VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG XUÂN LỘC

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU

TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN

HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN

THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG XUÂN LỘC

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU

TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN

HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN

THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN NGỌC HÀ

HÀ NỘI, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn "Thực

hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên Hòa,

tỉnh Đồng Nai" là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài

khác trong cùng lĩnh vực đã được công bố trước đây.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Đặng Xuân Lộc

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP

LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN

ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY

TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC ................................... 8

1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra

đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác ................................................................................................................... 8

1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với

vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

.................................................................................................................................................... 8

1.1.2. Vị trí, vai trò, ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong giai đoạn

điều tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác .................................................................................................................. 23

1.2. Quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự về thực hành quyền

công tố trong giai đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác .............................................................. 25

1.2.1. Quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .............................................................. 25

1.2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố

đối trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác. ..................................................................................... 31

1.2.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố với hoạt động kiểm sát

điều tra vụ án vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác ....................................................................... Error! Bookmark not defined.

Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG

GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC

GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC

TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI ............................... 43

2.1. Tình hình, đặc điểm có liên quan đến thực hành quyền công tố trong giai

đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác ....................................................................................................... 43

2.1.1. Tình hình tội phạm ............................................................................................. 43

2.1.2. Cơ cấu tố chức của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa,

tỉnh Đồng Nai ..................................................................................................................... 44

2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn

thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ................................................................ 46

2.2.1. Những kết quả đạt được .................................................................................... 46

2.2.2.Tồn tại, hạn chế ..................................................................................................... 51

2.2.3.Nguyên nhân ........................................................................................................... 53

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU

QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU

TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO

SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BIÊN

HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI .............................................................................. 58

3.1. Phương hướng chung ............................................................................... 58

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn

điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác. ................................................................................................................ 61

3.2.1. Giải pháp nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho

cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng ........................................... 61

3.2.2. Giải pháp tăng cường công tác hướng dẫn luật ..................................... 63

3.2.3. Một số giải pháp khác ........................................................................................ 66

KẾT LUẬN .................................................................................................... 71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS Bộ luật hình sự

BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự

KSV Kiểm sát viên

THQCT Thực hành quyền công tố

VKSND Viện kiểm sát nhân dân

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Tổng số vụ án hình sự đã khởi tố trên địa bàn Thành phố Biên Hòa,

tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2013 -2018

Bảng 2.2: Tổng số bị can đã bị khởi tố hình sự trên địa bàn Thành phố Biên

Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2013 - 2018

Bảng 2.3. Tổng số vụ án và bị can bị khởi tố của tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Trên địa bàn Thành phố Biên

Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2013 - 2018

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai là trung tâm công nghiệp trọng

điểm của cả nước và là đầu mối giao thông quan trọng của vùng kinh tế trọng

điểm phía Nam. Với đặc điểm địa lý, kinh tế, tôn giáo và dân số đa dạng nên

Biên Hòa luôn là điểm nóng về tội phạm, mà nổi cộm nhất là loại tội phạm

xâm phạm đến sức khỏe của người khác. Việc xử lý loại tội phạm này nhằm

ổn định tình hình an ninh chính trị tại địa phương là vấn đề cấp bách luôn

được cấp ủy và chính quyền thành phố quan tâm. Các cơ quan tố tụng thành

phố Biên Hòa đã có nhiều biện pháp đấu tranh, phòng chống loại tội phạm

này nhưng những vụ việc xâm hại đến sức khỏe của người khác trên địa bàn

thành phố vẫn có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và tính chất nguy hiểm.

Trong khi, các văn bản áp dụng pháp luật chưa được cụ thể, rõ ràng và đầy đủ

dẫn đến còn nhiều bất cập trong việc điều tra, xử lý các hành vi vi phạm đôi

lúc chưa nghiêm, nhiều vụ việc lẽ ra người có hành vi vi phạm phải bị truy

cứu trách nhiệm hình sự nhưng chỉ bị xử phạt hành chính hoặc tuy có bị truy

cứu trách nhiệm hình sự nhưng lại được áp dụng hình phạt quá nhẹ, nên

không có tác dụng giáo dục và phòng ngừa. Các quy định pháp luật về xử lý

đối với loại hành vi xâm hại sức khỏe chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn về

tình hình phát triển kinh tế-xã hội.

Hoạt động THQCT của VKSND đối với nhóm tội phạm này hiện còn

bộc lộ những tồn tại nhất định như: chưa đề ra yêu cầu xác minh, yêu cầu điều

tra kịp thời; việc đánh giá chứng cứ còn phiến diện dân đến chưa xác định

đúng tội danh, khung hình phạt; chưa phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra

trong quá trình điều tra giải quyết vụ án dẫn đến nhiều vụ việc phải từ chối

phê chuẩn hoặc phê chuẩn chậm, để thời hạn điều tra vụ án bị kéo dài quá

hạn, có vụ việc điều tra không kịp thời dẫn đến bỏ lọt tội phạm.

1

Để có những nghiên cứu từ lý luận đến thực tiễn, đánh giá thực trạng và

tìm ra giải pháp khắc phục những khó khăn, tồn tại, vướng mắc để công tác

THQCT đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác của VKSND thành phố Biên Hòa ngày càng tốt hơn, đảm bảo việc

khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội,

không làm oan người vô tội; Không để xảy ra tình trạng bắt, tạm giữ, tạm

giam trái pháp luật, không làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của công

dân; luôn đảm bảo việc điều tra khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác,

đúng pháp luật;

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn trên, tác giả quyết định chọn đề tài

"Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên

Hòa, tỉnh Đồng Nai" làm luận văn tốt nghiệp cao học luật chuyên ngành Luật

hình sự và tố tụng hình sự.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong thời gian nghiên cứu đề tại này, tác giả đã tiếp cận, tham khảo

được một số bài viết, công trình nghiên cứu của các nhà tác giả khác trên các

tạp chí, diễn đàn khoa học về quyền công tố như: "Những giải pháp nâng cao

chất lượng thực VKSND tối cao; "Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động

tư pháp" của Lê Hữu Thể; "Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố

và kiểm sát điều tra án hình sự về trật tự xã hội" của Trần Mai Lâm; "Một số

kinh nghiệm trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các

vụ án giết người" của VKSND tối cao; “Về thực hiện quyền công tố của Viện

kiểm sát trong tố tụng hình sự, thực tiễn và kiến nghị” của Vũ Mộc; “Một số

vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố” của Lê Cảm;;

Các luận văn thạc sĩ như: "Thực hành quyền công tố đối với cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật tố

2

tụng hình sự Việt Nam từ thực tiển huyện Phổ Đức, tỉnh Quang Ngãi" của tác

giả Lý Tường Vy (năm 2015) ; “Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều

tra tội giết người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh

Bình Phước” của tác giả Nguyễn Quốc Hân (2015);. … những luận văn này

đã nghiên cứu sâu về mặt lý luận về chức năng THQCT của VKSND và đã

đưa ra một số giải pháp cụ thể. Tuy nhiên, sau thời điểm BLTTHSnăm 2015

và BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực, đã có nhiều quy

định mới về THQCT, về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác” quy định tại Điều 134 BLHS. Từ đó, đòi hỏi những

người thi hành nhiệm vụ trong các cơ quan tố tụng cần nhanh chóng có những

đề xuất các giải pháp cụ thể về thực hành quyền công tố đối với tội danh này.

Vì vậy, tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài "Thực hành quyền công tố

trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai" nhằm

đưa ra các phương pháp mới khi thực hiện nhiệm vụ THQCT trong ngành

kiểm sát.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu:

- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá làm rõ những vấn đề lý luận và thực

tiễn về công tác THQCT trong gia đoạn điều tra đối với Tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo quy định của Luật TTHS Việt Nam; đánh giá

ưu khuyết điểm, các hạn chế, thiếu sót, vướng mắc trong các quy định của

pháp luật, của người tiến hành tố tụng.

- Đưa ra những giải pháp hoàn thiện, khắc phục, sửa chữa góp phần

nâng cao hiệu quả trong quá trình thực hiện chức năng thực hành quyền công

tố của VKSND thành phố Biên Hòa và trong toàn ngành kiểm sát nói chung.

3

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Từ mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể

sau:

Một là, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của đề tài như khái niệm,

phân tích những dấu hiệu pháp lý hình sự của Tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; khái niệm THQCT và đặc trưng của

công tác THQCT đối với các tội danh này.

Hai là, phân tích luật thực định về THQCT, đánh giá thực tiễn công tác

THQCT trong giai đoạn điều tra đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác tại VKSND thành phố Biên Hòa. Từ đó

nhận xét chính xác hạn chế của luật hiện hành, các vướng mắc trong thực tiễn

THQCT của ngành kiểm sát nói chung và của VKSND thành phố Biên Hòa

nói riêng.

Ba là, xây dựng các quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ thể có tính

khả thi nhằm đảm bảo THQCT trong giai đoạn điều tra đối với Tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của VKSND thành

phố Biên Hòa

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn có đối tượng nghiên cứu là quy định của pháp luật hình sự,

quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về THQCT đối với Tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, trên phương

diện lý luận và thực tiễn THQCT của VKSND thành phố Biên Hòa.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu về công tác THQCT của

VKSND trong giai đoạn điều tra đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác trên phương diện lý luận dưới góc độ tố

4

tụng hình sự và hình sự, thực tiễn áp dụng.

- Về thời gian: Từ năm 2013 đến năm 2018.

- Về địa bàn: Thành phố Biên hòa, tỉnh Đồng Nai.

- Về chủ thể: VKSND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện

chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về

Nhà nước và pháp luật; đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây

dựng Nhà nước pháp quyền, về đấu tranh phòng, chống tội phạm, về vấn đề

cải cách tư pháp được thể hiện trong các nghị quyết của Bộ Chính trị về một

số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp, Chiến lược xây dựng và hoàn thiện

hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020; các luận điểm chung của khoa

học pháp lý tố tụng hình sự về khởi tố vụ án hình sự.

Phương pháp nghiên cứu tác giả sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề

tài:

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích và tổng hợp: Từ nguồn tài

liệu liên quan đến đề tài luận văn, tác giả sẽ tổng hợp rút ra những vấn đề lý

luận và quy định chung của pháp luật về THQCT trong giai đoạn điều tra đối

với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Nghiên cứu, phân tích các văn bản pháp luật có liên quan, đánh giá số liệu

thống kê, qua đó giúp tác giả nắm được các khía cạnh của vấn đề cần nghiên

cứu nhằm đưa ra nhận xét, đề xuất về những vấn đề cơ bản của luận văn.

- Phương pháp so sánh: Qua tổng hợp, phân tích các quy định trước

đây, những vần đề hiện nay của pháp luật Tố tụng hình sự nước ta về thực

hành quyền công tố, tác giả xác định những điểm giống, khác nhau trong các

quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật với cách nhìn nhận, đánh

giá theo từng thời điểm lịch sử cụ thể.

5

- Phương pháp tiếp cận hệ thống và thống kê: Dựa trên những thông

tin thu thập được về vấn đề nghiên cứu, thực tiễn công tác THQCT tại

VKSND thành phố Biên Hòa, tác giả sẽ hệ thống hóa theo một cấu trúc logic,

khoa học, qua đó tác giả có được nhận thức một cách biện chứng, tổng thể và

khái quát nhất về tình hình, đặc điểm của loại án này trong những năm gần

đây để minh chứng cho các luận điểm, kết luận đã nêu ra trong luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả nghiên cứu của Luận văn có ý nghĩa về lý luận cũng như thực

tiễn.

- Về lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ những lý luận về THQCT

trong gia đoạn điều tra đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác như khái niệm, các đặc trung pháp lý của tội này,

cũng như chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Luận văn có thể được sử dụng

làm tư liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập của

ngành kiểm sát.

- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham

khảo cho kiểm tra viên, kiểm sát viên các cấp nghiên cứu, vận dụng trong

thực tiễn công tác để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của công tác này.

Đồng thời, có thể giúp các nhà quản lý, lãnh đạo ngành kiểm sát định hướng

trong công tác quản lý, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trong xây dựng,

hoàn thiện các văn bản pháp luật, quy chế nghiệp vụ có liên quan đến hoạt

động THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,

luận văn được cấu trúc thành 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định chung của pháp luật về

6

thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra

vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ

thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả

khởi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bản thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

7

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA

ĐỐI VỚI VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI

CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC

1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai

đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác

1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối

với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

1.1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố

Hiến pháp 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên sử dụng thuật ngữ "Thực

hành quyền công tố" khi đề cập đến chức năng của VKSND (Điều 138) và

mới nhất là Hiến pháp năm 2013 (Điều 107). Hiện chưa có tài liệu, văn bản

chính thức nào ghi nhận rõ ràng, cụ thể khái niệm, nội dung, phạm vi quyền

công tố và THQCT. Đó cũng chính là lý do dẫn đến sự thiếu thống nhất về

nhận thức trong hoạt động THQCT. Do vậy phải làm rõ thế nào là “quyền

công tố” thì mới làm rõ được thế nào là THQCT.

Công tố là t từ ghép Hán - Việt được hình thành từ hai từ “công” và

“tố”. Theo từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản năm

1994 tại các trang 200, 204, 973 thì: "tố" có nghĩa là "nói công khai cho mọi

người biết việc làm sai trái, phạm pháp của người phạm tội khác", còn "công"

có nghĩa là "thuộc về Nhà nước chung cho mọi người, khác với tư"; "Công

tố" là "điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước tòa

án". Như vậy "công tố" theo từ điển Tiếng Việt là một khái niệm bao gồm:

điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp, phát biểu ý kiến trước tòa án.

Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân thì quyền công tố là: Quyền

8

của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (cơ quan công tố, xét xử, điều tra)

dùng để điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp trước Tòa án hay là quyền

truy tố, buộc tội cá nhân, tổ chức trước pháp luật.

Trong tiếng Anh, công tố (prosecute) có nghĩa là thẩm quyền về mặt

nhà nước đại diện cho quyền lực công thực hiện một số quyền năng pháp lý

để bảo vệ lợi ích của nhà nước, tập thể và công dân. Như vậy, công tố là một

trong những hình thức cáo buộc của nhà nước đối với người hoặc pháp nhân

thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Trong công tố, nhà nước là bên thực

hiện sự cáo buộc và bên bị cáo buộc không chỉ là con người mà còn có thể là

pháp nhân và cáo buộc của nhà nước được thể hiện trong nhiều lĩnh vực mà

hành vi vi phạm được thực hiện đã xâm phạm tới. Công tố, vì vậy, theo tác

giả cần được hiểu là sự cáo buộc của nhà nước đối với người hoặc pháp nhân

đã có hành vi vi phạm pháp luật trước tòa án.

Việc xác định quyền công tố và theo đó là THQCT có ý nghĩa lý luận

và thực tiễn rất quan trọng. Quyền công tố là quyền của nhà nước đưa các vụ

việc vi phạm pháp luật ra cơ quan xét xử. Khái niệm công tố hoàn toàn đối

lập với khái niệm tư tố (tự mình nhân danh lợi ích cá nhân, riêng tư để cáo

giác, khởi kiện ra tòa). Sự ra đời của chế định tư tố trong pháp luật xuất phát

từ quan niệm cho rằng, việc bảo vệ lợi ích cá nhân bị người khác xâm phạm là

việc riêng tư của mỗi người, nhà nước không cần thiết và không có trách

nhiệm phải can thiệp.

Hiện nay, phạm vi và chủ thể thực hiện quyền công tố vẫn còn nhiều ý

kiến khác nhau, nổi bật là các quan điểm sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân

theo pháp luật được thực hiện trong lĩnh vực tố tụng hình sự đều là THQCT.

Theo quan điểm này, quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước thực hiện

các chức năng do BLTTHS quy định để kiểm sát việc điều tra tội phạm, để

9

truy tố, buộc tội người phạm tội trước tòa án nhằm đạt được mục đích xét xử

đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, góp phần bảo đảm quyền tự do dân

chủ của con người, bảo vệ các lợi ích của xã hội, của nhà nước.

Quan điểm thứ hai cho rằng:

Quyền công tố là quyền chỉ tồn tại duy nhất trong tố tụng hình sự. Từ

đó, họ đưa ra khái niệm về quyền công tố là: Quyền của nhà nước truy cứu

trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; quyền này được giao cho VKS.

VKS có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định tội

phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội. Trên cơ sở đó truy tố bị can ra

trước tòa án và bảo vệ buộc tội đó trước phiên tòa.

