phải được kết hợp với các hoạt động phục vụ nhiệm
vụ quốc phòng, an ninh tại cơ quan và địa phương; đồng thời, thông qua hoạt
động thực tiễn để đánh giá ưu điểm, khuyết điểm, kịp thời rút kinh nghiệm, từ
87
đó nâng cao chất lượng toàn diện của các đơn vị DQTV. Mặt khác, cần tăng
cường kiểm tra, đôn đốc trách nhiệm của cán bộ các cấp, các ngành trong hệ
thống chính trị, khắc phục những khuynh hướng đùn đẩy, khoán trắng cho Bộ
tư lệnh thủ đô, Ban Chỉ huy Quân sự các quận, huyện trong xây dựng lực
lượng DQTV tại địa phương, cơ sở.
Cơ quan quân sự địa phương các cấp cần bám sát địa bàn, nắm chắc
tình hình để làm tốt hơn nữa công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền
cùng cấp ban hành nghị quyết và các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo hằng năm về
công tác quốc phòng, quân sự địa phương, đưa công tác quản lý DQTV ngày
càng nền nếp, trở thành chế độ trên cơ sở nghĩa vụ gắn chặt với quyền lợi.
Làm tốt công tác nắm và quản lý nguồn, công khai danh sách tuyển chọn,
luân chuyển DQTV nòng cốt theo phương châm "Dân biết, dân bàn, dân cử",
được cấp ủy, chính quyền xã, phường, thị trấn, người đứng đầu cơ quan, tổ
chức phê duyệt. Tập trung xây dựng, củng cố lực lượng DQTV cơ động,
DQTV phòng không, DQTV thường trực vùng biên giới, hải đảo và địa bàn
trọng điểm nội địa, đảm bảo đủ về số lượng, có chất lượng chính trị tốt theo
đúng sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng. Coi trọng công tác tổ chức, xây dựng
lực lượng DQTV đủ mạnh để tăng cường lực lượng tham gia bảo vệ chủ
quyền và lãnh hải của Tổ quốc. Đồng thời, chú trọng xây dựng, củng cố lực
lượng tự vệ trong các loại hình doanh nghiệp tại địa phương đúng với Luật
DQTV và phù hợp với tình hình cụ thể của từng địa phương, doanh nghiệp.
Tiếp tục xây dựng, nâng cao chất lượng lãnh đạo của chi bộ quân sự xã,
phường, thị trấn và đào tạo đội ngũ cán bộ quân sự ở cơ sở. Căn cứ vào hướng
dẫn của trên, cấp ủy đề xuất ban hành chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối
quan hệ công tác và quy chế hoạt động của chi bộ quân sự cấp xã, phường, thị
trấn. Coi trọng lãnh đạo công tác phát triển đảng viên, đoàn viên; qua đó nâng
cao chất lượng chính trị của lực lượng DQTV. Tuyển chọn, đào tạo và sử
88
dụng cán bộ Ban Chỉ huy Quân sự xã, phường, thị trấn theo đúng quy chế,
quy trình công tác cán bộ của Đảng. Cấp ủy, chính quyền cơ sở phải thường
xuyên chăm lo chuẩn bị nguồn, gửi đi đào tạo, bồi dưỡng để chuẩn hóa trình
độ nghiệp vụ chuyên môn của chỉ huy trưởng, Phó Chỉ huy trưởng Ban Chỉ
huy Quân sự theo thẩm quyền. Hằng năm, đội ngũ cán bộ DQTV phải được
bồi dưỡng, tập huấn cập nhật kiến thức mới về kinh tế, chính trị, quốc phòng,
an ninh, đối ngoại và ôn luyện kiến thức cơ bản về quốc phòng, quân sự theo
quy định của Bộ Quốc phòng. Đồng thời, mỗi cán bộ trong Ban Chỉ huy Quân
sự phải không ngừng tự học tập, rèn luyện để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ
quốc phòng, quân sự ở cơ sở.
Trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, trước xu thế hội nhập toàn diện đời sống kinh tế xã hội đất nước và
xây dựng Nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân,
vấn đề nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, PBGDPL về dân quân tự vệ
để qua đó củng cố, tăng cường hiệu lực pháp luật đang trở nên cấp thiết,
quan trọng. Để nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, PBGDPL về dân
quân tự vệ, nâng cao hiệu quả quản lý xã hội bằng pháp luật của các cấp
chính quyền, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của
chính quyền các cấp đối với công tác tuyên truyền, PBGDPLvề dân quân
tự vệ:
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, cần tiếp tục quán triệt Chỉ thị
số 32/CT-TW của Ban Bí thư và đẩy mạnh thực hiện các Đề án, Chương
trình, Kế hoạch của Chính phủ, Bộ Tư pháp và UBND tỉnh về tăng cường
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2015 - 2020; đồng thời triển
khai thực hiện tốt Luật phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 và các văn bản
hướng dẫn thi hành và hưởng ứng có hiệu quả Ngày “Pháp luật Việt Nam”
89
hằng năm, qua đó tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của các
tổ chức Đảng và đảng viên về công tác giáo dục pháp luật, đưa công tác
PBGDPL về dân quân tự vệ vào trong Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
đảng viên hằng năm của Ban Thường vụ cấp ủy các cấp. Các cấp ủy phải
thường xuyên tiến hành xây dựng chương trình, kế hoạch PBGDPL về dân
quân tự vệ trên địa bàn cấp mình và phải luôn xác định vai trò gương mẫu và
tiên phong của đảng viên trong việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Đồng
thời phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát hoạt động, kịp thời đôn
đốc, chỉ đạo xử lý những vướng mắc nảy sinh trong quá trình PBGDPL về
dân quân tự vệ.
Bên cạnh việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thì sự tổ chức, chỉ đạo,
hướng dẫn của chính quyền địa phương là một trong những yếu tố vô cùng
quan trong. Để nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật, tăng cường pháp chế
XHCN, chính quyền địa phương cần thực hiện tốt những vấn đề sau:
Đối với Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp: Phải từng bước nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND nói chung và trong việc ra
Nghị quyết về công tác PBDGPL về dân quân tự vệ nói riêng. Trong quá
trình hoạt động của mình, HĐND không chỉ chú ý tới việc ban hành các văn
bản QPPL mà quan trọng hơn là phải chỉ đạo, giám sát hoạt động tuyên
truyền, PBGDPL về dân quân tự vệ, xem đây là biện pháp hàng đầu trong
việc đảm bảo thi hành Hiến pháp và pháp luật trên địa bàn.
Đối với ủy ban nhân dân (UBND) các cấp: Hằng năm, UBND cần
chủ động xây dựng kế hoạch giáo dục pháp luật cho địa phương. Kế hoạch
phải phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng, Quyết định, Chỉ thị của
Thủ tướng Chính phủ, các Đề án, Chương trình, Kế hoạch của Bộ Tư pháp,
UBND thành phố và phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh tế, xã hội của
90
từng địa phương. Thực hiện tốt việc kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm và
khen thưởng kịp thời những tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong
công tác PBGDPL về dân quân tự vệ.
Hai là, chú trọng xây dựng đội ngũ làm công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật - vai trò quyết định chất lượng tuyên truyền, PBGDPL về dân
quân tự vệ:
Do vậy, cần tuyển chọn những người có phẩm chất, năng lực, trình độ,
có khả năng tuyên truyền, giáo dục hoặc hòa giải tốt, có lòng nhiệt tình, say
mê với công việc giáo dục pháp luật. Bên cạnh đó, phải đặc biệt chú trọng
việc rà soát, phân loại, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp và định hướng nội dung
giáo dục pháp luật thường xuyên cho đội ngũ làm công tác giáo dục pháp
luật (chú ý cung cấp kiến thức, cần bồi dưỡng, rèn luyện kỹ năng tuyên
truyền, PBGDPL về dân quân tự vệ, giúp họ không chỉ có kiến thức vững
mà còn có khả năng truyền đạt thu hút người nghe và có hiệu quả nội dung
pháp luật).
