VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐẶNG XUÂN LỘC
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN
HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐẶNG XUÂN LỘC
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN
HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN NGỌC HÀ
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn "Thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai" là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài
khác trong cùng lĩnh vực đã được công bố trước đây.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
Đặng Xuân Lộc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY
TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC ................................... 8
1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác ................................................................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với
vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
.................................................................................................................................................... 8
1.1.2. Vị trí, vai trò, ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác .................................................................................................................. 23
1.2. Quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự về thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác .............................................................. 25
1.2.1. Quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .............................................................. 25
1.2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố
đối trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác. ..................................................................................... 31
1.2.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố với hoạt động kiểm sát
điều tra vụ án vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác ....................................................................... Error! Bookmark not defined.
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC
GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC
TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI ............................... 43
2.1. Tình hình, đặc điểm có liên quan đến thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác ....................................................................................................... 43
2.1.1. Tình hình tội phạm ............................................................................................. 43
2.1.2. Cơ cấu tố chức của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai ..................................................................................................................... 44
2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ................................................................ 46
2.2.1. Những kết quả đạt được .................................................................................... 46
2.2.2.Tồn tại, hạn chế ..................................................................................................... 51
2.2.3.Nguyên nhân ........................................................................................................... 53
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO
SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BIÊN
HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI .............................................................................. 58
3.1. Phương hướng chung ............................................................................... 58
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác. ................................................................................................................ 61
3.2.1. Giải pháp nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho
cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng ........................................... 61
3.2.2. Giải pháp tăng cường công tác hướng dẫn luật ..................................... 63
3.2.3. Một số giải pháp khác ........................................................................................ 66
KẾT LUẬN .................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
KSV Kiểm sát viên
THQCT Thực hành quyền công tố
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tổng số vụ án hình sự đã khởi tố trên địa bàn Thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2013 -2018
Bảng 2.2: Tổng số bị can đã bị khởi tố hình sự trên địa bàn Thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2013 - 2018
Bảng 2.3. Tổng số vụ án và bị can bị khởi tố của tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Trên địa bàn Thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2013 - 2018
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai là trung tâm công nghiệp trọng
điểm của cả nước và là đầu mối giao thông quan trọng của vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam. Với đặc điểm địa lý, kinh tế, tôn giáo và dân số đa dạng nên
Biên Hòa luôn là điểm nóng về tội phạm, mà nổi cộm nhất là loại tội phạm
xâm phạm đến sức khỏe của người khác. Việc xử lý loại tội phạm này nhằm
ổn định tình hình an ninh chính trị tại địa phương là vấn đề cấp bách luôn
được cấp ủy và chính quyền thành phố quan tâm. Các cơ quan tố tụng thành
phố Biên Hòa đã có nhiều biện pháp đấu tranh, phòng chống loại tội phạm
này nhưng những vụ việc xâm hại đến sức khỏe của người khác trên địa bàn
thành phố vẫn có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và tính chất nguy hiểm.
Trong khi, các văn bản áp dụng pháp luật chưa được cụ thể, rõ ràng và đầy đủ
dẫn đến còn nhiều bất cập trong việc điều tra, xử lý các hành vi vi phạm đôi
lúc chưa nghiêm, nhiều vụ việc lẽ ra người có hành vi vi phạm phải bị truy
cứu trách nhiệm hình sự nhưng chỉ bị xử phạt hành chính hoặc tuy có bị truy
cứu trách nhiệm hình sự nhưng lại được áp dụng hình phạt quá nhẹ, nên
không có tác dụng giáo dục và phòng ngừa. Các quy định pháp luật về xử lý
đối với loại hành vi xâm hại sức khỏe chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn về
tình hình phát triển kinh tế-xã hội.
Hoạt động THQCT của VKSND đối với nhóm tội phạm này hiện còn
bộc lộ những tồn tại nhất định như: chưa đề ra yêu cầu xác minh, yêu cầu điều
tra kịp thời; việc đánh giá chứng cứ còn phiến diện dân đến chưa xác định
đúng tội danh, khung hình phạt; chưa phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra
trong quá trình điều tra giải quyết vụ án dẫn đến nhiều vụ việc phải từ chối
phê chuẩn hoặc phê chuẩn chậm, để thời hạn điều tra vụ án bị kéo dài quá
hạn, có vụ việc điều tra không kịp thời dẫn đến bỏ lọt tội phạm.
1
Để có những nghiên cứu từ lý luận đến thực tiễn, đánh giá thực trạng và
tìm ra giải pháp khắc phục những khó khăn, tồn tại, vướng mắc để công tác
THQCT đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác của VKSND thành phố Biên Hòa ngày càng tốt hơn, đảm bảo việc
khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội,
không làm oan người vô tội; Không để xảy ra tình trạng bắt, tạm giữ, tạm
giam trái pháp luật, không làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của công
dân; luôn đảm bảo việc điều tra khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác,
đúng pháp luật;
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn trên, tác giả quyết định chọn đề tài
"Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai" làm luận văn tốt nghiệp cao học luật chuyên ngành Luật
hình sự và tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian nghiên cứu đề tại này, tác giả đã tiếp cận, tham khảo
được một số bài viết, công trình nghiên cứu của các nhà tác giả khác trên các
tạp chí, diễn đàn khoa học về quyền công tố như: "Những giải pháp nâng cao
chất lượng thực VKSND tối cao; "Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp" của Lê Hữu Thể; "Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố
và kiểm sát điều tra án hình sự về trật tự xã hội" của Trần Mai Lâm; "Một số
kinh nghiệm trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các
vụ án giết người" của VKSND tối cao; “Về thực hiện quyền công tố của Viện
kiểm sát trong tố tụng hình sự, thực tiễn và kiến nghị” của Vũ Mộc; “Một số
vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố” của Lê Cảm;;
Các luận văn thạc sĩ như: "Thực hành quyền công tố đối với cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật tố
2
tụng hình sự Việt Nam từ thực tiển huyện Phổ Đức, tỉnh Quang Ngãi" của tác
giả Lý Tường Vy (năm 2015) ; “Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra tội giết người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Bình Phước” của tác giả Nguyễn Quốc Hân (2015);. … những luận văn này
đã nghiên cứu sâu về mặt lý luận về chức năng THQCT của VKSND và đã
đưa ra một số giải pháp cụ thể. Tuy nhiên, sau thời điểm BLTTHSnăm 2015
và BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực, đã có nhiều quy
định mới về THQCT, về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác” quy định tại Điều 134 BLHS. Từ đó, đòi hỏi những
người thi hành nhiệm vụ trong các cơ quan tố tụng cần nhanh chóng có những
đề xuất các giải pháp cụ thể về thực hành quyền công tố đối với tội danh này.
Vì vậy, tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài "Thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai" nhằm
đưa ra các phương pháp mới khi thực hiện nhiệm vụ THQCT trong ngành
kiểm sát.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá làm rõ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về công tác THQCT trong gia đoạn điều tra đối với Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo quy định của Luật TTHS Việt Nam; đánh giá
ưu khuyết điểm, các hạn chế, thiếu sót, vướng mắc trong các quy định của
pháp luật, của người tiến hành tố tụng.
- Đưa ra những giải pháp hoàn thiện, khắc phục, sửa chữa góp phần
nâng cao hiệu quả trong quá trình thực hiện chức năng thực hành quyền công
tố của VKSND thành phố Biên Hòa và trong toàn ngành kiểm sát nói chung.
3
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể
sau:
Một là, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của đề tài như khái niệm,
phân tích những dấu hiệu pháp lý hình sự của Tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; khái niệm THQCT và đặc trưng của
công tác THQCT đối với các tội danh này.
Hai là, phân tích luật thực định về THQCT, đánh giá thực tiễn công tác
THQCT trong giai đoạn điều tra đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác tại VKSND thành phố Biên Hòa. Từ đó
nhận xét chính xác hạn chế của luật hiện hành, các vướng mắc trong thực tiễn
THQCT của ngành kiểm sát nói chung và của VKSND thành phố Biên Hòa
nói riêng.
Ba là, xây dựng các quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ thể có tính
khả thi nhằm đảm bảo THQCT trong giai đoạn điều tra đối với Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của VKSND thành
phố Biên Hòa
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là quy định của pháp luật hình sự,
quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về THQCT đối với Tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, trên phương
diện lý luận và thực tiễn THQCT của VKSND thành phố Biên Hòa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu về công tác THQCT của
VKSND trong giai đoạn điều tra đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trên phương diện lý luận dưới góc độ tố
4
tụng hình sự và hình sự, thực tiễn áp dụng.
- Về thời gian: Từ năm 2013 đến năm 2018.
- Về địa bàn: Thành phố Biên hòa, tỉnh Đồng Nai.
- Về chủ thể: VKSND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật; đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây
dựng Nhà nước pháp quyền, về đấu tranh phòng, chống tội phạm, về vấn đề
cải cách tư pháp được thể hiện trong các nghị quyết của Bộ Chính trị về một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp, Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020; các luận điểm chung của khoa
học pháp lý tố tụng hình sự về khởi tố vụ án hình sự.
Phương pháp nghiên cứu tác giả sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề
tài:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích và tổng hợp: Từ nguồn tài
liệu liên quan đến đề tài luận văn, tác giả sẽ tổng hợp rút ra những vấn đề lý
luận và quy định chung của pháp luật về THQCT trong giai đoạn điều tra đối
với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Nghiên cứu, phân tích các văn bản pháp luật có liên quan, đánh giá số liệu
thống kê, qua đó giúp tác giả nắm được các khía cạnh của vấn đề cần nghiên
cứu nhằm đưa ra nhận xét, đề xuất về những vấn đề cơ bản của luận văn.
- Phương pháp so sánh: Qua tổng hợp, phân tích các quy định trước
đây, những vần đề hiện nay của pháp luật Tố tụng hình sự nước ta về thực
hành quyền công tố, tác giả xác định những điểm giống, khác nhau trong các
quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật với cách nhìn nhận, đánh
giá theo từng thời điểm lịch sử cụ thể.
5
- Phương pháp tiếp cận hệ thống và thống kê: Dựa trên những thông
tin thu thập được về vấn đề nghiên cứu, thực tiễn công tác THQCT tại
VKSND thành phố Biên Hòa, tác giả sẽ hệ thống hóa theo một cấu trúc logic,
khoa học, qua đó tác giả có được nhận thức một cách biện chứng, tổng thể và
khái quát nhất về tình hình, đặc điểm của loại án này trong những năm gần
đây để minh chứng cho các luận điểm, kết luận đã nêu ra trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có ý nghĩa về lý luận cũng như thực
tiễn.
- Về lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ những lý luận về THQCT
trong gia đoạn điều tra đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác như khái niệm, các đặc trung pháp lý của tội này,
cũng như chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Luận văn có thể được sử dụng
làm tư liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập của
ngành kiểm sát.
- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham
khảo cho kiểm tra viên, kiểm sát viên các cấp nghiên cứu, vận dụng trong
thực tiễn công tác để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của công tác này.
Đồng thời, có thể giúp các nhà quản lý, lãnh đạo ngành kiểm sát định hướng
trong công tác quản lý, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trong xây dựng,
hoàn thiện các văn bản pháp luật, quy chế nghiệp vụ có liên quan đến hoạt
động THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định chung của pháp luật về
6
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ
thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
khởi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bản thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
ĐỐI VỚI VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối
với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố
Hiến pháp 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên sử dụng thuật ngữ "Thực
hành quyền công tố" khi đề cập đến chức năng của VKSND (Điều 138) và
mới nhất là Hiến pháp năm 2013 (Điều 107). Hiện chưa có tài liệu, văn bản
chính thức nào ghi nhận rõ ràng, cụ thể khái niệm, nội dung, phạm vi quyền
công tố và THQCT. Đó cũng chính là lý do dẫn đến sự thiếu thống nhất về
nhận thức trong hoạt động THQCT. Do vậy phải làm rõ thế nào là “quyền
công tố” thì mới làm rõ được thế nào là THQCT.
Công tố là t từ ghép Hán - Việt được hình thành từ hai từ “công” và
“tố”. Theo từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản năm
1994 tại các trang 200, 204, 973 thì: "tố" có nghĩa là "nói công khai cho mọi
người biết việc làm sai trái, phạm pháp của người phạm tội khác", còn "công"
có nghĩa là "thuộc về Nhà nước chung cho mọi người, khác với tư"; "Công
tố" là "điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước tòa
án". Như vậy "công tố" theo từ điển Tiếng Việt là một khái niệm bao gồm:
điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp, phát biểu ý kiến trước tòa án.
Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân thì quyền công tố là: Quyền
8
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (cơ quan công tố, xét xử, điều tra)
dùng để điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp trước Tòa án hay là quyền
truy tố, buộc tội cá nhân, tổ chức trước pháp luật.
