VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG KIM THOA
HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ SƠ THẨM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG KIM THOA
HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ SƠ THẨM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ
Hà Nội, 2019
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HOẠT
ĐỘNG BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ .................................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nhiệm vụ của hoạt động bào chữa của luật sư giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ....................................................................... 6
1.2 Các yếu tố tác động đến hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm ............................................................................................................... 13
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA TRONG GIAI
ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI .......................................................................................................... 43
2.1. Khái quát tình hình tội phạm, tình hình hoạt động của cơ quan tố tụng
trên địa bàn Hà Nội ............................................................................................. 43
2.2 Hoạt động bào chữa trong xét xử sơ thẩm vụ án hình trên địa bàn thành
phố Hà Nội.......................................................................................................... 48
2.3 Những hạn chế, tồn tại trong hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án trên địa bàn và nguyên nhân ....................................................... 51
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BÀO
CHỮA TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ
HÀ NỘI .................................................................................................................... 58
3.1 Yêu cầu cải cách tư pháp, bảo vệ quyền con người, quyền bào chữa của
bị can, bị cáo ....................................................................................................... 58
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa trong đoạn xét xử
sơ thẩm .............................................................................................................. 65
3.3 Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm .................. 66
3.4 Xây dựng cơ chế tạo điều kiện cho người bào chữa, luật sư chủ động
tham gia bào chữa ............................................................................................... 69
3.5 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật, tổ chức và xây dựng đội ngũ luật sư .......... 73
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 86
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
LLS Luật luật sư
PLTTHS Pháp luật tố tụng hình sự
CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng
THTT Tiến hành tố tụng
TAND Tòa án nhân dân
TANDCC Tòa án nhân dân cấp cao
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
HĐXX Hội đồng xét xử
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDCC Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
KSV Kiểm sát viên
NBBT Người bị buộc tội
NBC Người bào chữa
QBC Quyền bào chữa
QCN Quyền con người
TNHS Trách nhiệm hình sự
VAHS Vụ án hình sự
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Thống kê kết quả giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm của Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội từ 2009 đến tháng 6 năm 2019 .............................. 46
Biểu đồ 2.2. Thống kê kết quả giải quyết các vụ án hình sự phúc thẩm của Tòa
án nhân dân thành phố Hà Nội từ 2009 đến tháng 6 năm 2019 ......................... 47
Biểu đồ 2.3. Thống kê kết quả giải quyết các vụ án hình sự ở cả hai cấp của Tòa
án nhân dân thành phố Hà Nội từ 2009 đến tháng 6 năm 2019 ......................... 47
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân số hiện tại của nước Việt Nam là 97.436.770 người vào ngày
04/07/2019 - theo số liệu thống kê mới nhất từ Liên Hợp Quốc. Tỷ lệ trẻ em phụ
thuộc ở nước ta hiện nay là khoảng 33,2% (Nguồn: https://danso.org/viet-nam/).
Như vậy, căn cứ theo thống kê và các quy định của pháp luật hình sự thì có khoảng
64 % công dân Việt Nam đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Khi có đủ năng lực trách
nhiệm hình sự, công dân đó đã nhận thức được hành vi của mình và xã hội, công
dân phải điều khiển được hành vi, phải ý thực được sự nguy hiểm của hành vi của
mình, phải lựa chọn hành vi khác phù hợp với hoàn cảnh thực tế. Hiến pháp 2013
cũng đã nêu rõ về quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Pháp luật Tố
tụng Hình sự cũng quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội, quyền và
nghĩa vụ của người bào chữa, theo đó vấn đề bảo vệ, bào chữa cho người bị buộc tội
trong vụ án hình sự của người bào chữa là luật sư là một vấn đề cấp thiết được đặt
ra trong cả lý luận và thực tiễn, nếu làm tốt sẽ giúp cho chính sách pháp luật hình sự
của Đảng và Nhà nước ta đến được với cuộc sống, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, hạn chế được tội phạm trong tương lai, đem lại sự bình yên cho xã hội.
Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư bào chữa trong các vụ án hình sự hiện
nay còn nhiều bất cập như: Thủ tục cấp Thông báo người bào chữa cho luật sư bào
chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự gặp nhiều khó khăn, phiền hà từ thủ tục
hành chính xuyên suốt từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Những rắc rối, vướng
mắc phát sinh từ thủ tục cấp thông báo người bào chữa cho luật sư tham gia tố tụng
xuất phát nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ những quy định của pháp
luật, từ các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, từ tòa án. Ngoài ra, những vấn đề bất
cập khác của hoạt động bào chữa như việc thu thập chứng cứ của luật sư, yêu cầu
Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung, triệu tập người làm chứng, triệu tập điều tra viên,
triệu tập người giám định…vẫn còn nhiều cản trở tới hoạt động bào chữa của luật
sư. Sự không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, các tổ chức liên
quan dễ dẫn đến cách hiểu luật và áp dụng luật chưa thống nhất, làm ảnh hưởng đến
1
hoạt động và kết quả bào chữa cho bị can, bị cáo của luật sư bào chữa.
Hoạt động bào chữa của luật sư là vấn đề cấp thiết, hiện nay có rất ít công
trình nghiên cứu khoa học về hoạt động bào chữa của luật sư, mới chỉ có những bài
báo chí, tạp chí luật sư viết ngắn gọn về các hoạt động đơn lẻ, chưa mô tả hết hoạt
động của luật sư bào chữa để cho các cơ quan tố tụng hình sự có thẩm quyền và
người dân hiểu rõ thế nào là hoạt động bào chữa của luật sư trong các vụ án hình sự
sơ thẩm, từ đó gáp phần nâng cao nhận thức xã hội, để có sự phối hợp chặt chẽ từ
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với luật sư bào chữa.
Để làm tốt được những vấn đề liên quan đến hoạt động bào chữa của luật sư,
có thể thấy vai trò của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là đặc biệt quan trọng.
Do đó, đề tài “Hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ
thực tiễn thành phố Hà Nội” được tác giả chọn nghiên cứu với mục đích làm rõ hoạt
động bào chữa, quyền và nghĩa vụ của luật sư trong vụ án hình sự theo quy định của
hệ thống pháp luật hình sự hiện hành, đánh giá về những khó khăn, trong quá trình
thực hiện hoạt động bào chữa, đồng thời đưa ra biện pháp bảo đảm hoạt động bào
chữa, quyền bào chữa, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua việc tìm hiểu các nội dung của những tài liệu, đề tài nghiên cứu khoa học khác
có liên quan đến hoạt động bào chữa của luật sư trong các vụ án hình sự, tác giả nhận
thấy rất ít công trình, bài viết liên quan trực tiếp đến nội dung luận văn này. Có một số
công trình, bài viết đề cập đến từng khía cạnh của hoạt động này, cụ thể như sau:
- Ngô Thị Ngọc Vân (2016), “Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”, Luận án tiến sĩ luật học [57].
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Tài liệu Hội thảo khoa học “Nâng cao vai trò
của Luật sư trong tố tụng hình sự”, Hà Nội.
- Bùi Minh Nghĩa (2017), “Vai trò của Luật sư trong việc thu thập, đánh giá
và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ [37]
- Nguyễn Thị Thanh Hương (2017), “Hoạt động thu thập tài liệu, đồ vật,
tình tiết liên quan đến việc bào chữa của Luật sư trong Tố tụng hình sự”,Luận văn
thạc sĩ [30].
2
- Các Tạp chí Luật sư Việt Nam.
Và một số tài liệu nghiên cứu liên quan khác…
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu quan điểm, chính sách, quy định pháp luật
về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, thực tiễn hoạt động của luật sư bào chữa
trong các vụ án hình sự ở giai đoạn xét xử sơ thẩm tại thành phố Hà Nội, từ đó đưa ra
các định hướng, giải pháp để hoàn thiện pháp luật Hình sự và Tố tụng Hình sự.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
Làm rõ vấn đề lý luận về hoạt động của luật sư bào chữa trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự thông qua hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam.
Phân tích các quyền, nghĩa vụ của người bào chữa trong quá trình tham gia
tố tụng vụ án hình sự sơ thẩm, đối chiếu với thực tiễn trong hoạt động bào chữa
của luật sư tại thành phố Hà Nội, từ đó đưa ra các giải pháp dựa trên cơ sở thực tiễn
để góp phần hoàn thiện hơn nữa cho hệ thống pháp luật Hình sự và thực tiễn áp
dụng pháp luật Hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các quy định luật hình sự như: BLTTHS, BLHS,
Luật Tổ chức cơ quan điều tra Hình sự, Luật tạm giam tạm giữ, Luật Thi hành tạm
giam tạm giữ, Luật giám định tư pháp, và các văn bản pháp luật liên quan ...
Đối tượng nghiên cứu của luận văn còn là hoạt động bào chữa của luật sư
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội dựa trên
lý luận pháp lý và thực tiễn về khái niệm, bản chất, hoạt động bào chữa trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của người bào chữa trong giai đoạn điều tra
VAHS; Các cơ sở, hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự theo pháp luật TTHS Việt Nam, thực trạng áp dụng pháp luật của
người bào chữa trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS theo pháp
luật TTHS, từ đó đưa ra những kiến nghị mở rộng, nâng cao vai trò của người bào
3
chữa là luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu Hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội dưới góc độ thực hiện quyền và nghĩa vụ
của NBC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Thành phố Hà
Nội. Tuy nhiên, do người bào chữa có thể là: Luật sư; Người đại diện của người bị
buộc tội; Bào chữa viên nhân dân; Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị
buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. Vì vậy, tác giả xin đưa ra giới hạn
phạm vi nghiên cứu chỉ về hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án Hình sự.
Về thời gian, luận văn nghiên cứu thực tiễn hoạt động bào chữa của luật sư
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự tại thành phố Hà Nội từ năm 2009 đến
hết tháng 6 năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Tác giả lựa chọn các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Sử dụng các số liệu, tài liệu thu thập
được, sử dụng kết quả để chứng minh cho việc luận giải, kết luận trong luận văn.
- Phương pháp thống kê hình sự: Sử dụng những số liệu từ thống kê để phân
tích hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự từ thực tiễn
Thành phố Hà Nội.
- Phương pháp lựa chọn án điển hình: Trong luận văn giới hạn, tác giả chỉ sử
dụng phương pháp chọn địa bàn Thành phố Hà Nội để phân tích, kết luận các nội
dung liên quan đến luận văn.
- Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn nêu cơ sở lý luận pháp luật về hoạt động người bào chữa (là luật
sư) trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự từ thực tiễn Thành phố Hà Nội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn với những trình bày, phân tích về địa vị
pháp lý của luật sư, cơ chế đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của luật sư trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam có
4
thể bổ sung cơ sở lý luận về địa vị pháp lý của luật sư, người bào chữa; sẽ là nguồn
tư liệu nghiên cứu, tham khảo cho các nhà khoa học, giảng viên, người bào chữa sử
dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy trong các cơ sở đào tạo sinh viên, các chức
danh tư pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo. Luận văn được kết cấu
thành 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về hoạt động bào chữa trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
thẩm vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội
Chương 2: Thực trạng hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả bào chữa trong xét xử sơ
5
thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hà Nội
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BÀO
CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nhiệm vụ của hoạt động bào chữa của luật sư
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Các khái niệm:
Giai đoạn tố tụng hình sự
Giai đoạn Tố tụng Hình sự (TTHS) là quy trình TTHS tương ứng với mỗi giai
đoạn nhất định nằm trong toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự.
Theo Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam của Trường Đại học luật Hà
Nội: "Tố tụng hình sự là quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của
pháp luật [55]. Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố
tụng (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án), người tiến hành tố tụng (điều tra viên,
kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm nhân dân và thư ký phiên tòa), người tham gia tố
tụng (bị can, bị cáo, người bào chữa...), của cá nhân, cơ quan nhà nước khác và tổ chức
xã hội góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của Luật Tố tụng hình sự".
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự
TTHS có thể phân chia thành nhiều giai đoạn: Giai đoạn điều tra, giai đoạn truy
tố, gia đoạn xét xử sơ thẩm, giai đoạn xét xử phúc thẩm…
Giai đoạn điều tra vụ án Hình sự là một bước của quá trình tiến hành TTHS
có mục đích là xem xét có dấu hiệu của tội phạm hay không để đưa ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự hay không khởi tố vụ án hình sự và tiến hành thu thập chứng cứ
chứng minh tội phạm và người phạm tội.
Cơ quan điều tra
Cơ quan điều tra là Cơ quan tiến hành tố tụng, có nhiệm vụ áp dụng mọi biện
pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định, tiến hành điều tra tất cả các tội phạm xảy
ra theo thẩm quyền. Cơ quan điều tra gồm: Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an,
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp
huyện; Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an, Cơ quan An ninh điều tra cấp tỉnh,
Cơ quan An ninh điều tra cấp huyện. Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao có Cơ quan
6
điều tra Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao và một số cơ quan khác.
Chủ thể tiến hành tố tụng Giai đoạn điều tra vụ án Hình sự là Cơ quan điều
tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Mỗi loại chủ thể khi tham gia tố tụng giai đoạn này tuy có hành vi tố tụng và thẩm
quyền tố tụng khác nhau, nhưng tất cả các chủ thể này phải phục vụ cho mục đích
chung của TTHS là phát hiện chính xác, xử lý, ngăn chặn kịp thời mọi hành vi
phạm tội nhưng cũng không được làm oan, sai người vô tội.
Điều tra vụ án Hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự mà theo đó Cơ quan Điều
tra có thẩm quyền sẽ căn cứ vào các quy định của hệ thống pháp luật Tố tụng Hình
sự, dưới sự kiểm sát chặt chẽ của Viện Kiểm sát để tiến hành các biện pháp cần
thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ vụ án.
Điều tra vụ án Hình sự là chức năng quan trọng trong hoạt động Tố tụng
Hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền đối với mỗi hành vi phạm tội
nhằm chứng minh hành vi phạm tội, người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm
bằng các chứng cứ đã thu thập được khách quan, để thực hiện tốt cho việc áp dụng
các nguyên tắc của pháp luật tố tụng hình sự và cũng để tránh bỏ lọt tội phạm. Nó
cũng giúp ngăn chặn kịp thời việc ra quyết định khởi tố bị can vội vã, tránh dẫn đến
hậu quả xấu trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự không khách quan, không căn
cứ, trái pháp luật, và tránh làm oan những người vô tội; Và điều tra vụ án hình sự là
một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng làm tăng cường pháp chế, bảo
vệ các quyền và tự do của mọi công dân trong các giai đoạn trước khi khởi tố bị can
của Viện kiểm sát và trước khi xét xử bị cáo của Tòa án, góp phần làm cho hiệu
quả công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Giai đoạn truy tố vụ án hình sự
Truy tố vụ án hình sự là giai đoạn mà Viện kiểm sát căn cứ vào các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự để tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm đánh giá
một cách toàn diện vụ án hình sự và quyết định việc truy tố hay không truy tố vụ án.
Viện kiểm sát Nhân dân
Viện Kiểm sát Nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Viện kiểm sát nhân
dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
7
nghiêm chỉnh và thống nhất.
Giai đoạn truy tố vụ án hình sự là giai đoạn đánh giá khách quan các tài liệu
của vụ án hình sự, kết luận điều tra, quyết định đề nghị truy tố do Cơ quan điều tra
có thẩm quyền gửi tới, trên cơ sở tài liệu có trong hồ sơ vụ án Viện kiểm sát ra
quyết định: Truy tố bị can trước Tòa án bằng một bản cáo trạng. Khi thấy hồ sơ
chưa đủ căn cứ, tài liệu chưa đầy đủ thì Viện Kiểm sát trả lại hồ sơ để điều tra bổ
sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án hình sự.
Đây là một giai đoạn độc lập của hoạt động tố tụng hình sự, giai đoạn truy tố
vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, kiểm tra
toàn bộ các hành vi tố tụng mà cơ quan Điều tra có thẩm quyền đã áp dụng để bảo
đảm cho các quyết định của Viện kiểm sát được đúng luật, khách quan, thể hiện
việc truy cứu người có hành vi vi phạm pháp luật chính xác, đúng tội, đúng người
và đúng pháp luật. Giai đoạn này được bắt đầu từ khi Viện kiểm sát nhận được các
tài liệu của vụ án hình sự của Cơ quan cảnh sát điều tra chuyển đến, các quyết định
của Viện kiểm sát: quyết định Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng, hay
trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, hay đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án hình sự.
Giai đoạn này chủ yếu thể hiện chức năng quan trọng của Viện kiểm sát nhằm
kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà Cơ quan Cảnh
sát Điều tra có thẩm quyền và loại trừ những hậu quả của sai lầm, tránh bị bỏ lọt trong
các giai đoạn tố tụng hình sự trước đó. Bản Cáo trạng thể hiện việc chứng minh các tài
liệu của hồ sơ của vụ án, tính chất lỗi của hành vi phạm tội, lỗi của bị cáo trong việc thực
hiện tội phạm để góp phần có hiệu quả trong việc chuẩn bị cho giai đoạn xét xử của Tòa
án, loại bỏ những thiếu sót, hậu quả tiêu cực tiếp theo có thể xảy ra, tránh bỏ lọt tội phạm
và làm oan những người vô tội. Có thể nói, truy tố là một giai đoạn tố tụng hình sự quan
trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong các giai
đoạn tố tụng hình sự, trước khi xét xử tại Tòa án.
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn quan trọng nhất của hoạt động tố
tụng hình sự khi mọi tài liệu, chứng cứ của vụ án do Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát thu thập được đều được xem xét một cách công khai tại phiên toà, những người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp khai báo tại tòa án,
được tranh luận, chất vấn những điều mà họ không có điều kiện thực hiện trong giai
8
đoạn trước đây.
Tòa án Nhân dân
Tòa án Nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án Nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của
mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh
phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.
Xét xử sơ thẩm là giai đoạn tố tụng đòi hỏi những người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng phải tập trung trí tuệ, xử lý các tình huống, đưa ra các lý lẽ
chính xác và thuyết phục. Tòa án sơ thẩm khi giải quyết vụ án sẽ áp dụng các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự để tiến hành xem xét về thực chất vụ án, trên cơ
sở kết quả tranh tụng công khai của bên buộc tội và bên bào chữa, đưa ra phán xét
về vấn đề tính chất tội phạm của hành vi phạm tội , có tội hay không có tội của bị
cáo và cuối cùng đưa ra quyết định của Tòa án một cách công minh, đúng pháp luật,
có căn cứ.
Vai trò và đặc điểm của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, là giai đoạn
quan trọng nhằm xác định một người là người có tội hay vô tội. Trong giai đoạn
này, người bị Viện kiểm sát truy tố có thể đưa ra những lập luận để bào chữa cho
mình hoặc nhờ người bào chữa, còn người bị hại có thể đòi quyền lợi của mình
trong vụ án hình sự. Về phía mình, các cơ quan tiến hành tố tụng dựa vào các chứng
cứ của vụ án để tìm ra tội phạm và đưa ra mức hình phạt phù hợp theo quy định
pháp luật.
Về giới hạn của việc xét xử
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, khi xét xử sơ thẩm Toà án có
thẩm quyền chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm
sát đã truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử. Toà án có thể xét xử bị cáo
theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát truy tố trong cùng một điều luật hoặc
về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.
Như vậy, Toà án có thẩm quyền không được xét xử bị cáo về tội năng hơn
9
tội mà Viện kiểm sát đã truy tố. Nhưng thực tế, khi xem xét hồ sơ vụ án, đưa ra xét
xử sơ thẩm, qua phần xét hỏi, tranh luật tại phiên toà cả Kiểm sát viên, Hội đồng xét
xử đều thấy bị cáo phạm tội khác chứ không phải tội danh mà Viện kiểm sát đã truy
tố thì đây là vấn đề đã có nhiều tranh luận đến nay vẫn chưa kết thúc. Thực tiễn xét
xử những trường hợp này thì Tòa án hay trả hồ sơ điều tra bổ sung, điều tra lại.
Về Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng hình sự
Khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Bộ Luật tố tụng hình sự đã có quy định rõ
về Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
Người tiến hành tố tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm gồm có: Thẩm phán,
Hội thẩm, Thư ký Toà án và Kiểm sát viên.
Đối với Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà: Trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, thẩm phán được giao nhiều quyền, trừ quyền
ra quyết định thay đổi biện pháp tạm giam. Thẩm phán có quyền quyết định đình chỉ
hoặc tạm đình chỉ vụ án, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, còn tại phiên toà thì
thẩm phán còn có quyền bắt giam hoặc trả tự do cho bị cáo. Bộ luật tố tụng hình sự
hiện hành quy định khi xét hỏi bị cáo, chủ toạ phiên toà phải để bị cáo trình bày ý kiến
về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án, hội đồng xét xử hỏi thêm về những điểm
mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
Đối với Hội thẩm: Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật hình sự thì Hội
thẩm ngang quyền với Thẩm phán chủ toạ phiên toà, mỗi quyết định của Hội đồng
xét xử được biểu quyết theo đa số.
Thư ký Toà án: Thư ký được phân công tiến hành tố tụng đối với vụ án hình
sự có những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm sau: Phổ biến nội quy phiên toà;
báo cáo với Hội đồng xét xử danh sách những người được triệu tập đến phiên toà;
ghi biên bản phiên toà; tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của
Toà án theo sự phân công của Chánh án Toà án.
Kiểm sát viên: Kiểm sát viên tham gia phiên toà hình sự sơ thẩm để thực hiện
quyền công tố. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên tham gia phiên
toà đã được quy định cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên toà sơ thẩm, Kiểm
sát viên là người công bố bản cáo trạng, bổ sung cáo trạng hoặc rút cáo trạng tại phiên
toà; tham gia cùng với Hội đồng xét xử xét hỏi tại phiên toà, trình bày lời luận tội, tranh
luận với người bào chữa hoặc bị cáo; đưa ra chứng cứ hoặc yêu cầu trong đó có quyền
10
yêu cầu thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự thì người tham gia tố tụng ở giai
đoạn xét xử sơ thẩm bao gồm: Bị cáo; người bào chữa; người bị hại; nguyên đơn
dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người bảo
vệ quyền lợi của đương sự; người làm chứng; người giám định; người phiên dịch.
Bị cáo: Bị cáo chính là bị can đã bị Viện kiểm sát truy tố ra Tòa án. Các quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự cũng nhằm tới việc xác định bị cáo có phạm tội hay
không, nếu phạm tội thì phạm tội gì, mức hình phạt bao nhiêu, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại thế nào... Là bị cáo, họ chưa bị coi là người có tội, họ chỉ là người
bị cáo buộc về một tội phạm nào đó theo Bộ luật hình sự, nên họ phải được đối xử
như đối với một người bình thường khác. Cũng chính vì vậy mà Bộ luật tố tụng
hình sự quy định quyền của bị cáo rất đầy đủ và cụ thể để họ tự bảo vệ hoặc nhờ
người khác bảo vệ cho mình trước lời cáo buộc của Viện kiểm sát tại phiên toà. Để
bảo vệ các quyền của bị cáo tại phiên toà sơ thẩm, theo Bộ luật tố tụng hình sự hiện
hành thì bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Người bào chữa: Người bào chữa là người được bị cáo, người đại diện hợp
pháp của họ mời hay được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư phân
công, Văn phòng luật sư, Công ty luật cử luật sư hoặc Trung tâm trợ giúp pháp lý
cử bào chữa cho bị can, bị cáo nhằm làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giúp đỡ họ về mặt pháp lý.
Luật sư: Luật sư là người tham gia tố tụng hình sự được cơ quan tố tụng hình
sự có thẩm quyền cấp Thông báo người bào chữa để bào chữa cho bị cáo theo quy
định của pháp luật.
Những người tham gia tố tụng khác: Bộ luật hình sự Việt Nam còn quy định
những người tham gia tố tụng khác như: Người bị hại; nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng, người
giám định; người phiên dịch; người bảo vệ quyền lợi của đương sự.
Trong số những người tham gia tố tụng trên, có người bị hại là người mà
thực tiễn xét xử còn nhiều vướng mắc, hiện nay do Bộ luật Tố tụng Hình sự quy
định chưa rõ ràng, phần còn lại là do nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng chưa được thống nhất. Thực tiễn xét xử cho thấy có Toà án
xác định là người bị hại, có Toà án chỉ xác định là nguyên đơn dân sự hoặc người
11
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.
Về hình thức phiên toà sơ thẩm
Phòng xử án, vị trí, chỗ ngồi của Hội đồng xét xử, của Kiểm sát viên, Thư ký
phiên toà, "Vành móng ngựa", chỗ ngồi của người bào chữa, luật sư và những người
tham gia tố tụng khác cho đến nay đã có sự thay đổi, sơ đồ phiên tòa hình sự cho
thấy Luật sư đã ngồi ngang hàng với Kiểm sát viên, thể hiện sự bình đẳng với Kiểm
sát viên trong quá trình tranh tụng tại tòa án.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát vẫn có quyền rút
quyết định truy tố và đề nghị Toà án đình chỉ vụ án khi Toà án vẫn đang thụ lý vụ
án. Còn Tòa án có quyền trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung.
Việc Tòa án trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung cũng còn nhiều vấn đề Bộ luật
tố tụng hình sự quy định chưa đầy đủ. Có nhiều vụ án sau khi điều tra bổ sung, Viện
kiểm sát chuyển hồ sơ vụ án lại cho Toà án xét xử sơ thẩm bằng một công văn là không
thay đổi bản cáo trạng. Đây là việc không đúng quy định pháp luật vì kết quả điều tra
bổ sung cần phải được thể hiện trong bản cáo trạng, và việc không sửa đổi, bổ sung gì
thêm khi Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung làm cho Hội đồng xét xử khó đảm bảo
khách quan, toàn diện, gây bất lợi cho bị cáo bị Viện kiểm sát truy tố.
Về thủ tục tại phiên toà sơ thẩm
Phiên toà sơ thẩm có các giai đoạn: Phần mở đầu, phần xét hỏi, phần tranh
luận và tuyên án.
Phần tranh luận chính là phần thể hiện tính tranh tụng nhiều nhất nhưng hầu
như người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án hình
sự chưa tranh luận triệt để, chi tiết từng vấn đề cần chứng minh trong vụ án. Còn
Kiểm sát viên thì không tranh luận hoặc tranh luận không hết các ý kiến mà người
bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đưa ra. Vấn đề này dễ gây
bức xúc, hiểm lầm cho những người tham gia tố tụng, tham dự phiên tòa làm giảm
niềm tin vào pháp luật, giảm niềm tin vào những cán bộ thực thi nhiệm vụ.
Việc Hội đồng xét xử nghị án cũng như thời gian nghị án cũngcòn nhiều vấn
đề Bộ luật tố tụng hình sự chưa quy định rõ ràng cũng như chưa có cơ chế kiểm tra,
giám sát về việc ra bản án.
Hoạt động nghề nghiệp của luật sư
Theo quy định tại Điều 3 Luật Luật sư sửa đổi, bổ sung năm 2012: “Hoạt
12
động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ
của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh
tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh.”
Luật sư
Theo quy định tại Điều 2 Luật Luật sư 2006: “Luật sư là người có đủ tiêu
chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý
theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng).
Hoạt động bào chữa của luật sư
Hoạt động bào chữa của luật sư bao gồm tính trợ giúp, hướng dẫn và phản biện:
Tính trợ giúp: Trong bất kỳ xã hội nào cũng tồn tại những người rơi vào vị
thế thấp kém như người nghèo, người già, người chưa thành niên, họ thường bị ức
hiếp, bị đối xử trái pháp luật rất cần sự giúp đỡ, bênh vực vô tư, không vụ lợi của
luật sư. Vì thế hoạt động trợ giúp của luật sư đối với họ là bổn phận, đạo đức của
luật sư.
