VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ QUỲNH ANH

KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG

HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI NGUYÊN

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự

Mã số : 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. PHẠM MẠNH HÙNG

1

HÀ NỘI, 2019

LỜI CAM OAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, chưa

được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn

trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.

Người cam đoan

Trần Thị Quỳnh Anh

MỤC LỤC

MỞ ẦU ...................................................................................................................... 1

Chương 1. NHỮNG VẤN Ề LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ ........................................................... 7

1.1. Những vấn đề lý luận về kháng nghị phúc thẩm hình sự ....................................... 7

1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về kháng nghị phúc thẩm

hình sự ......................................................................................................................... 18

Chương 2. THỰC TRẠNG KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ CỦA

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HAI CẤP TỈNH THÁI NGUYÊN ..................... 34

2.1. Khái quát thực trạng kháng nghị phúc thẩm hình sự tại tỉnh Thái Nguyên ......... 34

2.2. Những kết quả đạt được trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của

VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên ............................................................................. 36

2.3. Những tồn tại, hạn chế trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của

VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên ............................................................................. 47

Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC .. 61

KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ .............................................................. 61

3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm . 61

3.2. Tăng cường việc triển khai, áp dụng các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự

về kháng nghị phúc thẩm ............................................................................................ 62

3.3. Tăng cường và đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành; công tác thanh tra,

kiểm tra trong nội bộ ngành Kiểm sát, trong đó có công tác kháng nghị phúc thẩm . 64

3.4. Nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ và trách nhiệm của Kiểm sát viên về

công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự ...................................................................... 68

3.5. Tăng cường sự chỉ đạo, phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tỉnh Thái

Nguyên ........................................................................................................................ 71

3.6. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong việc giải

quyết kháng nghị phúc thẩm hình sự .......................................................................... 73

3.7. Tăng cường công tác kiểm sát các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án ................. 74

3.8. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chính sách chế độ đối với cán

bộ, Kiểm sát viên ......................................................................................................... 76

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 81

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT T T

BLTTHS : ộ luật Tố tụng hình sự

BLHS : ộ luật Hình sự

CHXHCN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

TAND : Tòa án nhân dân

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

VKS : Viện kiểm sát

MỞ ẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hiện chức năng thực hành

quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và

pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; bảo vệ chế độ xã hội chủ

nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân,

góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Điều này đã được quy định cụ thể tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và

Khoản 1, Điều 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.

Kể từ khi thành lập đến nay, ngành Kiểm sát nhân dân đã đạt được nhiều

kết quả tích cực trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động

tư pháp, góp phần đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều

tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm

và làm oan người vô tội. Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền

công tố thông qua việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý để truy cứu

trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Đồng thời, VKSND còn thực hiện

chức năng kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án với một quyền năng pháp lý

quan trọng là kháng nghị phúc thẩm. Quyền năng này được quy định trong ộ

luật Tố tụng hình sự và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân để kháng nghị

những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng

cấp và cấp dưới trực tiếp, trong trường hợp việc xét xử của Tòa án vi phạm

pháp luật nghiêm trọng các quy định của Luật hình sự, Tố tụng hình sự hoặc

sau phiên tòa xét xử sơ thẩm mà phát hiện thấy quá trình tố tụng từ khi khởi tố

vụ án hình sự đến truy tố, xét xử có vi phạm pháp luật cả về hình thức và nội

1

dung. Viện kiểm sát kháng nghị để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án

theo trình tự phúc thẩm nhằm sửa chữa, khắc phục các sai lầm của Tòa án cấp

sơ thẩm khi ra các bản án, quyết định có vi phạm.

Trong những năm qua công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của

VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên đã có những chuyển biến tích cực, đa số

các bản kháng nghị có bố cục chặt chẽ, lập luận rõ ràng, viện dẫn căn cứ pháp

lý chính xác, tính tranh tụng trong kháng nghị đã được nâng lên. Do vậy, tỷ lệ

kháng nghị được Viện kiểm sát cấp trên bảo vệ cũng cao hơn, số lượng kháng

nghị năm sau cao hơn năm trước. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc kháng

nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát còn nhiều hạn chế chưa phát

huy được hết chức năng, nhiệm vụ của Ngành. Công tác kiểm sát bản án, biên

bản nghị án, biên bản phiên tòa và các tài liệu khác thực hiện chưa tốt, dẫn

đến vi phạm của cấp sơ thẩm không bị phát hiện, mặt khác do trình độ nhận

thức của Kiểm sát viên không đầy đủ, chất lượng bản kháng nghị chưa đạt,

nên có nhiều quyết định kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát ban hành

chưa chính xác, dẫn đến nhiều vụ án Viện kiểm sát phải rút kháng nghị, tỷ lệ

kháng nghị được Tòa án chấp nhận còn thấp trong khi số lượng án sơ thẩm

phải sửa, hủy án thông qua kháng cáo chiếm tỷ lệ khá lớn. Công tác kháng

nghị phúc thẩm chưa thật sự được quan tâm đúng mức nên chưa phát huy

được hết vai trò, chức năng nhiệm vụ của Ngành trong quá trình giải quyết án

hình sự.

Với mong muốn từ quá trình nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn về

kháng nghị phúc thẩm hình sự nói chung va kháng nghị phúc thẩm hình sự từ

thực tiễn tỉnh Thái Nguyên nói riêng, qua đó tìm ra nguyên nhân và kiến nghị

những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm thời gian

tới, học viên lựa chọn đề tài: “Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng

hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên” làm luận văn thạc sỹ luật

học của mình.

2

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Hiện nay, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về chế định kháng nghị phúc

thẩm hình sự dưới nhiều góc độ, phương diện khác nhau, cụ thể:

- Các công trình nghiên cứu về những vấn đề lý luận về kháng nghị

phúc thẩm hình sự: GS. TS Võ Khánh Vinh (2004), ình luận khoa học ộ

luật TTHS, Nxb. Công an nhân dân; TS. Phạm Mạnh Hùng (2018), ình luận

khoa học ộ luật TTHS, Nxb Lao động; Đại học Luật Hà Nội (2017) Giáo

trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân; Đinh Văn Quế

(2007), Bàn thêm về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án hình sự, Tạp

chí Kiểm sát (số 15); Ngô Thanh Xuyên (2012), Bàn về khái niệm kháng cáo,

kháng nghị phúc thẩm hình sự, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (số 6)…

- Các công trình nghiên cứu về những bất cập, hạn chế trong các quy

định pháp luật về kháng nghị phúc thẩm hình sự: Hoàng Thị Minh Sơn

(2013), Một số bất cập trong quy định của Bộ luật TTHS về kháng nghị theo

thủ tục phúc thẩm, Tạp chí Luật học (số 8); Mai Thanh Hiếu (2015), Khái

niệm hiệu lực của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng

hình sự, Tạp chí Luật học (số 1)…

- Các công trình nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật về kháng

nghị phúc thẩm hình sự: Vũ Đức Thành (2010), Đôi điều rút ra qua thực hiện

công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng

Ninh, Tạp chí Kiểm sát (số 16); Lê Thành Dương (2014), Một số vấn đề lý

luận và thực tiễn về kháng nghị phúc thẩm hình sự, VKSND tối cao…

- Các công trình nghiêm cứu về các giải pháp nâng cao hiệu quả công

tác kháng nghị phúc thẩm hình sự: Ngô Thanh Xuyên, Đỗ Mạnh Phương

(2014), Hoàn thiện các quy định về kháng nghị phúc thẩm hình sự trong Bộ

luật Tố tụng hình sự hiện hành, Tạp chí Kiểm sát (số 17); Nguyễn Thị Lan

3

(2017), Giải pháp nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình

sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, Tạp chí Kiểm sát (số 3)…

Nhìn chung, các bài viết và công trình nghiên cứu về kháng nghị phúc

thẩm hình sự đã có sự phân tích, đánh giá ở những phương diện khác nhau,

tuy nhiên thường chỉ tập trung giải quyết một hoặc một vài nội dung nhất định

mà chưa có bài viết nào đi sâu nghiên cứu, phân tích về chế định kháng nghị

phúc thẩm ở cả phương diện lý luận và thực tiễn công tác này của VKSND

hai cấp tỉnh Thái Nguyên.

Vì vậy, đề tài nghiên cứu của luận văn lựa chọn vấn đề phân tích, đánh

giá về những kết quả đã đạt được, những mặt còn tồn tại, hạn chế trong công

tác kháng nghị phúc thẩm; lý giải những yếu tố ảnh hưởng và đê xuất những

giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng kháng nghị phúc

thẩm hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn hướng đến mục đích đánh giá khách quan, toàn diện công tác

kháng nghị phúc thẩm, chỉ ra được những tồn tại, hạn chế để đề xuất các giải

pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự

của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung vào thực hiện

những nhiệm vụ chính như:

- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật tố

tụng hình sự Việt Nam về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát.

- Phân tích, đánh giá toàn diện việc thực hiện pháp luật và thực tiễn

công tác kháng nghị phúc thẩm của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên. Từ

đó, nêu lên được những mặt tích cực cũng như những tồn tại, hạn chế trong

4

việc thực hiện công tác kháng nghị phúc thẩm và chỉ ra nguyên nhân của tồn

tại, hạn chế đó.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công

tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của ngành Kiểm sát nói chung và của

VKSND tỉnh Thái Nguyên nói riêng.

4. ối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: luận văn đi vào nghiên cứu các quy định của

pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm hình sự của VKS, có sự so

sánh đối chiếu giữa LTTHS năm 2003 với LTTHS năm 2015; Luật tổ

chức VKSND năm 2002 và 2014, liên hệ với thực tiễn tỉnh Thái Nguyên.

- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu toàn diện thực trạng công tác kháng

nghị phúc thẩm hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên trong thời gian

từ năm 2014 đến năm 2018.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận: Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp

luận là phép duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà

nước pháp quyền XHCN Việt Nam, về cải cách tư pháp.

- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích,

tổng hợp, lịch sử cụ thể, hệ thống, thống kê, so sánh – đối chiếu…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực

tiễn, các quy định về kháng nghị phúc thẩm hình sự theo pháp luật tố tụng

hình sự Việt Nam, đồng thời đề ra giải pháp hoàn thiện một số vấn đề lý luận

về thủ tục phúc thẩm.

- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần đánh

giá thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự trong 05 năm vừa qua

5

và nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục kháng nghị phúc thẩm của VKSND hai

cấp tỉnh Thái Nguyên.

7. Kết cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của Luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị

phúc thẩm hình sự

Chương 2: Thực trạng kháng nghị phúc thẩm hình sự của viện kiểm sát nhân

dân hai cấp tỉnh thái nguyên

Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc

thẩm hình sự

6

Chương 1

NHỮNG VẤN Ề LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ

KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ

1.1. Những vấn đề lý luận về kháng nghị phúc thẩm hình sự

1.1.1. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm hình sự

Theo khoản 1, Điều 107 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

(CHXHCN) Việt Nam năm 2013, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền

công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Khoản 1, Điều 2, Luật tổ chức VKSND

năm 2014, VKSND có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt

động tư pháp.

VKSND là cơ quan duy nhất được giao chức năng thực hành quyền

công tố. Hoạt động này được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố,

xét xử vụ án hình sự nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội,

không làm oan người vô tội. Trong giai đoạn xét xử, VKSND thực hiện chức

năng thực hành quyền công tố để bảo vệ quan điểm truy tố theo cáo trạng, bảo

đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đồng thời, VKSND còn

thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án. Nếu xét thấy bản

án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục

tố tụng hoặc vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật hình sự, xâm

phạm đến lợi ích của Nhà nước, xã hội và quyền, lợi ích hợp pháp của những

người tham gia tố tụng thì Viện kiểm sát (VKS) cùng cấp hoặc cấp trên trực

tiếp sẽ sử dụng một quyền năng pháp lý đặc biệt để yêu cầu Tòa án cấp trên

tiến hành xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm, đó là quyền kháng nghị

phúc thẩm hình sự.

7

Khoản 1, Điều 5 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “Trường

hợp hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong

hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con

người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của

tổ chức, cá nhân thì VKSND phải kháng nghị. Cơ quan, người có thẩm quyền

phải giải quyết kháng nghị của VKSND theo quy định của pháp luật”. Như

vậy, kháng nghị là một quyền năng pháp lý quan trọng của VKS khi thực hiện

chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình.

Theo Từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ “kháng nghị” là bày tỏ ý kiến

chống lại điều đã quyết nghị [20, tr. 894]; “phúc thẩm” là xét lại những vụ án

do Tòa án dưới đưa lên [20, tr. 1087].

Theo Từ điển Luật học, “kháng nghị” của VKS là việc VKS khi thực

hành quyền kiểm sát hoạt động tư pháp không đồng ý với toàn bộ hoặc một

phần bản án, quyết định của Tòa án, gửi văn bản đến Tòa án có thẩm quyền

làm ngưng hiệu lực thi hành đối với toàn bộ hoặc một phần bản án đó để xét

xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đảm bảo cho vụ án

được xét xử chính xác, khách quan, đúng pháp luật [8, tr. 731]; “Kháng nghị

theo thủ tục phúc thẩm” chỉ có VKS cùng cấp, cùng lãnh thổ với Tòa án đã ra

bản án, quyết định sơ thẩm và VKS cấp trên trực tiếp của VKS này mới có

quyền kháng nghị những bản án, quyết định sơ thẩm.

Từ đó, có thể hiểu kháng nghị là hành vi tố tụng của VKS, thể hiện việc

không đồng ý với toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa án, với

mục đích bảo đảm cho việc xét xử được chính xác, khách quan, công bằng

đồng thời khắc phục, sửa chữa những sai sót trong bản án, quyết định của Tòa

án [3].

Điều 232 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2003 quy định:

“Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng

8

nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm”. Điều 36 LTTHS năm 2003

quy định: “…2. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp

luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát

có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: i) Kháng nghị theo thủ tục phúc

thẩm các bản án, quyết định của Tòa án”.

Khoản 2, Điều 41 LTTHS năm 2015 quy định Viện trưởng VKS có

quyền: “o) Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản

án, quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ luật này”.

Khoản 3, Điều 4 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “Khi thực

hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm

vụ, quyền hạn sau đây: d) Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi

phạm pháp luật”.

Như vậy, pháp luật đã quy định rõ khi xét thấy những bản án và quyết

định sơ thẩm của Tòa án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng thì VKS cùng

cấp và VKS cấp trên trực tiếp có thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm. Kháng

nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý quan trọng, xuất phát từ chức

năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực

hình sự của VKS và xuất phát từ nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự

nước ta đó là bảo đảm hai cấp xét xử. Theo nội dung của nguyên tắc này, một

vụ án có thể được xét xử qua hai cấp, từ đó những vấn đề của vụ án sẽ một lần

nữa được xem xét, phân tích, đánh giá, làm cơ sở cho các phán quyết của Tòa

án đảm bảo độ chính xác, khách quan cao hơn. Thông qua hoạt động xét xử

vụ án hình sự qua hai cấp xét xử, Tòa án cấp phúc thẩm có thể kịp thời sửa

chữa những sai lầm, thiếu sót trong những bản án, quyết định của Tòa án cấp

sơ thẩm. Đồng thời, việc xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử sẽ

giúp tìm ra nguyên nhân của những sai lầm hay những vi phạm pháp luật

9

trong việc áp dụng pháp luật của Tòa án nói riêng và các cơ quan tiến hành tố

tụng nói chung.

Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, kháng nghị của VKS

không phải chỉ có trong trình tự phúc thẩm mà còn là căn cứ để xét xử giám

đốc thẩm hoặc tái thẩm. Cụ thể, kháng nghị là căn cứ để xét xử theo thủ tục

giám đốc thẩm thì gọi là kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, nếu kháng

nghị là căn cứ để xét xử theo thủ tục tái thẩm thì gọi là kháng nghị theo thủ

tục tái thẩm, nếu kháng nghị là căn cứ để xét xử theo thủ tục phúc thẩm thì

gọi là kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên, do giới hạn của phạm vi

nghiên cứu nên đề tài chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về kháng nghị phúc thẩm

hình sự.

Khái niệm kháng nghị phúc thẩm hình sự đã được đề cập nhiều trong

khoa học pháp lý nước ta. Tuy nhiên, trong LTTHS hiện hành, các văn pháp

pháp lý khác và trong các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học vẫn

chưa đưa ra một định nghĩa thống nhất về khái niệm “kháng nghị phúc thẩm

hình sự”. Có tác giả cho rằng kháng nghị phúc thẩm là quyền năng pháp lý

được Nhà nước giao cho VKSND để kháng nghị những bản án, quyết định sơ

thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng cấp và cấp dưới trực tiếp khi

phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng để yêu cầu Tòa án cấp trên trực

tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp

luật, nghiêm minh và kịp thời [11]. Quan điểm khác lại định nghĩa kháng nghị

phúc thẩm là một văn bản do VKS ban hành yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm

xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử nhưng xét thấy không đúng

pháp luật [21].

Trên cơ sở phân tích nội dung, đặc điểm, đặc trưng, mục đích của

kháng nghị phúc thẩm hình sự, nghiên cứu các tài liệu có liên quan cũng như

tiếp thu các quan điểm của các nhà khoa học về tố tụng hình sự, tác giả đưa ra

10

định nghĩa về kháng nghị phúc thẩm hình sự như sau: Kháng nghị phúc thẩm

hình sự là quyền năng pháp lý mà Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân

thể hiện quan điểm của Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp, yêu cầu

Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại bản án, quyết định hình sự sơ thẩm chưa có

hiệu lực pháp luật theo trình tự phúc thẩm. Qua đó nhằm bảo đảm việc xét xử

của Tòa án được thực hiện theo đúng pháp luật, việc xét xử nghiêm minh, kịp

thời, đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không

làm oan người vô tội.

1.1.2. Đặc điểm của kháng nghị phúc thẩm hình sự

Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án hình sự có một số đặc điểm

cơ bản như sau:

- Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý mà Nhà nước

giao cho VKSND. Đây là chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS đã được

quy định tại Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm

2013 và được cụ thể hóa trong Luật tổ chức VKSND năm 2014. Thông qua

công tác kháng nghị, VKS đồng thời thực hiện được chức năng thực hành

quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.

Khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “Thực hành quyền

công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để

thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện

ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong

suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”.

ên cạnh chức năng thực hành quyền công tố thì VKS còn có nhiệm vụ

quan trọng khác trong tố tụng hình sự, đó là chức năng kiểm sát các hoạt động

tư pháp. Theo đó, VKS sẽ kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định

của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay

từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

11

và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự cho đến khi thi hành các bản

án, quyết định của Tòa án. Như vậy, hai chức năng này của VKS được thực

hiện xuyên suốt trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự và thông qua

hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa sơ thẩm,

VKS phát hiện có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng thì VKS có quyền

kháng nghị phúc thẩm. Điều 23 LTTHS năm 2003, nay là Điều 20 LTTHS

năm 2015 quy định trách nhiệm của VKS khi thực hành quyền công tố và

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, cụ thể “Viện kiểm sát

thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng

hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm

mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật

đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra,

truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt

tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô

tội”. Như vậy, khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố trong giai

đoạn xét xử vụ án hình sự, VKS kháng nghị các bản án, quyết định của Tòa

án trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, pháp

nhân phạm tội; khi kiểm sát việc xét xử vụ án hình sự, VKS kháng nghị đối

với bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.

- Hoạt động kháng nghị phúc thẩm xuất hiện khi VKS nhận thấy có

những “vi phạm pháp luật nghiêm trọng” trong bản án, quyết định sơ thẩm

của Tòa án cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp. Vấn đề đặt ra ở đây là đánh giá

mức độ vi phạm pháp luật của bản án, quyết định như thế nào? Có quan điểm

cho rằng, khi đánh giá mức độ vi phạm thì chỉ cần xác định bản án, quyết

định có sự vi phạm pháp luật là đã có căn cứ để kháng nghị phúc thẩm. Mặt

khác, Điều 32 Quy chế về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét

xử các vụ án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 505/2017/QĐ-VKSTC

12

ngày 18/12/2017 của VKSND tối cao nêu căn cứ để kháng nghị phúc thẩm là

có “vi phạm pháp luật”, tức là vi phạm trong việc áp dụng pháp luật nội dung

(luật hình sự) và vi phạm pháp luật hình thức (luật tố tụng hình sự).

Tuy nhiên, Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã quy định rõ mức độ vi

phạm làm căn cứ cho việc kháng nghị phúc thẩm phải là “vi phạm pháp luật

nghiêm trọng”. Cụ thể Điều 5 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định

VKSND có quyền kháng nghị, kiến nghị. Theo đó, quyền kháng nghị được

thực hiện khi phát hiện hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có

thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có “vi phạm pháp luật nghiêm trọng”,

xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và

lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì VKSND phải kháng nghị; quyền

kiến nghị được VKSND thực hiện khi phát hiện hành vi, quyết định của cơ

quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp có “vi phạm pháp luật ít

nghiêm trọng” không thuộc trường hợp kháng nghị thì VKSND kiến nghị cơ

quan, tổ chức, cá nhân đó khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm minh

người vi phạm pháp luật. Như vậy, không phải đối với vi phạm pháp luật nào

trong hoạt động tư pháp VKS cũng ban hành kháng nghị mà kháng nghị của

VKS chỉ được ban hành đối với những vi phạm pháp luật nghiêm trọng.

