VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN NAM THẮNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN NAM THẮNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. MAI ĐẮC BIÊN
Hà Nội, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là đề tài nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi.
Những số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn đảm bảo tính chính xác, trung
thực, được thu thập trong quá trình học tập và công tác tại đơn vị Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, không trùng lặp với các đề tài khác
cùng lĩnh vực đã được công bố trước đây.
Tác giả luận văn
Nguyễn Nam Thắng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY ............................ 7
1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy ........................................................... 7
1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy ......................................................... 23
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 29
Chương 2 THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA
TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI .. 30
2.1. Tình hình đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội và tình hình tội phạm ảnh
hưởng đến thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án Mua bán
trái phép chất ma túy tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ........................ 30
2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án Mua
bán trái phép chất ma túy tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai .................................................................................................. 33
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 51
Chương 3 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TẠI THÀNH PHỐ
BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI ................................................................... 52
3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai ......................................................................................... 52
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai .................................................................................................. 56
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật Hình sự :
BLTTHS Bộ luật Tố tụng Hình sự :
CQĐT Cơ quan điều tra :
ĐTV Điều tra viên :
KSV Kiểm sát viên :
THQCT Thực hành quyền công tố :
TNHS Trách nhiệm hình sự :
VKSND Viện kiểm sát nhân dân :
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số liệu tin báo, nguồn tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp nhận và vụ
án hình sự khởi tố từ năm 2015 đến năm 2019 ......................................................... 82
Bảng 2.2. Bảng so sánh tỷ lệ án ma túy đã khởi tố tại thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 ...................................................... 82
Bảng 2.3. Bảng số liệu số vụ án hình sự và vụ án ma túy đã khởi tố tại thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 .............................. 83
Bảng 2.4. Bảng so sánh tình hình áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam
tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 ........ 83
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tình hình tội phạm về ma túy ngày càng diễn biến phức tạp, với sự gia tăng
về số lượng tội phạm, quy mô phạm tội và xu hướng trẻ hóa đặt ra những thách thức
lớn đối với tình hình chính trị xã hội và ảnh hướng đến đời sống của người dân. Đối
với địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cũng đối mặt với những ảnh hưởng
của loại tội phạm này. Thành phố Biên Hòa là một thành phố với nhiều khu công
nghiệp lớn, tập trung số lượng lớn người lao động nhập cư, địa bàn rộng nên thường
xuyên là điểm nóng về tội phạm, đặc biệt là tội phạm về mua túy chiếm tỷ lệ cao.
Việc xử lý tội phạm này giúp ổn định tình hình chính trị địa phương, luôn được các
cấp chính quyền quan tâm, vì thế đặt ra những yêu cầu nâng cao chất lượng trong
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đối với các cơ quan tiến hành tố tụng. Các
loại tội phạm về ma túy cần được phát hiện, điều tra, truy tố xét xử nhanh chóng,
kịp thời, đặc biệt là tội mua bán trái phép chất ma túy, bởi vì việc xét xử nghiêm
minh loại tội phạm này góp phần lớn trong việc ngăn ngừa các loại tội phạm ma túy
khác xảy ra.
Để phòng ngừa và ngăn chặn tệ nạn ma túy gây ra, chúng ta đã có một hệ
thống pháp luật tương đối đầy đủ như Luật Phòng, Chống ma túy, các quy định về
xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi liên quan đến ma túy, các quy định
pháp luật hình sự đối với các tội phạm về ma túy… Trong hoạt động tư pháp, một
trong những hoạt động mang tính chất phòng ngừa tội phạm đó là hoạt động xử lý
hình sự các đối tượng mua bán trái phép chất ma túy, mang tính răn đe, phòng ngừa
chung cho xã hội. Để hoạt động này mang lại hiệu quả cần có sự phối hợp trong
công tác điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm mua bán trái phép chất ma túy.
Đối với vai trò của VKS, chức năng THQCT là một chức năng quan trọng
bên cạnh chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, nếu thực hiện tốt chức năng
THQCT trong các vụ án mua bán trái phép chất ma túy, đặc biệt là giai đoạn điều
tra, sẽ giúp cho quá trình giải quyết vụ án được chính xác, khách quan, toàn diện,
đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong việc không bỏ lọt tội phạm và không làm oan
1
sai người vô tội. Tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, trong công tác THQCT
trong hoạt động điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy vẫn còn tồn tại một số
bất cập, hạn chế như việc gắn hoạt động THQCT với hoạt động điều tra đôi khi
chưa thực sự đáp ứng đẩy đủ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm; vẫn còn
tình trạng một vài KSV thiếu tính chủ động trong công tác THQCT, việc đề ra yêu
cầu điều tra đôi khi còn sơ sài, mang tính hình thức, không cụ thể dẫn đến không
định hướng cho hoạt động điều tra, dẫn đến hoạt động điều tra còn hạn chế, vẫn còn
tình trạng phải gia hạn thời hạn điều tra vì một số nguyên nhân chủ quan có thể
khắc phục được, vẫn còn tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung…Những vấn đề
này cần được phân tích, nghiên cứu để có những giải pháp khắc phục để nâng cao
hiệu quả THQCT. Do đó việc nghiên cứu đề tài này đem lại ý nghĩa thực tiễn đối
với công tác đấu tranh phòng chống nhóm tội phạm ma túy nói chung và tội phạm
mua bán trái phép chất ma túy nói riêng trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng
Nai, từ đó góp phần nâng cao chất lượng THQCT, đặc biệt trong giai đoạn điều tra,
là giai đoạn mang tính chất quan trọng và tạo nền tảng cho các hoạt động tố tụng
sau này.
Từ những lý do đã nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” để làm nội dung nghiên cứu cho Luận văn Thạc sỹ
Luật học hoàn toàn phù hợp, mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn, vừa có tính thời sự
cao, từ đó góp phần nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy tại địa phương thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động thực hành quyền công tố của VKSND nói chung và trong vụ án
mua bán trái phép chất ma túy nói riêng là vấn đề đã được nhiều tác giả nghiên cứu,
như:
- Lê Hữu Thể (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
2
- Phan Hoàng Tân (2011), Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động thực
hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Điện
Biên, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
- Bùi Mạnh Cường (2012), Gắn công tố với hoạt động điều tra trong tố tụng
hình sự theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
- Nguyễn Mạnh Tùng (2017), Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
các vụ án về ma tuý ở thành phố Hà Nội; Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội;
- Hà Minh Loan (2018), Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
các tội phạm về ma tuý trên địa bàn Huyện Văn Chân, Tỉnh Yên Bái; Luận văn thạc
sỹ luật học, Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam,
2017.
- Mai Đắc Biên (2018), Những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma túy; Kỷ yếu Hội thảo khoa học Học viện
Công an nhân dân, Hà Nội;
- Lại Viết Quang (2018), Áp dụng biện pháp cưỡng chế trong điều tra tội
phạm về ma túy; Kỷ yếu Hội thảo khoa học Học viện Công an nhân dân, Hà Nội;
- Trần Công Phàn (2019), Điều tra và truy tố các tội phạm về ma túy theo
pháp luật mới; sách chuyên khảo, NXB Công an nhân dân, Hà Nội;
- Nguyễn Thành Nhân (2019), Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra các vụ án về ma túy theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành
phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương; Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện khoa học
xã hội, Hà Nội;
- Trần Thị Minh Hảo (2019), Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh; Luận văn thạc sỹ luật học,
Học viện khoa học xã hội, Hà Nội;
- Nguyễn Ngọc Phụng (2019), Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang; Luận văn
3
thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội;
Tuy nhiên, cho đến thời điểm viết luận văn này, hiện chưa có công trình
khoa học nào nghiên cứu về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ
án mua bán trái phép chất ma túy tại địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vì
vậy luận văn này sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn tại địa
bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai để đưa ra những yêu cầu, giải pháp hiệu
quả nhằm nâng cao chất lượng THQCT của loại tội phạm này trong giai đoạn điều
tra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ mặt lý luận, các quy định pháp luật và hoạt động thực tiễn tại địa
phương, từ đó phân tích được thực trạng, những tồn tại, hạn chế để có hướng đề
xuất giải pháp nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án mua
bán trái phép chất ma túy nói chung và địa bàn thành phố Biên Hòa nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, phân tích những vấn đề lý luận như các khái niệm, đối tượng,
phạm vi, các nhiệm vụ, quyền hạn và vai trò của KSV trong công tác THQCT trong
giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy;
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực tiễn quy định của pháp luật và thực tiễn áp
dụng pháp luật trong công tác THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái
phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, từ đó đúc kết
được những mặt đã đạt được, những mặt chưa đạt được, hạn chế cần khắc phục;
Thứ ba, nêu được những yêu cầu đặt ra nhằm nâng cao chất lượng THQCT
trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy và đề xuất những
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố nói chung và cụ thể
đối với VKSND thành phố Biên Hòa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định pháp luật và thực tiễn
4
hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy tại
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá, khảo
sát thực tiễn áp dụng các quy định về công tác THQCT của VKS trong giai đoạn
điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam.
Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu trong khoảng thời gian 05 năm từ năm
2015 -2019.
Phạm vi về không gian: Tập trung nghiên cứu tại địa bàn thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai, đồng thời có mở rộng thu thập một số thông tin số liệu các tội
phạm ma túy trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa
Mác-Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương, đường lối của
Đảng, cụ thể là quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp theo Nghị quyết 08-
NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị; chính sách pháp luật của Nhà nước nói chung và các chính sách pháp luật của
ngành Kiểm sát nói riêng trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng thể các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp
phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch,
phương pháp quy nạp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp thống kê tội
phạm để làm rõ các nội dung của Luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Luận văn giúp làm sáng tỏ vấn đề lý luận THQCT trong giai đoạn điều tra
các vụ án mua bán trái phép chất ma túy như khái niệm, đặc điểm pháp lý của tội
5
phạm này, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong việc THQCT… Luận văn có thể sử
dụng như một tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu pháp luật, học tập cho
những ai quan tâm đến hoạt động THQCT của VKS.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Từ việc nghiên cứu thực tiễn địa phương, luận văn có thể dùng làm tài liệu
tham khảo phục vụ việc đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng THQCT trong giai
đoạn điều tra các vụ án, đặc biệt là các vụ án mua bán trái phép chất ma túy của
VKS cấp huyện. Luận văn cũng có thể sử dụng như một tài liệu giúp cho các nhà
lãnh đạo ngành kiểm sát định hướng trong công tác tổ chức, quản lý, đào tạo và bồi
dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ; hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến hoạt
động THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu thành 03 chương, bao gồm cả các phần mục lục, mở
đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy.
Chương 2: Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án
mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy tại thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN MUA BÁN
TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án
mua bán trái phép chất ma túy
Cho đến nay, khái niệm “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
vụ án mua bán trái phép chất ma túy” chỉ được nói đến trong các công trình nghiên
cứu khoa học. Khái niệm này là tập hợp các khái niệm nhỏ ghép lại với nhau, tác
giả chia khái niệm này thành các khái niệm nhỏ để phân tích đó là khái niệm “quyền
công tố”, “thực hành quyền công tố”, khái niệm “vụ án mua bán trái phép chất ma
túy”, khái niệm “giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy”. Từ đó
tổng hợp một cách đầy đủ, toàn diện để đưa ra khái niệm “THQCT trong giai đoạn
điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy”.
1.1.1.1. Khái niệm “quyền công tố” và “thực hành quyền công tố”
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “Công” được hiểu là “thuộc về Nhà nước”,
mang yếu tố công cộng, thuộc tính chung xã hội, trái ngược với “tư” là thuộc về cá
nhân, cái riêng. “Tố” được hiểu là “trình bày công khai cho mọi người biết việc làm
sai trái, phạm pháp của người phạm tội khác”. “Công tố” là “điều tra, truy tố, buộc
tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước tòa án”. [36, tr 459]
Từ điển Luật học cho rằng công tố là “quyền buộc tội nhân danh Nhà nước
đối với người phạm tội… được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật…,
không thể tách rời với việc nhân danh Nhà nước chống lại hình thức vi phạm pháp
luật nghiêm trọng (tội phạm), đó là lĩnh vực tố tụng hình sự” [51, tr 188].
Theo từ điển Oxford, công tố (prosecution) được hiểu là quá trình thực hiện
một loạt hoạt động pháp lý để chứng minh trước Tòa án rằng một người nào đó
7
phạm tội, là hoạt động chính thức cho việc buộc tội một hành vi phạm pháp [13].
Có thể hiểu rằng quyền công tố là quyền lực để cơ quan có thẩm quyền thực hiện
các thủ tục tố tụng đã được quy định để buộc tội hành vi phạm pháp trước cơ quan
xét xử là Tòa án.
Trong nghiên cứu khoa học, có một số ý kiến khác nhau về quyền công tố,
nổi bật là các quan điểm:
Quan điểm thứ nhất: Quyền công tố là quyền lực của VKS thay cho Nhà
nước bảo vệ lợi ích công khi xảy ra các hành vi vi phạm pháp luật. Có nghĩa là VKS
đại diện cho Nhà nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật trên các lĩnh vực ra Tòa
án để xét xử, nhằm bảo vệ lợi ích của chính Nhà nước và trật tự xã hội, trật tự pháp
luật [26, tr.85-86]. Theo quan điểm này, VKS THQCT trên nhiều lĩnh vực không
chỉ hình sự mà còn là dân sự, kinh tế và hoạt động tư pháp.
Quan điểm thứ hai: Công tố chỉ là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật, không phải là một chức năng riêng biệt của VKS. Quyền
công tố là “quyền nhân danh Nhà nước kiểm sát tính hợp pháp của quá trình điều tra
tội phạm, nhằm truy tố và buộc tội người phạm tội ra Tòa án để xét xử đúng người,
đúng tội, đúng luật, đảm bảo lợi ích xã hội, lợi ích Nhà nước và đặc biệt là quyền tự
do của con người” [9, tr.1-12]. Theo quan điểm này, giữa THQCT và kiểm sát sự
tuân theo pháp luật là quan hệ giữa cái riêng và cái chung, quan điểm này dựa trên
lý luận của các nhà TTHS học Xô Viết, phổ biến trong giai đoạn trước khi Hiến
pháp năm 1980 quy định cụ thể hơn về THQCT của VKS.
Quan điểm thứ ba: Quyền công tố là quyền lực của Nhà nước giao cho các
cơ quan cụ thể để thực hiện việc khởi tố, điều tra và truy tố người phạm tội ra trước
tòa án để xét xử và buộc tội trước phiên tòa [25, tr.204]. Quan điểm này được phổ
biến trong các Nhà nước có sự phân chia quyền lực.
Quan điểm thứ tư: Quyền công tố là quyền lực của Nhà nước giao cho VKS
thực hiện các hoạt động truy tố người phạm tội trước Tòa án, buộc tội người đó tại
phiên tòa với tội danh cụ thể bằng quá trình chứng minh có căn cứ và đúng pháp
luật được thể hiện trong bản cáo trạng. Những người có quan điểm này cho rằng
8
đây là quan điểm phù hợp nhất với lý luận và thực tiễn hoạt động của VKS [24,
tr.86-88].
Do có nhiều quan điểm khác nhau như đã nêu nên khái niệm quyền công tố
tùy thuộc vào mỗi quan điểm cũng khác nhau về phạm vi giới hạn không gian, thời
gian. Đa số các quan điểm đều cho rằng quyền công tố có phạm vi về mặt không
gian trong lĩnh vực tố tụng hình sự, một số quan điểm lại cho rằng quyền công tố có
phạm vi trong tất cả lĩnh vực tư pháp, từ tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, lao động,
kinh tế… Về phạm vi thời gian, chưa có sự thống nhất về thời điểm bắt đầu và kết
thúc của quyền công tố, ví dụ trong lĩnh vực tố tụng hình sự, có quan điểm cho rằng
quyền công tố bắt đầu từ giai đoạn điều tra, cho đến truy tố và xét xử, có quan điểm
cho rằng chỉ có ở giai đoạn xét xử.
Tổng hợp các quan điểm khoa học, tác giả xin đưa ra khái niệm về quyền
công tố như sau: Quyền công tố là quyền lực Nhà nước, được Nhà nước trao cho cơ
quan công tố (VKS), đại diện Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự và truy tố,
buộc tội đối với người phạm tội.
Đối với khái niệm “thực hành quyền công tố”, đây là khái niệm liên quan
mật thiết với khái niệm “quyền công tố”. Khi xảy ra hành vi phạm tội, Nhà nước
phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội đó.
Điều này làm phát sinh quyền công tố và cơ quan công tố là VKS phải sử dụng
chức năng của mình để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Theo
từ điển Luật học: “THQCT là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc
nội dung quyền công tố để truy cứu TNHS đối với người phạm tội trong các giai
đoạn điều tra, truy tố và xét xử” [29,tr.188]. Cần lưu ý rằng tội phạm và người
phạm tội là đối tượng THQCT. Khi có sự việc phạm tội xảy ra, Cơ quan công tố
(VKS) phải áp dụng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định pháp luật tố tụng hình sự
để phát hiện kịp thời tội phạm, khởi tố, điều tra làm rõ tội phạm, người hoặc pháp
nhân phạm tội. Hoạt động này phải bắt đầu từ giai đoạn tiếp nhận tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố, kéo dài đến giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, xét
xử. Chủ thể THQCT là VKS mà người trực tiếp thực hiện hoạt động THQCT là
9
Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, KSV và Kiểm tra viên, trong đó, KSV là người
có đầy đủ nhiệm vụ quyền hạn THQCT trong tất cả các hoạt động tố tụng. Một số
quyền hạn quan trọng thuộc về Viện trưởng, Phó Viện trưởng được Viện trưởng
phân công, như ra các quyết định phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc hủy bỏ các
quyết định tố tụng trái pháp luật của CQĐT, các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị
can, áp dụng biện pháp ngăn chặn, quyết định truy tố..... Đối với KSV không phải là
Viện trưởng, Phó Viện trưởng nhưng là lãnh đạo đơn vị như Trưởng phòng, Phó
trưởng phòng ở VKS cấp tỉnh, Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng ở VKSND tối cao được
Lãnh đạo Viện ủy quyền được thực hiện một số thẩm quyền thuộc lãnh đạo Viện
[33].
Mặc dù thuật ngữ “thực hành quyền công tố” đã được quy định trong nhiều
văn bản quy phạm pháp luật, nhưng vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, chưa
thống nhất. Qua quá trình nghiên cứu tổng hợp các quan điểm khoa học và thực tiễn
quy định của pháp luật, tác giả xin đưa ra khái niệm về thực hành quyền công tố
như sau: Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự,
trong đó, VKSND sử dụng tổng hợp quyền lực do pháp luật quy định để truy cứu
trách nhiệm hình sự, truy tố và buộc tội người phạm tội trước Tòa án, không để xảy
ra oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Bên cạnh chức năng THQCT của VKSND, chức năng kiểm sát điều tra vụ án
cũng là một chức năng vô cùng quan trọng. Kiểm sát điều tra là việc VKS thực hiện
các biện pháp giám sát, mục đích nhằm bảo đảm các hoạt động điều tra được tiến
hành một cách đúng đắn, đầy đủ, khách quan theo đúng trình tự, thủ tục, nội dung
của pháp luật quy định, không trực tiếp ra quyết định, chỉ ra kiến nghị khi có vi
phạm pháp luật tố tụng xảy ra hoặc kiến nghị yêu cầu khắc phục các nguyên nhân,
điều kiện dẫn đến tội phạm. THQCT và kiểm sát điều tra vụ án luôn tồn tại song
song từ khi khởi tố cho đến khi kết thúc việc điều tra và VKS ra quyết định truy tố,
giữa hai chức năng tuy độc lập về chức năng, nhưng có tác động qua lại lẫn nhau.
Nếu làm tốt nhiệm vụ THQCT sẽ hỗ trợ đắc lực cho KSĐT thực hiện vai trò của
mình, như tạo điều kiện cho KSĐT tiếp cận các biện pháp điều tra nhằm duy trì
10
pháp luật, phát hiện, khắc phục vi phạm pháp luật về tố tụng; làm tốt nhiệm vụ kiểm
sát điều tra sẽ giúp cho công tác THQCT phát huy khả năng quyết định quá trình tố
tụng, như bảo đảm việc khởi tố, yêu cầu khởi tố, quyết định áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ các biện pháp ngăn chặn, huỷ các quyết định trái pháp luật của CQĐT một cách
có căn cứ, đúng pháp luật. Như vậy, hoạt động THQCT và kiểm sát điều tra tuy hai
nhưng là một, hai hoạt động này phải được tiến hành song song và hỗ trợ lẫn nhau
nhằm không để bất kỳ người nào bị bắt giữ, khởi tố trái pháp luật, không để lọt tội
và không làm oan người vô tội, đảm bảo cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội phải đúng pháp luật và có căn cứ, việc điều tra được tiến hành
một cách khách quan, toàn diện, chính xác và đúng pháp luật; những vi phạm pháp
luật trong quá trình điều tra được phát hiện và khắc phục kịp thời.
1.1.1.2. Khái niệm “vụ án mua bán trái phép chất ma túy”
Các Công ước của Liên hợp quốc về phòng, chống và kiểm soát chất ma túy
vào các năm 1961, 1971 và 1988 không nêu khái niệm thế nào là chất ma túy mà
chỉ liệt kê danh mục các chất ma túy bị kiểm soát. Khoản 1, 2 , 3 Điều 2 Luật
phòng, chống ma túy năm 2013 đã nêu “chất ma túy là các chất gây nghiện, chất
hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành. Chất gây
nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện đối với
người sử dụng. Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo
giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử
dụng.” Danh mục các chất gây nghiện, chất hướng thần được Chính phủ quy định
cụ thể tại Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018.
Để đi đến khái niệm vụ án mua bán trái phép chất ma túy, trước tiên, chúng
ta cần tìm hiểu một số vấn đề cơ bản về tội mua bán trái phép chất ma túy. Pháp luật
Hình sự Việt Nam quy định cụ thể về tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy” tại
Điều 251 BLHS. Dựa vào quy định của điều luật, tội “Mua bán trái phép chất ma
túy” có cấu thành tội phạm và hình phạt như sau:
Về khách thể tội phạm: Khách thể bị tội phạm xâm hại là chế độ quản lý của
Nhà nước đối với các chất ma túy. Chất ma túy là một loại chất nếu không có sự
11
quản lý chặt chẽ của Nhà nước thì sẽ gây ra ảnh hưởng tiêu cực rất lớn đến với xã
hội. Bỡi lẽ nếu có sự quản lý và phục vụ vào mục đích hợp pháp như nghiên cứu
khoa học, phục vụ y tế... thì có ý nghĩa và hữu ích cho xã hội, ngược lại nếu sử dụng
chất ma túy vào các mục đích cá nhân không hợp pháp như nhằm thỏa mãn cơn
nghiện thì ma túy trở thành thứ gây nguy hiểm cho xã hội. Ma túy có thể coi là khởi
nguồn của rất nhiều loại tội phạm, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, ảnh
hưởng đến khả năng lao động, tình hình chính trị xã hội của bất kì quốc gia nào.
