VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ QUỲNH ANH
KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI NGUYÊN
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số : 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM MẠNH HÙNG
1
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM OAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, chưa
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Người cam đoan
Trần Thị Quỳnh Anh
MỤC LỤC
MỞ ẦU ...................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN Ề LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ ........................................................... 7
1.1. Những vấn đề lý luận về kháng nghị phúc thẩm hình sự ....................................... 7
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về kháng nghị phúc thẩm
hình sự ......................................................................................................................... 18
Chương 2. THỰC TRẠNG KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HAI CẤP TỈNH THÁI NGUYÊN ..................... 34
2.1. Khái quát thực trạng kháng nghị phúc thẩm hình sự tại tỉnh Thái Nguyên ......... 34
2.2. Những kết quả đạt được trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của
VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên ............................................................................. 36
2.3. Những tồn tại, hạn chế trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của
VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên ............................................................................. 47
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC .. 61
KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ .............................................................. 61
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm . 61
3.2. Tăng cường việc triển khai, áp dụng các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự
về kháng nghị phúc thẩm ............................................................................................ 62
3.3. Tăng cường và đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành; công tác thanh tra,
kiểm tra trong nội bộ ngành Kiểm sát, trong đó có công tác kháng nghị phúc thẩm . 64
3.4. Nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ và trách nhiệm của Kiểm sát viên về
công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự ...................................................................... 68
3.5. Tăng cường sự chỉ đạo, phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tỉnh Thái
Nguyên ........................................................................................................................ 71
3.6. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong việc giải
quyết kháng nghị phúc thẩm hình sự .......................................................................... 73
3.7. Tăng cường công tác kiểm sát các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án ................. 74
3.8. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chính sách chế độ đối với cán
bộ, Kiểm sát viên ......................................................................................................... 76
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 81
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT T T
BLTTHS : ộ luật Tố tụng hình sự
BLHS : ộ luật Hình sự
CHXHCN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
TAND : Tòa án nhân dân
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
VKS : Viện kiểm sát
MỞ ẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và
pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân,
góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Điều này đã được quy định cụ thể tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và
Khoản 1, Điều 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
Kể từ khi thành lập đến nay, ngành Kiểm sát nhân dân đã đạt được nhiều
kết quả tích cực trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp, góp phần đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm
và làm oan người vô tội. Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố thông qua việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý để truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Đồng thời, VKSND còn thực hiện
chức năng kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án với một quyền năng pháp lý
quan trọng là kháng nghị phúc thẩm. Quyền năng này được quy định trong ộ
luật Tố tụng hình sự và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân để kháng nghị
những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng
cấp và cấp dưới trực tiếp, trong trường hợp việc xét xử của Tòa án vi phạm
pháp luật nghiêm trọng các quy định của Luật hình sự, Tố tụng hình sự hoặc
sau phiên tòa xét xử sơ thẩm mà phát hiện thấy quá trình tố tụng từ khi khởi tố
vụ án hình sự đến truy tố, xét xử có vi phạm pháp luật cả về hình thức và nội
1
dung. Viện kiểm sát kháng nghị để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án
theo trình tự phúc thẩm nhằm sửa chữa, khắc phục các sai lầm của Tòa án cấp
sơ thẩm khi ra các bản án, quyết định có vi phạm.
Trong những năm qua công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của
VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên đã có những chuyển biến tích cực, đa số
các bản kháng nghị có bố cục chặt chẽ, lập luận rõ ràng, viện dẫn căn cứ pháp
lý chính xác, tính tranh tụng trong kháng nghị đã được nâng lên. Do vậy, tỷ lệ
kháng nghị được Viện kiểm sát cấp trên bảo vệ cũng cao hơn, số lượng kháng
nghị năm sau cao hơn năm trước. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát còn nhiều hạn chế chưa phát
huy được hết chức năng, nhiệm vụ của Ngành. Công tác kiểm sát bản án, biên
bản nghị án, biên bản phiên tòa và các tài liệu khác thực hiện chưa tốt, dẫn
đến vi phạm của cấp sơ thẩm không bị phát hiện, mặt khác do trình độ nhận
thức của Kiểm sát viên không đầy đủ, chất lượng bản kháng nghị chưa đạt,
nên có nhiều quyết định kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát ban hành
chưa chính xác, dẫn đến nhiều vụ án Viện kiểm sát phải rút kháng nghị, tỷ lệ
kháng nghị được Tòa án chấp nhận còn thấp trong khi số lượng án sơ thẩm
phải sửa, hủy án thông qua kháng cáo chiếm tỷ lệ khá lớn. Công tác kháng
nghị phúc thẩm chưa thật sự được quan tâm đúng mức nên chưa phát huy
được hết vai trò, chức năng nhiệm vụ của Ngành trong quá trình giải quyết án
hình sự.
Với mong muốn từ quá trình nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn về
kháng nghị phúc thẩm hình sự nói chung va kháng nghị phúc thẩm hình sự từ
thực tiễn tỉnh Thái Nguyên nói riêng, qua đó tìm ra nguyên nhân và kiến nghị
những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm thời gian
tới, học viên lựa chọn đề tài: “Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên” làm luận văn thạc sỹ luật
học của mình.
2
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về chế định kháng nghị phúc
thẩm hình sự dưới nhiều góc độ, phương diện khác nhau, cụ thể:
- Các công trình nghiên cứu về những vấn đề lý luận về kháng nghị
phúc thẩm hình sự: GS. TS Võ Khánh Vinh (2004), ình luận khoa học ộ
luật TTHS, Nxb. Công an nhân dân; TS. Phạm Mạnh Hùng (2018), ình luận
khoa học ộ luật TTHS, Nxb Lao động; Đại học Luật Hà Nội (2017) Giáo
trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân; Đinh Văn Quế
(2007), Bàn thêm về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án hình sự, Tạp
chí Kiểm sát (số 15); Ngô Thanh Xuyên (2012), Bàn về khái niệm kháng cáo,
kháng nghị phúc thẩm hình sự, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (số 6)…
- Các công trình nghiên cứu về những bất cập, hạn chế trong các quy
định pháp luật về kháng nghị phúc thẩm hình sự: Hoàng Thị Minh Sơn
(2013), Một số bất cập trong quy định của Bộ luật TTHS về kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm, Tạp chí Luật học (số 8); Mai Thanh Hiếu (2015), Khái
niệm hiệu lực của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng
hình sự, Tạp chí Luật học (số 1)…
- Các công trình nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật về kháng
nghị phúc thẩm hình sự: Vũ Đức Thành (2010), Đôi điều rút ra qua thực hiện
công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng
Ninh, Tạp chí Kiểm sát (số 16); Lê Thành Dương (2014), Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về kháng nghị phúc thẩm hình sự, VKSND tối cao…
- Các công trình nghiêm cứu về các giải pháp nâng cao hiệu quả công
tác kháng nghị phúc thẩm hình sự: Ngô Thanh Xuyên, Đỗ Mạnh Phương
(2014), Hoàn thiện các quy định về kháng nghị phúc thẩm hình sự trong Bộ
luật Tố tụng hình sự hiện hành, Tạp chí Kiểm sát (số 17); Nguyễn Thị Lan
3
(2017), Giải pháp nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, Tạp chí Kiểm sát (số 3)…
Nhìn chung, các bài viết và công trình nghiên cứu về kháng nghị phúc
thẩm hình sự đã có sự phân tích, đánh giá ở những phương diện khác nhau,
tuy nhiên thường chỉ tập trung giải quyết một hoặc một vài nội dung nhất định
mà chưa có bài viết nào đi sâu nghiên cứu, phân tích về chế định kháng nghị
phúc thẩm ở cả phương diện lý luận và thực tiễn công tác này của VKSND
hai cấp tỉnh Thái Nguyên.
Vì vậy, đề tài nghiên cứu của luận văn lựa chọn vấn đề phân tích, đánh
giá về những kết quả đã đạt được, những mặt còn tồn tại, hạn chế trong công
tác kháng nghị phúc thẩm; lý giải những yếu tố ảnh hưởng và đê xuất những
giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng kháng nghị phúc
thẩm hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng đến mục đích đánh giá khách quan, toàn diện công tác
kháng nghị phúc thẩm, chỉ ra được những tồn tại, hạn chế để đề xuất các giải
pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự
của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung vào thực hiện
những nhiệm vụ chính như:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát.
- Phân tích, đánh giá toàn diện việc thực hiện pháp luật và thực tiễn
công tác kháng nghị phúc thẩm của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên. Từ
đó, nêu lên được những mặt tích cực cũng như những tồn tại, hạn chế trong
4
việc thực hiện công tác kháng nghị phúc thẩm và chỉ ra nguyên nhân của tồn
tại, hạn chế đó.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của ngành Kiểm sát nói chung và của
VKSND tỉnh Thái Nguyên nói riêng.
4. ối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: luận văn đi vào nghiên cứu các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm hình sự của VKS, có sự so
sánh đối chiếu giữa LTTHS năm 2003 với LTTHS năm 2015; Luật tổ
chức VKSND năm 2002 và 2014, liên hệ với thực tiễn tỉnh Thái Nguyên.
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu toàn diện thực trạng công tác kháng
nghị phúc thẩm hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên trong thời gian
từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp
luận là phép duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam, về cải cách tư pháp.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích,
tổng hợp, lịch sử cụ thể, hệ thống, thống kê, so sánh – đối chiếu…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn, các quy định về kháng nghị phúc thẩm hình sự theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam, đồng thời đề ra giải pháp hoàn thiện một số vấn đề lý luận
về thủ tục phúc thẩm.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần đánh
giá thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự trong 05 năm vừa qua
5
và nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục kháng nghị phúc thẩm của VKSND hai
cấp tỉnh Thái Nguyên.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị
phúc thẩm hình sự
Chương 2: Thực trạng kháng nghị phúc thẩm hình sự của viện kiểm sát nhân
dân hai cấp tỉnh thái nguyên
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc
thẩm hình sự
6
Chương 1
NHỮNG VẤN Ề LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ
1.1. Những vấn đề lý luận về kháng nghị phúc thẩm hình sự
1.1.1. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm hình sự
Theo khoản 1, Điều 107 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
(CHXHCN) Việt Nam năm 2013, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Khoản 1, Điều 2, Luật tổ chức VKSND
năm 2014, VKSND có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp.
VKSND là cơ quan duy nhất được giao chức năng thực hành quyền
công tố. Hoạt động này được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử vụ án hình sự nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội,
không làm oan người vô tội. Trong giai đoạn xét xử, VKSND thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố để bảo vệ quan điểm truy tố theo cáo trạng, bảo
đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đồng thời, VKSND còn
thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án. Nếu xét thấy bản
án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục
tố tụng hoặc vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật hình sự, xâm
phạm đến lợi ích của Nhà nước, xã hội và quyền, lợi ích hợp pháp của những
người tham gia tố tụng thì Viện kiểm sát (VKS) cùng cấp hoặc cấp trên trực
tiếp sẽ sử dụng một quyền năng pháp lý đặc biệt để yêu cầu Tòa án cấp trên
tiến hành xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm, đó là quyền kháng nghị
phúc thẩm hình sự.
7
Khoản 1, Điều 5 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “Trường
hợp hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong
hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con
người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân thì VKSND phải kháng nghị. Cơ quan, người có thẩm quyền
phải giải quyết kháng nghị của VKSND theo quy định của pháp luật”. Như
vậy, kháng nghị là một quyền năng pháp lý quan trọng của VKS khi thực hiện
chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình.
Theo Từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ “kháng nghị” là bày tỏ ý kiến
chống lại điều đã quyết nghị [20, tr. 894]; “phúc thẩm” là xét lại những vụ án
do Tòa án dưới đưa lên [20, tr. 1087].
Theo Từ điển Luật học, “kháng nghị” của VKS là việc VKS khi thực
hành quyền kiểm sát hoạt động tư pháp không đồng ý với toàn bộ hoặc một
phần bản án, quyết định của Tòa án, gửi văn bản đến Tòa án có thẩm quyền
làm ngưng hiệu lực thi hành đối với toàn bộ hoặc một phần bản án đó để xét
xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đảm bảo cho vụ án
được xét xử chính xác, khách quan, đúng pháp luật [8, tr. 731]; “Kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm” chỉ có VKS cùng cấp, cùng lãnh thổ với Tòa án đã ra
bản án, quyết định sơ thẩm và VKS cấp trên trực tiếp của VKS này mới có
quyền kháng nghị những bản án, quyết định sơ thẩm.
Từ đó, có thể hiểu kháng nghị là hành vi tố tụng của VKS, thể hiện việc
không đồng ý với toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa án, với
mục đích bảo đảm cho việc xét xử được chính xác, khách quan, công bằng
đồng thời khắc phục, sửa chữa những sai sót trong bản án, quyết định của Tòa
án [3].
Điều 232 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2003 quy định:
“Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng
8
nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm”. Điều 36 LTTHS năm 2003
quy định: “…2. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát
có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: i) Kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm các bản án, quyết định của Tòa án”.
Khoản 2, Điều 41 LTTHS năm 2015 quy định Viện trưởng VKS có
quyền: “o) Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản
án, quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ luật này”.
Khoản 3, Điều 4 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “Khi thực
hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm
vụ, quyền hạn sau đây: d) Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi
phạm pháp luật”.
Như vậy, pháp luật đã quy định rõ khi xét thấy những bản án và quyết
định sơ thẩm của Tòa án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng thì VKS cùng
cấp và VKS cấp trên trực tiếp có thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm. Kháng
nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý quan trọng, xuất phát từ chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực
hình sự của VKS và xuất phát từ nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự
nước ta đó là bảo đảm hai cấp xét xử. Theo nội dung của nguyên tắc này, một
vụ án có thể được xét xử qua hai cấp, từ đó những vấn đề của vụ án sẽ một lần
nữa được xem xét, phân tích, đánh giá, làm cơ sở cho các phán quyết của Tòa
án đảm bảo độ chính xác, khách quan cao hơn. Thông qua hoạt động xét xử
vụ án hình sự qua hai cấp xét xử, Tòa án cấp phúc thẩm có thể kịp thời sửa
chữa những sai lầm, thiếu sót trong những bản án, quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm. Đồng thời, việc xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử sẽ
giúp tìm ra nguyên nhân của những sai lầm hay những vi phạm pháp luật
9
trong việc áp dụng pháp luật của Tòa án nói riêng và các cơ quan tiến hành tố
tụng nói chung.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, kháng nghị của VKS
không phải chỉ có trong trình tự phúc thẩm mà còn là căn cứ để xét xử giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm. Cụ thể, kháng nghị là căn cứ để xét xử theo thủ tục
giám đốc thẩm thì gọi là kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, nếu kháng
nghị là căn cứ để xét xử theo thủ tục tái thẩm thì gọi là kháng nghị theo thủ
tục tái thẩm, nếu kháng nghị là căn cứ để xét xử theo thủ tục phúc thẩm thì
gọi là kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên, do giới hạn của phạm vi
nghiên cứu nên đề tài chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về kháng nghị phúc thẩm
hình sự.
Khái niệm kháng nghị phúc thẩm hình sự đã được đề cập nhiều trong
khoa học pháp lý nước ta. Tuy nhiên, trong LTTHS hiện hành, các văn pháp
pháp lý khác và trong các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học vẫn
chưa đưa ra một định nghĩa thống nhất về khái niệm “kháng nghị phúc thẩm
hình sự”. Có tác giả cho rằng kháng nghị phúc thẩm là quyền năng pháp lý
được Nhà nước giao cho VKSND để kháng nghị những bản án, quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng cấp và cấp dưới trực tiếp khi
phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng để yêu cầu Tòa án cấp trên trực
tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp
luật, nghiêm minh và kịp thời [11]. Quan điểm khác lại định nghĩa kháng nghị
phúc thẩm là một văn bản do VKS ban hành yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm
xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử nhưng xét thấy không đúng
pháp luật [21].
Trên cơ sở phân tích nội dung, đặc điểm, đặc trưng, mục đích của
kháng nghị phúc thẩm hình sự, nghiên cứu các tài liệu có liên quan cũng như
tiếp thu các quan điểm của các nhà khoa học về tố tụng hình sự, tác giả đưa ra
10
định nghĩa về kháng nghị phúc thẩm hình sự như sau: Kháng nghị phúc thẩm
hình sự là quyền năng pháp lý mà Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân
thể hiện quan điểm của Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp, yêu cầu
Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại bản án, quyết định hình sự sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật theo trình tự phúc thẩm. Qua đó nhằm bảo đảm việc xét xử
của Tòa án được thực hiện theo đúng pháp luật, việc xét xử nghiêm minh, kịp
thời, đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không
làm oan người vô tội.
1.1.2. Đặc điểm của kháng nghị phúc thẩm hình sự
Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án hình sự có một số đặc điểm
cơ bản như sau:
- Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý mà Nhà nước
giao cho VKSND. Đây là chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS đã được
quy định tại Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm
2013 và được cụ thể hóa trong Luật tổ chức VKSND năm 2014. Thông qua
công tác kháng nghị, VKS đồng thời thực hiện được chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.
Khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “Thực hành quyền
công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để
thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện
ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong
suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”.
ên cạnh chức năng thực hành quyền công tố thì VKS còn có nhiệm vụ
quan trọng khác trong tố tụng hình sự, đó là chức năng kiểm sát các hoạt động
tư pháp. Theo đó, VKS sẽ kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định
của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay
từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
11
và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự cho đến khi thi hành các bản
án, quyết định của Tòa án. Như vậy, hai chức năng này của VKS được thực
hiện xuyên suốt trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự và thông qua
hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa sơ thẩm,
VKS phát hiện có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng thì VKS có quyền
kháng nghị phúc thẩm. Điều 23 LTTHS năm 2003, nay là Điều 20 LTTHS
năm 2015 quy định trách nhiệm của VKS khi thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, cụ thể “Viện kiểm sát
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm
mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật
đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt
tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô
tội”. Như vậy, khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố trong giai
đoạn xét xử vụ án hình sự, VKS kháng nghị các bản án, quyết định của Tòa
án trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, pháp
nhân phạm tội; khi kiểm sát việc xét xử vụ án hình sự, VKS kháng nghị đối
với bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.
- Hoạt động kháng nghị phúc thẩm xuất hiện khi VKS nhận thấy có
những “vi phạm pháp luật nghiêm trọng” trong bản án, quyết định sơ thẩm
của Tòa án cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp. Vấn đề đặt ra ở đây là đánh giá
mức độ vi phạm pháp luật của bản án, quyết định như thế nào? Có quan điểm
cho rằng, khi đánh giá mức độ vi phạm thì chỉ cần xác định bản án, quyết
định có sự vi phạm pháp luật là đã có căn cứ để kháng nghị phúc thẩm. Mặt
khác, Điều 32 Quy chế về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử các vụ án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 505/2017/QĐ-VKSTC
12
ngày 18/12/2017 của VKSND tối cao nêu căn cứ để kháng nghị phúc thẩm là
có “vi phạm pháp luật”, tức là vi phạm trong việc áp dụng pháp luật nội dung
(luật hình sự) và vi phạm pháp luật hình thức (luật tố tụng hình sự).
Tuy nhiên, Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã quy định rõ mức độ vi
phạm làm căn cứ cho việc kháng nghị phúc thẩm phải là “vi phạm pháp luật
nghiêm trọng”. Cụ thể Điều 5 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định
VKSND có quyền kháng nghị, kiến nghị. Theo đó, quyền kháng nghị được
thực hiện khi phát hiện hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có “vi phạm pháp luật nghiêm trọng”,
xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì VKSND phải kháng nghị; quyền
kiến nghị được VKSND thực hiện khi phát hiện hành vi, quyết định của cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp có “vi phạm pháp luật ít
nghiêm trọng” không thuộc trường hợp kháng nghị thì VKSND kiến nghị cơ
quan, tổ chức, cá nhân đó khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm minh
người vi phạm pháp luật. Như vậy, không phải đối với vi phạm pháp luật nào
trong hoạt động tư pháp VKS cũng ban hành kháng nghị mà kháng nghị của
VKS chỉ được ban hành đối với những vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
- Đối tượng của kháng nghị phúc thẩm là bản án, quyết định sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật. Hoạt động kháng nghị là một trong những căn cứ
để Tòa án xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm. Theo quy định tại Điều
230 LTTHS 2003 nay là Điều 330 LTTHS 2015 thì xét xử phúc thẩm là
một thủ tục tố tụng hình sự, tính chất của xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp
trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án,
quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo
hoặc kháng nghị. Xét xử phúc thẩm góp phần bảo đảm cho việc xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, kịp thời khắc phục những sai lầm, thiếu sót
13
có thể xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Như vậy, một bản án, quyết
định sơ thẩm sẽ được xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm khi có đủ hai điều
kiện: bản án, quyết định đó chưa có hiệu lực pháp luật và bị kháng cáo hoặc
kháng nghị. Điều này khác với kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm có đối tượng là bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
- Kháng nghị phúc thẩm góp phần cho một trong những nguyên tắc cơ
bản của tố tụng hình sự là chế độ hai cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm) được
bảo đảm. Theo nguyên tắc này, bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật của Tòa án bị kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Sau
khi vụ án được xét xử phúc thẩm thì bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực
pháp luật và được đưa ra thi hành, không phụ thuộc vào việc bản án, quyết
định đó có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Còn
giám đốc thẩm, tái thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là thủ tục “xét
lại” bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng phát hiện có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án (đối với thủ tục giám
đốc thẩm) hoặc có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội
dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết
định đó (đối với thủ tục tái thẩm).
- VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản
án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Ở thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm do tính chất “xét lại” bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là
đặc biệt nên thẩm quyền kháng nghị đã được giới hạn. Theo đó, thẩm quyền
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thuộc về VKSND tối cao, TAND tối
cao, Tòa án quân sự Trung ương, Viện kiểm sát quân sự trung ương, VKSND
cấp cao và TAND cấp cao; thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm chỉ
14
có Viện trưởng VKSND tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung
ương và Viện trưởng VKSND cấp cao.
Từ những phân tích trên về đặc điểm của kháng nghị phúc thẩm hình sự
có thể thấy, kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý đặc biệt mà
Nhà nước giao cho VKSND. Kháng nghị phúc thẩm hình sự được VKS cùng
cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp thực hiện khi phát hiện bản án, quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án có vi phạm pháp luật nghiêm
trọng, để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án đó theo trình tự phúc thẩm
nhằm kịp thời sửa chữa, khắc phục những thiếu sót, vi phạm của Tòa án cấp
dưới, đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời, đồng thời
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức xã hội và Nhà nước.
1.1.3. Vai trò của kháng nghị phúc thẩm hình sự
- Việc quy định và thực hiện tốt công tác kháng nghị phúc thẩm hình
sự có vai trò quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Quy định này góp phần quan trọng vào việc thực
thi pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính thống nhất của pháp luật, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Xuất phát từ chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự của mình, VKS sẽ phát
hiện kịp thời những vi phạm pháp luật nghiêm trọng, từ đó ban hành kháng
nghị nói chung và kháng nghị phúc thẩm nói riêng làm căn cứ bảo đảm hoạt
động xét xử của Tòa án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, bảo
đảm nhận thức và áp dụng thống nhất pháp luật, bảo đảm cho quyền và lợi ích
hợp pháp của những người tham gia tố tụng, không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt
tội phạm, không làm oan người vô tội.
- Việc quy định và thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm là căn cứ
quan trọng làm phát sinh thủ tục phúc thẩm. Xét xử phúc thẩm có mục đích là
kiểm tra lại tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm và xét xử lại vụ án
15
về mặt nội dung. Từ đó, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và
của công dân được bảo vệ; những thiếu sót, vi phạm trong hoạt động xét xử
của Tòa án cấp sơ thẩm được khắc phục, sửa chữa; pháp luật được hướng dẫn,
giải thích và áp dụng thống nhất.
- Việc thực hiện tốt công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự có vai trò
quan trọng trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp của VKS. Việc phát hiện ra những vi phạm để ban
hành kháng nghị và yêu cầu Tòa án xét xử vụ án theo trình tự phúc thẩm sẽ
góp phần bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh, được áp dụng và thực thi thống nhất. Thật vậy, hiểu được
tầm quan trọng của khâu công tác này, trong những năm quan Viện trưởng
VKSND tối cao đã ban hành nhiều Chỉ thị về tăng cường công tác kháng nghị
phúc thẩm hình sự. Trên cơ sở đó đã tạo nhiều chuyển biến mới đối với công
tác này trong ngành Kiểm sát nhân dân.
1.1.4. Hiệu lực của kháng nghị phúc thẩm hình sự
Hiệu lực của kháng nghị phúc thẩm là sự phát sinh việc thực hiện thẩm
quyền của Tòa án cấp phúc thẩm và giới hạn việc thực hiện thẩm quyền xem
xét và quyết định của tòa án trong giới hạn xét xử sơ thẩm, phạm vi và hướng
kháng nghị theo quy định của pháp luật với điều kiện kháng nghị phúc thẩm
hợp pháp về đối tượng, chủ thể, thời hạn, hình thức và thủ tục kháng nghị.
Hiệu lực của kháng nghị là bảo đảm pháp lý cần thiết cho việc thực
hiện đúng thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm; bảo đảm cho việc xét xử lại vụ
án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm, tìm ra nguyên nhân của sai lầm hay vi
phạm về pháp luật trong việc giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố
tụng nói chung và Tòa án cấp sơ thẩm nói riêng, từ đó tìm ra giải pháp thích
16
hợp để sửa chữa sai lầm, vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm, nâng cao trách
nhiệm của Tòa án cấp sơ thẩm trong việc giải quyết vụ án. Việc Tòa án cấp
phúc thẩm sửa hoặc hủy bản án, quyết định sơ thẩm chính là hình thức hướng
dẫn áp dụng pháp luật của Tòa án phúc thẩm đối với Tòa án sơ thẩm, bảo đảm
tính thống nhất trong việc áp dụng, thi hành pháp luật, góp phần nâng cao
chất lượng xét xử và phòng ngừa sai lầm, vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm.
1.1.5. Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự
Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án cấp sơ thẩm và Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp là các chủ thể có thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm. Quyền
kháng nghị của VKS cấp trên trực tiếp là quyền độc lập chứ không phải chỉ
bổ sung cho quyền kháng nghị của VKS cấp dưới. Trong trường hợp kháng
nghị của VKS cấp dưới và VKS cấp trên trực tiếp có nội dung bổ sung cho
nhau thì Tòa án cấp phúc thẩm xem xét cả hai quyết định kháng nghị. Trong
trường hợp kháng nghị của VKS cấp dưới và cấp trên trực tiếp có nội dung
mâu thuẫn nhau mà VKS cấp dưới không rút kháng nghị của mình, VKS cấp
trên trực tiếp không rút kháng nghị của VKS cấp dưới thì Tòa án cấp phúc
thẩm chỉ xem xét kháng nghị của VKS cấp trên trực tiếp.
1.1.6. Thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự
Thời hạn kháng nghị phúc thẩm là khoảng thời gian cần thiết theo quy
định của pháp luật để VKS cùng cấp và VKS cấp trên trực tiếp thực hiện việc
kháng nghị. Thời hạn kháng nghị phúc thẩm tính từ thời điểm bắt đầu đến
thời điểm kết thúc thời hạn kháng nghị. Để xác định thời điểm bắt đầu thời
hạn kháng nghị, pháp luật quy định ngày được xác định, tùy từng trường hợp
ngày được xác định là ngày Tòa án tuyên án, ra quyết định hoặc ngày bản án,
quyết định sơ thẩm được giao hoặc được niêm yết. Để xác định thời điểm kết
thúc thời hạn kháng nghị, pháp luật quy định ngày cuối cùng của thời hạn.
Trong trường hợp ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ theo quy định của
17
pháp luật thì thời hạn kháng nghị được kéo dài đến hết ngày làm việc đầu tiên
tiếp theo của ngày nghỉ đó.
Sự kết thúc thời hạn kháng nghị có hậu quả tước bỏ quyền kháng nghị
phúc thẩm của VKS, làm cho bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp
luật. Vì vậy, kháng nghị quá hạn là kháng nghị vô hiệu, trừ trường hợp có lí
do chính đáng và được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận. Lí do chính đáng
của việc kháng nghị quá hạn là trường hợp do trở ngại khách quan không thể
vượt qua, chủ thể của quyền kháng nghị phúc thẩm tuyệt đối không thể thực
hiện việc kháng nghị trong thời hạn luật định.
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về kháng
nghị phúc thẩm hình sự
1.2.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định của
pháp luật về kháng nghị phúc thẩm hình sự
Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 24
tháng 01 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 13,
một trong những văn bản đầu tiên đặt nền móng cho việc hình thành nền tư
pháp xét xử của chế độ mới. Theo đó, chế độ hai cấp xét xử đã được bảo đảm
và “quyền chống án” đã được ghi nhận cho những chủ thể tố tụng khác nhau.
Cụ thể, tại Điều 54 Sắc lệnh số 13 quy định: “Tòa đại hình sơ thẩm, ông Biện
lý có quyền chống án lên Tòa thượng thẩm”.
Sau đó, thuật ngữ “kháng nghị” chính thức được ghi nhận vào năm
1957, tại điểm c Điều I mục II Thông tư số 141-HCTP ngày 5 tháng 12 năm
1957 của ộ Tư pháp về tổ chức và phân công nội bộ của Tòa án. Theo đó,
Công tố ủy viên, dưới sự lãnh đạo của ộ Tư pháp, có nhiệm vụ theo dõi việc
xét xử và hòa giải tòa án nhân dân có hợp pháp không, kháng nghị đối với các
bản án hoặc nghị quyết của tòa án xét không đúng pháp luật [1].
18
Đến năm 1959, lần đầu tiên trong Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa có những quy định về hệ thống tổ chức, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS. Để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, ngày 15/7/1960,
Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thông qua Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân, quy định một cách cụ thể về hệ thống tổ chức, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS. Trong đó, Điều 17 Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 1960 đã quy định VKSND tối cao và các VKSND địa phương
có một quyền quan trọng, đó là “kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ
thẩm của Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới một cấp”.
Kế thừa những quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
1960, ngày 04/7/1981, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981. Theo đó, Điều 13 của Luật quy
định khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử, các VKSND có quyền “kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án và quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật của Tòa án nhân dân cùng cấp và dưới một cấp, khi thấy có vi
phạm pháp luật”. Như vậy, quy định này của điều luật đã chính thức ghi nhận
thuật ngữ “kháng nghị phúc thẩm”.
Tiếp đó, Điều 19 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 được
Quốc hội thông qua ngày 02/4/2002 tiếp tục quy định: “Khi thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có
quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm… các bản án, quyết định của Tòa
án nhân dân theo quy định của pháp luật”. Đến Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2014 được Quốc hội thông qua ngày 24/11/2014 đã quy định
cụ thể tại Điều 18 của Luật, khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét
xử vụ án hình sự VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn “kháng nghị bản án, quyết
định của Tòa án trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người
phạm tội”. Và Điều 19 của Luật quy định khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự,
19
VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn “kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án
có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng”.
Như vậy, qua các giai đoạn lịch sử, quy định về kháng nghị phúc thẩm
hình sự về hình thức có những tên gọi khác nhau, từng bước đã có sự thay
đổi, bổ sung, hoàn thiện hơn, dần đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của VKS. Có thể nói, chế định kháng
nghị phúc thẩm hình sự đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần cho phù hợp với
tình hình thực tế của mỗi thời kỳ cách mạng Việt Nam.
Trong pháp luật tố tụng hình sự, khi LTTHS chưa được ra đời, các
quy định về kháng nghị phúc thẩm hình sự được thực hiện theo ản hướng
dẫn về trình tự tố tụng phúc thẩm về hình sự kèm theo Thông tư số 19/TATC
ngày 02/10/1974 của TAND tối cao. Sau đó, khi LTTHS ra đời, chế định
kháng nghị phúc thẩm hình sự được quy định tại Phần thứ tư, Chương XXII,
các Điều 206, 207, 208, 210, 211, 212, 213 của LTTHS năm 1988. Đến
LTTHS 2003, chế định này được quy định tại Phần thứ tư, Chương XXIII,
các Điều 230, 232, 233, 234, 236, 237, 238, 239. Theo đó, cả hai ộ luật trên
đều quy định Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có
quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm; kháng nghị được
thể hiện bằng văn bản, có nói rõ lý do và được gửi đến Tòa án đã xử sơ thẩm;
thời hạn kháng nghị là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (theo LTTHS 1998)
hoặc 15 ngày đối với VKS cùng cấp, 30 ngày đối với VKS cấp trên trực tiếp,
kể từ ngày tuyên án (theo LTTHS 2003). Đồng thời, quy định rõ về hậu quả
của kháng nghị cũng như thủ tục thông báo về việc kháng nghị, bổ sung, thay
đổi, rút kháng nghị.
Kế thừa những quy định trên, LTTHS năm 2015 tiếp tục quy định về
chế định này tại Chương XXII ở các Điều 336, 337, 338, 339, 342, 343. Từ
những quy định trên, có thể thấy rằng, từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam
20
Dân chủ Cộng hòa cho đến nay, pháp luật tố tụng hình sự đều có những quy
định nêu rõ chỉ có VKS mới có quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự.
1.2.2. Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
kháng nghị phúc thẩm hình sự
1.2.2.1. Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm
Theo quy định tại khoản 1, Điều 336 LTTHS năm 2015 thì VKSND
cùng cấp với Tòa án đã ra bản án, quyết định sơ thẩm và VKSND cấp trên
trực tiếp của VKSND đó có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm bản án
hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Người có thẩm quyền
quyết định việc kháng nghị phúc thẩm là Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS
(quy định tại Điều 41 LTTHS 2015).
Điều 36 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
các vụ án hình sự (ban hanh kèm theo Quyết định số 505/2017/QĐ-VKSTC
ngày 18/12/2017của Viện trưởng VKSND tối cao) đã nêu cụ thể: Viện
trưởng, Phó Viện trưởng VKSND cấp huyện kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm đối với những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của
TAND cấp huyện; Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND cấp tỉnh kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật của TAND cấp huyện, cấp tỉnh; Viện trưởng, Phó Viện trưởng
VKSND cấp cao kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm bản án, quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm
quyền theo lãnh thổ.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định về hệ thống
VKSND gồm có 04 cấp: VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương (VKSND cấp tỉnh), VKSND huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương (VKSND cấp huyện). Sau khi
Nghị quyết số 82/2014/QH13 ngày 24/11/2014 của Quốc hội về việc thi hành
21
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân có hiệu lực thi hành thì VKSND tối cao
chuyển giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử phúc thẩm
cho VKSND cấp cao. Theo đó Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND cấp
cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết
định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND tỉnh thành phố trực thuộc
trung ương. Như vậy, đây là quy định mới thay đổi về thẩm quyền kháng nghị
phúc thẩm bởi VKSND tối cao không còn chức năng kháng nghị phúc thẩm
mà chuyển quyền năng này cho VKSND cấp cao.
VKS có thể kháng nghị toàn bộ hoặc một phần của bản án, quyết định;
đối với tất cả bị cáo và những người tham gia tố tụng khác hoặc chỉ với một
số người; hướng kháng nghị của VKS cũng không bị hạn chế. Do thẩm quyền
kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm thuộc về VKS cùng cấp và
VKS cấp trên trực tiếp nên sẽ có những trường hợp xảy ra như:
- Nếu hai bản kháng nghị có tính chất bổ sung cho nhau thì tòa án cấp
phúc thẩm sẽ chấp nhận để xét xử theo cả hai bản kháng nghị đó.
- Nếu hai bản kháng nghị mâu thuẫn nhau, VKS cùng cấp không rút
kháng nghị của mình, VKS cấp trên không hủy kháng nghị của VKSND cấp
dưới thì tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét kháng nghị của VKS cấp trên trực
tiếp do nguyên tắc hoạt động của VKSND là tập trung thống nhất lãnh đạo
trong ngành.
1.2.2.2. Phạm vi kháng nghị
Điều 239 LTTHS năm 2003 quy định về kháng cáo, kháng nghị
những quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, tuy nhiên tại Khoản 2 của điều luật
chỉ liệt kê các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo, đó là
quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, còn các quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm mà VKS có quyền kháng nghị lại không được quy định cụ thể. Vì
vậy, từ nội dung của điều luật ta có thể hiểu rằng VKS có thể kháng nghị phúc
22
thẩm đối với tất cả các quyết định tố tụng của Tòa án cấp sơ thẩm nếu phát
hiện quyết định đó có vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Đến LTTHS năm
2015 đã quy định cụ thể các quyết định sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng
nghị tại Khoản 2 Điều 330, đó là quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ
vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo, quyết định đình
chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo và quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm
theo quy định của LTTHS 2015.
1.2.2.3. Thời hạn kháng nghị phúc thẩm
Thời hạn kháng nghị là khoảng thời gian nhất định mà LTTHS quy
định cho phép VKS kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án. Thời
hạn kháng nghị phúc thẩm được tính kể từ thời điểm bắt đầu đến thời điểm
kết thúc thời hạn kháng nghị. Hệ quả của việc kết thúc thời hạn kháng nghị sẽ
làm mất quyền kháng nghị của VKS, khi đó bản án, quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm có hiệu lực pháp luật.
Điều 234 LTTHS năm 2003 quy định thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Tức là đã quy định chung thời hạn kháng nghị phúc thẩm của VKS đối với
bản án với thời hạn kháng cáo. Tiếp đó, thời hạn kháng nghị những quyết
định của Tòa án sơ thẩm được quy định tại Khoản 1 Điêu 239 LTTHS 2003.
LTTHS năm 2015 không tách biệt quy định về thời hạn kháng nghị đối với
bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm thành 02 điều luật khác nhau mà
xây dựng riêng một điều luật mới và vẫn giữ nguyên về mức thời hạn. Cụ thể,
Điều 337 LTTHS năm 2015 quy định: “1. Thời hạn kháng nghị của Viện
kiểm sát cùng cấp đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, của
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày Tòa án tuyên án. 2.
Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định của Tòa
án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày kể
từ ngày Tòa án ra quyết định”. Sự thay đổi trên về kỹ thuật lập pháp đã phân
23
tách rõ giữa thời hạn kháng cáo và thời hạn kháng nghị, tránh nhầm lẫn giữa
hai thời hạn, từ đó tránh những vi phạm về thời hạn kháng nghị.
1.2.2.4. Căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự
Cũng giống như các BLTTHS trước đó, LTTHS năm 2015 chưa có
quy định cụ thể về những căn cứ để kháng nghị phúc thẩm. Tuy nhiên, trên cơ
sở các quy định của LTTHS về căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa
bản án sơ thẩm (Điều 357 LTTHS 2015), hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại
hoặc xét xử lại (Điều 358 LTTHS 2015), hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ
án (Điều 359 LTTHS 2015). Đồng thời, áp dụng quy định tại Điều 37 Quy
chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự
(ban hanh kèm theo Quyết định số 505/2017/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017
của Viện trưởng VKSND tối cao thì có thể xác định căn cứ kháng nghị phúc
thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật như sau:
- Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm không đầy đủ dẫn đến
đánh giá không đúng tính chất của vụ án.
Tức là khi tiến hành thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử chỉ
hỏi thiên về một mặt, một khía cạnh, không điều tra xét hỏi đầy đủ các mặt,
các khía cạnh của vấn đề, không làm rõ được những vấn đề cần phải chứng
minh trong vụ án hình sự theo quy định tại Điều 85 LTTHS 2015. Hoặc việc
điều tra xét hỏi đã bỏ sót một hoặc một số tình tiết về từng sự việc, từng tội
trong một vụ án, không điều tra xét hỏi đối với người tham gia tố tụng dẫn
đến việc không đảm bảo đủ cơ sở để đánh giá tính chất của vụ án. Việc điều
tra, xét hỏi không đầy đủ như trên đã dẫn đến việc không đánh giá đúng tính
chất của vụ án, nội dung của vụ án bị đánh giá sai lệch, do đó VKS cần phải
kháng nghị để xem xét, đánh giá lại tính chất vụ án đảm bảo chính xác, khách
quan nhất.
24
- Kết luận, quyết định trong bản án, quyết định sơ thẩm không phù
hợp với các tình tiết khách quan của vụ án.
Điều này có nghĩa là, trong phần xét thấy, phần quyết định của bản án
hoặc quyết định sơ thẩm có những vấn đề không phù hợp với các tình tiết
khách quan đã được điều tra, xác minh, thu thập trong hồ sơ vụ án và đã được
xem xét tại phiên tòa hoặc những tình tiết khách quan của vụ án được làm rõ
tại phiên tòa qua phần xét hỏi, tranh luận. Kết luận trong bản án hoặc quyết
định sơ thẩm bị coi là không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án
có thể là một trong các trường hợp sau: kết luận không phù hợp với các chứng
cứ, tài liệu đã được điều tra, xác minh tại phiên tòa; có sự mâu thuẫn giữa các
chứng cứ; tại phiên tòa không xem xét tình tiết có ý nghĩa quan trọng đối với
vụ án mà Tòa án dựa vào đó để kết luận về vụ án…
- Có sai lầm trong việc áp dụng các quy định của ộ luật hình sự, ộ
luật Dân sự và các văn bản pháp luật khác.
