VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ TƯỜNG VY
ĐẤU THẦU MUA SẮM THIẾT BỊ THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN CÁC DOANH
NGHIỆP THUỘC TẬP ĐOÀN ĐIỆN LỰC VIỆT NAM - EVN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ TƯỜNG VY
ĐẤU THẦU MUA SẮM THIẾT BỊ THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN CÁC DOANH
NGHIỆP THUỘC TẬP ĐOÀN ĐIỆN LỰC VIỆT NAM - EVN
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8. 38. 01. 17
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. LÊ MAI THANH
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
VŨ THỊ TƯỜNG VY
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ ĐẤU THẦU MUA SẮM THIẾT BỊ & LÝ
LUẬN PHÁP LUẬT ĐẤU THẦU MUA SẮM THIẾT BỊ TẠI CÁC
DOANH NGHIỆP SỬ DỤNG VỐN NHÀ NƯỚC ........................................ 7
1.1. Lý luận đấu thầu mua sắm thiết bị ...................................................... 7
1.2. Lý luận pháp luật về đấu thầu mua sắm thiết bị của các doanh nghiệp
sử dụng vốn nhà nước .............................................................................. 13
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐẤU THẦU MUA SẮM THIẾT BỊ THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN CÁC DOANH NGHIỆP
THUỘC EVN ................................................................................................. 23
2.1. Đặc điểm các doanh nghiệp thuộc EVN tác động đến hoạt động đấu
thầu mua sắm vật tư thiết bị ...................................................................... 23
2.2. Thực trạng pháp luật về nội dung đấu thầu mua sắm thiết bị tại các
doanh nghiệp sử dụng vốn nhà nước qua thực tiễn EVN .......................... 29
2.3 Thực trạng pháp luật về trình tự, hình thức và phương thức mua sắm
thiết bị tại các doanh nghiệp sử dụng vốn nhà nước qua thực tiễn EVN ... 42
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐẤU THẦU VÀ
QUY CHẾ QUẢN LÝ NỘI BỘ EVN VỀ MUA SẮM THIẾT BỊ SỬ
DỤNG VỐN NHÀ NƯỚC ............................................................................. 56
3.1. Giải pháp chung hoàn thiện pháp luật và cách thức tổ chức mua sắm
thiết bị tại các doanh nghiệp sử dụng vốn nhà nước.................................. 56
3.2. Hoàn thiện Quy chế quản lý nội bộ của EVN về đấu thầu, ................ 62
tăng cường công tác tổ chức lựa chọn nhà thầu mua sắm thiết bị tại EVN 62
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bộ KH&ĐT
Chỉ thị 13/CT-TTg của Thủ Tướng ngày 04/4/2017 ĐTXD
Chỉ thị 47/CT-TTg của Thủ tướng ngày 27/12/2017 EVN
Đầu tư xây dựng HSMT
Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia e-GP
Hồ sơ mời thầu HSMT
Kế hoạch lựa chọn nhà thầu KHLCNT
Viện trợ phát triển chính thức ODA
Vật tư thiết bị VTTB
Ngân hàng Thế giới WB
Tổ chức thương mại thế giới WTO
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Quyền và nghĩa vụ của Chủ đầu tư và Bên mời thầu........................... 36
Bảng 2.2. Quyền và nghĩa vụ của nhà thầu ........................................................... 37
Bảng 2.3. Đấu thầu mua sắm thiết bị các doanh nghiệp EVN năm 2018 .............. 48
Hình 2.1. Tình hình thực hiện đấu thầu năm 2018 EVN .............................. 24
Hình 2.2. Tình hình thực hiện đấu thầu qua mạng EVN từ năm 2011-2018 ...... 47
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mua sắm vật tư thiết bị là hoạt động không thể thiếu đối với bất kỳ một
dự án đầu tư xây dựng nào, ảnh hưởng cơ bản đến việc hoàn thành dự án do
chiếm khối lượng và chi phí đầu tư nhiều nhất trong tổng mức đầu tư dự án
(không kể chi phí đền bù). Ở Việt Nam, đấu thầu được biết đến là một
phương thức lựa chọn đối tác cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ mang lại
nhiều lợi ích kinh tế to lớn. Đặc biệt, đối với các dự án, công trình có quy mô
lớn, có yêu cầu kỹ thuật phức tạp, các dự án công trình được đầu tư bằng ngân
sách nhà nước, tài trợ của các tổ chức quốc tế hoặc chính phủ nước ngoài
hoặc Doanh nghiệp nhà nước thì đấu thầu là phương thức tốt nhất để đáp ứng
được các đòi hỏi của chủ đầu tư về chất lượng công trình, tiến độ thực hiện,
tiết kiệm chi phí xây dựng. Theo đó, đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt
động chuyên ngành đặc thù, các vật tư thiết bị chuyên biệt như ngành điện,
viễn thông, y tế,..thì hoạt động mua sắm lại còn có tính chất phức tạp hơn bởi
vừa phải thực thi đúng pháp luật đấu thầu vừa phải đảm bảo được hiệu quả
của tổ chức lựa chọn nhà thầu với chất lượng, tiến độ cung cấp vật tư thiết bị
đáp ứng đúng yêu cầu, chi phí phù hợp và tiết kiệm nhất. Do đó, đấu thầu
mua sắm vật tư thiết bị phục vụ cho các công trình xây dựng có thể được tổ
chức riêng để đảm bảo tính đồng bộ và đáp ứng kịp thời tiến độ.
Sản phẩm của hoạt động xây dựng các công trình xây dựng điện thường
có thời gian sử dụng lâu dài, nhất là công trình nhà máy thủy điện, phát điện,
đường dây và trạm biến áp 500kV,..luôn gắn với những nguồn vốn đầu tư lớn
mà chất lượng vật tư thiết bị là yếu tố then chốt quyết định chất lượng công
trình xây dựng. Sản phẩm này đòi hỏi phải bảo đảm tính năng sử dụng, an
toàn, tiết kiệm, có hiệu quả. Do vậy để hình thành một dự án đầu tư xây dựng,
hoạt động đầu tư xây dựng phải tuân thủ nhiều qui trình, qui phạm ở những
1
công đoạn khác nhau. Lựa chọn nhà thầu để thực hiện cung cấp thiết bị không
chỉ là một công đoạn quan trọng và có ý nghĩa lớn, ảnh hưởng đến hiệu quả
của quá trình đầu tư dự án mà còn có ý nghĩa trong việc phòng chống tham
nhũng, tránh thất thoát, và chống cạnh tranh không lành mạnh…
Là một công đoạn quan trọng quyết định đến chất lượng, hiệu quả của
các công trình xây dựng, tại Việt Nam hiện nay hoạt động đấu thầu đã được
pháp luật qui định khá chặt chẽ. Tuy nhiên, cùng với đà tăng mạnh sự phát
triển của nền kinh tế xã hội nói chung và trong lĩnh vực đầu tư xây dựng trong
ngành điện nói riêng thì hoạt động đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị cũng phát
sinh nhiều vấn đề cần được pháp luật điều chỉnh một cách rõ ràng, chặt chẽ
hơn. Thực tiễn trong những năm gần đây tại Việt Nam cho thấy, các hành vi
vi phạm trong lĩnh vực cung cấp vật tư thiết bị cho các công trình ngày càng
nhiều để lại những hậu quả nghiêm trọng không chỉ liên quan tới việc mất mát
về tài sản, tính mạng con người mà còn ảnh hưởng đến cả vấn đề chính trị xã
hội, đặc biệt là những tai nạn điện do vật tư thiết bị kém chất lượng mà
nguyên nhân chính từ vấn đề tổ chức lựa chọn nhà thầu cung cấp. Do đó nhu
cầu hoàn thiện pháp luật về đấu thầu nói chung và đấu thầu mua sắm vật tư
thiết bị nói riêng luôn là vấn đề cần được quan tâm trong quá trình hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam.
Tập Đoàn Điện lực quốc gia Việt Nam (viết tắt EVN) là doanh nghiệp
100% vốn Nhà nước – với sứ mệnh đưa điện đến mọi miền đất nước, nhiệm
vụ sản xuất, quản lý và phân phối điện trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Các gói
thầu mua sắm của EVN thuộc phạm vi quy định của Luật đấu thầu 2013,
trong đó đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị chiếm phần tỷ trọng lớn nhất
(khoảng 65% tổng vốn đầu tư). EVN đang triển khai kế hoạch thực hiện công
tác sắp xếp, tái cơ cấu, đổi mới, cổ phần hóa năm 2019 theo Chỉ thị số 01/CT-
TTg ngày 05/01/2019 của Thủ Tướng Chính phủ. Theo đó, hàng loạt doanh
2
nghiệp dịch vụ mới sắp “chào sân” nên ngành điện cũng chuẩn bị vào cuộc
cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ mà trong đó đấu thầu mua sắm thiết bị hiệu
quả là rất quan trọng.
Trên cơ sở những nhận định trên, tác giả quyết định lựa chọn nghiên
cứu đề tài “Đấu thầu mua sắm thiết bị theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ
thực tiễn các doanh nghiệp thuộc Tập Đoàn Điện lực Quốc gia Việt Nam –
EVN” với mong muốn tìm hiểu sâu hơn các quy định pháp luật đấu thầu, đánh
giá thực trạng về pháp luật Việt Nam đấu thầu hiện hành và quy chế quản lý
nội bộ về công tác đấu thầu trong EVN, từ đó tìm ra những điểm còn chưa
phù hợp và đề xuất các phương hướng giúp hoàn thiện các quy định này, góp
phần nâng cao hiệu quả của pháp luật đấu thầu và quy chế quản lý nội bộ
EVN trong lĩnh vực đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị không phải là vấn đề mới
mẻ ở Việt Nam. Đã có nhiều bài báo, công trình nghiên cứu viết về vấn đề
này nhưng mới chỉ là những nghiên cứu chung, hoặc riêng về đấu thầu mua
sắm hàng hóa quốc tế, đấu thầu lựa chọn dịch dụ hàng hóa, hoặc nghiên cứu
riêng Quy chế đấu thầu mua sắm của Tập đoàn, tổ chức kinh tế nhà nước.
Hiện chưa có bài viết, hay công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về
pháp luật đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị cho các dự án đặc thù ngành điện
tại Việt Nam.
Tuy nhiên, một số công trình nghiên cứu khoa học, các sách chuyên
khảo, các luận văn, luận án, các bài viết trong các tạp chí pháp luật đề cập về
pháp luật đấu thầu nói chung (gồm đấu thầu xây lắp, mua sắm hàng hóa quốc
tế) và pháp luật đấu thấu tại các chủ thể công khác hoặc kiểm soát nạn thông
thầu (thỏa thuận hạn chế cạnh tranh) như: Phạm Thị Huyền,“Thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh trong lĩnh vực đấu thầu theo pháp luật Việt Nam”, Luận văn
3
thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội, 2017; Nguyễn Duy Phương, “Quy
chế đấu thầu Quốc tế về mua sắm hàng hóa “, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2006; Đỗ Kiến Vọng, “Quản lý nhà nước về đấu thầu
mua sắm công ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện khoa học xã hội,
2019; Lê Công Trực, “Pháp luật về xử lý vi phạm trong hoạt động đầu tư xây
dựng cơ bản tại các doanh nghiệp”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Huế,
2018; Ngô Minh Hải, “Quản lý đấu thầu - thực trạng ở Việt Nam và kinh
nghiệm quốc tế”, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội; Nguyễn Thành Nam, “Pháp
luật Việt Nam về đấu thầu xây dựng – Thực trạng và hướng hoàn thiện”, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà nội, 2014…
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1 Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và thực tiễn pháp luật điều chỉnh đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị cho
các dự án đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước nói chung và EVN nói
riêng, từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật
về vấn đề này.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để thực hiện được những mục đích trên, đề tài phải giải quyết những
nhiệm đặt ra, đề tài phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu, phân tích về lý luận đấu thầu mua sắm và pháp luật liên
quan đến đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị tại các doanh nghiệp sử dụng vốn
nhà nước.
- Đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh đấu thầu mua sắm vật tư thiết
bị tại các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn điện lực quốc gia Việt Nam (EVN).
4
- Từ những nghiên cứu, phân tích trên đưa ra một số giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật đấu thầu và quy chế quản lý nội bộ về đấu thầu mua sắm
vật tư thiết bị tại các doanh nghiệp sử dụng vốn nhà nước của EVN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật về đấu thầu mua sắm vật
tư thiết bị, và các quy định, hướng dẫn liên quan pháp luật Việt Nam về đấu thầu
mua sắm vật tư thiết bị, Quy chế đấu thầu của EVN cũng như thực tiễn đấu thầu
tại EVN.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn ở việc nghiên cứu về đấu thầu
mua sắm thiết bị (thực chất là vật tư thiết bị) của các doanh nghiệp nhà nước
như EVN mà không mở rộng ra các hoạt động đấu thầu khác.
Luận văn chỉ phân tích, đánh giá pháp luật và thực tiễn áp dụng tại EVN
cũng như vai trò của quy chế quản lý nội bộ EVN về công tác lựa chọn nhà
thầu cung cấp vật tư thiết bị tại các doanh nghiệp thuộc EVN từ thời điểm
Luật đấu thầu 2013 có hiệu lực.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp luận của triết học
Mác – Lênin. Trên nền tảng các phương pháp đó, tác giả sử dụng phương pháp
nghiên cứu cụ thể: phân tích – tổng hợp, lịch sử kết hợp với các phương pháp
như thống kê, so sánh luật học…để giải quyết nội dung khoa học của luận văn.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn bám sát các chủ
trương đường lối của Đảng và Nhà nước ta về chính sách hướng tới thị trường
điện, đảm bảo cạnh tranh và kiểm soát vốn đầu tư trong lĩnh vực đấu thầu
mua sắm hàng hóa.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những đóng góp của luận văn thể hiện tập trung ở những nội dung sau:
5
- Luận văn đã trình bày khái quát những vấn đề lý luận và pháp luật về
đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị, qua đó cho thấy tầm quan trọng và ảnh hưởng
to lớn đến hiệu quả kinh tế, xã hội từ các dự án đầu tư có mua sắm thiết bị này.
- Luận văn đã đánh giá thực trạng pháp luật đấu thầu mua sắm vật tư
thiết bị, Quy chế quản lý nội bộ về trong lĩnh vực đấu thầu của EVN
- Luận văn đã đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật đấu
thầu mua sắm hành hóa ở Việt Nam, Quy chế quản lý nội bộ trong lĩnh vực
đấu thầu EVN.
- Qua việc phân tích có hệ thống các quy định của pháp luật và của
EVN về đấu thầu mua sắm thiết bị, áp dụng nghiêm túc và vận dụng linh
động, từ đó có đánh giá điểm mạnh để phát huy, điểm yếu để cải thiện, khắc
phục các tồn tại, vướng mắc nhằm chọn được nhà thầu có năng lực phù hợp
với giá trúng thầu tối ưu nhất, kịp thời cung cấp thiết bị cho các dự án đầu tư
xây dựng.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo kết
cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về đấu thầu mua sắm thiết bị và lý luận pháp luật về
đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị các doanh nghiệp sử dụng vốn nhà nước
Chương 2: Thực trạng đấu thầu mua sắm thiết bị theo pháp luật Việt
Nam từ thực tiễn các doanh nghiệp thuộc EVN
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật đấu thầu và Quy chế quản lý
nội bộ của EVN về mua sắm thiết bị các doanh nghiệp sử dụng vốn nhà nước.
6
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ ĐẤU THẦU MUA SẮM THIẾT BỊ & LÝ LUẬN PHÁP
LUẬT ĐẤU THẦU MUA SẮM THIẾT BỊ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP
SỬ DỤNG VỐN NHÀ NƯỚC
1.1. Lý luận đấu thầu mua sắm thiết bị tại các doanh nghiệp sử
dụng vốn nhà nước
1.1.1. Khái niệm về đấu thầu mua sắm thiết bị
Trên thực tế đã tồn tại một số thuật ngữ về đấu thầu trong các văn bản
pháp quy khác nhau. Tuy nhiên, bản chất của "đấu thầu mua sắm" dù được
quy định dưới dạng Quy chế hay Luật cũng đều sử dụng một thuật ngữ có
xuất xứ từ tiếng Anh là "Procurement" (mua sắm). Như vậy, tuy gọi là Quy
chế hay Luật Đấu thầu nhưng bản chất là Quy chế Mua sắm (Procurement
Regulation) hoặc Luật Mua sắm (Law on Procurement).
Dưới góc độ pháp lý, Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học thì đấu thầu
hàng hóa là: “Mua hàng thông qua mời thầu nhằm lựa chọn thương nhân dự
thầu đáp ứng được các yêu cầu về giá cả, điều kiện kinh tế - kỹ thuật do bên
mời thầu đặt ra” [29, tr.46]. Khái niệm "đấu thầu" được ghi nhận tại Điều 214
Luật Thương mại năm 2005 như là một hoạt động thương mại., theo đó một bên
mua hàng hoá thông qua mời thầu (bên mời thầu) nhằm lựa chọn trong số các
thương nhân tham gia đấu thầu (bên dự thầu) đáp ứng tốt nhất các yêu cầu đặt ra
và được lựa chọn để ký kết và thực hiện hợp đồng (bên trúng thầu). Còn theo
Điều 4 Luật đấu thầu 2013 thì đấu thầu mua sắm thiết bị là quá trình lựa chọn
nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp đồng mua sắm hàng hóa trên cơ sở bảo
đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế.
Như vậy có thể thấy, Luật Đấu thầu 2013 và Luật Thương mại 2005 đều
quy định đấu thầu mua sắm thiết bị (đấu thầu lựa chọn nhà thầu cung cấp hàng
hóa là vật tư thiết bị) là quá trình lựa chọn và ký kết thực hiện hợp đồng của
7
chủ đầu tư các dự án đầu tư công và các doanh nghiệp nhà nước với các nhà
thầu cung cấp thiết bị, nhằm đảm bảo tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch và
hiệu quả kinh tế. Khái niệm hàng hóa trong đấu thầu được hiểu là những sản
phẩm vật chất, vật tư thiết bị được chuẩn hóa, có giá trị và giá trị sử dụng phục
vụ cho một mục đích sử dụng nhất định nào đó, gồm cả vật tư và thiết bị. Với ý
nghĩa như vậy, hàng hóa trong đấu thầu thông thường bao gồm các loại máy
móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất, nguyên nhiên vật liệu, vật tư, phụ tùng,…đã
được chuẩn hóa, có giá trị sử dụng, đáp ứng yêu cầu của bên mời thầu.
1.1.2. Vai trò và đặc điểm của đấu thầu mua sắm thiết bị tại các doanh nghiệp
sử dụng vốn nhà nước
1.1.2.1 Vai trò của đấu thầu mua sắm thiết bị
Đấu thầu là một hình thức cạnh tranh văn minh trong nền kinh tế thị
trường phát triển nhằm lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu kinh tế kỹ thuật
của bên mời thầu. Vì vậy, hoạt động đấu thầu mang lại lợi ích to lớn đối với chủ
đầu tư, nhà thầu và nền kinh tế quốc dân nói chung. Đấu thầu có vai trò đảm bảo
bốn nội dung: hiệu quả - cạnh tranh - công bằng - minh bạch. Hiệu quả có thể về
mặt tài chính hoặc thời gian hay một tiêu chí nào khác tuỳ thuộc vào mục tiêu
của dự án. Muốn đảm bảo hiệu quả cho dự án phải tạo điều kiện cho nhà thầu
cạnh tranh công khai ở phạm vi rộng nhất có thể nhằm tạo ra sự công bằng, đảm
bảo lợi ích cho các bên. Với các dự án có tổng đầu tư lớn, có giá trị về mặt kinh
tế hoặc xã hội thì đấu thầu là một khâu quan trọng không thể thiếu và phải tuân
thủ theo quy định của nhà nước hoặc tổ chức tài chính cho vay vốn.
Đối với chủ đầu tư, thông qua đấu thầu, chủ đầu tư có thể lựa chọn các
nhà thầu đáp ứng được yêu cầu về chất lượng công trình, tiết kiệm được vốn
đầu tư xây dựng cơ bản, bảo đảm tiến độ xây dựng công trình. Bảo đảm
quyền chủ động, tránh tình trạng phụ thuộc vào một nhà xây dựng trong xây
dựng công trình. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh giữa các
8
doanh nghiệp xây dựng. Cho phép chủ đầu tư nâng cao trình độ, năng lực đội
ngũ cán bộ kinh tế kỹ thuật của chính các chủ đầu tư.
Đối với nhà thầu, khi tham dự hướng tới mục tiêu thắng thầu, các nhà thầu
phải tự hoàn thiện mình trên tất cả phương diện. Nhờ nguyên tắc công khai và
bình đẳng trong đấu thầu, các nhà thầu phải phát huy tối đa tính chủ động trong
việc tìm kiếm các cơ hội tham dự đấu thầu và kí kết hợp đồng (khi trúng thầu)
tạo công ăn việc làm cho người lao động, phát triển sản xuất. Thông qua đấu
thầu, các nhà thầu phải đầu tư có trọng điểm nhằm nâng cao năng lực công nghệ
và kỹ thuật, từ đó sẽ nâng cao năng lực của doanh nghiệp, dẫn đến nâng cao hiệu
quả kinh tế khi giá bỏ thầu thấp nhưng vẫn thu được lợi nhuận [22, tr.8]
* Vai trò đối với nền kinh tế quốc dân
Đấu thầu góp phần nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về
đầu tư xây dựng, hạn chế và loại trừ được tình trạng thất thoát, lãng phí vốn
đầu tư [22, tr.9]. Đồng thời hoạt động này cũng góp phần nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng và toàn nền
kinh tế nói chung, tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh giữa
các doanh nghiệp - đây là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của ngành
công nghiệp nước ta, tạo điều kiện ứng dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới công
nghệ, từng bước hội nhập với khu vực và thế giới.
Trong một dự án đầu tư xây dựng của các tập đoàn kinh tế, doanh
nghiệp sử dụng vốn nhà nước, giá trị vật tư thiết bị thường rất cao, thường
chiếm tỷ trọng từ 60%-70% tổng mức đầu tư tính theo cơ cấu từng dự án (từ
vài chục tỷ đến vài trăm tỷ đồng hàng năm). Số gói thầu mua sắm vật tư thiết
bị chiếm hơn 57% trong 2 loại gói thầu trực tiếp tạo ra sản phẩm là xây lắp và
mua sắm [16, tr.2]. Hoạt động đấu thầu mua sắm thiết bị của các doanh
nghiệp này thường qua hình thức mua sắm tập trung với khối lượng rất lớn -
tổng hợp nhu cầu cho từng quý hoặc nửa năm/năm; đảm bảo mua sắm được
9
vật tư thiết bị có chất lượng tốt, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu kỹ thuật, tính
năng công nghệ mới, đặc biệt là đối với các ngành có vật tư thiết bị đặc thù
như ngành điện, viễn thông, dầu khí,...Nhà thầu đảm bảo cung cấp vật tư thiết
bị đáp ứng tiến độ thỏa thuận hợp đồng, không sớm và cũng không trễ. Việc
sai, khác tiến độ cung cấp vật tư thiết bị gây ảnh hưởng xấu đến kết quả tối ưu
hóa chi phí của bên mua: mức tồn kho cao nếu nhận sớm, trễ tiến độ thi công
lắp đặt nếu nhận vật tư thiết bị trễ. Do đó hoạt động này có vai trò quan trọng
nhất trong mọi hoạt động đấu thầu của một doanh nghiệp.