Chính vì vậy Nhà nước phải có một chế độ quản lý đặc biệt và độc quyền đối với
loại chất ma túy này. Cần lưu ý rằng, đối tượng tác động của tội “Mua bán trái phép
chất ma túy” chính là chất ma túy (các chất gây nghiện, chất hướng thần), không
phải các tiền chất ma túy.
Mặt khách quan tội phạm: Mặt khách quan của tội này là các hành vi mua và
bán trái phép chất ma túy như mua chất ma túy để bán lại cho người khác, vận
chuyển chất ma túy để bán cho người khác, tàng trữ trái phép chất ma túy để bán
dần cho người khác, dùng chất ma túy đổi lấy hàng hóa hoặc ngược lại, xin chất ma
túy để bán lại cho người khác... Theo quy định tại tiểu mục 3.3, Mục 3, phần II,
Thông tư liên tịch 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP có hướng dẫn
về tội danh này, theo đó ta có thể phân hành vi khách quan của tội “Mua bán trái
phép chất ma túy” thành 03 nhóm hành vi khách quan, đó là:
Nhóm hành vi bán (quy định tại các điểm a, b, c, e, g): Là các hành vi mua,
chiếm đoạt, nhặt được, trộm được,...chất ma túy mà không cần biết nguồn gốc ma
túy do đâu mà có, để phục vụ cho mục đích bán trái phép ma túy cho người khác.
Nhóm hành vi trao đổi (quy định tại các điểm d, đ): Là các hành vi trao đổi
trái phép ma túy nhằm để lấy tài sản của người nhận ma túy, để bù trừ khoản chi phí
bất kì hoặc sử dụng để thanh toán.
Nhóm hành vi hỗ trợ: Là các hành vi hỗ trợ cho việc bán và trao đổi trái phép
chất ma túy như tổ chức, xúi giục, giúp sức cho hành vi mua bán, trao đổi chất ma
túy (trường hợp đồng phạm).
Về chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội này bắt buộc là con người cụ thể, là
12
người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự. Cần lưu ý một số vấn đề sau: Theo quy định tại điều 12 BLHS thì người từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi không chịu trách nhiệm hình sự về các hành vi phạm tội
quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS (Tội nghiêm trọng). Theo tinh thần của Mục
10, Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao thì trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành
vi mua bán trái phép chất ma túy từ hai lần trở lên thì không chịu trách nhiệm hình
sự về tội này nếu tổng trọng lượng chất ma túy của các lần cộng lại dưới mức tối
thiểu hoặc không xác định được tổng trọng lượng chất ma túy của tất cả các lần đó
đến mức tối thiểu quy định tại điểm g, h, i, k, l, m, n hoặc o khoản 2 Điều 194
BLHS năm 1999 (tương ứng với các quy định tại khoản 2 Điều 251 BLHS hiện
hành).
Về mặt chủ quan của tội phạm: Người thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực
tiếp, tức là người phạm tội nhận thức được rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy
là hành vi nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả nguy hiểm của hành vi đó
và mong muốn hậu quả đó xảy ra.
Về khung hình phạt, tội danh này có mức hình phạt tù từ 02 năm đến chung
thân hoặc tử hình. Cụ thể:
Tại khoản 1 Điều này quy định cấu thành tội phạm là hành vi “mua bán trái
phép chất ma túy” với mức hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Tại khoản 2 Điều này quy định một loạt các hành vi cụ thể, nếu người phạm
tội có dấu hiệu thuộc các trường hợp từ điểm a đến điểm q khoản 2 Điều này như:
Có tổ chức; Phạm tội 02 lần trở lên; Đối với 02 người trở lên; Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn; Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; Sử dụng người dưới 16 tuổi vào
việc phạm tội hoặc bán ma túy cho người dưới 16 tuổi; Qua biên giới; Nhựa thuốc
phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 500 gam đến dưới 01 kilôgam;
Heroine, Cocaine,..có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam; Lá cây côca; lá khát
(lá cây Catha edulis)... do Chính phủ quy định có khối lượng từ 10 kilôgam đến
dưới 25 kilôgam; Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 200
13
kilôgam; Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;
Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 20 gam đến dưới 100 gam; Các
chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 100 mililít đến dưới 250 mililít; Có 02
chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương
với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm h
đến điểm o khoản này; Tái phạm nguy hiểm, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
Tại khoản 3 Điều này quy định một loạt các hành vi cụ thể, nếu người phạm
tội có dấu hiệu thuộc các trường hợp từ điểm a đến điểm h khoản 3 Điều này như:
Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 kilôgam đến
dưới 05 kilôgam; Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA
hoặc XLR-11 có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam; Lá cây côca; lá khát (lá
cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây
khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định có khối lượng từ 25 kilôgam đến
dưới 75 kilôgam; Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 200 kilôgam đến dưới 600
kilôgam; Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 150 kilôgam;
Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 100 gam đến dưới 300 gam; Các
chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 250 mililít đến dưới 750 mililít; Có 02
chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương
với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a
đến điểm g khoản này, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm.
Tại khoản 4 Điều này quy định một loạt các hành vi cụ thể, nếu người phạm
tội có dấu hiệu thuộc các trường hợp từ điểm a đến điểm h khoản 4 Điều này như:
Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng 05 kilôgam trở lên;
Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối
lượng 100 gam trở lên; Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân,
cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do
Chính phủ quy định có khối lượng 75 kilôgam trở lên; Quả thuốc phiện khô có khối
lượng 600 kilôgam trở lên; Quả thuốc phiện tươi có khối lượng 150 kilôgam trở
lên; Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng 300 gam trở lên; Các chất ma
14
túy khác ở thể lỏng có thể tích 750 mililít trở lên; Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng
khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích
chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này, thì bị
phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Ngoài ra tại khoản 5 Điều này còn quy định mức phạt tiền từ 5.000.000 đồng
đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Như vậy, tội phạm ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có
năng lực TNHS, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện, có lỗi, xâm phạm đến
chế độ quản lý, sử dụng các chất ma túy của nhà nước, từ đó gây thiệt hại cho lợi
ích của Nhà nước, của xã hội và của công dân, gây mất trật tự an toàn xã hội [11;
tr.233]. Đối với tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy” thì hành vi mua bán trái
phép chất ma túy là “hành vi trao đổi trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức
nào” [27, tr. 204] hoặc có thể hiểu cụ thể hơn là “bán hay mua để bán lại; vận
chuyển ma túy để bán cho người khác; tàng trữ để bán lại hoặc để sản xuất ra chất
ma túy khác để bán lại trái phép; hoặc dùng ma túy để đổi lấy hàng hóa hay dùng
hàng hóa để đổi lấy ma túy” [16, tr. 92]. Như vậy đối với hành vi mua bán trái phép
chất ma túy, hầu hết các nhà khoa học đều thống nhất đây là hành vi nhằm bán trái
phép chất ma túy cho người khác mà không cần biết nguồn gốc ma túy hoặc hành vi
nhằm trao đổi ma túy như hàng hóa có giá trị. Đối với các hành vi đồng phạm với
hành vi bán ma túy thì cũng bị truy cứu TNHS về tội danh này.
Tổng kết lại, hành vi mua bán trái phép chất ma túy là hành vi gây nguy
hiểm cho xã hội, do người có năng lực TNHS, đủ tuổi chịu TNHS thực hiện, có lỗi,
xâm phạm đến khách thể là chế độ quản lý, sử dụng các chất ma túy của Nhà nước.
Vụ án mua bán trái phép ma túy là một loại vụ án hình sự, do đó khái niệm
của nó cũng phải mang tính lý luận từ khái niệm “vụ án hình sự”. “Vụ án hình sự”
là “vụ việc phạm pháp có dấu hiệu là tội phạm được quy định trong BLHS đã được
CQĐT khởi tố hình sự để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử theo trình tự thủ tục đã
được quy định” [8,tr.170-171].
15
Trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy gồm hai loại hành vi phạm tội, đó
là hành vi mua trái phép chất ma túy và bán trái phép chất ma túy. Người phạm tội
có hành vi mua ma túy và bán ma túy để kiếm lời, thu lợi bất chính. Đối với trường
hợp có hành vi mua ma túy để nhằm mục đích bán kiếm lợi nhưng chưa bán thì
cũng phạm tội mua bán trái phép chất ma túy. Khi có hành vi mua bán trái phép
chất ma túy xảy ra, CQĐT hoặc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra (sau đây gọi chung là CQĐT) sẽ áp dụng các biện pháp điều tra theo
quy định của pháp luật để phát hiện, khởi tố, điều tra đối với tội phạm và người
phạm tội. Như vậy kết hợp với các phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm “vụ
án mua bán trái phép ma túy” là những vụ việc phạm tội liên quan đến hành vi mua
bán trái phép chất ma túy được quy định trong BLHS, đã được CQĐT phát hiện và
khởi tố để tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử theo quy định”.
1.1.1.3. Khái niệm “giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy”
“Giai đoạn điều tra” đề cập trong luận văn được hiểu là giai đoạn điều tra vụ
án hình sự, bởi lẽ “điều tra” là một hoạt động không thể tách rời với các vụ án mang
tính chất hình sự, khác với các hoạt động xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ trong
các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính...
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự do các cơ
quan tiến hành tố tụng thực hiện các hoạt động tố tụng nhằm thu thập tài liệu, chứng
cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án, phát hiện chính xác, khách quan, đầy đủ hành
vi tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong đó nhiệm vụ chính trong hoạt
động điều tra là của CQĐT, bên cạnh đó có sự tham gia của VKS trong hoạt động
THQCT và kiểm sát thuộc chức năng, quyền hạn của mình. Giai đoạn điều tra vụ án
hình sự là một trong các giai đoạn tố tụng được thực hiện trước giai đoạn truy tố,
xét xử.
Dưới góc độ nghiên cứu, có một số quan điểm cho rằng giai đoạn điều tra vụ
án hình sự có hai cách xác định theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Quan điểm giai đoạn
điều tra nếu xét theo quy định của BLTTHS hiện hành thì là nghĩa hẹp, tức là bắt
đầu khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự. Quan điểm theo nghĩa rộng, giai đoạn
16
điều tra sẽ được xác định thời gian bắt đầu từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội
phạm hoặc kiến nghị khởi tố. Đối với giai đoạn điều tra cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp
đều kết thúc khi CQĐT có hoạt động kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị can hoặc
kết luận điều tra và đình chỉ vụ án. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả cho
rằng giai đoạn điều tra được xác định từ khi CQĐT ra quyết định khởi tố vụ án hình
sự và tiến hành điều tra cho đến khi CQĐT có hoạt động kết thúc điều tra, đây là
quan điểm phù hợp và chính xác theo quy định của BLTTHS hiện hành.
Trong giai đoạn điều tra, CQĐT được áp dụng các biện pháp điều tra, thu
thập chứng cứ theo quy định của pháp luật để thu thập chứng cứ và tiến hành chứng
minh có hay không sự việc phạm tội, người thực hiện tội phạm và các vấn đề khác
như nguyên nhân của hành vi phạm tội, điều kiện người phạm tội thực hiện hành vi
và các tình tiết liên quan khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Trong giai
đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy có các hoạt động điều tra như:
Lấy lời khai của người bị bắt quả tang, lời khai người bị giữ (bắt người bị giữ) trong
trường hợp khẩn cấp, lời khai người bị tạm giữ hình sự, lời khai người làm chứng,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và những người tham gia tố tụng khác liên
quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy; Hỏi cung bị can; Giám định chất
ma túy và các hoạt động giám định khác có liên quan đến hàm lượng chất ma túy;
giám định tuổi của người phạm tội; đối chất, nhận dạng; các thủ tục khám xét, khám
người, thu giữ tài liệu, đồ vật... liên quan đến hành vi phạm tội “Mua bán trái phép
chất ma túy”. Các hoạt động điều tra trong giai đoạn này cần phải thực hiện đúng
theo trình tự thủ tục quy định trong BLTTHS, thực hiện nhanh chóng, khách quan
nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ toàn diện để củng cố cho hoạt động buộc tội và gỡ
tội đối với người có hành vi phạm tội.
Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy là một giai
đoạn tố tụng, trong đó, Cơ quan điều tra tiến hành các biện pháp điều tra theo quy
định của BLTTHS để xác định tội phạm và người phạm tội mua bán trái phép chất
ma túy, làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án hình sự một cách đúng đắn, không làm
oan người vô tội và không bỏ lọt tội phạm.
17
1.1.4. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án
mua bán trái phép chất ma túy
THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy là hoạt
động của VKS trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối
với người có hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Hoạt động này bắt đầu từ khi
CQĐT khởi tố vụ án hình sự đối với hành vi mua bán trái phép chất ma túy và kết
thúc khi có kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc khi có quyết định đình chỉ điều tra
vụ án mua bán trái phép chất ma túy [09, tr. 50 - 53]. Khi THQCT trong giai đoạn
điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy, VKS thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
được quy định tại Điều 165 và trong một số điều luật khác của BLTTHS. Trong giai
đoạn này, KSV, KTV và Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS tiến hành các hoạt
động sau:
- Yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án
hình sự, khởi tố bị can;
- Phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ
sung quyết định khởi tố bị can không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT;
- Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can
của CQĐT trong các trường hợp do BLTTHS quy định;
- Phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, khám xét, thu
giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, áp dụng biện pháp điều
tra tố tụng đặc biệt; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định tố tụng khác không
có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT; hủy bỏ các quyết định tố tụng không có căn
cứ và trái pháp luật của CQĐT;
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp
cưỡng chế của CQĐT theo quy định của BLTTHS;
- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra để làm rõ tội
phạm, người phạm tội; yêu cầu CQĐT truy nã bị can, áp dụng biện pháp điều tra tố
tụng đặc biệt;
18
- Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp để kiểm tra,
bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn lệnh, quyết định của CQĐT hoặc
trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà
VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục hoặc trường hợp để
kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi quyết định việc truy tố;
- Khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố,
điều tra có dấu hiệu tội phạm; yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện
hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội phạm;
- Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam; quyết
định chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh;
hủy bỏ quyết định tách, nhập vụ án;
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc THQCT theo quy định của
BLTTHS.
Mọi yêu cầu, quyết định của VKS phải được CQĐT chấp hành, thực hiện
đầy đủ, cả trong trường hợp không nhất trí vẫn phải thực hiện nhưng có quyền kiến
nghị lên VKS cấp trên trực tiếp. Quyết định của VKS cấp trên là quyết định cuối
cùng.
Từ những phân tích nêu trên, tác giả rút ra khái niệm như sau: THQCT trong
giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy là hoạt động của VKS trong
giai đoạn điều tra, bắt đầu từ khi cơ quan điều tra khởi tố vụ án mua bán trái phép
chất ma túy và tiến hành điều tra, trong đó, VKS sử dụng nhiệm vụ, quyền hạn do
pháp luật quy định để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc tội người
phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, bảo đảm không để xảy ra oan sai hoặc bỏ
lọt tội phạm.
1.1.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án
mua bán trái phép chất ma túy
THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy có
19
những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, THQCT là thẩm quyền riêng có của VKS, không có cơ quan nào
khác được thực hiện. VKS THQCT bằng các hoạt động khởi tố vụ án, khởi tố bị
can, phê chuẩn, thay đổi hoặc hủy bỏ các quyết định tố tụng của CQĐT, yêu cầu cơ
quan điều tra tiến hành hoạt động điều tra.... Những hoạt động đó đảm bảo mọi
hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra kịp thời,
nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng phát luật, không làm oan sai và không bỏ
lọt tội phạm; không vi phạm quyền con người, quyền công dân. CQĐT cũng có
thẩm quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp
cưỡng chế.... nhưng những quyết định đó của CQĐT phải được gửi cho VKS để
VKS kiểm tra, đánh giá tính đúng đắn, tính hợp pháp. Trường hợp quyết định không
có căn cứ, không hợp pháp, tức là trái quy định của pháp luật thì VKS thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn THQCT để ra quyết định không phê chuẩn, thay đổi, bổ sung
hoặc hủy bỏ.
Thứ hai, THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma
túy gắn chặt với hoạt động điều tra, đảm bảo việc thu thập chứng cứ, chứng minh
hành vi phạm tội phải nhanh chóng, khách quan, toàn diện và đầy đủ, đúng quy định
của pháp luật, làm nền tảng cho hoạt động truy tố, xét xử sau này.
Thứ ba, THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma
túy gắn liền với việc yêu cầu CQĐT phải trưng cầu giám định chất ma túy. Bởi lẽ
kết luận giám định chất ma túy là căn cứ quan trọng đầu tiên để xác định định
khung hình phạt. Khi thu giữ được chất nghi là ma túy, các cơ quan tố tụng phải
giám định chất ma túy thu giữ để xác định đó có phải là chất ma túy hay không, loại
chất gì, khối lượng bao nhiêu, hoặc hàm lượng (trong trường hợp cần thiết giám
định) thì mới có thể giải quyết đúng đắn vụ án mua bán trái phép chất ma túy.
Thứ tư, THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy
gắn liền với việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người bị buộc tội. Tội “Mua
bán trái phép chất ma túy” thuộc loại tội phạm nghiêm trọng trở lên, người có hành
vi phạm tội thường bị bắt quả tang hoặc bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
20
Mặc khác, do đặc điểm riêng biệt của loại tội phạm mua bán trái phép chất ma túy,
là loại tội phạm nguy hiểm cho xã hội nên các biện pháp tạm giữ, tạm giam thường
được áp dụng với loại tội phạm này nên VKS phải THQCT bằng các hoạt động phê
chuẩn hoặc không phê chuẩn các lệnh, quyết định, hủy bỏ các lệnh, quyết định áp
dụng biện pháp ngăn chặn của CQĐT.
Thứ năm, THQCT trong điều tra tội phạm mua bán trái phép chất ma túy thể
hiện rõ quan hệ chặt chẽ giữa VKS với CQĐT.
Mối quan hệ giữa VKS và CQĐT khi THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ
án hình sự nói chung và vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy là mối quan hệ
vừa phối hợp, vừa chế ước. Chất lượng, hiệu quả hoạt động của từng cơ quan phụ
thuộc rất lớn vào mối quan hệ giữa hai chủ thể này. CQĐT và VKS phối hợp bằng
nhiều cách thức, cấp độ khác nhau như: Phối hợp theo quy định của pháp luật (Bộ
luật TTHS, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự, Thông tư liên tịch), các quy định
giữa hai ngành, hai đơn vị cùng cấp (quy chế, quy định phối hợp), phối hợp thường
xuyên định kỳ theo chương trình, kế hoạch đột xuất thông qua việc giải quyết các
vụ án hình sự cụ thể. Sự phối hợp được thực hiện bởi ĐTV và KSV là hai chủ thể
trực tiếp giải quyết vụ án hình sự. ĐTV và KSV tham gia vào việc giải quyết vụ án
mua bán trái phép chất ma túy với nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau nhưng có rất
nhiều hoạt động cần phối hợp để giải quyết, như khám nghiệm và kiểm sát việc
khám nghiệm hiện trường, khám xét, thực nghiệm điều tra và các hoạt động điều tra
khác. Cả hai đều có chung nhiệm vụ là nhanh chóng, kịp thời thu thập chứng cứ
chứng minh tội phạm, người phạm tội, các tình tiết khác có liên quan đến việc giải
quyết đúng đắn vụ án hình sự.
Giữa VKS và CQĐT có quan hệ chế ước, trong đó, VKS có quyền THQCT,
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của CQĐT, yêu cầu điều tra, phê chuẩn, không
phê chuẩn hoặc hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT, yêu cầu chấm dứt
hành vi vi phạm pháp luật của ĐTV....Những yêu cầu, quyết định của VKS phải
được CQĐT thực hiện, một số trường hợp nếu không đồng ý với quyết định của
VKS thì CQĐT vẫn phải thực hiện và có quyền báo cáo lên VKS cấp trên trực tiếp.
21
Quyết định của VKS cấp trên trực tiếp có hiệu lực pháp luật. Hoạt động này của
KSV, VKS nhằm bảo đảm việc khởi tố, điều tra vụ án đúng pháp luật. Quyền năng
này của VKS đối với cơ quan điều tra có hiệu lực rất cao và CQĐT phải chấp hành.
Đối với vụ án mua bán trái phép chất ma túy thì quan hệ phối hợp, chế ước này
được thực hiện ở mức độ cao để kịp thời bắt giữ người phạm tội, thu thập đủ chứng
cứ chứng minh tội phạm, thực hiện đúng trình tự thủ tục tố tụng.
Thứ sáu, THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma
túy có những đặc điểm riêng biệt gắn liền với tội phạm mua bán trái phép chất ma
túy. Hầu hết các vụ án mua bán trái phép chất ma túy đều là bắt quả tang, đối với
các vụ án bắt quả tang công tác THQCT thường gặp nhiều thuận lợi do khi bị bắt
quả tang hành vi mua bán trái phép chất ma túy có người mua ma túy là người làm
chứng trực tiếp, làm căn cứ buộc tội vững chắc. Tuy nhiên đối với các vụ án truy
xét từ lời khai của các bị can thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy hoặc
lời khai của đồng phạm mua bán trái phép chất ma túy thì thường gặp nhiều khó
khăn do các đối tượng thường quanh co chối tội, khai báo gian dối nhằm thoát tội.
Đối với các trường hợp tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp các đối
tượng kể trên nếu không thu giữ được ma túy các đối tượng tàng trữ thì rất khó để
đấu tranh làm rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy của các đối tượng này. Do
đó KSV cần có yêu cầu điều tra phù hợp và bám sát cùng ĐTV tiến hành đấu tranh
làm rõ hành vi phạm tội, tiến hành nhận dạng, đối chất, dùng các chứng cứ gián tiếp
thông qua lời khai người làm chứng, tang vật thu giữ (các dụng cụ để phân chia ma
túy, số lượng tép ma túy thu giữ…) nhằm đấu tranh làm rõ hành vi phạm tội.