Quan điểm thứ ba và cũng là quan điểm phổ biến được đưa vào giáo

trình giảng dạy trong ngành kiểm sát nhân dân. Quan điểm này cho rằng:

Quyền công tố được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực hình sự, tố tụng

hình sự. Sau đó, quyền công tố được mở rộng sang lĩnh vực dân sự và các lĩnh

vực tư pháp khác. Theo họ, quyền công tố là "Quyền đại diện cho nhà nước

để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ nhà

nước, bảo vệ trật tự pháp luật", phạm vi THQCT được tiến hành trong khi

thực hiện các công tác kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử hình sự, kiểm sát

việc giải quyết các vụ án dân sự, lao động, hành chính, kiểm sát thi hành án

dân sự, kiểm sát việc quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, kiểm

sát thi hành án hình sự và công tác điều tra tội phạm.

Quan điểm thứ tư cho rằng: Quyền công tố là quyền của nhà nước giao

cho VKS mà trực tiếp là KSV thay mặt nhà nước thực hiện việc buộc tội tại

phiên tòa. Nội dung của quyền công tố là đưa ra lời buộc tội những chủ thể

phạm tội và chứng minh tính có căn cứ và tính hợp pháp của cáo trạng tại

phiên tòa sơ thẩm. Quan điểm này coi quyền công tố chỉ là sự buộc tội tại

phiên tòa, việc thực hiện quyền đó là thuộc VKS. Đó là sự nhầm lẫn giữa

10

quyền công tố và THQCT. Trên thực tế hoạt động truy tố và duy trì quyền

công tố của KSV trước tòa chỉ là một phần THQCT theo đúng nghĩa của nó,

còn chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật là hoạt động kiểm tra tính có

căn cứ, tính hợp pháp trong quyết định và hành vi của cơ quan tiến hành tố

tụng và người tiến hành tố tụng. Khi thực hiện chức năng này ngoài quyền

kiến nghị, kháng nghị và quyền yêu cầu chấm dứt, khắc phục vi phạm pháp

luật, VKS không có quyền tự quyết định như khi THQCT.

Do chưa xác định đúng đối tượng, nội dung và phạm vi của quyền công

tố trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật dẫn đến có quan điểm thu hẹp

hoặc mở rộng phạm vi của quyền công tố, hoặc nhầm lẫn giữa quyền công tố

với hoạt động thực hiện quyền công tố. Có thể nói nơi nào mà pháp luật cho

phép VKS nhân danh lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội đưa vụ án ra tòa để quá

trình truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm, nên quá trình này

bắt đầu từ việc khởi tố vụ án hoặc khởi kiện và chấm dứt khi có phán quyết có

hiệu lực pháp luật của cơ quan xét xử hoặc khi có căn cứ triệt tiêu quyền công

tố ở giai đoạn sớm hơn. Quyền công tố không chỉ trong lĩnh vực Tố tụng hình

sự mà mở rộng trong cả các lĩnh vực khác như dân sự, kinh tế, hành chính, lao

động.

Tóm lại, nghiên cứu các quan điểm trên có thể đưa ra nhận xét: Quyền

công tố là quyền của Nhà nước giao cho VKS nhân dân để đưa vụ án ra xét

xử trước tòa án nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước, tổ chức và của công dân theo

quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Để xác định đúng đắn phạm vi quyền công tố trong Tố tụng hình sự

cần phải nhận thức sâu sắc rằng: Quyền công tố là quyền của nhà nước truy

cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Không thể đồng nhất quyền

công tố với việc THQCT, bởi quyền công tố là quyền của Nhà nước để yêu

cầu trừng phạt người phạm tội, còn THQCT là việc sử dụng các biện pháp do

11

luật định để đạt được mục tiêu trừng phạt đó.

Như vậy, phạm vi quyền công tố trong Tố tụng hình sự bắt đầu từ khi

tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng

nghị.

Vậy quan niệm về quyền công tố thế nào cho chính xác. Theo tác giả,

bản chất của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật là việc kiểm tra tính

có căn cứ và tính hợp pháp trong hành vi và quyết định của các chủ thể bị

kiểm sát. Do đó, đối tượng của hoạt động kiểm sát trong tố tụng hình sự phải

là hành vi xử sự của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.

Quyền công tố là quyền buộc tội, còn tiến hành như thế nào là do luật định

nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội là THQCT. Xuất

phát từ bản chất của quyền công tố và đối tượng tác động của quyền công tố

như đã nêu trên, tác giả quan niệm rằng: Nội dung quyền công tố chính là sự

buộc tội đối với người đã thực hiện tội phạm.

Điều 20 BLTTHS quy định: VKS THQCT và kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội; phát hiện vi phạm

pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân

phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi

tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,

không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan

người vô tội. THQCT được xác định là chức năng của VKS trong các giai

đoạn tố tụng. Điều đó được khẳng định trong BLTTHS và Luật Tổ chức

VKSND về công tác thực hiện chức năng của VKS trong tố tụng hình sự.

Những quy định trên đây của pháp luật hiện hành cũng cho thấy quyền công

tố trong tố tụng hình sự phát sinh từ khi có tội phạm xảy ra đến khi ra bản án

có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị.

Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: Quyền công tố là quyền

12

của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát thực hiện theo quy định của pháp luật

để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ thể phạm tội thực hiện sự buộc

tội đối với chủ thể đó trước tòa án.

Trong tố tụng hình sự, phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi có tội

phạm xảy ra và kết thúc khi ra bản án đã có hiệu lực pháp luật, không bị

kháng cáo, kháng nghị. Pháp luật hình sự quy định, VKS là cơ quan được

giao THQCT và chỉ có VKS là cơ quan có quyền độc lập phát động quyền

công tố mà không chịu sự can thiệp của bất cứ cơ quan nhà nước nào. Nếu

quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan điều tra

không có căn cứ và trái pháp luật thì VKS có quyền hủy bỏ. Quyết định khởi

tố vụ án hình sự của tòa án đều phải được gửi cho VKS xem xét, nếu có vi

phạm pháp luật thì VKS có quyền kháng nghị.

Trong giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra chỉ có quyền đề nghị việc áp

dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn đối với tất cả các trường

hợp VKS đã phê chuẩn, còn việc quyết định là do VKS; Cơ quan điều tra có

quyền độc lập thu thập tài liệu, chứng cứ, nhưng việc bảo đảm cho các tài liệu

chứng cứ ấy có căn cứ và đủ cơ sở để truy tố bị can hay không là trách nhiệm

của VKS. Trong trường hợp không đủ căn cứ để buộc tội, VKS có quyền yêu

cầu cơ quan điều tra bổ sung tài liệu chứng cứ; có quyền đình chỉ vụ án; yêu

cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật hoặc xử lý hành chính người đã có

hành vi vi phạm pháp luật. Khi có đủ tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi

phạm tội và xét thấy đủ căn cứ để xử lý hành vi phạm tội của người đó trước

Tòa án thì VKS quyết định truy tố bị can ra Tòa. BLTTHS đã quy định chức

năng THQCT của VKS trong tố tụng hình sự rất lớn là: Được áp dụng các

biện pháp do BLTTHS để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội loại trừ

việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này nhằm bảo đảm

mọi hành vi phạm tội, người phạn tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật

13

đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh; việc khởi tố, điều tra,

truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt

tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội

(Điều 20 BLTTHS).

Như vậy, THQCT là việc Viện kiểm sát sử dụng các biện pháp theo

quy định của pháp luật để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm

tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó.

Phạm vi quyền công tố và THQCT bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và

kết thúc khi ra bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị.

Tuy nhiên, trên thực tế không phải trong mọi trường hợp quyền công tố kéo

dài như vậy mà có thể bị triệt tiêu ở giai đoạn tố tụng sớm hơn theo quy định

của BLTTHS. Điều này có nghĩa là, không phải mọi vụ án đều được đưa ra

xét xử trước tòa án, khi chấm dứt quyền công tố thì đồng thời cũng không có

việc THQCT. Vì vậy, tác giả hoàn toàn tán thành quan điểm cho rằng: Hoạt

động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá

trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Đó

chính là phạm vi THQCT.

Tóm lại: Phạm vi THQCT bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi

ra bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị hoặc vụ án được đình chỉ

khi có một trong những căn cứ do BLHS và BLTTHS quy định.

Như vậy, những quyền năng pháp luật cho phép VKS tự quyết định liên

quan đến việc buộc tội bị can, bị cáo thì đó là chính là những quyền năng

thuộc nội dung THQCT; những quyền năng pháp lý mà VKS sử dụng để phát

hiện và yêu cầu xử lý vi phạm pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người

tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng là những quyền năng thuộc chức

năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Tuy nhiên, có một số hành vi tố tụng

thể hiện sự đan xen giữa THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật như

14

quyết định kháng nghị phúc thẩm hình sự của VKS đối với bản án hoặc quyết

định của tòa án chưa có hiệu lực pháp luật. Quyết định kháng nghị có thể bao

hàm hai nội dung: có sự vi phạm trong việc áp dụng pháp luật hình sự và có

vi phạm nghiêm trọng về TTHS hoặc chỉ thể hiện một trong hai nội dung trên

nhưng đều làm phát sinh một trình tự xét xử mới. Chính vì lẽ đó, theo luật

định VKS thực hiện đồng thời hai chức năng là THQCT và kiểm sát hoạt

động tư pháp.

Hiện nay trong lý luận và thực tiễn còn có một số quan điểm khác nhau

về THQCT và chủ thể THQCT. Nhưng theo tác giả, chỉ có cơ quan nào sử

dụng tất cả các quyền năng pháp lý cần thiết để quyết định việc buộc tội của

Nhà nước đối với người phạm tội trong cả giai đoạn điều tra và giai đoạn xét

xử hình sự tại tòa án thì đó là cơ quan THQCT.

Từ những vấn đề vừa phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: THQCT là

việc VKS sát sử dụng tổng hợp các quyền năng tố tụng độc lập, quyết định

việc buộc tội đối với người phạm tội, không để lọt tội phạm và người phạm

tội, được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng.

1.1.1.2. Khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Điều 8 BLHS năm quy định: “1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã

hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự

hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm

độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ

chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã

hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm quyền con người, lợi ích hợp

pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã

hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Điều

143 BLTTHS quy định: “Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có

dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau

15

đây: Tố giác của cá nhân; Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Tin báo trên

phương tiện thông tin đại chúng; Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; Cơ

quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội

phạm; Người phạm tội tự thú”.

Như vậy, pháp luật hiện hành không quy định khái niệm thế nào là vụ

án hình sự. Tuy nhiên, căn cứ các quy định của BLTTHS có thể hiểu: Vụ án

hình sự là vụ án phát sinh khi vụ việc phạm pháp bị phát hiện có dấu hiệu tội

phạm đã được quy định trong BLHS được cơ quan có thẩm quyền (Cơ quan

điều tra, Cơ quan được được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều

tra,VKSND , Toà án nhân dân) ra quyết định khởi tố vụ án để tiến hành điều

tra, truy tố, xét xử theo các trình tự, thủ tục đã được quy định trong BLTTHS.

Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự thứ hai mà trong đó

cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số

hoạt động điều tra theo luật định, căn cứ vào các quy định của pháp luật tố

tụng hình sự và dưới sự kiểm sát của VKS tiến hành các biện pháp cần thiết

nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án

hình sự, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lỗi

trong việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời

bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và đạt

được mục đích chung của quá trình tố tụng, đó là: “Phát hiện chính xác nhanh

chóng và xử lý công minh kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội

phạm, không làm oan người vô tội” [19, tr.19].

Với tính chất là một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, giai đoạn

điều tra vụ án có chức năng thực hiện những nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng

các biện pháp cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội phạm và

người phạm tội, xác định rõ những nguyên nhân, điều kiện phạm tội, đồng

thời kiến nghị các cơ quan và tổ chức liên quan áp dụng đầy đủ các biện pháp

16

khắc phục, phòng ngừa tội phạm; Giai đoạn này được bắt đầu từ khi cơ quan

(người) tiến hành tố tụng có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự

và kết thúc khi cơ quan điều tra sẽ ra quyết định: Đình chỉ điều tra vụ án hình

sự hoặc chuyển toàn bộ các tài liệu của vụ án đó cho VKS kèm theo kết luận

điều tra và đề nghị truy tố bị can trước Tòa án.

Mục đích của hoạt động điều tra vụ án hình sự là để chứng minh sự thật

của vụ án. Mọi hành vi tội phạm xảy ra đều được phản ánh trong hiện thực

những thay đổi trên thực tế cho hành vi phạm tội gây ra, từ đó để lại những

dấu vết vật chất, dấu vết tâm, sinh lý được thu thập, những dấu vết này được

thu thập theo trình tự tố tụng hình sự sẽ trở thành những chứng cứ của vụ án.

Ngoài ra, mỗi vụ án là một sự kiện phạm tội diển ra trên thực tế do vậy để

chứng minh sự thật của vụ án chỉ có thể là những tài liệu thực tế hay chính là

những chứng cứ pháp lý.

Như vậy, có thể hiểu: Điều tra vụ án hình sự là hoạt động tố tụng của

cơ quan điều tra và cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt

động điều tra theo quy định của pháp luật dưới sự kiểm sát của VKS nhằm

xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ đề nghị

truy tố hoặc đình chỉ vụ án hình sự tương ứng, tìm ra những nguyên nhân và

điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện

pháp khắc phục và phòng ngừa.

17

1.1.1.3. Khái niệm Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác

BLHS Việt Nam không định nghĩa cụ thể như thế nào là Tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tuy nhiên, trong

khoa học pháp lý hình sự có nhiều quan điểm với các khái niệm khác nhau về

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Cách khái niệm thứ nhất: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác là hành vi cố ý gây tổn hại sức khỏe cho người

khác dưới dạng thương tích hoặc tổn thương khác”;

Cách khái niệm thứ hai cho rằng: ”Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác là hành vi của một người cố ý làm cho

người khác bị thương hoặc tổn hại đến sức khỏe”.

Các cách khái niệm trên vẫn còn những điểm chưa phù hợp như chưa

đề cập đến dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự, độ tuổi chịu do luật định

cũng như tính trái pháp luật hình sự của hành vi cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Dựa trên cơ sở pháp lý quy định nội

dung cấu thành tội phạm Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khoẻ của người khác tại Điều 134 BLHS và khái niệm về tội phạm quy định

tại khoản 1 Điều 8 BLHS, có thể đi đến khái niệm về Tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau: “Tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi nguy hiểm cho

xã hội được quy định trong BLHS do người có năng lực trách nhiệm hình sự

thực hiện một cách cố ý xâm phạm sức khỏe của người khác”.

1.1.1.4. Hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối

với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác của Viện Kiểm sát nhân dân

Quá trình THQCT ở giai đoạn điều tra đối với các vụ án cố ý gây

18

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được bắt đầu từ

giai đoạn tiếp nhận tin báo tội phạm có dấu hiệu gây tổn thương đến sức khỏe

của người khác, khởi tố vụ án, khởi tố bị can và kết thúc điều tra, VKS ra

quyết định truy tố hoặc đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật.

Hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra đối với các vụ án cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của VKSND có

những đặc điểm sau:

Một là, hoạt động này chỉ do VKSND tiến hành theo quy định của pháp

luật.

Theo quy định của pháp luật thì VKSND là cơ quan có chức năng

THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp. VKSND là cơ quan duy nhất thực

hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tư pháp, đặc

biệt là cơ quan điều tra. Hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra của VKS

được quy định tại Điều 14 Luật tổ chức VKSND năm 2014; Điều 165

BLTTHS, khi thực hành quyên công tố VKS có những nhiệm vụ và quyền

hạn sau đây:

1. Yêu cầu cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một

số hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án

hình sự, khởi tố bị can.

2. Phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc

bổ sung quyết định khởi tố bị can không có căm cứ và trái pháp luật.

3. Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố

bị can trong các trường hợp do BLTTHS quy định.

4. Phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bả đảm, khám

xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, áp dụng

biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết

19

định tố tụng khác không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ

quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định

của BLTTHS; hủy bỏ các quyết định tố tụng không có căn cứ và trái pháp luật

của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động

điều tra. Trường hợp không phê chuẩn hoặc hủy bỏ thì trong quyết định

không phê chuẩn hoặc hủy bỏ phải nêu rõ lý do.

5. Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện

pháp cưỡng chế theo quy định của BLTTHS.

6. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được

giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành điều tra để là, rõ

tội phạm, người phạm tội; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can, áp dụng

biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.

7. Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp để

kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn lệnh, quyết định của Cơ

quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều

tra hoặc trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi

phạm pháp luật mà VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc

phục hoặc trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi quyết định

việc truy tố.

8. Khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền

trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong

việc khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội phạm; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố

vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố,

điều tra có dấu hiệu tội phạm;

9. Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam; chuyển

vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; hủy bỏ

20

quyết định tách, nhập vụ án.

10. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc THQCT theo quy

định của BLTTHS [tr. 156, 1578, 158].

Theo quy định của BLTTHS thì việc khởi tố vụ án hình sự do Cơ quan

điều tra thực hiện là chủ yếu. VKS chỉ trực tiếp khởi tố vụ án hình sự trong

trường hợp VKS huỷ bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan

điều tra và trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án. Riêng

việc khởi tố bị can thì VKS chỉ trực tiếp khởi tố bị can trong trường hợp cơ

quan điều tra đã kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ để nghị VKS truy tố mà VKS

phát hiện còn có đồng phạm khác trong vụ án nhưng chưa bị khởi tố, các

trường hợp còn lại việc khởi tố bị can do Cơ quan điều tra thực hiện và VKS

chỉ xem xét phê chuẩn việc khởi tố. Trên thực tế có rất ít trường hợp VKS

trực tiếp khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can khi THQCT trong giai đoạn

điều tra vụ án hình sự là chủ yếu là yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án,

khởi tố bị can hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can.

Một trong những nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của VKS khi

THQCT trong giai đoạn điều tra là đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan

điều tra tiến hành điều tra. Để bảo đảm hoạt động điều tra có kết quả thì VKS

phải đề ra yêu cầu điều tra ngay từ khi khởi tố vụ án và trong từng giai đoạn

của quá trình điều tra, KSV được phân công THQCT trong giai đoạn điều tra

phải bám sát việc điều tra vụ án của Cơ quan điều tra để kịp thời đề ra các yêu

cầu điều tra một cách cụ thể, toàn diện nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án.

Trong một số trường hợp cần thiết, khi THQCT trong giai đoạn điều tra, VKS

có thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của

BLTTHS như: Hỏi cung bị can; lấy lời khai người làm chứng; tiến hành đối

chất; … để củng cố chứng cứ nhằm đánh giá khách quan, toàn diện vụ án.

Khi THQCT trong giai đoạn điều tra tội phạm nếu phát hiện Điều tra

21

viên được phân công giải quyết vụ án hình sự thuộc trường hợp phải thay đổi

theo qui định tại Điều 51 BLTTHS thì VKS phải kịp thời yêu cầu Thủ trưởng

Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên nhằm đảm báo vụ án được điều tra

khách quan. Trường hợp xét thấy hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội

phạm thì yêu cầu Cơ quan điều tra có thẩm quyền khởi tố về hình sự.

Khi THQCT trong giai đoạn điều tra, VKS có quyền quyết định áp

dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm

giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo

lãnh. Đối với những biện pháp tố tụng, hành vi tố tụng mà BLTTHS quy định

phải có sự phê chuẩn của VKS như: Lệnh bắt người trong trường hợp khẩn

cấp; quyết định gia hạn tạm giữ; quyết định khởi tố bị can; lệnh bắt bị can để

tạm giam lệnh tạm giam… thì VKS có trách nhiệm xem xét, quyết định việc

phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Ngoài ra, khi phát hiện các quyết định tố

tụng của Cơ quan điều tra như: Quyết định tạm giữ; quyết định khởi tố vụ án,

khởi tố bị can; quyết định về việc bảo lĩnh; quyết định đình chỉ điều tra vụ án

…không có căn cứ và trái pháp luật thì VKS có quyền ra quyết định huỷ bỏ

các quyết định đó theo đúng quy định của Bộ luật TTHS. Trường hợp bị can

trốn hoặc không biết bị can đang ở đâu thì VKS yêu cầu Cơ quan điều tra ruy

nã.

Hai là, hoạt động này của VKS phải tuân thủ nghiêm chỉnh những quy

định về trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.

Hoạt động điều tra của cơ quan điều tra, hoạt động THQCT của VKS là

những hoạt động rất quan trọng có tính quyết định trong quá trình giải quyết

các vụ án hình sự. Chính vì vậy nên pháp luật tố tụng hiện hành quy định rất

chặt chẽ việc THQCT trong giai đoạn điều tra đối với các vụ án hình sự trong

đó có các vụ cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác của VKS như thủ tục: Khởi tố vụ án, khởi tố bị can, nhập - tách vụ án,

22

đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, thời hiệu điều tra, thời hạn điều tra...

Ba là, hoạt động này của VKS được pháp luật bảo đảm thi hành.

Hoạt động THQCT trong gia đoạn điều tra các vụ án hình sự - trong đó

có các vụ án về cố ý gây thương tích luôn được pháp luật bảo đảm thi hành để

xác định rõ hành vi phạm tội, người phạm tội đã thỏa mãn cấu thành của tội

đó hay chưa. Quá trình này bao gồm nhiều bước nhưng phải đảm bảo các

nguyên tắc xử lý: Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý

nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật; Mọi người phạm tội đều bình

đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo,

thành phần, địa vị xã hội.

Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: THQCT trong giai đoạn

điều tra đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác của VKSND là hoạt động thực hiện pháp luật của VKS nhằm

đảm bảo cho toàn bộ hoạt động giải quyết tin báo, tố giác về dấu hiệu tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, khởi tố, điều

tra, truy tố tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác hoặc đình chỉ vụ án được tuân thủ theo đúng qui định của pháp

luật.

1.1.2. Vị trí, vai trò, ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong giai

đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác

Giai đoạn điều tra vụ án là một trong những giai đoạn dài nhất và có vai

trò quan trọng trong việc phát hiện tội phạm, người phạm tội, mọi tình tiết của

vụ án đều phải làm sáng tỏ ở giai đoạn này để từ đây tìm ra đúng người thực

hiện hành vi phạm tội nhằm đảm bảo việc truy tố, xét xử vụ án được chính

xác, đúng người đúng tội, đúng pháp luật. THQCT trong giai đoạn điều tra

đối với các vụ cố ý gây thương tích, có vai trò rất quan trọng trong việc thực

23

hiện quyền lực Nhà nước , thực hiện quyền tư pháp của VKS. Chính vì vậy,

việc THQCT trong quá trình giải quyết vụ án của VKSND nói chung cũng

như THQCT ở giai đoạn điều tra vụ án của VKSND nói riêng có vai trò quan

trọng góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ

nghĩa, bảo vệ trật tự pháp luật bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ

tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân; bảo

đảm mọi hành vi vi phạm lợi ích của Nhà nước, của công dân phải được xử lý

theo pháp luật.

THQCT ở giai đoạn điều tra vụ án nói chung và vụ án cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng của VKSND có

vai trò quan trọng nhằm hoàn chỉnh cơ chế điều chỉnh pháp luật, tạo thói quen

tuân thủ pháp luật trong nhân dân. Qua công tác THQCT, VKSND phát hiện

ra những dạng vi phạm pháp luật mới, những dạng quan hệ xã hội mới cần

phải có những quy phạm pháp luật điều chỉnh kịp thời; những quy phạm đã

lạc hậu, chồng chéo cần thay thế sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình

tội phạm.

THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hướng các chủ thể

của các quan hệ pháp luật trong THQCT thực hiện đúng, đầy đủ chức trách

của mình khi tiến hành tố tụng nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của

những người tham gia tố tụng; ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật của

người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng.

Thông qua THQCT ở giai đoạn điều tra, VKSND có những biện pháp,

cách thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật; kiến nghị phòng ngừa vi phạm.

Hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật của VKSND không chỉ tác động

tới các đối tượng vi phạm pháp luật hình sự mà còn ảnh hưởng sâu rộng trong

cộng đồng dân cư, các cơ quan ban ngành hữu quan.

24

1.2. Quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự về thực

hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

1.2.1. Quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Điều 134 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng

thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ

đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc ….;

b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu,

ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình…;

đ) Có tổ chức;

e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, …;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người ..;

i) Có tính chất côn đồ;

k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc …..

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

02 năm đến 06 năm:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà

tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên

mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%;

25

c) Phạm tội 02 lần trở lên;

d) Tái phạm nguy hiểm;

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà

tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường

hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

05 năm đến 10 năm:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà

tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại

điểm b khoản 4 Điều này;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên

mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà

tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường

hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;

d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên

mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một

trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1

Điều này.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

07 năm đến 14 năm:

a) Làm chết người;

b) Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ

tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên

mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;

d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà

26

tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp

quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên

mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60% nhưng thuộc một

trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1

Điều này.

5. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Làm chết 02 người trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên

mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên nhưng thuộc một trong

các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

6. Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít

nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm

nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị

phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02

năm”.

Căn cứ vào điều luật trên, ta thấy cấu thành tội phạm này phản ánh

trong 4 yếu tố cấu thành tội phạm và hình phạt như sau:

Khách thể của tội phạm: Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác là hành vi cố ý làm cho người khác bị thương hoặc tổn

hại đến sức khỏe. Tội phạm xâm phạm quyền được bảo hộ về sức khỏe của

con người.

Mặt khách quan của tội phạm: Người phạm tội thực hiện các hành vi

tác động vào cơ thể của người khác như: đâm, chém, đấm đá, tra tấn... làm

cho người đó bị thương, bị tổn hại sức khỏe hoặc cưỡng bức người bị hại tự

làm tổn hại cho sức khỏe của mình như tự chọc vào mắt mình, chặt ngón tay...

27

Hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

mà tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên bị coi là tội phạm.

Nếu hậu quả tổn thương cơ thể dưới 11% nhưng thuộc một trong các

trường hợp sau đây thì cũng coi là phạm tội:

- Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây

nguy hại cho nhiều người. Vũ khí, vật liệu nổ theo quy định tại Luật Quản lý,

sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2017. Hung khí nguy hiểm được

hiểu là vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm khác.

Tại Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng

thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn, thì “phương tiện nguy hiểm”

là công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con

người (trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra

nhằm làm phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà

người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn

công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khỏe của

người bị tấn công. Ví dụ, dùng dao sắc nhọn, dao phay, búa đinh, côn gỗ,

thanh sắt mài nhọn, gạch, đá... gây thương tích cho người khác.

- Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Trong vụ án hình sự, cần trưng cầu

giám định cơ quan chuyên môn xác định rõ các a-xít, hóa chất là chất gì, có

thể phá hủy tế bào cơ thể như thế nào.

- Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi: Căn cứ vào giấy khai sinh, Giấy

chứng sinh, sổ hộ khẩu hoặc Chứng minh nhân dân.

- Phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không

có khả năng tự vệ: Phụ nữ đang có thai có thể do người phạm tội nhận biết

được hoặc nghe người khác nói. Việc xác định có thai hay không phải dựa

vào kết luận của bác sĩ. Người già yếu là người từ đủ 60 tuổi trở lên, sinh

28

hoạt, đi lại khó khăn... Người ốm đau là người đang bị bệnh tật mà đang phải

điều trị. Người không có khả năng tự vệ ; thương binh, bệnh binh nặng…

- Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của

mình, gồm: ông, bà gồm ông bà nội, ông bà ngoại; cha, mẹ là người sinh ra

người phạm tội hoặc người đã nhận người phạm tội làm con nuôi được pháp

luật thừa nhận; Người nuôi dưỡng là người chăm sóc, giáo dục như cha mẹ.

Thầy giáo, cô giáo là người trực tiếp giảng dạy người phạm tội về văn hoá,

chuyên môn, nghề nghiệp, v.v...

- Có tổ chức là việc có từ 02 người trở lên cùng thực hiện 01 tội phạm

và giữa họ có sự cấu kết, phân công trách nhiệm chặt chẽ với nhau.

- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn.

- Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án

phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa

vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc: Thời gian này được xác

định đựa vào các quyết định của cơ quan có thẩm quyền.

- Thuê hoặc được thuê gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe cho người

khác.

- Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm: phạm tội có tính chất

côn đồ là trường hợp thực hiện tội phạm có tính hung hãn cao độ, coi thường

tính mạng, sức khỏe của người khác; vô cớ gây thương tích vì lý do nhỏ nhặt

hoặc do mâu thuẫn nhỏ nhặt trong sinh hoạt; đâm, chém, đánh đập người khác

dã man,...

- Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn

nhân.

Căn cứ để đánh giá mức độ thương tích là kết quả giám định pháp y

theo quy định tại Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 02/6/2014 của Bộ

trưởng Bộ Y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định

29

pháp y, pháp y tâm thần.

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

là cấu thành vật chất nên phải xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và

hậu quả xảy ra.

Chủ thể của tội phạm: Người từ đủ 14 tuổi trở lên, có năng lực trách

nhiệm hình sự. Theo quy định của Điều 12 BLHS thì phạm tội thuộc khoản 1,

2 Điều 134 tuy là trường hợp ít nghiêm trọng và nghiêm trọng nhưng người

phạm tội đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi cũng bị truy cứu TNHS.

Mặt chủ quan của tội phạm: Người thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.

Về khung hình phạt, gồm các khung:

Khung hình phạt quy định tại khoản 1. Mức hình phạt từ cải tạo không

giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm mà tỷ lệ tổn

thương cơ thể nạn nhân từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một

trong các trường hợp phạm tội được nêu tại khoản 1;

Khung hình phạt quy định tại khoản 2. Mức hình phạt tù từ 02 năm đến

06 năm khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp nêu tại khoản 2;

Khung hình phạt quy định tại khoản 3. Mức hình phạt tù từ 05 năm đến

10 năm khi phạm tội một trong các trường hợp được nêu tại khoản 3;

Khung hình phạt quy định tại khoản 4. Mức hình phạt tù từ 07 năm đến

14 năm khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp được nêu tại khoản 4;

Khung hình phạt quy định tại khoản 5. Mức hình phạt tù từ 12 năm đến

20 năm hoặc tù chung thân khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp được

nêu tại khoản 5;

Khung hình phạt quy định tại khoản 6. Phạt cải tạo không giam giữ đến

02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm đối với người chuẩn bị phạm tội

này.

So sánh giữa Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

30

của người khác quy định tại Điều 104 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm

2009) với quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm

2017) có một số điểm mới sau:

Điều luật được cấu trúc lại thành 6 khoản; bỏ 3 tình tiết định khung là

gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; phạm tội 02 lần trở lên; tái phạm nguy hiểm tại

khoản 1; bổ sung cụm từ “Dùng vũ khí, vật liệu nổ” tại điểm a; thay cụm từ

“Sunfuric (H2SO4) bằng cụm từ “nguy hiểm”; bổ sung cụm từ: “bị giữ”,

“đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại

trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính

đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc” tại điểm g. Sửa hình phạt tù tối đa tại các khoản 2, 3,

4, 5. Quy định về những trường hợp chuẩn bị phạm tội tại khoản 6.

1.2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công

tố đối trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác.

1.2.2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố

trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác.

*Hoạt động THQCT của VKSND trong việc giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Theo quy định tại Điều 145 BLTTHS, VKSND không chỉ có trách

nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố mà còn có

thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong

trường hợp phát hiện Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành

một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động

kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu

hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được

31

khắc phục. Để thực hiện tốt hoạt động THQCT trong việc giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác, KSV phải nắm vững những nhiệm vụ,

quyền hạn của VKSND khi THQCT quy định tại Điều 159 BLTTHS và Điều

12 Luật Tổ chức VKSND năm 2014. Theo đó, hoạt động THQCT trong việc

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố phải được tiến

hành đồng thời với hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố về tội phạm này.

Trách nhiệm của VKS trong công tác này là THQCT và kiểm sát việc

giải quyết nguồn tin về tội phạm, bảo đảm việc giải quyết của Cơ quan điều

tra đúng pháp luật, đầy đủ; bảo đảm mọi tội phạm đều được phát hiện, khởi

tố, điều tra và xử lý. Điều 145, 146, 147, 148, 150, 159 BLTTHS quy định rõ

nội dung của THQCT trong giai đoạn này, cụ thể:

Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác:

Theo quy định tại Điều 165 BLTTHS, VKS có quyền quyết định phê

chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn biện pháp bắt người bị giữ trong

trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ nhằm thu thập chứng cứ chứng minh tội

phạm, bảo đảm người bị tình nghi không bỏ trốn, cản trở quá trình xác minh.