Trong tiếng Anh, công tố (prosecute) có nghĩa là thẩm quyền về mặt
nhà nước đại diện cho quyền lực công thực hiện một số quyền năng pháp lý
để bảo vệ lợi ích của nhà nước, tập thể và công dân. Như vậy, công tố là một
trong những hình thức cáo buộc của nhà nước đối với người hoặc pháp nhân
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Trong công tố, nhà nước là bên thực
hiện sự cáo buộc và bên bị cáo buộc không chỉ là con người mà còn có thể là
pháp nhân và cáo buộc của nhà nước được thể hiện trong nhiều lĩnh vực mà
hành vi vi phạm được thực hiện đã xâm phạm tới. Công tố, vì vậy, theo tác
giả cần được hiểu là sự cáo buộc của nhà nước đối với người hoặc pháp nhân
đã có hành vi vi phạm pháp luật trước tòa án.
Việc xác định quyền công tố và theo đó là THQCT có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn rất quan trọng. Quyền công tố là quyền của nhà nước đưa các vụ
việc vi phạm pháp luật ra cơ quan xét xử. Khái niệm công tố hoàn toàn đối
lập với khái niệm tư tố (tự mình nhân danh lợi ích cá nhân, riêng tư để cáo
giác, khởi kiện ra tòa). Sự ra đời của chế định tư tố trong pháp luật xuất phát
từ quan niệm cho rằng, việc bảo vệ lợi ích cá nhân bị người khác xâm phạm là
việc riêng tư của mỗi người, nhà nước không cần thiết và không có trách
nhiệm phải can thiệp.
Hiện nay, phạm vi và chủ thể thực hiện quyền công tố vẫn còn nhiều ý
kiến khác nhau, nổi bật là các quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật được thực hiện trong lĩnh vực tố tụng hình sự đều là THQCT.
Theo quan điểm này, quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước thực hiện
các chức năng do BLTTHS quy định để kiểm sát việc điều tra tội phạm, để
9
truy tố, buộc tội người phạm tội trước tòa án nhằm đạt được mục đích xét xử
đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, góp phần bảo đảm quyền tự do dân
chủ của con người, bảo vệ các lợi ích của xã hội, của nhà nước.
Quan điểm thứ hai cho rằng:
Quyền công tố là quyền chỉ tồn tại duy nhất trong tố tụng hình sự. Từ
đó, họ đưa ra khái niệm về quyền công tố là: Quyền của nhà nước truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; quyền này được giao cho VKS.
VKS có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định tội
phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội. Trên cơ sở đó truy tố bị can ra
trước tòa án và bảo vệ buộc tội đó trước phiên tòa.
Quan điểm thứ ba và cũng là quan điểm phổ biến được đưa vào giáo
trình giảng dạy trong ngành kiểm sát nhân dân. Quan điểm này cho rằng:
Quyền công tố được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực hình sự, tố tụng
hình sự. Sau đó, quyền công tố được mở rộng sang lĩnh vực dân sự và các lĩnh
vực tư pháp khác. Theo họ, quyền công tố là "Quyền đại diện cho nhà nước
để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ nhà
nước, bảo vệ trật tự pháp luật", phạm vi THQCT được tiến hành trong khi
thực hiện các công tác kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử hình sự, kiểm sát
việc giải quyết các vụ án dân sự, lao động, hành chính, kiểm sát thi hành án
dân sự, kiểm sát việc quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, kiểm
sát thi hành án hình sự và công tác điều tra tội phạm.
Quan điểm thứ tư cho rằng: Quyền công tố là quyền của nhà nước giao
cho VKS mà trực tiếp là KSV thay mặt nhà nước thực hiện việc buộc tội tại
phiên tòa. Nội dung của quyền công tố là đưa ra lời buộc tội những chủ thể
phạm tội và chứng minh tính có căn cứ và tính hợp pháp của cáo trạng tại
phiên tòa sơ thẩm. Quan điểm này coi quyền công tố chỉ là sự buộc tội tại
phiên tòa, việc thực hiện quyền đó là thuộc VKS. Đó là sự nhầm lẫn giữa
10
quyền công tố và THQCT. Trên thực tế hoạt động truy tố và duy trì quyền
công tố của KSV trước tòa chỉ là một phần THQCT theo đúng nghĩa của nó,
còn chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật là hoạt động kiểm tra tính có
căn cứ, tính hợp pháp trong quyết định và hành vi của cơ quan tiến hành tố
tụng và người tiến hành tố tụng. Khi thực hiện chức năng này ngoài quyền
kiến nghị, kháng nghị và quyền yêu cầu chấm dứt, khắc phục vi phạm pháp
luật, VKS không có quyền tự quyết định như khi THQCT.
Do chưa xác định đúng đối tượng, nội dung và phạm vi của quyền công
tố trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật dẫn đến có quan điểm thu hẹp
hoặc mở rộng phạm vi của quyền công tố, hoặc nhầm lẫn giữa quyền công tố
với hoạt động thực hiện quyền công tố. Có thể nói nơi nào mà pháp luật cho
phép VKS nhân danh lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội đưa vụ án ra tòa để quá
trình truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm, nên quá trình này
bắt đầu từ việc khởi tố vụ án hoặc khởi kiện và chấm dứt khi có phán quyết có
hiệu lực pháp luật của cơ quan xét xử hoặc khi có căn cứ triệt tiêu quyền công
tố ở giai đoạn sớm hơn. Quyền công tố không chỉ trong lĩnh vực Tố tụng hình
sự mà mở rộng trong cả các lĩnh vực khác như dân sự, kinh tế, hành chính, lao
động.
Tóm lại, nghiên cứu các quan điểm trên có thể đưa ra nhận xét: Quyền
công tố là quyền của Nhà nước giao cho VKS nhân dân để đưa vụ án ra xét
xử trước tòa án nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước, tổ chức và của công dân theo
quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Để xác định đúng đắn phạm vi quyền công tố trong Tố tụng hình sự
cần phải nhận thức sâu sắc rằng: Quyền công tố là quyền của nhà nước truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Không thể đồng nhất quyền
công tố với việc THQCT, bởi quyền công tố là quyền của Nhà nước để yêu
cầu trừng phạt người phạm tội, còn THQCT là việc sử dụng các biện pháp do
11
luật định để đạt được mục tiêu trừng phạt đó.
Như vậy, phạm vi quyền công tố trong Tố tụng hình sự bắt đầu từ khi
tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng
nghị.
Vậy quan niệm về quyền công tố thế nào cho chính xác. Theo tác giả,
bản chất của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật là việc kiểm tra tính
có căn cứ và tính hợp pháp trong hành vi và quyết định của các chủ thể bị
kiểm sát. Do đó, đối tượng của hoạt động kiểm sát trong tố tụng hình sự phải
là hành vi xử sự của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
Quyền công tố là quyền buộc tội, còn tiến hành như thế nào là do luật định
nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội là THQCT. Xuất
phát từ bản chất của quyền công tố và đối tượng tác động của quyền công tố
như đã nêu trên, tác giả quan niệm rằng: Nội dung quyền công tố chính là sự
buộc tội đối với người đã thực hiện tội phạm.
Điều 20 BLTTHS quy định: VKS THQCT và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội; phát hiện vi phạm
pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân
phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan
người vô tội. THQCT được xác định là chức năng của VKS trong các giai
đoạn tố tụng. Điều đó được khẳng định trong BLTTHS và Luật Tổ chức
VKSND về công tác thực hiện chức năng của VKS trong tố tụng hình sự.
Những quy định trên đây của pháp luật hiện hành cũng cho thấy quyền công
tố trong tố tụng hình sự phát sinh từ khi có tội phạm xảy ra đến khi ra bản án
có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: Quyền công tố là quyền
12
của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát thực hiện theo quy định của pháp luật
để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ thể phạm tội thực hiện sự buộc
tội đối với chủ thể đó trước tòa án.
Trong tố tụng hình sự, phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi có tội
phạm xảy ra và kết thúc khi ra bản án đã có hiệu lực pháp luật, không bị
kháng cáo, kháng nghị. Pháp luật hình sự quy định, VKS là cơ quan được
giao THQCT và chỉ có VKS là cơ quan có quyền độc lập phát động quyền
công tố mà không chịu sự can thiệp của bất cứ cơ quan nhà nước nào. Nếu
quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan điều tra
không có căn cứ và trái pháp luật thì VKS có quyền hủy bỏ. Quyết định khởi
tố vụ án hình sự của tòa án đều phải được gửi cho VKS xem xét, nếu có vi
phạm pháp luật thì VKS có quyền kháng nghị.
Trong giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra chỉ có quyền đề nghị việc áp
dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn đối với tất cả các trường
hợp VKS đã phê chuẩn, còn việc quyết định là do VKS; Cơ quan điều tra có
quyền độc lập thu thập tài liệu, chứng cứ, nhưng việc bảo đảm cho các tài liệu
chứng cứ ấy có căn cứ và đủ cơ sở để truy tố bị can hay không là trách nhiệm
của VKS. Trong trường hợp không đủ căn cứ để buộc tội, VKS có quyền yêu
cầu cơ quan điều tra bổ sung tài liệu chứng cứ; có quyền đình chỉ vụ án; yêu
cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật hoặc xử lý hành chính người đã có
hành vi vi phạm pháp luật. Khi có đủ tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi
phạm tội và xét thấy đủ căn cứ để xử lý hành vi phạm tội của người đó trước
Tòa án thì VKS quyết định truy tố bị can ra Tòa. BLTTHS đã quy định chức
năng THQCT của VKS trong tố tụng hình sự rất lớn là: Được áp dụng các
biện pháp do BLTTHS để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội loại trừ
việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này nhằm bảo đảm
mọi hành vi phạm tội, người phạn tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật
13
đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh; việc khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt
tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội
(Điều 20 BLTTHS).
Như vậy, THQCT là việc Viện kiểm sát sử dụng các biện pháp theo
quy định của pháp luật để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó.
Phạm vi quyền công tố và THQCT bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và
kết thúc khi ra bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị.
Tuy nhiên, trên thực tế không phải trong mọi trường hợp quyền công tố kéo
dài như vậy mà có thể bị triệt tiêu ở giai đoạn tố tụng sớm hơn theo quy định
của BLTTHS. Điều này có nghĩa là, không phải mọi vụ án đều được đưa ra
xét xử trước tòa án, khi chấm dứt quyền công tố thì đồng thời cũng không có
việc THQCT. Vì vậy, tác giả hoàn toàn tán thành quan điểm cho rằng: Hoạt
động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá
trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Đó
chính là phạm vi THQCT.
Tóm lại: Phạm vi THQCT bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi
ra bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị hoặc vụ án được đình chỉ
khi có một trong những căn cứ do BLHS và BLTTHS quy định.
Như vậy, những quyền năng pháp luật cho phép VKS tự quyết định liên
quan đến việc buộc tội bị can, bị cáo thì đó là chính là những quyền năng
thuộc nội dung THQCT; những quyền năng pháp lý mà VKS sử dụng để phát
hiện và yêu cầu xử lý vi phạm pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng là những quyền năng thuộc chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Tuy nhiên, có một số hành vi tố tụng
thể hiện sự đan xen giữa THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật như
14
quyết định kháng nghị phúc thẩm hình sự của VKS đối với bản án hoặc quyết
định của tòa án chưa có hiệu lực pháp luật. Quyết định kháng nghị có thể bao
hàm hai nội dung: có sự vi phạm trong việc áp dụng pháp luật hình sự và có
vi phạm nghiêm trọng về TTHS hoặc chỉ thể hiện một trong hai nội dung trên
nhưng đều làm phát sinh một trình tự xét xử mới. Chính vì lẽ đó, theo luật
định VKS thực hiện đồng thời hai chức năng là THQCT và kiểm sát hoạt
động tư pháp.
Hiện nay trong lý luận và thực tiễn còn có một số quan điểm khác nhau
về THQCT và chủ thể THQCT. Nhưng theo tác giả, chỉ có cơ quan nào sử
dụng tất cả các quyền năng pháp lý cần thiết để quyết định việc buộc tội của
Nhà nước đối với người phạm tội trong cả giai đoạn điều tra và giai đoạn xét
xử hình sự tại tòa án thì đó là cơ quan THQCT.
Từ những vấn đề vừa phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: THQCT là
việc VKS sát sử dụng tổng hợp các quyền năng tố tụng độc lập, quyết định
việc buộc tội đối với người phạm tội, không để lọt tội phạm và người phạm
tội, được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng.
1.1.1.2. Khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Điều 8 BLHS năm quy định: “1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm quyền con người, lợi ích hợp
pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Điều
143 BLTTHS quy định: “Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có
dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau
15
đây: Tố giác của cá nhân; Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Tin báo trên
phương tiện thông tin đại chúng; Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; Cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội
phạm; Người phạm tội tự thú”.
Như vậy, pháp luật hiện hành không quy định khái niệm thế nào là vụ
án hình sự. Tuy nhiên, căn cứ các quy định của BLTTHS có thể hiểu: Vụ án
hình sự là vụ án phát sinh khi vụ việc phạm pháp bị phát hiện có dấu hiệu tội
phạm đã được quy định trong BLHS được cơ quan có thẩm quyền (Cơ quan
điều tra, Cơ quan được được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra,VKSND , Toà án nhân dân) ra quyết định khởi tố vụ án để tiến hành điều
tra, truy tố, xét xử theo các trình tự, thủ tục đã được quy định trong BLTTHS.
Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự thứ hai mà trong đó
cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra theo luật định, căn cứ vào các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự và dưới sự kiểm sát của VKS tiến hành các biện pháp cần thiết
nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án
hình sự, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lỗi
trong việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời
bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và đạt
được mục đích chung của quá trình tố tụng, đó là: “Phát hiện chính xác nhanh
chóng và xử lý công minh kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội” [19, tr.19].
Với tính chất là một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, giai đoạn
điều tra vụ án có chức năng thực hiện những nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng
các biện pháp cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội phạm và
người phạm tội, xác định rõ những nguyên nhân, điều kiện phạm tội, đồng
thời kiến nghị các cơ quan và tổ chức liên quan áp dụng đầy đủ các biện pháp
16
khắc phục, phòng ngừa tội phạm; Giai đoạn này được bắt đầu từ khi cơ quan
(người) tiến hành tố tụng có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự
và kết thúc khi cơ quan điều tra sẽ ra quyết định: Đình chỉ điều tra vụ án hình
sự hoặc chuyển toàn bộ các tài liệu của vụ án đó cho VKS kèm theo kết luận
điều tra và đề nghị truy tố bị can trước Tòa án.
Mục đích của hoạt động điều tra vụ án hình sự là để chứng minh sự thật
của vụ án. Mọi hành vi tội phạm xảy ra đều được phản ánh trong hiện thực
những thay đổi trên thực tế cho hành vi phạm tội gây ra, từ đó để lại những
dấu vết vật chất, dấu vết tâm, sinh lý được thu thập, những dấu vết này được
thu thập theo trình tự tố tụng hình sự sẽ trở thành những chứng cứ của vụ án.
Ngoài ra, mỗi vụ án là một sự kiện phạm tội diển ra trên thực tế do vậy để
chứng minh sự thật của vụ án chỉ có thể là những tài liệu thực tế hay chính là
những chứng cứ pháp lý.
Như vậy, có thể hiểu: Điều tra vụ án hình sự là hoạt động tố tụng của
cơ quan điều tra và cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra theo quy định của pháp luật dưới sự kiểm sát của VKS nhằm
xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ đề nghị
truy tố hoặc đình chỉ vụ án hình sự tương ứng, tìm ra những nguyên nhân và
điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện
pháp khắc phục và phòng ngừa.
17
1.1.1.3. Khái niệm Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác
BLHS Việt Nam không định nghĩa cụ thể như thế nào là Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tuy nhiên, trong
khoa học pháp lý hình sự có nhiều quan điểm với các khái niệm khác nhau về
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Cách khái niệm thứ nhất: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác là hành vi cố ý gây tổn hại sức khỏe cho người
khác dưới dạng thương tích hoặc tổn thương khác”;
Cách khái niệm thứ hai cho rằng: ”Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác là hành vi của một người cố ý làm cho
người khác bị thương hoặc tổn hại đến sức khỏe”.
Các cách khái niệm trên vẫn còn những điểm chưa phù hợp như chưa
đề cập đến dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự, độ tuổi chịu do luật định
cũng như tính trái pháp luật hình sự của hành vi cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Dựa trên cơ sở pháp lý quy định nội
dung cấu thành tội phạm Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ của người khác tại Điều 134 BLHS và khái niệm về tội phạm quy định
tại khoản 1 Điều 8 BLHS, có thể đi đến khái niệm về Tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau: “Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong BLHS do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý xâm phạm sức khỏe của người khác”.
1.1.1.4. Hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối
với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác của Viện Kiểm sát nhân dân
Quá trình THQCT ở giai đoạn điều tra đối với các vụ án cố ý gây
18
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được bắt đầu từ
giai đoạn tiếp nhận tin báo tội phạm có dấu hiệu gây tổn thương đến sức khỏe
của người khác, khởi tố vụ án, khởi tố bị can và kết thúc điều tra, VKS ra
quyết định truy tố hoặc đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật.
Hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra đối với các vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của VKSND có
những đặc điểm sau:
Một là, hoạt động này chỉ do VKSND tiến hành theo quy định của pháp
luật.
Theo quy định của pháp luật thì VKSND là cơ quan có chức năng
THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp. VKSND là cơ quan duy nhất thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tư pháp, đặc
biệt là cơ quan điều tra. Hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra của VKS
được quy định tại Điều 14 Luật tổ chức VKSND năm 2014; Điều 165
BLTTHS, khi thực hành quyên công tố VKS có những nhiệm vụ và quyền
hạn sau đây:
1. Yêu cầu cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án
hình sự, khởi tố bị can.
2. Phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc
bổ sung quyết định khởi tố bị can không có căm cứ và trái pháp luật.
3. Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố
bị can trong các trường hợp do BLTTHS quy định.
4. Phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bả đảm, khám
xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, áp dụng
biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết
19
định tố tụng khác không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định
của BLTTHS; hủy bỏ các quyết định tố tụng không có căn cứ và trái pháp luật
của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra. Trường hợp không phê chuẩn hoặc hủy bỏ thì trong quyết định
không phê chuẩn hoặc hủy bỏ phải nêu rõ lý do.
5. Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện
pháp cưỡng chế theo quy định của BLTTHS.
6. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành điều tra để là, rõ
tội phạm, người phạm tội; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can, áp dụng
biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
7. Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp để
kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn lệnh, quyết định của Cơ
quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra hoặc trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi
phạm pháp luật mà VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc
phục hoặc trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi quyết định
việc truy tố.
8. Khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền
trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong
việc khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội phạm; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố
vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố,
điều tra có dấu hiệu tội phạm;
9. Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam; chuyển
vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; hủy bỏ
20
quyết định tách, nhập vụ án.
10. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc THQCT theo quy
định của BLTTHS [tr. 156, 1578, 158].
Theo quy định của BLTTHS thì việc khởi tố vụ án hình sự do Cơ quan
điều tra thực hiện là chủ yếu. VKS chỉ trực tiếp khởi tố vụ án hình sự trong
trường hợp VKS huỷ bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan
điều tra và trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án. Riêng
việc khởi tố bị can thì VKS chỉ trực tiếp khởi tố bị can trong trường hợp cơ
quan điều tra đã kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ để nghị VKS truy tố mà VKS
phát hiện còn có đồng phạm khác trong vụ án nhưng chưa bị khởi tố, các
trường hợp còn lại việc khởi tố bị can do Cơ quan điều tra thực hiện và VKS
chỉ xem xét phê chuẩn việc khởi tố. Trên thực tế có rất ít trường hợp VKS
trực tiếp khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can khi THQCT trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự là chủ yếu là yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án,
khởi tố bị can hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can.
Một trong những nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của VKS khi
THQCT trong giai đoạn điều tra là đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan
điều tra tiến hành điều tra. Để bảo đảm hoạt động điều tra có kết quả thì VKS
phải đề ra yêu cầu điều tra ngay từ khi khởi tố vụ án và trong từng giai đoạn
của quá trình điều tra, KSV được phân công THQCT trong giai đoạn điều tra
phải bám sát việc điều tra vụ án của Cơ quan điều tra để kịp thời đề ra các yêu
cầu điều tra một cách cụ thể, toàn diện nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án.
Trong một số trường hợp cần thiết, khi THQCT trong giai đoạn điều tra, VKS
có thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của
BLTTHS như: Hỏi cung bị can; lấy lời khai người làm chứng; tiến hành đối
chất; … để củng cố chứng cứ nhằm đánh giá khách quan, toàn diện vụ án.
Khi THQCT trong giai đoạn điều tra tội phạm nếu phát hiện Điều tra
21
viên được phân công giải quyết vụ án hình sự thuộc trường hợp phải thay đổi
theo qui định tại Điều 51 BLTTHS thì VKS phải kịp thời yêu cầu Thủ trưởng
Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên nhằm đảm báo vụ án được điều tra
khách quan. Trường hợp xét thấy hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội
phạm thì yêu cầu Cơ quan điều tra có thẩm quyền khởi tố về hình sự.
Khi THQCT trong giai đoạn điều tra, VKS có quyền quyết định áp
dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm
giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
lãnh. Đối với những biện pháp tố tụng, hành vi tố tụng mà BLTTHS quy định
phải có sự phê chuẩn của VKS như: Lệnh bắt người trong trường hợp khẩn
cấp; quyết định gia hạn tạm giữ; quyết định khởi tố bị can; lệnh bắt bị can để
tạm giam lệnh tạm giam… thì VKS có trách nhiệm xem xét, quyết định việc
phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Ngoài ra, khi phát hiện các quyết định tố
tụng của Cơ quan điều tra như: Quyết định tạm giữ; quyết định khởi tố vụ án,
khởi tố bị can; quyết định về việc bảo lĩnh; quyết định đình chỉ điều tra vụ án
…không có căn cứ và trái pháp luật thì VKS có quyền ra quyết định huỷ bỏ
các quyết định đó theo đúng quy định của Bộ luật TTHS. Trường hợp bị can
trốn hoặc không biết bị can đang ở đâu thì VKS yêu cầu Cơ quan điều tra ruy
nã.
Hai là, hoạt động này của VKS phải tuân thủ nghiêm chỉnh những quy
định về trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Hoạt động điều tra của cơ quan điều tra, hoạt động THQCT của VKS là
những hoạt động rất quan trọng có tính quyết định trong quá trình giải quyết
các vụ án hình sự. Chính vì vậy nên pháp luật tố tụng hiện hành quy định rất
chặt chẽ việc THQCT trong giai đoạn điều tra đối với các vụ án hình sự trong
đó có các vụ cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác của VKS như thủ tục: Khởi tố vụ án, khởi tố bị can, nhập - tách vụ án,
22
đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, thời hiệu điều tra, thời hạn điều tra...
Ba là, hoạt động này của VKS được pháp luật bảo đảm thi hành.
Hoạt động THQCT trong gia đoạn điều tra các vụ án hình sự - trong đó
có các vụ án về cố ý gây thương tích luôn được pháp luật bảo đảm thi hành để
xác định rõ hành vi phạm tội, người phạm tội đã thỏa mãn cấu thành của tội
đó hay chưa. Quá trình này bao gồm nhiều bước nhưng phải đảm bảo các
nguyên tắc xử lý: Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý
nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật; Mọi người phạm tội đều bình
đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo,
thành phần, địa vị xã hội.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: THQCT trong giai đoạn
điều tra đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác của VKSND là hoạt động thực hiện pháp luật của VKS nhằm
đảm bảo cho toàn bộ hoạt động giải quyết tin báo, tố giác về dấu hiệu tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, khởi tố, điều
tra, truy tố tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác hoặc đình chỉ vụ án được tuân thủ theo đúng qui định của pháp
luật.
1.1.2. Vị trí, vai trò, ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác
Giai đoạn điều tra vụ án là một trong những giai đoạn dài nhất và có vai
trò quan trọng trong việc phát hiện tội phạm, người phạm tội, mọi tình tiết của
vụ án đều phải làm sáng tỏ ở giai đoạn này để từ đây tìm ra đúng người thực
hiện hành vi phạm tội nhằm đảm bảo việc truy tố, xét xử vụ án được chính
xác, đúng người đúng tội, đúng pháp luật. THQCT trong giai đoạn điều tra
đối với các vụ cố ý gây thương tích, có vai trò rất quan trọng trong việc thực
23
hiện quyền lực Nhà nước , thực hiện quyền tư pháp của VKS. Chính vì vậy,
việc THQCT trong quá trình giải quyết vụ án của VKSND nói chung cũng
như THQCT ở giai đoạn điều tra vụ án của VKSND nói riêng có vai trò quan
trọng góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ trật tự pháp luật bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ
tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân; bảo
đảm mọi hành vi vi phạm lợi ích của Nhà nước, của công dân phải được xử lý
theo pháp luật.
THQCT ở giai đoạn điều tra vụ án nói chung và vụ án cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng của VKSND có
vai trò quan trọng nhằm hoàn chỉnh cơ chế điều chỉnh pháp luật, tạo thói quen
tuân thủ pháp luật trong nhân dân. Qua công tác THQCT, VKSND phát hiện
ra những dạng vi phạm pháp luật mới, những dạng quan hệ xã hội mới cần
phải có những quy phạm pháp luật điều chỉnh kịp thời; những quy phạm đã
lạc hậu, chồng chéo cần thay thế sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình
tội phạm.
THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hướng các chủ thể
của các quan hệ pháp luật trong THQCT thực hiện đúng, đầy đủ chức trách
của mình khi tiến hành tố tụng nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của
những người tham gia tố tụng; ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật của
người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng.
Thông qua THQCT ở giai đoạn điều tra, VKSND có những biện pháp,
cách thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật; kiến nghị phòng ngừa vi phạm.
Hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật của VKSND không chỉ tác động
tới các đối tượng vi phạm pháp luật hình sự mà còn ảnh hưởng sâu rộng trong
cộng đồng dân cư, các cơ quan ban ngành hữu quan.
24
1.2. Quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự về thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.2.1. Quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Điều 134 Bộ luật hình sự quy định:
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng
thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc ….;
b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;
c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu,
ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình…;
đ) Có tổ chức;
e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, …;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người ..;
i) Có tính chất côn đồ;
k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc …..