1.1.3. Phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án mua
bán trái phép chất ma túy
Phạm vi THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma
túy chính là phạm vi thực hiện quyền lực nhà nước trao cho VKS trong hoạt động
truy cứu TNHS, buộc tội đối với tội phạm mua bán trái phép chất ma túy, bắt đầu từ
khi CQĐT khởi tố vụ án mua bán trái phép chất ma túy đến khi kết thúc việc điều
tra bằng bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc bằng bản kết luận điều tra và
22
quyết định đình chỉ điều tra của CQĐT.
Việc nhận thức đúng đắn phạm vi THQCT có ý nghĩa quan trọng về lý luận
và thực tiễn bởi vì khi xác định đúng đắn phạm vi của công tác này thì mới thực
hiện đầy đủ biện pháp nghiệp vụ, nhiệm vụ, quyền hạn được Nhà nước trao cho
theo luật định để nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hành quyền công tố đối với vụ
án hình sự nói chung và với vụ án mua bán trái phép chất ma túy nói riêng.
1.1.4. Ý nghĩa thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án mua
bán trái phép chất ma túy
Thứ nhất, THQCT của VKS có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn điều tra
vụ án mua bán trái phép chất ma túy, đó là bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người
phạm tội, vi phạm pháp luật trong điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy đều
phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không
làm oan người vô tội.
Thứ hai, thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái
phép chất ma túy có vai trò bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Giai đoạn
điều tra nhằm thu thập đầy đủ chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội,
đồng thời thu thập cả chứng cứ chứng minh sự vô tội của người bị buộc tội. VKS
thực hiện tốt nhiệm vụ THQCT để không có người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ,
tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái pháp luật, từ đó bảo
đảm quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Thứ ba, THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma
túy của VKS là cơ sở quan trọng đảm bảo hiệu quả các hoạt động tố tụng ở các giai
đoạn tiếp theo. Kết quả của hoạt động tố tụng trong giai đoạn này là tiền đề để thực
hiện các hoạt động tố tụng ở giai đoạn truy tố, xét xử, do vậy, nếu VKS thực hiện
tốt nhiệm vụ, quyền hạn THQCT trong giai đoạn điều tra sẽ là cơ sở vững chắc cho
việc truy tố, xét xử sau này.
1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy
23
Thuật ngữ pháp lý “Thực hành quyền công tố” được quy định lần đầu tiên
trong hệ thống pháp luật Việt Nam tại Điều 138 Hiến pháp năm 1980, khi quy định
chức năng của VKSND và đến hiện nay vẫn được quy định trong Điều 107 Hiến
pháp năm 2013. Ngoài ra, khái niệm này còn được đề cập trong Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân các năm 1981, 2002 và mới nhất là năm 2014. Khoản 1 Điều 3
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 quy định về chức năng thực hành quyền
công tố như sau: “Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người
phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.”
Nội dung THQCT của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép
chất ma túy thuộc nhiệm vụ, quyền hạn THQCT của VKS trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự nói chung, được quy định tại Điều 165 BLTTHS. Theo đó, khi
THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy, VKS có các
quyền hạn, nhiệm vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố
vụ án hình sự, khởi tố bị can phạm tội mua bán trái phép chất ma túy. Khởi tố vụ án
hình sự là hoạt động mở đầu của quá trình TTHS để mở cuộc điều tra hình sự đối
với sự kiện phạm tội. Những thủ tục liên quan đến khởi tố vụ án hình sự được quy
định từ Điều 143 đến Điều 162 BLTTHS năm 2015. Căn cứ để khởi tố vụ án hình
sự là có sự kiện phạm tội xảy ra hoặc sự việc có dấu hiệu tội phạm. Theo quy định
của pháp luật, phần lớn các trường hợp khởi tố các vụ án hình sự do CQĐT thực
hiện. Khởi tố bị can là thủ tục tố tụng áp dụng đối với người đã thực hiện hành vi
phạm tội để tiến hành điều tra. Thủ tục liên quan đến khởi tố bị can quy định tại
Điều 179 và Điều 180 BLTTHS năm 2015. Khi có đủ căn cứ để xác định một người
đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy thì CQĐT ra quyết định khởi tố
bị can. Sau khi khởi tố bị can, CQĐT có quyền áp dụng các biện pháp điều tra theo
luật định để làm rõ hành vi, tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân cũng như các
tình tiết khác liên quan đến bị can. Khi tiến hành điều tra, nếu có căn cứ xác định
24
hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc còn hành vi
phạm tội khác thì VKS yêu cầu CQĐT ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố bị can. Trường hợp phát hiện có sự kiện phạm tội, xác định một người
có hành vi phạm tội mua bán trái phép chất ma túy nhưng chưa được khởi tố thì
VKS yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình
sự, khởi tố bị can.
Thứ hai, phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc
bổ sung quyết định khởi tố bị can về tội mua bán trái phép chất ma túy không có
căn cứ và trái pháp luật. Sau khi ra quyết định khởi tố hoặc quyết định thay đổi, bổ
sung quyết định khởi tố bị can, CQĐT phải chuyển hồ sơ cùng quyết định đến VKS
để VKS thực hiện chức năng THQCT. Sau khi nghiên cứu hồ sơ và áp dụng các
biện pháp tố tụng khác, nếu thấy quyết định khởi tố hoặc quyết định thay đổi, bổ
sung quyết định khởi tố bị can có căn cứ và hợp pháp thì VKS sẽ phê chuẩn.
Trường hợp các quyết định đó không có căn cứ và không hợp pháp thì VKS sẽ ra
quyết định hủy bỏ. Khi VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can thì
CQĐT phải trả tự do ngay cho người bị khởi tố đang bị bắt, tạm giữ hoặc tạm giam.
Quyền phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can của VKS đảm bảo VKS
thực hành quyền công tố một cách tối ưu nhất, hạn chế việc khởi tố bị can trái pháp
luật dẫn đến làm oan người vô tội;
Thứ ba, khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị
can về tội mua bán trái phép chất ma túy trong các trường hợp do BLHS quy định.
Theo quy định tại Điều 153 BLTTHS, Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự trong trường hợp: Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án
hình sự của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra; Viện kiểm sát trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố; Viện kiểm sát trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cầu
khởi tố của Hội đồng xét xử.
Theo quy định tại Điều 179 BLTTHS thì CQĐT ra quyết định khởi tố bị can
nói chung và tội mua bán trái phép chất ma túy nói riêng. Trường hợp phát hiện có
25
người đã thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm chưa bị khởi tố thì VKS
yêu cầu CQĐT ra quyết định khởi tố bị can hoặc trực tiếp ra quyết định khởi tố bị
can nếu đã yêu cầu nhưng Cơ quan điều tra không thực hiện. Viện kiểm sát thay đổi
quyết định khởi tố bị can khi thuộc một trong các trường hợp: Khi tiến hành điều tra
nếu có căn cứ xác định hành vi của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố; Quyết
định khởi tố ghi không đúng họ, tên, tuổi, nhân thân của bị can.
Viện kiểm sát phải bổ sung quyết định khởi tố bị can nếu có căn cứ xác định
bị can còn thực hiện hành vi khác mà BLHS quy định là tội phạm.
Thứ tư, phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, khám xét,
thu giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, áp dụng biện pháp
điều tra tố tụng đặc biệt; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định tố tụng khác
không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT theo quy định của BLTTHS; hủy bỏ
các quyết định tố tụng không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT về tội mua bán
trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy,
CQĐT phải ban hành một số lệnh, quyết định như lệnh bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, tạm giam, lệnh khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ
vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn
bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Những
quyết định này phải được VKS phê chuẩn trước khi thi hành. Đối với lệnh bắt người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc lệnh khám xét, CQĐT có thể thực hiện trước
khi VKS phê chuẩn nhưng ngay sau khi thực hiện phải gửi quyết định và hồ sơ để
VKS kiểm sát. Trường hợp những lệnh, quyết định này không có căn cứ hoặc trái
pháp luật thì VKS ra quyết định không phê chuẩn hoặc hủy bỏ. Thẩm quyền của
VKS phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ lệnh, quyết định tố tụng của CQĐT là
một thẩm quyền đặc trưng cơ bản và riêng có của VKS, cho phép VKS khắc phục,
loại trừ những vi phạm pháp luật của CQĐT.
Thứ năm, quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện
pháp cưỡng chế trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của
26
BLHS. Quá trình điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy, để kịp thời ngăn
chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho
việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án,
cơ quan, CQĐT phải áp dụng một trong các biện pháp ngăn chặn được quy định tại
Điều 109 BLTTHS, đó là biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm
giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất
cảnh. Đồng thời, có thể áp dụng những biện pháp cưỡng chế áp giải, dẫn giải, kê
biên tài sản, phong tỏa tài khoản. VKS có thẩm quyền thay đổi hoặc hủy bỏ những
quyết định trên của CQĐT trong trường hợp những quyết định đó do VKS phê
chuẩn hoặc trái pháp luật. VKS chỉ ra quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện
pháp cưỡng chế trong giai đoạn điều tra trong trường hợp cần thiết áp dụng, đã yêu
cầu nhưng CQĐT không áp dụng.
Thứ sáu, đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra để làm
rõ tội phạm, người phạm tội; yêu cầu CQĐT truy nã bị can, áp dụng biện pháp điều
tra tố tụng đặc biệt trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy. Đề ra yêu cầu điều
tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra là thẩm quyền, nhiệm vụ quan trọng của
VKS nhằm kịp thời định hướng điều tra, bảo đảm điều tra đúng trình tự thủ tục, thời
hạn và thẩm quyền theo quy định của pháp luật, qua đó bảo đảm vụ án được điều tra
một cách khách quan, toàn diện, đúng quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội
phạm và không làm oan người vô tội;
Thứ bảy, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp để
kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn lệnh, quyết định của CQĐT
hoặc trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật
mà VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục hoặc trường hợp để
kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi quyết định việc truy tố đối với vụ án mua
bán trái phép chất ma túy. VKS trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo
quy định như: Hỏi cung bị can, tiến hành đối chất, thực nghiệm điều tra, lấy lời khai
bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan…để củng cố các
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án;
27
Thứ tám, khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của người có thẩm
quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong
việc khởi tố, điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy có dấu hiệu tội phạm;
yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền
trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc
khởi tố, điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy có dấu hiệu tội phạm. Trong
thực tiễn THQCT, VKS đã khởi tố vụ án hình sự hoặc yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án
hình sự đối với trường hợp phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều
tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy có dấu hiệu tội phạm. Đó có thể là hành vi
làm sai lệch hồ sơ vụ án, chiếm đoạt trái phép chất ma túy, hối lộ hoặc nhận hối lộ,
bức cung, dùng nhục hình đối với người bị buộc tội.
Thứ chín, quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam; quyết
định chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh;
hủy bỏ quyết định tách, nhập vụ án mua bán trái phép chất ma túy. Khi thời hạn
điều tra, thời hạn tạm giam đã hết nhưng chưa thể kết thúc việc điều tra, đồng thời
không có căn cứ để thay đổi biện pháp tạm giam thì CQĐT đề nghị VKS ra quyết
định gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam. VKS căn cứ vào kết quả điều tra,
nếu có căn cứ xác định có tội phạm mà thời hạn điều tra và thời hạn tạm giam đã
hết nhưng chưa thể kết thúc việc điều tra, cần phải gia hạn điều tra, gia hạn tạm
giam thì VKS ra quyết định gia hạn điều tra, gia hạn tạm giam theo đúng quy định
của pháp luật. Trường hợp xác định vụ án không thuộc thẩm quyền điều tra của
CQĐT nơi VKS THQCT thì VKS ra quyết định chuyển vụ án đến CQĐT có thẩm
quyền. Trường hợp vụ án có đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn nhưng CQĐT
không áp dụng sau khi VKS đã yêu cầu thì VKS ra quyết định áp dụng thủ tục rút
gọn. Trường hợp bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác dẫn đến khả năng không
thể tiếp tục điều tra, truy tố thì VKS ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa
bệnh. Trường hợp CQĐT ra quyết định tách nhập vụ án không đúng quy định thì
VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định tách nhập vụ án của CQĐT.
28
Thứ mười, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc thực hành quyền
công tố đối với mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của BLTTHS. Ngoài
những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể nêu trên, trong quá trình THQCT, VKS có thể
thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn khác thuộc chức năng THQCT theo quy định
BLTTHS để đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều bị xử lý theo quy định pháp luật,
không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Tiểu kết chương 1
Thông qua Chương 1, luận văn đã phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về
THQCT như khái niệm, đặc điểm, mối liên hệ giữa THQCT và kiểm sát điều tra vụ
án, ý nghĩa của THQCT; quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép
chất ma túy và pháp luật tố tụng hình sự về THQCT trong giai đoạn điều tra đối với
vụ án mua bán trái phép chất ma túy của VKS. Mặc khác Chương 1 cũng làm rõ
mối quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong giai đoạn điều tra và kiểm sát điều
tra vụ án hình sự nói chung và vụ án mua bán trái phép chất ma túy. Theo đó, giữa
VKS và CQĐT luôn tồn tại hai mối quan hệ, đó là quan hệ phối hợp và quan hệ chế
ước. Mối quan hệ này giúp CQĐT nâng cao hiệu quả và chất lượng điều tra vụ án
hình sự nói chung và vụ án mua bán trái phép chất ma túy nói riêng.
Những vấn đề được nêu trên là nền tảng quan trọng trong việc phân tích và
đánh giá thực tiễn THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất
ma túy của VKSND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, từ đó đưa ra được các
phương hướng, giải pháp thiết thực nhằm nâng cao chất lượng THQCT trong giai
đoạn điều tra loại án này.
29
Chương 2
THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
2.1. Tình hình đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội và tình hình tội phạm
ảnh hưởng đến thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án Mua
bán trái phép chất ma túy tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
Thành phố Biên Hòa là đơn vị hành chính cấp huyện thuộc tỉnh Đồng Nai, có
vị trí ở phía tây của tỉnh Đồng Nai, giáp với các huyện Vĩnh Cửu, huyện Long
Thành, huyện Trảng Bom (các huyện thuộc tỉnh Đồng Nai), thành phố Dĩ An (tỉnh
Bình Dương) và Quận 9 (thành phố Hồ Chí Minh). Thành phố Biên Hòa là thành
phố trực thuộc tỉnh có dân số đông nhất cả nước (năm 2019 là 1.272.000 người), với
sự đa dạng của 19 dân tộc cùng chung sống và thành phố trực thuộc tỉnh có nhiều
phường nhất (có 30 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 29 phường và 01
xã). Có nhiều tuyến đường huyết mạch quan trọng đi qua như Quốc lộ 1A, Quốc lộ
1K và Quốc lộ 51 chạy qua thành phố.
Dân cư tại thành phố Biên Hòa đa dạng là do sự di cư từ các vùng khác về
địa phương sinh sống và làm việc. Thành phố Biên Hòa có sự đa dạng về tôn giáo
như Công giáo, Phật giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Tin Lành,...
Biên Hòa với nguồn lực nhân công lao động lớn có tiềm năng phát triển công
nghiệp, sở hữu nguồn tài nguyên khoáng sản. Về cơ cấu kinh tế, năm 2017 dịch vụ
chiếm 35,84%, công nghiệp - xây dựng chiếm 64,08% và nông lâm nghiệp chiếm
0,08%. Tính đến năm 2018, GDP/đầu người của thành phố cao gấp hai lần
GDP/đầu người của Việt Nam (khoảng 4500 USD).
Chính vì địa bàn rộng, dân cư đông, đa dạng về thành phần dân tộc, tôn giáo,
sự thu hút nguồn lao động từ các địa phương khác đã dẫn đến nhiều thành phần xấu
đến địa bàn phạm tội, một bộ phận người dân có lối sống không lành mạnh, thực
30
dụng đã sa ngã vào con đường nghiện hút… hệ quả kéo theo nhiều người đã thực
hiện hành vi phạm tội.
2.1.2. Cơ cấu, tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai
VKSND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai là đơn vị VKS cấp huyện, đây
là đơn vị cơ sở và đóng vai trò quan trọng trong hệ thống VKS. Do đặc thù lượng án
nhiều, phức tạp, đơn vị VKSND thành phố Biên Hòa được lãnh đạo phân công
thành 04 bộ phận nghiệp vụ, gồm:
- Bộ phận văn phòng – tổng hợp, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo do
đồng chí Viện trưởng phụ trách.
- Bộ phận THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp về án kinh tế, chức vụ,
kiểm sát tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự do 01 đồng chí phó Viện trưởng
phụ trách.
- Bộ phận THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp về án trật tự xã hội, ma túy
do 01 đồng chí Phó Viện trưởng phụ trách.
- Bộ phận kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự, vụ án hành chính, kiểm sát
thi hành án dân sự do 01 đồng chí Phó Viện trưởng phụ trách bộ phận.
Tính đến ngày 30/5/2020, VKSND thành phố Biên Hòa có 51 cán bộ, công
chức, người lao động trong đó có 35 KSV (gồm 04 KSV trung cấp là các đồng chí
Viện trưởng và Phó Viện trưởng; 31 KSV sơ cấp), 04 Kiểm tra viên và 05 Chuyên
viên. Tại VKSND thành phố Biên Hòa có 05 Thạc sỹ Luật, 13 đồng chí đang theo
học Thạc sỹ Luật, còn lại đều có trình độ Cử nhân Luật và Cử nhân chuyên ngành
khác.
Do đặc thù khối lượng công việc nhiều, số lượng vụ án, vụ việc nhiều nhất
tỉnh Đồng Nai, do đó VKSND thành phố Biên Hòa luôn củng cố, hoàng thiện tổ
chức, hoạt động để đáp ứng được những yêu cầu công việc đặt ra, hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao. Mỗi cán bộ VKSND thành phố Biên Hòa luôn nêu cao tinh
thần trách nhiệm trong công việc, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ để phục vụ công tác.
31
2.1.3. Tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai
Chính vì những đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của thành phố Biên Hòa
nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình tội phạm tại địa phương. Tình hình tội
phạm ma túy nói chung và tội phạm mua bán trái phép chất ma túy nói riêng tại địa
bàn thành phố Biên Hòa đa số đều thực hiện dưới hình thức cá thể đơn lẻ, chưa phát
hiện các nhóm tội phạm, các tổ chức tội phạm. Tuy nhiên mức độ thủ đoạn của
hành vi phạm tội ngày càng tinh vi, phức tạp, đối tượng phạm tội có phần trẻ hóa.
Nguyên nhân chủ yếu do khu vực địa bàn thành phố Biên Hòa tập trung nhiều khu
công nghiệp, xí nghiệp, công ty có số lượng lao động là dân nhập cư, thu hút nhiều
đối tượng, thành phần xấu từ nhiều địa phương khác đến phạm tội.
Có thể đánh giá tình hình tội phạm tại thành phố Biên Hòa thông qua số liệu
thống kê trong 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019 tại Bảng 2.1: Số liệu tin báo,
nguồn tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp nhận và vụ án hình sự khởi tố từ năm
2015 đến năm 2019 (Phụ lục II). Qua đó có thể thấy trong 05 năm, số tin báo, nguồn
tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố đã tiếp nhận là 4080 vụ việc (trung bình mỗi năm
thụ lý 816 vụ việc), trong đó đã khởi tố 3565 vụ án (trung bình mỗi năm khởi tố 713
vụ án). Qua đó có thể thấy đa phần các tin báo, nguồn tin về tội phạm, kiến nghị
khởi tố thụ lý được tiếp nhận đã đều được khởi tố vụ án khi có đủ dấu hiệu tội
phạm.
Để rõ hơn về tình hình tội phạm ma túy tại địa bàn thành phố Biên Hòa, có
thể xem qua bảng Bảng 2.2. Bảng so sánh tỷ lệ án ma túy đã khởi tố tại thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 (Phụ lục II) để so
sánh số liệu các vụ án ma túy trên toàn tỉnh Đồng Nai và các vụ án ma túy tại thành
phố Biên Hòa. Có thể thấy trong 05 năm, số vụ án ma túy của thành phố Biên Hòa
luôn chiếm số lượng lớn so với tổng số vụ án ma túy của toàn tỉnh (trung bình
chiếm 30% số án mỗi năm), cho thấy số lượng tội phạm ma túy bị phát hiện khởi tố
của địa bàn thành phố Biên Hòa rất nhiều so với các huyện, thị xã còn lại trong địa
bàn tỉnh Đồng Nai. Dựa vào số liệu hai cấp về án ma túy đã khởi tố của VKSND
32
tỉnh Đồng Nai và VKSND thành phố Biên Hòa, có thể diễn biến phức tạp của tình
hình tội phạm ma túy nói chung và tội phạm mua bán trái phép chất ma túy nói
riêng diễn ra trên địa bàn.
Đối với tội phạm mua bán trái phép chất ma túy tại thành phố Biên Hòa, để
làm rõ hơn về tính chất, mức độ, số lượng tội phạm, có thể xem qua Bảng 2.3. Bảng
số liệu số vụ án hình sự và vụ án ma túy đã khởi tố tại thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 (Phụ lục 2) dựa trên Báo cáo tổng
kết các năm của VKSND thành phố Biên Hòa các năm từ 2015 đến 2019. Theo đó,
trong 05 năm, số vụ án mua bán trái phép chất ma túy là 122 vụ / 145 bị can (so với
số vụ án về nhóm tội ma túy là 633 vụ / 785 bị can). Dựa vào số liệu của các bản
Báo cáo tổng kết năm của VKSND thành phố Biên Hòa các năm từ 2015 đến 2019
cho thấy tội phạm về ma túy nói chung có xu hướng tăng lên, đặc biệt là tội phạm
về tàng trữ trái phép chất ma túy, riêng tội phạm mua bán trái phép chất ma túy có
xu hướng giảm. Tuy nhiên nhìn vào số liệu giảm của tội danh này chưa đánh giá hết
mức độ tội phạm mua bán trái phép chất ma túy, bỡi lẽ các đối tượng bán trái phép
chất ma túy ngày càng tinh vi, xảo huyệt nên ngày càng khó phát hiện. Nhiều đối
tượng tàng trữ trái phép chất ma túy có dấu hiệu bán cho người khác nhưng khi bị
phát hiện chưa đủ chứng cứ chứng minh hành vi mua bán nên phải xử lý về tội
“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đối với tội danh này, thực tế cho thấy gần như
tuyệt đối các vụ án mua bán trái phép chất ma túy được khởi tố là do quá trình bắt
quả tang hành vi phạm tội, hoặc trong quá trình điều tra các vụ án tàng trữ trái phép
chất ma túy, bị can thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy khai ra các đối
tượng mua bán trái phép chất ma túy, từ đó tiến hành xác minh, thu thập tài liệu
chứng cứ. Do đó ngay từ khi các đối tượng thực hiện hành vi mua bán trái phép chất
ma túy bị bắt quả tang, VKSND thành phố Biên Hòa đã chủ động tích cực trong
công tác thực hành quyền công tố ngay từ giai đoạn ban đầu tạo tiền đề cho quá
trình khởi tố và xử lý vụ án nhanh chóng, khách quan và tuân thủ nguyên tắc pháp
chế của BLTTHS.