- Đối tượng của kháng nghị phúc thẩm là bản án, quyết định sơ thẩm

chưa có hiệu lực pháp luật. Hoạt động kháng nghị là một trong những căn cứ

để Tòa án xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm. Theo quy định tại Điều

230 LTTHS 2003 nay là Điều 330 LTTHS 2015 thì xét xử phúc thẩm là

một thủ tục tố tụng hình sự, tính chất của xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp

trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án,

quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo

hoặc kháng nghị. Xét xử phúc thẩm góp phần bảo đảm cho việc xét xử đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật, kịp thời khắc phục những sai lầm, thiếu sót

13

có thể xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Như vậy, một bản án, quyết

định sơ thẩm sẽ được xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm khi có đủ hai điều

kiện: bản án, quyết định đó chưa có hiệu lực pháp luật và bị kháng cáo hoặc

kháng nghị. Điều này khác với kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái

thẩm có đối tượng là bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

- Kháng nghị phúc thẩm góp phần cho một trong những nguyên tắc cơ

bản của tố tụng hình sự là chế độ hai cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm) được

bảo đảm. Theo nguyên tắc này, bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực

pháp luật của Tòa án bị kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Sau

khi vụ án được xét xử phúc thẩm thì bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực

pháp luật và được đưa ra thi hành, không phụ thuộc vào việc bản án, quyết

định đó có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Còn

giám đốc thẩm, tái thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là thủ tục “xét

lại” bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng phát hiện có vi

phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án (đối với thủ tục giám

đốc thẩm) hoặc có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội

dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết

định đó (đối với thủ tục tái thẩm).

- VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản

án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Ở thủ tục giám đốc thẩm,

tái thẩm do tính chất “xét lại” bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là

đặc biệt nên thẩm quyền kháng nghị đã được giới hạn. Theo đó, thẩm quyền

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thuộc về VKSND tối cao, TAND tối

cao, Tòa án quân sự Trung ương, Viện kiểm sát quân sự trung ương, VKSND

cấp cao và TAND cấp cao; thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm chỉ

14

có Viện trưởng VKSND tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung

ương và Viện trưởng VKSND cấp cao.

Từ những phân tích trên về đặc điểm của kháng nghị phúc thẩm hình sự

có thể thấy, kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý đặc biệt mà

Nhà nước giao cho VKSND. Kháng nghị phúc thẩm hình sự được VKS cùng

cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp thực hiện khi phát hiện bản án, quyết định sơ

thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án có vi phạm pháp luật nghiêm

trọng, để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án đó theo trình tự phúc thẩm

nhằm kịp thời sửa chữa, khắc phục những thiếu sót, vi phạm của Tòa án cấp

dưới, đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời, đồng thời

bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức xã hội và Nhà nước.

1.1.3. Vai trò của kháng nghị phúc thẩm hình sự

- Việc quy định và thực hiện tốt công tác kháng nghị phúc thẩm hình

sự có vai trò quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo đảm

pháp chế xã hội chủ nghĩa. Quy định này góp phần quan trọng vào việc thực

thi pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính thống nhất của pháp luật, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Xuất phát từ chức năng thực hành

quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự của mình, VKS sẽ phát

hiện kịp thời những vi phạm pháp luật nghiêm trọng, từ đó ban hành kháng

nghị nói chung và kháng nghị phúc thẩm nói riêng làm căn cứ bảo đảm hoạt

động xét xử của Tòa án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, bảo

đảm nhận thức và áp dụng thống nhất pháp luật, bảo đảm cho quyền và lợi ích

hợp pháp của những người tham gia tố tụng, không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt

tội phạm, không làm oan người vô tội.

- Việc quy định và thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm là căn cứ

quan trọng làm phát sinh thủ tục phúc thẩm. Xét xử phúc thẩm có mục đích là

kiểm tra lại tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm và xét xử lại vụ án

15

về mặt nội dung. Từ đó, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và

của công dân được bảo vệ; những thiếu sót, vi phạm trong hoạt động xét xử

của Tòa án cấp sơ thẩm được khắc phục, sửa chữa; pháp luật được hướng dẫn,

giải thích và áp dụng thống nhất.

- Việc thực hiện tốt công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự có vai trò

quan trọng trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm

sát các hoạt động tư pháp của VKS. Việc phát hiện ra những vi phạm để ban

hành kháng nghị và yêu cầu Tòa án xét xử vụ án theo trình tự phúc thẩm sẽ

góp phần bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công

dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích

hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp

hành nghiêm chỉnh, được áp dụng và thực thi thống nhất. Thật vậy, hiểu được

tầm quan trọng của khâu công tác này, trong những năm quan Viện trưởng

VKSND tối cao đã ban hành nhiều Chỉ thị về tăng cường công tác kháng nghị

phúc thẩm hình sự. Trên cơ sở đó đã tạo nhiều chuyển biến mới đối với công

tác này trong ngành Kiểm sát nhân dân.

1.1.4. Hiệu lực của kháng nghị phúc thẩm hình sự

Hiệu lực của kháng nghị phúc thẩm là sự phát sinh việc thực hiện thẩm

quyền của Tòa án cấp phúc thẩm và giới hạn việc thực hiện thẩm quyền xem

xét và quyết định của tòa án trong giới hạn xét xử sơ thẩm, phạm vi và hướng

kháng nghị theo quy định của pháp luật với điều kiện kháng nghị phúc thẩm

hợp pháp về đối tượng, chủ thể, thời hạn, hình thức và thủ tục kháng nghị.

Hiệu lực của kháng nghị là bảo đảm pháp lý cần thiết cho việc thực

hiện đúng thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm; bảo đảm cho việc xét xử lại vụ

án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm, tìm ra nguyên nhân của sai lầm hay vi

phạm về pháp luật trong việc giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố

tụng nói chung và Tòa án cấp sơ thẩm nói riêng, từ đó tìm ra giải pháp thích

16

hợp để sửa chữa sai lầm, vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm, nâng cao trách

nhiệm của Tòa án cấp sơ thẩm trong việc giải quyết vụ án. Việc Tòa án cấp

phúc thẩm sửa hoặc hủy bản án, quyết định sơ thẩm chính là hình thức hướng

dẫn áp dụng pháp luật của Tòa án phúc thẩm đối với Tòa án sơ thẩm, bảo đảm

tính thống nhất trong việc áp dụng, thi hành pháp luật, góp phần nâng cao

chất lượng xét xử và phòng ngừa sai lầm, vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm.

1.1.5. Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự

Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án cấp sơ thẩm và Viện kiểm sát cấp

trên trực tiếp là các chủ thể có thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm. Quyền

kháng nghị của VKS cấp trên trực tiếp là quyền độc lập chứ không phải chỉ

bổ sung cho quyền kháng nghị của VKS cấp dưới. Trong trường hợp kháng

nghị của VKS cấp dưới và VKS cấp trên trực tiếp có nội dung bổ sung cho

nhau thì Tòa án cấp phúc thẩm xem xét cả hai quyết định kháng nghị. Trong

trường hợp kháng nghị của VKS cấp dưới và cấp trên trực tiếp có nội dung

mâu thuẫn nhau mà VKS cấp dưới không rút kháng nghị của mình, VKS cấp

trên trực tiếp không rút kháng nghị của VKS cấp dưới thì Tòa án cấp phúc

thẩm chỉ xem xét kháng nghị của VKS cấp trên trực tiếp.

1.1.6. Thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự

Thời hạn kháng nghị phúc thẩm là khoảng thời gian cần thiết theo quy

định của pháp luật để VKS cùng cấp và VKS cấp trên trực tiếp thực hiện việc

kháng nghị. Thời hạn kháng nghị phúc thẩm tính từ thời điểm bắt đầu đến

thời điểm kết thúc thời hạn kháng nghị. Để xác định thời điểm bắt đầu thời

hạn kháng nghị, pháp luật quy định ngày được xác định, tùy từng trường hợp

ngày được xác định là ngày Tòa án tuyên án, ra quyết định hoặc ngày bản án,

quyết định sơ thẩm được giao hoặc được niêm yết. Để xác định thời điểm kết

thúc thời hạn kháng nghị, pháp luật quy định ngày cuối cùng của thời hạn.

Trong trường hợp ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ theo quy định của

17

pháp luật thì thời hạn kháng nghị được kéo dài đến hết ngày làm việc đầu tiên

tiếp theo của ngày nghỉ đó.

Sự kết thúc thời hạn kháng nghị có hậu quả tước bỏ quyền kháng nghị

phúc thẩm của VKS, làm cho bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp

luật. Vì vậy, kháng nghị quá hạn là kháng nghị vô hiệu, trừ trường hợp có lí

do chính đáng và được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận. Lí do chính đáng

của việc kháng nghị quá hạn là trường hợp do trở ngại khách quan không thể

vượt qua, chủ thể của quyền kháng nghị phúc thẩm tuyệt đối không thể thực

hiện việc kháng nghị trong thời hạn luật định.

1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về kháng

nghị phúc thẩm hình sự

1.2.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định của

pháp luật về kháng nghị phúc thẩm hình sự

Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 24

tháng 01 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 13,

một trong những văn bản đầu tiên đặt nền móng cho việc hình thành nền tư

pháp xét xử của chế độ mới. Theo đó, chế độ hai cấp xét xử đã được bảo đảm

và “quyền chống án” đã được ghi nhận cho những chủ thể tố tụng khác nhau.

Cụ thể, tại Điều 54 Sắc lệnh số 13 quy định: “Tòa đại hình sơ thẩm, ông Biện

lý có quyền chống án lên Tòa thượng thẩm”.

Sau đó, thuật ngữ “kháng nghị” chính thức được ghi nhận vào năm

1957, tại điểm c Điều I mục II Thông tư số 141-HCTP ngày 5 tháng 12 năm

1957 của ộ Tư pháp về tổ chức và phân công nội bộ của Tòa án. Theo đó,

Công tố ủy viên, dưới sự lãnh đạo của ộ Tư pháp, có nhiệm vụ theo dõi việc

xét xử và hòa giải tòa án nhân dân có hợp pháp không, kháng nghị đối với các

bản án hoặc nghị quyết của tòa án xét không đúng pháp luật [1].

18

Đến năm 1959, lần đầu tiên trong Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa có những quy định về hệ thống tổ chức, chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn của VKS. Để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, ngày 15/7/1960,

Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thông qua Luật tổ chức Viện

kiểm sát nhân dân, quy định một cách cụ thể về hệ thống tổ chức, chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn của VKS. Trong đó, Điều 17 Luật tổ chức Viện kiểm sát

nhân dân năm 1960 đã quy định VKSND tối cao và các VKSND địa phương

có một quyền quan trọng, đó là “kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ

thẩm của Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới một cấp”.

Kế thừa những quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm

1960, ngày 04/7/1981, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật

tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981. Theo đó, Điều 13 của Luật quy

định khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử, các VKSND có quyền “kháng

nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án và quyết định sơ thẩm chưa có hiệu

lực pháp luật của Tòa án nhân dân cùng cấp và dưới một cấp, khi thấy có vi

phạm pháp luật”. Như vậy, quy định này của điều luật đã chính thức ghi nhận

thuật ngữ “kháng nghị phúc thẩm”.

Tiếp đó, Điều 19 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 được

Quốc hội thông qua ngày 02/4/2002 tiếp tục quy định: “Khi thực hành quyền

công tố và kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có

quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm… các bản án, quyết định của Tòa

án nhân dân theo quy định của pháp luật”. Đến Luật tổ chức Viện kiểm sát

nhân dân năm 2014 được Quốc hội thông qua ngày 24/11/2014 đã quy định

cụ thể tại Điều 18 của Luật, khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét

xử vụ án hình sự VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn “kháng nghị bản án, quyết

định của Tòa án trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người

phạm tội”. Và Điều 19 của Luật quy định khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự,

19

VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn “kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án

có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng”.

Như vậy, qua các giai đoạn lịch sử, quy định về kháng nghị phúc thẩm

hình sự về hình thức có những tên gọi khác nhau, từng bước đã có sự thay

đổi, bổ sung, hoàn thiện hơn, dần đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng thực

hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của VKS. Có thể nói, chế định kháng

nghị phúc thẩm hình sự đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần cho phù hợp với

tình hình thực tế của mỗi thời kỳ cách mạng Việt Nam.

Trong pháp luật tố tụng hình sự, khi LTTHS chưa được ra đời, các

quy định về kháng nghị phúc thẩm hình sự được thực hiện theo ản hướng

dẫn về trình tự tố tụng phúc thẩm về hình sự kèm theo Thông tư số 19/TATC

ngày 02/10/1974 của TAND tối cao. Sau đó, khi LTTHS ra đời, chế định

kháng nghị phúc thẩm hình sự được quy định tại Phần thứ tư, Chương XXII,

các Điều 206, 207, 208, 210, 211, 212, 213 của LTTHS năm 1988. Đến

LTTHS 2003, chế định này được quy định tại Phần thứ tư, Chương XXIII,

các Điều 230, 232, 233, 234, 236, 237, 238, 239. Theo đó, cả hai ộ luật trên

đều quy định Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có

quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm; kháng nghị được

thể hiện bằng văn bản, có nói rõ lý do và được gửi đến Tòa án đã xử sơ thẩm;

thời hạn kháng nghị là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (theo LTTHS 1998)

hoặc 15 ngày đối với VKS cùng cấp, 30 ngày đối với VKS cấp trên trực tiếp,

kể từ ngày tuyên án (theo LTTHS 2003). Đồng thời, quy định rõ về hậu quả

của kháng nghị cũng như thủ tục thông báo về việc kháng nghị, bổ sung, thay

đổi, rút kháng nghị.

Kế thừa những quy định trên, LTTHS năm 2015 tiếp tục quy định về

chế định này tại Chương XXII ở các Điều 336, 337, 338, 339, 342, 343. Từ

những quy định trên, có thể thấy rằng, từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam

20

Dân chủ Cộng hòa cho đến nay, pháp luật tố tụng hình sự đều có những quy

định nêu rõ chỉ có VKS mới có quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự.

1.2.2. Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về

kháng nghị phúc thẩm hình sự

1.2.2.1. Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm

Theo quy định tại khoản 1, Điều 336 LTTHS năm 2015 thì VKSND

cùng cấp với Tòa án đã ra bản án, quyết định sơ thẩm và VKSND cấp trên

trực tiếp của VKSND đó có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm bản án

hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Người có thẩm quyền

quyết định việc kháng nghị phúc thẩm là Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS

(quy định tại Điều 41 LTTHS 2015).

Điều 36 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử

các vụ án hình sự (ban hanh kèm theo Quyết định số 505/2017/QĐ-VKSTC

ngày 18/12/2017của Viện trưởng VKSND tối cao) đã nêu cụ thể: Viện

trưởng, Phó Viện trưởng VKSND cấp huyện kháng nghị theo thủ tục phúc

thẩm đối với những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của

TAND cấp huyện; Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND cấp tỉnh kháng

nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu

lực pháp luật của TAND cấp huyện, cấp tỉnh; Viện trưởng, Phó Viện trưởng

VKSND cấp cao kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm bản án, quyết định sơ

thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm

quyền theo lãnh thổ.

Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định về hệ thống

VKSND gồm có 04 cấp: VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương (VKSND cấp tỉnh), VKSND huyện, quận,

thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương (VKSND cấp huyện). Sau khi

Nghị quyết số 82/2014/QH13 ngày 24/11/2014 của Quốc hội về việc thi hành

21

Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân có hiệu lực thi hành thì VKSND tối cao

chuyển giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử phúc thẩm

cho VKSND cấp cao. Theo đó Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND cấp

cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết

định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND tỉnh thành phố trực thuộc

trung ương. Như vậy, đây là quy định mới thay đổi về thẩm quyền kháng nghị

phúc thẩm bởi VKSND tối cao không còn chức năng kháng nghị phúc thẩm

mà chuyển quyền năng này cho VKSND cấp cao.

VKS có thể kháng nghị toàn bộ hoặc một phần của bản án, quyết định;

đối với tất cả bị cáo và những người tham gia tố tụng khác hoặc chỉ với một

số người; hướng kháng nghị của VKS cũng không bị hạn chế. Do thẩm quyền

kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm thuộc về VKS cùng cấp và

VKS cấp trên trực tiếp nên sẽ có những trường hợp xảy ra như:

- Nếu hai bản kháng nghị có tính chất bổ sung cho nhau thì tòa án cấp

phúc thẩm sẽ chấp nhận để xét xử theo cả hai bản kháng nghị đó.

- Nếu hai bản kháng nghị mâu thuẫn nhau, VKS cùng cấp không rút

kháng nghị của mình, VKS cấp trên không hủy kháng nghị của VKSND cấp

dưới thì tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét kháng nghị của VKS cấp trên trực

tiếp do nguyên tắc hoạt động của VKSND là tập trung thống nhất lãnh đạo

trong ngành.

1.2.2.2. Phạm vi kháng nghị

Điều 239 LTTHS năm 2003 quy định về kháng cáo, kháng nghị

những quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, tuy nhiên tại Khoản 2 của điều luật

chỉ liệt kê các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo, đó là

quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, còn các quyết định của Tòa án

cấp sơ thẩm mà VKS có quyền kháng nghị lại không được quy định cụ thể. Vì

vậy, từ nội dung của điều luật ta có thể hiểu rằng VKS có thể kháng nghị phúc

22

thẩm đối với tất cả các quyết định tố tụng của Tòa án cấp sơ thẩm nếu phát

hiện quyết định đó có vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Đến LTTHS năm

2015 đã quy định cụ thể các quyết định sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng

nghị tại Khoản 2 Điều 330, đó là quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ

vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo, quyết định đình

chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo và quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm

theo quy định của LTTHS 2015.

1.2.2.3. Thời hạn kháng nghị phúc thẩm

Thời hạn kháng nghị là khoảng thời gian nhất định mà LTTHS quy

định cho phép VKS kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án. Thời

hạn kháng nghị phúc thẩm được tính kể từ thời điểm bắt đầu đến thời điểm

kết thúc thời hạn kháng nghị. Hệ quả của việc kết thúc thời hạn kháng nghị sẽ

làm mất quyền kháng nghị của VKS, khi đó bản án, quyết định của Tòa án

cấp sơ thẩm có hiệu lực pháp luật.

Điều 234 LTTHS năm 2003 quy định thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Tức là đã quy định chung thời hạn kháng nghị phúc thẩm của VKS đối với

bản án với thời hạn kháng cáo. Tiếp đó, thời hạn kháng nghị những quyết

định của Tòa án sơ thẩm được quy định tại Khoản 1 Điêu 239 LTTHS 2003.

LTTHS năm 2015 không tách biệt quy định về thời hạn kháng nghị đối với

bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm thành 02 điều luật khác nhau mà

xây dựng riêng một điều luật mới và vẫn giữ nguyên về mức thời hạn. Cụ thể,

Điều 337 LTTHS năm 2015 quy định: “1. Thời hạn kháng nghị của Viện

kiểm sát cùng cấp đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, của

Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày Tòa án tuyên án. 2.

Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định của Tòa

án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày kể

từ ngày Tòa án ra quyết định”. Sự thay đổi trên về kỹ thuật lập pháp đã phân

23

tách rõ giữa thời hạn kháng cáo và thời hạn kháng nghị, tránh nhầm lẫn giữa

hai thời hạn, từ đó tránh những vi phạm về thời hạn kháng nghị.

1.2.2.4. Căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự

Cũng giống như các BLTTHS trước đó, LTTHS năm 2015 chưa có

quy định cụ thể về những căn cứ để kháng nghị phúc thẩm. Tuy nhiên, trên cơ

sở các quy định của LTTHS về căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa

bản án sơ thẩm (Điều 357 LTTHS 2015), hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại

hoặc xét xử lại (Điều 358 LTTHS 2015), hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ

án (Điều 359 LTTHS 2015). Đồng thời, áp dụng quy định tại Điều 37 Quy

chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự

(ban hanh kèm theo Quyết định số 505/2017/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017

của Viện trưởng VKSND tối cao thì có thể xác định căn cứ kháng nghị phúc

thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật như sau:

- Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm không đầy đủ dẫn đến

đánh giá không đúng tính chất của vụ án.

Tức là khi tiến hành thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử chỉ

hỏi thiên về một mặt, một khía cạnh, không điều tra xét hỏi đầy đủ các mặt,

các khía cạnh của vấn đề, không làm rõ được những vấn đề cần phải chứng

minh trong vụ án hình sự theo quy định tại Điều 85 LTTHS 2015. Hoặc việc

điều tra xét hỏi đã bỏ sót một hoặc một số tình tiết về từng sự việc, từng tội

trong một vụ án, không điều tra xét hỏi đối với người tham gia tố tụng dẫn

đến việc không đảm bảo đủ cơ sở để đánh giá tính chất của vụ án. Việc điều

tra, xét hỏi không đầy đủ như trên đã dẫn đến việc không đánh giá đúng tính

chất của vụ án, nội dung của vụ án bị đánh giá sai lệch, do đó VKS cần phải

kháng nghị để xem xét, đánh giá lại tính chất vụ án đảm bảo chính xác, khách

quan nhất.

24

- Kết luận, quyết định trong bản án, quyết định sơ thẩm không phù

hợp với các tình tiết khách quan của vụ án.