Tính hướng dẫn: Luật sư là những người hiểu biết những quy định của pháp
luật, tục lệ và bản sắc văn hoá của nhiều dân tộc. Hoạt động hướng dẫn của luật sư
làm cho đương sự hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp luật, hướng dẫn họ có
ứng xử phù hợp với pháp lý và đạo lý.
Tính phản biện: Luật sư đưa ra những biện luận nhằm phản bác lại lý lẽ, ý
kiến quan điểm của người người tham gia tố tụng khác, của các cơ quan tố tụng
hình sự liên quan vụ án mà luật sư thấy không phù hợp pháp luật. Luật sư sử dụng
mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị can,
bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; giúp
bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
họ, từ đó đề xuất những biện pháp phù hợp bảo vệ lẽ phải, bảo vệ công lý.
1.2 Các yếu tố tác động đến hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm
Thực hiện quyền của người bào chữa, luật sư
Người bào chữa: Người bào chữa là người được bị cáo, người đại diện hợp
pháp của họ mời hay được cơ quan tiến hành tố tụng hình sự yêu cầu, sau đó Đoàn
Luật sư phân công Văn phòng luật sư hoặc Công ty luật cử để bào chữa cho người
13
bị tạm giữ, bị can (từ giai đoạn điều tra), bị cáo, nhằm làm sáng tỏ những tình tiết
gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp
lý. Người bào chữa có thể là: Luật sư; Người đại diện hợp pháp của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân. Người bào chữa có thể là người đại
diện hợp pháp của bị cáo. Người đại diện hợp pháp là bố mẹ để, bố mẹ nuôi, người
đỡ đầu, anh, chị em ruột và những người theo quy định của pháp luật đối với bị can,
bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần.
Một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trong cùng vụ án
nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Và nhiều người bào chữa có thể
bào chữa cho một người bị buộc tội trong một vụ án hình sự.
Luật sư: Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy
định của Luật Luật sư, thực hiện dịch vụ pháp luật theo yêu cầu của cá nhân, cơ
quan, tổ chức, cơ quan tố tụng có thẩm quyền. Luật sư là người tham gia Tố tụng
Hình sự được cơ quan tố tụng hình sự có thẩm quyền cấp Thông báo người bào
chữa để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can từ giai đoạn điều tra, truy tố, bị cáo
theo quy định pháp luật, theo quy định của Luật Luật sư 2006 và Luật luật sư sửa
đổi, bổ sung năm 2012 và Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam
nhằm góp phần bảo vệ công lý.
Những người sau đây không được bào chữa: Người đã tiến hành tố tụng vụ án
hình sự đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng vụ án hình
sự đó; Người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định,
người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; Người đang bị truy cứu
trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xoá án tích, người đang bị áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
Thực hiện bào chữa của luật sư
Thực hiện bào chữa của luật sư trong vụ án hình sự là tổng thể các quyền và
nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật TTHS quy định cho luật sư trong các giai đoạn tố
tụng hình sự nhằm thực hiện chức năng bào chữa cho người bị buộc tội hoặc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hai, đương sự.
Theo quy định tại khoản 4, Điều 31 Hiến pháp 2013 quyền tự bào chữa, nhờ
luật sư hoặc người khác bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân.
14
Luật sư có địa vị, vai trò rất cần thiết khi tham gia tố tụng với vai trò là người bào
chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo
trước các hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự. Sự
có mặt của luật sư góp phần tốt hơn cho việc bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp cho mọi người tham gia tố tụng khác.
Luật sư thực hiện nhiệm vụ, có điều kiện thực hiện các biện pháp bảo vệ cho
khách hàng, thể hiện phẩm chất nghề nghiệp, trách nhiệm nghề nghiệp nhằm gỡ bỏ
cáo buộc cho bị can, bị cáo hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng,
góp phần vào việc giải quyết vụ án đúng pháp luật, đúng người, đúng tội, bảo vệ
pháp chế xã hội, tạo lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Quy định của pháp luật về hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Vị trí người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự rất quan
trọng, luật sư là người bào chữa chủ yếu cho bị can, bị cáo một cách đầy đủ nhất
trước các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, Tòa án hình sự cấp sơ thẩm. Tuy nhiên,
do phạm vi hoạt động của luật sư đặc thù là theo mục đích yêu cầu của khách hàng
là chính, nên luật sư có thể tham gia tố tụng với các mục đích khác nhau theo đề
nghị của khách hàng.
Nghề luật sư theo quy định hiện hành được cho là nghề tiêu biểu nhất và thể
hiện đầy đủ nhất những đặc trưng của nghề luật. Nghề Luật sư ngoài rất nhiều yêu
cầu về kiến thức, những trình độ chuyên môn cao, người luật sư còn phải tuân thủ
theo những quy chế đạo đức nghề nghiệp riêng của nghề luật sư. Luật sư là những
người được xã hội đánh giá cao bởi vai trò rất quan trọng trong việc góp phần bảo
vệ quyền con người, quyền công dân và góp phần bảo vệ pháp chế, thúc đẩy sự
phát triển của xã hội.
Phạm vi hành nghề của luật sư trong vụ án hình sự
Trong vụ án hình sự, luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người tố giác và
người bị tố giác; người bị tạm giữ, người bị bắt do phạm tội quả tang hoặc đang bị
truy nã; bị can, bị cáo và trong toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ
án hình sự. Luật sư tham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền lợi hợp pháp
hoặc người đại diện cho người bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có quyền,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự;
15
Những vấn đề lưu ý với các quy định mới của pháp luật.
Khi luật sư đã tham gia bào chữa các vụ án xảy ra trước BLHS 2015 và sau
khi BLTTHS 2015 có hiệu lực pháp luật. Theo đó, BLTTHS 2015 phân định rõ
thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp, tăng quyền, trách nhiệm cho Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán. BLTTHS 2015 mở rộng diện người tham gia tố tụng, bổ
sung diện người tham gia tố tụng, một số cơ quan được giao tiến hành một số hoạt
động điều tra, quy định rõ quyền hạn, nhiệm vụ của cấp trưởng, cấp phó của các cơ
quan được giao một số hoạt động điều tra.
BLTTHS 2015 điều chỉnh khái niệm chứng cứ, nguồn thu thập chứng cứ, xử
lý chặt chẽ hơn về vật chứng. BLTTHS 2015 cũng quy định về rút ngắn thời hạn
tạm giam, việc gia hạn tạm giam, có nhiều bổ sung về hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử trong vụ án hình sự. Với những vụ án hình sự đang trong quá trình điều tra,
truy tố, xét xử theo thủ tục rút gọn nhưng đến ngày 01/07/2016 chưa kết thúc điều
tra, chưa quyết định việc truy tố hoặc chưa đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm thì thời hạn
điều tra, truy tố, xét xử được tính theo thời hạn của BLTTHS năm 2015.
Những Bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị
trước ngày 01/07/2016 và thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 456 của
BLTTHS năm 2015 nhưng kể từ ngày 01/07/2016 mới xét xử thì áp dụng thủ tục rút
gọn theo quy định của BLTTHS năm 2015 để giải quyết [45].
Những vụ án hình sự đã xét xử sơ thẩm theo quy định tại BLTTHS năm
2003 mà có kháng cáo, kháng nghị trước ngày 01/07/2016 nhưng kể từ ngày
01/07/2016 mới xét xử phúc thẩm thì áp dụng BLTTHS năm 2015 để giải quyết.
Những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo quy định
tại BLTTHS năm 2003 mà có kháng nghị Giám đốc thẩm, Tái thẩm trước ngày
01/07/2016 nhưng chưa giải quyết hoặc kể từ ngày 01/07/2016 mới có đơn đề nghị
kháng nghị Giám đốc thẩm, Tái thẩm thì áp dụng BLTTHS năm 2015 để giải quyết.
Đối với luật sư bào chữa đã được cấp giấy chứng nhận người bào chữa theo
quy định của BLTTHS năm 2003 thì luật sư tiếp tục sử dụng cho đến khi kết thúc
việc bào chữa chứ không cần phải cấp Thông báo người bào chữa mới.
Vị trí của người bào chữa, luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
thực tế cho đến nay pháp luật vẫn chưa giải quyết được triệt để về việc bảo đảm
quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình
16
sự, chưa đảm bảo việc đưa luật sư tham gia ngay từ giai đoạn tố tụng đầu tiên khi
người bị tạm giữ, bị can yêu cầu có luật sư. Ngay khi vừa bị khởi tố vụ án, khởi tố
bị can trong vụ án hình sự rất khó tự bào chữa cho mình, mà người bị tạm giữ, bị
can thông qua người thân để nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân, người đại diện
hợp pháp bào chữa cho mình. Do phần lớn bị can, bị cáo phạm tội lần đầu, không
hiểu biết pháp luật, lại thường không được cán bộ điều tra giải thích hết quyền nên
không biết việc cần có người bào chữa là cần thiết để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
cho họ, nhiều trường hợp họ muốn có luật sư do gia đình mời nhưng gặp khó khăn.
Đối với những vụ án mà bị can, bị cáo phạm tội có khung hình phạt ở mức
cao nhất của khung hình phạt là tử hình, bị can là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì pháp luật quy định bắt buộc phải có người
bào chữa chỉ định để bào chữa cho họ. Nếu bị can, bị cáo bị bắt tạm giam, Cơ quan
điều tra buộc phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư, Công ty luật
cử người bào chữa cho họ để tuân thủ đúng pháp luật Tố tụng Hình sự. Nhưng đó
chỉ là thủ tục, còn thực tế việc tham gia này của người bào chữa, luật sư vẫn mang
nặng tính hình thức, còn việc tham dự lấy lời khai cùng bị can, bị cáo chưa được
thực hiện đúng quy định pháp luật. Người bào chữa chỉ làm thủ tục được cấp Thông
báo người bào chữa, sau đó chỉ có mặt trong một vài buổi hỏi cung cùng với Điều
tra viên một cách qua loa, không đảm bảo được vị trí, vai trò của người bào chữa,
luật sư chỉ định.
Khi được đề nghị bào chữa cho bị can, bị cáo trong một vụ án hình sự, để
bảo đảm quyền bào chữa thì người bào chữa phải được Cơ quan điều tra cấp Thông
báo người bào chữa một cách kịp thời, tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự được
yêu cầu. Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định về việc cấp Thông báo người bào chữa
trong thời hạn 03 ngày, cho người bị tạm giữ trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận
được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa.
Nếu cơ quan tiến hành tố tụng từ chối cấp Thông báo người bào chữa thì phải nêu
rõ lý do. Vấn đề này, có nhiều cơ quan tiến hành tố tụng cấp Thông báo người bào
chữa chưa đảm bảo được về mặt thời gian như quy định của luật tố tụng hình sự. Có
rất nhiều người bào chữa, luật sư vẫn phải làm văn bản khiếu nại khi Cơ quan điều
tra cố ý lảng tránh việc cấp Thông báo người bào chữa, có những hành vi, lời nói
17
chỉ dẫn lòng vòng gây khó khăn và mất nhiều thời gian, nhất là đối với những vụ án
lớn. Nhiều trường hợp, Cơ quan điều tra do yêu cầu công việc sợ bị lộ thông tin
điều tra nên hầu như đều từ chối cấp Thông báo người bào chữa cho luật sư, và họ
cũng không tìm được lý do vì luật không cho phép nên dẫn đến tình trạng kéo dài
thời gian cấp Thông báo người bào chữa, hoặc bằng cách làm cho bị can, bị cáo có
giấy từ chối người bào chữa. Bởi vì, để đảm bảo quyền bào chữa thì người bào
chữa, luật sư được gia đình, bị can, bị cáo mời hay được cơ quan tố tụng hình sự,
tòa án chỉ định thì cũng đều phải được sự đồng ý của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo thì luật sư mới có thể hoạt động được. Chỉ khi có sự đồng ý của họ thì cơ quan
tố tụng có thẩm quyền mới cấp Thông báo người bào chữa cho người bào chữa.
Đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, việc họ biết để lựa chọn người bào chữa
cho mình là rất khó khăn, vì họ thường không được Cơ quan điều tra tạo điều kiện,
hướng dẫn. Đồng thời, người bào chữa muốn vào gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
đang bị tạm giam để lấy được chữ ký của họ thể hiện việc đồng ý thuê luật sư thì lại phải
có Thông báo người bào chữa. Vấn đề luẩn quẩn này hiện vẫn chưa được giải quyết bằng
quy định luật cụ thể, dẫn đến việc người bào chữa, luật sư làm việc như cơ chế xin cho,
thích thì cấp, không thích thì không cấp, không kịp thời dẫn đến những khiếu nại không
đáng có tới Cơ quan điều tra về việc gây khó khăn cho người bào chữa là luật sư.
Ngoài vấn đề trên, Bộ luật Tố tụng hình sự cũng có quy định về người bào
chữa, luật sư có quyền đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm
hỏi cung bị can, bị cáo để có mặt kip thời khi hỏi cung bị can, bị cáo ở những tội
danh sẽ ở mức hình phạt cao, vị thành niên, người có nhược điểm thể chất tinh thần.
Nhưng thực tế, nhiều khi điều tra viên có thông báo nhưng người bào chữa, luật sư
không đến, không đến kịp, hoặc người bào chữa, luật sư có đến nhưng buổi hỏi
cung đã kết thúc, đó là những trường hợp mà khi Điều tra viên, Kiểm sát viên được
phân công giải quyết vụ án cố ý không muốn tạo điều kiện cho Người bào chữa,
Luật sư có mặt trong buổi hỏi cung.
Để tránh tình trạng trên, luật tố tụng hình sự quy định bảo đảm quyền bào
chữa, pháp luật trao quyền cho người bào chữa được gặp người bị tạm giữ; gặp bị
can đang bị tạm giam. Sau khi được cấp Thông báo người bào chữa thì Người bào
chữa, Luật sư có thể vào gặp bị can, bị cáo bị tạm giam khi cần để làm sáng tỏ vụ
án, đảm bảo việc bào chữa được khách quan chứ không cần phụ thuộc vào việc đi
18
cùng Điều tra viên, Kiểm sát viên.
Hoạt động bào chữa, vị trí của Người bào chữa, Luật sư là rất quan trọng,
nhưng hiện nay số lượng Luật sư tham gia bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo vẫn còn chưa cao. Năng lực bào chữa của nhiều Người bào chữa, Luật sư còn
có nhiều trường hợp bị hạn chế do thiếu sót các kỹ năng tham gia vụ án hình sự.
Việc bào chữa tốt hay không tốt cho bị can, bị cáo phụ thuộc vào năng lực của từng
người, đòi hỏi người bào chữa, luật sư luôn phải tự trau dồi kiến thức không ngừng,
tập trung nghiên cứu hồ sơ một cách thấu đáo, kỹ càng, áp dụng pháp luật nhuần
nhuyễn để bảo vệ tốt nhất cho bị can, bị cáo. Nhiều Người bào chữa, Luật sư đã
không tập trung vào việc chứng minh cho sự vô tội, không tìm kiếm những tình tiết
giảm nhẹ cho bị can, bị cáo mà chỉ tập trung tìm những sai phạm về mặt hình thức
thủ tục tố tụng của những người tiến hành tố tụng, trong khi hành vi phạm tội của bị
can, bị cáo đã rõ, bản chất vụ án cũng không thay đổi. Có luật sư thu thập được tài
liệu, thông tin không cung cấp ngay cho cơ quan tố tụng để làm rõ vụ án mà giữ bí
mật chờ tới khi vụ án được đưa ra xét xử trước phiên tòa dẫn đến việc trả hồ sơ
kiểm tra lại giá trị chứng minh của chứng cứ gây lãng phí thời gian, tốn tiền của của
Nhà nước.
Người bào chữa, Luật sư vẫn thiếu sự nhiệt tình trong công việc của họ do
nhiều nguyên nhân, do đặc thù của người bào chữa là luật sư là dịch vụ pháp lý nên
mức phí thù lao cũng là một vấn đề quan trọng làm ảnh hưởng tới chất lượng bào
chữa không cao, nhất là trong các trường hợp bào chữa chỉ định.
Người bào chữa, Luật sư cần phải không ngừng nâng cao số lượng và chất
lượng hoạt động, cần tuyên truyền vận động người bào chữa là luật sư tham gia vụ
án hình sự không chỉ vì thu nhập cá nhân mà còn vì lương tâm nghề nghiệp, trách
nhiệm đối với xã hội, thậm chí có thể xem hoạt động bào chữa như là sự đóng góp
từ thiện trong xã hội. Cần có sự tôn vinh cao hơn nữa đối với những người bào
chữa, luật sư trong đời sống xã hội, ví dụ: đã có Ngày của Luật sư là ngày 10/10,
ngày này cần được cơ quan nhà nước, phương tiện thông tin truyền thông tôn vinh
như ngày lễ lớn so với các ngày lễ lớn của các tổ chức xã hội nghề nghiệp khác, làm
cho người dân biết về nghề luật sư sâu rộng hơn, thấy được tầm quan trọng của luật
sư trong đời sống nhân dân. Riêng đối với người bào chữa, luật sư thì cần phải
không ngừng nâng cao kiến thức pháp luật, kỹ năng chuyên môn nghề nghiệp, ý
thức đạo đức nghề nghiệp để góp phần vào sự phát triển của pháp luật nhà nước
19
trong lĩnh vực hình sự.
Như vậy, để đảm bảo vị trí của Người bào chữa, Luật sư theo quy định pháp
luật hiện hành thì chúng ta cần có phương pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật để
góp phần nâng cao nhận thức trong người dân, làm sao để khi người dân có hành vi
vi phạm pháp luật họ phải nhận thức được về quyền và nghĩa vụ của mình khi có
người bào chữa là luật sư. Khi họ chỉ bị nghi vấn là người phạm tội, họ cần được
biết họ có quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa cho mình. Vấn đề này
cũng thuộc trách nhiệm của cán bộ điều tra, phải giải thích cho họ có quyền tự bào
chữa, không được coi việc bào chữa của họ là chống đối lại Cơ quan điều tra, không
làm mất đi tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo của người bị tạm giữ. Các cơ
quan điều tra cần nghiêm chỉnh tuân thủ những quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về việc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Việc cấp
thông báo người bào chữa cần đúng thời gian luật định, phải xem sự tham gia của
người bào chữa, luật sư là sự thuận tiện và đảm bảo tính khách quan cao trong hoạt
động điều tra. Có nhiều ý kiến cho rằng nên trao cho điều tra viên thẩm quyền cấp
thông báo người bào chữa trong những vụ án ít nghiêm trọng và nghiêm trọng tạo
điều kiện cho việc bào chữa được kip thời, đảm bảo cho người bị tạm giữ, bị can có
người bào chữa ngay từ ban đầu.
Về thực hiện quyền và nghĩa vụ của luật sư
Quyền của người bào chữa, luật sư được quy định tại Điều 73 Bộ luật Tố
tụng hình sự 2015. Người bào chữa, luật sư có quyền:
Gặp, hỏi người bị buộc tội; [45]
Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu
người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền
kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;
Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt
động điều tra khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự [45];
Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa
điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác
20
theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự [45]
Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố
tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người
dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;
Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình
sự; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng;
Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan
và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám
định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;
Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến
việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;
Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng [45]
Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người
có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Quyền tố tụng của một luật sư khi bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can
khi có quyết định khởi tố bị can. BLTTHS 2015 có quy định luật sư có quyền tham
gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, đây là một bước tiến mới tiến bộ trong pháp luật
TTHS Việt Nam. Điều này đồng nghĩa việc mở rộng hơn nữa biện pháp bảo
đảm thực hiện quyền bào chữa của bị can. Theo quy định của BLTTHS, sau khi
điều tra xác minh, ngay khi có đủ căn cứ xác định một người đã thực hiện hành vi
phạm tội, Cơ quan cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án,
khởi tố bị can. Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can là cơ sở pháp lý để cơ quan
tố tụng có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết đối với bị can nhằm bảo đảm
cho hoạt động điều tra, truy tố được tiến hành một cách có hiệu quả. Luật sư tham
gia tố tụng từ khi khởi tố bị can là việc rất cần thiết, góp phần bảo đảm cho việc
khởi tố bị can có căn cứ, bảo đảm việc áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với bị can
có căn cứ pháp lý, tránh tình trạng bắt giam bị can oan sai hoặc không cần thiết phải
21
tạm giam bị can. Luật sư có điều kiện nghiên cứu diễn biến vụ án, các quyết định
khởi tố bị can, quyết định thu giữ vật chứng...từ đó có thể tiếp cận vụ án một cách
toàn diện, đầy đủ.
Việc luật sư tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ, khi khởi tố bị can
làm hạn chế việc làm trái pháp luật trong việc bắt, giam, bức cung , dùng nhục
hình… đối với người bị tạm giữ,bị can.
Khi tham gia lấy lời khai với cơ quan tố tụng, luật sư có quyền có mặt khi
lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can, được hỏi người bị tạm giữ, bị
can khi điều tra viên chấp thuận và có mặt trong các hoạt động điều tra khác.
Sự có mặt của luật sư khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị
can, giúp luật sư phát hiện ra những tình tiết có lợi cho bị can, cần thiết cho việc bào
chữa để minh oan hoặc giảm nhẹ tội cho bị can. Luật sư có quyền đề nghị với Điều
tra viên lưu ý tình tiết có lợi cho bị can.
Sự có mặt của luật sư trong khi hỏi cung bị can cùng với điều tra viên sẽ làm
cho bị can yên tâm hơn, khai báo chính xác diễn biễn vụ án, ngăn ngừa, giảm thiểu
được việc vi phạm pháp luật của điều tra viên trong việc bị can có thể bị mớm cung,
bức cung, dùng nhục hình, và luật sư có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm
quyền nếu Điều tra viên có hành vi không đúng pháp luật.
Khi bắt đầu tham gia vụ án hình sự, luật sư tham dự lấy lời khai với Điều tra
viên, khi được điều tra viên đồng ý cho tham dự việc hỏi cung bị can, luật sư có quyền
hỏi bị can về những tình tiết của vụ án, những tình tiết có lợi cho bị can mà trong quá
trình lấy lời khai điều tra viên chưa hỏi hoặc đã hỏi bị can nhưng chưa làm rõ.
Việc Luật sư tham gia hỏi cùng điều tra viên có thể làm sáng tỏ thêm một số
tình tiết quan trọng đối với việc bào chữa cho bị can và từ đó đánh giá khách
quan, công bằng hơn trong vụ án hình sự. Trong quá trình điều tra, nhiều hoạt động
điều tra khác thì luật sư chỉ được quyền tham gia khi được Điều tra viên đồng ý, cụ
thể là các hoạt động điều tra được quy định tại những điều từ chương X đến chương
XVII BLTTHS 2015. Khi tham gia tố tụng hình sự với các điều trong các chương
này thì luật sư có điều kiện thu nhập thêm một số tình tiết gỡ tội hoặc giảm nhẹ
trách nhiệm cho bị can nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án cùng với cơ
quan điều tra. Người bào chữa, luật sư cũng có quyền xem các biên bản về hoạt
22
động tố tụng hình sự có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan
đến người mà mình bào chữa hoặc những tài liệu mà cần có chữ ký của luật sư.
Người bào chữa, luật sư có quyền đề nghị Cơ quan điều tra báo trước thời gian, địa
điểm hỏi cung bị can bằng văn bản hoặc bằng cách khác để bảo đảm đề cao vai trò
luật sư, bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa trong vụ án hình sự.
Theo nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hình
sự, luật sư được tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ, tới khi khởi tố bị can
và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
BLTTHS quy định người bào chữa, luật sư có thêm quyền đề nghị thay đổi người tiến
hành tố tụng hình sự (điều tra viên), người giám định, người phiên dịch mà trước đây,
luật sư có quyền yêu cầu thay đổi thẩm phán, hội thẩm nhân dân, quyền đề nghị thay
đổi những người nói trên thể hiện tính dân chủ trong BLTTHS Việt Nam.
Cụ thể về quyền của Người bào chữa, Luật sư được quy định tại Khoản 1 Điều
73 BLTTHS 2015. Trong quá trình tham gia tố tụng hình sự, để bảo vệ bị can luật sư
cần dùng các biện pháp luật cho phép để tránh việc oan sai hoặc xử lý vụ án không
khách quan, ảnh hưởng đến quyền lợi của bị can từ cơ quan tiến hành tố tụng.
Quyền thu thập tài liệu, đồ vật từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân
thích của họ, tài liệu từ cơ quan, tổ chức, cá nhân nếu không thuộc bí mật Nhà nước,
bí mật công tác cũng là một quyền mà luật sư sử dụng để đảm bảo việc bào chữa
cho bị can. BLTTHS chỉ nêu Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án mới có
quyền triệu tập những người biết về vụ án để nghe họ trình bày những vấn đề có
liên quan đến vụ án nên việc BLTTHS quy định thêm quyền thu thập chứng cứ của
người bào chữa, luật sư trong phạm vi như trên là rất cần thiết, luật sư có quyền đưa
ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Người bào chữa có thể phát hiện ra các tài liệu, đồ vật
mà Cơ quan điều tra chưa phát hiện được hoặc bỏ sót khi điều tra, người bào chữa,
luật sư có quyền đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra xem xét các chứng cứ đó có lợi
cho bị can khi Người bào chữa, Luật sư biết chắc bị can không thực hiện hành vi
phạm tội hoặc các chứng cứ cho thấy hành vi hạm tội của bị can không đến mức
nguy hiểm cơ quan điều tra lập trong hồ sơ vụ án hình sự. Và việc người bào chữa,
luật sư thu thập các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can là việc làm bắt
buộc các luật sư phải thực hiện theo trách nhiệm nghề nghiệp.
Việc Người bào chữa, Luật sư yêu cầu cơ quan tố tụng triệu tập thêm người
23
làm chứng, trưng cầu giám định cũng là việc làm cần thiết. Ở giai đoạn điều tra thì
Cơ quan điều tra có trách nhiệm giải quyết những yêu cầu của người bào chữa, luật
sư và trả lời kết quả bằng văn bản. Ở giai đoạn Viện Kiểm sát thì Viện Kiểm sát trả
lời cho người bào chữa, luật sư biết kết quả. Nếu các cơ quan tố tụng hình sự không
chấp nhận yêu cầu của luật sư và trả lời bằng văn bản thì người bào chữa, luật sư
có quyền khiếu nại đến Thủ trưởng Cơ quan điều tra hoặc Viện Trưởng Viện kiểm
sát cùng cấp.
Việc Người bào chữa, Luật sư khiếu nại hoặc đưa ra những chứng cứ, tài
liệu, những yêu cầu mới có lợi cho bị can góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị can, giúp cho Viện kiểm sát xem xét, đánh giá chứng cứ của vụ án một
cách khách quan, toàn diện trước khi lập cáo trạng truy tố bị can trước Tòa án.
Người bào chữa, Luật sư có quyền yêu cầu Viện Kiểm sát xem xét trả hồ sơ
để điều tra bổ sung hoặc xem xét và ra quyết định đình chỉ vụ án khi:
– Không có sự việc phạm tội;
– Hành vi không cấu thành tội phạm;
– Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà chưa đến tuổi chịu trách
nhiệm hình sự;
– Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ
vụ án đã có hiệu lực pháp luật;
– Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
– Tội phạm đã được đại xá;
– Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần
tái thẩm đối với người khác;
– Bị can đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm;
– Do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội
không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
– Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, bị can đã tự thú, khai rõ sự việc,
góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến
mức thấp nhất hậu quả của tội phạm;
– Bị can là người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm
trọng gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan,
24
tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
Khi thấy bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo, bị can trốn không biết bị
can đang ở đâu thì luật sư yêu cầu Viện kiểm sát ra quyết định tạm đình chỉ vụ án.