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
02 năm đến 06 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà
tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên
mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%;
25
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà
tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường
hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
05 năm đến 10 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà
tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại
điểm b khoản 4 Điều này;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên
mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà
tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường
hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên
mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một
trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1
Điều này.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
07 năm đến 14 năm:
a) Làm chết người;
b) Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên
mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà
26
tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp
quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên
mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60% nhưng thuộc một
trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1
Điều này.
5. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Làm chết 02 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên
mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên nhưng thuộc một trong
các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
6. Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít
nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm
nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị
phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02
năm”.
Căn cứ vào điều luật trên, ta thấy cấu thành tội phạm này phản ánh
trong 4 yếu tố cấu thành tội phạm và hình phạt như sau:
Khách thể của tội phạm: Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác là hành vi cố ý làm cho người khác bị thương hoặc tổn
hại đến sức khỏe. Tội phạm xâm phạm quyền được bảo hộ về sức khỏe của
con người.
Mặt khách quan của tội phạm: Người phạm tội thực hiện các hành vi
tác động vào cơ thể của người khác như: đâm, chém, đấm đá, tra tấn... làm
cho người đó bị thương, bị tổn hại sức khỏe hoặc cưỡng bức người bị hại tự
làm tổn hại cho sức khỏe của mình như tự chọc vào mắt mình, chặt ngón tay...
27
Hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
mà tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên bị coi là tội phạm.
Nếu hậu quả tổn thương cơ thể dưới 11% nhưng thuộc một trong các
trường hợp sau đây thì cũng coi là phạm tội:
- Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây
nguy hại cho nhiều người. Vũ khí, vật liệu nổ theo quy định tại Luật Quản lý,
sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2017. Hung khí nguy hiểm được
hiểu là vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm khác.
Tại Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng
thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn, thì “phương tiện nguy hiểm”
là công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con
người (trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra
nhằm làm phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà
người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn
công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khỏe của
người bị tấn công. Ví dụ, dùng dao sắc nhọn, dao phay, búa đinh, côn gỗ,
thanh sắt mài nhọn, gạch, đá... gây thương tích cho người khác.
- Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Trong vụ án hình sự, cần trưng cầu
giám định cơ quan chuyên môn xác định rõ các a-xít, hóa chất là chất gì, có
thể phá hủy tế bào cơ thể như thế nào.
- Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi: Căn cứ vào giấy khai sinh, Giấy
chứng sinh, sổ hộ khẩu hoặc Chứng minh nhân dân.
- Phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không
có khả năng tự vệ: Phụ nữ đang có thai có thể do người phạm tội nhận biết
được hoặc nghe người khác nói. Việc xác định có thai hay không phải dựa
vào kết luận của bác sĩ. Người già yếu là người từ đủ 60 tuổi trở lên, sinh
28
hoạt, đi lại khó khăn... Người ốm đau là người đang bị bệnh tật mà đang phải
điều trị. Người không có khả năng tự vệ ; thương binh, bệnh binh nặng…
- Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của
mình, gồm: ông, bà gồm ông bà nội, ông bà ngoại; cha, mẹ là người sinh ra
người phạm tội hoặc người đã nhận người phạm tội làm con nuôi được pháp
luật thừa nhận; Người nuôi dưỡng là người chăm sóc, giáo dục như cha mẹ.
Thầy giáo, cô giáo là người trực tiếp giảng dạy người phạm tội về văn hoá,
chuyên môn, nghề nghiệp, v.v...
- Có tổ chức là việc có từ 02 người trở lên cùng thực hiện 01 tội phạm
và giữa họ có sự cấu kết, phân công trách nhiệm chặt chẽ với nhau.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn.
- Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án
phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa
vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc: Thời gian này được xác
định đựa vào các quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
- Thuê hoặc được thuê gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe cho người
khác.
- Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm: phạm tội có tính chất
côn đồ là trường hợp thực hiện tội phạm có tính hung hãn cao độ, coi thường
tính mạng, sức khỏe của người khác; vô cớ gây thương tích vì lý do nhỏ nhặt
hoặc do mâu thuẫn nhỏ nhặt trong sinh hoạt; đâm, chém, đánh đập người khác
dã man,...
- Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn
nhân.
Căn cứ để đánh giá mức độ thương tích là kết quả giám định pháp y
theo quy định tại Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 02/6/2014 của Bộ
trưởng Bộ Y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định
29
pháp y, pháp y tâm thần.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
là cấu thành vật chất nên phải xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và
hậu quả xảy ra.
Chủ thể của tội phạm: Người từ đủ 14 tuổi trở lên, có năng lực trách
nhiệm hình sự. Theo quy định của Điều 12 BLHS thì phạm tội thuộc khoản 1,
2 Điều 134 tuy là trường hợp ít nghiêm trọng và nghiêm trọng nhưng người
phạm tội đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi cũng bị truy cứu TNHS.
Mặt chủ quan của tội phạm: Người thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.
Về khung hình phạt, gồm các khung:
Khung hình phạt quy định tại khoản 1. Mức hình phạt từ cải tạo không
giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể nạn nhân từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một
trong các trường hợp phạm tội được nêu tại khoản 1;
Khung hình phạt quy định tại khoản 2. Mức hình phạt tù từ 02 năm đến
06 năm khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp nêu tại khoản 2;
Khung hình phạt quy định tại khoản 3. Mức hình phạt tù từ 05 năm đến
10 năm khi phạm tội một trong các trường hợp được nêu tại khoản 3;
Khung hình phạt quy định tại khoản 4. Mức hình phạt tù từ 07 năm đến
14 năm khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp được nêu tại khoản 4;
Khung hình phạt quy định tại khoản 5. Mức hình phạt tù từ 12 năm đến
20 năm hoặc tù chung thân khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp được
nêu tại khoản 5;
Khung hình phạt quy định tại khoản 6. Phạt cải tạo không giam giữ đến
02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm đối với người chuẩn bị phạm tội
này.
So sánh giữa Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
30
của người khác quy định tại Điều 104 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm
2009) với quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) có một số điểm mới sau:
Điều luật được cấu trúc lại thành 6 khoản; bỏ 3 tình tiết định khung là
gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; phạm tội 02 lần trở lên; tái phạm nguy hiểm tại
khoản 1; bổ sung cụm từ “Dùng vũ khí, vật liệu nổ” tại điểm a; thay cụm từ
“Sunfuric (H2SO4) bằng cụm từ “nguy hiểm”; bổ sung cụm từ: “bị giữ”,
“đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính
đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc” tại điểm g. Sửa hình phạt tù tối đa tại các khoản 2, 3,
4, 5. Quy định về những trường hợp chuẩn bị phạm tội tại khoản 6.
1.2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công
tố đối trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác.
1.2.2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác.
*Hoạt động THQCT của VKSND trong việc giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Theo quy định tại Điều 145 BLTTHS, VKSND không chỉ có trách
nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố mà còn có
thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong
trường hợp phát hiện Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động
kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu
hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được
31
khắc phục. Để thực hiện tốt hoạt động THQCT trong việc giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác, KSV phải nắm vững những nhiệm vụ,
quyền hạn của VKSND khi THQCT quy định tại Điều 159 BLTTHS và Điều
12 Luật Tổ chức VKSND năm 2014. Theo đó, hoạt động THQCT trong việc
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố phải được tiến
hành đồng thời với hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố về tội phạm này.
Trách nhiệm của VKS trong công tác này là THQCT và kiểm sát việc
giải quyết nguồn tin về tội phạm, bảo đảm việc giải quyết của Cơ quan điều
tra đúng pháp luật, đầy đủ; bảo đảm mọi tội phạm đều được phát hiện, khởi
tố, điều tra và xử lý. Điều 145, 146, 147, 148, 150, 159 BLTTHS quy định rõ
nội dung của THQCT trong giai đoạn này, cụ thể:
Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác:
Theo quy định tại Điều 165 BLTTHS, VKS có quyền quyết định phê
chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn biện pháp bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ nhằm thu thập chứng cứ chứng minh tội
phạm, bảo đảm người bị tình nghi không bỏ trốn, cản trở quá trình xác minh.
Tại Điều 110 BLTTHS quy định: “Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ
người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a
và điểm b khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị
giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát
có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê
32
chuẩn” (khoản 4) và “Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ giữ người
quy định tại khoản 1 Điều này” (khoản 6).
Tại khoản 6 Điều 110 BLTTHS quy định: “Trường hợp cần thiết, Kiểm
sát viên phải trực tiếp gặp, hỏi người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trước
khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn lệnh bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp” và “ Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi
nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định
không phê chuẩn”.
Hủy bỏ quyết định tạm giữ, các quyết định tố tụng khác trái pháp luật
của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố:
Theo quy định tại Điều 117 BLTTHS và các Điều 12, Điều 22 Luật tổ
chức VKSND năm 2014, trong quá trình thực hiện chức năng THQCT, khi
xét thấy quyết định tạm giữ không có căn cứ hoặc trái pháp luật, VKS có
quyền hủy bỏ quyết định tạm giữ và quyết định trả tự do ngay cho người bị
tạm giữ. VKS có quyền đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan
có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
thực hiện; Hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ trong trường hợp quyết định tạm
đình chỉ giải quyết tin báo không có căn cứ; trực tiếp giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện có vi phạm
pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu
nhưng không được khắc phục.
*Hoạt động THQCT của VKSND trong việc quyết định khởi tố vụ án,
khởi tố bị can, phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều
tra, áp dụng biện pháp ngăn chặn, hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và
trái pháp luật.
33
Quyền ra quyết định khởi tố vụ án
Quyết định không khởi tố vụ án hình sự về Tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được coi là có căn cứ khi việc
không khởi tố vụ án là do có một trong các căn cứ quy định tại Điều 157
BLTTHS. Cụ thể là, Cơ quan điều tra ra quyết định không khởi tố vụ án khi
có một trong các căn cứ sau: Không có sự việc phạm tội; Hành vi không cấu
thành tội phạm; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi
chịu trách nhiệm hình sự; Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án
hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; Đã hết thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự; Tội phạm đã được đại xá; Người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội đã chết (trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người
khác); Bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.
Theo quy định tại Điều 159 BLTTHS, VKS có thẩm quyền: Hủy bỏ
quyết định không khởi tố vụ án hình sự, Hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình
sự của Cơ quan điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án.
BLTTHS quy định việc khởi tố vụ án hình sự chủ yếu do Cơ quan điều
tra thực hiện. Theo Điều 14 Luật tổ chức VKSND năm 2014 và Điều 153, 154
BLTTHS, VKS chỉ trực tiếp khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp VKS huỷ
bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra và trong
trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án.
Thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự:
Điều 156 BLTTHS quy định, VKS có quyền thay đổi quyết định khởi
tố vụ án khi có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi
phạm tội đã xảy ra hoặc ra quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án quy
định khi có căn cứ xác định có tội phạm khác chưa được khởi tố. Đây cũng là
một trong những quyền năng thuộc phạm vi quyền công tố của VKS, nhằm
bảo đảm việc khởi tố vụ án hình sự có căn cứ và phù hợp với tình tiết khách
34
quan trong vụ án.
Hủy quyết định khởi tố vụ án hình sự:
Khi thấy quyết định không khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra rõ ràng
là không có căn cứ và trái pháp luật thì Viện trưởng VKS ra văn bản yêu cầu
Cơ quan điều tra ra quyết định hủy bỏ. Nếu Cơ quan điều tra không nhất trí
thì VKS căn cứ khoản 3 Điều 153 và khoản 1 Điều 161 BLTTHS ra quyết
định hủy bỏ, đồng thời quyết định khởi tố vụ án.
Phê chuẩn, hủy bỏ quyết định khởi tố bị can, yêu cầu thay đổi, bổ sung
quyết định khởi tố bị can hoặc trực tiếp ra các quyết định trên:
Điều 179 BLTTHS quy định: Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận
được hồ sơ, nếu xác quyết định khởi tố là có căn cứ thì VKS ra quyết định
phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; nến chưa đủ căn cứ thì VKS yêu cầu bổ
sung chứng cứ. Trường hợp xác định quyết định khởi tố bị can không có căn
cứ và trái pháp luật thì, VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can.
Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, khi phát hiện có người thực hiện
hành vi phạm tội chưa bị khởi tố thì VKS yêu cầu khởi tố bị can, nêu Cơ quan
điều tra không thực hiện thì VKS căn cứ khoản 4 Điều 179 BLTTHS trực tiếp
ra quyết định khởi tố bị can. Khi có căn cứ xác định hành vi của bị can không
đúng với tội danh đã khởi tố hoặc bị can còn có hành vi phạm tội khác thì
VKS yêu cầu thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can, trường hợp Cơ quan
điều tra không thực hiện thì VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố bị can và gửi cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.
Quyền năng trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn; quyền quyết định
phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra, hủy bỏ các
quyết định không có căn cứ và trái pháp luật.