2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án
33
Mua bán trái phép chất ma túy tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai
2.2.1. Kết quả đạt được
Qua công tác THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất
ma túy, VKSND thành phố Biên Hòa đã đạt được một số kết quả nhất định. Quá
trình THQCT trong 05 năm từ năm 2015 đến 2019, VKSND thành phố Biên Hòa đã
tham gia THQCT đối với 122 vụ án mua bán trái phép chất ma túy, phê chuẩn khởi
tố bị can đối với 145 bị can về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tất cả các
trường hợp này sau khi truy tố, xét xử đều đúng người, đúng tội, không có oan sai.
Xác định được vai trò quan trọng của VKS, mỗi KSV của đơn vị đều tích
cực tham gia nghiên cứu hồ sơ từ giai đoạn ban đầu, sử dụng các kỹ năng nghiệp vụ
để làm tròn nhiệm vụ THQCT của mình trong giai đoạn điều tra ban đầu để làm rõ
hành vi của các đối tượng mua bán trái phép chất ma túy. Đặc biệt đối với các vụ án
tàng trữ trái phép chất ma túy, bằng chức năng THQCT của mình, VKSND thành
phố Biên Hòa góp phần phát hiện và xử lý kịp thời các đối tượng có hành vi bán trái
phép chất ma túy cho bị can trong vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy để truy xét,
truy bắt và khởi tố các đối tượng này. Hầu hết các vụ án mua bán trái phép chất ma
túy tại thành phố Biên Hòa được phát hiện dưới hình thức bắt quả tang. Vì vậy KSV
luôn cẩn trọng, tỉ mĩ để phát hiện các thiếu sót của CQĐT khi lập biên bản bắt
người phạm tội quả tang, ghi lời khai đối tượng ban đầu, những mâu thuẫn trong lời
khai, đặc điểm vật chứng, chủ động yêu cầu CQĐT làm rõ mối quan hệ và hành vi
của những người liên quan đến người bị bắt quả tang… để có bước đệm cho hoạt
động THQCT tiếp theo như tham gia cùng ĐTV lấy lời khai, đề tra yêu cầu xác
minh, yêu cầu điều tra để củng cố chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội, làm cơ
sở cho việc xem xét phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các lệnh, quyết định tố tụng
của CQĐT. Trong giai đoạn 05 năm từ 2015 đến 2019, VKSND thành phố Biên
Hòa đã đạt được những kết quả nhất định trong công tác THQCT trong giai đoạn
điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy, cụ thể như sau:
Thứ nhất, THQCT trong việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh bắt
34
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam:
Đối với công tác THQCT trong việc phê chuẩn Lệnh bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, VKSND thành phố Biên Hòa đã chủ động trong việc phối hợp
với CQĐT nghiên cứu kỹ lưỡng hồ sơ, 100% các trường hợp đề nghị phê chuẩn bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đều có sự tham gia của KSV gặp trực tiếp
đối tượng để cùng ĐTV lấy lời khai, xác minh và củng cố tài liệu chứng cứ để xác
định có thuộc trường hợp bắt giữ hay không. Trong trường hợp hồ sơ đề nghị phê
chuẩn bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp không đủ cơ sở thì VKS kiên
quyết không phê chuẩn, đồng thời yêu cầu trả tự do ngay cho người bị bắt giữ trong
trường hợp khẩn cấp. VKS khẩn trương thực hiện các quyền hạn của mình để đảm
bảo thời hạn xét phê chuẩn trong vòng 12 giờ kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị phê
chuẩn đúng quy định. Nhờ vào sự chủ động này mà VKS đã phê chuẩn 100% các
trường hợp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, tất cả đều có căn cứ và
đúng quy định pháp luật.
Đối với công tác THQCT trong việc phê chuẩn gia hạn tạm giữ: Đa phần các
vụ án ma túy nói chung và vụ án mua bán trái phép chất ma túy đều phải chờ kết
luận giám định chất ma túy của Cơ quan giám định, do đó VKS căn cứ đề nghị gia
hạn tạm giữ của CQĐT về việc chờ kết quả giám định ma túy là có cơ sở và cần
thiết, KSV đề xuất lãnh đạo phê chuẩn gia hạn tạm giữ đối với bị can nhanh chóng,
đúng thời hạn quy định. Trong thời hạn tạm giữ và gia hạn tạm giữ lần thứ nhất,
KSV chủ động phối hợp cùng ĐTV lấy lời khai của người bị tạm giữ, tham gia đối
chất, nhận dạng, không để trường hợp phải gia hạn tạm giữ lần thứ hai do thiếu
chứng cứ do chưa thực hiện các hoạt động nêu trên.
Đối với công tác THQCT trong việc phê chuẩn lệnh tạm giam, lệnh bắt bị
can để tạm giam. Các KSV đánh giá khách quan, toàn diện các quy định về điều
kiện để tạm giạm bị can quy định tại Điều 119 BLTTHS, đồng thời yêu cầu CQĐT
bổ sung ngay các tài liệu chứng cứ liên quan đến việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
tạm giam để xem xét việc phê chuẩn. Nếu bị can không thuộc trường hợp tạm giam
thì VKS không phê chuẩn Lệnh tạm giam của CQĐT, đồng thời ra Quyết định hủy
35
bỏ Quyết định tạm giữ (trong trường hợp VKS đã phê chuẩn gia hạn tạm giữ), yêu
cầu ngay CQĐT áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú sau khi khởi
tố bị can. Trong kỳ thống kê 05 năm, VKSND thành phố Biên Hòa đã từ chối phê
chuẩn lệnh tạm giam đối với 02 trường hợp và đã yêu cầu CQĐT áp dụng biện pháp
ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với 02 bị can này do không có căn cứ áp dụng
biện pháp ngăn chặn tạm giam. Kết quả THQCT trong công tác phê chuẩn lệnh bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam được thể
hiện thông qua bảng so Bảng 2.4. Bảng so sánh tình hình áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giữ, tạm giam tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn từ năm
2015 đến năm 2019 (Phụ lục II). Theo đó, trung bình trong 05 năm, số người bị bắt
tạm giữ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chiếm tỷ lệ 3,71% trong tổng số
người bị bắt tạm giữ, số người chuyển tạm giam về tội “Mua bán trái phép chất ma
túy” chiếm tỷ lệ 4.16% trong tổng số người bị chuyển tạm giam. Tỷ lệ người bị bắt
tạm giữ chuyển tạm giam trong các vụ án mua bán trái phép chất ma túy cao do đặc
điểm loại tội phạm này đều thuộc loại tội nghiêm trọng, không có nơi cư trú rõ ràng
hoặc có nhiều tiền án, tiền sự về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy hoặc mua
bán trái phép chất ma túy nên thuộc trường hợp tạm giam theo quy định.
Thứ hai, THQCT trong việc phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết
định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can về tội mua bán trái phép chất
ma túy không có căn cứ và trái pháp luật: Trong hoạt động xét phê chuẩn khởi tố bị
can, KSV đã tập trung nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ một cách khách quan,
toàn diện. Trường hợp nếu xét thấy chưa đủ căn cứ để thực hiện việc phê chuẩn thì
VKSND thành phố Biên Hòa trao đổi với CQĐT bổ sung tài liệu chứng cứ, nếu
trường hợp CQĐT đã bổ sung tài liệu nhưng vẫn không đủ chứng cứ để chứng minh
thì VKS từ chối việc phê chuẩn. Nhờ vào các hoạt động trực tiếp tham gia lấy lời
khai đối tượng, tham gia đối chất và các hoạt động kiểm sát điều tra mà KSV có đủ
cơ sở để đánh giá chứng cứ buộc tội và gỡ tội, đánh giá các mặt khách quan, chủ
quan của người phạm tội, từ đó đề xuất lãnh đạo phê chuẩn hoặc không phê chuẩn
quyết định khởi tố bị can của CQĐT, từ đó VKSND thành phố Biên Hòa đã phê
36
chuẩn khởi tố 145 bị can trong các vụ án mua bán trái phép chất ma túy, tất cả đều
có căn cứ và hợp pháp. Trong kỳ thống kê 05 năm, VKS đã phê chuẩn 05 trường
hợp phải bổ sung quyết định khởi tố bị can do sau khi điều tra, xác minh nhận thấy
nơi cư trú của bị can trong quyết định khởi tố bị can ghi chưa đúng. Đối với các
quyết định khởi tố vụ án hình sự, thông qua công tác THQCT và kiểm sát điều tra,
VKS nhận thấy các quyết định này đều đúng quy định pháp luật.
Thứ ba, THQCT trong việc quyết định chuyển vụ án, việc gia hạn thời hạn
điều tra và gia hạn thời hạn tạm giam: Đối với vụ án mua bán trái phép chất ma túy
không thuộc thẩm quyền của VKSND thành phố Biên Hòa luôn được đơn vị yêu
cầu CQĐT thực hiện các thủ tục để VKS ban hành quyết định chuyển vụ án đến
CQĐT có thẩm quyền. Trong giai đoạn 05 năm (từ năm 2015 đến năm 2019),
VKSND thành phố Biên Hòa đã ban hành 01 quyết định chuyển vụ án mua bán trái
phép chất ma túy (01 vụ - 04 bị can), đảm bảo việc chuyển vụ án đúng quy định
pháp luật, không để gần hết thời hạn điều tra mới thực hiện việc chuyển vụ án. Việc
gia hạn thời hạn điều tra và gia hạn thời hạn tạm giam bị can thường chủ yếu tập
trung ở những vụ án có nhiều bị can, án phức tạp, án truy xét. Hầu hết các vụ án
mua bán trái phép chất ma túy tại VKSND thành phố Biên Hòa đều kết thúc điều tra
mà không cần phải gia hạn thời hạn điều tra hoặc gia hạn tạm giam đối với bị can.
Đối với những vụ án CQĐT đề nghị gia hạn, việc gia hạn thời hạn điều tra, gia hạn
tạm giam luôn được thực hiện đúng quy định, tuyệt đối không để tình trạng lạm
dụng việc gia hạn để kéo dài thời hạn điều tra.
Thứ tư, THQCT trong công tác ban hành yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT
tiến hành điều tra để làm rõ tội phạm, người phạm tội; yêu cầu CQĐT truy nã bị
can, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt:
Tất cả các vụ án mua bán trái phép chất ma túy đều có Yêu cầu điều tra của
KSV, cụ thể trong giai đoạn 2015 đến năm 2019, VKS đã ban hành 160 yêu cầu
điều tra trong các vụ án mua bán trái phép chất ma túy, nhiều vụ án có tính chất
phức tạp KSV đã ban hành 02 yêu cầu điều tra. Khi đề ra yêu cầu điều tra, KSV của
VKSND thành phố Biên Hòa luôn đề ra yêu cầu một cách rõ ràng, không đại khái,
37
chung chung. Việc đề ra Yêu cầu điều tra có thể bằng văn bản hoặc bằng miệng đối
với những vụ án có tính chất đơn giản, tuy nhiên để đảm bảo tính phối hợp, các yêu
cầu điều tra bằng miệng của KSV đề ra sẽ được bổ sung ngay sau đó bằng văn bản
cụ thể. Yêu cầu điều tra đảm bảo bám sát quy định pháp luật, quy chế nghiệp vụ
ngành, đảm bảo chất lượng và mang tính định hướng cho quá trình điều tra vụ án
mua bán trái phép chất ma túy được giải quyết nhanh chóng, chính xác.
Việc yêu cầu CQĐT truy nã bị can được thực hiện đối với các trường hợp bị
can tại ngoại mà bỏ trốn trong quá trình điều tra, tuy nhiên do chưa có trường hợp
cần phải yêu cầu truy nã nên VKS không yêu cầu CQĐT truy nã đối với bị can nào.
VKS chưa thực hiện việc yêu cầu CQĐT áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
đối với vụ án mua bán trái phép chất ma túy nào trong kỳ thống kê 05 năm.
Thứ năm, THQCT thông qua hoạt động VKS trực tiếp tiến hành một số hoạt
động điều tra: Tội phạm mua bán trái phép chất ma túy thường khai báo quanh co,
chối tội, khai báo bất nhất nên tại đơn vị VKSND thành phố Biên Hòa, lãnh đạo và
các KSV thống nhất đối với các vụ án mua bán trái phép chất ma túy, mỗi vụ án
phải có ít nhất 01 lượt hỏi cung bị can để củng cố chứng cứ buộc tội và làm rõ các
chứng cứ gỡ tội, giúp việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện. Khi bắt giữ
các đối tượng ban đầu trong trường hợp bắt quả tang, bắt người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp, KSV khẩn trương nghiên cứu kỹ hồ sơ, đánh giá toàn diện chứng cứ
ban đầu, tổng hợp tình tiết của vụ án, từ đó chủ động phối hợp cùng với ĐTV tiến
hành lấy lời khai các đối tượng, tham gia đối chất, nhận dạng… để từ đó yêu cầu
ĐTV thu thập các tài liệu chứng cứ khác có liên quan. Ngoài ra một số vụ án, KSV
trực tiếp lấy lời khai của người làm chứng để củng cố tài liệu có trong vụ án. Trong
kỳ thống kê 05 năm, các KSV của VKSND thành phố Biên Hòa đã thực hiện 170
lượt hỏi cung bị can (trong tổng số 145 bị can) trong các vụ án mua bán trái phép
chất ma túy.
2.2.2. Nguyên nhân của kết quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng
Nai
38
Thứ nhất, công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Ban lãnh đạo VKSND
thành phố Biên Hòa tạo điều kiện thuận lợi cho công tác THQCT. Ban lãnh đạo
VKSND thành phố Biên Hòa luôn tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành,
đặc biệt trong các công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp. VKSND
thành phố Biên Hòa luôn duy trì sinh hoạt đầu tuần để chủ động trong công tác quán
triệt các nghị quyết, chỉ thị, chủ trương đường lối của cấp trên, các văn bản pháp
luật mới, các quy chế quy định nghiệp vụ ngành mới để cán bộ, công chức của đơn
vị nắm bắt và thực hiện kịp thời. Đơn vị VKSND thành phố Biên Hòa thường
xuyên đánh giá kết quả thực hiện theo chỉ tiêu đề ra vào mỗi tháng, từ đó tìm ra
những nguyên nhân, hạn chế cần phải khắc phục. Ban lãnh đạo VKSND thành phố
Biên Hòa thực hiện việc tổ chức quản lý cán bộ, công chức của đơn vị chặt chẽ,
không để xảy ra tình trạng bị vi phạm phải xử lý kỷ luật. Căn cứ kế hoạch công tác
mà mỗi bộ phận nghiệp vụ, mỗi cán bộ, công chức VKSND thành phố Biên Hòa
thực hiện việc đăng ký thi đua theo các tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể dựa vào ý thức kỷ
luật đơn vị, tinh thần tự giác nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và các thành
quả trong việc thực hiện chức trách nhiệm vụ của mình.
Thứ hai, công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, tổ chức tập huấn nội bộ và
quán triệt tinh thần văn bản pháp luật, văn bản hướng dẫn nghiệp vụ. VKSNDTC
thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về nghiệp vụ cho các
cán bộ kiểm sát các cấp, đặc biệt là cấp huyện đã giúp nâng cao kiến thức pháp luật
và kỹ năng THQCT của KSV trong đơn vị. Tại VKSND tỉnh Đồng Nai cũng
thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn chuyên đề cho các đơn vị VKSND cấp
huyện tham dự với 100% KSV tham gia. Tại đơn vị VKSND thành phố Biên Hòa
cũng thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn chuyên đề cụ thể, phổ biến các văn
bản hướng dẫn nghiệp vụ, các thông báo rút kinh nghiệm của VKSND tỉnh Đồng
Nai, của VKS các cấp, từ đó tăng cường trách nhiệm của KSV trong hoạt động
THQCT. Trong mỗi buổi họp cơ quan, họp bộ phận, đối với những vụ án có tính
chất phức tạp, KSV giải quyết vụ án đó sẽ chia sẻ kinh nghiệm giải quyết cho các
KSV, Kiểm tra viên, Chuyên viên được biết nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ
39
chuyên môn.
Mỗi cán bộ, công chức của VKSND thành phố Biên Hòa không ngừng trau
dồi kiến thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ thể hiện qua việc tính đến ngày
30/5/2020, VKSND thành phố Biên Hòa hiện tại có 05 Thạc sỹ Luật, 13 đồng chí
đang theo học Thạc sỹ Luật, điều này chứng tỏ tinh thần không ngừng nâng cao, bồi
dưỡng kiến thức, trình độ nghiệp vụ chuyên môn của các bộ, công chức trong đơn
vị. Căn cứ vào các chương trình đào tạo của ngành, VKSND thành phố Biên Hòa đã
cử các cán bộ, công chức đi học các lớp đào tạo nghiệp vụ, các lớp bồi dưỡng
chuyên sâu, Cao cấp lý luận chính trị, Trung cấp lý luận chính trị… góp phần nâng
cao năng lực, trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức trong đơn vị.
Thứ ba, công tác phối hợp với liên ngành tố tụng tại địa phương được chú
trọng, thực hiện tốt. Liên ngành tố tụng thành phố Biên Hòa gồm VKSND thành
phố Biên Hòa, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Tòa án nhân
dân thành phố Biên Hòa thường xuyên duy trì các cuộc họp liên ngành tố tụng hàng
tháng để giải quyết các vụ án phức tạp, nhiều quan điểm giải quyết. Việc duy trì họp
liên ngành giúp cho việc giải quyết các vụ án phức tạp được nhanh chóng, thống
nhất, đồng thời từ đó đúc kết kinh nghiệp giải quyết các vụ án có tình tiết tương tự
cho từng cán bộ, công chức, chiến sỹ của từng đơn vị.
Ngoài ra liên ngành tố tụng thành phố Biên Hòa cũng thường xuyên tổ chức
sơ kết, tổng kết hàng năm để đánh giá những hạn chế, tồn tại trong quá trình điều
tra, truy tố, xét xử nhằm đề ra những giải pháp phù hợp để khắc phục những tồn tại
đó. Thông qua công tác phối hợp, tiến hành rà soát, thay đổi, bổ sung các quy định
phù hợp hơn cho quy chế liên ngành của các cơ quan tố tụng thành phố Biên Hòa
phù hợp với quy định pháp luật.
Thứ tư, cơ sở vật chất và trang thiết bị ngày càng được quan tâm, đầu tư.
Được sự quan tâm của VKSND Tối cao, VKSND tỉnh Đồng Nai, năm 2013
VKSND thành phố Biên Hòa đã được đầu tư xây dựng trụ sở mới, trang bị cơ sở vật
chất, trang thiết bị tương đối đầy đủ. Mỗi KSV, Kiểm tra viên đều được trang bị
máy vi tính, máy in, mỗi một bộ phận nghiệp vụ đều được trang bị máy photocopy,
40
máy ghi âm, quay hình, đơn vị có hệ thống mạng lưới nội bộ riêng biệt để phục vụ
công tác trao đổi thông tin nghiệp vụ… từ đó góp phần nâng cao chất lượng
THQCT của VKSND thành phố Biên Hòa.
Nhờ vào những ưu điểm nêu trên, chất lượng công tác THQCT của VKSND
thành phố Biên Hòa ngày càng được nâng cao. Việc VKS phê chuẩn, không phê
chuẩn các lệnh, quyết định của CQĐT luôn được đảm bảo tính hợp pháp, có căn cứ,
đảm bảo không người nào bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái pháp
luật, không ai bị tạm giữ, khởi tố bị can, tạm giam oan sai.
2.2.3. Hạn chế, tồn tại
Bên cạnh những kết quả đã đạt được nêu trên, vẫn còn một số tồn tại, hạn
chế nhất định ảnh hưởng đến công tác THQCT, cụ thể:
Thứ nhất, chưa làm tốt công tác THQCT trong việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn. Trong giai đoạn từ năm 2018 trở về trước, việc THQCT trong việc áp dụng
biện pháp ngăn chặn đối với các bị can trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy
còn chưa thực hiện tốt. Đặc biệt là trong giai đoạn này, 100% các loại tội phạm ma
túy nói chung và tội phạm mua bán trái phép chất ma túy nói riêng đều được CQĐT
đề nghị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam và được VKS phê chuẩn Lệnh.
Trong khi đó căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam được quy định tại
Điều 88 BLTTHS năm 2003 đối với trường hợp người phạm tội thuộc khoản 1 Điều
194 BLHS 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 (tội phạm nghiêm trọng) khi có căn cứ
cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể
tiếp tục phạm tội. Trong giai đoạn này CQĐT đề nghị tạm giam bị can với lý do bị
can có thể bỏ trốn hoặc cản trở điều tra, phục vụ tình hình chính trị địa phương
nhưng thực tế nhiều bị can có công ăn việc làm ổn định, có nơi cư trú rõ ràng và
không có căn cứ xác định các dấu hiệu bỏ trốn hoặc cản trở điều tra nhưng VKS vẫn
phê chuẩn lệnh tạm giam mà không cho bị can được tại ngoại.
Kể từ khi BLTTHS 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018, VKSND
thành phố Biên Hòa đã thực hiện triệt để các điều kiện tạm giam quy định tại Điều
119 BLTTHS để áp dụng, trong đó có 02 trường hợp VKS không phê chuẩn Lệnh
41
tạm giam và yêu cầu CQĐT áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú,
điều này cho thấy hạn chế trong công tác THQCT trong việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn đã được khắc phục trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, KSV chưa bám sát hoạt động điều tra dẫn đến một số vụ án phải trả
hồ sơ để điều tra bổ sung. Một vài vụ án KSV chưa thực sự theo sát chặt chẽ hoạt
động điều tra của CQĐT, dẫn đến khi CQĐT kết thúc điều tra mà hồ sơ vụ án vẫn
còn thiếu sót trong thu thập chứng cứ. Trong giai đoạn truy tố VKS đã trả hồ sơ cho
CQĐT để điều tra bổ sung 02 vụ 04 bị can, trong giai đoạn xét xử Tòa án trả hồ sơ
cho VKS để điều tra bổ sung 03 vụ 06 bị can, do có lỗi của KSV chưa làm tròn
trách nhiệm của mình, khiến vụ án bị kéo dài.
