VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

ĐỊNH TỘI DANH TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC

GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số : 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG

HÀ NỘI, năm 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

kết quả nghiên cứu nêu trong đề tài là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về

tất cả những số liệu, kết quả nghiên cứu đó. Đề tài này chưa được ai công bố trong

bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả đề tài

Nguyễn Thị Hải Yến

1

LỜI CẢM ƠN

Đề tài “Định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Hà Nội” được hoàn thành tại Học

viện Khoa học - Xã hội. Trong suốt quá trình nghiên cứu, ngoài sự phấn đấu nỗ

lực của bản thân, tác giả đã nhận được sự chỉ bảo, giúp đỡ tận tình của các thầy

giáo, cô giáo, bạn bè và đồng nghiệp.

Tác giả xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Đỗ Thị Phượng, người trực tiếp

hướng dẫn tác giả hoàn thành luận văn này.

Tác giả xin chân thành cảm ơn giáo viên chủ nhiệm cùng toàn thể các thầy,

cô giáo và cán bộ Học viện Khoa học - Xã hội đã giảng dạy và giúp đỡ để tôi có

thể hoàn thành khóa học và luận văn.

Mặc dù đã cố gắng để hoàn thiện luận văn, tuy nhiên do kinh nghiệm nghiên

cứu chưa nhiều, thời gian nghiên cứu ngắn, luận văn không thể tránh khỏi những

thiếu sót và hạn chế. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của

Quý thầy cô và các bạn để bản thân được hoàn thiện hơn.

Xin trân trọng cảm ơn!

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI CỐ Ý

GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI

KHÁC .................................................................................................................... 7

1.1. Khái niệm, đặc điểm của định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác .......................................................................... 7

1.1.1. Khái niệm định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác .............................................................................................. 7

1.1.2. Đặc điểm định tội danh Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác ............................................................................................ 13

1.2. Ý nghĩa định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác .................................................................................................... 16

1.3. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ........................................................... 19

1.3.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................. 19

1.3.2. Cơ sở thực tiễn .......................................................................................... 23

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 28

CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ ĐỊNH

TỘI DANH TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO

SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA

BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................................................. 29

2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về định tội danh tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác .................................................. 29

2.1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam

về định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác ..................................................................................................................... 29

2.1.2. Định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành ..................................... 36

2.2. Thực tiễn định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hà Nội .......................................... 41

2.2.1. Những kết quả đạt được ............................................................................ 42

2.2.2. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân .................................................... 48

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 61

CHƯƠNG 3. NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY

TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH

PHỐ HÀ NỘI ...................................................................................................... 62

3.1. Những yêu cầu nâng cao hiệu quả định tội danh đối với tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ............................................ 62

3.1.1. Yêu cầu về chính trị xã hội ....................................................................... 62

3.1.2. Yêu cầu về lý luận và thực tiễn ................................................................. 64

3.1.3. Yêu cầu về lập pháp hình sự ..................................................................... 65

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả định tội danh đối với tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trên địa bàn thành phố Hà Nội . 66

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự .................................................................... 66

3.2.2. Một số giải pháp khác ............................................................................... 71

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 82

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 85

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Bộ luật Hình sự : BLHS

Bộ luật Tố tụng Hình sự: : BLTTHS

Tòa án nhân dân: : TAND

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm qua, các cơ quan bảo vệ pháp luật đã tích cực đấu tranh

ngăn chặn các hành vi phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh

dự của con người nói chung và các hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

sức khỏe của người khác nói riêng, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh phòng,

chống tội phạm. Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về các

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cho thấy,

còn có nhiều bất cập, vướng mắc, nhiều vụ án việc định tội rất phức tạp, dễ dẫn

đến xét xử oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm. Quy định của pháp luật hình sự về

về các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác còn

chưa thống nhất, chưa phù hợp với thực tiễn.

Cũng chính từ lẽ đó đã ảnh hưởng rất nhiều đến những hoạt động đặc thù

của các cơ quan có thẩm quyền trong việc xử lý tội phạm này, trong đó, quan

trọng hơn hết là hoạt động định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác có ý nghĩa tiên quyết trong việc cá thể hóa trách

nhiệm hình sự đối với người phạm tội, hỗ trợ trực tiếp vào công tác đấu tranh

phòng, chống tội phạm này. Định tội danh tội phạm này đúng thì những vấn đề

khác của xử lý tội phạm sẽ được thực hiện hiệu quả, ngược lại, nếu định danh sai

tội phạm này có thể dẫn đến oan, sai, làm mất đi sự uy tín của các cơ quan Nhà

nước trong mắt nhân dân, từ đó có thể gây ra một thực trạng báo động về diễn

biến phức tạp tội phạm này. Do đó, những quy định của pháp luật hình sự chưa

thống nhất, chưa phù hợp như hiện nay đã và đang góp phần không nhỏ vào tình

trạng phức tạp của xã hội về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác.

Thành phố Hà Nội là Thủ đô của đất nước và là trung tâm kinh tế hàng đầu

của miền Bắc nói riêng và của cả nước nói chung. Do đó, Hà Nội là nơi thu hút

lao động từ mọi miền đất nước đến làm việc, vì vậy mà thành phần xã hội rất đa

1

dạng và phức tạp. Đi liền với sự phát triển vượt bật về kinh tế thì Hà Nội cũng là

nơi tệ nạn xã hội, tội phạm phát triển ngày càng nguy hiểm và đa đạng. Để đẩy

lùi tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác nói riêng chính quyền thành phố Hà Nội đã thực hiện nhiều biện

pháp nhằm phòng và chống tội phạm. Trong công tác đấu tranh chống tội phạm,

các cơ quan tiến hành tố tụng trong đó có Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Hà

Nội đã đạt được nhiều kết quả đáng ngưỡng mộ, góp phần rất quan trọng trong

việc hoàn thiện xã hội của thành phố. Tuy nhiên, xuất phát từ nhiều nguyên nhân

mà hoạt động của hai cấp Tòa án thành phố Hà Nội vẫn còn nhiều hạn chế, nhất

là trong hoạt động định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khoẻ của người khác làm cho chất lượng hoạt động của Tòa án chưa thực sự đạt

hiệu quả cao nhất.

Vì vậy, việc nghiên cứu sâu sắc những vấn đề lý luận các tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác và thực trạng quá trình điều

tra, truy tố, xét xử tội phạm này trong thực tiễn không những có ý nghĩa lý luận -

thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng

là lý do luận chứng cho việc tác giả quyết định chọn đề tài: “Định tội danh tội cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn

thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sỹ luật học.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài

Liên quan tới đề tài trên, cũng đã có nhiều công trình khoa học được các

tác giả đề cập ở các phạm vi, góc độ khác nhau, mà tiêu biểu là:

(i) Về giáo trình, sách chuyên khảo, sách tham khảo:

GS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam

- Phần các tội phạm, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội; Trường Đại học

Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), Nhà

xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội; GS.TS Nguyễn Ngọc Hoà (Chủ biên) (2018),

Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Phần

các tội phạm) - Quyển 2, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội; TS. Nguyễn Đức Mai

2

(2018), Bình luận khoa học – Bộ luật hình sự (hiện hành) (sửa đổi, bổ sung năm

2017, Nxb Chính trị Quốc gia-Sự thật thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí

Minh; v.v...

(ii) Luận văn thạc sĩ: Lê Đình Tĩnh (2014), Luận văn thạc sĩ: “Các tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt

Nam”, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; Dương Mai Phương (2017), Luận

văn thạc sĩ:“Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn”, Học viện khoa

học xã hội – Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam; Thân Đình Trung (2016),

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp

luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Long Biên, thành phố Hà Nội; Trần Thảo

Nguyên (2020). Luận văn thạc sĩ: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác theo Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn

tỉnh Quảng Ninh)”; Nguyễn Hữu Tùng (2017), Luận văn thạc sĩ: “Định tội danh

tội trộm cắp tài sản (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Nguyên)”; Nguyễn Việt

Hà (2017), Luận văn Thạc sĩ: “Định tội danh đối với tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Luật Hình sự Việt Nam (Trên cơ sở

thực tiễn địa bàn tỉnh Tuyên Quang)”; Vũ Thanh Thủy (2018), Luận văn Thạc sĩ:

“Định tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con người theo pháp luật Hình sự

Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Bình”,…

Nhận xét chung: Các công trình khoa học nêu trên ở các mức độ khác nhau

đã làm rõ một số vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp dụng tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác. Tuy nhiên tính đến nay, chưa có

công trình nghiên cứu nào đề cập đến tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác một cách cụ thể, chuyên sâu tại địa bàn thành phố

Hà Nội, trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2020.

Do vậy việc tiếp tục nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, cũng như việc áp dụng

nội dung này trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử được thống nhất luôn có ý

nghĩa quan trọng, cấp thiết.

3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật hình

sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác, kết hợp với thực tiễn xét xử tội này trên địa bàn thành phố Hà Nội, kết quả

nghiên cứu của luận văn nhằm làm sâu sắc hơn lý luận về tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Đồng thời chỉ ra các điểm tồn tại,

hạn chế trong quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật, để

từ đó luận văn đưa ra mốt số giải pháp để hoàn thiện pháp luật hình sự cũng như

tăng cường hướng dẫn áp dụng đúng pháp luật về tội danh này trong thực tiễn.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu sau:

- Một số vấn đề lý luận và pháp luật về yội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác.

- Làm rõ thực tiễn xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hà Nội, từ đó rút ra được những tồn

tại, hạn chế và nguyên nhân cơ bản của những tồn tại, hạn chế đó.

- Phân tích định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật và đưa ra một số giải

pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật về tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hà Nội.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác thông qua thực tiễn tại thành phố Hà Nội.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trong phạm vi chuyên ngành Luật hình sự và Tố

tụng hình sự; luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh tội cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (như các dấu

hiệu pháp lý, lịch sử lập pháp...), kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá hoạt động

4

này trong thực tiễn xét xử tại thành phố Hà Nội, phân tích những tồn tại, hạn chế

từ đó kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện luật thực định và đảm bảo áp

dụng đúng quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác.

Giới hạn về không gian: Trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Giới hạn về thời gian: Trong giai đoạn 05 năm từ năm 2016 – 2020.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài là phương pháp luận triết học duy vật biện

chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Đường lối, chính sách của

Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước và Pháp quyền. Đường lối, chính

sách của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới, phát triển nền kinh tế thị

trường và thực tiễn áp dụng

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận

văn đã sử dụng phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như

phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu, phương

pháp diễn dịch, quy nạp và phương pháp thống kê, để tổng hợp các tri thức khoa

học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn được thực hiện có ý nghĩa góp phần nhằm làm rõ hơn những vấn

đề về lý luận và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác, góp phần nhận thức sâu sắc hơn lý luận về

định tội danh và quyết định hình phạt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác thông qua thực tiễn thành phố Hà Nội. Kết quả nghiên

cứu của luận văn góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên

cứu khoa học chuyên ngành và tài liệu tham khảo đối với những người làm công

5

tác nghiên cứu, giảng dạy và công tác thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của các cơ

quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án), đặc biệt là các

cơ quan tiến hành tố tụng tại thành phố Hà Nội.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn gồm 3 chương sau đây:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về định tội danh tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam định tội danh cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và thực tiễn áp

dụng tại thành phố Hà Nội.

Chương 3: Những yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả định tội danh

đối với cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

6

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI

CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE

CỦA NGƯỜI KHÁC

1.1. Khái niệm, đặc điểm của định tội danh tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

1.1.1. Khái niệm định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do

người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một

cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ

Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an

ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền

con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác

của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị

xử lý hình sự.1

Như vậy, những hành vi được coi là tội phạm khi chúng được quy định

trong BLHS và những người thực hiện hành vi mà BLHS coi là tội phạm phải

chịu trách nhiệm hình sự hay cụ thể hơn đó là phải chịu một hình phạt nhất định.

BLHS quy định tổng thể tất cả các hành vi xâm phạm đến hầu hết các quan hệ

trong đời sống xã hội, việc xác định một hành vi xâm phạm đến một quan hệ xã

hội trên thực tế có phải là tội phạm hay không được xem là hoạt động định tội

danh. Qua đó, về bản chất, định tội danh là một hoạt động áp dụng pháp luật, với

đặc điểm nổi bật là một hoạt động do các cơ quan quyền lực Nhà nước thực hiện

nhằm xem xét, đánh giá logic để xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội trên thực

tế đã thỏa mãn những yếu tố cấu thành tội phạm nào được quy định trong BLHS.

1 Quốc hội, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017, Hà Nội, Điều 8.

7

Tuy nhiên, trên đây chỉ là cách hiểu cơ bản nhất về khái niệm định tội danh, để

thực hiện khách quan, chính xác hoạt động này cần phải hiểu được đầy đủ và

chính xác khái niệm này.

Trong khoa học hình sự hiện nay chưa có một định nghĩa thống nhất về

định tội danh, mỗi nhà khoa học luật lại đưa ra những định nghĩa và quan điểm

khác nhau về khái niệm này.

TS. Dương Tuyết Miên đưa ra quan điểm và định nghĩa về định tội danh

như sau:

“Định tội danh được hiểu là hoạt động thực tiễn của các cơ quan tiến hành

tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và một số cơ quan khác có thẩm

quyền theo quy định của pháp luật để xác định một người có phạm tội hay không,

nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo điều luật nào của Bộ luật Hình sự hay nói cách

khác đây là quá trình xác định tên tội cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện.”2

Trong khi đó GS.TS Lê Cảm lại quan niệm rằng:

“Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, là một

trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như

pháp luật Tố tụng hình sự, và được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu

thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa

các dấu hiệu của hành vi nguy hiễm cho xã hội được thực hiện phù hợp với các

dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định, nhằm đạt

được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt

pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự

một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật.”3

TS. Trịnh Quốc Toản cho rằng:

“Định tội danh là việc xác định về mặc pháp lý sự phù hợp nhất giữa các

dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã được thực hiện với các yếu

2 Dương Tuyết Miên, Định tội danh và quyết định hình phạt, Nhà xuất bản Lao động – Xã Hội, Hà Nội, 2005, Tr.20. 3 Lê Cảm, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh (Tài liệu giảng dạy sau đại học), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2003, Tr.11.

8

tố cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng được quy định trong Bộ luật Hình sự. Nói

cách khác định tội là việc xác định một hành vi cụ thể đã thực hiện thỏa mãn đầy

đủ các dấu hiệu của tội nào trong số các tội phạm được quy định trong Bộ luật

hình sự.” “Định tội danh là một quá trình logic nhất định, là hoạt động tư duy do

người tiến hành tố tụng thực hiện. Nó đồng thời cũng là một trong những hình

thức hoạt động về mặt pháp lý, thể hiện sự đánh giá về mặt pháp lý đối với hành

vi nguy hiểm cho xã hội đang được kiểm tra, xác định trong mối tương quan với

các quy phạm pháp luật hình sự.”4

GS.TS. Võ Khánh Vinh cũng đưa ra nhận định như sau:

“Định tội danh là một dạng hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng luật

hình sự nhằm đi tới chân lý khách quan trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các

tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy

phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tương ứng và mối liên hệ

tương đồng giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm với các tình tiết cụ thể của

hành vi phạm tội bằng phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất định.”5

Từ các quan điểm của các nhà khoa học kể trên, có thể nhận thấy, mặc dù

mỗi người đề xuất phát từ các khía cạnh khác nhau trong khoa học hình sự để đưa

ra nhận định về khái niệm định tội danh, tuy nhiên về cơ bản các nhà khoa học

trên đều thống nhất với nhau về những nội dung sau đây:

Một là, định tội danh là hoạt động nhận thức logic của các chủ thể có thẩm

quyền trong việc xác định tính đồng nhất cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn. Để định

tội danh, các chủ thể phải dựa trên cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận của tội phạm,

trong đó cơ sở thực tiễn là diễn biến của hành vi phạm tội trên thực tế, lỗi của chủ

thể thực hiện hành vi, hậu quả của hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra và những

vấn để khác có liên quan đến hành vi phạm tội đã diễn ra trong đời sống khách

quan, còn cơ sở pháp luật là những quy định cụ thể của pháp luật hình sự về một

4 Trịnh Quốc Toản, “Những vấn đề lý luận về định tội danh và hướng dẫn giải bài tập định tội danh, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999, Tr. 22-23. 5 Võ Khánh Vinh, Lý luận chung về định tội danh, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2013, Tr.40.

9

tội phạm cụ thể. Nói cách khác, định tội danh là hoạt động xác định sự phù hợp

hay không phù hợp giữa sự kiện phạm tội thực tế với những quy phạm pháp luật

hình sự về tội phạm trong BLHS.

Hai là, định tội danh về bản chất là một hoạt động áp dụng pháp luật. Áp

dụng pháp luật là một trong bốn hình thức thực hiện pháp luật, trong đó cơ quan

Nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền thông qua các hoạt động cá biệt hóa quy

định của pháp luật vào các sự kiện pháp lý cụ thể, từ đó làm phát sinh, chấm dứt

hay thay đổi một quan hệ pháp luật đối với các đối tượng cụ thể theo trình tự, thủ

tục được pháp luật quy định. Như vậy, định tội danh là một hoạt động áp dụng

pháp luật, trong đó các cơ quan Nhà nước mà cụ thể là các cơ quan tiến hành tố

tụng hình sự (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) nhân danh Nhà nước trên

cơ sở các sự kiện phạm tội thực tế từ đó nhận định, so sánh, lựa chọn các quy

phạm pháp luật về tội phạm tương ứng được BLHS quy định để xác định tội danh

đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trên cơ sở trình tự, thủ

tục do pháp luật quy định.

Ba là, định tội danh là hoạt động khởi nguyên trong việc xử lý tội phạm.

Quá trình xử lý tội phạm được thể hiện ở ba hoạt động: định tội danh, định khung

hình phạt và quyết định hình phạt. BLHS quy định về tội phạm và hình phạt, để

xác định được hình phạt, hay trách nhiệm hình sự của người phạm tội trước hết

cần xác định họ đã phạm vào tội danh gì của BLHS. Như vậy, thông qua hoạt

động định tội danh, các chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước trong xử lý tội phạm

có thể cá biệt hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự của người phạm tội một cách

chính xác, là tiền đề để thực hiện các hoạt động khác trong việc xử lý tội phạm

như những vấn đề liên quan đến trách nhiệm hình sự hay quan trọng hơn là hoạt

động quyết định hình phạt cụ thể đối với người phạm tội.

Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi xin đưa ra khái niệm về định tội

danh như sau:

“Định tội danh là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật, mang tính quyền

lực nhà nước, trên cơ sở các tình tiết thực tế của hành vi phạm tội các cơ quan có

10

thẩm quyền phân tích, đối chiếu, so sánh các tình tiết đó với các yếu tố cấu thành

tội phạm của một tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự, tạo tiền

đề cho các hoạt động khác trong việc xử lý tội phạm diễn ra khách quan, nhanh

chóng và chính xác.”

Định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác là một trường hợp cụ thể của định tội danh nói chung, trong đó hành

vi phạm tội trên thực tế đã xâm phạm đến sức khỏe của con người, là một quan

hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.

Sức khỏe của con người là tình trạng đầy đủ về thể chất, tâm thần mà không

chỉ có nghĩa là không có bệnh hay thương tật; cho phép mỗi người thích ứng

nhanh chóng với các biến đổi của môi trường, giữ được lâu dài khả năng lao động

và lao động có hiệu quả.6 Như vậy, hành vi xâm phạm sức khỏe của con người là

hành vi dù dưới bất kỳ hình thức thể hiện nào làm dẫn đến người bị tác động yếu

đi hoặc gây thương tật, các bộ phận của cơ thể người hoặc làm ảnh hưởng đến khả

năng sinh hoạt, lao động bình thường của người đó.

Hiện nay, pháp luật hình sự không có một định nghĩa thống nhất về tội cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, nhiều nhà nghiên

cứu luật học cũng đã đưa ra những quan niệm cụ thể về tội này như sau:

“Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

là hành vi cố ý gây tổn hại cho sức khỏe người khác dưới dạng thương tích hoặc

tổn thương khác.”7

Hoặc cũng có quan điểm khác cho rằng:

“Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành

vi của một người cố ý làm cho người khác bị thương hoặc tổn hại đến sức khỏe.”8

6 Hội đồng Quốc gia, Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2003. 7 Phạm Văn Beo, Luật Hình sự Việt Nam – Quyển 1 (Phần chung), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009. 8 Đinh Văn Quế, Bình luật khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội phạm), tập 1 Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh sự của con người, (Bình luận chuyên sâu), Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh, 2002, Tr.133.

11

Đây là hai quan điểm được sử dụng phổ biến trong khoa học luật hình sự,

tuy nhiên theo quan điểm cá nhân của học viên, các quan điểm trên không còn

phù hợp, bởi lẽ, khái niệm về tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS

đã được đề cập ở trên, bên cạnh hành vi khách quan thì khái niệm tội phạm còn

đề cập đến các bộ phận khác của cấu thành tội phạm như mặt chủ quan, khách

thể, chủ thể.

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

thực chất là hai tội độc lập bao gồm: Tội cố ý gây thương tích cho người khác (với

hậu quả là thương tích, vết thương để lại trên bộ phận, cơ thể của con người) và

tội cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (với hậu quả là làm tổn hại đến

sự vận hành bình thường của các chức năng, bộ phận trên cơ thể con người). Tuy

nhiên, do hành vi và hậu quả của hai tội phạm này có quan hệ chặt chẽ với nhau

nên được các nhà làm luật xếp vào cùng một Điều luật (Điều 134 BLHS năm 2015

sửa đổi, bổ sung 2017).

Vì vậy, để phù hợp với khái niệm về tội phạm, học viên xin đưa ra khái

niệm về tội cố ý gây thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như

sau:

“Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự cố ý thực hiện gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật, xâm

phạm đến quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của con người được Luật Hình

sự bảo vệ.”