Ba là, đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp PBGDPL về dân
quân tự vệ:
Cần đổi mới nội dung tuyền truyền, PBGDPL về dân quân tự vệ theo
hướng không chỉ đáp ứng nhu cầu kiến thức cơ bản về pháp luật, mà còn phải
thiết thực, đáp ứng yêu cầu thực tiễn để một mặt nâng cao trình độ nhận thức
cho các đối tượng, mặt khác giúp họ có khả năng vận dụng sáng tạo vào thực
tiễn cuộc sống. Trên cơ sở nội dung PBGDPL về dân quân tự vệ đã được cung
cấp, các báo cáo viên biên soạn lại cụ thể, phù hợp với đặc điểm, điều kiện,
trình độ nhận thức, tính chất công việc của từng đối tượng. Định kỳ cần tổ
chức sơ kết, đánh giá để xây dựng cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xác
định nội dung PBGDPL về dân quân tự vệ thời gian tiếp theo.
Cần đa dạng hóa hình thức, phương pháp tuyền truyền, PBGDPL về
91
dân quân tự vệ, không chỉ thông qua các hội nghị, hệ thống truyền thanh,
công tác hòa giải ở cơ sở, hoạt động câu lạc bộ phát luật mà bằng những
cách thức khác như tọa đàm, buổi nói chuyện, hoạt cảnh tình huống, lời ca,
tiếng hát, cung cấp các tin bài, cấp phát tài liệu hỏi đáp, tờ gấp, tờ rơi, panô,
áp phích, khai thác, tìm hiểu pháp luật qua tủ sách pháp luật,.... Cần xây
dựng và mở rộng hình thức tìm hiểu pháp luật qua các hoạt cảnh trên phát
thanh hoặc truyền hình, xây dựng trang web riêng về công tác tuyên truyền,
PBGDPL để người dân có thể cập nhật thông tin, trao đổi, bàn luận và tìm
hướng giải quyết cho những vấn đề bức xúc trong đời sống pháp luật.
Ngoài ra, cần lồng ghép việc tuyên truyền, PBGDPL về dân quân tự
vệ tại các buổi sinh hoạt cộng đồng. Xây dựng và phát huy phương châm
mỗi người dân là một tuyên truyền viên trong cộng đồng. Chú trọng nâng
cao hiệu quả hình thức thi tìm hiểu pháp luật. Đối với hình thức PBGDPL về
dân quân tự vệ qua hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp luật cần mở rộng phạm
vi hoạt động, không chỉ tư vấn tại trụ sở mà còn đến các thôn xóm, cụm dân
cư, tư vấn lưu động hoặc thông qua các câu lạc bộ trợ giúp pháp lý.
Bốn là, cần nâng cao chất lượng hoạt động công tác hòa giải ở cơ sở: Đây là hình thức có tác dụng giáo dục cao vì nó không chỉ giải quyết
tranh chấp thông qua cách hướng dẫn, thuyết phục các bên tự thương lượng
với nhau mà còn xuất phát từ đạo lý dân tộc Việt Nam, hòa thuận, đoàn kết,
“chín bỏ làm mười”. Hòa giải ở cơ sở vừa có tác dụng giáo dục hiệu quả vừa
có khả năng lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng. Khi tiến hành hòa giải cần
phân tích thấu đáo mọi khía cạnh, kiên nhẫn và mềm mỏng, vừa căn cứ vào
quy định pháp luật, vừa dùng tình cảm để thuyết phục. Phải xác định hòa
giải có thể không thành, nhưng nhất định buổi hòa giải đó sẽ là bài học giáo
dục pháp luật cho mọi người.
Năm là, nâng cao chất lượng dạy học pháp luật về dân quân tự vệ
92
trong trường học
Cần đổi mới nội dung, phương pháp dạy học và hình thức ngoại khóa
pháp luật; nâng cao chất lượng dạy học môn Giáo dục công dân, môn Pháp
luật ở các trường học.