1.1.2.2 Đặc điểm đấu thầu mua sắm thiết bị tại các doanh nghiệp sử dụng
vốn nhà nước
Xét đấu thầu là một phương thức quản lý chi tiêu công tối ưu và hiệu
quả của Chính phủ, là phạm trù kinh tế tồn tại khách quan, gắn liền với quá
trình phát triển của nhà nước, đấu thầu mua sắm có đặc điểm cơ bản chỉ được
áp dụng đối với những dự án, gói thầu sử dụng ngân sách hoặc vốn nhà nước
được hình thành do sự đóng góp từ thuế, phí, lệ phí…của người dân và toàn
xã hội, do đó đấu thầu được quản lý chặt chẽ bởi nhà nước. Xét về bản chất,
hoạt động đấu thầu mua sắm có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, đấu thầu mua sắm luôn gắn liền với quan hệ mua bán hàng
hóa, chỉ được tổ chức khi các chủ thể có nhu cầu mua sắm hàng hóa với mục
đích lựa chọn được người cung cấp hàng hóa tốt nhất. Về thực chất đấu thầu
chỉ là giai đoạn tiền hợp đồng cung cấp hàng hóa giữa các bên trong hợp
đồng. Kết quả đấu thầu là cơ sở để các bên thương thảo các chi tiết của hồ sơ
dự thầu để được đưa vào nội dung hợp đồng.
Thứ hai, đấu thầu mua sắm là một quá trình đa chủ thể. Trong quá trình
đấu thầu luôn có hai bên là bên mời thầu và bên dự thầu. Bên mời thầu là bên
có nhu cầu mua sắm hàng hóa sử dụng vốn nhà nước, còn bên dự thầu là các
thương nhân có năng lực cung cấp hàng hóa cho gói thầu. Về nguyên tắc số
10
lượng nhà thầu tham dự một gói thầu luôn phải nhiều hơn một. Theo nguyên
tắc này thì chỉ định thầu là một trường hợp ngoại lệ của đấu thầu. Trong quan
hệ đấu thầu chủ thể thứ ba thường xuất hiện là các nhà tư vấn – họ hiện diện
như một nhân tố đảm bảo cho quá trình đấu thầu được thực hiện nghiêm túc.
Ngoài ra, còn có các chủ thể là các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thẩm định,
phê duyệt kết quả đấu thầu nhằm đảm bảo cho quá trình đấu thầu diễn ra theo
đúng trình tự, thủ tục theo quy định.
Thứ ba, đấu thầu mua sắm là quá trình cạnh tranh bình đẳng, công khai,
minh bạch. Bên mời thầu đưa ra trước các yêu cầu của mình để các bên dự thầu
căn cứ vào đó để đưa ra mức giá cung cấp hàng hóa, đó là sự cạnh tranh giữa
các bên dự thầu. Cạnh tranh tuân theo những nguyên tắc và yêu cầu nhất định,
đảm bảo công bằng và khách quan: có nhiều bên tham gia; các nhà dự thầu độc
lập với nhau và với bên mời thầu; các bên dự thầu được hưởng các điều kiện và
cơ hội ngang nhau, không có bất kì sự phân biệt đối xử nào; không tồn tại bất
cứ thỏa thuận nào giữa các bên dự thầu dẫn tới việc làm sai lệch kết quả. Điều
này đã tạo ra sự minh bạch trong cả quá trình đấu thầu. Nếu thiếu các điều kiện
trên sẽ làm vô hiệu hóa cơ chế cạnh tranh – đấu thầu không còn ý nghĩa, thậm
chí còn để lại nhiều hệ lụy với nền kinh tế - xã hội; đặc biệt là khi nguồn vốn sử
dụng để mua hàng hóa, dịch vụ là vốn Nhà nước, vốn ODA, vốn WB…
Trong những năm gần đây, Việt Nam trên đà phát triển hội nhập thế
giới, đấu thầu mua sắm hàng hóa của các doanh nghiệp nhà nước theo phương
thức sử dụng công nghệ mang lại hiệu quả cao hơn, tác giả nhận thấy có thêm
3 đặc điểm cơ bản nổi bậc sau:
(i) Mua sắm tập trung luôn là cách thức tối ưu được lựa chọn. Đặc thù
gói thầu mua sắm vật tư thiết bị là thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng
mức đầu tư của dự án; công tác mua sắm được tổ chức thường xuyên, liên tục
theo từng đợt hay định kỳ để phục vụ nhu cầu xây dựng, lắp đặt trong dự án
11
được kịp thời đồng bộ. Do vậy đặc điểm cơ bản của đấu thầu mua sắm hàng
hóa là đấu thầu tập trung.
Đấu thầu tập trung (Mua sắm tập trung) là hình thức đấu thầu được thực
hiện tập trung tại một đầu mối phụ trách chung phân theo lĩnh vực ngành hoặc
theo phạm vi lãnh thổ; được áp dụng trong trường hợp hàng hóa cần mua sắm
với số lượng nhiều, chủng loại tương tự ở một hoặc nhiều chủ đầu tư. Việc áp
dụng mua sắm tập trung không chỉ giúp tăng tính chuyên nghiệp trong hoạt
động mua sắm mà còn tạo điều kiện nâng cao hiệu quả, tiết kiệm chi phí mua
sắm, rút ngắn thời gian và chi phí tổ chức lựa chọn nhà thầu, đồng thời hạn chế
được tình trạng tham nhũng, lãng phí trong đấu thầu phân tán.
(ii) Đặc điểm thời sự nhất hiện nay là đấu thầu qua mạng bắt đầu phổ
biến. Tại Việt Nam đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị là hoạt động đầu tiên
được pháp luật quy định phải thực hiện đấu thầu qua mạng nhằm đảm bảo
tính công khai, minh bạch và cạnh tranh công bằng, giảm thiểu tối đa các hiện
tượng tiêu cực trong lựa chọn nhà thầu.
Đấu thầu qua mạng là hình thức đấu thầu thực hiện trực tuyến thông
qua hệ thống mạng đấu thầu quốc gia - hệ thống công nghệ thông tin do cơ
quan quản lý nhà nước về hoạt động đấu thầu xây dựng và quản lý thống nhất
thông tin về đấu thầu. Tất cả các công việc trong đấu thầu như đăng tải thông
báo mời thầu, phát hành HSMT, đánh giá hồ sơ dự thầu và thông báo kết
quả,..được đăng tải công khai và mọi người đều có thể truy cập thông tin
không hạn chế. Dữ liệu trong cuộc đấu thầu đều được xác thực, bảo mật và
được quản lý chặt chẽ theo đúng quy định Nhà nước. Hình thức đấu thầu qua
mạng sẽ giúp các nhà thầu cũng như bên mời thầu tiết kiệm được chi phí, thể
hiện tính công bằng và minh bạch cao.
(iii) Bên mời thầu thường chọn phương thức đấu thầu rộng rãi quốc tế
khi tổ chức mua sắm vật tư thiết bị cho các gói thầu chuyên biệt, có yêu cầu
12
kỹ thuật rất cao và đặc thù, có khối lượng lớn về giá trị và số lượng. Đặc tính,
tiêu chuẩn kỹ thuật được xác định trước và được nêu rõ trong HSMT, đáp ứng
theo quy định của một tổ chức quốc tế hay quốc gia nào đó như: tiêu chuẩn
châu Âu, ISO 9001-BQVI/TUV (Tiêu chuẩn quốc tế cho các hệ thống quản lý
chất lượng của Bureau Veritas/TUV North Group)..
1.2. Lý luận pháp luật về đấu thầu mua sắm thiết bị của các doanh
nghiệp sử dụng vốn nhà nước
1.2.1 Yêu cầu điều chỉnh pháp luật đối với gói thầu mua sắm thiết bị
i) Yêu cầu đảm bảo tính cạnh tranh công khai và minh bạch
Đấu thầu là một quan hệ kinh tế khách quan, phản ánh nhu cầu tất yếu của
nền kinh tế thị trường, theo đó nơi sản xuất và trao đổi hàng hóa luôn diễn biến
trong trạng thái cung lớn hơn cầu. Khi một chủ thể nào đó có nhu cầu mua sắm
hàng hóa, sử dụng dịch vụ thì cũng là lúc có rất nhiều người có khả năng đáp
ứng nhu cầu đó, chủ đầu tư hoặc bên mời thầu phải tổ chức đấu thầu để chọn ra
trong những người có khả năng cung cấp hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ thỏa
mãn những điều kiện của mình đồng thời phải có giá hợp lý nhất. Như vậy, bản
chất của đấu thầu là lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu để
thực hiện gói thầu trên cơ sở bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch và
hiệu quả kinh tế, do vậy yêu cầu quan trọng thứ nhất của quá trình tổ chức lựa
chọn nhà thầu là đảm bảo tính cạnh tranh, công bằng và minh bạch.
Về phía Bên mời thầu, công tác đấu thầu vẫn luôn là một lĩnh vực ẩn chứa
nhiều yếu tố nhạy cảm, có thể gây nguy cơ thất thoát, lãng phí lớn; vì thế để đấu
thầu thực sự là sân chơi cạnh tranh, công bằng với tất cả nhà thầu, cần sự vào
cuộc mạnh mẽ và sự quyết tâm minh bạch từ bên mời thầu là chính. Pháp luật
đấu thầu luôn hướng tới mọi yếu tố tạo sự công khai, rõ ràng và minh bạch trong
tất cả khâu, từ khâu lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu (KHLCNT), lập HSMT,
đăng thông tin công khai, xét và công bố kết quả trúng thầu,…
13
ii) Bảo đảm lợi ích Bên mời thầu và quyền tiếp cận thông tin bên dự thầu
* Đối với lợi ích của bên mời thầu
Bên mời thầu luôn mong muốn với một số tiền nhất định, được phép
chi tiêu theo kế họach, sẽ đựợc thỏa mãn tốt nhất về chất lượng sản phẩm và
giá cả hợp lý. Trong khi đó, họ chủ yếu là các cơ quan hành chính nhà nước,
các công ty, các tổ chức (các ban quản lý) không phải lúc nào cũng am hiểu
về thị trường, không có kinh nghiệm về mua bán, không có kinh nghiệm về
chủng loại hàng hóa cũng như chất lượng của hàng hóa. Vì vậy, đấu thầu là
biện pháp hiệu quả nhất đối với họ. Bởi vì, trong mối quan hệ giữa các bên
trong đấu thầu thì thị trường thuộc về người mua hàng, trong đó chỉ có một
người mua và rất nhiều người bán. Người mua sẽ có nhiều cơ hội để đạt được
lợi ích tối đa trong thị trường này liên quan đến giá cả, chất lượng sản phẩm,
và các điều kiện tài chính, thương mại khác như: Thời hạn giao hàng; thời hạn
bảo hành; dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật; dịch vụ cung cấp vật tư tiêu hao; mức độ uy
tín và kinh nghiệm của nhà cung cấp.
* Đối với quyền tiếp cận thông tin của bên dự thầu
Để có được lợi ích quan trọng từ việc đấu thầu, các nhà thầu luôn tích
cực, chủ động “săn lùng tìm hàng”, tìm kiếm thông tin mời thầu để tham dự.
Nhà thầu không trúng thầu có thể từ nhiều nguyên nhân khác nhau, về năng lực
kinh nghiệm, giá cao, năng lực tài chính,..nhưng nếu từ nguyên nhân thiếu
thông tin hoặc thông tin không chính xác thì đó không hẳn do lỗi của họ. Vì
thế, nhu cầu điều chỉnh pháp luật tối quan trọng cho bên dự thầu là đảm bảo
được quyền tiếp cận thông tin trong đấu thầu đầy đủ và chính xác.
1.2.2. Cơ sở pháp lý điều chỉnh đấu thầu mua sắm thiết bị tại các doanh
nghiệp sử dụng vốn nhà nước
Khái niệm về đấu thầu đã được ghi nhận trong hai văn bản pháp luật có
giá trị pháp lý cao là Luật Thương mại 2005 và Luật Đấu thầu 2013. Theo đó,
14
Luật Đấu thầu 2013 có vai trò là công cụ pháp lý để quản lý Nhà nước đối với
việc đấu thầu các dự án liên quan đến hoạt động chi tiêu, sử dụng vốn Nhà
nước trong mua sắm hàng hóa, vật tư thiết bị. Còn Luật Thương mại 2005
điều chỉnh quản lý hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong thương mại.
Do vậy, xuyên suốt quá trình đấu thầu mua sắm thiết bị, cơ sở pháp lý cao
nhất là Luật đấu thầu 2013 và các Nghị định, thông tư hướng dẫn liên quan,
các Luật Thương mại 2005, Luật Doanh nghiệp,...và các pháp luật quốc tế
theo yêu cầu của nhà tài trợ (nếu có) cho việc đấu thầu mua sắm hàng hóa tại
Việt Nam. Đặc biệt, Luật đấu thầu 2013 và Nghị định 63/2014/NĐ-CP hướng
dẫn chi tiết thi hành Luật đấu thầu (sau đây viêt tắt là NĐ 63/2014) là các văn
bản chuyên ngành cho mọi hoạt động lựa chọn nhà thầu.
Nhằm tăng cường quản lý pháp luật chặt chẽ công tác đấu thầu, hàng loạt
các văn bản pháp luật được ban hành quản lý việc công khai minh bạch bằng kế
hoạch tổng thể và lộ trình áp dụng đấu thầu qua mạng tại Quyết định 1402/QĐ-
TTg của Thủ Tướng Chính phủ ngày 13/7/2016 về phê duyệt kế hoạch tổng thể
và lộ trình áp dụng đấu thầu qua mạng giai đoạn 2016 – 2025 (QĐ 1402), Thông
tư 04/2017/TT-BKHĐT ngày 15/11/2017 quy định lựa chọn nhà thầu qua hệ
thống mạng đấu thầu quốc gia (TT 04/2017)…; chấn chỉnh công tác đấu thầu
trong các dự án đầu tư phát triển và hoạt động mua sắm thường xuyên sử dụng
vốn Nhà nước tại Chỉ thị số 47/CT-TTg của Thủ tướng ngày 27/12/2017 về việc
chấn chỉnh công tác đấu thầu trong các dự án đầu tư phát triển và hoạt động mua
sắm thường xuyên sử dụng vốn Nhà nước (Chỉ thị 47); quy định chi tiết việc
giám sát, theo dõi và kiểm tra hoạt động đấu thầu tại Thông tư 10/2016/TT-
BKHĐT của Bộ Kế hoạch đầu tư ngày 22/7/2016 (TT 10/2016); ưu tiên trong
đấu thầu bằng tăng cường sử dụng vật tư, hàng hóa sản xuất trong nước trong
các dự án đầu tư phát triển và hoạt động mua sắm thường xuyên sử dụng vốn
Nhà nước tại Chỉ thị 13/CT-TTg của Thủ Tướng ngày 04/4/2017 tăng cường sử
15
dụng vật tư, hàng hóa sản xuất trong nước trong các dự án đầu tư phát triển và
hoạt động mua sắm thường xuyên sử dụng vốn Nhà nước (Chỉ thị 13),....
Về lựa chọn nhà thầu qua mạng, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị chủ đầu tư,
bên mời thầu nghiêm túc thực hiện lộ trình áp dụng lựa chọn nhà thầu qua mạng
theo Kế hoạch tổng thể lộ trình giai đoạn 2016 - 2025 được phê duyệt tại QĐ 1402
và Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-BKHĐT-BTC quy định chi tiết về việc
cung cấp, đăng tải thông tin đấu thầu và lựa chọn nhà thầu qua mạng (TTLT 07).
Với việc ra đời TT 04/2017 có nhiều điểm mới, nổi bật mang tính đột
phá so với các quy định hiện hành trong lĩnh vực đấu thầu qua mạng; đồng
thời, phạm vi áp dụng đấu thầu qua mạng được mở rộng cho hầu hết các gói
thầu quy định trong Luật Đấu thầu 2013.
Một văn bản pháp luật quan trọng khác trong lĩnh vực đấu thầu qua
mạng được ban hành là Thông tư số 06/2017/TT-BKHĐT ngày 05/12/2017 của
Bộ KH&ĐT quy định chi tiết việc cung cấp thông tin về đấu thầu, báo cáo tình
hình thực hiện hoạt động đấu thầu về lựa chọn nhà thầu (TT 06/2017). Thông
tư này ra đời đã tạo thêm một điểm nhấn trong nỗ lực tăng cường công khai,
minh bạch và hiệu quả giám sát trong công tác đấu thầu, đã hướng dẫn về quy
trình, cách thức thực hiện cung cấp thông tin và báo cáo cũng như các biểu mẫu
để các chủ thể báo cáo áp dụng đảm bảo thuận tiện, có hệ thống, tiến tới giảm
thiểu tối đa thủ tục hành chính. Theo đó, nếu Bên mời thầu đăng tải thiếu loại
thông tin nào thì sẽ không đăng tải được các thông tin các bước kế tiếp trong
quá trình lựa chọn. Như vậy, cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu hoàn toàn
có thể theo dõi được sự tuân thủ các quy định về đăng tải, cung cấp thông tin
đấu thầu của các chủ đầu tư, bên mời thầu theo thời gian thực tế.
Mới đây, ngày 08/4/2019 Thủ Tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết
định 17/2019/QĐ-TTg về một số gói thầu, nội dung mua sắm nhằm duy trì
hoạt động thường xuyên được áp dụng hình thức lựa chọn nhà thầu trong
16
trường hợp đặc biệt theo quy định tại Điều 26 Luật đấu thầu; tạo thuận tiện
cho các doanh nghiệp trong việc tổ chức mua sắm vật tư, thiết bị, công cụ,
dụng cụ nhỏ lẻ phục vụ nhu cầu duy trì hoạt động thường xuyên.
1.2.3 Nội dung pháp luật đấu thầu mua sắm thiết bị của doanh nghiệp sử
dụng vốn nhà nước
Pháp luật đấu thầu mua sắm thiết bị của doanh nghiệp sử dụng vốn nhà
nước bao gồm những nguyên tắc và quy phạm điều chỉnh quan hệ đấu thầu
mua sắm hàng hóa như sau:
i) Nguyên tắc pháp luật điều chỉnh đấu thầu:
Đấu thầu mua sắm thiết bị sử dụng vốn nhà nước phải được thực hiện
theo nguyên tắc công khai, minh bạch và bảo đảm cạnh tranh giữa các nhà
thầu cung cấp vật tư thiết bị.
Nhờ nguyên tắc công khai và bình đẳng trong đấu thầu, các doanh
nghiệp có cơ hội tìm kiếm dự án, tham gia đấu thầu và ký kết hợp đồng (nếu
trúng thầu), tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, phát triển sản xuất
kinh doanh. Khi thắng thầu, mỗi nhà thầu sẽ nâng cao năng lực của doanh
nghiệp không chỉ trong một lần tham gia đấu thầu mà còn góp phần phát triển
mở rộng qui mô, dần sẽ tự nâng cao hiệu quả quản trị tài chính, làm giảm chi
phí và thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong mua sắm hàng hóa hiện nay, hình thức đấu thầu là công bằng nhất,
bắt buộc các doanh nghiệp tham gia muốn thắng thầu đều phải tự nâng cao năng
lực của mình. Nhà thầu nào có sức cạnh tranh cao sẽ thắng thầu. Chủ đầu tư dựa
trên các tiêu chuẩn được xác định trước để so sánh, lựa chọn nhà thầu, có sự
giám sát của cơ quan thẩm quyền. Sự công bằng khách quan như vậy sẽ tạo ra
sức cạnh tranh lành mạnh, sẽ giúp nâng cao hiệu quả kinh tế trong toàn xã hội.
ii) Chủ thể mở thầu và tham gia đấu thầu: Bất kỳ một tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội nào có nhu cầu mua sắm hàng hóa, vật tư thiết bị phục vụ sản
17
xuất, kinh doanh sử dụng vốn nhà nước từ 30% trở lên, hoặc tổ chức chính trị
xã hội, quân đội, cơ quan nhà nước sử dụng vốn nhà nước đều thuộc đối
tượng điều chỉnh của Luật đấu thầu 2013. Theo đó bên mời thầu là chủ dự án,
chủ đầu tư hoặc pháp nhân đại diện hợp pháp của chủ dự án, chủ đầu tư thuộc
các Doanh nghiệp nhà nước nhiều nhất - được giao trách nhiệm thực hiện
công việc đấu thầu. EVN là Tập đoàn kinh tế nhà nước với các công ty thuộc
tập đoàn chịu sự điều chỉnh của Luật đấu thầu 2013.
Nhà thầu là tổ chức kinh tế có đủ tư cách pháp nhân tham gia đấu thầu
trong trường hợp đấu thầu tư vấn nhà thầu có là cá nhân. Nhà thầu là nhà
cung cấp trong đấu thầu mua sắm hàng hoá. Nhà thầu trong nước là nhà thầu
có tư cách pháp nhân Việt Nam hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
iii) Gói thầu vật tư thiết bị
Những nội dung mua sắm vật tự thiết bị giống nhau thuộc một hoặc nhiều
dự án có thể sử dụng chung một gói thầu để lựa chọn nhà thầu với mặt hàng
đang tìm kiếm. Tức có thể tiến hành mua sắm cho từng dự án hoặc chung cho tất
cả các dự án và thể hiện trong một gói thầu (gói thầu mua sắm hàng hóa).
Tên gói thầu thể hiện tính chất, nội dung và phạm vi gói thầu, phù hợp
với nội dung nêu trong dự toán mua sắm. Trường hợp gói thầu gồm nhiều
phần riêng biệt, trong kế hoạch lựa chọn nhà thầu cần nêu tên thể hiện nội
dung cơ bản của từng phần.
Giá gói thầu được xác định trên cơ sở tổng mức đầu tư hoặc dự toán
(nếu có) đối với dự án; dự toán mua sắm đối với mua sắm thường xuyên. Giá
gói thầu được tính đúng, tính đủ toàn bộ chi phí để thực hiện gói thầu, kể cả
chi phí dự phòng, phí, lệ phí và thuế. Giá gói thầu được cập nhật trong thời
hạn 28 ngày trước ngày mở thầu nếu cần thiết. Trường hợp gói thầu gồm
nhiều phần riêng biệt thì ghi rõ giá ước tính cho từng phần trong giá gói thầu.
18
Đối với mỗi gói thầu phải nêu rõ nguồn vốn hoặc phương thức thu xếp
vốn, thời gian cấp vốn để thanh toán cho nhà thầu; trường hợp sử dụng vốn hỗ
trợ phát triển chính thức, vốn vay ưu đãi thì phải ghi rõ tên nhà tài trợ và cơ
cấu nguồn vốn, bao gồm vốn tài trợ, vốn đối ứng trong nước.
iv) Trình tự thủ tục đấu thầu
Trước tiên, để bắt đầu tổ chức lựa chọn nhà thầu, bên mời thầu thành
lập tổ chuyên gia hoặc thuê tư vấn giúp việc trên cơ sở chấp thuận của người
có thẩm quyền. Tùy theo tính chất và mức độ phức tạp của từng gói thầu,
thành phần tổ chuyên gia bao gồm các chuyên gia về: Kỹ thuật, công nghệ;
kinh tế, tài chính; pháp lý,..
Tổ chuyên gia có trách nhiệm phân tích đánh giá, so sánh và xếp hạng
các hồ sơ dự thầu sau khi mở thầu; tổng hợp tài liệu và lập báo cáo xét thầu.
Nguyên tắc làm việc tổ chuyên gia là phát biểu trung thực, khách quan ý kiến
của mình bằng văn bản với bên mời thầu trong quá trình làm việc và chịu trách
nhiệm bảo mật thông tin, không được cộng tác với nhà thầu dưới bất cứ hình
thức nào, không được tham gia thẩm định kết quả đấu thầu các gói thầu mình
đánh giá. Tổ trưởng tổ chuyên gia do bên mời thầu quyết định và được cấp có
thẩm quyền chấp thuận, có trách nhiệm điều hành công việc. Chuyên gia hoặc
tư vấn phải có trình độ chuyên môn liên quan đến gói thầu, có kinh nghiệm
trong công tác quản lý thực tế, am hiểu quá trình tổ chức đánh giá kết quả.
Việc tổ chức đấu thầu mua sắm được thực hiện theo trình tự 6 bước quy
định tại Điều 38 Luật đấu thầu 2013 và Nghị định 63/2014/NĐ-CP như sau:
Chuẩn bị lựa chọn nhà thầu, bao gồm: Lập và trình duyệt kế hoạch
lựa chọn nhà thầu; Lập hồ sơ mời thầu; Thẩm định và phê duyệt HSMT.