Từ cơ sở khái niệm về định tội danh và khái niệm tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, chúng tôi xin đưa ra khái niệm về

định tội danh Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác như sau:

“Định tội danh Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác là hoạt động áp dụng pháp luật, mang tính quyền lực nhà nước do cơ

quan, người có thẩm quyền thực hiện trên cơ sở các chứng cứ có liên quan đến

12

các tình tiết, sự kiện thực tế của vụ án để phân tích, đối chiếu, so sánh và kết luận

sự chính xác giữa hành vi của một người có năng lực trách nhiệm hình sự cố ý

thực hiện nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

một cách trái pháp luật được Bộ luật Hình sự quy định với các tình tiết, sự kiện

đã diễn ra trên thực tế, qua đó làm tiền đề để quyết định những vấn đề khác trong

việc xử lý tội phạm.”

1.1.2. Đặc điểm định tội danh Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác

Định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác mang những đặc điểm của định tội danh nói chung, bên cạnh đó còn

phải dựa trên những đặc điểm đặc trưng của tội phạm này. Từ khái niệm đã phân

tích, những đặc điểm của định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác được phản ánh qua những nội dung sau:

Thứ nhất, định tội với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác là hoạt động nhận thức logic trên cả cơ sở thực tế lẫn cơ sở

lý luận. Về mặt thực tế, đó là việc các chủ thể đánh giá các chứng cứ có liên quan

đến việc định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho đến sức khỏe của

người khác đã diễn ra trong thế giới khách quan, đó có thể là kết quả giám định

thương tật, loại hung khí thực hiện, hành vi, động cơ, mục đích thực hiện hành vi

gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe,… Về mặt lý luận, đó là việc các chủ thể

phân tích, đánh giá nội dung các dấu hiệu pháp lý được quy định tại Điều 134

BLHS, cũng như kết hợp với phần chung của BLHS để đưa so sánh và kết luận

việc có hay không một hành vi cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác. Tuy nhiên, cũng cần xác định rõ, pháp luật luôn

mang tính tổng quát, nó không thể phản ánh chi tiết hết tất cả các mặt của đời

sống xã hội vốn rất phong phú và đa dạng này. BLHS không chỉ ra cặn kẽ bằng

việc liệt kê hành vi nào là hành vi gây thương tích, hành vi nào là hành vi gây tổn

hại cho sức khỏe, vì vậy khi đối chiếu các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm

với các dấu hiệu thực tế đã diễn ra, xác định độ tương ứng và phù hợp giữa cả 2

13

dấu hiệu thuộc 2 mặt đối lập nhau thì mới có thể kết luận được chính xác tội phạm

có diễn ra hay không, đồng thời buộc người đã thực hiện hành vi đó phải chịu

trách nhiệm pháp lý về hành vi cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe

của người khác mà người đó đã thực hiện, hay chính xác là phải chịu trách nhiệm

hình sự.

Thứ hai, định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác là một hoạt động áp dụng pháp luật, đồng thời do tính đặc

thù trong xử lý tội phạm mà hoạt động này chỉ do các cơ quan nhất định tiến hành,

hay còn gọi là các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bao gồm: Cơ quan có

thẩm quyền điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Là một hoạt động đặc thù, định tội

danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chỉ

được tiến hành trong các giai đoạn tố tụng hình sự (khởi tố, điều tra, truy tố, xét

xử vụ án hình sự), mỗi giai đoạn do mỗi cơ quan khác nhau giữa vai trò chủ đạo

và là chủ thể chính trong việc thực hiện hoạt động lựa chọn đúng quy phạm pháp

luật hình sự để áp dụng đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã được thực

hiện trong thực tế khách quan và từ đó kết luận là hành vi đó có đầy đủ các dấu

hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác được quy định trong pháp luật hình sự thực định hay không. Kết luận đó ở

mỗi giai đoạn được thể hiện dưới một văn bản pháp lý tố tụng hình sự nhất định,

trong giai đoạn khởi tố là quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự,

trong giai đoạn điều tra là kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc kết luận điều tra

và quyết định đình chỉ điều tra, trong giai đoạn truy tố là quyết định truy tố bằng

cáo trạng hoặc quyết định đình chỉ vụ án và trong giai đoạn xét xử đó là bản án

về việc kết tội hay không có tội. Việc xác định tội danh phải chính xác và phù hợp

với các tình tiết thực tế khách quan của vụ án mà các cơ quan có thẩm quyền tiến

hành tố tụng đã thu thập được, phải căn cứ vào các quy định của BLHS về tội cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác để đánh giá.

Thứ ba, việc định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy phạm của luật nội

14

dung – được quy định trong BLHS hiện hành về các dấu hiệu pháp lý, cấu thành

tội phạm cơ bản của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác và luật hình thức – được quy định trong BLTTHS về trình tự, thủ tục

giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác. Trong các giai đoạn tố tụng, định tội danh luôn phải được tiến hành

trước, trên cơ sở đó mới tiến hành được việc xác định khung hình phạt và quyết

định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của

người khác. Vì vậy, mọi sự vi phạm trong việc định tội danh tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đều có thể dẫn đến oan, sai

hoặc bỏ lọt tội phạm, người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác.

Thứ tư, với bản chất là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, định tội danh

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được tiến

hành theo 4 bước cơ bản sau:

Bước 1: Xem xét, đánh giá các tình tiết, sự kiện khách quan của vụ án đã

xảy ra với sự thật khách quan và các quy định của pháp luật về tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Đây là giai đoạn bắt đầu của việc định tội danh, người định tội danh một

mặt phải đánh giá các tình tiết, dấu vết về vụ án so với sự thật thực tế đã diễn ra,

xem xét các chứng cứ, dấu vết xảy ra đúng với sự kiện khách quan hay không,

mặt khác còn phải xem xét các tình tiết, sự kiện của vụ án có phù hợp với các quy

định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe người khác không (chẳng hạn một người bị thương tích, nghi ngờ do bị axit

làm bỏng thân thể thì phải xác định có hành vi tạt axit hay không, axit làm bỏng

thân thể người bị thương là gì, axit đó thực tế có khả năng làm bỏng đến đâu, hàm

lượng axit là bao nhiêu, hàm lượng đó có khả năng gây ra vết bỏng không…).

Việc này đòi hỏi người định tội danh phải thực sức khách quan, toàn diện, vô tư,

không suy diễn, kết luận thiếu chính xác.

15

Bước 2: Nhận thức đầy đủ, chính xác và logic trong nội dung các quy phạm

pháp luật về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác.

Mỗi tội phạm đều được có một cấu thành tội phạm riêng biệt được thiết lập

bởi hệ thống dấu hiệu pháp lý có tính liên kết chặt chẽ với nhau. Cùng với đó, các

quy định của pháp luật mang tính khái quát và trừu tượng cao, vì vậy, khi đánh

giá sự kiện thực tế so với cấu thành tội phạm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác được BLHS quy định thì người định tội danh

phải đánh giá một cách khoa học, căn cứ vào thực tế khách quan sao cho việc định

tội danh có tính thuyết phục cao.

Bước 3: Lựa chọn chính xác căn cứ pháp luật áp dụng đối với sự kiện thực

tế. Lựa chọn chính xác ở đây không chỉ được hiểu là việc lựa chọn đúng điểm,

khoản, điều của BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác mà còn là các quy định chung của pháp luật hình sự về xác định

chính xác, toàn vẹn, đầy đủ trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành

vi phạm tội như việc chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt,…

Bước 4: Ra văn bản kết luận về việc định tội danh tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Sau khi đã đối chiếu, kiểm tra,

đánh giá chính xác, người định tội danh ra một văn bản pháp lý nhất định nhằm

khẳng định kết quả thực hiện việc định tội danh của mình. Văn bản phải đảm bảo

sức thuyết phục về tính phù hợp giữa sự việc phạm tội thực tế với cấu thành tội

phạm và những quy định về trách nhiệm hình sự của tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

1.2. Ý nghĩa định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác

Là giai đoạn cơ bản nhất của việc áp dụng quy phạm pháp luật hình sự, việc

định tội danh nói chung và định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác ý nghĩa hết sức quan trọng. Hoạt động định tội danh

của các chủ thể dẫn đến hai kết quả đối ngược nhau: định tội danh đúng và định

16

tội danh sai. Vì vậy, định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác có ý nghĩa về chính trị - xã hội và pháp luật.

Thứ nhất, ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội.

Như đã đề cập, về bản chất hoạt động định tội danh tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là một hoạt động áp dụng pháp luật

hay chính là một hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước do các cơ quan, người

có thẩm quyền thay mặt Nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước. Chính vì vậy,

hoạt động định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác có ý nghĩa về chính trị sâu sắc. Thể hiện ở chỗ:

Định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác góp phần quan trọng bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về tính mạng,

thân thể của mọi người trong xã hội, đảm bảo các quy định của Hiến pháp:“ Mọi

người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị

tước đoạt tính mạng trái luật.”9 “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân

thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn,

bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân

thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.”10. Từ đó, đảm bảo các chủ trương,

đường lối mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra.

Việc định tội danh đúng hỗ trợ cho việc thực hiện các nguyên tắc tiến bộ

đã được thừa nhận như: nguyên tắc pháp chế, dân chủ, bình đẳng, công minh,

nhân đạo… góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ của BLHS, duy trì được sự bình

thường trong trật tự xã hội.

Định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác có kết quả là: khẳng định có tội hoặc khẳng định vô tội. Vì vậy, việc

định tội danh đúng góp phần quan trọng trong phòng chống oan, sai. Bên cạnh đó,

cũng là công cụ hữu hiệu nhằm hạn chế việc lộng quyền của một số đối tượng tha

hóa gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

9 Quốc hội, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội, 2013, Điều 19. 10 Quốc hội, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội, 2013, Điều 20.

17

Ngoài ra, việc định tội danh hay rộng hơn là xử lý tội phạm có ảnh hưởng

trực tiếp đến đời sống xã hội. Vì vậy, việc định tội danh cũng có ý nghĩa về mặt

xã hội. Định tội danh đúng góp phần đảm bảo công lý trong xã hội, người phạm

tội bên cạnh chịu trách nhiệm hình sự và hình phạt trước pháp luật còn phải chịu

trách nhiệm trước bị hại – khắc phục, bồi thường những thương tích, tổn hại do

hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe mà mình đã thực hiện,

loại bỏ được những hành vi nguy hiểm cho xã hội, đảm bảo sự công bằng cho

những nạn nhân của hành vi phạm tội gây thiệt hại. Từ đó, tạo dựng, củng cố được

sự tin tưởng vững chắc của người dân vào hoạt động của các cơ quan Nhà nước,

góp phần giảm thiểu tình trạng tệ nạn, tội phạm trong xã hội, đảm bảo trật tự an

toàn xã hội. Ngược lại, việc định tội danh sai sẽ làm giảm uy tín của các cơ quan

có thẩm quyền trước nhân dân, làm giảm đi tính hiệu quả của công tác đấu tranh,

phòng chống tội phạm hiệu nay, dễ dẫn đến tình trạng bất ổn trong xã hội ngày

càng tăng cao.

Thứ hai, ý nghĩa về mặt pháp luật.

Hoạt động định tội danh là tiền đề cho việc áp dụng các quy định của pháp

luật hình sự và tố tụng hình sự. Như đã đề cập, định tội danh là một trong ba giai

đoạn của việc xử lý tội phạm và kết quả của hoạt động định tội danh chính là cơ

sở cho việc xác định trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt. Hay nói cách

khác, chỉ khi xác định được tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác thì cơ quan, người có thẩm quyền mới có cơ sở để áp

dụng chế tài cũng như các chế định khác của BLHS trong xử lý tội phạm như:

miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, án treo… cho người được xác định đã

thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác. Định tội danh đúng thì việc xác định trách nhiệm hình sự, quyết định hình

phạt mới đảm bảo tính đúng đắn và khách quan, ngược lại, nếu định tội danh sai

sẽ dẫn đến làm oan người vô tội, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ.

Cũng đã đề cập ở trên, kết quả của việc định tội danh được thể hiện bằng

một văn bản kết luận của cơ quan, người có thẩm quyền. Trong tố tụng hình sự,

18

đó là các văn bản tố tụng hình sự. Chỉ khi xác định đúng tội danh tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của mình một người

thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng mới có thể áp dụng các quy

định của BLTTHS như về các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế hay các

quyết định quan trọng như khởi tố vụ án, khởi tố bị can, kết luận điều tra, cáo

trạng, bản án…

Định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác góp phần đưa các quy định của pháp luật, cụ thể là các quy định của

BLHS vào thực tiễn xã hội. Chính vì vậy, việc định tội danh còn có ý nghĩa quan

trọng trong việc kiểm tra tính phù hợp của các quy phạm pháp luật hình sự về tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong thực

tiễn. Từ đó chỉ ra được những mâu thuẫn, chồng chéo, khó hiểu trong quy định

của pháp luật còn tồn tại, là cơ sở thực tiễn cho các nhà làm luật thực hiện việc

nghiên cứu và đưa ra những giải pháp sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật sao

cho ngày càng phù hợp với thực tiễn. Từ đó, tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho

việc xử lý hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác. Góp phần đảm bảo cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh, bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của người dân, giữ vững trật tự, an toàn xã hội.

1.3. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về định tội danh tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

1.3.1. Cơ sở lý luận

Định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác là một hoạt động nhận thức đòi hỏi tính logic cao. Vì vậy, bên cạnh

các quy định của BLHS thì người định tội danh còn phải dựa trên cơ sở lý luận

khoa học về mô hình pháp lý cụ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác để thực hiện hoạt động này. Mô hình pháp lý về một

tội phạm cụ thể mà chủ thể thực hiện định tội danh dưa vào được gọi là cơ sở lý

luận của việc định tội danh.

Cơ sở lý luận hay cơ sở khoa học của định tội danh tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cùa người khác chính là cấu thành tội phạm của tội

19

phạm này, bởi nếu thiếu đi một trong các yếu tố của cấu thành tội phạm thì không

thể đủ căn cứ một người đang thực hiện tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác được.

Tại Việt Nam, hầu như các nhà khoa học luật hình sự đều thừa nhận rằng

cấu thành tội phạm là sự mô tả khái quát loại tội phạm cụ thể được pháp luật hình

sự quy định.

GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa cho rằng: “Cấu thành tội phạm là tổng hợp những

dấu hiệu đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong pháp luật hình sự”.11

GS.TS. Lê Cảm cũng nhận định rằng: “Cấu thành tội phạm là tổng hợp các

dấu hiệu pháp lý (khách quan và chủ quan) do luật hình sự quy định thể hiện một

hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể là tội phạm.”12

Qua đó ta có thể mối quan hệ biện chứng giữa tội phạm và cấu thành tội

phạm, trong đó tội phạm là một hiện tượng xã hội cụ thể, tồn tại khách quan,

nhưng để tội phạm phản ánh vào trong các quy định của pháp luật thì phải cần

đến cấu thành tội phạm. Cấu thành tội phạm là hình thức thể hiện pháp lý của tội

phạm trong các quy phạm pháp luật hình sự.

Như vậy, cấu thành tối phạm của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác là cơ sở lý luận để định tội danh đối với loại tội

phạm này. Các dấu hiệu pháp lý trong cấu thành tội phạm của tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác giống như các tội phạm khác

đều chỉ được ghi nhận trong các BLHS hiện hành, trong cả phần chung và phần

các tội phạm của BLHS.

Theo khoa học luật hình sự thì cấu thành tội phạm của tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác bao gồm các yếu tố sau:

Thứ nhất, khách thể của tội phạm. Làm rõ khách thể của tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là đi trả lời cho câu hỏi quan

hệ pháp luật nào được Luật hình sự bảo vệ bị xâm hại hoặc đe dọa xâm hại. Theo

11 Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nhà xuất bản công an nhân dân, Hà Nội, 2008, tr33. 12 Lê Cảm, Trịnh Quốc Toản, Định tội danh: Lý luận, lời giải mẫu và 500 bài tập thực hành, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2011, tr. 67.

20

khoa học luật hình sự, khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác là quan hệ nhân thân của con người (cụ thể là quyền

được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng, sức khỏe) được Luật hình sự bảo vệ và đã

bị tội phạm xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến. Đối tượng tác động của tội phạm

này phải là con người và con người đó phải còn sống khi hành vi xâm phạm đến

sức khỏe diễn ra.

Thứ hai, về mặt khách quan của tội phạm. Đó là những biểu hiện của tội

phạm ra bên ngoài thế giới khách quan bao gồm hành vi khách quan, hậu quả

nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả và những yếu tố bên ngoài khác của

tội phạm. Trong đó:

- Hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác là hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác, chỉ được thực hiện thông qua hình thức thể hiện là hành

động (tác động một cách trực tiếp đến thân thể của người khác), hình thức thể hiện

không hành động không xảy ra với tội phạm này. Hành vi tác động trực tiếp đến

thân thể người khác là những hành vi mà pháp luật cấm như trực tiếp dùng tay,

chân hoặc cũng có thể thực hiện thông qua công cụ, phương tiện (dao, kiếm, súng,

gạch, thuốc độc, axit,…) hoặc động vật (chó, trâu,…) để tác động đến cơ thể người

khác.

- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội là thiệt hại do tội phạm gây ra. Do là có

hai tội phạm trong cùng một điều luật, nên có thể hiểu hậu quả của tội cố ý gây

thương tích là tỷ lệ thương tích bên ngoài của cơ thể người (vết trầy xước, vết

bầm, gãy tay, gãy chân…) còn hậu quả của tội cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác là những tổn thương bên trong của cơ thể người (rối loạn hệ tiêu hóa,

hệ tuần hoàn…). Là một tội cấu thành vật chất, hậu quả của tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đòi hỏi một mức độ nhất định

thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Các tình tiết phản

ánh tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác có thể là:

21

+ Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng

gây nguy hại cho nhiều người;

+ Dùng axit nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

+ Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm

đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

+ Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng,

chữa bệnh cho mình;

+ Có tổ chức;

+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

+ Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt

tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang

chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc,

đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

+ Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;

+ Có tính chất côn đồ;

+ Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

- Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu

thành tội phạm này, đòi hỏi khi xác định hành vi phạm tội thì hậu quả thương tích

hoặc gây tổn hại sức khỏe phải do chính hành vi gây ra.

Ngoài ra dấu hiệu pháp lý trên, mặt khách quan của tội phạm còn có một

số dấu hiệu khác tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc nhưng có ý nghĩa lớn trong

việc định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác như công cụ, phương tiện, thủ đoạn….

Thứ ba, mặt chủ quan của tội phạm. Là toàn bộ hoạt động tâm lý bên trong

của người phạm tội nhận thức về hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do

hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra bao gồm lỗi, động cơ, mục đích. Ngay từ tên

của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng

đã nhận thấy rằng, người thực hiện hành vi phạm tội này phải thực hiện hành vi

22

của mình một cách cố ý (có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp). Tức là người

phạm tội nhận thức rõ hành vi xủa mình chắc chắn hoặc có thể gây ra thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và mong muốn hoặc tuy không

mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra. Hành vi mà người

phạm tội thực hiện là do sự lựa chọn từ ý chí chủ quan của họ, dù lý trí của họ đã

nhận thức được rằng việc gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người

khác là một hành vi bị ngăn cấm nhưng đến cùng họ vẫn lựa chọn thực hiện hành

vi này. Trong mặt chủ quan của tội phạm còn có động cơ, mục đích, tuy nhiên,

đối với tội phạm này động cơ và mục đích không phải dấu hiệu pháp lý bắt buộc.

Thứ tư, chủ thể của tội phạm. Chủ thể của tội phạm là người có năng lực

trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Hiện nay, đối với tội cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì người từ đủ

16 tuổi trở lên và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi mà phạm tội rất nghiêm

trọng, đặc biệt nghiêm trọng phải chịu trách nhiệm hình sự.

Tóm lại, để xác định đầy đủ cấu thành tội phạm của tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phải căn cứ cụ thể vào cơ sở

pháp lý duy nhất là Bộ luật hình sự bên cạnh điều luật cụ thể về tội này thì cũng

phải xem xét các quy phạm pháp luật ở phần chung của BLHS.

1.3.2. Cơ sở thực tiễn

Bản chất của định tội danh vẫn là một hoạt động thực tiễn do các cơ quan,

người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện việc áp dụng pháp luật hình sự

và tố tụng hình sự. Vì vậy, muốn định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác một cách chính xác bên cạnh việc đảm bảo

cơ sở lý luận còn phải đảm bảo về cơ sở thực tiễn.

1.3.2.1. Xuất phát từ thực tiễn định tội danh của các cơ quan, người có

thẩm quyền tiến hành tố tụng

Trên thực tiễn, để giải quyết vụ án hình sự nói chung, việc định tội danh vụ

án nói riêng, chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng bao gồm Điều tra viên, Kiểm

sát viên và Thẩm phán chính là những người tiến hành tố tụng hình sự, cụ thể hơn

23

họ chính là người thực hiện hoạt động định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đối với người bị buộc tội. Khoa học luật

hình sự là cơ sở cho việc thực hiện hoạt động định tội danh, tuy nhiên để có thể

hiểu chính xác và áp dụng một cách chính xác, logic các cơ sở lý luận về định tội

danh còn phải đỏi hỏi năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của người

định tội danh trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Việc định tội danh đạt được

mục đích của nó khi người định tội danh thực hiện đúng các cơ sở lý luận về định

tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

vào từng vụ án cụ thể.

Về năng lực chuyên môn của người định tội danh. Điều tra viên là người

được bổ nhiệm để làm nhiệm vụ điều tra hình sự; Kiểm sát viên là người được bổ

nhiệm để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư

pháp; Thẩm phán là người được Chủ tịch nước bổ nhiệm làm nhiệm vụ xét xử.