Các biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS gồm: Giữ
người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 110), bắt người (Điều
35
110,111,112,113, 503), tạm giữ (Điều 117), tạm giam (Điều 119), bảo lĩnh
(Điều 121), đặt tiền để bảo đảm (Điều 122), cấm đi khỏi nơi cư trú (Điều
123), tạm hoãn xuất cảnh (Điều 124). VKS có quyền xét phê chuẩn lệnh,
quyết định áp dụng một số biện pháp ngăn chặn của Cơ quan điều tra như: bắt
người để tạm giam, bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giam, đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm … và xem xét hủy bỏ quyết định tạm
giữ của Cơ quan điều tra nếu thấy không có căn cứ. Khoản 2, Điều 125
BLTTHS còn quy định “Đối với những biện pháp ngăn chặn do VKS sát phê
chuẩn thì việc huỷ bỏ hoặc thay thế phải do VKS quyết định”.
* Hoạt động THQCT của VKSND trong việc đề ra yêu cầu điều tra;
trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra
Quyền đề ra yêu cầu điều tra:
Khoản 6 Điều 165 BLTTHS và khoản 7 Điều 14 Luật tổ chức VKSND
năm 2014 quy định: Khi THQCT trong giai đoạn điều tra, VKS có nhiệm vụ
và quyền hạn “Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành điều tra để
làm rõ tội phạm, người phạm tội”. Đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, nội dung yêu cầu điều tra của VKS
cần tập trung yêu cầu làm rõ: Dấu hiệu tội phạm; Tỷ lệ thương tật của thương
tích hoặc mức độ tổn hại đối với sức khỏe của người bị hại; Những yếu tố liên
quan đến việc định tội và định khung hình phạt; Các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của người phạm tội; yêu cầu bồi thường thiệt …
KSV có thể đề ra yêu cầu điều tra bằng hình thức văn bản hay bằng lời
nói để nêu ra yêu cầu, đòi hỏi về những vấn đề cần thiết mà Cơ quan điều
tra/Điều tra viên cần phải làm rõ khi điều tra vụ án nhằm bảo đảm việc điều
tra, xử lý vụ án được khách quan, toàn diện và triệt để, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.
36
Quyền trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra:
Theo quy định tại khoản 7 Điều 165 BLTTHS: VKS có quyền trực tiếp
tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài
liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc trường
hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà
VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục hoặc trường hợp
để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi quyết định việc truy tố.
Theo quy định tại các Điều 183, 186, 188, 189 BLTTHS, trong một số
trường hợp cần thiết, khi thực THQCT trong giai đoạn điều tra, VKS có thể
trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra như: Triệu tập và hỏi cung bị
can; triệu tập và lấy lời khai người làm chứng; tiến hành đối chất; thực
nghiệm điều tra… để củng cố chứng cứ và các tình tiết khác nhằm đánh giá
một cách khách quan, toàn diện vụ án. Để bảo đảm việc giải quyết vụ án được
khách quan, chính xác, bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng.
Tuy nhiên, khi trực tiếp thực hiện một số hoạt động điều tra, kiểm sát phải
thông báo trước cho cơ quan điều tra về thời gian, địa điểm tiến hành.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 183 BLTTHS, Điều 28 Quy chế tạm
thời công tác THQCT, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố ban hành kèm
theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017 của Viện trưởng
VKSND tối cao, kiểm sát viên triệu tập và hỏi cung trong trường hợp bị can
kêu oan; bị can khiếu nại hoạt động điều tra; có căn cứ xác định việc điều tra
vi phạm pháp luật; khi có đề nghị của Cơ quan có thẩm quyền điều tra; tài
liệu, chứng cứ mâu thuẫn hoặc chưa rõ; lời khai của bị can trước sau không
thống nhất, lúc nhận tội, lúc chối tội; có căn cứ để nghi ngờ về tính xác thực
trong lời khai của bị can hoặc trường hợp bị can bị khởi tố về tội đặc biệt
nghiêm trọng và các trường hợp khác khi xét thấy cần thiết.
37
1.2.2.2. Trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc thực hiện yêu
cầu, quyết định của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Điều 6 của Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-
BQP quy định về phối hợp giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc
thực hiện một số quy định của BLTTHS quy định rõ trách nhiệm của Cơ quan
điều tra trong việc thực hiện yêu cầu, quyết định của VKS. Trong giai đoạn
khởi tố, điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra phải thực hiện yêu cầu, quyết định
của VKS theo quy định tại các Điều 162, 167, 236 và Điều 238 BLTTHS.
Đối với quyết định quy định tại khoản 1 và khoản 6 Điều 159, điểm b
khoản 1 Điều 161, khoản 4 và khoản 5 Điều 165 BLTTHS nếu không nhất trí,
Cơ quan điều tra vẫn phải thực hiện nhưng có quyền kiến nghị với VKS cấp
trên trực tiếp xem xét, giải quyết. Trường hợp nhất trí với kiến nghị của Cơ
quan điều tra thì VKS cấp trên hủy bỏ quyết định của VKS cấp dưới; nếu
không nhất trí thì thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do cho Cơ quan điều tra
đã kiến nghị và VKS cấp dưới.
Điều 11 Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP
quy định về phối hợp giữa cơ quan điều tra và VKS trong việc thực hiện một
số quy định của BLTTHS nêu rõ, KSV phải kịp thời trao đổi với điều tra viên,
cán bộ điều tra được phân công điều tra vụ án về những vấn đề cần điều tra
ngay từ khi nhận được quyết định khởi tố vụ án hình sự và trong quá trình
điều tra, bảo đảm để điều tra viên, cán bộ điều tra kịp thời thu thập đầy đủ các
chứng cứ, tài liệu của vụ án.
Điều tra viên được phân công điều tra vụ án phải thực hiện yêu cầu
điều tra của KSV, nếu thấy cần thiết thì trao đổi lại với KSV. Trường hợp
giữa điều tra viên với KSV có có sự thống nhất thì điều tra viên báo cáo Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra; KSV báo cáo Viện trưởng, Phó
38
Viện trưởng VKS để thống nhất về nội dung yêu cầu điều tra. Trường hợp Cơ
quan điều tra không thực hiện yêu cầu điều tra của VKS hoặc đã tiến hành các
hoạt động điều tra nhưng do trở ngại khách quan mà không thể thực hiện
được thì Cơ quan điều tra phải nêu rõ lý do trong bản kết luận điều tra.
Trường hợp VKS trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy
định tại khoản 3 Điều 236, khoản 1 Điều 246 BLTTHS mà thấy cần phối hợp
với Cơ quan điều tra thì chậm nhất 24 giờ trước khi tiến hành một số hoạt
động điều tra, VKS thông báo cho Cơ quan điều tra thời gian, địa điểm tiến
hành một số hoạt động điều tra để phân công điều tra viên cùng phối hợp thực
hiện; trường hợp điều tra viên vắng mặt thì chậm nhất 2 giờ trước khi KSV
tiến hành một số hoạt động điều tra, điều tra viên phải thông báo KSV. Biên
bản tiến hành hoạt động điều tra của KSV phải được đưa vào hồ sơ vụ án.
1.2.2.3. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện
quyết định, yêu cầu của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Trong trường hợp cần xác định giá của tài sản để giải quyết vụ án hình
sự hoặc có nghi ngờ kết luận định giá lần đầu thì VKS có ra văn bản yêu cầu
định giá theo quy định tại Điều 215, Điều 218 Bộ luật TTHS.
Đối với người phiên dịch, người dịch thuật thuộc các trường hộp phải
từ chối tham gia tố tụng theo quy định tại khoản 4 Điều 70 BLTTHS thì VKS
có quyền đề nghị thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật.
Điều 168 Bộ luật TTHS quy định, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải
nghiêm chỉnh thực hiện quyết định, yêu cầu của Viện kiểm sát trong giai đoạn
điều tra; trường hợp không chấp hành mà không vì lý do bất khả kháng hoặc
không do trở ngại khách quan thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.
1.2.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố với hoạt động kiểm
sát điều tra vụ án vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
39
của người khác.
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức VKSND năm
2014, trong lĩnh vực tư pháp hình sự, VKS có hai chức năng là THQCT và
kiểm sát hoạt động tư pháp. Đây là hai chức năng độc lập, nhưng có mối quan
hệ mật thiết với nhau. Trong đó, kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự của VKS là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp pháp, có căn
cứ của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động
tư pháp. THQCT là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện
việc buộc tội của Nhà nước đối với chủ thể phạm tội, được thực hiện ngay từ
khi giải quyết nguồn tin về tội phạm và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử vụ án hình sự. Trong thực tiễn hoạt động thực hiện chức năng
của ngành, VKS các cấp luôn quán triệt đường lối của công tác kiểm sát là
đấu tranh chống tội phạm gắn liền với đấu tranh chống vi phạm pháp luật
trong hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, nhằm bảo đảm mọi
hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh theo quy
định của pháp luật; không để lọt tội phạm đồng thời cũng không được làm
oan người vô tội, nên việc thực hiện đồng thời hai hoạt động THQCT và kiểm
sát hoạt động tư pháp trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự là mang
tính khách quan; do vậy, giữa hai hoạt động này luôn có mối quan hệ với
nhau. Mối quan hệ đó được thể hiện ở các phương diện sau:
Thứ nhất, để thực hiện tốt quyền công tố, có nghĩa là bảo đảm việc phê
chuẩn hoặc không phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp
ngăn chặn, các quyết định tố tụng khác của Cơ quan điều tra được chính xác,
đúng pháp luật, đòi hỏi phải kiểm sát chặt chẽ tính có căn cứ và tính hợp pháp
của các biện pháp tố tụng hình sự mà Cơ quan điều tra quyết định áp dụng,
hoạt động kiểm tra này chính là thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động
tư pháp. Trên cơ sở kết quả của hoạt động kiểm sát thấy ràng, quyết định áp
40
dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự có căn cứ và hợp pháp thì VKS
sẽ quyết định phê chuẩn để thi hành, ngược lại nếu xét thấy quyết định áp
dụng biện pháp cưỡng chế về tố tụng hình sự của Cơ quan điều tra không có
căn cứ và không hợp pháp, VKS sẽ quyết định không phê chuẩn hoặc quyết
định huỷ bỏ quyết định tố tụng trái pháp luật của Cơ quan điều tra, đồng thời
yêu cầu Cơ quan điều tra chấm dứt ngay các hoạt động tố tụng.
Thứ hai, với việc thực hiện công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ
làm tiền đề cho hoạt động THQCT được thực hiện một cách chính xác, nếu có
sai sót, vi phạm trong việc thực hiện kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai
đoạn điều tra sẽ kéo theo sự vi phạm pháp luật của hoạt động THQCT. Tuy
nhiên, trong giai đoạn điều tra khi hoạt động THQCT của VKS được thực
hiện cũng sẽ làm tiền đề phát sinh hoạt động kiểm sát.
Thứ ba, khi truy tố bị can ra Toà án để xét xử, tức là VKS đã THQCT
thể hiện qua việc ban hành Cáo trạng hoặc quyết định truy tố. Muốn bảo đảm
quyết định truy tố có căn cứ phải dựa trên cơ sở của kết quả hoạt động kiểm
sát điều tra vụ án của VKS, nếu thực hiện tốt hoạt động kiểm sát điều tra,
VKS sẽ nắm được nội dung của vụ án, những tình tiết buộc tội, tình tiết gỡ tội
của bị can …, đó chính là căn cứ vững chắc cho việc truy tố đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, ngược lại, nếu VKS thực hiện không tốt hoạt động kiểm
sát điều tra có thể dẫn đến việc truy tố oan, sai.
Thứ tư, trong hoạt động điều tra vụ án hình sự, THQCT là việc VKS
thực hiện các biện pháp pháp luật và trực tiếp quyết định các vấn đề về tố
tụng trong hoạt động điều tra nhằm mục đích chứng minh tội phạm và người
phạm tội cũng như hành vi phạm tội của họ. Kiểm sát điều tra là việc VKS
thực hiện các biện pháp kiểm sát, mục đích nhằm bảo đảm các hoạt động điều
tra được tiến hành một cách đúng đắn, đầy đủ, khách quan theo đúng trình tự,
thủ tục, nội dung của pháp luật quy định. Hai lĩnh vực này song song tồn tại
41
từ khi giải quyết nguồn tin về tội phạm cho đến khi bản án có hiệu lực pháp
luật. Nếu làm tốt nhiệm vụ THQCT sẽ hỗ trợ đắc lực cho hoạt động kiểm sát
thực hiện vai trò của mình, như tạo điều kiện cho hoạt động kiểm sát tiếp cận
các biện pháp điều tra, phát hiện, khắc phục vi phạm pháp luật về tố tụng; làm
tốt nhiệm vụ kiểm sát sẽ giúp cho công tác THQCT phát huy khả năng quyết
định quá trình tố tụng, như bảo đảm việc khởi tố, yêu cầu khởi tố, quyết định
áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, huỷ các quyết định trái
pháp luật của Cơ quan điều tra một cách có căn cứ, đúng pháp luật.
Tiểu kết chương 1
Với các nội dung trình bày trong Chương 1, luận văn tập trung phân
tích những vấn đề lý luận cơ bản về THQCT như khái niệm, vị trí, vai trò, ý
nghĩa, quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự về thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác của VKSND. Bên cạnh đó, tác giả cũng
phân tích về mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra - VKSND trong việc
điều tra và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, cũng là những yếu tố quan
trọng để nâng cao chất lượng công tác THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ
án hình sự của VKSND.