Điều này có nghĩa là, trong phần xét thấy, phần quyết định của bản án

hoặc quyết định sơ thẩm có những vấn đề không phù hợp với các tình tiết

khách quan đã được điều tra, xác minh, thu thập trong hồ sơ vụ án và đã được

xem xét tại phiên tòa hoặc những tình tiết khách quan của vụ án được làm rõ

tại phiên tòa qua phần xét hỏi, tranh luận. Kết luận trong bản án hoặc quyết

định sơ thẩm bị coi là không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án

có thể là một trong các trường hợp sau: kết luận không phù hợp với các chứng

cứ, tài liệu đã được điều tra, xác minh tại phiên tòa; có sự mâu thuẫn giữa các

chứng cứ; tại phiên tòa không xem xét tình tiết có ý nghĩa quan trọng đối với

vụ án mà Tòa án dựa vào đó để kết luận về vụ án…

- Có sai lầm trong việc áp dụng các quy định của ộ luật hình sự, ộ

luật Dân sự và các văn bản pháp luật khác.

Kết quả của sai lầm trong việc áp dụng pháp luật có thể dẫn đến việc để

xảy ra oan, sai. Trong khoa học pháp lý hình sự, khái niệm “oan” có thể được

hiểu là “Trường hợp không có sự việc phạm tội, hành vi không cấu thành tội

phạm, do bị vu cáo, dựng vụ án giả hoặc hành vi do người khác thực hiện,

nhưng một người vẫn bị điều tra, truy tố, xét xử và kết tội”. Khái niệm về

“sai” có thể được hiểu là trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng và người

tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự một cách không khách quan, không

đầy đủ, trái với những quy định của pháp luật. Việc để xảy ra sai trong xét xử

vụ án hình sự với các biểu hiện như việc áp dụng pháp luật hình thức, pháp

luật nội dung không đúng, không đầy đủ, không khách quan, việc áp dụng các

tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với một người phạm tội

chưa chính xác…

25

Việc có những sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật có thể dẫn

đến việc bỏ lọt tội phạm. iểu hiện cụ thể của việc bỏ lọt tội phạm là việc bỏ

lọt hành vi phạm tội, bỏ lọt người phạm tội, hoặc qua việc điều tra, truy tố xác

định đối tượng có dấu hiệu của tội phạm nhưng khi tiến hành xét xử, Tòa án

cấp sơ thẩm tuyên bố là không có tội. Đối với trường hợp Tòa án tuyên bố

không có tội, theo quy định tại Khoản 2 Điều 250 LTTHS năm 2003 nay là

Điều 358 LTTHS 2015 thì đây la một căn cứ để Tòa án cấp phúc thẩm hủy

bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm, do đó VKS hoàn toàn có quyền

kháng nghị phúc thẩm trong trường hợp này.

Sai lầm trong việc áp dụng các quy định của LHS thường xuất phát từ

việc hiểu và vận dụng các quy định có sự sai sót, không chỉ là sai điều khoản

áp dụng đối với hành vi phạm tội mà còn không đúng với các quy định có liên

quan trong việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của người

phạm tội. Đó có thể là áp dụng sai điểm, khoản, điều luật của LHS dẫn đến

xét xử bị cáo về tội nặng hơn hoặc tội nhẹ hơn, về khoản nặng hơn hoặc nhẹ

hơn không đúng với nguyên tắc xử lý vụ án. Việc áp dụng pháp luật không

chính xác sẽ dấn đến việc quyết định hình phạt không tương xứng với tính

chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội hay việc áp dụng

một số căn cứ không có cơ sở để thực hiện việc quyết định hình phạt dưới

mức thấp nhất của khung hình phạt là không đúng.

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có

vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.

Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng theo quy định tại

Điều 53, 254 LTTHS năm 2015 hoặc thuộc các trường hợp Hội đồng xét xử

sơ thẩm không đúng Hội đồng xét xử trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Ví

dụ: thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm đối với vụ án có bị cáo về tội mà

LHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử hình

26

phải gồm 02 Thẩm phán và 03 Hội thẩm nhưng phiên tòa xét xử sơ thẩm chỉ

có 01 Thẩm phán và 02 Hội thẩm.

Có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng là trường hợp khi điều

tra, truy tố, xét xử LTTHS quy định bắt buộc phải tiến hành một thủ tục tố

tụng nào đó, nhưng cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không

thực hiện hoặc thực hiện không đúng, dẫn đến việc xâm phạm nghiêm trọng

đến quyền lợi của bị can, bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ

liên quan đến vụ án, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự hoặc làm cho việc giải

quyết vụ án thiếu khách quan toàn diện. Ví dụ, hoạt động điều tra, truy tố, xét

xử không thực hiện đúng quy định về sự tham gia của người bào chữa trong

trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa; Tòa án xét xử không đúng thẩm

quyền, vi phạm quy định về giới hạn xét xử hoặc không thực hiện việc hoãn

phiên tòa khi phải hoãn phiên tòa theo luật định...

1.2.2.5. Trình tự, thủ tục kháng nghị phúc thẩm hình sự

Khi xét thấy có căn cứ để tiến hành việc kháng nghị phúc thẩm, VKS

thực hiện việc ban hành Quyết định kháng nghị. Trong đó có các nội dung

chính như ngày, tháng, năm ban hành quyết định; số của quyết định; tên của

VKS ra quyết định; phạm vi kháng nghị là toàn bộ hay một phần bản án,

quyết định sơ thẩm; lý do, căn cứ kháng nghị và yêu cầu của VKS; họ tên,

chức vụ của người ký kháng nghị; nêu rõ những vi phạm pháp luật cụ thể của

bản án, quyết định về đánh giá chứng cứ, về vận dụng chính sách pháp luật,

về áp dụng thủ tục tố tụng và nêu quan điểm của VKS về việc giải quyết vụ

án theo đúng quy định của pháp luật. Nếu Điều 233 LTTHS năm 2003 chỉ

quy định kháng nghị được gửi đến duy nhất Tòa án đã xét xử sơ thẩm; hình

thức của kháng nghị được thể hiện bằng văn bản, có nêu rõ lý do thì Khoản 2

Điều 338 LTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể hơn về thủ tục gửi quyết

định kháng nghị: Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định kháng

27

nghị, Viện kiểm sát phải gửi quyết định kháng nghị kèm theo chứng cứ, tài

liệu, đồ vật bổ sung (nếu có) cho Tòa án đã xét xử sơ thẩm, đồng thời gửi

quyết định kháng nghị cho bị cáo và những người liên quan đến kháng nghị

nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người liên quan đến kháng nghị. VKS đã

kháng nghị phải gửi quyết định kháng nghị cho VKS khác có thẩm quyền

kháng nghị, cụ thể như sau: Kháng nghị cùng cấp của VKSND cấp tỉnh gửi

VKSND cấp cao, kháng nghị cùng cấp của VKS quân sự cấp quân khu gửi VKS

quân sự trung ương, kháng nghị của VKSND cấp cao gửi VKSND tối cao.

Để đảm bảo cho việc giải quyết phúc thẩm đối với kháng nghị của VKS

được kịp thời, khách quan và chính xác, Điều 339 LTTHS năm 2015 đã bổ

sung một nội dung mới quy định về nghĩa vụ của Tòa án cấp sơ thẩm bên

cạnh việc gửi hồ sơ vụ án, kháng nghị đồng thời phải gửi các chứng cứ, tài

liệu, đồ vật kèm theo (nếu có) cho Tòa án cấp phúc thẩm trong thời hạn 07

ngày kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị.

Điều 242 LTTHS năm 2003 quy định nghĩa vụ của Tòa án chậm nhất

là 15 ngày trước ngày mở phiên tòa, Tòa án cấp phúc thẩm phải thông báo

bằng văn bản cho VKS cùng cấp về thời gian, địa điểm xét xử phúc thẩm vụ

án. Tuy nhiên không có điều luật nào quy định về việc Tòa án cấp phúc thẩm

phải chuyển hồ sơ vụ án cho VKS cùng cấp để nghiên cứu tham gia thủ tục

phúc thẩm. Khi đó, việc chuyển hồ sơ cho VKS cùng cấp để nghiên cứu được

thực hiện theo hướng dẫn tại Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP ngày

08/12/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một

số quy định trong phần xét xử phúc thẩm của ộ luật tố tụng hình sự năm

2003. Khắc phục điều này, LTTHS năm 2015 đã quy định chặt chẽ hơn,

theo đó Điều 341 LTTHS năm 2015 đã quy định nghĩa vụ của Tòa án cấp

phúc thẩm phải chuyển hồ sơ vụ án cho VKS cùng cấp sau khi thụ lý vụ án,

đồng thời quy định rõ thời hạn VKS phải trả lại hồ sơ cho Tòa án, cụ thể

28

trong thời hạn 15 ngày đối với VKSND cấp tỉnh và VKS quân sự cấp quân

khu, 20 ngày đối với VKSND cấp cao, VKS quân sự trung ương kể từ ngày

nhận được hồ sơ vụ án. Trường hợp vụ án thuộc loại tội đặc biệt nghiêm

trọng, phức tạp thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 25 ngày đối

với VKSND cấp tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu, 30 ngày đối với VKSND

cấp cao, VKS quân sự trung ương.

1.2.2.6. Thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị

Khi VKS đã gửi kháng nghị, Tòa án đã thụ lý ở cấp phúc thẩm, tuy

nhiên VKS nhận thấy quyết định kháng nghị chưa đầy đủ, cần bổ sung kháng

nghị, nội dung kháng nghị cần phải thay đổi cho phù hợp hay VKS nhận thấy

việc kháng nghị là không đúng quy định, không cần thiết nên cần rút kháng

nghị thì VKS sẽ thực hiện việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị.

Điều 238 LTTHS năm 2003 quy định “Viện kiểm sát có quyền bổ

sung, thay đổi kháng nghị…; rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị”. Điều

này đã dẫn đến những cách hiểu khác nhau về việc VKS cấp nào có quyền bổ

sung, thay đổi kháng nghị, rút kháng nghị? Trong trường hợp kháng nghị trên

cấp thì VKS cấp dưới có quyền bổ sung, thay đổi kháng nghị hay không?

Hoặc trong trường hợp ngược lại, VKS cấp dưới kháng nghị thì VKS cấp trên

trực tiếp có quyền bổ sung, thay đổi kháng nghị không? Đối với trường hợp

rút kháng nghị khi VKS cấp dưới kháng nghị nhưng VKS cấp trên trực tiếp có

quyền rút kháng nghị hay không và ngược lại? Trong những năm qua, nội

dung này được thực hiện theo hướng dẫn của Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP

ngày 08/12/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Quy

chế thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự ban hành kèm

theo Quyết định số 960/2007/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện trưởng

VKSND tối cao. Theo đó, Điều 37 Quy chế quy định với trường hợp bổ sung,

thay đổi, rút kháng nghị trước khi mở phiên tòa, VKS đã kháng nghị hoặc

29

VKS cấp trên trực tiếp có quyền bổ sung, thay đổi kháng nghị của mình hoặc

của VKS cấp dưới nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo; rút

một phần hoặc toàn bộ kháng nghị. Việc bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị

phải do lãnh đạo Viện quyết định bằng văn bản, có nêu rõ lý do. Tại phiên tòa

việc bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị do KSV tham gia phiên tòa quyết định,

nhưng phải có căn cứ và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Sau phiên

tòa KSV phải báo cáo ngay với lãnh đạo Viện và lãnh đạo đơn vị.

Khắc phục việc quy định chưa rõ ràng của LTTHS năm 2003,

LTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể tại Điều 342, theo đó thời điểm rút

kháng nghị của VKS có thể là trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa

phúc thẩm; thẩm quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị là của VKS ra quyết

định kháng nghị; VKS ra quyết định kháng nghị hoặc VKS cấp trên trực tiếp

có quyền rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị. Trường hợp thay đổi, bổ

sung kháng nghị khi vẫn còn thời hạn kháng nghị thì VKS đã kháng nghị có

quyền thay đổi, bổ sung nội dung bản kháng nghị đối với một phần hoặc toàn

bộ bản án, quyết định mà VKS có quyền kháng nghị theo hướng có lợi hoặc

bất lợi cho bị cáo. Nếu VKS rút kháng nghị, tuy nhiên sau đó nhận thấy việc

rút là không chính xác, có căn cứ để thực hiện việc kháng nghị lại và thời hạn

kháng nghị vẫn còn thì VKS có quyền được kháng nghị lại.

Trong trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị phúc thẩm thì trước khi

bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, VKS ra quyết định kháng nghị

vẫn có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị nhưng không được làm xấu đi tình

trạng của bị cáo. Thay đổi, bổ sung kháng nghị làm xấu đi tình trạng của bị

cáo là thay đổi, bổ sung theo hướng đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tăng hình

phạt, chuyển khung hình phạt nặng hơn; áp dụng điều luật của LHS về tội

nặng hơn; không cho bị cáo được hưởng án treo đối với bị cáo đã được Tòa

án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo; không cho bị cáo được miễn trách nhiệm

30

hình sự, miễn hình phạt đối với bị cáo đã được Tòa án cấp sơ thẩm miễn trách

nhiệm hình sự, miễn hình phạt, tăng mức bồi thường thiệt hại; áp dụng thêm

hình phạt bổ sung; áp dụng thêm biện pháp tư pháp đối với bị cáo...

Điều 238 LTTHS năm 2003 quy định VKS có quyền rút một phần

hoặc toàn bộ kháng nghị, tuy nhiên chỉ quy định hậu quả pháp lý trong trường

hợp VKS rút toàn bộ kháng nghị mà không quy định hậu quả pháp lý trong

trường hợp VKS rút một phần kháng nghị; chỉ đặt vấn đề đối với phần kháng

nghị bị rút trước khi mở phiên tòa thì mặc nhiên bị đình chỉ mà không quy

định rõ trong trường hợp phần kháng nghị rút lại có liên quan đến kháng nghị

khác thì sẽ giải quyết như thế nào? Điều 342 LTTHS năm 2015 quy định

một cách chặt chẽ hơn, theo đó khi VKS rút một phần kháng nghị trước khi

mở phiên tòa mà xét thấy không liên quan đến kháng nghị khác thì Hội đồng

xét xử phúc thẩm nhận định về việc rút một phần kháng nghị và quyết định

đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng nghị đó trong bản án phúc thẩm;

việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị trước khi mở phiên tòa phải được lập

thành văn bản và gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm phải

thông báo cho Viện kiểm sát, bị cáo và những người có liên quan đến kháng

nghị biết về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị. Việc thay đổi, bổ sung, rút

kháng nghị tại phiên tòa được ghi vào biên bản phiên tòa. Trường hợp VKS

rút một phần kháng nghị tại phiên tòa mà xét thấy không liên quan đến kháng

nghị khác thì Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định về việc rút một phần

kháng nghị và quyết định đình chỉ xét xử đối với phần kháng nghị đó trong

bản án phúc thẩm.

1.2.2.7. Hậu quả pháp lý của kháng nghị phúc thẩm hình sự

Hậu quả pháp lý của kháng nghị phúc thẩm được quy định tại Điều 237

LTTHS 2003, nay là Điều 339 LTTHS 2015. Điều 237 LTTHS năm

2003 đã thiếu sót khi chỉ quy định về hậu quả pháp lý của việc kháng nghị đối

31

với những phần của bản án bị kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành trừ

trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 255 của LTTHS năm 2003 mà không

quy định về hậu quả pháp lý đối với những phần của quyết định bị kháng

nghị. Mặt khác, Điều 237 LTTHS năm 2003 quy định trong trường hợp

kháng nghị đối với toàn bộ bản án thì toàn bộ bản án chưa được đưa ra thi

hành mà không quy định trường hợp loại trừ là không đảm bảo.

Khắc phục những thiếu sót trên, Điều 339 LTTHS năm 2015 đã quy

định chặt chẽ hơn, theo đó những phần của bản án, quyết định của Tòa án bị

kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp quy định tại Điều

363 “Trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định

đình chỉ vụ án, tuyên bị cáo không có tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn

hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là hình phạt tù hoặc phạt tù

nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời

hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay,

mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị. Hình phạt cảnh cáo được thi

hành ngay tại phiên tòa”. Đồng thời, khi có kháng nghị đối với toàn bộ bản

án, quyết định thì toàn bộ bản án, quyết định chưa được đưa ra thi hành, trừ

trường hợp quy định tại Điều 363 LTTHS năm 2015. Khi giải quyết kháng

nghị phúc thẩm, có thể đưa đến kết quả Tòa án cấp phúc thẩm không chấp

nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm, sửa bản án sơ thẩm hoặc hủy

bản án sơ thẩm.

Tiểu kết Chương 1

Kháng nghị phúc thẩm hình sự là một quyền năng pháp lý quan trọng

của VKSND, xuất phát từ chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát

hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự và xuất phát từ nguyên tắc cơ bản

trong tố tụng hình sự nước ta đó là bảo đảm hai cấp xét xử. Kháng nghị phúc

thẩm không chỉ là quyền mà còn là trách nhiệm của VKS nhằm bảo vệ pháp

32

chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của

Nhà nước, của công dân.

Các quy định của pháp luật TTHS đã tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho

VKS thực hiện tốt nhiệm vụ kháng nghị phúc thẩm. Có thể thấy rằng các quy

định của pháp luật TTHS về kháng nghị phúc thẩm đã từng bước được cụ thể

hóa, đầy đủ hơn, thay đổi rõ ràng hơn, đây sẽ là cơ sở quan trọng góp phần

nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự.

Trên cơ sơ lý luận về kháng nghị phúc thẩm hình sự, tác giả trình bày

về thực trạng của công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh

Thái Nguyên trong những năm gần đây tại phần sau của luận văn.

33

Chương 2

THỰC TRẠNG KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ CỦA VIỆN

KIỂM SÁT NHÂN DÂN HAI CẤP TỈNH THÁI NGUYÊN

2.1. Khái quát thực trạng kháng nghị phúc thẩm hình sự tại tỉnh

Thái Nguyên

Trong những năm qua, VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên luôn quan

tâm, chú trọng tới công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, đặc biệt sau khi có

Chỉ thị 03/2008/CT-VKSTC-VPT1 ngày 19/6/2008 (Chỉ thị 03) và sau đó là

Chỉ thị 08/CT-VKSTC ngày 06/4/2016 của Viện trưởng VKSND tối cao (Chỉ

thị 08) về việc tiếp tục tăng cường công tác kháng nghị án hình sự thì công tác

kháng nghị phúc thẩm hình sự đã đi vào nề nếp, ban hành nhiều bản kháng

nghị có chất lượng, khắc phục được nhiều vi phạm pháp luật của Tòa án cấp

sơ thẩm, bảo đảm việc giải quyết các vụ án hình sự đúng pháp luật, nghiêm

minh, xét xử đúng người, đúng tội, không để lọt tội phạm và không làm oan

người vô tội. Qua số liệu thống kê của VKSND tỉnh Thái Nguyên từ ngày 01

tháng 12 năm 2013 đến ngày 30 tháng 11 năm 2018 cho thấy:

Theo bảng biểu số 2.1 và 2.2 thì: Số vụ án và bị cáo đưa ra xét xử sơ

thẩm là 6838 vụ/12241 bị cáo; số vụ án và bị cáo được thụ lý phúc thẩm là

1128 vụ/1846 bị cáo, trong đó số vụ án và bị cáo bị VKSND hai cấp tỉnh Thái

Nguyên kháng nghị phúc thẩm là 52 vụ/67 bị cáo. Như vậy, trung bình mỗi

năm đã xét xử sơ thẩm 1367 vụ/2448 bị cáo; thụ lý phúc thẩm là 225 vụ/369

bị cáo; ban hành 10 kháng nghị phúc thẩm; tỷ lệ giữa bị cáo có kháng nghị so

với tổng số bị cáo thụ lý phúc thẩm là 3,7% (trong đó năm 2014 là 3,5%; năm

2015 là 2,8%; năm 2016 là 4,4%; năm 2017 la 4,5%; năm 2018 là 3,1%).

Kháng nghị trên một cấp vẫn còn ít, sự phối kết hợp giữa hai cấp sơ thẩm,

phúc thẩm trong công tác kháng nghị còn hạn chế. Từ năm 2014 đến năm

34

2018, VKSND tỉnh kháng nghị đối với 29 bị cáo, chiếm tỷ lệ 43,3% trên tổng

số bị cáo do hai cấp kháng nghị.

ảng biểu số 2.3 thể hiện, trong 05 năm từ năm 2014 đến năm 2018, số

vụ án được đưa ra xét xử phúc thẩm là 538 vụ/970 bị cáo, trong đó số vụ có

kháng nghị đưa ra xét xử phúc thẩm là 46 vụ/61 bị cáo, số bị cáo kháng cáo

đưa ra xét xử là 492 vụ/909 bị cáo. Như vậy, đối với các vụ án đã đưa ra xét

xử phúc thẩm thì tỷ lệ giữa số bị cáo có kháng nghị chiếm tỷ lệ rất thấp, chỉ

6,3% so với số bị cáo đã đưa ra xét xử phúc thẩm (cụ thể: năm 2014: 5,4%;

năm 2015: 5,5%; năm 2016: 7,1%; năm 2017: 8,2%; năm 2018: 6%).