Kết quả của sai lầm trong việc áp dụng pháp luật có thể dẫn đến việc để
xảy ra oan, sai. Trong khoa học pháp lý hình sự, khái niệm “oan” có thể được
hiểu là “Trường hợp không có sự việc phạm tội, hành vi không cấu thành tội
phạm, do bị vu cáo, dựng vụ án giả hoặc hành vi do người khác thực hiện,
nhưng một người vẫn bị điều tra, truy tố, xét xử và kết tội”. Khái niệm về
“sai” có thể được hiểu là trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng và người
tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự một cách không khách quan, không
đầy đủ, trái với những quy định của pháp luật. Việc để xảy ra sai trong xét xử
vụ án hình sự với các biểu hiện như việc áp dụng pháp luật hình thức, pháp
luật nội dung không đúng, không đầy đủ, không khách quan, việc áp dụng các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với một người phạm tội
chưa chính xác…
25
Việc có những sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật có thể dẫn
đến việc bỏ lọt tội phạm. iểu hiện cụ thể của việc bỏ lọt tội phạm là việc bỏ
lọt hành vi phạm tội, bỏ lọt người phạm tội, hoặc qua việc điều tra, truy tố xác
định đối tượng có dấu hiệu của tội phạm nhưng khi tiến hành xét xử, Tòa án
cấp sơ thẩm tuyên bố là không có tội. Đối với trường hợp Tòa án tuyên bố
không có tội, theo quy định tại Khoản 2 Điều 250 LTTHS năm 2003 nay là
Điều 358 LTTHS 2015 thì đây la một căn cứ để Tòa án cấp phúc thẩm hủy
bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm, do đó VKS hoàn toàn có quyền
kháng nghị phúc thẩm trong trường hợp này.
Sai lầm trong việc áp dụng các quy định của LHS thường xuất phát từ
việc hiểu và vận dụng các quy định có sự sai sót, không chỉ là sai điều khoản
áp dụng đối với hành vi phạm tội mà còn không đúng với các quy định có liên
quan trong việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của người
phạm tội. Đó có thể là áp dụng sai điểm, khoản, điều luật của LHS dẫn đến
xét xử bị cáo về tội nặng hơn hoặc tội nhẹ hơn, về khoản nặng hơn hoặc nhẹ
hơn không đúng với nguyên tắc xử lý vụ án. Việc áp dụng pháp luật không
chính xác sẽ dấn đến việc quyết định hình phạt không tương xứng với tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội hay việc áp dụng
một số căn cứ không có cơ sở để thực hiện việc quyết định hình phạt dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt là không đúng.
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có
vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng theo quy định tại
Điều 53, 254 LTTHS năm 2015 hoặc thuộc các trường hợp Hội đồng xét xử
sơ thẩm không đúng Hội đồng xét xử trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Ví
dụ: thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm đối với vụ án có bị cáo về tội mà
LHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử hình
26
phải gồm 02 Thẩm phán và 03 Hội thẩm nhưng phiên tòa xét xử sơ thẩm chỉ
có 01 Thẩm phán và 02 Hội thẩm.
Có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng là trường hợp khi điều
tra, truy tố, xét xử LTTHS quy định bắt buộc phải tiến hành một thủ tục tố
tụng nào đó, nhưng cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng, dẫn đến việc xâm phạm nghiêm trọng
đến quyền lợi của bị can, bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan đến vụ án, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự hoặc làm cho việc giải
quyết vụ án thiếu khách quan toàn diện. Ví dụ, hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử không thực hiện đúng quy định về sự tham gia của người bào chữa trong
trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa; Tòa án xét xử không đúng thẩm
quyền, vi phạm quy định về giới hạn xét xử hoặc không thực hiện việc hoãn
phiên tòa khi phải hoãn phiên tòa theo luật định...
1.2.2.5. Trình tự, thủ tục kháng nghị phúc thẩm hình sự
Khi xét thấy có căn cứ để tiến hành việc kháng nghị phúc thẩm, VKS
thực hiện việc ban hành Quyết định kháng nghị. Trong đó có các nội dung
chính như ngày, tháng, năm ban hành quyết định; số của quyết định; tên của
VKS ra quyết định; phạm vi kháng nghị là toàn bộ hay một phần bản án,
quyết định sơ thẩm; lý do, căn cứ kháng nghị và yêu cầu của VKS; họ tên,
chức vụ của người ký kháng nghị; nêu rõ những vi phạm pháp luật cụ thể của
bản án, quyết định về đánh giá chứng cứ, về vận dụng chính sách pháp luật,
về áp dụng thủ tục tố tụng và nêu quan điểm của VKS về việc giải quyết vụ
án theo đúng quy định của pháp luật. Nếu Điều 233 LTTHS năm 2003 chỉ
quy định kháng nghị được gửi đến duy nhất Tòa án đã xét xử sơ thẩm; hình
thức của kháng nghị được thể hiện bằng văn bản, có nêu rõ lý do thì Khoản 2
Điều 338 LTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể hơn về thủ tục gửi quyết
định kháng nghị: Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định kháng
27
nghị, Viện kiểm sát phải gửi quyết định kháng nghị kèm theo chứng cứ, tài
liệu, đồ vật bổ sung (nếu có) cho Tòa án đã xét xử sơ thẩm, đồng thời gửi
quyết định kháng nghị cho bị cáo và những người liên quan đến kháng nghị
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người liên quan đến kháng nghị. VKS đã
kháng nghị phải gửi quyết định kháng nghị cho VKS khác có thẩm quyền
kháng nghị, cụ thể như sau: Kháng nghị cùng cấp của VKSND cấp tỉnh gửi
VKSND cấp cao, kháng nghị cùng cấp của VKS quân sự cấp quân khu gửi VKS
quân sự trung ương, kháng nghị của VKSND cấp cao gửi VKSND tối cao.
Để đảm bảo cho việc giải quyết phúc thẩm đối với kháng nghị của VKS
được kịp thời, khách quan và chính xác, Điều 339 LTTHS năm 2015 đã bổ
sung một nội dung mới quy định về nghĩa vụ của Tòa án cấp sơ thẩm bên
cạnh việc gửi hồ sơ vụ án, kháng nghị đồng thời phải gửi các chứng cứ, tài
liệu, đồ vật kèm theo (nếu có) cho Tòa án cấp phúc thẩm trong thời hạn 07
ngày kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị.
Điều 242 LTTHS năm 2003 quy định nghĩa vụ của Tòa án chậm nhất
là 15 ngày trước ngày mở phiên tòa, Tòa án cấp phúc thẩm phải thông báo
bằng văn bản cho VKS cùng cấp về thời gian, địa điểm xét xử phúc thẩm vụ
án. Tuy nhiên không có điều luật nào quy định về việc Tòa án cấp phúc thẩm
phải chuyển hồ sơ vụ án cho VKS cùng cấp để nghiên cứu tham gia thủ tục
phúc thẩm. Khi đó, việc chuyển hồ sơ cho VKS cùng cấp để nghiên cứu được
thực hiện theo hướng dẫn tại Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP ngày
08/12/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một
số quy định trong phần xét xử phúc thẩm của ộ luật tố tụng hình sự năm
2003. Khắc phục điều này, LTTHS năm 2015 đã quy định chặt chẽ hơn,
theo đó Điều 341 LTTHS năm 2015 đã quy định nghĩa vụ của Tòa án cấp
phúc thẩm phải chuyển hồ sơ vụ án cho VKS cùng cấp sau khi thụ lý vụ án,
đồng thời quy định rõ thời hạn VKS phải trả lại hồ sơ cho Tòa án, cụ thể
28
trong thời hạn 15 ngày đối với VKSND cấp tỉnh và VKS quân sự cấp quân
khu, 20 ngày đối với VKSND cấp cao, VKS quân sự trung ương kể từ ngày
nhận được hồ sơ vụ án. Trường hợp vụ án thuộc loại tội đặc biệt nghiêm
trọng, phức tạp thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 25 ngày đối
với VKSND cấp tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu, 30 ngày đối với VKSND
cấp cao, VKS quân sự trung ương.
1.2.2.6. Thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị
Khi VKS đã gửi kháng nghị, Tòa án đã thụ lý ở cấp phúc thẩm, tuy
nhiên VKS nhận thấy quyết định kháng nghị chưa đầy đủ, cần bổ sung kháng
nghị, nội dung kháng nghị cần phải thay đổi cho phù hợp hay VKS nhận thấy
việc kháng nghị là không đúng quy định, không cần thiết nên cần rút kháng
nghị thì VKS sẽ thực hiện việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị.
Điều 238 LTTHS năm 2003 quy định “Viện kiểm sát có quyền bổ
sung, thay đổi kháng nghị…; rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị”. Điều
này đã dẫn đến những cách hiểu khác nhau về việc VKS cấp nào có quyền bổ
sung, thay đổi kháng nghị, rút kháng nghị? Trong trường hợp kháng nghị trên
cấp thì VKS cấp dưới có quyền bổ sung, thay đổi kháng nghị hay không?
Hoặc trong trường hợp ngược lại, VKS cấp dưới kháng nghị thì VKS cấp trên
trực tiếp có quyền bổ sung, thay đổi kháng nghị không? Đối với trường hợp
rút kháng nghị khi VKS cấp dưới kháng nghị nhưng VKS cấp trên trực tiếp có
quyền rút kháng nghị hay không và ngược lại? Trong những năm qua, nội
dung này được thực hiện theo hướng dẫn của Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP
ngày 08/12/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Quy
chế thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự ban hành kèm
theo Quyết định số 960/2007/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện trưởng
VKSND tối cao. Theo đó, Điều 37 Quy chế quy định với trường hợp bổ sung,
thay đổi, rút kháng nghị trước khi mở phiên tòa, VKS đã kháng nghị hoặc
29
VKS cấp trên trực tiếp có quyền bổ sung, thay đổi kháng nghị của mình hoặc
của VKS cấp dưới nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo; rút
một phần hoặc toàn bộ kháng nghị. Việc bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị
phải do lãnh đạo Viện quyết định bằng văn bản, có nêu rõ lý do. Tại phiên tòa
việc bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị do KSV tham gia phiên tòa quyết định,
nhưng phải có căn cứ và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Sau phiên
tòa KSV phải báo cáo ngay với lãnh đạo Viện và lãnh đạo đơn vị.
Khắc phục việc quy định chưa rõ ràng của LTTHS năm 2003,
LTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể tại Điều 342, theo đó thời điểm rút
kháng nghị của VKS có thể là trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa
phúc thẩm; thẩm quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị là của VKS ra quyết
định kháng nghị; VKS ra quyết định kháng nghị hoặc VKS cấp trên trực tiếp
có quyền rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị. Trường hợp thay đổi, bổ
sung kháng nghị khi vẫn còn thời hạn kháng nghị thì VKS đã kháng nghị có
quyền thay đổi, bổ sung nội dung bản kháng nghị đối với một phần hoặc toàn
bộ bản án, quyết định mà VKS có quyền kháng nghị theo hướng có lợi hoặc
bất lợi cho bị cáo. Nếu VKS rút kháng nghị, tuy nhiên sau đó nhận thấy việc
rút là không chính xác, có căn cứ để thực hiện việc kháng nghị lại và thời hạn
kháng nghị vẫn còn thì VKS có quyền được kháng nghị lại.
Trong trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị phúc thẩm thì trước khi
bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, VKS ra quyết định kháng nghị
vẫn có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị nhưng không được làm xấu đi tình
trạng của bị cáo. Thay đổi, bổ sung kháng nghị làm xấu đi tình trạng của bị
cáo là thay đổi, bổ sung theo hướng đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tăng hình
phạt, chuyển khung hình phạt nặng hơn; áp dụng điều luật của LHS về tội
nặng hơn; không cho bị cáo được hưởng án treo đối với bị cáo đã được Tòa
án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo; không cho bị cáo được miễn trách nhiệm
30
hình sự, miễn hình phạt đối với bị cáo đã được Tòa án cấp sơ thẩm miễn trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt, tăng mức bồi thường thiệt hại; áp dụng thêm
hình phạt bổ sung; áp dụng thêm biện pháp tư pháp đối với bị cáo...
Điều 238 LTTHS năm 2003 quy định VKS có quyền rút một phần
hoặc toàn bộ kháng nghị, tuy nhiên chỉ quy định hậu quả pháp lý trong trường
hợp VKS rút toàn bộ kháng nghị mà không quy định hậu quả pháp lý trong
trường hợp VKS rút một phần kháng nghị; chỉ đặt vấn đề đối với phần kháng
nghị bị rút trước khi mở phiên tòa thì mặc nhiên bị đình chỉ mà không quy
định rõ trong trường hợp phần kháng nghị rút lại có liên quan đến kháng nghị
khác thì sẽ giải quyết như thế nào? Điều 342 LTTHS năm 2015 quy định
một cách chặt chẽ hơn, theo đó khi VKS rút một phần kháng nghị trước khi
mở phiên tòa mà xét thấy không liên quan đến kháng nghị khác thì Hội đồng
xét xử phúc thẩm nhận định về việc rút một phần kháng nghị và quyết định
đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng nghị đó trong bản án phúc thẩm;
việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị trước khi mở phiên tòa phải được lập
thành văn bản và gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm phải
thông báo cho Viện kiểm sát, bị cáo và những người có liên quan đến kháng
nghị biết về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị. Việc thay đổi, bổ sung, rút
kháng nghị tại phiên tòa được ghi vào biên bản phiên tòa. Trường hợp VKS
rút một phần kháng nghị tại phiên tòa mà xét thấy không liên quan đến kháng
nghị khác thì Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định về việc rút một phần
kháng nghị và quyết định đình chỉ xét xử đối với phần kháng nghị đó trong
bản án phúc thẩm.
1.2.2.7. Hậu quả pháp lý của kháng nghị phúc thẩm hình sự
Hậu quả pháp lý của kháng nghị phúc thẩm được quy định tại Điều 237
LTTHS 2003, nay là Điều 339 LTTHS 2015. Điều 237 LTTHS năm
2003 đã thiếu sót khi chỉ quy định về hậu quả pháp lý của việc kháng nghị đối
31
với những phần của bản án bị kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 255 của LTTHS năm 2003 mà không
quy định về hậu quả pháp lý đối với những phần của quyết định bị kháng
nghị. Mặt khác, Điều 237 LTTHS năm 2003 quy định trong trường hợp
kháng nghị đối với toàn bộ bản án thì toàn bộ bản án chưa được đưa ra thi
hành mà không quy định trường hợp loại trừ là không đảm bảo.
Khắc phục những thiếu sót trên, Điều 339 LTTHS năm 2015 đã quy
định chặt chẽ hơn, theo đó những phần của bản án, quyết định của Tòa án bị
kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp quy định tại Điều
363 “Trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định
đình chỉ vụ án, tuyên bị cáo không có tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn
hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là hình phạt tù hoặc phạt tù
nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời
hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay,
mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị. Hình phạt cảnh cáo được thi
hành ngay tại phiên tòa”. Đồng thời, khi có kháng nghị đối với toàn bộ bản
án, quyết định thì toàn bộ bản án, quyết định chưa được đưa ra thi hành, trừ
trường hợp quy định tại Điều 363 LTTHS năm 2015. Khi giải quyết kháng
nghị phúc thẩm, có thể đưa đến kết quả Tòa án cấp phúc thẩm không chấp
nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm, sửa bản án sơ thẩm hoặc hủy
bản án sơ thẩm.
Tiểu kết Chương 1
Kháng nghị phúc thẩm hình sự là một quyền năng pháp lý quan trọng
của VKSND, xuất phát từ chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự và xuất phát từ nguyên tắc cơ bản
trong tố tụng hình sự nước ta đó là bảo đảm hai cấp xét xử. Kháng nghị phúc
thẩm không chỉ là quyền mà còn là trách nhiệm của VKS nhằm bảo vệ pháp
32
chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của
Nhà nước, của công dân.
Các quy định của pháp luật TTHS đã tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho
VKS thực hiện tốt nhiệm vụ kháng nghị phúc thẩm. Có thể thấy rằng các quy
định của pháp luật TTHS về kháng nghị phúc thẩm đã từng bước được cụ thể
hóa, đầy đủ hơn, thay đổi rõ ràng hơn, đây sẽ là cơ sở quan trọng góp phần
nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự.
Trên cơ sơ lý luận về kháng nghị phúc thẩm hình sự, tác giả trình bày
về thực trạng của công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh
Thái Nguyên trong những năm gần đây tại phần sau của luận văn.
33
Chương 2
THỰC TRẠNG KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN HAI CẤP TỈNH THÁI NGUYÊN
2.1. Khái quát thực trạng kháng nghị phúc thẩm hình sự tại tỉnh
Thái Nguyên
Trong những năm qua, VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên luôn quan
tâm, chú trọng tới công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, đặc biệt sau khi có
Chỉ thị 03/2008/CT-VKSTC-VPT1 ngày 19/6/2008 (Chỉ thị 03) và sau đó là
Chỉ thị 08/CT-VKSTC ngày 06/4/2016 của Viện trưởng VKSND tối cao (Chỉ
thị 08) về việc tiếp tục tăng cường công tác kháng nghị án hình sự thì công tác
kháng nghị phúc thẩm hình sự đã đi vào nề nếp, ban hành nhiều bản kháng
nghị có chất lượng, khắc phục được nhiều vi phạm pháp luật của Tòa án cấp
sơ thẩm, bảo đảm việc giải quyết các vụ án hình sự đúng pháp luật, nghiêm
minh, xét xử đúng người, đúng tội, không để lọt tội phạm và không làm oan
người vô tội. Qua số liệu thống kê của VKSND tỉnh Thái Nguyên từ ngày 01
tháng 12 năm 2013 đến ngày 30 tháng 11 năm 2018 cho thấy:
Theo bảng biểu số 2.1 và 2.2 thì: Số vụ án và bị cáo đưa ra xét xử sơ
thẩm là 6838 vụ/12241 bị cáo; số vụ án và bị cáo được thụ lý phúc thẩm là
1128 vụ/1846 bị cáo, trong đó số vụ án và bị cáo bị VKSND hai cấp tỉnh Thái
Nguyên kháng nghị phúc thẩm là 52 vụ/67 bị cáo. Như vậy, trung bình mỗi
năm đã xét xử sơ thẩm 1367 vụ/2448 bị cáo; thụ lý phúc thẩm là 225 vụ/369
bị cáo; ban hành 10 kháng nghị phúc thẩm; tỷ lệ giữa bị cáo có kháng nghị so
với tổng số bị cáo thụ lý phúc thẩm là 3,7% (trong đó năm 2014 là 3,5%; năm
2015 là 2,8%; năm 2016 là 4,4%; năm 2017 la 4,5%; năm 2018 là 3,1%).
Kháng nghị trên một cấp vẫn còn ít, sự phối kết hợp giữa hai cấp sơ thẩm,
phúc thẩm trong công tác kháng nghị còn hạn chế. Từ năm 2014 đến năm
34
2018, VKSND tỉnh kháng nghị đối với 29 bị cáo, chiếm tỷ lệ 43,3% trên tổng
số bị cáo do hai cấp kháng nghị.
ảng biểu số 2.3 thể hiện, trong 05 năm từ năm 2014 đến năm 2018, số
vụ án được đưa ra xét xử phúc thẩm là 538 vụ/970 bị cáo, trong đó số vụ có
kháng nghị đưa ra xét xử phúc thẩm là 46 vụ/61 bị cáo, số bị cáo kháng cáo
đưa ra xét xử là 492 vụ/909 bị cáo. Như vậy, đối với các vụ án đã đưa ra xét
xử phúc thẩm thì tỷ lệ giữa số bị cáo có kháng nghị chiếm tỷ lệ rất thấp, chỉ
6,3% so với số bị cáo đã đưa ra xét xử phúc thẩm (cụ thể: năm 2014: 5,4%;
năm 2015: 5,5%; năm 2016: 7,1%; năm 2017: 8,2%; năm 2018: 6%).
Kết quả giải quyết các vụ án có kháng nghị phúc thẩm của VKS hai cấp
tỉnh Thái Nguyên theo bảng 2.4 trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018
như sau: số vụ án và bị cáo bị VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên kháng nghị
phúc thẩm là 52 vụ/67 bị cáo; số vụ VKS rút kháng nghị: 06 vụ/06 bị cáo
(chiếm tỷ lệ 8,9%); số vụ VKS cấp tỉnh bảo vệ kháng nghị là 46 vụ/61 bị cáo,
trong đó Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận kháng nghị đối với 36 vụ/47 bị
cáo (chiếm tỷ lệ 70,1%), không chấp nhận kháng nghị đối với 10 vụ/14 bị cáo
(chiếm tỷ lệ 21%). Phần lớn các kháng nghị của VKS được cấp phúc thẩm
chấp nhận đều là kháng nghị yêu cầu khắc phục những sai sót của Tòa án cấp
sơ thẩm như: đề nghị tăng án; chuyển hình phạt từ cho hưởng án treo sang
hình phạt tù; về áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; về
xác định sai tư cách những người tham gia tố tụng; về tổng hợp hình phạt…
Theo bảng biểu số 2.5 thể hiện kết quả xét xử theo thủ tục phúc thẩm
cho thấy: tổng số bị cáo bị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy, sửa án là 586 bị
cáo trên tổng số bị cáo Tòa án đưa ra xét xử 970 bị cáo (chiếm tỷ lệ 60,4%).