Quyền đưa ra chứng cứ và những yêu cầu của người bào chữa, luật sư có ý
nghĩa quan trọng đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của bị can, đồng
thời giúp Cơ quan tiến hành tố tụng đánh giá khách quan hành vi mà bị can đã thực
hiện để kết luận và giải quyết vụ án.
Khi đó Viện Kiểm sát đang thụ lý hồ sơ vụ án hình sự mà người bào chữa,
luật sư yêu cầu, nếu thấy hồ sơ thiếu những chứng cứ quan trọng để xác định hành
vi phạm tội của bị can, bị cáo mà Cơ quan điều tra vẫn đề nghị truy tố, hoặc khi
Viện kiểm sát thấy có căn cứ để khởi tố bị can về một tội khác nhẹ hơn tội danh mà
Cơ quan điều tra đề nghị, hoặc Viện kiểm sát phát hiện có vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra thì có thể ra quyết định trả hồ sơ để điều tra
bổ sung, ra quyết định đình chỉ vụ án.
Quyền của Người bào chữa, Luật sư khi gặp người bị tạm giữ, gặp bị can, bị
cáo đang bị tạm giam trong một vụ án hình sự. Ở giai đoạn này, người bào chữa,
luật sư cần phải hiểu rõ thái độ tâm lý và tâm tư của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Khi gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, luật sư giúp họ nhận thức đúng đắn việc
bào chữa là nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp, bào chữa cho họ dựa trên cơ sở pháp luật
và tôn trọng sự thật khách quan của vụ án; giải thích những vấn đề pháp luật liên
quan, cần thiết đến việc bảo vệ bị can mà bị can chưa hiểu hoặc không biết trình bày
trước Cơ quan tiến hành tố tụng, mục đích để minh oan, để giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự cho bị can, với điều kiện bị can cần phải khai báo thành khẩn, có như vậy
người bào chữa, luật sư mới có căn cứ rõ rang để bảo vệ bị can, bị cáo.
Quyền được đọc và sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc
bào chữa của Người bào chữa, Luật sư sau khi kết thúc điều tra theo quy định của
pháp luật. Khi đã được cơ quan tố tụng có thẩm quyền cho sao chụp tài liệu trong
hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa giúp luật sư nắm vững các tình tiết của vụ
án. Có căn cứ chính xác để biết bị can, bị cáo phạm tội gì, điều khoản áp dụng của
BLHS, từ đó tìm ra các tình tiết, các chứng cứ gỡ tội cho bị can, bị cáo. Quyền được
đọc hồ sơ vụ án là một quyền quan trọng để tạo điều kiện cho luật sư nắm vững nội
dung vụ án hình sự một cách toàn diện hơn từ khi vụ án bị khởi tố cho đến khi kết
và cũng để đánh giá đúng vai trò của các bị cáo trong vụ án để chuẩn bị cho việc
25
bào chữa tại Tòa án. Qua việc đọc hồ sơ, Người bào chữa, Luật sư có thể xác định
được quá trình điều tra có vi phạm pháp luật hay không; có cần thay đổi, hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn hay không, trưng cầu giám định ... Nếu thấy cần thiết, người
bào chữa là luật sư có thể trao đổi với các cơ quan tố tụng hình sự để cung cấp thêm
chứng cứ có lợi cho bị can, bị cáo và đề xuất toàn bộ các vấn đề có lợi cho bị cáo tới
cơ quan tố tụng, Tòa án xem xét khi tiến hành giải quyết vụ án.
Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc được ghi nhận tại Điều 32
BLTTHS. Theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, cá nhân có quyền
tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ
quan đó. Cơ quan có thẩm quyền liên quan phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp
thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo, sau đó thông báo bằng văn bản kết quả
giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục, có biện pháp
xử lý nghiêm minh. Luật sư là người bào chữa của bị can trong vụ án hình sự ở giai
đoạn điều tra, truy tố thì có quyền khiếu nại đối với những việc làm trái pháp luật
của Cơ quan điều tra đối với các trường hợp: bắt bị can để tạm giam khi không có
căn cứ xác định bị can là người đã thực hiện hành vi phạm tội, không đúng thủ tục theo
quy định của pháp luật, tạm giam bị can khi không thuộc những trường cần phải tạm
giam, tạm giam bị can không có lệnh hoặc lệnh tạm giam không được Viện kiểm sát
cùng cấp phê chuẩn, khi luật sư thấy quyết định của Viện kiểm sát không có căn cứ,
không có lợi cho bị can mà luật sư bảo vệ. Khiếu nại của luật sư được gửi tới Thủ
trưởng Cơ quan điều tra nếu khiếu nại Kết luận điều tra, gửi tới Viện trưởng Viện kiểm
sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên nếu khiếu nại Cáo trạng. Lãnh đạo cơ quan có
thẩm quyền có trách nhiệm phải giải quyết khiếu nại trong thời hạn do pháp luật quy
định. Mọi giải quyết khiếu nại phải trả lời cho người khiếu nại bằng văn bản và nêu rõ
nội dung, nêu rõ lý do không chấp thuận khiếu nại.
Quyền tham gia xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm của luật sư: Xét
hỏi và tranh luận là những hoạt động quan trọng trong trình tự xét xử vụ án hình sự
tại phiên tòa. Đây là hoạt động tiến hành điều tra công khai với sự có mặt của những
người tham gia tố tụng được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa hình sự để kiểm tra
các chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án và thu thập thêm chứng cứ mới để làm sáng tỏ
các tình tiết của vụ án hình sự. Việc luật sư chú ý lắng nghe những câu hỏi và trả lời
26
câu hỏi, so sánh và đối chiếu với các tình tiết của vụ án và phát hiện những tình tiết
có lợi cho bị cáo là rất quan trọng. Đối với những lời khai không phù hợp các tình
tiết trong vụ án, luật sư phải kịp thời đưa ra những câu hỏi yêu cầu những người
tham gia tố tụng làm rõ. Luật sư cần có kỹ năng làm cho Hội đồng xét xử tiến hành
theo hướng tăng cường việc tranh tụng với đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền
công tố tại phiên tòa. Phong cách, kỹ năng của luật sư cũng là vấn đề mà các cơ
quan tố tụng hay nhắc nhở, bởi vì nhiều luật sư khi tham gia xét hỏi, tranh luận hay
có thái độ thiếu tôn trọng HĐXX và vị đại diện VKSND, gây phản cảm làm bất lợi
cho bị cáo. Vì vậy, khi tham gia xét hỏi thì các câu hỏi luật sư đưa ra phải ngắn gọn,
tập trung vào những vấn đề chính quan trọng chưa được làm rõ, hỏi để cho bị cáo dễ
trả lời, hỏi những câu hỏi có lợi nhất cho bị cáo.
Luật sư cũng có thể sử dụng các quyền khác mà pháp luật cho phép như đề
nghị HĐXX công bố công khai những tài liệu trong hồ sơ có lợi cho bị cáo, khi thấy
lời khai của người được xét hỏi tại phiên tòa có mâu thuẫn với lời khai của họ trong
giai đoạn điều tra, trong giai đoạn truy tố, người được xét hỏi không khai tại phiên
tòa, người được xét hỏi vắng mặt.
Luật sư cần tích cực tham gia tranh luận tại phiên tòa vì Tòa án phải căn cứ
chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện
các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của luật sư… để ra bản án, quyết định đúng
pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn luật định.
Trong phần tranh luận tại phiên tòa, sau khi đại diện Viện Kiểm sát trình bày
lời luận tội, luật sư trình bày lời bào chữa để bảo vệ bị cáo. Nội dung bào chữa
thường bao gồm về cách thức giải quyết vụ án, những điều luật áp dụng về tội danh
về hình phạt để đề nghị HĐXX làm giảm trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Việc tranh
luận đáp lại ý kiến đối với các vấn đề mà đại diện Viện Kiểm sát không đồng ý thì
luật sư cần đề nghị HĐXX bác bỏ những chứng cứ buộc tội bị cáo không có cơ sở
của đại diện Viện Kiểm sát.
Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp bị cáo là
người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần là
quyền của luật sư được quy định tại Điểm 0) Khoản 1 Điều 73 BLTTHS 2015. Sau
khi Tòa án tuyên án sơ thẩm, đối với bị cáo mà mình bào chữa là người chưa thành
niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hay tâm thần thì quyền kháng cáo, việc
27
kháng cáo của luật sư là rất cần thiết trong những trường hợp này.
Nghĩa vụ của luật sư bào chữa được quy định tại Khoản 2 Điều 73 Bộ luật
Tố tụng hình sự 2015. Người bào chữa có nghĩa vụ:
Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết
xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
bị can, bị cáo; Giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ; Không được từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mà mình đã
đảm nhận bào chữa nếu không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại
khách quan; Tôn trọng sự thật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục
người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; Có mặt theo giấy triệu
tập của Tòa án; trường hợp chỉ định người bào chữa thì phải có mặt theo yêu
cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát [45]
Luật sư không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện bào
chữa; không được sử dụng các tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào
mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
Luật sư không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình
biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không được sử
dụng thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân [45].
Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
Theo các quy định của pháp luật hiện hành và trong thực tiễn xét xử các vụ
án hình sự, để thực hiện các vấn đề trong các quy định của pháp luật và trong thực
tiễn thực hiện các quy định liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo; quyền nhờ luật sư bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo; vai trò của luật sư trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ; việc
tranh luận tại phiên tòa… Những vấn đề nêu trên làm cho vai trò của người bào
chữa nói chung và của luật sư bào chữa vẫn còn mờ nhạt, chưa đạt hiệu quả cao, các
cơ quan tố tụng vẫn chưa phối hợp tốt với luật sư, dẫn đến tình trạng nhiều vụ án
oan, sai vẫn xảy ra. Có thể thấy pháp luật TTHS còn nhiều bất cập, các quy định của
pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử chưa triệt để và nghiêm túc, hoạt
động và vai trò của những người tiến hành tố tụng như Điều tra viên, Kiểm sát viên,
28
Thẩm phán và những người tham gia tố tụng khác, trong đó có luật sư chưa đạt hiệu
quả. Việc thi hành BLTTHS một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ là nhiệm vụ
cấp thiết của nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều chủ thể tham gia tố tụng khác nhau như:
CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án, luật sư… Chế định về luật sư, về vai trò của luật sư thể
hiện qua quyền, nghĩa vụ của luật sư là một trong những chế định cần phải hoàn thiện
trong việc xây dựng các quy phạm pháp luật đưa những quy phạm đó vào thực tế cuộc
sống. Cụ thể là việc nâng cao chất lượng công tác điều tra, thực hiện tốt công tác tiếp
nhận, xử lý tin tố giác tội phạm, việc tăng cường phối hợp các cơ quan chuyên trách
điều tra với Viện Kiểm sát, Toa án cần phải được nâng cao hơn nữa. Khi xét xử Tòa án
phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách
quan; Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc xét xử
của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng với yêu cầu không để lọt tội
phạm nhưng cũng không được làm oan người vô tội.
Theo Pháp lệnh Luật sư, Luật Luật sư 2006 rồi đến Luật Luật sư sửa đổi, bổ
sung năm 2012 được ban hành với những tiêu chuẩn, điều kiện hết sức chặt chẽ đã
đưa vai trò, vị trí của người luật sư lên đúng tầm của nó trong xã hội. Khi tham gia
tố tụng hình sự, luật sư không chỉ bảo vệ quyền lợi cho bị can, bị cáo mà luật sư còn
có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Luật sư phải tôn
trọng sự thật và tôn trọng pháp luật khi bào chữa cho bị can, bị cáo, và để góp
phần vào việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bào chữa cho bị can, bị cáo theo
đúng quy định của pháp luật, tránh tình trạng ngụy biện. Ngược lại, nếu chỉ chú
ý đến việc bảo vệ pháp luật thì dễ biến mình thành người buộc tội bị can, bị cáo.
Vai trò đặc trưng của người bào chữa, luật sư trong TTHS là sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa việc bào chữa cho bị can, bị cáo với việc bảo vệ sự thật khách quan,
tôn trọng pháp luật.
Khi pháp luật được đề cao thì vai trò của luật sư bào chữa càng đặc biệt quan
trọng, góp phần xây dựng mục đích cao cả của hoạt động TTHS là xử lý đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật.
Luật sư cần chú ý tới các nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại Điều
13 BLTTHS và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo được quy định ở Điều 16 BLTTHS [45]: “Người bị buộc tội có quyền tự bào
chữa, nhờ luật sư hoặc nhờ người khác bào chữa”. Hoạt động của luật sư giúp cho
29
bị can, bị cáo thực hiện tốt hơn nữa quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của
pháp luật, luật sư giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hoạt động của luật sư bào chữa giai đoạn truy tố
Nếu luật sư nhận tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo từ giai đoạn sau khi có
kết luận điều tra, hồ sơ gửi tới Viện kiểm sát thì Luật sư phải chuẩn bị các giấy tờ như:
Giấy giới thiệu; Quyết định phân công của văn phòng luật sư, công ty luật; Văn bản
yêu cầu luật sư của bị can hoặc người thân thích của họ; Thẻ Luật sư pho to công
chứng. Sau khi đủ các giấy tờ trên thì Luật sư có thể được tham gia vào hoạt động tố
tụng sau khi nhận được Thông báo người bào chữa trong thời hạn 03 ngày làm việc kể
từ ngày đăng ký hồ sơ luật sư.
Với những vụ án lớn phức tạp, việc cấp Thông báo người bào chữa cho luật sư
không phải là dễ dàng, vì những lý do khách quan và chủ quan khác nhau, luật sư phải
kiên trì chờ đợi, thuyết phục bị can hoặc người thân thích của họ không được nóng vội.
Sau khi hoàn tất thủ tục và được cấp Thông báo người bào chữa, Luật sư đề
nghị sắp xếp gặp mặt bị can trong trại giam và có thể tham gia cùng lấy lời khai với
Kiểm sát viên. Việc gặp bị can bị tạm giam giúp luật sư nắm bắt được tình hình sức
khỏe, điều kiện ăn ở, lời khai và quan điểm về hành vi của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo trong vụ án, biết nguyện vọng và những lời nhắn nhủ về cho gia đình người
bị can, có biện pháp ngăn ngừa, bảo vệ bị can bị tạm giữ.
Luật sư cần hướng dẫn bị can, người thân thích của họ tìm kiếm và xuất trình
các tài liệu về nhân thân có lợi cho bị can, ví dụ như các bằng khen, giấy khen trong
lao động, học tập, trong công tác, các giấy tờ của người thân thiết có liên quan đến
các danh hiệu được nhà nước trao tặng như Huân Huy chương kháng chiến, Chứng
nhận liệt sĩ hay người có công với Nhà nước… Hội đồng xét xử sơ thẩm sẽ xem xét
những tài liệu này và đó cũng là những căn cứ hợp pháp để được áp dụng làm tình
tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo quy định pháp luật.
Nếu bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường tổn thất về tính mạng, sức khỏe,
danh dự hay tài sản cho bị hại, luật sư hướng dẫn bị can hoặc gia đình họ hỗ trợ bị
can, bị cáo đưa ra mức bồi thường cho phía bị hại. Việc bồi thường cũng là tình tiết
giảm nhẹ TNHS cho bị cáo, thể hiện sự biết lỗi về hành vi sai trái đã gây thương tổn
đến bị hại, làm giảm bớt nỗi đau do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nếu làm tốt
30
bị hại còn có thể làm đơn xin giảm nhẹ TNHS cho bị cáo.
Luật sư cũng có thể đề nghị cơ quan điều tra áp dụng, thay đổi hay hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn cho bị can, bị cáo và hướng dẫn người thân thích của bị cáo
làm đơn xin bảo lãnh cho bị cáo tùy theo tính chất vụ án, nếu có căn cứ.
Ở giai đoạn truy tố, Viện Kiểm sát cùng cấp có thể xem xét các chứng cứ và các
tình tiết giảm nhẹ, chứng cứ khác có lợi cho bị can do luật sư cung cấp liên quan đến
việc định tội, định khung, liên quan đến hình phạt của bị can, bị cáo. Nhưng vấn đề
xem xét chứng cứ của luật sư vẫn chưa được coi trọng, Viện Kiểm sát nhiều khi không
sử dụng các chứng cứ của luật sư, thiếu sự phân tích, đánh giá những chứng cứ mà
người bào chữa đã tốn thời gian, công sức thu thập để chứng minh cho yêu cầu của
mình. Nguyên nhân này xuất phát từ việc thiếu cơ chế bảo đảm các quyền của luật sư
được triệt để, được tôn trọng, chưa có quy định bắt buộc cơ quan tố tụng, người tiến
hành tố tụng phải có trách nhiệm xem xét, đánh giá, kết luận về các chứng cứ của
người bào chữa, luật sư để bảo đảm tính khách quan, tính hợp pháp của chứng cứ.
Giai đoạn truy tố có ảnh hưởng, tác động nhất định đến hoạt động bào chữa
của luật sư, luật sư tham gia vào giai đoạn này cần kiến nghị xem xét các Quyết
định đình chỉ điều tra theo quy định tại Điều 230 BLTTHS, Bản kết luận điều tra, đề
nghị truy tố bị can theo Điều 233 BLTTHS, bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát
cùng cấp. Luật sư cần tập trung thời gian, công sức nghiên cứu, đánh giá tính hợp
pháp và tính có căn cứ của những quyết định trên để kịp thời đưa ra những kiến
nghị trên cũng như tiếp tục đề nghị triệu tập thêm người làm chứng, đề nghị hủy bỏ
hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn, khiếu nại bản Cáo trạng tới Viện Trưởng Viện
kiểm sát nhằm hạn chế việc oan sai và những hành vi vi phạm tố tụng trong quá
trình điều tra, truy tố, tạo cho việc giải quyết vụ án được kịp thời, đúng pháp luật.
Theo quy định tại Điều 15 BLTTHS năm 2015 thì: Trách nhiệm chứng minh
tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có
quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các
biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện
và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết
tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.
Và Điều 85 BLTTHS năm 2015, quy định khi điều tra, truy tố và xét xử vụ
án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh: “Có hành vi
31
phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi
phạm tội; Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý
hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;
Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc
điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi
phạm tội gây ra; Nguyên nhân và điều kiện phạm tội; Những tình tiết khác liên quan
đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.”
Các quy định về chứng cứ, nguồn chứng cứ, thu thập chứng cứ của người
bào chữa, đã thể hiện sự dân chủ hơn rất nhiều so với BLTTHS cũ và đã tạo điều
kiện tốt hơn để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng, người bào chữa thực hiện đầy đủ hơn, có hiệu quả hơn các quy định
pháp luật tố tụng hình sự, ví dụ như quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, phương thức
thu thập chứng cứ, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, tài liệu kịp thời của luật sư cho các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng giải quyết vụ án. BLTTHS 2015
đã đảm bảo các quyền của người bào chữa đối với việc cung cấp chứng cứ vụ án,
yêu cầu đối chất, nhận dạng, trưng cầu giám định…được tiến hành nhanh chóng,
khách quan, đúng pháp luật tránh làm oan người không phạm tội. Luật sư có quyền
thu thập, đưa ra chứng cứ theo Điểm h khoản 1 Điều 73 BLTTHS. Luật sư có
quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác
biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề
nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan
đến việc bào chữa theo quy định tại Khoản 2 Điều 88 BLTTHS. Nếu luật sư không
thể thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa cho bị cáo
thì có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập theo quy định
tại khoản 3 Điều 81 BLTTHS năm 2015. Việc luật sư được đề nghị cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập tài liệu, chứng cứ là quy định tiến bộ và có ý
nghĩa rất tích cực nhằm tạo điều kiện tối đa để người bào chữa thực hiện tốt quyền
thu thập chứng cứ. Nhưng trong thực tế, pháp luật thiếu chế tài đối với việc cơ
quan, tổ chức, cá nhân cố ý không cung cấp chứng cứ theo yêu cầu của người bào
chữa mà không có lý do chính đáng, trừ trường hợp chứng cứ tài liệu đó thuộc bí
mật nhà nước, bí mật công tác hoặc thuộc trường hợp pháp luật quy định cơ quan,
tổ chức, cá nhân không phải cung cấp. Và nếu không có chứng cứ đầy đủ thì các cơ
quan tiến hành tố tụng khó có thể chứng minh tội phạm một cách khách quan và
32
toàn diện. Vì vậy, việc thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự của luật sư là
rất quan trọng, hỗ trợ cho cơ quan tiến hành tố tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng phải
chứng minh có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những
tình tiết khác của hành vi phạm tội, ai là người thực hiện hành vi phạm tội. Cơ quan
tiến hành tố tụng phải chứng minh có lỗi hay không có lỗi, lỗi do cố ý hay vô ý; có
năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội. Cơ quan tiến
hành tố tụng phải đưa ra những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự
của bị can, bị cáo, đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo. Cơ quan tiến hành tố
tụng phải chứng minh về tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra,
nguyên nhân và điều kiện phạm tội, những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ
trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt theo quy định tại
Điều 85 BLTTHS năm 2015.
Với vai trò là Luật sư bào chữa, các chứng cứ của luật sư thu thập được
thường mang giá trị gỡ tội cho bị cáo và phản biện với chứng cứ buộc tội của các cơ
quan tiến hành tố tụng. Cùng với việc sử dụng các chứng cứ đã thu thập, luật sư có
thể có những kiến nghị cơ quan tiến hành tố tụng ra các quyết định khác nhau như
điều tra bổ sung, điều tra lại, đình chỉ điều tra, rút quyết định truy tố, thay đổi tội
danh nhẹ hơn, áp dụng hình phạt nhẹ hơn tới Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trước
khi có Kết luận điều tra, Cáo trạng bảo đảm việc định tội danh, quyết định hình phạt
cho bị cáo đúng quy định pháp luật.
Quá trình chứng minh vụ án hình sự, những người tiến hành tố tụng và luật
sư phải xác định giá trị của các tài liệu, vật chứng đã thu thập được với mục đích
chứng minh những vấn đề buộc tội, gỡ tội bị cáo trong vụ án. Các cơ quan tiến hành
tố tụng đánh giá chứng cứ và xác định giá trị chứng minh của chứng cứ đối với
những vấn đề cần phải giải quyết trong một vụ án hình sự.
Luật sư bào chữa sẽ phải sử dụng tổng hợp những kinh nghiệm nghề nghiệp
và kiến thức chuyên môn của mình về chứng cứ và đánh giá chứng, cùng với bị cáo
cung cấp thêm chứng cứ nhằm bác lại những quan điểm đối lập của cơ quan tố tụng.
Luật sư có vai trò rất quan trọng cùng với những người tiến hành tố tụng khác trong
việc đánh giá chứng cứ để tìm ra sự thật khách quan của vụ án hình sự, đòi hỏi luật
sư phải có những kỹ năng nhất định, có phương pháp thu thập chứng cứ để bào
33
chữa cho bị can, bị cáo khi tham gia tố tụng.
Khi thấy có căn cứ thay đổi được quy định tại Điểm e) Khoản 1 Điều 73 Bộ
luật Tố tụng Hình sự thì Luật sư có thể đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người dịch thuật nhằm đảm
bảo vụ án được tiến hành khách quan, vô tư.
Luật sư được đọc các bản khai, bản hỏi cung bị can, đọc hồ sơ vụ án, kiểm tra
có đúng hay không, các chứng cứ chứng minh tội phạm có đảm bảo khách quan hay
không, từ đó, Luật sư đề xuất với Viện Trưởng Viện kiểm sát cùng cấp để có những
yêu cầu cần cho việc bào chữa cho bị can một cách chính đáng. Tùy vào từng vụ án cụ
thể mà Luật sư có thể đưa ra các yêu cầu đối với cơ quan tố tụng như: Đề nghị lấy lời
khai của những người làm chứng khi thấy các chứng cứ, lời khai bất lợi cho bị can; Đề
nghị tiến hành đối chất; Tiến hành nhận dạng; Thu giữ vật chứng có liên quan đến vụ
án mà chưa thấy cơ quan điều tra thu giữ; Thực nghiệm điều tra; Trưng cầu giám định
hoặc bổ sung giám định, hoặc làm giám định lại; Đưa các tài liệu và đồ vật có liên
quan đến vụ án mà cơ quan điều tra thư đưa vào để chứng minh cho hành vi của bị can.
Luật sư cũng cần đề xuất hướng giải quyết vụ án, hướng bào chữa cho bị
can như: Đề xuất bằng văn bản nêu rõ cơ sở các lập luận bào chữa cho bị can; Đề
xuất việc tách hoặc nhập vụ án có căn cứ hay không; Đề xuất về chứng cứ vụ án;
Đề xuất tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can.
Hoạt động của luật sư bào chữa giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Giai đoạn xét xử sơ thẩm, nếu luật sư đã đăng ký hồ sơ luật sư bào chữa từ
giai đoạn tố tụng trước thì không cần phải đăng ký hồ sơ lại. Luật sư dùng các biện
pháp hợp pháp đề nghị tới Tòa án xác định bị cáo có tội hay không có tội, nếu bị
cáo có tội thì sẽ có đề xuất hợp pháp về mức hình phạt tương ứng với hành vi phạm
tội của bị cáo. Điều 10 BLTTHS 2015 đã xác định: " Mọi người có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết
định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang”, và
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được quy
định tại Điều 16 BLTTHS 2015: Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật
sư hoặc người khác bào chữa.
Hoạt động bào chữa của luật sư giúp bị cáo thực hiện tốt hơn nữa quyền và
34
nghĩa vụ của họ theo quy định của pháp luật, vai trò của luật sư tham gia tố tụng
hình sự còn giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết và xử lý vụ án đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật.
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, luật sư có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
bào chữa cho bị cáo bị Viện kiểm sát truy tố bằng bản cáo trạng. Luật sư nghiên cứu hồ
sơ vụ án, chứng cứ tài liệu nếu phát hiện sai lầm trong quá trình điều tra, truy tố giúp sẽ
giảm thiểu việc kết tội oan sai, ảnh hưởng đến quyền lợi của bị cáo. Nếu thấy cần thiết,
luật sư làm văn bản đề xuất tới Tòa án trả hồ sơ, triệu tập thêm người làm chứng,
người có thẩm quyền tham gia tiến hành tố tụng, tạm đình chỉ vụ án, thay đổi biện
pháp ngăn chặn…
Hoạt động bào chữa của luật sư tham gia trong giai đoạn xét xử sơ thẩm góp
phần giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự xác định sự thật khách quan của
vụ án, giúp cho bị cáo, giúp cho Tòa án ra một bản án có căn cứ, có sức thuyết phục,
đúng pháp luật.
Để tham gia phiên tòa hình sự một cách hiệu quả, luật sư cũng phải biết sử dụng
những quyền và nghĩa vụ của mình trong khuôn khổ của pháp luật để bào chữa cho bị
cáo một cách tốt nhất.
Phiên tòa xét xử đóng vai trò trung tâm trong việc đánh giá chứng cứ, đây là
giai đoạn quyết định tính đúng đắn, khách quan của việc chứng minh sự thật của vụ
án hình sự. Phiên toà hình sự sơ thẩm là nơi toà án bằng thủ tục công khai, toàn
diện, chính thức thực hiện việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Toà án quyết
định giải quyết vụ án dựa trên các chứng cứ được thu thập có trong hồ sơ vụ án.