Trong việc bổ nhiệm những chức danh trên, năng lực chuyên môn luôn là một

trong những tiêu chí hàng đầu. Đối với Điều tra viên, năng lực chuyên môn được

thể hiện qua trình độ cử nhân (đại học An ninh, đại học Cảnh sát hoặc cử nhân

luật trở lên), đã được đào tạo về nghiệp vụ Điều tra, có thời gian làm công tác

pháp luật nhất định. Đối với Kiểm sát viên thể hiện qua trình độ cử nhân luật trở

lên, đã được đào tạo nghiệp vụ kiểm sát và có thời gian làm công tác thực tiễn

nhất định. Đối với Thẩm phán là trình độ cử nhân luật trở lên, đã được đào tạo

nghiệp vụ xét xử và có thời gian công tác thực tiễn pháp luật nhất định. Tùy thuộc

mỗi cấp mà thời gian công tác thực tiễn lại có sự đòi hỏi thời hạn khác nhau. Có

thể nói, năng lực chuyên môn của người định tội danh là điều kiện quan trọng

hàng đầu cho cơ sở định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác một cách chính xác. Chỉ khi người định tội có năng lực

chuyên môn vững vàng, nắm vững được những lý luận về định tội danh thì hoạt

động này mới đạt được hiệu quả, xử lý đúng người, đúng tội, không làm oan người

vô tội, không bỏ lọt tội phạm.

24

Trong thực tế, các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác rất đa dạng, muôn hình muôn vẻ, chính vì vậy bên cạnh

những kiến thức chuyên môn được học tập và trau dồi thường xuyên, việc bổ

nhiệm các chức danh trên còn đòi hỏi thời gian công tác thực tiễn của những người

định tội danh, bởi lẽ chỉ khi được trải nghiệm tiếp xúc và học hỏi được kinh

nghiệm từ thực tiễn, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán mới có thể vận dụng

một cách linh hoạt, đúng đắn các quy định của pháp luật hình sự trong việc xác

định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác đối với người bị buộc tội.

Bên cạnh đó, đạo đức nghề nghiệp của người định tội danh cũng là một cơ

sở quan trọng. Đạo đức nghề nghiệp có ảnh hưởng không nhỏ đến việc định tội

danh đúng hay sai. Nếu trong việc thực hiện nhiệm vụ định tội danh, Điều tra

viên, Kiểm sát viên, Thẩm phẩn chỉ làm việc qua loa, thiếu trách nhiệm, thái độ

thờ ơ, không quan tâm đến chất lượng công việc làm bỏ sót các tình tiết, sự kiện

quan trọng dẫn đến việc định tội danh sai. Bên cạnh đó, thái độ làm việc vô tư,

khách quan cũng là yếu tố cần thiết trong phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Nếu

người định tội danh để cảm xúc cá nhân chi phối việc thực hiện hoạt động này

cũng dễ dẫn đến việc định tội danh sai. Chính vì vậy, quá trình xác định một hành

vi có phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

hay không, người định tội bên cạnh năng lực chuyên môn của mình, họ còn phải

đặt toàn bộ trách nhiệm của mình vào việc thực hiện hoạt động định tội danh, ý

thức được rằng mình là người nhân danh Nhà nước để xác định một người có tội

hay không có tội từ đó thực hiện nghiêm túc, cẩn trọng trong việc thực hiện định

tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

1.3.2.2. Xuất phát từ thực tiễn áp dụng pháp luật về định tội danh

Mục đích chính của việc giải quyết vụ án hình sự nói chung, tìm ra hành vi

phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, định tội danh đúng là nhằm chủ động

phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công

minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người

25

vô tội, hướng tới mục đích “góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi

ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự

pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp

luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Để xác định sự thật khách quan trong vụ án hình sự, cần thiết phải có đầy

đủ các yếu tố, chứng cứ ở nhiều khía cạnh khác nhau, trên cơ sở đó mới đánh giá,

nhìn nhận toàn diện các tình tiết trong vụ án. Việc giải quyết một vụ án hình sự

sẽ không bảo đảm tính chính xác, khách quan ngay từ đầu khi chúng ta không

định tội danh đúng đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Khi đó, trong các

hoạt động tố tụng sẽ mang nặng ý chí chủ quan của các chủ thể tiến hành tố tụng.

Họ chỉ chú ý đến việc thu thập các chứng cứ buộc tội với tội danh đã xác định từ

ban đầu, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử của

các cơ quan tiến hành tố tụng dẫn đến tình trạng làm oan người không có tội hoặc

bỏ lọt tội phạm; xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, xã hội và

công dân.

Khi người có thẩm quyền định tội danh thực hiện hoạt động này, họ chỉ căn

cứ vào các dấu hiệu pháp lý về cấu thành tội phạm tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định trong BLHS để thực hiện

việc so sánh, đánh giá với sự việc phạm tội thực tế. Không những vậy, để xác định

chính xác tội danh thuộc điểm, khoản, điều nào của BLHS, người định tội cũng

chỉ áp dụng các quy định tại phần chung của BLHS để định tội danh như việc

chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, đồng phạm, hình phạt, án treo…

Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, Điều tra viên thay mặt Cơ

quan điều tra tiến hành hoạt động định tội danh và kết quả của hoạt động này là

bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra. Trong giai

đoạn truy tố, thẩm quyền định tội danh thuộc về Viện kiểm sát do Kiểm sát viên

thay mặt thực hiện với kết quả là quyết định truy tố bằng bản cáo trạng hoặc quyết

định đình chỉ vụ án. Trong giai đoạn xét xử, Thẩm phán, Hội đồng xét xử nhân

dân Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện việc định tội danh,

26

kết quả của hoạt động này là bản án kết tội hoặc tuyên không có tội đối với bị cáo

bị nghi ngờ thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hai cho sức khỏe

của người khác.

Ngoài ra, để hỗ trợ cho việc định tội danh tội phạm tội cố ý gây thương tích,

nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban hành nhằm hướng dẫn cũng như giải

thích nội dung các quy phạm pháp luật hình sự và tố tụng hình sự hiện hành: Nghị

quyết của Quốc hội, của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Công văn

hướng dẫn nghiệp vụ của ngành Công an, Kiểm sát, Tòa án; Thông tư liên tịch

giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc giữa các cơ quan này với các

cơ quan chuyên môn khác,… Cần phải nhận thức rõ, các văn bản này mang tính

chất hỗ trợ, giúp đỡ cho người định tội có thể hiểu đúng nội dung mà pháp luật

quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác, không sử dụng các nội dung của các văn bản này nhằm thay thế cho BLHS

hay BLTTHS.

Tóm lại, cơ sở thực tiễn của định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác thể hiện ở chính chủ thể thực hiện hoạt động

này cũng như hệ thống văn bản pháp lý thể hiện được cơ sở lý luận của quá trình

định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác. Giữa cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của định tội danh tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có mối quan hệ chặt chẽ với

nhau. Trong đó, cơ sở lý luận là tiền đề cho cơ sở thực tiễn thực hiện việc xác

định có hay không một hành vi phạm tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho

sức khỏe của người khác thì cơ sở thực tiễn là khả năng định tội danh đúng hay

sai dựa trên nội dung khoa học luật hình sự về định tội danh của cơ sở lý luận.

Nói cách khác, cơ sở lý luận là nội dung bên trong của định tội danh còn cơ sở

thực tiễn là khả năng thực hiện nội dung đó ra thế giới khách quan. Việc định tội

danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chỉ

thực sự chính xác, có hiệu quả và hợp pháp khi đảm bảo đồng thời cả hai cơ sở

này.

27

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác là hoạt động áp dụng pháp luật, mang tính quyền lực nhà nước do cơ

quan, người có thẩm quyền thực hiện trên cơ sở các chứng cứ có liên quan đến

các tình tiết, sự kiện thực tế của vụ án để phân tích, đối chiếu, so sánh và kết luận

sự chính xác giữa hành vi của một người có năng lực trách nhiệm hình sự cố ý

thực hiện nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

một cách trái pháp luật được Bộ luật Hình sự quy định với các tình tiết, sự kiện

đã diễn ra trên thực tế, qua đó làm tiền đề để quyết định những vấn đề khác trong

việc xử lý tội phạm.

Với ý nghĩa quan trọng như vậy, hoạt động định tội danh tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cần phải được thực

hiện một chính xác và hiệu quả. Trong đó, vai trò của những người định tội hay

cụ thể là các cá nhân được bổ nhiệm giữa các chức danh Điều tra viên, Kiểm sát

viên, Thẩm phán phải nhân danh Nhà nước, thực hiện quyền lực Nhà nước định

tội một người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác là cực kỳ quan trọng nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội này đều

phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng

pháp luật, không làm oan người vô tội cũng như không để bỏ lọt tội phạm.

Trên cơ sở nghiên cứu, trong Chuong 1 của Luận văn đã làm rõ một số vấn

đề sau:

- Xây dựng khái niệm định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác.

- Xác định được những đặc điểm của khái niệm định tội danh tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

- Xác định được ý nghĩa của hoạt động định tội danh tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

- Xây dựng cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của định tội danh tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

28

CHƯƠNG 2

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ ĐỊNH TỘI

DANH TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI

CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về định tội danh tội cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác

2.1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự

Việt Nam về định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác

2.1.1.1. Giai đoạn từ tháng 8/1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự

năm 1985

Năm 1945, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, Nhà

nước non trẻ ngay lập tức phải đối mặt không những là việc chống thực dân Pháp

xâm lược mà còn nhanh chóng ổn định tình hình xã hội tại miền Bắc. Trong đó,

đi cùng với việc giải quyết các vấn đề quan trọng như kinh tế, dân sinh của đất

nước thì việc xử lý tội phạm cũng có vai trò quan trọng trong việc bình ổn xã hội,

ứng phó với tình hình đó, Nhà nước đã ban hành nhiều Sắc lệnh để trấn áp tội

phạm.

Tuy nhiên, trong tình hình cấp bách, các văn bản pháp luật nói chung cũng

như các văn bản pháp luật về hình sự chưa thực sự tỏ ra hiệu quả do không đáp

ứng được sự đa đạng của xã hội. Vì vậy, ngay sau khi thành lập, Nhà nước đã

quyết định tạm thời giữ lại các luật lệ cũ không mâu thuẫn với chế độ mới, không

trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt nam dân chủ cộng hòa trong đó có Luật

hình An Nam (ở Bắc bộ), Hoàng Việt hình luật (ở Trung bộ) và Hình luật pháp tu

chính (ở Nam bộ).13

13 Chủ tịch chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Sắc lệnh của Chủ tịch chính phủ lâm thời số 47 ngày 10 tháng 10 năm 1945, Hà Nội, 1945.

29

Trong thời gian này, ban đầu việc xét xử những vụ án hình sự thường do

Ủy ban nhân dân đảm nhiệm. Sau đó, đến ngày 24/01/1946 theo sắc lệnh số 13,

các vụ án hình sự do “Tòa án thường” xét xử với sự tham gia của phụ thẩm nhân

dân, về sau “Tòa án thường” đổi tên thành “Tòa án nhân dân”14. Như vậy, thuở

sơ khai của Nhà nước, chưa có những quy định cụ thể về điều tra, truy tố, xét xử

vì vậy có thể hiểu Tòa án được coi là những chủ thể đầu tiên thực hiện việc định

tội danh.

Ngày 19/01/1955, Chính phủ lâm thời ban hành thông tư số 442-TTg quy

định về việc trừng trị một số tội phạm. Đây cũng là văn bản chính thức đầu tiên

của Nhà nước ta quy định về tội cố ý gây thương tích. Trong đó quy định rằng:

“- Đánh bị thương: phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm.

- Đánh bị thương có tổ chức hoặc gây thành cố tật hay chết người có thể bị

phạt đến 20 năm.”15

Quy định này được áp dụng tại Miền Bắc đến năm 1976. Tuy chỉ đề cập

đến việc “đánh bị thương” nhưng đã thấy được sự tiến bộ trong việc lập pháp của

Nhà nước ta, từng bước tiếp cận với tiến bộ khoa học trong việc lập pháp hình sự.

Đồng thời, năm 1958, Quốc hội cũng đã thông qua việc thành lập Tòa án

nhân dân tối cao và hệ thống các tòa án địa phương, Viện công tố trung ương cùng

hệ thống viện công tố cao cấp. Như vậy, thời điểm này việc định tội danh tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phần nào đã được

quy định trong các văn bản pháp luật chính thức.

Cụm từ “Cố ý gây thương tích” lần đầu được đề cập tại Công văn số

452/HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối cao nhằm phân biệt giữa tội giết

người với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Tuy nhiên, thời gian này vẫn chưa một văn bản chính thức nào sử dụng cụm từ

“cố ý gây thương tích” để xác định tội phạm và hình phạt.

14 Chủ tịch chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Sắc lệnh của Chủ tịch nước số 13 ngày 24 tháng Giêng năm 1946, Hà Nội, 1946. 15 Thủ tướng Chính phủ, Thông tư của Thủ tướng Chính phủ số 442-TTg ngày 19-1-1955 về trừng trị một số tội phạm, Hà Nội, 1955.

30

Đến sau khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng, để đảm bảo tình hình

trật tự xã hội tại miền Nam, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa

miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc lệnh số 03/SL ngày 15/3/1976 quy định về

tội phạm và hình phạt trong đó có đề cập: “Phạm tội cố ý gây thương tích thì bị

phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì phạt tù đến 10 năm;

Phạm tội cố ý gây thương tích nặng thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm, trường

hợp gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm.”16 Ngoài ra, khái niệm

tội cố ý gây thương tích cũng lần đầu tiên được giải thích tại Thông tư số 03-

BTP/TT ngày 20/40/1976 của Bộ Tư pháp Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng

hòa miền Nam Việt Nam:

“Cố ý gây thương tích là hành vi cố ý xâm phạm đến thân thể người khác

với ý định làm cho thân thể người đó tổn thương. Trong tội cố ý gây thương tích,

bị cáo chỉ có ý định làm cho người khác bị thương mà không hề có ý định cũng

như không hề mong muốn làm cho nạn nhân chết. Có trường hợp tuy bị cáo chỉ

cố ý gây thương tích, nghĩa là chỉ có ý định làm cho người khác bị thương, nhưng

do vết thương quá nặng nên đã làm cho nạn nhân chết. Trường hợp này không

coi là tội cố ý giết người mà vẫn coi là tội cố ý gây thương tích, nhưng là trường

hợp cần xử lý nặng”.17

Như vậy, đến năm 1976, tội cố ý gây thương tích chính thức được pháp luật

thừa nhận là một tội phạm.

Bên cạnh đó, giai đoạn này, về mặt pháp luật tố tụng vẫn chưa có nhiều sự

cải tiến về mặt lập pháp. Hiến pháp năm 1980, Luật tổ chức tòa án và tổ chức viện

kiểm sát nhân dân năm 1981 cũng chỉ giúp góp phần khắc phục tạm thời những

hạn chế trong việc giải quyết vụ án hình sự trước đây.

Như vậy, quy định về định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác giai đoạn này còn đơn giản chưa có những quy

định rõ ràng về tội phạm và cách thức xử lý tội phạm này. Bên cạnh đó, tội gây

16 Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập II (1975 – 1978) TANDTC xuất bản năm 1979. 17 Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập II (1975 – 1978) TANDTC xuất bản năm 1979.

31

tổn hại cho sức khỏe của người khác chưa được thừa nhận một cách chính thức.

Chính vì vậy, đòi hỏi cấp bách phải có một văn bản pháp luật chính thức để quy

định rõ ràng và cụ thể việc định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác nhằm đáp ứng cho tình hình xã hội đang bất ổn tại

thời điểm hiện tại.

2.1.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến trước khi

ban hành Bộ luật hình sự năm 2015

Để đáp ứng nhu cầu cấp bách của xã hội lúc bấy giờ, ngày 27/6/1985 Quốc

hội khóa VII đã thông qua BLHS đầu tiên của nước ta. Trong đó các tội xâm phạm

tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người được quy định tại

Chương 2 và quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác được quy định tại Điều 109 như sau:

“1- Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của

người khác thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba

tháng đến ba năm.

2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai

năm đến bảy năm:

a) Gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại nặng cho sức khoẻ của người

khác;

b) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

c) Có tính chất côn đồn hoặc tái phạm nguy hiểm;

3- Phạm tội gây cố tật nặng dẫn đến chết người hoặc trong trường hợp đặc

biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm.

4- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định ở điểm a khoản 2, ở

khoản 3 Điều này mà do bị kích động mạnh vì hành vi trái pháp luật nghiêm trọng

của nạn nhân hoặc trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì

32

bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng

đến hai năm.”18

Như vậy, lần đầu tiên tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác được công nhận là một tội phạm của pháp luật hình sự Việt

Nam trong một văn bản pháp lý thống nhất, bên cạnh đó, cũng là lần đầu tiên tội

cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được đề cập đến và cũng thể hiện

được sự tiến bộ trong việc lập pháp khi quy định cả 2 tội này trong cùng một điều

luật. Ngoài ra, Điều 109 cũng đưa ra nhiều tình tiết là định khung tăng nặng cũng

phần nào giúp cho việc áp dụng với thực tế dễ dàng hơn, nhất là trong việc định

tội danh. Để việc định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

của người khác được thuận lợi, Tòa án nhân dân tối cao cũng đã ban hành nhiều

văn bản hướng dẫn nhằm giải thích tội phạm này như Nghị quyết số 04/HĐTP

ngày 29/11/1986; Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ ngày 19/4/1989 của Hội đồng

Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Công văn số 03-TATC ngày 22/10/1987;

Công văn số 311/HS ngày 04/4/1989 của Tòa án nhân dân tối cao.

Bước đầu, các quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác đã phần nào đáp ứng được công cuộc đấu tranh, phòng

chống tội phạm, để tiếp tục hoàn thiện hơn ngày 28/12/1989 Luật số 30-

LCT/HĐNN8 được thông qua nhằm sửa đổi một số điều của BLHS 1985 trong

đó có Điều 109 như sau: “Gây thương tích cho nhiều người hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của nhiều người”. Đồng thời cũng bổ sung vào khoản 3 như sau: “Phâm

tội gây cố tật nặng, dẫn đến chết người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm

trọng khác thì bị phạt tù từ 5 năm đến 20 năm”19.

Trong những lần sửa đổi, bổ sung BLHS 1985 năm 1991, 1992, 1997 nội

dung tội phạm này tại Điều 109 không có sự thay đổi gì đã cho thấy sự phù hợp

của quy định về tội phạm này tại BLHS 1985 đã phù hợp với tình hình thực tế

khách quan, là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc định tội danh tội phạm này.

18 Quốc hội, Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội, 1985, Điều 109. 19 Quốc hội, Luật số 30-LCT/HĐNN8 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự, Hà Nội, 1989, Điều 1. 33

Để tiếp tục đảm bảo sự phù hợp trên, BLHS 1999 ra đời với nhiều điểm

mới trong kỹ thuật lập pháp của Nhà nước ta. BLHS 1999 có nhiều sự thay đổi

đáng kể, nhiều tội phạm được quy định hơn, đồng thời các tội phạm đã được quy

định tại BLHS 1985 cũng được sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp với thời đại phát

triển mới của đất nước. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác đã được tách thành 03 tội độc lập bao gồm: Tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104); Tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh (Điều 105); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe cho người khác do vượt qua giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106).

Như vậy, nội hàm của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác đã được giới hạn lại, giúp cho việc định tội danh được thực hiện một

cách chính xác hơn cũng như việc quyết định hình phạt phù hợp với tính chất mà

mức độ nguy hiểm cho xã hội hơn.

Điều 104 BLHS 1999 quy định như sau:

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một

trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc

phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều

người;

b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người

khác không có khả năng tự vệ;

đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Có tổ chức;

g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện

pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

34

h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một

trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều

này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà

tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%,

nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm

k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt

nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung

thân.”20

Như vậy, so với BLHS 1985 thì Điều 104 BLHS 1999 đã có sự thay đổi

trong việc quy định về tội phạm này, xác định rõ tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là một tội cấu thành vật chất nhằm phân

biệt giữa một hành vi phạm tội với một hành vi vi phạm hành chính thông thường

thông qua lượng tỷ lệ phần trăm thương tật của nạn nhân.

Đến ngày 19/06/2009, BLHS 1999 tiếp tục được sửa đổi, bổ sung tuy nhiên

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác không sửa

đổi, bổ sung nội dung gì.

Về phần tố tụng hình sự, với sự ra đời của các BLHSđã tạo ra cơ sở lý luận

vững chắc trong việc định tội danh, vì vậy để đảm bảo cho sự định tội danh nhanh

chóng, chính xác và hợp pháp BLTTHS năm 1988, năm 2004 ra đời tạo ra cơ sở

pháp lý gián tiếp cho việc định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác. Trong đó, quan trọng nhất là quy định trình tự khởi

20 Quốc hội, Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội, 1999, Điều 104.

35

tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự và quy định cụ thể thẩm quyền của từng

cơ quan trong từng giai đoạn tố tụng. Qua đó, cũng đã xác định rõ ràng hơn chủ

thể thực hiện việc định tội danh trong từng giai đoạn của tố tụng hình sự. Đồng

thời là những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự làm cơ sở thuận lợi

hơn cho các chủ thể có thể xác định những vấn đề cần thiết cho việc định tội danh.

Ngoài ra, BLTTHS cũng đặt ra chế định khởi tố theo yêu cầu của bị hại – là một

chế định thể hiện tư duy lập pháp tiến bộ, phần nào giảm bớt tình trạng bất ổn

trong xã hội. Trong đó, khoản 1 của Điều 109 BLHS 1985, khoản 1 Điều 104

BLHS 1999 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác là một trong những tội chỉ khởi tố khi có yêu cầu của bị hại.