Tổ chức lựa chọn nhà thầu: Sơ tuyển, mời thầu; phát hành, sửa đổi, làm
rõ HSMT; chuẩn bị, nộp, tiếp nhận, quản lý, sửa đổi, rút hồ sơ dự thầu; Mở thầu.
19
Đánh giá hồ sơ dự thầu, bao gồm: Kiểm tra, đánh giá tính hợp lệ của
hồ sơ dự thầu; Đánh giá chi tiết hồ sơ dự thầu; Xếp hạng nhà thầu.
Thương thảo hợp đồng.
Trình, thẩm định, phê duyệt và công khai kết quả lựa chọn nhà thầu.
Hoàn thiện, ký kết hợp đồng.
v) Hình thức đấu thầu
Đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị hiện nay có thể sử dụng 6 trong 8 hình
thức quy định Luật đấu thầu 2013 sau:
- Đấu thầu rộng rãi là hình thức lựa chọn nhà thầu không hạn chế số
lượng nhà thầu tham dự.
- Đấu thầu hạn chế được áp dụng trong trường hợp gói thầu có yêu cầu
cao về kỹ thuật hoặc kỹ thuật có tính đặc thù mà chỉ có một số nhà thầu đáp
ứng yêu cầu của gói thầu.
- Chỉ định thầu lựa chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói
thầu để thương thảo và ký kết hợp đồng. Nhà thầu được lựa chọn có những
điều kiện nhất định mà những nhà thầu khác không đáp ứng được. Luật đấu
thầu quy định rõ 6 trường hợp được chỉ định thầu tựu trung là các gói thầu
mang tính chất cấp bách, giá trị nhỏ, rất chuyên biệt, đặc thù.
- Mua sắm trực tiếp được áp dụng với gói thầu mua sắm hàng hóa tương
tự thuộc cùng một dự án, dự toán mua sắm thuộc dự án, dự toán mua sắm khác.
- Chào hàng cạnh tranh trong mua sắm được áp khi gói thầu mua sắm
hàng hóa thông dụng, sẵn có trên thị trường với đặc tính kỹ thuật được tiêu
chuẩn hóa và tương đương nhau về chất lượng.
- Tự thực hiện được áp dụng đối với gói thầu thuộc dự án, dự toán mua
sắm trong tường hợp tổ chức trực tiếp quản lý, sử dụng gói thầu có năng lực
kĩ thuật, tài chính, kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu của gói thầu.
20
Trong đó, đấu thầu rộng rãi (trong nước và quốc tế) được sử dụng phổ
biến nhất, tiếp đến là mua sắm trực tiếp theo các hợp đồng đã ký qua đấu thầu
rộng rãi. Chào hàng cạnh tranh cũng khá thuận lợi sử dụng khi mua sắm vật tư
thiết bị thông dụng, sẵn có tiêu chuẩn hóa. Đấu thầu hạn chế cũng như chỉ định
thầu chỉ sử dụng rất ít với đặc thù rất riêng của nó vì Bên mời thầu phải chứng
minh được hiệu quả tài chính rõ ràng, thuyết phục Người quyết định đầu tư chấp
thuận. Cuối cùng, hình thức tự thực hiện gần như không được Chủ đầu tư áp
dụng cho mua sắm bởi nếu không chuẩn xác vai trò các bên thì rất dễ vi phạm
bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu được quy định tại Điều 6 Luật đấu thầu 2013.
vi) Các phương thức đấu thầu gồm:
- Phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ, được tiến hành trong một
lần duy nhất trọn vẹn với hồ sơ dự thầu hay hồ sơ đề xuất đó.
- Phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ, việc mở thầu sẽ được tiến
hành thành hai lần. Hai lần ở đây đó là nhà thầu nộp hồ sơ về kỹ thuật sau đó
nếu đáp ứng đủ điều kiện thì sẽ tiếp tục việc nộp hồ sơ tài chính theo yêu cầu
đã được nêu trong HSMT trước đó.
- Phương thức hai giai đoạn một túi hồ sơ: giai đoạn một, nhà thầu sẽ
nộp hồ sơ về kỹ thuật, tài chính nhưng chưa đặt ra vấn đề về giá dự thầu; giai
đoạn hai là những nhà thầu đã nộp giai đoạn một được mời nộp hồ sơ dự thầu,
trong đó sẽ gồm có những yêu cầu theo HSMT của giai đoạn hai về kỹ thuật
và tài chính kèm thêm đó là có giá dự thầu, xác nhận việc đảm bảo dự thầu.
- Phương thức hai giai đoạn hai túi hồ sơ: giai đoạn một, nhà thầu sẽ
nộp đồng thời hai hồ sơ đề xuất kỹ thuật và tài chính, trong giai đoạn này với
đề xuất kỹ thuật sẽ được mở luôn, còn hồ sơ tài chính sẽ được mở ở giai đoạn
hai. Trong giai đoạn hai, những nhà thầu đủ điều kiện sẽ được gửi HSMT, các
nhà thầu sẽ nộp hồ sơ đề xuất kỹ thuật và đề xuất tài chính, và hồ sơ tài chính
đã nộp ở giai đoạn một sẽ được mở đồng thời để đối chiếu.
21
Tiểu kết chương 1
Như vậy, trong chương này tác giả đã khái quát và phân tích những vấn
đề lý luận cơ bản về đấu thầu mua sắm thiết bị. Nhìn chung cách tiếp cận của
pháp luật đấu thầu ở Việt Nam mua sắm hàng hóa về cơ bản nhằm bảo đảm môi
trường pháp lý cạnh tranh công bằng, minh bạch, công khai, tăng cường áp dụng
công nghệ thông tin, đơn giản hóa thủ tục. Để có một sân chơi chung minh bạch
trong đấu thầu thì các quy định pháp luật cũng tạo ra sự công bằng, bình đẳng
giữa các loại hình doanh nghiệp. Theo đó, các doanh nghiệp dự thầu được đối xử
bình đẳng trong việc tiếp cận vốn, tài nguyên và vận hành theo nguyên tắc thị
trường.
22
Chương 2
THỰC TRẠNG ĐẤU THẦU MUA SẮM THIẾT BỊ THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC EVN
2.1. Đặc điểm các doanh nghiệp thuộc EVN tác động đến hoạt động
đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị
2.1.1 Đặc điểm gói thầu của các doanh nghiệp thuộc EVN
EVN là doanh nghiệp Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
(TNHH MTV) hiện có 3 tổng công ty phát điện (GENCO 1, 2, 3) và 8 công ty
thủy điện/nhiệt điện thuộc lĩnh vực sản xuất điện năng, 5 tổng công ty điện
lực kinh doanh điện năng đến khách hàng là Tổng công ty Điện lực miền Bắc
(EVNNPC), Tổng công ty Điện lực miền Trung (EVNCPC), Tổng công ty
Điện lực miền Nam (EVNSPC), Tổng công ty Điện lực TP. Hà Nội
(EVNHANOI), Tổng công ty Điện lực TP. Hồ Chí Minh (EVNHCMC) và
Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia (EVNNPT).
Hoạt động sản xuất kinh doanh của EVN bao gồm tất cả các lĩnh vực từ
sản xuất, truyền tải, phân phối và kinh doanh, xuất nhập khẩu mua bán điện
năng; bao gồm mọi hoạt động đầu tư xây dựng, cải tạo, sữa chữa các dự án
điện; Quản lý, vận hành, bảo dưỡng, đại tu, cải tạo, nâng cấp thiết bị điện, điều
khiển, tự động hóa; thí nghiệm điện,...cho đến cả tư vấn liên quan xây dựng
(quản lý dự án, khảo sát thiết kế, lập dự án đầu tư, đấu thầu, thẩm tra và giám
sát thi công) công trình nguồn và lưới điện (đường dây và trạm biến áp). Tựu
trung được chia làm 5 nhóm: xây lắp, mua sắm, tư vấn, phi tư vấn và các loại
còn lại khác. Trong đó, hoạt động đấu thầu chính yếu cho lĩnh vực xây lắp và
mua sắm vật tư thiết bị phục vụ cho xây dựng, cải tạo các công trình điện.
Hàng năm, EVN thực hiện đấu thầu đến hơn 20.000 gói thầu lớn nhỏ
khác nhau với quy mô khối lượng và tính chất tương ứng, trong đó các gói
thầu xây lắp và mua sắm vật tư thiết bị với giá trị lớn đến rất lớn – từ vài chục
23
đến vài trăm tỷ đồng và với số lượng cũng nhiều nhất sau số lượng gói thầu tư
vấn. Chỉ tính riêng từ tháng 1/2018 đến tháng 9/2018, EVN đã tổ chức đấu
thầu 18.159 gói thầu các loại - trong đó 15.238 gói thầu lưới điện (84%), 312
gói thầu nguồn điện (1,7%), và gói thầu khác là 2609 (14,3%) chủ yếu thuộc 3
mảng chính: tư vấn, xây lắp và mua sắm vật tư thiết bị. Tình hình thực hiện
công tác đấu thầu phục vụ đầu tư xây dựng hoặc sửa chữa cải tạo tất cả mặt
công tác (nguồn điện, lưới điện, khác,…) tại các doanh nghiệp trực thuộc
EVN như sau:
Hình 2.1. Tình hình thực hiện đấu thầu năm 2018 EVN
Nguồn: Tác giả tổng hợp số liệu đấu thầu EVN năm 2018
Bảng thống kê cho thấy, ngoài các gói thầu tư vấn và phi tư vấn, trong
các gói thầu chính tạo sản phẩm vật chất thì mua sắm vật tư thiết bị là 3755 gói
thầu (chiếm 21% tổng số gói thầu) – cao hơn số gói thầu xây lắp là 2996
(chiếm 16% tổng số gói thầu). Điều này cho thấy mua sắm vật tư thiết bị xét về
giá trị được thực hiện đấu thầu nhiều nhất tại các doanh nghiệp thuộc EVN.
24
Gói thầu mua sắm của EVN là các gói thầu vật tư hoặc thiết bị hoặc cả
vật tư thiết bị phục vụ đầu tư xây dựng và sản xuất kinh doanh ngành điện
như cáp ngầm, cáp nổi, trụ điện, máy biến thế, máy cắt, thiết bị đóng cắt (DS,
RMU, FCO, LBFCO,..), thiết bị đo đếm (điện kế, CB,..).
Mua sắm tập trung (đấu thầu tập trung) các gói thầu vật tư thiết bị được
sử dụng thịnh hành và gần như là chủ chốt với hình thức đấu thầu rộng rãi
trong nước hoặc quốc tế được thực hiện tập trung tại một đầu mối phụ trách
chung phân theo lĩnh vực ngành chuyên môn – bộ phận kế họah vật tư hoặc bộ
phận quản lý đấu thầu. Do số lượng hàng hóa cần mua sắm nhiều, chủng loại
tương tự ở một hoặc nhiều doanh nghiệp mà tất cả đều hoạt động trực thuộc
dưới sự quản lý điều hành của EVN nên số lượng mua sắm được định sẵn trong
kế hoạch mua sắm định kỳ hàng năm phân về cho các doanh nghiệp. Việc áp
dụng mua sắm tập trung không chỉ giúp tăng tính chuyên nghiệp trong hoạt
động mua sắm mà còn tạo điều kiện nâng cao hiệu quả, tiết kiệm chi phí mua
sắm, rút ngắn thời gian và chi phí tổ chức lựa chọn nhà thầu, đồng thời hạn chế
được tình trạng tham nhũng, lãng phí trong đấu thầu phân tán.
Mua sắm theo nguồn vốn - riêng từng nguồn vốn hoặc tổng hợp của vài
nguồn vốn cũng là đặc điểm đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị tại các doanh
nghiệp của EVN. Chủ yếu đấu thầu được phân theo 2 nguồn: vốn ĐTXD và vốn
vay tín dụng; vốn sản xuất kinh doanh (sửa chữa lớn, sửa chữa thường
xuyên,…). Với từng nguồn vốn được áp dụng Quy chế riêng của EVN như sau:
- Mua sắm VTTB bằng kế hoạch vốn ĐTXD, vốn vay tín dụng theo
Quyết định 156/QĐ-EVN ngày 24/5/2018 về việc ban hành Quy chế về công
tác Đầu tư xây dựng áp dụng trong EVN.
- Mua sắm VTTB bằng kế hoạch vốn sản xuất kinh doanh theo Quyết
định 126/QĐ-EVN ngày 26/7/2017 về việc ban hành Quy chế về công tác đấu
thầu sử dụng chi phí sản xuất kinh doanh trong EVN.
25
2.1.2 Quy chế quản lý nội bộ EVN về đấu thầu mua sắm thiết bị
Chính vì hoạt động đấu thầu mang tính liên tục và đặc thù như vậy nên
ngoài văn bản pháp luật đấu thầu chung, EVN đã ban hành Quy chế quản lý
nội bộ EVN trong đó có ghi nhận vấn đề đấu thầu căn cứ khoản 2 điều 3 Luật
Đấu thầu 2013 “Trường hợp ....mua sắm nhằm duy trì hoạt động thường
xuyên của doanh nghiệp nhà nước; ...thì doanh nghiệp phải ban hành quy
định về lựa chọn nhà thầu để áp dụng thống nhất trong doanh nghiệp trên cơ
sở bảo đảm mục tiêu công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế”.
EVN đã ban hành quy chế quản lý nội bộ và liên quan đấu thầu mua
sắm thiết bị hiện có 2 quy chế sau:
i) Quy chế về công tác Đầu tư xây dựng áp dụng trong EVN ban hành
theo Quyết định 156/QĐ-EVN ngày 24/5/2018. Theo đó, tại Chương 3 về
công tác quản lý đấu thầu, kết hợp quy định pháp luật về đấu thầu với các quy
định pháp luật về quản lý dự án về ĐTXD, quy định sử dụng vốn Doanh
nghiệp nhà nước, EVN đã quy định chi tiết và cụ thể hóa trình tự, thủ tục các
bước chuẩn bị đấu thầu (Mục 1), tổ chức lựa chọn nhà thầu (Mục 2), hình
thức lựa chọn nhà thầu (Mục 3) và quy định bổ sung các nội dung thuộc
Căn cứ thực hiện chuẩn bị đấu thầu: Để triển khai thực hiện công tác
quyền quyết định EVN cho các dự án thuộc ngành điện như sau:
chuẩn bị đấu thầu, trước tiên phải có Dự án đầu tư (theo quy định Nghị định
59/CP) được duyệt; hoặc đối với các công việc chuẩn bị dự án trước khi dự án
đầu tư được duyệt thì căn cứ trên cơ sở tổng sơ đồ phát triển điện, quy hoạch
vùng, khu vực đã được phê duyệt, danh mục đầu tư và kế hoạch vốn hàng năm;
hoặc đối với mua sắm tài sản cố định không hình thành dự án đầu tư: kế hoạch
Kế hoạch lựa chọn nhà thầu (KHLCNT) tại Điều 34 phải được lập,
hàng năm được duyệt và dự toán được duyệt (nếu có).
trình người có thẩm quyền phê duyệt đồng thời hoặc ngay sau khi có quyết
26
định phê duyệt dự án đầu tư hoặc kế hoạch năm được duyệt. Trường hợp chưa
thể lập và phê duyệt KHLCNT cho toàn bộ dự án thì có thể phê duyệt
KHLCNT theo từng đợt khi có đủ điều kiện. Việc phân chia gói thầu trong
KHLCNT phải căn cứ trên những luận chứng khoa học cụ thể về tính chất,
quy mô và tiến độ của dự án, đảm bảo tính minh bạch, mức độ cạnh tranh cao,
nhằm mục đích lựa chọn được các nhà thầu có năng lực, kinh nghiệm, thực
hiện với chi phí hợp lý. Khi phân chia gói thầu cần hạn chế tối đa việc gộp
các gói thầu có tính chất công việc khác nhau thành một gói thầu dẫn tới giảm
Công tác mở thầu tại Điều 38 quy định ngay sau khi mở thầu (bao
tính cạnh tranh, tạo khó khăn trong kiểm soát chất lượng công trình.
gồm cả mở hồ sơ đề xuất về kỹ thuật và mở hồ sơ đề xuất về tài chính), Bên
mời thầu gửi báo cáo Chủ đầu tư về công tác mở thầu và kèm bản chụp Biên
Tổ chuyên gia tại Điều 39 quy định do Bên mời thầu quyết định thành
bản mở thầu và bản chụp HSDT của các nhà thầu đã được mở thầu.
lập. Tiêu chuẩn các cá nhân tham gia Tổ chuyên gia theo Quy định của Luật
Khi thẩm định kết quả đấu thầu, Điều 41 nêu rõ tùy tính chất, quy mô
Đấu thầu 2013.
của gói thầu, Chủ đầu tư giao nhiệm vụ cho cá nhân hoặc đơn vị/bộ phận hoặc
thuê đơn vị tư vấn thực hiện công tác thẩm định. Tư vấn hoặc người được
giao thẩm định phải độc lập với người đã soạn thảo nội dung trình và thực
hiện các quyền và nghĩa vụ như Quy định của Luật Đấu thầu. Tiêu chuẩn cá
nhân tham gia thẩm định đấu thầu theo quy định về tiêu chuẩn đối với các cá
Chỉ định thầu đối với gói thầu xử lý sự cố, bao gồm mua sắm vật tư
nhân tham gia Tổ chuyên gia theo Quy định của Luật Đấu thầu.
Đấu thầu đồng thời 2 hoặc nhiều gói thầu cùng một lúc thực hiện
thiết bị phục vụ thi công cấp bách.
trong trường hợp tiến hành đấu thầu rộng rãi hoặc chào hàng cạnh tranh 2 gói
27
thầu hoặc nhiều hơn vào cùng một thời điểm kể cả các gói thầu từ nhiều
nguồn vốn và hoặc nhiều dự án khác nhau thì Bên mời thầu được phép tự
quyết định áp dụng đấu thầu đồng thời mà không cần trình duyệt lại
KHLCNT các gói thầu này.
ii) Quy chế về công tác đấu thầu sử dụng chi phí sản xuất kinh doanh
trong EVN ban hành theo Quyết định 126/QĐ-EVN ngày 26/7/2017. Với
nguồn vốn sản xuất kinh doanh – đặc thù vốn kinh doanh là tiết kiệm chi phí
tối đa để tăng lợi nhuận, về cơ bản những điểm khác biệt bổ sung thêm cũng
như Quy chế theo Quyết định 156 trên, các đơn vị căn cứ quy mô, tính chất
các hoạt động mua sắm trong đơn vị mình tự lập danh mục và tổ chức mua
sắm tập trung để tăng cường tính hiệu quả và đồng bộ của hoạt động mua
sắm. Tuy nhiên, có bổ sung đặc thù nổi cộm là khi đánh giá kết quả chọn
thầu, “Trong trường hợp đấu thầu chỉ có 01 nhà thầu tham gia hoặc chỉ có 01
nhà thầu đáp ứng yêu cầu kỹ thuật thì hủy thầu và tổ chức đấu thầu lại (trừ
trường hợp đặc biệt báo cáo Hội đồng thành viên EVN xem xét, quyết định)”
(Điều 12 Khoản 3).
Tại Điều 28 về nguyên tắc trong mua sắm tập trung, EVN phân cấp
thực hiện mua sắm tập trung, cụ thể: Các Tổng công ty Điện lực hoặc các
Công ty con là công ty TNHH MTV trực thuộc tổ chức đơn vị/bộ phận
chuyên trách hoặc kiêm nhiệm để thực hiện nhiệm vụ mua sắm tập trung cho
các dự án/gói thầu của mình và các đơn vị hoạch toán phụ thuộc. Đơn vị có
nhu cầu mua sắm hàng hóa tuân thủ theo nội dung trong quyết định phê duyệt
KQLCNT, nội dung thỏa thuận khung và ký kết hợp đồng với nhà thầu đã
được lựa chọn thông qua mua sắm tập trung trên cơ sở thỏa thuận khung.
Tại Điều 29 về hình thức thực thiện mua sắm tập trung, đơn vị/bộ phận
mua sắm tập trung thực hiện việc ký hợp đồng với nhà thầu theo một trong
hai cách trực tiếp ký hợp đồng với nhà thầu được lựa chọn; hoặc ký thỏa
28
thuận khung, giao cho các đơn vị có nhu cầu ký hợp đồng trực tiếp với nhà
thầu được chọn căn cứ nhu cầu đăng ký (HSMT kèm theo dự thảo thỏa thuận
khung, dự thảo hợp đồng chi tiết).
2.2. Thực trạng pháp luật về nội dung đấu thầu mua sắm thiết bị sử
dụng vốn nhà nước qua thực tiễn EVN
2.2.1. Thực trạng nguyên tắc đấu thầu mua sắm thiết bị sử dụng vốn nhà nước
qua thực tiễn EVN
Để lựa chọn được nhà thầu có năng lực tài chính, máy móc, công nghệ,
nhân lực và kinh nghiệm tốt, có chi phí thực hiện hợp lý nhằm đảm bảo chất
lượng và hiệu quả kinh tế của gói thầu thì quá trình lựa chọn nhà thầu phải
được thực hiện công bằng và minh bạch. Chỉ thị số 47/CT-TTg của Thủ tướng
ngày 27/12/2017 về việc chấn chỉnh công tác đấu thầu trong các dự án đầu tư
phát triển và hoạt động mua sắm thường xuyên sử dụng vốn Nhà nước có nhiều
điểm rất mới nhằm đảm bảo thực hiện mục đích trên. “Đối với chủ đầu tư và
bên mời thầu, phải đảm bảo công khai, minh bạch toàn bộ quá trình phát hành
HSMT, tiếp nhận hồ sơ dự thầu; nghiêm cấm mọi hành vi cản trở nhà thầu
trong việc mua HSMT và nộp hồ sơ dự thầu. Quán triệt và tập trung chỉ đạo
chấn chỉnh công tác đấu thầu bảo đảm nguyên tắc cạnh tranh, công bằng,
minh bạch và hiệu quả cao nhất” [10, tr.1]. Để bảo đảm công khai, minh bạch
tối đa các thông tin, chủ đầu tư, bên mời thầu phải tự đăng tải các thông tin
thuộc trách nhiệm của mình trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia (e-GP) – đây
là một điểm mới đặc biệt trong pháp luật đấu thầu 3 năm gần đây.
Điều 5 Luật đấu thầu 2013 quy định các thông tin về đấu thầu ngoài
việc phải được đăng tải trên tờ báo về đấu thầu và trang thông tin điện tử về
đấu thầu của cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu, còn có thể đăng trên các
phương tiện thông tin đại chúng khác để tang tính thuận tiện trong việc tiếp
cận của các tổ chức và cá nhân có quan tâm. Các thông tin xuyên suốt quá
29
trình tổ chức lựa chọn nhà thầu đều bắt buộc bên mời thầu phải công khai
đăng tải cũng nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch và nhất là đảm bảo
quyền tiếp cận thông tin của nhà thầu bao gồm: Kế hoạch đấu thầu; Thông
báo mời sơ tuyển, kết quả sơ tuyển; Thông báo mời thầu đối với đấu thầu
rộng rãi; Danh sách nhà thầu được mời tham gia đấu thầu; Kết quả lựa chọn
nhà thầu; Thông tin xử lý vi phạm pháp luật về đấu thầu; Văn bản quy phạm
pháp luật về đấu thầu hiện hành,…
Bên cạnh đó, tại Điều 3 Luật tiếp cận thông tin năm 2016 quy định về
nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin liên quan đến các cá nhân, tổ chức
Doanh nghiệp là bên tham dự thầu “đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử
trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin”; “Thông tin được cung cấp phải
chính xác, đầy đủ; Việc cung cấp thông tin phải kịp thời, minh bạch, thuận lợi;
đúng trình tự, thủ tục theo quy định ...”
Ngược lại đối với thông tin về hồ sơ dự thầu của các nhà thầu, chỉ
người có thẩm quyền, cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ quan quản lý nhà nước
về hoạt động đấu thầu mới có quyền yêu cầu chủ đầu tư, bên mời thầu cung
cấp thông tin để phục vụ hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát và quản lý
nhà nước về hoạt động đấu thầu. Theo Điều 74 và Điều 75 Luật Đấu
thầu 2013 quy định trách nhiệm của chủ đầu tư, bên mời thầu là bảo mật các
tài liệu liên quan trong quá trình lựa chọn nhà thầu và cung cấp thông tin, tài
liệu liên quan theo yêu cầu của người có thẩm quyền, cơ quan thanh tra, kiểm
tra, cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động đấu thầu.