Nhận thức những vấn đề lý luận được trình bày nêu trên là cơ sở quan
trọng để phân tích, đánh giá thực trạng công tác THQCT trong giai đoạn điều
tra các vụ án vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác của VKSND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Từ đó đề ra các
phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả THQCT trong giai đoạn điều tra
loại án này.
42
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI
ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY
TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA,
TỈNH ĐỒNG NAI
2.1. Tình hình, đặc điểm có liên quan đến thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác
2.1.1. Tình hình tội phạm
Tội phạm hình sự nói chung và tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng trên địa bàn thành phố Biên
Hòa, đa số đều được thực hiện với phương thức thủ đoạn đơn lẻ, chưa có tính
tổ chức cao, tuy nhiên tính chất mức độ ngày càng tinh vi, phức tạp và một số
loại tội phạm có đông đối tượng tham gia, đối tượng phạm tội cũng có phần
trẻ hóa. Nguyên nhân chủ yếu của tội phạm là do thành phố Biên Hòa là nơi
đông dân cư với nhiều dân nhập cư, và tập trung khá nhiều khu công nghiệp
nên thu hút nguồn lao động từ các địa phương khác đến, một số đối tượng xấu
trà trộn vào đại bàn, một bộ phận thanh thiếu niên có lối sống thực dụng,
hưởng thụ, nghiện hút,… đã thực hiện tội phạm.
Căn cứ vào báo cáo tổng kết năm của VKSND thành phố Biên Hòa từ
năm 2013 đến năm 2018, thể hiện về tình hình tội phạm nói chung và Tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng,
chúng ta nhận thấy trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai các tội
phạm được thực hiện có xu hướng giảm. Các tội phạm chủ yếu được thực
hiện là các tội phạm về ma túy, các tội xâm phạm sở hữu và các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe của con người. Trong đó, Tội cố ý gây thương tích hoặc
43
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nằm trong nhóm các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm cũng có chiều hướng giảm chung
với các loại tội phạm khác nhưng không đáng kể. Đối với tội danh này, từ
thực tiễn trong công tác cho thấy vì tính chất phức tạp của nó nên hầu hết các
vụ án được khởi tố đều là kết quả của cả quá trình xác minh, thu thập tài liệu
chứng cứ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Do
đó, VKSND thành phố Biên Hòa đã chủ động tích cực, phối hợp với Cơ quan
điều tra ngay từ giai đoạn ban đầu này để đảm bảo cho quá trình khởi tố và xử
lý vụ án được khách quan, chính xác và đúng quy định của pháp luật, đảm
bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
2.1.2. Cơ cấu tố chức của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai
VKSND là cơ quan THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Qua đó, VKSND có nhiệm vụ bảo vệ
Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất.
VKSND có cơ cấu tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc của các cơ
quan trong bộ máy Nhà nước. Vị trí của VKSND được xác lập trong Hiến
pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ở nước ta hiện nay, bộ
máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Theo Điều 40 Luật tổ chức VKSND năm 2014, hệ thống Viện kiểm sát
nhân dân bao gồm: VKSND Tối cao; VKSND cấp cao; VKSND tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương; VKSND cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
44
tỉnh và tương đương; Viện kiểm sát quân sự các cấp.
VKSND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai là VKSND cấp huyện, là
cấp cuối cùng trong hệ thống các cơ quan VKSND, đóng một vai trò cực kỳ
quan trọng trong hệ thống VKSND bởi là cấp giải quyết phần lớn các vụ án
mà Viện kiểm sát thụ lý và giải quyết.
Về cơ cấu tổ chức của VKSND thành phố Biên Hòa:
- Về biên chế: VKSND thành phố Biên Hòa được VKSND tỉnh Đồng
Nai phân bổ 50 biên chế nhưng hiện mới chỉ được giao 43 biên chế, trong đó
có 42 đồng chí là đảng viên. Tổng số KSV là 34 người (gồm 4 KSV trung
cấp, 30 KSV sơ cấp)
- Về trình độ nghiệp vụ VKSND thành phố Biên Hòa có: 03 thạc sĩ
luật, 39 cử nhân luật, 01 Trung cấp.
Căn cứ theo tính chất, đặc thù và số lượng công việc cụ thể của đơn vị,
lãnh đạo VKSND thành phố Biên Hòa phân nhiệm vụ phụ trách 04 bộ phận
nghiệp vụ, cụ thể như sau:
- Viện trưởng phụ trách công tác chung và bộ phận văn phòng tổng
hợp, thống kê tội phạm và kiểm sát, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong
hoạt động tư pháp;
- 01 Phó Viện trưởng phụ trách bộ phận THQCT, kiểm sát điều tra,
kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự về án kinh tế, chức vụ, kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam và thi hành án hình sự. Tổng số cán bộ KSV của bộ phận này là
13 người;
- 01 Phó Viện trưởng phụ trách bộ phận thực hành quyền công tố, kiểm
sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án trật tự xã hội, ma túy, kiểm sát tin báo,
tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố. Tổng số cán bộ KSV của bộ phận này là
13 người;
- 01 Phó Viện trưởng phụ trách bộ phận kiểm sát giải quyết các vụ, việc
45
dân sự, hôn nhân và gia đình, vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh thương
mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật, kiểm sát thi
hành án dân sự, án hành chính.
Trước yêu cầu đặt ra trong công tác kiểm sát với khối lượng công việc
ngày càng nhiều, số lượng án luôn cao nhất tỉnh Đồng Nai (chiếm khoảng
30% tổng số án do ngành kiểm sát Đồng Nai thụ lý giải quyết), VKSND
thành phố Biên Hòa đã từng bước củng cố, tăng cường, ngày càng hoàn thiện
về tổ chức và hoạt động, về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu của công việc, hoàn
thành các chỉ tiêu nghiệp vụ hàng năm, hoàn thành chức năng, nhiệm vụ theo
quy định của pháp luật. Từng cán bộ VKSND thành phố Biên Hòa từ Ban
lãnh đạo cho đến cán bộ, KSV ngày càng nâng cao tinh thần trách nhiệm,
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị để phục vụ tốt
hơn cho công tác trong tình hình mới.
2.2. Công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ
án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ
thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
2.2.1. Những kết quả đạt được
Từ thực tiễn công tác THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, VKSND
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã đạt được những kết quả nhất định.
Trong 06 năm từ năm 2013 đến năm 2018, VKSND thành phố Biên Hòa đã
tham gia THQCT đối với trên 6.000 tin báo, trong số này đã khởi tố 573 vụ án
- 829 bị can về tội cố ý gây thương tích và tất cả các bị can sau này bị truy tố
xét xử đều đúng người đúng tội, không ai bị oan, sai.
Từng cán bộ, KSV của VKSND thành phố Biên Hòa ngày càng nhận
thức đầy đủ và thực hiện tốt hơn các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của
THQCT trong hoạt động điều tra. Bảo đảm việc phát hiện, khởi tố, điều tra,
46
truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra oan, sai,
bỏ lọt tội phạm.
Các KSV của VKSND thành phố Biên Hòa đều xác định được tầm
quan trọng của từng thao tác nghiệp vụ THQCT và có định hướng điều tra xác
minh ngay từ đầu, luôn tích cực nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án từ giai đoạn giải
quyết tin báo tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố, vận dụng đúng các quy
định của BLHS, BLTTHS và các văn bản quy phạm pháp luật khác trong
công tác xử lý tin báo và xử lý án.
Việc bảo đảm cho công tác khởi tố vụ án, khởi tố bị can đúng pháp luật
luôn được chú trọng. KSV của VKSND thành phố Biên Hòa đề ra yêu cầu
điều tra ngay từ khi thụ lý vụ án, quan tâm đến các dấu hiệu cơ bản của tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác để đinh
hướng điều tra, tập trung các tình tiết cần phải chứng minh, các tài liệu chứng
cứ cần phải thu thập và luôn bám sát hoạt động điều tra, để vụ án được thu
thập đầy đủ chứng cứ, xác định đúng và đầy đủ tội danh, khung hình phạt áp
dụng và không để bỏ sót những người đồng phạm khác trong vụ án.
Quá trình thụ lý các vụ án hình sự, KSV luôn chấp hành tốt việc
THQCT trong hoạt động điều tra. Hầu hết các vụ án đều có yêu cầu điều tra
và các bản trích cứu, phiếu đề xuất trong các giai đoạn tố tụng. Việc đề ra yêu
cầu điều tra luôn bám sát các quy định của pháp luật cũng như quy chế nghiệp
vụ của ngành, chủ động phối hợp với Điều tra viên để giải quyết những khó
khăn vướng mắc trong suốt quá trình điều tra, đảm bảo xử lý vụ án đúng quy
định pháp luật. Việc đề ra yêu cầu điều tra của VKSND thành phố Biên Hòa
được KSV coi trọng thực hiện. Đa số yêu cầu điều tra được ban hành đều đảm
bảo chất lượng, định hướng được cho quá trình điều tra các vụ án.
Đối với hoạt động phê chuẩn khởi tố bị can, phê chuẩn các quyết định
của Cơ quan điều tra đều được thực hiện có căn cứ, đúng quy định của pháp
47
luật. Đối với các trường hợp chưa đầy đủ căn cứ thì VKS thực hiện trao đổi
với Cơ quan điều tra để bổ sung tài liệu chứng cứ hoặc từ chối việc phê
chuẩn. Từ đó không có trường hợp nào bị khởi tố oan, sai. Các vụ án đều
được khởi tố đúng người, đúng tội.
Các cán bộ, KSV của VKSND thành phố Biên Hòa đã chủ động thực
hiện các quyền hạn được quy định trong BLTTHS. Giữa các chủ thể THQCT
trong giai đoạn điều tra vụ án có sự phối hợp chặt chẽ và thông tin kịp thời,
góp phần tăng hiệu quả trong hoạt động THQCT và kịp thời xử lý giải quyết
các vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Trong thời gian
từ năm 2013 đến năm 2018, VKSND thành phố Biên Hòa đã yêu cầu Cơ quan
điều tra khởi tố 06 bị can Tội cố ý gây thương tích, thay đổi quyết định khởi
tố vụ án và thay đổi quyết định khởi tố bị can Tội cố ý gây thương tích đối với
03 vụ án – 03 bị can.
Đặc biệt, VKSND thành phố Biên Hòa không để xảy ra tình trạng án
quá hạn luật định tại Cơ quan điều tra và không để án quá hạn tại VKS. Toàn
bộ án tồn từ năm cũ chuyển sang bảo đảm xử lý dứt điểm vào đầu quý 2 của
năm sau, thời hạn điều tra đều đảm bảo đúng theo quy định của BLTTHS.
Khi phát hiện Cơ quan điều tra, Điều tra viên có vi phạm thiếu sót,
VKS kịp thời kiến nghị để khắc phục vi phạm, đảm bảo cho quá trình giải
quyết vụ án. VKSND thành phố Biên Hòa đã ban hành 02 văn bản kiến nghị
yêu cầu Cơ quan điều tra xử lý kỷ luật đối với các Điều tra viên do vi phạm
pháp luật trong hoạt động điều tra vụ án cố ý gây thương tích. Các yêu cầu
của VKSND thành phố Biên Hòa đều đảm bảo chính xác, đúng pháp luật,
được Cơ quan điều tra chấp nhận, thực hiện một cách nghiêm túc.
Trong công tác THQCT ở giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, VKSND thành phố Biên
Hòa luôn quan tâm đẩy mạnh chủ trương “Tăng cường trách nhiệm công tố
48
trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”. Kinh nghiệm
của mỗi KSV sẽ được chia sẽ và phổ biến kinh nghiệm chung cho tất cả KSV,
Kiểm tra viên, chuyên viên trong cơ quan nhằm nâng cao kỹ năng THQCT
cho từ cán bộ, KSV.
Thông qua các cuộc họp liên ngành hàng tháng, VKS đã kiến nghị các
biện pháp phòng ngừa tội phạm như khởi tố điều tra ngay những vụ việc có
dấu hiệu tội phạm, tăng cường điều tra, làm rõ truy bắt các đối tượng phạm tội
bỏ trốn, tập trung truy quét, trấn áp tội phạm và tệ nạn xã hội tại một số địa
bàn trọng điểm. Phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra trong công tác rà soát
và đẩy nhanh tiến độ phê chuẩn các lệnh quyết định trong những đợt cao điểm
tấn công trấn áp tội phạm trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Đơn vị đã thực hiện Nghị quyết 37/2012/QH13 về công tác phòng
chống vi phạm pháp luật và tội phạm, mở và lập sổ theo dõi vi phạm. Tổng
hợp các nguyên nhân, điều kiện phát sinh vi phạm và tội phạm để kiến nghị
các cơ quan nhà nước nhằm hạn chế việc xảy ra vi phạm. Đồng thời kiến nghị
đối với CQCSĐT Công an thành phố Biên Hòa và một số cơ quan khác trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Đạt được kết quả trên là do:
- Thứ nhất, về công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành.