2.1.2. Định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành

Ngày 27/11/2015, Quốc hội khóa XII thông qua BLHS 2015 đánh dấu một

cột mốc mới trong lịch sự phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam, tuy nhiên,

chưa có hiệu lực thi hành thì BLHS 2015 đã phải thực hiện việc sửa chữa, bổ sung

nhằm khắc phục những sai sót của Bộ luật này. Ngày 20/6/2017, Quốc hội một

lần nữa thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số

100/2015/QH13.

Tiếp tục kế thừa những quy định tại Điều 104 BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung

năm 2009, Điều 134 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 vẫn giữ nguyên việc

chia định mức tỷ lệ thương tật thành 4 mức là dưới 11%, từ 11% đến 30%, từ 31%

đến 60%, trên 61% nhưng khác với chỉ có 4 khoản tại Điều 104, Điều 134 chia ra

6 khoản với một số điểm mới sửa đổi và bổ sung để hoàn thiện hơn những quy

định này.

Việc chia định mức tỷ lệ thương tật thành 4 mức như trên nhằm xác định

rõ hơn tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Xét về hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác thì hiện nay ngoài khái niệm tại Thông tư số 03-BTP/TT ngày

36

20/40/1976 của Bộ Tư pháp Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam

Việt Nam về hành vi cố ý gây thương tích thì đến nay ngay cả tại Điều 134 cũng

chưa đưa ra được khái niệm cụ thể về hành vi khách quan của tội phạm này cũng

như không liệt kê cụ thể hình thức thể hiện.

Khoản 1 Điều 134 với khung hình phạt được quy định cải tạo không giam

giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm là tội phạm ít nghiêm trọng,

khoản này cũng là cấu thành tội phạm cơ bản của tội phạm này. Căn cứ vào chia

định mức tỷ lệ thương tật trong nội dung khoản này được chia thành 02 định mức.

Với người thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác mà gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội là tỷ lệ tổn thương

cơ thể từ 11% đến 30% thì sẽ chịu trách nhiệm hình sự theo khoản này.

Với người thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% chỉ phải chịu trách

nhiệm hình sự khi có những tình tiết được quy định trong 10 tình tiết của khoản

này:

- Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng

gây nguy hại cho nhiều người;

- Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

- Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm

đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

- Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng,

chữa bệnh cho mình;

- Có tổ chức;

- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

- Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt

tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang

chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc,

đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

37

- Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;

- Có tính chất côn đồ;

Quy định này nhằm xác định ranh giới giữa trách nhiệm hình sự và trách

nhiệm hành chính. Những trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác có tỷ lệ thương tật dưới 11% và không thuộc các trường hợp

nêu trên thì không cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác theo Điều 134 mà chỉ bị xử lý vi phạm hành chính theo quy

định.

Các khoản 2, 3, 4 ,5 được coi là cấu thành tăng nặng của tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khi có những tình tiết định

khung tăng nặng như: chết người, chết nhiều người hoặc trường hợp đặc biệt

nghiêm trọng khác được sắp xếp theo tính tăng dần về tính chất, mức độ nguy

hiểm như sau:

+ Tỷ lệ thương tật từ 31% đến 61% hoặc thương tật từ 11% đến 30% nhưng

thuộc trường hợp trong 10 tình tiết vừa nêu trên; gây thương tật cho 02 người trở

lên mà của mỗi người từ 11% đến 30%; Phạm tội 02 lần trở lên; Tái phạm nguy

hiểm thì có khung hình phạt từ 02 năm đến 06 năm được quy định tại khoản 2

Điều 134 (tội phạm nghiêm trọng);

+ Tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên nhưng không làm biến dạng vùng mặt;

gây thương tật cho 02 người trở lên mà tỷ của mỗi người từ 31% đến 60%; thương

tật từ 31% đến 60% hoặc thương tật cho 02 người mà tỷ lệ của mỗi người từ 11%

đến 30% nhưng thuộc trường hợp trong 10 tình tiết vừa nêu trên hoặc thì có khung

hình phạt từ 05 năm đến 10 năm được quy định tại khoản 3 Điều 134 (tội phạm

rất nghiêm trọng);

+ Làm chết người; thương tật từ 61% trở lên làm biến dạng vùng mặt của

người khác hoặc gây thương tật cho 02 người trở lên mà thương tật của mỗi người

61% trở lên; thương tật từ 61% trở lên hoặc gây thương tật cho 02 người trở lên

mà tỷ lệ của mỗi người từ 31% đến 60% và thuộc 1 trong 10 tình tiết nêu trên thì

38

bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm được quy định tại khoản 4 Điều 134 (tội phạm

rất nghiêm trọng);

+ Làm chết 02 người trở lên; gây thương tật cho 02 người trở lên mà mỗi

người từ 61% trở lên và thuộc 01 trong 10 tình tiết nêu trên thì bị phạt tù từ 12

năm đến 20 năm hoặc tù chung thân được quy định tại khoản 5 Điều 134 (tội

phạm đặc biệt nghiêm trọng);

Có một số tình tiết như “dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc

thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người”, “đối với thầy giáo, cô giáo

của mình” được giải thích cụ thể trong Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày

17/04/2003 và Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng

thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong đó hung khí nguy hiểm là trường hợp

dùng vũ khí (là các loại vũ khí được Chính phủ quy định cụ thể) hoặc phương tiện

nguy hiểm (là công cụ, dụng cụ được chế tạo nhằm phục vụ cho cuộc sống của

con người (trong sản xuất, sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra nhằm

làm phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên hoặc vật đó

tấn công người khác sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khỏe của người bị

tấn công như búa đinh, dao phay, gạch, đá, thanh sắt,…); nạn nhân là thầy giáo,

cô giáo là người đã hoặc đang làm công tác giảng dạy theo biên chế hoặc theo hợp

đồng tại cơ quan, tổ chức có chức năng giáo dục, đào tạo, dạy nghề được cơ quan

nhà nước có thẩm quyền cho phép có nhiệm vụ thực hiện việc giáo dục, đào tạo,

dạy nghề đối với người phạm tội, không phân biệt nhiệm vụ đó đã được thực hiện

hay đang được thực hiện và không kể thời gian dài hay ngắn. 02 tình tiết “dùng

a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm” và “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” là

tình tiết mới được thêm vào tại khoản 1 Điều 134.

Thêm vào đó, Điều 134 BLHS đã bổ sung thêm quy định về việc chuẩn bị

phạm tội. Theo đó, người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm,

a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm

nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt

cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

39

Về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, về nguyên tắc người từ đủ 16 tuổi trở lên

chịu trách nhiệm hình sự về tất cả các khoản tại Điều 134 BLHS. Tuy nhiên, khác

với Điều 104 BLHS 1999 khi người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách

nhiệm hình sự ở tất cả các khoản, thì theo quy định tại Điều 12 BLHS 2015, người

từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo khoản 4,5 của

Điều 134 BLHS 2015.

Để đảm bảo việc định tội danh, ngày 27/11/2015 BLTTHS năm 2015 đã

được thông qua nhằm tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho các cơ quan có thẩm

quyền tiến hành tố tụng có thể xử lý tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương

tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng.

BLTTHS năm 2015 đã tiếp tục ghi nhận những tích cực của BLTTHS 2003

đồng thời cũng đã sửa đổi, bổ sung những hạn chế, vướng mắc còn tồn động nhằm

tạo ra những quy định ưu việt nhất. BLTTHS 2015 quy định cụ thể quá trình tiếp

nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ

án hình sự một cách chặt chẽ và logic với nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan

trong từng giai đoạn được quy định cụ thể. Là một tội phạm nói chung, việc định

tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

cũng được tiến hành theo thủ tục chung của BLTTHS. Tuy vậy do đặc thù về loại

tội phạm này mà có những quy định của BLTTHS quy định có liên quan trực tiếp

đến việc định tội danh tội phạm này.

Việc khởi tố theo yêu cầu của người bị hại tại Điều 155 BLTTHS 2015 tiếp

tục kế thừa những quy định trước đó của các văn bản quy phạm pháp luật trước,

theo đó việc khởi tố vụ án hình sự với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác mà có hậu quả thương tật từ 11% đến dưới 30%

hoặc dưới 11% và có một trong 10 tình tiết đã nêu ở trên chỉ được thực hiện khi

có đơn yêu cầu khởi tố của người bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người

dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

40

Bên cạnh đó, một trong những chứng cứ quan trọng nhất trong hoạt động

định tội danh tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác là tỷ lệ tổn thương cơ thể của bị hại được quy định là những vấn đề

bắt buộc phải được trưng cầu giám định (Điều 206 của BLLTHS 2015), khi thực

hiện việc định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác thì người định tội phải thực hiện trưng cầu bắt buộc đây là quy định

bắt buộc nhằm tránh tình trạng thiếu trách nhiệm của người định tội. Ngoài ra,

nhằm đảm bảo cho việc giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể BLTTHS cũng quy định

về biện pháp cưỡng chế là dẫn giải đối với người bị hại trong trường hợp họ từ

chối việc giám định theo quyết định trưng cầu giám định mà không có lý do bất

khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan. Quy định này đồng thời cũng là

điểm mới của BLTTHS 2015 nhằm đảm bảo cho hoạt động định tội danh tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng và định

tội danh tội phạm nói chung được bảo đảm.

2.2. Thực tiễn định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hà Nội

Thành phố Hà Nội là trung tâm kinh tế của khu vực miền Bắc nói riêng và

của cả nước nói chung, đi cùng với sự khởi sắc của tình hình kinh tế, chính trị, xã

hội ở các quận, huyện tại thành phố thì tình hình tội phạm trên trong địa phương

vẫn đã và đang diễn biến theo chiều hướng phức tạp hơn. So với các tỉnh thành

khác trong cả nước thì tình hình tội phạm ở thành phố Hà Nội luôn nằm ở mức

cao với tính chất, mức độ của tội phạm cực kỳ nguy hiểm, đặc biệt là trong các

lĩnh vực tội phạm tham nhũng, kinh tế, ma túy.

Trước tình hình phức tạp trên, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã triển

khai nhiều công tác nhằm chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ với liên ngành các cơ quan

như Công an, Tòa án, Viện kiểm sát trong việc tấn công trấn áp tội phạm, đảm

bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm việc tăng cường phát triển kinh tế của

thành, đấu tranh quyết liệt với các loại tội phạm, kiềm chế sự gia tăng của các tội

phạm phổ biến trong đó có tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác.

41

Trong đó, được sự chỉ đạo của TAND tối cao cũng như kế hoạch phối hợp

công tác với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, hoạt động xét xử của TAND hai

cấp thành phố Hà Nội luôn được quan tâm và chú trọng. Nhìn chung, hoạt động

xét xử của TAND hai cấp thành phố Hà Nội đã phần nào giúp cho tình hình an

ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương được ổn định hơn.

2.2.1. Những kết quả đạt được

Trên địa bàn thành phố Hà Nội các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác luôn chiếm một tỷ lệ nhất định trong

tổng số các vụ án hình sự và luôn là tội phạm phổ biến gây ra sự khó khăn, nhức

nhối trong xã hội.

Bảng 2.1. Số vụ án/ bị cáo về tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích

hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng đã được giải quyết trên

địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020

Tội cố ý gây

thương tích hoặc

Tội phạm gây tổn hại cho sức Tỷ lệ Năm khỏe của người

khác

Số vụ án Số bị cáo Số vụ án Số bị cáo Số vụ án Số bị cáo

2016 3908 9749 656 6,73% 6,72% 263

2017 4892 10995 929 7,30% 8,45% 357

2018 5956 13027 1173 6,97% 9,01% 415

2019 6672 13274 1310 8,42% 9,87% 562

2020 8741 15344 1566 7,42% 10,21% 649

5634 7,51% 9,07% Tổng 29899 62119 2246

(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2016 đến năm 2020 của Tòa án nhân

dân thành phố Hà Nội).

Theo số liệu thống kê kể trên, TAND hai cấp thành phố Hà Nội đã đưa ra

xét xử tổng số 29899 vụ án/10.587 bị cáo. Trong đó, các vụ về cố ý gây thương

42

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là 2246 vụ án (chiếm 7,51%)

và 5634 bị cáo (chiếm 9,07%). Có thể thấy, số lượng vụ án đã giải quyết về tội cố

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho người khác chiếm một tỷ lệ

lớn ở địa bàn thành phố Hà Nội (sau nhóm tội phạm về ma túy, tội phạm xâm

phạm quyền sử hữu). Cũng xét tương quan theo số liệu thống kê kể trên, có thể

thấy số vụ án/ bị cáo về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác đang có chiều hướng gia tăng nhanh chóng thời gian qua và chắc

chắn sẽ tiếp tục gia tăng trong thời gian tới.

Bảng 2.2. Số vụ án sơ thẩm và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác đã thụ lý và giải quyết trên địa bàn thành phố

Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn Sơ thẩm hại cho sức khỏe của người khác Năm Thụ Đã giải Tỷ lệ Thụ lý Đã giải quyết Tỷ lệ lý quyết

2016 4094 3908 95,41% 263 263 100%

2017 4975 4892 98,33% 355 357 99,44%

2018 6104 5956 97,56% 413 415 99,44%

2019 6601 6672 98,94% 561 562 99,82%

2020 8907 8741 98,14% 639 649 98,46%

Tổng 30681 29899 97,45% 2231 2246 99,33%

(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2016 đến năm 2020 của Tòa án nhân

dân thành phố Hà Nội).

Qua bảng trên có thể nhận thấy, tỷ lệ án hình sự sơ thẩm đã giải quyết theo

thẩm quyền đạt tương đối cao (97,45%), trong đó chủ yếu nhất là án thuộc thẩm

quyền giải quyết sơ thẩm của Tòa án cấp huyện. Chẳng hạn trong năm 2020, Tòa

án cấp huyện đã thụ lý theo thủ tục sơ thẩm 7.121 vụ/12.460 bị cáo; đã giải quyết,

xét xử 7.064 vụ/12.253 bị cáo. TAND thành phố Hà Nội đã thụ lý sơ thẩm 693

vụ/1.859 bị cáo, đã giải quyết 620 vụ/1.542 bị cáo.

43

Còn riêng đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác, TAND hai cấp thảnh phố Hà Nội luôn đảm bảo gần như tuyệt đối

các vụ án đã thụ lý được giải quyết hoặc đưa ra xét xử. Việc này thể hiện trách

nhiệm cao của từng cán bộ ngành Tòa án trong các đơn vị trong việc xử lý loại tội

phạm này nhanh chóng.

Như vậy, nhìn chung chất lượng định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong thời gian qua của hai cấp Tòa án thành

phố Hà Nội luôn đảm bảo, đã phối hợp chặt chẽ với Công an, Viện kiểm sát các cấp

tổ chức xét xử các vụ án hình sự đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,

không kết án oan người không phạm tội và bỏ lọt tội phạm tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; các quyết định trả hồ sơ điều tra bổ

sung đều có căn cứ pháp luật; Hình phạt các Tòa án áp dụng đối với các bị cáo đảm

bảo nghiêm minh, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Việc xử

phạt tù nhưng cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ đúng quy định của pháp

luật và hướng dẫn, chị thị của ngành Tòa án. Hầu hết các vụ án hình sự đều đảm bảo

tác dụng trừng phạt, giáo dục, răn đe, tuyên truyền phổ biến pháp luật góp phần tình

hình chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

Ví dụ 1: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 26/02/2018, Phạm Xuân T được bạn

là Nguyễn Văn T1 rủ đi ăn cơm tại nhà anh Lê Bá T2. Khoảng 21 giờ 30 phút sau

khi ăn cơm xong, anh T2 rủ T1, T và Lê Minh Đ đi hát Karaoke tại quán Dubai,

địa chỉ: số 189 đường bờ song Q, quận C, Hà Nội. Tại phòng số 202, sau khi hát

được khoảng 20 phút, anh T gọi thêm một số bạn đến hát cùng gồm: Đàm Văn

T3, Vũ Thị M, Bùi Tiến V. Quá trình ngồi hát, anh T2 và anh T3 thấy T uống

nhiều nên bảo T đi về trước, T cũng có lời nói không đúng mực với anh T2 dẫn

đến hai bên cãi vã nhau. T dùng tay gạt cốc thủy tinh uống bia để trên bàn vào

người anh T3 nhưng anh T3 tránh được nên chiếc cốc trúng vào trán chị M đang

ngồi bên cạnh anh T3. Khi đó, T bị ai đó dùng vỏ chai bia đập từ phía sau đầu làm

T ngã xuống nền gạch của phòng hát. T vùng dậy dùng vỡ chai bia xông đến đập

vào đầu, vào tay anh T2 gây thương tích. Thấy vậy, T3, V, M bỏ chạy ra khỏi

44

phòng hát thì T cầm 02 vỏ chai bia đuổi theo. Khi chạy ra hàng lang, T thấy nhanh

viên quán karaoke là anh Nguyễn Thanh , T dùng chai bia đập trượt 02 cái vào

phần đầu anh B. Sau đó, T chạy xuống tầng 1, khi chạy đến chiếu nghỉ tầng 1, T

thấy có khoảng 05 thanh niên (không rõ lai lịch), T cho rằng nhóm thanh niên này

là bạn của T2 gọi đến để đánh mình nên chửi: “Đ. Mẹ bọn mày định ăn tao à”, rồi

cầm bỏ chai bịa lên dọa thì nhóm thanh niên bỏ chạy. T đuổi theo xuống tàng 1,

thấy Nguyễn Duy A là nhân viên thu ngân của quán Karaoke đang đứng trong quầy

bar và anh Trần Đức H đang trốn trong gầm quầy ba, T chửi: “Thằng chó kia đây?

Tao lôi ra đánh chết nó”. Lúc này, anh Nguyễn Duy A nói với T; “Anh ơi có gì ra

ngoài nói chuyện, đây là nơi bọn em làm việc.” Khi anh Duy A vừa nói xong thì T

chạy đến dùng vỏ chai bia đã vỡ đâm 01 nhát trúng vào má phải của anh Duy A. T

đạp vào người anh H và dùng tay túm tóc anh H kéo ra khỏi gầm quầy bar dùng tay

chân đấm đá vào người anh H. Anh H vùng bỏ chạy ra ngoài thì bị T đuổi theo đạp

vào người. T nhặt bình cứu hỏa đang để ở chân cầu thang đuổi theo đánh những

người trong quán nhưng mọi người điều bỏ chạy. T tiếp tục đi lên phòng 202 thấy

các anh T2, T3, Đ và anh Nguyễn Kiên Tr đang ngồi ở đó. Do nghĩ anh Tr là người

do T2 gọi đến đánh mình nên T lấy vỏ chai bia đập xuống mặt bàn làm vỡ 02 tấm

kính, T cầm phần cổ chai bia đâm 01 nhát trúng vùng tai phải của anh Tr. T đi

xuống tầng 1 thấy cửa đóng nên quay lại phòng 202 đưa điện thoại cho T3 yêu cầu

T3 gọi điện báo Công an. Anh Tr, T2, Duy A, chị M được đưa cấp cứu. Hậu quả:

chị Vũ Thị M bị tổn hại sức khỏe 03%; anh Nguyễn Duy A tổn hại sức khỏe 11%;

anh Lê Bá T2 bị tổn hại sức khỏe 10%; anh Nguyễn Kiên Tr tổn hại sức khỏe 39%.21

Với nội dung trên, TAND quận Cầu Giấy đã tuyên xử Phạm Xuân T phạm

tội “Cố ý gây thương tích”, áp dụng: điểm c khoản 3 Điều 134 BLHS. Xử phạt bị

cáo T 6 năm 3 tháng tù.

Nhận xét: Trong vụ án trên, TAND quận Cầu Giấy trước hết đã xác định

đúng hành vi của T là hành vi cố ý gây thương tích cho nhiều người, việc dùng

21 Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, Bản án số 176/2019/HSST ngày 22/7/2019.

45

chai bia thủy tinh vỡ đâm/tấn công người khác được coi là dùng hung khí nguy

hiểm theo điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS. Bên cạnh đó, hành vi phạm tội của T

còn cho thấy tính chất côn đồ khi có thể tấn công bất cứ ai trong quán Karaoke

theo điểm i khoản 1 Điều 134 BLHS. Như vậy nếu tính riêng tổn hại thương tật

của từng người thì hành vi của A đã cấu thành tội phạm tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 134 BLHS. Tuy nhiên,

hậu quả thương tật 39% đối với anh Nguyễn Kiên Tr là nguy hiểm cho xã hội

nhất, nên việc định tội danh của T theo điểm c khoản 3 Điều 134 là hoàn toàn phù

hợp. Về hình phạt, 6 năm 3 tháng tù đối với T là hoàn toàn phù hợp thể hiện đúng

tính chất của tội phạm rất nghiêm trọng, do đó mức hình phạt nghiêm khác trên

hoàn toàn hợp lý, cần phải cách ly T ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để

trừng trị, răn đe, phòng ngừa chung. Sau khi tuyên án sơ thẩm, T có kháng cáo

xin giảm nhẹ hình phạt nhưng TAND thành phố Hà Nội không chấp nhận kháng

cáo của bị cáo, y án sơ thẩm, qua đó cho thấy việc nhận định sự việc và quyết định

khung hình phạt của TAND quận Cầu Giấy là hoàn toàn chính xác.