Kết quả giải quyết các vụ án có kháng nghị phúc thẩm của VKS hai cấp

tỉnh Thái Nguyên theo bảng 2.4 trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018

như sau: số vụ án và bị cáo bị VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên kháng nghị

phúc thẩm là 52 vụ/67 bị cáo; số vụ VKS rút kháng nghị: 06 vụ/06 bị cáo

(chiếm tỷ lệ 8,9%); số vụ VKS cấp tỉnh bảo vệ kháng nghị là 46 vụ/61 bị cáo,

trong đó Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận kháng nghị đối với 36 vụ/47 bị

cáo (chiếm tỷ lệ 70,1%), không chấp nhận kháng nghị đối với 10 vụ/14 bị cáo

(chiếm tỷ lệ 21%). Phần lớn các kháng nghị của VKS được cấp phúc thẩm

chấp nhận đều là kháng nghị yêu cầu khắc phục những sai sót của Tòa án cấp

sơ thẩm như: đề nghị tăng án; chuyển hình phạt từ cho hưởng án treo sang

hình phạt tù; về áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; về

xác định sai tư cách những người tham gia tố tụng; về tổng hợp hình phạt…

Theo bảng biểu số 2.5 thể hiện kết quả xét xử theo thủ tục phúc thẩm

cho thấy: tổng số bị cáo bị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy, sửa án là 586 bị

cáo trên tổng số bị cáo Tòa án đưa ra xét xử 970 bị cáo (chiếm tỷ lệ 60,4%).

Tổng số bị cáo bị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy, sửa án thông qua kháng

nghị là 47 bị cáo trên tổng số bị cáo bị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy, sửa

35

586 bị cáo (chiếm tỷ lệ 8%). Như vậy, số bị cáo bị Tòa án phúc thẩm hủy, sửa

án vẫn chủ yếu là thông qua kháng cáo.

2.2. Những kết quả đạt được trong công tác kháng nghị phúc thẩm

hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên

2.2.1. Những kết quả đạt được

Xác định được tầm quan trọng của công tác kháng nghị phúc thẩm hình

sự, VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên đã tiếp tục quán triệt, triển khai thực

hiện nghiêm túc Chỉ thị 03 và Chỉ thị 08 của Viện trưởng VKSND tối cao,

từng bước đưa công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự đi vào nề nếp và có

những chuyển biến nhất định, đa số các bản kháng nghị có bố cục chặt chẽ,

lập luận rõ ràng, viện dẫn căn cứ pháp lý chính xác, tính tranh tụng trong

kháng nghị đã được nâng lên. Hình thức kháng nghị tuân thủ đúng mẫu kháng

nghị của Ngành, thể thức văn bản và thời hạn kháng nghị đảm bảo theo quy

định của pháp luật. Do vậy tỷ lệ kháng nghị được Viện kiểm sát cấp trên bảo

vệ cũng cao hơn, tỷ lệ kháng nghị được tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận cũng

cao hơn, công tác kháng nghị đã khắc phục những thiếu sót của Tòa án trong

việc quyết định hình phạt ở nhiều vụ án, góp phần đấu tranh kiên quyết và có

hiệu quả đối với các loại tội phạm.

Phần lớn kháng nghị của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên là đề nghị

tăng án; chuyển hình phạt từ cho hưởng án treo sang hình phạt tù; về áp dụng

tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; về xác định sai tư cách

những người tham gia tố tụng; về tổng hợp hình phạt…

Các quyết định kháng nghị của VKS thường tập trung vào các sai phạm

sau của Tòa án:

a) Kháng nghị do xác định sai tư cách người tham gia tố tụng

Ví dụ: vụ án Trần Quang Luyến phạm tội “Vi phạm quy định về điều

khiển phương tiện giao thông đường bộ” bị Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ

36

áp dụng điểm c khoản 2 Điều 202 BLHS 1999 xử phạt 03 năm tù. Ngày

06/5/2015, VKSND huyện Đồng Hỷ kháng nghị, đề nghị hủy án sơ thẩm để

xét xử lại do xác định sai tư cách người tham gia tố tụng.

Bản án phúc thẩm số 109/2015/HSPT ngày 30/6/2015 của TAND tỉnh

Thái Nguyên đã tuyên chấp nhận kháng nghị, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số

32/2015/HSST ngày 23/4/2015 của TAND huyện Đồng Hỷ để giải quyết lại

theo thủ tục chung.

Cụ thể, trong vụ án này, chiếc xe ô tô mà bị cáo Trần Quang Luyến

điều khiển gây tai nạn thuộc sở hữu của Công ty TNHH Thắng Lá, bị cáo là

người lái thuê và hưởng lương theo hợp đồng lao động. Tòa án cấp sơ thẩm

đã xác định công ty TNHH Thắng Lá tham gia tố tụng với tư cách nguyên

đơn dân sự. Tuy nhiên, theo quy định của Điều 623 ộ luật dân sự và Nghị

quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán TAND

tối cao hướng dẫn thì trong vụ án này, công ty TNHH Thắng Lá phải có trách

nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Căn cứ Điều 53 LTTHS 2003

thì phải xác định công ty TNHH Thắng Lá là bị đơn dân sự.

Tuy nhiên việc Tòa án cấp sơ thẩm chưa nghiên cứu đầy đủ các quy

định của pháp luật, dẫn đến xác định công ty TNHH Thắng Lá tham gia tố

tụng với tư cách nguyên đơn dân sự là không chính xác, sai tư cách người

tham gia tố tụng. Vấn đề này dẫn đến sai lầm trong việc giải quyết đúng đắn

vụ án, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của những người tham gia tố tụng và vi

phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Vì vậy, việc VKS cấp sơ thẩm kháng nghị

đối với bản án trên là hoàn toàn chính xác và cần thiết, nhằm đảm bảo vụ án

được giải quyết đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những

người tham gia tố tụng.

b) Kháng nghị do mức hình phạt không tương xứng với tính chất, mức

độ của hành vi phạm tội.

37

* Vụ án Lê Quang Lâm, phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

( ản án hình sự phúc thẩm số 170/2015/HSPT ngày 23/10/2015).

Nội dung vụ án: hồi 17h30’ ngày 08/4/2015, tổ công tác Công an huyện

Phú Lương nhận được tin báo tại nhà Lê Quang Lâm đang có biểu hiện mua

bán trái phép chất ma túy. Khi thấy tổ công tác đến Lâm dùng tay phải lấy 01

gói ni lon màu hồng từ trong túi quần đang mặc ra ném vào gầm ghế. Công an

phát hiện lập biên bản thu giữ, kiểm tra bên trong túi ni lon có một số cục chất

bột màu trắng, theo Lâm khai là heroin mua về để sử dụng và bán kiếm lời

nhưng chưa kịp bán thì bị phát hiện thu giữ. Qua cân tịnh túi ni lon có trọng

lượng 17,30 gam. Qua giám định chất bột màu trắng thu giữ của Lâm là

heroin có hàm lượng 67,6%. Như vậy, số lượng heroin thu giữ của Lâm là

17,30g x 67,6% = 11,6948 gam. Tòa án sơ thẩm tuyên phạt bị cáo Lê Quang

Lâm 08 năm tù, phạt bổ sung 05 triệu đồng.

ản án sơ thẩm số 61/2015/HSST ngày 18/8/2015 của TAND huyện

Phú Lương áp dụng điểm h, khoản 2, khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1,

khoản 2 Điều 46 LHS 1999 xử phạt 08 năm tù, phạt bổ sung 05 triệu đồng.

VKSND huyện Phú Lương kháng nghị đề nghị tăng mức hình phạt đối với bị

cáo Lâm. Tòa án phúc thẩm chấp nhận toàn bộ kháng nghị của VKSND

huyện Phú Lương, sửa bản án sơ thẩm, tăng mức hình phạt đối với Lê Quang

Lâm lên 11 năm tù, phạt bổ sung 07 triệu đồng sung quỹ nhà nước.

Đối với vụ án này, có thể thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã

hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, là nguồn gốc làm phát sinh nhiều tệ

nạn khác. ị cáo bị bắt với số lượng ma túy là 17,3 gam, hàm lượng 67,6%.

Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo mức án 8 năm tù, phạt bổ sung 5 triệu đồng là

nhẹ, chưa tương xứng với hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra, chưa đảm bảo

tính răn đe và phòng ngừa chung trong công tác đấu tranh chống tội phạm đặc

38

biệt là tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Do đó, Tòa án cấp

phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của VKS là có căn cứ.

* Vụ án Dương Xuân Phong cùng đồng bọn, phạm tội “Đánh bạc” ( ản

án hình sự phúc thẩm số 144/2017/HSPT ngày 25/9/2017).

Nội dung vụ án: Khoảng từ 19 giờ đến 22 giờ 10 phút ngày 12/01/2017,

Tô Hồng Diện đã cho hai chiếu bạc đánh bạc tại nhà mình được hưởng lời số

tiền là 80.000đ. Khi các đối tượng bao gồm Dương Xuân Phong cùng đồng

bọn đang đánh bạc bằng hình thức chơi xóc đĩa thì bị Cơ quan Công an thành

phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang thu giữ số tiền trên

chiếu bạc là 9.900.000đ cùng một số vật chứng. ản án hình sự sơ thẩm số

40/2017/HSST ngày 12/7/2017 của TAND thành phố Sông Công đã áp dụng

khoản 1 Điều 248; điểm p, khoản 1 và khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều

48 LHS 1999 xử phạt bị cáo Dương Xuân Phong 04 tháng tù. VKSND

thành phố Sông Công đã kháng nghị đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo

Phong. Kết quả, Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của VKSND

thành phố Sông Công, tuyên phạt bị cáo Phong 09 tháng tù.

Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, là

nguyên nhân gây ra nhiều loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội và

bức xúc trong quần chúng nhân dân. Đây là vụ đánh bạc có nhiều người tham

gia, bị cáo Phong là người trực tiếp chuẩn bị dụng cụ và là người trực tiếp xóc

cái, nhân thân Dương Xuân Phong đã có tiền án chưa được xóa án tích, đi cải

tạo về không có ý thức tu dưỡng mà tiếp tục lao sâu vào con đường phạm tội,

thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị

cáo 04 tháng tù là chưa đánh giá hết tính chất vụ án cũng như vai trò, nhân

thân của bị cáo, chưa đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Do đó, việc

Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của VKS, tăng mức hình phạt

đối với bị cáo Phong là hoàn toàn phù hợp với hành vi phạm tội do bị cáo gây ra.

39

* Vụ án Ma Tiến Xướng, phạm tội “Cố ý gây thương tích” ( ản án

hình sự phúc thẩm số 168/2016/HSPT ngày 22/10/2016).

Nội dung vụ án: khoảng 16h30’ ngày 11/12/2015, Ma Tiến Xướng

đang đứng trông quán bán hàng rau của chị Ma Thị Cảnh thì thấy Đào Văn

Phú ở cùng thôn đang nói chuyện với mọi ngươi. Do bực tức việc trước đó bị

anh Yên (em của anh Phú) bẻ gẫy ngón tay nên khi nhìn thấy anh Phú, Xướng

đã mượn con dao bài của chị Cảnh đuổi theo anh Phú rồi cầm dao ở tay trái

chém một nhát vào cổ tay trái, một nhát vào trán, một nhát vào ngang cánh

mũi phải kéo dài đứt đoạn xuống má phải và một nhát vào vùng chẩm gây

thương tích cho anh Phú với tỷ lệ 16%. ản án sơ thẩm số 41/2016/HSST

ngày 27/7/2016 của TAND huyện Định Hóa áp dụng khoản 2 Điều 104; điểm

b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 60 LHS xử phạt bị cáo Xướng 24

tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng. VKSND tỉnh kháng

nghị với nội dung cho rằng bị cáo phạm tội có tính chất côn đồ, do đó đề nghị

không cho bị cáo hưởng án treo, chuyển hình phạt 24 tháng tù cho hưởng án

treo sang thành 24 tháng tù giam. Kết quả, kháng nghị được Tòa án phúc

thẩm chấp nhận.

Trong vụ án này, giữa bị cáo và người bị hại không có mâu thuẫn gì, bị

cáo chỉ có mâu thuẫn với em của anh Phú, nhưng khi thấy anh Phú bị cáo đã

cầm dao đuổi theo, hung hăng chém tới tấp nhiều nhát vào vùng mặt, đầu của

anh Phú khiến anh Phú bị thương với tỷ lệ thương tích 16%. Điều này cho

thấy ngoài tình tiết định khung hình phạt dùng hung khí nguy hiểm, bị cáo

còn phải chịu tình tiết định khung phạm tội có tính chất côn đồ quy định tại

điểm i, khoản 1 Điều 104 LHS. Tòa án sơ thẩm đã không đánh giá đúng tính

chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cũng như không xem xét chính

xác các điều kiện để bị cáo được hưởng án treo, nên việc xử phạt bị cáo 24

tháng tù cho hưởng án treo là chưa đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo cũng

40

như chưa đảm bảo tính đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung, nhất là trong

tình hình hiện nay loại tội phạm này ngày càng gia tăng thì việc xét xử

nghiêm khắc là hết sức cần thiết.

* Vụ án Trần Văn Tú, Lê Thị Tuyết Nhung, phạm tội “Tổ chức đánh

bạc” và “Đánh bạc” ( ản án hình sự phúc thẩm số 44/2017/HSPT ngày

31/3/2017).

Nội dung vụ án: trong khoảng thời gian từ 13 giờ 30 phút đến 15 giờ

ngày 22/12/2015, tại đồi cây keo thuộc thôn Đồng Đình, xã ình Thành,

huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, Trần Văn Tú đã có hành vi tổ chức đánh

bạc. Dụng cụ Tú chuẩn bị gồm 02 bạt dứa hình chữ nhật, 02 thảm nỉ hình chữ

nhật, 01 con dao bài dài khoảng 27cm, 01 thanh tre dài khoảng 15cm, 02

chiếc bát sứ, 01 chiếc đĩa sứ, 04 quân bài vị bằng nan tre một mặt đen, một

mặt trắng và nhiều dụng cụ khác. Tú là người trực tiếp đứng ra thu tiền “Hồ

Lỳ”, các con bạc khi tham gia đánh bạc phải nộp 200.000đ tiền “hồ lỳ” cho

Tú. Tham gia đánh bạc còn có Lê Thị Tuyết Nhung cùng nhiều đối tượng

khác. Tổng số tiền sử dụng để đánh bạc thu giữ được là 22.320.000đ (hai

mươi hai triệu, ba trăm hai mươi nghìn đồng).

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 51/2016/HSST ngày 09/12/2016, TAND

huyện Định Hóa áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 248; điểm p khoản 1, khoản

2 Điều 46; Điều 53; Điều 60 LHS xử phạt Lê Thị Tuyết Nhung 10 tháng tù

cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 tháng; phạt tiền bổ sung 4.000.00đ

sung quỹ Nhà nước.

Ngày 06/01/2017, VKSND tỉnh Thái Nguyên ban hành kháng nghị đối

với một phần bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Lê Thị Tuyết Nhung

theo hướng không cho bị cáo được hưởng án treo bởi bị cáo Nhung đã có một

án tích. Cụ thể, tại bản án hình sự sơ thẩm số 95/2014/HSST, ngày

01/10/2014, TAND huyện Phú ình xử phạt Lê Thị Tuyết Nhung 06 tháng

41

cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”, số tiền thu giữ tạo chiếu bạc của vụ

án là 4.530.000đ, tại thời điểm xét xử năm 2014, hành vi của bị cáo đủ yếu tố

cấu thành tội phạm. Tuy nhiên theo quy định tại khoản 4 Điều 1 Nghị quyết

số 144/2016/QH13 ngay 29/6/2016 của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam;

điểm d khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13, ngày 27/11/2015 của

Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam; Nghị quyết số 01/2016/NQ-HĐTP ngày

30/6/2016 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao; khoản 3 Điều 7 LHS

2015. Kể từ ngày LHS năm 2015 được công bố, đã có sự thay đổi chính

sách hình sự, bổ sung các yếu tố cấu thành của tội danh “Đánh bạc” theo

hướng có lợi cho bị cáo, nên án tích “đánh bạc” của bị cáo xét xử năm 2014

được coi là đương nhiên xóa án tích nên bị cáo được xác định là người chưa

có tiền án. Tuy nhiên, bị cáo đã bị xét xử một lần về tội danh “Đánh bạc”

nhưng không lấy đó làm bài học rút kinh nghiệm, lại tiếp tục thực hiện hành

vi “đánh bạc”, cho thấy ý thức coi thường pháp luật. Do đó bị cáo được xác

định là người có nhân thân không tốt và không đủ điều kiện để được hưởng án

treo. Việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo Nhung 10 tháng tù cho hưởng

án treo là chưa đảm bảo thực hiện đúng các quy định của pháp luật về điều

kiện hưởng án treo. Vì vậy, tòa án cấp phúc thẩm nhận định kháng nghị của

VKSND tỉnh Thái Nguyên là cần thiết và đúng quy định của pháp luật nên đã

chấp nhận kháng nghị, tuyên phạt bị cáo Lê Thị Tuyết Nhung 10 tháng tù giam.

c) Kháng nghị do áp dụng tình tiết giảm nhẹ không chính xác

Ví dụ: Vụ án Đào Văn ộ, phạm tội “Đánh bạc” ( ản án hình sự phúc

thẩm số 206/2014/HSPT ngày 28/8/2014).

Nội dung vụ án: trong thời gian từ ngày 18/10/2013 đến ngày

12/11/2013, Đào Văn ộ đã nhiều lần đánh bạc dưới hình thức ghi số lô, số

đề cho nhiều người tại nhà riêng của mình. Đến khoảng 17 giờ 50 phút ngày

12/11/2013, trong khi ộ đang đánh bạc dưới hình thức ghi số đề cho Đào

42

Văn Trung thì bị bắt quả tang, thu giữ cáp đề, bảng đề và 10.000đ cùng những

vật chứng có liên quan. Qua điều tra, xác minh thì tổng số tiền ộ dùng để

đánh bạc 20 lần là 62.148.000đ. Với hành vi trên, tại bản án hình sự sơ thẩm

số 38/2014/HSST ngày 16/5/2014, TAND huyện Phú ình đã áp dụng khoản

1 Điều 248; điểm b, h, p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 60

LHS xử phạt Đào Văn ộ 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Ngày 10/6/2014, VKSND tỉnh Thái Nguyên có Quyết định số 02/QĐ-

KNPT kháng nghị một phần bản án số 38 ngày 16/5/2014 của TAND huyện

Phú ình, đề nghị TAND tỉnh Thái Nguyên xét xử vụ án theo thủ tục phúc

thẩm theo hướng không cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm

b, h khoản 1 Điều 46 LHS và không cho bị cáo hưởng án treo. Áp dụng

khoản 3 Điều 248 phạt bổ sung bị cáo 5.000.000đ sung quỹ Nhà nước, bị cáo

đã nộp 3.200.000đ, nay còn phải nộp tiếp 2.800.000đ.

Theo nội dung vụ án này, thực tế bản án chưa tuyên, chưa biết có quyết

định về việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo hay không mà bị cáo đã

nộp khoản tiền phạt bổ sung và tiền án phí hình sự sơ thẩm nên không thể coi

đây là tình tiết tự nguyện khắc phục hậu quả quy định tại điểm b, khoản 1

Điều 46 LHS. Mặt khác, bị cáo phạm tội nhiều lần (20 lần) từ ngày

18/10/2013 đến ngày 12/11/2013, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết

giảm nhẹ phạm tội lần đầu quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 46 LHS là

không chính xác. Trong vụ án này số tiền bị cáo dùng để đánh bạc là lớn và bị

cáo phải chịu một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội nhiều

lần quy định tại điểm g, khoản 1 Điều 48 LHS. Như vậy bị cáo chỉ còn một

tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo quy định tại điểm p, khoản 1 Điều

46 BLHS. Theo hướng dẫn tại điểm d, khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số

01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao

hướng dẫn áp dụng Điều 60 LHS về án treo thì bị cáo không đủ điều kiện để

43

hưởng án treo. Việc Tòa án cấp sơ thẩm cho bị cáo ộ hưởng án treo là không

phù hợp với quy định của pháp luật, đồng thời không đánh giá đúng tính chất

và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cũng như chưa đảm bảo tác dụng đấu

tranh phòng ngừa tội phạm và trật tự trị an của địa phương. Tuy nhiên xét

thấy bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo, nếu

chuyển 18 tháng tù cho hưởng án treo sang hình phạt tù giam đối với bị cáo là

có phần hơi nghiêm khắc, không công bằng giữa các vụ án về cùng loại tội.

Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm đã tuyên chấp nhận kháng nghị của

VKSND tỉnh Thái Nguyên, áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm p khoản 1 Điều

46; điểm g khoản 1 Điều 48 LHS xử phạt Đào Văn ộ 09 tháng tù.

d) Kháng nghị do tổng hợp hình phạt không đúng

Vụ án Vũ Văn Vinh, phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” (bản

án hình sự phúc thẩm số 96/2016/HSPT ngày 28/7/2016)

Nội dung vụ án: khoảng 10 giờ 15 phút ngày 27/8/2015, khi kiểm tra

phạm nhân đi lao động về tại Phân trại 6, Trại giam Phú Sơn 4, Tổng cục

VIII, ộ Công an đóng trên địa bàn huyện Phú Lương, cán bộ quản giáo phát

hiện bắt quả tang Vũ Văn Vinh đang có hành vi cất giấu trong hậu môn 01 gói

nilon Heroin có trọng lượng là 1,05534g. Vinh khai số ma túy đo do phạm

nhân Nguyễn Tuấn Anh nhờ Vinh vận chuyển giúp vào trong Trại giam. ị

cáo Vinh có 4 tiền án chưa được xóa án tích, phạm tội lần này thuộc trường

hợp tái phạm nguy hiểm.

ản án hình sự sơ thẩm số 32 ngày 05/05/2016, TAND huyện Phú

Lương áp dụng điểm p, khoản 2 Điều 194; điểm p, khoản 1 Điều 46 LHS xử

phạt Vũ Văn Vinh 08 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Áp

dụng Điều 51 LHS, tổng hợp hình phạt 48 tháng tù theo bản án số

36/2015/HSST ngày 06/4/2015 của TAND thị xã ắc Kạn, tỉnh ắc Kạn đối

44

với bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung

là 12 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/12/2014.