Tổng số bị cáo bị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy, sửa án thông qua kháng
nghị là 47 bị cáo trên tổng số bị cáo bị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy, sửa
35
586 bị cáo (chiếm tỷ lệ 8%). Như vậy, số bị cáo bị Tòa án phúc thẩm hủy, sửa
án vẫn chủ yếu là thông qua kháng cáo.
2.2. Những kết quả đạt được trong công tác kháng nghị phúc thẩm
hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên
2.2.1. Những kết quả đạt được
Xác định được tầm quan trọng của công tác kháng nghị phúc thẩm hình
sự, VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên đã tiếp tục quán triệt, triển khai thực
hiện nghiêm túc Chỉ thị 03 và Chỉ thị 08 của Viện trưởng VKSND tối cao,
từng bước đưa công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự đi vào nề nếp và có
những chuyển biến nhất định, đa số các bản kháng nghị có bố cục chặt chẽ,
lập luận rõ ràng, viện dẫn căn cứ pháp lý chính xác, tính tranh tụng trong
kháng nghị đã được nâng lên. Hình thức kháng nghị tuân thủ đúng mẫu kháng
nghị của Ngành, thể thức văn bản và thời hạn kháng nghị đảm bảo theo quy
định của pháp luật. Do vậy tỷ lệ kháng nghị được Viện kiểm sát cấp trên bảo
vệ cũng cao hơn, tỷ lệ kháng nghị được tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận cũng
cao hơn, công tác kháng nghị đã khắc phục những thiếu sót của Tòa án trong
việc quyết định hình phạt ở nhiều vụ án, góp phần đấu tranh kiên quyết và có
hiệu quả đối với các loại tội phạm.
Phần lớn kháng nghị của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên là đề nghị
tăng án; chuyển hình phạt từ cho hưởng án treo sang hình phạt tù; về áp dụng
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; về xác định sai tư cách
những người tham gia tố tụng; về tổng hợp hình phạt…
Các quyết định kháng nghị của VKS thường tập trung vào các sai phạm
sau của Tòa án:
a) Kháng nghị do xác định sai tư cách người tham gia tố tụng
Ví dụ: vụ án Trần Quang Luyến phạm tội “Vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ” bị Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ
36
áp dụng điểm c khoản 2 Điều 202 BLHS 1999 xử phạt 03 năm tù. Ngày
06/5/2015, VKSND huyện Đồng Hỷ kháng nghị, đề nghị hủy án sơ thẩm để
xét xử lại do xác định sai tư cách người tham gia tố tụng.
Bản án phúc thẩm số 109/2015/HSPT ngày 30/6/2015 của TAND tỉnh
Thái Nguyên đã tuyên chấp nhận kháng nghị, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số
32/2015/HSST ngày 23/4/2015 của TAND huyện Đồng Hỷ để giải quyết lại
theo thủ tục chung.
Cụ thể, trong vụ án này, chiếc xe ô tô mà bị cáo Trần Quang Luyến
điều khiển gây tai nạn thuộc sở hữu của Công ty TNHH Thắng Lá, bị cáo là
người lái thuê và hưởng lương theo hợp đồng lao động. Tòa án cấp sơ thẩm
đã xác định công ty TNHH Thắng Lá tham gia tố tụng với tư cách nguyên
đơn dân sự. Tuy nhiên, theo quy định của Điều 623 ộ luật dân sự và Nghị
quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán TAND
tối cao hướng dẫn thì trong vụ án này, công ty TNHH Thắng Lá phải có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Căn cứ Điều 53 LTTHS 2003
thì phải xác định công ty TNHH Thắng Lá là bị đơn dân sự.
Tuy nhiên việc Tòa án cấp sơ thẩm chưa nghiên cứu đầy đủ các quy
định của pháp luật, dẫn đến xác định công ty TNHH Thắng Lá tham gia tố
tụng với tư cách nguyên đơn dân sự là không chính xác, sai tư cách người
tham gia tố tụng. Vấn đề này dẫn đến sai lầm trong việc giải quyết đúng đắn
vụ án, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của những người tham gia tố tụng và vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Vì vậy, việc VKS cấp sơ thẩm kháng nghị
đối với bản án trên là hoàn toàn chính xác và cần thiết, nhằm đảm bảo vụ án
được giải quyết đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những
người tham gia tố tụng.
b) Kháng nghị do mức hình phạt không tương xứng với tính chất, mức
độ của hành vi phạm tội.
37
* Vụ án Lê Quang Lâm, phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”
( ản án hình sự phúc thẩm số 170/2015/HSPT ngày 23/10/2015).
Nội dung vụ án: hồi 17h30’ ngày 08/4/2015, tổ công tác Công an huyện
Phú Lương nhận được tin báo tại nhà Lê Quang Lâm đang có biểu hiện mua
bán trái phép chất ma túy. Khi thấy tổ công tác đến Lâm dùng tay phải lấy 01
gói ni lon màu hồng từ trong túi quần đang mặc ra ném vào gầm ghế. Công an
phát hiện lập biên bản thu giữ, kiểm tra bên trong túi ni lon có một số cục chất
bột màu trắng, theo Lâm khai là heroin mua về để sử dụng và bán kiếm lời
nhưng chưa kịp bán thì bị phát hiện thu giữ. Qua cân tịnh túi ni lon có trọng
lượng 17,30 gam. Qua giám định chất bột màu trắng thu giữ của Lâm là
heroin có hàm lượng 67,6%. Như vậy, số lượng heroin thu giữ của Lâm là
17,30g x 67,6% = 11,6948 gam. Tòa án sơ thẩm tuyên phạt bị cáo Lê Quang
Lâm 08 năm tù, phạt bổ sung 05 triệu đồng.
ản án sơ thẩm số 61/2015/HSST ngày 18/8/2015 của TAND huyện
Phú Lương áp dụng điểm h, khoản 2, khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1,
khoản 2 Điều 46 LHS 1999 xử phạt 08 năm tù, phạt bổ sung 05 triệu đồng.
VKSND huyện Phú Lương kháng nghị đề nghị tăng mức hình phạt đối với bị
cáo Lâm. Tòa án phúc thẩm chấp nhận toàn bộ kháng nghị của VKSND
huyện Phú Lương, sửa bản án sơ thẩm, tăng mức hình phạt đối với Lê Quang
Lâm lên 11 năm tù, phạt bổ sung 07 triệu đồng sung quỹ nhà nước.
Đối với vụ án này, có thể thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã
hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, là nguồn gốc làm phát sinh nhiều tệ
nạn khác. ị cáo bị bắt với số lượng ma túy là 17,3 gam, hàm lượng 67,6%.
Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo mức án 8 năm tù, phạt bổ sung 5 triệu đồng là
nhẹ, chưa tương xứng với hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra, chưa đảm bảo
tính răn đe và phòng ngừa chung trong công tác đấu tranh chống tội phạm đặc
38
biệt là tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Do đó, Tòa án cấp
phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của VKS là có căn cứ.
* Vụ án Dương Xuân Phong cùng đồng bọn, phạm tội “Đánh bạc” ( ản
án hình sự phúc thẩm số 144/2017/HSPT ngày 25/9/2017).
Nội dung vụ án: Khoảng từ 19 giờ đến 22 giờ 10 phút ngày 12/01/2017,
Tô Hồng Diện đã cho hai chiếu bạc đánh bạc tại nhà mình được hưởng lời số
tiền là 80.000đ. Khi các đối tượng bao gồm Dương Xuân Phong cùng đồng
bọn đang đánh bạc bằng hình thức chơi xóc đĩa thì bị Cơ quan Công an thành
phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang thu giữ số tiền trên
chiếu bạc là 9.900.000đ cùng một số vật chứng. ản án hình sự sơ thẩm số
40/2017/HSST ngày 12/7/2017 của TAND thành phố Sông Công đã áp dụng
khoản 1 Điều 248; điểm p, khoản 1 và khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều
48 LHS 1999 xử phạt bị cáo Dương Xuân Phong 04 tháng tù. VKSND
thành phố Sông Công đã kháng nghị đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo
Phong. Kết quả, Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của VKSND
thành phố Sông Công, tuyên phạt bị cáo Phong 09 tháng tù.
Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, là
nguyên nhân gây ra nhiều loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội và
bức xúc trong quần chúng nhân dân. Đây là vụ đánh bạc có nhiều người tham
gia, bị cáo Phong là người trực tiếp chuẩn bị dụng cụ và là người trực tiếp xóc
cái, nhân thân Dương Xuân Phong đã có tiền án chưa được xóa án tích, đi cải
tạo về không có ý thức tu dưỡng mà tiếp tục lao sâu vào con đường phạm tội,
thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị
cáo 04 tháng tù là chưa đánh giá hết tính chất vụ án cũng như vai trò, nhân
thân của bị cáo, chưa đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Do đó, việc
Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của VKS, tăng mức hình phạt
đối với bị cáo Phong là hoàn toàn phù hợp với hành vi phạm tội do bị cáo gây ra.
39
* Vụ án Ma Tiến Xướng, phạm tội “Cố ý gây thương tích” ( ản án
hình sự phúc thẩm số 168/2016/HSPT ngày 22/10/2016).
Nội dung vụ án: khoảng 16h30’ ngày 11/12/2015, Ma Tiến Xướng
đang đứng trông quán bán hàng rau của chị Ma Thị Cảnh thì thấy Đào Văn
Phú ở cùng thôn đang nói chuyện với mọi ngươi. Do bực tức việc trước đó bị
anh Yên (em của anh Phú) bẻ gẫy ngón tay nên khi nhìn thấy anh Phú, Xướng
đã mượn con dao bài của chị Cảnh đuổi theo anh Phú rồi cầm dao ở tay trái
chém một nhát vào cổ tay trái, một nhát vào trán, một nhát vào ngang cánh
mũi phải kéo dài đứt đoạn xuống má phải và một nhát vào vùng chẩm gây
thương tích cho anh Phú với tỷ lệ 16%. ản án sơ thẩm số 41/2016/HSST
ngày 27/7/2016 của TAND huyện Định Hóa áp dụng khoản 2 Điều 104; điểm
b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 60 LHS xử phạt bị cáo Xướng 24
tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng. VKSND tỉnh kháng
nghị với nội dung cho rằng bị cáo phạm tội có tính chất côn đồ, do đó đề nghị
không cho bị cáo hưởng án treo, chuyển hình phạt 24 tháng tù cho hưởng án
treo sang thành 24 tháng tù giam. Kết quả, kháng nghị được Tòa án phúc
thẩm chấp nhận.
Trong vụ án này, giữa bị cáo và người bị hại không có mâu thuẫn gì, bị
cáo chỉ có mâu thuẫn với em của anh Phú, nhưng khi thấy anh Phú bị cáo đã
cầm dao đuổi theo, hung hăng chém tới tấp nhiều nhát vào vùng mặt, đầu của
anh Phú khiến anh Phú bị thương với tỷ lệ thương tích 16%. Điều này cho
thấy ngoài tình tiết định khung hình phạt dùng hung khí nguy hiểm, bị cáo
còn phải chịu tình tiết định khung phạm tội có tính chất côn đồ quy định tại
điểm i, khoản 1 Điều 104 LHS. Tòa án sơ thẩm đã không đánh giá đúng tính
chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cũng như không xem xét chính
xác các điều kiện để bị cáo được hưởng án treo, nên việc xử phạt bị cáo 24
tháng tù cho hưởng án treo là chưa đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo cũng
40
như chưa đảm bảo tính đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung, nhất là trong
tình hình hiện nay loại tội phạm này ngày càng gia tăng thì việc xét xử
nghiêm khắc là hết sức cần thiết.
* Vụ án Trần Văn Tú, Lê Thị Tuyết Nhung, phạm tội “Tổ chức đánh
bạc” và “Đánh bạc” ( ản án hình sự phúc thẩm số 44/2017/HSPT ngày
31/3/2017).
Nội dung vụ án: trong khoảng thời gian từ 13 giờ 30 phút đến 15 giờ
ngày 22/12/2015, tại đồi cây keo thuộc thôn Đồng Đình, xã ình Thành,
huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, Trần Văn Tú đã có hành vi tổ chức đánh
bạc. Dụng cụ Tú chuẩn bị gồm 02 bạt dứa hình chữ nhật, 02 thảm nỉ hình chữ
nhật, 01 con dao bài dài khoảng 27cm, 01 thanh tre dài khoảng 15cm, 02
chiếc bát sứ, 01 chiếc đĩa sứ, 04 quân bài vị bằng nan tre một mặt đen, một
mặt trắng và nhiều dụng cụ khác. Tú là người trực tiếp đứng ra thu tiền “Hồ
Lỳ”, các con bạc khi tham gia đánh bạc phải nộp 200.000đ tiền “hồ lỳ” cho
Tú. Tham gia đánh bạc còn có Lê Thị Tuyết Nhung cùng nhiều đối tượng
khác. Tổng số tiền sử dụng để đánh bạc thu giữ được là 22.320.000đ (hai
mươi hai triệu, ba trăm hai mươi nghìn đồng).
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 51/2016/HSST ngày 09/12/2016, TAND
huyện Định Hóa áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 248; điểm p khoản 1, khoản
2 Điều 46; Điều 53; Điều 60 LHS xử phạt Lê Thị Tuyết Nhung 10 tháng tù
cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 tháng; phạt tiền bổ sung 4.000.00đ
sung quỹ Nhà nước.
Ngày 06/01/2017, VKSND tỉnh Thái Nguyên ban hành kháng nghị đối
với một phần bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Lê Thị Tuyết Nhung
theo hướng không cho bị cáo được hưởng án treo bởi bị cáo Nhung đã có một
án tích. Cụ thể, tại bản án hình sự sơ thẩm số 95/2014/HSST, ngày
01/10/2014, TAND huyện Phú ình xử phạt Lê Thị Tuyết Nhung 06 tháng
41
cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”, số tiền thu giữ tạo chiếu bạc của vụ
án là 4.530.000đ, tại thời điểm xét xử năm 2014, hành vi của bị cáo đủ yếu tố
cấu thành tội phạm. Tuy nhiên theo quy định tại khoản 4 Điều 1 Nghị quyết
số 144/2016/QH13 ngay 29/6/2016 của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam;
điểm d khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13, ngày 27/11/2015 của
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam; Nghị quyết số 01/2016/NQ-HĐTP ngày
30/6/2016 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao; khoản 3 Điều 7 LHS
2015. Kể từ ngày LHS năm 2015 được công bố, đã có sự thay đổi chính
sách hình sự, bổ sung các yếu tố cấu thành của tội danh “Đánh bạc” theo
hướng có lợi cho bị cáo, nên án tích “đánh bạc” của bị cáo xét xử năm 2014
được coi là đương nhiên xóa án tích nên bị cáo được xác định là người chưa
có tiền án. Tuy nhiên, bị cáo đã bị xét xử một lần về tội danh “Đánh bạc”
nhưng không lấy đó làm bài học rút kinh nghiệm, lại tiếp tục thực hiện hành
vi “đánh bạc”, cho thấy ý thức coi thường pháp luật. Do đó bị cáo được xác
định là người có nhân thân không tốt và không đủ điều kiện để được hưởng án
treo. Việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo Nhung 10 tháng tù cho hưởng
án treo là chưa đảm bảo thực hiện đúng các quy định của pháp luật về điều
kiện hưởng án treo. Vì vậy, tòa án cấp phúc thẩm nhận định kháng nghị của
VKSND tỉnh Thái Nguyên là cần thiết và đúng quy định của pháp luật nên đã
chấp nhận kháng nghị, tuyên phạt bị cáo Lê Thị Tuyết Nhung 10 tháng tù giam.
c) Kháng nghị do áp dụng tình tiết giảm nhẹ không chính xác
Ví dụ: Vụ án Đào Văn ộ, phạm tội “Đánh bạc” ( ản án hình sự phúc
thẩm số 206/2014/HSPT ngày 28/8/2014).
Nội dung vụ án: trong thời gian từ ngày 18/10/2013 đến ngày
12/11/2013, Đào Văn ộ đã nhiều lần đánh bạc dưới hình thức ghi số lô, số
đề cho nhiều người tại nhà riêng của mình. Đến khoảng 17 giờ 50 phút ngày
12/11/2013, trong khi ộ đang đánh bạc dưới hình thức ghi số đề cho Đào
42
Văn Trung thì bị bắt quả tang, thu giữ cáp đề, bảng đề và 10.000đ cùng những
vật chứng có liên quan. Qua điều tra, xác minh thì tổng số tiền ộ dùng để
đánh bạc 20 lần là 62.148.000đ. Với hành vi trên, tại bản án hình sự sơ thẩm
số 38/2014/HSST ngày 16/5/2014, TAND huyện Phú ình đã áp dụng khoản
1 Điều 248; điểm b, h, p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 60
LHS xử phạt Đào Văn ộ 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
Ngày 10/6/2014, VKSND tỉnh Thái Nguyên có Quyết định số 02/QĐ-
KNPT kháng nghị một phần bản án số 38 ngày 16/5/2014 của TAND huyện
Phú ình, đề nghị TAND tỉnh Thái Nguyên xét xử vụ án theo thủ tục phúc
thẩm theo hướng không cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm
b, h khoản 1 Điều 46 LHS và không cho bị cáo hưởng án treo. Áp dụng
khoản 3 Điều 248 phạt bổ sung bị cáo 5.000.000đ sung quỹ Nhà nước, bị cáo
đã nộp 3.200.000đ, nay còn phải nộp tiếp 2.800.000đ.
Theo nội dung vụ án này, thực tế bản án chưa tuyên, chưa biết có quyết
định về việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo hay không mà bị cáo đã
nộp khoản tiền phạt bổ sung và tiền án phí hình sự sơ thẩm nên không thể coi
đây là tình tiết tự nguyện khắc phục hậu quả quy định tại điểm b, khoản 1
Điều 46 LHS. Mặt khác, bị cáo phạm tội nhiều lần (20 lần) từ ngày
18/10/2013 đến ngày 12/11/2013, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết
giảm nhẹ phạm tội lần đầu quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 46 LHS là
không chính xác. Trong vụ án này số tiền bị cáo dùng để đánh bạc là lớn và bị
cáo phải chịu một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội nhiều
lần quy định tại điểm g, khoản 1 Điều 48 LHS. Như vậy bị cáo chỉ còn một
tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo quy định tại điểm p, khoản 1 Điều
46 BLHS. Theo hướng dẫn tại điểm d, khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số
01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao
hướng dẫn áp dụng Điều 60 LHS về án treo thì bị cáo không đủ điều kiện để
43
hưởng án treo. Việc Tòa án cấp sơ thẩm cho bị cáo ộ hưởng án treo là không
phù hợp với quy định của pháp luật, đồng thời không đánh giá đúng tính chất
và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cũng như chưa đảm bảo tác dụng đấu
tranh phòng ngừa tội phạm và trật tự trị an của địa phương. Tuy nhiên xét
thấy bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo, nếu
chuyển 18 tháng tù cho hưởng án treo sang hình phạt tù giam đối với bị cáo là
có phần hơi nghiêm khắc, không công bằng giữa các vụ án về cùng loại tội.
Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm đã tuyên chấp nhận kháng nghị của
VKSND tỉnh Thái Nguyên, áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm p khoản 1 Điều
46; điểm g khoản 1 Điều 48 LHS xử phạt Đào Văn ộ 09 tháng tù.
d) Kháng nghị do tổng hợp hình phạt không đúng
Vụ án Vũ Văn Vinh, phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” (bản
án hình sự phúc thẩm số 96/2016/HSPT ngày 28/7/2016)
Nội dung vụ án: khoảng 10 giờ 15 phút ngày 27/8/2015, khi kiểm tra
phạm nhân đi lao động về tại Phân trại 6, Trại giam Phú Sơn 4, Tổng cục
VIII, ộ Công an đóng trên địa bàn huyện Phú Lương, cán bộ quản giáo phát
hiện bắt quả tang Vũ Văn Vinh đang có hành vi cất giấu trong hậu môn 01 gói
nilon Heroin có trọng lượng là 1,05534g. Vinh khai số ma túy đo do phạm
nhân Nguyễn Tuấn Anh nhờ Vinh vận chuyển giúp vào trong Trại giam. ị
cáo Vinh có 4 tiền án chưa được xóa án tích, phạm tội lần này thuộc trường
hợp tái phạm nguy hiểm.
ản án hình sự sơ thẩm số 32 ngày 05/05/2016, TAND huyện Phú
Lương áp dụng điểm p, khoản 2 Điều 194; điểm p, khoản 1 Điều 46 LHS xử
phạt Vũ Văn Vinh 08 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Áp
dụng Điều 51 LHS, tổng hợp hình phạt 48 tháng tù theo bản án số
36/2015/HSST ngày 06/4/2015 của TAND thị xã ắc Kạn, tỉnh ắc Kạn đối
44
với bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung
là 12 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/12/2014.
Ngày 19/5/2016, VKSND huyện Phú Lương kháng nghị đối với bản án
trên về phần tổng hợp hình phạt của bản án và được Tòa án phúc thẩm chấp
nhận kháng nghị, sửa bản án sơ thẩm, buộc bị cáo Vũ Văn Vinh chấp hành
hình phạt chung là 11 năm 3 tháng 18 ngày, thời hạn tù tính từ ngày 27/8/2015.