Ví dụ 2: Ngày 01/7/2018, xuất phát từ việc anh Lò Văn P3 đã có hành vi

trêu ghẹo không đúng mực với chị La Thị H (là bạn gái của Cà Văn P1) dẫn đến

hai bên to tiếng, xô xát. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Cà Văn P1 hẹn gặp P3 để

nói chuyện tai khu vực ngã tư Vạn Phúc – Tố Hữu thì xảy ra xô xát, anh P3 bỏ

chạy vào ngõ 167, thuộc Tổ 10, phường Vạn Phúc thì bị Bàn Văn P2 đuổi kịp,

dùng tay trái nắm lại vung từ phải sang trái đấm một nhát vào vùng thái dương

phải khiến anh P3 đập đầu vào cửa xếp của nhà số 3 ngã ra đường. Tiếp đó P2

cùng với Lê Văn Đ dùng chân đá vào đầu, vào bụng anh P3 nhiều cái; P1 dùng

dây lưng bằng cao su giả da vụt phần dây vào vùng eo của anh P3 2 cái, vào gấy

2 cái vào đỉnh đầu 01 cái. Hậu quả, anh P3 bị thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ

thể là 49%. TAND quận Hà Đông tuyên án đối với Cà Văn P1, Bàn Văn P2, Lê

46

Văn Đ phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS với

hình phạt lần lượt là 30 tháng tù; 30 tháng tù; 24 tháng tù.22

Nhận xét: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm

hại đến sức khỏe của anh Lò Văn P3 gây mất trật tự trị an địa phương, trái với

quy định của pháp luật hình sự, với thương tích là 49% đã đủ cấu thành tội phạm

theo điểm a khoản 2 Điều 134 BLHS. Bên cạnh đó, đây là vụ án có nhiều bị cáo

tham gia nhưng hành vi của các bị cáo mang tính bộc phát, không có sự bàn bạc

trước vì vậy đây chỉ là đồng phạm giản đơn không phải là “phạm tội có tổ chức”.

Xét đến tổn thương của anh P3 chủ yếu là do bị P2 đấm mạng vào vùng thái dương

dẫn đến va đập vào cửa xếp và do bị P1 dùng dây lưng giả đánh và đầu nên mức

hình phạt của P1 và P2 là tương đương nhau, đối với Đ dù không có mâu thuẫn

với P3 cũng như không gây ra thương tích gì cho P3 nhưng Đ tham gia tích cực,

đuổi đánh P3 cùng với P2, P1 nên phải chịu hình phạt về tội cố ý gây thương tích

nhưng mức hình phạt thấp hơn với P1, P2. Như vậy, việc xác định tội danh đối

với từng bị cáo trong vụ án trên của TAND quận Hà Đông là hoàn toàn chính xác,

đúng người, đúng tội, không để bỏ lọt tội phạm.

Ví dụ 3: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 26/12/2019, P. X. T ngồi uống nước

cùng ông Nguyễn Văn Đ tại quán nước vỉa hè nhà ông P.V.C ở khu vực đối diện

số 440 Đê La Thành, phường Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội. Lúc này, T yêu cầu

ông C làm 01 cốc nước cho ông Đ thì giữa C và T có lời qua tiếng lại. Sau đó, ông

C đi ra phía sau lưng T dùng hai tay vòng từ sau qua người T và bóp vào khu vực

dương vật của T, do bị đau và bực tức nên T liền dùng tay cầm vào vành chiếc mũ

cuối đang đội trên đầu vụt 02 cái từ trước ra sau theo hướng từ trên xuống dưới

qua vai bên trái của T về phía ông C nhưng không trúng. Sau đó ông C buông tay

rồi quay về vị trí ban đầu ngồi bán nước. T liền đứng dậy đối diện với ông C, tay

phải cầm vành mũ cối rồi giơ lên cao vụt liên tiếp 02 cái hướng từ trên xuống dưới

vào khu vực đỉnh đầu bên trái của ông C thì được mọi người can ngăn nên T dừng

22 Tòa án nhân dân quận Hà Đông, Bản án số 221/2018/HSST ngày 27/11/2018.

47

lại. Ngay sau đó, T để lại chiếc mũ cối tại cửa hàng 333 Đê La Thành, phường Ô

Chợ Dừa, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội rồi đi về. Còn ông Chiến cũng dọn

hàng đi về nhà và kể lại sự việc bị T đánh cho biết rồi ông C lên giường nằm nghỉ.

Đến khoảng 18 giờ 20 phút ngày 26/12/2019, vợ ông C là bà V thấy ông C đổ mồ

hôi nhiều, lên cơn co giật, sùi bọt mép nên đã đưa ông C đi cấp cứu tại Bệnh viện

Đống Đa. Sau 40 phút cấp cứu ông Chiến đã tử vong. P. X. T bị TAND quận

Đống Đa tuyên phạt 11 năm tù về tội Cố ý gây thương tích theo điểm a khoản 4

Điều 134 BLHS.23

Nhận xét: Vụ án nêu trên có nhiều quan điểm trái chiều liên quan đến tội danh

của T giữa tội giết người hoặc cố ý gây thương tích có tình tiết tăng nặng là làm chết

người. Vì vậy, TAND quận Đống Đa cũng đã trả hồ sơ điều tra bổ sung để xác định

lại thời gian từ lúc ông C bị đánh đến lúc tử vong ông C có bị va đập vào vùng đầu

nữa hay không, ông C có mắc bệnh mãn tính nào hay không, mục đích thực hiện tội

phạm của T là gì. Bởi lẽ, theo vụ án trên T sau lần tấn công không trúng trước đó đã

tiếp tục muốn thực hiện tiếp hành vi dùng mũ cối đập vào đầu của ông C, ngoài ra

hành vi dùng mũ cối đập vào đầu (vùng có nguy cơ cao khi bị tác động có thể tử

vong) nhiều quan điểm cho rằng là hành vi thể hiện mục đích giết người hơn là hành

vi cố ý gây thương tích Tuy nhiên, sau khi có kết quả điều tra bổ sung tài liệu, chứng

cứ TAND quận Đống Đa TAND định tội danh cố ý gây thương tích dẫn đến chết

người cho T. Quan điểm cá nhân của học viên cũng đồng ý với kết luận này do T chỉ

vì bực tức mà tấn công nhằm trả đũa hành vi của C chứ không phải vì muốn giết C.

Do đó, việc xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác

dẫn đến chết người là có cơ sở.

2.2.2. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân

2.2.2.1. Những hạn chế, tồn tại

23 Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Bản án số 228/2020/HSST ngày 16/7/2020.

48

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động định tội danh tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thảnh phố

Hà Nội vẫn còn gặp những hạn chế nhất định:

Thứ nhất, vẫn còn nhiều trường hợp chưa thống nhất quan điểm trong việc

định tội danh. Thực tiễn cho thấy, nhiều quan điểm trái chiều xoay quanh việc

định tội danh giữa tội giết người và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn thương

cho sức khỏe của người khác.

Ví dụ: vụ án xảy ra vào tháng 12/2017, Vũ Văn P và chị Đặng Thanh H có

quan hệ yêu đương nhưng gia đình chị H không đồng ý. Chị H đề nghị chia tay

nhưng P không đồng ý nên xảy ra mâu thuẫn tình cảm. Khoảng 10 giờ 45 phút

ngày 08/6/2018, từ bên xe MĐ, P đi bộ đến gầm cầu vượt trước cổng bến xe, P

thấy 01 con dao dài khoảng 40cm, mũi dao cắm ở bồn hoa liền nhặt lên giấu vào

túi đeo trên người. Sau đó, P thuê 01 người đàn ông hành nghề xe ôm chở P đến

nhà chị H ở số nhà 27, tổ 5, khu XH, thị trấn XM, huyện Chương Mỹ, thành phố

Hà Nội, P bảo người chở xe ôm dừng xe và đợi P đi lấy tiền. P đi vào nhà chị H

thấy chị H đang nấu ăn ở trong bếp cùng với chi Hoàng Thị N là người bán hàng

thuê cho nhà chị H. P đến sau chị H rút dao giơ tay lên chém 01 nhát vào vùng bả

vai của chị H. Chị H quay người lại, P tiếp tục chém 01 nhát vào đỉnh đầu – thái

dương trái làm chị H ngã xuống nền bếp. P tiếp tục chém nhiều nhát vào vùng

bụng và tay, đâm nhiều nhát vào vùng chân, lưng của chị H. Khi chị H kêu hô và

bỏ chạy, thì P đuổi theo tiếp tục chém chị H nhiều nhát khi người dân xung quanh

chạy đến ngăn cản thì P chống cự rồi bỏ chạy theo hướng cửa sau nhà ngoài đường

đồng thời vứt con dao bên vệ đường rồi bỏ trốn. Tỷ lệ thương tật của chị H sau

khi được giám định là 47%.24 Tòa án cấp sơ thẩm đã định tội cố ý gây thương tích

và tuyên hình phạt theo điểm c khoản 3 Điều 134 BLHS đối với P. Tuy nhiên, sau

khi bị kháng nghị, tòa án phúc thẩm xác định lại hành vi của P là giết người chưa

đạt nên đã hủy bản án sơ thẩm điểu điều tra lại.

24 Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, Bản số 153/2018/HSST ngày 22/11/2018.

49

Thứ hai, trong các giai đoạn tố tụng, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm

phán chưa thực sự làm hết trách nhiệm của mình nên ảnh hưởng trực tiếp không

nhỏ đến chất lượng của hoạt động định tội danh, nhất là trong việc tiến hành thu

thập và đánh giá chứng cứ dẫn đến những kết luận điều tra, cáo trạng, bản án

không chính xác dẫn đến nhiều vụ án bị trả hồ sơ điều tra bổ sung, hoặc nghiêm

trọng hơn là hủy bản án để điều tra lại làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án.

Ví dụ: trong vụ án xảy ra vào khoảng 22 giờ 40 phút ngày 07/01/2020, tại

bãi xe Cường Phát thuộc tổ 6, phường Long Biên, quận Long Biên, thành phố Hà

Nội, do có mâu thuẫn trong công việc Đỗ Văn Đ có hành vi dùng con dao dài

38cm, trong đó phần lưỡi dao dài khoảng 23cm bằng kim loại tối màu, lưỡi dao

rộng bản khoảng 05cm, chuôi bằng gỗ dài khoảng 15cm, chém vào cổ tay chị Bùi

Thị T khi chị T gục xuống thì Đ đến gần chị T vừa quát mắng “mày chỉ là con đ.

thôi” “con khốn này” rồi có nhiều hành vi xàm sỡ chị T.25 Cơ quan điều tra và

Viện kiểm sát đã đưa ra kết luận dựa trên những thương tích trên cơ thể nạn nhân

mà không tính đến những xâm hại khác mà nạn nhân phải chịu, đồng thời con dao

mà Đ dùng để thực hiện hành vi phạm tội thuộc sở hữu của chị Vũ thị C bán nước

ở quán dừa xiêm cách cổng bãi xe khoảng 15m, khi thấy Đ bị người dân vây bắt,

chị C thấy vậy nhặt con dao và cầm con dao về nhà, thấy con dao dính máu nên

chị C rửa dao rồi chặt dừa bán tiếp cho khách. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát

chưa thực hiện việc thu giữ tang vật là hung khí vì vậy khi hồ sơ vụ án được Viện

kiểm sát gửi đến Tòa án đã bị trả về để điều tra bổ sung. Bên cạnh đó, một số trường

hợp vẫn chưa xác định mức độ thương tật, thương tích của nạn nhân, hoặc xác định

không đủ (như nhiều trường hợp chưa tính đế việc tổn hại sức khỏe lao động, hay

nhiều trường hợp gây ảnh hưởng đến bệnh tình vốn đã có sẵn của bị hại) dẫn đến ảnh

hưởng nghiêm trọng đến việc định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác.

25 Tòa án nhân dân quận Long Biên, Bản án số 168/2020/HSST ngày 16/7/2020.

50

Hoặc ví dụ vụ án: vào chiều ngày 03/01/2016, Ngô Thế Quang Huy cùng

với Nguyễn Hữu Hân, Nguyễn Thanh Dũng điều khiển xe mô tô chở 3 bạn gái:

Hân, Tha, Hiền là đi chơi về. Trên đường đi, cả nhóm gặp Đỗ Văn Biển (người

quen của Tha) điều khiển xe mô tô đi tới. Thấy Hân chở bạn gái mình, Biển điều

khiển xe áp sát xe Hân để dừng lại và hỏi Hân có phải là người yêu của Tha không.

Hân trả lời không phải, Biên nói Tha sang xe Biển chở về nhưng Tha không đồng

ý và bỏ chạy. Biển đuổi theo không kịp liền quay lại gây sự với nhóm của Hân.

Biển dùng tay đấm vào mặt Hân nhưng trúng mũ bảo hiểm, sau đó đấm tiếp một

cái nữa vào má trái của Hân. Thấy vậy mọi người can ngăn nhưng Biển vẫn tiếp

tục lao vào đánh Hân. Huy thấy vậy vào kéo Biển ra, đẩy về phía sau và can ngăn

Biển. Biển dùng tay tát vào má trái của Huy, Huy vừa đưa tay đỡ vừa đẩy Biển

ra, nhưng Biển vẫn tiếp tục lao vào. Nên Huy đã dùng tay phải đấm mạnh một cái

vào mặt, làm Biển ngã ngửa ra phía sau, đầu đặp xuống nền đường bất tỉnh. Sau

đó, được mọi người đưa đi cấp cứu, nhưng đến ngày 04/01/2016 thì tử vong do

“xuất huyết não”. Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2015/HSST ngày 28/10/2016,

của Toà án nhân dân quận Cầu Giấy xử phạt bị cáo Ngô Thế Quang huy 12 tháng

cải tạo không giam giữ về tội “cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị

kích động mạnh”. Ngày 14/3/2017, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã đưa ra

xét xử phúc thẩm vụ án do có kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người

bị hại, Hội đồng xét xử phúc thẩm tuyên huỷ bản án nói trên, chuyển hồ sơ vụ án

để điều tra lại.

Trong vụ án này, theo quan điểm của chúng tôi, trên cơ sở nghiên cứu hồ

sơ vụ án và các thủ tục tố tụng hình sự thì:

- Về tội danh: theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện do

ghen tuông vô cớ nên Đỗ Văn Biển đã gây sự và đánh Hân; Huy can ngăn thì Biển

đánh trúng Huy, vì thế Huy mới đánh lại, làm Biển ngã đập đầu xuống đường dẫn

đến tử vong. Biển có hành vi trái pháp luật với Huy, nhưng không gây thương tích

và hành vi đó chưa đến mức được voi là trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân.

Do vậy, việc điều tra, truy tố và xét xử đối với Ngô Thế Huy về tội “cố ý gây

51

thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo điểm b khoản 2

Điều 135 BLHS là chưa phù hợp với diễn biến khách quan của vụ án. Hành vi

phạm tội nêu trên củ bị cáo Huy có dấy hiệu phạm tội “cố ý gây thương tích” có

hậu quả dẫn đến chết người theo khoản 3 Điều 134 BLHS, với tình tiết giảm nhẹ

“Phạm tội trong trường hợp bị kích động mạnh về tinh thần do hành vi trái pháp

luật của bị hại” theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 51 BLHS là phù hợp.

- Về tố tụng: theo lý lịch tư pháp thì bị hại Đỗ Văn Biển có cha đã chết, mẹ

Nguyễn Thị Thê còn sống; có 02 người con là cháu Đỗ Văn Khánh (là con của vợ

trước) và Đỗ Thị Diệp Chi. Như vậy, bà Thê, anh Khánh và cháu Chi là hàng thừa

kế thứ nhất theo quy định của pháp luật. Cấp sơ thẩm xác định những người đại

diện hợp pháp của bị hại chỉ có bà Thê và cháu Chi, không có anh Khánh. Đồng

thời cháu Chi dưới 06 tuổi, là người không có năng lực hành vi dân sự nên không

thể là người đại diện hợp pháp được, chỉ được tham gia với tư cách người có

quyền lợi liên quan đến vụ án và người giám hộ cho cháu Chi là chị Nguyễn Thị

Thanh Dung (mẹ cháu Chi) mới đúng quy định của pháp luật. Tại phiên toà phúc

thẩm, anh Khánh yêu cầu xem xét lại vụ án vì cho rằng Ngô Thế Quang Huy đánh

chết Đỗ Văn Biển là phạm tội “giết người”, nhưng vì sai phạm của các cơ quan

tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm không xác định anh Khánh là người đại diện hợp

pháp của bị hại nên kháng cáo của anh Khánh không được xem xét.

Thứ ba, số lượng các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố ngày càng nhiều với tính chất

phức tạp và thủ đoạn ngày càng tinh vi nên các cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp

nhiều khó khăn trong việc định tội danh hoặc quyết định hình phạt đối với loại tội

phạm này.

Ví dụ: Khoảng 21 giờ, ngày 26/5/2018, Đỗ Thế Vóc cùng với bạn là Bùi

Hữu Thắng, Bùi Chí Dũng, Trần Anh Tuấn và Nguyễn Đình Hướng (sinh năm

2001) ngồi uống nước tại quán của chị Tạ Thị Mỹ Linh. Sau đó, Vóc một mình đi

bộ để sang bên kia đường thì suýt xảy ra va chạm với xe môt ô do anh Vũ Hồng

Quàng điều khiển. Anh Quảng quay lại nói với Vóc: “Mày bị điên, thích chết à”

rồi điều khiển xe đi tiếp. Nghe anh Quảng nói vậy, Vóc bực tức vào quán nước

52

nói với nhóm bạn lấy xe đuổi theo xem ai đã chửi. Thắng và Dũng đi ra lấy xe,

Vóc lấy tại quán nước của chị Linh 01 con dao lưỡi kim loại, cán gỗ, dài khoảng

50 cm; 01 ống kim loại hình trụ tròn, đường kính khoảng 01cm, dài khoảng 01m,

đi xe mô tô do Thắng điều khiển đuổi theo anh Quảng, Dũng một mình điều khiển

xe mô tô theo sau. Khi đuổi kịp, Thắng áp sát phía bên trái đầu xe anh Quảng, làm

đổ xe và anh Quảng bị ngã xuống lòng đường. Tiếp đó, Vóc cầm dao, đưa đoạn

ống kim loại cho Thắng. Anh Quảng bỏ chạy vào sân nhà người dân gần đó và

xin giúp đỡ. Vóc, Thắng được mọi người can ngăn nhưng vẫn dồn đánh anh

Quảng. Anh Quảng chạy vào trong nhà dân, đóng cửa. Thắng xông đến giật bung

chốt cửa làm hé cửa. Vóc liền dùng dao lùa vào bên trong chém 01 nhát trúng vào

tay phải anh Quảng. Anh Quảng buông tay chạy vào phòng ngủ thì Vóc, Thắng

đuổi theo, dùng dao, gậy để chém, đập nhiều nhát vào vùng đầu, tay, vai, lưng

làm ah Quảng bị thương tích chảy nhiều máu, ngã gục xuống giường. Lúc này,

người dân đến can ngăn đông thì Vóc cùng đồng bọn mới dừng lại, bỏ về. Bản

Kết luận giám định pháp y về thương tích của Trung tâm Giám định pháp y Sở y

tế thành phố Hà Nội kết luận: anh Vũ Hồng Quảng có những vết thương: 02 vế

thương vùng đầu; cẳng tay trái; bàn tay phải; sây sát da gối, cẳng, bàn chân phải;

vai trái và thắt lưng trái. Sức khoẻ của anh Quảng bị giảm do thương tích là 12%.

Các vết thương để lại sẹo do vật cứng, có cạnh sắc, bản dài gây nên. Bản án hình

sự sơ thẩm số 57/2018/HSST ngày 27/11/2018, của Toà án nhân dân thành phố

Hà Nội quyết định: áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản

2 Điều 51; Điều 54, Điều 58 BLHS, xử phạt bị cáo Đỗ Thế Vóc 18 tháng tù, bị

cáo Bùi Hữu Thắng 15 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tại Bản án hình

sự phúc thẩm số 35/2019/HSPT ngày 20/3/2019 của Toà án nhân dân cấp cao tại

Hà Nội giữ nguyên hình phạt 18 tháng tù đối với Đỗ Thế Vóc; sửa bản án sơ thẩm:

xử phạt Bùi Hữuu Thắng 15 tháng tù, cho hưởng án treo. Tại Quyết định số

23/2020/HS-GĐT ngày 30/5/2020, Hội đồng giám đốc thẩm Toà án nhân dân tối

cao quyết định: huỷ bản án hình sự phúc thẩm số 35 nêu trên về phần quyết định

53

hình phạt đối với các bị cáo Đỗ Thế Vóc, Bùi Hữu Thắng theo hướng tăng nặng

hình phạt.

Như vậy, đối với hành vi phạm tội của Vóc và Thắng, ba cơ quan tiến hành

tố tụng của cả ba cấp đã có quan điểm khác nhau, dẫn đến phán quyết của Toà án

về hình phạt đối với các bị cáo là khác nhau. Theo quan điểm của chúng tôi thì:

chỉ vì một mâu thuẫn rất nhỏ trong sinh hoạt mà các bị cáo đã ngay lập tức chuẩn

bị dao, ông tuýp sắt, gạch đá là những hung khí nguy hiểm đuổi theo tấn công rất

quyết liệt, gây thương tích cho bị hại 12%, kể cả khi bị hại đã chạy chốn và đã

được nhiều người can ngăn, bảo vệ. Hành vi của các bị cáo là rất manh động, thể

hiện rõ tính côn đồ, hung hãn và quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng. Bị cáo

Vóc giữ vai trò chính, là người khởi xướng, lôi kéo đồng phạm thực hiện hành vi

phạm tội, tích cực chuẩn bị hung khí dao, ống kim loại để đánh nhau, trực tiếp

cầm dao chém gây thương tích cho bị hại nhiều nhát. Đồng thời bị cáo Vóc là

người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội quyết liệt nhất, các thương tích trên

người bị hại chủ yếu do Vóc gây ra, nên cần phải xử phạt hình phạt tù trên hoặc

ngang bằng mức khởi điểm mức đã truy tố, xét xử bị cáo, mới đảm bảo tính giáo

dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Bản án hình sự phúc thẩm tuyên phạt bị cáo

Vóc 18 tháng tù (dưới khung hình phạt) là quá nhẹ so với tính chất, mức độ phạm

tội và nhân thân của bị cáo, không đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa

chung.