Việc đánh giá các chứng cứ công khai tại phiên toà có sự tham gia đầy đủ của các
cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố
tụng với địa vị pháp lý được xác định.
Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, pháp luật quy định cho người bào chữa các
quyền năng tố tụng có tính độc lập so với đại diện Viện Kiểm sát, đó là quyền đề
nghị hoãn phiên tòa hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng, bao gồm cả Kiểm sát
viên, Thẩm phán, Hội thẩm Nhân dân, Thư ký phiên tòa, Người giám định, Người
phiên dịch khi có căn cứ cho rằng việc tham gia phiên tòa của họ làm vụ án sẽ
không khách quan, gây bất lợi người bào chữa, cho bị cáo. Người bào chữa, Luật sư
có thể đề nghị triệu tập thêm người làm chứng và đưa ra các yêu cầu, kiến nghị
35
HĐXX xem xét mà không cần phải biết Kiểm Sát viên có chấp nhận hay không.
Trong phần thủ tục xét hỏi tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, đại diện Viện Kiểm
sát và Người bào chữa, Luật sư đều được tham gia xét hỏi liên quan đến việc lời
buộc tội, lời bào chữa đối với bị cáo và người tham gia tố tụng khác. Luật sư theo
dõi việc hỏi của HĐXX, Hội thẩm Nhân dân, đại diện Viện Kiểm sát, và các nhân
chứng, bị cáo, nếu phát hiện những điểm quan trọng có liên quan đến việc bào chữa
cho bị cáo, những tình tiết có mâu thuẫn với các chứng cứ khác trong vụ, phát hiện
thấy những tình tiết không phù hợp với thực tế khách quan của vụ án cần được làm
rõ thì luật sư đặt câu hỏi để làm rõ những tình tiết có lợi cho bị cáo mà mình bào
chữa. Luật sư cũng dùng quyền của mình để đề nghị HĐXX làm rõ các vấn đề trong
việc xác định tội danh trước khi ra quyết định hình phạt đối với bị cáo. Luật sư cũng
cần đề nghị HĐXX hỏi thêm những tình tiết cần thiết khác để làm sáng tỏ các
chứng cứ, tài liệu, kết luận điều tra, cáo trạng, kết luận giám định… trong vụ án,
trình bày nhận xét của mình về các chứng cứ tài liệu chưa khách quan, chưa đúng
với quy định pháp luật, trình bày về các vật chứng của vụ án được đưa ra xem xét
tại phiên tòa đã khách quan hay chưa, và hỏi những vấn đề khác mà chưa rõ hoặc
còn mâu thuẫn.
Luật sư bào chữa cho bị cáo sẽ chứng minh sự thật khách quan của vụ án
hình sự theo quan điểm, đưa ra các chứng cứ tại phiên tòa hình sự sơ thẩm có vai
trò cực kỳ quan trọng trong việc giải quyết vụ án hình sự. Người bào chữa phải lúc
này phải có những kỹ năng nhất định mọi mặt để có thể bào chữa tốt nhất cho bị cáo
mà mình khi tham gia tố tụng để bào chữa. Phải đề nghị cơ quan tố tụng hình sự căn
cứ vào cả chứng cứ cũ và chứng cứ mới thu thập được, cần thuyết phục Tòa án chấp
nhận đề nghị về chứng cứ người bào chữa cung cấp.
Trong phần tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, đại diện Viện Kiểm sát
luận tội và bảo vệ quan điểm truy tố, xong Người bào chữa, Luật sư được đưa ra lập
luận, lý lẽ để phản bác quan điểm của Cáo trạng, luận tội của Đại diện Viện Kiểm
sát. Đại diện Viện Kiểm sát phải đáp lại lời bào chữa của Người bào chữa, Luật sư
theo đúng luật định, không phụ thuộc vào ý chí của Kiểm sát viên. Tranh luận tại
phiên tòa giữa các bên phải bình đẳng, HĐXX không được can thiệp, không được
hạn chế về mặt thời gian và phải thể hiện sự khách quan vô tư.
Hoạt động tranh luận tại phiên tòa hình sự là cách thức để luật sư phân tích
36
các chứng cứ, các tình tiết vụ án một cách chi tiết, đưa ra luận cứ có sức thuyết phục
để bào chữa cho bị cáo trước HĐXX và đại diện Viện kiểm sát. Vai trò của luật sư
thể hiện đúng nghĩa thì luật sư phải nắm vững được hồ sơ vụ án, ngoài ra, sự hiểu
biết pháp luật một cách sâu rộng, kỹ năng bào chữa thành thạo cũng là những vấn
đề quan trọng tạo nên sự thành công trong việc bào chữa của luật sư. Mỗivụ án có
tính chất khác nhau mà luật sư có thể đưa ra những tình tiết có lợi cho bị cáo, cân
nhắc đề nghị HĐXX bác bỏ những tình tiết tăng nặng mà đại diện Viện kiểm sát
buộc tội bị cáo, đề nghị xem xét những tình tiết giảm nhẹ TNHS đối với bị cáo mà
không được Viện kiểm sát xem xét đến. Ngoài các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo
được quy định trong BLTTHS như: bị cáo có trình độ văn hóa thấp, phạm tội lần
đầu, có thái độ khai báo thành khẩn…thì luật sư cũng cần phải tìm kiếm những tình
tiết có lợi khác cho bị cáo để cung cấp cho HĐXX xem xét. Những chứng cứ được
chấp thuận làm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo có ý nghĩa rất lớn trong việc xem xét
và quyết định hình phạt đối với bị cáo. BLHS cũng đã quy định, khi quyết định hình
phạt, ngoài tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, Tòa án còn phải
căn cứ vào nhân thân người phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị cáo, khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 BLHS,
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt
hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Trong các vụ án mà cơ
quan tố tụng hình sự đã xác định đúng người, đúng tội thì những tình tiết giảm nhẹ
được coi là yếu tố duy nhất để bị cáo có thể được giảm nhẹ hình phạt theo quy định
pháp luật. Luật sư bào chữa cho bị cáo cần phát hiện được các tình tiết giảm nhẹ có
lợi cho bị cáo khác với các tình tiết giảm nhẹ mà đại diện Viện Kiểm sát đã đưa ra.
Có nhiều luật sư tham gia bào chữa cho bị cáo đã dùng mọi biện pháp, kể cả biện
pháp không đúng quy định pháp luật để bào chữa cho bị cáo, việc làm này pháp luật
cho phép, ngược lại gây bất lợi cho bị cáo.
Lời trình bày bào chữa của luật sư tại phiên tòa hình sự sơ thẩm giúp HĐXX
đánh giá các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện hơn, giúp bị cáo
không bị xử oan sai, làm cho bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm của mình và
hiểu biết pháp luật hơn. Luật sư phải thận trọng trong việc phân tích và đánh giá
chứng cứ để minh oan hoặc gỡ tội cho bị cáo trong khi trình bày phần bào chữa cho
37
bị cáo tại phiên tòa. Khi lập luận, tranh luận với đại diện Viện Kiểm sát, luật sư cần
đưa ra các chứng cứ bảo vệ bị cáo một cách chính xác, tập trung vào những vấn đề
có liên quan đến việc bào chữa bị cáo, tập trung vào những hành vi theo tội danh mà
Viện kiểm sát truy tố trong cáo trạng đối với bị cáo có đúng hay không. Việc chứng
minh hành vi của bị cáo làm cho HĐXX xem xét xem có thể chuyển sang tội danh
khác nhẹ hơn hay khung hình phạt khác nhẹ hơn hay không. Luật sư có quyền phản
bác các chứng cứ buộc tội bị cáo tại phiên nếu thấy chưa đủ căn cứ.
Chứng cứ, những tình tiết có lợi cho bị cáo như những tình tiết giảm nhẹ TNHS
cho bị cáo đặc biệt quan trọng, cách dùng từ trong luận cứ bào chữa của luật sư trình
bày tại phiên tòa cũng cần phải được chọn lựa, cân nhắc thật kỹ, làm cho người nghe dễ
hiểu. Cách diễn đạt của luật sư cũng phải trình bày sao cho có sức cuốn hút và được sự
chấp thuận của HĐXX, đại diện Viện kiểm sát và những người tham dự phiên tòa hình
sự để họ thấy được luận cứ bào chữa của luật sư là hợp tình, hợp lý, đúng pháp luật.
Việc tham gia đối đáp tại phiên tòa, luật sư có thể đưa ra các đề nghị tới HĐXX
đối với việc không chấp nhận những chứng cứ buộc tội bị cáo do đại diện Viện kiểm sát
buộc tội bị cáo nếu thấy không có căn cứ. Việc lắng nghe các vấn đề mà đại diện Viện
Kiểm sát đưa ra để có thể có thể đáp lại những ý kiến mà mình không đồng ý thì luật sư
phải thể hiện một cách linh hoạt, chính xác dựa trên các quy định của pháp luật.
Việc xem biên bản của phiên tòa là việc cần thiết đối với luật sư, vì thực tế các
thư ký tòa có thể chưa nêu hết các quan điểm bào chữa của luật sư trong biên bản phiên
tòa. Khi xem bản phiên tòa mà luật sư thấy có những điểm ghi không đúng, luật sư yêu
cầu Tòa án sửa chữa cho phù hợp với diễn biến của phiên tòa đã diễn ra.
Về trách nhiệm của HĐXX hình sự sơ thẩm, phải xem xét các chứng cứ
trong vụ án để hướng đến mọi chứng cứ buộc tội hay gỡ tội được thu thập đúng luật
đều có giá trị pháp lý, đều được đánh giá công bằng trước khi Tòa án đưa ra quyết
định, không vì Luật chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm cụ thể của người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng trong vụ án mà lơ là, không công tâm, thiếu trách
nhiệm trong quá trình giải quyết vụ án.
Kết thúc phần tranh luận, Tòa án sẽ tuyên bố nghỉ để nghị án. Khi tuyên án,
luật sư theo dõi ghi chép lại những nhận định của HĐXX về tội danh và hình phạt,
quyết định của bản án có liên quan đến bị cáo mà mình bảo vệ. Nếu thấy mức án của bị
cáo quá nặng so với hành vi phạm tội, hoặc thấy oan sai thì luật sư nhắc nhở bị
38
cáo kháng cáo một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm mà Tòa án đã tuyên đối với bị
cáo, đơn kháng cáo được gửi từ trại tạm giam nếu bị cáo đang bị tạm giam, và luật sư
giúp bị cáo tại ngoại làm đơn kháng cáo, nội dung đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp
trên trực tiếp xem xét lại vụ án theo trình tự phúc thẩm. Nếu bị cáo mà luật sư bảo vệ là
người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hay tâm thần thì luật sư
có quyền kháng cáo độc lập cho bị cáo theo quy định của BLTTHS. Tòa án cấp sơ
thẩm sẽ thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị (nếu có) trong thời hạn 7 ngày kể
từ ngày Tòa án nhận được kháng cáo, kháng nghị tới luật sư tham gia bào chữa
trong vụ án hình sự.
Thực tế hiện nay, những bất cập tồn tại trong hoạt động bào chữa của luật sư
tại Tòa án vẫn diễn ra, Tòa án không bị ràng buộc bởi quy định phải đánh giá chứng
cứ của luật sư cung cấp nên thực tiễn giải quyết án thời gian qua ở một số Tòa án
cấp sơ thẩm vẫn có tình trạng xem nhẹ chứng cứ do người bào chữa cung cấp, nhiều
khi bỏ qua những chứng của luật sư, thậm chí hoàn toàn không đề cập trong bản án
sơ thẩm. Tòa án cần phải có cái nhìn toàn diện và chấp nhận đề nghị người bào
chữa, luật sư dựa trên các chứng cứ, tài liệu công khai kiểm tra, đánh giá tại phiên
tòa để giúp cho HĐXX sơ thẩm giải quyết vụ án thật khách quan, đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, không làm oan sai người theo đúng quy định tại điểm c, điểm đ
khoản 2 Điều 260 BLTTHS năm 2015. Quy định trên cũng nêu rõ nội dung của Bản
án sơ thẩm phải ghi rõ các ý kiến của người bào chữa và phân tích lý do mà Hội
đồng xét xử không chấp nhận những chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, yêu cầu,
đề nghị của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ
đưa ra.
Tâm lý chung của không ít Thẩm phán vẫn thường tỏ ra nghi ngờ, thậm chí có
định kiến với các chứng cứ mà Người bào chữa, Luật sư trực tiếp đi thu thập và cung
cấp cho Tòa án, xuất phát từ việc cho rằng các chứng cứ gỡ tội cho bị cáo, vì thế khi
luật sư giao nộp chứng cứ ít được sử dụng. Theo quy định tại khoản 3 Điều 81
BLTTHS năm 2015 thì trường hợp không thể thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật
liên quan đến việc bào chữa thì Người bào chữa, Luật sư có thể đề nghị cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập, nhưng nhiều khi Tòa án vẫn thường chẫm trễ
trong việc tiếp nhận đề nghị của luật sư, nhiều khi không hồi đáp hoặc thường nêu
ra những lý do trở ngại nào đó mà không tiến hành thu thập chứng cứ theo đề nghị
39
của luật sư bào chữa.
Thu thập chứng cứ là việc ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ của cơ
quan tiến hành tố tụng làm cho chứng cứ có đầy đủ giá trị chứng minh và hiệu quả
sử dụng. Theo đó, chứng cứ cần phải có sự ghi nhận theo thủ tục tố tụng hình sự
mới có thể sử dụng làm chứng cứ chứng minh tội phạm. Thực tế thì Tòa án, HĐXX
thường chỉ quan tâm đến các chứng cứ xác định có tội, chứng cứ buộc tội mà ít khi
chú ý đến các chứng cứ gỡ tội cho bị cáo. Với những trường hợp như vậy dẫn đến
tình trạng vị phạm nguyên tắc suy đoán vô tội đối với người bị buộc tội. Điều này
đã gây nên không ít bức xúc về sai lầm trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự
của dư luận xã hội thời gian qua.
Mặt khác, mục đích của Người bào chữa, Luật sư đưa ra chứng cứ khác với
các cơ quan và người tiến hành tố tụng, bởi vì người bào chữa, luật sư trước hết là
người bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, chứng cứ của luật sư thu
thập thường mang giá trị gỡ tội đúng với vai trò, chức năng và nhiệm vụ của người
bào chữa, có giá trị phản biện và làm đối trọng với các chứng cứ buộc tội của các cơ
quan tiến hành Tố tụng Hình sự. Người bào chữa, luật sư thường có những kiến
nghị cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, Tòa án để ra các quyết định kịp thời khác
nhau như trả hồ sơ điều tra bổ sung, đình chỉ điều tra, rút quyết định truy tố, thay
đổi tội danh nhẹ hơn, áp dụng hình phạt nhẹ hơn cho bị cáo khi quyết định hình
phạt cho bị cáo nhưng hầu như ít được xem xét.
Có thể khẳng định rằng, việc đánh giá chứng cứ hiện nay vẫn chịu ảnh
hưởng bởi tư cách tố tụng, trình độ chuyên môn, khả năng nhận thức, tư duy của
mỗi người. Việc đánh giá chứng cứ, nhận định chứng cứ là vấn đề rất phức tạp, có
nhiều khi cùng một chứng cứ, cùng một hồ sơ vụ án, cùng một tình tiết nhưng quan
điểm đánh giá của Kiểm sát viên, Thẩm phán, luật sư trong cùng vụ án cũng khác
nhau, chưa có sự thống nhất.
Người tiến hành tố tụng trong vụ án Hình sự phải phân loại, đánh giá tài liệu,
lời khai, vật chứng, kết luận giám định và các tài liệu khác được coi là chứng cứ.
Các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử mới chỉ
là nguồn chứng cứ. Có nhiều nguồn chứng cứ khác là chứng cứ, theo đó chứng cứ
khác có phải là hợp pháp hay không thì chưa được tìm hiểu thấu đáo về tính hợp
pháp, tính khách quan, tính liên quan và chưa được đề xuất với người tiến hành tố
tụng có thẩm quyền để coi là chứng cứ chứng minh tội phạm. Cần phải xem xét
40
những chứng cứ đó được phát hiện, thu thập thế nào, có tuân thủ theo các quy định
của pháp luật TTHS hay không, có phản ánh đúng sự thật khách quan, không phụ
thuộc vào ý chí chủ quan của bất kỳ ai.
Về tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ, các chứng cứ đó có liên quan
đến vụ án hình sự đang được giải quyết, các chứng cứ đó có giá trị và ý nghĩa có
mối quan hệ với đối tượng chứng minh. Khi đánh giá chứng cứ phải đánh giá từng
chứng cứ, xác định giá trị của chứng cứ đó chứng minh cho đối tượng nào của vụ
án, đánh giá mối quan hệ giữa các chứng cứ đối chiếu với thực tế khách quan, đánh
giá toàn bộ chứng cứ để rút ra kết luận về vụ án.
Khi đánh giá chứng cứ người tiến hành tố tụng hình sự cần phải có niềm tin nội
tâm để có sự tin tưởng vào kết luận mà mình đưa ra là đúng, nó phụ thuộc vào trình độ
hiểu biết, kinh nghiệm nghề nghiệp, trách nhiệm, lương tâm của người tiến hành tố tụng.
Về các tài liệu đọc được, nghe, nhìn được thì cần phải là bản chính hoặc bản
sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
cung cấp, xác nhận và phải xuất trình kèm văn bản xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn
bản về sự việc liên quan đến việc thu âm, thu hình.
Về các lời khai của người làm chứng, cần phải được ghi thành văn bản hoặc
ghi âm, ghi hình theo quy định của pháp luật hoặc có trong biên bản phiên tòa công
khai tại phiên tòa.
Về các vật chứng vụ án hình sự thì phải là hiện vật gốc, phải được bảo quản,
giữ gìn để giữ đúng đặc tính.
Về kết luận giám định thì phải do cơ quan giám định có thẩm quyền thực
hiện theo thủ tục tố tụng hình sự.
Về biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ thì phải được tiến hành theo thủ
tục do luật định và phải có chữ ký của các thành viên tham gia thẩm định. Kết quả
thẩm định, thẩm định giá tài sản thì phải do chuyên gia về định giá cung cấp và phải
được tiến hành theo thủ tục luật định.
Với Người bào chữa, Luật sư, khi tham gia tố tụng với tư cách là người bào
chữa cho người bị buộc tội sẽ phải sử dụng tổng hợp những kinh nghiệm nghề
nghiệp, kiến thức chuyên môn trong đó chú trọng đến kiến thức về chứng cứ và
đánh giá chứng cứ nhằm bác lại những quan điểm đối lập của bên buộc tội, bảo vệ
quan điểm của người bào chữa, cùng với những người tiến hành tố tụng hình sự
41
khác trong việc đánh giá chứng cứ để tìm ra sự thật khách quan của vụ án Hình sự.
Tiểu kết chương 1
Với những quy định của BLTTHS 2015, vẫn cần tiếp tục có những nghiên cứu ở
góc độ pháp luật liên quan đến các giải pháp, kiến nghị về hoạt động của người bào chữa
trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Cần có giải pháp nâng cao các quyền của Người
bào chữa, Luật sư trong các giai đoạn tố tụng hình sự nhằm thực hiện chức năng bào
chữa cho người bị buộc tội cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự
trong vụ án hình sự. Việc nghiên cứu các vướng mắc, bất cập trong thực hiện BLTTHS
từ thực tiễn thành phố Hà Nội giúp cho việc kiến nghị tới cơ quan lập pháp, cơ quan tố
tụng hình sự có thẩm quyền từng bước hoàn thiện pháp luật TTHS, nâng cao địa vị pháp
lý, hoạt động bào chữa của người bào chữa, luật sư khi tham gia bào chữa vụ án Hình sự
sơ thẩm.
Thực tế cho thấy, các bị can, bị cáo đã được thực hiện quyền tự bào chữa, nhờ
luật sư bào chữa cho bị can, bị cáo trước các cơ quan tố tụng hình sự, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng hình sự góp phần tạo nên tố tụng công bằng, có giá trị pháp lý.
Hoạt động bào chữa của luật sư làm cho các nguyên tắc cơ bản của TTHS được thực thi,
bảo đảm Hiến pháp được thể chế hóa, cụ thể tranh tụng trong giai đoạn truy tố, xét xử sơ
thẩm bảo đảm quyền cho người bị buộc tội, quyền và nghĩa vụ của luật sư bào chữa.
Có nhiều công trình khoa học được công bố về hoạt động bào chữa của luật
sư nhưng luận văn bị giới hạn về phạm vi nghiên cứu và cấp độ nghiên cứu nên vấn
đề hoạt động bào chữa của người bào chữa, luật sư sẽ được trình bày đan xem trong
các phần của luận văn. Hoạt động bào chữa của luật sư trong vụ án hình sự rất quan
trọng, cùng với những người tiến hành tố tụng hình sự khác trong việc thua thập,
đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự, luận văn tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, có
tính mới, tính hệ thống trong hoạt động bào chữa của Luật sư bào chữa tại Thành
42
phố Hà Nội.
Chương 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT
XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát tình hình tội phạm, tình hình hoạt động của cơ quan tố
tụng trên địa bàn Hà Nội
Theo tổng kết chung của các cơ quan tố tụng hình sự, đặc biệt là cơ quan
cảnh sát điều tra trên địa bàn Hà Nội, trong thời gian vừa qua, tại những địa bàn
công cộng của thành phố, các lực lượng nghiệp vụ đã triển khai lực lượng truy quét
nhiều loại tội phạm, tệ nạn xã hội, góp phần giữ vững ổn định tình hình an ninh trật
tự trên địa bàn. Đầu năm 2019, các cơ quan bảo vệ pháp luật đã xây dựng và triển
khai kế hoạch phòng ngừa, đấu tranh với các hành vi phạm tội trên địa bàn, đặc biệt
ở những nơi công cộng như các sân bay, nhà ga, bến xe, siêu thị, trung tâm thương
mại... các cơ quan bảo vệ pháp luật đã kịp thời phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi hoạt
động của các loại tội phạm, tệ nạn xã hội. Những vụ phạm pháp hình sự trên địa bàn
tăng so hơn với năm 2018, nhưng những trọng án lớn năm 2019 đã giảm hơn 2018.
Công tác đấu tranh với các ổ nhóm tội phạm có tổ chức vẫn đang được tiến hành
triệt để. Có hàng ngàn sự kiện chính trị quan trọng diễn ra trên địa bàn đều được bảo
vệ an toàn. Lực lượng chức năng đã phối hợp giải quyết tình trạng khiếu kiện của
công dân các địa phương kéo về Hà Nội. Tình trạng tội phạm xâm hại trẻ em, xâm
hại tình dục có xu hướng gia tăng, xuất hiện tội phạm buôn bán người, mang thai
hộ, mua bán bào thai, mua bán thận tại các bệnh viện lớn đang được theo dõi và đã
xử lý nhiều vụ. Lực lượng chức năng đầu năm 2019 đã kám phá gần 2000 vụ án,
với gần 3000 đối tượng phạm pháp hình sự, triệt phá hàng ngàn ổ nhóm tội phạm
hình sự. Về loại tội phạm tham nhũng trên địa bàn Hà Nội vẫn xảy ra ở nhiều lĩnh
vực, nhiều nơi. Tội phạm ma túy còn nghiêm trọng và có xu hướng gia tăng và rất
phức tạp. Tai nạn giao thông tăng về số người chết do ý thức tham gia giao thông
của người dân chưa cao. Các lực lượng chức năng luôn cố gắng làm tốt công tác
tuyên truyền pháp luật, vận động quần chúng tham gia tố giác, phòng chống tội
43
phạm, phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh, tiếp tục rà soát các địa bàn
quận huyện, không để bị động, bất ngờ, hạn chế để xảy ra các vụ án đặc biệt nghiêm
trọng, không để hình thành các tụ điểm phức tạp về an ninh trên địa bàn thành phố.
Với cơ quan Tòa án, trong những năm qua, công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật được Tòa án thực hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau.
Thông qua hoạt động xét xử, tòa án tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đưa
các quy định của pháp luật đến với người dân. Đây là hình thức tuyên truyền có ý
nghĩa thiết thực và dễ dàng đi vào đời sống nhân dân, những người tham dự phiên
tòa được chứng kiến toàn bộ diễn biến quá trình Tòa án giải quyết, xét xử một vụ án
nên họ sẽ hiểu rõ hơn pháp luật quy định đối với từng trường hợp như thế nào và bị
xử lý ra sao.
Thông qua tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật công khai các bản án
hình sự, phát triển án lệ hình sự cũng là một biện pháp làm cho nhân dân được tiếp
cận pháp luật thông qua nhiều cách thức thì việc công khai các bản án, quyết định
của Tòa án trên Cổng thông tin điện tử. Từ ngày 01-7-2017, TAND các cấp đã thực
hiện việc công bố các bản án, quyết định của Tòa án mình trên Cổng thông tin điện
tử của Tòa án, cho đến ngày 15-7-2019 đã có 291.819 bản án, quyết định của Tòa
án được công bố, trong đó có 60.601 bản án, quyết định về hình sự. Số lượng luật
sư tham gia bào chữa cho bị cáo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp các cho các đương sự
trong vụ án hình sự chiếm khoảng 56% /tổng số các vụ án hình sự.
Theo thông tin từ TANDTC thì công tác phát triển án lệ tính đến thời điểm
tháng 7-2019, TANDTC đã ban hành được 26 án lệ, xuất bản được 02 tuyển tập án
lệ, những vấn đề chưa có điều luật quy định cụ thể hoặc những quy định của pháp
luật còn có cách hiểu khác nhau sẽ được phân tích, giải thích trong một vụ việc cụ
thể, vì vậy việc tiếp cận các quy định của pháp luật thông qua án lệ sẽ cụ thể và dễ
hiểu hơn.
TAND thành phố Hà Nội cũng tích cực tham gia thực hiện các Đề án về
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương,ví dụ như: Đề án tăng
cường phổ biến, giáo dục pháp luật cho người đang chấp hành hình phạt tù; người
bị áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc các biện pháp xử lý hành chính, người mới
44
ra tù tái hòa nhập cộng đồng, thanh thiếu niên vi phạm pháp luật lang thang cơ nhỡ
giai đoạn 2018 – 2021; Chương trình phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật và hòa
giải cơ sở giữa Tòa án nhân dân thành phố và Sở Tư pháp giai đoạn 2019-2023…
Ngoài những kết quả đạt được, Tòa án vẫn còn hạn chế trong việc tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật vẫn còn mang tính hình thức, chưa đa dạng,
phong phú, năng lực và kinh nghiệm phổ biến, giáo dục pháp luật chưa đáp ứng
được yêu cầu chung, công tác phối hợp giữa Tòa án với cơ quan truyền thông đại
chúng đưa tin về các phiên tòa để nhân dân theo dõi nhằm phổ biến, giáo dục pháp
luật trong nhân dân còn ít.
Các TAND Hà Nội xác định mục tiêu tiếp tục tổ chức triển khai Luật Phổ
biến, giáo dục pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành; Quyết định 705/QĐ-
TTg ngày 25/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Chương trình phổ biến,
giáo dục pháp luật giai đoạn 2017-2021, Nghị quyết số 61/2007/NQ-CP ngày 07-
12-2012 của Chính phủ về việc thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09-12-2003
của Ban Bí thư; Quyết định số 705/QĐ-TTg ngày 25-5-2017 của Thủ tướng Chính phủ
về việc ban hành Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2017-2021. Tổ
chức Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (ngày 09 tháng 11
hàng năm) để tôn vinh Hiến pháp, pháp luật, giáo dục ý thức thượng tôn pháp luật cho
nhân dân. Mục đích để tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với trình độ
nhận thức, hiểu biết pháp luật, nhu cầu tìm hiểu pháp luật của người dân ở mọi lứa tuổi,
từng đối tượng đặc thù với tình hình thực tiễn của địa phương.