Tại Điều 110 BLTTHS quy định: “Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ

người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số

hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a

và điểm b khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị

giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường

hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát

có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê

32

chuẩn” (khoản 4) và “Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ giữ người

quy định tại khoản 1 Điều này” (khoản 6).

Tại khoản 6 Điều 110 BLTTHS quy định: “Trường hợp cần thiết, Kiểm

sát viên phải trực tiếp gặp, hỏi người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trước

khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn lệnh bắt

người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp” và “ Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi

nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường

hợp khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định

không phê chuẩn”.

Hủy bỏ quyết định tạm giữ, các quyết định tố tụng khác trái pháp luật

của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm

và kiến nghị khởi tố:

Theo quy định tại Điều 117 BLTTHS và các Điều 12, Điều 22 Luật tổ

chức VKSND năm 2014, trong quá trình thực hiện chức năng THQCT, khi

xét thấy quyết định tạm giữ không có căn cứ hoặc trái pháp luật, VKS có

quyền hủy bỏ quyết định tạm giữ và quyết định trả tự do ngay cho người bị

tạm giữ. VKS có quyền đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan

có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

thực hiện; Hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ trong trường hợp quyết định tạm

đình chỉ giải quyết tin báo không có căn cứ; trực tiếp giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện có vi phạm

pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu

nhưng không được khắc phục.

*Hoạt động THQCT của VKSND trong việc quyết định khởi tố vụ án,

khởi tố bị can, phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều

tra, áp dụng biện pháp ngăn chặn, hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và

trái pháp luật.

33

Quyền ra quyết định khởi tố vụ án

Quyết định không khởi tố vụ án hình sự về Tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được coi là có căn cứ khi việc

không khởi tố vụ án là do có một trong các căn cứ quy định tại Điều 157

BLTTHS. Cụ thể là, Cơ quan điều tra ra quyết định không khởi tố vụ án khi

có một trong các căn cứ sau: Không có sự việc phạm tội; Hành vi không cấu

thành tội phạm; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi

chịu trách nhiệm hình sự; Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án

hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; Đã hết thời hiệu truy

cứu trách nhiệm hình sự; Tội phạm đã được đại xá; Người thực hiện hành vi

nguy hiểm cho xã hội đã chết (trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người

khác); Bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.

Theo quy định tại Điều 159 BLTTHS, VKS có thẩm quyền: Hủy bỏ

quyết định không khởi tố vụ án hình sự, Hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình

sự của Cơ quan điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án.

BLTTHS quy định việc khởi tố vụ án hình sự chủ yếu do Cơ quan điều

tra thực hiện. Theo Điều 14 Luật tổ chức VKSND năm 2014 và Điều 153, 154

BLTTHS, VKS chỉ trực tiếp khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp VKS huỷ

bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra và trong

trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án.

Thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự:

Điều 156 BLTTHS quy định, VKS có quyền thay đổi quyết định khởi

tố vụ án khi có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi

phạm tội đã xảy ra hoặc ra quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án quy

định khi có căn cứ xác định có tội phạm khác chưa được khởi tố. Đây cũng là

một trong những quyền năng thuộc phạm vi quyền công tố của VKS, nhằm

bảo đảm việc khởi tố vụ án hình sự có căn cứ và phù hợp với tình tiết khách

34

quan trong vụ án.

Hủy quyết định khởi tố vụ án hình sự:

Khi thấy quyết định không khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra rõ ràng

là không có căn cứ và trái pháp luật thì Viện trưởng VKS ra văn bản yêu cầu

Cơ quan điều tra ra quyết định hủy bỏ. Nếu Cơ quan điều tra không nhất trí

thì VKS căn cứ khoản 3 Điều 153 và khoản 1 Điều 161 BLTTHS ra quyết

định hủy bỏ, đồng thời quyết định khởi tố vụ án.

Phê chuẩn, hủy bỏ quyết định khởi tố bị can, yêu cầu thay đổi, bổ sung

quyết định khởi tố bị can hoặc trực tiếp ra các quyết định trên:

Điều 179 BLTTHS quy định: Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận

được hồ sơ, nếu xác quyết định khởi tố là có căn cứ thì VKS ra quyết định

phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; nến chưa đủ căn cứ thì VKS yêu cầu bổ

sung chứng cứ. Trường hợp xác định quyết định khởi tố bị can không có căn

cứ và trái pháp luật thì, VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can.

Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, khi phát hiện có người thực hiện

hành vi phạm tội chưa bị khởi tố thì VKS yêu cầu khởi tố bị can, nêu Cơ quan

điều tra không thực hiện thì VKS căn cứ khoản 4 Điều 179 BLTTHS trực tiếp

ra quyết định khởi tố bị can. Khi có căn cứ xác định hành vi của bị can không

đúng với tội danh đã khởi tố hoặc bị can còn có hành vi phạm tội khác thì

VKS yêu cầu thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can, trường hợp Cơ quan

điều tra không thực hiện thì VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết

định khởi tố bị can và gửi cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.

Quyền năng trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn; quyền quyết định

phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra, hủy bỏ các

quyết định không có căn cứ và trái pháp luật.

Các biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS gồm: Giữ

người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 110), bắt người (Điều

35

110,111,112,113, 503), tạm giữ (Điều 117), tạm giam (Điều 119), bảo lĩnh

(Điều 121), đặt tiền để bảo đảm (Điều 122), cấm đi khỏi nơi cư trú (Điều

123), tạm hoãn xuất cảnh (Điều 124). VKS có quyền xét phê chuẩn lệnh,

quyết định áp dụng một số biện pháp ngăn chặn của Cơ quan điều tra như: bắt

người để tạm giam, bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giam, đặt

tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm … và xem xét hủy bỏ quyết định tạm

giữ của Cơ quan điều tra nếu thấy không có căn cứ. Khoản 2, Điều 125

BLTTHS còn quy định “Đối với những biện pháp ngăn chặn do VKS sát phê

chuẩn thì việc huỷ bỏ hoặc thay thế phải do VKS quyết định”.

* Hoạt động THQCT của VKSND trong việc đề ra yêu cầu điều tra;

trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra

Quyền đề ra yêu cầu điều tra:

Khoản 6 Điều 165 BLTTHS và khoản 7 Điều 14 Luật tổ chức VKSND

năm 2014 quy định: Khi THQCT trong giai đoạn điều tra, VKS có nhiệm vụ

và quyền hạn “Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan

được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành điều tra để

làm rõ tội phạm, người phạm tội”. Đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, nội dung yêu cầu điều tra của VKS

cần tập trung yêu cầu làm rõ: Dấu hiệu tội phạm; Tỷ lệ thương tật của thương

tích hoặc mức độ tổn hại đối với sức khỏe của người bị hại; Những yếu tố liên

quan đến việc định tội và định khung hình phạt; Các tình tiết tăng nặng, giảm

nhẹ trách nhiệm hình sự của người phạm tội; yêu cầu bồi thường thiệt …

KSV có thể đề ra yêu cầu điều tra bằng hình thức văn bản hay bằng lời

nói để nêu ra yêu cầu, đòi hỏi về những vấn đề cần thiết mà Cơ quan điều

tra/Điều tra viên cần phải làm rõ khi điều tra vụ án nhằm bảo đảm việc điều

tra, xử lý vụ án được khách quan, toàn diện và triệt để, đúng người, đúng tội,

đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.

36

Quyền trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra:

Theo quy định tại khoản 7 Điều 165 BLTTHS: VKS có quyền trực tiếp

tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài

liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ

quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc trường

hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà

VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục hoặc trường hợp

để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi quyết định việc truy tố.

Theo quy định tại các Điều 183, 186, 188, 189 BLTTHS, trong một số

trường hợp cần thiết, khi thực THQCT trong giai đoạn điều tra, VKS có thể

trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra như: Triệu tập và hỏi cung bị

can; triệu tập và lấy lời khai người làm chứng; tiến hành đối chất; thực

nghiệm điều tra… để củng cố chứng cứ và các tình tiết khác nhằm đánh giá

một cách khách quan, toàn diện vụ án. Để bảo đảm việc giải quyết vụ án được

khách quan, chính xác, bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng.

Tuy nhiên, khi trực tiếp thực hiện một số hoạt động điều tra, kiểm sát phải

thông báo trước cho cơ quan điều tra về thời gian, địa điểm tiến hành.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 183 BLTTHS, Điều 28 Quy chế tạm

thời công tác THQCT, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố ban hành kèm

theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017 của Viện trưởng

VKSND tối cao, kiểm sát viên triệu tập và hỏi cung trong trường hợp bị can

kêu oan; bị can khiếu nại hoạt động điều tra; có căn cứ xác định việc điều tra

vi phạm pháp luật; khi có đề nghị của Cơ quan có thẩm quyền điều tra; tài

liệu, chứng cứ mâu thuẫn hoặc chưa rõ; lời khai của bị can trước sau không

thống nhất, lúc nhận tội, lúc chối tội; có căn cứ để nghi ngờ về tính xác thực

trong lời khai của bị can hoặc trường hợp bị can bị khởi tố về tội đặc biệt

nghiêm trọng và các trường hợp khác khi xét thấy cần thiết.

37

1.2.2.2. Trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc thực hiện yêu

cầu, quyết định của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Điều 6 của Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-

BQP quy định về phối hợp giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc

thực hiện một số quy định của BLTTHS quy định rõ trách nhiệm của Cơ quan

điều tra trong việc thực hiện yêu cầu, quyết định của VKS. Trong giai đoạn

khởi tố, điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra phải thực hiện yêu cầu, quyết định

của VKS theo quy định tại các Điều 162, 167, 236 và Điều 238 BLTTHS.

Đối với quyết định quy định tại khoản 1 và khoản 6 Điều 159, điểm b

khoản 1 Điều 161, khoản 4 và khoản 5 Điều 165 BLTTHS nếu không nhất trí,

Cơ quan điều tra vẫn phải thực hiện nhưng có quyền kiến nghị với VKS cấp

trên trực tiếp xem xét, giải quyết. Trường hợp nhất trí với kiến nghị của Cơ

quan điều tra thì VKS cấp trên hủy bỏ quyết định của VKS cấp dưới; nếu

không nhất trí thì thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do cho Cơ quan điều tra

đã kiến nghị và VKS cấp dưới.

Điều 11 Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP

quy định về phối hợp giữa cơ quan điều tra và VKS trong việc thực hiện một

số quy định của BLTTHS nêu rõ, KSV phải kịp thời trao đổi với điều tra viên,

cán bộ điều tra được phân công điều tra vụ án về những vấn đề cần điều tra

ngay từ khi nhận được quyết định khởi tố vụ án hình sự và trong quá trình

điều tra, bảo đảm để điều tra viên, cán bộ điều tra kịp thời thu thập đầy đủ các

chứng cứ, tài liệu của vụ án.

Điều tra viên được phân công điều tra vụ án phải thực hiện yêu cầu

điều tra của KSV, nếu thấy cần thiết thì trao đổi lại với KSV. Trường hợp

giữa điều tra viên với KSV có có sự thống nhất thì điều tra viên báo cáo Thủ

trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra; KSV báo cáo Viện trưởng, Phó

38

Viện trưởng VKS để thống nhất về nội dung yêu cầu điều tra. Trường hợp Cơ

quan điều tra không thực hiện yêu cầu điều tra của VKS hoặc đã tiến hành các

hoạt động điều tra nhưng do trở ngại khách quan mà không thể thực hiện

được thì Cơ quan điều tra phải nêu rõ lý do trong bản kết luận điều tra.

Trường hợp VKS trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy

định tại khoản 3 Điều 236, khoản 1 Điều 246 BLTTHS mà thấy cần phối hợp

với Cơ quan điều tra thì chậm nhất 24 giờ trước khi tiến hành một số hoạt

động điều tra, VKS thông báo cho Cơ quan điều tra thời gian, địa điểm tiến

hành một số hoạt động điều tra để phân công điều tra viên cùng phối hợp thực

hiện; trường hợp điều tra viên vắng mặt thì chậm nhất 2 giờ trước khi KSV

tiến hành một số hoạt động điều tra, điều tra viên phải thông báo KSV. Biên

bản tiến hành hoạt động điều tra của KSV phải được đưa vào hồ sơ vụ án.

1.2.2.3. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện

quyết định, yêu cầu của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Trong trường hợp cần xác định giá của tài sản để giải quyết vụ án hình

sự hoặc có nghi ngờ kết luận định giá lần đầu thì VKS có ra văn bản yêu cầu

định giá theo quy định tại Điều 215, Điều 218 Bộ luật TTHS.

Đối với người phiên dịch, người dịch thuật thuộc các trường hộp phải

từ chối tham gia tố tụng theo quy định tại khoản 4 Điều 70 BLTTHS thì VKS

có quyền đề nghị thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật.

Điều 168 Bộ luật TTHS quy định, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải

nghiêm chỉnh thực hiện quyết định, yêu cầu của Viện kiểm sát trong giai đoạn

điều tra; trường hợp không chấp hành mà không vì lý do bất khả kháng hoặc

không do trở ngại khách quan thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.

1.2.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố với hoạt động kiểm

sát điều tra vụ án vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

39

của người khác.

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức VKSND năm

2014, trong lĩnh vực tư pháp hình sự, VKS có hai chức năng là THQCT và

kiểm sát hoạt động tư pháp. Đây là hai chức năng độc lập, nhưng có mối quan

hệ mật thiết với nhau. Trong đó, kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng

hình sự của VKS là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp pháp, có căn

cứ của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động

tư pháp. THQCT là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện

việc buộc tội của Nhà nước đối với chủ thể phạm tội, được thực hiện ngay từ

khi giải quyết nguồn tin về tội phạm và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra,

truy tố, xét xử vụ án hình sự. Trong thực tiễn hoạt động thực hiện chức năng

của ngành, VKS các cấp luôn quán triệt đường lối của công tác kiểm sát là

đấu tranh chống tội phạm gắn liền với đấu tranh chống vi phạm pháp luật

trong hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, nhằm bảo đảm mọi

hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh theo quy

định của pháp luật; không để lọt tội phạm đồng thời cũng không được làm

oan người vô tội, nên việc thực hiện đồng thời hai hoạt động THQCT và kiểm

sát hoạt động tư pháp trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự là mang

tính khách quan; do vậy, giữa hai hoạt động này luôn có mối quan hệ với

nhau. Mối quan hệ đó được thể hiện ở các phương diện sau:

Thứ nhất, để thực hiện tốt quyền công tố, có nghĩa là bảo đảm việc phê

chuẩn hoặc không phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp

ngăn chặn, các quyết định tố tụng khác của Cơ quan điều tra được chính xác,

đúng pháp luật, đòi hỏi phải kiểm sát chặt chẽ tính có căn cứ và tính hợp pháp

của các biện pháp tố tụng hình sự mà Cơ quan điều tra quyết định áp dụng,

hoạt động kiểm tra này chính là thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động

tư pháp. Trên cơ sở kết quả của hoạt động kiểm sát thấy ràng, quyết định áp

40

dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự có căn cứ và hợp pháp thì VKS

sẽ quyết định phê chuẩn để thi hành, ngược lại nếu xét thấy quyết định áp

dụng biện pháp cưỡng chế về tố tụng hình sự của Cơ quan điều tra không có

căn cứ và không hợp pháp, VKS sẽ quyết định không phê chuẩn hoặc quyết

định huỷ bỏ quyết định tố tụng trái pháp luật của Cơ quan điều tra, đồng thời

yêu cầu Cơ quan điều tra chấm dứt ngay các hoạt động tố tụng.

Thứ hai, với việc thực hiện công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ

làm tiền đề cho hoạt động THQCT được thực hiện một cách chính xác, nếu có

sai sót, vi phạm trong việc thực hiện kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai

đoạn điều tra sẽ kéo theo sự vi phạm pháp luật của hoạt động THQCT. Tuy

nhiên, trong giai đoạn điều tra khi hoạt động THQCT của VKS được thực

hiện cũng sẽ làm tiền đề phát sinh hoạt động kiểm sát.

Thứ ba, khi truy tố bị can ra Toà án để xét xử, tức là VKS đã THQCT

thể hiện qua việc ban hành Cáo trạng hoặc quyết định truy tố. Muốn bảo đảm

quyết định truy tố có căn cứ phải dựa trên cơ sở của kết quả hoạt động kiểm

sát điều tra vụ án của VKS, nếu thực hiện tốt hoạt động kiểm sát điều tra,

VKS sẽ nắm được nội dung của vụ án, những tình tiết buộc tội, tình tiết gỡ tội

của bị can …, đó chính là căn cứ vững chắc cho việc truy tố đúng người, đúng

tội, đúng pháp luật, ngược lại, nếu VKS thực hiện không tốt hoạt động kiểm

sát điều tra có thể dẫn đến việc truy tố oan, sai.