2.2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

Chất lượng định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác tại thành phố Hà Nội trong thời gian qua vẫn chưa đảm bảo

được chất lượng do những còn những tồn tại, hạn chế đã nêu trên. Việc này xuất

phát từ nhiều nguyên nhân, có cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan:

* Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, quy định của BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 mặc dù nhằm mục

đích cải thiện những hạn chế, vướng mắc của BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung 2009

nhưng thực tế quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

54

của người khác vẫn còn đang tồn tại nhiều điểm bất cập, gây khó hiểu trong việc

áp dụng trên thực tế. Nhất là hiện nay dù đã áp dụng quy định của BLHS 2015

nhưng thực tế vẫn đang phải vận dụng những văn bản hướng dẫn của BLHS 1999,

việc chưa có văn bản hướng dẫn thi hành tội phạm này là nguyên nhân chính cho

việc có sự khác nhau về quan điểm trong việc định tội danh.

Thứ nhất, vấn đề mức tối thiểu trong định mức tỷ lệ thương tật. Kể từ quy

định của BLHS 1999, để định tội danh tối cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe cùa người khác thì phải căn cứ vào định mức thương tật mà từng

khoản tại Điều 104 (sau này là Điều 134) quy định. Theo đó, hiện nay Điều 134

chia thành 4 định mức thương tật bao gồm: dưới 11%; từ 11% đến 30%; từ 31%

đến 60%; từ trên 61%. Quy định này về cơ bản đã xác định được tính chất, mức

độ nguy hiểm xã hội của từng hành vi phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác. Tuy nhiên, hiện nay vấn đề mức tối thiểu dưới

11% để xác định tội danh tội phạm này thì lại chưa được hướng dẫn cụ thể dẫn

đến nhiều trường hợp dưới 11% nhưng giữa các cơ quan tiến hành tối tụng lại

không thống nhất được với nhau khi xác định tỷ lệ thương tích tối thiểu. Nhất là

trên thực tế có những trường hợp hậu quả thương tật chỉ 1% hoặc dưới 1% nhưng

hành vi vẫn thuộc 1 trong 10 trường hợp tại khoản 1 Điều 134 thì có cần thiết phải

xử lý trách nhiệm hình sự hay không. Bên cạnh đó, các khoản 2, 3, 4 và 5 của

Điều 134 đều được xây dựng theo cấu trúc xác định mức tối thiểu và mức tối đa

trong từng trường hợp được quy định. Vì vậy, để thống nhất trong quy định của

pháp luật hình sự, cần sửa đổi hoặc có hướng dẫn cụ thể tỷ lệ thương tật dưới 11%

là bao nhiêu phần trăm để bảo đảo cho việc định tội danh tội phạm này một cách

toàn vẹn.

Thứ hai, về tình tiết tại điểm b khoản 1 Điều 134 BLHS. Điểm b khoản 1

Điều 134 quy định về tình tiết “dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm”.

Tình tiết này là điểm mới của Điều 134, việc pháp điển hóa tình tiết này nhằm đáp

ứng thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm cố ý gây thương tích trong thực

tiện hiện nay. Tuy nhiên, thế nào là “a-xít nguy hiểm” hay những hóa chất nào

55

được coi là “hóa chất nguy hiểm” thì lại không được hướng dẫn cụ thể, ngoài ra

có những loại axit, hóa chất tác động trực tiếp lên cơ thể con người những cũng

có những loại axit, hóa chất chỉ cần hít phải cũng có thể gây tổn thương bên trong

cho con người, bên cạnh đó với đặc tính là chất hóa học, có cần thiết phải tiến

hành giám định hàm lượng axit hay hóa chất nguy hiểm cho việc định tội danh tội

phạm này hay không. Vì những bất cập đó, trên thực tế tình tiết dù đã được pháp

điển nhưng lại ít được sử dụng trên thực tế.

Thứ ba, về tình tiết “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người già yếu” tại điểm c khoản 1 Điều 134 BLHS. Trong các văn bản pháp

luật chính thức hiện hành thì chỉ mới đưa ra khái niệm “người cao tuổi” là người

từ đủ 60 tuổi trở lên theo Điều 2 Luật người cao tuổi năm 2009. Ngoài ra, trong

một số văn bản hướng dẫn của pháp luật hình sự cũng đề cập như tại tiểu mục 2.4

mục 2 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán

Tòa án nhân dân tối cao thì “người già” lại được xác định là người từ đủ 70 tuổi

trở lên còn tại điểm a tiểu mục 4.1 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007

của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì “người quá già yếu” được

xác định là người từ đủ 70 tuổi trở lên hoặc người từ 60 tuổi trở lên nhưng thường

xuyên ốm đau. Như vậy, trong từ trước đến nay khái niệm “người già yếu” chưa

từng được hướng dẫn cụ thể, đây là vấn đề chính dẫn đến sự không thể thống nhất

trong việc định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác đối với những vụ án xảy ra với đối tượng này. Không chỉ trong

Điều 134, tình tiết phạm tội với người già yếu cũng được quy định ở nhiều tội

phạm khác như tội cướp tài sản (Điều 168), tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170), tội

cưỡng bức lao động (Điều 297),… Dù được quy định ở nhiều tội phạm như vậy

nhưng việc không có giải thích cụ thể cũng làm tình tiết này khó có khả năng áp

dụng trên thực tế.

Thứ tư, về tình tiết “cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe đối với

người chữa bệnh cho mình” tại điểm d khoản 1 Điều 134 BLHS. Nếu được hiểu

người chữa bệnh cho mình là bác sỹ, y tá… đang chữa bệnh cho đối tượng thực

56

hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe thì những đối

tượng như người “đã chữa bệnh cho mình”, “chuẩn bị chữa bệnh cho mình” có

nằm trong nội hàm khái niệm trên hay không. Vấn đề này xuất phát từ chính

hướng dẫn về tình tiết “đối với thầy giáo, cô giáo của mình” tại Nghị quyết số

01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối

cao đã đưa ra những điều kiện hướng dẫn bao gồm có những trường hợp chuẩn bị

thực hiện nhiệm vụ hoặc đã thực hiện nhiệm vụ giáo dục với người có hành vi

phạm tội. Vì vậy, cùng nằm trong khoản d Điều 134 BLHS thì “người chữa bệnh

cho mình” phải được áp dụng như thế nào là hợp lý và có thể áp dụng như tình

tiết “đối với thầy giáo, cô giáo của mình” đã được hướng dẫn hay không. Ngoài

ra, tình tiết này trên thực tế cũng không còn phù hợp với thực trạng tội phạm cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đối với người làm

nghề chữa bệnh nữa. Thời gian qua, hầu như các vụ án mà nạn nhân là đội ngũ y

bác sĩ hay người hành nghề khám, chữa bệnh đều do người thân của bệnh nhân

thực hiện. Hành vi của những người nay đã gây phẫn nộ trong dư luận, tuy nhiên

lại không thể xử lý hình sự đối với những hành vi trên do thương tích không dưới

11%.

Thứ năm, quy định mới về chuẩn bị phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn thương cho sức khỏe của người khác tại khoản 6 Điều 134 BLHS. Là một tội

phạm có cấu thành vật chất, tức bắt buộc phải có hậu quả xảy ra thì mới cấu thành

tội phạm, nạn nhân phải bị thương tích hoặc bị tổn hại đến sức khỏe ở mức đáng

kể thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự còn nếu thương tích hoặc tổn hại sức

khỏe ở mức không đáng kể thì không cấu thành tội phạm, không chịu trách nhiệm

hình sự và chỉ chịu trách nhiệm hành chính, tức là tính chất, mức độ nguy hiểm

cho xã hội của hành vi không đáng kể.

Thứ hai, khó khăn về cơ sở vật chất, hiện nay TAND thành phố Hà Nội

đang phải hoạt động nhờ trụ sở của TAND cấp cao tại Hà Nội. Điều này phát sinh

nhiều khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ xét xử cũng như cộng tác phối hợp

với các cơ quan tố tụng của thành phố. Bên cạnh đó, các trụ sở Tòa án của các

57

quận, huyện cũng đang có dấu hiệu xuống cấp không đáp ứng đủ nhu cầu xét xử

số lượng án nhiều như hiện nay. Trụ sở của các cơ quan tiến hành tố tụng khác

bao gồm Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra cũng đang gặp vấn đề tương tự.

Thứ ba, khó khăn liên quan đến diễn biến của dịch bệnh Covid-19. Từ đầu

năm 2020, dịch Covid-19 ở nước ta diễn biến phức tạp, trong giai đoạn đầu năm

2020, TAND hai cấp thành phố Hà Nội đã phải tạm dừng việc xét xử các vụ án

phức tạp để tăng cường thực hiện các biện pháp phòng chống dịch Covid-19 theo

ý kiến chỉ đạo của Chính phủ, điều này cũng phần nào làm khối lượng công việc

ngày càng tồn đọng hơn, gây ảnh hưởng đến việc định tội danh tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người nói riêng và việc xét xử nói chung.

Như việc nhìn vào số liệu án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác đã thụ lý và giải quyết năm 2020 chỉ đạt 98,46% thấp nhất

trong năm năm qua. Vì vậy nếu dịch bệnh kéo dài thì những năm tiếp hoạt động

xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng

và tội phạm khác nói chung có thể sẽ bị ảnh hưởng.

* Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, trong hoạt động định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác vẫn còn tồn tại một bộ phận Thẩm phán, cán

bộ các đơn vị Tòa án chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ quan, năng lực

chuyên môn nghiệp vụ còn nhiều hạn chế, yếu kém hoặc do nhận thức chưa đúng,

chưa đủ nên làm ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động này. Thẩm phán là

người trực tiếp, nắm rõ nội dung và diễn biến của vụ án nhưng lại luôn trông chờ

vào ý kiến chỉ đạo của cấp lãnh đạo, thiếu sự chuẩn bị kỹ trước khi tham gia phiên

tòa. Việc này cũng xảy ra ở bộ phận Điều tra viên và Kiểm sát viên khi công tác

điều tra, truy tố đôi lúc chưa kịp thời, thực hiện qua loa, đại khái dẫn đến việc

không kịp thời thu nhặt dấu vết, nhiều Kiểm sát viên trông chờ vào Bản kết luận

điều tra của Cơ quan điều tra mà không xem xét lại vụ án dẫn đến nhiều vụ án

Tòa án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung.

58

Thứ hai, khó khăn về biên chế của TAND thành phố Hà Nội. Trong những

năm gần đây, lượng án mà TAND hai cấp thành phố Hà Nội phải giải quyết ngày

càng tăng, trung bình tăng từ 8% - 10%/năm26 trong khi đó biên chế cán bộ của

hệ thống Tòa án tại Hà Nội không được tăng, mà còn phải giảm. Bên cạnh đó, với

tính đặc thù là cơ quan xét xử trên địa bàn thủ đô, TAND thành phố Hà Nội thường

xuyên được giao giải quyết nhiều vụ án phức tạp, nhạy cảm, được dư luận trong

nước và quốc tế đặc biệt quan tâm, đòi hỏi phải có sự đầu tư, chuẩn bị kỹ lưỡng,

chu đáo cả về cơ sở vật chất và cán bộ nghiên cứu, giải quyết… dẫn đến tình trạng

quá tải cho Thẩm phán, cán bộ trong đơn vị. Việc cùng lúc phải giải quyết và

chuẩn bị cho quá nhiều án cũng là nguyên nhân dẫn đến một số bộ phận không

nhỏ cán bộ không có trách nhiệm cao trong việc định tội danh tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Bên cạnh đó, chính sách đãi

ngộ và tiền lương từ lâu vẫn là vấn đề được quan tâm nhưng chưa được tháo gỡ

và giải quyết một cách thỏa đáng. Là một nghề nghiệp có địa vị tương đối trong

xã hội, nhưng hiện tại, thu nhập của Thẩm phán lại không tương ứng với số lượng

công việc phải thực hiện. Với chính sách đãi ngộ và tiền lương hiện nay khó có

thể khiến họ đặt hết trách nhiệm và công việc chuyên môn nghiệp vụ. Bên cạnh

đó, tình trạng “việc nhiều – biên chế ít” cũng xảy ra trong các đơn vị Viện kiểm

sát cũng làm chất lượng hoạt động định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác của Điều tra viên, Kiểm sát viên cũng không

đảm bảo.

Thứ ba, một số Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán không đáp ứng

được khả năng phân tích, vận dụng pháp luật trong việc định tội danh tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do hạn chế về năng

lực, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghiệp vụ. Bên cạnh đó, công tác lãnh

đạo, quản lý ở một số đơn vị chưa đảm bảo sự khoa học, vẫn còn tình trạng phân

26 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Báo cáo kết quả công tác năm 2020 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2021 của Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Hà Nội, Hà Nội, 2020.

59

công người tiến hành tố tụng chồng chéo với nhau, sự quan tâm của cấp lãnh đạo

chưa thật sự sâu sát.

Thứ tư, mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa

án trong địa phương chưa đạt nhiều hiệu quả. Việc định tội danh tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chỉ được bảo đảm khi

hoạt động tố tụng hình sự được diễn ra nhịp nhàng giữa các cơ quan tiến hành tố

tụng. Tuy nhiên, các đơn vị vẫn chưa nhận thức được điều này, dẫn đến mối quan

hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng còn lỏng lẻo, còn tư tưởng né tránh, đùn đẩy

trách nhiệm, tinh thần phối hợp chưa cao.

Thứ năm, trình độ chuyên môn của đội ngũ Hội thẩm nhân dân tại cả 2 cấp

Tòa án chưa đảm bảo yêu cầu xét xử, quan trọng nhất là trong chuyên môn về

định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác vì hầu như việc bổ nhiệm Hội thẩm nhân dân hiện nay chưa đảm bảo được

trình độ chuyên môn pháp lý.

60

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Từ lịch sự hình thành của việc định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có thể thấy hoạt động định tội phạm này

đã xuất hiện từ rất sớm nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội lúc bây giờ của Nhà nước

ta. Qua từng giai đoạn, quy định về việc định tội danh tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe ngày càng được quy định chặt chẽ hơn nhưng cũng

không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định.

Bên cạnh đó, từ thực tiễn hoạt động định tội danh tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại thành phố Hà Nội trong giai

đoạn từ năm 2016 đến năm 2020, có thể thấy mặc dù tình hình tội phạm này trên

địa bàn là rất phổ biển nhưng cũng rất phức tạp với sự tăng tưởng nhanh chóng

qua từng năm, tuy vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng hai cấp thành phố Hà Nội

vẫn đạt được những kết quả đáng ngưỡng mộ.

Tuy nhiên, đâu có bên cạnh những kết quả ấy thì vẫn tồn tại vài hạn chế,

vướng mắc trong việc định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác mà xuất phát từ nhiều nguyên nhân kể cả chủ quan lẫn

khách quan.

Kết quả nghiên cứu và phân tích tại Chương 2 nêu trên tạo tiền đều cho việc

đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại và nâng cao

hoạt động định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn thương cho sức

khỏe của người khác.

61

CHƯƠNG 3

NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC

GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Những yêu cầu nâng cao hiệu quả định tội danh đối với tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

3.1.1. Yêu cầu về chính trị xã hội

Để đương đầu với tình hình tội phạm ngày càng phát triển theo hướng phức

tạp như hiện nay, công cuộc cải cách tư pháp trong những năm qua được Đảng,

Nhà nước đẩy mạnh. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2001 của Bộ chính trị

“về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, Nghị quyết

49 – NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị ra đời với mục tiêu xuyên suốt là

xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công

lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa hay được gọi chung là “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”:

“Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù

hợp với mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Coi

trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu

quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý tội phạm…”

Các nghị quyết trên đã mang đến nhiều sự chuyển biến về mặt đột phá

trong công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong xã hội lúc bấy giờ. Tiếp

tục phát huy tinh thần trên, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của

Đảng Cộng sản năm 2011 đã đề ra:

“Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây

dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo

vệ quyền con người. Hoàn thiện chính sách, pháp lý về hình sự…”

62

Qua đó, có thể thấy, để thực hiện tốt việc phòng ngừa tội phạm và đẩy lùi

tội phạm thì vấn đề cải cách tư pháp và hệ thống pháp luật là điều tiên quyết hàng

đầu. Ngoài ra, việc đấu tranh phòng chống tội phạm xâm phạm tính mạng, sức

khỏe, danh dự, nhân phẩm cũng là yêu cầu quan trọng được các Nghị quyết trên

đề cập đến, có thể thấy Đảng, Nhà nước rất quan tâm đến việc cần thiết phải xây

dựng một hệ thống pháp luật thống nhất và vững chắc cho việc định tội danh nói

chung và định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác nói riêng nhằm đáp ứng được tình hình của xã hội. Đó chính là những

yêu cầu quan trọng thể hiện tư tưởng chính trị của Đảng và Nhà nước đối với vấn

đề về loại tội phạm này. Việc thúc đẩy quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về

định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người trên

dựa trên những yêu cầu về chỉ đạo, hướng dẫn, đường lối của Đảng Cộng sản Việt

Nam trong đó luật về nội dung phải đảm bảo sự đường lối xử lý tội phạm xâm phạm

tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; còn luật về hình thức phải đảm bảo yêu

cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn mới.

Về góc độ xã hội, dưới vai trò là thủ đô của đất nước, thành phố Hà Nội

luôn là điểm nóng của tội phạm, những án trọng điểm được dư luận xã hội quan

tâm, trong đó tiêu biểu nhất là vẫn là những vụ án về nhóm tội phạm tham nhũng,

xâm phạm hoạt động tư pháp mà người thực hiện hành vi phạm tội lại chính là

những người được giao nhiệm vụ thực hiện hoạt động tố tụng hình sự hay nói

cách khác chính là chủ thể thực hiện việc định tội danh tội phạm nói chung và tội

cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng. Cùng

với việc còn tồn động nhiều cá nhân nhưng thực sự tận tâm với công việc dẫn đến

sự “vội vã” khi xác định tội danh đối với người phạm tội. Đó cũng chính là nguyên

nhân dẫn đến việc định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác chưa đảm bảo được tinh thần mà Đảng và Nhà nước đã đạt

ra cũng như làm giảm đi sự uy tín của cơ quan quyền lực nhà nước trong mắt nhân

dân. Ngoài ra, với sự phát triển chóng mặt của các hành vi cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hiện nay theo chiều hướng tiêu cực

63

nhất, phức tạp nhất cũng tạo ra những khó khăn nhất định cho hoạt động định tội

danh tội phạm này. Chính vì lẽ đó, về yêu cầu của địa phương, cần phải có những

giải pháp cụ thể khác bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật có ý nghĩa thực tế cao

nhằm nâng cao hoạt động định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác.

3.1.2. Yêu cầu về lý luận và thực tiễn

Như đã phân tích tại Chương 2, bên cạnh những nỗ lực đáng ghi nhận trong

công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm nói chung và hoạt động định tội danh

tội cố ý gây thương tích nói riêng thì hoạt động này vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế.

Pháp luật về hình sự, về tố tụng hình sự còn nhiều bất cập những sửa đổi, bổ sung

chưa mang lại được hiệu quả. Bên cạnh đó, yếu tố con người trong hoạt động này

cũng tồn tại rất nhiều nhược điểm cần được khắc phục.

Trong khi đó, Hiến pháp 2013 ra đời với những quy định cụ thể hơn về

quyền con người, quyền công dân mà trong đó quan trọng nhất là những quyền

bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng, sức khỏe mà việc định tội danh lại có

ý nghĩa quan trọng trong việc hạn chế các quyền nói trên cũng như là công cụ hữu

hiệu để bảo vệ chính các quyền năng đó khi bị xâm hại. Việc định tội danh sai (có

thể xuất phát từ quy định pháp luật không rõ ràng, yếu tố về con người không

được đảm bảo) có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của các cá

nhân trong xã hội, gây ra những hiệu ứng tiêu cực trong cộng đồng. Chính vì lẽ

đó, để đưa ra những giải pháp hoàn thiện việc định tội danh tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn thương cho sức khỏe của người khác đòi hỏi phải có sự đánh

giá chính xác dựa trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc định tội danh.

Về yêu cầu lý luận, đòi hỏi các nhà làm luật phải nghiên cứu một cách toàn

diện về định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác từ các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm, giai đoạn thực hiện

tội phạm, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội… những nội dung tố

tụng hình sự từ chứng cứ, chứng minh đến trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình

sự. Bên cạnh những nghiên cứu của các nhà khoa học trong nước về định tội danh

64

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, các nhà

làm luật còn có thể nghiên cứu, học tập, chắt lọc những kiến thức tiến bộ về hoạt

động này của các quốc gia trên thế giới nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong

quá trình xây dựng, giải thích và áp dụng pháp luật.

Về yêu cầu thực tiễn, yếu tố con người là yếu tố tiên quyết trong việc định

tội danh đúng hay sai, vì vậy đòi hỏi các giải giải pháp đưa ra phải nâng cao được

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra

viên trong việc định tội danh nói chung và với tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng. Bên cạnh đó, cũng quan tâm đến

tình hình thực tế tại địa phương để có những giải pháp về mặt phòng ngừa tội

phạm hiệu quả hơn.

3.1.3. Yêu cầu về lập pháp hình sự

Yêu cầu về lý luận đặt ra câu hỏi nghiên cứu một cách toàn vẹn hơn khoa

học pháp luật hình sự về định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác nói riêng và tội phạm nói chung, tuy nhiên để đưa

các nghiên cứu ấy vào các quy phạm pháp luật hiện hành đòi hỏi những yêu cầu

cần thiết về việc lập pháp. Hiện nay, BLHS và BLTTHS hiện hành dù vừa được

đưa vào thi hành không lâu nhưng đã bộc lộ nhiều bất cập về mặt lập pháp dẫn

đến nhiều quy phạm pháp luật hình sự và tố tụng hình sự mâu thuẫn với nhau.