Tuy nhiên, tình hình hoạt động tội phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn
diễn biến phức tạp, đối tượng phạm tội có xu hướng trẻ hóa, các vụ án xuất phát từ
mâu thuẫn trong sinh hoạt gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Các tội phạm công
nghệ cao gia tăng với nhiều hình thức và thủ đoạn tinh vi liên quan đến lừa đảo qua
mạng xã hội, qua tài khoản ngân hàng, ngày càng phức tạp gây khó khăn cho công
tác điều tra, truy tố.
Tội phạm ma túy vẫn luôn là vấn nạn gây ra các tệ nạn, kéo theo nhiều hiểm
họa ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, gây đau thương cho nhiều gia đình có người
45
sử dụng, mua bán trái phép chất ma túy.
Nhóm tội phạm chức vụ, tham nhũng ngày càng phát triện, bị phát hiện xử
lý nhưng việc thu hồi tài sản hàng nghìn tỷ vẫn là bài toán nan giải, làm phương hại
đến lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích của nhân dân, làm gia tăng sự bất công trong
xã hội, làm xói mòn niềm tin của dân với Đảng, Nhà nước.
Biểu đồ 2.1. Thống kê kết quả giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm của Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội từ 2009 đến tháng 6 năm 2019
Nguồn: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
Như vậy, cuối năm 2018 Tòa án trên địa bàn Hà Nội giải quyết 735 vụ án
hình sự sơ thẩm, tổng số bị cáo lên đến 1.931 bị cáo.
Từ đầu năm 2019 cho đến hết tháng 6 năm 2019 Tòa án trên địa bàn Hà Nội
giải quyết 271 vụ án, tổng số bị cáo bị là 684 bị cáo.
Số lượng luật sư tham gia bào chữa cho các bị cáo, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp các cho các đương sự trong vụ án hình sự (gồm cả luật sư mời và luật sư chỉ
định) chiếm khoảng 56% /tổng số các vụ án hình sự của năm 2018 đến hết tháng
46
6/2019.
Biểu đồ 2.2. Thống kê kết quả giải quyết các vụ án hình sự phúc thẩm
của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội từ 2009 đến tháng 6 năm 2019
Nguồn: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
Biểu đồ 2.3. Thống kê kết quả giải quyết các vụ án hình sự ở cả hai cấp của
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội từ 2009 đến tháng 6 năm 2019
47
Nguồn: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
Do đặc điểm của thành phố Hà Nội đông dân cư, tốc độ phát triển kinh tế
nhanh, người dân nhập cư từ các tỉnh thành lớn, kéo theo tệ nạn xã hội liên tục gia
tăng, làm cho số lượng vụ án hình sự cũng tăng. Chủ yếu các nhóm tội tăng như
mua bán, tàng trữ ma túy, cố ý gây thương tích, cướp giật tài sản, đánh bạc, tội
phạm trong lĩnh vực công nghệ tông tin, mạng viễn thông với mục đích lừa đảo
chiếm đoạt tài sản. Do tình hình xã hội của thành phố Hà Nội còn nhiều phức tạp,
nhiều biến động nên tình hình tội phạm dự đoán sẽ gia tăng với tính chất, mức độ
ngày càng phức tạp hơn, đòi hỏi tăng số lượng luật sư bào chữa, đồng thời các luật
sư cũng cần phải nâng cao kiến thức để có thể đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội.
2.2 Hoạt động bào chữa trong xét xử sơ thẩm vụ án hình trên địa bàn
thành phố Hà Nội
Nghề luật sư hoạt động dựa trên pháp luật và quy tắc đạo đức, trách nhiệm
nghề nghiệp. Không giống như những nghề bình thường khác, ngoài những yêu
cầu về kiến thức và trình độ chuyên môn thì yêu cầu về việc hành nghề luật sư còn
phải tuân thủ theo Luật luật sư và Quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Sự đặc thù nghề
nghiệp của luật sư tác động đến kỹ năng hành nghề, kỹ năng tranh tụng của luật sư,
mang tính chất trợ giúp, hướng dẫn và phản biện.
Trong bất cứ xã hội nào, trong cộng đồng dân cư cũng tồn tại những người
có vị thế thấp kém như người nghèo, người già đơn côi, người chưa thành niên,
người không có sự đùm bọc của gia đình. Những người này thường bị ức hiếp, bị
đối xử bất công rất cần sự giúp đỡ, bênh vực của những người khác, đặc biệt cần sự
trợ giúp hoàn toàn, không vụ lợi của luật sư. Hoạt động trợ giúp của luật sư đối với
những đối tượng này là bổn phận, là thước đo lòng nhân ái và đạo đức nghề nghiệp
của luật sư.
Người luật sư không chỉ thông hiểu pháp luật hiện hành mà còn hiểu biết cả
tinh thần, nội dung những quy định của pháp luật ở từng thời điểm của thời gian đã
qua, và còn phải hiểu sâu rộng cả tục lệ và bản sắc văn hoá từng nơi để thực hiện
công việc của luật sư.
Trong lĩnh vực tố tụng, đặc biệt là trong Tố tụng Hình sự, Người bào chữa,
Luật sư có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để phản biện làm
48
sáng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự cho họ. Hoạt động phản biện của luật sư là lấy pháp luật và đạo đức
xã hội làm chuẩn mực để xem xét mọi khía cạnh của sự việc nhằm xác định rõ sự
thật khách quan để bảo vệ công lý.
Sự bất khả kiêm nhiệm của nghề luật sư là đặc điểm trong hoạt động của nghề
luật sư, theo đó đáp ứng được tính chuyên nghiệp, phần nâng cao vị trí, vai trò của luật
sư trong xã hội. Thực hiện tiến tới chuyên nghiệp nghiệp hóa đội ngũ luật sư thì
nguyên tắc bất khả kiêm nhiệm tạo cho luật sư có thể chuyên tâm với nghề nghiệp, đáp
ứng nhu cầu giúp đỡ pháp lý ngày càng phong phú và phức tạp của xã hội.
Sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội làm thay đổi sự xê dịch của các
nền văn hóa và pháp lý. Cùng vớisự phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, nghề luật
sư đã mở rộng phạm vi và lĩnh vực hoạt động với các quốc gia trên thế giới. Các
hiệp ước song phương và đa phương ký kết giữa các nước với sự đóng góp của các
luật sư giàu kinh nghiệm, giúp Việt Nam ban hành nhiều văn bản pháp quy điều
chỉnh hoạt động quốc tế trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại… giúp các
doanh nghiệp tham gia tố tụng trước Tòa án Việt Nam. Nhiều luật sư Việt Nam đã
tham gia giải quyết các vụ kiện tranh chấp có yếu tố nước ngoài tại các Tòa án,
trọng tài quốc tế…
Về số lượng người bào chữa và tổ chức hành nghề luật trên địa bàn: Đoàn
Luật sư Thành phố Hà Nội qua hơn 30 năm xây dựng và phát triển, đến nay có số
lượng Luật sư có trên 6000 thành viên (số lượng luật sư thành viên hiện tại là 3734
luật sư chính thức và 2512 người tập sự hành nghề luật sư), tổ chức hoạt động hành
nghề là 1.065 Văn phòng luật sư, Công ty luật. Theo con số thống kê thì chỉ có 50%
luật sư tham gia hoạt động hành nghề luật sư chuyên nghiệp, số còn lại làm việc
trong các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp tư nhân khác.
Nhiệm vụ của Đoàn luật sư thành phố Hà Nội là: Thông tin kịp thời các tin
tức sự kiên về chính trị, xã hội, kinh tế, pháp luật, góp phần tuyên truyền đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, phản ánh, đưa tin các
hoạt động của Đoàn và các tổ chức hành nghề, tiếp nhận các văn bản, phản ánh,
kiến nghị của các tổ chức hành nghề luật sư, các luật sư, phản ánh các ý kiến, quan
49
điểm của luật sư về xây dựng và thưc thi pháp luật…
Mục tiêu của Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư TP Hà Nội luôn rà soát các hồ sơ
xin gia nhập Đoàn để đảm bảo nâng cao cả về số lượng và chất lượng luật sư. Nhiều
luật sư xin ra nhập Đoàn đều là Cử nhân, Thạc sỹ, Tiến sĩ luật. Có nhiều Cán bộ
ngành Công an, Viện Kiểm sát, Thẩm phán đã về hưu cũng tham gia vai trò luật sư.
Các luật sư khi gia nhập Đoàn luật sư phải tuyên thệ, có trách nhiệm với Tổ
Quốc, người dân, chấp hành Hiến pháp pháp luật, giữ vững đạo đức phẩm chất của
người luật sư.
Theo quy định của Luật luật sư, luật sư phải luôn có ý thức tuân thủ pháp
luật, quy tắc đạo đức ứng xử nghề nghiệp, tự giác học tập, bồi dưỡng nghiệp vụ,
tích cực thực hiện các hoạt động trợ giúp pháp lý phục vụ cộng đồng, đóng góp trí
tuệ, kiến thức pháp luật và kinh nghiệm thực tiễn vào các hoạt động xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
Nguyên nhân là do địa vị pháp lý, vai trò của Người bào chữa, Luật sư ngày
càng được nâng cao. Người dân đã có nhận thức về những công việc của luật sư trong
đời sống xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích cho họ trong các sự kiện của cuộc sống.
Đối với hoạt động bào chữa của các luật sư do bị cáo, người thân của bị cáo
mời tham gia tố tụng để bào chữa cho bị can, bị cáo, hiện vẫn còn nhiều bất cập khi
luật sư nộp hồ sơ đăng ký bào chữa, nhiều khi Tòa án nói hồ sơ đang ở Viện kiểm
sát, luật sư đến Viện kiểm sát lại nói hồ sơ đã chuyển đến Tòa án, hoặc chỉ vài ngày
nữa hồ sơ lại chuyển đi, đề nghị luật sư liên hệ với Tòa án để được sao chụp tài liệu.
Có nhiều trường hợp luật sư xin sao chụp toàn bộ hồ sơ có trong vụ án, nhưng
Thẩm phán hoặc Thưu ký Tòa chỉ cho sao chụp đúng phần tài liệu liên quan đến lời
khai của bị cáo, còn tài liệu liên quan khác không tạo điều kiện cho sao chụp, như
vậy luật sư không có cái nhìn khách quan, toàn diện vụ án để có thể bào chữa tốt
nhất cho bị cáo của mình.
Về hoạt động của Luật sư chỉ định, được tạo điều kiện cấp Thông báo người
bào chữa, nhưng thường sát ngày mở phiên tòa mới được thông báo nên các luật sư
không có thời gian nắm bắt vụ án một cách toàn diện để bào chữa cho những bị cáo
thường bị truy tố ở mức án cao, là các bị cáo buộc phải có luật sư chỉ định theo quy
50
định của BLTTHS. Mức phí trả cho luật sư chỉ định vẫn còn quá thấp, chỉ khoảng
460 nghìn/ngày làm việc tạo tâm lý thờ ơ , làm việc thiếu trách nhiệm với bị cáo
trong vụ án hình sự.
Ngoài việc bào chữa cho các bị can, bị cáo trong các vụ án Hình sự, việc gia
tăng tội phạm phức tạp nhiều vấn đề đan xen giữa Dân sự và Hình sự trong vụ án
hình sự dẫn đến nhu cầu nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người liên
quan, người bị hại cũng tăng theo. Người dân nhận thức được vai trò,vị trí của luật
sư được phổ biến rộng rãi thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí.
Theo đó, hoạt động của luật sư đã có nhiều cơ sở để góp phần bảo vệ công lý, nâng
cao dân trí về pháp luật.
Thực tế xét xử, Tòa án Hình sự thường vẫn chưa xem xét thấu đáo quyền và
lợi ích hợp pháp của người liên quan, người bị hại trong vụ án hình sự, chưa có chế
tài cương quyết bảo vệ tài sản cho họ trong một bản án hình sự, làm cho người dân
cho rằng bị cáo đã đi tù là không còn gì thể thực hiện nghĩa vụ dân sự. Ví dụ như ở
các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản phổ biến hiện nay, khi bị cáo bị tuyên mức án
20 năm tù, chung thân và phải thanh toán cho người bị hại, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan những khoản tiền lớn thì đa số các bị cáo không có cơ hội để
thực hiện, bởi đã vào tù thì không còn khả năng trả nợ nữa, không có tài sản gì để
trả. Vì thế, có nhiều vụ án người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
nhất loạt đề nghị Tòa án trả tự do cho bị cáo, tuyên bị cáo vô tội để có cơ hội làm
việc trả nợ cho những người dân. Có những hiện tượng này bởi vì những vụ án hình
sự liên quan đến kinh tế đòi hỏi năng lực thẩm phán phải có nghiệp vụ cao liên quan
đến mọi lĩnh vực mới có cái nhìn đa chiều khi giải quyết vụ án. Hoạt động của luật
sư đối với những vụ án hình sự liên quan đến kinh tế đòi hỏi luật sư phải chuyên sâu
và có sự nghiên cứu tỉ mỉ từng chi tiết của vụ án mới có đề xuất hướng giải quyết vụ
án một cách tốt nhất thuyết phục HĐXX xem xét.
2.3 Những hạn chế, tồn tại trong hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án trên địa bàn và nguyên nhân
Để trở thành luật sư Việt Nam là cả một quãng thời gian dài đầy gian nan vất
vả, người luật sư phải đảm bảo các điều kiện như có bằng Cử nhân luật, qua lớp
51
đào tạo kỹ năng hành nghề luật sư, trải qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, đạt
kết quả kỳ thi kết thúc tập sự, thời gian khoảng 07 năm. Luật sư còn phải có phẩm
chất đạo đức tốt, có sức khỏe đảm bảo hành nghề luật sư.
Hệ thống pháp luật hiện hành có nhiều quy định mới về việc người bào chữa
và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự trong vụ án hình sự, bào
chữa cho bị cáo. Các quy định đã khẳng định được vị thế, vai trò, quyền và nghĩa vụ
của người bào chữa, luật sư trong tố tụng hình sự, cụ thể, với chức năng gỡ tội tồn
tại độc lập và đối trọng với chức năng buộc tội như một tất yếu khách quan.
Về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự Điều 84
BLTTHS Quy định quyền tham gia các hoạt động tố tụng để bảo vệ bị hại, đương
sự và một số quyền khác. Địa vị pháp lý của người bào chữa, luật sư là một bên
bình đẳng với các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc đi tìm sự thật khách quan
của vụ án. Các quy định pháp luật đã gia tăng phạm vi và điều kiện thực thi các
quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, luật sư trong suốt các quá trình tố tụng, kể
cả đối với thủ tục xem xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật theo trình tự
Giám đốc thẩm, Tái thẩm .
Tuy nhiên, pháp luật vẫn còn nhiều rào cản với người luật sư, nghề luật sư
làm cho việc hành nghề của luật sư gặp nhiều khó khăn. Từ việc luật sư xin sao
chụp tài liệu, nhiều khi luật sư xin đăng ký chụp tài liệu nhiều lần mới được đáp
ứng, những vụ án lớn có tính phức tạp thường việc sao chụp toàn bộ hồ sơ vụ án
chưa được Tòa án đáp ứng bởi nhiều lý do. Việc luật sư đề xuất hướng giải quyết
bằng văn bản kiến nghị, đề nghị cũng thường xuyên chưa được Tòa án xem xét thấu
đáo các quan điểm mà luật sư đưa ra một cách khách quan, toàn diện. Đặc biệt hơn
là các trường hợp luật sư kiến nghị trả hồ sơ, đình chỉ vụ án, triệu tập người làm
chứng, triệu tập điều tra viên, người giám định, các cơ quan nhà nước liên quan để
làm rõ những vấn đề chưa rõ trong vụ án, có sự chênh lệch giữa các bút lục trong vụ
án, nhưng những kiến nghị, đề nghị của luật sư vẫn chưa được quan tâm thực hiện,
nhất là những vụ án mà dư luận quan tâm.
Khi tham gia bào chữa cho bị cáo, luật sư thường đề nghị được xem xét các
nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc
52
tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, đương sự và nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử cũng chưa được các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện đầy
đủ nên tạo ra những vụ án oan sai đã bị dư luận lên tiếng trong thời gian qua.
Quyền im lặng cũng là quyền mà dư luận xã hội đặc biệt quan tâm, mặc dù
Bộ luật TTHS năm 2015 đã có các quy định tại các Điều 15, 58, 59, 60, 61, 71, 79,
98, 183…nhưng thực tế các quy định về bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của mình, trình bày ý kiến, đưa ra lời khai trên thực tế vẫn
chưa đảm bảo cho người bị buộc tội.
Về việc vị trí của luật sư tại phòng xử án, cơ chế bảo đảm tranh tụng tại
phiên tòa, trình tự Tố tụng Hình sự liên quan tới các thủ tục xét lại bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật, thủ tục đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi, sự tham
gia của người bào chữa cho pháp nhân…cũng còn nhiều vấn đề bất cập.
Với người luật sư, khi hành nghề còn nhiều gian nan, trắc trở trong công
việc, người luật sư cần rèn luyện kỹ năng hành nghề, chuyên tâm học hỏi để có thể
đứng vững hơn trong nghề. Theo thống kê gần đây, cả nước có khoảng hơn 9.000
luật sư, ở Hà Nội khoảng có khoảng hơn 4000 luật sư chính thức, trong đó khoảng
50% là có hoạt động hành nghề luật sư, nhưng chỉ có khoảng 10% luật sư sống bằng
nghề luật sư một cách chuyên nghiệp. Con số này đã chứng minh nghề luật
sư không hề dễ sống, nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do hoàn cảnh kinh tế
chung, do người dân chưa có nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý cao, người dân chưa
hiểu được các hoạt động pháp lý của luật sư.
Có rất nhiều luật sư khi có thẻ hành nghề luật sư lại đi làm việc khác, nhiều
người lấy thẻ luật sư chỉ để ghi danh mà không có bất kỳ hoạt động nghề nghiệp
nào, còn lại nhiều luật sư không chịu nổi áp lực công việc, áp lực cuộc sống hoặc
do năng lực chuyên môn không đủ đáp ứng được yêu cầu nghề nghiệp nên không
hoạt động. Vấn đề áp lực công việc là vấn đề trăn trở mà luật sư nào cũng gặp phải
qua từng vụ án, có những vụ luật sư phải chịu những thiệt hại về tài sản, về sức
khỏe, bị đe dọa, bị côn đồ đánh ...nếu vượt qua khó khăn người luật sư sẽ thành
công và có triển vọng.
Khi luật sư đứng trước Tòa án bảo vệ cho bị cáo, bảo vệ pháp luật, bảo vệ
công lý là khoảnh khắc luật sư thể hiện mình đầy đủ nhất. Trước đó, quá trình giải
53
quyết các vụ án thường mất nhiều thời gian, phát sinh nhiều công việc nhỏ nhặt mà
luật sư phải thực hiện, luật sư không được phép quên hay chậm trễ công việc liên
quan đến quyền và lợi ích của khách hàng nên luật sư phải biết cách sắp xếp thời
gian hợp lý. Đối với khách hàng, đa phần họ không thể hiểu và thông cảm với luật
sư khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa vệ quyền và lợi ích của họ, trải nghiệm của
luật sư tranh tụng vụ án hình sự với khách hàng nhiều lúc rất nặng nề vì họ đòi hỏi
luật sư những vấn đề luật không cho phép. Nhiều khi bị cáo, người thân của bị cáo
có những biểu hiện như nóng nảy, hối thúc, thậm trí thiếu hợp tác đối với luật sư,
luật sư cần thường xuyên trấn an nhưng cũng không được hứa hẹn với khách hàng
vì như vậy sẽ vi phạm đạo đức luật sư.
Về tâm lý của luật sư khi tham gia các vụ án hình sự, việc tham gia tố tụng
thường phức tạp và liên quan đến nhiều bên, lợi ích và những giá trị đạo đức nghề
luật đan xen. Trường hợp bên đối trọng không hợp tác làm cho công việc của luật
sư tranh tụng thêm phần phức tạp và nặng nề, vì thế các sư ưa thích làm các vụ tư
vấn hơn là làm các vụ án hình sự. Chính vì vậy, luật sư cần phải rất tỉnh táo khi cân
nhắc mức phí dịch vụ của vụ án hình sự. Nếu cân nhắc thấy việc kéo dài và có nhiều
diễn biến phức tạp, số tiền phí đưa ra sẽ phải tính phí sao cho hợp lý các giai đoạn
nếu luật sư nhận làm vụ án từ giai đoạn điều tra, truy tố cho đến khi xét xử.
Khi luật sư đi làm việc với các cơ quan tố tụng, áp lực trong các vụ án vô
cùng lớn, các điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, nhân viên, cán bộ toà án nhiều
khi không hợp tác với luật sư lúc này việc kiềm chế làm một kỹ năng mà một luật sư
tranh tụng cần thể hiện tốt cảm xúc để không có những phản ứng tiêu cực làm ảnh
hưởng đến các mối quan hệ với các cơ quan tố tụng liên quan đến công việc của mình.
Về quy định pháp luật hiện hành, vẫn còn nhiều vấn đề gây khó khăn, bất
cập khi áp dụng với nghề Luật sư. Bộ luật Hình sự 2015 vẫn còn những bất cập, tại
khoản 3, Điều 19 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: “3. Người bào chữa không phải
chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này trong trường hợp
không tố giác tội phạm do chính người mà mình bào chữa đã thực hiện hoặc đã
tham gia thực hiện mà người bào chữa biết được khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa,
trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc
54
biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của Bộ luật này.”
Theo quy định này thì Luật sư, Người bào chữa phải có nghĩa vụ phải tố giác
hành vi phạm tội đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của Bộ luật Hình sự 2015 mà nếu luật sư
sẽ nhận bào chữa đã hoặc đã tham gia nhận nhiệm vụ bào chữa. Các điều kiện là
luật sư phải biết rõ tội phạm, có chứng cứ và nếu những hành vi đó không được tố
giác sẽ dẫn đến nguy hiểm cho xã hội.
Theo quy định tại điểm g, khoản 2 Điều 73 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015
quy định Luật sư, người bào chữa phải có nghĩa vụ: Không tiết lộ thông tin về vụ
án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng
ý bằng văn bản và không được sử dụng thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,
cá nhân [45].
Theo Quy tắc 12 của Bộ quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư
Việt Nam được ban hành kèm theo Quyết định số 68/QĐ-HĐLSTQ ngày 20
/07/2011 của Hội đồng Luật sư toàn quốc - Giữ bí mật thông tin trong quan hệ với
khách hàng, Luật sư phải có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi thực
hiện dịch vụ pháp lý và cả khi đã kết thúc dịch vụ đó, trừ trường hợp theo quy định
của pháp luật.
Theo Khoản 2, Điều 5 Văn bản hợp nhất Luật Luật sư số 03 của VPQH ngày
31/12/2015 cũng quy định về Nguyên tắc hành nghề quy định Luật sư phải tuân thủ
đúng theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam.
Theo các quy định trên thì Luật sư có trách nhiệm và nghĩa vụ phải giữ bí
mật thông tin của khách hàng, những quy định chưa thống nhất này chưa thống nhất
với đạo đức nghề nghiệp luật sư, với các quy định của pháp luật hiện hành cũng như
thông lệ chung của quốc tế, Công ước Quốc tế về Quyền con người mà Việt Nam đã
tham gia ký kết có nêu rõ các Nhà nước thành viên phải có trách nhiệm và tạo mọi
điều kiện để Luật sư giữ bí mật cho thân chủ. Và Nghị quyết số 08/2002-NQ/TW,
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Ban Chấp hành Trung ương và Điều 103
Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 cũng chủ trương
hoàn thiện và đẩy mạnh nguyên tắc tố tụng tranh tụng tại phiên tòa, phân định rõ ràng
55
bên buộc tội và bên gỡ tội.
Các quy định chưa thống nhất cần được sửa đổi đảm bảo cho luật sư tránh
được các vi phạm nguyên tắc tranh tụng, suy thoái nghề Luật sư, triệt tiêu những kết
quả tốt đẹp của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
Tuy nhiên, luật sư cũng là một công dân, luật sư cần thực hiện nghĩa vụ của
một công dân trước tiên khi biết rõ tội phạm, có chứng cứ và thấy hành vi của người
phạm tội sẽ dẫn đến nguy hiểm cho xã hội.
Luật sư góp phần bảo vệ công lý chính ở cương vị người bào chữa cho bị
cáo, tuân thủ pháp luật, Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư để bảo vệ
tốt nhất cho bị cáo, giúp đỡ các cơ quan tố tụng hình sự tránh oan, sai, xét xử đúng
người, đúng tội và đúng pháp luật.
Tiểu kết chương 2
Thời gian qua, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, các công ty luật, các văn
phòng luật sư đã nhận được rất nhiều đơn yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
đề nghị bào chữa cho bị can, bị cáo từ người dân và các cơ quan tố tụng hình sự.
Bản thân các luật sư cũng có nhiều đơn đề nghị được bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình trong khi hành nghề tới Liên Đoàn luật sư Việt Nam, các cơ quan
Nhà nước liên quan. Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội đã nhận giải quyết, xác minh,
phối hợp với các tổ chức, cá nhân liên quan để giải quyết kịp thời, có hiệu quả các
yêu cầu chính đáng của người dân và luật sư trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Uy tín của các luật sư ngày càn được nâng cao qua góc nhìn của người dân, xã
hội và truyền thông, hoạt động của Luật sư trong các vụ án Hình sự, đặc biệt là giai
đoạn điều tra, truy tố, xét xử ngày càng trở nên quan trọng, việc tuân thủ các nguyên
tắc nghề nghiệp, sự phấn đấu không ngừng của các luật sư góp phần xây dựng một đội
ngũ luật sư đáp ứng được nhu cầu của người dân, của các tổ chức xã hội.
Hoạt động nghề nghiệp của luật sư thuộc Đoàn Luật sư Hà Nội đã giải quyết
rất nhiều vụ án hình sự, làm rõ sự thật khách quan, góp phần vào công cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm mới, các loại tội phạm tham nhũng, thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của luật sư trong giai đoạn Tố tụng Hình sự sơ thẩm.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy vẫn còn nhiều bất cập như việc người bào chữa,
56
luật sư vẫn bị cơ quan điều tra cản trở tham gia từ giai đoạn điều tra, làm ảnh hưởng
đến quyền được bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tỷ lệ người bị bắt,
người bị tạm giam, bị can, bị cáo được điều tra viên hỏi có cần luật sư bảo vệ, bào
chữa hay không vẫn còn hạn chế. Việc luật sư gặp riêng bị can, bị cáo để hỏi cũng
bị hạn chế, chưa tuân thủ quy định tại Khoản 3 Điều 73 TTHS- về việc gặp luật sư.
Việc hỏi người bị tạm giữ, bị can của luật sư kể cả ở giai đoạn truy tố nhiều khi vẫn
còn mang tính bị động, chưa được chủ động, chưa đúng với quy định của Bộ luật
TTHS 2015.
Việc thu thập chứng cứ của người bào chữa, luật sư để cung cấp cho các cơ
quan Tố tụng Hình sự, Tòa án vẫn chưa được chú trọng, cơ quan tiến hành tố tụng
và Tòa án yêu cầu luật sư phải cung cấp thông tin chính xác về chứng cứ, tài liệu,
đồ vật và ít khi luật sư nhận được phản hồi từ cơ quan tiến hành tố tụng, Tòa án có
chấp thuận chứng cứ, tài liệu do luật sư cung cấp hay không.