Qua đó cho thấy pháp luật Việt Nam chú trọng đến việc cung cấp thông
tin trong đấu thầu phải được công khai, sâu rộng đến với mọi đối tượng, tổ
chức, cá nhân trên toàn lãnh thổ Việt Nam quan tâm dự thầu, đồng thời cũng
đảm bảo việc bảo mật thông tin giữa các nhà thầu nhằm đảm bảo tính minh
30
bạch, tăng tính cạnh tranh và hạn chế đến mức thấp nhất các hiện tượng tiêu
cực trong đấu thầu do thiếu thông tin.
Tác giả xin rút ra vài nội dung nhằm đảm bảo tính cạnh tranh, công
khai và minh bạch trong đấu thầu như sau:
Ngoài các thủ tục hồ sơ quy định được đăng tải thông tin công khai
trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia, các công tác soạn thảo hồ sơ từ phía
Chủ đầu tư như lập KHLCNT, HSMT, đánh giá kết quả lựa chọn nhà thầu,
trình thẩm định và phê duyệt,..được tổ chức đúng hướng dẫn trình tự, nội
dung theo pháp luật quy định nhằm đảm bảo cạnh tranh trong đấu thầu. Về
phương thức đấu thầu thì tuyệt đối không cho phép chỉ định thầu đối với
những gói thầu không đáp ứng điều kiện tại Điều 22 Luật Đấu thầu. Đồng
thời, Chỉ thị số 47/CT-TTg cho phép các chủ đầu tư chủ động đề xuất các
hình thức lựa chọn nhà thầu có tính cạnh tranh hơn đối với những gói thầu có
thể chỉ định thầu. Chỉ thị cũng nghiêm cấm việc người có thẩm quyền lợi
dụng chức vụ, quyền hạn để can thiệp bất hợp pháp vào quá trình lựa chọn
nhà thầu của bên mời thầu dẫn đến làm sai lệch kết quả lựa chọn nhà thầu.
Trong quá trình lựa chọn nhà thầu, đơn vị thẩm định hoạt động độc lập, bảo
đảm khách quan, trung thực, công bằng.
Bên cạnh việc tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động đấu thầu, xử lý
răn đe các hành vi vi phạm pháp luật đấu thầu, quyết liệt và nghiêm túc trong
chỉ đạo triển khai, hoạt động đấu thầu từ các cấp nhằm đảm bảo minh bạch,
công bằng, lựa chọn được nhà thầu đủ năng lực, tăng hiệu quả trong đầu tư xây
dựng. Thông tư 10/2016/TT-BKHĐT quy định chi tiết về giám sát, theo dõi
việc tuân thủ quy định của pháp luật về đấu thầu trong quá trình lựa chọn nhà
thầu và lựa chọn nhà đầu tư; Kiểm tra việc ban hành các văn bản hướng dẫn,
chỉ đạo thực hiện công tác đấu thầu, phân cấp trong đấu thầu; kiểm tra đào tạo
về đấu thầu; kiểm tra việc lập và phê duyệt KHLCNT, nhà đầu tư; kiểm tra
31
việc tổ chức lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư; kiểm tra việc tổ chức lựa chọn nhà
thầu, nhà đầu tư qua mạng; ký kết hợp đồng; kiểm tra tình hình thực hiện báo
cáo về công tác đấu thầu; kiểm tra việc thực hiện hoạt động kiểm tra, giám sát,
theo dõi về công tác đấu thầu và các hoạt động khác liên quan đến đấu thầu.
Đấu thầu qua mạng (e-GP) là công cụ hữu hiệu nhất trong việc đảm
bảo công khai, minh bạch qua đó tăng tính cạnh tranh giữa các nhà thầu. Đây
là một trong những điểm nổi bật trong công tác đấu thầu từ năm 2017 đến nay
tại Việt Nam, có thêm các cơ sở pháp lý quan trọng để thúc đẩy công khai,
minh bạch và tăng cường giám sát nhằm tăng hiệu quả đấu thầu. Ngay từ
khâu thẩm định KHLCNT, đơn vị thẩm định chủ động đề xuất áp dụng đấu
thầu qua mạng đối với những gói thầu đủ điều kiện. Chủ đầu tư, bên mời thầu
phải có kế hoạch, bố trí cán bộ phụ trách công tác đấu thầu tham gia các khóa
đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng, hướng dẫn thực hiện đấu thầu qua mạng để triển
khai thực hiện tuần tự theo lộ trình, mở rộng phạm vi áp dụng ở tất cả các loại
gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, phi tư vấn, tư vấn; hình thức đấu thầu
chào hàng cạnh tranh, đấu thầu rộng rãi với phương thức một giai đoạn một
túi hồ sơ và hai túi hồ sơ.
Tuy vậy, việc thực hiện (e-GP) vẫn còn một số hạn chế như tỷ lệ đấu
thầu qua mạng vẫn thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu theo lộ trình quy định. Việc
áp dụng đấu thầu qua mạng nhìn chung còn rất chậm, còn nhiều đơn vị trên cả
nước không đảm bảo yêu cầu theo quy định (Tập đoàn, tổng công ty nhà
nước: số lượng 46,4% và giá trị 13,9%; Bộ, ngành: 21,3% số lượng và 2% giá
trị; địa phương: 18% số lượng và 4% giá trị). Có thể do trình độ, năng lực các
cán bộ, chuyên viên và sự chỉ đạo chưa quyết liệt từ các cấp quản lý mà vẫn
còn đó các Tập Đoàn, Tổng công ty lớn không hoặc chưa triển khai quyết liệt
công tác đấu thầu qua mạng.
32
Trong tổ chức lựa chọn nhà thầu từ 2017 đến nay, EVN là một trong các
doanh nghiệp nhà nước ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào quản lý các
công tác tác nghiệp hàng ngày – trong đó có nghiệp vụ Đấu thầu, đặc biệt là đấu
thầu qua mạng. Nhờ ứng dụng công nghệ giúp tiết kiệm thời gian và chi phí. Hệ
thống này là nền tảng cốt lõi, nơi diễn ra toàn bộ quy trình từ đăng tải thông báo
mời thầu, nộp và nhận hồ sơ dự thầu, đến thông báo trúng thầu. Mọi thông tin
liên quan đến số lượng, danh tính các nhà thầu tham gia một gói thầu điện tử đều
được bảo mật tuyệt đối trước thời điểm đóng thầu.
2.2.2. Thực trạng pháp luật về chủ thể đấu thầu mua sắm thiết bị qua thực tiễn
EVN
i) Việc tổ chức đấu thầu chỉ được thực hiện khi chủ thể có đủ điều kiện:
+ Về phía bên mời thầu phải đáp ứng: (i) quyết định đầu tư của người có
thẩm quyền; (ii) Kế hoạch đấu thầu đã được người có thẩm quyền phê duyệt;
(iii) HSMT đã được người có thẩm quyền phê duyệt; (iv) Bên mời thầu không
được tham gia với tư cách là nhà thầu đối với các gói thầu do mình tổ chức.
+ Về phía Nhà thầu tham dự đấu thầu phải đảm bảo các điều kiện sau:
(i) Có giấy phép đăng ký kinh doanh. Đối với đấu thầu mua sắm thiết bị phức
tạp được quy định trong HSMT, ngoài giấy đăng ký kinh doanh, phải có giấy
phép bán hàng thuộc bản quyền của nhà sản xuất; (ii) Có đủ năng lực về kỹ
thuật và tài chính đáp ứng yêu cầu của gói thầu; (iii) Chỉ được tham gia một
đơn vị dự thầu trong một gói thầu, dù là đơn phương hay liên doanh dự thầu.
Trường hợp tổng công ty đứng đơn dự thầu thì các đơn vị trực thuộc không
được phép tham dự với tư cách là nhà thầu độc lập trong cùng một gói thầu.
Hiện tại, Luật đấu thầu 2013 phân cấp rõ ràng, quy định chức năng,
quyền hạn và trách nhiệm của Người có thẩm quyền, Chủ đầu tư, Bên mời
thầu, Nhà thầu cụ thể nêu trên. Theo đó cho thấy trong mua sắm vật tư thiết bị
trong các Doanh nghiệp thuộc các Tập Đoàn, vẫn còn tình trạng khác nhau
33
giữa Người mua và Người sử dụng diễn ra khi Người có thẩm quyền, chủ đầu
tư làm Bên mời thầu tổ chức mua sắm tập trung cho các đơn vị trực thuộc sử
dụng. Cơ chế phân cấp quản lý đấu thầu mua sắm xuất phát từ hệ quả của thời
kỳ bao cấp kéo dài đã ăn sâu vào nhận thức nên trong các quy định của pháp
luật đấu thầu vẫn còn nặng tư tưởng tập trung quản lý nhà nước. Dẫn đến phần
lớn trong các quy định người mua hàng hóa lại không phải là người sử dụng
chính hàng hóa đó, vì sợ rằng nếu giao cho các đơn vị sử dụng sẽ khó đảm bảo
hiệu quả trong mua sắm. Thực tế cho thấy có quá nhiều trường hợp cấp trên
mua hàng hóa giao cho cấp dưới – các doanh nghiệp trực thuộc sử dụng không
hiệu quả, thậm chí là không sử dụng đúng nhu cầu. Đó là mặt hạn chế chưa
tháo gỡ.
Tiếp nối tình trạng này là do Người mua vừa được coi là chủ đầu tư,
vừa được coi là người quản lý, người thực hiện dự án mà không có bất kỳ chế
tài luật nào điều chỉnh đối tượng này. Đây cũng chính là nguyên nhân tạo ra
kẽ hở để nạn tham nhũng, gian lận thương mại diễn ra phức tạp trong thời
gian qua. Thực tế áp dụng tại EVN các quy định về phân cấp quản lý tiếp tục
cho thấy hai khuynh hướng tiêu cực trái ngược nhau: Một là, cơ quan cấp trên
không tin tưởng vào năng lực, trình độ và tính trung thực của đơn vị mua sắm,
nên thường can thiệp rất sâu vào quá trình mua sắm đấu thầu như: lập kế
hoạch mua sắm, tiêu chuẩn kỹ thuật hàng hóa, tiêu chuẩn đánh giá, quá trình
lựa chọn nhà thầu; Hai là, lợi dụng sự phân cấp cho đơn vị mua sắm đấu thầu
thông qua các văn bản ủy quyền để các cơ quan cấp trên liên quan trốn tránh
trách nhiệm, không tham gia, hoặc tham gia một cách hình thức ở các khâu
không quan trọng. Điều này dẫn đến hoạt động đấu thầu thực hiện không
được kiểm tra, giám sát và chịu trách nhiệm. Những tồn tại tiêu cực nói trên
xuất hiện trong các đơn vị mua sắm hoặc các cơ quan liên quan. Thông
34
thường là do nhận thức chưa đúng đắn về vai trò của mình. Trong một số
trường hợp khác lại do xuất phát từ lợi ích cá nhân của đơn vị mình.
ii) Thực trạng về quyền & nghĩa vụ các bên trong đấu thầu mua sắm
Trong đấu thầu mua sắm hàng hóa, có nhiều bên tham gia theo từng giai
đoạn của quá trình. Giai đoạn chuẩn bị và tổ chức đấu thầu bao gồm đầy đủ
thành phần: Người có thẩm quyền, Chủ đầu tư, bên mời thầu, tổ chuyên gia đánh
giá và thẩm định thầu, nhà thầu tham dự, bên trúng thầu. Sau khi ký hợp đồng
mua sắm thì chỉ còn là chủ đầu tư và bên trúng thầu tức là bên mua và bên bán.
Tùy theo phân công chức năng nhiệm vụ của mỗi đơn vị mà từng vị trí,
vai trò, trách nhiệm các bên đồng thời hay độc lập nhau. Ví dụ đối với các dự
án quan trọng quốc gia hoặc dự án nhóm 1, Chính phủ là Người có thẩm
quyền, phân công cho các Bộ chuyên ngành làm Chủ đầu tư, các Bộ chuyên
ngành có thể giao cho Ủy Ban nhân dân các Tỉnh/Thành là Bên mời thầu, bộ
phận tham mưu thẩm định và trình Người có thẩm quyền phê duyệt; hoặc đối
với các dự án mà các Bộ chuyên ngành là Người có thẩm quyền, giao cho các
Tập đoàn kinh tế là Chủ đầu tư, Tập đoàn giao cho các Ban QLDA trực thuộc
hoặc các Tổng công ty con/các đơn vị thành viên trực thuộc là Bên mời thầu,…
Tuy nhiên, Người có thẩm quyền cũng có thể thực hiện luôn vai trò Chủ đầu,
Bên mời thầu hoặc Chủ đầu tư cũng có thể trực tiếp là Bên mời thầu.
Trách nhiệm các bên khi tham gia dự thầu theo quy định của pháp luật là
căn cứ hình thành quyền và nghĩa vụ các bên. Quyền có thể không thực hiện
nhưng nghĩa vụ buộc phải thực hiện khi rơi vào trường hợp đó. Phạm vi Luận
văn tập trung nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của bên mua và bên bán – tức là
Bên mời thầu và Nhà thầu.
Nghĩa vụ Chủ đầu tư và Bên mời thầu
Đối với Chủ đầu tư và Bên mời thầu khi được giao nhiệm vụ thì gần như
không còn quyền nữa, Chủ đầu chỉ có quyền duy nhất là hủy thầu nhưng cũng
35
trong điều kiện bắt buộc khi không có nhà thầu nào đáp ứng, trở thành nghĩa vụ
phải hủy thầu. Căn cứ quy định trách nhiệm của Chủ đầu tư tại Điều 74, 75 Luật
đấu thầu 2013 thì quyền và nghĩa vụ của Chủ đầu tư và Bên mời thầu như sau:
Bảng 2.1. Quyền và nghĩa vụ của Chủ đầu tư và Bên mời thầu
Chủ đầu tư Bên mời thầu
- Phê duyệt KHLCNT khi chưa có - Chuẩn bị lựa chọn nhà thầu; tổ
quyết định phê duyệt dự án; phê duyệt chức lựa chọn nhà thầu, đánh giá dự
danh sách ngắn, HSMT/hồ sơ yêu cầu, thầu;
danh sách xếp hạng nhà thầu, kết quả lựa - Quyết định thành lập tổ chuyên
chọn nhà thầu. gia;
- Ký kết hoặc ủy quyền ký kết hợp - Yêu cầu nhà thầu làm rõ hồ sơ
đồng. dự thầu, hồ sơ đề xuất trong quá trình
- Quyết định thành lập Bên mời thầu đánh giá hồ sơ;
(trường hợp nhân sự không đáp ứng lựa - Trình duyệt kết quả lựa chọn
chọn tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp để danh sách ngắn, kết quả lựa chọn nhà
làm Bên mời thầu hoặc thực hiện một số thầu;
nhiệm vụ Bên mời thầu) - Thương thảo, hoàn thiện hợp
- Quyết định xử lý tình huống. đồng với nhà thầu;
- Giải quyết kiến nghị trong quá - Bồi thường thiệt hại theo quy
trình lựa chọn nhà thầu. định của pháp luật cho các bên liên
- Bảo mật và lưu trữ các tài quan nếu thiệt hại đó do lỗi của mình
liệu/thông tin liên quan quá trình lựa chọn gây ra;
nhà thầu. - Bảo mật các tài liệu trong quá
- Báo cáo công tác đấu thầu hàng trình lựa chọn nhà thầu;
năm. - Bảo đảm trung thực, khách
- Bồi thường thiệt hại theo quy định quan, công bằng trong quá trình lựa
của pháp luật cho các bên liên quan nếu chọn nhà thầu;
36
thiệt hại đó do lỗi của mình gây ra. - Cung cấp các thông tin cho Báo
- Hủy thầu khi tất cả các hồ sơ dự đấu thầu và hệ thống mạng đấu thầu
thầu không đáp ứng được các yêu cầu của quốc gia; cung cấp thông tin, tài liệu
HSMT (khoản 1 Điều 17 Luật đấu thầu liên quan và giải trình việc thực hiện
2013). các quy định tại khoản này theo yêu cầu
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật của người có thẩm quyền, chủ đầu tư,
và Người có thẩm quyền về quá trình lựa cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ quan
chọn nhà thầu quản lý nhà nước về hoạt động đấu
thầu;
- Chịu trách nhiệm trước pháp
luật và chủ đầu tư về quá trình lựa
chọn nhà thầu.
Nguồn: Điều 74 và Điều 75 Luật đấu thầu 2013
Khi tham gia hệ thống mạng đấu thầu quốc gia, Bên mời thầu có nghĩa vụ:
- Trang bị cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu đấu
thầu qua mạng;
- Quản lý và không tiết lộ khóa bí mật của chứng thư số được cấp.
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác và trung thực của
các thông tin đã đăng ký, đăng tải lên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia khi
đăng nhập bằng chứng thư số của mình;
- Kiểm tra và xác nhận việc đăng tải các thông tin của mình đã nhập vào
hệ thống mạng đấu thầu quốc gia;
Quyền và Nghĩa vụ Nhà Thầu
Căn cứ quy định trách nhiệm của Nhà thầu tại Điều 77 Luật đấu thầu
2013 thì Quyền và nghĩa vụ của Nhà thầu trong giai đoạn đấu thầu như sau:
Bảng 2.2. Quyền và nghĩa vụ của nhà thầu
Quyền của Nhà thầu Nghĩa vụ của Nhà thầu
37
- Yêu cầu bên mời thầu làm rõ hồ sơ - Thực hiện các cam kết theo hợp
mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển, đồng đã ký và cam kết với nhà thầu
HSMT, hồ sơ yêu cầu. phụ (nếu có). Tuân thủ các quy định
- Kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trong của pháp luật về đấu thầu.
quá trình tham dự thầu. - Bảo đảm trung thực, chính xác
trong quá trình tham dự thầu, kiến
nghị, khiếu nại, tố cáo.
- Bồi thường thiệt hại theo quy
định của pháp luật cho các bên liên
quan nếu thiệt hại đó do lỗi của mình
gây ra.
- Cung cấp thông tin, tài liệu liên
quan và giải trình việc thực hiện các
quy định theo yêu cầu của người có
thẩm quyền, chủ đầu tư, bên mời thầu,
cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ quan
quản lý nhà nước về hoạt động đấu
thầu.
Nguồn: Điều 77 Luật đấu thầu 2013
Khi tham gia hệ thống mạng đấu thầu Quốc gia, Nhà thầu còn có nghĩa vụ:
- Trang bị cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu đấu
thầu qua mạng;
- Quản lý và không tiết lộ khóa bí mật của chứng thư số được cấp.
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác và trung thực của
các thông tin đã đăng ký, đăng tải trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia khi
đăng nhập bằng chứng thư số của mình;
38
- Chịu trách nhiệm về kết quả khi tham gia đấu thầu qua mạng trường
hợp gặp sự cố do hệ thống mạng ở phía nhà thầu làm cho tài liệu không mở
và đọc được;
2.2.3 Thực trạng pháp luật về gói thầu mua sắm thiết bị sử dụng vốn nhà nước
qua thực tiễn EVN
Đối tượng mua sắm: Điều 4 Khoản 22 Luật đấu thầu 2013 quy định
“Gói thầu là một phần hoặc toàn bộ dự án, dự toán mua sắm; gói thầu có thể
gồm những nội dung mua sắm giống nhau thuộc nhiều dự án hoặc là khối
lượng mua sắm một lần, khối lượng mua sắm cho một thời kỳ đối với mua
sắm thường xuyên, mua sắm tập trung”. Như vậy, gói thầu có thể gồm những
nội dung mua sắm giống nhau thuộc nhiều dự án có thể sử dụng chung một
gói thầu để lựa chọn nhà thầu với mặt hàng đang tìm kiếm. Tức có thể tiến
hành mua sắm hàng hóa cho từng dự án hoặc chung cho tất cả các dự án và
thể hiện trong một gói thầu. Do đó, đối tượng mua sắm trong đấu thầu mua
sắm thiết bị của EVN là các gói thầu vật tư hoặc thiết bị hoặc cả vật tư thiết bị
ngành điện như cáp ngầm, cáp nổi, trụ điện, Máy biến thế, máy cắt, thiết bị
đóng cắt (DS, RMU, FCO, LBFCO,..), thiết bị đo đếm (điện kế, CB,..)
Các nhà thầu được hưởng ưu đãi khi tham gia đấu thầu trong nước hoặc
đấu thầu quốc tế để cung cấp hàng hóa mà hàng hóa đó có chi phí sản xuất
trong nước chiếm tỷ lệ từ 25% trở lên được quy định tại Điều 14 Luật đấu
thầu 2013. Việc tính ưu đãi được thực hiện trong quá trình đánh giá hồ sơ dự
thầu để so sánh, xếp hạng hồ sơ dự thầu theo cách là cộng thêm số tiền vào
giá dự thầu hoặc vào giá đánh giá của nhà thầu không thuộc đối tượng được
ưu đãi. Tuy nhiên điều này không áp dụng trong trường hợp điều ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên hoặc thỏa thuận quốc tế giữa Việt Nam với nhà tài
trợ có quy định khác về ưu đãi trong lựa chọn nhà thầu.
39
Chỉ thị 13/CT-TTg của Thủ Tướng ngày 04/4/2017 về việc chấn chỉnh
công tác đấu thầu trong các dự án đầu tư phát triển và hoạt động mua sắm
thường xuyên sử dụng vốn Nhà nước đã yêu cầu tăng cường sử dụng vật tư,
hàng hóa sản xuất trong nước trong các dự án đầu tư phát triển và hoạt động
mua sắm thường xuyên sử dụng vốn Nhà nước. Theo đó, Thủ tướng yêu cầu
việc phân chia các gói thầu thuộc dự án, dự toán đối với mua sắm thường
xuyên sử dụng vốn nhà nước phải tuân thủ nguyên tắc phân chia gói thầu theo
quy định của pháp luật về đấu thầu, phù hợp với điều kiện năng lực của nhà
thầu trong nước, bảo đảm các điều kiện cạnh tranh tối đa cho các doanh
nghiệp trong nước, góp phần tạo việc làm cho lao động trong nước. Nghiêm
cấm việc phân chia dự án, dự toán mua sắm thành các gói thầu trái với quy
định của pháp luật về đấu thầu hiện hành nhằm mục đích hạn chế sự tham gia
của các nhà thầu trong nước. Tổ chức đấu thầu quốc tế khi và chỉ khi hàng
hóa, vật tư, thiết bị, máy móc, phương tiện trong nước không sản xuất được
hoặc sản xuất được nhưng không đáp ứng yêu cầu về chất lượng, số lượng,
giá cả hoặc theo yêu cầu của nhà tài trợ đối với những gói thầu thuộc các dự
án sử dụng vốn ODA. Ngay cả khi hàng hóa thông dụng, đã được nhập khẩu
và chào bán tại Việt Nam thì không được tổ chức đấu thầu quốc tế.
EVN là Doanh nghiệp nhà nước sử dụng 100% vốn nhà nước, thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật đấu thầu 2013. Khoản 44 Điều 4 Luật nêu rõ “Vốn
nhà nước bao gồm vốn ngân sách nhà nước; công trái quốc gia, trái phiếu chính
phủ, trái phiếu chính quyền địa phương; vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vốn
vay ưu đãi của các nhà tài trợ; vốn từ quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp; vốn
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước; vốn tín dụng do Chính phủ bảo lãnh;
vốn vay được bảo đảm bằng tài sản của Nhà nước; vốn đầu tư phát triển của
doanh nghiệp nhà nước; giá trị quyền sử dụng đất”. Theo đó, cũng như mọi hoạt
động sản xuất kinh doanh khác, vốn dành cho mua sắm vật tư thiết bị tại các
40
doanh nghiệp thuộc EVN dù là dùng vốn đầu tư phát triển, vốn vay tín dụng hay
vay ưu đãi từ các nhà tài trợ, vay được bảo đảm bằng tài sản hoặc giá trị quyền
sử dụng đất,..tất cả đều sử dụng duy nhất là nguồn vốn nhà nước. Do đó, mọi
quy định, quy trình, phương thức thực hiện phải nhất nhất tuân theo Luật đấu
thầu 2013 dưới dạng mua sắm đối tượng là hàng hóa.