Thứ tư, trong hoạt động điều tra vụ án hình sự, THQCT là việc VKS

thực hiện các biện pháp pháp luật và trực tiếp quyết định các vấn đề về tố

tụng trong hoạt động điều tra nhằm mục đích chứng minh tội phạm và người

phạm tội cũng như hành vi phạm tội của họ. Kiểm sát điều tra là việc VKS

thực hiện các biện pháp kiểm sát, mục đích nhằm bảo đảm các hoạt động điều

tra được tiến hành một cách đúng đắn, đầy đủ, khách quan theo đúng trình tự,

thủ tục, nội dung của pháp luật quy định. Hai lĩnh vực này song song tồn tại

41

từ khi giải quyết nguồn tin về tội phạm cho đến khi bản án có hiệu lực pháp

luật. Nếu làm tốt nhiệm vụ THQCT sẽ hỗ trợ đắc lực cho hoạt động kiểm sát

thực hiện vai trò của mình, như tạo điều kiện cho hoạt động kiểm sát tiếp cận

các biện pháp điều tra, phát hiện, khắc phục vi phạm pháp luật về tố tụng; làm

tốt nhiệm vụ kiểm sát sẽ giúp cho công tác THQCT phát huy khả năng quyết

định quá trình tố tụng, như bảo đảm việc khởi tố, yêu cầu khởi tố, quyết định

áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, huỷ các quyết định trái

pháp luật của Cơ quan điều tra một cách có căn cứ, đúng pháp luật.

Tiểu kết chương 1

Với các nội dung trình bày trong Chương 1, luận văn tập trung phân

tích những vấn đề lý luận cơ bản về THQCT như khái niệm, vị trí, vai trò, ý

nghĩa, quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự về thực hành quyền

công tố trong giai đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác của VKSND. Bên cạnh đó, tác giả cũng

phân tích về mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra - VKSND trong việc

điều tra và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, cũng là những yếu tố quan

trọng để nâng cao chất lượng công tác THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ

án hình sự của VKSND.

Nhận thức những vấn đề lý luận được trình bày nêu trên là cơ sở quan

trọng để phân tích, đánh giá thực trạng công tác THQCT trong giai đoạn điều

tra các vụ án vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác của VKSND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Từ đó đề ra các

phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả THQCT trong giai đoạn điều tra

loại án này.

42

Chương 2

THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI

ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY

TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN

THÀNH PHỐ BIÊN HÒA,

TỈNH ĐỒNG NAI

2.1. Tình hình, đặc điểm có liên quan đến thực hành quyền công tố

trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác

2.1.1. Tình hình tội phạm

Tội phạm hình sự nói chung và tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng trên địa bàn thành phố Biên

Hòa, đa số đều được thực hiện với phương thức thủ đoạn đơn lẻ, chưa có tính

tổ chức cao, tuy nhiên tính chất mức độ ngày càng tinh vi, phức tạp và một số

loại tội phạm có đông đối tượng tham gia, đối tượng phạm tội cũng có phần

trẻ hóa. Nguyên nhân chủ yếu của tội phạm là do thành phố Biên Hòa là nơi

đông dân cư với nhiều dân nhập cư, và tập trung khá nhiều khu công nghiệp

nên thu hút nguồn lao động từ các địa phương khác đến, một số đối tượng xấu

trà trộn vào đại bàn, một bộ phận thanh thiếu niên có lối sống thực dụng,

hưởng thụ, nghiện hút,… đã thực hiện tội phạm.

Căn cứ vào báo cáo tổng kết năm của VKSND thành phố Biên Hòa từ

năm 2013 đến năm 2018, thể hiện về tình hình tội phạm nói chung và Tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng,

chúng ta nhận thấy trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai các tội

phạm được thực hiện có xu hướng giảm. Các tội phạm chủ yếu được thực

hiện là các tội phạm về ma túy, các tội xâm phạm sở hữu và các tội xâm phạm

tính mạng, sức khỏe của con người. Trong đó, Tội cố ý gây thương tích hoặc

43

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nằm trong nhóm các tội xâm phạm

tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm cũng có chiều hướng giảm chung

với các loại tội phạm khác nhưng không đáng kể. Đối với tội danh này, từ

thực tiễn trong công tác cho thấy vì tính chất phức tạp của nó nên hầu hết các

vụ án được khởi tố đều là kết quả của cả quá trình xác minh, thu thập tài liệu

chứng cứ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Do

đó, VKSND thành phố Biên Hòa đã chủ động tích cực, phối hợp với Cơ quan

điều tra ngay từ giai đoạn ban đầu này để đảm bảo cho quá trình khởi tố và xử

lý vụ án được khách quan, chính xác và đúng quy định của pháp luật, đảm

bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.

2.1.2. Cơ cấu tố chức của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa,

tỉnh Đồng Nai

VKSND là cơ quan THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Qua đó, VKSND có nhiệm vụ bảo vệ

Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế

độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp

của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm

chỉnh và thống nhất.

VKSND có cơ cấu tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc của các cơ

quan trong bộ máy Nhà nước. Vị trí của VKSND được xác lập trong Hiến

pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ở nước ta hiện nay, bộ

máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát

giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Theo Điều 40 Luật tổ chức VKSND năm 2014, hệ thống Viện kiểm sát

nhân dân bao gồm: VKSND Tối cao; VKSND cấp cao; VKSND tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ương; VKSND cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc

44

tỉnh và tương đương; Viện kiểm sát quân sự các cấp.

VKSND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai là VKSND cấp huyện, là

cấp cuối cùng trong hệ thống các cơ quan VKSND, đóng một vai trò cực kỳ

quan trọng trong hệ thống VKSND bởi là cấp giải quyết phần lớn các vụ án

mà Viện kiểm sát thụ lý và giải quyết.

Về cơ cấu tổ chức của VKSND thành phố Biên Hòa:

- Về biên chế: VKSND thành phố Biên Hòa được VKSND tỉnh Đồng

Nai phân bổ 50 biên chế nhưng hiện mới chỉ được giao 43 biên chế, trong đó

có 42 đồng chí là đảng viên. Tổng số KSV là 34 người (gồm 4 KSV trung

cấp, 30 KSV sơ cấp)

- Về trình độ nghiệp vụ VKSND thành phố Biên Hòa có: 03 thạc sĩ

luật, 39 cử nhân luật, 01 Trung cấp.

Căn cứ theo tính chất, đặc thù và số lượng công việc cụ thể của đơn vị,

lãnh đạo VKSND thành phố Biên Hòa phân nhiệm vụ phụ trách 04 bộ phận

nghiệp vụ, cụ thể như sau:

- Viện trưởng phụ trách công tác chung và bộ phận văn phòng tổng

hợp, thống kê tội phạm và kiểm sát, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong

hoạt động tư pháp;

- 01 Phó Viện trưởng phụ trách bộ phận THQCT, kiểm sát điều tra,

kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự về án kinh tế, chức vụ, kiểm sát việc tạm

giữ, tạm giam và thi hành án hình sự. Tổng số cán bộ KSV của bộ phận này là

13 người;

- 01 Phó Viện trưởng phụ trách bộ phận thực hành quyền công tố, kiểm

sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án trật tự xã hội, ma túy, kiểm sát tin báo,

tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố. Tổng số cán bộ KSV của bộ phận này là

13 người;

- 01 Phó Viện trưởng phụ trách bộ phận kiểm sát giải quyết các vụ, việc

45

dân sự, hôn nhân và gia đình, vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh thương

mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật, kiểm sát thi

hành án dân sự, án hành chính.

Trước yêu cầu đặt ra trong công tác kiểm sát với khối lượng công việc

ngày càng nhiều, số lượng án luôn cao nhất tỉnh Đồng Nai (chiếm khoảng

30% tổng số án do ngành kiểm sát Đồng Nai thụ lý giải quyết), VKSND

thành phố Biên Hòa đã từng bước củng cố, tăng cường, ngày càng hoàn thiện

về tổ chức và hoạt động, về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu của công việc, hoàn

thành các chỉ tiêu nghiệp vụ hàng năm, hoàn thành chức năng, nhiệm vụ theo

quy định của pháp luật. Từng cán bộ VKSND thành phố Biên Hòa từ Ban

lãnh đạo cho đến cán bộ, KSV ngày càng nâng cao tinh thần trách nhiệm,

nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị để phục vụ tốt

hơn cho công tác trong tình hình mới.

2.2. Công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ

án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ

thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

2.2.1. Những kết quả đạt được

Từ thực tiễn công tác THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, VKSND

thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã đạt được những kết quả nhất định.

Trong 06 năm từ năm 2013 đến năm 2018, VKSND thành phố Biên Hòa đã

tham gia THQCT đối với trên 6.000 tin báo, trong số này đã khởi tố 573 vụ án

- 829 bị can về tội cố ý gây thương tích và tất cả các bị can sau này bị truy tố

xét xử đều đúng người đúng tội, không ai bị oan, sai.

Từng cán bộ, KSV của VKSND thành phố Biên Hòa ngày càng nhận

thức đầy đủ và thực hiện tốt hơn các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của

THQCT trong hoạt động điều tra. Bảo đảm việc phát hiện, khởi tố, điều tra,

46

truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra oan, sai,

bỏ lọt tội phạm.

Các KSV của VKSND thành phố Biên Hòa đều xác định được tầm

quan trọng của từng thao tác nghiệp vụ THQCT và có định hướng điều tra xác

minh ngay từ đầu, luôn tích cực nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án từ giai đoạn giải

quyết tin báo tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố, vận dụng đúng các quy

định của BLHS, BLTTHS và các văn bản quy phạm pháp luật khác trong

công tác xử lý tin báo và xử lý án.

Việc bảo đảm cho công tác khởi tố vụ án, khởi tố bị can đúng pháp luật

luôn được chú trọng. KSV của VKSND thành phố Biên Hòa đề ra yêu cầu

điều tra ngay từ khi thụ lý vụ án, quan tâm đến các dấu hiệu cơ bản của tội cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác để đinh

hướng điều tra, tập trung các tình tiết cần phải chứng minh, các tài liệu chứng

cứ cần phải thu thập và luôn bám sát hoạt động điều tra, để vụ án được thu

thập đầy đủ chứng cứ, xác định đúng và đầy đủ tội danh, khung hình phạt áp

dụng và không để bỏ sót những người đồng phạm khác trong vụ án.

Quá trình thụ lý các vụ án hình sự, KSV luôn chấp hành tốt việc

THQCT trong hoạt động điều tra. Hầu hết các vụ án đều có yêu cầu điều tra

và các bản trích cứu, phiếu đề xuất trong các giai đoạn tố tụng. Việc đề ra yêu

cầu điều tra luôn bám sát các quy định của pháp luật cũng như quy chế nghiệp

vụ của ngành, chủ động phối hợp với Điều tra viên để giải quyết những khó

khăn vướng mắc trong suốt quá trình điều tra, đảm bảo xử lý vụ án đúng quy

định pháp luật. Việc đề ra yêu cầu điều tra của VKSND thành phố Biên Hòa

được KSV coi trọng thực hiện. Đa số yêu cầu điều tra được ban hành đều đảm

bảo chất lượng, định hướng được cho quá trình điều tra các vụ án.

Đối với hoạt động phê chuẩn khởi tố bị can, phê chuẩn các quyết định

của Cơ quan điều tra đều được thực hiện có căn cứ, đúng quy định của pháp

47

luật. Đối với các trường hợp chưa đầy đủ căn cứ thì VKS thực hiện trao đổi

với Cơ quan điều tra để bổ sung tài liệu chứng cứ hoặc từ chối việc phê

chuẩn. Từ đó không có trường hợp nào bị khởi tố oan, sai. Các vụ án đều

được khởi tố đúng người, đúng tội.

Các cán bộ, KSV của VKSND thành phố Biên Hòa đã chủ động thực

hiện các quyền hạn được quy định trong BLTTHS. Giữa các chủ thể THQCT

trong giai đoạn điều tra vụ án có sự phối hợp chặt chẽ và thông tin kịp thời,

góp phần tăng hiệu quả trong hoạt động THQCT và kịp thời xử lý giải quyết

các vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Trong thời gian

từ năm 2013 đến năm 2018, VKSND thành phố Biên Hòa đã yêu cầu Cơ quan

điều tra khởi tố 06 bị can Tội cố ý gây thương tích, thay đổi quyết định khởi

tố vụ án và thay đổi quyết định khởi tố bị can Tội cố ý gây thương tích đối với

03 vụ án – 03 bị can.

Đặc biệt, VKSND thành phố Biên Hòa không để xảy ra tình trạng án

quá hạn luật định tại Cơ quan điều tra và không để án quá hạn tại VKS. Toàn

bộ án tồn từ năm cũ chuyển sang bảo đảm xử lý dứt điểm vào đầu quý 2 của

năm sau, thời hạn điều tra đều đảm bảo đúng theo quy định của BLTTHS.

Khi phát hiện Cơ quan điều tra, Điều tra viên có vi phạm thiếu sót,

VKS kịp thời kiến nghị để khắc phục vi phạm, đảm bảo cho quá trình giải

quyết vụ án. VKSND thành phố Biên Hòa đã ban hành 02 văn bản kiến nghị

yêu cầu Cơ quan điều tra xử lý kỷ luật đối với các Điều tra viên do vi phạm

pháp luật trong hoạt động điều tra vụ án cố ý gây thương tích. Các yêu cầu

của VKSND thành phố Biên Hòa đều đảm bảo chính xác, đúng pháp luật,

được Cơ quan điều tra chấp nhận, thực hiện một cách nghiêm túc.

Trong công tác THQCT ở giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, VKSND thành phố Biên

Hòa luôn quan tâm đẩy mạnh chủ trương “Tăng cường trách nhiệm công tố

48

trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”. Kinh nghiệm

của mỗi KSV sẽ được chia sẽ và phổ biến kinh nghiệm chung cho tất cả KSV,

Kiểm tra viên, chuyên viên trong cơ quan nhằm nâng cao kỹ năng THQCT

cho từ cán bộ, KSV.

Thông qua các cuộc họp liên ngành hàng tháng, VKS đã kiến nghị các

biện pháp phòng ngừa tội phạm như khởi tố điều tra ngay những vụ việc có

dấu hiệu tội phạm, tăng cường điều tra, làm rõ truy bắt các đối tượng phạm tội

bỏ trốn, tập trung truy quét, trấn áp tội phạm và tệ nạn xã hội tại một số địa

bàn trọng điểm. Phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra trong công tác rà soát

và đẩy nhanh tiến độ phê chuẩn các lệnh quyết định trong những đợt cao điểm

tấn công trấn áp tội phạm trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Đơn vị đã thực hiện Nghị quyết 37/2012/QH13 về công tác phòng

chống vi phạm pháp luật và tội phạm, mở và lập sổ theo dõi vi phạm. Tổng

hợp các nguyên nhân, điều kiện phát sinh vi phạm và tội phạm để kiến nghị

các cơ quan nhà nước nhằm hạn chế việc xảy ra vi phạm. Đồng thời kiến nghị

đối với CQCSĐT Công an thành phố Biên Hòa và một số cơ quan khác trong

quá trình thực hiện nhiệm vụ.

Đạt được kết quả trên là do:

- Thứ nhất, về công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành.

Hàng năm, VKSND thành phố Biên Hòa trên cơ sở kế hoạch công tác,

từng bộ phận, mỗi cán bộ, KSV đăng ký thi đua theo các tiêu chuẩn về ý thức

tổ chức kỷ luật, tinh thần học tập nâng cao trình độ và kết quả thực hiện chức

trách nhiệm vụ được giao. Hàng tháng có kiểm điểm đánh giá kết quả đã thực

hiện theo chỉ tiêu kế hoạch đề ra, tìm ra nguyên nhân, đề ra các biện pháp

tháo gỡ khắc phục yếu kém. Tổ chức quản lý cán bộ công chức chặt chẽ,

không để xảy ra trường hợp cán bộ vi phạm bị xử lý, kỷ luật.