Thứ ba, chậm trễ trong việc chưa đề ra yêu cầu điều tra, đề ra yêu cầu điều
tra chưa toàn diện, chưa chính xác. Tại đơn vị vẫn còn một số vụ án mua bán trái
phép chất ma túy KSV chậm trễ trong việc đề ra yêu cầu điều tra sau khi khởi tố vụ
án, nhiều trường hợp gần hết thời hạn điều tra mới ban hành yêu cầu điều tra; nhiều
yêu cầu điều tra còn mang tính hình thức, yêu cầu những vấn đề chung chung,
không mang tính định hướng điều tra; những vấn đề đã được ĐTV thu thập xác
minh, khiến chất lượng bản yêu cầu điều tra không cao; nhiều vấn đề thiếu sót liên
quan đến nhân thân bị can không được ĐTV thu thập, xác minh nhưng KSV không
yêu cầu điều tra làm rõ dẫn đến quá trình điều tra không toàn diện, triệt để nên một
số vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Thứ tư, một số KSV vẫn còn tình trạng cả nể, chưa cương quyết xử lý vi
phạm của ĐTV. Một số trường hợp ĐTV có vi phạm trong hoạt động tố tụng như
không thực hiện đầy đủ những yêu cầu điều tra của KSV; việc lập biên bản ghi lời
khai, biên bản hỏi cung bị can còn lập bằng bản đánh máy sai quy định theo Thông
tư 61/2017/TT-BCA; vi phạm thời hạn chuyển hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra
cho VKS để truy tố; vi phạm thời hạn gửi hồ sơ đề nghị gia hạn điều tra... nhưng vì
tâm lý cả nể, ngại va chạm nên đã không cương quyết xử lý, KSV không kịp thời
báo cáo lãnh đạo để kiến nghị xử lý khắc phục vi phạm.
Thứ năm, chưa kiểm sát chặt chẽ hoạt động giám định chất ma túy ảnh
42
hưởng đến công tác THQCT. Công tác niêm phong vật chứng thu giữ nói chung và
thu giữ vật chứng là ma túy được quy định tại Nghị định số 27/2017/NĐ-CP ngày
16 tháng 11 năm 2017 quy định có sự tham gia của người chứng kiến quá trình
niêm phong vật chứng, tuy nhiên công tác mở niêm phong lại không được quy định
có sự tham gia của chủ thể này. Thực tế tại địa phương thành phố Biên Hòa, một số
trường hợp mở niêm phong nhưng không có sự tham gia của người liên quan là đối
tượng bị tạm giữ, cũng không có sự tham gia của người chứng kiến, BLTTHS cũng
không quy định KSV phải có mặt để tham gia kiểm sát hoạt động mở niêm phong,
điều này có đảm bảo tính khách quan của hoạt động mở niêm phong hay không. Vì
vậy các cơ quan ban ngành cần có sự nghiên cứu để có sự sửa đổi cho phù hợp với
tình hình thực tế tội phạm và đảm bảo tính khách quan trong hoạt động mở niêm
phong vật chứng, đặc biệt vật chứng là chất ma túy trong các vụ án mua bán trái
phép chất ma túy.
2.2.4. Nguyên nhân của hạn chế, tồn tại
Công tác THQCT trong các vụ án mua bán trái phép chất ma túy của thành
phố Biên Hòa còn tồn tại một số hạn chế, yếu kém do những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, các quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự còn một số
vướng mắc, bất cập.
BLTTHS hiện hành đã có quy định cụ thể hơn về các trường hợp có thể áp
dụng biện pháp ngăn chặn lệnh tạm giam tại Điều 119. Tại các khoản 1, 2 Điều 119
BLTTHS quy định các bị can phạm tội nghiêm trọng trở lên có thể áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam. Đối với tội phạm thuộc trường hợp rất nghiêm trọng và
đặc biệt nghiêm trọng có thể áp dụng biện pháp tạm giam mà không cần xét các
điều kiện cụ thể. Đối với tội phạm thuộc trường hợp nghiêm trọng có thể tạm giam
khi có căn cứ như: Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm; Không
có nơi cư trú rõ ràng; không xác định được lý lịch của bị can; Bỏ trốn và bị bắt truy
nã; Có dấu hiệu bỏ trốn; Tiếp tục phạm tội; Có dấu hiệu tiếp tục phạm tội…[15] và
một số căn cứ khác quy định tại khoản 2 Điều 119 BLTTHS. Mặc khác đối với các
bị can là phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu,
43
người bị bệnh nặng có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì chỉ áp dụng biện pháp tạm
giam khi có căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 119 BLTTHS.
Tại địa bàn thành phố Biên Hòa, các bị can trong vụ án mua bán trái phép
chất ma túy đa số đều thuộc trường hợp có đủ căn cứ để tạm giam, chủ yếu thuộc
các căn cứ như phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, không có nơi cư trú rõ
ràng, tiếp tục phạm tội (từng có tiền án về tội mua bán trái phép chất ma túy), tuy
nhiên vẫn có một số bị can được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư
trú do phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, nhân thân
tốt,.. và không thuộc các căn cứ tạm giam quy định tại khoản 2 hoặc khoản 4 Điều
119 BLTTHS.
Tuy nhiên đối với căn cứ để áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú là
“không có nơi cư trú rõ ràng” thì vẫn còn có nhiều vướng mắc. Để xác định “nơi cư
trú” của một người cần dựa vào quy định pháp luật hiện hành, đó là Luật cư trú và
các văn bản pháp luật liên quan hướng dẫn thi hành Luật cư trú năm 2006, được sửa
đổi bổ sung năm 2013, theo quy định tại Điều 12 Luật cư trú thì nơi cư trú là chỗ ở
hợp pháp mà một người thường xuyên sinh sống, là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú.
Đối với trường hợp bị can có đăng ký thường trú cụ thể tại một địa phương khác,
vừa có đăng ký tạm trú tại thành phố Biên Hòa, nhưng lại đang sinh sống tại một
nơi khác thì việc xác định nơi cư trú như thế nào, có được coi là có nơi cư trú rõ
ràng hay không? Nếu áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú thì sẽ
cấm đi khỏi tại nơi thường trú, nơi tạm trú hay nơi thực tế đang sinh sống?
Mặc khác khi khởi tố bị can và xem xét áp dụng biện pháp ngăn chặn, khi đã
hết thời hạn tạm giữ và gia hạn tạm giữ 09 ngày, bị can khai có nơi thường trú tại
một địa phương cụ thể nhưng không cung cấp được các tài liệu chứng minh có đăng
ký hộ khẩu thương trú, quá trình xác minh ban đầu chưa thể xác minh ngay được
nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của bị can, hoặc chưa thể xác minh được lý lịch của
bị can do nhiều nguyên nhân khách quan thì có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn
tạm giam với căn cứ “không xác định được lý lịch bị can” hoặc “không có nơi cư
trú rõ ràng” hay không? Bởi vì trong trường hợp này do “chưa” xác định được lý
44
lịch bị can chứ không phải là “không” xác định được bị can, do “chưa” xác minh
ngay được bị can có nơi cư trú rõ ràng hay không. Thực tiễn cho thấy đối với các
trường hợp này, CQĐT sẽ đề nghị tạm giam bị can và VKS vẫn phải phê chuẩn lệnh
tạm giam này, trong quá trình điều tra khi đã có đủ căn cứ xác định lý lịch bị can rõ
ràng, có nơi cư trú rõ ràng thì mới có thể thay đổi biện pháp ngăn chặn.
Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với các bị can
trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy thường gây ra khó khăn cho công tác
điều tra như việc triệu tập bị can để hỏi cung trong giai đoạn điều tra gặp khó khăn
vì nhiều nguyên nhân bị can không đến đúng hẹn gây chậm trễ; một số trường hợp
bỏ trốn dẫn đến phải truy nã bị can ảnh hưởng đến thời hạn tố tụng; các bị can bị tác
động bởi nhiều tư tưởng, xúi giục bên ngoài dẫn đến có thái độ không hợp tác và
thay đổi lời khai khiến việc giải quyết vụ án gặp khó khăn... Những điều này ảnh
hưởng rất lớn đến hoạt động THQCT của VKS và ảnh hưởng đến quá trình điều tra
giải quyết vụ án.
Một số vướng mắc trong các căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giam như có dấu hiệu bỏ trốn, có dấu hiệu tiếp tục phạm tội là rất khó để xác định.
Việc xác định bị can có dấu hiệu bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội phải dựa vào các tài
liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để xem xét đánh giá, tuy nhiên việc đánh giá
gặp nhiều khó khăn và thường mang tính định tính. Để đánh giá được phải dựa vào
nhiều yếu tố như ý thức chủ quan của bị can, thời gian, diễn biến hành vi bị can…
mà những yếu tố này không thể xác định ngay được và cũng không dễ dàng cho
VKS đánh giá để phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh tạm giam.
Một số quan điểm cho rằng đối với vụ án mua bán trái phép chất ma túy, đặc
biệt đối với những vụ án có bị can phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chung
với bị can phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, cần phải áp dụng biện pháp
tạm giam đối với cả bị can phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và bị can
“Tàng trữ trái phép chất ma túy” bởi vì nếu không áp dụng thì các bị can sẽ tiếp tục
thực hiện hành vi tàng trữ hoặc mua bán trái phép chất ma túy. Mặc khác, do tội
phạm về ma túy nói chung và tội phạm mua bán trái phép chất ma túy nói riêng là
45
một loại tội phạm có tính nguy hiểm cao, có khả năng dẫn đến một loạt các tội
phạm khác, nên phải chăng cần có quy định đặc thù về biện pháp ngăn chặn tạm
giam đối với loại tội phạm này để đảm bảo công tác THQCT trong giai đoạn điều
tra, truy tố và xét xử.
Các vụ án mua bán trái phép chất ma túy đã xác định rõ được người mua ma
túy của bị can thì việc xử lý dễ dàng, thuận lợi. Nhưng đối với những vụ án không
xác định được người mua ma túy và việc chứng minh hành vi mua bán trái phép
chất ma túy chỉ dựa vào lời khai bị can thì gặp nhiều khó khăn. Như đã phân tích tại
Chương 1 Luận văn này, căn cứ vào các quy định pháp luật và quan điểm khoa học
hành vi mua bán trái phép chất ma túy là hành vi nhằm bán trái phép chất ma túy
cho người khác mà không cần biết nguồn gốc ma túy hoặc hành vi nhằm trao đổi
ma túy như hàng hóa có giá trị. Thực tế cho thấy chứng minh được ý thức chủ quan
là rất khó, dẫn đến đối với một số vụ án, bị can ban đầu khai nhận mục đích tàng trữ
trái phép chất ma túy nhằm mục đích bán cho người nghiện nhưng sau đó thay đổi
lời khai chỉ để sử dụng, quá trình điều tra không chứng minh được bị can đã bán ma
túy cho ai dẫn đến phải thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, thay đổi quyết
định khởi tố bị can từ tội “Mua bán trái phép chất ma túy” thành tội “Tàng trữ trái
phép chất ma túy”.
Một số vụ án thực tế khác như trường hợp bị can đã thực hiện 01 lần bán ma
túy, bị can còn tàng trữ thêm một lượng ma túy nhất định (đủ định lượng của tội
“Tàng trữ trái phép chất ma túy”) với mục đích vừa tàng trữ để sử dụng cho bản
thân, nếu có người hỏi mua thì sẽ bán (chưa xác định người mua). Trong trường hợp
này tại đơn vị VKSND thành phố Biên Hòa, đa số quan điểm cho rằng phải thu hút
hành vi tàng trữ lượng ma túy nhất định vừa để sử dụng vừa để bán của bị can vào
tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251. Tuy nhiên vẫn còn
quan điểm khác cho rằng, ngoài lời khai của bị can không xác định được người mua
cụ thể, mặc khác bị can có khả năng phản cung khai lại số ma túy trên chỉ mục đích
tàng trữ để sử dụng mà không có ý định để bán cho người khác nên không đủ căn
cứ xác định bị can phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” mà chỉ phạm tội
46
“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, vì vậy cần khởi tố bị can về cả hai tội danh để
điều tra, truy tố. Có quan điểm khác lại cho rằng, cần phải khởi tố, truy tố bị can về
tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 2 Điều 251 BLHS với
tỉnh tiết “Phạm tội nhiều lần”. Do vậy cần sớm có hướng dẫn từ liên ngành tố tụng
trung ương để thống nhất giải quyết những tranh chấp, xung đột trong quan điểm
định tội danh trong trường hợp nêu trên.
Qua công tác THQCT vụ án mua bán trái phép chất ma túy, tác giả nhận thấy
còn một số vướng mắc trong việc mở niêm phong vật chứng là ma túy để phục vụ
công tác giám định. Nghị định số 27/2017/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2017 quy
định chi tiết việc niêm phong, mở niêm phong vật chứng đã quy định cụ thể về
thành phần tham gia mở niêm phong vật chứng tại khoản 2 Điều 7, Điều 11 Nghị
định này. Theo đó, những vật chứng thu giữ khi mở niêm phong bắt buộc phải có
mặt của người liên quan hoặc người thân thích, người bào chữa (nếu có). Theo quy
định tại điểm a khoản 1 Điều 11 Nghị định này quy định “Trường hợp người có
quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm liên quan đến vật chứng được niêm phong là bị
can, bị cáo đang bị giam giữ thì khi mở niêm phong, người tổ chức thực hiện mở
niêm phong mời người thân thích hoặc người bào chữa của họ (nếu có) hoặc đại
diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tổ chức mở niêm phong vật chứng chứng
kiến.” Quy định này vô hình chung đã bỏ sót các đối tượng là người bị tạm giữ,
người bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp không được áp dụng quy định này. Mặc
khác, các đối tượng phạm tội về ma túy nói chung và tội “Mua bán trái phép chất
ma túy” nói riêng, công tác truy bắt, canh giữ là một vấn đề rất phức tạp nhưng
trong trường hợp này phải dẫn giải các đối tượng đi để mở niêm phong lại càng
phức tạp hơn hoặc mời người thân thích của họ thường không hợp tác bởi vì nếu
tham gia vào việc mở niêm phong để giám định thì tốn kém về mặt thời gian và chi
phí đi lại nên họ không hợp tác. Cơ quan chuyên môn có thẩm quyền giám định
thường ở xa, nếu như bắt buộc phải có mặt của những người liên quan đến vật
chứng để mở niêm phong thì mới giám định và sau khi mở niêm phong bắt buộc
phải có những người bị tình nghi, người bị tố giác, người bị tạm giữ, tạm giam, bị
47
can, bị cáo để niêm phong lại sẽ gây khó khăn cho công tác dẫn giải, bảo vệ các đối
tượng bị tình nghi, người bị tố giác, người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo và
gây tốn kém, lãng phí cho ngân sách nhà nước.
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và BLTTHS năm 2015
đã có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Hiện nay đã có một số Thông tư liên ngành
hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật đối với các tội phạm về ma túy, tuy
nhiên vẫn còn một số nội dung chưa được hướng dẫn, hoặc giải thích pháp luật. Các
văn bản hướng dẫn cũ như Nghị quyết số 01/2001/HĐTP ngày 15/3/2001, Thông tư
liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007,
Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTCTANDTC-BTP ngày
14/11/2015 không còn phù hợp về hình thức, hiện nay chưa được thay thế bằng các
Nghị quyết, Thông tư mới nên chưa có căn cứ pháp lý vững chắc để áp dụng mà chỉ
dựa trên tinh thần của các Nghị quyết, Thông tư này. Do vậy các cơ quan có thẩm
quyền cần sớm ban hành Nghị quyết, Thông tư hướng dẫn mới thay thế để thống
nhất áp dụng pháp luật.
Thứ hai, năng lực, trình độ pháp luật và kinh nghiệm thực tiễn của một số
KSV còn hạn chế. Phần lớn các KSV tại đơn vị VKSND thành phố Biên Hòa là các
KSV trẻ, do vậy chưa có nhiều kinh nghiệm và bản lĩnh nghề nghiệp, cần có thời
gian để tiếp tục trau dồi trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Việc nhận thức đúng đắn
và đầy đủ về chức năng THQCT của một số KSV vẫn còn hạn chế, không cập nhật
các văn bản pháp luật và hướng dẫn mới để nghiên cứu thực hiện; chưa chịu khó
học hỏi kinh nghiệm từ những KSV giàu kinh nghiệm công tác; nghiên cứu chưa
đầy đủ quy định pháp luật, quy chế nghiệp vụ ngành...
Thứ ba, trách nhiệm của một số KSV còn chưa cao. Một số KSV khi thực
hiện công việc còn chưa phát huy tinh thần trách nhiệm, chưa chủ động trong công
tác THQCT. Một số vụ án mua bán trái phép chất ma tuy, KSV chưa thực hiện vai
trò của mình ngay từ ban đầu, chưa theo sát hoạt động điều tra, nắm tình hình và
tiến độ điều tra vụ án để có Yêu cầu điều tra phù hợp dẫn đến nhiều trường hợp vụ
án phải gia hạn thời hạn điều tra vì những thiếu sót nhỏ nhặt mà đáng lẽ ra có thể
48
thực hiện xác minh, thu thập ngay trong thời hạn điều tra ban đầu. Một số trường
hợp KSV không làm hết trách nhiệm dẫn đến một số ĐTV không thực hiện triệt để
những nội dung của yêu cầu điều tra, từ đó dẫn đến chất lượng điều tra một số vụ án
mua bán trái phép chất ma túy còn hạn chế. Một số trường hợp vì không làm tốt
chức năng THQCT nên dẫn đến hoạt động kiểm sát điều tra cũng không được đảm
bảo, dẫn đến không phát hiện thiếu sót của CQĐT trong quá trình tiến hành tố tụng
để kịp thời kiến nghị, kháng nghị khắc phục vi phạm.
Thứ tư, số lượng vụ án hình sự nói chung và các vụ án mua bán trái phép
chất ma túy lớn, tội phạm ngày càng tinh vi dẫn đến quá tải trong công tác THQCT
trong giai điều tra và kiểm sát điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy.
Từ số liệu tại Chương này cho thấy khối lượng án tại đơn vị VKSND thành
phố Biên Hòa rất lớn, trong 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019, VKSND thành phố
Biên Hòa đã thụ lý giải quyết 4080 tin báo, trong đó đã khởi tố 3565 vụ án hình sự,
khởi tố 4767 bị can, chưa tính đến khối lượng các vụ án dân sự, hành chính, kinh
doanh thương mại... Một số KSV còn kiêm nhiệm nhiều công tác khác, các KSV
thường xuyên tham gia các hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử
thi, tham gia đối chất, nhận dạng... Chính vì vậy mỗi KSV tại đơn vị luôn chịu
nhiều áp lực để đảm bảo tiến độ giải quyết tin báo và vụ án đúng hạn, không để oan
sai và không để lọt người phạm tội. Áp lực công việc nhiều dẫn đến một số KSV bị
quá tải, gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng THQCT đối với các vụ án hình sự
nói chung và các vụ án mua bán trái phép chất ma túy nói riêng.
Mặc khác, các đối tượng mua bán trái phép chất ma túy ngày càng có nhiều
thủ đoạn tinh vi, xảo huyệt. Các đối tượng sử dụng điện thoại di động để gọi điện,
nhắn tin, sử dụng các ứng dụng nhắn tin qua mạng xã hội để trao đổi, liên lạc việc
mua bán ma túy và thường xóa hết các thông tin liên lạc này để tránh bị phát hiện.
Khi thực hiện việc giao dịch ma túy, các đối tượng bán ma túy di chuyển bằng xe
mô tô có tính linh hoạt, cơ động cao, khi thực hiện giao dịch thường diễn ra ở
những khu vực vắng vẻ, ít người qua lại, thực hiện việc giao dịch nhanh chóng nên
việc phát hiện và bắt quả tang các đối tượng gặp nhiều khó khăn. Các đối tượng cất
49
giấu ma túy trong túi xách, túi quần, túi áo, hoặc cầm trên tay, nếu bị lực lượng
chức năng phát hiện đều nhanh chóng vứt bỏ tang vật để không bị phát hiện. Đối
với các trường hợp bị phát hiện nhưng các đối tượng chưa thực hiện hành vi giao
dịch ma túy thì thường có xu hướng quanh co, chối tội, chỉ thừa nhận mình tàng trữ
ma túy để sử dụng chứ không có mục đích bán ma túy cho người khác. Chỉ khi bắt
quả tang các đối tượng đang thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, có
người nghiện đang thực hiện hành vi mua hoặc đối với các án truy xét mà đối tượng
tàng trữ trái phép chất ma túy khai ra đối tượng bán và đối tượng bán thừa nhận
hành vi phạm tội thì mới có thể xử lý về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Vì
tính chất thủ đoạn tinh vi của loại tội phạm này mà buộc KSV phải tham gia cùng
ĐTV đấu tranh lấy lời khai, nhiều vụ án KSV phải tham gia lấy lời khai, hỏi cung,
đối chất, nhận dạng nhiều lượt nhưng khối lượng công việc không giảm dẫn đến quá
tải trong công việc.
Thứ năm, trang bị phục vụ công tác THQCT còn một số hạn chế, chế độ tiền
lương, phụ cấp còn bất cập.
Hiện nay, tại đơn vị VKSND thành phố Biên Hòa, các trang thiết bị phục vụ
công tác THQCT vẫn còn thiếu, cụ thể: hệ thống máy tính chưa được trang bị đầy
đủ để đảm bảo mỗi cán bộ kiểm sát có 01 máy tính để làm việc; hệ thống máy
photocopy đã cũ, thường xuyên hư hỏng phải sửa chữa; chưa có hệ thống máy scan
để phục vụ công tác số hóa hồ sơ; hệ thống đường truyền mạng đôi khi còn chập
chờn, ảnh hưởng không nhỏ đến công tác nhập số liệu thống kê, nhập thông tin
quản lý án hình sự cho 02 hệ thống phần mềm quản lý án điện tử của VKSND tỉnh
Đồng Nai và của VKSND tối cao… dẫn đến ảnh hướng đến chất lượng THQCT của
các cán bộ, KSV tại đơn vị.
Với chức năng và quyền hạn của mình, ngành Kiểm sát có những đặc thù
công việc, do đó chế độ tiền lương, chế độ phụ cấp, đãi ngộ cũng cần có sự tương
xứng đối với khối lượng mà mỗi cán bộ kiểm sát phải đảm nhận. Tuy nhiên thực
tiễn cho thấy các chế độ lương, phụ cấp không tương xứng với khối lượng mà mỗi
KSV đảm nhận, dẫn đến nhiều KSV không tập trung công tác mà phải làm thêm
50
công việc bên ngoài để đảm bảo thu nhập cho bản thân và gia đình. Do địa bàn lớn,
khoảng cách giữa các cơ quan tạm giữ, tạm giam với VKS khá xa, dẫn đến chi phí
cho việc đi lại chiếm một khoản không nhỏ nhưng chế độ phụ cấp công tác không
tương xứng. Đối với chế độ tiền lương của KSV sơ cấp ở cấp huyện cũng có sự
chênh lệch khá lớn so với chế độ tiền lương của KSV trung cấp và cao cấp nên
không tạo động lực để KSV vận dụng hết chất xám cho công việc, cống hiến hết sức
cho đơn vị, cho ngành.