Cụ thể, khi tổng hợp hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng đúng theo
quy định tại khoản 2 Điều 51 LHS, đó là “khi xét xử một người đang chấp
hành một bản án mà lại phạm tội mới, tòa án quyết định hình phạt đối với tội
mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi
quyết định hình phạt chung”. Việc Tòa án cấp sơ thẩm khi quyết định hình
phạt lại tổng hợp cả phần bị cáo đã chấp hành của bản án số 36 ngày
06/4/2015 là không đúng. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã chấp nhận
kháng nghị của VKSND huyện Phú Lương,
đ) Kháng nghị do hình phạt đã tuyên thấp hơn mức tối thiểu của hình
phạt tù có thời hạn
Vụ án Nguyễn Khắc Cường phạm tội “Đánh bạc” (bản án hình sự phúc
thẩm số 237/2014/HSPT ngày 26/9/2014)
ản án hình sự sơ thẩm số 26 ngày 16/7/2014 của TAND thị xã Sông
Công đã áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46;
Điều 47; Điều 53 LHS, xử phạt Nguyễn Khắc Cường 02 tháng tù về tội
“Đánh bạc”. Ngày 30/7/2014, VKSND thị xã Sông Công kháng nghị đối với
bản án trên và được Tòa án phúc thẩm chấp nhận kháng nghị, sửa bản án sơ
thẩm, xử phạt Nguyễn Khắc Cường 03 tháng tù.
Đối với vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo Cường
mức hình phạt là 02 tháng tù, thấp hơn mức tối thiểu của loại hình phạt tù có
thời hạn. ởi theo quy định tại Điều 33 LHS thì “... Tù có thời hạn đối với
45
người phạm tội có mức tối thiểu là 03 tháng”. Vì vậy, việc VKSND thị xã
Sông Công kháng nghị đề nghị Tòa án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm về phần
hình phạt đối với bị cáo Cường là hoàn toàn chính xác và cần thiết, đảm bảo
cho các quy định của pháp luật hình sự được áp dụng thống nhất.
2.2.2. Nguyên nhân của những kết quả đạt được
VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên đã quan tâm coi trọng công tác
kháng nghị phúc thẩm, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của
công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp tại địa phương.
Trên cơ sở chương trình, kế hoạch công tác hàng năm của VKSND tối cao,
VKSND tỉnh Thái Nguyên đã đề ra chỉ tiêu công tác của mình, trong đó có
chỉ tiêu cụ thể về công tác kháng nghị.
Xác định kháng nghị phúc thẩm là một quyền năng pháp lý được quy
định trong LTTHS, được thực hiện xuyên suốt bắt đầu từ giai đoạn kiểm sát
hoạt động điều tra, thực hành quyền công tố, bảo vệ cáo trạng, bảo vệ quan
điểm truy tố đến hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong
việc ban hành quyết định, bản án. Do đó, trong mọi hoạt động tố tụng, các
đồng chí Lãnh đạo, KSV luôn chủ động theo sát quá trình giải quyết vụ án,
trên cơ sở quy định pháp luật kịp thời phát hiện những vi phạm của Tòa án để
ban hành kháng nghị đảm bảo có căn cứ, đúng pháp luật, phù hợp với chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của KSV từng bước được nâng lên.
ên cạnh việc làm tốt công tác thực hành quyền công tố, KSV được phân
công giải quyết vụ án đã nghiên cứu kỹ bản án cả về hình thức và nội dung, từ
đó kịp thời phát hiện vi phạm để đề xuất hướng xử lý đến lãnh đạo Viện xem
xét tiến hành kháng nghị phúc thẩm. Tỷ lệ kháng nghị được chấp nhận ngày
một tăng, thể hiện chất lượng kháng nghị ngày càng được nâng lên. Điều này
là do kháng nghị có nội dung lập luận rõ ràng, chặt chẽ, viện dẫn căn cứ pháp
46
luật chính xác, đánh giá đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội.
Hình thức kháng nghị tuân thủ đúng mẫu kháng nghị của Ngành, thể thức văn
bản và thời hạn kháng nghị đảm bảo theo quy định của pháp luật.
Công tác phối hợp giữa VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên thông qua
công tác gửi bản án và phiếu kiểm sát bản án, quyết định sơ thẩm cho VKS
cấp trên đảm bảo đúng quy định; VKSND cấp huyện thường xuyên có sự trao
đổi, tham khảo ý kiến của các phòng nghiệp vụ về việc kháng nghị phúc thẩm
hay đề nghị VKSND cấp tỉnh kháng nghị phúc thẩm trên cấp. Các đơn vị
VKSND cấp huyện ngày càng chú trọng công tác kiểm sát sau phiên tòa; việc
tiếp nhận bản án sơ thẩm; việc theo dõi việc gửi bản án, quyết định sơ thẩm
của Tòa án được các đơn vị thực hiện nghiêm túc; có những giải pháp đôn
đốc việc gửi bản án của Tòa án như quy định trong các quy chế phối hợp liên
ngành, ban hành kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm thời hạn gửi bản án…
để đảm bảo việc Tòa án sao gửi bản án, quyết định cho VKS đúng thời hạn
luật định.
VKSND cấp trên dần chú trọng đến công tác rút kinh nghiệm đối với
VKSND cấp dưới về kháng nghị phúc thẩm hình sự. Trước và sau mỗi đợt xét
xử, VKS cấp phúc thẩm đều có thông báo kết quả xét xử và trao đổi với VKS
cấp sơ thẩm về những sai sót trong kháng nghị phúc thẩm. VKS cấp phúc
thẩm tăng cường ban hành các thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ, đặc biệt
là đối với những vụ án bị Tòa án cấp trên hủy án để điều tra, truy tố, xét xử lại
mà KSV không kịp thời phát hiện ra vi phạm để ban hành kháng nghị.
2.3. Những tồn tại, hạn chế trong công tác kháng nghị phúc thẩm
hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên
2.3.1. Những tồn tại, hạn chế
47
ên cạnh những kết quả đã đạt được nêu trên, công tác kháng nghị
phúc thẩm hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên vẫn còn có tồn tại,
hạn chế cần được khắc phục trong thời gian tới, đó là:
Thứ nhất, số lượng án kháng nghị chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số án cấp
phúc thẩm thụ lý, xét xử (trong khi đó số lượng án qua xét xử phúc thẩm bị
hủy, sửa do có kháng cáo chiếm tỷ lệ cao).
Thứ hai, trong những năm qua có 03 đơn vị VKSND cấp huyện không
ban hành kháng nghị phúc thẩm trong khi vẫn có án bị cấp phúc thẩm xét xử
hủy, sửa án thông qua kháng cáo.
Thứ ba, một số vụ án cấp sơ thẩm đã có vi phạm nghiêm trọng trong
việc áp dụng pháp luật, vi phạm thủ tục tố tụng hình sự nhưng trong quá trình
kiểm sát xét xử, VKS cấp sơ thẩm đã không xem xét để kháng nghị, dẫn đến
cấp phúc thẩm phải hủy án, sửa án. Việc phát hiện ra vi phạm của cấp sơ thẩm
lại được thực hiện thông qua việc kháng cáo của bị cáo. Điều này cho thấy
công tác kiểm sát bản án chưa được thực hiện tốt, còn nhiều hạn chế; tinh
thần trách nhiệm của cán bộ, KSV cấp sơ thẩm còn chưa cao, chưa tập trung
nghiên cứu bản án nên không phát hiện được vi phạm để ban hành kháng
nghị. Điển hình như:
* ản án hình sự phúc thẩm số 60/2014/HSPT ngày 27/4/2014 của
TAND tỉnh quyết định hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số 109/HSST ngày
19/12/2013 của TAND huyện Phú Lương để giải quyết lại theo thủ tục chung,
bởi tại phiên tòa phúc thẩm Hội đồng xét xử xét thấy: bị cáo Khổng Văn Long
là người được Doanh nghiệp tư nhân Hữu Thành thuê lái xe ô tô tải KS
20C-047.08 (chiếc xe này là của Doanh nghiệp tư nhân Hữu Thành). Ngày
13/7/2013, Long điều khiển xe ô tô trên lấn đường của xe ô tô khách KS
20B-001.28 do anh Trần Văn Kiên điều khiển đi ngược chiều gây tai nạn.
Hậu quả: 02 xe bị hư hỏng, anh Kiên, chị Nguyễn Thị Ngọc Vân và anh
48
Trương Văn Eng bị thương tích với tỷ lệ thương tật lần lượt là 46%, 17%,
1%. Ngày 19/12/2013, TAND huyện Phú Lương đã đưa vụ án ra xét xử tuyên
bố bị cáo Khổng Văn Long phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 2 Điều 202 LHS. Sau khi xét
xử sơ thẩm, bị cáo không kháng cáo, hai người bị hại (theo án sơ thẩm xác
định) là anh Trần Văn Kiên và anh Lương Hồng ắc kháng cáo đề nghị tăng
mức bồi thường.
Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: chiếc ô tô khách KS 20 -
001.28 là của Công ty Cổ phần Vận tải Thái Nguyên và được giao cho anh
Lương Hồng ắc trực tiếp lái xe. Như vậy anh ắc chỉ là người được công ty
giao xe cho để lái và quản lý chứ không phải là chủ sở hữu. Đồng thời, tại
thời điểm xảy ra tai nạn anh ắc không phải là người điều khiển xe và cũng
không bị thương tích hay thiệt hại tài sản gì. Tòa án cấp sơ thẩm xác định anh
ắc là người bị hại, Công ty Cổ phần Vận tải Thái Nguyên và Doanh nghiệp
tư nhân Hữu Thành là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là không chính
xác, không phù hợp quy định tại Điều 51, Điều 54 LTTHS. Trong vụ án này
phải xác định Công ty Cổ phần Vận tải Thái Nguyên là nguyên đơn dân sự,
Doanh nghiệp tư nhân Hữu Thành là bị đơn dân sự. Việc xác định sai tư cách
những người tham gia tố tụng như trên là sai sót nghiêm trọng về thủ tục tố
tụng, ảnh hưởng đến quyền lợi cũng như quyền kháng cáo của họ và không
thể khắc phục được tại phiên tòa phúc thẩm. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc
thẩm đã tuyên hủy toàn bộ bản án của Tòa án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại.
* ản án hình sự phúc thẩm số 189/2016/HSPT ngày 27/11/2016 của
TAND tỉnh quyết định hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số 65/2016/HSST
ngày 21/8/2016 của TAND huyện Đại Từ đối với bị cáo Nguyễn Văn Sự
phạm tội “Cướp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 133 LHS để điều
tra, xét xử lại, bởi tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử xét thấy: tại bút
49
lục số 88 của hồ sơ vụ án là bệnh án của bị cáo Sự có thể hiện bị cáo chẩn
đoán bị đau đầu chưa rõ nguyên nhân. Tại bút lục số 79 là văn bản của U ND
xã Phú Lạc, huyện Đại Từ có đầy đủ chữ ký của các tổ chức xã hội, có xác
nhận của Chủ tịch và Trưởng công an xã đều xác nhận bị cáo bị bệnh tật, thần
kinh không được tỉnh táo. Đặc biệt tại biên bản phiên tòa ở cấp sơ thẩm bị cáo
cũng không khai báo được chỉ có Chủ tọa công bố lời khai. Tại phiên tòa
phúc thẩm bị cáo khai báo rất khó khăn thể hiện không minh mẫn trong
những lời khai của mình. Như vậy có nhiều biểu hiện bị cáo có tâm thần kinh
không bình thường nhưng cấp sơ thẩm không trưng cầu giám định là vi phạm
Điều 155 LTTHS. Do đó Tòa án cấp phúc thẩm đã tuyên hủy toàn bộ bản án
sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục chung.
Thứ tư, số bị cáo VKS cấp phúc thẩm rút kháng nghị và Tòa án cấp
phúc thẩm bác kháng nghị chiếm tỷ lệ khá cao.Trong tổng số 67 bị cáo bị
Viện kiểm sát cấp huyện và VKSND tỉnh kháng nghị, số bị cáo bị rút kháng
nghị là 06 bị cáo, chiếm 8,9%, bác kháng nghị là 14 bị cáo, chiếm 21%; số bị
cáo được chấp nhận kháng nghị là 47 bị cáo, chiếm 70,1%. Điển hình như:
* Vụ Lê Trung Kiên, phạm tội “Hiếp dâm” (bản án hình sự phúc thẩm
số 05/2018/HSPT ngày 18/01/2018)
Nội dung vụ án: khoảng 22 giờ 30 phút ngày 16/4/2017, tại Trụ sở
Trạm y tế xã Ôn Lương, huyện Phú Lương, bị cáo Kiên lợi dụng khoảng thời
gian là ban đêm, ít người qua lại, chỉ có một mình chị Triệu Thị Phương trực
ở trạm y tế, Kiên đã có hành vi dùng vũ lực để khống chế và giao cấu trái với
ý muốn của chị Phương. Khi chị Phương nói mình bị bệnh lây nhiễm qua
đường tình dục bị cáo vẫn không dừng lại mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm
tội tới cùng. ản án hình sự sơ thẩm số 93/2017/HSST ngày 27/10/2017,
TAND huyện Phú Lương đã tuyên bố bị cáo Lê Trung Kiên phạm tội “Hiếp
50
dâm” theo khoản 1 Điều 111 LHS, xử phạt bị cáo Kiên 30 tháng tù giam và
bồi thường cho chị Phương số tiền 23.000.000đ.
Ngày 09/11/2017, VKSND huyện Phú Lương kháng nghị đối với bản
án trên theo hướng Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng pháp luật về bồi thường danh
dự nhân phẩm không đúng, đề nghị sửa án giảm mức bồi thường.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo và gia đình bị cáo đã tự nguyện nộp số
tiền 23.000.000đ và 400.000đ tiền án phí dân sự tại Chi cục Thi hành án
huyện Phú Lương, thể hiện tại biên lai thu tiền số 0004334 ngày 08/01/2018,
tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị hại như bản án sơ thẩm
đã tuyên. Đây là sự tự nguyện không trái đạo đức xã hội, phù hợp quy định
của pháp luật và có lợi cho người bị hại. Xét thấy kháng nghị của VKSND
huyện Phú Lương là không cần thiết nên VKSND tỉnh đã rút kháng nghị của
VKSND huyện Phú Lương và được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.
*Vụ Đinh Thái Hà, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và
“Trộm cắp tài sản” (bản án hình sự phúc thẩm số 77/2015/HSPT ngày
29/5/2015).
Nội dung vụ án: Vào lúc 8 giờ ngày 08/8/2014, tại khu vực tổ 2,
phường Tân Thịnh, TP Thái Nguyên, tổ công tác công an phường Tân Thịnh
bắt quả tang Đinh Thái Hà có hành vi tàng trữ 0,35 gam chế phẩm heroin có
hàm lượng 54,3%. Hà khai heroin là Hà mua để sử dụng cho bản thân vì Hà
nghiện ma túy. Ngoài ra còn thu giữ một số tài sản gồm: 01 điện thoại di động
hiệu Samsung màu đen, 01điện thoại di động Qmobile màu đỏ; 01 điện thoại
Masstel, 01 xe máy nhãn hiệu Dream, 01 đồng hồ Omega, 01 đồng hồ
Movado, 29 chìa khóa các loại và 1.600.000đ. Quá trình điều tra xác định,
khoảng 9 giờ ngày 07/8/2014, Đinh Thái Hà có hành vi trộm cắp của chị
Lương Thị Thu Hồng 01 chiếc máy tính xách tay hiệu Acer trị giá
5.500.000đ. ản án số 66/2015/HSST ngày 16/3/2015, TAND thành phố Thái
51
Nguyên đã xử phạt Đinh Thái Hà 36 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma
túy và 15 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt là 51 tháng tù.
Về vật chứng: tạm giữ 03 chiếc điện thoại và 02 chiếc đồng hô để đảm bảo thi
hành án cho bị cáo.
Ngày 26/3/2015, VKSND thành phố Thái Nguyên đã kháng nghị đề
nghị sửa phần quyết định xử lý vật chứng của vụ án với nhận định: 03 chiếc
điện thoại của Đinh Thái Hà, quá trình điều tra và tại phiên tòa không xác
định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì phải tịch thu sung quỹ
Nhà nước. Việc TAND thành phố Thái Nguyên quyết định xử lý vật chứng
như trên là không đúng quy định của pháp luật.
ản án của Tòa án phúc thẩm nhận định: quá trình điều tra và tại phiên
tòa sơ thẩm, bị cáo Hà đều khai rằng 03 chiếc điện thoại là của bạn gái của bị
cáo tên là Lý Thị Mến nhờ sửa hộ vì bị cáo có nghề sửa điện thoại. Tại phiên
tòa phúc thẩm bị cáo vẫn khẳng định nội dung trên. Như vậy, 03 chiếc điện
thoại có người quản lý hợp pháp là Đinh Thái Hà chứ không thuộc trường hợp
không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp như kháng
nghị nêu. Việc xử lý vật chứng của Tòa án cấp sơ thẩm là đúng quy định pháp
luật. Vì vậy, Tòa án phúc thẩm đã không chấp nhận kháng nghị của VKSND
thành phố Thái Nguyên, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
* Vụ Võ Công Thi phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” ( ản án
hình sự phúc thẩm số 153/2016/HSPT ngày 21/11/2016)
Vào lúc 11 giờ 20 phút ngày 31/5/2016, tổ công tác Phòng cảnh sát
điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Nguyên bắt quả tang Võ Công
Thi đang đi bộ đeo một túi xách màu đen, bên trong chứa các cục tinh thể
màu trắng. Qua giám định xác định, chất tinh thể màu trắng thu giữ của Thi là
Methamphetamine, trọng lượng 49,63 gam, hàm lượng lần lượt là 9,8% và
0,3%. Số ma túy đó Thi khai mua của một người không biết rõ lai lịch, họ tên.
52
Căn cứ vào kết luận giám định về hàm lượng chất ma túy, Tòa án cấp sơ thẩm
kết luận Thi đã thực hiện hành vi mua bán trái phép 4,627 gam
Methamphetamine tinh chất và áp dụng khoản 1 Điều 194 xử phạt Võ Công
Thi 24 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy.
Ngày 05/10/2016, VKSND thành phố Sông Công kháng nghị bản án
trên, đề nghị TAND tỉnh Thái Nguyên xét xử phúc thẩm theo hướng áp dụng
điểm m, khoản 2 Điều 194 LHS và tăng hình phạt đối với Thi với nhận
định: theo Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-
BTP ngày 14/11/2015 sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số
17 ngày 24/12/2017 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XVIII
“Các tội phạm về ma túy” (sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch 08) thì chỉ có
bốn trường hợp bắt buộc phải giám định hàm lượng để xác định trọng lượng
chất ma túy. Thi có hành vi mua bán 49,63 Methamphetamine và biết rõ đó là
ma túy tổng hợp dạng đá. Tòa án cấp sơ thẩm xác định trọng lượng trên cơ sở
tỷ lệ hàm lượng ma túy để áp dụng khoản 1 Điều 194 LHS là trái với quy
định pháp luật, không phù hợp với Thông tư liên tịch số 08.
ản án của Tòa án phúc thẩm nhận định: theo quy định Điều 194
LHS thì chất ma túy là đối tượng mua bán phải được hiểu theo nghĩa
“nguyên chất” ma túy. Theo đó, trọng lượng ma túy làm căn cứ định tội hoặc
định khung hình phạt bị áp dụng phải là trọng lượng tinh chất ma túy mà bị
cáo mua bán. Tại khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch 08 quy định như sau:
“Ngoài các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d tiết 1.4 Mục này, nếu
có căn cứ và xét thấy cần thiết, Tòa án trực tiếp trưng cầu giám định để đảm
bảo việc xét xử đúng pháp luật”. Trong vụ án này, việc Tòa án cấp sơ thẩm
tiến hành trưng cầu giám định để xác định hàm lượng Methamphetamine là
đúng với quy định tại khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch 08. Theo kết quả
giám định hàm lượng Methamphetamine thì chỉ đủ căn cứ kết luận Võ Công
53
Thi mua bán tổng trọng lượng 4,627 gam Methamphetamine tinh chất và
thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 194 LHS chứ không phải điểm
m, khoản 2 Điều 194 LHS. Do đó, kháng nghị của VKSND thành phố Sông
Công là không có căn cứ, không được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận.
* Vụ Nguyễn Công Tráng, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”
(bản án hình sự phúc thẩm số 185/2018/HSPT ngày 21/11/2018)
Nội dung vụ án: hồi 13 giờ 40 phút ngày 11/6/2018, tổ công tác Công
an thị xã Phổ Yên bắt quả tang Nguyễn Công Tráng đang có hành vi tàng trữ
trái phép 01 gói ma túy loại Heroin có khối lượng 0,152 gam. Tráng khai mua
số ma túy trên của một người đàn ông không quen biết với giá 150.000đ để sử
dụng cho bản thân nhằm thỏa mãn cơn nghiện của mình.