Chi bộ cùng Ban lãnh đạo cơ quan đề ra nghị quyết triển khai đến từng

49

cán bộ KSV hưởng ứng tích cực các đợt thi đua của ngành và đề ra các tiêu

chí cụ thể rõ ràng để tổ chức thực hiện. Thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW

ngày 02-6-2005 của Bộ chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020”, VKSND thành phố Biên Hòa đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tố

tụng tập trung giải quyết dứt điểm các vụ án trọng điểm đã được khởi tố điều

tra; hạn chế đáng kể việc trả hồ sơ điều tra bổ sung, không có trường hợp điều

tra, truy tố oan, sai góp phần to lớn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội

phạm, đảm bảo ổn định an ninh, chính trị tại địa phương.

Lãnh đạo luôn tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành; đoàn

kết, gương mẫu trong công việc, lối sống và thực hiện chuẩn mực đạo đức của

người cán bộ kiểm sát; phối hợp cấp ủy Đảng cơ sở triển khai thực hiện có

hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh

đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối

sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

VKSND thành phố Biên Hòa thường xuyên duy trì sinh hoạt sáng đầu

giờ để kịp thời quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, những văn bản

pháp luật để cán bộ công chức cơ quan thực hiện kịp thời. Tiếp tục đổi mới

chỉ đạo điều hành, đề ra các quy chế cụ thể, đầy đủ, sự phối hợp giữa thủ

trưởng - cấp ủy, giữa thủ trưởng và Ban chấp hành tổ Công đoàn. Thực hiện

tích cực cuộc vận động do VKSND Tối cao phát động là xây dựng đội ngũ

cán bộ công chức ngành kiểm sát: “Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh

thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”.

- Thứ hai, về công tác tổ chức quán triệt, triển khai thi hành các đạo

luật mới về tư pháp và hướng dẫn nghiệp vụ.

Tập thể cán bộ công chức cơ quan tham gia đầy đủ lớp tập huấn chuyên

sâu các Bộ luật mới sửa đổi. Cơ quan cũng đã trang bị 100% các Bộ luật mới

để cán bộ công chức phục vụ tốt trong công tác.

50

- Thứ ba, công tác tổ chức, cán bộ.

Thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức, thông

qua việc học tập nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Tập trung quán

triệt thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI về xây dựng Đảng, Chỉ thị

số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh “Học tập và làm theo

tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và phong trào thi đua làm theo lời dạy của

Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ Kiểm sát “Công minh, chính trực,

khách quan, thận trọng, khiêm tốn”.

2.2.2.Tồn tại, hạn chế

Hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã đạt được nhiều kết quả tốt.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, không ít những hạn chế, tồn tại thiếu sót, cụ thể:

Hạn chế của người tiến hành tố tụng

- VKS chậm ban hành yêu cầu xác minh khi THQCT và kiểm sát việc

giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố (gọi tắt là tin báo).

Nhiều yêu cầu xác minh còn chung chung, không kịp thời dẫn đến giải quyết

tin báo chậm, chưa đảm bảo thời hạn.

- Trong khi THQCT, một số KSV vẫn còn chưa phát huy hết tinh thần

trách nhiệm của mình, còn nể nang, chưa kiên quyết, chưa chủ động trong quá

trình điều tra xử lý vụ án, phần lớn thời gian điều tra để cho Điều tra viên tiến

hành các hoạt động điều tra mà chưa có sự sâu sát, kiểm sát chặt chẽ, thường

xuyên dẫn đến hoạt động thu thập chứng cứ, sử dụng, đánh giá chứng cứ để

chứng minh tội phạm của CQĐT chưa đầy đủ và chặt chẽ, có những vi phạm

nghiêm trọng về trình tự, thủ tục tố tụng, gây khó khăn cho công tác phê

chuẩn, lệnh, quyết định của cơ quan điều tra và công tác giải quyết án kịp

thời. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến VKS phải từ chối phê

chuẩn lệnh, quyết định của cơ quan điều tra, phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung

51

đối với các vụ án cố ý gây thương tích trong thời gian qua. Theo số liệu thống

kê của VKSND thành phố Biên Hòa từ năm 2013 đến năm 2018, VKS đã từ

chối phê chuẩn 03 trường hợp bắt khẩn cấp, 03 trường hợp gia hạn tạm giữ,

không phê chuẩn khởi tố bị can và lệnh tạm giam 06 trường hợp, vẫn còn để

một số vụ án cố ý gây thương tích VKS trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ

sung do nguyên nhân chủ quan từ KSV.

- Một số yêu cầu điều tra của KSVchưa được các Điều tra viên thực

hiện triệt để, từ đó dẫn chất lượng điều tra một số vụ án cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chưa cao và phải trả hồ sơ điều

tra bổ sung do chính những yêu cầu đã đặt ra mà chưa được thực hiện. Mặt

khác, quá trình điều tra không toàn diện dẫn đến có những vụ án phải trả hồ

sơ điều tra bổ sung do thiếu chứng cứ buộc tội, tình tiết định tội, định khung

hình phạt, tình tiết giảm nhẹ tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Trình độ, năng lực chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn của KSV,

Điều tra viên chưa đồng đều và chưa thống nhất. Một số KSV, Điều tra viên

còn hạn chế về trình độ chuyên môn khi thực hiện nhiệm vụ, một số cán bộ

KSV trẻ chưa có thâm niên công tác nên chưa có nhiều kinh nghiệm trong

việc giải quyết đối với loại tội phạm này.

Hạn chế về quy định của pháp luật

Quy định pháp luật chính là những căn cứ pháp lý cho hoạt động

THQCT của VKSND nói chung và cho hoạt động THQCT ở giai đoạn điều

tra các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác của VKSND thành phố Biên Hòa nói riêng. Tuy nhiên, điều luật quy

định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác chưa rõ ràng, cụ thể, nhiều cách hiểu khác nhau nên việc áp dụng chưa

thống nhất mà không có văn bản hướng dẫn cụ thể dẫn đến các cơ quan tố

tụng và người áp dụng pháp luật có nhận thức và quan điểm khác nhau, nhất

52

là về tình tiết định tội, định khung hình phạt như “Có tính chất côn đồ”,

“Dùng hung khí nguy hiểm” …nên càng gây khó khăn cho quá trình xử lý.

Cơ sở pháp lý đầy đủ, thống nhất, phù hợp, rõ ràng, cụ thể sẽ giúp cho

hoạt động của các chủ thể trong THQCT ở giai đoạn điều tra các vụ án cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thực hiện

tốt, có hiệu quả cao, nhằm bảo đảm đúng người, đúng tội, tránh oan, sai, tránh

bỏ lọt tội phạm.

Chưa quy định về việc người bị hại từ chối giám định tỉ lệ thương tích

trong trường hợp:

+ Ngay từ khi chưa khởi tố vụ án, khởi tố bị can người bị hại đã từ chối

đi giám định tỉ lệ thương tật và bỏ trốn nhưng Cơ quan giám định không thể

căn cứ vào bệnh án để giám định mà phải thăm khám thực tế trên cơ thể mặc

dù thương tích của bị hại thể hiện tại hồ sơ là rất nặng có thể trên 60%, điều

này dẫn tới việc không thể khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bỏ lọt tội phạm.

+ Người bị hại đã có kết luận giám định về tỉ lệ thương tích. Căn cứ

vào kết quả giám định, Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can

nhưng bị can khiếu nại và cho rằng kết luận giám định là không khách quan,

không đúng (theo hướng bất lợi cho bị can) nên đề nghị giám định lại thương

tật của người bị hại. Xét thấy, đề nghị của bị can là có cơ sở, cơ quan tiến

hành tố tụng có quyết định trưng cầu giám định lại nhưng người bị hại không

bỏ trốn làm cho việc xử lý vụ án bị kéo dài, có trường hợp không xử lý được.

2.2.3.Nguyên nhân

* Về nguyên nhân khách quan

Hệ thống pháp luật làm cơ sở pháp lý cho hoạt động THQCT nói

chung, trong THQCT ở giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng còn chưa đầy đủ và đồng

bộ, một số quy định còn chưa phù hợp với thực tiễn. Một khái niệm khác

53

chưa được làm rõ, đó là khái niệm "Có tính chất côn đồ". Khái niệm côn đồ

được hiểu là hành động của những đối tượng coi thường pháp luật, luôn luôn

gây rối trật tự trị an, sẵn sàng dùng vũ lực và thích dùng vũ lực để uy hiếp

người khác phải khuất phục mình, vô cớ hoặc chỉ vì một duyên cớ nhỏ nhặt là

đâm chém... Như vậy, có thể hiểu, có tính chất côn đồ là trường hợp phạm tội

có tính hung hãn cao độ, coi thường tính mạng, sức khoẻ của người khác; gây

thương tích không có nguyên cớ hoặc phạm tội chỉ vì lý do nhỏ nhen; đâm,

chém, đánh người khác một cách dã man... Tuy nhiên, không phải mọi trường

hợp vô cớ phạm tội hoặc phạm tội vì một duyên cớ nhỏ nhặt đều xác định là

biểu hiện của "tính côn đồ". Trường hợp bị cáo phạm tội vì duyên cớ nhỏ

nhặt, nhưng trước đó bị cáo có nhân thân tốt thì trường hợp cụ thể này không

nên áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất côn đồ. Có quan điểm cho rằng,

theo hướng dẫn của TAND Tối cao thì áp dụng tình tiết "có tính chất côn đồ"

đối với những "trường hợp vô cớ phạm tội hay phạm tội vì một nguyên cớ

nhỏ nhặt" và bị cáo là những kẻ "luôn luôn phá rối trật tự trị an, thích dùng vũ

lực để uy hiếp người khác, những kẻ đâm thuê chém mướn"; những trường

hợp phạm tội vì một nguyên cớ nhỏ nhặt hoặc vô cớ phạm tội thì đều phải coi

đó là hành vi có tính côn đồ mà không phân biệt trước khi phạm tội bị cáo có

nhân thân tốt hay không. Như vậy, do nội dung hướng dẫn chưa đầy đủ, rõ

ràng, nên trong thực tiễn áp dụng vẫn còn có những quan điểm chưa thống

nhất.

BLTTHS quy định khi THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án hình

sự KSV có quyền "đề ra yêu cầu điều tra". Tuy nhiên trên thực tế, nhiều vụ

án yêu cầu của KSV chưa được ĐTV nghiêm túc thực hiện dẫn đến những vi

phạm trong hoạt động tố tụng ở giai đoạn điều tra nhưng không có chế tài có

tính chất bắt buộc ĐTV phải thực hiện. Nhiều chế định thể hiện quyền hạn và

nhiệm vụ của VKSND, quyền hạn của KSV còn chung chung chưa cụ thể dẫn

54

đến vướng mắc, gây khó khăn cho KSV khi THQCT trong giai đoạn điều tra

vụ án

Quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKSND trong hoạt động điều tra tội

phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác vẫn

còn chưa chặt chẽ, thường xuyên. Vẫn có tình trạng ở một số vụ việc, chưa

tìm được tiếng nói chung trong quá trình giải quyết hoặc còn nể nang, ngại va

chạm giữa các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Tinh thần đấu tranh phòng

chống tội phạm cố ý gây thương tích của một bộ phận cán bộ ở CQĐT,

VKSND chưa cao, còn có tâm lý sợ bị trả thù... dẫn đến thiếu kiên quyết

trong điều tra, làm giảm hiệu quả công tác đấu tranh chống tội phạm.

Cơ sở vật chất, trang thiết và kinh phí nghiệp vụ của ngành Kiểm sát

còn thiếu thốn, làm ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động công tố, nhất là

đối với hoạt động khám nghiệm hiện trường thu thập dấu vết.

Chế độ đãi ngộ đối với KSV còn nhiều bất cập, chưa đủ đảm bảo ổn

định đời sống làm ảnh hưởng đến bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm của KSV.

* Về nguyên nhân chủ quan

Trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm của một số cán bộ, KSV vẫn còn

hạn chế. Mặc dù, trình độ lý luận chính trị, năng lực chuyên môn nghiệp vụ

của cán bộ, KSV đã được nâng cao, tuy nhiên một bộ phận, cán bộ, KSV còn

hạn chế về năng lực thực tế, kinh nghiệm trong quá trình giải quyết án nên

chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.

Số lượng KSV còn thiếu, phải kiêm nhiệm nhiều khâu công tác dẫn đến

chất lượng công việc THQCT chưa cao chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách

tư pháp. Với yêu cầu nâng cao chất lượng THQCT, gắn công tố với hoạt động

điều tra như hiện nay, đòi hỏi KSV phải bám sát và tham gia ngay vào các

hoạt động điều tra ban đầu và còn thực hiện nhiều nhiệm vụ khác. Nhưng số

lượng KSV thuộc bộ phận hình sự của VKSND thành phố Biên Hòa hiện chỉ

55

có 30 cán bộ KSV trên tổng số việc trung bình mỗi năm phải xử lý là khoảng

1.000 tin báo và khoảng 800 vụ án hình sự, trong khi KSV thường xuyên phải

tham gia khám nghiệm hiện trường, tham gia đối chất, nhận dạng, thay nhau

đi học và tập huấn nghiệp vụ dẫn đến quá tải.

Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, KSV còn nặng nề về lý luận, chưa chú

ý rèn luyện kỹ năng THQCT chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp mà

Đảng và Nhà nước đặt ra cho ngành kiểm sát trong thời kỳ công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế.

Năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một số KSV vẫn còn hạn

chế. Nhiều trường hợp chưa nắm vững các quy định pháp luật hình sự và tố

tụng hình sự, không xác định đúng đặc trưng của tội phạm, các yếu tố cấu

thành tội phạm, còn lúng túng trong thao tác nghiệp vụ. Nhiều KSV chưa chịu

khó học hỏi kinh nghiệm, nghiên cứu chưa đầy đủ các quy định của pháp luật,

quy chế nghiệp vụ ngành, không kịp thời cập nhập các văn bản quy phạm

pháp luật, hướng dẫn mới để kịp thời thực hiện.

Hoạt động tổng kết rút kinh nghiệm, xây dựng các chuyên đề của

VKSND tỉnh Đồng Nai trong việc nâng cao chất lượng THQCT các vụ án

hình sự được chú trọng thực hiện, song hiệu quả, chất lượng chưa cao, còn

nặng nề về báo cáo số liệu, chưa rút ra được bài học kinh nghiệm trong thực

tiễn cho KSV học hỏi để vận dụng, áp dụng vào công tác.

Tiểu kết chương 2

Nội dung chương 2, tác giả sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân

tích, thống kê, so sánh để làm rõ thực trạng THQCT trong giai đoạn điều tra

của VKSND nói chung và các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác của VKSND thành phố Biên Hòa nói riêng.

Trên cơ sở các số liệu thống kê của VKSND thành phố Biên Hòa trong 06

năm (2013 - 2018), tác giả phân tích làm rõ những ưu điểm, kết quả đạt được

56

về lĩnh vực hoạt động này của VKSND thành phố Biên Hòa và nguyên nhân

kết quả đạt được.

Nhìn chung, công tác THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của VKSND

thành phố Biên Hòa đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ trong đấu

tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, hoạt động THQCT trong giai đoạn

điều tra của VKSND thành phố Biên Hòa những năm qua còn không ít những

hạn chế, tồn tại, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm

trong tình hình mới. Từ đó, yêu cầu phải nâng cao chất lượng, hiệu quả công

tác THQCT trong giai đoạn điều tra của VKSND nói chung và công tác

THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác của VKSND thành phố Biên Hòa nói riêng

là một yêu cầu cấp thiết. Do đó, đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu

quả công tác THQCT là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của

ngành kiểm sát trong công cuộc cải cách tư pháp trong thời gian tới.

57

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC

HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN

CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE

CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA,

TỈNH ĐỒNG NAI

3.1. Phương hướng chung

Quyền công tố của VKSND luôn được Đảng ta đặc biệt quan tâm, chỉ

đạo và đưa ra những định hướng mang tính chiến lược trong công cuộc cải

cách tư pháp. Đầu tiên là Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ

Chính trị, nêu rõ: Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp; tăng cường công

tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp

oan, sai trong bắt giữ. Sau đó là Nghị quyết 49-NĐ/TW ngày 02/6/2005 của

Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” tiếp tục khẳng

định “Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay

là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”.

Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại

hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, nêu rõ: Viện kiểm sát được tổ

chức phù hợp với hệ thống tổ chức Tòa án, bảo đảm tốt hơn các điều kiện để

Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công

tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố, gắn công

tố với hoạt động điều tra[2].

Như vậy, gần 10 năm qua Đảng ta không ngừng tăng cường chỉ đạo đổi

mới, hoàn thiện các cơ quan tư pháp, trong đó VKS được tăng cường bảo đảm

chức năng THQCT, bảo đảm cho quyền công tố Nhà nước được phát triển

58

vững mạnh, phục vụ tốt hơn yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong

tình hình mới.