EVN cũng như các tổ chức, nhà tài trợ quốc tế ban hành quy định về đấu
thầu tin rằng đấu thầu rộng rãi sẽ tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh. Nếu đấu thầu
hạn chế thì sẽ tạo cơ hội để một số ít nhà thầu liên kết để gian lận, còn chỉ định
thầu thì hoàn toàn không có tính cạnh tranh. Nhưng thực tế có rất nhiều cách
nhằm vô hiệu hóa các quy định của đấu thầu rộng rãi, dẫn đến những hạn chế
trong đấu thầu. Ví dụ, quy định tiêu chuẩn kỹ thuật mang tính chất chỉ định,
thiếu khách quan trong đấu thầu mua sắm hàng hóa. Việc quy định tiêu chuẩn
kỹ thuật chi tiết là cần thiết để đảm bảo mua đúng hàng hóa mà bên mời thầu
cần. Tuy nhiên, ranh giới giữa vấn đề này và việc quy định quá chi tiết để chỉ
có một nhà thầu, một loại hàng hóa, hay một xuất xứ hàng hóa đáp ứng yêu cầu
HSMT là hạn chế tính cạnh tranh của đấu thầu mua sắm hàng hóa.
Ngoài việc quy định tiêu chuẩn kỹ thuật của hàng hóa mang tính chỉ
định, việc quy định tiêu chuẩn đánh giá năng lực kinh nghiệm nhằm mục đích
có ít nhà thầu đáp ứng cũng làm giảm khả năng cạnh tranh. Những tiêu chuẩn
đánh giá thường được dùng để hạn chế nhà thầu trong thời gian qua tại Việt
Nam như: số năm kinh nghiệm của nhà thầu, kinh nghiệm cung cấp hàng hóa
tương tự, năng lực tài chính, năng lực pháp lý, mức độ cổ phần, loại hình doanh
nghiệp…Ví dụ: việc cung cấp vật tư thiết bị nhất định chỉ cần có kinh nghiệm 3
năm nhưng HSMT quy định tại tiêu chuẩn đánh giá lại yêu cầu đến 5 năm.
Việc quy định này nhằm loại bỏ nhiều nhà thầu có năng lực cạnh tranh khác do
thiếu năm kinh nghiệm, không công bằng với những nhà thầu tuy mới thành
41
lập nhưng được tách ra từ Công ty mẹ đã có uy tín và thương hiệu, điều này lại
làm hạn chế sự phát triển của các doanh nghiệp, tức là sự phát triển của xã hội.
Cạnh tranh về giá là tương đối rõ ràng, nhưng cạnh tranh về mặt kỹ thuật
là vấn đề phức tạp. Trong khi đó kỹ thuật lại là yếu tố then chốt trong đấu thầu
đặc biệt với với phương thức hai giai đoạn và hai phong bì cho những gói thầu
mua sắm hàng hóa lớn, quan trọng. Những hạn chế nêu trên về các quy định
làm mất đi tính cạnh tranh trong đấu thầu, nhất là đấu thầu quốc tế, là vấn đề để
các nhà lập pháp, nhà làm luật, đối tác tài trợ xem xét đưa ra những quy định
nhằm hạn chế hiện tượng tiêu cực này.
2.3 Thực trạng pháp luật về trình tự, hình thức và phương thức
mua sắm thiết bị sử dụng vốn nhà nước qua thực tiễn tại EVN
2.3.1. Thực trạng quy định về trình tự, thủ tục theo các hình thức, phương thức
đấu thầu
Hình thức mua sắm vật tư thiết bị chủ yếu tại Doanh nghiệp EVN là đấu thầu
rộng rãi (trong nước và quốc tế), đấu thầu hạn chế không nhiều, chào hàng cạnh
trạnh phổ biến cho các gói thầu hàng hóa sẵn có trên thị trường với khối lượng nhỏ.
Quy trình thực hiện đấu thầu theo các quy định Luật đấu thầu 2013 như sau:
a) Chuẩn bị lựa chọn nhà thầu.
+ Lập và trình duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu (KHLCNT) của dự án
do bên mời thầu lập và phải được người có thẩm quyền phê duyệt. Trường
hợp chưa đủ điều kiện lập KHLCNT của toàn bộ dự án, bên mời thầu có thể
lập KHLCNT cho từng phần của dự án theo giai đoạn thực hiện nhưng phải
được người có thẩm quyền phê duyệt. Nội dung KHLCNT của dự án gồm:
Tên các gói thầu; Giá gói thầu và nguồn tài chính; Hình thức lựa chọn nhà
thầu và phương thức đấu thầu; Thời gian tổ chức đấu thầu; Loại hợp đồng cho
từng gói thầu; Thời gian thực hiện hợp đồng.
42
+ Lập HSMT căn cứ vào Quyết định phê duyệt dự án hoặc dự toán mua
sắm, KHLCNT được duyệt; Tài liệu về yêu cầu về đặc tính, thông số kỹ thuật
đối với hàng hóa; Các quy định của pháp luật về đấu thầu và các quy định của
pháp luật liên quan; các chính sách của Nhà nước về thuế, phí, ưu đãi và các
quy định khác liên quan.
+ Thẩm định trước khi phê duyệt HSMT bằng văn bản và căn cứ vào tờ
trình phê duyệt, báo cáo thẩm định HSMT.
b) Tổ chức lựa chọn nhà thầu
+ Sơ tuyển đối với đấu thầu rộng rãi: được tiến hành đối với các gói thầu
khi căn cứ quy mô, tính chất của gói thầu, chủ đầu tư áp dụng thủ tục lựa chọn
danh sách ngắn nhằm lựa chọn các nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm thực
hiện, đáp ứng yêu cầu của HSMT. Việc áp dụng thủ tục lựa chọn danh sách ngắn
do người có thẩm quyền quyết định và phải được ghi rõ trong KHLCNT.
+ Mời thầu, phát hành, sửa đổi, làm rõ HSMT
+ Chuẩn bị, nộp và tiếp nhận hồ sơ dự thầu
+ Mở thầu
c) Đánh giá hồ sơ dự thầu
Bên mời thầu tổ chức kiểm tra tính hợp lệ, đánh giá chi tiết và xếp hạng
các Hồ sơ dự thầu đã được mở căn cứ theo yêu cầu HSMT. Việc đánh giá các hồ
sơ dự thầu được thực hiện theo trình tự: (i) Kiểm tra, đánh giá tính hợp lệ của hồ
sơ dự thầu; (ii) Đánh giá chi tiết Hồ sơ dự thầu; (iii) Xếp hạng Hồ sơ dự thầu.
Do tính chất gói thầu mua sắm hàng hóa không đơn giản, quy mô không
nhỏ nên không dùng phương pháp giá thấp nhất mà theo phương pháp giá đánh
giá. Theo đó, chi phí được quy đổi trên cùng một mặt bằng về các yếu tố kỹ
thuật, tài chính, thương mại cho cả vòng đời sử dụng của hàng hóa, công trình;
d) Thương thảo hợp đồng
43
Bên mời thầu mời Nhà thầu xếp hạng thứ nhất đến thương thảo theo
nguyên tắc:
- Không tiến hành thương thảo đối với các nội dung mà nhà thầu đã
chào thầu theo đúng yêu cầu của HSMT;
- Không được làm thay đổi đơn giá dự thầu của nhà thầu sau khi sửa
lỗi, hiệu chỉnh sai lệch và trừ đi giá trị giảm giá (nếu có).
đ) Trình, thẩm định, phê duyệt và công khai kết quả lựa chọn nhà thầu
Sau khi có báo cáo kết quả đánh giá hồ sơ dự thầu, bên mời thầu trình
kết quả lựa chọn nhà thầu, trong đó nêu rõ ý kiến của bên mời thầu về các nội
dung đánh giá của tổ chuyên gia. Kết quả lựa chọn nhà thầu phải được thẩm
định trước khi ra quyết định phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu.
e) Hoàn thiện, ký kết hợp đồng
Nhà thầu trúng thầu trong thời gian quy định phải nộp bảo lãnh thực hiện
hợp đồng. Giá trị bảo lãnh thực hiện hợp đồng không quá 10% giá trị hợp đồng
tùy theo loại hình và quy mô của hợp đồng. Hợp đồng mua sắm có thể được ký
theo một trong 3 loại:
- Hợp đồng trọn gói là loại hợp đồng cơ bản, phổ biến dễ áp dụng, có giá
cố định trong suốt thời gian thực hiện đối với toàn bộ nội dung công việc trong
hợp đồng. Việc thanh toán được thực hiện nhiều lần hoặc một lần khi hoàn
thành hợp đồng. Tổng số tiền mà nhà thầu được thanh toán bằng đúng giá ghi
trong hợp đồng;
- Hợp đồng theo đơn giá cố định có đơn giá không thay đổi trong suốt
thời gian thực hiện đối với toàn bộ nội dung công việc trong hợp đồng. Nhà
thầu được thanh toán theo số lượng, khối lượng công việc thực tế được
nghiệm thu theo quy định trên cơ sở đơn giá cố định trong hợp đồng.
- Hợp đồng theo đơn giá điều chỉnh có đơn giá có thể được điều chỉnh
căn cứ vào các thỏa thuận trong hợp đồng đối với toàn bộ nội dung công việc
44
trong hợp đồng. Nhà thầu được thanh toán theo số lượng, khối lượng công
việc thực tế được nghiệm thu theo quy định trên cơ sở đơn giá ghi trong hợp
đồng hoặc đơn giá đã được điều chỉnh.
Đặc biệt, để duy trì hoạt động thường xuyên và áp dụng thống nhất,
EVN đã ban hành 2 quy chế riêng về công tác đấu thầu dành cho nguồn vốn
ĐTXD và vốn vay; vốn sản xuất kinh doanh. Điểm khác biệt của hai quy chế
Đối với công tác lựa chọn Nhà thầu mua sắm VTTB bằng kế hoạch
này là có thêm những quy định đặc thù, cụ thể như sau:
vốn ĐTXD, vốn vay tín dụng theo Quyết định 156/QĐ-EVN ngày 24/5/2018.
Với nguồn vốn này, EVN bổ sung căn cứ pháp luật trong quản lý dự án
đầu tư xây dựng được Chính phủ ban hành tại Nghị định số 59/2015/NĐ-CP về
quản lý dự án đầu tư xây dựng và Nghị định số 42/2017/NĐ-CP ngày 05/4/2017
ề sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 59/2015/NĐ-CP, theo đó tại bước
chuẩn bị đấu thầu quy định tại Điều 33 cần một trong các căn cứ sau để triển
khai thực hiện: Dự án đầu tư được duyệt; hoặc đối với các công việc chuẩn bị
dự án trước khi dự án đầu tư được duyệt thì trên cơ sở tổng sơ đồ phát triển điện,
quy hoạch vùng, khu vực đã được phê duyệt, danh mục đầu tư và kế hoạch vốn
hàng năm; hoặc đối với mua sắm tài sản cố định không hình thành dự án đầu tư
Đối với công tác lựa chọn Nhà thầu mua sắm VTTB bằng kế hoạch vốn
thì căn cứ kế hoạch hàng năm được duyệt và dự toán được duyệt (nếu có).
sản xuất kinh doanh theo Quyết định 126/QĐ-EVN ngày 26/7/2017. Tại bước
đánh giá thầu, Điều 12 Khoản 3 quy định “trong trường hợp chỉ có 1 nhà thầu
tham gia hoặc chỉ có 1 nhà thầu đáp ứng yêu cầu kỹ thuật thì hủy thầu và tổ chức
đấu thầu lại (trừ trường hợp đặc biệt báo cáo Hội đồng thành viên EVN xem xét
quyết định)”.
Ngoài ra, EVN bổ sung cách thức đấu thầu đồng thời 2 hoặc nhiều gói
thầu cùng một lúc trong cả 2 quy chế. Trường hợp tiến hành đấu thầu rộng rãi
45
hoặc chào hàng cạnh tranh 2 gói thầu hoặc nhiều hơn vào cùng một thời điểm
kể cả các gói thầu từ nhiều nguồn vốn và hoặc nhiều dự án khác nhau, Bên
mời thầu được phép tự quyết định áp dụng đấu thầu đồng thời mà không cần
trình duyệt lại KHLCNT các gói thầu này. Trong trường hợp áp dụng phương
pháp giá thấp nhất hoặc phương pháp giá đánh giá, Bên mời thầu xem xét có
thể đưa thêm điều kiện cho phép các nhà thầu chào nhiều hơn 1 gói thầu
được phép chào giảm giá trong trường hợp thắng thầu nhiều hơn 1 gói thầu
(còn gọi là giảm giá chéo có điều kiện) vào nội dung HSMT để trình cấp có
thẩm quyền phê duyệt HSMT trước khi phát hành. Việc đánh giá thầu tiến
hành riêng rẽ cho từng gói thầu tương tự như đánh giá từng phần riêng biệt
của gói thầu, sau đó xét chọn nhà thầu trên cơ sở tuân thủ đồng thời các
nguyên tắc sau:
- Nhà thầu đảm bảo đủ năng lực thực hiện đồng thời các gói thầu được giao
- Tổng giá đề nghị trúng thầu (trường hợp áp dụng phương pháp giá
thấp nhất) hay tổng giá đánh giá (trường hợp áp dụng phương pháp giá đánh
giá) của các gói thầu được trao trúng thầu sau khi trừ phần giảm giá có điều
kiện nêu trên là nhỏ nhất.
- Giá đề nghị trúng thầu mỗi gói thầu không được cao hơn giá gói thầu.
- Nhà thầu chỉ được trao trúng thầu đối với gói thầu được đánh giá đạt
yêu cầu qua tất cả các bước đánh giá và xếp hạng.
Trường hợp một nhà thầu được đề xuất trúng thầu nhiều hơn 1 gói thầu,
trong bước thương thảo hợp đồng, Bên mời thầu cần tiến hành hậu kiểm để kiểm
tra năng lực tài chính, kỹ thuật thực hiện các gói thầu của nhà thầu này. Trường
hợp năng lực của nhà thầu này không đáp ứng yêu cầu thực hiện tất cả các gói
thầu mà nhà thầu được đề xuất trúng thầu thì Bên mời thầu cần tiến hành đánh
giá thầu lại theo các quy định hiện hành đảm bảo tính cạnh tranh và lợi ích cao
nhất của Chủ đầu tư.
46
2.3.2. Thực tiễn áp dụng trình tự, hình thức đấu thầu mua sắm thiết bị tại EVN
2.3.2.1. Cách thức tổ chức đấu thầu
Về cách thức tổ chức đấu thầu qua mạng khá chặt chẽ, Thông tư
04/2017/TT-BKHĐT quy định lựa chọn nhà thầu qua hệ thống mạng đấu thầu
quốc gia hướng dẫn chi tiết từ điều kiện tham gia, quy trình thực hiện, cách
thức lấy và tải thông tin,..Cả bên mời thầu và nhà thầu đều phải đăng ký được
phép hoạt động, các nhà thầu được cấp chứng thư số có thời hạn nhất định.
Thông báo mời thầu, HSMT là hai loại hồ sơ rất đặc biệt nên được quy định
chi tiết, kỹ lưỡng từng phần nội dung được upload lên web của từng bên; cũng
như thời điểm đóng thầu và mở thầu là 2 mốc quan trọng của quá trình lựa
chọn nhà thầu nên các mốc thời gian quy định sát sao, chặt chẽ tính đến từng
phút so với thời hạn cho phép của Luật, tuyệt nhiên không thể có sự can thiệp,
chỉnh sửa tùy ý của cả bên mời thầu và bên dự thầu.
Hình 2.2. Tình hình thực hiện đấu thầu qua mạng EVN từ năm 2011-2018
Nguồn: Tài liệu chuyên đề đấu thầu qua mạng EVNIT năm 2018
47
Tập tễnh từ những năm 2011, khi chỉ sơ khởi ý tưởng ứng dụng công nghệ
thông tin rộng rãi trong đấu thầu cả nước, EVN đã mạnh dạn tiên phong áp dụng,
phát triển tăng dần từng năm, nhảy vọt trong năm 2016 là 1800 gói – tăng gấp 9
lần năm 2015, năm 2017 tiếp tục tăng hơn gấp đôi – 3942 gói, năm 2018 cũng
tăng gần gấp đôi – 7400 gói và hướng tới năm 2020 áp dụng toàn diện đấu thầu
trong toàn EVN.
Số liệu thống kê chỉ riêng cho gói thầu mua sắm vật tư thiết bị năm
2018 qua 3 nguồn vốn đầu tư xây dựng (ĐTXD), Sản xuất kinh doanh
(SXKD) và Sửa chữa lớn (SCL) tại các đơn vị trực thuộc như sau:
Bảng 2.3. Đấu thầu mua sắm thiết bị các doanh nghiệp EVN năm 2018
EVN EVN Nguồn Cách GEN NPT HAN HCM NPC SPC CPC Tổng vốn thức CO OI C
ĐTXD KQM 194 28 172 137 25 1 63 620
Qua 80 97 122 102 123 15 mạng 539
SXKD KQM 11 6 405 36 34 492
Qua 212 129 41 37 10 mạng 429
218 1 3 SCL KQM 222
Qua 3 20 2 mạng 25
Tổng số gói
thầu 22 78 217 343 1088 210 369 2327
Tổng số gói
thầu qua mạng 10 15 80 312 271 145 160 993
Tỷ lệ % đấu thầu
qua mạng
ĐTXD+SXKD
45.45 19.23 36.87
90.88
29.53 69.08 43.72 46.54
48
Tỷ lệ % đấu thầu
qua mạng 3
nguồn
45.45 19.23 36.87
90.96
24.91 69.05 43.36 42.67
Nguồn: Tài liệu chuyên đề đấu thầu qua mạng EVNIT năm 2018
Theo lộ trình áp dụng giai đoạn 2016-2025 của Chính phủ nhằm tăng
cường cạnh tranh, công khai và minh bạch được ban hành tại Quyết định
1402/QĐ-TTg và Thông tư 04/2017/TT-BKHĐT quy định lựa chọn nhà thầu
qua hệ thống mạng đấu thầu quốc gia, trong năm 2016 EVN bước đầu đạt
20% tỷ lệ gói thầu đấu thầu qua mạng, với số lượng gói thầu mỗi năm mỗi
tăng khoảng 15% thì năm 2017 số gói thầu áp dụng qua mạng tiếp tục tăng
gần 40%, đến 2018 chỉ riêng gói thầu mua sắm vật tư thiết bị bằng 2 nguồn
vốn chính là ĐTXD và SXKD tại 7 Tổng công ty đạt 47%, nếu kể cả nguồn
SCL (vốn rất ít dùng để mua sắm) cũng đạt gần 43%, trong đó Tổng công ty
Điện lực TPHCM áp dụng đấu thầu qua mạng gần tuyệt đối – đạt tỷ lệ 91%.
Năm 2019, chỉ số ít các gói thầu mua sắm vật tư duy trì hoạt động thường
xuyên của đơn vị, giá trị quá nhỏ (dưới 50 triệu đồng) hoặc các gói thầu rất
đặc thù, cấp bách xử lý sự cố còn sử dụng hình thức đấu thầu truyền thống,
khuyến khích tối đa các gói thầu đủ điều kiện thuộc mọi nguồn vốn áp dụng
hình thức đấu thầu qua mạng.
Lợi ích áp dụng đấu thầu qua mạng đã rõ, song không phải doanh nghiệp
nào trong EVN cũng sẵn sàng từ bỏ hình thức đấu thầu truyền thống - với nhiều
lợi ích ràng buộc - để áp dụng hình thức đấu thầu qua mạng, trước hết là do sự
thiếu quyết tâm của Người đứng đầu đơn vị chủ đầu tư – bên mời thầu. Thực tế
cho thấy, dù khung pháp luật về đấu thầu đã quy định khá chặt chẽ, nhưng quá
trình thực thi vẫn tồn tại một số tiêu cực như sau:
49
- Việc thông tin, tuyên truyền về hình thức đấu thầu qua mạng còn hạn
chế. Nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa không nắm được
thông tin về việc đấu thầu qua mạng để tham gia...
- Quy định áp dụng đấu thầu qua mạng theo tỷ lệ % số lượng gói thầu
chưa phù hợp với thực tế vùng miền, với tính chất nguồn vốn và hình thức đấu
thầu,… dẫn đến việc lựa chọn gói thầu nào thực hiện đấu thầu qua mạng còn
mang tính chủ quan, tạo cơ chế xin – cho, thiếu công bằng.
- Rào cản về năng lực cán bộ và sự hạn chế về công nghệ, kỹ thuật của
hệ thống mạng đấu thầu quốc gia cũng được xem là một trong những nguyên
nhân tồn tại không nhỏ.
2.3.2.2. Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác đấu thầu
Sau 3 năm triển khai chính thức, đấu thầu qua mạng đã đạt được một số
kết quả đáng khích lệ, từng bước khẳng định hướng đi đúng đắn và vai trò quan
trọng trong việc đảm bảo các tiêu chí cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu
quả kinh tế, là công cụ hữu hiệu trong công tác phòng, chống tham nhũng, đẩy
lùi vi phạm, tiêu cực trong đấu thầu. Tuy vậy, tỷ lệ đấu thầu qua mạng tại EVN
vẫn thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu theo lộ trình quy định. Việc áp dụng đấu thầu
qua mạng nhìn chung còn rất chậm, còn nhiều đơn vị trong ngành trên cả nước
không đảm bảo yêu cầu theo quy định. Đồng thời tính cạnh tranh, hiệu quả kinh
tế của đấu thầu qua mạng chưa được khai thác tối đa. Cụ thể, số liệu cho thấy chỉ
có khoảng 4,6% số lượng nhà thầu đã đăng ký trên Hệ thống tham gia đấu thầu
qua mạng, số lượng nhà thầu trung bình tham gia 1 gói thầu là 2,5; đặc biệt có
khoảng 36% tổng số các gói thầu (chủ yếu là lĩnh vực xây lắp) chỉ có 1 nhà thầu
tham gia. Đây là biểu hiện của việc lách luật, vi phạm quy định về cạnh tranh,
công bằng, đồng thời lật tẩy tình trạng quân xanh, quân đỏ trong đấu thầu truyền
thống. Đây là những biến tướng cần lưu ý ngăn chặn để đảm bảo tính cạnh tranh
của đấu thầu qua mạng. Tổng giá trị các gói thầu đấu thầu qua mạng còn chiếm
50
tỷ trọng chưa cao so với tổng giá trị các gói thầu trên cả nước do đó chưa tận
dụng được lợi ích của đấu thầu qua mạng. Đáng lưu ý, giá trị pháp lý của văn
bản điện tử giao dịch trên Hệ thống chưa được các bên liên quan nhận thức và
công nhận đầy đủ. Mặc dù văn bản điện tử trên Hệ thống đã được công nhận giá
trị pháp lý và làm cơ sở cho việc đánh giá, thẩm định, thanh tra, kiểm toán và
giải ngân (khoản 5 Điều 85 NĐ 63) tuy nhiên trên thực tế nhiều bên mời thầu
vẫn phải chuẩn bị hồ sơ giấy để phục vụ các nghiệp vụ liên quan làm cho hiệu
quả của đấu thầu qua mạng giảm đáng kể.
2.3.2.3. Hạn chế về nghiệp vụ quản lý đấu thầu
Trước hết phải nói đến nhân lực của bộ máy thẩm định đánh giá thầu vừa
thiếu vừa yếu. Mặc dù các hoạt động đấu thầu cũng như cơ sơ pháp lý của nó
đang trên đà phát triển và hoàn thiện nhanh, nhưng trình độ nhận thức của nhiều
cơ quan quản lý đấu thầu vẫn chưa theo kịp tốc độ phát triển đó. Trong khi đó cán
bộ quản lý đấu thầu chủ yếu là kiêm nhiệm; kinh nghiệm của cán bộ hợp đồng thì
kém. Dẫn đến tình trạng quản lý đấu thầu gặp nhiều sai phạm trong thời gian qua.