Ngày 19/5/2016, VKSND huyện Phú Lương kháng nghị đối với bản án

trên về phần tổng hợp hình phạt của bản án và được Tòa án phúc thẩm chấp

nhận kháng nghị, sửa bản án sơ thẩm, buộc bị cáo Vũ Văn Vinh chấp hành

hình phạt chung là 11 năm 3 tháng 18 ngày, thời hạn tù tính từ ngày 27/8/2015.

Cụ thể, khi tổng hợp hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng đúng theo

quy định tại khoản 2 Điều 51 LHS, đó là “khi xét xử một người đang chấp

hành một bản án mà lại phạm tội mới, tòa án quyết định hình phạt đối với tội

mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi

quyết định hình phạt chung”. Việc Tòa án cấp sơ thẩm khi quyết định hình

phạt lại tổng hợp cả phần bị cáo đã chấp hành của bản án số 36 ngày

06/4/2015 là không đúng. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã chấp nhận

kháng nghị của VKSND huyện Phú Lương,

đ) Kháng nghị do hình phạt đã tuyên thấp hơn mức tối thiểu của hình

phạt tù có thời hạn

Vụ án Nguyễn Khắc Cường phạm tội “Đánh bạc” (bản án hình sự phúc

thẩm số 237/2014/HSPT ngày 26/9/2014)

ản án hình sự sơ thẩm số 26 ngày 16/7/2014 của TAND thị xã Sông

Công đã áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46;

Điều 47; Điều 53 LHS, xử phạt Nguyễn Khắc Cường 02 tháng tù về tội

“Đánh bạc”. Ngày 30/7/2014, VKSND thị xã Sông Công kháng nghị đối với

bản án trên và được Tòa án phúc thẩm chấp nhận kháng nghị, sửa bản án sơ

thẩm, xử phạt Nguyễn Khắc Cường 03 tháng tù.

Đối với vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo Cường

mức hình phạt là 02 tháng tù, thấp hơn mức tối thiểu của loại hình phạt tù có

thời hạn. ởi theo quy định tại Điều 33 LHS thì “... Tù có thời hạn đối với

45

người phạm tội có mức tối thiểu là 03 tháng”. Vì vậy, việc VKSND thị xã

Sông Công kháng nghị đề nghị Tòa án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm về phần

hình phạt đối với bị cáo Cường là hoàn toàn chính xác và cần thiết, đảm bảo

cho các quy định của pháp luật hình sự được áp dụng thống nhất.

2.2.2. Nguyên nhân của những kết quả đạt được

VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên đã quan tâm coi trọng công tác

kháng nghị phúc thẩm, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của

công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp tại địa phương.

Trên cơ sở chương trình, kế hoạch công tác hàng năm của VKSND tối cao,

VKSND tỉnh Thái Nguyên đã đề ra chỉ tiêu công tác của mình, trong đó có

chỉ tiêu cụ thể về công tác kháng nghị.

Xác định kháng nghị phúc thẩm là một quyền năng pháp lý được quy

định trong LTTHS, được thực hiện xuyên suốt bắt đầu từ giai đoạn kiểm sát

hoạt động điều tra, thực hành quyền công tố, bảo vệ cáo trạng, bảo vệ quan

điểm truy tố đến hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong

việc ban hành quyết định, bản án. Do đó, trong mọi hoạt động tố tụng, các

đồng chí Lãnh đạo, KSV luôn chủ động theo sát quá trình giải quyết vụ án,

trên cơ sở quy định pháp luật kịp thời phát hiện những vi phạm của Tòa án để

ban hành kháng nghị đảm bảo có căn cứ, đúng pháp luật, phù hợp với chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của KSV từng bước được nâng lên.

ên cạnh việc làm tốt công tác thực hành quyền công tố, KSV được phân

công giải quyết vụ án đã nghiên cứu kỹ bản án cả về hình thức và nội dung, từ

đó kịp thời phát hiện vi phạm để đề xuất hướng xử lý đến lãnh đạo Viện xem

xét tiến hành kháng nghị phúc thẩm. Tỷ lệ kháng nghị được chấp nhận ngày

một tăng, thể hiện chất lượng kháng nghị ngày càng được nâng lên. Điều này

là do kháng nghị có nội dung lập luận rõ ràng, chặt chẽ, viện dẫn căn cứ pháp

46

luật chính xác, đánh giá đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội.

Hình thức kháng nghị tuân thủ đúng mẫu kháng nghị của Ngành, thể thức văn

bản và thời hạn kháng nghị đảm bảo theo quy định của pháp luật.

Công tác phối hợp giữa VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên thông qua

công tác gửi bản án và phiếu kiểm sát bản án, quyết định sơ thẩm cho VKS

cấp trên đảm bảo đúng quy định; VKSND cấp huyện thường xuyên có sự trao

đổi, tham khảo ý kiến của các phòng nghiệp vụ về việc kháng nghị phúc thẩm

hay đề nghị VKSND cấp tỉnh kháng nghị phúc thẩm trên cấp. Các đơn vị

VKSND cấp huyện ngày càng chú trọng công tác kiểm sát sau phiên tòa; việc

tiếp nhận bản án sơ thẩm; việc theo dõi việc gửi bản án, quyết định sơ thẩm

của Tòa án được các đơn vị thực hiện nghiêm túc; có những giải pháp đôn

đốc việc gửi bản án của Tòa án như quy định trong các quy chế phối hợp liên

ngành, ban hành kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm thời hạn gửi bản án…

để đảm bảo việc Tòa án sao gửi bản án, quyết định cho VKS đúng thời hạn

luật định.

VKSND cấp trên dần chú trọng đến công tác rút kinh nghiệm đối với

VKSND cấp dưới về kháng nghị phúc thẩm hình sự. Trước và sau mỗi đợt xét

xử, VKS cấp phúc thẩm đều có thông báo kết quả xét xử và trao đổi với VKS

cấp sơ thẩm về những sai sót trong kháng nghị phúc thẩm. VKS cấp phúc

thẩm tăng cường ban hành các thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ, đặc biệt

là đối với những vụ án bị Tòa án cấp trên hủy án để điều tra, truy tố, xét xử lại

mà KSV không kịp thời phát hiện ra vi phạm để ban hành kháng nghị.

2.3. Những tồn tại, hạn chế trong công tác kháng nghị phúc thẩm

hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên

2.3.1. Những tồn tại, hạn chế

47

ên cạnh những kết quả đã đạt được nêu trên, công tác kháng nghị

phúc thẩm hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên vẫn còn có tồn tại,

hạn chế cần được khắc phục trong thời gian tới, đó là:

Thứ nhất, số lượng án kháng nghị chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số án cấp

phúc thẩm thụ lý, xét xử (trong khi đó số lượng án qua xét xử phúc thẩm bị

hủy, sửa do có kháng cáo chiếm tỷ lệ cao).

Thứ hai, trong những năm qua có 03 đơn vị VKSND cấp huyện không

ban hành kháng nghị phúc thẩm trong khi vẫn có án bị cấp phúc thẩm xét xử

hủy, sửa án thông qua kháng cáo.

Thứ ba, một số vụ án cấp sơ thẩm đã có vi phạm nghiêm trọng trong

việc áp dụng pháp luật, vi phạm thủ tục tố tụng hình sự nhưng trong quá trình

kiểm sát xét xử, VKS cấp sơ thẩm đã không xem xét để kháng nghị, dẫn đến

cấp phúc thẩm phải hủy án, sửa án. Việc phát hiện ra vi phạm của cấp sơ thẩm

lại được thực hiện thông qua việc kháng cáo của bị cáo. Điều này cho thấy

công tác kiểm sát bản án chưa được thực hiện tốt, còn nhiều hạn chế; tinh

thần trách nhiệm của cán bộ, KSV cấp sơ thẩm còn chưa cao, chưa tập trung

nghiên cứu bản án nên không phát hiện được vi phạm để ban hành kháng

nghị. Điển hình như:

* ản án hình sự phúc thẩm số 60/2014/HSPT ngày 27/4/2014 của

TAND tỉnh quyết định hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số 109/HSST ngày

19/12/2013 của TAND huyện Phú Lương để giải quyết lại theo thủ tục chung,

bởi tại phiên tòa phúc thẩm Hội đồng xét xử xét thấy: bị cáo Khổng Văn Long

là người được Doanh nghiệp tư nhân Hữu Thành thuê lái xe ô tô tải KS

20C-047.08 (chiếc xe này là của Doanh nghiệp tư nhân Hữu Thành). Ngày

13/7/2013, Long điều khiển xe ô tô trên lấn đường của xe ô tô khách KS

20B-001.28 do anh Trần Văn Kiên điều khiển đi ngược chiều gây tai nạn.

Hậu quả: 02 xe bị hư hỏng, anh Kiên, chị Nguyễn Thị Ngọc Vân và anh

48

Trương Văn Eng bị thương tích với tỷ lệ thương tật lần lượt là 46%, 17%,

1%. Ngày 19/12/2013, TAND huyện Phú Lương đã đưa vụ án ra xét xử tuyên

bố bị cáo Khổng Văn Long phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển

phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 2 Điều 202 LHS. Sau khi xét

xử sơ thẩm, bị cáo không kháng cáo, hai người bị hại (theo án sơ thẩm xác

định) là anh Trần Văn Kiên và anh Lương Hồng ắc kháng cáo đề nghị tăng

mức bồi thường.

Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: chiếc ô tô khách KS 20 -

001.28 là của Công ty Cổ phần Vận tải Thái Nguyên và được giao cho anh

Lương Hồng ắc trực tiếp lái xe. Như vậy anh ắc chỉ là người được công ty

giao xe cho để lái và quản lý chứ không phải là chủ sở hữu. Đồng thời, tại

thời điểm xảy ra tai nạn anh ắc không phải là người điều khiển xe và cũng

không bị thương tích hay thiệt hại tài sản gì. Tòa án cấp sơ thẩm xác định anh

ắc là người bị hại, Công ty Cổ phần Vận tải Thái Nguyên và Doanh nghiệp

tư nhân Hữu Thành là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là không chính

xác, không phù hợp quy định tại Điều 51, Điều 54 LTTHS. Trong vụ án này

phải xác định Công ty Cổ phần Vận tải Thái Nguyên là nguyên đơn dân sự,

Doanh nghiệp tư nhân Hữu Thành là bị đơn dân sự. Việc xác định sai tư cách

những người tham gia tố tụng như trên là sai sót nghiêm trọng về thủ tục tố

tụng, ảnh hưởng đến quyền lợi cũng như quyền kháng cáo của họ và không

thể khắc phục được tại phiên tòa phúc thẩm. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc

thẩm đã tuyên hủy toàn bộ bản án của Tòa án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại.

* ản án hình sự phúc thẩm số 189/2016/HSPT ngày 27/11/2016 của

TAND tỉnh quyết định hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số 65/2016/HSST

ngày 21/8/2016 của TAND huyện Đại Từ đối với bị cáo Nguyễn Văn Sự

phạm tội “Cướp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 133 LHS để điều

tra, xét xử lại, bởi tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử xét thấy: tại bút

49

lục số 88 của hồ sơ vụ án là bệnh án của bị cáo Sự có thể hiện bị cáo chẩn

đoán bị đau đầu chưa rõ nguyên nhân. Tại bút lục số 79 là văn bản của U ND

xã Phú Lạc, huyện Đại Từ có đầy đủ chữ ký của các tổ chức xã hội, có xác

nhận của Chủ tịch và Trưởng công an xã đều xác nhận bị cáo bị bệnh tật, thần

kinh không được tỉnh táo. Đặc biệt tại biên bản phiên tòa ở cấp sơ thẩm bị cáo

cũng không khai báo được chỉ có Chủ tọa công bố lời khai. Tại phiên tòa

phúc thẩm bị cáo khai báo rất khó khăn thể hiện không minh mẫn trong

những lời khai của mình. Như vậy có nhiều biểu hiện bị cáo có tâm thần kinh

không bình thường nhưng cấp sơ thẩm không trưng cầu giám định là vi phạm

Điều 155 LTTHS. Do đó Tòa án cấp phúc thẩm đã tuyên hủy toàn bộ bản án

sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục chung.

Thứ tư, số bị cáo VKS cấp phúc thẩm rút kháng nghị và Tòa án cấp

phúc thẩm bác kháng nghị chiếm tỷ lệ khá cao.Trong tổng số 67 bị cáo bị

Viện kiểm sát cấp huyện và VKSND tỉnh kháng nghị, số bị cáo bị rút kháng

nghị là 06 bị cáo, chiếm 8,9%, bác kháng nghị là 14 bị cáo, chiếm 21%; số bị

cáo được chấp nhận kháng nghị là 47 bị cáo, chiếm 70,1%. Điển hình như:

* Vụ Lê Trung Kiên, phạm tội “Hiếp dâm” (bản án hình sự phúc thẩm

số 05/2018/HSPT ngày 18/01/2018)

Nội dung vụ án: khoảng 22 giờ 30 phút ngày 16/4/2017, tại Trụ sở

Trạm y tế xã Ôn Lương, huyện Phú Lương, bị cáo Kiên lợi dụng khoảng thời

gian là ban đêm, ít người qua lại, chỉ có một mình chị Triệu Thị Phương trực

ở trạm y tế, Kiên đã có hành vi dùng vũ lực để khống chế và giao cấu trái với

ý muốn của chị Phương. Khi chị Phương nói mình bị bệnh lây nhiễm qua

đường tình dục bị cáo vẫn không dừng lại mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm

tội tới cùng. ản án hình sự sơ thẩm số 93/2017/HSST ngày 27/10/2017,

TAND huyện Phú Lương đã tuyên bố bị cáo Lê Trung Kiên phạm tội “Hiếp

50

dâm” theo khoản 1 Điều 111 LHS, xử phạt bị cáo Kiên 30 tháng tù giam và

bồi thường cho chị Phương số tiền 23.000.000đ.

Ngày 09/11/2017, VKSND huyện Phú Lương kháng nghị đối với bản

án trên theo hướng Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng pháp luật về bồi thường danh

dự nhân phẩm không đúng, đề nghị sửa án giảm mức bồi thường.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo và gia đình bị cáo đã tự nguyện nộp số

tiền 23.000.000đ và 400.000đ tiền án phí dân sự tại Chi cục Thi hành án

huyện Phú Lương, thể hiện tại biên lai thu tiền số 0004334 ngày 08/01/2018,

tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị hại như bản án sơ thẩm

đã tuyên. Đây là sự tự nguyện không trái đạo đức xã hội, phù hợp quy định

của pháp luật và có lợi cho người bị hại. Xét thấy kháng nghị của VKSND

huyện Phú Lương là không cần thiết nên VKSND tỉnh đã rút kháng nghị của

VKSND huyện Phú Lương và được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.

*Vụ Đinh Thái Hà, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và

“Trộm cắp tài sản” (bản án hình sự phúc thẩm số 77/2015/HSPT ngày

29/5/2015).

Nội dung vụ án: Vào lúc 8 giờ ngày 08/8/2014, tại khu vực tổ 2,

phường Tân Thịnh, TP Thái Nguyên, tổ công tác công an phường Tân Thịnh

bắt quả tang Đinh Thái Hà có hành vi tàng trữ 0,35 gam chế phẩm heroin có

hàm lượng 54,3%. Hà khai heroin là Hà mua để sử dụng cho bản thân vì Hà

nghiện ma túy. Ngoài ra còn thu giữ một số tài sản gồm: 01 điện thoại di động

hiệu Samsung màu đen, 01điện thoại di động Qmobile màu đỏ; 01 điện thoại

Masstel, 01 xe máy nhãn hiệu Dream, 01 đồng hồ Omega, 01 đồng hồ

Movado, 29 chìa khóa các loại và 1.600.000đ. Quá trình điều tra xác định,

khoảng 9 giờ ngày 07/8/2014, Đinh Thái Hà có hành vi trộm cắp của chị

Lương Thị Thu Hồng 01 chiếc máy tính xách tay hiệu Acer trị giá

5.500.000đ. ản án số 66/2015/HSST ngày 16/3/2015, TAND thành phố Thái

51

Nguyên đã xử phạt Đinh Thái Hà 36 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma

túy và 15 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt là 51 tháng tù.

Về vật chứng: tạm giữ 03 chiếc điện thoại và 02 chiếc đồng hô để đảm bảo thi

hành án cho bị cáo.

Ngày 26/3/2015, VKSND thành phố Thái Nguyên đã kháng nghị đề

nghị sửa phần quyết định xử lý vật chứng của vụ án với nhận định: 03 chiếc

điện thoại của Đinh Thái Hà, quá trình điều tra và tại phiên tòa không xác

định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì phải tịch thu sung quỹ

Nhà nước. Việc TAND thành phố Thái Nguyên quyết định xử lý vật chứng

như trên là không đúng quy định của pháp luật.

ản án của Tòa án phúc thẩm nhận định: quá trình điều tra và tại phiên

tòa sơ thẩm, bị cáo Hà đều khai rằng 03 chiếc điện thoại là của bạn gái của bị

cáo tên là Lý Thị Mến nhờ sửa hộ vì bị cáo có nghề sửa điện thoại. Tại phiên

tòa phúc thẩm bị cáo vẫn khẳng định nội dung trên. Như vậy, 03 chiếc điện

thoại có người quản lý hợp pháp là Đinh Thái Hà chứ không thuộc trường hợp

không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp như kháng

nghị nêu. Việc xử lý vật chứng của Tòa án cấp sơ thẩm là đúng quy định pháp

luật. Vì vậy, Tòa án phúc thẩm đã không chấp nhận kháng nghị của VKSND

thành phố Thái Nguyên, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

* Vụ Võ Công Thi phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” ( ản án

hình sự phúc thẩm số 153/2016/HSPT ngày 21/11/2016)

Vào lúc 11 giờ 20 phút ngày 31/5/2016, tổ công tác Phòng cảnh sát

điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Nguyên bắt quả tang Võ Công

Thi đang đi bộ đeo một túi xách màu đen, bên trong chứa các cục tinh thể

màu trắng. Qua giám định xác định, chất tinh thể màu trắng thu giữ của Thi là

Methamphetamine, trọng lượng 49,63 gam, hàm lượng lần lượt là 9,8% và

0,3%. Số ma túy đó Thi khai mua của một người không biết rõ lai lịch, họ tên.

52

Căn cứ vào kết luận giám định về hàm lượng chất ma túy, Tòa án cấp sơ thẩm

kết luận Thi đã thực hiện hành vi mua bán trái phép 4,627 gam

Methamphetamine tinh chất và áp dụng khoản 1 Điều 194 xử phạt Võ Công

Thi 24 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy.

Ngày 05/10/2016, VKSND thành phố Sông Công kháng nghị bản án

trên, đề nghị TAND tỉnh Thái Nguyên xét xử phúc thẩm theo hướng áp dụng

điểm m, khoản 2 Điều 194 LHS và tăng hình phạt đối với Thi với nhận

định: theo Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-

BTP ngày 14/11/2015 sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số

17 ngày 24/12/2017 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XVIII

“Các tội phạm về ma túy” (sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch 08) thì chỉ có

bốn trường hợp bắt buộc phải giám định hàm lượng để xác định trọng lượng

chất ma túy. Thi có hành vi mua bán 49,63 Methamphetamine và biết rõ đó là

ma túy tổng hợp dạng đá. Tòa án cấp sơ thẩm xác định trọng lượng trên cơ sở

tỷ lệ hàm lượng ma túy để áp dụng khoản 1 Điều 194 LHS là trái với quy

định pháp luật, không phù hợp với Thông tư liên tịch số 08.

ản án của Tòa án phúc thẩm nhận định: theo quy định Điều 194

LHS thì chất ma túy là đối tượng mua bán phải được hiểu theo nghĩa

“nguyên chất” ma túy. Theo đó, trọng lượng ma túy làm căn cứ định tội hoặc

định khung hình phạt bị áp dụng phải là trọng lượng tinh chất ma túy mà bị

cáo mua bán. Tại khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch 08 quy định như sau:

“Ngoài các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d tiết 1.4 Mục này, nếu

có căn cứ và xét thấy cần thiết, Tòa án trực tiếp trưng cầu giám định để đảm

bảo việc xét xử đúng pháp luật”. Trong vụ án này, việc Tòa án cấp sơ thẩm

tiến hành trưng cầu giám định để xác định hàm lượng Methamphetamine là

đúng với quy định tại khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch 08. Theo kết quả

giám định hàm lượng Methamphetamine thì chỉ đủ căn cứ kết luận Võ Công

53

Thi mua bán tổng trọng lượng 4,627 gam Methamphetamine tinh chất và

thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 194 LHS chứ không phải điểm

m, khoản 2 Điều 194 LHS. Do đó, kháng nghị của VKSND thành phố Sông

Công là không có căn cứ, không được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận.

* Vụ Nguyễn Công Tráng, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

(bản án hình sự phúc thẩm số 185/2018/HSPT ngày 21/11/2018)

Nội dung vụ án: hồi 13 giờ 40 phút ngày 11/6/2018, tổ công tác Công

an thị xã Phổ Yên bắt quả tang Nguyễn Công Tráng đang có hành vi tàng trữ

trái phép 01 gói ma túy loại Heroin có khối lượng 0,152 gam. Tráng khai mua

số ma túy trên của một người đàn ông không quen biết với giá 150.000đ để sử

dụng cho bản thân nhằm thỏa mãn cơn nghiện của mình.