Từ các đường lối, quan điểm nêu trên, ngành kiểm sát cần có định

hướng cụ thể cho việc nâng cao hiệu quả công tác THQCT như sau:

Bảo đảm tính độc lập của Viện kiểm sát trong hoạt động THQCT:

Hoạt động THQCT của VKSND có ảnh hưởng rất lớn đến quyền con

người, quyền công dân nên phải bảo đảm cho VKSND được hoàn toàn khách

quan, độc lập trong hoạt động của mình.

Thời gian đầu, cơ quan công tố nước ta được đặt trong hệ thống cơ

quan Tòa án cho đến năm 1958 thì tách ra và độc lập trong hoạt động. Ngay

sau đó, Luật tổ chức VKSND ngày 15/7/1960 được ban hành, ngành kiểm sát

được tổ chức thành hệ thống từ Trung ương đến địa phương, trực thuộc Quốc

hội nên được bảo đảm tính độc lập cho đến nay. Tuy nhiên trong thực tế hoạt

động, một số cơ quan VKS vẫn tranh thủ ý kiến cấp ủy, họp liên ngành… để

tạo sự thống nhất trong quan điểm xử lý nhưng không biết rằng đang từ bỏ

tính độc lập mà pháp luật quy định cho ngành. Một số cấp ủy địa phương lại

can thiệp, chỉ đạo quá sâu vào quá trình giải quyết các vụ án. Từ đó rất dễ dẫn

tới chủ quan, vì sức ép nên dễ làm bị oan, sai. Để có một nền công tố mạnh,

cẩn đảm bảo cho cơ quan công tố thực sự độc lập trong công tác THQCT.

Tăng cường tinh thần trách nhiệm của lãnh đạo và KSV trong hoạt

động THQCT:

Tại Hội nghị tổng kết công tác năm của ngành Kiểm sát năm 1967,

đồng chí Trường Chinh – Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nhấn

mạnh: “Công tố là một biện pháp chuyên chính trong bất cứ Nhà nước nào.

Không có cơ quan Nhà nước nào có thể thay thế ngành Kiểm sát để sử dụng

quyền công tố. Bắt, giam, ... truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội, đúng

pháp luật hay không, điều đó chính là Viện kiểm sát phải trông nom, bảo đảm

59

làm tốt”[5]. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X

tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, khẳng định “…bảo đảm

tốt hơn các điều kiện để Viện kiểm sát thực hiện hiệu quả chức năng thực

hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm

công tố, gắn công tố với điều tra”.

Hiện nay Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 đã có hiệu

lực, quy định rõ VKSND phải có trách nhiệm đối với hầu hết các trường hợp

làm oan người vô tội, nhất là hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra. Do

vậy, lãnh đạo và KSV trong ngành kiểm sát phải tăng cường trách nhiệm

trong hoạt động THQCT, chỉ như vậy VKSND mới đáp ứng được yêu cầu

đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay.

Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong hoạt động THQCT của VKSND.

Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo đối với mọi tổ chức

chính trị - xã hội và cơ quan Nhà nước. Do đó, VKSND cũng không thể tách

rời sự lãnh đạo của Đảng. Hoạt động thực THQCT tuy đòi hỏi bảo đảm tính

độc trong hoạt động nghiệp vụ nhưng về quan điểm, đường lối công tố trong

từng thời kỳ phải được gắn chặt với sự lãnh đạo của Đảng. Đảng yêu cầu

VKS “tăng cường trách nhiệm công tố, gắn công tố với hoạt động điều tra”.

Sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện thông quan việc đề ra chủ trương,

đường lối, chính sách chỉ đạo hoạt động THQCT của VKSND. Viện kiểm sát,

với chức năng THQCT kết hợp với chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp

là công cụ hữu hiệu giúp cho Đảng, Nhà nước trấn áp tội phạm, bảo đảm cho

an ninh quốc gia và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Đảng tăng cường những cán bộ có năng lực của Đảng sang làm công

tác quản lý, lãnh đạo VKS các cấp nhằm tạo điều kiện cho VKS đủ mạnh để

đảm bảo công tác THQCT trong đấu tranh phòng, chống tội phạm hình sự.

60

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong

giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác.

3.2.1. Giải pháp nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ

cho cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng

Nâng cao nhận thức kiểm sát viên về công tác THQCT ở giai đoạn điều

tra vụ án hình sự

Nhận thức chuyên môn của kiểm sát viên về THQCT ở giai đoạn điều

tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác là nhân tố quan trọng quyết định hiệu quả của công tác THQCT ở

giai đoạn điều tra đối với loại án này. Cán bộ, kiểm sát viên thực hiện khâu

công tác này cần phải nhận thức đúng đắn về đối tượng, phạm vi, nội dung

của quyền công tố cũng như THQCT. Cần phân biệt các quyền năng pháp lý

nào khi thực hiện là nội dung QCT, quyền năng pháp lý nào thuộc quyền

kiểm sát các hoạt động điều tra để thấy được tính độc lập tương đối, nhưng

giữa hai quyền này không thể tách rời trong công tác THQCT vụ án.

Tăng cường và nâng cao nhận thức, tinh thần trách nhiệm của cán bộ,

KSV, ngoài ra cũng cần phải có giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm của cán

bộ, điều tra viên... có như vậy, các hoạt động THQCT nói chung và ở giai

đoạn điều tra nói riêng mới được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Đặc

biệt, cần nhận thức rõ mối quan hệ giữa VKS và Cơ quan điều tra trong hoạt

động tố tụng hình sự, trong đó nêu rõ quan hệ phối hợp và quan hệ chế ước

của VKS đối với cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự.

Nâng cao trình độ năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức của

Kiểm sát viên trong THQCT trong giai đoạn điều tra

Luật Tổ chức VKSND quy định rất cụ thể các tiêu chuẩn về trình độ và

phẩm chất, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, KSV, lãnh đạo VKSND.

61

Năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức và kinh nghiệm của KSV sẽ

giúp cán bộ, KSV có định hướng đúng đắn trong quá trình thực hiện chức

năng, nhiệm vụ cũng như trong giải quyết các vụ án hình sự. Đồng thời giúp

cán bộ, KSV vận dụng đúng pháp luật, có lý, có tình và không xa rời thực

tiễn, luôn chủ động với công việc được giao, hoàn thành nhiệm vụ. Vì vậy

nâng cao hiệu quả THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phải gắn liền với giải pháp

nâng cao năng lực đội ngũ KSV được phân công nhiệm vụ này. Để đạt được

mục tiêu này, cần thực hiện các giải pháp sau:

Một là, KSV phải nâng cao ý thức tự học, tự rèn luyện

Hoạt động THQCT là lĩnh vực công tác đặc thù, phải nghiên cứu rất

nhiều nguồn văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, phải phân tích chứng cứ,

đánh giá tâm lý người phạm tội…, do đó bắt buộc KSV phải nâng cao ý thức

tự học, tự rèn luyện về kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, đánh giá và tổng hợp chứng

cứ để có thể vận dụng, sử dụng có hiệu quả trong quá trình THQCT, đảm bảo

KSV phải “vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công

tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”.

Hai là , KSV phải nâng cao ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức, lối

sống, trình độ, năng lực

Do tính đặc thù của hoạt động THQCT đối với loại tội phạm này, vào

thời điểm xã hội phát triển theo cơ chế thị trường, cán bộ, kiểm sát viên phải

thường xuyên đối mặt với những tiêu cực của xã hội, hàng ngày phải tiếp xúc

với những chủ thể mà đa số là có tiền, có ảnh hưởng, có vị trí xã hội nhất

định. Nếu KSV thiếu bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp sẽ dễ bị mua

chuộc, lôi kéo, sa ngã dẫn tới tiêu cực trong công tác, gây ảnh hưởng xấu đến

uy tín ngành kiểm sát, làm giảm lòng tin của nhân dân. Chính vì vậy, KSV

phải tự rèn luyện ý thức chính trị, đi đôi với rèn luyện phẩm chất đạo đức.

62

Ngành kiểm sát phải nâng cao hoạt động tuyên truyền, giáo dục rèn luyện

thông qua công tác Đảng và quản lý cán bộ, đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, xử

lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

Ba là, tăng cường công tác tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ KSV.

BLTTHS có những quy định về trình tự, thủ tục tố tụng đối với vụ án

hình sự. Quy chế THQCT, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử vụ án hình sự

cũng nêu rõ về quy trình THQCT đối với vụ án hình sự nói chung. Tuy nhiên

từng loại tội phạm có những đặc điểm riêng, vì vậy công tác tập huấn và rút

kinh nghiệm quá trình THQCT đối với từng tội danh là nhu cầu cần thiết,

trong đó có tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác. Do đó, ngoài việc tập huấn cho KSV các kỹ năng cơ bản như: kiểm sát

khám nghiệm hiện trường, kiểm sát giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, kỹ

năng nghiên cứu hồ sơ, tổng hợp chứng cứ,... thì hàng năm, cần có chương

trình tập huấn chuyên sâu về kỹ năng THQCT đối với Tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác kết hợp với kỹ năng

THQCT đối với các Tội cố ý gây thương tích với các tội xâm phạm đến sức

khỏe khác; từ đó KSV nâng cao năng lực THQCT, kỹ năng đánh giá, phân

tích và định tội danh, xác định rõ các tình tiết tội và định khung hình phạt.

3.2.2. Giải pháp tăng cường công tác hướng dẫn luật

Qua nghiên cứu các vụ án cố ý gây thương tích trong thời gian qua

nhận thấy các cơ quan tiến hành tố tụng thường nhầm lẫn việc định tội danh

giữa Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

với Tội giết người (Điều 123 BLHS), cùng một hành vi, tính chất, hậu quả

tương tự nhau, có nơi định Tội cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả làm chết

người, có nơi định tội giết người. Ngoài ra, việc nhận định tình tiết “phạm tội

có tính chất côn đồ” chưa có sự khác nhau chưa thống nhất trong trong từ vụ

án cụ thể. Trong khi các văn bản hướng dẫn của ngành Tòa án, VKS chưa xác

63

định rõ các đặc trưng cơ bản để phân biệt ranh giới giữa các tội danh trên.

Từ thực tiễn công tác, theo tác giả luận văn khi nghiên cứu hướng dẫn

xử lý đối với tội phạm xâm phạm sức khỏe người khác cần hướng dẫn theo

hướng kết hợp đánh giá giữa ý thức chủ quan, hành vi khách quan và hậu quả

pháp lý, cụ thể: Hành vi sử dụng hung khí nguy hiểm tấn công vào vùng trọng

yếu trên cơ thể (đầu, cổ, ngực, bụng) dẫn đến hậu quả chết người thì mọi

trường hợp phải định tội danh giết người và chỉ định tội danh Cố ý gây

thương tích (có hậu quả chết người) khi tấn công vào các tay, chân nhưng do

mất máu cấp, không cấp cứu kịp thời dẫn đến tử vong. Hành vi sử dụng hung

khí có tính nguy hiểm cao, tấn công với cường độ không mạnh vào các vùng

trọng yếu trên cơ thể con người ( đâm, chém chỉ 01 cái) với lỗi cố ý gián tiếp

thì hậu quả đến đâu xử lý đến đó: Nếu hậu quả chết người thì định Tội giết

người, nếu hậu quả chết người không xảy thì xử lý về Tội cố ý gây thương

tích. Hành vi sử dụng hung khí nguy hiểm, tấn công vào các vùng trọng yếu

trên cơ thể con người với cường độ mạnh ( đâm, chém nhiều cái) nếu nạn

nhân không chết thì cũng phải xử lý Tội giết người.

Hướng dẫn áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất côn đồ”.

Theo tinh thần hướng dẫn tại Công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976

và tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Tòa án năm 1995, TAND Tối cao đã

giải thích về tình tiết “có tính chất côn đồ” như sau: Khái niệm côn đồ được

hiểu là hành động của những tên coi thường pháp luật, luôn luôn phá rối trật

tự trị an, sẵn sàng dùng vũ lực và thích (hay) dùng vũ lực để uy hiếp người

khác phải khuất phục mình, vô cớ hoặc chỉ vì một duyên cớ nhỏ nhặt là đâm

chém, thậm chí giết người. Hành động của chúng thường là xâm phạm sức

khoẻ, tính mạng, danh dự người khác, gây gổ hành hung người khác một cách

vô cớ hoặc vì một duyên cớ nhỏ nhặt..

Đối với trường hợp vô cớ gây thương tích thì quá trình áp dụng không

64

gặp khó khăn, vì đây đã thể hiện rõ bản chất côn đồ. Tuy nhiên để đánh giá

thế nào là “duyên cớ nhỏ nhặt” trong vụ việc cụ thể để xem xét hành vi của

người phạm tội có tính chất côn đồ hay không thì chưa có cách hiểu thống

nhất, đặc biệt là trong trường hợp người bị hại có lỗi là nguyên nhân dẫn đến

bị can thực hiện việc phạm tội. Từ thực tiễn áp dụng pháp luật, đề nghị nghiên

cứu hướng dẫn tình tiết phạm tội “có tính chất côn đồ” trong trường hợp này,

ngoài việc đánh giá đặc điểm nhân thân người phạm tội, cũng cần căn cứ vào

hành vi khách quan và lỗi của người bị hại để đánh giá cho chính xác, theo

hướng sau: Người bị hại không có hành vi đánh bị can trước, chỉ có lời nói cự

cải, dẫn đến mâu thuẫn nhưng người phạm tội có hành vi gây thương tích cho

người bị hại, thì đây là phạm tội có tính chất côn đồ. Trường hợp người bị hại

tấn công người có hành vi gây thương tích trước: Thì cần xác định tỷ lệ

thương tật gây ra (nếu có), tính chất mức độ của sự tấn công, để làm căn cứ

xác định hành vi người phạm tội trong trường hợp này có tính chất côn đồ

không. Người bị hại tấn công có cường độ liên tục, gây thương tích hoặc tổn

hại sức khoẻ người phạm tội; hoặc mặc dù không gây tổn thương nhưng là

nguyên nhân dẫn đến việc bị can bị ức chế tâm lý, phản kháng gây thương

tích cho nạn nhân, thì trường hợp này không phạm tội có tính chất côn đồ.

Tất cả các trường hợp có sự chuẩn bị hung khí đánh, đâm chém nhau

gây thương tích đều phải được định tội danh là phạm tội có tính chất côn đồ.

Đối với những vụ việc mâu thuẩn xảy ra trước đó như cải vã, đánh nhau

nhưng đã chấm dứt (về không gian và thời gian) hoặc đã được giải quyết

xong, nhưng sau đó người phạm tội tiếp tục lấy hung khí tìm để đánh, gây

thương tích thì phải xác định hành vi phạm tội có tính chất côn đồ.

Hướng dẫn tố tụng hình sự khi vụ án có nhiều đối tượng thực hiện hành

vi cố ý gây thương tích nhưng quá trình khởi tố điều tra chỉ xác định được

một số bị can, số còn lại không bắt được hoặc chưa xác định rõ thì cần tách vụ

65

án ra để tạm định chỉ, khi nào bắt bị can, đối tượng được sẽ phục hồi điều tra

vụ án, phục hồi điều tra bị can hoặc khởi tố bị can để xử lý, tránh trường hợp

vụ án đã xét xử nhưng khi phát hiện bị can mới thì không thể xử lý hoặc

không có căn cứ tính thời hạn điều tra.

Đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác thuộc khoản 1 Điều 134 BLHS, khởi tố nhiều bị can nhưng bị hại

chỉ rút yêu cầu khởi tố đối với 01 bị can thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã

có văn bản hướng dẫn vẫn tiếp tục điều tra, truy tố, xét xử. Tuy nhiên, hiện cơ

quan điều tra và Tòa án vẫn còn nhiều quan điểm cẩn đình chỉ điều tra vụ án

do bị hại đã rút yêu cầu khởi tố. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần đề

phối hợp với Bộ Công an, Toà án nhân dân tối cao sớm ban hành Thông tư

hướng dẫn rõ ràng để đảm bảo toàn áp dụng thống nhất.

Đối với việc việc người bị hại từ chối giám định tỉ lệ thương tích hoặc

bỏ trốn các cơ quan tố tụng cần đề nghị Bộ Y tế sốm ban hành văn bản

hướng dẫn việc giám định tỷ lệ thương tật dựa trên hồ sơ bệnh án của bị hại

tại bệnh viện để kết luận về tỷ lệ tổn thương cơ thể của bị hại.