ản án hình sự sơ thẩm số 107/2018/HSST ngày 19/9/2018, TAND thị
xã Phổ Yên áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51;
điểm h, khoản 1 Điều 52 LHS 2015, xử phạt Nguyễn Công Tráng 36 tháng
tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Ngày 02/10/2018, VKSND thị xã Phổ Yên kháng nghị đối với bản án
trên bởi lẽ: việc TAND thị xã Phổ Yên xử phạt bị cáo Tráng 36 tháng là quá
nặng, quá nghiêm khắc so với hành vi phạm tội của bị cáo vì bản thân bị cáo
là đối tượng nghiện, mục đích mua ma túy Heroin để sử dụng cho bản thân,
trọng lượng (khối lượng) ma túy chỉ 0,152 gam. Việc áp dụng hình phạt quá
cao so với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo sẽ làm ảnh
hưởng đến việc thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật và tình hình ổn định
chính trị tại địa phương.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định rằng án sơ thẩm
xử phạt bị cáo 36 tháng tù là có phần hơi nghiêm khắc, tuy nhiên do tình hình
an ninh trật tự xã hội nói chung và tình hình tội phạm ma túy ở địa bàn thị xã
Phổ Yên nói riêng diễn biến phức tạp và ngày càng gia tăng nên cần phải xử
54
lý nghiêm minh đối với các tội phạm liên quan đến ma túy mới đảm bảo tác
dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm. Vì vậy, Tòa án phúc thẩm không chấp
nhận kháng nghị của VKSND thị xã Phổ Yên, giữ nguyên hình phạt mà bản
án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo.
Thứ năm, kháng nghị trên một cấp vẫn còn ít, sự phối kết hợp giữa
VKS hai cấp trong công tác kháng nghị phúc thẩm còn có mặt hạn chế. Trong
những năm qua, VKSND tỉnh Thái Nguyên đã ban hành kháng nghị đối với
29 bị cáo, chiếm % tổng số bị cáo do VKS hai cấp tỉnh Thái Nguyên kháng
nghị, việc kháng nghị chủ yếu thông qua công tác kiểm tra bản án và phiếu
kiểm sát bản án của KSV.
Thứ sáu, các kháng nghị phúc thẩm về cơ bản đã đảm bảo theo đúng
mẫu ban hành kèm theo quyết định số 960/2007/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007
và quyết định số 505/2017/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của VKSND tối
cao. Tuy nhiên việc trình bày nội dung trong quyết định kháng nghị phúc
thẩm còn nhiều hạn chế; dùng từ ngữ thiếu chặt chẽ hoặc không đúng về mặt
pháp lý; chưa đi sâu phân tích đánh giá tính chất, mức độ hậu quả của hành vi
phạm tội cũng như xem xét, xác định những vi phạm pháp luật của bản án sơ
thẩm, vì vậy tính thuyết phục của kháng nghị chưa cao.
2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
2.3.2.1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, một số quy định của LHS vẫn còn vướng mắc, bất cập chưa
được hướng dẫn kịp thời như trong trường hợp bị cáo có tình tiết tăng nặng
phạm tội nhiều lần nhưng hậu quả do hành vi phạm tội gây ra không lớn, chưa
gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn thì sẽ áp dụng tình tiết giảm nhẹ
như thế nào… Những vấn đề này có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến việc
chuyển khung hình phạt còn mang tính tùy nghi áp dụng. Ngoài ra, khoảng
cách của khung hình phạt quá rộng, các quy định về điều kiện được hưởng án
treo, quy định về các trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất
55
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, thiệt hại lớn rất lớn… và nhiều tình tiết
định khung chưa rõ ràng nên việc áp dụng có sự khác nhau.
Thứ hai, một số khó khăn, vướng mắc trong LTTHS
Cả LTTHS năm 2003 và LTTHS năm 2015 đều chỉ quy định Viện
trưởng VKS có quyền kháng nghị phúc thẩm cùng cấp hoặc cấp trên trực tiếp
nhưng không quy định căn cứ để kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nên dẫn
đến giữa VKS và Tòa án chưa có sự thống nhất trong việc nhận xét, đánh giá
mức độ vi phạm của Tòa án sơ thẩm. Trong nhiều trường hợp, Tòa án cấp
phúc thẩm cho rằng vi phạm có mức độ hạn chế nên không chấp nhận kháng
nghị của VKS.
LTTHS quy định thời hạn cụ thể để ban hành kháng nghị phúc thẩm
quá ngắn, gây khó khăn cho VKS khi thực hiện quyền kháng nghị. Có nhiều
trường hợp VKS cấp trên trực tiếp nhận được bản án, quyết định của Tòa án
ban hành nhưng đã hết hoặc gần hết thời hạn nên không đủ thời gian để kiểm
sát bản án, quyết định của Tòa án, từ đó xem xét ban hành kháng nghị. ên
cạnh đó, LTTHS quy định thời hạn gửi bản án sơ thẩm cho VKS cùng cấp là
10 ngày trong khi thời hạn kháng nghị cùng cấp là 15 ngày mà không có chế
tài trong trường hợp Tòa án chuyển chậm bản án cho VKS cùng cấp.
LTTHS trước khi sửa đổi quy định cơ chế đảm bảo cho việc thực hiện
quyền kháng nghị chưa được cụ thể hoặc khó thực hiện, như luật không quy
định Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi bản án, quyết định sơ thẩm cho VKS cấp
trên trực tiếp mà VKS cấp trên nhận gián tiếp qua VKS cấp dưới, do đó sẽ
kéo dài thời gian trong khi thời hạn kháng nghị của VKS cấp trên trực tiếp chỉ
có 30 ngày. Nay LTTHS 2015 quy định rõ trong thời hạn 10 ngày kể từ
ngày tuyên án Toà án cấp sơ thẩm phải gửi bản án cho VKS cấp trên trực tiếp.
Các quy định về quyền hạn của cấp phúc thẩm chưa rõ ràng như quy
định Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án theo tội nặng hơn so với tội
danh mà cấp sơ thẩm đã tuyên phạt là không đảm bảo quyền bào chữa của bị
56
cáo, làm mất tính chất của xét xử phúc thẩm là xét lại nhưng trên cơ sở cấp sơ
thẩm đã xét xử.
Thứ ba, tiêu chí đánh giá chất lượng kháng nghị là lấy việc Tòa án phúc
thẩm chấp nhận hay không chấp nhận kháng nghị để làm căn cứ đánh giá là
không hợp lý. ởi vì, việc sửa án ở cấp phúc thẩm về cơ bản là do có tình tiết
mới phát sinh sau khi xét xử sơ thẩm, từ đó là căn cứ để sửa án sơ thẩm theo
hướng tăng nặng hoặc giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây không thể coi là lỗi
của cấp sơ thẩm để đòi hỏi cấp sơ thẩm cũng như cấp phúc thẩm phải phát hiện
ra để ban hành kháng nghị. Thực tế có nhiều trường hợp Tòa án cấp trên bảo vệ
cấp dưới do việc bị sửa, hủy án gắn với việc xem xét bổ nhiệm lại Thẩm phán
nên đã bác kháng nghị của VKS một cách không thuyết phục, thiếu căn cứ.
2.3.2.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, việc tổ chức quán triệt, triển khai cũng như giải thích, hướng
dẫn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về công tác kháng
nghị của VKSND các huyện, thành phố, thị xã chưa đầy đủ và sâu sắc; chưa
chỉ đạo thường xuyên và kịp thời đối với công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự.
Lãnh đạo nhiều đơn vị vẫn chưa thực sự coi trọng và hiểu được tầm
quan trọng của công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, chưa dành sự quan
tâm đúng mức đến khâu công tác này. Một số đơn vị chưa mạnh dạn nâng cao
chỉ tiêu hay xác định khâu công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự là khâu
công tác đột phá trong kế hoạch công tác hàng năm của đơn vị mình. Vì vậy,
trong kỳ thống kê có 03 đơn vị VKSND cấp huyện không ban hành kháng
nghị phúc thẩm trong khi vẫn có án bị cấp phúc thẩm xét xử hủy, sửa án
thông qua kháng cáo. Nhiều trường hợp, VKSND cấp huyện chưa kiên quyết,
chưa tích cực trong việc yêu cầu Tòa án cùng cấp giao gửi bản án đúng hạn để
kiểm sát bản án và chuyển bản án cho VKS cấp trên kiểm sát theo quy định.
57
Việc thiếu sự quan tâm đến khâu công tác quan trọng này tại một số
đơn vị VKSND cấp huyện có thể coi là chưa thực hiện tốt quyền năng pháp lý
đã giao cho ngành Kiểm sát.
Thứ hai, trình độ, năng lực của một số cán bộ, KSV còn nhiều hạn chế,
tinh thần trách nhiệm chưa cao. Một số cán bộ, KSV chưa nắm vững các quy
định về luật hình sự, luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp lý liên quan. Do
đó, khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên
tòa hoặc sau phiên tòa còn thiếu sắc bén, không phát hiện được vi phạm cũng
như thiếu sót của bản án cần được xem xét để kháng nghị dẫn đến việc không
ban hành kháng nghị. Có trường hợp KSV thiếu bản lĩnh khi phát hiện ra
những vi phạm nhưng không mạnh dạn đề xuất kháng nghị phúc thẩm hay
ban hành kháng nghị nhưng lại không trình bày căn cứ rõ ràng. Trong quá
trình nghiên cứu vụ án, đôi khi KSV chủ quan, đại khái nên không phát hiện
được vi phạm của bản án sơ thẩm hoặc phát hiện không đầy đủ nên đê xuất
căn cứ kháng nghị không hiệu quả. Hoặc trường hợp KSV tuy phát hiện được
vi phạm nhưng không đánh giá không xác định được vi phạm nào cần phải
kháng nghị, vi phạm nào cần phải kiến nghị yêu cầu khắc phục dẫn đến không
kháng nghị hoặc kháng nghị không được chấp nhận.
Thứ ba, sự phối hợp giữa VKSND cấp tỉnh và VKSND cấp huyện trong
công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự vẫn còn có hạn chế, chưa thường
xuyên có sự trao đổi nghiệp vụ, có kế hoạch củng cố kháng nghị dẫn đến còn
tình trạng VKS cấp tỉnh rút kháng nghị của VKS cấp huyện mà không trao
đổi trước với VKS cấp huyện, không gửi kết quả xét xử phúc thẩm cho VKS
cấp huyện dẫn đến việc VKS cấp huyện không biết lý do kháng nghị bị rút.
VKS cấp tỉnh bước đầu đã thực hiện việc tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm
về công tác kháng nghị phúc thẩm, tuy nhiên chưa được thường xuyên, định kỳ.
Việc báo cáo xin ý kiến có nên kháng nghị hay không tuy là không bắt
buộc song nếu VKS cấp huyện thực hiện tốt điều này sẽ có ý nghĩa quan
58
trọng, giúp VKS hai cấp thống nhất được quan điểm, nhận thức chung việc có
căn cứ kháng nghị hay không, kháng nghị ban hành có bảo vệ được hay
không, hạn chế tình trạng rút kháng nghị hoặc bác kháng nghị.
Thứ tư, quan hệ phối hợp giữa VKS và Tòa án có lúc, có nơi còn chưa
được thống nhất; còn có trường hợp Tòa án gây khó khăn trong việc Viện
kiểm sát rút hồ sơ vụ án để nghiên cứu, xem xét ban hành kháng nghị, dẫn tới
việc quá thời hạn kháng nghị.
Thứ năm, một số trường hợp, Lãnh đạo, KSV trong công tác chỉ đạo
điều hành và thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử chưa
nêu cao tinh thần trách nhiệm do tâm lý “Dĩ hòa vi quý”, cả nể, ngại va chạm
và một phần bởi sự tác động của việc giữ mối quan hệ giữa VKS cấp huyện
với Tòa án, giữa Thẩm phán và KSV. Có trường hợp KSV đã phát hiện được
vi phạm nhưng do nể nang nên đã để cho Thẩm phán tìm cách khắc phục mà
không kháng nghị do việc quy định tỷ lệ án hủy để xem xét tái bổ nhiệm của
ngành Tòa án, đây chính là một trong những nguyên nhân để làm giảm chất
lượng và số lượng của kháng nghị phúc thẩm hình sự.
Thứ sáu, điều kiện phương tiện làm việc và chế độ, chính sách đối với cán
bộ, Kiểm sát viên chưa được đảm bảo, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ
công tác trong tình hình mới. Đồng thời, việc đầu tư nguồn lực cả về vật chất và
con người phục vụ công tác nói chung và công tác thực hành quyền công tố,
kiểm sát xét xử nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế. Nhìn chung, số lượng biên chế
làm việc tại VKSND cấp tỉnh cũng như VKSND cấp huyện còn thiếu và yếu về
kinh nghiệm, tại VKSND cấp huyện một KSV thường được phân công đảm
nhiệm nhiều khâu công tác khác nhau. Trong khi đó, tình hình an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên diễn biến ngày càng phức
tạp, số lượng các vụ án hình sự tăng nhanh. Điều này ít nhiều ảnh hưởng đến
chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự.
59
Tiểu kết Chương 2
Trên cơ sở áp dụng các phương pháp thu thập và tổng hợp các thông
tin, số liệu thống kê, tác giả đã đánh giá, làm rõ thực trạng công tác thực hành
quyền công tố, kiểm sát các hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và công
tác kháng nghị phúc thẩm hình sự nói riêng của VKSND hai cấp tỉnh Thái
Nguyên trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018 (bao gồm cả hai giai đoạn
áp dụng BLTTHS 2003 và BLTTHS 2015). Tác giả đã đánh giá những kết
quả đạt được và chỉ ra nguyên nhân của hạn chế.
Có thể nói, trong những năm gần đây, công tác thực hành quyền công
tố, kiểm sát các hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và đặc biệt là công tác
kháng nghị phúc thẩm hình sự tại tỉnh Thái Nguyên có nhiều sự thay đổi tích
cực, đạt nhiều kết quả cao, qua đó góp phần vào cuộc đấu tranh phòng chống
tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo vệ và giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội tại địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác kháng nghị phúc
thẩm hình sự vẫn còn có một số hạn chế cần được khắc phục. Những hạn chế
này do nhiều nguyên nhân gây ra. Trước những yêu cầu về nhiệm vụ trong
tình hình mới cũng như công tác cải cách tư pháp, thực hiện tốt Chỉ thị 03 và
Chỉ thị 08 của Viện trưởng VKSND tối cao về tăng cường công tác kháng
nghị phúc thẩm hình sự đòi hỏi ngành Kiểm sát tỉnh Thái Nguyên phải đưa ra
những giải pháp cụ thể để không chỉ tăng lên về số lượng mà đồng thời phải
đảm bảo chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự trong thời gian
tới. Vì vậy, tác giả đã đưa ra một số giải pháp ở Chương 3 của Luận văn.
60
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC
KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về
kháng nghị phúc thẩm
Từ thực tiễn trong những năm qua, có thể thấy rằng công tác kháng
nghị của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên còn ít về số lượng, hạn chế về
chất lượng, một phần là do hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện. Việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của
công tác kháng nghị phúc thẩm mà trước hết là cần nghiên cứu và bổ sung
một số điều của LTTHS để bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động kháng
nghị phúc thẩm của VKS. Theo đó, cần tập trung nghiên cứu, tháo gỡ những
vấn đề sau:
- Bổ sung quy định về căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự:
LTTHS năm 2015 chỉ quy định về thẩm quyền, thời hạn, thủ tục mà
chưa quy định về căn cứ kháng nghị. Theo quy định tại Điều 336 LTTHS
năm 2015 thì Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có
quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm và một trong những nội
sung chính của quyết định kháng nghị là lý do, căn cứ kháng nghị. Tuy nhiên
LTTHS lại không quy định cụ thể các căn cứ để kháng nghị.
Theo Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các
vụ án hình sự (ban hành kèm theo Quyết định số 505/2017/QĐ-VKSTC ngày
18/12/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao) thì có thể xác định 04 căn cứ để
kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật. Tuy nhiên đây chỉ là hướng dẫn mang tính chất nội bộ của ngành
Kiểm sát. Do đó, LTTHS cần bổ sung, quy định rõ bản án, quyết định cấp
61
sơ thẩm vi phạm những nội dung gì, mức độ đến đâu thì được coi là nghiêm
trọng và bị kháng nghị phúc thẩm.
- Sửa đổi quy định về cách tính thời hiệu kháng nghị phúc thẩm hình sự
Theo Điều 337 LTTHS 2015 thì thời hạn kháng nghị của Viện kiểm
sát cùng cấp đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, của Viện kiểm
sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày Tòa án tuyên án; theo Điều 262
LTTHS 2015 thì thời hạn giao bản án cho Viện kiểm sát cùng cấp là trong
thời hạn 10 ngày. Với quy định trên, trong trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm gửi
bản án đúng thời hạn cho Viện kiểm sát cùng cấp là 10 ngày thì Viện kiểm sát
chỉ còn 05 ngày để nghiên cứu bản án cùng hồ sơ vụ án để quyết định việc
kháng nghị là khó khăn. Đồng thời trên thực tế, Tòa án gửi bản án đa số là trễ
hạn và quá hạn luật định nên việc phát hiện vi phạm của các bản án sơ thẩm
để kháng nghị gặp nhiều trở ngại. Do đó, để bảo đảm cho công tác kháng nghị
của Viện kiểm sát được thuận lợi, cần sửa đổi LTTHS năm 2015 theo hướng
quy định thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát
cấp trên trực tiếp là kể từ khi nhận được bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
3.2. Tăng cường việc triển khai, áp dụng các quy định của pháp
luật Tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm
ộ luật tố tụng hình sự năm 2015 chính thức có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2018, do đó để đảm bảo cho LTTHS được triển khai thi hành
đầy đủ và thống nhất thì việc tăng cường công tác phổ biến, quán triệt nội
dung ộ luật đến toàn thể cán bộ, Kiểm sát viên là nhiệm vụ trọng tâm trong
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong các năm 2018, 2019 của ngành
Kiểm sát nhân dân. Theo đó, để làm tốt khâu công tác kháng nghị phúc thẩm
hình sự trong thời gian tới đòi hỏi ngành Kiểm sát nói chung và VKSND tỉnh
Thái Nguyên nói riêng cần tập trung thực hiện tốt những nội dung sau:
62
Thứ nhất, lãnh đạo các đơn vị VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên cần
quán triệt, triển khai đến tất cả cán bộ, Kiểm sát viên thực hiện nghiêm túc
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong các quy định về kháng nghị được quy
định tại Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và ộ luật tố tụng
hình sự năm 2015. Cần tăng cường quan tâm, chỉ đạo, coi trọng công tác
kháng nghị phúc thẩm, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của
công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự; cần bám
sát các chỉ tiêu nhiệm vụ trong các Nghị quyết của Quốc hội giao cho ngành
KSND và các chỉ tiêu của Ngành để đảm bảo số lượng cũng như chất lượng
kháng nghị phúc thẩm.
Thứ hai, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ
năng lực của cán bộ, KSV. VKSND tối cao và VKSND tỉnh Thái Nguyên cần
định kỳ tổ chức các lớp đào tạo, các buổi tập huấn chuyên sâu cho cán bộ,
KSV về những quy định mới, những nội dung sửa đổi bổ sung của LTTHS,
ộ luật hình sự năm 2015 và các đạo luật khác về tư pháp cũng như về những
văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật. Tăng
cường đào tạo, hướng dẫn về kỹ năng trong việc phát hiện những vi phạm
pháp luật và ban hành kháng nghị nhằm nâng cao trách nhiệm, thống nhất
nhận thức cho cán bộ, KSV để tránh sự nhận thức thiếu thống nhất hoặc có
những quan điểm khác nhau.
Thứ ba, chủ động rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan
để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền kịp thời hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc
ban hành văn bản mới phù hợp với ộ luật hình sự và ộ luật tố tụng hình sự
năm 2015.
Thứ tư, mỗi cán bộ, KSV cần nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích cực,
chủ động trong việc nghiên cứu và áp dụng các quy định mới của pháp luật tố
tụng hình sự về thẩm quyền, thời hạn kháng nghị, trình tự thủ tục và các quy
63
định về bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị cũng như các quy định của pháp luật
nội dung để làm căn cứ xem xét đối với vi phạm cần phải ban hành kháng
nghị, từ đó vận dụng hiệu quả trong từng trường hợp cụ thể.
Thứ năm, hiện nay công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật
chưa được thực hiện đầy đủ và thống nhất, vẫn để xảy ra nhiều bất cập, ảnh
hưởng không nhỏ đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS. Trước
thực trạng này đòi hỏi VKSND tối cao cần tích cực, chủ động hơn nữa trong
việc phối hợp với các ộ, Ngành có liên quan kịp thời ban hành văn bản
hướng dẫn cụ thể không chỉ đối với các quy định của pháp luật Tố tụng hình
sự mà cả các luật khác, từ đó làm căn cứ áp dụng pháp luật thống nhất, làm cơ
sở để đánh giá tính chất mức độ vi phạm có cần thiết để ban hành kháng nghị
hay không. Đồng thời, VKSND các cấp cần thường xuyên tập hợp những khó
khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật để các cấp có thẩm quyền
giải thích kịp thời.