Tiểu kết chương 2
Bằng những nhận xét, phân tích, đánh giá thực tiễn THQCT trong giai đoạn
điều tra vụ án ma túy tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã thể hiện được
những kết quả đạt được trong công tác THQCT. Đây là nỗ lực của toàn thể cán bộ,
công chức của VKSND thành phố Biên Hòa trong công cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm nói chung và tội phạm mua bán trái phép chất ma túy nói riêng.
Ngoài ra cũng làm rõ được các khó khăn, vướng mắc và những hạn chế, tồn tại
trong công tác THQCT. Đây là cơ sở quan trọng trong việc đưa ra những giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép
chất ma túy tại Chương 3 luận văn này.
51
Chương 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN MUA BÁN
TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TẠI THÀNH PHỐ BIÊN HÒA,
TỈNH ĐỒNG NAI
3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
3.1.1. Yêu cầu về pháp luật
Yêu cầu về pháp luật là yêu cầu cơ bản của quá trình THQCT các vụ án hình
sự nói chung và vụ án mua bán trái phép chất ma túy nói riêng. Yêu cầu này đòi hỏi
khi THQCT phải phù hợp, đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục, đúng quy định
của BLTTHS. Pháp luật TTHS hiện hành quy định rất chặt chẽ nhiệm vụ, quyền
hạn của VKS nói chung và các chức năng pháp lý của VKS nói riêng. Quá trình
thực hiện các biện pháp này của VKS phải phù hợp, đúng theo các quy định đã quy
định trong pháp luật tố tụng, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Tính
hợp pháp của việc áp dụng pháp luật về THQCT vụ án mua bán trái phép ma túy
của VKS thể hiện ở chỗ có thực hiện theo đúng theo quy định của pháp luật hay
không.
Các hoạt động phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các lệnh, quyết định của
CQĐT, các hoạt động tham gia lấy lời khai, hỏi cung bị can, đối chất, nhận dạng...
trong các vụ án mua bán trái phép chất ma túy phải tuân theo các quy định của pháp
luật một cách nghiêm chỉnh. Tính hợp pháp là yêu cầu tất yếu không thể thiếu được
của THQCT.
3.1.2. Yêu cầu về chính trị xã hội
Trong công tác phòng chống tội phạm ở địa phương, VKS các cấp phải có sự
liên hệ chặt chẽ với hệ thống các cơ quan ban ngành, tổ chức đoàn thể và nhân dân
địa phương. Thông qua các hoạt động như chọn các vụ án mua bán trái phép chất
52
ma túy có tính chất nghiêm trọng để làm án điểm, án xét xử lưu động, từ đó đẩy
nhanh tiến độ giải quyết vụ án trong giai đoạn điều tra, nhanh chóng kết thúc điều
tra để truy tố, xét xử lưu động để tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho quần chúng
nhân dân, nhằm mục đích răn đe những thành phần có dấu hiệu lệch lạc trong tư
tưởng muốn kiếm tiền bằng cách bán trái phép chất ma túy, mang lại hiệu quả tích
cực cho tình hình chính trị địa phương.
Khuyến khích và tạo điều kiện cho người dân đến VKS thực hiện việc tố giác
các đối tượng mua bán trái phép chất ma túy được thuận lợi, dễ dàng. Từ đó góp
phần nâng cao hiệu quả trong công tác phát hiện tội phạm mua bán trái phép chất
ma túy, góp phần vào công tác đảm bảo tình hình chính trị địa phương
3.1.3. Yêu cầu về đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy
Các đối tượng mua bán trái phép chất ma túy thường là những đối tượng có
nhiều thủ đoạn phạm tội tinh vi, khi bị phát hiện, bắt giữ thường chống trả quyết liệt
để trốn chạy. Nhiều trường hợp người phạm tội dùng cả vũ khí quân dụng để chống
trả việc bắt giữ, gây thương vong cho người thực thi công vụ. Do đó khi THQCT
của mình, KSV phải phối hợp với ĐTV đấu tranh để làm rõ hành vi phạm tội, đặc
biệt là trong hoạt động lấy lời khai ban đầu, hỏi cung, đối chất. Các đối tượng này
khi bị bắt giữ ban đầu nếu không thuộc trường hợp bị bắt quả tang đang thực hiện
hành vi mua bán trái phép chất ma túy thì thường có xu hướng chối tội, hoặc
chuyển hành vi mua bán trái phép chất ma túy sang hành vi tàng trữ trái phép chất
ma túy để giảm nhẹ tội. Do đó phải có chiến thuật lấy lời khai, hỏi cung phù hợp
nhằm đấu tranh với đối tượng để làm rõ hành vi khách quan thực tế.
Đối với các vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy, khi tiến hành ghi lời khai
hoặc hỏi cung bị can cần có chiến thuật khai thác thông tin từ bị can để truy xét các
đối tượng đã thực hiện hành vi bán ma túy cho những đối tượng thực hiện hành vi
tàng trữ này. Cần làm rõ đặc điểm nhân thân lai lịch, địa bàn hoạt động, những
thông tin liên quan của đối tượng bán ma túy để yêu cầu CQĐT tiến hành xác minh,
theo dõi truy bắt và đưa vào thụ lý tin báo, nguồn tin về tội phạm để tiếp tục xác
minh làm rõ. Bởi lẽ mỗi một vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy thường liên quan
53
đến một hoặc nhiều đối tượng khác có hành vi bán trái phép chất ma túy cho các bị
can phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Khi THQCT và kiểm sát điều tra các vụ án ma túy nói chung và vụ án mua
bán trái phép chất ma túy nói riêng, cần phải làm rõ nguyên nhân, hoàn cảnh, điều
kiện dẫn đến hành vi phạm tội của bị can, từ đó có những kiến nghị đề xuất thích
hợp với các cơ quan hữu quan có những biện pháp phù hợp để tăng cường hiệu quả
trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm ma túy.
3.1.4. Yêu cầu về nghiệp vụ
Khi THQCT trong các trường hợp CQĐT đề nghị phê chuẩn lệnh bắt người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác hạn chế
quyền con người, quyền công dân đối với các đối tượng có liên quan trong vụ án
mua bán trái phép chất ma túy, ngay từ khi nhận được hồ sơ vụ việc, KSV phải chủ
động kiểm tra tài liệu, chứng cứ chứng minh tính có căn cứ cua việc ban hành các
lệnh, quyết định trên của CQĐT. Nếu cần thiết, KSV phải chủ động cùng ĐTV lấy
lời khai đối tượng, hoặc yêu cầu ngay ĐTV bổ sung tài liệu, chứng cứ cần thiết cho
việc xét phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các lệnh, quyết định này. Khi xét thấy các
lệnh, quyết định có căn cứ thì KSV mới đề xuất lãnh đạo VKS phê chuẩn, ngược lại
phải từ chối phê chuẩn các lệnh, quyết định đó và nêu rõ lý do.
Khi THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy,
việc đề ra Yêu cầu điều tra của KSV là một trong những hoạt động quan trọng và
gắn liền với hoạt động điều tra, do đó KSV cần chủ động thực hiện việc kiểm tra,
thẩm định tài liệu, chứng cứ đã thu thập để có những yêu cầu điều tra mang tính
định hướng cho quá trình giải quyết vụ án, phát hiện kịp thời những mâu thuẫn,
những thiếu sót về mặt chứng cứ để đưa ra yêu cầu điều tra yêu cầu CQĐT làm rõ.
Đối với những vụ án có tính chất đơn giản, KSV có thể đề ra Yêu cầu điều tra trực
tiếp bằng miệng, còn lại phải có yêu cầu điều tra thể hiện qua văn bản. Để có một
Yêu cầu điều tra chất lượng, KSV phải có sự chủ động nghiên cứu hồ sơ vụ án,
không đề ra Yêu cầu điều tra mang tính hình thức, nội dung chung chung, không
mang ý nghĩa giải quyết vụ án. Khi đã đề ra Yêu cầu điều tra, KSV phải có sự theo
54
sát tiến độ thực hiện yêu cầu điều tra của ĐTV, nhanh chóng nắm bắt các tình tiết
mới nếu có phát sinh để tiếp tục yêu cầu CQĐT thực hiện nhằm đẩy nhanh tiến độ
giải quyết vụ án. Thực hiện tốt việc đề ra yêu cầu điều tra vừa giúp cho công tác
điều tra của ĐTV được đúng hướng, vừa là căn cứ xác định trách nhiệm THQCT
của KSV trong quá trình điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy.
Trước khi kết thúc điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy, giữa KSV
và ĐTV phải cùng nhau đánh giá chứng cứ, thống nhất nội dung trong Yêu cầu điều
tra đã được thực hiện hoặc thực hiện đầy đủ hay chưa, những khó khăn, vướng mắc
trong quá trình giải quyết vụ án và những vấn đề còn chưa được làm sáng tỏ, từ đó
quyết định việc kết thúc quá trình điều tra thông qua Biên bản thống nhất về việc
kết luận điều tra vụ án hay tiếp tục gia hạn thời hạn điều tra vụ án hình sự để củng
cố chứng cứ. Từ đó CQĐT có văn bản đề nghị truy tố trong trường hợp đã đầy đủ
chứng cứ buộc tội đối với bị can hoặc văn bản đề nghị gia hạn thời hạn điều tra vụ
án và gia hạn tạm giam bị can đối với trường hợp tạm giam, tiếp tục áp dụng biện
pháp ngăn chặn khác đối với trường hợp không tạm giam bị can, nếu không có căn
cứ phải thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đang được áp dụng.
Đối với các vụ án mua bán trái phép chất ma túy truy xét, chứng cứ thu thập
được chủ yếu bằng các bản ghi lời khai, bản tự khai, không thu được vật chứng nên
thường gây khó khăn cho quá trình giải quyết. Vì vậy, bằng kinh nghiệm và nghiệp
vụ của mình, KSV phải nắm chắc các tình tiết mang tính buộc tội trong từng lời
khai cụ thể của những người liên quan, của đối tượng, các tình tiết khác có ý nghĩa
quan trong trong việc buộc tội như nội dung tin nhắn, danh sách cuộc gọi đi và đến,
danh bạ điện thoại, những tài liệu lưu trữ thông tin ký hiệu làm bằng chứng cho việc
thanh toán tiền mua bán ma túy,... để làm căn cứ đấu tranh với đối tượng, từ đó phối
hợp với ĐTV có những biện pháp điều tra phù hợp. Mặc khác cần lưu ý vào những
điểm mâu thuẫn, không logic trong lời khai của đối tượng để làm cơ sở khai thác, từ
đó đánh giá chứng cứ khách quan, toàn diện để làm cơ sở buộc tội đối tượng.
Trong trường hợp bắt quả tang, bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
đối với các đối tượng có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, KSV cần nhanh
55
chóng, khẩn trương THQCT của mình ngay từ giai đoạn ban đầu này. Bởi vì thời
hạn tạm giữ tối đa đối với người bị tạm giữ hình sự là 09 ngày, do đó việc KSV
tham gia THQCT từ những ngày bị tạm giữ đầu tiên sẽ giúp cho việc xác định có
hay không có hành vi phạm tội một cách nhanh chóng, từ đó có hướng xử lý khởi tố
hoặc không khởi tố vụ án hình sự thích hợp.
Tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được phân loại về tội phạm từ tội phạm
nghiêm trọng cho đến tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, do đặc điểm tính chất, mức
độ nguy hiểm của loại tội này đối với xã hội. Vì thế hời hạn điều tra tội danh này
theo quy định của BLTTHS kéo dài ít nhất từ 03 tháng trở lên. Một số vụ án mua
bán trái phép chất ma túy có tính chất đơn giản, đối tượng thành khẩn khai báo, tình
tiết vụ án rõ ràng thì KSV phải bám sát tiến độ giải quyết vụ án, yêu cầu ĐTV tiến
hành khẩn trương các hoạt động điều tra để nhanh chóng kết thúc điều tra vụ án, đề
nghị truy tố chuyển tòa xét xử, tránh trường hợp khi bị tạm giam trong một thời
gian dài, bị can có sự thay đổi trong tư tưởng sợ chịu hình phạt nặng hoặc bị can bị
một số bị can cùng tạm giam khác xúi giục thay đổi lời khai làm ảnh hưởng đến quá
trình giải quyết vụ án. Một số vụ án có tính chất phức tạp, cần thời gian cho quá
trình điều tra, xác minh và đấu tranh với người có hành vi phạm tội thì KSV cũng
phải theo sát và thực hiện chức năng THQCT của mình để đảm bảo việc giải quyết
vụ án được nhanh chóng, khách quan, không làm oan người vô tội và cũng không
bỏ lọt tội phạm.
Đối với những trường hợp CQĐT đề nghị gia hạn thời hạn điều tra vụ án,
KSV phải nghiên cứu hồ sơ và có đề xuất lãnh đạo VKS gia hạn thời hạn điều tra
phù hợp, vừa mang tính chất gia hạn thời hạn điều tra để tiến hành các hoạt động
điều tra làm rõ, vừa có tính chất thúc đẩy tiến độ điều tra của ĐTV để giải quyết vụ
án nhanh chóng, tránh việc kéo dài thời hạn điều tra một cách không cần thiết.
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
3.2.1. Giải pháp chung
56
2.2.4.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật tạo điều kiện cho công tác thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy
Thứ nhất, cần sớm ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật mới thay
thế cho các văn bản quy phạm pháp luật không còn phù hợp về mặt hình thức đối
với BLHS và BLTTHS hiện hành.
Từ ngày 01/01/2018, BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, BLTTHS
năm 2015 có hiệu lực đã khắc phục nhiều hạn chế, tồn tại của những quy định cũ về
các tội phạm ma túy, trình tự thủ tục tố tụng được quy định chặt chẽ hơn, đề cao vai
trò THQCT của VKS. Nhiều Nghị định, Thông tư đã được ban hành kịp thời để
hướng dẫn thực hiện quy định của pháp luật. Tuy nhiên đối với các tội phạm về ma
túy vẫn chưa có những văn bản quy phạm pháp luật mới hướng dẫn, hiện tại các cơ
quan tố tụng vẫn áp dụng tinh thần của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-
VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007, Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-
BCA-VKSNDTCTANDTC-BTP ngày 14/11/2015, các Nghị quyết số 01/2001/NQ-
HĐTP ngày 15/3/2001, Nghị quyết số 02/ 2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003, Nghị
quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TAND tối
cao.
Những hướng dẫn trong các Thông tư, Nghị quyết này đã không còn phù hợp
về mặt hình thức, có những hạn chế nhất định trong việc hướng dẫn áp dụng một số
quy định đối với “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự hiện hành do đó nên
sớm có Thông tư và Nghị quyết mới thay thế.
Thứ hai, cần có hướng dẫn cụ thể hơn về việc mở niêm phong vật chứng là
chất ma túy để thực hiện công tác giám định tạo điều kiện cho hoạt động THQCT.
Nghị định số 127/2017/NĐ-CP ngày 16/11/2017 của Chính phủ quy định về
niêm phong vật chứng đối với ma túy còn một số khó khăn, bất cập về vấn đề mở
niêm phong vật chứng là ma túy để phục vụ công tác giám định như đã nêu tại
Chương 2, do đó liên ngành tư pháp trung ương cần sớm có văn bản hướng dẫn chi
tiết thi hành Nghị định số 127 quy định về việc mở vật chứng là chất ma túy để thực
hiện công tác giám định theo hướng: Đối với vật chứng niêm phong phục vụ cho
57
công tác giám định để giải quyết các vụ án hình sự khi mở niêm phong không bắt
buộc phải có mặt của người bị tình nghi, người bị tố giác, người bị tạm giữ, tạm
giam, bị can, bị cáo hoặc người thân thích của người bị tình nghi, người bị tố giác,
người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo hoặc người bào chữa mà chỉ cần đại diện
cơ quan trưng cầu và bắt buộc phải có người chứng kiến tham gia.
Thứ ba, cần có hướng dẫn để thống nhất áp dụng pháp luật trong việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân,
đặc biệt là biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với các tội phạm ma túy nói chung và
tội phạm mua bán trái phép chất ma túy nói riêng.
Các căn cứ để tạm giam đã được quy định tại Điều 119 BLTTHS, từ những
khó khăn vướng mắc đã nêu tại Chương 2 luận văn này. Do vậy cần có các văn bản
quy phạm pháp luật hướng dẫn cụ thể hoặc các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ trong
việc vận dụng các căn cứ “không có nơi cư trú rõ ràng”, “có dấu hiệu bỏ trốn”, có
“dấu hiệu tiếp tục phạm tội” để có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn cho phù hợp
đối với các bị can trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy.
Thực tiễn địa phương cho thấy việc áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi
khỏi nơi cư trú đối với các tội phạm ma túy nói chung và tội phạm mua bán trái
phép chất ma túy nói riêng không được sự ủng hộ của người dân địa phương, thậm
chí là sự phản ứng của gia đình một số bị can. Loại tội phạm này là một loại tội
phạm có tính chất, mức độ nguy hiểm cao, do đó cần phải xem xét có một quy định
đặc biệt để áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong các vụ án mua bán trái
phép chất ma túy đáp ứng yêu cầu của xã hội và trong công cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm ma túy trong tình hình hiện nay.
Thứ tư, cần có hướng dẫn thống nhất vấn đề định tội danh đối với tội mua
bán trái phép chất ma túy và các tội danh khác.
Theo quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, đây
là tội ghép gồm 04 tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, “Vận chuyển trái
phép chất ma túy”, “Mua bán trái phép chất ma túy”, “Chiếm đoạt chất ma túy”.
Thông tư liên tịch số 17 ngày 24/12/2007 hướng dẫn trong trường hợp nếu người
58
phạm tội phạm tội theo quy định tại điều này mà các hành vi đó có liên quan chặt
chẽ thì bị truy cứu TNHS với tội danh đầy đủ với tất cả hành vi đã được thực hiện
theo điều luật tương ứng và phải chịu một hình phạt. Theo hướng dẫn này, một
người mua ma túy để sử dụng, tàng trữ trái phép tại nhà người đó, người này tiếp
tục lấy một phần ma túy ra để bán lẻ nhằm thu hồi số tiền mua ma túy, phần ma túy
còn lại người này tàng trữ để tiếp tục sử dụng và không có ý định bán đối với phần
ma túy này, nếu bị bắt thì sẽ được cơ quan tố tụng định tội danh bằng một tội danh
đầy đủ là tội “Mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy” và chỉ bị áp dụng bằng một
hình phạt.
Trong khi đó BLHS hiện hành đã tách các tội tại Điều 194 BLHS năm 1999,
sửa đổi bổ sung năm 2009 thành bốn tội danh riêng biệt và độc lập, từ Điều 249 đến
Điều 252. Vậy câu hỏi đặt ra nếu trong tình huống nêu trên áp dụng theo BLHS
hiện hành sẽ xử lý như thế nào. Một số quan điểm cho rằng, và cũng là quan điểm
của tác giả, cần xác định mặt chủ quan của người phạm tội, từ đó xác định hành vi
tàng trữ là điều kiện hoặc hệ quả tất yếu của hành vi mua bán trái phép chất ma túy,
từ đó phải thu hút vào chung một danh duy nhất là tội “Mua bán trái phép chất ma
túy”. Quan điểm khác cho rằng phải định tội với người phạm tội theo từng tội danh
độc lập, tức là phải xác định người này phạm cả tội “Mua bán trái phép chất ma
túy” đối với hành vi bán lẻ một phần chất ma túy, và tội “Tàng trữ trái phép chất ma
túy” đối với hành vi tàng trữ phần ma túy còn lại để sử dụng theo các Điều 249, 251
BLHS, sau đó áp dụng Điều 55 BLHS để tổng hợp hình phạt, điều này có thể dẫn
đến bất lợi cho người có hành vi phạm tội. Do vậy cần phải có sự hướng dẫn từ liên
ngành tố tụng trung ương để thống nhất quan điểm xử lý đối với những vụ việc có
tình tiết nêu trên.
Một vấn đề khác, theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17 ngày
24/12/2007, một người thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy cho người khác,
nhưng khi giám định chất ma túy thì không phải là chất ma túy trong khi ý chí chủ
quan của người này nghĩ đó là chất ma túy và thực hiện hành vi bán trái phép, thì
người này vẫn phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1
59
Điều 251 BLHS. Điều này có một bất cập đó trong việc định khung hình phạt trong
trường hợp một người đem 500 gam đi bán với một người đem 5 gam đi bán đều bị
truy cứu TNHS tại khoản 1 Điều 251, mặc dù khối lượng chất mà người đó nghĩ là
ma túy để đem bán có sự chênh lệch rất lớn. Do đó cần có sự xem xét, nghiên cứu
để có hướng dẫn hoặc sửa đổi luật nhằm khắc phục tình trạng này.
2.2.4.2. Giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ ngành kiểm sát “vững về chính
trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và
trách nhiệm”
Thứ nhất, VKS các cấp phải có kế hoạch cụ thể trong việc xây dựng đội ngũ
cán bộ, KSV trong đơn vị có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới, góp
phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đơn vị và của Ngành. Mỗi cơ quan
VKS phải thường xuyên rà soát, đánh giá, phân loại cán bộ, KSV để sắp xếp, bố trí
đúng người, đúng việc nhằm phát huy hết năng lực, sở trường của từng cán bộ,
KSV. Phải có kế hoạch phân công KSV có trình độ, năng lực, kinh nghiệm theo dõi
hướng dẫn nghiệp vụ cho các KSV, kiểm tra viên mới được bổ nhiệm, chuyên viên
mới được tuyển dụng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và rèn luyện kỹ
năng nghề cho đội ngũ cán bộ trẻ.