Việc ghi âm, ghi hình có âm thanh việc hỏi cung người bị tạm giam, bị can,
bị cáo, lấy lời khai của pháp nhân thương mại phạm tội trong giai đoạn điều tra để
làm chứng cứ giải quyết vụ án chưa được khách quan, toàn diện theo Điều 7 Thông
tư liên tịch 03/TTLT ngày 01/02/2018.
Ngoài ra, còn nhiều văn bản hướng dẫn bất cập, mâu thuẫn với luật hiện
hành, ví dụ Thông tư 70/2011/TT-BCA còn bất cập với BLTTHS 2015 trong việc
chưa quy định cách thức thông báo, cung cấp danh sách luật sư trên địa bàn để có
thể tiếp cận bảo vệ, bào chữa cho bị can, bị cáo khi xảy ra vụ án hình sự. Và khi
người thân của bị can, bị cáo nhờ luật sư bào chữa thì gặp nhiều khó khăn. Cơ quan
điều tra thường sử dụng quy định tại Khoản 2 Điều 77 TTHS để cho người bị tạm
giam, bị can từ chối người bào chữa, luật sư. Vấn đề hủy bỏ biện pháp ngăn chặn,
đề nghị tội danh có lợi cho bị can, bị cáo hầu hết không được các cơ quan tố tụng
hình sự liên quan chấp nhận.
Với những khó khăn tồn tại trên, hoạt động bào chữa của luật sư cần gắn với
các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án xét xử cấp sơ thẩm để đảm bảo
57
việc bào chữa cho bị cáo, bảo vệ tốt các thiết chế pháp luật một cách hiệu quả hơn.
Chương 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
BÀO CHỮA TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1 Yêu cầu cải cách tư pháp, bảo vệ quyền con người, quyền bào chữa
của bị can, bị cáo
Bảo vệ quyền con người, quyền bào chữa của bị can, bị cáo là một trong
những nội dung cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, bảo vệ quyền con người,
bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là việc đối trọng với
chức năng buộc tội của các cơ quan tiến hành tố tụng, tiến tới đảm bảo cho hoạt
động tố tụng hình sự được dân chủ, khách quan, toàn diện.
Về bảo vệ quyền con người, quyền công dân được thể hiện trong Hiến pháp
năm 2013. BLTTHS năm 2015 đã cụ thể hóa thành những quy định, yêu cầu cụ thể
đối với quá trình giải quyết vụ án hình sự như nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
được bảo đảm, định hướng cho toàn bộ hoạt động và hành vi tố tụng của tất cả các
chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự được thực thi. Từ việc quy
định quyền bình đẳng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, luật sư, người tham gia tố tụng
khác trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu đồ vật, tranh luận trước Tòa án. Các quy định,
mọi chứng cứ tình tiết của vụ án đều phải được trình bày, tranh luận làm rõ tại phiên
tòa, Bản án, quyết định của Tòa án được ban hành phải căn cứ vào kết quả xét hỏi,
tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra đánh giá tại phiên tòa…
BLTTHS 2015 quy định người bị buộc tội thực hiện tốt quyền tự bào chữa
và nhờ người khác bào chữa, mở rộng diện chủ thể được hưởng quyền bào chữa,
được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,mở rộng chủ thể bào chữa, bãi bỏ thủ tục xin
cấp giấy chứng nhận bào chữa chuyển sang thủ tục đăng ký bào chữa và luật sư
được cấp văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình
tham gia tố tụng. Các quyền của người bào chữa, luật sư đối với các trường hợp bắt
buộc phải có người bào chữa được quy định cụ thể theo tinh thần Hiến pháp 2013.
Quy định đảm bảo quyền con người bị điều chỉnh chặt chẽ bởi 5 yếu tố: Căn
cứ; thẩm quyền; trình tự; thủ tục; thời hạn phù hợp với các Điều ước Quốc tế mà
58
Việt Nam là thành viên.
Nguyên tắc suy đoán vô tội quy định khi chưa có bản án kết tội của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật thì người bị buộc tội vẫn chưa bị coi là người phạm tội,
nghiêm cấm các cơ quan tố tụng đối xử với họ như người phạm tội. Khi cơ quan tố
tụng hình sự đã áp dụng đầy đủ các biện pháp cần thiết mà vẫn không đủ căn cứ để
chứng minh tội phạm thì phải kết luận người bị tạm giam, tạm giữ không có tội, rút
ngắn thời hạn tạm giam buộc các cơ quan tố tụng hình sự phải tính toán kỹ thời
điểm bắt giam, có biện pháp kết thúc vụ án đúng quy định.
Ngoài nguyên tắc bảo vệ quyền con người, nguyên tắc bảo đảm quyền bào
chữa cũng là nguyên tắc đặc thù trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015, nguyên tắc này
còn được quy định trong Hiến pháp,bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của
người bị buộc tội. Việc ghi nhận và thực hiện nguyên tắc này góp phần quan trọng
vào việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, giúp Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án giải quyết vụ án khách quan, toàn diện và chính xác.
Về vấn đề quyền con người, đây là vấn đề được toàn thế giới quan tâm. Để
đảm bảo quyền con người trong xã hội, Hiến pháp 2013 đã có nhiều điều khoản
nhấn mạnh quyền công dân, trong đó quyền bào chữa và những bảo đảm cần thiết
để quyền đó được thực hiện. Hiến pháp 2013 ghi nhận quyền bào chữa của bị can,
bị cáo thể hiện được tầm quan trọng của chế định này. Ngoài Hiếp pháp, còn có
Điều 59, Điều 60, Điều 61 BLTTHS 2015 cũng quy định và ghi nhận quyền bào
chữa của bất kỳ người nào không thể bị tước quyền cơ bản mà pháp luật đã dành
cho họ. Cần có phương án tuyên truyền sâu rộng, truyên truyền lâu dài trong xã hội
về quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong Hiến pháp 2013 và BLTTHS 2015.
Về quyền con người đạo luật của mỗi quốc gia khác nhau nhưng đều luôn
được đề cập tới. Trải qua các thời kỳ lịch sử, quyền con người vẫn luôn được ghi
nhận và bảo đảm, trong đó, quyền bào chữa là quyền luôn được hoàn thiện và đã
được khẳng định trong các văn bản pháp lý, Nhà nước luôn có những quy định cụ
thể về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và đảm bảo thực hiện. Một trong các
hình thức thực hiện quyền cơ bản của công dân được nhà nước đảm bảo thực hiện là
quyền được bảo vệ mình trước cơ quan pháp luật trong đó có quyền bào chữa. Điều
16 BLTTHS 2015 -Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và
59
lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự: "Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa,
nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa; Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại,
đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo
quy định của Bộ luật này" [45].
Ngược lại, cần có biện pháp để các công dân cũng có nghĩa vụ tôn trọng và
bảo đảm quyền lợi của người khác theo quy định pháp luật.
Về vấn đề bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ nếu không mời
người bào chữa, luật sư thì các cơ quan tố tụng hình sự, Tòa án có thẩm quyền phải
yêu cầu tổ chức luật sư cử người bào chữa, cử luật sư cho họ. Với những trường
hợp luật định bắt buộc phải có người bào chữa, luật sư thì sự có mặt của người bào
chữa, luật sư sẽ giúp cho việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện và đầy
đủ, không để lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội, giúp cơ quan tiến
hành tố tụng xác định sự thật khách quan của vụ án.
Người bào chữa, Luật sư khi tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự đảm bảo chức năng gỡ tội, đối trọng với cơ quan tố tụng chỉ thiên về buộc tội, là
một trong những cơ sở giúp toà án giải quyết vụ án hình sự được chính xác. Tranh
tụng trong xét xử được bảo đảm được quy định tại Điều 26-BLTTHS 2015: "Trong
quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác
có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham
gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá
chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án [45].
Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để
xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ
những người theo quy định của Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất
khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật này quy
định. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào
chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của
mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án [45].
Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng,
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình
60
sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị
cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải
được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa [45].
Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá
chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa".
Cần có quy định cụ thể hơn về việc tranh tụng của luật sư để khi tranh tụng
luật sư sẽ không bị giới hạn, không bị cản trở, bảo đảm quyền bào chữa cho của luật
sư cũng như quyền được bào chữa của bị cáo.
Với quan điểm của BLTTHS hiện nay, việc bảo vệ các quyền và lợi ích khác
của bị can, bị cáo không trực tiếp liên quan tới việc bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm
nhẹ trách nhiệm cho bị can, bị cáo trong vụ án thì không thuộc về giới hạn của
quyền bào chữa. Theo đó, Người bào chữa, Luật sư khi đã nhận nhiệm vụ bào chữa
cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự mà họ nếu có liên quan đến các tài sản đã bị
kê biên làm vật chứng trong vụ án, để đảm bảo cho việc thi hành án, lúc này người
bào chữa, luật sư cũng đồng thời phải giúp họ trong việc bảo vệ các quyền lợi ích
đó của họ, xem việc thu giữ vật chứng của bị can, bị cáo đã đúng pháp luật hay
chưa, từ đó có những kiến nghị về việc thu giữ các vật chứng không liên quan đến
vụ án, trả lại cho bị can, bị cáo hoặc người thân thích của họ.
Bị can, bị cáo khi tham gia Tố tụng Hình sự phải chịu sự buộc tội của cơ
quan tố tụng có thẩm quyền, việc buộc tội bị can, bị cáo thường gắn liền với việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn, có nhiều trường hợp không cần phải áp dụng biện pháp
tạm giam nhưng thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy nhiều trường hợp không
chính xác, buộc tội oan. Cần luật về điều kiện, cơ chế xem xét việc thay đổi biện
pháp ngăn chặn với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu thấy họ thuộc những trường
hợp không cần thiết phải bị tạm giam, tạm giữ nhằm hạn chế oan sai đối với những
vụ án mà đáng lẽ họ phải chịu mức án thấp hoặc vô tội, nhưng vì đã bị tạm giam
nên cố ép họ phải có tội để tránh liên lụy và tránh phải bồi thường oan sai.
Về người bị tạm giữ, người bị tạm giữ không thể coi là đối tượng bị buộc tội
mà họ chỉ trở thành bị can khi Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát có đủ căn cứ để khởi
tố họ với tư cách là bị can, nếu không đủ căn cứ để khởi tố bị can thì các cơ quan tố
tụng hình sự cần phải nhanhchóng ra quyết định trả tự do cho người bị tạm giữ vì
theo quy định của pháp luật chưa có văn bản tố tụng nào trực tiếp buộc tội người bị
tạm giữ, tránh tình trạng chót tạm giữ quá thời hạn mà không có căn cứ buộc tội nên
61
cố chứng minh họ phải có tội.
Về người bị kết án, người bị kết án cũng không thể coi là đối tượng bị buộc
tội được, buộc tội chỉ có thể tồn tại trước khi bản án của toà án có hiệu lực pháp
luật. Ngay cả khi Tòa án hình sự cấp sơ thẩm ra bản án kết tội bị cáo thì trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo vẫn có quyền kháng cáo một phần hoặc toàn
bộ bản án sơ thẩm để Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết. Sau khi bản án kết
tội của toà án có hiệu lực pháp luật thì người bị buộc tội không còn là đối tượng
được xem xét là có tội hay không nữa.
Về việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo.
Khi BLTTHS 2015 có hiệu lực pháp luật, việc tham gia tố tụng của người bào chữa,
luật sư đã góp phần bào chữa cho bị can, bị cáo, giúp cơ quan điều tra, viện kiểm
sát, toà án giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện. Tuy còn nhiều khó
khăn nhất định, nhưng việc tham gia tố tụng của người bào chữa, luật sư đã đáp ứng
và đạt kết quả đáng kể, nhiều trường hợp toà án đã xử cho bị cáo nhẹ hơn so với
mức án mà đại diện viện kiểm sát truy tố hoặc tuyên bố bị cáo không phạm tội, đổi
tội danh, yêu cầu điều tra bổ sung.
Bên cạnh kết quả đã đạt được, hoạt động bào chữa còn có nhiều hạn chế .
Vai trò của Người bào chữa, Luật sư vẫn chưa được các cơ quan tố tụng có
thẩm quyền thực sự tôn trọng, chưa tạo điều kiện cho người bào chữa, luật sư thực
hiện được nhiệm vụ trong việc tham gia tố tụng hình sự đối với các vụ án được bị
cáo hoặc người thân của bị cáo giao phó. Thực tế cho thấy, nhiều bị can đã không
được giải thích về quyền và nghĩa vụ của mình sau khi ra có quyết định khởi tố bị
can, không nhận được quyết định nênbị can không biết để nhờ người bào chữa, luật
sư ngay từ khi bị khởi tố. Thậm chí, vẫn còn tình trạng điều tra viên còn hướng dẫn
bị can từ chối luật sư bằng văn bản do bị can viết.
Với những trường hợp bào chữa chỉ định, cơ quan điều tra, viện kiểm sát,
Tòa án tùy giai đoạn yêu cầu luật sư phối hợp làm án chỉ định, và có rất nhiều lý do
khác nhau mà việc bào chữa thường chỉ mang tính hình thức, qua loa, đại khái cho
có đủ hồ sơ, đủ thủ tục tố tụng để không bị hủy án.
Về quy định Người bào chữa, Luật sư có quyền có mặt khi hỏi cung bị can,
nếu được điều tra viên đồng ý thì được hỏi bị can. Việc có cho phép được hỏi bị can
hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của điều tra viên, lúc này luật
sư chỉ được ngồi nghe hỏi cung, sự có mặt của luật sư và ý kiến đề xuất của luật sư
62
bị xem nhẹ.
Các hoạt động điều tra khác của Cơ quan điều tra, hầu như người bào chữa,
luật sư cũng không được tham gia, nếu luật sư có đề xuất thì cũng dễ bị từ chối
bằng nhiều lý do. Cho tới khi kết thúc điều tra, nhiều khi cơ quan điều tra không
thông báo cho luật sư biết về việc kết thúc điều tra cho người bào chữa, luật sư.
Việc được tiếp cận hồ sơ vụ án hình sự ở giai đoạn điều tra là nhiệm vụ rất khó
khăn cho luật sư trong việc đọc hồ sơ và ghi chép. Giai đoạn Viện Kiểm sát tiếp
nhận hồ sơ sau khi có Kết luận điều tra, luật sư muốn tham gia tố tụng cùng với
Kiểm sát viên cũng còn nhiều hạn chế trong việc cung cấp chứng cứ, cung cấp các
văn bản nêu ý kiến đề nghị được xem xét hành vi của bị can trước khi truy tố bằng
bản cáo trạng.
Hoạt động của Người bào chữa, Luật sư tại giai đoạn hồ sơ chuyển đến Tòa
án sau khi có cáo trạng truy tố bị cáo cũng là giai đoạn không dễ dàng, lúc này luật
sư cần sao chụp lại toàn bộ hồ sơ lần nữa trước khi vụ án được đưa ra xét xử. Nếu
không chụp được toàn bộ hồ sơ vụ án để nghiên cứu tỉ mỉ, cặn kẽ từng vấn đề, từng
bút lục liên quan thì luật sư khó có quan điểm toàn diện vụ án, dẫn đến việc bào
chữa cho bị cáo không được chính xác, không đúng với sự thật khách quan vụ án,
ảnh hưởng đến chất lượng bào chữa.
Hoạt động của luật sư tại phiên toà xét xử sơ thẩm cũng còn nhiều hạn chế vì
nhiều lý do khác nhau. Các chứng cứ do cơ quan điều tra, viện kiểm sát điều tra thu
thập được thường được Tòa án coi trọng hơn các chứng cứ của người bào chữa, luật
sư tự thu thập. Sự tiếp nhận của Tòa án chỉ để cho đủ lệ bộ, thủ tục chứ không được
xem xét thấu đáo cho mục đích xét xử khách quan cho bị cáo.
Có nhiều kiến nghị của người bào chữa tới Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố
tụng, Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng cấp trên trực tiếp, Viện Trưởng Viện
kiểm sát nhưng đều không trả lời cho người bào chữa, tại Tòa án luật sư đề nghị trả
hồ sơ điều tra bổ sung nhưng cũng vẫn không được xem xét. Như vậy, không vai trò
bào chữa của luật sư chưa được coi trọng.
Tòa án vẫn xem nhẹ vai trò bào chữa của luật sư khi quy định nếu người bào
chữa vắng mặt nhưng có gửi trước bản bào chữa thì tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử.
Quy định này đã bộc lộ nhiều điểm bất hợp lý vì Tòa án cần phải cho hoãn phiên
tòa nếu người bào chữa, luật sư vắng mặt có lý do chính đáng vì người bào chữa,
luật sư có nghĩa vụ tham gia phiên toà để bào chữa tốt nhất cho bị cáo, bảo đảm
63
quyền của bị cáo đã được pháp luật hình sự quy định.
Về cá nhân người bào chữa, luật sư vẫn còn thiếu tinh thần trách nhiệm với
bị can, bị cáo, mặt bằng về trình độ chuyên môn của người bào chữa là luật sư chưa
đồng đều, có trường hợp viện kiểm sát đề nghị toà án mức án nhẹ hơn thì luật sư lại
đề nghị hội đồng xét xử phạt tù có thời hạn bị cáo. Như vậy, bản thân người bào
chữa, luật sư cần phải tự học hỏi, phấn đấu không ngừng để tự rèn luyện cho mình
kỹ năng hành nghề để bào chữa cho bị cáo một cách tốt nhất, đáp ứng thực hiện
đúng các quy định pháp luật.
Về lĩnh vực hành nghề của luật sư liên quan đến các quy định thời gian gần
đây. Thời gian qua, giới luật sư, dư luận xôn xao phản đối vì Bộ Kế hoạch và đầu tư
đã cấp phép cho cá nhân thành lập doanh nghiệp được đăng ký ngành nghề kinh
doanh là tư vấn pháp luật, đặc biệt, trong đó cá nhân có thể làm đại diện tội phạm
trong vụ án hình sự. Cụ thể là công văn số 1736 của Bộ Kế hoạch và đầu tư hướng
dẫn về việc đăng ký thêm mã ngành nghề trên không cần tuân theo luật Luật
sư. Các luật sư phản đối vì cho rằng theo công văn số 1736 thì một công dân chỉ
cần đủ 18 tuổi, không bị tâm thần và nộp phí hai trăm nghìn đồng là có thể đăng ký
thành lập doanh nghiệp và tư vấn pháp luật. Việc làm này trái với các quy định pháp
luật đang hiện hành, và đây chỉ là công văn nên không thể vượt mặt các Luật đang có
hiệu lực là Luật Luật sư và Luật doanh nghiệp.Theo quy định tại điều 3 Luật Doanh
nghiệp 2014: "Trường hợp luật chuyên ngành có quy định đặc thù về việc thành lập, tổ
chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh nghiệp thì áp
dụng quy định của luật đó". Và hoạt động "tư vấn pháp luật" là ngành nghề kinh doanh
có điều kiện đã được quy định trong luật chuyên ngành là Luật Luật sư với những điều
kiện rất gắt gao nênphải thực hiện đăng ký hoạt động theo Luật Luật sư.
Với công văn 1736 thì công dân không cần học luật, không cần phải học luật
sư, không cần phải tập sự hành nghề luật sư đều có thể thành lập doanh nghiệp tư vấn
pháp luật. Thực tế 12 năm qua cho thấy đã có những cá nhân chưa có chuyên môn về
pháp luật mở văn phòng tư vấn pháp luật với chức danh trưởng văn phòng, giám đốc dẫn
đến các hậu quả xấu cho người dân, gây thiệt hại cho người dân về tiền bạc cũng như hậu
quả khôn lường. Bộ Kế hoạch và đầu tư cho rằng trong nội dung tư vấn pháp luật còn có
thể thực hiện công việc "đại diện tội phạm hình sự" gây hiểu lầm cho người dân, trong
khi đối với lĩnh vực pháp luật hình sự thì không ai có thể đại diện cho người vi phạm
64
pháp luật hình sự, không phải ai muốn tham gia thì tham gia, ai muốn đại diện thì đại
Những quy định trái luật như trên cần phải được hủy bỏ, tránh nguy cơ để lại những hậu
quả pháp lý nặng nề, phá vỡ môi trường hoạt động pháp lý.
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa trong đoạn xét xử
sơ thẩm
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm: Thẩm phán được phân công chủ
tọa phiên tòa cần nghiên cứu kỹ hồ sơ, nếu thấy vụ án đủ điều kiện thì đưa ra kế
hoạch xét xử, hỏi Kiểm sát viên về đề tình tiết cần thẩm vấn, xem xét thành phần
những người cần triệu tập tham gia phiên tòa, dự kiến các tình huống phát sinh.
Luật sư chuẩn bị các chứng cứ có lợi cho bị cáo, các chứng cứ mới để cung cấp cho
hội đồng xét xử nếu trước phiên tòa chưa thu thập được.
Trong phần xét hỏi: Thẩm phán điều khiển việc xét hỏi để kiểm tra công khai
các chứng cứ, làm rõ các chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Thẩm phán, Hội thẩm đặt ra
những câu hỏi để làm rõ những vấn đề chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong vụ án, xác
định và nêu vấn đề để kiểm sát viên, luật sư hỏi làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án.
Việc hỏi bị cáo, người liên quan, người làm chứng..trong giai đoạn này buộc luật sư
phải sử dụng hết các kỹ năng để đảm bảo cho việc chứng minh sự vô tội cho bị cáo,
hoặc chứng minh các tình tiết giảm nhẹ tội cho bị cáo. Kết quả tranh tụng trong giai
đoạn xét hỏi là cơ sở cho lập luận của luật sư trong việc đề xuất hướng giải quyết vụ
án trong phần tranh luận.
Trong phần tranh luận, các bên trình bày lời buộc tội, luận điểm của mình về
những vấn đề đã được thẩm tra làm rõ ở phần xét hỏi, các bên đối chiếu với những
quy định của pháp luật và đưa ra lời buộc tội, lời gỡ tội. Cụ thể, đại diện Viện Kiểm
sát trình bày quan điểm luận tội, tranh luận, đối đáp những vấn đề mà bị cáo, luật
sư, người tham gia tố tụng hình sự khác đưa ra, Kiểm sát viên không được né tránh
các câu hỏi của luật sư và những người tham gia tố tụng khác. Tiếp theo, bị cáo
hoặc luật sư sẽ trình bày lời bào chữa, ý kiến phản bác cáo trạng của Viện Kiểm sát,
đối đáp lại ý kiến của kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác .
Hội đồng xét xử vụ án Hình sự sơ thẩm chỉ được căn cứ vào các chứng cứ,
tài liệu đã thẩm tra công khai tại phiên tòa, chỉ những vấn đề đã được thẩm tra tại
phiên tòa mới được dùng làm căn cứ để nhận định, đánh giá, kết luận và ra bản
65
án, quyết định.
Ngành Tòa án cần tăng cường việc thành lập TAND cấp sơ thẩm, đảm bảo
cho tòa án độc lập, cần trả lại quyền bổ nhiệm thẩm phán các cấp cho Chủ tịch
nước, đổi mới bầu Hội thẩm nhân dân, không để tái diễn tính hình thức trong việc
lựa chọn và bầu như hiện nay khiến Hội thẩm nhân dân "mất tính nhân dân, không
phải đại diện của người dân". Có rất nhiều vụ án vai trò của Hội thẩm nhân dân
không phát huy, họ chỉ ngồi cho đủ thành phần xét xử chứ không giúp ích cho vụ
án, cho các bị cáo đang đứng trước vành móng ngựa, nhiều khi họ đưa ra những câu
hỏi làm xấu đi tình trạng của bị cáo, đi ngược lại các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật hình sự.
Ngành Tòa án cần chuyển đổi mô hình quản lý hành chính tại tòa án, nên
thành lập Hội đồng Tư pháp Quốc gia do Chủ tịch nước làm Chủ tịch Hội đồng để
thực hiện đánh giá, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật các thẩm phán, tránh áp lực cho
các thẩm phán, tạo điều kiện cho họ phát huy tính tự chủ trong việc xét xử theo
đúng quy định pháp luật.
Vai trò hoạt động giám sát của HĐND, đoàn thể, nhân dân đối với hoạt động
xét xử sẽ đảm bảo tính độc lập của toà án, đảm bảo tính gần dân, tạo điều kiện thuận
lợi cho người dân tiếp cận công lý. Nên chăng thành lập các chi nhánh để tiếp nhận
yêu cầu của người dân, xét xử lưu động và tuyên truyền cho người dân về cách tổ
chức, hoạt động của Tòa án, tạo tâm lý yên tâm cho người dân khi phải tiếp xúc với
cơ quan công quyền. Việc đẩy mạnh hoạt động bổ trợ tư pháp để tăng cường điều
kiện tiếp cận công lý của Tòa án đối với người dân nếu thông qua các thiết chế pháp
luật như luật sư sẽ hiệu quả hơn rất nhiều.
3.3 Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
Những nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được quy định
tại Chương II, gồm có 27 điều, cụ thể từ Điều 7 đến Điều 33 BLTTHS 2015.
BLTTHS năm 2015 quy định các nguyên tắc cơ bản được đặt trong các điều
luật, cụ thể:
Điều 11 BLTTHS năm 2015 - Nguyên tắc công dân Việt Nam không bị trục
xuất, giao nộp cho cơ quan Nhà nước khác: “Mọi người có quyền được pháp
luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm
66
phạm trái pháp luật tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân;
xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân đều bị xử lý theo pháp luật. Công
dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho Nhà nước khác” [45].
Khoản 2, Điều 17 BLTTHS năm 2015 - Quy định công dân Việt Nam không
thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác, được xây dựng trên cơ sở quy định
của Hiến pháp năm 2013: “Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho
Nhà nước khác” [45].
Nhà nước thể hiện quan điểm có trách nhiệm đối với công dân mang quốc
tịch Việt Nam, được thực hiện trong phạm vi quy định từ trình tự, thủ tục tiếp nhận,
giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và trong thủ tục
thi hành án hình sự trên lãnh thổ Việt Nam.
Điều 13 BLTTHS năm 2015 - Nguyên tắc suy đoán vô tội: Người bị buộc tội
được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ
luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi
không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục
do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải
kết luận người bị buộc tội không có tội [45].
Đây là một quy định mới được nhà làm luật đưa vào BLTTHS 2015 phù hợp
với tình hình phát triển kinh tế xã hội và quyền con người ngày càng được chú trọng
bảo vệ, và theo đúng với luật pháp quốc tế.
Điều 14, BLTTHS năm 2015 - Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội
phạm quy định: “Không được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người mà hành vi
của họ đã có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp họ thực hiện
hành vi nguy hiểm khác cho xã hội mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm”[45].
Theo đó, Cơ quan tiến hành tố tụng không được khởi tố bị can khi hành vi
gây nguy hiểm cho xã hội của họ đã bị kết tội bằng một bản án có hiệu lực pháp
luật. Cấm Cơ quan điều tra tiến hành áp dụng các biện pháp điều tra, cấm Viện
kiểm sát quyết định truy tố bị cáo ra trước Tòa án, cấm Tòa án xét xử tuyên bố bị
cáo phạm tội khi hành vi gây nguy hiểm cho xã hội của họ đã bị kết tội bằng một
bản án có hiệu lực pháp luật để đảm bảo chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước
ta là một hành vi gây nguy hiểm cho xã hội thì chỉ bị xử lý một lần.