Đặc biệt là trong công tác thẩm định, xét duyệt còn nhiều trường hợp áp đặt ý kiến
chủ quan cá nhân để đạt lợi ích riêng. Kết quả cho thấy, rất nhiều gói thầu phải
hủy và mời thầu lại nhiều lần. Nguyên nhân từ nhiều phía, nhưng một trong những
nguyên nhân quan trọng là các cấp thẩm định và phê duyệt không thực hiện đúng
và hết vai trò, chức trách của mình. Ví dụ, về KHLCNT quốc tế, bên mời thầu khó
có thể đánh giá được giá kế hoạch có phù hợp với thị trường hay không đối với
những mặt đặc thù trong ngành điện, thường quy định lấy giá tồn kho các Doanh
nghiệp EVN, và giá này thường tổng hợp từ số liệu cũ vài năm trước đó. Do vậy,
giá kế hoạch được phê duyệt thấp hơn nhiều so với giá thị trường, làm cho chủ
đầu tư phải đấu thầu rất nhiều lần, tốn thời gian và công sức mà không mua được
vật tư thiết bị theo đúng yêu cầu, tiến độ.
51
Kế đến là hạn chế về chuyên môn và quản lý của Chủ đầu tư/Bên mời
thầu. Rõ nhất là đối với đơn vị thực hiện mua sắm khi xây dựng tiêu chuẩn kỹ
thuật, họ không quy định những tiêu chuẩn kĩ thuật một cách khách quan, mà
thường cố gắng quy định với những mục đích riêng của họ. Ngoài ra, họ có thể
đưa ra những tiêu chuẩn chung chung, mập mờ về cả tiêu chuẩn kỹ thuật và
tiêu chuẩn đánh giá để dễ dàng lựa chọn nhà thầu theo ý của mình; Họ thường
đánh giá hồ sơ dự thầu một cách chủ quan, thay vì bám sát hồ mời thầu với
những tiêu chuẩn đánh giá đã quy định trước. Thậm chí có thể báo cáo đánh giá
sai lệch hoặc thiếu để phục cho mục đích cá nhân trong quá trình xét thầu. Một
số trường hợp đơn vị thực hiện mua sắm còn bổ sung, chỉnh sửa các tiêu chuẩn
phạm vi đánh giá đã tuyên bố công khai để hợp thức hóa ý định chủ quan của
mình. Trong nhiều trường hợp, đơn vị đưa ra các tiêu chuẩn mua sắm quá cao,
không cần thiết và không phù hợp với kế hoạch, mục tiêu của dự án đã được
duyệt. Hậu quả là nhiều trường hợp đấu thầu rộng rãi mà không có nhà thầu
nào tham gia hoặc hàng hóa chào thầu có giá vượt kế hoạch. Việc này sẽ gây ra
tốn kém trong tổ chức quản lý đấu thầu, đồng thời làm chậm tiến độ giải ngân
và hoàn thành dự án;
Ngoài ra, các bên mời thầu còn thiếu chuyên môn về vật tư thiết bị
muốn mua, cũng như kinh nghiệm về vận dụng các thủ tục, quy định về mua
sắm đấu thầu. Một số trường hợp khác tỏ ra thiếu kiến thức về kinh tế như
thương thảo hợp đồng, thủ tục thanh toán, giao nhận hàng hóa, giải quyết các
vướng mắc về thuế, hải quan.
2.3.2.4. Thực tế kết quả đấu thầu tại EVN
Năm 2018, tỷ lệ chi phí tiết kiệm trong công tác đấu thầu của EVN đạt
trên 10% - hàng nghìn tỉ đồng. EVN dẫn đầu cả nước trong hoạt động đấu thầu
qua mạng. Trung bình mỗi năm EVN dành khoảng 85.000 tỉ đồng để đầu tư
xây dựng cơ bản; 30.000 - 40.000 tỉ đồng/năm cho sản xuất kinh doanh. Với
52
nguồn đầu tư lớn như vậy, việc tiết giảm chi phí, tăng cường hiệu quả trong tất
cả các lĩnh vực được EVN đặc biệt chú trọng. Cụ thể, EVN đã thực hiện
khoảng 13.900 gói thầu với tổng giá trị trúng thầu khoảng 44.800 tỉ đồng, tiết
kiệm hơn 5.000 tỉ đồng (tương ứng khoảng 10,2%); trong sản xuất kinh doanh
có 9.300 gói thầu, tổng giá trị trúng thầu 26.300 tỉ đồng, tỷ lệ tiết kiệm 9,3%.
Thời gian qua, EVN cũng đẩy mạnh hoạt động đấu thầu qua mạng nhằm
nâng cao hiệu quả đấu thầu, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng,
minh bạch, tiết kiệm thời gian, chi phí và giảm thủ tục hành chính... Không chỉ
tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp tham gia, số lượng gói thầu, EVN còn tăng
giá trị các gói thầu. Trong năm 2018, EVN đã đấu thầu thành công 7.400 gói
thầu qua mạng (chiếm khoảng 32% tổng số gói thầu của toàn EVN); trong đó có
gói thầu trị giá trên 200 tỉ đồng. Đặc biệt, số lượng gói thầu thực hiện qua mạng
của EVN chiếm trên 50% số lượng gói thầu của cả nước. [39, tr.1].
Đáng kể đến việc EVN đã hoàn thiện hệ thống quy chế, quy định, quy
trình nội bộ, các hướng dẫn cụ thể để làm cơ sở triển khai các hoạt động mua
sắm, đấu thầu. EVN cũng đã ban hành quyết định áp dụng kết quả đánh giá chất
lượng nhà thầu để hướng dẫn các doanh nghiệp trong việc đánh giá uy tín, chấm
điểm các nhà thầu. Đây là cơ sở rất quan trọng để xác định các tiêu chí cụ thể lựa
chọn nhà thầu hiệu quả, đồng thời cũng là công cụ đôn đốc, điều hành để nhà
thầu thực hiện đúng những cam kết trong hợp đồng. Bên cạnh đó, EVN cũng
xây dựng các tiêu chí cụ thể về đấu thầu trong hệ thống chấm điểm thi đua tối ưu
hóa chi phí, đánh giá theo từng năm đối với từng doanh nghiệp và những người
đứng đầu các doanh nghiệp, đồng thời xây dựng và hoàn thiện các công cụ hỗ
trợ quản lý đấu thầu/mua sắm như module đấu thầu trong phần mềm đầu tư xây
dựng cơ bản, phần mềm quản lý công tác mua than trong toàn EVN…
Cùng với đó, EVN cũng đã tăng cường năng lực quản lý và chuyên môn
của các cán bộ thực hiện công tác đấu thầu ở tất cả các cấp. Năm 2019, EVN sẽ
53
tiếp tục xây dựng và triển khai các giải pháp quyết liệt để tiếp tục nâng cao hơn
nữa hiệu quả công tác đấu thầu, đặc biệt là các giải pháp để triển khai các gói
thầu quy mô lớn qua mạng...
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác đấu thầu tại
EVN còn nhiều tồn tại, thách thức như: Thời gian trong đấu thầu kéo dài do các
nguyên nhân chủ quan, hiệu quả đấu thầu chưa đạt được như kỳ vọng; các bên
trong đấu thầu (người có thẩm quyền, chủ đầu tư, bên mời thầu, tư vấn đấu
thầu...) chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm theo quy định, quá trình thực hiện còn
để xảy ra nhiều sai sót, vi phạm; các doanh nghiệp vẫn còn tình trạng đùn đẩy
trách nhiệm lên Tập Đoàn đối với những nhiệm vụ đã được phân cấp giải quyết
theo thẩm quyền; việc công khai, minh bạch thông tin chưa được đảm bảo theo
quy định; các hành vi vi phạm chưa được giải quyết triệt để, tình trạng biến
tướng với những biểu hiện phức tạp và tinh vi như dàn xếp, “quân xanh”, “quân
đỏ”, chia nhỏ gói thầu để chỉ định thầu, quy định các điều kiện bất hợp lý, không
phù hợp trong HSMT, đặc biệt tình trạng cản trở, hạn chế sự tham gia của nhà
thầu (vây thầu) vẫn tiếp diễn, chưa được khắc phục.
Tiểu kết chương 2
Luật Đấu thầu 2013 đã tạo dựng nền tảng pháp lý và cơ sở khoa học
thuận lợi cho EVN nâng cao hiệu quả công tác mua sắm trong cả lĩnh vực đầu
tư phát triển, sản xuất - kinh doanh và dịch vụ khách hàng. Chương 2 đã khái
quát thực trạng đấu thầu mua sắm hàng hóa tại các doanh nghiệp thuộc EVN,
nói chung tại các đơn vị nắm giữa 100% vốn nhà nước .
Bản chất pháp lý của đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị là một cuộc đua
tranh quyết liệt. Nó luôn đòi hỏi các bên tham gia đấu thầu phải thật sự hiểu
biết các quy tắc đấu thầu để kịp thời đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao. Việc
lựa chọn đối tác theo một phương thức nào đó luôn thuộc quyền chủ động của
các chủ thể có nhu cầu lựa chọn – tức là Chủ đầu tư hoặc Bên mời thầu, trừ
54
một số đối tượng bị hạn chế phải thực hiện theo những ràng buộc nhất định.
Cơ sở để các nhà thầu cạnh tranh một cách bình đẳng công bằng chính là quy
trình đấu thầu chặt chẽ cùng với cơ chế giám sát chặt chẽ đối với việc thực
hiện toàn bộ công trình. Cơ chế giám sát này lại chỉ đạt hiệu quả với sự công
khai, minh bạch trong đấu thầu. Vì thế, cùng với các cơ sở pháp lý – văn bản
pháp luật đầy đủ, rõ ràng cùng với Quy chế quản lý nội bộ EVN bổ sung cụ
thể, chi tiết đến cặn kẽ các nội dung chuyên biệt trong lĩnh vực điện nhằm
hướng dẫn chi tiết các Chủ đầu tư và Nhà thầu áp dụng thì công tác đấu thầu
tại các doanh nghiệp thuộc EVN sẽ ngày càng hiệu quả.
55
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐẤU THẦU VÀ QUY CHẾ
QUẢN LÝ NỘI BỘ EVN VỀ MUA SẮM THIẾT BỊ SỬ DỤNG VỐN
NHÀ NƯỚC
3.1. Giải pháp chung hoàn thiện pháp luật và cách thức tổ chức
mua sắm thiết bị sử dụng vốn nhà nước
Về nội dung đấu thầu mua sắm thiết bị sử dụng vốn nhà nước. Ở một điều
kiện nào đó sự thầu tập trung có thể là cần thiết vì nó mang lại hiệu quả cao, chẳng
hạn, mua sắm với nguồn vốn có hạn, lại mua cho nhiều nơi, trong khi năng lực mua
sắm ở đơn vị kém, việc mua sắm tập trung cho nhiều đơn vị nhỏ lẻ sẽ làm cho giá
thành hàng hóa hạ và tiết kiệm chi phí tổ chức đấu thầu. Tuy nhiên, các điều kiện nói
trên có thể thay đổi theo thời gian, do đó việc lựa chọn giải pháp phân cấp hay tập
trung phải linh động và phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Các hạn chế về pháp
luật theo phân tích trên mang tính khách quan nhiều hơn chủ quan, vì vậy cần phải
nhận thức rõ quy luật phát triển để khắc phục chúng. Giải pháp mới đó cũng chỉ tồn
tại trong một thời điểm, hoàn cảnh cụ thể, tất yếu sẽ phải nhường chỗ cho giải pháp
mới có hiệu quả hơn.
Để khắc phục tình trạng này, Chủ đầu tư cần phát huy, tăng cường thuê
Tư vấn đấu thầu thực hiện với một khoản phí dịch vụ cho phép tổ chức đấu
thầu mua sắm, nhằm một mặt để luật pháp về đấu thầu được áp dụng đầy đủ và
chuyên nghiệp, mặt khác đảm bảo tính chất phân cấp và tập trung trong những
trường hợp cần thiết. Ngoài ra, mô hình phân cấp trách nhiệm kèm theo các chế
tài kiểm soát, kiểm tra, theo dõi, báo cáo, thanh tra cũng được áp dụng - Chủ
đầu tư thực hiện vai trò kiểm soát, điều tiết phân bổ kế hoạch mua sắm tổng thể
phù hợp nhu cầu, đảm bảo hiệu quả hơn trong việc cân đối và sử dụng vốn
trong từng thời đoạn của đơn vị. Ở một số nước đã áp dụng linh hoạt giữa tập
trung và phân cấp đấu thầu để hoạt động này được thực hiện có hiệu quả cao.
56
Dù lựa chọn phân cấp hay tập trung ở mức nào thì yêu cầu cao nhất vẫn
là phải rõ ràng, minh bạch trong chính sách và quy định của hoạt động đấu
thầu. Một khi đã phân cấp thì không được can thiệp hay gây ảnh hưởng tới cơ
quan thực hiện từ bất kì phía nào, đồng thời cơ quan thực hiện cũng phải tuân
thủ nghiêm túc và đầy đủ các quy định của pháp luật. Cho tới nay, việc nghiên
cứu về mô hình quản lý đấu thầu ở Việt Nam vẫn chưa được thực hiện nghiêm
túc, đầy đủ để lựa chọn ra mô hình hợp lý nhất đối với điều kiện kinh tế - xã
hội - chính trị ở Việt Nam.
Về quan điểm chung trong hoàn thiện cơ chế, chính sách, cần quy định
nhiều phương thứcvà hình thức mua sắm công để áp dụng phù hợp, hiệu quả
với từng nhóm hàng hóa, dịch vụ. Phương thức mua sắm tập trung được thực
hiện đối với các tài sản, hàng hóa, dịch vụ mua sắm với số lượng nhiều; nhiều
cơ quan, đơn vị, tổ chức có yêu cầu sử dụng cơ bản giống nhau (phương tiện đi
lại, trang thiết bị văn phòng, văn phòng phẩm, công cụ, dụng cụ, dịch vụ đi lại,
dịch vụ bảo trì, bảo dưỡng tài sản…); Phương thức mua sắm phân tán: Áp dụng
cho tài sản, hàng hóa, dịch vụ chỉ có một hoặc một số ít đơn vị sử dụng phục vụ
nhiệm vụ đặc thù; đảm bảo bí mật quốc gia; phát sinh đột xuất không có kế
hoạch trước để kịp thời đáp ứng nhu cầu sử dụng trong các trường hợp thiên
tai, dịch bệnh. Phương thức mua sắm hợp nhất: Áp dụng trong trường hợp
nhiều người sử dụng có nhu cầu mua sắm tài sản cùng loại và thống nhất gộp
thành một gói thầu để giao cho một người thực hiện việc lựa chọn nhà cung
cấp. Việc mua sắm hợp nhất không áp dụng đối với những hàng hóa, dịch
vụ thuộc Danh mục mua sắm tập trung.
Bên cạnh việc áp dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu theo quy định tại
Luật Đấu thầu năm 2013 (đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu,
mua sắm trực tiếp, chào hàng cạnh tranh), cần quy định thêm hình thức lựa
chọn nhà thầu theo hình thức đàm phán giá. Hình thức này phù hợp cho việc
57
mua sắm những loại tài sản có tiêu chí kỹ thuật rõ ràng, giá cả đã được nhà
cung cấp công bố thống nhất và rộng rãi, như xe ô tô. [37, tr.3].
Ngoài các quy định về đấu thầu, các doanh nghiệp là bên mời thầu cần
cố gắng tạo ra thuận lợi cho các nhà thầu trong nước cung cấp hàng hóa khi
tham gia đấu thầu, nhất là đấu thầu cạnh tranh quốc tế. Các nhà thầu trong
nước thường yếu về khả năng cạnh tranh so với nhà thầu quốc tế. Tuy nhiên,
mức độ ưu tiên và thời gian ưu tiên phải được điều chỉnh cho phù hợp với
thực tế. Trong thời gian qua việc ưu tiên, ưu đãi đối với các doanh nghiệp
Việt Nam khi tham gia đấu thầu cạnh trạnh quốc tế đã gây ra những khó khăn
và hạn chế sau: (i) Việc ưu đãi quá mức trong thời gian dài đối với các doanh
nghiệp Việt Nam đã làm giảm khả năng cạnh tranh của nhà thầu trong nước
trong việc cải tiến kỹ thuật, hạ giá thành sản phẩm, tăng các dịch vụ sau bán
hàng; (ii) Đối với các doanh nghiệp trong ngành, việc ưu đãi càng làm mất đi
tính chất cạnh tranh trong đấu thầu. Đặc biệt là các công ty nhà nước, với những
quan hệ của mình đã gây sức ép để trúng thầu một cách không minh bạch. Từ đó
tạo ra hiện tượng khép kín, độc quyền trong đấu thầu. Việc ưu tiên nhà thầu
trong nước còn ảnh hưởng tới quá trình hội nhập và thu hút vốn đầu tư nước
ngoài của Việt Nam. Các nhà tài trợ và nhà đầu tư sẽ cảm thấy môi trường
đầu tư không lành mạnh ở Việt Nam khi thấy có quá nhiều công ty nhà nước,
quân đội, công an thường xuyên trúng các gói thầu lớn cung cấp hàng hóa do
bộ ngành chủ quản làm chủ đầu tư.
Với những phân tích về hạn chế của chính sách ưu tiên không hợp lý nói
trên cho thấy đây là vấn đề cần phải được điều chỉnh trong thời gian tới để tạo
môi trường cạnh tranh lành mạnh, phát huy nội lực và phù hợp với luật pháp
quốc tế.
58
Giải pháp khắc phục tình trạng đấu thầu mua sắm do thiếu công khai, minh
bạch và cạnh tranh không lành mạnh
Thực tiễn triển khai tại Việt Nam thời gian qua cho thấy, việc đấu thầu
qua mạng không chỉ góp phần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, công
bằng, minh bạch mà còn giúp tiết kiệm thời gian, chi phí, giảm thiểu thủ tục
hành chính cho các nhà thầu và đơn vị mời thầu. Đặc biệt, đây là công cụ hữu
hiệu trong phòng, chống tham nhũng, chấm dứt vấn nạn “quân xanh, quân
đỏ”, hạn chế tiêu cực, nâng cao hiệu quả chi tiêu tài chính công, nhờ việc hạn
chế sự tiếp xúc trực tiếp giữa các bên tham gia đấu thầu.
Nhằm khắc phục những tồn tại trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đề xuất
4 nhóm giải pháp được áp dụng trong đấu thầu qua mạng giai đoạn 2019-
2025 trên cơ sở tính chất gói thầu. Trong đó, giai đoạn 2019-2021 các Tổng
công ty, Tập Đoàn nhà nước thực hiện đấu thầu qua mạng 100% các gói thầu
có hình thức lựa chọn nhà thầu là chào hàng cạnh tranh và đấu thầu rộng rãi
theo nguyên tắc lượng hóa các gói thầu bắt buộc áp dụng đấu thầu qua mạng
Để hoàn thành mục tiêu trên thì cần thực hiện những giải pháp đồng bộ
và quyết liệt hơn nữa. Trước hết là đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Hệ thống
mạng đấu thầu quốc gia nhằm góp phần quản lý thống nhất thông tin về đấu
thầu trên phạm vi cả nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan quản lý về
đấu thầu nâng cao khả năng giám sát, thống kê hiệu quả công tác đấu thầu. Khi
đó, toàn bộ thông tin đấu thầu từ KHLCNT, thông báo sơ tuyển, thông báo mời
thầu, HSMT, biên bản mở thầu, đến kết quả lựa chọn nhà thầu đều được công
khai, minh bạch trên hệ thống để các nhà thầu dễ dàng tiếp cận.
Cùng với tăng cường kiểm tra, giám sát gắn với trách nhiệm của người
đứng đầu các đơn vị, thì sẽ có những chế tài cụ thể đối với các gói thầu quy
định phải đấu thầu qua mạng. Trong đó, có thể áp dụng chế tài “không công
nhận kết quả trúng thầu” nếu bên mời thầu không tuân thủ quy định đấu thầu
59
qua mạng; kiên quyết không giải ngân đối với các dự án mua sắm thuộc diện
phải đấu thầu qua mạng nhưng không thực hiện; công khai danh tính đơn vị
không thực hiện đấu thầu qua mạng theo yêu cầu. Đặc biệt, cần đẩy mạnh
công tác truyền thông nhằm từng bước thay đổi thói quen và nhận thức của
các bên liên quan về hiệu quả của việc đấu thầu qua mạng.
Với những giải pháp trên, việc đấu thầu qua mạng sẽ trở thành phương
thức quan trọng để "phá vỡ" tình trạng thiếu cạnh tranh, đấu thầu theo kiểu
hình thức, khép kín như hiện nay; đồng thời qua đó từng bước góp phần xây
dựng chính phủ điện tử, nền kinh tế số, bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu
quả, phát triển bền vững.
Giải pháp về ứng dụng công nghệ thông tin trong đấu thầu
Để khắc phục phần nào tình trạng chưa ứng dụng triệt để đấu thầu qua
mạng, Bộ Kế hoạch &Đầu tư đã đề xuất áp dụng lộ trình mới theo nguyên tắc
lượng hóa được các gói thầu bắt buộc phải đấu thầu qua mạng (quy định hạn
mức gói thầu bắt buộc phải đấu thầu qua mạng), đưa ra chế tài cụ thể là không
giải ngân nếu không thực hiện theo quy định. Đồng thời, sẽ chủ động đưa ra
chế tài mạnh mẽ đủ sức răn đe gắn với trách nhiệm người đứng đầu và Ban
lãnh đạo cơ quan, đơn vị; đưa thành tiêu chí cơ bản đánh giá kết quả hoàn
thành nhiệm vụ, bình xét thi đua hàng năm; song song với việc tăng cường
công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, theo dõi và đánh giá quá trình triển khai
thực hiện đấu thầu qua mạng…
Mới đây, để phục vụ tốt hơn nhu cầu sử dụng, Hệ thống mạng đấu thầu
quốc gia được nâng cấp tính năng mới, cụ thể tăng dung lượng file đính kèm
trong E-HSDT của các gói thầu lĩnh vực tư vấn lên tối đa 300MB từ ngày
20/6/2019. Trước đó, năm 2018 chỉ mới gói thầu xây lắp được tăng dung
lượng lên 300MB, chuẩn bị đến đầu năm 2020 sẽ tăng dung lượng gói thầu
mua sắm hàng hóa hiện đang còn rất hạn chế - chỉ mới 20MB.
60
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương,
tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước nghiêm túc triển khai đấu thầu qua
mạng theo chỉ tiêu nêu tại Nghị quyết Chính phủ số 01/NQ-CP năm 2019;
thường xuyên giám sát việc triển khai đấu thầu qua mạng tại các đơn vị trong
phạm vi quản lý của mình. Thực hiện kiểm tra, giám sát chặt chẽ đối với
những gói thầu chỉ có duy nhất 1 nhà thầu tham gia và xử lý nghiêm khắc chủ
đầu tư và các bên liên quan nếu phát hiện hành vi vi phạm, không bảo đảm
cạnh tranh trong đấu thầu.
Theo Báo cáo sơ kết của Bộ KH&ĐT, Bộ đang đề xuất chia lộ trình
đấu thầu qua mạng thành 2 thời kỳ, từ năm 2019 - 2021 (tiếp tục thực hiện
đấu thầu qua mạng trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia hiện tại) và từ năm
2022 - 2025 (sau khi hệ thống mới được hoàn thành và đưa vào sử dụng).
Theo đó, trong giai đoạn 2019 - 2021, thực hiện theo lộ trình năm 2019,
thực hiện đấu thầu qua mạng 100% đối với các gói thầu hàng hóa, phi tư vấn,
tư vấn không quá 2 tỷ đồng; xây lắp không quá 5 tỷ đồng. Năm 2020 thực
hiện đấu thầu qua mạng 100% đối với các gói thầu tương ứng lần lượt là
không quá 5 tỷ đồng và không quá 10 tỷ đồng. Năm 2021, thực hiện đấu thầu
qua mạng 100% đối với các gói thầu tương ứng lần lượt không quá 10 tỷ đồng
và không quá 20 tỷ đồng.