3.3. Tăng cường và đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành;
công tác thanh tra, kiểm tra trong nội bộ ngành Kiểm sát, trong đó có
công tác kháng nghị phúc thẩm
Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành có vai trò rất quan trọng đối với
bất kỳ một cơ quan, tổ chức nào để hoạt động hiệu quả. Đặc biệt, đối với
ngành KSND – hệ thống cơ quan được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc
tập trung, thống nhất lãnh đạo trong Ngành thì công tác quản lý, chỉ đạo, điều
hanh càng có vai trò và ý nghĩa quyết định.
Hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành của VKSND cấp trên đối với
VKSND cấp dưới được thể hiện thông qua việc xây dựng, triển khai và kiểm
tra việc thực hiện các Chỉ thị, kế hoạch, chương trình công tác hàng năm…
Để thực hiện có hiệu quả hoạt động này đòi hỏi VKSND tỉnh Thái Nguyên
cũng như VKSND cấp huyện, thành phố, thị xã phải nghiêm chỉnh chấp hành
64
quy chế về chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành KSND;
VKSND cấp tỉnh phải thường xuyên đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của VKSND cấp huyện để kịp thời phát hiện và chấn chỉnh
những sai phạm, thiếu sót trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. ên cạnh đó,
mỗi đơn vị cần tổ chức giao ban định kỳ để kiểm điểm, đánh giá kết quả và
những mặt đã làm được, những mặt còn hạn chế, từ đó bàn biện pháp tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc đồng thời triển khai kế hoạch công tác trong
từng thời kỳ phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội của tỉnh. Sau mỗi kỳ giao
ban cần tổng hợp và thông báo những ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo, làm cơ sở
cho cán bộ, KSV thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao.
Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành còn có vai trò quan trọng để đảm
bảo tính tập trung và thống nhất trong Ngành. Đây là cơ sở tiên quyết để
ngành KSND thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Do đó, để tăng
cường hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành đòi hỏi VKSND hai cấp
tỉnh Thái Nguyên cần làm tốt các nhiệm vụ như: Viện trưởng VKSND cấp
dưới chịu sự quản lý, chỉ đạo, điều hành của Viện trưởng VKSND cấp trên
trực tiếp; mỗi cán bộ, KSV chịu sự quản lý, chỉ đạo điều hành của Viện
trưởng; Viện trưởng VKSND hai cấp cần có sự phân công, phân nhiệm hợp
lý, phù hợp với sở trường, năng lực công tác của mỗi cán bộ, KSV; hàng năm,
Viện trưởng VKSND tỉnh Thái Nguyên chỉ đạo VKSND cấp huyện xây dựng,
triển khai kế hoạch công tác của cấp mình; tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra để kịp thời phát hiện vi phạm, khắc phục những tồn tại hạn chế đồng
thời ghi nhận những kết quả đã đạt được; thông qua công tác thanh tra, kiểm
tra và qua việc theo dõi, nắm bắt tình hình kịp thời ban hành những kết luận
đánh giá, thông báo rút kinh nghiệm về nghiệp vụ để các đơn vị cùng nhau
sửa chữa khắc phục và rút kinh nghiệm chung.
65
Đối với công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, lãnh đạo VKSND hai
cấp tỉnh Thái Nguyên cần tiếp tục quán triệt và tổ chức thực hiện tốt Chỉ thị
03 và Chỉ thị 08 của Viện trưởng VKSND tối cao về “Tiếp tục tăng cường
kháng nghị phúc thẩm án hình sự”. Theo đó, cần tăng cường công tác lãnh
đạo, kiểm tra, giám sát, hướng dẫn của lãnh đạo VKS cấp trên đối với VKS
cấp dưới; cần thực hiện thường xuyên, có định hướng; cần bám sát Chỉ thị
công tác hàng năm của VKSND tối cao để từ đó đưa ra các chỉ tiêu phấn đấu,
phương hướng cụ thể đối với VKSND cấp huyện trong công tác kháng nghị
phúc thẩm hình sự. VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên cần xác định nhiệm vụ
trọng tâm “Nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự” là
khâu công tác đột phá trong kế hoạch công tác hàng năm của từng đơn vị. Cần
tiếp tục đổi mới hơn nữa công tác chỉ đạo, điều hành trong việc phân công
những KSV thực sự có năng lực giải quyết những vụ án phức tạp, biểu dương,
khen thưởng kịp thời những KSV thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình
trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự, đồng thời
kiểm điểm rút kinh nghiệm đối với những KSV còn hạn chế, từ đó tạo ra cơ
chế thúc đẩy chất lượng của công tác kháng nghị. Lãnh đạo các đơn vị phải
xây dựng chương trình, có biện pháp cụ thể để tổ chức thực hiện tốt các chỉ
thị về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự như phải có chỉ tiêu
cụ thể về công tác này, có sự kiểm tra đôn đốc kịp thời.
Lãnh đạo VKSND hai cấp cần tích cực hơn nữa trong việc chỉ đạo công
tác kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án, kịp thời phát hiện ra những vi
phạm pháp luật trong hoạt động xét xử để ban hành kháng nghị theo thẩm
quyền hoặc đề xuất với VKS cấp trên kháng nghị. Cần loại bỏ tư tưởng nể
nang, cả nể, dễ dàng chấp nhận và bỏ qua những vi phạm nghiêm trọng của
Tòa án. Đồng thời, VKSND cấp huyện cần thực hiện nghiêm túc các quy định
của Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án
66
hình sự về việc gửi bản án, quyết định của Tòa án; phiếu kiểm sát bản án,
quyết định, báo cáo kết quả xét xử, kháng nghị phúc thẩm hoặc báo cáo đề
nghị kháng nghị phúc thẩm cho VKS cấp trên trực tiếp. Công tác phối hợp
giữa VKS hai cấp cần phải chú trọng hơn nữa, khi có kháng nghị, Viện kiểm
sát cấp sơ thẩm phải cung cấp đầy đủ các thông tin, kết quả điều tra, các
vướng mắc nếu có cho cấp phúc thẩm để có cơ sở xem xét toàn diện vụ án để
bảo vệ kháng nghị. Phòng chuyên môn thuộc Viện kiểm sát tỉnh, khi nhận
được kháng nghị cần nghiên cứu kỹ đối chiếu theo quy định của pháp luật nếu
thấy kháng nghị có căn cứ, cần kiên quyết bảo vệ kháng nghị. Tránh tình
trạng khi vụ án đưa ra xét xử phúc thẩm, lại phải rút kháng nghị, chỉ trừ một
số trường hợp, quá trình xem xét tại cấp phúc thẩm, cũng như tại phiên tòa, có
phát sinh tình tiết mới, dẫn đến không bảo vệ được kháng nghị. Trường hợp
Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát, thì
ngay sau khi xét xử phúc thẩm, kiểm sát viên THQCT và kiểm sát xét xử
phúc thẩm, phải đề xuất lãnh đạo viện báo cáo Viện kiểm sát cấp cao để xin ý
kiến chỉ đạo.
Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra thường xuyên, VKSND cấp trên
sẽ nắm bắt được các vướng mắc của VKSND cấp dưới trong việc quyết định
có kháng nghị hay không để có hướng dẫn kịp thời. Ngược lại, việc kiểm tra
giám sát của VKS cấp trên sẽ giúp cho việc phát hiện vi phạm của bản án
hoặc quyết định trong trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị cùng cấp thì
thực hiện kháng nghị trên một cấp, hạn chế việc không kháng nghị do hết thời
hạn. Ngược lại, thực hiện việc báo cáo thường xuyên của VKS cấp dưới sẽ
giúp cho việc kháng nghị trên một cấp có hiệu quả, cần coi việc báo cáo Viện
kiểm sát cấp trên để kháng nghị phúc thẩm cũng là hoàn thành tốt chức năng
kiểm sát hoạt động xét xử của VKS cấp dưới.
67
ên cạnh đó, VKSND cấp tỉnh thường xuyên cần phải có những thông
báo rút kinh nghiệm về những thiếu sót, hạn chế đối với từng trường hợp mà
VKS rút kháng nghị, Tòa án không chấp nhận kháng nghị của VKS hoặc
trường hợp phát hiện có vi phạm thông qua hoạt động kiểm sát bản án của
VKS cấp tỉnh nhưng VKS cấp huyện không ban hành kháng nghị kịp thời.
Hàng năm, VKS cấp tỉnh cần tổng hợp, rút kinh nghiệm về công tác kháng
nghị án hình sự thuộc phạm vi và thẩm quyền để có những sơ kết, tổng kết
công tác kháng nghị, qua đó tổng hợp những vi phạm pháp luật của Tòa án
các cấp trong việc chuyển hồ sơ vụ án, gửi bản án, quyết định để kiến nghị
khắc phục.
3.4. Nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ và trách nhiệm của
Kiểm sát viên về công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự
Trước hết, lãnh đạo VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên phải luôn quan
tâm và tăng cường công tác lãnh đạo, rèn luyện bồi dưỡng cho đội ngũ cán
bộ, KSV vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công
tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm, không ngừng học tập, rèn luyện,
trau dồi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đối với công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết các vụ án hình sự. Nâng cao ý thức
chính trị và phẩm chất đạo đức, nhất là đạo đức nghề nghiệp sẽ giúp cán bộ,
KSV có định hướng đúng đắn trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
đồng thời giúp cán bộ KSV vận dụng pháp luật đúng đắn, phù hợp.
Lãnh đạo VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên cần chủ động phân công,
bố trí cán bộ, KSV có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có phẩm
chất đạo đức tốt, có năng lực làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm
sát xét xử các vụ án hình sự. Kịp thời động viên, khen thưởng đối với những
tập thể, cá nhân có thành tích trong việc thực hiện hiệu quả công tác kháng
nghị phúc thẩm hình sự.
68
Các KSV làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra,
kiểm sát xét xử hình sự phải xác định được vai trò của mình trong việc kháng
nghị phúc thẩm là hết sức quan trọng. Chính vì vậy, một trong những giải
pháp hàng đầu là phải xây dựng được đội ngũ KSV đủ mạnh, có nhận thức
đầy đủ về vai trò, chức năng và nhiệm vụ của ngành trong tình hình đổi mới
hiện nay, phải có trình độ nghiệp vụ vững vàng, có tinh thần trách nhiệm
trong công việc hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Việc xây dựng đội
ngũ KSV đủ về số lượng, có trách nhiệm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao,
vô tư, khách quan trong công việc là hết sức cần thiết. Mỗi KSV cần tự ý thức
trách nhiệm, tự nghiên cứu, học hỏi, đúc rút kinh nghiệm, nâng cao bản lĩnh
nghề nghiệp, trình độ chuyên môn nghiệp vụ; KSV cấp sơ thẩm phải có năng
lực giải quyết vụ án cao hơn KSV cấp sơ thẩm. Ngoài ra, cần có các giải pháp
chủ động của ngành Kiểm sát về công tác xây dựng đội ngũ KSV, trong đó
cần chú trọng việc đào tạo, tập huấn, tổng kết công tác nghiệp vụ, hướng dẫn
áp dụng thống nhất pháp luật.
KSV phải có kỹ năng nghề nghiệp, từ việc phát hiện các vi phạm của
Tòa án trong hoạt động xét xử, để xem xét tổng hợp đánh giá các tài liệu
chứng cứ trong hồ sơ vụ án và đề xuất kháng nghị. ản thân mỗi KSV phải tự
mình học hỏi, nâng cao trình độ về chuyên môn, nắm vững hệ thống các văn
bản pháp luật có liên quan để xây dựng cho mình bản lĩnh nghề nghiệp vững
vàng. Từ đó có đủ tự tin trong việc giải quyết án hình sự và kịp thời phát hiện
vi phạm, đề xuất kháng nghị đúng theo trình tự thủ tục tố tụng.
Trước mỗi vụ án, Lãnh đạo đơn vị phải yêu cầu KSV nghiên cứu kỹ hồ
sơ vụ án. Trước mỗi phiên tòa, KSV phải xây dựng kế hoạch, phương pháp
xét hỏi, tranh luận có trọng tâm, trọng điểm, kịp thời báo cáo đầy đủ cho Lãnh
đạo đơn vị những vấn đề phát sinh trong quá trình xét xử để kịp thời tháo gỡ
khó khăn, vướng mắc. KSV thực hành quyền công tố tại phiên tòa phải kịp
69
thời phát hiện những vi phạm tố tụng trong hoạt động xét xử của Hội đồng xét
xử, sau phiên tòa phải quan tâm đến việc kiểm sát biên bản phiên tòa để phát
hiện kịp thời sai sót của thư ký phiên tòa, từ đó đối chiếu lại giữa kết quả xét
hỏi và tranh luận tại phiên tòa cùng với đề nghị trong bản luận tội của kiểm
sát viên, cũng như việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự có căn cứ pháp luật hay không, việc xác định tư cách tham gia tố
tụng, vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường dân sự, án phí và lệ phí có
đúng theo quy định của pháp luật hay không, từ đó báo cáo đề xuất với Lãnh
đạo VKS xem xét việc kháng nghị phúc thẩm.
VKSND các huyện, thành phố, thị xã cần tăng cường chất lượng công
tác kiểm sát bản án sơ thẩm, lập phiếu kiểm sát theo đúng mẫu quy định và
gửi bản án đúng thời hạn cho cấp phúc thẩm. Qua công tác kiểm sát bản án,
nếu phát hiện các bản án có vi phạm, thiếu sót thì cần kiên quyết kháng nghị
phúc thẩm, đối với những trường hợp có vi phạm nhưng không nghiêm trọng
cũng cần tổng hợp để ban hành kiến nghị yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm.
Trường hợp Tòa án tuyên mức án khác quan điểm của Viện Kiểm sát thì
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phải nghiên cứu lại
vụ án, tổng hợp viết báo cáo án nêu rõ lý do Tòa án xét xử tuyên khác quan
điểm, đề xuất việc có kháng nghị, kiến nghị hay không và nêu rõ lý do.
Thực tế cho thấy, việc nâng cao trình độ năng lực, chuyên môn nghiệp
vụ cho đội ngũ cán bộ, KSV là việc làm có ý nghĩa quyết định nhằm khắc
phục những hạn chế, yếu kém trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm
sát xét xử nói chung và đối với chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự nói
riêng. Do đó, cần tăng cường về số lượng cũng như chất lượng cán bộ, KSV
đáp ứng yêu cầu công việc hiện nay và diễn biến của tình hình tội phạm ngày
càng phức tạp.
70
3.5. Tăng cường sự chỉ đạo, phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân
hai cấp tỉnh Thái Nguyên
Theo quy định của LTTHS, Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát
cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án, quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm. Đây là một quyền năng pháp lý quan trọng nhằm bảo đảm cho
bản án, quyết định của Tòa án có căn cứ, đúng pháp luật. Do đó, Chỉ thị 03 và
Chỉ thị 08 của Viện trưởng VKSND tối cao đã khẳng định: “Coi trọng công
tác kháng nghị phúc thẩm, coi đây là một trong những công việc trọng tâm
của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự”.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng đó, để đảm bảo cho công tác kháng nghị phúc
thẩm đạt kết quả tốt đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa VKS hai cấp,
cụ thể:
Đối với VKS các huyện, thành phố, thị xã phải nghiêm túc thực hiện
đúng quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án
hình sự; Quy chế về chức trách nhiệm vụ và chế độ làm việc của VKSND tối
cao, các phòng nghiệp vụ VKSND tỉnh trong việc gửi cáo trạng truy tố, sao
gửi bản án, quyết định sơ thẩm, báo cáo xét xử sơ thẩm, kháng nghị phúc
thẩm cho VKS tỉnh. Khi gửi bản án, quyết định sơ thẩm cho VKS cấp phúc
thẩm đảm bảo phải có phiếu kiểm sát bản án, quyết định sơ thẩm theo đúng
mẫu quy định. Khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm, VKS các
huyện, thành phố, thị xã có thể chuyển hồ sơ về VKS tỉnh để nghiên cứu, xem
xét, báo cáo lãnh đạo Viện trước khi ban hành kháng nghị. Hoặc khi ban hành
kháng nghị phúc thẩm, VKS cấp huyện phải báo cáo kịp thời cho VKS cấp
tỉnh một cách cụ thể, đầy đủ về nội dung vụ án, quá trình giải quyết vụ án ở
cấp sơ thẩm, nêu rõ lý do và căn cứ kháng nghị phúc thẩm. Đồng thời gửi
kèm hồ sơ và các tài liệu có liên quan đến việc kháng nghị cho VKS cấp tỉnh.
Nếu VKS cấp tỉnh nhận thấy cần phải bổ sung kháng nghị khi thời hạn kháng
71
nghị vẫn còn thì thông báo cho VKS cấp huyện có quyết định kháng nghị bổ
sung hoặc rút kháng nghị nếu kháng nghị không có căn cứ, đảm bảo cho
kháng nghị được ban hành toàn diện, đầy đủ, có căn cứ để Tòa án chấp nhận
kháng nghị. Đối với trường hợp Tòa án không chấp nhận kháng nghị của
VKS không có căn cứ thì phải báo cáo đề nghị cấp giám đốc thẩm xem xét
theo thẩm quyền. VKS cấp trên trước khi rút kháng nghị của VKS cấp dưới
cần trao đổi, thông báo để VKS cấp dưới nắm được bảo đảm thông tin hai chiều.
ên cạnh đó, VKS cấp huyện phải tăng cường công tác thông tin báo
cáo về trường hợp cần kháng nghị phúc thẩm đối với những vụ việc phức tạp
có nhiều ý kiến khác nhau, chưa đồng nhất quan điểm, cần tranh thủ ý kiến
của VKS cấp trên. VKS cấp tỉnh qua nghiên cứu bản án, quyết định của Tòa
án cấp sơ thẩm phát hiện có vi phạm pháp luật, nếu không có đủ thời gian để
kháng nghị thì cần báo cáo ngay VKS cấp trên trực tiếp để xem xét kháng
nghị theo thẩm quyền, trong báo cáo phải nêu đầy đủ lý do, căn cứ, đề xuất
kháng nghị.
VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên cần tích cực phối hợp với nhau và
phối hợp với Tòa án để tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm ở hai cấp bằng
hình thức trực tuyến. Qua đó sẽ phát hiện được nhiều vi phạm trong hoạt động
xét xử, từ đó xem xét bản án tuyên có phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án, phù hợp với kết quả xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa hay
không; phần nhận định của bản án có phù hợp với phần quyết định tuyên phạt
tại phiên tòa hay không? Từ đó báo cáo, đề xuất lãnh đạo Viện quyết định
việc ban hành hay không ban hành kháng nghị trong từng trường hợp cụ thể.
Đồng thời, các phiên tòa rút kinh nghiệm cũng là cơ hội để các cán bộ, KSV
học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong quá trình thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử đối với những vụ án cụ thể.
72
Đối với những kháng nghị có nội dung đạt chất lượng tốt, được Tòa án
cấp phúc thẩm chấp nhận, Phòng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
phúc thẩm VKSND tỉnh nên tổng hợp để thông báo cho các đơn vị cùng tham
khảo và rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác kháng nghị phúc
thẩm. Hàng năm, Phòng cần xây dựng các báo cáo chuyên đề nghiệp vụ về
công tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm hình sự để góp phần
nâng cao nhận thức của cán bộ, KSV Viện kiểm sát hai cấp đối với lĩnh vực
công tác này.
3.6. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án
trong việc giải quyết kháng nghị phúc thẩm hình sự
Xuất phát từ nhiệm vụ đấu tranh, phòng chống tội phạm; giữ gìn an
ninh trật tự, an toàn xã hội; đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được phát
hiện, xử lý nghiêm minh, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô
tội; bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và tôn trọng quyền, lợi ích chính đáng
của công dân thì việc hình thành nên mối quan hệ phối hợp trong tố tụng hình
sự giữa Viện kiểm sát với Tòa án là một vấn đề tất yếu và hết sức cần thiết.
Trước hết, việc tăng cường mối quan hệ phối hợp liên ngành phải dựa trên cơ
sở chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành theo luật định, nhằm đảm bảo cho
việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất. Chính vì vậy, giữa
Viện kiểm sát và Tòa án phải thống nhất xây dựng được Quy chế phối hợp
liên ngành trong hoạt động tố tụng giải quyết án hình sự nói chung và trong
công tác giải quyết kháng nghị phúc thẩm nói riêng. Việc xây dựng Quy chế
phối hợp là nhu cầu cấp thiết để có hướng dẫn, quy định rõ trách nhiệm của
mỗi bên nhằm thống nhất nội dung của từng vấn đề cần thực hiện. Cụ thể, đối
với công tác giải quyết kháng nghị phúc thẩm, quy chế phải xác định rõ trách
nhiệm thụ lý phúc thẩm của Tòa án khi có kháng nghị, việc chuyển hồ sơ cho
Viện kiểm sát cùng cấp sau khi thụ lý phúc thẩm hay quy định về các trường
73
hợp Viện kiểm sát thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị... Định kỳ hàng tháng,
hàng quý, hàng năm, giữa Viện kiểm sát và Tòa án cần có những cuộc họp
liên ngành để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của mỗi ngành, đồng thời
phải tiến hành sơ kết, tổng kết để đánh giá chung những ưu điểm, tồn tại qua
đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác phối hợp. Đặc biệt, đối
với những vụ án phức tạp, được dư luận xã hội quan tâm, có nhiều quan điểm
thì cần tổ chức những cuộc họp liên ngành để kịp thời tháo gỡ vướng mắc,
thống nhất quan điểm giải quyết vụ án, từ đó hạn chế đến mức thấp nhất tình
trạng Tòa án không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát.