ản án hình sự sơ thẩm số 107/2018/HSST ngày 19/9/2018, TAND thị

xã Phổ Yên áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51;

điểm h, khoản 1 Điều 52 LHS 2015, xử phạt Nguyễn Công Tráng 36 tháng

tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Ngày 02/10/2018, VKSND thị xã Phổ Yên kháng nghị đối với bản án

trên bởi lẽ: việc TAND thị xã Phổ Yên xử phạt bị cáo Tráng 36 tháng là quá

nặng, quá nghiêm khắc so với hành vi phạm tội của bị cáo vì bản thân bị cáo

là đối tượng nghiện, mục đích mua ma túy Heroin để sử dụng cho bản thân,

trọng lượng (khối lượng) ma túy chỉ 0,152 gam. Việc áp dụng hình phạt quá

cao so với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo sẽ làm ảnh

hưởng đến việc thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật và tình hình ổn định

chính trị tại địa phương.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định rằng án sơ thẩm

xử phạt bị cáo 36 tháng tù là có phần hơi nghiêm khắc, tuy nhiên do tình hình

an ninh trật tự xã hội nói chung và tình hình tội phạm ma túy ở địa bàn thị xã

Phổ Yên nói riêng diễn biến phức tạp và ngày càng gia tăng nên cần phải xử

54

lý nghiêm minh đối với các tội phạm liên quan đến ma túy mới đảm bảo tác

dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm. Vì vậy, Tòa án phúc thẩm không chấp

nhận kháng nghị của VKSND thị xã Phổ Yên, giữ nguyên hình phạt mà bản

án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo.

Thứ năm, kháng nghị trên một cấp vẫn còn ít, sự phối kết hợp giữa

VKS hai cấp trong công tác kháng nghị phúc thẩm còn có mặt hạn chế. Trong

những năm qua, VKSND tỉnh Thái Nguyên đã ban hành kháng nghị đối với

29 bị cáo, chiếm % tổng số bị cáo do VKS hai cấp tỉnh Thái Nguyên kháng

nghị, việc kháng nghị chủ yếu thông qua công tác kiểm tra bản án và phiếu

kiểm sát bản án của KSV.

Thứ sáu, các kháng nghị phúc thẩm về cơ bản đã đảm bảo theo đúng

mẫu ban hành kèm theo quyết định số 960/2007/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007

và quyết định số 505/2017/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của VKSND tối

cao. Tuy nhiên việc trình bày nội dung trong quyết định kháng nghị phúc

thẩm còn nhiều hạn chế; dùng từ ngữ thiếu chặt chẽ hoặc không đúng về mặt

pháp lý; chưa đi sâu phân tích đánh giá tính chất, mức độ hậu quả của hành vi

phạm tội cũng như xem xét, xác định những vi phạm pháp luật của bản án sơ

thẩm, vì vậy tính thuyết phục của kháng nghị chưa cao.

2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

2.3.2.1. Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, một số quy định của LHS vẫn còn vướng mắc, bất cập chưa

được hướng dẫn kịp thời như trong trường hợp bị cáo có tình tiết tăng nặng

phạm tội nhiều lần nhưng hậu quả do hành vi phạm tội gây ra không lớn, chưa

gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn thì sẽ áp dụng tình tiết giảm nhẹ

như thế nào… Những vấn đề này có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến việc

chuyển khung hình phạt còn mang tính tùy nghi áp dụng. Ngoài ra, khoảng

cách của khung hình phạt quá rộng, các quy định về điều kiện được hưởng án

treo, quy định về các trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất

55

nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, thiệt hại lớn rất lớn… và nhiều tình tiết

định khung chưa rõ ràng nên việc áp dụng có sự khác nhau.

Thứ hai, một số khó khăn, vướng mắc trong LTTHS

Cả LTTHS năm 2003 và LTTHS năm 2015 đều chỉ quy định Viện

trưởng VKS có quyền kháng nghị phúc thẩm cùng cấp hoặc cấp trên trực tiếp

nhưng không quy định căn cứ để kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nên dẫn

đến giữa VKS và Tòa án chưa có sự thống nhất trong việc nhận xét, đánh giá

mức độ vi phạm của Tòa án sơ thẩm. Trong nhiều trường hợp, Tòa án cấp

phúc thẩm cho rằng vi phạm có mức độ hạn chế nên không chấp nhận kháng

nghị của VKS.

LTTHS quy định thời hạn cụ thể để ban hành kháng nghị phúc thẩm

quá ngắn, gây khó khăn cho VKS khi thực hiện quyền kháng nghị. Có nhiều

trường hợp VKS cấp trên trực tiếp nhận được bản án, quyết định của Tòa án

ban hành nhưng đã hết hoặc gần hết thời hạn nên không đủ thời gian để kiểm

sát bản án, quyết định của Tòa án, từ đó xem xét ban hành kháng nghị. ên

cạnh đó, LTTHS quy định thời hạn gửi bản án sơ thẩm cho VKS cùng cấp là

10 ngày trong khi thời hạn kháng nghị cùng cấp là 15 ngày mà không có chế

tài trong trường hợp Tòa án chuyển chậm bản án cho VKS cùng cấp.

LTTHS trước khi sửa đổi quy định cơ chế đảm bảo cho việc thực hiện

quyền kháng nghị chưa được cụ thể hoặc khó thực hiện, như luật không quy

định Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi bản án, quyết định sơ thẩm cho VKS cấp

trên trực tiếp mà VKS cấp trên nhận gián tiếp qua VKS cấp dưới, do đó sẽ

kéo dài thời gian trong khi thời hạn kháng nghị của VKS cấp trên trực tiếp chỉ

có 30 ngày. Nay LTTHS 2015 quy định rõ trong thời hạn 10 ngày kể từ

ngày tuyên án Toà án cấp sơ thẩm phải gửi bản án cho VKS cấp trên trực tiếp.

Các quy định về quyền hạn của cấp phúc thẩm chưa rõ ràng như quy

định Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án theo tội nặng hơn so với tội

danh mà cấp sơ thẩm đã tuyên phạt là không đảm bảo quyền bào chữa của bị

56

cáo, làm mất tính chất của xét xử phúc thẩm là xét lại nhưng trên cơ sở cấp sơ

thẩm đã xét xử.

Thứ ba, tiêu chí đánh giá chất lượng kháng nghị là lấy việc Tòa án phúc

thẩm chấp nhận hay không chấp nhận kháng nghị để làm căn cứ đánh giá là

không hợp lý. ởi vì, việc sửa án ở cấp phúc thẩm về cơ bản là do có tình tiết

mới phát sinh sau khi xét xử sơ thẩm, từ đó là căn cứ để sửa án sơ thẩm theo

hướng tăng nặng hoặc giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây không thể coi là lỗi

của cấp sơ thẩm để đòi hỏi cấp sơ thẩm cũng như cấp phúc thẩm phải phát hiện

ra để ban hành kháng nghị. Thực tế có nhiều trường hợp Tòa án cấp trên bảo vệ

cấp dưới do việc bị sửa, hủy án gắn với việc xem xét bổ nhiệm lại Thẩm phán

nên đã bác kháng nghị của VKS một cách không thuyết phục, thiếu căn cứ.

2.3.2.2. Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, việc tổ chức quán triệt, triển khai cũng như giải thích, hướng

dẫn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về công tác kháng

nghị của VKSND các huyện, thành phố, thị xã chưa đầy đủ và sâu sắc; chưa

chỉ đạo thường xuyên và kịp thời đối với công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự.

Lãnh đạo nhiều đơn vị vẫn chưa thực sự coi trọng và hiểu được tầm

quan trọng của công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, chưa dành sự quan

tâm đúng mức đến khâu công tác này. Một số đơn vị chưa mạnh dạn nâng cao

chỉ tiêu hay xác định khâu công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự là khâu

công tác đột phá trong kế hoạch công tác hàng năm của đơn vị mình. Vì vậy,

trong kỳ thống kê có 03 đơn vị VKSND cấp huyện không ban hành kháng

nghị phúc thẩm trong khi vẫn có án bị cấp phúc thẩm xét xử hủy, sửa án

thông qua kháng cáo. Nhiều trường hợp, VKSND cấp huyện chưa kiên quyết,

chưa tích cực trong việc yêu cầu Tòa án cùng cấp giao gửi bản án đúng hạn để

kiểm sát bản án và chuyển bản án cho VKS cấp trên kiểm sát theo quy định.

57

Việc thiếu sự quan tâm đến khâu công tác quan trọng này tại một số

đơn vị VKSND cấp huyện có thể coi là chưa thực hiện tốt quyền năng pháp lý

đã giao cho ngành Kiểm sát.

Thứ hai, trình độ, năng lực của một số cán bộ, KSV còn nhiều hạn chế,

tinh thần trách nhiệm chưa cao. Một số cán bộ, KSV chưa nắm vững các quy

định về luật hình sự, luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp lý liên quan. Do

đó, khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên

tòa hoặc sau phiên tòa còn thiếu sắc bén, không phát hiện được vi phạm cũng

như thiếu sót của bản án cần được xem xét để kháng nghị dẫn đến việc không

ban hành kháng nghị. Có trường hợp KSV thiếu bản lĩnh khi phát hiện ra

những vi phạm nhưng không mạnh dạn đề xuất kháng nghị phúc thẩm hay

ban hành kháng nghị nhưng lại không trình bày căn cứ rõ ràng. Trong quá

trình nghiên cứu vụ án, đôi khi KSV chủ quan, đại khái nên không phát hiện

được vi phạm của bản án sơ thẩm hoặc phát hiện không đầy đủ nên đê xuất

căn cứ kháng nghị không hiệu quả. Hoặc trường hợp KSV tuy phát hiện được

vi phạm nhưng không đánh giá không xác định được vi phạm nào cần phải

kháng nghị, vi phạm nào cần phải kiến nghị yêu cầu khắc phục dẫn đến không

kháng nghị hoặc kháng nghị không được chấp nhận.

Thứ ba, sự phối hợp giữa VKSND cấp tỉnh và VKSND cấp huyện trong

công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự vẫn còn có hạn chế, chưa thường

xuyên có sự trao đổi nghiệp vụ, có kế hoạch củng cố kháng nghị dẫn đến còn

tình trạng VKS cấp tỉnh rút kháng nghị của VKS cấp huyện mà không trao

đổi trước với VKS cấp huyện, không gửi kết quả xét xử phúc thẩm cho VKS

cấp huyện dẫn đến việc VKS cấp huyện không biết lý do kháng nghị bị rút.

VKS cấp tỉnh bước đầu đã thực hiện việc tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm

về công tác kháng nghị phúc thẩm, tuy nhiên chưa được thường xuyên, định kỳ.

Việc báo cáo xin ý kiến có nên kháng nghị hay không tuy là không bắt

buộc song nếu VKS cấp huyện thực hiện tốt điều này sẽ có ý nghĩa quan

58

trọng, giúp VKS hai cấp thống nhất được quan điểm, nhận thức chung việc có

căn cứ kháng nghị hay không, kháng nghị ban hành có bảo vệ được hay

không, hạn chế tình trạng rút kháng nghị hoặc bác kháng nghị.

Thứ tư, quan hệ phối hợp giữa VKS và Tòa án có lúc, có nơi còn chưa

được thống nhất; còn có trường hợp Tòa án gây khó khăn trong việc Viện

kiểm sát rút hồ sơ vụ án để nghiên cứu, xem xét ban hành kháng nghị, dẫn tới

việc quá thời hạn kháng nghị.

Thứ năm, một số trường hợp, Lãnh đạo, KSV trong công tác chỉ đạo

điều hành và thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử chưa

nêu cao tinh thần trách nhiệm do tâm lý “Dĩ hòa vi quý”, cả nể, ngại va chạm

và một phần bởi sự tác động của việc giữ mối quan hệ giữa VKS cấp huyện

với Tòa án, giữa Thẩm phán và KSV. Có trường hợp KSV đã phát hiện được

vi phạm nhưng do nể nang nên đã để cho Thẩm phán tìm cách khắc phục mà

không kháng nghị do việc quy định tỷ lệ án hủy để xem xét tái bổ nhiệm của

ngành Tòa án, đây chính là một trong những nguyên nhân để làm giảm chất

lượng và số lượng của kháng nghị phúc thẩm hình sự.

Thứ sáu, điều kiện phương tiện làm việc và chế độ, chính sách đối với cán

bộ, Kiểm sát viên chưa được đảm bảo, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ

công tác trong tình hình mới. Đồng thời, việc đầu tư nguồn lực cả về vật chất và

con người phục vụ công tác nói chung và công tác thực hành quyền công tố,

kiểm sát xét xử nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế. Nhìn chung, số lượng biên chế

làm việc tại VKSND cấp tỉnh cũng như VKSND cấp huyện còn thiếu và yếu về

kinh nghiệm, tại VKSND cấp huyện một KSV thường được phân công đảm

nhiệm nhiều khâu công tác khác nhau. Trong khi đó, tình hình an ninh chính trị,

trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên diễn biến ngày càng phức

tạp, số lượng các vụ án hình sự tăng nhanh. Điều này ít nhiều ảnh hưởng đến

chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự.

59

Tiểu kết Chương 2

Trên cơ sở áp dụng các phương pháp thu thập và tổng hợp các thông

tin, số liệu thống kê, tác giả đã đánh giá, làm rõ thực trạng công tác thực hành

quyền công tố, kiểm sát các hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và công

tác kháng nghị phúc thẩm hình sự nói riêng của VKSND hai cấp tỉnh Thái

Nguyên trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018 (bao gồm cả hai giai đoạn

áp dụng BLTTHS 2003 và BLTTHS 2015). Tác giả đã đánh giá những kết

quả đạt được và chỉ ra nguyên nhân của hạn chế.

Có thể nói, trong những năm gần đây, công tác thực hành quyền công

tố, kiểm sát các hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và đặc biệt là công tác

kháng nghị phúc thẩm hình sự tại tỉnh Thái Nguyên có nhiều sự thay đổi tích

cực, đạt nhiều kết quả cao, qua đó góp phần vào cuộc đấu tranh phòng chống

tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo vệ và giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an

toàn xã hội tại địa phương.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác kháng nghị phúc

thẩm hình sự vẫn còn có một số hạn chế cần được khắc phục. Những hạn chế

này do nhiều nguyên nhân gây ra. Trước những yêu cầu về nhiệm vụ trong

tình hình mới cũng như công tác cải cách tư pháp, thực hiện tốt Chỉ thị 03 và

Chỉ thị 08 của Viện trưởng VKSND tối cao về tăng cường công tác kháng

nghị phúc thẩm hình sự đòi hỏi ngành Kiểm sát tỉnh Thái Nguyên phải đưa ra

những giải pháp cụ thể để không chỉ tăng lên về số lượng mà đồng thời phải

đảm bảo chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự trong thời gian

tới. Vì vậy, tác giả đã đưa ra một số giải pháp ở Chương 3 của Luận văn.

60

Chương 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC

KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ

3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về

kháng nghị phúc thẩm

Từ thực tiễn trong những năm qua, có thể thấy rằng công tác kháng

nghị của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên còn ít về số lượng, hạn chế về

chất lượng, một phần là do hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện. Việc hoàn

thiện hệ thống pháp luật sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của

công tác kháng nghị phúc thẩm mà trước hết là cần nghiên cứu và bổ sung

một số điều của LTTHS để bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động kháng

nghị phúc thẩm của VKS. Theo đó, cần tập trung nghiên cứu, tháo gỡ những

vấn đề sau:

- Bổ sung quy định về căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự:

LTTHS năm 2015 chỉ quy định về thẩm quyền, thời hạn, thủ tục mà

chưa quy định về căn cứ kháng nghị. Theo quy định tại Điều 336 LTTHS

năm 2015 thì Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có

quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm và một trong những nội

sung chính của quyết định kháng nghị là lý do, căn cứ kháng nghị. Tuy nhiên

LTTHS lại không quy định cụ thể các căn cứ để kháng nghị.

Theo Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các

vụ án hình sự (ban hành kèm theo Quyết định số 505/2017/QĐ-VKSTC ngày

18/12/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao) thì có thể xác định 04 căn cứ để

kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực

pháp luật. Tuy nhiên đây chỉ là hướng dẫn mang tính chất nội bộ của ngành

Kiểm sát. Do đó, LTTHS cần bổ sung, quy định rõ bản án, quyết định cấp

61

sơ thẩm vi phạm những nội dung gì, mức độ đến đâu thì được coi là nghiêm

trọng và bị kháng nghị phúc thẩm.

- Sửa đổi quy định về cách tính thời hiệu kháng nghị phúc thẩm hình sự

Theo Điều 337 LTTHS 2015 thì thời hạn kháng nghị của Viện kiểm

sát cùng cấp đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, của Viện kiểm

sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày Tòa án tuyên án; theo Điều 262

LTTHS 2015 thì thời hạn giao bản án cho Viện kiểm sát cùng cấp là trong

thời hạn 10 ngày. Với quy định trên, trong trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm gửi

bản án đúng thời hạn cho Viện kiểm sát cùng cấp là 10 ngày thì Viện kiểm sát

chỉ còn 05 ngày để nghiên cứu bản án cùng hồ sơ vụ án để quyết định việc

kháng nghị là khó khăn. Đồng thời trên thực tế, Tòa án gửi bản án đa số là trễ

hạn và quá hạn luật định nên việc phát hiện vi phạm của các bản án sơ thẩm

để kháng nghị gặp nhiều trở ngại. Do đó, để bảo đảm cho công tác kháng nghị

của Viện kiểm sát được thuận lợi, cần sửa đổi LTTHS năm 2015 theo hướng

quy định thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát

cấp trên trực tiếp là kể từ khi nhận được bản án hoặc quyết định sơ thẩm.

3.2. Tăng cường việc triển khai, áp dụng các quy định của pháp

luật Tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm

ộ luật tố tụng hình sự năm 2015 chính thức có hiệu lực thi hành từ

ngày 01/01/2018, do đó để đảm bảo cho LTTHS được triển khai thi hành

đầy đủ và thống nhất thì việc tăng cường công tác phổ biến, quán triệt nội

dung ộ luật đến toàn thể cán bộ, Kiểm sát viên là nhiệm vụ trọng tâm trong

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong các năm 2018, 2019 của ngành

Kiểm sát nhân dân. Theo đó, để làm tốt khâu công tác kháng nghị phúc thẩm

hình sự trong thời gian tới đòi hỏi ngành Kiểm sát nói chung và VKSND tỉnh

Thái Nguyên nói riêng cần tập trung thực hiện tốt những nội dung sau:

62

Thứ nhất, lãnh đạo các đơn vị VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên cần

quán triệt, triển khai đến tất cả cán bộ, Kiểm sát viên thực hiện nghiêm túc

nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong các quy định về kháng nghị được quy

định tại Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và ộ luật tố tụng

hình sự năm 2015. Cần tăng cường quan tâm, chỉ đạo, coi trọng công tác

kháng nghị phúc thẩm, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của

công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự; cần bám

sát các chỉ tiêu nhiệm vụ trong các Nghị quyết của Quốc hội giao cho ngành

KSND và các chỉ tiêu của Ngành để đảm bảo số lượng cũng như chất lượng

kháng nghị phúc thẩm.

Thứ hai, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ

năng lực của cán bộ, KSV. VKSND tối cao và VKSND tỉnh Thái Nguyên cần

định kỳ tổ chức các lớp đào tạo, các buổi tập huấn chuyên sâu cho cán bộ,

KSV về những quy định mới, những nội dung sửa đổi bổ sung của LTTHS,

ộ luật hình sự năm 2015 và các đạo luật khác về tư pháp cũng như về những

văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật. Tăng

cường đào tạo, hướng dẫn về kỹ năng trong việc phát hiện những vi phạm

pháp luật và ban hành kháng nghị nhằm nâng cao trách nhiệm, thống nhất

nhận thức cho cán bộ, KSV để tránh sự nhận thức thiếu thống nhất hoặc có

những quan điểm khác nhau.

Thứ ba, chủ động rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan

để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền kịp thời hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc

ban hành văn bản mới phù hợp với ộ luật hình sự và ộ luật tố tụng hình sự

năm 2015.

Thứ tư, mỗi cán bộ, KSV cần nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích cực,

chủ động trong việc nghiên cứu và áp dụng các quy định mới của pháp luật tố

tụng hình sự về thẩm quyền, thời hạn kháng nghị, trình tự thủ tục và các quy

63

định về bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị cũng như các quy định của pháp luật

nội dung để làm căn cứ xem xét đối với vi phạm cần phải ban hành kháng

nghị, từ đó vận dụng hiệu quả trong từng trường hợp cụ thể.

Thứ năm, hiện nay công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật

chưa được thực hiện đầy đủ và thống nhất, vẫn để xảy ra nhiều bất cập, ảnh

hưởng không nhỏ đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS. Trước

thực trạng này đòi hỏi VKSND tối cao cần tích cực, chủ động hơn nữa trong

việc phối hợp với các ộ, Ngành có liên quan kịp thời ban hành văn bản

hướng dẫn cụ thể không chỉ đối với các quy định của pháp luật Tố tụng hình

sự mà cả các luật khác, từ đó làm căn cứ áp dụng pháp luật thống nhất, làm cơ

sở để đánh giá tính chất mức độ vi phạm có cần thiết để ban hành kháng nghị

hay không. Đồng thời, VKSND các cấp cần thường xuyên tập hợp những khó

khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật để các cấp có thẩm quyền

giải thích kịp thời.