Sáu là, phải thờng xuyên hệ thống hoá văn bản QPPL về dân quân tự vệ Để phát hiện và loại bỏ những quy định pháp luật lạc hậu, trùng lắp,
mâu thuẫn, kịp thời bổ sung những thiếu sót trong mặt bằng pháp luật; có kế
hoạch xây dựng pháp luật phù hợp với mỗi giai đoạn cụ thể; đẩy mạnh công
tác nghiên cứu khoa học pháp lý, nâng cao kỹ thuật lập pháp, mở rộng các
hình thức nhân dân tham gia vào việc xây dựng pháp luật... Đồng thời phải
đảm bảo đủ kinh phí, cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động công tác tuyên
truyền, PBGDPL về dân quân tự vệ.
Bảy là, tăng cường công tác tuyền truyền, PBGDPL về dân quân tự vệ
không tách rời với việc nâng cao trình độ dân trí và cải thiện đời sống cho
nhân dân:
Các cơ quan nhà nước cần tăng cường tổ chức thực hiện pháp luật,
đặc biệt là áp dụng pháp luật một cách đúng đắn và nghiêm minh, nâng cao
và cải thiện chất lượng cuộc s
PBGDPL về dân quân tự vệ
hóa pháp lý của người dân. Hiệu quả tác động này lại phụ thuộc vào trình độ
văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ, công chức, phụ thuộc vào việc họ thực
thi pháp luật, có thái độ tôn trọng pháp luật, nhất là trong điều kiện xây
dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh thì một trong những điều
kiện quan trọng là làm sao để người dân được tham gia tích cực vào hoạt
động quản lý xã hội bằng pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần
quan trọng trong việc thúc đẩy sự lớn mạnh của tính tích cực, đảm bảo hành
trang kiến thức pháp lý cần thiết cho sự tham gia vào hoạt động xây dựng và
93
thực thi pháp luật về dân quân tự vệ trong địa bàn thành phố Hà Nội.
Tiểu kết chương 3
Sau khi xác định những nguyên nhân của hạn chế trong việc tổ chức
thực hiện Luật Dân quân tự vệ từ thực tiễn của Thành phố Hà Nội qua các
quan điểm về việc quán triệt các nguyên tắc xây dựng lực lượng dân quân tự
vệ cùng với đó là việc xác định rõ trách nhiệm trong tổ chức thực hiện lực
lượng dân quân tự vệ và việc chú trọng kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực
hiện Luật Dân quân tự vệ luận văn đã đưa ra được các nhóm giải pháp, trong
đó có giải pháp mang tính định hướng và giải pháp cụ thể để đảm bảo việc
thực hiện Luật Dân quân tự vệ là các nhóm giải pháp như: “Nhóm giải pháp
về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, Nhóm giải pháp về công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về dân quân tự vệ, Nhóm giải pháp về
phát huy vai trò của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong thực hiện
pháp luật về dân quân tự vệ trên địa bàn thành phố Hà Nội”. Các giải pháp
này phần nào đã hoàn thành việc khắc phục được những nguyên nhân hạn chế
94
ở chương 2 của luận văn.
KẾT LUẬN
Từ việc tìm hiểu và phân tích trên, cùng với thực tiễn cuộc sống hàng
ngày có thể kết luận rằng tổ chức thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ là
quá trình chuyển hóa từ “pháp luật trên giấy tờ” thành “pháp luật trong hành
động” ở các chủ thể trong xã hội. Đây là một quá trình phức tạp và lâu dài, do
đó, hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ ở nước ta
hiện nay phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Luận văn tổ chức thực hiện luật dân
quân tự vệ - từ thực tiễn thành phố Hà Nội đã đưa ra được các giải pháp để
đưa luật dân quân tự vệ đến với người dân thủ đô, việc thực hiện luật dân
quân tự vệ là trách nhiệm của mọi người dân của toàn xã hội và của các cơ
quan đơn vị trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Các giải pháp của luận văn đã đưa ra được những vấn đề về xây dựng lực
lượng dân quân tự vệ, xây dựng, củng cố lực lượng DQTV phải gắn với xây
dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, làm nền tảng để xây dựng khu vực phòng
thủ của bộ tư lệnh thủ đô ngày càng vững chắc, tổ chức phổ biến, giáo dục
luật dân quân tự vệ trong các ban chỉ huy quân sự các quận, huyện trên địa
bàn thành phố Hà Nội, phát huy vai trò của cấp ủy Đảng, chính quyền địa
phương trong thực hiện pháp luật về dân quân tự vệ trên địa bàn thành phố Hà
Nội và giải pháp về công tác tuyên truyền pháp luật về dân quân tự vệ. Các
giải pháp này cơ bản đã giải quyết được những vấn đề về tổ chức thực hiện
95
luật dân quân tự vệ trên địa bàn thành phố Hà Nội trong các năm tiếp theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương (2007), Về tổ chức Đảng trong Quân đội
nhân dân Việt Nam, Quy định số 105 ngày 20/11/2007, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2009), Kết luận Hội nghị lần thứ chín Ban
Chấp hành Trung ương khóa X, về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến
lược công tác cán bộ từ nay đến 2020, Hà Nội.