Thứ hai, Ban cán sự đảng, Lãnh đạo VKS tỉnh và các lãnh đạo VKS cấp
huyện phải có sự quan tâm lãnh đaọ, chỉ đạo sâu sát, kịp thời. Lãnh đạo VKS các
cấp cần quán triệt đến từng cán bộ, KSV học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh, thực hiện nghiêm lời dạy của Bác đối với cán bộ ngành kiểm sát “Công
minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”. Phải làm cho mỗi cán bộ
kiểm sát nhận thức sâu sắc ý nghĩa, vai trò tầm quan trọng của công việc để từ đó có
chuyển biến rõ rệt về hành động, khắc phục những hạn chế, yếu kém trong việc tu
dưỡng, rèn luyện, nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống,
lương tâm trách nhiệm nghề nghiệp, chuyên môn nghiệp vụ và đề cao kỷ cương, kỷ
luật trong công tác đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Ban lãnh
đạo cũng phải tăng cường công tác quản lý cán bộ, có các quy định khen thưởng
định kỳ, khen thưởng đột xuất đối với cán bộ, công chức có thành tích trong công
60
tác THQCT. Kịp thời phát động các phong trào thi đua, làm cho cán bộ, Kiểm sát
viên nâng cao hơn nữa nhận thức vai trò của mình. Tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra công vụ, kiểm tra nghiệp vụ đối với các VKS các cấp để kịp thời chấn
chỉnh các biểu hiện vi phạm và có thông báo rút kinh nghiệm. Đối với những trường
hợp vi phạm kỷ luật cần có biện pháp uốn nắn và xử lý kịp thời.
Thứ ba, mỗi cán bộ kiểm sát phải tự mình xây dựng kế hoạch, phương
hướng, biện pháp cụ thể trong việc tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu của bản. Hàng
năm, phải tự mình rút ra hạn chế, khuyết điểm và có phương hướng sửa chữa, khắc
phục. Không ngừng trau dồi kiến thức, rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ, rèn luyện tính
tự giác, kỹ luật, không ngại khó, ngại khổ, sẵn sàng hoàn thành tốt mọi công việc
được giao vì mục tiêu chung của Ngành.
2.2.4.3. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
Một trong những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng THQCT trong giai
đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy đó là nâng cao chất lượng phối
hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, để tăng cường mối quan hệ phối hợp này,
cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, liên ngành tố tụng CQĐT, VKS, Tòa án phải có sự tăng cường
phối hợp trong mỗi giai đoạn tố tụng, đặc biệt trong giai đoạn điều tra vụ án mua
bán trái phép chất ma túy. Việc tăng cường phối hợp này thể hiện qua việc các cơ
quan tố tụng cùng nhau thống nhất ban hành các quy chế liên ngành, tạo điều kiện
cho công tác giải quyết vụ án nói chung và công tác THQCT của VKS nói riêng.
Khi gặp những vụ án mua bán trái phép chất ma túy có tính chất phức tạp, nhiều
vướng mắc về định tội danh, đánh giá chứng cứ, liên ngành tố tụng cần nhanh
chóng tổ chức họp liên ngành để cùng thống nhất đường lối xử lý vụ án, hạn chế
việc oan sai.
Thứ hai, nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan tố tụng trong
công tác chỉ đạo, điều hành việc giải quyết các vụ án mua bán trái phép có tính chất
phức tạp, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân phải chủ động
61
phân công ĐTV, KSV, Thẩm phán có kinh nghiệm, có năng lực, trình độ nghiệp vụ
cao để tham gia giải quyết các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trọng điểm.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người đứng đầu mỗi đơn vị phải có sự quan tâm
tới tiến độ giải quyết vụ án, có sự kiểm tra, giám sát và thường xuyên đôn đốc để
đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử được nhanh chóng, không bỏ lọt tội phạm và
không làm oan người vô tội.
Thứ ba, việc phối hợp giữa các cơ quan tố tụng phải được nâng cao thông
qua công tác tổng kết, sơ kết về việc giải quyết các vụ án ma túy nói chung và mua
bán trái phép chất ma túy nói riêng. Từ công tác tổng kết, sơ kết này, các cơ quan tố
tụng nêu ra được những hạn chế, bất cập, những khó khăn, vướng mắc trong việc
giải quyết vụ án, từ đó đưa ra được những hạn chế nhằm khắc phục những khó khăn
đó, từ đó nâng cao chất lượng điều tra của CQĐT, chất lượng THQCT của VKS và
chất lượng xét xử của Tòa án nhân dân.
3.2.2. Giải pháp cụ thể đối với Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa
tỉnh Đồng Nai
3.2.2.1. Tăng cường trách nhiệm thực hành quyền công tố trong hoạt động
điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra trong các vụ án mua bán trái phép chất
ma túy
Chủ trương “Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra,
gắn công tố với hoạt động điều tra” là một trong những vấn đề cơ bản, quan trọng
trong cải cách tư pháp hình sự hiện nay ở nước ta. Các Nghị quyết, Chỉ thị của
Đảng về cải cách tư pháp xác định: Viện kiểm sát phải chịu trách nhiệm chính về
những oan, sai trong việc khởi tố, bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố; phải bảo
đảm việc truy tố có căn cứ, đúng pháp luật, cùng với cơ quan điều tra khắc phục
những vi phạm, tồn tại trong quá trình điều tra, bảo đảm không để lọt tội phạm,
người phạm tội, không làm oan người vô tội.
Để bảo đảm cho công tác THQCT có chất lượng cao, Viện trưởng
VKSNDTC đã ban hành Chỉ thị số 06 ngày 06 tháng 12 năm 2013 về Tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp
62
ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, trong đó yêu cầu VKSND các cấp
thực hiện nhiều biện pháp để tăng cường, nâng cao chất lượng công tố trong điều tra
vụ án hình sự.
Trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy, KSV khi
THQCT phải theo sát và nắm rõ tiến độ điều tra, phải chủ động cùng ĐTV tham gia
giải quyết vụ án. Việc điều tra không khách quan, thiếu chứng cứ, không toàn diện
hoặc có sai lầm trong việc ban hành thủ tục tố tụng có lỗi của KSV trong giai đoạn
điều tra vụ án đó. Do vậy để tăng cường trách nhiệm của công tố và gắn công tố
trong hoạt động điều tra, VKSND thành phố Biên Hòa cần thực hiện một số nội
dung sau:
Thứ nhất, VKSND thành phố Biên Hòa tăng cường thực hiện các nội dung
chỉ đạo tại Chỉ thị số 05/CT-VKSTC, ngày 27/4/2020 của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân Tối cao nhằm tăng cường trách nhiệm công tố trong giải quyết các vụ
án hình sự. Theo đó VKSND thành phố Biên Hòa phải tăng cường đổi mới, nâng
cao trách nhiệm công tố trong giải quyết các vụ án hình sự, thực hiện có hiệu quả
các biện pháp chống oan, sai trong tố tụng hình sự, bảo đảm việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội
hoặc bỏ lọt tội phạm.
Theo nội dung của Chỉ thị, người đứng đầu đơn vị VKSND thành phố Biên
Hòa phải chịu trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả thực hành quyền công tố trong
giải quyết các vụ án hình sự, nâng cao chất lượng công tác quản lý điều hành; xây
dựng lề lối làm việc khoa học; tăng cường vai trò của cấp phó, gắn trách nhiệm của
cấp phó với hiệu quả công tác thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách.
KSV của VKSND thành phố Biên Hòa phải nâng cao trách nhiệm, chủ động
hơn, sâu sát hơn, toàn diện hơn khi thực hành quyền công tố trong quá trình giải
quyết vụ án, từ giai đoạn xác minh tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố,
đến giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự.
Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án, KSV phải nắm chắc tiến độ điều tra
vụ án, chủ động đề ra yêu cầu điều tra chính xác để hỗ trợ ĐTV thu thập chứng cứ
63
làm rõ vụ án; khi xét, phê chuẩn các lệnh, quyết định tố tụng phải có sự thận trọng,
không cẩu thả, vội vàng. Trường hợp người bị bắt, người bị khởi tố không nhận tội
hoặc tài liệu chứng cứ có mâu thuẫn, thì KSV phải trực tiếp lấy lời khai, hỏi cung bị
can trước khi phê chuẩn; tham gia và kiểm sát các hoạt động của ĐTV tiến hành
như đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, khám xét...
Việc hỏi cung bị can, lấy lời khai có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh phải
được thực hiện đúng theo quy định BLTTHS; chấp hành nghiêm quy định việc
đóng dấu bút lục tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 5, Điều 88 BLTTHS;
nghiên cứu và thực hiện việc số hóa hồ sơ vụ án; tăng cường kiểm sát chặt chẽ việc
quyết định đình chỉ điều tra (miễn trách nhiệm hình sự hoặc do hành vi không cấu
thành tội phạm), kiên quyết yêu cầu hoặc trực tiếp hủy bỏ Quyết định đình chỉ
không đúng pháp luật của CQĐT.
Do đặc điểm của loại tội phạm này, trước tình hình tội phạm mua bán trái
phép chất ma túy ngày càng tinh vi, xảo huyệt, do đó KSV phải nâng cao chất lượng
bản yêu cầu điều tra để định hướng cho hoạt động điều tra. KSV phải nhanh chóng
tham gia tiến hành lấy lời khai, đối chất, cùng với ĐTV làm rõ hành vi phạm tội, sử
dụng các chứng cứ gián tiếp để đấu tranh với tội phạm như sử dụng các tang vật thu
giữ (dụng cụ phân chia ma túy, số lượng tép ma túy thu giữ) làm chứng cứ gián tiếp
đấu tranh tội phạm, sử dụng các biện pháp đối chất với người mua ma túy, cho
người mua ma túy nhận dạng đối tượng bán ma túy... để củng cố chứng cứ buộc tội,
làm tiền đề cho công tác phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định tố tụng.
Thứ hai, VKSND thành phố Biên Hòa phải tiếp tục thực hiện công tác tư
tưởng, quán triệt đầy đủ các quan điểm chỉ đạo của Đảng để cán bộ, kiểm sát viên
nhận thức đúng vị trí, vai trò của ngành kiểm sát mà thực hiện đúng đường lối,
chính sách đổi mới của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong quá trình THQCT và
kiểm sát các hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự. KSV phải có
nhận thức đúng đắn trong việc THQCT trong giai đoạn điều tra, phải là người sát
cánh cùng ĐTV phá án chứ không ngoài cuộc, không phải là người chỉ đứng nhìn
ĐTV điều tra rồi đánh giá hoạt động điều tra.
64
Thứ ba, VKS phải tăng cường THQCT ngay từ giai đoạn tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. VKSND thành phố Biên
Hòa phải phối hợp chặt chẽ với CQĐT, kiểm sát chặt chẽ 100% tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố, đặc biệt là các tin báo về hành vi mua bán trái phép
chất ma túy. Việc xét, phê chuẩn áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các biện pháp
cưỡng chế phải được quan tâm và nâng cao tinh thần trách nhiệm của KSV và lãnh
đạo đơn vị. KSV phải chủ động đề ra các yêu cầu xác minh để làm rõ sự việc, kiên
quyết yêu cầu hoặc trực tiếp quyết định hủy bỏ các quyết định không khởi tố vụ án
hình sự không đúng pháp luật; tăng cường trực tiếp xác minh tố giác theo quy định
tại khoản 3, Điều 145 BLTTHS khi phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc
có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm. Đề ra Yêu cầu xác minh, Yêu cầu điều tra là một trong
những nội dung quan trọng của THQCT trong các vụ án mua bán trái phép chất ma
túy tại thành phố Biên Hòa, bắt đầu kể từ khi giai đoạn tin báo, tố giác về tội phạm,
trong giai đoạn điều tra. KSV của VKSND thành phố Biên Hòa phải có sự chủ động
nghiên cứu hồ sơ, bám sát quá trình giải quyết vụ án mua bán trái phép chất ma túy,
đánh giá các tình tiết một cách tổng thể, toàn diện, nhận biết được đâu là vấn đề
không cần thiết, đâu là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vụ án, từ
đó mới có thể đề ra được yêu cầu có chất lượng.
Mặt khác để đảm bảo chất lượng của yêu cầu điều tra, mỗi KSV của VKSND
thành phố Biên Hòa phải tự mình nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, ý thức
trách nhiệm, có nhận thức đúng đắn về tầm quan trong của việc ban hành Yêu cầu
điều tra, phải nắm bắt được quy định pháp luật hiện hành, quy chế nghiệp vụ ngành
có liên quan để phục vụ cho việc ban hành yêu cầu điều tra.
Bên cạnh vai trò của KSV trong việc đề ra yêu cầu điều tra, thì người thực
hiện các nội dung của yêu cầu điều tra đó chính là các ĐTV, cũng phải có sự thực
hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ, bởi lẽ một yêu cầu điều tra có chất lượng
nhưng không được CQĐT thực hiện tốt thì cũng không phát huy được giá trị của
nó. Do đó KSV của VKSND thành phố Biên Hòa cũng cần quan tâm tới công tác
phối hợp trong việc thực hiện yêu cầu điều tra, có sự trao đổi, thảo luận với ĐTV
65
những vấn đề khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện yêu cầu điều tra, từ đó có
sự đôn đốc, nhắc nhở kịp thời bằng hình thức văn bản hoặc giao tiếp cho phù hợp,
đảm bảo yêu cầu điều tra được thực hiện một cách đầy đủ, đảm bảo cho hoạt động
điều tra nhanh chóng, chính xác làm rõ hành vi của tội phạm mua bán trái phép chất
ma túy.
Thứ tư, Viện trưởng, Phó Viện trưởng, KSV của VKSND thành phố Biên
Hòa phải tăng cường trách nhiệm của mình trong hoạt động THQCT. Khi THQCT
trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma tuy, KSV phải có sự thận
trọng trong đánh giá chứng cứ, có sự nghiên cứu kỹ lưỡng hồ sơ vụ án để đề xuất
lãnh đạo phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các lệnh, quyết định tố tụng của CQĐT.
KSV phải báo cáo trung thực, khách quan, đầy đủ nội dung và phải được thể hiện
bằng bản báo cáo đề xuất trước lãnh đạo, thể hiện trách nhiệm của KSV đối với
lãnh đạo. Khi xem xét phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh, quyết định tố tụng,
hoặc ban hành một quyết định tố tụng, lãnh đạo VKSND phải yêu cầu KSV báo cáo
và có sự nghiên cứu, nắm bắt nội dung vụ án để đảm bảo việc phê chuẩn, không phê
chuẩn hoặc ban hành các quyết định tố tụng khác có căn cứ và đúng pháp luật.
3.2.2.2. Nâng cao năng lực, trình độ cho đội ngũ cán bộ, Kiểm tra viên, Kiểm
sát viên.
Vấn đề nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn của các cán bộ kiểm sát là
một trong những trọng tâm để nâng cao chất lượng THQCT, do vậy VKSND thành
phố Biên Hòa có một số giải pháp đối với đơn vị như sau:
Thứ nhất, VKSND thành phố Biên Hòa tiếp tục tăng cường công tác tập
huấn nghiệp vụ cho KSV, Kiểm tra viên và Chuyên viên của đơn vị. Đối với từng
loại án, từng loại tội phạm, từng vụ việc cụ thể có những quy trình, những kỹ năng,
những phương pháp nghiệp vụ khác nhau, do đó cần tăng cường các buổi tập huấn
chuyên đề, tập huấn nội bộ tại đơn vị để tập huấn và đúc kết những kinh nghiệp
trong quá trình THQCT đối với từng loại án, đặc biệt là đối với các vụ án mua bán
trái phép chất ma túy, từ đó giúp KSV, Kiểm tra viên, Chuyên viên tại đơn vị nâng
cao được trình độ nghiệp vụ, có các kỹ năng phân tích, đánh giá chứng cứ, định tội
66
danh… từ đó góp phần thực hiện hoạt động THQCT được tốt hơn.
Thứ hai, VKSND thành phố Biên Hòa phải thường xuyên cập nhật, triển khai
và phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành, các quy chế nghiệp vụ,
các Thông tư, Nghị quyết mới hướng dẫn áp dụng pháp luật tại các buổi họp giao
ban tuần tại đơn vị. Sau khi triển khai thì các các bộ, công chức của đơn vị phải có
sự nghiên cứu quy định pháp luật để áp dụng thực hiện nhằm thực hiện tốt chức
năng THQCT của mình.
Thứ ba, VKSND thành phố Biên Hòa tạo điều kiện và khuyến khích các
KSV, Kiểm tra viên, Chuyên viên tại đơn vị tham gia các chương trình đào tạo bồi
dưỡng nâng cao nghiệp vụ, các chương trình nâng cao trình độ lý luận, các chương
trình cao học. Đồng thời mỗi cán bộ, công chức của đơn vị phải tự mình nâng cao ý
thức tự giác trong việc tự nghiên cứu, rèn luyện kỹ năng THQCT để áp dụng vào
công việc, đem lại hiệu quả trong hoạt động THQCT trong các vụ án hình sự, đặc
biệt là các vụ án mua bán trái phép chất ma túy.
3.2.2.3. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát với các cơ quan
tiến hành tố tụng trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy
Công tác phối hợp giữa ba cơ quan tố tụng là VKS, CQĐT và Tòa án có ý
nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vụ án có được thuận lợi, nhanh chóng hay
không. Đây cũng là một hoạt động góp phần nâng cao hiệu quả THQCT. VKSND
thành phố Biên Hòa, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa và Tòa
án nhân dân thành phố Biên Hòa đã có Quy chế phối hợp liên ngành trong hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử. Các cơ quan tố tụng tại thành phố Biên Hòa tiếp tục
duy trì thực hiện tốt quy chế liên ngành, bên cạnh đó cần nghiên cứu, rà soát các nội
dung còn thiếu sót, hạn chế để tiếp tục có sự sửa đổi, bổ sung quy chế hoạt động
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tố tụng địa phương thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình. Đối với các vụ án trọng điểm về ma túy nói chung và vụ
án mua bán trái phép chất ma túy nói riêng, các vụ án lớn, phức tạp, ảnh hưởng đến
tình hình chính trị địa phương, cần có sự tăng cường phối hợp ngay từ đầu giữa các
cơ quan tố tụng để tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
67
Đối với quan hệ phối hợp giữa VKSND thành phố Biên Hòa và Cơ quan
Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, lãnh đạo các cơ quan cần tăng
cường chỉ đạo, điều hành đối với cán bộ của mỗi đơn vị và thường xuyên có các
cuộc hội thảo chuyên đề, các buổi tổng kết, sơ kết rút kinh nghiệm để nêu ra được
những hạn chế, thiết sót trong hoạt động điều tra các vụ án, đặc biệt là vụ án mua
bán trái phép chất ma túy, từ đó có sự rút kinh nghiệm cho cả hai ngành, giúp cho
công tác THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy có
hiệu quả hơn.
3.2.2.4. Đảo đảm chế độ đãi ngộ và nâng cao hiệu quả công tác khen thưởng,
kỷ luật
Từ thực tiễn tình hình tội phạm tại thành phố Biên Hòa đã nêu tại Chương 2
Luận văn này cho thấy số lượng vụ án hình sự và số lượng tin báo tương đối nhiều
so với số lượng cán bộ KSV được phân công công tác chuyên sâu về lĩnh vực hình
sự có hạn nên mỗi cán bộ kiểm sát phải đảm đương khối lượng công việc nhiều,
ngoài ra còn phải thường xuyên tham gia các công tác khác liên quan như khám
nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, tham gia các hoạt động nhận dạng, đối
chất dẫn đến nhiều trường hợp KSV không kịp ban hành các yêu cầu điều tra, yêu
cầu kiểm tra, xác minh tin báo, không có sự theo sát tiến độ giải quyết vụ án dẫn
đến nhiều vụ án, vụ việc phải gia hạn thời hạn kiểm tra xác minh tin báo, thời hạn
điều tra, một số vụ án bị trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Áp lực và trách nhiệm công việc cao chưa tương xứng với chế độ đãi ngộ
dành cho cán bộ kiểm sát. Trong khi đó chi phí sinh sống tại thành phố Biên Hòa
cũng thuộc dạng đắt đỏ, điều này ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng công việc của
mỗi KSV. Do đó cần có những giải pháp từ phía trung ương và từ chính địa
phương, đảm bảo chế độ tiền lương, đồng thời có sự hỗ trợ, đãi ngộ hợp lý dành cho
cán bộ, công chức của VKSND thành phố Biên Hòa để họ có thể yên tâm công tác,
dành trọn vẹn tâm huyết cho công việc chuyên môn, không bị ảnh hưởng bởi những
yếu tố tiêu cực trong xã hội, những cám dỗ vật chất.
Bên cạnh các giải pháp về chính sách tiền lương, đãi ngộ, cần phải xử lý các
68
trường hợp vi phạm, làm rõ trách nhiệm trong các trường hợp khởi tố, truy tố oan
sai. Có chính sách động viên, đãi ngộ, khen thưởng kịp thời đối với những cán bộ
có thành tích, tâm huyết với ngành, có những giải pháp sáng kiến đột phá trong
công tác THQCT…
Để làm được điều này, ngành Kiểm sát, cơ quan ban ngành địa phương, cấp
Ủy của địa phương phải có sự quan tâm hơn nữa đối với cán bộ kiểm sát, để có
những chính sách mang tính đột phá tạo điều kiện cho cán bộ kiểm sát có đủ điều
kiện cần và đủ để cống hiến hết mình cho công việc, đồng thời cũng phải có tinh
thần xử lý nghiêm khắc đối với những trường hợp vi phạm, những cá nhân tha hóa,
xuống cấp đạo đức, vì mục tiêu chung của ngành và củng cố niềm tin đối với nhân
dân.
Tiểu kết chương 3
Có thể thấy được trong thời gian qua công tác THQCT của ngành kiểm sát
đã đạt được những kết quả nhất định, đó là nhờ vào việc thực hiện các biện pháp
nhằm nâng cao chất lượng THQCT của các đơn vị VKS các cấp cũng như của đơn
vị VKSND thành phố Biên Hòa, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm.
Từ những hạn chế, tồn tại cũng như thực tiễn công tác tại đơn vị, tác giả thấy
rằng cần tiếp tục thực hiện một số giải pháp cụ thể đã được nêu ở trên nhằm đảm
bảo chức năng THQCT nói chung và chức năng THQCT trong giai đoạn điều tra vụ
án mua bán trái phép chất ma túy nói riêng, đáp ứng được yêu cầu của Đảng, Nhà
nước và xã hội trong công cuộc cải cách tư pháp. Đó là các giải pháp chung như
hoàn thiện pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
ngành Kiểm sát, nâng cao chất lượng phối hợp giữa liên ngành tố tụng và một số
giải pháp cụ thể đối với đơn vị VKSND thành phố Biên Hòa như tăng cường trách
nhiệm của lãnh đạo, cán bộ, công chức trong hoạt động THQCT, gắn công tố với
hoạt động điều tra; nâng cao trình độ năng lực cho đội ngũ cán bộ kiểm sát của đơn
vị; tích cực tăng cường quan hệ phối hợp của liên ngành tố tụng thành phố Biên
Hòa; đảm bảo chất lượng của yêu cầu điều tra...