3.7. Tăng cường công tác kiểm sát các bản án, quyết định sơ thẩm của
Tòa án
Việc ban hành kháng nghị phúc thẩm của VKS được thực hiện chủ yếu
thông qua công tác kiểm sát các hoạt động xét xử và kiểm sát bản án, quyết
định của Tòa án sơ thẩm. Vì vậy, vấn đề tăng cường hiệu quả khâu công tác
này có ý nghĩa quan trọng góp phần nâng cao chất lượng kháng nghị phúc
thẩm. Thông qua công tác kiểm sát bản án, quyết định, nhiều vi phạm của Tòa
án được phát hiện kịp thời để thực hiện quyền kháng nghị.
Lãnh đạo VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên phải chú trọng quán triệt
và thường xuyên kiểm tra, đôn đốc công tác kiểm sát bản án, quyết định của
Tòa án sơ thẩm; các cán bộ, KSV cần tập trung tự nghiên cứu, nắm đầy đủ và
thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật và của Ngành về công tác
kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án, coi đây là một trong những khâu công
tác kiểm sát cơ bản của đơn vị mình.
VKS cấp huyện phải thực hiện nghiêm quy định sau khi nhận được bản
án, quyết định, KSV thực hành quyền công tố phải trực tiếp lập phiếu kiểm
sát bản án, nhằm nghiên cứu, xem xét, đối chiếu giữa kết quả xét hỏi, tranh
luận tại phiên tòa, cùng với đề nghị trong luận tội với phần nhận định, quyết
74
định của bản án có phù hợp không; xem xét, đối chiếu nội dung bản án về tội
danh, khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
và phần trách nhiệm dân sự..., kịp thời phát hiện những vi phạm trong bản án
để báo cáo Lãnh đạo Viện xem xét, quyết định việc có kháng nghị hay không,
hoặc đề xuất những biện pháp giải quyết đối với những vi phạm trong bản án
nếu không ban hành kháng nghị. Đồng thời, cần theo dõi chặt chẽ thời gian
gửi bản án, quyết định, thường xuyên trao đổi, nhắc nhở Tòa án cùng cấp gửi
đúng thời hạn quy định. Đối với những bản án, quyết định Tòa án gửi chậm
dẫn đến việc kháng nghị phúc thẩm của VKS bị chậm trễ thì phải kiến nghị
khắc phục vi phạm .
VKS cấp tỉnh phải tăng cường kiểm sát bản án, quyết định do Tòa án
cấp sơ thẩm gửi đến, nếu phát hiện vi phạm thì phải kháng nghị phúc thẩm
kịp thời. Đồng thời, để khắc phục tình trạng Tòa án cấp huyện gửi không đầy
đủ hoặc không kịp thời bản án, quyết định sơ thẩm cho VKS cấp tỉnh thì VKS
cấp tỉnh cần phải mở sổ theo dõi việc tiếp nhận bản án, quyết định của Tòa án
cấp huyện; hàng tháng tổng hợp, so sánh, đối chiếu với số liệu thống kê, báo
cáo công tác định kỳ của VKS cấp huyện hoặc thông qua hồ sơ vụ án phúc
thẩm để xác định bản án, quyết định của Tòa án cấp huyện có được gửi cho
VKS cấp tỉnh hay không. Trên cơ sở đó, hàng năm VKS cấp tỉnh phải tổ chức
kiểm tra, đánh giá rút kinh nghiệm về công tác kiểm sát bản án, quyết định,
trong đó chỉ ra được những ưu điểm cũng như hạn chế nhằm đề ra giải pháp
phù hợp; cần ban hành nhiều thông báo rút kinh nghiệm để các VKS cấp
huyện nghiên cứu nhằm khắc phục các vi phạm, thiếu sót, nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm.
75
3.8. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chính sách
chế độ đối với cán bộ, Kiểm sát viên
Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc là điều kiện không thể thiếu để
bảo đảm cho hoạt động của một cơ quan, tổ chức. Trong điều kiện phát triển
khoa học kỹ thuật và công nghệ mạnh mẽ như hiện nay thì yếu tố này càng có
ý nghĩa quan trọng. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 đã khẳng
định: “Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất bảo đảm cho các cơ quan tư pháp có
đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ, có chế độ chính sách hợp lý đối với cán
bộ tư pháp. Tăng đầu tư về cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện làm việc, đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước hiện đại hóa các cơ quan tư
pháp... Có chính sách tiền lương, phụ cấp và chính sách đãi ngộ phù hợp cho
cán bộ tư pháp...”. Tiếp đó, thực hiện chủ trương cải cách tư pháp sau khi có
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của ộ Chính trị, Đảng và Nhà
nước đã tiếp tục quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc và có
nhiều chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ các cơ quan tư pháp.
Thực tế cho đến nay, trụ sở làm việc của VKSND các huyện, thành
phố, thị xã và VKSND tỉnh Thái Nguyên đã được đầu tư xây dựng cơ bản,
trang thiết bị, phương tiện làm việc đã được trang bị máy photo, máy tính, hệ
thống truyền hình trực tuyến, xe máy, xe ôtô ở VKS tỉnh và 03 đơn vị VKS
cấp huyện, chế độ, chính sách đối với cán bộ ngày càng được hoàn thiện. Tuy
nhiên, so với yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm cùng
những biến động về giá cả thị trường thì điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết
bị và phương tiện làm việc của ngành Kiểm sát vẫn còn thiếu thốn, nghèo
nàn, đời sống của cán bộ, KSV nhìn chung còn gặp nhiều khó khăn. Trong
khi đó, theo yêu cầu của cải cách tư pháp thì vai trò và trách nhiệm của Viện
kiểm sát là rất lớn. Do đó, để VKS thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của
mình thì việc tăng cường trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho công tác là
76
hết sức cần thiết. Đề nghị VKSND tối cao trong thời gian tới sớm đầu tư trang
thiết bị và ứng dụng công nghệ thông tin có chất lượng cao phục vụ công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, chuẩn hóa tin học
trong cơ quan VKS các cấp; tăng cường hơn nữa việc đầu tư cơ sở vật chất,
phương tiện làm việc cho VKS cấp huyện, nhất là các huyện hàng năm có
khối lượng án lớn, địa bàn rộng; có chính sách cải cách chế độ tiền lương,
tăng phụ cấp trách nhiệm và các đãi ngộ thỏa đáng đối với cán bộ, KSV để họ
có điều kiện ổn định cuộc sống, yên tâm công tác.
Tiểu kết Chương 3
Mặc dù công tác kháng nghị phúc thẩm của VKSND hai cấp tỉnh Thái
Nguyên đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên vẫn còn tồn tại
nhiều hạn chế như đã nêu tại Chương 2 của Luận văn. Từ thực trạng đó, tác
giả đề xuất những giải pháp cụ thể để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác kháng nghị phúc thẩm như: tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh
đạo VKS; tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa VKSND hai cấp và giữa
VKS với Tòa án; nâng cao trình độ, chất lượng đội ngũ cán bộ, KSV; nâng
cao điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc.
77
KẾT LUẬN
VKSND là chủ thể duy nhất có chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp, điều này đã được khẳng định trong Hiến pháp
nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2014. Chức năng, nhiệm vụ này của Viện kiểm sát là nhằm đảm bảo cho
mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh,
phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Viện
kiểm sát là thiết chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, sau khi xét xử sơ thẩm,
trong thời hạn luật định, VKS là chủ thể duy nhất có quyền kháng nghị phúc
thẩm những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Đây là cơ
sở pháp lý để Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án, qua đó kịp thời phát hiện
và khắc phục những sai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm, đảm bảo cho
bản án, quyết định của Tòa án là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân.
Kháng nghị phúc thẩm là công cụ quan trọng để thực hiện chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, khắc phục được
những vi phạm trong hoạt động xét xử, bảo đảm không để xảy ra oan sai và
bỏ lọt tội phạm, góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm. Vì vậy, kháng nghị phúc thẩm hình sự không chỉ là quyền hạn mà còn
là trách nhiệm của Viện kiểm sát. Chỉ thị số 03/CT-VKSTC ngày 19/6/2008
và Chỉ thị số 08/CT-VKS ngày 06/4/2016 của Viện trưởng VKSND tối cao về
78
tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự đã nhấn mạnh, nâng cao
chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát là nhiệm vụ
trọng tâm của Ngành kiểm sát. Với việc triển khai nghiêm túc các nội dung kế
hoạch công tác hàng năm, công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của ngành
Kiểm sát nói chung và của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên nói riêng đã đạt
được nhiều kết quả tích cực, kịp thời khắc phục được vi phạm của Tòa án cấp
sơ thẩm, đảm bảo việc giải quyết vụ án nghiêm minh, đúng pháp luật, hoàn
thành tốt nhiệm vụ chính trị mà Đảng và nhân dân giao phó.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, chất lượng, hiệu quả
công tác kháng nghị phúc thẩm của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên vẫn
còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu chiến lược cải cách tư pháp đã đề ra.
Nguyên nhân chủ yếu là do hệ thống pháp luật chưa đồng bộ; cơ cấu tổ chức,
trình độ năng lực của một bộ phận cán bộ, Kiểm sát viên chưa đáp ứng được
yêu cầu nhiệm vụ đề ra; công tác chỉ đạo, điều hành mặc dù đã có nhiều
chuyển biến tích cực tuy nhiên hiệu quả chưa cao… Do đó, để hoàn thành nội
dung, kế hoạch công tác, VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên cần tập trung
nghiên cứu, triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng kháng nghị phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án, đảm bảo kháng
nghị được chấp nhận đạt tỷ lệ trên 80%. Một số giải pháp được đưa ra như
nâng cao trách nhiệm nghiên cứu bản án, quyết định của Tòa án nhằm phát
hiện sai sót, vi phạm để kịp thời ban hành kháng nghị hoặc đề nghị kháng
nghị phúc thẩm; tăng cường sự phối hợp chặt chẽ trong công tác giữa
VKSND tỉnh với VKSND các huyện, thành phố, thị xã qua việc theo dõi, chỉ
đạo và hướng dẫn nghiệp vụ; loại bỏ tư tưởng nể nang, cả nể, phát hiện vi
phạm cần kiên quyết kháng nghị; nâng cao ý thức trách nhiệm, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của mỗi cán bộ, KSV, không ngừng học tập, rèn luyện
79
kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, phát hiện vi phạm để đề xuất kháng nghị kịp
thời…
Kháng nghị phúc thẩm vừa là quyền nhưng cũng là trách nhiệm lớn lao
của Viện kiểm sát. Việc thực hiện tốt nhiệm vụ này nhằm khắc phục những vi
phạm trong hoạt động xét xử; đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án
được chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; đảm bảo cho hoạt động
xét xử được thực hiện nghiêm minh, công bằng, dân chủ và khách quan; bảo
vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và
công dân; góp phần quan trọng trong việc khẳng định và nâng cao vị thế của
ngành Kiểm sát nhân dân trong hệ thống các cơ quan tư pháp./.
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ộ tư pháp (1987), Thông tư số 141-HCTP ngày 5 tháng 12 năm 1957, Cơ
sở dữ liệu luật Việt Nam
2. Nguyễn Hòa ình (2016) Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Nguyễn Phúc ình (2016) “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự ở cấp huyện”, website Báo điện tử
Kiemsatonline, luong-cong-tac-khang-nghi-phuc-tham-hinh-su-o-cap-huyen-46941.html>, (08/12/2016). 4. Dương Thanh iểu (2007) “Những vấn đề cần chú ý để nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân”, Tạp chí Kiểm sát, số 8,tr.3 – 10. 5. ộ Chính trị (2002) Nghị quyết số 0 NQ-TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, ban hành ngày 02/01/2002, Hà Nội. 6. ộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 4 NQ-TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, ban hành ngày 24/5/2005, Hà Nội. 7. ộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 4 NQ-TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ban hành ngày 02/06/2005, Hà Nội. 8. ộ Tư pháp và Viện Khoa học pháp lý (2007) Từ điển Thuật ngữ Luật học, Nxb Bách khoa và Nxb Tư pháp, Hà Nội. 9. ộ Tư pháp (1957) Thông tư số 141-HCTP về tổ chức và phân công nội bộ của Tòa án, ban hành ngày 05/12/1957, Hà Nội. 10. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946) Sắc lệnh số 13, ban hành ngày 24/01/1946, Hà Nội. 11. Lê Thành Dương (2014) “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kháng nghị phúc thẩm hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 12, tr.32 – 40. 12. Đại học Luật Hà Nội (2008) Giáo trình Luật Tố tụng hình sự của nước cộng hòa xã hội chủ ngh a Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 13. Đại học Luật Hà Nội (2017) Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 14. Đại học Quốc gia Hà Nội (2013) Giáo trình Luật Tố tụng hình sự của nước cộng hòa xã hội chủ ngh a Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 15. Nguyễn Duy Giảng (2008) “Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp”, website Viện kiểm sát nhân dân tối cao 16. Đỗ Ngọc Hải (2013) “ àn về pháp chế xã hội chủ nghĩa trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, website Tạp chí tổ chức Nhà nước ong_dieu_kien_xay_dung_va_hoan_thien_nha_nuoc_phap_quyen_xa_hoi _chuall.html>, (29/10/2013). 17. Phạm Mạnh Hùng (2018) Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb Lao động, Hà Nội. 18. Phạm Xuân Khoa (2014) “ àn về vai trò, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 23, tr. 12-15. 19. Tạ Trung Kiên (2013) “Một số đề xuất tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự trong thời gian tới”, Tạp chí Kiểm sát, số 23, tr.16 - 19. 20. Hoàng Phê (2012) Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. 21. Đinh Văn Quế (2011) “Một số vấn đề về kháng nghị theo thủ tục Phúc thẩm vụ án hình sự”, website Tòa án nhân dân tối cao, =1754190&p_cateid=1751909&item_id=13771831&article_details=1>, (29/12/2011). 22. Quốc hội (1988) Bộ luật tố tụng hình sự, ban hành ngày 26/6/1988, Hà Nội. 23. Quốc hội (2003) Bộ luật tố tụng hình sự, ban hành ngày 26/11/2003, Hà Nội. 24. Quốc hội (2015) Bộ luật tố tụng hình sự, ban hành ngày 27/11/2015, Hà Nội. 25. Quốc hội (1959) Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ban hành ngày 31/12/1959, Hà Nội. 26. Quốc hội (2013) Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ ngh a Việt Nam, ban hành ngày 28/11/2013, Hà Nội. 27. Quốc hội (1960) Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, ban hành ngày 26/7/1960, Hà Nội. 28. Quốc hội (1981) Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, ban hành ngày 04/7/1981, Hà Nội. 29. Quốc hội (2002) Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, ban hành ngày 02/4/2002, Hà Nội. 30. Quốc hội (2014) Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, ban hành ngày 24/11/2014, Hà Nội. 31. Quốc hội (2012) Nghị quyết 37 2012 QH13 về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, ban hành ngày 23/11/2012, Hà Nội. 32. Tòa án nhân dân tối cao (1974) Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng phúc thẩm về hình sự kèm theo Thông tư số 1 TATC, ban hành ngày 02/10/1974, Hà Nội. 33. Tòa án nhân dân tối cao (2005) Nghị quyết 05 2005 NQ-HĐTP của Hội đ ng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ tư “ ét xử phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự, ban hành ngày 08/12/2005, Hà Nội. 34. Võ Khánh Vinh (2004) Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 35. Viện ngôn ngữ học (2010) Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội. 36. Viện ngôn ngữ học (2016) Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, Hà Nội. 37. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008) (2016)Chỉ thị số 03 200 CT-VKSTC-VPT1 ngày 1 6 200 và Chỉ thị số 0 2016 CT- VKSTC ngày 06 4 2016 về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự. 38. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2012) (2017) Quyết định số 2 7 QĐ- VKSTC ngày 13 6 2012 và Quyết định số 37 !Đ-VKSTC ngày 10/10/2017 về hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ trong Ngành kiểm sát nhân dân. 39. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2014-2018) Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát, các năm (2014) (2015) (2016) (2017) (2018). 40. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2017) Chuyên đề những giải pháp nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, Thái Nguyên. PHỤ LỤC ảng 2.1 Thống kê số vụ án và bị cáo xét xử sơ thẩm và thụ lý phúc thẩm từ
năm 2014 đến 201 Năm Tổng số vụ án và ị cáo đ Tổng số vụ án và ị cáo thụ xét xử sơ thẩm lý phúc thẩm Số vụ Số ị cáo Số vụ Số ị cáo 2014 1401 2497 265 452 2015 1335 2420 229 352 2016 1311 2389 194 318 2017 1372 2433 209 335 2018 1419 2502 231 389 Tổng 6838 12241 1128 1846 Trung bình 1367 2448 225 369 (Nguồn: Thống kê của VKSND tỉnh Thái Nguyên) ảng 2.2 Thống kê số vụ án, bị cáo thụ lý phúc thẩm và số vụ án, bị cáo thụ lý phúc thẩm kháng nghị T lệ Tổng số vụ án và ị cáo Tổng số vụ án và ị cáo c số ị cáo ị thụ lý phúc thẩm kháng nghị phúc thẩm kháng nghị so với Năm VKS cấp trên kháng nghị số ị cáo thụ lý Số vụ Số ị cáo Số vụ Số ị cáo Số vụ Số ị cáo phúc thẩm 03 04 3,5% 2014 12 16 265 452 03 04 2,8% 2015 09 10 229 352 04 08 4,4% 2016 10 14 194 318 04 08 4,5% 2017 11 15 209 335 03 05 3,1% 2018 10 12 231 389 17 29 Tổng số 52 67 1128 1846 3 6 3,7% Trung bình 10 13 225 369 (Nguồn: Thống kê của VKSND tỉnh Thái Nguyên) 83 ảng 2.3 Thống kê số vụ án, bị cáo được đưa ra xét xử phúc thẩm và số vụ án, bị cáo có kháng nghị phúc thẩm được
đưa ra xét xử Tổng số vụ án và ị cáo T lệ Tổng số vụ án và ị cáo c kháng nghị được đưa ra xét xử phúc số ị cáo được đưa ra xét xử phúc thẩm Năm thẩm c kháng nghị đưa ra XXPT Số vụ Số ị cáo Số vụ Số ị cáo 2014 131 261 14 5,4% 10 2015 110 181 10 5,5% 09 2016 94 169 12 7,1% 08 2017 90 158 13 8,2% 09 2018 113 201 12 6% 10 Tổng 538 970 61 6,3% 46 84 (Nguồn: Thống kê của VKSND tỉnh Thái Nguyên) ảng 2.4 Thống kê kết quả giải quyết các vụ án có kháng nghị phúc thẩm Kết quả giải quyết Tổng số vụ án và VKS ảo vệ kháng nghị ị cáo c kháng nghị Năm VKS rút kháng nghị Số vụ án và ị cáo phúc thẩm Chấp nhận Kh ng chấp nhận c KN đưa ra XXPT Số vụ Số ị cáo Số vụ Số ị cáo Số vụ Số ị cáo Số vụ Số ị cáo Số vụ Số ị cáo 2014 02 02 07 10 03 04 12 16 14 10 2015 0 0 07 08 02 02 09 10 10 09 2016 02 02 06 07 02 05 10 14 12 08 2017 02 02 07 11 02 02 11 15 13 09 2018 0 0 09 11 01 01 10 12 12 10 61 46 Tổng 06 06 36 47 10 14 52 67 85 (Nguồn: Thống kê của VKSND tỉnh Thái Nguyên) ảng 2.5 Thống kê kết quả xét xử theo thủ tục phúc thẩm Số vụ án, ị cáo xét xử theo thủ tục phúc thẩm Số vụ án, ị cáo Tòa án tuyên hủy, sửa án sơ thẩm Năm Tổng số Tổng số C kháng nghị của
VKS Kh ng c kháng nghị
của VKS Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo 07 10 2014 131 261 75 68 172 172 07 08 2015 110 181 72 65 108 116 06 07 2016 94 169 69 63 107 114 07 11 2017 90 158 53 46 75 86 09 11 2018 113 201 58 49 87 98 36 47 Tổng số 538 970 327 291 539 586 86 (Nguồn: Thống kê của VKSND tỉnh Thái Nguyên)81
82
83
84
85