Giai đoạn 2022 - 2025, căn cứ kết quả triển khai của thời kỳ 2019 -
2021 và tình hình thực tế, Bộ KH&ĐT ban hành quy định về lộ trình thực
hiện đấu thầu qua mạng theo hướng tăng tỷ lệ về số lượng và giá trị gói thầu
đấu thầu qua mạng phù hợp với tính năng của (e-GP). Việc thực hiện đấu thầu
qua mạng giai đoạn này phải đảm bảo đạt được mục tiêu 100% các thông tin
trong quá trình lựa chọn nhà thầu, thực hiện hợp đồng được đăng tải công
khai; tối thiểu 70% số lượng gói thầu thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu
61
thầu thực hiện trên hệ thống; 100% hoạt động mua sắm thường xuyên được
thực hiện trên hệ thống, áp dụng mua sắm tập trung trên hệ thống.
3.2. Hoàn thiện Quy chế quản lý nội bộ của EVN về đấu thầu và
tăng cường công tác tổ chức lựa chọn nhà thầu mua sắm thiết bị tại EVN
3.2.1. Hoàn thiện Quy chế quản lý nội bộ EVN về đấu thầu mua sắm thiết bị
a) Quyết định 156/QĐ-EVN ngày 24/5/2018 về việc ban hành Quy chế
về công tác Đầu tư xây dựng áp dụng trong EVN thay thế các Quyết định số
168/QĐ-EVN ngày 28/9/2015 về việc ban hành Quy chế phân cấp quyết định
chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư và thực hiện đầu tư xây dựng; số
711/QĐ-KH ngày 22/10/2014 về việc ban hành Quy chế công tác kế hoạch
phần ĐTXD; số 502/QĐ-EVN ngày 20/6/2014 về việc ban hành Quy định
Giám sát và đánh giá đầu tư; số 600/QĐ-EVN ngày 04/9/2014 về việc ban
hành Quy chế về công tác đấu thầu trong Tập đoàn Điện lực Quốc gia Việt
Nam; Các quy định về phân cấp trong đầu tư xây dựng của các Tổng công ty
Phát điện, Tổng công ty Điện lực, Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia. Do
đó liên quan đến công tác đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị - một phần Quy
chế, nội dung tập trung chỉ tại Chương 3 Quản lý công tác đấu thầu.
Quy chế được ban hành căn cứ vào quy định pháp luật về đấu thầu, nên
những hạn chế của văn bản pháp luật nêu trên tất nhiên cũng là hạn chế của Quy
chế quản lý đầu tư xây dựng EVN. Thêm vào đó, Quy chế 156 còn bổ sung, quy
định chi tiết hơn tại Mục chuẩn bị đấu thầu về căn cứ lập KHLCNT và Tổ
chuyên gia xét thầu. Đây là điểm mạnh nhưng cũng gây thêm một ít hạn chế, cụ
thể như sau:
Điều 34 quy định “KHLCNT phải được lập, trình người có thẩm quyền
phê duyệt đồng thời hoặc ngay sau khi có quyết định phê duyệt dự án đầu tư
hoặc kế hoạch năm được duyệt. Trường hợp chưa thể lập và phê duyệt
KHLCNT cho toàn bộ dự án thì có thể phê duyệt KHLCNT theo từng đợt khi
62
có đủ điều kiện. Việc phân chia gói thầu trong KHLCNT phải căn cứ trên
những luận chứng khoa học cụ thể về tính chất, quy mô và tiến độ của dự án,
đảm bảo tính minh bạch, mức độ cạnh tranh cao, nhằm mục đích lựa chọn được
các nhà thầu có năng lực, kinh nghiệm, thực hiện với chi phí hợp lý. Khi phân
chia gói thầu cần hạn chế tối đa việc gộp các gói thầu có tính chất công việc
khác nhau thành một gói thầu dẫn tới giảm tính cạnh tranh, tạo khó khăn
trong kiểm soát chất lượng công trình”.
Toàn bộ quy định tại Điều 34 Quy chế 156 này được EVN khai thác thêm
căn cứ lập KHLCNT là dự vào Kế hoạch năm/kế hoạch đợt được duyệt; tuy
nhiên tại Điều 33 Luật đấu thầu 2013 - Nguyên tắc lập KHLCNT “KHLCNT
được lập cho toàn bộ dự án, dự toán mua sắm. Trường hợp chưa đủ điều kiện lập
KHLCNT cho toàn bộ dự án, dự toán mua sắm thì lập KHLCNT cho một hoặc
một số gói thầu để thực hiện trước” và Điều 34 Khoản 3 “KHLCNT được lập
sau khi có quyết định phê duyệt dự án, dự toán mua sắm hoặc đồng thời với quá
trình lập dự án, dự toán mua sắm hoặc trước khi có quyết định phê duyệt dự án
đối với gói thầu cần thực hiện trước khi có quyết định phê duyệt dự án” không
đề cập đến kế hoạch năm/kế hoạch từng đợt mà chỉ là dựa vào quyết định phê
duyệt Dự án hoặc dự toán mua sắm. Cũng là điều dễ hiểu bởi EVN tổ chức mua
sắm tập trung theo kế hoạch năm, hàng năm các đơn vị trực thuộc phải thực hiện
nhất nhất theo Kế hoạch được cấp trên giao hoặc nếu có sự thay đổi cũng phải
chờ Kế hoạch giao điều chỉnh mới tổ chức đấu thầu mua sắm. Song, điều này
cũng là rào cản cho việc chủ động tổ chức đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị phù
hợp tiến độ nhằm kịp thời phục vụ công tác xây dựng mới, cải tạo, sửa chữa,
nâng cấp hệ thống lưới và trạm điện đảm bảo vận hành an toàn, ổn định, nâng
cao chỉ số độ tin cậy cho các Doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, “việc phân chia gói thầu trong KHLCNT phải căn cứ trên
những luận chứng khoa học cụ thể về tính chất, quy mô và tiến độ của dự án”
63
cũng là yêu cầu khá nặng nề mà thực chất thì không khả thi, không có cơ sở
cũng như bộ phận để kiểm tra, thẩm định luận chứng khoa học có chuẩn xác
hoặc mức độ phù hợp đến đâu?. Đa phần dự án được phân chia gói thầu theo
tính chất công việc như xây lắp, mua sắm vật tư thiết bị, tư vấn (khảo sát, thiết
kế, giám sát, kiểm toán,...), phi tư vấn (bảo hiểm, đào tạo, ...) và trình tự tiến độ
thực hiện dự án, hoặc căn cứ thêm đặc thù riêng của từng đơn vị về vị trí địa lý,
trình độ năng lực của Bên mời thầu,. Như thế cũng đã quá rõ ràng, đủ cơ sở cho
việc phân chia các gói thầu. Hơn nữa, tại Điều 33 Khoản 3 Luật đấu thầu 2013
cũng chỉ quy định “Việc phân chia dự án, dự toán mua sắm thành các gói thầu
phải căn cứ theo tính chất kỹ thuật, trình tự thực hiện; bảo đảm tính đồng bộ
của dự án, dự toán mua sắm và quy mô gói thầu hợp lý”. Do vậy, quy định
“căn cứ trên những luận chứng khoa học cụ thể” có thể xem như không có.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 16 Luật đấu thầu 2013”. Cá nhân tham
gia trực tiếp vào việc lập hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển, HSMT, hồ
sơ yêu cầu; đánh giá hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ
đề xuất thuộc tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp, doanh nghiệp, đơn vị hoạt
động tư vấn đấu thầu, ban quản lý dự án chuyên nghiệp phải có chứng chỉ
hành nghề hoạt động đấu thầu”; như vậy tại các Doanh nghiệp hoạt động tư
vấn (bao gồm tư vấn đấu thầu) trực thuộc EVN khi tổ chức đấu thầu thì tổ
chuyên gia bắt buộc phải có chứng chỉ hành nghề đấu thầu, song trường hợp
này khá ít xảy ra bởi các Doanh nghiệp này thường không được giao làm Chủ
đầu tư/Bên mời thầu mà là đơn vị hạch toán độc lập, lấy thu bù chi nên họ là
Nhà thầu tham dự đấu thầu. Trái lại với phần lớn các Doanh nghiệp trực thuộc
khác – quản lý phân phối điện, được giao là Chủ đầu tư/Bên mời thầu khi tổ
chức đấu thầu thì tổ chuyên gia không yêu cầu có chứng chỉ hành nghề theo
quy định trên. Dù thế, từ đầu năm 2018 EVN cũng khuyến khích các Tổng
công ty đào tạo các chuyên gia và yêu cầu đạt được chứng chỉ đấu thầu nhằm
64
tăng tính chuyên nghiệp, hạn chế sai sót trong đấu thầu. Nhưng đây chỉ là
bước đầu đào tạo nên không ít sai sót xảy ra trong quá trình đấu thầu do hạn
chế không những về trình độ, năng lực của Tổ chuyên gia mà còn là vấn đề
đạo đức, cố tình hay chủ ý vi phạm pháp luật, lách luật để mưu lợi cá nhân,
thậm chí trục lợi riêng cho cả một tổ chức do Tổ chuyên gia thiếu ý thức về
trách nhiệm pháp lý (dân sự và hình sự) về những sai phạm và hậu quả mà họ
gây ra. EVN nhận thức rõ người làm công tác đấu thầu phải có cái tâm vì lợi
ích chung xã hội thì mới mong công tác này ngày càng công khai và minh
bạch, từ đó góp phần tạo lập môi trường kinh doanh cạnh tranh, hiệu quả.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 116 Nghị định 63 quy định về Tổ
chuyên gia thì cá nhân không thuộc quy định phải có chứng chỉ hành nghề
đấu thâu khi tham gia tổ chuyên gia phải đáp ứng các điều kiện: Có chứng chỉ
đào tạo về đấu thầu; Có trình độ chuyên môn liên quan đến gói thầu; Am hiểu
các nội dung cụ thể tương ứng của gói thầu; Có tối thiểu 03 năm công tác
trong lĩnh vực liên quan đến nội dung kinh tế, kỹ thuật của gói thầu. Ứng với
nội dung trên, Điều 39 Quy chế 156 quy định Tổ chuyên gia cụ thể, bổ sung
nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
- Tổ chuyên gia đấu thầu được Bên mời thầu quyết định thành lập. Tổ
chuyên gia đấu thầu phải gồm những thành viên phù hợp về chuyên môn và
năng lực tương ứng với nội dung của gói thầu. Tiêu chuẩn các cá nhân tham
gia Tổ chuyên gia theo Quy định của Luật Đấu thầu.
- Nhiệm vụ cụ thể của Tổ chuyên gia được quy định chi tiết trong
quyết định thành lập. Tổ chuyên gia tiến hành đánh giá các bản chào, đề xuất
của nhà thầu và lập báo cáo đánh giá thầu trình Bên mời thầu. Tổ chuyên gia có
thể được giao thêm các nhiệm vụ khác nhiệm vụ đánh giá thầu trong quá trình
đấu thầu, có thể được thành lập để thực hiện 1 gói thầu hoặc giao thực hiện
65
nhiều gói thầu. Các thành viên của tổ chuyên gia không được tham gia thẩm
định HSMT do mình lập và KQLCNT do mình đánh giá.
- Trong trường hợp Chủ đầu tư thuê tư vấn đấu thầu, nhiệm vụ của tổ
chuyên gia và tư vấn, quyền hạn và trách nhiệm cụ thể của các bên phải được
phân định rõ trong hợp đồng thuê tư vấn.
- Người ký quyết định phê duyệt KQLCNT (đối với tất cả các hình
thức lựa chọn) không được kiêm nhiệm đánh giá thầu, và trình KQLCNT.
Tuy vậy, nếu xét rộng hơn về sự phân cấp và phân quyền trong nội bộ
Chủ đầu tư - Bên mời thầu tại các Doanh nghiệp EVN hiện nay thì các nội
dung trên đang bị mâu thuẩn. Bên mời thầu ra quyết định thành lập Tổ chuyên
gia và cũng chính Bên mời thầu là Chủ đầu tư (và là Người có thẩm quyền)
phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu – đại diện cao nhất Bên mời thầu thường
là Giám đốc Doanh nghiệp. Tổ chuyên gia chịu sự điều hành trực tiếp của
Bên mời thầu (trình ký văn bản làm rõ, gia hạn, kiến nghị, xử lý tình
huống,…), sau đó báo cáo kết quả lên Chủ đầu tư, Chủ đầu tư chuyển Tổ
thẩm định kiểm tra, xem xét trước khi ký Quyết định phê duyệt. Quy trình cho
thấy tuy Tổ chuyên gia và Tổ thẩm định thực hiện công việc đối nhau nhưng
cuối cùng quy về một đích đến là phục vụ Chủ đầu tư - Bên mời thầu và cũng
là Người có thẩm quyền. Như vậy, Chủ đầu tư tuy là chỉ ký Quyết định phê
duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu nhưng thực chất là điều hành toàn bộ quá
trình đánh giá và trình kết quả lựa chọn nhà thầu. Đây là hạn chế rõ ràng nhất
về mặt pháp luật, xét từng nội dung (về phân cấp, phân quyền, nhiệm vụ,
quyền hạn Tổ chuyên gia,..) thì phù hợp với quy định pháp luật nhưng kết hợp
chung trong một quá trình đấu thầu thì không phù hợp.
b) Quyết định 126/QĐ-EVN ngày 26/7/2017 ban hành Quy chế về
công tác đấu thầu sử dụng chi phí sản xuất kinh doanh trong EVN.
66
Quy chế này quy định và áp dụng đối với các hoạt động đấu thầu để lựa
chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng
hoá, xây lắp, gói thầu hỗn hợp phục vụ các hoạt động sản xuất kinh doanh, sử
dụng chi phí sản xuất kinh doanh nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của
các đơn vị, gồm: Sửa chữa tài sản cố định; Mua sắm nhiên liệu, đá vôi và dầu
mỡ kỹ thuật; Mua sắm thường xuyên; Mua sắm khác…được áp dụng đối với
các đơn vị thành viên trong EVN và cũng là cơ sở để Người đại diện phần
vốn góp của EVN, Người đại diện phần vốn góp của Công ty TNHH MTV
cấp II tại các công ty con, công ty liên kết có ý kiến trong việc biểu quyết các
nội dung liên quan đến đấu thầu của đơn vị mình.
Quy trình lựa chọn nhà thầu thực hiện tương tự như Quy định của Luật
Đấu thầu, bao gồm sáu bước trong các giai đoạn: Chuẩn bị lựa chọn nhà thầu;
Tổ chức lựa chọn nhà thầu; Hoàn thiện, ký kết và triển khai thực hiện hợp đồng.
Đây là Quy chế đặc thù riêng của EVN ban hành bởi với nguồn vốn sản
xuất kinh doanh không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật đấu thầu 2013. Khoản
b và c Điều 1 Luật đấu thầu 2013 quy định phạm vi áp dụng lựa chọn nhà thầu
cung cấp hàng hóa đối với Dự án đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
Về cơ bản Quy chế này bám sát các quy định Luật đấu thầu và tương tự
Quy chế 156 dùng vốn ĐTXD nên cũng bao gồm một số hạn chế nêu trên.
Riêng nội dung nguyên tắc lập KHLCNT thì không cần luận chứng khoa học.
Điều 8 quy định:
Nguyên tắc lập KHLCNT
- KHLCNT phải được lập, trình Người có thẩm quyền phê duyệt đồng
thời hoặc ngay sau khi có các căn cứ để lập KHLCNT;
- Việc phân chia các gói thầu phải căn cứ theo tính chất kỹ thuật, trình tự
triển khai thực hiện của hoạt động mua sắm. Quy mô của gói thầu phải phù hợp
67
với năng lực các nhà thầu trên thị trường để đảm bảo tính cạnh tranh của công
tác đấu thầu.
Căn cứ lập KHLCNT
- Đối với các hoạt động mua sắm sử dụng chi phí SXKD khác,
KHLCNT được lập trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh được duyệt.
- Nội dung KHLCNT bao gồm các nội dung phân chia gói thầu, tên gói
thầu, nguồn vốn, giá gói thầu, hình thức và phương thức lựa chọn nhà thầu,
loại hợp đồng, thời gian bắt đầu tổ chức lựa chọn nhà thầu và thời gian thực
hiện hợp đồng.
- KHLCNT có thể phê duyệt cùng với kế hoạch SXKD hàng năm hoặc
phương án kỹ thuật đối với sửa chữa tài sản cố định. Trường hợp chưa thể lập
và phê duyệt KHLCNT cho toàn bộ hoạt động mua sắm dự kiến thì có thể phê
duyệt KHLCNT theo từng đợt khi có đủ điều kiện.
Điểm hạn chế lớn nhất của Quy chế này tại Điều 12 Khoản 3 khi đánh
giá Hồ sơ dự thầu là “Trong trường hợp đấu thầu chỉ có 01 nhà thầu tham gia
hoặc chỉ có 01 nhà thầu đáp ứng yêu cầu kỹ thuật thì hủy thầu và tổ chức đấu
thầu lại (trừ trường hợp đặc biệt báo cáo HĐTV EVN xem xét, quyết định)”.
Điều này được EVN quy định thêm so với quy định Luật đấu thầu 2013. Điều
18 Khoản 4 Nghị định 63 nêu rõ khi tiến hành đánh giá về kỹ thuật và giá: (i)
Việc đánh giá về kỹ thuật thực hiện theo tiêu chuẩn và phương pháp đánh giá
quy định trong HSMT; (ii) Nhà thầu đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật được xem
xét xác định giá thấp nhất (đối với trường hợp áp dụng phương pháp giá thấp
nhất), giá đánh giá (đối với trường hợp áp dụng phương pháp giá đánh giá).
Như vậy trường hợp chỉ có 1 Nhà thầu vượt qua bước đánh giá kỹ thuật thì
theo Luật đấu thầu 2013 vẫn được xem xét đánh giá về giá, nhưng với Quy
chế 126 thì EVN yêu cầu phải hủy thầu và tổ chức đấu thầu lại. Hơn nữa,
68
Điều 17 Luật đấu thầu 2013 quy định chỉ bốn trường hợp sau được phép hủy
thầu bao gồm:
- Tất cả hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất không đáp ứng được các yêu cầu
của HSMT, hồ sơ yêu cầu.
- Thay đổi mục tiêu, phạm vi đầu tư đã ghi trong HSMT, hồ sơ yêu cầu.
- HSMT, hồ sơ yêu cầu không tuân thủ quy định của pháp luật về đấu
thầu hoặc quy định khác của pháp luật có liên quan dẫn đến nhà thầu, nhà đầu
tư được lựa chọn không đáp ứng yêu cầu để thực hiện gói thầu, dự án.
- Có bằng chứng về việc đưa, nhận, môi giới hối lộ, thông thầu, gian
lận, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đấu
thầu dẫn đến làm sai lệch kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư.
Như vậy, để tăng tính minh bạch và đảm bảo cạnh tranh trong đấu thầu
với nguồn chi phí sản xuất kinh doanh – không thuộc phạm vi điều chỉnh của
Luật đấu thầu, EVN không những đã vận dụng tất cả các quy định của pháp
luật cho phép mà còn bổ sung thêm nội dung hủy thầu trong trường hợp chỉ
có 1 nhà thầu vượt qua bước đánh giá kỹ thuật, cũng nhằm ngăn chặn hành vi
thông thầu khi bên mời thầu không kiểm soát kỹ các tiêu chuẩn kỹ thuật trong
HSMT. Đây là điểm mạnh nhưng lại gây ra khó khăn lớn nhất hiện nay tại các
Doanh nghiệp khi áp dụng là phải hủy thầu rất nhiều, nhất là đối với gói thầu
mua sắm quy mô nhỏ và có tiêu chuẩn kỹ thuật đặc thù công nghệ, tiên tiến,
hiện đại,…với nguyên nhân chung rất ít Nhà thầu đạt qua bước đánh giá kỹ
thuật. Vì vậy, EVN vẫn cần nhanh chóng hoàn thiện một số bất cập quy chế
quản lý nội bộ đã nêu trên. Việc ban hành quy chế trong doanh nghiệp là việc
làm cần thiết và bắt buộc phải có đối với một số lĩnh vực hoạt động, và hoàn
thiện chúng phù hợp thực tế, đảm bảo hiệu quả - hiệu lực pháp lý lại càng cần
thiết hơn. EVN đã sớm ban hành quy chế cho công tác đấu thầu, cùng với sự
phát triển nhanh chóng về mô hình tổ chức cũng như để nâng cao hiệu
69
quả quản lý đấu thầu, thời gian tới EVN sẽ tập trung hoàn thiện hệ thống các
quy chế, quy định nội bộ. Trong đó, Quy chế về quản lý đấu thầu được cập
nhật phù hợp với Luật Đấu thầu mới và điều kiện mới của EVN; Tổ chức tập
huấn, phổ biến Quy chế của EVN đến tất cả các đơn vị thành viên. EVN sẽ
tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện quy chế về công tác đấu thầu và vận hành
trang thông tin điện tử đấu thầu một cách hiệu quả.
Đồng thời, EVN sẽ triển khai các đề án và nhiệm vụ cụ thể trong
chương trình củng cố hệ thống quản lý 5H (chuyên nghiệp hóa, chuyên môn
hóa, quy trình hóa, mẫu hóa và tin học hóa) trong quản lý đấu thầu của Tập
đoàn như: cập nhật, hoàn thiện và ban hành các quy trình, hướng dẫn sử dụng
các mẫu trong đấu thầu; hoàn thiện từng bước phương thức đấu thầu mua sắm
qua mạng, mua sắm tập trung; tổng kết rút kinh nghiệm thực hiện mô hình
EPC, từ đó đề ra các giải pháp từng bước phi EPC trong quản lý đầu tư nhằm
phát huy tối đa hiệu quả trong đấu thầu mua sắm thiết bị.
3.2.2. Tăng cường công tác tổ chức lựa chọn nhà thầu trong đấu thầu mua
sắm thiết bị tại EVN
Thứ nhất, nâng cao chất lượng người làm công tác đấu thầu là đòi hỏi
bức thiết mà EVN đặt ra. Dự báo của nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng,
không lâu nữa, đấu thầu sẽ trở thành một nghề ở Việt Nam và những con
người hoạt động trong nghề này sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng cao
mức độ cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả trong các hoạt động
mua sắm công ở nước ta. Tuy nhiên, đây là lĩnh vực đặc thù, đòi hỏi người
thực hiện phải có năng lực, trình độ và đặc biệt là kiến thức nghề nghiệp,
cùng với “cái tâm” trong sáng thì mới nâng cao được hiệu quả đấu thầu. Vấn
nạn tham nhũng, tiêu cực trong các giai đoạn đầu tư, đấu thầu, tuyển chọn tư
vấn nhà thầu, nhà cung ứng vật tư thiết bị vẫn còn xảy ra. Rõ là “Cái tâm” của
70
những người làm đấu thầu sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn nhà nước.
Với tình hình chung Việt Nam hiện nay, về thực trạng một số dự án đầu
tư lớn triển khai trong thời gian qua có sự chậm trễ, đội vốn lớn, làm gia tăng
nợ công, ngoài những nguyên nhân khách quan thì có nguyên nhân chủ quan
là do năng lực của một bộ phận cán bộ làm công tác đấu thầu còn hạn chế,
trong khi họ lại là lực lượng chính trong công tác lựa chọn các nhà thầu thực
hiện các dự án đầu tư của Nhà nước. Chính hạn chế này khiến chất lượng của
HSMT chưa được như mong muốn, thậm chí yếu kém, dẫn tới việc lựa chọn
nhà thầu năng lực thấp. Hoặc có trường hợp mặc dù năng lực của cán bộ làm
công tác đấu thầu rất tốt, nhưng họ bị chi phối bởi những yếu tố khác dẫn đến
nhũng nhiễu, tham nhũng. Đa số những người làm công tác đấu thầu hiện nay
làm theo kinh nghiệm, làm nhiều thì quen. Vấn đề con người trong bất kỳ
hoạt động nào cũng quan trọng, và càng quan trọng hơn khi họ chính là những
người thay Nhà nước quản lý, sử dụng đồng tiền ngân sách. Vì thế, vấn đề
đạo đức trong hoạt động này phải được đề cao hơn bao giờ hết mới góp phần
nâng cao hiệu quả đấu thầu.