67
Điều 26, BLTTHS năm 2015 - Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm.
Điều 33, BLTTHS năm 2015 - Nguyên tắc kiểm tra, giám sát trong tố tụng
hình sự quy định: “Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thường
xuyên kiểm tra việc tiến hành các hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền; thực hiện
kiểm soát giữa các cơ quan trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án [45].
Cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên của Mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động của cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng [45].
Nếu phát hiện hành vi trái pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng thì cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử có quyền yêu cầu, Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền kiến nghị
với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, giải quyết theo quy định của
Bộ luật này. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, giải quyết và
trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định của pháp luật” [45].
Trách nhiệm của Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải
thường xuyên kiểm tra việc tiến hành tố tụng, các hoạt động tố tụng hình sự thuộc
thẩm quyền để ngăn ngừa và khắc phục khi có sai phạm, giám sát, kiến nghị xem
xét, xử lý nếu phát hiện vi phạm pháp luật.
Trong các nguyên tắc cơ bản trên, Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm tại Điều 26, BLTTHS năm 2015 bảo đảm khi những người tiến hành tố tụng và
những người tham gia tố tụng thì họ phải được bình đẳng trước pháp luật. Bình đẳng
thể hiện trong việc khi đưa ra chứng cứ, việc đánh giá chứng cứ, khi đưa ra yêu cầu để
làm rõ sự thật khách quan vụ án dều được cơ quan có thẩm quyền xem xét với vai trò
như nhau. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho các bên tranh tụng để làm rõ các
tình tiết vụ án, Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ, kết quả
tranh tụng công khai tại phiên tòa để ra bản án, quyết định đúng pháp luật.
Việc bảo đảm tranh tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được
cụ thể hóa bằng nhiều quy định pháp luật, các Nghị quyết TW của Bộ Chính trị
cũng nêu rõ về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp, chú trọng về việc
phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên
68
cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, các ý kiến của kiểm sát viên, người
bào chữa, luật sư, bị cáo …để Tòa án đưa ra những bản án, quyết định đúng pháp
luật, có sức thuyết phục, trong thời hạn pháp luật quy định. Nghị quyết của Bộ
Chính trị cũng đề ra yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư
pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả phiên tòa xét xử.
Nguyên tắc tranh tụng của bên buộc tội và bên gỡ tội phải dựa trên những tài
liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, phải được
Tòa án sử dụng làm cơ sở cho việc ra bản án, quyết định. Mục đích yêu cầu của
tranh tụng trong vụ án hình sự là quá trình xác định sự thật khách quan, bảo đảm
các bản án, quyết định là đúng đắn và chính xác. Phiên tòa xét xử Hình sự sơ thẩm
phải dược diễn công khai theo thủ tục Tố tụng Hình sự.
3.4 Xây dựng cơ chế tạo điều kiện cho người bào chữa, luật sư chủ động
tham gia bào chữa
Bộ luật TTHS 2015 đã bổ sung một số quyền của người bào chữa nhằm đảm
bảo tốt hơn quyền bào chữa của người bào chữa và việc tham gia vào quá trình tố
tụng có liên quan đến quyền bào chữa. Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm
2013, Điều 58 BLTTHS năm 2015 đã mở rộng diện người được bảm đảm quyền
bào chữa, bổ sung người bị bắt vào diện chủ thể có quyền bào chữa, nhờ người khác
bào chữa bao gồm: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. BLTTHS năm
2015 cũng đã bổ sung trợ giúp viên pháp lý vào diện người bào chữa.
Khoản 2 Điều 72 BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có thể là:
Luật sư; Người đại diện của người bị buộc tội; Bào chữa viên nhân dân; Trợ giúp
viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp
lý. Quy định này đã bảo đảm tốt hơn quyền của người bị buộc tội.
Điều 78 BLTTHS năm 2015 có bổ sung quy định về đăng ký bào chữa, bảo
đảm Người bào chữa, Luật sư nhanh chóng tham gia tố tụng, khắc phục các vi
phạm, bất cập trước đây bằng việc thay quy định cấp giấy chứng nhận người bào
chữa bằng thủ tục đăng ký bào chữa, cấp Thông báo người bào chữa. Hồ sơ pháp lý
của luật sư đăng ký bào chữa cũng được đơn giản hóa, trong thời hạn 24 giờ kể từ
khi nhận đủ giấy tờ theo luật định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách
nhiệm kiểm tra giấy tờ do Người bào chữa, Luật sư cung cấp, nếu thấy đủ điều kiện
luật định thì vào sổ đăng ký bào chữa và gửi ngay văn bản thông báo người bào
69
chữa cho người đăng ký , thông báo có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tố tụng.
Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 đã bổ sung một số quyền của người
bào chữa, để người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa cho bị cáo gồm: Quyền có
mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, tạm giam, quyền hỏi người bị bắt, bị tạm
giữ, bị can, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian,
địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra
khác theo quy định của Bộ luật TTHS.
BLTTHS cũng quy đinh việc thu thập chứng cứ, kiểm tra, đánh giá, trình bày
ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan, yêu cầu người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản; đề nghị
thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế.
Điều 79 BLTTHS quy định trách nhiệm của các cơ quan tố tụng phải thông
báo trước cho người bào chữa thời gian và địa điểm tiến hành các hoạt động tố tụng
mà người bào chữa có quyền tham gia.
Điều 80 BLTTHS quy định về thủ tục gặp người bị buộc tội đang bị bắt, tạm
giữ, tạm giam, văn bản mà người bào chữa phải xuất trình khi gặp và quy định thủ
tục giao nộp chứng cứ, thủ tục đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án.
Điều 81,82 BLTTHS quy định định về việc thu thập, giao chứng cứ, tài liệu,
đồ vật liên quan đến việc bào chữa và đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ
án của người bào chữa .
Về quyền của người bào chữa được quy đinh tại Điều 72 của BLTTHS 2015
, và tại Khoản 4 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 cũng có quy định 11 người
không được bào chữa: " a) Người đã tiến hành tố tụng vụ án đó; người thân thích
của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng vụ án đó; b) Người tham gia vụ án đó với
tư cách là người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên
dịch, người dịch thuật; c) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết
án mà chưa được xoá án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc" [45].
Điều luật này đã tăng thêm 5 trường hợp không được bào chữa so với quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 gồm: Người dịch thuật, Người định giá
70
tài sản, Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, Người đã bị kết án chưa được
xóa án tích, Người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
Thời điểm người bào chữa, luật sư tham gia tố tụng được quy định tại Điều
74 BLTTHS 2015, cho phép người bào chữa, luật sư được tham gia tố tụng sớm
hơn, nó cũng là điều luật cụ thể hóa Điều 31 của Hiến pháp năm 2013 quy định
người bị bắt có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
Khoản 1 Điều 75 BLTTHS 2015 quy định người bị buộc tội, người đại diện
hoặc người thân thích của họ lựa chọn người bào chữa, luật sư, tức là Bộ luật TTHS
quy định cụ thể 3 đối tượng được quyền lựa chọn người bào chữa là: Người bị buộc
tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo), người đại diện và người thân
thích của người bị buộc tội [45].
Khoản 2 Điều 75 BLTTHS 2015 quy định cơ quan đang quản lý người bị
tạm giam phải chuyển đơn yêu cầu người bào chữa cho người bào chữa, người đại
diện hoặc người thân thích của họ [45].
Khoản 3 Điều 75 BLTTHS 2015 quy định người đại diện hoặc người thân
thích của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam mà có đơn yêu cầu nhờ
người bào chữa thì cơ quan đang quản lý người bị tạm giữ, người bị tạm giam, cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án đang thụ lý vụ án phải thông báo ngay cho
người bị tạm giữ, người bị tạm giam biết để họ có ý kiến đồng ý hay không đồng ý
về việc nhờ người bào chữa, luật sư [45].
Điều 76 BLTTHS 2015 quy định về trường hợp bắt buộc phải có người bào
chữa chỉ định nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ
không mời người bào chữa. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự phải
bắt buộc chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo pham một tội mà mức cao nhất
của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình, người bị buộc tội có
nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa được, người có nhược điểm về
tâm thần hoặc người có hành vi phạm tội dưới 18 tuổi.
Với những quy định nêu trên, pháp luật hiện hành đã ghi nhận và khẳng định
địa vị pháp lý của người bào chữa là một chức danh tư pháp độc lập, có quyền năng theo
quy định Luật luật sư, Luật tố Tụng Hình sự và các quy định pháp luật liên quan.
Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng oan sai trong các vụ án hình sự không liên
quan đến vai trò của người bào chữa, luật sư. Những nguyên nhân dẫn đến án oan
71
sai lại là do chính pháp luật, chính cách tổ chức hệ thống tư pháp, những nhận thức
chưa chuẩn xác về vai trò và vị trí của những người tham gia tố tụng trong hệ thống
tổ chức bộ máy nhà nước, tư pháp chưa thực sự độc lập…Nguyên nhân khác từ việc
Viện kiểm sát vừa giữ chức năng công tố, vừa kiểm sát việc xét xử của tòa, còn Tòa
án theo hai cấp xét xử, bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực thi hành ngay, bị cáo, Viện
Kiểm sát vẫn có quyền kháng cáo, kháng nghị khi chưa hài lòng, sau đó vụ án sẽ
phải được đưa ra xét xử phúc thẩm. Tư pháp độc lập là yêu cầu quan trọng nhất của
nhà nước pháp quyền, nếu không sẽ dẫn đến oan sai nhiều.
Mặt khác, trình độ của Thẩm phán nhiều nơi vẫn còn hạn chế nên nhiều khi
thẩm phán phải tham khảo, xin quan điểm chỉ đạo của cấp trên dù đây là điều luật
không cho phép. Việc bổ nhiệm Thẩm phán có thời hạn cũng là một cản trở liên quan
đến việc giải quyết vụ án trong trường hợp vụ án đang được thụ lý thì Thẩm phán phải
chờ bổ nhiệm. Về việc quản lý, Chánh án không thể là người khen thưởng, kỷ luật
thẩm phán, mà chỉ là người tạo điều kiện cho thẩm phán hoạt động chuyên môn.
Tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá hệ thống tư pháp là việc tòa án phải
nhân danh công lý, Nhà nước cũng phải tuân thủ pháp luật, khi xét xử, tòa án cần
phải ở một vị trí mà có thể đảm bảo được sự bình đẳng giữa nhà nước và công dân.
Việc tranh tụng với sự tham gia của Hội đồng xét xử sẽ quyết định bị cáo có
tội hay không, trong khi bị cáo lại là người không thể được đọc bất cứ điều gì trong
hồ sơ vụ án, nếu những người này không biết luật, khi theo dõi tranh tụng giữa luật
sư và kiểm sát viên mà không nhận thức được hành vi bị xét xử là nguy hiểm, dẫn
đến việc áp dụng chế tài của tòa sẽ ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, bởi hội thẩm
có quyền ngang bằng với thẩm phán trong khi xét xử vụ án hình sự sơ thẩm.Lúc
này, người bào chữa, luật sư bào chữa cho bị cáo để tìm ra sự thật, góp phần để có
bản án đúng đắn, khách quan.
Cần thiết phải xây dựng cơ chế tạo điều kiện cho người bào chữa tham gia
bào chữa, bởi vì thực tế trong giai đoạn đầu Cơ quan Điều tra thường không tạo
điều kiện cho luật sư thực hiện quyền bào chữa, luật sư tham gia từ giai đoạn điều
tra sẽ hạn chế oan sai, nếu không có luật sư khi lấy lời khai với điều tra viên thì bị
can có tâm lý hoang mang, còn điều tra viên rất dễ chủ quan, thậm chí còn có tiêu
cực, thậm trí làm sai lệch hồ sơ vụ án, và luật sư không có căn cứ để đánh giá chứng
72
cứ nếu bị cáo cho là bị ép cung, dụ cung.
Vẫn còn nhiều trường hợp luật sư bào chữa nhưng tòa án không chấp thuận
bất cứ lời bào chữa nào, HĐXX cứ quyết mà không hề đưa ra lý lẽ về việc không
chấp thuận bào chữa của luật sư, việc này vi phạm nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử. BLTTHS năm 2015 về vấn đề tranh tụng trong xét xử thành một nguyên tắc cơ
bản, định hướng cho toàn bộ hoạt động và hành vi tố tụng của tất cả các chủ thể
tham gia vào quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử khẳng định quyền bình đẳng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người tham gia tố
tụng khác, người bị buộc tội, người bào chữa trong tố tụng hình sự, và BLTTHS
năm 2015 đã cụ thể hóa và bảo đảm nguyên tắc này được thực hiện trong thực tế.
3.5 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật, tổ chức và xây dựng đội ngũ luật sư
Luật luật sư 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012
Thông tư 17/2011/TT-BTP hướng dẫn một số quy định của Luật Luật sư
Bộ luật Hình sự
Bộ luật Tố tụng Hình sự
Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam
Nghị quyết 41/2017/NQ-QH14 về việc thi hành Bộ luật Hình sự
Nghị định 19/2018/NĐ-CP quy định chi tiết về việc tính tổng khối lượng
Cơ sở pháp lý về hoạt động tham gia tố tụng của luật sư hiện nay:
hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015, có
Nghị định 30/2018/NĐ-CP quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của
hiệu lực ngày 02/02/2018;
Hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục định giá tài sản; có hiệu lực ngày
Nghị định 37/2018/NĐ-CP về hướng dẫn biện pháp giám sát, giáo dục người
01/5/2018;
dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, có hiệu lực từ ngày
Thông tư liên tịch 02/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC quy định chi
01/3/2018;
tiết trình tự, thủ tục, thời hạn, địa điểm bị can đọc, ghi chép bản sao tài liệu
hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài
73
liệu khác liên quan đến bào chữa; có hiệu lực ngày 18/3/2018;
Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-
VKSNDTC hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tiếp
nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; có hiệu lực
Thông tư liên tịch 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP hướng
ngày 01/3/2018;
dẫn trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thành việc hỏi
cung bị can; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh việc hỏi cung bị can trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; có hiệu
Thông tư liên tịch 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP về việc
lực ngày 18/3/2018;
phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc trả hồ sơ để điều tra
Thông tư liên tịch 01/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC về quan
bổ sung, có hiệu lực từ 06/02/2018; có hiệu lực ngày 06/2/2018;
hệ phối hợp giữa cơ sở giam giữ với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng và VKS có thẩm quyền kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam; có hiệu lực
Thông tư liên tịch 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP về trình
ngày 12/3/2018;
tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả
Thông tư liên tịch 04/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC quy
ghi âm hoặc ghi hình trong điều tra, xét xử; có hiệu lực ngày 18/3/2018;
định phối hợp thực hiện quy định của Bộ luật TTHS 2015 về tha tù trước
Thông tư 07/2018/TT-BCA về quy định việc phạm nhân gặp thân nhân;
thời hạn có điều kiện; có hiệu lực ngày 28/3/2018;
nhận, gửi thư; nhận tiền, đồ vật và liên lạc điện thoại với thân nhân; có hiệu
lực ngày 29/3/2018.
Và các quy định pháp luật liên quan khác...
Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động bào chữa của luật sư vẫn còn nhiều vấn
đề liên quan cần phải được sửa đổi,bổ sung một số văn bản pháp luật nêu trên để
cho góp phần thực hiện dân chủ hóa hoạt động tố tụng, cải cách tư pháp, xây dựng
74
Nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế - xã hội.
Liên đoàn luật sư Việt Nam được thành lập từ tháng 5/2009, đến nay cả nước
có hơn 9000 luật sư và đông đảo số lượng người tập sự hành nghề luật sư, đây là
nguồn bổ sung đáng kể cho đội ngũ luật sư trong những năm tới. Theo tinh thần
Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị và Chiến lược phát triển luật sư đến năm
2020 theo Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày 05/7/2011 đã được Thủ tướng phê
duyệt, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã có nhiều giải pháp kiện toàn về mặt tổ chức.
Lịch sử nghề luật sư Việt Nam đã có những tự hào về tên tuổi của các vị luật sư
tiền bối đã làm rạng danh cho giới luật sư Việt Nam. Thế hệ luật sư hiện nay đã góp
phần thực hiện dân chủ hóa hoạt động tố tụng, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước
pháp quyền, phát triển kinh tế - xã hội. Vị trí, vai trò của luật sư trong đời sống pháp
luật đã được khẳng định, uy tín của giới luật sư trong xã hội được nâng cao.
Các thành viên luật sư Hà Nội luôn không ngừng học tập, nâng cao năng lực,
trình độ, hiểu biết pháp luật, kỹ năng hành nghề và quán triệt đầy đủ các quy tắc đạo
đức nghề nghiệp, bảo vệ công lý, tuân thủ pháp chế bảo vệ quyền con người, vì
nhân dân ở Việt Nam. Tuy còn nhiều khó khăn, những đội ngũ luật sư luôn tăng
cường tình đoàn kết, xây dựng ngôi nhà chung của giới luật sư trong giai đoạn phát
triển hòa nhập quốc tế, và khẳng định nghề luật sư là một nghề cao quý.
Liên đoàn Luật sư Việt Nam có dự kiến phấn đấu đến năm 2020, số lượng
luật sư có khoảng 18.000 đến 20.000 luật sư, đạt tỉ lệ số luật sư trên số dân khoảng
1/4.500. Với dự kiến này, từ năm 2015 đến 2020 cần có chương trình đào tạo
khoảng 11.000 luật sư, bình quân mỗi năm cần đào tạo khoảng gần 1.800 luật sư.
Để triển khai thực hiện, đã trú trọng công tác phát triển đội ngũ luật sư, xây dựng
tuyên truyền và phổ biến pháp luật góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc. Liên đoàn Luật sư Việt Nam dự kiến phối hợp với trường
Đại học Luật Hà Nội và các trường đại học khác có khoa luật chú trọng đào tạo cử
nhân luật, phối hợp Học viện Tư pháp tăng cường hơn nữa việc đào tạo các chức
danh tư pháp, luật sư.
Liên đoàn Luật sư Việt Nam cũng đang thực hiện nhiều giải pháp khác nữa
để xây dựng đội ngũ luật sư có phẩm chất chính trị, đạo đức liêm chính, có nghiệp
vụ chuyên môn kỹ năng, có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ luật sư theo quy
75
định của pháp luật, đáp ứng các nhu cầu sử dụng pháp lý của tổ chức, cá nhân trong
xã hội. Việc đào tạo đội ngũ luật sư có khả năng tư vấn và tranh tụng quốc tế, để
bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các tổ chức xã
hội, doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế là việc cấp bách. Việc
tăng cường quản lý nhà nước, đổi mới các phương pháp và nâng cao chất lượng đào
tạo nghề luật, tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư tại thành phố Hà Nội, nâng cao
nhận thức về người bào chữa và nghề luật trong xã hội cũng là những giải ưu tiên
thực hiện trong giai đoạn hiện nay.
Quá trình cải cách tư pháp, Liên đoàn Luật sư thúc đẩy phối hợp với các cấp,
các ngành để nâng cao vai trò của luật sư trong việc tham gia quá trình tố tụng ngay
từ đầu, xây dựng chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa sơ thẩm nhằm hạn chế tối
đa những oan sai, bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật.
Những kiến nghị về việc tạo điều kiện cơ sở vật chất, tài chính, cũng được
Nhà nước quan tâm xem xét giải quyết trong thời gian tới để đội ngũ luật sư đáp
ứng được yêu hội nhập của đất nước.
Về những nhiệm vụ thời gian tới, cần đẩy mạnh xây dựng chính sách phát
triển các tổ chức hành nghề luật sư hoạt động chuyên sâu theo các lĩnh vực pháp
luật phù hợp với điều kiện của từng tổ chức. Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Đoàn
Luật sư thành phố Hà Nội tiếp tục chủ động phối hợp với các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan tới địa vị pháp lý của
luật sư trong tố tụng hình sự. Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Đoàn Luật sư thành phố
Hà Nội cố gắng phát huy vai trò tự quản đối với các tổ chức hành nghề luật sư, các
luật sư thành viên đáp ứng Chỉ thị 33- CT/TW ngày 30/3/2009 của Ban Bí thư về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư.
Tiểu kết chương 3
BLTTHS 2015 vẫn còn nhiều vấn đề cần phải hoàn thiện để bảo vệ quyền
con người, quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Biện pháp tạm giam là biện pháp
nghiêm khắc tại Điều 109 BLTTHS 2015 để kịp thời ngăn chặn tội phạm, và Điều
113 BLTTHS 2015 bắt bị can, bị cáo phải được Viện Kiểm sát cùng cấp phê chuẩn
trước khi cho thi hành, thì việc Luật sư đề nghị áp dụng thay đổi biện pháp ngăn
76
chặn rất khó khăn, phải tuân theo quy định tại Điều 125 BLTTHS 2015 về việc hủy
bỏ thay thế biện pháp ngăn chặn, và việc Luật sư đề nghị thay đổi hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn được Viện Kiểm sát thấp thuận tỷ lệ quá thấp.
Với việc thu thập tài liệu, chứng cứ của luật sư để cung cấp cho các cơ quan
tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhưng bị coi nhẹ, dẫn tới làm giảm sút động lực
của luật sư, làm cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án không được minh
bạch, có nhiều mâu thuẫn, nhưng chưa có chế tài xử lý ĐTV, KSV gây cản trở các
hoạt động của Luật sư. Việc Luật sư đề nghị triệu tập ĐTV, những người tham gia
tố tụng khác đến phiên tòa cũng còn nhiều bất cập, làm cho việc hỏi của luật sư bị
hạn chế, gây khó khăn cho hoạt động xét xử.
Cơ chế bình đẳng của Người bào chữa, Luật sư với người tham gia tố tụng
khác trong vụ án hình sự chưa được tuân theo quy định pháp luật (tại Điều 26
BLTTHS 2015- tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; chưa theo Điều 9 Thông tư
Liên tịch 03/2018/TTLT/BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP ngày 01/02/2018).
Mô hình TTHS về cơ bản vẫn là mô hình thẩm vấn, chưa phân định mối
quan hệ giữa các chức năng cơ bản cuả TTHS. Quyền của người bào chữa, luật sư
đã được mở rộng nhưng lại vẫn gặp sự cản trở của các cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự, làm cho luật sư không muốn phản biện, giảm nhiệt tình đấu tranh tìm ra sự
thật khách quan của vụ án, nhất là đối với án chỉ định luật sư bào chữa.
Thời gian gần đây ngày càng gia tăng các vụ việc xâm phạm đến quyền hành
nghề hợp pháp, quyền tự do, danh dự, nhân phẩm của giới luật sư. Đã có nhiều vụ án liên
quan đến luật sư, có nhiều nguyên nhân khác nhau, mức độ ngày càng nghiêm trọng.
Nguyên nhân do một bộ phận luật sư chưa ý thức được chức năng cao quý của nghề
nghiệp, bị quan điểm dịch vụ chi phối, không đủ bản lĩnh đạo đức nên đã có những hành
77
vi vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng đến hình ảnh của giới luật sư.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề tài luận văn, trong điều kiện nội dung nghiên cứu rộng và có
nhiều khó khăn trong việc thu thập tài liệu, số liệu để thực hiện luận văn tại các cơ quan
tố tụng hình sự có thẩm quyền, luận văn đã thể hiện được một số điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự theo pháp luật Hình sự Việt Nam. Hoạt động này được tiến hành trong
giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử dựa trên cơ sở pháp luật TTHS Việt Nam, quy tắc
đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư. Từ đó, tác giả đưa ra những kiến nghị mở
rộng, nâng cao hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự, xác định rõ quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, Luật sư trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Thành phố Hà Nội.
Thứ hai: Hoạt động bào chữa của luật sư khi tham gia bào chữa cho bị cáo
trong gia đoạn xét xử sơ thẩm nhằm làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị buộc tội. Luật sư tham gia trong vụ án
hình sự dùng các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật cho phép để thực hiện
chức năng bào chữa cho người bị buộc tội hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho bị hại, đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khác trong vụ án
hình sự theo quy định của Hiến pháp 2013, BLTTHS, Luật Luật sư.
Thứ ba: Hoạt động của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự,
ngay từ khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can, có luật sư là cần thiết để bảo vệ quyền lợi
ích hợp pháp, bào chữa cho bị can, bị cáo. Những vụ án mà bị can, bị cáo phạm tội
có khung hình phạt ở mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình, bị can, bị cáo là
người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì pháp luật
quy định bắt buộc phải có người bào chữa tham gia bào chữa chỉ định cho họ. Việc
cấp Thông báo người bào chữa phải được rút ngắn thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận
được đề nghị của người bào chữa chứ không nên kéo dài quá thời hạn luật định.
Luật sư có quyền đề nghị cơ quan Tố tụng Hình sự có thẩm quyền báo trước
về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can, bị cáo ở những tội danh sẽ ở mức hình
phạt cao, vị thành niên, người có nhược điểm thể chất tinh thần. Người bào chữa,
Luật sư khi có Thông báo người bào chữa có thể vào nơi tạm giam gặp bị can, bị
cáo bị bất cứ khi cần để làm sáng tỏ vụ án, đảm bảo việc bào chữa được khách quan
chứ không cần phụ thuộc vào việc đi cùng Điều tra viên, Kiểm sát viên. Người bào
78
chữa, Luật sư được bảo đảm việc thu thập tài liệu, thông tin và cung cấp ngay cho
cơ quan tố tụng, Tòa án để làm rõ vụ án, đảm bảo quyền được bào chữa của bị can,
bị cáo, đảm bảo hoạt động bào chữa của luật sư đúng pháp luật.
Thứ tư, về quyền và nghĩa vụ của Người bào chữa, Luật sư trong quá trình
tham gia tố tụng vụ án hình sự sơ thẩm. Ngay từ giai đoạn điều tra, Luật sư được có
mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can, có mặt trong
hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo
quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Luật sư được xem biên bản về hoạt động tố
tụng có sự tham gia của mình, được đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. Luật sư được
đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề
nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng; Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Kiểm tra,
đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Đề nghị cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại
tài sản; Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến
việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra. Giai đoạn xét xử người bào chữa là Luật sự
được tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa, khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là HĐXX, Kiểm sát viên, Thư
ký Tòa án…; Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18
tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự.
Luật sư được sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ
những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị can, bị cáo, giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Người bào chữa, Luật sư tôn trọng sự thật,
không được cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu
sai sự thật. Luật sư không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện
bào chữa; không được sử dụng các tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án
vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Luật sư không được tiết lộ thông tin về vụ
79
án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, và không được sử dụng thông
tin với mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Thứ năm, nghiên cứu thực tiễn cho thấy hoạt động bào chữa của luật sư trong
việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ và việc tranh luận tại phiên tòa vẫn còn
mờ nhạt, chưa đạt hiệu quả cao, các cơ quan tố tụng vẫn chưa phối hợp tốt với luật
sư, dẫn đến tình trạng nhiều vụ án oan, sai vẫn xảy ra. Như vậy, vai trò của người
bào chữa là luật trong việc đảm bảo các nguyên tắc của BLTTHS vẫn rất cần nhận
được sự phối hợp của các cơ quan tố tụng liên quan. Vai trò của luật sư là một trong
những chế định cần phải hoàn thiện trong việc xây dựng các quy phạm pháp luật
đưa những quy phạm đó vào thực tế cuộc sống. Nếu pháp luật được đề cao thì vai
trò của luật sư trong việc bổ trợ tư pháp càng được nâng cao.