3.3. Tăng cường và đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành;

công tác thanh tra, kiểm tra trong nội bộ ngành Kiểm sát, trong đó có

công tác kháng nghị phúc thẩm

Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành có vai trò rất quan trọng đối với

bất kỳ một cơ quan, tổ chức nào để hoạt động hiệu quả. Đặc biệt, đối với

ngành KSND – hệ thống cơ quan được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc

tập trung, thống nhất lãnh đạo trong Ngành thì công tác quản lý, chỉ đạo, điều

hanh càng có vai trò và ý nghĩa quyết định.

Hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành của VKSND cấp trên đối với

VKSND cấp dưới được thể hiện thông qua việc xây dựng, triển khai và kiểm

tra việc thực hiện các Chỉ thị, kế hoạch, chương trình công tác hàng năm…

Để thực hiện có hiệu quả hoạt động này đòi hỏi VKSND tỉnh Thái Nguyên

cũng như VKSND cấp huyện, thành phố, thị xã phải nghiêm chỉnh chấp hành

64

quy chế về chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành KSND;

VKSND cấp tỉnh phải thường xuyên đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện chức

năng, nhiệm vụ của VKSND cấp huyện để kịp thời phát hiện và chấn chỉnh

những sai phạm, thiếu sót trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. ên cạnh đó,

mỗi đơn vị cần tổ chức giao ban định kỳ để kiểm điểm, đánh giá kết quả và

những mặt đã làm được, những mặt còn hạn chế, từ đó bàn biện pháp tháo gỡ

những khó khăn, vướng mắc đồng thời triển khai kế hoạch công tác trong

từng thời kỳ phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội của tỉnh. Sau mỗi kỳ giao

ban cần tổng hợp và thông báo những ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo, làm cơ sở

cho cán bộ, KSV thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao.

Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành còn có vai trò quan trọng để đảm

bảo tính tập trung và thống nhất trong Ngành. Đây là cơ sở tiên quyết để

ngành KSND thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Do đó, để tăng

cường hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành đòi hỏi VKSND hai cấp

tỉnh Thái Nguyên cần làm tốt các nhiệm vụ như: Viện trưởng VKSND cấp

dưới chịu sự quản lý, chỉ đạo, điều hành của Viện trưởng VKSND cấp trên

trực tiếp; mỗi cán bộ, KSV chịu sự quản lý, chỉ đạo điều hành của Viện

trưởng; Viện trưởng VKSND hai cấp cần có sự phân công, phân nhiệm hợp

lý, phù hợp với sở trường, năng lực công tác của mỗi cán bộ, KSV; hàng năm,

Viện trưởng VKSND tỉnh Thái Nguyên chỉ đạo VKSND cấp huyện xây dựng,

triển khai kế hoạch công tác của cấp mình; tăng cường công tác thanh tra,

kiểm tra để kịp thời phát hiện vi phạm, khắc phục những tồn tại hạn chế đồng

thời ghi nhận những kết quả đã đạt được; thông qua công tác thanh tra, kiểm

tra và qua việc theo dõi, nắm bắt tình hình kịp thời ban hành những kết luận

đánh giá, thông báo rút kinh nghiệm về nghiệp vụ để các đơn vị cùng nhau

sửa chữa khắc phục và rút kinh nghiệm chung.

65

Đối với công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, lãnh đạo VKSND hai

cấp tỉnh Thái Nguyên cần tiếp tục quán triệt và tổ chức thực hiện tốt Chỉ thị

03 và Chỉ thị 08 của Viện trưởng VKSND tối cao về “Tiếp tục tăng cường

kháng nghị phúc thẩm án hình sự”. Theo đó, cần tăng cường công tác lãnh

đạo, kiểm tra, giám sát, hướng dẫn của lãnh đạo VKS cấp trên đối với VKS

cấp dưới; cần thực hiện thường xuyên, có định hướng; cần bám sát Chỉ thị

công tác hàng năm của VKSND tối cao để từ đó đưa ra các chỉ tiêu phấn đấu,

phương hướng cụ thể đối với VKSND cấp huyện trong công tác kháng nghị

phúc thẩm hình sự. VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên cần xác định nhiệm vụ

trọng tâm “Nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự” là

khâu công tác đột phá trong kế hoạch công tác hàng năm của từng đơn vị. Cần

tiếp tục đổi mới hơn nữa công tác chỉ đạo, điều hành trong việc phân công

những KSV thực sự có năng lực giải quyết những vụ án phức tạp, biểu dương,

khen thưởng kịp thời những KSV thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình

trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự, đồng thời

kiểm điểm rút kinh nghiệm đối với những KSV còn hạn chế, từ đó tạo ra cơ

chế thúc đẩy chất lượng của công tác kháng nghị. Lãnh đạo các đơn vị phải

xây dựng chương trình, có biện pháp cụ thể để tổ chức thực hiện tốt các chỉ

thị về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự như phải có chỉ tiêu

cụ thể về công tác này, có sự kiểm tra đôn đốc kịp thời.

Lãnh đạo VKSND hai cấp cần tích cực hơn nữa trong việc chỉ đạo công

tác kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án, kịp thời phát hiện ra những vi

phạm pháp luật trong hoạt động xét xử để ban hành kháng nghị theo thẩm

quyền hoặc đề xuất với VKS cấp trên kháng nghị. Cần loại bỏ tư tưởng nể

nang, cả nể, dễ dàng chấp nhận và bỏ qua những vi phạm nghiêm trọng của

Tòa án. Đồng thời, VKSND cấp huyện cần thực hiện nghiêm túc các quy định

của Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án

66

hình sự về việc gửi bản án, quyết định của Tòa án; phiếu kiểm sát bản án,

quyết định, báo cáo kết quả xét xử, kháng nghị phúc thẩm hoặc báo cáo đề

nghị kháng nghị phúc thẩm cho VKS cấp trên trực tiếp. Công tác phối hợp

giữa VKS hai cấp cần phải chú trọng hơn nữa, khi có kháng nghị, Viện kiểm

sát cấp sơ thẩm phải cung cấp đầy đủ các thông tin, kết quả điều tra, các

vướng mắc nếu có cho cấp phúc thẩm để có cơ sở xem xét toàn diện vụ án để

bảo vệ kháng nghị. Phòng chuyên môn thuộc Viện kiểm sát tỉnh, khi nhận

được kháng nghị cần nghiên cứu kỹ đối chiếu theo quy định của pháp luật nếu

thấy kháng nghị có căn cứ, cần kiên quyết bảo vệ kháng nghị. Tránh tình

trạng khi vụ án đưa ra xét xử phúc thẩm, lại phải rút kháng nghị, chỉ trừ một

số trường hợp, quá trình xem xét tại cấp phúc thẩm, cũng như tại phiên tòa, có

phát sinh tình tiết mới, dẫn đến không bảo vệ được kháng nghị. Trường hợp

Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát, thì

ngay sau khi xét xử phúc thẩm, kiểm sát viên THQCT và kiểm sát xét xử

phúc thẩm, phải đề xuất lãnh đạo viện báo cáo Viện kiểm sát cấp cao để xin ý

kiến chỉ đạo.

Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra thường xuyên, VKSND cấp trên

sẽ nắm bắt được các vướng mắc của VKSND cấp dưới trong việc quyết định

có kháng nghị hay không để có hướng dẫn kịp thời. Ngược lại, việc kiểm tra

giám sát của VKS cấp trên sẽ giúp cho việc phát hiện vi phạm của bản án

hoặc quyết định trong trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị cùng cấp thì

thực hiện kháng nghị trên một cấp, hạn chế việc không kháng nghị do hết thời

hạn. Ngược lại, thực hiện việc báo cáo thường xuyên của VKS cấp dưới sẽ

giúp cho việc kháng nghị trên một cấp có hiệu quả, cần coi việc báo cáo Viện

kiểm sát cấp trên để kháng nghị phúc thẩm cũng là hoàn thành tốt chức năng

kiểm sát hoạt động xét xử của VKS cấp dưới.

67

ên cạnh đó, VKSND cấp tỉnh thường xuyên cần phải có những thông

báo rút kinh nghiệm về những thiếu sót, hạn chế đối với từng trường hợp mà

VKS rút kháng nghị, Tòa án không chấp nhận kháng nghị của VKS hoặc

trường hợp phát hiện có vi phạm thông qua hoạt động kiểm sát bản án của

VKS cấp tỉnh nhưng VKS cấp huyện không ban hành kháng nghị kịp thời.

Hàng năm, VKS cấp tỉnh cần tổng hợp, rút kinh nghiệm về công tác kháng

nghị án hình sự thuộc phạm vi và thẩm quyền để có những sơ kết, tổng kết

công tác kháng nghị, qua đó tổng hợp những vi phạm pháp luật của Tòa án

các cấp trong việc chuyển hồ sơ vụ án, gửi bản án, quyết định để kiến nghị

khắc phục.

3.4. Nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ và trách nhiệm của

Kiểm sát viên về công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự

Trước hết, lãnh đạo VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên phải luôn quan

tâm và tăng cường công tác lãnh đạo, rèn luyện bồi dưỡng cho đội ngũ cán

bộ, KSV vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công

tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm, không ngừng học tập, rèn luyện,

trau dồi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đối với công tác thực hành

quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết các vụ án hình sự. Nâng cao ý thức

chính trị và phẩm chất đạo đức, nhất là đạo đức nghề nghiệp sẽ giúp cán bộ,

KSV có định hướng đúng đắn trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ,

đồng thời giúp cán bộ KSV vận dụng pháp luật đúng đắn, phù hợp.

Lãnh đạo VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên cần chủ động phân công,

bố trí cán bộ, KSV có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có phẩm

chất đạo đức tốt, có năng lực làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm

sát xét xử các vụ án hình sự. Kịp thời động viên, khen thưởng đối với những

tập thể, cá nhân có thành tích trong việc thực hiện hiệu quả công tác kháng

nghị phúc thẩm hình sự.

68

Các KSV làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra,

kiểm sát xét xử hình sự phải xác định được vai trò của mình trong việc kháng

nghị phúc thẩm là hết sức quan trọng. Chính vì vậy, một trong những giải

pháp hàng đầu là phải xây dựng được đội ngũ KSV đủ mạnh, có nhận thức

đầy đủ về vai trò, chức năng và nhiệm vụ của ngành trong tình hình đổi mới

hiện nay, phải có trình độ nghiệp vụ vững vàng, có tinh thần trách nhiệm

trong công việc hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Việc xây dựng đội

ngũ KSV đủ về số lượng, có trách nhiệm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao,

vô tư, khách quan trong công việc là hết sức cần thiết. Mỗi KSV cần tự ý thức

trách nhiệm, tự nghiên cứu, học hỏi, đúc rút kinh nghiệm, nâng cao bản lĩnh

nghề nghiệp, trình độ chuyên môn nghiệp vụ; KSV cấp sơ thẩm phải có năng

lực giải quyết vụ án cao hơn KSV cấp sơ thẩm. Ngoài ra, cần có các giải pháp

chủ động của ngành Kiểm sát về công tác xây dựng đội ngũ KSV, trong đó

cần chú trọng việc đào tạo, tập huấn, tổng kết công tác nghiệp vụ, hướng dẫn

áp dụng thống nhất pháp luật.

KSV phải có kỹ năng nghề nghiệp, từ việc phát hiện các vi phạm của

Tòa án trong hoạt động xét xử, để xem xét tổng hợp đánh giá các tài liệu

chứng cứ trong hồ sơ vụ án và đề xuất kháng nghị. ản thân mỗi KSV phải tự

mình học hỏi, nâng cao trình độ về chuyên môn, nắm vững hệ thống các văn

bản pháp luật có liên quan để xây dựng cho mình bản lĩnh nghề nghiệp vững

vàng. Từ đó có đủ tự tin trong việc giải quyết án hình sự và kịp thời phát hiện

vi phạm, đề xuất kháng nghị đúng theo trình tự thủ tục tố tụng.

Trước mỗi vụ án, Lãnh đạo đơn vị phải yêu cầu KSV nghiên cứu kỹ hồ

sơ vụ án. Trước mỗi phiên tòa, KSV phải xây dựng kế hoạch, phương pháp

xét hỏi, tranh luận có trọng tâm, trọng điểm, kịp thời báo cáo đầy đủ cho Lãnh

đạo đơn vị những vấn đề phát sinh trong quá trình xét xử để kịp thời tháo gỡ

khó khăn, vướng mắc. KSV thực hành quyền công tố tại phiên tòa phải kịp

69

thời phát hiện những vi phạm tố tụng trong hoạt động xét xử của Hội đồng xét

xử, sau phiên tòa phải quan tâm đến việc kiểm sát biên bản phiên tòa để phát

hiện kịp thời sai sót của thư ký phiên tòa, từ đó đối chiếu lại giữa kết quả xét

hỏi và tranh luận tại phiên tòa cùng với đề nghị trong bản luận tội của kiểm

sát viên, cũng như việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự có căn cứ pháp luật hay không, việc xác định tư cách tham gia tố

tụng, vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường dân sự, án phí và lệ phí có

đúng theo quy định của pháp luật hay không, từ đó báo cáo đề xuất với Lãnh

đạo VKS xem xét việc kháng nghị phúc thẩm.

VKSND các huyện, thành phố, thị xã cần tăng cường chất lượng công

tác kiểm sát bản án sơ thẩm, lập phiếu kiểm sát theo đúng mẫu quy định và

gửi bản án đúng thời hạn cho cấp phúc thẩm. Qua công tác kiểm sát bản án,

nếu phát hiện các bản án có vi phạm, thiếu sót thì cần kiên quyết kháng nghị

phúc thẩm, đối với những trường hợp có vi phạm nhưng không nghiêm trọng

cũng cần tổng hợp để ban hành kiến nghị yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm.

Trường hợp Tòa án tuyên mức án khác quan điểm của Viện Kiểm sát thì

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phải nghiên cứu lại

vụ án, tổng hợp viết báo cáo án nêu rõ lý do Tòa án xét xử tuyên khác quan

điểm, đề xuất việc có kháng nghị, kiến nghị hay không và nêu rõ lý do.

Thực tế cho thấy, việc nâng cao trình độ năng lực, chuyên môn nghiệp

vụ cho đội ngũ cán bộ, KSV là việc làm có ý nghĩa quyết định nhằm khắc

phục những hạn chế, yếu kém trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm

sát xét xử nói chung và đối với chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự nói

riêng. Do đó, cần tăng cường về số lượng cũng như chất lượng cán bộ, KSV

đáp ứng yêu cầu công việc hiện nay và diễn biến của tình hình tội phạm ngày

càng phức tạp.

70

3.5. Tăng cường sự chỉ đạo, phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân

hai cấp tỉnh Thái Nguyên

Theo quy định của LTTHS, Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát

cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án, quyết định của Tòa án

cấp sơ thẩm. Đây là một quyền năng pháp lý quan trọng nhằm bảo đảm cho

bản án, quyết định của Tòa án có căn cứ, đúng pháp luật. Do đó, Chỉ thị 03 và

Chỉ thị 08 của Viện trưởng VKSND tối cao đã khẳng định: “Coi trọng công

tác kháng nghị phúc thẩm, coi đây là một trong những công việc trọng tâm

của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự”.

Với ý nghĩa và tầm quan trọng đó, để đảm bảo cho công tác kháng nghị phúc

thẩm đạt kết quả tốt đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa VKS hai cấp,

cụ thể:

Đối với VKS các huyện, thành phố, thị xã phải nghiêm túc thực hiện

đúng quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án

hình sự; Quy chế về chức trách nhiệm vụ và chế độ làm việc của VKSND tối

cao, các phòng nghiệp vụ VKSND tỉnh trong việc gửi cáo trạng truy tố, sao

gửi bản án, quyết định sơ thẩm, báo cáo xét xử sơ thẩm, kháng nghị phúc

thẩm cho VKS tỉnh. Khi gửi bản án, quyết định sơ thẩm cho VKS cấp phúc

thẩm đảm bảo phải có phiếu kiểm sát bản án, quyết định sơ thẩm theo đúng

mẫu quy định. Khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm, VKS các

huyện, thành phố, thị xã có thể chuyển hồ sơ về VKS tỉnh để nghiên cứu, xem

xét, báo cáo lãnh đạo Viện trước khi ban hành kháng nghị. Hoặc khi ban hành

kháng nghị phúc thẩm, VKS cấp huyện phải báo cáo kịp thời cho VKS cấp

tỉnh một cách cụ thể, đầy đủ về nội dung vụ án, quá trình giải quyết vụ án ở

cấp sơ thẩm, nêu rõ lý do và căn cứ kháng nghị phúc thẩm. Đồng thời gửi

kèm hồ sơ và các tài liệu có liên quan đến việc kháng nghị cho VKS cấp tỉnh.

Nếu VKS cấp tỉnh nhận thấy cần phải bổ sung kháng nghị khi thời hạn kháng

71

nghị vẫn còn thì thông báo cho VKS cấp huyện có quyết định kháng nghị bổ

sung hoặc rút kháng nghị nếu kháng nghị không có căn cứ, đảm bảo cho

kháng nghị được ban hành toàn diện, đầy đủ, có căn cứ để Tòa án chấp nhận

kháng nghị. Đối với trường hợp Tòa án không chấp nhận kháng nghị của

VKS không có căn cứ thì phải báo cáo đề nghị cấp giám đốc thẩm xem xét

theo thẩm quyền. VKS cấp trên trước khi rút kháng nghị của VKS cấp dưới

cần trao đổi, thông báo để VKS cấp dưới nắm được bảo đảm thông tin hai chiều.

ên cạnh đó, VKS cấp huyện phải tăng cường công tác thông tin báo

cáo về trường hợp cần kháng nghị phúc thẩm đối với những vụ việc phức tạp

có nhiều ý kiến khác nhau, chưa đồng nhất quan điểm, cần tranh thủ ý kiến

của VKS cấp trên. VKS cấp tỉnh qua nghiên cứu bản án, quyết định của Tòa

án cấp sơ thẩm phát hiện có vi phạm pháp luật, nếu không có đủ thời gian để

kháng nghị thì cần báo cáo ngay VKS cấp trên trực tiếp để xem xét kháng

nghị theo thẩm quyền, trong báo cáo phải nêu đầy đủ lý do, căn cứ, đề xuất

kháng nghị.

VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên cần tích cực phối hợp với nhau và

phối hợp với Tòa án để tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm ở hai cấp bằng

hình thức trực tuyến. Qua đó sẽ phát hiện được nhiều vi phạm trong hoạt động

xét xử, từ đó xem xét bản án tuyên có phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có

trong hồ sơ vụ án, phù hợp với kết quả xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa hay

không; phần nhận định của bản án có phù hợp với phần quyết định tuyên phạt

tại phiên tòa hay không? Từ đó báo cáo, đề xuất lãnh đạo Viện quyết định

việc ban hành hay không ban hành kháng nghị trong từng trường hợp cụ thể.

Đồng thời, các phiên tòa rút kinh nghiệm cũng là cơ hội để các cán bộ, KSV

học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong quá trình thực hành quyền công tố và

kiểm sát xét xử đối với những vụ án cụ thể.

72

Đối với những kháng nghị có nội dung đạt chất lượng tốt, được Tòa án

cấp phúc thẩm chấp nhận, Phòng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử

phúc thẩm VKSND tỉnh nên tổng hợp để thông báo cho các đơn vị cùng tham

khảo và rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác kháng nghị phúc

thẩm. Hàng năm, Phòng cần xây dựng các báo cáo chuyên đề nghiệp vụ về

công tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm hình sự để góp phần

nâng cao nhận thức của cán bộ, KSV Viện kiểm sát hai cấp đối với lĩnh vực

công tác này.

3.6. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án

trong việc giải quyết kháng nghị phúc thẩm hình sự

Xuất phát từ nhiệm vụ đấu tranh, phòng chống tội phạm; giữ gìn an

ninh trật tự, an toàn xã hội; đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được phát

hiện, xử lý nghiêm minh, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô

tội; bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và tôn trọng quyền, lợi ích chính đáng

của công dân thì việc hình thành nên mối quan hệ phối hợp trong tố tụng hình

sự giữa Viện kiểm sát với Tòa án là một vấn đề tất yếu và hết sức cần thiết.

Trước hết, việc tăng cường mối quan hệ phối hợp liên ngành phải dựa trên cơ

sở chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành theo luật định, nhằm đảm bảo cho

việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất. Chính vì vậy, giữa

Viện kiểm sát và Tòa án phải thống nhất xây dựng được Quy chế phối hợp

liên ngành trong hoạt động tố tụng giải quyết án hình sự nói chung và trong

công tác giải quyết kháng nghị phúc thẩm nói riêng. Việc xây dựng Quy chế

phối hợp là nhu cầu cấp thiết để có hướng dẫn, quy định rõ trách nhiệm của

mỗi bên nhằm thống nhất nội dung của từng vấn đề cần thực hiện. Cụ thể, đối

với công tác giải quyết kháng nghị phúc thẩm, quy chế phải xác định rõ trách

nhiệm thụ lý phúc thẩm của Tòa án khi có kháng nghị, việc chuyển hồ sơ cho

Viện kiểm sát cùng cấp sau khi thụ lý phúc thẩm hay quy định về các trường

73

hợp Viện kiểm sát thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị... Định kỳ hàng tháng,

hàng quý, hàng năm, giữa Viện kiểm sát và Tòa án cần có những cuộc họp

liên ngành để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của mỗi ngành, đồng thời

phải tiến hành sơ kết, tổng kết để đánh giá chung những ưu điểm, tồn tại qua

đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác phối hợp. Đặc biệt, đối

với những vụ án phức tạp, được dư luận xã hội quan tâm, có nhiều quan điểm

thì cần tổ chức những cuộc họp liên ngành để kịp thời tháo gỡ vướng mắc,

thống nhất quan điểm giải quyết vụ án, từ đó hạn chế đến mức thấp nhất tình

trạng Tòa án không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát.