Trong bối cảnh kinh tế đất nước hội nhập sâu vào kinh tế thế giới, Việt
Nam đã là nước có thu nhập trung bình, cùng với đó, Chính phủ đang tham
gia đàm phán ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do quan trọng, vấn đề đạo
đức, hay “cái tâm” của những người làm đấu thầu, ngày càng được coi trọng,
góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước.
Thứ hai, tăng biện pháp chế tài mạnh để hoạt động đấu thầu đi đúng
hướng. Các quy định của pháp luật và quy chế quản lý nội bộ EVN về đấu thầu
hiện nay tuy đã khá hoàn chỉnh, đảm bảo tính cạnh tranh, công bằng, minh
bạch và hiệu quả, nhưng trong thực tiễn, còn không ít bên mời thầu, chủ đầu tư
tại các Doanh nghiệp vẫn tạo ra nhiều rào cản cho nhà thầu trong quá trình tiếp
71
cận thông tin, mua HSMT, hoặc đưa ra các tiêu chí chấm thầu nhằm hạn chế sự
tham gia của nhà thầu.
Trước tình trạng này, với mong muốn tạo môi trường đấu thầu cạnh
tranh, công bằng, nhiều nhà thầu đã gửi văn bản kiến nghị tới các chủ đầu tư,
đơn vị tư vấn, tuy nhiên phần lớn nội dung trả lời kiến nghị của nhà thầu đều
không thỏa đáng. Thực tế cho thấy, không ít gói thầu trúng thầu với giá rất sát
giá gói thầu được duyệt, mức độ tiết kiệm còn thấp hơn chỉ định thầu, điều này
trái ngược với mục tiêu của hoạt động đấu thầu. Do đó, EVN sẽ quyết liệt hơn,
nhanh chóng có biện pháp, chế tài mạnh mẽ để ngăn chặn các hiện tượng tiêu
cực trong đấu thầu; đồng thời, sẽ có chế độ tham gia giám sát chặt chẽ hơn nữa
từ thông tin cộng đồng đối với các dự án mua sắm vật tư thiết bị nói riêng.
Thứ ba, quan tâm đến yếu tố chất lượng khi chọn thầu, EVN sẽ có
những quy định cụ thể và chi tiết hơn nữa trong từng bước, từng giai đoạn của
cả quá trình đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị đảm bảo tiêu chí về chất lượng là
hàng đầu. Nếu tuân thủ tốt quy định đó thì sẽ đảm bảo được tính minh bạch,
công khai, hiệu quả. Tất nhiên, quy định phải được soạn rất khoa học với
những bước, những quy trình rõ ràng. Khi có sự lựa chọn nhà thầu nào đó
phải hết sức hợp lý, thuyết phục. Tham khảo thêm những quy định về đấu
thầu, mua hàng quốc tế của World Bank, ADB để có nhiều chi tiết, nhiều
điểm rất hay và áp dụng thực hiện. Với quy định trước đây là nhà thầu nào bỏ
giá thấp nhất thì nhà thầu đó được chọn trúng thầu. Rõ ràng, xét về mặt
nguyên tắc, quy định đó có vẻ như phù hợp với mục tiêu đảm bảo chi phí luôn
thấp nhất cho dự án. Thế nhưng, thực tế rất nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng
nguyên tắc này để trúng thầu, rồi sau đó đẩy công trình phát sinh nhiều thứ,
chất lượng không đảm bảo và những hệ lụy khác. Đó là cái giá phải trả rất lớn
vì chọn nhà thầu không phù hợp. Vì thế, EVN sẽ có những thay đổi kịp thời,
72
tức là quan tâm đến yếu tố chất lượng khi chọn thầu, còn yếu tố về giá nên
xem chỉ là thứ yếu.
Thứ tư, chấm dứt tình trạng “thích cho ai trúng thì trúng”. Phải thừa
nhận, trong vòng xoáy chung của xã hội, hoạt động đấu thầu trong giai đoạn
vừa qua, đặc biệt là trong năm 2018 tại EVN vẫn còn nhiều bất cập vì tình
trạng lách luật của bên mời thầu diễn ra phổ biến, khiến cho nhiều nhà thầu
không quen với chủ đầu tư luôn làm khó. Cái mà các nhà thầu hay bị làm khó
nhất chính là vấn đề hợp đồng tương tự và chứng minh kinh nghiệm mua sắm
tốt đối với những hợp đồng tương tự. Thậm chí cần xác nhận của Bên mời
thầu trước đó là Nhà thầu đã thực hiện cung cấp hàng hóa đảm bảo chất
lượng, đáp ứng tiến độ tốt…Dường như chủ đầu tư đang đòi hỏi quá nhiều so
với nhu cầu thực tế của gói thầu đang đấu thầu. Vấn đề đặt ra ở đây là mặc dù
các quy định pháp luật và quy chế về đấu thầu đã có, nhưng các doanh nghiệp
vẫn cố tình gây khó khăn cho nhà thầu. Thời gian tới, EVN cần xử lý nghiêm
những trường hợp vi phạm.
Thứ năm, tăng cường công tác đấu thầu qua mạng để đảm bảo cạnh tranh.
Thực hiện Chỉ thị số 47/CT-TTg ngày 27/12/2017 của Thủ tướng Chính
phủ về việc chấn chỉnh công tác đấu thầu trong các dự án đầu tư phát triển và
hoạt động mua sắm thường xuyên sử dụng vốn nhà nước (Chỉ thị 47), Chỉ thị số
03/CT-BKHĐT về chấn chỉnh công tác đấu thầu, tăng cường hiệu lực, hiệu quả
và đẩy lùi tình trạng tiêu cực, vi phạm trong đấu thầu (Chỉ thị 03) để tăng cường
tính hiệu quả của công tác đấu thầu trong toàn Tập đoàn, EVN đã có Chỉ thị số
117/CT-EVN ngày 09/01/2018 và Chỉ thị số 2937/CT-EVN ngày 06/6/2019 về
việc chấn chỉnh công tác đấu thầu, tăng cường hiệu lực, hiệu quả, đẩy lùi tình
trạng tiêu cực, vi phạm trong đấu thầu, EVN yêu cầu các Doanh nghiệp trực
thuộc đặc biệt lưu ý đẩy mạnh công tác đấu thầu qua mạng; tăng cường đấu thầu
qua mạng, đảm bảo tỷ lệ đấu thầu qua mạng năm 2019 theo hình thức chào hàng
73
cạnh tranh, đấu thầu rộng rãi đạt tối thiểu 50% về số lượng và 15% về tổng giá
trị gói thầu. Đối với tất cả các gói thầu bắt buộc phải đăng tải trên hệ thống mạng
đấu thầu quốc gia, hệ thống thông tin quản lý đấu thầu của EVN và phần mềm
quản lý đầu tư xây dựng của EVN đầy đủ các thông tin KHLCNT, thông báo
mời thầu, kết quả đấu thầu,…Khuyến khích đăng tải trên trang thông tin đại
chúng khác và mời các cơ quan thông tấn, báo chí, công an, an ninh, …tham gia
lễ mở thầu tăng cường tính minh bạch và giám sát cộng đồng; công khai đường
dây nóng của Báo đấu thầu – 024.3768.6611 và email Ban Quản lý đấu thầu
EVN (quanlydauthau@evn.com.vn) trên các trang thông tin của đơn vị.
Mới đây, thực hiện chỉ đạo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại văn bản số
4652/BKHĐT-QLĐT ngày 05/7/2019 (Văn bản 4652) về việc thúc đẩy triển
khai đấu thầu qua mạng đáp ứng chỉ tiêu nêu tại Nghị quyết số 01/NQ-CP
ngày 01/01/2019, thực hiện nghiêm lộ trình áp dụng đấu thầu qua mạng giai
đoạn 2016 – 2025 của Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 1402/QĐ-TTg
ngày 13/7/2016, EVN yêu cầu các doanh nghiệp nghiêm túc triển khai đấu
thầu qua mạng, trong đó Người đứng đầu các đơn vị chịu trách nhiệm trước
Tập đoàn đối với việc không hoàn thành chỉ tiêu thực hiện về đấu thầu qua
mạng theo quy định tại các văn bản nêu trên. Đồng thời các doanh nghiệp
phải chủ động thông tin rộng rãi về những gói thầu đấu thầu qua mạng qua
các phương tiện truyền thông, giúp các nhà thầu tiếp cận kịp thời thông tin để
tham dự. Phát hành HSMT, hồ sơ yêu cầu, bản yêu cầu báo giá trên Hệ thống
mạng đấu thầu quốc gia kể cả những gói thầu chưa thực hiện đấu thầu qua
mạng theo quy định tại Văn bản 4652 (trừ trường hợp hệ thống mạng đấu thầu
quốc gia không hỗ trợ việc đăng tải thông tin đấu thầu đối với các hình thức lựa
chọn nhà thầu khác biệt với các hình thức lựa chọn nhà thầu theo quy định tại
Luật Đấu thầu).
74
Tiểu kết chương 3
Chương 3 đưa ra một số giải pháp đề xuất được nhìn nhận từ các hạn
chế và tồn tại mà các doanh nghiệp EVN gặp phải trong quá trình lựa chọn
nhà thầu với mong muốn góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp trong pháp
luật đấu thầu nói chung, Quy chế quản lý nội bộ về đấu thầu EVN nói riêng,
theo đó trong bất cứ giải pháp nào thì yếu tố con người là then chốt. Đạo đức,
năng lực, trình độ,...của cán bộ và chuyên viên làm công tác đấu thầu cần
được xem trọng, tập trung trong quá trình thực thi pháp luật.
75
KẾT LUẬN
Pháp luật đấu thầu đã tạo ra được môi trường pháp lý tốt cho cạnh tranh
lành mạnh, công khai minh bạch đối với các hoạt động đấu thầu ở Việt Nam
nói chung và ở EVN nói riêng. Hiện nay, trong tất cả các hình thức và phương
thức đấu thầu mua sắm hàng hóa nói chung thì đấu thầu rộng rãi qua mạng là
phổ biến và được Chính phủ chỉ thị áp dụng và khuyến khích tăng tốc để dần
đến đấu thầu qua mạng triệt để đến năm 2025. Tính ưu việt của nó không chỉ
đạt được mục đích của đấu thầu là tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh mà còn
giúp việc quản lý vốn đạt được hiệu quả cao.
Nhận thức được vấn đề này, EVN đã là người tiên phong đưa ra những
hướng dẫn rất cụ thể để áp dụng hình thức đấu thầu qua mạng, đặc biệt mở
rộng phạm vi cho đấu thầu mua sắm thiết bị và đã có rất nhiều cố gắng nhanh
chóng hoàn tất lộ trình đấu thầu qua mạng giai đoạn 2020 – 2025 của Chính
phủ; Tuy nhiên, về áp dụng và thực thi pháp luật và các quy chế quản lý đấu
thầu tại các doanh nghiệp trong EVN lại chưa đạt được kết quả cao trong thực
tế. Công tác tổ chức lựa chọn nhà thầu chưa phát huy hết công suất trong khai
thác tính năng công nghệ thông tin hỗ trợ, chưa đem lại hiệu quả cao như nhà
làm luật và EVN mong muốn. Ngoài ra, các hiện tượng vi phạm pháp luật đấu
thầu vẫn diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi với mức độ ngày càng phức tạp, tinh vi và
phổ biến hơn như: hành vi tham nhũng, gian lận trong đấu thầu, thông thầu,
ưu tiên không công bằng, chậm, phức tạp trong thẩm định và phê duyệt.
Nguyên nhân là do: nhận thức của các chủ thể về pháp luật đấu thầu còn hạn
chế; đội ngũ cán bộ quản lý và thực hiện đấu thầu có trình độ, nghiệp vụ, kinh
nghiệm chưa nhiều, chưa theo kịp và nắm bắt được quy luật vận hành của nền
kinh tế thị trường; công nghệ phát triển quá nhanh, trong khi có nhiều hành vi
và quan hệ trong đấu thầu khó có thể kiểm soát được do không có pháp luật
điều chỉnh.
76
Đề tài "Đấu thầu mua sắm thiết bị theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ
thực tiễn các doanh nghiệp thuộc EVN” là đề tài không mới nhưng chuyên
sâu về lĩnh vực mua sắm hàng hóa trong nhánh điện Việt Nam. Về lý luận
không phức tạp, nhưng thực tiễn áp dụng lại phức tạp. Tác giả đã cố gắng vận
dụng những kinh nghiệm thực tiễn làm việc tại Tổng công ty Điện lực Thành
phố Hồ Chí Minh nhằm đề xuất một số giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn nhà nước trong mua sắm thiết bị ngành điện.
77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quốc hội (2005), Luật Thương mại 36/2005/QH11
2. Quốc hội (2013), Luật đấu thầu 43/2013/QH13;
3. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp 68/2014/QH13
4. Thủ tướng chính phủ (2014), Nghị định 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014.
5. Thủ tướng chính phủ (2016), Quyết định 1402/QĐ-TTg ngày 13/7/2016.
Tài liệu chuyên khảo
1. Bộ KH&ĐT (2014 – 2018), Báo cáo công tác quản lý Đấu thầu, Hà Nội.
2. Bộ KH&ĐT (2016) Thông tư 10/2016/TT-BKHĐT, ban hành ngày
22/7/2016, Hà Nội.
3. Bộ KH&ĐT (2017) Thông tư 04/2017/TT-BKHĐT, ban hành ngày
27/12/2017.
4. Bộ KH&ĐT (2019), Văn bản số 4652/BKHĐT-QLĐT thúc đẩy triển khai
áp dụng đấu thầu qua mạng đáp ứng chỉ tiêu nêu tại NQ01, ban hành ngày
05/7/2019, Hà Nội.
5. Ngọc Bích (2014) “Cấm 7 nhà thầu tham gia đấu thầu vì có hành vi thông
thầu”, Báo Đấu thầu, số 227, tr.3.
6. Cục Quản lý đấu thầu – Bộ KH&ĐT (2016), Giáo trình đấu thầu mua
sắm, Hà Nội.
7. Cục Quản lý đấu thầu – Bộ KH&ĐT (2017), Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ
đấu thầu, chương trình cơ bản lựa chọn nhà thầu, Hà Nội.
8. Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật (2000), Giáo trình lý luận chung về
Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Báo cáo của Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng, Nxb. Chính trị
quốc gia.
10. Đỗ thị Kim Định (2017) “Về chức năng của nhà nước – Một số vấn đề lý
luận’, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số 12, tr.25-26
11. EVN (2017) Quyết định 126/QĐ-EVN về việc ban hành Quy chế về công
tác đấu thầu sử dụng chi phí sản xuất kinh doanh trong EVN, ban hành ngày
26/7/2017, Hà Nội.
12. EVN (2018), Chỉ thị 117/CT-EVN về việc chấn chỉnh công tác đấu thầu
trong EVN, ban hành ngày 09/01/2018, Hà Nội.
13. EVN (2018), Quyết định 156/QĐ-EVN về việc ban hành Quy chế về công
tác Đầu tư xây dựng áp dụng trong EVN, ban hành ngày 24/5/2018, Hà Nội.
14. EVN (2018), Chỉ thị 5827/CT-EVN về việc công tác đấu thầu trong EVN,
ban hành ngày 12/11/2018, Hà Nội.
15. EVN (2019), Chỉ thị 66/CT-EVN ban hành Kế hoạch thực hiện công tác
sắp xếp, tái cơ cấu, đổi mới, cổ phần hóa năm 2019 theo Chỉ thị số 01/CT-TTg
ngày 05/01/2019 của TTCP, ban hành ngày 20/02/2019, Hà Nội.
16. EVN (2019), Quyết định 202/QĐ-EVN về việc áp dụng kết quả đánh giá
chất lượng nhà thầu vào công tác đấu thầu trong EVN, ban hành ngày
14/02/2019, Hà Nội.
17. EVN (2019), Văn bản 3835/EVN-QLĐT thúc đẩy triển khai đấu thầu qua
mạng đáp ứng chỉ tiêu nêu tại NQ01, ban hành ngày 23/7/2019, Hà Nội.
18. EVNIT (2018), Tham luận: ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác
đấu thầu tại Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tài liệu Hội nghị chuyên đề công
tác đấu thầu năm 2018 của EVN, Hà Nội.
19. Đồng Ngọc Giám (2006) Kiểm soát thoả thuận hạn chế cạnh tranh -
Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường ĐH
Luật Hà Nội.
20. Ngô Minh Hải (2013) Quản lý đấu thầu - thực trạng ở Việt Nam và kinh
nghiệm quốc tế, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.
21. Trần Vũ Hải – Nguyễn Ngọc Yến (2018) “Mâu thuẫn giữa luật xây dựng và
luật đấu thầu trong các quy định về đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn nhà
nước: nhận diện và giải pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 08/2018, Hà Nội.
22. Học viện Chính sách và Phát triển (2016) Tập bài giảng đấu thầu qua
mạng, Hà Nội.
23. Nguyễn Việt Hùng (2006) Tờ báo đấu thầu: công cụ quan trọng nhằm
thúc đẩy minh bạch trong đấu thầu, Hội thảo APEC về minh bạch trong đấu
thầu và đấu thầu qua mạng, Hà Nội.
24. Phạm Thị Huyền (2017) Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực đấu
thầu theo pháp luật việt nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.
25. Lê Đình Mạnh (2015) Nâng cao hiệu quả đấu thầu ở Việt Nam thông qua
việc ứng dụng đấu thầu qua mạng, Hà Nội.
26. Nguyễn Quang Minh – Đoàn Việt Thắng (2014), Mua sắm tài sản nhà
nước theo phương thức tập trung: Vẫn còn nhiều hạn chế từ cách thực hiện,
Hà Nội.
27. Nguyễn Thành Nam (2014) Pháp luật Việt Nam về đấu thầu xây dựng –
Thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia
Hà Nội.
28. Lan Phương (2014) Một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả công tác
đấu thầu, Tạp chí kinh tế dự báo, số 07/2014, Hà Nội.
29. Nguyễn Duy Phương (2006) Quy chế đấu thầu Quốc tế về mua sắm hàng
hóa, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội;
30. Nguyễn Ngọc Sơn (2006) Cơ chế cạnh tranh và sự thông đồng trong đấu
thầu, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 02/2006, Hà Nội.
31. Lê Công Trực (2018) Pháp luật về xử lý vi phạm trong hoạt động đầu tư
xây dựng cơ bản tại các doanh nghiệp, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Huế.
32. Trường Đại học Luật Hà Nội 2000, Từ điển giải thích thuật ngữ Luật
học, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
33. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011) Giáo trình Luật cạnh tranh, Nguyễn
Thị Vân Anh (chủ biên), Nxb. CAND, Hà Nội.
34. Trường Đại học Luật Hà Nội, Hội thảo khoa học (2014) Kiểm soát thoả
thuận hạn chế cạnh tranh theo pháp luật Việt Nam, Khoa Pháp luật kinh tế, Hà Nội.
35. Bích Thảo (2014) “Nhận diện các gian lận trong đấu thầu”, Báo Đấu
thầu, số 62, tr.5
36. Đỗ Kiến Vọng (2019) Quản lý nhà nước về đấu thầu mua sắm công ở
Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện khoa học xã hội.
37. Vũ Đặng Hải Yến (2006) “Một số vấn đề về thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh”, Tạp chí Luật học, số 06/2006, Hà Nội.
38. Báo điện tử - Đảng Cộng sản Việt Nam (2014) “Luật Đấu thầu 2013 đảm
bảo nguyên tắc cạnh tranh, công bằng, minh bạch, hiệu quả kinh tế”,
http://cpv.org.vn/kinh-te/luat-dau-thau-2013-dam-bao-nguyen-tac-canh-tranh-
cong-bang-minh-bach-hieu-qua-kinh-te-231294.html, Hội thảo phổ biến Luật
Đấu thầu, (13/2/2014).
39. Chu Thị Thủy Chung (2016) “Mua sắm công ở Việt Nam-thực trạng và giải pháp”,
https://nif.mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/r/m/ncvtd/ncvtd_chitiet?dDocNam
e=MOFUCM084154&dID=86462&_afrLoop=42853607285199686#!%40%40%
3FdID%3D86462%26_afrLoop%3D42853607285199686%26dDocName%3DM
OFUCM084154%26_adf.ctrl-state%3D5f1ql39hs_4, (17/6/2016).
40. Trung Hiếu – Ngọc Thanh (2014) “Hiệu quả đầu tư công nhìn từ công tác
đấu thầu”, https://baodauthau.vn/dau-thau/hieu-qua-dau-tu-cong-nhin-tu-
cong-tac-dau-thau-11220.html, (03/11/2014).
41. Hồng Hoa (2018) “EVN - Gần 60% gói thầu thực hiện qua mạng”,
https://evn.com.vn/d6/news/Gan-60-goi-thau-cua-EVN-thuc-hien-qua-mang-
6-12-22587.aspx, (06/11/2018).
42. Tào Thị Huệ (2015) “Hướng dẫn kiềm chế tham nhũng trong mua sắm
công của TI”, https://baodauthau.vn/chuyen-de-kinh-nghiem-quoc-te-ve-dau-
thau/huong-dan-kiem-che-tham-nhung-trong-mua-sam-cong-cua-ti-nguyen-
tac-minh-bach-trong-mua-sam-cong-va-cac-tieu-chuan-toi-thieu-7898.html,
(02/11/2015).
43. Đỗ Đức Kiên (2014) “Bàn về mua sắm tài sản, hàng hóa từ ngân sách
theo phương thức tập trung”, http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-traodoi/ban-
ve-mua-sam-tai-san-hang-hoa-tu-ngan-sach-theo-phuong-thuc-taptrung-
48211.html, (21/3/2018).
44. TCĐL Chuyên đề thế giới điện (2012) “Cơ sở pháp lý nâng cao hiệu quả
mua sắm công”, https://www.evn.com.vn/d6/news/Co-so-phap-ly-nang-cao-
hieu-qua-mua-sam-cong-6-12-14758.aspx, (26/02/2012).
45. TCĐL Chuyên đề thế giới điện (2018) “EVN đẩy mạnh đấu thầu qua
mạng: Nâng cao hiệu quả và tính minh bạch“,
https://evn.com.vn/d6/news/EVN-day-manh-dau-thau-qua-mang-Nang-cao-
hieu-qua-va-tinh-minh-bach-6-12-22386.aspx, (07/10/2018).
46. TCĐL Chuyên đề thế giới điện (2019) “EVN - Minh bạch, hiệu quả trong
đấu thầu”, https://www.evn.com.vn/d6/news/EVN-Minh-bach-hieu-qua-
trong-dau-thau-6-12-23333.aspx, (24/3/2019).
47. http://muasamcong.mpi.gov.vn/ (Cổng thông tin đấu thầu)
48. http://dauthau.mpi.gov.vn/ (Cổng thông tin đấu thầu của Bộ kế hoạch và đầu tư)
49. http://icon.com.vn/ (trang tin điện tử ngành điện)
50. http://dauthau.evn.com.vn/ (Hệ thống thông tin quản lý đấu thầu của EVN)
51. http://dantri.com.vn/ (Báo Dân trí)
52. www.evn.com.vn (Tập đoàn điện lực Quốc gia Việt Nam)
53. https://baodauthau.vn/ (Báo đấu thầu).
54. https://tienphong.vn/ (Báo Tiền phong)
55. www.baochinhphu.vn (Báo Chính phủ)
56. www.baophapluat.vn (Báo Pháp luật)
57. www.hanoimoi.com.vn (Báo Hà nội mới)
58. www.congthuong.vn (Báo Công Thương)
59. www.daibieunhan (Báo điện tử Đại biểu nhân dân)