Thứ sáu, về các giải pháp cải cách tư pháp, cần được quán triệt sâu rộng
trong đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp, đặc biệt là những người tiến hành tố
tụng, từ đó cũng tạo cho luật sư hoạt động dựa trên pháp luật, quy tắc đạo đức nghề
nghiệp và Luật luật sư. Hoạt động của luật sư mang tính chất trợ giúp, hướng dẫn và
phản biện cho công dân và là bổn phận và đạo đức nghề nghiệp của luật sư. Do
nghĩa vụ của luật sư là phải sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để phản
biện làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ nên hoạt động phản biện của luật sư là đúng pháp
luật, đạo đức xã hội làm chuẩn mực để xem xét mọi khía cạnh của sự việc nhằm xác
định rõ sự thật khách quan để bảo vệ công lý.
Giải pháp tổ chức và xây dựng đội ngũ luật sư cần thúc đẩy phối hợp với các
cấp, các ngành để nâng cao vai trò của luật sư trong việc tham gia quá trình tố tụng
ngay từ đầu, xây dựng chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa sơ thẩm nhằm hạn chế
tối đa những oan sai, bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật. Phối hợp với các cơ
quan nhà nước, các tổ chức liên quan để đẩy mạnh xây dựng chính sách phát triển
các tổ chức hành nghề luật sư hoạt động chuyên sâu theo các lĩnh vực pháp luật phù
hợp với điều kiện của từng tổ chức theo quy định pháp luật. Kiến nghị tới các cơ
quan chức năng về việc tạo điều kiện cơ sở vật chất, tài chính để đội ngũ luật sư đáp
ứng xây dựng pháp chế, đáp ứng hội nhập Quốc tế của Việt Nam khi thực hiện các
80
Công ước Quốc tế, vừa đảm bảo lợi ích Nhà nước, lợi ích chung của xã hội.
CÁC BÀI BÁO TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
1) https://www.doisongphapluat.com/phap-luat/tinh-huong-phap-luat/vu-
hon-500-trieu-dong-bo-quen-tren-chieu-bac-xu-ly-so-tien-khung-ra-sao-
a277694.html
Vụ hơn 500 triệu đồng "bỏ quên" trên chiếu bạc: Xử lý số tiền "khủng" ra
sao? (bài đăng Thứ hai, 03/06/2019);
2) https://www.baogiaothong.vn/bi-kich-nu-tu-tu-xach-thue-ma-tuy-
d208467.html
Bi kịch nữ tử tù xách thuê ma túy- Từ việc đi mua sái thuốc phiện cho chồng
dùng để giảm đau, Ng. đi vào con đường phạm tội lúc nào không hay (bài đăng
13/05/2017);
3) http://m.doisongphapluat.com/tin-tuc/san-xuat-buon-ban-thuoc-gia-co-bi-
xu-ly-hinh-su-a204349.html
Sản xuất, buôn bán thuốc giả có bị xử lý hình sự? (bài đăng Thứ sáu,
06/10/2017 );
4) https://anninhthudo.vn/doi-song/phong-ve-chinh-dang-va-vuot-qua-gioi-
han-phong-ve-chinh-dang-khi-bi-tan-cong-tinh-duc/731066.antd
Phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng khi bị tấn
công tình dục (bài đăng ngày 11/06/2017);
5) http://anninhthudo.vn/doi-song/si-nhuc-qua-facebook-cung-co-the-bi-
phat-tu/723383.antd
Sỉ nhục qua facebook cũng có thể bị phạt tù- (bài đăng ngày 03/04/2017);
6) https://anninhthudo.vn/doi-song/vo-y-lam-chet-nguoi-vi-khong-tuan-thu-
nguyen-tac-an-toan/724210.antd
Vô ý làm chết người vì không tuân thủ nguyên tắc an toàn (bài đăng ngày
10/04/2017 )
7) https://dantri.com.vn/ban-doc/hai-duong-cong-dan-khang-cao-ban-an-co-
dau-hieu-vi-pham-to-tung-20151023152608463.htm
Hải Dương: Công dân kháng cáo bản án có dấu hiệu vi phạm tố tụng - Căn
cứ kết quả giám định chữ viết trên tờ giấy không có chữ ký của các bên liên quan,
81
Tòa án TP. Hải Dương vẫn tuyên “bác” đơn khởi kiện của nguyên đơn trong vụ
kiện đòi tài sản, buộc người bị hại phải làm đơn kháng cáo bản án sơ thẩm có dấu
hiệu vi phạm tố tụng (bài đăng Thứ Bảy 24/10/2015).
Và nhiều bài báo liên quan khác trên phương tiện thông tin đại chúng…
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TÁC GIẢ ĐÃ THAM GIA BÀO CHỮA CHO CÁC BỊ
CÁO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1) Vụ án hình sự tội “Giết người” (Điều 123 BLHS); Bị cáo NGÔ VĂN
VƯỢNG (SN : 24/07/1999; là bị cáo trong vụ án hình sự Giết người, bị bắt ngày
08/10/2018);
2) Vụ án hình sự tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Điều 174 BLHS);Bị
cáo Trần Thị Cảnh;
3) Vụ án hình sự tội “ Môi giới mại dâm” theo quy định tại Điểm đ), Khoản
2, Điều 328 BLHS 2015; Bị cáo Nguyễn Hữu Trường (SN 20/01/2000 tính đến thời
điểm phạm tội (ngày 16/6/2016), mới 17 tuổi 05 tháng 02 ngày là người chưa thành
niên phạm tội (bị cáo chưa đủ 18 tuổi);
4) Vụ án hình sự tội « Lừa đảo chiếm đoạt tài sản » Điều 139 Bộ luật Hình
sự; Bị cáo Hsu Ming Jung -Saga (SN 26/04/1975-Địa chỉ thường trú: Tầng 5 số nhà
6, ngõ 158 phố Từ Hội Tam, quận Trung Lịch, TP. Đào Viên, Đài Loan; Nơi ở:
Phòng 1805 Landmarka Tòa nhà Keng Nam, Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội);
5) Vụ án hình sự tội « Lừa đảo chiếm đoạt tài sản » Điều 139 Bộ luật Hình
sự Bị cáo TĂNG HẢI NAM (SN 17/11/1975; Địa chỉ thường trú: P1006 CT2
đường Ngô Thì Nhậm,Ph.Hà Cầu, Hà Đông, HN);
6) Vụ án hình sự “Giết người” quy định tại Điểm n, Khoản 1, Điều 173 Bộ
luật hình sự năm 2015; Bị cáo Ngô Minh Cường bị Viện kiểm sát nhân dân thành
phố Hà Nội truy tố, Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội xét xử ;
7) Vụ án hình sự tội “cướp tài sản” quy định tại Điểm d, Khoản 2, Điều
168 Bộ luật hình sự năm 2015; Bị cáo bị cáo Mã Văn Khang, dân tộc Tày;
8) Vụ án hình sự tội « Môi giới mại dâm »
Bị cáo Nguyễn Hữu Trường bị Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân Thành
phố Hà Nội truy tố về tội Môi giới mại dâm theo quy định tại Điểm đ), Khoản 2,
Điều 328 BLHS 2015 được Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội đưa ra xét xử
82
02/11/2018;
9) Vụ án hình sự tội « Cướp giật tài sản”
Bị cáo Phạm Tâm Long (Sinh ngày 18/08/2000; có bệnh án tăng động, khi
phạm tội dưới 18 tuổi) TAND HBT, thành phố Hà Nôi;
10) Vụ án hình sự tội “Mua bán trái phép chất ma túy”
Bị cáo Nguyễn Ngọc Dương (SN 1992) trong vụ án Nguyễn Tiến Dũng và
đồng phạm “mua bán trái phép chất ma túy” tại các cơ quan tổ chức liên quan, tại
Tòa án Nhân dân cấp cao, Viện Kiểm sát Nhân dân cấp cao tại Hà Nội (TAND TP
Hà Nội đã xét xử sơ thẩm);
11) Vụ án hình sự tội “Mua bán trái phép chất ma túy”
Bị cáo Phạm Thị Nghĩa (SN 1967) trong vụ án do TAND TP Hà Nội đã xét
xử sơ thẩm;
12) Vụ « đại án » Hứa Thị Phấn - thành viên HĐQT Ngân hàng Đại Tín bị
VKSNDTC truy tố tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”- K4 -Đ175- BLHS
2015 và tội“Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả
nghiêm trọng” K3-Đ165-BLHS 1999;
Bào chữa chi Bị cáo Ông NGUYỄN CÔNG TỤ - Nguyên Giám đốc Công ty
Quản lý nợ và khai thác tài sản (TrustAsset) trong vụ án HSST thụ lý số
143/2018/TLST-HS ngày 12/3/2018. Ông Nguyễn Công Tụ bị VKSNDTC truy tố
tội “Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm
trọng” K3-Đ165-BLHS 1999.
13) Vụ “đại án” Cố ý làm trái và Tham ô tài sản xảy ra tại Tập đoàn Dầu khí
Việt Nam (PVN) và Tổng công ty Xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC) xảy ra tại Tập
đoàn Dầu khí Việt Nam, ngày 8/1/2018 TAND TP Hà Nội xét xử bị cáo Đinh La
Thăng và tuyên án 13 năm tù giam.
Bào chữa chỉ định cho Bị cáo Vũ Đức Thuận tội Cố ý làm trái và Tham ô tài sản
14) Vụ « đại án » Hà Văn Thắm – Ngân hàng OceanBank tội « Vi phạm quy
định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, lợi dụng chức vụ, quyền
hạn trong khi thi hành công vụ, và cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý
kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng »
83
Bào chữa chỉ định cho một số bị cáo theo đề nghị của tòa án
15) Vụ án hình sự tội “Tổ chức người khác trốn đi nước ngoài” quy định tại
Khoản 1 điều 275 BLHS 1999; Bị cáo Hồ Sơn Thành (SN: 24/10/1984; Nơi ở hiện
nay: Số 26, Tổ 16, phường Phú Đô, quận Nam Từ Liêm, TP Hà Nội).
16) Vụ án hình sự tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác” theo quy định tại Điều 104 BLHS 1999; Bị cáo TRẦN ĐẠI
DƯƠNG (SN: 31/07/1972; quận Hoàng Kiếm, TP. Hà Nội).
17) Vụ án hình sự tội “Cố ý gây thương tích” theo Khoản 3 Điều 104 Bộ
luật hình sự tại huyện Thanh Trì, Tp Hà Nội; Bị cáo Nguyễn Sỹ Thắng (bị bệnh tâm
thần-SN 1991; Địa chỉ: Thôn Siêu Quần, Tả Thanh Oai, Thanh Trì, Hà Nội);
18) Vụ án hình sự tội “vận chuyển trái phép chất ma túy”; Bị cáo Vũ Thế
Hưng (SN: 13/02/1965 );
19) Vụ án hình sự tội “Mua bán, trái phép chất ma túy” bị VKS truy tố theo
điểm e khoản 4 Điều 194 BLHS; Bị cáo Vũ Thái Hòa (SN:1972) bị Cáo trạng
VKSND Thành phố Hà Nội buộc tội mua bán trái phép chất ma túy, TAND TP. Hà
Nội xét xử;
20) Vụ án hình sự tội “Trộm cắp tài sản”-là hàng hóa màn hình điện thoại
Nokia bị lỗi hỏng tại Công ty TNHH Wintek Việt Nam (Nhà máy Wintek Việt
Nam); Các bị cáo: NGUYỄN VĂN QUYỀN (SN:25/02/1984); CHU TRỌNG
CHIẾN (SN:19/01/1983); DƯƠNG VĂN THỤY (SN: 17/06/1987);
21) Vụ án hình sự tội“cố ý gây thương tích”; bị cáoHoàng Văn Dũng với bị
hại Vũ Xuân Cửu (SN:04/06/1944);
22) Vụ án hình sự “Giết người” xảy ra tại Thôn 6,Xóm 6, Ninh Hiệp, Gia
Lâm, Hà Nội- TAND Hà Nội - Người bị hại- ông Nguyễn Khắc Bình ; Bị cáo :
Nguyễn Đắc Minh- Cầu Giấy, Hà Nội.
23) Vụ án hình sự tội “Không tố giác tội phạm”; Bị cáo Nguyễn Văn Khoa
(SN: 10/06/1974) trong vụ án liên quan đến vụ án giết người đã bị TAND TP HN
xét xử sơ thẩm;
24) Vụ án hình sự tội “Chống người thi hành công vụ” xảy ra tại ngã tư Hồ
Tùng Mậu, phường Mai Dich, quận Cầu Giấy; Bị cáo Trần Văn Thành (SN:
22/08/1993);
25) Vụ án hình sự tội “Tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có”; Bị cáo bị cáo
84
Bùi Văn Cường bị VKSND Thành phố Hà Nội truy tố theo điều 250 BLHS
26) Vụ án hình sự tội“lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Bị cáo Đỗ Thị Hợp (tức
Hồng, sinh năm 26/3/1962);
27) Vụ án hình sự tội “Cố ý gây thương tích” xảy ra tại huyện Thanh Trì do
Tòa Thành phố HàNội xét xử; Bị cáo Kim Văn Lực - bị bệnh tâm thần;
28) Vụ án hình sự tội “Chứa mại dâm” trong vụ án liên quan đến đường dây
mua bán mại dâm do TAND TP HN xét xử sơ thẩm; Bị cáo LÊ HUY DIỄN
(SN:21/01/1982);
29) Vụ án hình tội “Cướp tài sản”; Bị cáo Nguyễn Quang Thắng (SN:1991)
TAND TP Hà Nội xét xử sơ thẩm;
30) Vụ án hình sự tội “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội mà có” tại Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội; Bị cáo Trần Hồng Thắm
(09/08/1979) bị VKSND ra Cáo trạng truy tố Khoản 2 Điều 250 BLHS;
31) Vụ án hình sự tội “Trộm cắp tài sản”; Bị cáo Lê Hữu Huấn –TAND TP
Hà Nội;
32) Vụ án hình sự “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” trong vụ án hình sự liên
quan đến các hợp đồng bảo hiểm cháy nổ của Công ty Cổ phần dược phẩm Trung
ương 2- Công ty bảo hiểm Bảo Minh; Bị cáo Phạm Thị Thanh Vân- TAND TP Hà
Nội xét xử sơ thẩm;
33) Vụ án hình tội “giết người; gây rối trật tự công cộng; tàng trữ, sử dụng
trái phép vũ khí quân dụng”; bị cáo Lê Chí Hiếu (SN-1992) TAND Thành phố Hà
Nội xét xử;
34) Vụ án hình tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Điều 139 BLHS); Bị cáo
Nguyễn Công Minh (SN1969, HKTT: Số 2 Ngõ D Vạn Phúc , phường Kim Mã,
quận Ba Đình, TP Hà Nội)- TAND TP Hà Nội xét xử sơ thẩm;
Và Tác giả cũng bào chữa cho các bị cáo trong nhiều vụ án hình sự sơ thẩm,
85
phúc thẩm khác trên địa bàn toàn quốc…
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Anh – Phan Trung Hoài (2018), “Bình luận khoa học Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015”, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật;
2. Trần Văn Bảy (2008), “Người bào chữa trong tố tụng hình sự”, Trường Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh;
3. Nguyễn Hòa Bình chủ biên (2016), “Những nội dung mới trong BLTTHS
2015”, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội;
4. Bộ Công an (2011), “Quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự liên quan đén việc bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự”, Thông tư số 70/TT-BCA ngày 07-10-2011;
5. Bộ Công an -BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC (2017), Thông tư liên tịch
01/2017 quy định việc phối hợp giữa cơ quan có thẩm quyền trong việc thực
hiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố do Bộ trưởng Bộ Công an - Bộ
Quốc phòng - Bộ Tài chính - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành ngày 29/12/2017; Hiệu
lực: 01/03/2018;
6. Bộ Công an -BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC (2018), Thông tư liên tịch
06/2018/TTLT- hướng dẫn trình tự, thủ tục, mức tiền đặt, việc tạm giữ, hoàn
trả, tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền đã đặt để bảo đảm do Bộ trưởng
Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tài chính - Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao - Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngày 07/08/2018;
Hiệu lực: 20/09/2018;
7. Bộ Công an -BQP-TANDTC-VKSNDTC (2018), Thông tư liên tịch 04/2018 về
quy định phối hợp thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về
tha tù trước thời hạn có điều kiện do Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao ban hành ngày 09/02/2018; Hiệu lực: 28/03/2018;
8. Bộ Công an -VKSNDTC-TANDTC-BQP (2018), Thông tư liên tịch 02/2018
quy định về trình tự, thủ tục, thời hạn, địa điểm bị can hoặc người đại diện theo
86
pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội đọc, ghi chép bản sao tài liệu
hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài
liệu khác liên quan đến việc bào chữa do Bộ trưởng Bộ Công an - Viện trưởng
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Chánh án Tòa án nhân dân tối cao - Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng ban hành ngày 01/02/2018; Hiệu lực: 18/03/2018;
9. Bộ Công an -VKSNDTC-TANDTC-BQP (2018), Thông tư liên tịch 03/2018
hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; sử
dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử do Bộ trưởng Bộ Công an - Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao - Chánh án Tòa án nhân dân tối cao - Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng ban hành ngày 01/02/2018; Hiệu lực: 18/03/2018;
10. Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ quốc
phòng (2018), “Quy định về trình tự, thủ tục địa điểm bị can hoặc người đại
diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại tội đọc, ghi chép bản sao tài liệu
hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài
liệu khác liên quan đến việc bào chữa”, Thông tư liên tịch số 02/2018/TTLT-
BCA-VKSNDTX-TANDTX-BQP ngày 01-02-2018;
11. Bộ Công an, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Tòa án Nhân dân tối cao, Bộ quốc
phòng (2018), “Hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi âm
hoặc ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi ấm hoặc ghi
hình có âm thanh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử”, Thông tư liêc tịch số
03/2018TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP ngày 01-02-2018;
12. Bộ Tài chính – Bộ Tư pháp (2014), “Hướng dẫn về thù lao và thanh toán chi phí
cho luật sư trong trường hợp luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan
tiến hành tố tụng”, Thông tư số 191/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 12-12-2014;
13. Lê Cảm (2004), “Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống nguyên tắc cơ bản của
luật tố tụng hình sự”, Tạp chí Luật học số 6 năm 2004;
14. Lê Cảm (2006), “Những vấn đề lý luận về bảo về quyền con người bằng pháp
luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự” Tạp chí TAND số 11, 13 và 14/2006;
15. Chính phủ (2013), “Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
87
luật sư”, Nghị định 123/2013/NĐ-CP ngày 14-10-2013.
16. Chính phủ (2017), Nghị định 115/2017/NĐ-CP quy định chi tiết trình tự, thủ
tục, mức tiền pháp nhân thương mại phải nộp để bảo đảm thi hành án; việc tạm
giữ, hoàn trả, nộp ngân sách nhà nước số tiền đã nộp; Ban hành: 16/10/2017;
Hiệu lực: 01/01/2018;
17. Chính phủ (2018), Nghị định 30/2018/NĐ-CP về quy định chi tiết việc thành
lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục định giá tài
sản trong tố tụng hình sự; Ban hành: 07/03/2018; Hiệu lực: 01/05/2018;
18. Chu Đăng Chung (2014), “Luật luật sư bào chữa Vị trí, vai trò của luật sư
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự” Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học
Luật Hà Nội;
19. Đỗ Văn Cương (2000), “Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ điều tra vụ án
hình sự ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Cảnh sát, Hà Nội;
20. Phạm Hồng Hải (1999), “Vị trí của Luật sư bào chữa trong phiên tòa xét xử”,
Tạp chí Luật học;
21. Nguyễn Văn Hiển (2010), “Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam –
Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện Hàn lâm
khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội;
22. Hoàng Chí Hiếu (2016), “Địa vị pháp lý của người bào chữa trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự” Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội;
23. Phan Trung Hoài (2007), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc thực thi
các quy định của pháp luật nhằm bảo đảm quyền của luật sư trong quá trình
tham gia TTHS, dân sự” tạp chí Kiểm sát số 4/2007;
24. Phan Trung Hoài (2016), “Những điểm mới về chế định bào chữa trong Bộ luật
Tố tụng hình sự 2015”, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội;
25. Phan Trung Hoài, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam – Thành viên Tổ
biên tập Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) (2016), Những điểm mới về chế định
bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, Nxb Chính trị quốc gia
xuất bản tháng 6/2016;
26. Học viện tư pháp (2001) , Giáo trình “Kỹ năng hành nghề luật sư” tập III, Nxb
Công an Nhân dân, Hà Nội;
27. Học viện tư pháp (2014), Giáo trình “Kỹ năng giải quyết vụ án hình sự”, Nxb
88
Lao động, Hà Nội;
28. Hội đồng Thẩm phán (2016), Nghị quyết 01/2016/NQ-HĐTP hướng dẫn áp
dụng quy định tại khoản 3 điều 7 Bộ Luật hình sự 100/2015/QH13 do Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành; Ban hành: 30/06/2016; Hiệu
lực: 01/08/2016;
29. Hội đồng Thẩm phán (2018), Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP về hướng dẫn áp
dụng điều 66 và điều 106 của Bộ luật Hình sự về tha tù trước thời hạn có điều
kiện do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân ân tối cao ban hành- Ban
hành: 24/04/2018; Hiệu lực: 09/06/2018;
30. Nguyễn Thị Thanh Hương (2017), “Hoạt động thu thập tài liệu, đồ vật, tình
tiết liên quan đến việc bào chữa của Luật sư trong Tố tụng hình sự”,Luận văn
thạc sĩ.
31. Nguyễn Văn Huyên (2006), “Vai trò của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự”, Tạp chí Công an nhân dân số 5/2006;
32. Nguyễn Văn Huyên (2016), “Đào tạo nghề luật sư – Nhiệm vụ quan trọng của
Bộ Tư pháp”, Tạp chí nghề luật số 3/2006;
33. Nguyễn Ngọc Khánh (2004), “Vai trò của luật sư bào chữa trong tố tụng hình
sự theo mô hình tranh tụng ở một số nước”, Tạp chí Kiểm sát, số 4;
34. Vũ Huy Khánh (2009), “Quyền của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự - Những hạn chế bất cập qua thực tiễn bất cập qua thực tiễn áp dụng”, Tạp
chí Tòa án 04 tháng 02/2009;
35. Liên đoàn Luật sư Việt Nam (2012), Hội thảo “Hoàn thiện các quy định của
BLTTHS 2003 về bảo đảm quyền bào chữa và quyền hành nghề luật sư”, tổ
chức trong 2 ngày 29 và 30-03-2012 tại Hà Nội;
36. Nguyễn Thanh Long, “Điều 79 BLTTHS năm 2015 dưới một góc nhìn của luật sư
bào chữa”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát số 05 (19) tháng 10-2017, tr.14-17.
37. Bùi Minh Nghĩa (2017), “Vai trò của Luật sư trong việc thu thập, đánh giá và sử
dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ,
38. Đỗ Đình Nghĩa (2004), “Địa vị pháp lý của người bào chữa trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn Thạc sĩ Luật
89
học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
39. Nguyễn Thái Phúc (2009), “Bàn về sự tham gia bắt buộc của người bào chữa
trong TTHS”, Tạp chí Kiểm sát số Xuân 1/2009;
40. Quốc hội (2010), Luật thi hành án hình sự 2010; Ban hành: 17/06/2010; Hiệu
lực: 01/07/2011
41. Quốc hội (2012), Luật giám định tư pháp 2012; Ban hành: 20/06/2012; Hiệu
lực: 01/01/2013;
42. Quốc hội (2013), Hiến pháp 2013; Ban hành: 28/11/2013; Hiệu
lực: 01/01/2014
43. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014; Ban
hành: 24/11/2014; Hiệu lực: 01/06/2015;
44. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Ban hành: 25/11/2015; Hiệu
lực: 01/07/2016;
45. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 ngày 27 /11/
2015; hiệu lực ngày 01/01/2018;
46. Quốc hội (2015), Lệnh công bố Nghị quyết về lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật
hình sự 100/2015/QH13, Bộ luật tố tụng hình sự 101/2015/QH13, Luật tổ chức
cơ quan điều tra hình sự 99/2015/QH13, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam
94/2015/QH13 và Bộ luật hình sự 100/2015/QH13 sửa đổi vào Chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016; Ban hành: 29/06/2016; Hiệu
lực: 29/06/2016;
47. Quốc hội (2015), Luật thi hành tạm giữ, tạm giam 2015; Ban
hành: 25/11/2015; Hiệu lực: 01/01/2018;
48. Quốc hội (2015), Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015; Ban
hành: 26/11/2015; Hiệu lực: 01/01/2018;
49. Quốc hội (2015), Luật tố tụng hành chính 2015; Ban hành: 25/11/2015; Hiệu
lực: 01/07/2016;
50. Quốc hội (2015), Nghị quyết 110/2015/QH13 về thi hành Bộ luật tố tụng hình
sự do Quốc hội ban hành ngày 27/11/2015; Hiệu lực: 27/11/2015;
51. Quốc hội (2017), Bộ luật hình sự sửa đổi số 12/2017/QH14 ngày 20/06/2017 có
90
hiệu lực ngày 01/01/2018;
52. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định “phê duyệt chiến lược phát triển nghề
luật sư đến năm 2020” QĐ số 1072/QĐ-TTg ngày 05-07-2011;
53. Tòa án nhân dân dân tối cao (2018), Công văn 04/TANDTC-PC năm 2018 về áp
dụng Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết 41/2017/QH14 do Tòa án nhân
dân tối cao ban hành ngày 09/01/2018; Hiệu lực: 09/01/2018;
54. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Thông tư 02/2018/TT-TANDTC quy định chi
tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi
thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên do Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao ban hành ngày 21/09/2018; Hiệu lực: 01/12/2018;
55. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình “Luật tố tụng hình sự”, Nxb Tư
pháp, Hà Nội;
56. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Tài liệu Hội thảo khoa học “Nâng cao vai trò
của Luật sư trong tố tụng hình sự”, Hà Nội.
57. Ngô Thị Ngọc Vân (2016), “Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”, Luận án tiến sĩ luật học.
58. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - TANDTC-BCA-BQP (2018), Thông tư liên
tịch 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP quy định về phối hợp giữa Cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ trưởng Bộ Công an
- Bộ Quốc phòng ban hành ngày 19/10/2018; Hiệu lực: 10/12/2018;
59. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH (2018),
Thông tư liên tịch 06/2018/ về phối hợp thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi do Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao - Chánh án Tòa án nhân dân tối cao - Bộ trưởng Bộ Công
an - Bộ Tư pháp - Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội ban hành
ngày 21/12/2018; Hiệu lực: 05/02/2019;
60. Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao -TANDTC-BCA-BQP (2017), Thông tư liên
tịch 02/2017 về quy định việc phối hợp giữa cơ quan tiến hành tố tụng trong
thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung
do Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao - Bộ Công an - Bộ
91
Quốc phòng ban hành ngày 22/12/2017; Hiệu lực: 06/02/2018;
61. Viện kiểm sát nhân dân tối cao -TATC-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT (2018),
Quy định về phối hợp thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về
khiếu nại, tố cáo do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao - Bộ trưởng Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tài
chính - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành ngày 05/09/2018;
Hiệu lực: 19/10/2018;
62. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2010), “Quyền con người – Tiếp cận đa ngành và
liên ngành Luật học”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
63. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2011), “Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con
người”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
64. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2012), “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự
2003”, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
65. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2016), “Chính sách xây dựng pháp ) luật – Một
loại chính sách pháp luật và một số hình thức thực hiện chính sách pháp luật”,
92
Tạp chí Nhân lực Khoa học Xã hội số 07/2016;