3.7. Tăng cường công tác kiểm sát các bản án, quyết định sơ thẩm của

Tòa án

Việc ban hành kháng nghị phúc thẩm của VKS được thực hiện chủ yếu

thông qua công tác kiểm sát các hoạt động xét xử và kiểm sát bản án, quyết

định của Tòa án sơ thẩm. Vì vậy, vấn đề tăng cường hiệu quả khâu công tác

này có ý nghĩa quan trọng góp phần nâng cao chất lượng kháng nghị phúc

thẩm. Thông qua công tác kiểm sát bản án, quyết định, nhiều vi phạm của Tòa

án được phát hiện kịp thời để thực hiện quyền kháng nghị.

Lãnh đạo VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên phải chú trọng quán triệt

và thường xuyên kiểm tra, đôn đốc công tác kiểm sát bản án, quyết định của

Tòa án sơ thẩm; các cán bộ, KSV cần tập trung tự nghiên cứu, nắm đầy đủ và

thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật và của Ngành về công tác

kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án, coi đây là một trong những khâu công

tác kiểm sát cơ bản của đơn vị mình.

VKS cấp huyện phải thực hiện nghiêm quy định sau khi nhận được bản

án, quyết định, KSV thực hành quyền công tố phải trực tiếp lập phiếu kiểm

sát bản án, nhằm nghiên cứu, xem xét, đối chiếu giữa kết quả xét hỏi, tranh

luận tại phiên tòa, cùng với đề nghị trong luận tội với phần nhận định, quyết

74

định của bản án có phù hợp không; xem xét, đối chiếu nội dung bản án về tội

danh, khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

và phần trách nhiệm dân sự..., kịp thời phát hiện những vi phạm trong bản án

để báo cáo Lãnh đạo Viện xem xét, quyết định việc có kháng nghị hay không,

hoặc đề xuất những biện pháp giải quyết đối với những vi phạm trong bản án

nếu không ban hành kháng nghị. Đồng thời, cần theo dõi chặt chẽ thời gian

gửi bản án, quyết định, thường xuyên trao đổi, nhắc nhở Tòa án cùng cấp gửi

đúng thời hạn quy định. Đối với những bản án, quyết định Tòa án gửi chậm

dẫn đến việc kháng nghị phúc thẩm của VKS bị chậm trễ thì phải kiến nghị

khắc phục vi phạm .

VKS cấp tỉnh phải tăng cường kiểm sát bản án, quyết định do Tòa án

cấp sơ thẩm gửi đến, nếu phát hiện vi phạm thì phải kháng nghị phúc thẩm

kịp thời. Đồng thời, để khắc phục tình trạng Tòa án cấp huyện gửi không đầy

đủ hoặc không kịp thời bản án, quyết định sơ thẩm cho VKS cấp tỉnh thì VKS

cấp tỉnh cần phải mở sổ theo dõi việc tiếp nhận bản án, quyết định của Tòa án

cấp huyện; hàng tháng tổng hợp, so sánh, đối chiếu với số liệu thống kê, báo

cáo công tác định kỳ của VKS cấp huyện hoặc thông qua hồ sơ vụ án phúc

thẩm để xác định bản án, quyết định của Tòa án cấp huyện có được gửi cho

VKS cấp tỉnh hay không. Trên cơ sở đó, hàng năm VKS cấp tỉnh phải tổ chức

kiểm tra, đánh giá rút kinh nghiệm về công tác kiểm sát bản án, quyết định,

trong đó chỉ ra được những ưu điểm cũng như hạn chế nhằm đề ra giải pháp

phù hợp; cần ban hành nhiều thông báo rút kinh nghiệm để các VKS cấp

huyện nghiên cứu nhằm khắc phục các vi phạm, thiếu sót, nâng cao chất

lượng, hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm.

75

3.8. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chính sách

chế độ đối với cán bộ, Kiểm sát viên

Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc là điều kiện không thể thiếu để

bảo đảm cho hoạt động của một cơ quan, tổ chức. Trong điều kiện phát triển

khoa học kỹ thuật và công nghệ mạnh mẽ như hiện nay thì yếu tố này càng có

ý nghĩa quan trọng. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 đã khẳng

định: “Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất bảo đảm cho các cơ quan tư pháp có

đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ, có chế độ chính sách hợp lý đối với cán

bộ tư pháp. Tăng đầu tư về cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện làm việc, đẩy

mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước hiện đại hóa các cơ quan tư

pháp... Có chính sách tiền lương, phụ cấp và chính sách đãi ngộ phù hợp cho

cán bộ tư pháp...”. Tiếp đó, thực hiện chủ trương cải cách tư pháp sau khi có

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của ộ Chính trị, Đảng và Nhà

nước đã tiếp tục quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc và có

nhiều chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ các cơ quan tư pháp.

Thực tế cho đến nay, trụ sở làm việc của VKSND các huyện, thành

phố, thị xã và VKSND tỉnh Thái Nguyên đã được đầu tư xây dựng cơ bản,

trang thiết bị, phương tiện làm việc đã được trang bị máy photo, máy tính, hệ

thống truyền hình trực tuyến, xe máy, xe ôtô ở VKS tỉnh và 03 đơn vị VKS

cấp huyện, chế độ, chính sách đối với cán bộ ngày càng được hoàn thiện. Tuy

nhiên, so với yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm cùng

những biến động về giá cả thị trường thì điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết

bị và phương tiện làm việc của ngành Kiểm sát vẫn còn thiếu thốn, nghèo

nàn, đời sống của cán bộ, KSV nhìn chung còn gặp nhiều khó khăn. Trong

khi đó, theo yêu cầu của cải cách tư pháp thì vai trò và trách nhiệm của Viện

kiểm sát là rất lớn. Do đó, để VKS thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của

mình thì việc tăng cường trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho công tác là

76

hết sức cần thiết. Đề nghị VKSND tối cao trong thời gian tới sớm đầu tư trang

thiết bị và ứng dụng công nghệ thông tin có chất lượng cao phục vụ công tác

thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, chuẩn hóa tin học

trong cơ quan VKS các cấp; tăng cường hơn nữa việc đầu tư cơ sở vật chất,

phương tiện làm việc cho VKS cấp huyện, nhất là các huyện hàng năm có

khối lượng án lớn, địa bàn rộng; có chính sách cải cách chế độ tiền lương,

tăng phụ cấp trách nhiệm và các đãi ngộ thỏa đáng đối với cán bộ, KSV để họ

có điều kiện ổn định cuộc sống, yên tâm công tác.

Tiểu kết Chương 3

Mặc dù công tác kháng nghị phúc thẩm của VKSND hai cấp tỉnh Thái

Nguyên đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên vẫn còn tồn tại

nhiều hạn chế như đã nêu tại Chương 2 của Luận văn. Từ thực trạng đó, tác

giả đề xuất những giải pháp cụ thể để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả

công tác kháng nghị phúc thẩm như: tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh

đạo VKS; tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa VKSND hai cấp và giữa

VKS với Tòa án; nâng cao trình độ, chất lượng đội ngũ cán bộ, KSV; nâng

cao điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc.

77

KẾT LUẬN

VKSND là chủ thể duy nhất có chức năng thực hành quyền công tố và

kiểm sát các hoạt động tư pháp, điều này đã được khẳng định trong Hiến pháp

nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

năm 2014. Chức năng, nhiệm vụ này của Viện kiểm sát là nhằm đảm bảo cho

mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh,

phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,

không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Viện

kiểm sát là thiết chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người,

quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật

được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, sau khi xét xử sơ thẩm,

trong thời hạn luật định, VKS là chủ thể duy nhất có quyền kháng nghị phúc

thẩm những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Đây là cơ

sở pháp lý để Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án, qua đó kịp thời phát hiện

và khắc phục những sai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm, đảm bảo cho

bản án, quyết định của Tòa án là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp

luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp

của công dân.

Kháng nghị phúc thẩm là công cụ quan trọng để thực hiện chức năng

thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, khắc phục được

những vi phạm trong hoạt động xét xử, bảo đảm không để xảy ra oan sai và

bỏ lọt tội phạm, góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội

phạm. Vì vậy, kháng nghị phúc thẩm hình sự không chỉ là quyền hạn mà còn

là trách nhiệm của Viện kiểm sát. Chỉ thị số 03/CT-VKSTC ngày 19/6/2008

và Chỉ thị số 08/CT-VKS ngày 06/4/2016 của Viện trưởng VKSND tối cao về

78

tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự đã nhấn mạnh, nâng cao

chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát là nhiệm vụ

trọng tâm của Ngành kiểm sát. Với việc triển khai nghiêm túc các nội dung kế

hoạch công tác hàng năm, công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của ngành

Kiểm sát nói chung và của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên nói riêng đã đạt

được nhiều kết quả tích cực, kịp thời khắc phục được vi phạm của Tòa án cấp

sơ thẩm, đảm bảo việc giải quyết vụ án nghiêm minh, đúng pháp luật, hoàn

thành tốt nhiệm vụ chính trị mà Đảng và nhân dân giao phó.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, chất lượng, hiệu quả

công tác kháng nghị phúc thẩm của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên vẫn

còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu chiến lược cải cách tư pháp đã đề ra.

Nguyên nhân chủ yếu là do hệ thống pháp luật chưa đồng bộ; cơ cấu tổ chức,

trình độ năng lực của một bộ phận cán bộ, Kiểm sát viên chưa đáp ứng được

yêu cầu nhiệm vụ đề ra; công tác chỉ đạo, điều hành mặc dù đã có nhiều

chuyển biến tích cực tuy nhiên hiệu quả chưa cao… Do đó, để hoàn thành nội

dung, kế hoạch công tác, VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên cần tập trung

nghiên cứu, triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao chất

lượng kháng nghị phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án, đảm bảo kháng

nghị được chấp nhận đạt tỷ lệ trên 80%. Một số giải pháp được đưa ra như

nâng cao trách nhiệm nghiên cứu bản án, quyết định của Tòa án nhằm phát

hiện sai sót, vi phạm để kịp thời ban hành kháng nghị hoặc đề nghị kháng

nghị phúc thẩm; tăng cường sự phối hợp chặt chẽ trong công tác giữa

VKSND tỉnh với VKSND các huyện, thành phố, thị xã qua việc theo dõi, chỉ

đạo và hướng dẫn nghiệp vụ; loại bỏ tư tưởng nể nang, cả nể, phát hiện vi

phạm cần kiên quyết kháng nghị; nâng cao ý thức trách nhiệm, trình độ

chuyên môn nghiệp vụ của mỗi cán bộ, KSV, không ngừng học tập, rèn luyện

79

kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, phát hiện vi phạm để đề xuất kháng nghị kịp

thời…

Kháng nghị phúc thẩm vừa là quyền nhưng cũng là trách nhiệm lớn lao

của Viện kiểm sát. Việc thực hiện tốt nhiệm vụ này nhằm khắc phục những vi

phạm trong hoạt động xét xử; đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án

được chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; đảm bảo cho hoạt động

xét xử được thực hiện nghiêm minh, công bằng, dân chủ và khách quan; bảo

vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và

công dân; góp phần quan trọng trong việc khẳng định và nâng cao vị thế của

ngành Kiểm sát nhân dân trong hệ thống các cơ quan tư pháp./.

80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. ộ tư pháp (1987), Thông tư số 141-HCTP ngày 5 tháng 12 năm 1957, Cơ

sở dữ liệu luật Việt Nam

2. Nguyễn Hòa ình (2016) Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình

sự năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Nguyễn Phúc ình (2016) “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng

công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự ở cấp huyện”, website Báo điện tử

Kiemsatonline,

luong-cong-tac-khang-nghi-phuc-tham-hinh-su-o-cap-huyen-46941.html>,

(08/12/2016).

4. Dương Thanh iểu (2007) “Những vấn đề cần chú ý để nâng cao chất

lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân”,

Tạp chí Kiểm sát, số 8,tr.3 – 10.

5. ộ Chính trị (2002) Nghị quyết số 0 NQ-TW về một số nhiệm vụ trọng tâm

công tác tư pháp trong thời gian tới, ban hành ngày 02/01/2002, Hà Nội.

6. ộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 4 NQ-TW về chiến lược xây dựng và

hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến

năm 2020, ban hành ngày 24/5/2005, Hà Nội.

7. ộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 4 NQ-TW về chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020, ban hành ngày 02/06/2005, Hà Nội.

8. ộ Tư pháp và Viện Khoa học pháp lý (2007) Từ điển Thuật ngữ Luật học,

Nxb Bách khoa và Nxb Tư pháp, Hà Nội.

9. ộ Tư pháp (1957) Thông tư số 141-HCTP về tổ chức và phân công nội bộ

của Tòa án, ban hành ngày 05/12/1957, Hà Nội.

10. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946) Sắc lệnh

số 13, ban hành ngày 24/01/1946, Hà Nội.

81

11. Lê Thành Dương (2014) “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kháng

nghị phúc thẩm hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 12, tr.32 – 40.

12. Đại học Luật Hà Nội (2008) Giáo trình Luật Tố tụng hình sự của nước

cộng hòa xã hội chủ ngh a Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

13. Đại học Luật Hà Nội (2017) Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

14. Đại học Quốc gia Hà Nội (2013) Giáo trình Luật Tố tụng hình sự của

nước cộng hòa xã hội chủ ngh a Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,

Hà Nội.

15. Nguyễn Duy Giảng (2008) “Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn thực hiện

chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của

Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp”, website Viện kiểm sát nhân

dân tối cao , (03/9/2008).

16. Đỗ Ngọc Hải (2013) “ àn về pháp chế xã hội chủ nghĩa trong điều kiện

xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam”, website Tạp chí tổ chức Nhà nước

ong_dieu_kien_xay_dung_va_hoan_thien_nha_nuoc_phap_quyen_xa_hoi

_chuall.html>, (29/10/2013).

17. Phạm Mạnh Hùng (2018) Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự

năm 2015, Nxb Lao động, Hà Nội.

18. Phạm Xuân Khoa (2014) “ àn về vai trò, trách nhiệm của Kiểm sát viên

trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 23, tr. 12-15.

19. Tạ Trung Kiên (2013) “Một số đề xuất tăng cường công tác kháng nghị

phúc thẩm hình sự trong thời gian tới”, Tạp chí Kiểm sát, số 23, tr.16 - 19.

20. Hoàng Phê (2012) Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí

Minh.

82

21. Đinh Văn Quế (2011) “Một số vấn đề về kháng nghị theo thủ tục Phúc

thẩm vụ án hình sự”, website Tòa án nhân dân tối

cao,

=1754190&p_cateid=1751909&item_id=13771831&article_details=1>,

(29/12/2011).

22. Quốc hội (1988) Bộ luật tố tụng hình sự, ban hành ngày 26/6/1988, Hà Nội.

23. Quốc hội (2003) Bộ luật tố tụng hình sự, ban hành ngày 26/11/2003, Hà Nội.

24. Quốc hội (2015) Bộ luật tố tụng hình sự, ban hành ngày 27/11/2015, Hà Nội.

25. Quốc hội (1959) Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ban hành

ngày 31/12/1959, Hà Nội.

26. Quốc hội (2013) Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ ngh a Việt Nam,

ban hành ngày 28/11/2013, Hà Nội.

27. Quốc hội (1960) Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, ban hành ngày

26/7/1960, Hà Nội.

28. Quốc hội (1981) Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, ban hành ngày

04/7/1981, Hà Nội.

29. Quốc hội (2002) Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, ban hành ngày

02/4/2002, Hà Nội.

30. Quốc hội (2014) Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, ban hành ngày

24/11/2014, Hà Nội.

31. Quốc hội (2012) Nghị quyết 37 2012 QH13 về công tác phòng, chống vi

phạm pháp luật và tội phạm, ban hành ngày 23/11/2012, Hà Nội.

32. Tòa án nhân dân tối cao (1974) Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng phúc

thẩm về hình sự kèm theo Thông tư số 1 TATC, ban hành ngày

02/10/1974, Hà Nội.

33. Tòa án nhân dân tối cao (2005) Nghị quyết 05 2005 NQ-HĐTP của Hội

đ ng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy

83

định trong phần thứ tư “ ét xử phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự,

ban hành ngày 08/12/2005, Hà Nội.

34. Võ Khánh Vinh (2004) Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

35. Viện ngôn ngữ học (2010) Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.

36. Viện ngôn ngữ học (2016) Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

37. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008) (2016)Chỉ thị số

03 200 CT-VKSTC-VPT1 ngày 1 6 200 và Chỉ thị số 0 2016 CT-

VKSTC ngày 06 4 2016 về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm

hình sự.

38. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2012) (2017) Quyết định số 2 7 QĐ-

VKSTC ngày 13 6 2012 và Quyết định số 37 !Đ-VKSTC ngày

10/10/2017 về hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá kết quả công tác nghiệp

vụ trong Ngành kiểm sát nhân dân.

39. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2014-2018) Báo cáo tổng kết

công tác kiểm sát, các năm (2014) (2015) (2016) (2017) (2018).

40. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2017) Chuyên đề những giải

pháp nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, Thái

Nguyên.

84

PHỤ LỤC

ảng 2.1 Thống kê số vụ án và bị cáo xét xử sơ thẩm và thụ lý phúc thẩm từ năm 2014 đến 201

Năm Tổng số vụ án và ị cáo đ Tổng số vụ án và ị cáo thụ

xét xử sơ thẩm lý phúc thẩm

Số vụ Số ị cáo Số vụ Số ị cáo

2014 1401 2497 265 452

2015 1335 2420 229 352

2016 1311 2389 194 318

2017 1372 2433 209 335

2018 1419 2502 231 389

Tổng 6838 12241 1128 1846

Trung bình 1367 2448 225 369

(Nguồn: Thống kê của VKSND tỉnh Thái Nguyên)

85

ảng 2.2 Thống kê số vụ án, bị cáo thụ lý phúc thẩm và số vụ án, bị cáo thụ lý phúc thẩm kháng nghị

T lệ Tổng số vụ án và ị cáo Tổng số vụ án và ị cáo c

số ị cáo ị thụ lý phúc thẩm kháng nghị phúc thẩm

kháng nghị so với Năm

VKS cấp trên kháng nghị số ị cáo thụ lý Số vụ Số ị cáo Số vụ Số ị cáo Số vụ Số ị cáo phúc thẩm

03 04 3,5% 2014 12 16 265 452

03 04 2,8% 2015 09 10 229 352

04 08 4,4% 2016 10 14 194 318

04 08 4,5% 2017 11 15 209 335

03 05 3,1% 2018 10 12 231 389

17 29 Tổng số 52 67 1128 1846

3 6 3,7% Trung bình 10 13 225 369

(Nguồn: Thống kê của VKSND tỉnh Thái Nguyên)

83

ảng 2.3 Thống kê số vụ án, bị cáo được đưa ra xét xử phúc thẩm và số vụ án, bị cáo có kháng nghị phúc thẩm được đưa ra xét xử

Tổng số vụ án và ị cáo T lệ Tổng số vụ án và ị cáo c kháng nghị được đưa ra xét xử phúc số ị cáo được đưa ra xét xử phúc thẩm Năm thẩm c kháng nghị đưa

ra XXPT Số vụ Số ị cáo Số vụ Số ị cáo

2014 131 261 14 5,4% 10

2015 110 181 10 5,5% 09

2016 94 169 12 7,1% 08

2017 90 158 13 8,2% 09

2018 113 201 12 6% 10

Tổng 538 970 61 6,3% 46

84

(Nguồn: Thống kê của VKSND tỉnh Thái Nguyên)

ảng 2.4 Thống kê kết quả giải quyết các vụ án có kháng nghị phúc thẩm

Kết quả giải quyết Tổng số vụ án và

VKS ảo vệ kháng nghị ị cáo c kháng nghị Năm VKS rút kháng nghị Số vụ án và ị cáo phúc thẩm Chấp nhận Kh ng chấp nhận c KN đưa ra XXPT

Số vụ Số ị cáo Số vụ Số ị cáo Số vụ Số ị cáo Số vụ Số ị cáo Số vụ Số ị cáo

2014 02 02 07 10 03 04 12 16 14 10

2015 0 0 07 08 02 02 09 10 10 09

2016 02 02 06 07 02 05 10 14 12 08

2017 02 02 07 11 02 02 11 15 13 09

2018 0 0 09 11 01 01 10 12 12 10

61 46 Tổng 06 06 36 47 10 14 52 67

85

(Nguồn: Thống kê của VKSND tỉnh Thái Nguyên)

ảng 2.5 Thống kê kết quả xét xử theo thủ tục phúc thẩm

Số vụ án, ị cáo xét xử theo thủ tục phúc thẩm

Số vụ án, ị cáo Tòa án tuyên hủy, sửa án sơ thẩm

Năm Tổng số Tổng số C kháng nghị của VKS Kh ng c kháng nghị của VKS

Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo

07 10 2014 131 261 75 68 172 172

07 08 2015 110 181 72 65 108 116

06 07 2016 94 169 69 63 107 114

07 11 2017 90 158 53 46 75 86

09 11 2018 113 201 58 49 87 98

36 47 Tổng số 538 970 327 291 539 586

86

(Nguồn: Thống kê của VKSND tỉnh Thái Nguyên)