69
Từ những giải pháp đã đề xuất tại chương 3 này, tác giả mong muốn những
nghiên cứu trên sẽ được áp dụng vào thực tế, từ đó góp phần nâng cao chất lượng
THQCT, đặc biệt trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy
để đáp ứng được yêu cầu đặt ra cho ngành Kiểm sát của Đảng, Nhà nước và nhân
dân trong công cuộc cải cách tư pháp và đấu tranh phòng chống tội phạm.
70
KẾT LUẬN
Để đảm bảo công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán trái phép chất
ma túy đạt hiệu quả đòi hỏi toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị, toàn dân phải chung
tay góp sức, đặc biệt là vai trò của các cơ quan tố tụng, trong đó có vai trò quan
trọng của VKS. Việc nghiên cứu hoạt động THQCT của VKS trong giai đoạn điều
tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy có ý nghĩa sâu sắc cả về mặt lý luận và
mặt thực tiễn.
Trong giai đoạn 05 năm vừa qua, hoạt động THQCT tại địa bàn thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã đạt được những kết quả đáng kể, đảm bảo cho hoạt
động điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy không bị oan sai và không bỏ
lọt người phạm tội, góp phần lớn vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ma
túy, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự địa phương, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân theo Hiếp pháp và pháp luật, góp phần vào việc ổn định đời
sống xã hội, từ đó thực hiện hiệu quả hơn các chính sách phát triển kinh tế xã hội
của địa phương.
Luận văn cơ bản đã nghiên cứu, phân tích làm rõ về mặt lý luận công tác
THQCT, đưa ra được những khái niệm cơ bản, đặc điểm, phạm vi THQCT trong
giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy, những quy định pháp luật,
mặc khác luận văn cũng đã đánh giá khách quan được thực tiễn tại thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai, cụ thể là tại VKSND thành phố Biên Hòa, từ đó rút ra được
những mặt hạn chế, tồn tại để có những giải pháp thích hợp đối với đơn vị nhằm
nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự nói chung
và đối với các vụ án mua bán trái phép chất ma túy nói riêng. Kết quả nghiên cứu
trên đây đóng góp một phần nội dung vào mặt lý luận chức năng, nhiệm vụ của
VKS trong tố tụng hình sự và có thể sử dụng là một nguồn tài liệu tham khảo cho
hoạt động nghiên cứu khoa học, cho hoạt động thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu
quả chức năng THQCT của VKSND.
Để có được thành quả nghiên cứu trên đây là một quá trình học tập, nghiên
cứu, nỗ lực của bản thân tác giả; đặc biệt được sự hỗ trợ, hướng dẫn nhiệt tình của
71
TS. Mai Đắc Biên – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, các thầy cô
giáo là giảng viên của Học viện Khoa học xã hội, các bạn học viên và những đồng
nghiệp cùng đơn vị VKSND thành phố Biên Hòa cũng như các đồng nghiệp trong
ngành Kiểm sát đã hỗ trợ tác giả để thực hiện luận văn này. Do bản thân tác giả có
kinh nghiệm công tác trong Ngành Kiểm sát còn chưa nhiều, điều kiện và thời gian
để nghiên cứu khoa học còn một số hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu
sót, do đó tác giả rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý của quý thầy cô và các
đồng chí, đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mai Đắc Biên (2018), “Những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma túy”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Học viện
Công an nhân dân, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, ban hành ngày 02/01/2002,
Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020, ban hành ngày 24/5/ 2005, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ban hành ngày 02/6/2005, Hà Nội.
5. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp (2015), Thông tư liên tịch số
08/2015/TTLT- BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP “Sửa đổi, bổ sung một số điều
của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTCTANDTC, ban hành
ngày 14/11/2015”, Hà Nội.
6. Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ
Tư pháp (2017) Thông tư liên tịch số 17/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTCBTP
“Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XVIII “Các tội phạm về ma túy"
của BLHS năm 1999”, ban hành ngày 24/12/2007, Hà Nội.
7. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Thông tư
liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP (2018) “Quy định về quan hệ
phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS”
ban hành ngày 19/10/2018, Hà Nội.
8. Bộ Tư Pháp (1999), Từ điển Luật học, NXB. Từ điển Bách Khoa phổ
thông, Hà Nội.
9. Lê Cảm (2001), “Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố”,
73
Chuyên đề khoa học: Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát trong tình hình mới,
Hà Nội.
10. Trần Thị Minh Hảo (2019), “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”, Luận văn thạc sĩ
Luật Học, Học viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam,
Hà Nội.
11. Trần Văn Luyện (chủ biên), Bình luận khoa học bộ luật hình sự năm
2015 (Sửa đổi Bổ sung 2017) - Phần tội phạm, nxb. Công an nhân dân, 2017.
12. Nguyễn Thành Nhân (2019), “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra các vụ án về ma túy theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn
thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương”, Luận văn thạc sĩ Luật Học, Học viện
Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
13. Oxford University Press, “Oxford Learner's Dictionaries”,
https://www.oxfordlearnersdictionaries.com/definition/english/prosecution?q=prose
cution, (01/6/2020).
14. Trần Công Phàn (2015), “Tiếp tục quan tâm làm tốt công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát giải quyết các vụ án ma túy trong tình hình hiện nay”,
Tạp chí kiểm sát, số 20.
15. Nguyễn Ngọc Phụng (2019), “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang”,
Luận văn thạc sĩ Luật Học, Học viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học Xã
hội Việt Nam, Hà Nội.
16. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần các tội
phạm (tập IV) Các tội phạm về ma túy, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
17. Quốc hội (2009), Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009,
Hà Nội
18. Quốc hội (2017) Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017,
Hà Nội.
19. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hà Nội.
74
20. Quốc hội (2013, 1992, 1980, 1960), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam;
21. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Hà
Nội.
22. Nguyễn Thành Tất (2018), “Tội Mua bán trái phép chất ma túy theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”, Luận văn thạc sĩ Luật Học, Học
viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
23. Nguyễn Trần Thanh (2019), “Thực hành quyền công tố trong các vụ án
ma túy theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Xuyên Mộc, tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu”, Luận văn thạc sĩ Luật Học, Học viện Khoa học Xã hội - Viện
Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
24. Võ Thọ (1985) Một số vấn đề về luật tố tụng hình sự, NXB Pháp lý, Hà
Nội.
25. Trung tâm từ điển học (1998) Từ điển tiếng Việt, NXB. Đà Nẵng.
26. Trường Cao Đẳng Kiểm sát Hà Nội (1984) Giáo trình công tác kiểm sát
phần chung, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
27. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II),
Nxb. CAND, Hà Nội, 2014.
28. Trường Đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại Thành phố Hồ Chí
Minh (2019), Tập bài giảng Đào tạo nghiệp vụ kiểm sát.
29. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ
điển bách khoa, Nxb Tư pháp.
30. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa (2015, 2016, 2017, 2018,
2019), Báo cáo Tổng kết công tác năm.
31. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai (2015, 2016, 2017, 2018, 2019),
Báo cáo số liệu thống kê án ma túy tỉnh Đồng Nai, Đồng Nai.
32. Viện kiểm sát nhân dân Tối cao (2020), Chỉ thị số 05/CT-VKSTC, ngày
27/4/2020 “Về tăng cường trách nhiệm công tố trong giải quyết các vụ án hình sự,
đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm”, Hà Nội.
75
33. Viện kiểm sát nhân dân Tối cao (2020), Quy chế công tác thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố (Ban hành kèm theo Quyết
định số 111 /QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao), Hà Nội.
34. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
35. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2011), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng
hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội
36. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
76
PHỤ LỤC 1
CÁC VỤ ÁN ĐIỂN HÌNH
1. Vụ án Hứa Thị Bích Chi: Hứa Thị Bích Chi, Huỳnh Minh Tài là các đối
tượng sử dụng trái phép chất ma túy tổng hợp. Để có ma túy sử dụng, Chi nảy sinh
ý định mua ma túy về chia thành nhiều gói nhỏ để bán cho người khác kiếm lời.
Vào ngày 22/10/2018, Chi sử dụng điện thoại di động liên lạc với đối tượng
tên Phương (không rõ lai lịch, địa chỉ) hỏi mua ma túy, Phương đồng ý hẹn nơi giao
ma túy và nhận tiền. Khoảng 16 giờ cùng ngày, tại phòng trọ của Chi ở số 344, tổ
14, khu phố 1, phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Chi mua của
Phương 01 gói ma túy tổng hợp, với giá 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn
đồng). Sau đó, Chi chia gói ma túy thành 03 gói nhỏ, Chi sử dụng hết 02 gói còn 01
cất giấu để bán cho người khác.
Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 23/10/2018, Huỳnh Minh Tài sử dụng điện
thoại di động nhắn tin qua Zalo cho Chi hỏi mua ma túy, Chi đồng ý và hẹn địa
điểm bán ma túy tại phòng trọ của Chi. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, Tài đến
phòng trọ của Chi mua 01 gói ma túy với giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng), Tài
nhận 01 gói ma túy nhưng chưa trả tiền cho Chi. Tài cất giấu gói ma túy trong túi
xách đem về để sử dụng.
Đến 10 giờ 15 phút ngày 24/10/2018, Tài mang túi xách (bên trong có chứa
gói ma túy) đến tại nhà số 227/1, ấp Nhất Hòa, xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai, thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố
Biên Hòa kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.
Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 28/11/2018, cũng với cách thức và địa điểm
như trên, Chi tiếp tục mua của Phương 01 gói ma túy tổng hợp với giá 2.500.000đ
(Hai triệu năm trăm nghìn đồng). Chi chia gói ma túy thành 03 gói nhỏ và cất giấu
trên kệ trong góc phòng ngủ của Chi. Đến 21 giờ cùng ngày, Đội Cảnh sát điều tra
tội phạm về ma túy Công an thành phố Biên Hòa phát hiện bắt quả tang Chi khi
đang cất giấu 03 gói ma túy nêu trên.
77
Thu giữ của Huỳnh Thị Bích Chi: 03 gói nylon chứa tinh thể màu trắng (đã
được niêm phong) thu giữ trên kệ trong góc phòng ngủ của Chi; 01 điện thoại di
động hiệu Iphone là phương tiện Chi sử dụng để liên lạc mua bán ma túy; Thu giữ
của Huỳnh Minh Tài: 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng (đã được niêm phong)
thu giữ trong túi xách Tài đang đeo trên người; 01 điện thoại di động hiệu Sony
Xperia, Tài sử dụng liên lạc mua ma túy.
Qua giám định, 01 gói nylon thu giữ của Tài có chứa chất tinh thể màu trắng
là ma túy, có khối lượng: 0,7384 gam, loại Methamphetamine; 03 gói nylon chứa
tinh thể màu trắng của Chi là ma túy, có khối lượng: 1,6772 gam, loại
Methamphetamine.
Về quá trình tiến hành tố tụng: Ngày 24/10/2018, sau khi bắt quả tang Huỳnh
Minh Tài về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, CQĐT khởi tố vụ án, khởi tố bị
can và ra lệnh tạm giam đối với Tài về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đã
được VKS phê chuẩn các quyết định, lệnh tố tụng. Trong quá trình điều tra, KSV đã
tham gia lấy lời khai, hỏi cung bị can Tài, từ đó xác định được đối tượng bán ma túy
là Hứa Thị Bích Chi. KSV đã ra yêu cầu điều tra yêu cầu CQĐT tiến hành xác minh
làm rõ đối tượng Chi. Đến ngày 28/11/2018, CQĐT bắt quả tang Chi về hành vi
tàng trữ trái phép chất ma túy. Bằng công tác THQCT, KSV đã tham gia hoạt động
đối chất, nhận dạng, lấy lời khai Chi và đã làm rõ được hành vi mua bán trái phép
chất ma túy của Chi. Từ đó CQĐT ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị
can và lệnh tạm giam với Chi và đã được VKS phê chuẩn, đồng thời nhập 02 vụ án
để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử.
2. Vụ án Đỗ Thị Hồng: Đỗ Thị Hồng là người không sử dụng ma túy, có
tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Vào khoảng 17 giờ ngày 24/9/2019,
Hồng đi đến khu vực ngã tư Vũng Tàu, thuộc khu phố 1, phường Long Bình Tân,
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai gặp 01 người thanh niên tên Tú (không rõ nhân
thân, lai lịch) mua 08 gói heroin và 27 đoạn ống hút chứa ma túy tổng hợp với giá
12.000.000đ (Mười hai triệu đồng). Sau khi mua, Hồng đem về cất giấu ma túy tại
nhà trọ Hồng thuê thuộc tổ 13, khu phố 2, phường Long Bình Tân, thành phố Biên
78
Hòa, tỉnh Đồng Nai. Tại đây, Hồng lấy 01 gói trong 08 gói heroin chia ra thành 32
tép nhỏ. Toàn bộ số ma túy trên Hồng cất giấu để sử dụng và bán cho con nghiện.
Khoảng 11 giờ ngày 01/10/2019, Trần Hữu Nhân đến nhà trọ của Hồng tại
địa điểm nêu trên gặp Hồng để hỏi mua ma túy nhưng chưa kịp hỏi mua ma túy thì
Công an phường Long Bình Tân kiểm tra hành chính. Hồng bỏ 06 gói Heroin vào
trong hộp nhựa giấu phía sau lưng quần Hồng đang mặc, 01 gói heroin giấu trong
hộp nhựa để trên phòng ngủ trên nền nhà, 32 đoạn ống nhựa chứa heroin và 27 đoạn
ống hút nhựa chứa ma túy đá giấu trong hộp nhựa để trên nền phòng khách thì bị cơ
quan Công an phường Long Bình bắt quả tang cùng tang vật.
Thu giữ của Hồng: 07 gói nylon màu trắng bên trong chứa chất bột màu
trắng, gồm 06 gói thu giữ trong hộp nhựa sau lưng quần của Hồng và 01 gói trong
hộp nhựa trên nền nhà phòng ngủ; 32 đoạn ống hút chứa chất bột màu trắng (Kí
hiệu M12) và 27 đoạn ống hút chứa tinh thể màu trắng hàn kín hai đầu (Kí hiệu
M2), đựng trong hộp nhựa trên nền nhà phòng khách.
Qua giám định, các gói nylon thu giữ chứa chất bột màu trắng đều là ma túy,
cụ thể gồm 14,78 gam, loại Heroin (Heroine) và 1,5968 gam, loại
Methamphetamine.
Về quá trình tiến hành tố tụng: Ngày 01/10/2019, sau khi bắt quả tang Đỗ
Thị Hồng, đối tượng Hồng chỉ thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy,
không thừa nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Để làm rõ và đấu tranh
hành vi phạm tội của Hồng, KSV đã tham gia lấy lời khai Hồng, lời khai Nhân, tiến
hành cho đối chất giữa Hồng và Nhân, dựa vào các chứng cứ đã thu thập như xét
nghiệm nhanh chất ma túy, lời khai của Hồng thể hiện Hồng không phải là người
nghiện ma túy nhưng lại đi mua ma túy về cất giấu, đấu tranh về việc Hồng chia
nhỏ ma túy ra thành nhiều gói nhỏ, ống nhựa nhỏ, mục đích để làm gì…thì Hồng đã
chịu khai nhận hành vi phạm tội của mình. Từ đó, CQĐT đã ra quyết định khởi tố
vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh tạm giam đối với Hồng về tội “Mua bán trái phép
chất ma túy” và đã được VKS phê chuẩn để tiếp tục điều tra.
3. Vụ án Lê Thị Quỳnh Chiêu: Lê Thị Quỳnh Chiêu là người không sử
79
dụng trái phép chất ma túy. Do muốn có tiền tiêu xài, Chiêu nảy sinh ý định mua
ma túy về bán lại cho người nghiện để hưởng lợi. Cách thức mua bán như sau:
Chiêu cho người nghiện số điện thoại di động của Chiêu, khi người nghiện cần mua
ma túy thì gọi điện thoại để Chiêu chuẩn bị ma túy và hẹn thời gian và địa điểm
giao hàng. Từ ngày 16/11/2018 đến ngày 21/11/2018, Chiêu đã 02 (Hai) lần đến
khu vực bến đò “Hội đồng” thuộc Quận 8, TP Hồ Chí Minh mua mỗi lần 01 gói ma
túy tổng hợp (hàng đá) của một thanh niên (không rõ lai lịch) với giá từ 1.400.000đ
đến 2.600.000đ/gói. Sau đó Chiêu đem về nhà của Chiêu tại đường Phạm Thế Hiển,
phường 7, Quận 8, TP. Hồ Chí Minh cất giấu và bán lại cho người nghiện cụ thể
như sau:
Lần thứ nhất 1: Khoảng 16 giờ ngày 16/11/2018, Huỳnh Minh Tiến điều
khiển xe ô tô đến nhà Võ Quốc Việt tại ấp Tân Triều xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu,
tỉnh Đồng Nai rủ Việt cùng đến nhà của Chiêu để mua ma túy mang về sử dụng,
Việt đồng ý. Tiến điện thoại cho Chiêu đặt mua ma túy với giá 1.500.000đ (Một
triệu năm trăm nghìn đồng). Sau đó, Việt điều khiển xe ô tô chở Tiến đến đoạn
đường Phạm Thế Hiển thuộc phường 7, Quận 8, TP. Hồ Chí Minh và dừng xe phía
trước đầu hẻm vào nhà của Chiêu. Tiến xuống xe đi bộ vào nhà gặp Chiêu và mua
01 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn
đồng). Sau khi Tiến mua được ma túy, Việt điều khiển xe ô tô chở Tiến đem ma túy
về nhà của Việt tại ấp Tân Triều xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu tỉnh Đồng Nai rồi
cùng nhau sử dụng.
Lần thứ 2: Khoảng 12 giờ ngày 21/11/2018, Tiến điều khiển xe ô tô đến nhà
Việt và rủ Việt đi mua ma túy về sử dụng. Việt điều khiển xe ô tô chở Tiến. Trên
đường đi Tiến gặp anh Bùi Quang Minh, sinh năm 1996, Tiến rủ anh Minh đi thành
phố Hồ Chí Minh chơi với Tiến (anh Minh không biết Tiến và Việt đi mua ma túy).
Sau đó, Việt điều khiển xe ô tô chở Tiến và anh Minh đến gần nhà của Chiêu và
dừng xe lại để Tiến vào nhà Chiêu mua 01 (một) gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với
giá 2.800.000đ (Hai triệu tám trăm nghìn đồng). Sau đó, Tiến cất giấu ma túy trong
người rồi ra xe để Việt chở về nhà.
80
Đến khoảng 15 giờ 40 phút cùng ngày, khi Việt điều khiển xe ô chở Tiến và
anh Minh về đến khu vực vòng xoay chân cầu Hóa An, thuộc phường Hòa Bình,
thành phố Biên Hòa thì bị phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh
Đồng Nai phát hiện bắt quả tang.
Thu của Huỳnh Minh Tiến và Võ Quốc Việt 01 gói nylon chứa tinh thể màu
trắng đã hàn kín (đã được niêm phong); 10 ống thủy tinh, dài khoảng 10cm, để sử
dụng ma túy; 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng của Tiến dùng vào việc
phạm tội; 01 xe ô tô.
Thu của Lê Thị Quỳnh Chiêu 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng đã hàn
kín (đã niêm phong); 01 bình thủy tinh hình trụ tròn, cao khoảng 10cm, trên miệng
có gắn ống thủy tinh, dùng để sử dụng ma túy; 01 điện thoại di động hiệu Nokia
dùng để liên lạc mua bán ma túy.
Qua giám định, 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng thu giữ của Tiến và
Việt là ma túy, có khối lượng: 6,9650 gam, loại Methamphetamine; 01 gói nylon
chứa tinh thể màu trắng của Chiêu là ma túy, có khối lượng: 0,6584 gam, loại
Methamphetamine.
Về quá trình tiến hành tố tụng: Ngày 21/11/2018, sau khi bắt quả tang Huỳnh
Minh Tiến và Võ Quốc Việt có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, dựa vào lời
khai của Tiến và Việt, CQĐT đã tiến hành khám xét nơi ở của Chiêu và bắt quả
tang Chiêu về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. KSV đã tham gia lấy lời khai,
đối chất giữ Tiến, Việt và Chiêu để làm rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy
của Chiêu. Qua quá trình đấu tranh, Chiêu đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình.
CQĐT đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và ra lệnh tạm giam đối với Chiêu về
tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, với Tiến và Việt về tội “Tàng trữ trái phép
chất ma túy” và đã được VKS phê chuẩn để tiếp tục điều tra.
81
PHỤ LỤC 2
CÁC BẢNG BIỂU SỐ LIỆU
Bảng 2.1. Số liệu tin báo, nguồn tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp nhận và vụ án hình sự khởi tố từ năm 2015 đến năm 2019
Tin báo, nguồn tin về tội
Năm phạm, kiến nghị khởi tố Vụ án hình sự đã khởi tố
tiếp nhận
1240 727 2015
1001 745 2016
561 652 2017
591 665 2018
687 776 2019
4080 3565 Tổng
Bảng 2.2. Bảng so sánh tỷ lệ án ma túy đã khởi tố tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019
Tỷ lệ án ma túy Án ma túy của Án ma túy của của thành phố Năm tỉnh Đồng Nai thành phố Biên Biên Hòa so với (vụ) Hòa (vụ) toàn tỉnh (%)
432 141 2015
373 111 32.6 29.8 2016
315 113 35.9 2017
431 122 28.3 2018
517 146 28.2 2019
2068 633 30.6 Tổng
82
Bảng 2.3. Bảng số liệu số vụ án hình sự và vụ án ma túy đã khởi tố tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019
Năm Số vụ án hình sự Vụ án về nhóm tội ma Vụ án mua bán trái
túy phép chất ma túy
Số vụ án Số bị can Số vụ án Số bị can Số vụ án Số bị can
727 1151 32 38 194 141 2015
745 1083 25 31 145 111 2016
652 775 24 30 135 113 2017
665 850 24 29 138 122 2018
776 908 17 17 173 146 2019
3565 4767 122 145 785 633 Tổng
Bảng 2.4. Bảng so sánh tình hình áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019
Năm Vụ án hình sự Vụ án mua bán trái Tỷ lệ %
phép chất ma túy
Số người Chuyển Số người Chuyển Số người Chuyển
bị bắt, tạm giam bị bắt, tạm giam bị bắt, tạm giam
tạm giữ tạm giữ tạm giữ
989 835 3,84 4,55 38 38 2015
911 810 3,40 3,83 31 31 2016
721 688 4,16 4,36 30 30 2017
746 654 3,89 4,28 28 29 2018
546 448 3,11 3,57 16 17 2019
3913 3435 145 143 3,71 4,16 Tổng