3. Bộ tổng Tham mưu (2004), Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
4. Chỉ lệnh số 82/CL-BQP ngày 14/11/2006 của BQP về sẵn sàng chiến đấu đối
với Quân đội nhân dân và Dân quân Tự vệ.
5. Chỉ lệnh số 285/CL-BTL ngày 20/10/2009 của Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thủ đô về
SSCĐ của lực lượng vũ trang Bộ Tư lệnh Thủ đô.
6. Chỉ thị số 09/CT-TTg ngày 24 tháng 3 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ
về việc tổng kết thực hiện Luật Dân quân tự vệ năm 2009;
7. Chỉ thị số 06/CT-UBND ngày 26/4/2017 của ủy ban nhân dân thành phố
Hà Nội về việc tổng kết thực hiện Luật Dân quân tự vệ năm 2009.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Đề án “xây dựng lực lượng dân quân tự vệ tỉnh Lạng Sơn giai đoạn
2016-2020”.
12. Hiến pháp năm 2013
13. Hướng dẫn số 958/HD-BTL ngày 04/5/2017 của Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà
96
Nội về việc tổng kết thực hiện Luật Dân quân tự vệ năm 2009
14. Phạm Hồng Hương “Kết quả và kinh nghiệm sau 2 năm thực hiện Luật
DQTV”, Tạp chí quốc phòng toàn dân ngày 7/6/2012
15. Luật Dân quân tự vệ, Luật số 43/2009/QH 12 của Quốc hội nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 23/11/2009
16. Nghị định số 03/2016/NĐ-CP của Chính phủ ngày 5/1/2016, quy định chi
tiết về biện pháp thi hành một số điều của Luật Dân quân tự vệ.
17. Nghị định số 133/2015/NĐ-CP ngày 28/12/2015 của Chính phủ Quy định
việc phối hợp của DQTV với các lực lượng trong hoạt động bảo vệ biên
giới, biển, đảo; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở;
bảo vệ và phòng, chống cháy rừng...
18. Quyết định số 1133/QĐ-BQP ngày 11 tháng 4 năm 2017 của Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng về ban hành kế hoạch tổng kết thực hiện Luật Dân quân
tự vệ 2009.
19. Quyết định số 1073/QĐ-BTL ngày 18/5/2016 của Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà
Nội về Thanh tra việc đăng ký, quản lý, tổ chức biên chế, trang bị, huấn
luyện, hoạt động và bảo đảm chế độ chính sách cho lực lượng DQTV.
20. Thông tư số 193/2014/TT-BQP ngày 26/12/2014 của Bộ Quốc phòng về
Ban hành tiêu chuẩn, trang phục dân quân tự vệ
21. Nguyễn Xuân Thuyết,“Thực hiện Luật Dân quân tự vệ ở Vĩnh Phúc”, tạp
97
chí quốc phòng toàn dân, ngày 22/2/2012.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT DÂN QUÂN TỰ VỆ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Luật hành chính
Mã số: 60.34.04.03
Người thực hiện: Cao Hợp Thanh
HÀ NỘI - NĂM 2017
98