Chính những bất cập này ảnh hưởng rất lớn đến việc áp dụng pháp luật vào việc

định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác. Chính những khó khăn đã dược phân tích tại Chương 2 đã cho thấy sự không

đồng nhất về mặt lập pháp dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau trong việc định tội

danh tội phạm này vào một sự việc phạm tội trên thực tế. Ngoài ra, dù đã được

đưa vào thi hành, nhưng việc hướng dẫn BLHS 2015 vẫn phải dựa trên những quy

định trong các văn bản hướng dẫn của BLHS 1999 tạo ra sự không đồng nhất về

mặt nội dung.

Vì những lẽ đó, hoàn thiện hệ thống pháp luật về định tội danh tội phạm cố

ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng như các văn

65

bản hướng dẫn áp dụng pháp luật đối với tội phạm này là điều hết sức cần thiết.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật là tiền đề cho việc khắc phục hết những hạn chế

còn tồn tại trong việc định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác, góp phần xác định rõ ranh giới giữa tội phạm và không

phải tội phạm, từ đó tạo cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh

tội phạm này, bảo đảm được những yêu cầu mà Đảng và Nhà nước đặt ra. Nói

cách khác, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện là một trong những nguyên nhân

chính dẫn đến hạn chế trong việc định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác hiện nay. Do đó, ưu tiên hàng đầu vẫn là

phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã

hội tại thảnh phố Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung, đáp ứng được yêu cầu

đấu tranh phòng và chống tội phạm trong thời kỳ mới của đất nước.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả định tội danh đối với tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trên địa bàn thành

phố Hà Nội

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự

BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày

01/01/2018 với mục đích chính là thay thế những quy định còn hạn chế của BLHS

1999 sửa đổi, bổ sung 2009 tuy nhiên về mặt thực tế, các quy định của BLHS

2015 trong đó có quy định tại Điều 134 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác lại phát sinh nhiều quan điểm áp dụng pháp luật

khác nhau, dẫn đến sự không thống nhất trong quá trình định tội danh tội phạm

này. Trên cơ sở nghiên cứu của mình, học viên đã tham khảo và đưa một số giải

pháp kiến nghị hoàn thiện như sau:

Thứ nhất, vấn đề mức tối thiểu trong định mức tỷ lệ thương tật. Để thống

nhất trong quy định của pháp luật hình sự, cần sửa đổi hoặc có hướng dẫn cụ thể

tỷ lệ thương tật dưới 11% là bao nhiêu phần trăm để bảo đảo cho việc định tội

danh tội phạm này một cách toàn vẹn, theo quan điểm cá nhân, mức tối thiểu nên

được xác định là “từ 1% đến dưới 11%” là phù hợp thực trạng hiện nay.

66

Thứ hai, về tình tiết tại điểm b khoản 1 Điều 134 BLHS “dùng a-xít nguy

hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm”, cần thiết phải quy định cụ thể về thế nào là hành

vi dùng axit nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm, những loại axit, hóa chất nào

được coi là nguy hiểm với con người để đảm bảo quy định này có khả năng áp

dụng trên thực tế.

Thứ ba, về tình tiết “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người già yếu” tại điểm c khoản 1 Điều 134 BLHS. Theo quan điểm của học

viên, nên bỏ cụm từ “người già yếu” mà thay thế bằng cụm từ “người từ đủ 70

tuổi trở lên”, bởi độ tuổi này các bộ phận cơ thể hầu như lão hóa, hoạt động kém

hiểu quả hơn người bị thường, nếu bị thương tật khó có thể phục hồi như vậy đã

đủ thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội không cần phải

xem xét họ có thật sự “già yếu” hay không. Bên cạnh đó, việc loại bỏ cụm từ

“người già yếu” mà thay thế bằng cụm từ “người từ đủ 70 tuổi trở lên” cũng

nhằm thống nhất với quy định tại điểm o khoản 1 Điều 51 về các tình tiết giảm

nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội là người từ đủ 70 tuổi trở lên” và tình

tiết tại điểm i khoản 1 Điều 52 về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm

tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên”.

Ngoài ra, để nhằm đồng nhất các quy định trong việc định tội danh tội phạm cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng và hoạt

động định tội danh tội phạm nói chung cần thiết cũng nên sửa đổi cụm từ này

trong quy định của BLTTHS mà cụ thể là tại khoản 4 Điều 119 BLTTHS 2015 về

căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với người già yếu mà có nơi

cư trú và lý lịch rõ ràng và tại khoản 6 Điều 127 BLTTHS 2015 về việc không

được áp dụng biện pháp cưỡng chế áp giải, dẫn giải đối với người già yếu.

Thứ tư, về tình tiết “cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe đối với

người chữa bệnh cho mình” tại điểm d khoản 1 Điều 134 BLHS. Theo quan điểm

của học viên, tình tiết “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người chữa bệnh cho mình” cần được hướng dẫn theo hướng thỏa mãn các điều

kiện sau:

67

+ Nạn nhân phải là bác sĩ, y tá, điều dưỡng hoặc là người hành nghề khám,

bệnh hoặc người đang công tác trong lĩnh vực y tế theo hợp đồng hoặc theo biên

chế tại cơ quan, tổ chức có chức năng khám, chữa bệnh theo quy định của pháp

luật.

+ Nạn nhân là người chuẩn bị, đang hoặc đã thực hiện việc khám, chữa

bệnh cho người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội không phân

biệt thời gian chữa bệnh là ngắn hay dài.

Thứ năm, quy định mới về chuẩn bị phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn thương cho sức khỏe của người khác tại khoản 6 Điều 134 BLHS.

Xét đến quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS, thì trường hợp người nào cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn

thương cơ thể dưới 11% nhưng thuộc 1 trong 10 trường hợp được quy định thì

người đó mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, còn nếu không tỷ lệ tổn thương

dưới 11% nhưng không thuộc 1 trong 10 trường hợp nêu trên thì không cấu thành

tội phạm, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, như vậy trong trường hợp này

mặc dù hành vi trên thực tế đã gây ra một hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng

các nhà làm luật cho rằng hậu quả dưới 11% và không có tình tiết khác thể hiện

tính chất nguy hiểm cho xã hội thì được coi là tính chất nguy hiểm cho xã hội

không đáng kể tại khoản 2 Điều 8 Bộ luật Hình sự.

Quay trở lại quy định tại khoản 6 Điều 134 BLHS quy định: “người nào

chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy

hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến

02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”. Chuẩn bị phạm tội cố ý gây thương

tích được hiểu là tìm kiếm, sửa soạn các công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những

điều kiện cần thiết khác để nhằm gây thương tích cho người khác, chứ chưa gây

ra hậu quả trên thực tế, hay nói cách khác hành vi trên chưa có tính chất nguy

hiêm đáng kể nào cho xã hội.

68

Như vậy, nếu so sánh tính chất nguy hiểm cho xã hội giữa hai quy định nói

trên tính chất nguy hiểm của những trường hợp không cấu thành tội phạm tại

khoản 1 Điều 134 rõ ràng là nguy hơn trường hợp chuẩn bị phạm tội. Trong khi

đó, trường hợp chuẩn bị phạm tội lại phải chịu trách nhiệm hình sự còn những

trường hợp tại khoản 1 nêu trên lại không bị xử lý hình sự. Như vậy, sự mâu thuẫn

gián tiếp làm cho hoạt động định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác gặp nhiều quan điểm trái chiều trên thực tế.

Theo quan điểm cá nhân của học viên, quy định về chuẩn bị phạm tội đối

với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như

trên chưa thấy được tính khả thi trong thực tế vì vậy có thể cân nhắc, xem xét bỏ

khoản 6 Điều 134 không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với trường hợp chuẩn

bị phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Tất nhiên, trường hợp hành vi chuẩn bị phạm tội đó cấu thành một tội phạm độc

lập khác thì vẫn phải xử lý theo quy định của pháp luật.

Nói tóm lại, quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác vẫn còn không ít bất cập dẫn đến tính

khả thi là chưa cao. Hiện nay, nhiều nhóm tội phạm phổ biến đã bắt đầu có những

văn bản hướng dẫn áp dụng theo quy định của BLHS 2015 như Nghị định số

19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về tính tổng khối lượng

hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị

quyết số 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án

nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng các tội hiếp dâm, cưỡng dâm, dâm ô, giao

cấu; Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của Hội đồng thẩm phán

Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS trong xét

xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ;… Vì vậy, với một nhóm

tội phạm phổ biến và quan trọng nhất như nhóm tội về xâm phạm tính mạng, sức

khỏe nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác nói riêng đòi hỏi cần phải ban hành một hệ thống các văn bản hướng

dẫn thi hành Điều 134 BLHS để có sự thống nhất trong việc định tội danh tội

69

phạm này. Dưới góc độ nghiên cứu, học viên đưa ra các giải pháp về ban hành

pháp luật như sau:

Một là, xây dựng hệ thống văn bản pháp luật của TAND tối cao: thực tiễn

định tội danh trong xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác của ngành Tòa án là một kho tàng phong phú, đa dạng trong kinh

nghiệm giải quyết các vướng mắc xảy ra trong thời gian qua. Bên cạnh đó, là cơ

quan chính trong việc soạn thảo quy định của BLHS, các văn bản hướng dẫn của

TAND tối cao sẽ thể đúng mong muốn của các nhà làm luật đối với các quy định

của tội phạm này. Chính vì vậy, TAND tối cao nên nhanh chóng thực hiện việc

tổng kết thực tiễn áp dụng BLHS 2015 kể từ khi chính thức có hiệu lực thi hành

để kịp thời có các Nghị quyết hướng dẫn thi hành một số quy định cụ thể Điều

134 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói

riêng và nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe nói chung.

Hai là, xây dựng hệ thống văn bản pháp luật hình sự, tố tụng hình sự của

giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ quan có liên quan: Chất lượng của hoạt

động định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác không chỉ dừng lại ở việc phụ thuộc vào quá trình định tội danh của

Tòa án dựa trên quy định của pháp luật hình sự mà đó còn liên quan đến hoạt động

của các cơ quan tiến hành tố tụng khác. Muốn việc định tội danh của Tòa án đảm

bảo thì hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự (Cơ quan điều tra,

Viện kiểm sát) cũng phải được đảm bảo. Chính vì vậy, việc ban hành các Thông

tư liên tịch liên ngành Công an - Viện kiểm sát - Tòa án trong việc phối hợp hoạt

động giải quyết các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác là thực sự cần thiết.

Ba là, tiếp tục nghiên cứu ban hành án lệ về tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Việc nghiên cứu và phát triển hệ thống

án lệ nhằm nâng cao chất lượng hoạt động định tội danh tội phạm đã góp phần

bảo đảm việc áp dụng thống nhất quy định của pháp luật, giảm thiểu được tình

trạng duy ý chí của Thẩm phán khi nội dung của quan hệ pháp luật chưa rõ ràng,

70

còn mâu thuẫn. Vì vậy, trong tình trạng quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hiện nay còn nhiều tồn tại thì việc có

những án lệ về tội phạm này cũng phần nào có thể giảm bớt tình trạng định tội

danh sai trên thực tế. Hiện nay, TAND tối cao đã công bố tổng cộng 39 án lệ,

trong đó 7 án lệ về hình sự và chưa có án lệ nào về tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Bởi thế, trong thời gian tới, để đáp ứng

nhu cầu cấp bách của thực tiễn định tội danh, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao

cần tiếp tục nghiên cứu các phán quyết, quyết định về tội phạm này có khả năng

trở thành án lệ để tạo điều kiện cho việc bổ sung những thiếu sót, lỗ hổng của

pháp luật đang tồn tại, tạo ra sự thống nhất trong việc định tội danh giữa các cơ

quan tiến hành tố tụng và giữa các cấp tòa án.

3.2.2. Một số giải pháp khác

3.2.2.1. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, Điều

tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán

Việc hoàn thiện pháp luật hình sự phải đi đôi với việc đảm bảo công tác cán

bộ - tổ chức của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, bởi lẽ họ chính là những

chủ thể thực hiện việc định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác. Nhân lực luôn là yếu tố cốt lỗi đóng góp vào hiệu quả

của việc định tội danh, hay nói cách khác, điều tất yếu để chất lượng của việc định

tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

được nâng cao thì đòi hỏi phải có một đội ngũ nhân lực thực hiện việc định tội

danh thật sự trong sạch, vững mạnh, đủ về số lượng và giỏi về trình độ chuyên

môn nghiệp vụ. Dưới góc độ cá nhân, học viên xin đưa ra một số nội dung cụ thể

nhằm thực tiện giải pháp này như sau:

Một là, đẩy mạnh công tác tuyển chọn bổ sung lực lượng Điều tra viên,

Kiểm sát viên, Thẩm phán nhằm tranh quá tải trong công việc. Khó khăn về nhân

lực thiếu hụt là một trong những vướng mắc hiện nay mà hệ thống Tòa án hai cấp

thành phố Hà Nội nói riêng và hệ thống Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra nói chung

đang gặp phải. Vì vậy vấn đề tuyển dụng công chức, cán bộ cần phải được đẩy

71

mạnh hơn nữa để đảm bảo số lượng biên chế của mỗi đơn vị trong thành phố Hà

Nội. Trong việc tuyển dụng phải tính tới việc tuyển dụng những người tương lai

sẽ trở thành những Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán thực hiện hoạt động

định tội danh tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác mà chính vì vậy việc xem xét tổ chức xét tuyển dụng công chức với

các chính sách thu hút nhân tài trong cả nước, về tổ chức thi tuyển thì phải đáp

ứng được kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, có phẩm chất đạo

đức và bản lĩnh chính trị vững vàng. Việc tuyển chọn người dự tuyển cũng phải

được thực hiện nghiêm túc, không lựa chọn những người bị khiếm khuyết về thân

thể, hạn chế nhận thức, không nói lắp, nói ngọng. Hiện nay hệ thống các ngành

Công an, Viện kiểm sát, Tòa án đều đã thành lập các đơn vị sự nghiệp công lập là

Trường Đại học/Học viện để đào tạo chuyên sâu về từng ngành nhằm đáp ứng

nhu cầu về nhân lực. Tuy nhiên, trên thực tế đang gặp phải một tình trạng khó giải

quyết là số lượng lớn cử nhân luật tốt nghiệp trường Đại học Kiểm sát Hà Nội và

Học viện Tòa án nhưng chưa thể được tuyển dụng vào ngành Kiểm sát, Tòa án

dẫn đến lãng phí một lượng lớn nhân lực. Với những chính sách tinh giảm biên

chế trong hệ thống các cơ quan Nhà nước thời gian qua, bên cạnh những ưu điểm

đạt được thì cũng đang bắt đầu xảy ra bộc lột những nhược điểm đó là tạo ra khối

lượng công việc quá tải cho đội ngũ Kiểm sát viên, Thẩm phán tại Hà Nội nhưng

các đơn vị cũng không còn cách nào khác để tìm kiếm những lao động có thể giúp

đỡ họ trong việc giải quyết vụ án. Chính vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,

TAND tối cao nên xem xét lại việc cho các đơn vị địa phương tự do trong việc

tuyển dụng lao động làm việc Chuyên viên, Thư ký theo Nghị định số

68/2000/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 17/11/2000 để phụ cho đội ngũ cán bộ tại

các đơn vị trong thành phố Hà Nội. Giải pháp này một mặt tạo cơ hội việc làm

cho đội ngũ cử nhân luật tốt nghiệp Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Học viện

Tòa án nhưng chưa được tuyển dụng có cơ hội được tiếp xúc dần dần với công

việc tại các đơn vị, nâng cao được kinh nghiệm chuyên môn cho bản thân một mặt

cũng giúp cho đội ngũ Kiểm sát viên, Tòa án có thể chuyên tâm hơn vào công

72

việc của mình, từ đó làm tăng chất lượng hoạt động định tội danh tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Đồng thời kiến nghị

với Ủy ban thường vụ Quốc hội, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và TAND tối cao

khi phân bổ biên cho cho các đơn vị 2 cấp thành phố Hà Nội cần tính tới đặc yếu

tố đặc thù của Thủ đô Hà Nội thường rất nhiều án với tính chất, mức độ phức tạp

cao để phân bố chỉ tiêu biên chế phù hợp, góp phần giúp Viện kiểm sát, Tòa án

hai cấp thành phố Hà Nội hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vụ được giao.

Riêng về đội ngũ Hội thẩm nhân dân hiện nay tại thành phố Hà Nội cũng

cần phải chú trọng. Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm nhân dân tham

gia, đây là nội dung của nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử sơ thẩm có Hội thẩm

tham gia được quy định trong BLTTHS 2015. Trong việc xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự thông thường, Hội thẩm có quyền biểu quyết ngang với Thẩm phán chủ

tọa phiên tòa. Vì vậy, trong giai đoạn xét xử tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

chính Hội thẩm là chủ thể tham gia gián tiếp vào hoạt động định tội danh tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Vì vậy, TAND 2

cấp thành phố Hà Nội cần lựa chọn những cá nhân am hiểu nhất định chuyên sâu

về pháp luật hình sự nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức

khỏe của người khác nói riêng, có kinh nghiệm thực tiễn trong việc xử lý tội phạm,

uy tín cao trong địa bàn thành phố sau đó mới đề nghị Hội đồng nhân dân hai cấp

thành phố Hà Nội bổ nhiệm theo quy định của pháp luật.

Hai là, nâng cao năng lực công tác và trình độ chuyên môn của đội ngũ cán

bộ. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ luôn là giải pháp quan trọng

trong việc cải thiện chất lượng hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc

xây dựng đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán có phẩm chất đạo đức

tốt, trình độ chuyên môn cao là một yêu cầu cáp bách nhất trong giai đoạn hiện

nay của thành phố Hà Nội trước sự gia tăng nhanh chóng của tội phạm nói chung

và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói

riêng.

73

Để thực hiện được điều đó hàng quý, hàng năm ngành Công an, Kiểm sát,

Tòa án cần có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, tập huấn thường xuyên cho đội ngũ

công nhân viên chức của các đơn vị trong thành phố. Nội dung tập huấn là việc

đào tạo chuyên sâu về những quy định của BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017,

BLTTHS, việc định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác và các tội phạm khác phổ biến trong địa bàn thành phố. Hiện

nay mỗi ngành đều đã có các đơn vị sự nghiệp công lập có chuyên môn giáo dục,

huấn luyện như đã kể trên, vì vậy để đảm bảo nội dung tập huấn thì các ngành cần

nâng cao hoạt động của các trường, học viện trong việc nghiên cứu, xây dựng các

chương trình bồi dưỡng chuyên sau về không chỉ là định tội danh tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn thương cho sức khỏe của người khác mà còn là những

kiến thức phục vụ cho công tác chuyên môn nói chung.

Đồng thời mỗi đơn vị phải thường xuyên tổ chức các cuộc họp nhằm tháo

gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật trên thực tế

từ đó tạo ra kinh nghiệm cho mọi người trong đơn vị, là cơ hội để tổng hợp những

khó khăn vướng mắc báo cáo với các Bộ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, TAND

tối cao về thực tiễn áp dụng pháp luật.

Ngoài ra, công tác giáo dục tư tưởng chính trị cũng phải được chú trọng.

Như đã phân tích, các yêu cầu về chính trị xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt

động định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác. Việc nhận thức những chủ trương, đường lối của Đảng trong công

tác đấu tranh phòng chống tội phạm không chỉ là trách nhiệm của các nhà làm luật

trong việc xây dựng hệ thống pháp luật tiến bộ mà đó còn là trách nhiệm của chính

những chủ thể áp dụng những quy định pháp luật ấy. Vì vậy, hàng năm, các cơ

quan tiến hành tố tụng phải rà soát, lên danh sách cử các cán bộ đủ điều kiện tham

gia các lớp học bồi dưỡng chính trị trung cấp, cao cấp đảm bảo các Nghị quyết,

chỉ thị của Đảng có liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm được

quán triệt kịp thời.

74

Tổ chức nhiều cuộc thi tìm hiểu nghiên cứu về chủ nghĩa Mác – Lenin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, về pháp luật hình, tố tụng hình sự giữa các cơ quan tiến hành

tố tụng với nhau, phong trào thi đua, vận động trong từng đơn vị nhằm tạo ra tính

thi đua, học hỏi giữa đội ngũ công nhân viên chức.

Tiếp tục tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm trong từng ngành và liên

ngành. Đây được coi là giải pháp hữu hiệu để mỗi Điều tra viên, Kiểm sát viên,

Thẩm phán có thể nhìn ra được những sai lầm của mình trong việc giải quyết vụ

án cũng như học tập thêm kinh nghiệm từ các đồng nghiệp khác. Cần phải nhận

thức rõ các phiên tòa rút kinh nghiệm không phải chỉ mang tính hình thức, phong

trào, thi đua chấm điểm trong đội ngũ cán bộ mà phải hiểu rằng đó là hình thức

quan trọng nhất để đánh giá hoạt động thực tiễn của Kiểm sát viên, Thẩm phán

tại phiên tòa cũng như tính chính xác trong hoạt động của Điều tra viên.

Đây chính là những hoạt động thiết thực nhất để giúp đội ngũ Điều tra viên,

Kiểm sát viên, Thẩm phán có thể nhanh chóng nắm vững những quy định của

pháp luật cũng như tạo điều kiện học hỏi thêm kinh nghiệm từ các cán bộ khác về

cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho hoạt động định tội danh tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được chặt chẽ và khoa học.