Song song với việc với việc ban hành các văn vản hướng dẫn tố tụng,

hướng dẫn trong việc phân định tội danh và áp dụng các tình tiết tăng nặng

định khung như đã nêu trên, VKSND tối cao cũng cần phối hợp và đề nghị

Tòa án nhân dân tối cao tăng cường xây dựng án lệ trong xét xử loại tội này

3.2.3. Một số giải pháp khác

Tăng cường công tác chỉ đạo và kiểm tra của VKSND cấp trên đối với

VKSND cấp dưới

VKSND được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống

nhất, nên công tác quản lý, chỉ đạo, kiểm tra có vai trò và ý nghĩa quyết định

đến hiệu quả công tác. Để tăng cường hiệu quả công tác quản lý, lãnh đạo,

chỉ đạo điều hành trong ngành Kiểm sát, cần phải quán triệt và tổ chức thực

66

hiện tốt một số nội dung sau:

- Từng cấp Kiểm sát, từng cán bộ, KSV phải nhận thức và quán triệt

sâu sắc nguyên tắc tổ chức và hoạt động của ngành theo đúng quy định của

Luật tổ chức VKSND. Mọi hoạt động quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo điều hành

đều do Viện trưởng của cơ quan thực hiện, các cán bộ, KSV trong đơn vị phải

tuyệt đối chấp hành, tuân thủ sự chỉ đạo điều hành của Viện trưởng. Quyết

định cuối cùng thuộc về Viện trưởng.

- Công tác thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn về nghiệp vụ phải được thực

hiện một cách thường xuyên, liên tục, kịp thời phát hiện những sai phạm,

thiếu sót. Từ đó, VKS cấp trên cần ban hành các kết luận thanh tra, kiểm tra,

văn bản rút kinh nghiệm đối với những sai phạm trong công tác THQCT để

VKS cấp dưới rút kinh nghiệm và phổ biến kịp thời đến từng cán bộ KSV.

Tăng cường trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng, KSV

Thực hiện nghiêm Chỉ thị số 06/CT-VLSNDTC và Chỉ thị số 04/CT-

VLSNDTC ngày 10/07/2015 của Viện trưởng VKSND Tối cao về tăng cường

các biện pháp chống oan, sai… Trách nhiệm của KSV, Viện trưởng, Phó

Viện trưởng VKSND trong hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra là sự chủ

động của VKS đối với các hoạt động điều tra các vụ án hình sự.

Khi thực THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đòi hỏi KSV phải thận

trọng, phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, các tài liệu chứng cứ có thu thập khách

quan, đúng pháp luật trong để đề xuất đường phê chuẩn hoặc không phê

chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra. KSV phải đảm bảo tất cả các hoạt

động điều tra đều được kiểm sát chặt chẽ, phải bám sát vụ án, nắm chắc án,

thuộc án, chủ động ra yêu cầu điều tra và hướng Điều tra viên thực hiện đúng

yêu cầu. Để thực hiện được việc này, KSV phải không ngừng học hỏi kinh

nghiêm, trau dồi bản lĩnh nghề nghiệp, nghiên cứu và cập nhận thường xuyên

67

các văn bản hướng dẫn, trích cứu hồ sơ, luôn chủ động trong mọi tình huống

xảy ra, cần hết sức thận trọng trước khi đề xuất quyết định. KSV phải xây

dựng bản yêu cầu điều tra thật chi tiết nhằm củng cố chứng cứ, làm rõ hành vi

phạm tội của bị can và đồng phạm, xác định tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, xử

lý vật chứng,… Trường hợp phát sinh tình tiết mời, KSV phối hợp với Điều

tra viên bàn bạc, phối hợp đề ra hướng giải quyết phù hợp.

Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa VKS với các cơ quan bảo vệ

pháp luật trong hoạt động đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm

Hoạt động THQCT trong điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác là hoạt động phức tạp. Để hoạt động

THQCT bảo đảm hiệu quả, VKS phải thống nhất với Cơ quan điều tra, Tòa án

nhân dân thành phố Biên Hòa xây dựng được quy chế phối hợp liên ngành

trong hoạt động tố tụng hình sự, đặc biệt là đối với các vụ án lớn, án trọng

điểm, án nghiêm trọng, phức tạp, những vụ án phục vụ nhiệm vụ chính trị địa

phương. Liên ngành tố tụng cần thường xuyên trao đổi khắc phục những thiết

sót, hạn chế, tồn tại để kiến nghị với cấp trên và cấp ủy đảng về các biện pháp

tăng cường hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

Bổ sung biên chế, bảo đảm chế độ đãi ngộ và nâng cao hiệu quả công

tác khen thưởng, kỷ luật.

Trung bình mỗi năm, VKSND thành phố Biên Hòa phải thụ lý kiểm sát

khoảng trên 1.000 nguồn tin về tội phạm và khoảng trên 800 vụ án hình sự.

Trong khi tổng số cán bộ KSV được bố trí chuyên sâu về công tác hình sự là

30 người. Với khối lượng công việc nhiều và thường xuyên phải đi khám

nhiệm hiện trường, tham gia nhận dạng, đối chất dẫn đến có nhiều vụ việc

KSV không kịp thời ban hành yêu cầu kiểm tra xác minh tin báo, yêu cầu

điều tra nên có một số vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Khối lượng công việc nhiều, áp lực lớn, trong khi chi phí ăn, ở tại

68

thành phố Biên Hòa thuộc một trong những thành phố đắt đỏ nhất trong toàn

quốc, điều này dẫn đến khả năng tham nhũng rất dễ xảy ra. Do vậy cần đảm

bảo chế độ lương và phụ cấp thỏa đáng hơn dành cho cán bộ, KSV và lãnh

đạo. Tạo điều kiện cho cán bộ ngành kiểm sát yên tâm, tập trung chú trọng

vào công tác chuyên môn, không bị tác động do thu nhập chính đáng, hợp

pháp không đủ để bảo đảm đời sống tương xứng với yêu cầu và điều kiện

công việc; từ đặc tính của nghề nghiệp buộc KSV hàng ngày, hàng giờ phải

đối diện với tội phạm, với những vi phạm pháp luật và đối diện với những

cám dỗ vật chất nên dễ bị tha hóa, biến chất.

Cùng với việc bảo đảm thu nhập cho những người tiến hành tố tụng,

cần thường xuyên xử lí nghiêm minh các trường hợp vi phạm, nêu và phân

tích rõ trách nhiệm của từng KSV trong các trường hợp truy tố oan, sai. Đề

làm được việc này, ngành Kiểm sát cần có những chính sách cán bộ mang đột

phá, thể hiện tinh thần kiên quyết, nhìn thẳng vào sự thật và dám làm trong

sạch bộ máy. Bên cạnh chế độ đãi ngộ thỏa đáng, công tác xử lý vi phạm

nghiêm minh, kiên quyết sẽ kiểm sát thành công hiện tượng tha hóa của bộ

của ngành, củng cố niềm tin của nhân dân đối với ngành kiểm sát.

Tiểu kết chương 3

Công tác THQCT của VKSND trong thời gian qua đã đạt được những

kết quả đáng kể. Ngành Kiểm sát đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm tăng

cường công tác công tố, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm

trật tự, an toàn xã hội.

Từ thực tiễn hoạt động THQCT, tác giả nhận thấy, để bảo đảm công tác

THQCT đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp mà Đảng, Nhà nước đã đặt ra.

Ngành kiểm sát nói chung và VKSND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

nói riêng phải tiến hành đồng bộ các giải pháp từ phương hướng chung như:

Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, đảm bảo tính độc lập của ngành kiểm sát,

69

tăng cường tách nhiệm của người có thẩm quyền..; đến những giải pháp cụ

thể nhằm nâng cao chất lượng THQCT như: Tăng cường năng lực THQCT

của VKSND, xuất phát từ việc nâng cao nhận thức, nâng cao nghiệp vụ, trình

độ chuyên môn của KSV, tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng BLHS và

BLTTHS có liên quan đến THQCT.

Từ những giải pháp nêu trên, tác giả mong muốn những nghiên cứu từ

thực tế của bản thân sẽ được ngành Kiểm sát áp dụng thực tiễn công tác

THQCT để đáp ứng được chỉ tiêu, kế hoạch của toàn Ngành trong thời gian

tới.

70

KẾT LUẬN

VKSND đã có lịch sử hơn 55 năm hình thành và phát triển. Dù phạm vi

công tác kiểm sát có lúc mở rộng, có lúc thu hẹp, nhưng chức năng THQCT

và kiểm sát các hoạt động tư pháp luôn được Hiến pháp ghi nhận. Thực hiện

chức năng của mình, ngành Kiểm sát đã góp phần quan trọng trong việc giữ

vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ pháp chế XHCN. Hiện

nay, trước yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, một trong

những yêu cầu cấp bách là phải cải cách tư pháp để các cơ quan tư pháp trở

thành chỗ dựa vững chắc, là công cụ sắc bén trong bảo vệ công lý, bảo vệ

quyền con người. Tiến trình cải cách tư pháp, đã có nhiều quan điểm khác

nhau về vị trí, chức năng, mô hình tổ chức của ngành Kiểm sát, tuy nhiên

Đảng, Nhà nước vẫn tiếp tục khẳng định vai trò không thể thay thế của VKS

trong việc THQCT và kiểm sát các hoạt động pháp. Hoạt động THQCT ở giai

đoạn điều tra các vụ án hình sự nói chung và vụ án Cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng của VKSND thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tích,

góp phần tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm

an ninh chính trị tại địa phương. Bên cạnh những thành tích đã đạt được, hoạt

động THQCT ở giai đoạn điều tra các vụ án Cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác của VKSND thành phố Biên Hòa vẫn

còn bộc lộ những thiếu sót, hạn chế. Tác giả luận văn đã sử dụng và kết hợp

các phương pháp nghiên cứu khoa học, kế thừa và tiếp thu những thành tựu

của những người đi trước, so sánh và đối chiếu những tài liệu, sách chuyên

khảo để phân tích, đánh giá thực trạng của hoạt động THQCT ở giai đoạn

điều tra các vụ án Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác của VKSND thành phố Biên Hòa. Từ đó, đưa ra những giải pháp

71

khắc phục và nâng cao chất lượng của hoạt động này. Luận văn tập trung đi

sâu vào nghiên cứu, phân tích làm rõ những vấn đề cụ thể sau:

- Phân tích và đưa ra khái niệm về quyền công tố, THQCT giúp phân

biệt hai khai niệm này trong khoa học và thực tiễn. Phân tích làm rõ cơ sở lý

luận về THQCT ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

- Đánh giá thực trạng THQCT ở giai đoạn điều tra vụ án Cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của VKSND thành

phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Phân tích những nguyên nhân khách quan, chủ

quan của những thành quả đạt được và những tồn tại, hạn chế, thiếu sót.

- Chỉ ra một số bất cập giữa lý luận và thực tiễn, đưa ra giải pháp bảo

đảm hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra vụ án Cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của VKSND thành phố Biên Hòa

ngày càng hoàn thiện hơn, đạt kết quả cao hơn nữa. Đồng thời, đề xuất, kiến

nghị đến các cơ quan chức năng có thẩm quyền kịp thời hướng dẫn, chỉnh sửa

những quy định pháp luật chưa rõ ràng, cụ thể, chưa sát với thực tiễn.

Thực hiện tốt công tác THQCT ở giai đoạn điều tra sẽ góp phần quan

trọng vào quá trình giải quyết các vụ án đúng người, đúng tội, đúng quy định

của pháp luật, chống oan, sai, bỏ lọt tội phạm.

Đạt được kết quả nghiên cứu nêu trên là quá trình nỗ lực phấn đấu của

bản thân tác giả; sự giúp đỡ nhiệt tình của TS. Nguyễn Ngọc Hà - Phó trưởng

Khoa Luật, Học viện An ninh nhân dân; các thầy, cô giáo của Học viện Khoa

học xã hội, các đồng nghiệp trong ngành kiểm sát đã tận tình hướng dẫn, giúp

đỡ tác giả trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này. Tuy nhiên,

do điều kiện và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học còn hạn chế, luận văn

không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự

góp ý kiến của các nhà khoa học, quí thầy cô để luận văn được hoàn thiện

hơn.

72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Văn Beo (2010) Luật hình sự Việt Nam, phần các tội phạm,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

2. Bộ Chính trị (2011) Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa X tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng

3. Bộ Chính trị (2010) Kết luận số 79-KL/TW của Bộ Chính trị về Đề

án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều

tra theo Nghị quyết 49-NĐ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020, ban hành ngày 28/7/2010, Hà Nội.

4. Bộ Công an (2000) Từ điển bách khoa công an nhân dân, Nxb Công

an nhân dân, Hà Nội.

5. Trường Chinh (1967) Kết luận tại Hội nghị tổng kết ngành Kiểm sát

năm 1967;

6. Trần Văn Độ (2001) “Một số vấn đề về quyền công tố”, Tạp chí Luật

học, số 3, tr.8-12.

7. Quốc hội (1999) Bộ luật Hình sự 1999, Hà Nội.

8. Quốc hội (2003) Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Hà Nội.

9. Quốc hội (2015) Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Hà Nội

10. Quốc hội (2014) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Quốc hội (2004) Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2004,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Lê Hữu Thể (2000) “Về khái niệm quyền công tố”, Tạp chí Nghiên

cứu lập pháp, số 7, tr.8-15.

13. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai (2013) Báo cáo tổng kết công

tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2013, Đồng Nai.

14. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai (2014) Báo cáo tổng kết công

tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2014, Đồng Nai.

15. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai (2015) Báo cáo tổng kết công

tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2015, Đồng Nai.

16. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai (2017) Báo cáo tổng kết công

tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2017, Đồng Nai.

17. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai (2018) Báo cáo tổng kết công

tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2018, Đồng Nai.

18. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2016) Báo cáo tổng kết

công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2016, Quảng Ngãi.

19. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2011) Chuyên đề tập huấn “tăng

cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư

pháp”, Hà Nội.

20. Viện Ngôn ngữ học (1994) Từ điển tiếng việt, Nxb Khoa học kỹ

thuật, Hà Nội.

PHỤ LỤC

Bảng 2.1: Tổng số vụ án hình sự đã khởi tố trên địa bàn Thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2013 -2018

Tiêu chí 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Tổng

Tội phạm về ma túy 117 141 141 111 113 122 623

Tội phạm về tham 0 0 02 0 0 0 02 nhũng và chức vụ

Tội phạm kinh tế -

chức vụ khác, môi 09 06 07 13 02 37 04

trường

Tội phạm về sở hữu 377 399 394 377 273 254 1820

Tội xâm phạm tính

83 157 116 103 115 138 629 mạng, sức khỏe, danh

dự, nhân phẩm

Tội phạm an toàn công

cộng, trật tự công 58 180 163 138 142 125 748

cộng, quản lý hành

chính

Tội phạm xâm phạm 06 01 03 0 04 0 0

hoạt động tư pháp

Tội phạm xâm phạm 0 0 0 0 04 04 0 quyền tự do dân chủ

1

Bảng 2.2: Tổng số bị can đã bị khởi tố hình sự trên địa bàn Thành

phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2013 - 2018

Tiêu chí 2013 2014 2015 2016 2017 Tổng

Tội phạm về ma túy 161 194 194 145 135 828

Tội phạm tham nhũng chức vụ 0 02 0 0 0 02

Tội phạm kinh tế - chức vụ 13 07 12 20 02 54 khác, môi trường

Tội phạm về sở hữu 546 612 498 434 300 2390

Tội xâm phạm tính mạng, sức 243 161 164 169 121 858 khỏe, danh dự, nhân phẩm

Tội phạm an toàn công cộng,

trật tự công cộng, quản lý 363 491 361 335 215 1765

hành chính

Tội phạm xâm phạm hoạt 01 07 0 0 0 08 động tư pháp

Tội phạm xâm phạm quyền tự 0 0 08 0 0 08 do dân chủ

2

Bảng 2.3. Tổng số vụ án và bị can bị khởi tố của tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Trên địa bàn Thành

phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2013 - 2018

Tiêu chí 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Tổng

136 83 74 95 114 83 573 Tổng số vụ án

221 137 134 151 108 78 829 Tổng số bị can

Lưu ý: Số vụ án các năm 2017 và 2018 nhiều hơn số bị can do khởi tố

vụ án nhưng chưa xác định được bị can.

(Nguồn: Theo báo cáo Kết quả công tác kiểm sát từ năm 2013 đến năm

2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa).

3