Ba là, nâng cao hiệu quả hoạt động của cấp lãnh đạo trong công tác tổ chức,

quản lý, chỉ đạo, điều hành tại các đơn vị. Cấp lãnh đạo luôn giữ vai trò quan trọng

trong bất kỳ một cơ quan, tổ chưc nào, họ chính là trực tiếp quản lý và liên kết

các thành viên trong đơn vị với nhau, tạo ra sự vững mạnh của đơn vị cả về chuyên

môn lẫn tổ chức. Cấp lãnh đạo của mỗi đơn vị trong thành phố Hà Nội cần phải

thật sự gần gữi và nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của từng cán bộ để bố trí sắp

xếp nhân lực vào từng công việc cụ thể một cách khoa học, tận dụng tối đa ưu

điểm và hạn chế nhược điểm của từng người, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm

pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án. Kịp thời triển khai, thực hiện các nhiệm

vụ chính trị trong đơn vị. Bên cạnh đó, chính cấp lãnh đạo là những người đi đầu

trong việc trau dòi kiến thức, đảm bảo trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững chắc

kịp thời giải quyết các khó khăn vướng mắc trong hoạt động định tội danh tội cố

75

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng và hoạt

động điều tra, truy tố, xét xử nói chung.

Cuối cùng, giải pháp quan trọng nhất vẫn chính là sự nỗ lực cố gắng ngày

càng hoàn thiện bản thân của mỗi Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán. Mỗi

chủ thể định tội danh phải nhận thức được tầm quan trọng hoạt động mà mình

đang thực hiện có ý nghĩa rất lớn đến các cá nhân trong xã hội, chỉ cần việc định

tội danh sai có thể dẫn đến những quyền, lợi ích của họ bị mất đi một cách đáng

kể, đồng thời còn làm giảm đi sự tin cậy của nhân dân, của cấp lãnh đạo dành cho

họ. Vì vậy, mỗi cá nhân phải tự mình tích cực rèn luyện, học tập nâng cao trình

độ chuyên môn, nghiệp vụ trong việc định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Mỗi người phải cố gắng nâng cao khả

năng phân tích, tư duy logic để ứng biến được những tình huống thực tế có thể

xảy ra. Thường xuyên tự đánh giá kết quả định tội danh sau mỗi vụ án, lắng nghe

ý kiến đóng góp từ đồng nghiệp, từ dư luận.

3.2.2.2. Tăng cường cơ sở vật chất – nâng cao điều kiện làm việc cho các

cơ quan tiến hành tố tụng

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của yêu cầu cải cách tư pháp là việc

xây dựng môi trường làm việc thoải mái, phù hợp, tạo điều kiện cho các chủ thể

tiến hành tố tụng có thể hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Ngoài ra

yêu cầu về việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước hiện đại hóa

trình tự, thủ tục tố tụng hình sự cũng đang được quan tâm. Do đó, để nâng cao

chất lượng hoạt động định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác thì giải pháp pháp cải thiện cơ sở vật chất và phương

tiện làm việc ở các cơ quan tiến hành tố tụng của thành phố Hà Nội cũng phải

được đầu tư thích hợp.

Thứ nhất, tiếp tục kiến nghị với Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân

thành phố Hà Nội quan tâm sớm đẩy nhanh tiến độ thực hiện xây dựng trụ sở

TAND thảnh phố Hà Nội và hỗ trợ đầu tư, cải tạo, sửa chữa, nâng cấp, mở rộng

76

trụ sở các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, TAND cấp huyện theo quy hoạch các

cơ quan tư pháp đã dược thành phố xem xét, phê duyệt.

Thứ hai, tiếp tục kiến nghị đầu tư trang thiết bị làm việc, hỗ trợ kinh phí để

thực hiện công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án nói chung, những vụ

án lớn, phức tạp nói riêng, kinh phí để tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin

trong hoạt động của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Đồng thời cần lên

những kế hoạch nhằm ứng phó với tình hình dịch bệnh Covid-19 như hiện nay,

gây ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ giải quyết vụ án, cần có những phương án

dự trù khi dịch bệnh quay trở lại, đảm bảo công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét

xử vẫn đảm bảo đúng thời hạn, từ đó làm giảm khối lượng công việc đang tồn

động rất nhiều trong năm 2020.

Thứ ba, cùng với việc hiện đại hóa cơ sở vật chất và trang thiết bị thì cũng

cần phải quan tâm, chăm sóc đến chế độ lương bổng của Điều tra viên, Kiểm sát

viên, Thẩm phán đảm bảo thu nhập và điều kiện sống của họ khi làm sinh sống

và làm việc tại Thủ đô. Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy Đảng trong thành phố trong

công tác quản lý cán bộ nhằm khen thưởng kịp thời, xứng đáng cho các tập thể,

cá nhân có nhiều thành tích trong công tác. Xây dựng thêm nhiều cơ chế đặc thù

trong từng ngành hoặc liên ngành nhằm khen thưởng, phụ cấp thích đáng đối với

cán bộ có nhiều thành tích tốt, đạt hiệu quả cao trong công tác định tội danh tội

phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói

riêng và công cuộc phòng chống tội phạm nói chung.

3.2.2.3. Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa các cơ quan tiến hành

tố tụng

Không chỉ riêng trong hoạt động định tội danh, mà bất kỳ hoạt động nào

cần có sự tham gia của nhiều chủ thể thì sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa

các chủ thể định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác là chìa khóa dẫn đến kết quả tốt nhất.

Nhận thức được tầm quan trọng đó trong tố tụng hình sự, Đảng và Nhà

nước cũng có nhiều văn bản thể hiện sự cần thiết trong việc xây dựng mối quan

77

hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP

về tăng cường công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới của Chính phủ

ngày 31/7/1998 lần đầu tiên đề cập:

“Đề nghị Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao có kế

hoạch phối hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật thuộc Chính phủ đẩy

mạnh công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm một cách kịp thời và nghiêm

minh.”

Ngoài ra, Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số

49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị cũng đề cập đến tầm quan trọng của

mối quan hệ phối hợp này.

Hoạt động định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác chỉ đạt được hiệu quả mà Đảng và Nhà nước mong muốn

khi cả ba cơ quan: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án cùng thực hiện tốt

nhiệm, quyền hạn của mình. Không thể truy tố nếu không có việc điều tra tội

phạm, càng không thể xét xử nếu không có sự buộc tội, chính vì vậy cả 3 cơ quan

này phải có trách nhiệm phối hợp với nhau trong việc thực hiện hoạt động định

tội danh.

Đối với Cơ quan điều tra là chủ thể nồng cốt trong việc đấu tranh phòng

chống tội phạm nói chung và xác định việc định tội danh tội cố ý gây thương tích

hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng. Vì vậy, khi thực hiện nhiệm

vụ của mình Điều tra viên phải thực hiện đúng quy định của BLTTHS về trình tự,

thủ tục khởi tố, điều tra vụ án hình trong đó cần phải phối hợp hoạt động với Viện

kiểm sát nhằm hợp pháp hóa hoạt động điều tra của mình, thực hiện đầy đủ các

yêu cầu kiểm tra xác minh, yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên, những vụ án cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phức tạp, nghiêm

trọng thì phải phối hợp mở các cuộc họp liên ngành để xác định hướng xử lý phù

hợp.

Đối với Viện kiểm sát là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát việc

tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Viện kiểm sát phải thường xuyên phối

78

hợp với Cơ quan điều tra trong việc điều tra, truy tố các vụ án về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, phối hợp với Tòa án

trong việc kiểm tra các cơ sở của việc định tội danh, thống nhất quan điểm xử lý.

Đối với Tòa án là cơ quan thực hiện hoạt động xét xử cần phải phối hợp

chặt chẽ với Viện kiểm sát đểm đảm bảo các bản án, quyết định – là kết quả của

việc định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác đúng quy định của pháp luật, đúng người, đúng tội, không làm oan

người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.

Do đó, phải duy trì mối quan hệ này để phối hợp định kỳ hướng dẫn giải

quyết những vụ án điểm, phức tạp có sự khác nhau về quan điểm định tội danh tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, lựa chọn

những vụ án nổi bật để tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm để tạo cơ sở đánh giá

hoạt động của từng ngành, thẳng thắn chỉ ra những nhược điểm của nhau, tránh

bao biện, thiên vị, nể nang nhau giữa Thẩm phán, Kiểm sát viên và Điều tra viên.

3.2.2.4. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật luôn là một trong những giải

pháp pháp cơ bản nhất trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Biên

pháp này nếu được thực hiện tốt sẽ làm tăng nhận thức về tội phạm trong bộ phận

người dân trong thành phố, từ đó làm khả năng tội phạm cố ý gây thương tích

hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra. Ngược lại, nếu biện pháp này

không được thực hiện hay thực hiện một cách qua loa, sơ sài thì tình hình tội phạm

trên địa bàn thành phố Hà Nội sẽ không huyên giảm. Tội phạm xảy ra càng nhiều,

áp lực công việc cho các chủ thể định tội danh càng lớn, nó không chỉ ảnh hưởng

trực tiếp đến chất lượng của hoạt động này mà còn gián tiếp ảnh hưởng đến công

tác đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung. Vì vậy, dù là biện pháp cơ bản và

truyền thống nhất, nhưng vẫn phải đảm bảo việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật được thực hiện trong thành phố. Tuy vậy, cũng cần phải đổi mới tư duy

trong việc thực hiện biện pháp này.

79

Thứ nhất, duy trì và đẩy mạnh việc xét xử nhiều hơn các phiên tòa lưu động

về tội cố ý gay thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, qua đó

trực tiếp giáo dục pháp luật về tội phạm này cho nhân dân, răn đe, phòng ngừa và

hạn chế các hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác, nhất là ở các huyện xa trung tâm thành phố như Thạch Thất, Sơn Tây, Ba

Vì, Quốc Oai, Sóc Sơn,… hay ở các quận trung tâm nơi tội phạm diễn ra phổ biên

như: Hà Đông, Đống Đa, Thanh Xuân, Cầu Giấy. Chỉ riêng trong năm 2020,

TAND hai cấp thành phố Hà Nội đã tích cực tuyên truyền, giáo dục pháp luật

thông qua xét xử lưu động và án điểm; phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng

và chính quyền các địa phương xét xử 767 vụ án điểm và xét xử lưu động 06 vụ

tại các xã, phường, thị trấn, tại các trường Đại học.27 Có thể thấy, đây là một trong

những giải pháp thực tiễn hiệu quả nhất trong việc răn đe đối với những cá nhân

có ý định thực hiện hành vi phạm tội.

Thứ hai, tăng cường và đa dạng hóa các hoạt động tuyên truyền, giáo dục

trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhiệm vụ này không thuộc trách nhiệm

của các cơ quan tiến hành tố tụng mà thuộc về các cơ quan quản lý hành chính

nhà nước. Công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm không phải là nhiệm vụ

của riêng mỗi các cơ quan tiến hành tố tụng mà đó còn là sự tham gia quyết liệt

của các cấp, các ngành trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trước hết là tiếp tục sử

dụng các phương tiện thông tin đại chúng truyền thống như: sách, báo, loa, đài

phát thanh, đài truyền hình thành phố Hà Nội,… đưa tin về các vụ cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong thành phố; Sở Tư Pháp

thành phố Hà Nội phối hợp với Phòng Tư pháp cấp huyện và chính quyền địa

phương cấp huyện, xã trong việc tổ chức các buổi phổ biến, giáo dục pháp luật

hình sự tại các nơi thường xuyên xảy ra tội phạm này, mà đặc biệt là chú trọng

đến các trường học khi vấn nạn bạo lực học đường vẫn còn là tệ nạn phổ biến

trong thành phố; đẩy mạnh công tác sách tác áp phích, tranh vẽ tuyên truyền về

pháp luật hình sự ở nơi công cộng, đặc biệt là các khu trung tâm thương mại, siêu

27 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Báo cáo kết quả công tác năm 2020 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2021 của Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Hà Nội, Hà Nội, 2020.

80

thị, công viên lớn trên địa bàn thành phố. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng có

thể phối hợp với TAND hai cấp thành phố Hà Nội trong việc phát trực tuyến phiên

tòa xét xử vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác lên các nền tảng trực tuyến như báo điện tử, mạng xã hội khi hiện nay

mọi người trong xã hội đều được hiện đại hóa, do đó các phiên tòa được phát trực

tuyến trên các nền tảng sẽ dễ dàng tiếp cận với người dân hơn, từ đó đạt được hiệu

quả cao trong công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật.

81

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Trong việc hoàn thiện định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác trong địa bàn thành phố Hà Nội trước hết cần

phải nhận thức đầy đủ các yêu cầu mà Đảng, Nhà nước và thực tiễn xã hội đặt ra,

đồng thời là cốt lỗi trong việc xây dựng các giải pháp mang tính khả thi cao.

Những giải pháp cụ thể để hoàn thiện việc định tội danh tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà Luận văn đưa ra dựa trên

tình hình thực tế trong hoạt động định tội danh tội phạm này trên địa bàn thành

phố Hà Nội trong giai đoạn từ 2016 đến năm 2020:

- Hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự;

- Hoàn thiện yếu tố con người trong việc định tội danh;

- Tăng cường nâng cao cơ sở - vật chất kỹ thuật của các cơ quan tiến hành

tố tụng;

- Đảm bảo mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng;

- Tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật trong cộng đồng.

82

KẾT LUẬN

Từ việc nghiên cứu đề tài: “Định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, dựa

trên các nghiên cứu khoa học, văn bản pháp luật, học viên đã tương đối làm rõ và

hệ thống được những vấn đề cụ thể sau đây:

Định tội danh là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật, mang tính quyền

lực nhà nước, trên cơ sở các tình tiết thực tế của hành vi phạm tội các cơ quan có

thẩm quyền phân tích, đối chiếu, so sánh các tình tiết đó với các yếu tố cấu thành

tội phạm của một tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự, tạo tiền

đề cho các hoạt động khác trong việc xử lý tội phạm diễn ra nhanh chóng, chính

xác.

Định tội danh Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người

khác là hoạt động áp dụng pháp luật, mang tính quyền lực nhà nước do cơ quan,

người có thẩm quyền thực hiện trên cơ sở các chứng cứ có liên quan đến các tình

tiết, sự kiện thực tế của vụ án để phân tích, đối chiếu, so sánh và kết luận sự chính

xác giữa hành vi của một người có năng lực trách nhiệm hình sự cố ý thực hiện

nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác một cách

trái pháp luật được Bộ luật Hình sự quy định với các tình tiết, sự kiện đã diễn ra

trên thực tế, qua đó làm tiền đề để quyết định những vấn đề khác trong việc xử lý

tội phạm

Việc định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác mang đến những ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt từ chính trị - xã

hội cho đến pháp ý. Tuy vậy, việc định tội danh tội phạm này phải được thực hiện

dựa trên những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nhất định.

Tìm hiểu về lịch sự hình thành và phát triển của định tội danh tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhận thấy hoạt động

này đã sớm được hình thành từ những ngày đầu thành lập Nhà nước, qua đó có

83

thể thấy tính phổ biến của tội phạm và hoạt động định tội danh cũng như tầm quan

trọng của nó trong chiều dài phát triển của đất nước.

Từ thực tiễn hoạt động định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Hà Nội trong giai đoạn

2016-2020 đã cho thấy những kết quả tích cực trong hoạt động này, đáp ứng được

công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trên phạm vi thành phố về loại tội phạm

này, tuy nhiên, tích cực là vậy nhưng vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định

trong công tác định tội danh xuất phát từ những nguyên nhân khách quan, chủ

quan không đáng có.

Trên cơ sở thực tiễn tại thành phố Hà Nội cũng như những yêu cầu đặt ra

trong việc định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác, Luận văn cũng đã nêu lên những giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt

động này. Đây là những giải pháp mang ý chí chủ quan của học viên, qua đó, học

viên cũng hy vọng những giải pháp trên trở thành một nguồn tham khảo hữu hiệu

cho các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và cả

nước nói chung cho việc hoàn thiện hoạt động định tội danh tội phạm cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Văn Beo, Luật Hình sự Việt Nam – Quyển 1 (Phần chung), Nhà xuất

bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009.

2. Trần Văn Biên, Đinh Thế Hưng (Chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật hình

sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung, năm 2017), Nhà xuất bản Thế giới, 2017.

3. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2001, Hà Nội, 2001.

4. Bộ Chính trị, Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày 02/6/2005, Hà Nội, 2001.

5. Lê Cảm, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh (Tài liệu giảng

dạy sau đại học), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2003.

6. Lê Cảm, Trịnh Quốc Toản, Định tội danh: Lý luận, lời giải mẫu và 500 bài

tập thực hành, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2011.

7. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI.

8. Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nhà xuất bản công an

nhân dân, Hà Nội, 2008.

9. GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự

năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Phần các tội phạm) – Quyển 2, Nhà

xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2018.

10. Chủ tịch chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Sắc lệnh của Chủ

tịch chính phủ lâm thời số 47 ngày 10 tháng 10 năm 1945, Hà Nội, 1945.

11. Chủ tịch chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Sắc lệnh của Chủ

tịch nước số 13 ngày 24 tháng Giêng năm 1946, Hà Nội, 1946.

12. Chính phủ, Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP về tăng cường công tác phòng

chống tội phạm trong tình hình mới của Chính phủ ngày 31/7/1998, Hà Nội,

1998.

13. Nguyễn Việt Hà, Luận văn Thạc sĩ: “Định tội danh đối với tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Luật Hình sự

85

Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Tuyên Quang)”, Khoa Luật – Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2017.

14. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết số 02-HĐTP-

TANDTC/QĐ ngày 05/01/1986, Hà Nội, 1986.

15. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết số 02-/HĐTP/NQ

ngày 16/11/1988, Hà Nội, 1988.

16. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ

ngày 19/04/1989, Hà Nội, 1989.

17. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết số 02/2003/NQ-

HĐTP ngày 17/4/2003, Hà Nội, 2003.

18. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết số 01/2006/NQ-

HĐTP ngày 12/5/2006, Hà Nội, 2006.

19. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết số 01/2007/NQ-

HĐTP ngày 02/10/2007, Hà Nội, 2007.

20. Hội đồng Quốc gia, Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nhà xuất bản Từ điển Bách

khoa, Hà Nội, 2003.

21. Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập II (1975 – 1978) TANDTC xuất bản năm

1979.

22. An Văn Khoái, “N phạm tội cố ý gây thương tích do vượt quá phòng vệ chính

đáng”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 03, Hà Nội, 2011.

23. TS. Nguyễn Đức Mai, Bình luận khoa học – Bộ luật Hình sự (hiện hành) (sửa

đổi, bổ sung năm 2017), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật, thành phố

Hồ Chí Minh, 2018.

24. Dương Tuyết Miên, Định tội danh và quyết định hình phạt, Nhà xuất bản Lao

động – Xã Hội, Hà Nội, 2005.

25. Trần Thảo Nguyên, Luận văn Thạc sĩ: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Luật Hình sự Việt Nam (Trên cơ sở

thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh)”, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội,

Hà Nội, 2020.

86

26. Dương Mai Phương, Luận văn thạc sĩ: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn

tỉnh Lạng Sơn”, Học viện Khoa học xã hội – Viện Hàn Lâm khoa học xã hội

Việt Nam, Hà Nội 2016.

27. Lương Minh Phương, Luận văn thạc sĩ: “Áp dụng pháp luật trong xét xử sở

thẩm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người của Tòa án nhân dan

ở tỉnh Bắc Ninh”, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà

Nội, 2013.

28. Phan Văn Quân: “Lê Hữu N phạm tội cố ý gây thương tích do vượt quá phòng

vệ chính đang theo khoản 1 Điều 106 Bộ luật Hình sự”, tạp chí Tòa án nhân

dân số 03, Hà Nội, 2011.

29. Quốc hội, Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà

Nội, 1985

30. Quốc hội, Luật số 30-LCT/HĐNN8 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật

Hình sự, Hà Nội, 1989.

31. Quốc hội, Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà

Nội, 1999 sửa đổi, bổ sung 2009.

32. Quốc hội, Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà

Nội, 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

33. Quốc hội, Bộ luật Tố tụng Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Hà Nội, 2015.

34. Quốc hội, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội,

2013.

35. Quốc hội, Luật người cao tuổi, Hà Nọi, 2009.

36. Đinh Văn Quế, Bình luật khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội phạm), tập

1 Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh sự của con người,

(Bình luận chuyên sâu), Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ

Chí Minh, 2002.

87

37. Thủ tướng Chính phủ, Thông tư của Thủ tướng Chính phủ số 442-TTg ngày

19-1-1955 về trừng trị một số tội phạm, Hà Nội, 1955.

38. Vũ Thanh Thủy, Luận văn Thạc sĩ: “Định tội danh các tội xâm phạm sức

khỏe của con người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái

Bình”, Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn Lâm Khoa học Xã Hội Việt

Nam, Hà Nội, 2018.

39. Trịnh Quốc Toản, “Những vấn đề lý luận về định tội danh và hướng dẫn giải

bài tập định tội danh”, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999.

40. Lê Đình Tĩnh, Luận văn thạc sĩ: “Các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại sức khỏe người khác trong luật hình sự Việt Nam”, Khoa Luật – Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2014.

41. Thân Đình Trung, Luận văn thạc sĩ: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn

quận Long Biên, thành phố Hà Nội”, Hà Nội, 2016.

42. Tòa án nhân dân quận Hà Đông, Bản án số 221/2018/HSST ngày 27/11/2018.

43. Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, Bản số 153/2018/HSST ngày

22/11/2018.

44. Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, Bản án số 176/2019/HSST ngày 22/7/2019.

45. Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Bản án số 228/2020/HSST ngày 16/7/2020.

46. Tòa án nhân dân quận Long Biên, Bản án số 168/2020/HSST ngày 16/7/2020.

47. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Báo cáo kết quả công tác các năm 2016,

2017, 2018, 2019, 2020.

48. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần các tội

phạm), Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2018.

49. Phạm Minh Tuyên, “Một số ý kiến về tội cố ý gạy thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác theo quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự

2015”, Tạp chí Tòa án nhân dân, Hà Nội, 2018.

50. Võ Khánh Vinh, Lý luận chung về định tội danh, Nhà xuất bản Khoa học Xã

hội, Hà Nội, 2013.

88

51. GS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên), Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần

các tội phạm, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2014.

89