Hàng năm, VKSND thành phố Biên Hòa trên cơ sở kế hoạch công tác,
từng bộ phận, mỗi cán bộ, KSV đăng ký thi đua theo các tiêu chuẩn về ý thức
tổ chức kỷ luật, tinh thần học tập nâng cao trình độ và kết quả thực hiện chức
trách nhiệm vụ được giao. Hàng tháng có kiểm điểm đánh giá kết quả đã thực
hiện theo chỉ tiêu kế hoạch đề ra, tìm ra nguyên nhân, đề ra các biện pháp
tháo gỡ khắc phục yếu kém. Tổ chức quản lý cán bộ công chức chặt chẽ,
không để xảy ra trường hợp cán bộ vi phạm bị xử lý, kỷ luật.
Chi bộ cùng Ban lãnh đạo cơ quan đề ra nghị quyết triển khai đến từng
49
cán bộ KSV hưởng ứng tích cực các đợt thi đua của ngành và đề ra các tiêu
chí cụ thể rõ ràng để tổ chức thực hiện. Thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW
ngày 02-6-2005 của Bộ chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020”, VKSND thành phố Biên Hòa đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tố
tụng tập trung giải quyết dứt điểm các vụ án trọng điểm đã được khởi tố điều
tra; hạn chế đáng kể việc trả hồ sơ điều tra bổ sung, không có trường hợp điều
tra, truy tố oan, sai góp phần to lớn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm, đảm bảo ổn định an ninh, chính trị tại địa phương.
Lãnh đạo luôn tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành; đoàn
kết, gương mẫu trong công việc, lối sống và thực hiện chuẩn mực đạo đức của
người cán bộ kiểm sát; phối hợp cấp ủy Đảng cơ sở triển khai thực hiện có
hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
VKSND thành phố Biên Hòa thường xuyên duy trì sinh hoạt sáng đầu
giờ để kịp thời quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, những văn bản
pháp luật để cán bộ công chức cơ quan thực hiện kịp thời. Tiếp tục đổi mới
chỉ đạo điều hành, đề ra các quy chế cụ thể, đầy đủ, sự phối hợp giữa thủ
trưởng - cấp ủy, giữa thủ trưởng và Ban chấp hành tổ Công đoàn. Thực hiện
tích cực cuộc vận động do VKSND Tối cao phát động là xây dựng đội ngũ
cán bộ công chức ngành kiểm sát: “Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh
thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”.
- Thứ hai, về công tác tổ chức quán triệt, triển khai thi hành các đạo
luật mới về tư pháp và hướng dẫn nghiệp vụ.
Tập thể cán bộ công chức cơ quan tham gia đầy đủ lớp tập huấn chuyên
sâu các Bộ luật mới sửa đổi. Cơ quan cũng đã trang bị 100% các Bộ luật mới
để cán bộ công chức phục vụ tốt trong công tác.
50
- Thứ ba, công tác tổ chức, cán bộ.
Thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức, thông
qua việc học tập nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Tập trung quán
triệt thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI về xây dựng Đảng, Chỉ thị
số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và phong trào thi đua làm theo lời dạy của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ Kiểm sát “Công minh, chính trực,
khách quan, thận trọng, khiêm tốn”.
2.2.2.Tồn tại, hạn chế
Hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã đạt được nhiều kết quả tốt.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, không ít những hạn chế, tồn tại thiếu sót, cụ thể:
Hạn chế của người tiến hành tố tụng
- VKS chậm ban hành yêu cầu xác minh khi THQCT và kiểm sát việc
giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố (gọi tắt là tin báo).
Nhiều yêu cầu xác minh còn chung chung, không kịp thời dẫn đến giải quyết
tin báo chậm, chưa đảm bảo thời hạn.
- Trong khi THQCT, một số KSV vẫn còn chưa phát huy hết tinh thần
trách nhiệm của mình, còn nể nang, chưa kiên quyết, chưa chủ động trong quá
trình điều tra xử lý vụ án, phần lớn thời gian điều tra để cho Điều tra viên tiến
hành các hoạt động điều tra mà chưa có sự sâu sát, kiểm sát chặt chẽ, thường
xuyên dẫn đến hoạt động thu thập chứng cứ, sử dụng, đánh giá chứng cứ để
chứng minh tội phạm của CQĐT chưa đầy đủ và chặt chẽ, có những vi phạm
nghiêm trọng về trình tự, thủ tục tố tụng, gây khó khăn cho công tác phê
chuẩn, lệnh, quyết định của cơ quan điều tra và công tác giải quyết án kịp
thời. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến VKS phải từ chối phê
chuẩn lệnh, quyết định của cơ quan điều tra, phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung
51
đối với các vụ án cố ý gây thương tích trong thời gian qua. Theo số liệu thống
kê của VKSND thành phố Biên Hòa từ năm 2013 đến năm 2018, VKS đã từ
chối phê chuẩn 03 trường hợp bắt khẩn cấp, 03 trường hợp gia hạn tạm giữ,
không phê chuẩn khởi tố bị can và lệnh tạm giam 06 trường hợp, vẫn còn để
một số vụ án cố ý gây thương tích VKS trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ
sung do nguyên nhân chủ quan từ KSV.
- Một số yêu cầu điều tra của KSVchưa được các Điều tra viên thực
hiện triệt để, từ đó dẫn chất lượng điều tra một số vụ án cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chưa cao và phải trả hồ sơ điều
tra bổ sung do chính những yêu cầu đã đặt ra mà chưa được thực hiện. Mặt
khác, quá trình điều tra không toàn diện dẫn đến có những vụ án phải trả hồ
sơ điều tra bổ sung do thiếu chứng cứ buộc tội, tình tiết định tội, định khung
hình phạt, tình tiết giảm nhẹ tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Trình độ, năng lực chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn của KSV,
Điều tra viên chưa đồng đều và chưa thống nhất. Một số KSV, Điều tra viên
còn hạn chế về trình độ chuyên môn khi thực hiện nhiệm vụ, một số cán bộ
KSV trẻ chưa có thâm niên công tác nên chưa có nhiều kinh nghiệm trong
việc giải quyết đối với loại tội phạm này.
Hạn chế về quy định của pháp luật
Quy định pháp luật chính là những căn cứ pháp lý cho hoạt động
THQCT của VKSND nói chung và cho hoạt động THQCT ở giai đoạn điều
tra các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác của VKSND thành phố Biên Hòa nói riêng. Tuy nhiên, điều luật quy
định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác chưa rõ ràng, cụ thể, nhiều cách hiểu khác nhau nên việc áp dụng chưa
thống nhất mà không có văn bản hướng dẫn cụ thể dẫn đến các cơ quan tố
tụng và người áp dụng pháp luật có nhận thức và quan điểm khác nhau, nhất
52
là về tình tiết định tội, định khung hình phạt như “Có tính chất côn đồ”,
“Dùng hung khí nguy hiểm” …nên càng gây khó khăn cho quá trình xử lý.
Cơ sở pháp lý đầy đủ, thống nhất, phù hợp, rõ ràng, cụ thể sẽ giúp cho
hoạt động của các chủ thể trong THQCT ở giai đoạn điều tra các vụ án cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thực hiện
tốt, có hiệu quả cao, nhằm bảo đảm đúng người, đúng tội, tránh oan, sai, tránh
bỏ lọt tội phạm.
Chưa quy định về việc người bị hại từ chối giám định tỉ lệ thương tích
trong trường hợp:
+ Ngay từ khi chưa khởi tố vụ án, khởi tố bị can người bị hại đã từ chối
đi giám định tỉ lệ thương tật và bỏ trốn nhưng Cơ quan giám định không thể
căn cứ vào bệnh án để giám định mà phải thăm khám thực tế trên cơ thể mặc
dù thương tích của bị hại thể hiện tại hồ sơ là rất nặng có thể trên 60%, điều
này dẫn tới việc không thể khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bỏ lọt tội phạm.
+ Người bị hại đã có kết luận giám định về tỉ lệ thương tích. Căn cứ
vào kết quả giám định, Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can
nhưng bị can khiếu nại và cho rằng kết luận giám định là không khách quan,
không đúng (theo hướng bất lợi cho bị can) nên đề nghị giám định lại thương
tật của người bị hại. Xét thấy, đề nghị của bị can là có cơ sở, cơ quan tiến
hành tố tụng có quyết định trưng cầu giám định lại nhưng người bị hại không
bỏ trốn làm cho việc xử lý vụ án bị kéo dài, có trường hợp không xử lý được.
2.2.3.Nguyên nhân
* Về nguyên nhân khách quan
Hệ thống pháp luật làm cơ sở pháp lý cho hoạt động THQCT nói
chung, trong THQCT ở giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng còn chưa đầy đủ và đồng
bộ, một số quy định còn chưa phù hợp với thực tiễn. Một khái niệm khác
53
chưa được làm rõ, đó là khái niệm "Có tính chất côn đồ". Khái niệm côn đồ
được hiểu là hành động của những đối tượng coi thường pháp luật, luôn luôn
gây rối trật tự trị an, sẵn sàng dùng vũ lực và thích dùng vũ lực để uy hiếp
người khác phải khuất phục mình, vô cớ hoặc chỉ vì một duyên cớ nhỏ nhặt là
đâm chém... Như vậy, có thể hiểu, có tính chất côn đồ là trường hợp phạm tội
có tính hung hãn cao độ, coi thường tính mạng, sức khoẻ của người khác; gây
thương tích không có nguyên cớ hoặc phạm tội chỉ vì lý do nhỏ nhen; đâm,
chém, đánh người khác một cách dã man... Tuy nhiên, không phải mọi trường
hợp vô cớ phạm tội hoặc phạm tội vì một duyên cớ nhỏ nhặt đều xác định là
biểu hiện của "tính côn đồ". Trường hợp bị cáo phạm tội vì duyên cớ nhỏ
nhặt, nhưng trước đó bị cáo có nhân thân tốt thì trường hợp cụ thể này không
nên áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất côn đồ. Có quan điểm cho rằng,
theo hướng dẫn của TAND Tối cao thì áp dụng tình tiết "có tính chất côn đồ"
đối với những "trường hợp vô cớ phạm tội hay phạm tội vì một nguyên cớ
nhỏ nhặt" và bị cáo là những kẻ "luôn luôn phá rối trật tự trị an, thích dùng vũ
lực để uy hiếp người khác, những kẻ đâm thuê chém mướn"; những trường
hợp phạm tội vì một nguyên cớ nhỏ nhặt hoặc vô cớ phạm tội thì đều phải coi
đó là hành vi có tính côn đồ mà không phân biệt trước khi phạm tội bị cáo có
nhân thân tốt hay không. Như vậy, do nội dung hướng dẫn chưa đầy đủ, rõ
ràng, nên trong thực tiễn áp dụng vẫn còn có những quan điểm chưa thống
nhất.
BLTTHS quy định khi THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án hình
sự KSV có quyền "đề ra yêu cầu điều tra". Tuy nhiên trên thực tế, nhiều vụ
án yêu cầu của KSV chưa được ĐTV nghiêm túc thực hiện dẫn đến những vi
phạm trong hoạt động tố tụng ở giai đoạn điều tra nhưng không có chế tài có
tính chất bắt buộc ĐTV phải thực hiện. Nhiều chế định thể hiện quyền hạn và
nhiệm vụ của VKSND, quyền hạn của KSV còn chung chung chưa cụ thể dẫn
54
đến vướng mắc, gây khó khăn cho KSV khi THQCT trong giai đoạn điều tra
vụ án
Quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKSND trong hoạt động điều tra tội
phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác vẫn
còn chưa chặt chẽ, thường xuyên. Vẫn có tình trạng ở một số vụ việc, chưa
tìm được tiếng nói chung trong quá trình giải quyết hoặc còn nể nang, ngại va
chạm giữa các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Tinh thần đấu tranh phòng
chống tội phạm cố ý gây thương tích của một bộ phận cán bộ ở CQĐT,
VKSND chưa cao, còn có tâm lý sợ bị trả thù... dẫn đến thiếu kiên quyết
trong điều tra, làm giảm hiệu quả công tác đấu tranh chống tội phạm.
Cơ sở vật chất, trang thiết và kinh phí nghiệp vụ của ngành Kiểm sát
còn thiếu thốn, làm ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động công tố, nhất là
đối với hoạt động khám nghiệm hiện trường thu thập dấu vết.
Chế độ đãi ngộ đối với KSV còn nhiều bất cập, chưa đủ đảm bảo ổn
định đời sống làm ảnh hưởng đến bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm của KSV.
* Về nguyên nhân chủ quan
Trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm của một số cán bộ, KSV vẫn còn
hạn chế. Mặc dù, trình độ lý luận chính trị, năng lực chuyên môn nghiệp vụ
của cán bộ, KSV đã được nâng cao, tuy nhiên một bộ phận, cán bộ, KSV còn
hạn chế về năng lực thực tế, kinh nghiệm trong quá trình giải quyết án nên
chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
Số lượng KSV còn thiếu, phải kiêm nhiệm nhiều khâu công tác dẫn đến
chất lượng công việc THQCT chưa cao chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách
tư pháp. Với yêu cầu nâng cao chất lượng THQCT, gắn công tố với hoạt động
điều tra như hiện nay, đòi hỏi KSV phải bám sát và tham gia ngay vào các
hoạt động điều tra ban đầu và còn thực hiện nhiều nhiệm vụ khác. Nhưng số
lượng KSV thuộc bộ phận hình sự của VKSND thành phố Biên Hòa hiện chỉ
55
có 30 cán bộ KSV trên tổng số việc trung bình mỗi năm phải xử lý là khoảng
1.000 tin báo và khoảng 800 vụ án hình sự, trong khi KSV thường xuyên phải
tham gia khám nghiệm hiện trường, tham gia đối chất, nhận dạng, thay nhau
đi học và tập huấn nghiệp vụ dẫn đến quá tải.
Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, KSV còn nặng nề về lý luận, chưa chú
ý rèn luyện kỹ năng THQCT chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp mà
Đảng và Nhà nước đặt ra cho ngành kiểm sát trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế.
Năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một số KSV vẫn còn hạn
chế. Nhiều trường hợp chưa nắm vững các quy định pháp luật hình sự và tố
tụng hình sự, không xác định đúng đặc trưng của tội phạm, các yếu tố cấu
thành tội phạm, còn lúng túng trong thao tác nghiệp vụ. Nhiều KSV chưa chịu
khó học hỏi kinh nghiệm, nghiên cứu chưa đầy đủ các quy định của pháp luật,
quy chế nghiệp vụ ngành, không kịp thời cập nhập các văn bản quy phạm
pháp luật, hướng dẫn mới để kịp thời thực hiện.
Hoạt động tổng kết rút kinh nghiệm, xây dựng các chuyên đề của
VKSND tỉnh Đồng Nai trong việc nâng cao chất lượng THQCT các vụ án
hình sự được chú trọng thực hiện, song hiệu quả, chất lượng chưa cao, còn
nặng nề về báo cáo số liệu, chưa rút ra được bài học kinh nghiệm trong thực
tiễn cho KSV học hỏi để vận dụng, áp dụng vào công tác.
Tiểu kết chương 2
Nội dung chương 2, tác giả sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân
tích, thống kê, so sánh để làm rõ thực trạng THQCT trong giai đoạn điều tra
của VKSND nói chung và các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác của VKSND thành phố Biên Hòa nói riêng.
Trên cơ sở các số liệu thống kê của VKSND thành phố Biên Hòa trong 06
năm (2013 - 2018), tác giả phân tích làm rõ những ưu điểm, kết quả đạt được
56
về lĩnh vực hoạt động này của VKSND thành phố Biên Hòa và nguyên nhân
kết quả đạt được.
Nhìn chung, công tác THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của VKSND
thành phố Biên Hòa đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ trong đấu
tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, hoạt động THQCT trong giai đoạn
điều tra của VKSND thành phố Biên Hòa những năm qua còn không ít những
hạn chế, tồn tại, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm
trong tình hình mới. Từ đó, yêu cầu phải nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác THQCT trong giai đoạn điều tra của VKSND nói chung và công tác
THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác của VKSND thành phố Biên Hòa nói riêng
là một yêu cầu cấp thiết. Do đó, đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác THQCT là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
ngành kiểm sát trong công cuộc cải cách tư pháp trong thời gian tới.
57
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN
CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE
CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA,
TỈNH ĐỒNG NAI
3.1. Phương hướng chung
Quyền công tố của VKSND luôn được Đảng ta đặc biệt quan tâm, chỉ
đạo và đưa ra những định hướng mang tính chiến lược trong công cuộc cải
cách tư pháp. Đầu tiên là Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị, nêu rõ: Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp; tăng cường công
tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp
oan, sai trong bắt giữ. Sau đó là Nghị quyết 49-NĐ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” tiếp tục khẳng
định “Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay
là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”.
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, nêu rõ: Viện kiểm sát được tổ
chức phù hợp với hệ thống tổ chức Tòa án, bảo đảm tốt hơn các điều kiện để
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố, gắn công
tố với hoạt động điều tra[2].
Như vậy, gần 10 năm qua Đảng ta không ngừng tăng cường chỉ đạo đổi
mới, hoàn thiện các cơ quan tư pháp, trong đó VKS được tăng cường bảo đảm
chức năng THQCT, bảo đảm cho quyền công tố Nhà nước được phát triển
58
vững mạnh, phục vụ tốt hơn yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong
tình hình mới.
Từ các đường lối, quan điểm nêu trên, ngành kiểm sát cần có định
hướng cụ thể cho việc nâng cao hiệu quả công tác THQCT như sau:
Bảo đảm tính độc lập của Viện kiểm sát trong hoạt động THQCT:
Hoạt động THQCT của VKSND có ảnh hưởng rất lớn đến quyền con
người, quyền công dân nên phải bảo đảm cho VKSND được hoàn toàn khách
quan, độc lập trong hoạt động của mình.
Thời gian đầu, cơ quan công tố nước ta được đặt trong hệ thống cơ
quan Tòa án cho đến năm 1958 thì tách ra và độc lập trong hoạt động. Ngay
sau đó, Luật tổ chức VKSND ngày 15/7/1960 được ban hành, ngành kiểm sát
được tổ chức thành hệ thống từ Trung ương đến địa phương, trực thuộc Quốc
hội nên được bảo đảm tính độc lập cho đến nay. Tuy nhiên trong thực tế hoạt
động, một số cơ quan VKS vẫn tranh thủ ý kiến cấp ủy, họp liên ngành… để
tạo sự thống nhất trong quan điểm xử lý nhưng không biết rằng đang từ bỏ
tính độc lập mà pháp luật quy định cho ngành. Một số cấp ủy địa phương lại
can thiệp, chỉ đạo quá sâu vào quá trình giải quyết các vụ án. Từ đó rất dễ dẫn
tới chủ quan, vì sức ép nên dễ làm bị oan, sai. Để có một nền công tố mạnh,
cẩn đảm bảo cho cơ quan công tố thực sự độc lập trong công tác THQCT.
Tăng cường tinh thần trách nhiệm của lãnh đạo và KSV trong hoạt
động THQCT:
Tại Hội nghị tổng kết công tác năm của ngành Kiểm sát năm 1967,
đồng chí Trường Chinh – Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nhấn
mạnh: “Công tố là một biện pháp chuyên chính trong bất cứ Nhà nước nào.
Không có cơ quan Nhà nước nào có thể thay thế ngành Kiểm sát để sử dụng
quyền công tố. Bắt, giam, ... truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật hay không, điều đó chính là Viện kiểm sát phải trông nom, bảo đảm
59
làm tốt”[5]. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X
tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, khẳng định “…bảo đảm
tốt hơn các điều kiện để Viện kiểm sát thực hiện hiệu quả chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm
công tố, gắn công tố với điều tra”.
Hiện nay Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 đã có hiệu
lực, quy định rõ VKSND phải có trách nhiệm đối với hầu hết các trường hợp
làm oan người vô tội, nhất là hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra. Do
vậy, lãnh đạo và KSV trong ngành kiểm sát phải tăng cường trách nhiệm
trong hoạt động THQCT, chỉ như vậy VKSND mới đáp ứng được yêu cầu
đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay.
Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong hoạt động THQCT của VKSND.
Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo đối với mọi tổ chức
chính trị - xã hội và cơ quan Nhà nước. Do đó, VKSND cũng không thể tách
rời sự lãnh đạo của Đảng. Hoạt động thực THQCT tuy đòi hỏi bảo đảm tính
độc trong hoạt động nghiệp vụ nhưng về quan điểm, đường lối công tố trong
từng thời kỳ phải được gắn chặt với sự lãnh đạo của Đảng. Đảng yêu cầu
VKS “tăng cường trách nhiệm công tố, gắn công tố với hoạt động điều tra”.
Sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện thông quan việc đề ra chủ trương,
đường lối, chính sách chỉ đạo hoạt động THQCT của VKSND. Viện kiểm sát,
với chức năng THQCT kết hợp với chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp
là công cụ hữu hiệu giúp cho Đảng, Nhà nước trấn áp tội phạm, bảo đảm cho
an ninh quốc gia và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đảng tăng cường những cán bộ có năng lực của Đảng sang làm công
tác quản lý, lãnh đạo VKS các cấp nhằm tạo điều kiện cho VKS đủ mạnh để
đảm bảo công tác THQCT trong đấu tranh phòng, chống tội phạm hình sự.
60
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác.
3.2.1. Giải pháp nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ
cho cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
Nâng cao nhận thức kiểm sát viên về công tác THQCT ở giai đoạn điều
tra vụ án hình sự
Nhận thức chuyên môn của kiểm sát viên về THQCT ở giai đoạn điều
tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác là nhân tố quan trọng quyết định hiệu quả của công tác THQCT ở
giai đoạn điều tra đối với loại án này. Cán bộ, kiểm sát viên thực hiện khâu
công tác này cần phải nhận thức đúng đắn về đối tượng, phạm vi, nội dung
của quyền công tố cũng như THQCT. Cần phân biệt các quyền năng pháp lý
nào khi thực hiện là nội dung QCT, quyền năng pháp lý nào thuộc quyền
kiểm sát các hoạt động điều tra để thấy được tính độc lập tương đối, nhưng
giữa hai quyền này không thể tách rời trong công tác THQCT vụ án.
Tăng cường và nâng cao nhận thức, tinh thần trách nhiệm của cán bộ,
KSV, ngoài ra cũng cần phải có giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm của cán
bộ, điều tra viên... có như vậy, các hoạt động THQCT nói chung và ở giai
đoạn điều tra nói riêng mới được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Đặc
biệt, cần nhận thức rõ mối quan hệ giữa VKS và Cơ quan điều tra trong hoạt
động tố tụng hình sự, trong đó nêu rõ quan hệ phối hợp và quan hệ chế ước
của VKS đối với cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự.
Nâng cao trình độ năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức của
Kiểm sát viên trong THQCT trong giai đoạn điều tra
Luật Tổ chức VKSND quy định rất cụ thể các tiêu chuẩn về trình độ và
phẩm chất, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, KSV, lãnh đạo VKSND.
61
Năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức và kinh nghiệm của KSV sẽ
giúp cán bộ, KSV có định hướng đúng đắn trong quá trình thực hiện chức
năng, nhiệm vụ cũng như trong giải quyết các vụ án hình sự. Đồng thời giúp
cán bộ, KSV vận dụng đúng pháp luật, có lý, có tình và không xa rời thực
tiễn, luôn chủ động với công việc được giao, hoàn thành nhiệm vụ. Vì vậy
nâng cao hiệu quả THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phải gắn liền với giải pháp
nâng cao năng lực đội ngũ KSV được phân công nhiệm vụ này. Để đạt được
mục tiêu này, cần thực hiện các giải pháp sau:
Một là, KSV phải nâng cao ý thức tự học, tự rèn luyện
Hoạt động THQCT là lĩnh vực công tác đặc thù, phải nghiên cứu rất
nhiều nguồn văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, phải phân tích chứng cứ,
đánh giá tâm lý người phạm tội…, do đó bắt buộc KSV phải nâng cao ý thức
tự học, tự rèn luyện về kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, đánh giá và tổng hợp chứng
cứ để có thể vận dụng, sử dụng có hiệu quả trong quá trình THQCT, đảm bảo
KSV phải “vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công
tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”.
Hai là , KSV phải nâng cao ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức, lối
sống, trình độ, năng lực
Do tính đặc thù của hoạt động THQCT đối với loại tội phạm này, vào
thời điểm xã hội phát triển theo cơ chế thị trường, cán bộ, kiểm sát viên phải
thường xuyên đối mặt với những tiêu cực của xã hội, hàng ngày phải tiếp xúc
với những chủ thể mà đa số là có tiền, có ảnh hưởng, có vị trí xã hội nhất
định. Nếu KSV thiếu bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp sẽ dễ bị mua
chuộc, lôi kéo, sa ngã dẫn tới tiêu cực trong công tác, gây ảnh hưởng xấu đến
uy tín ngành kiểm sát, làm giảm lòng tin của nhân dân. Chính vì vậy, KSV
phải tự rèn luyện ý thức chính trị, đi đôi với rèn luyện phẩm chất đạo đức.
62
Ngành kiểm sát phải nâng cao hoạt động tuyên truyền, giáo dục rèn luyện
thông qua công tác Đảng và quản lý cán bộ, đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, xử
lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
Ba là, tăng cường công tác tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ KSV.
BLTTHS có những quy định về trình tự, thủ tục tố tụng đối với vụ án
hình sự. Quy chế THQCT, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử vụ án hình sự
cũng nêu rõ về quy trình THQCT đối với vụ án hình sự nói chung. Tuy nhiên
từng loại tội phạm có những đặc điểm riêng, vì vậy công tác tập huấn và rút
kinh nghiệm quá trình THQCT đối với từng tội danh là nhu cầu cần thiết,
trong đó có tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác. Do đó, ngoài việc tập huấn cho KSV các kỹ năng cơ bản như: kiểm sát
khám nghiệm hiện trường, kiểm sát giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, kỹ
năng nghiên cứu hồ sơ, tổng hợp chứng cứ,... thì hàng năm, cần có chương
trình tập huấn chuyên sâu về kỹ năng THQCT đối với Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác kết hợp với kỹ năng
THQCT đối với các Tội cố ý gây thương tích với các tội xâm phạm đến sức
khỏe khác; từ đó KSV nâng cao năng lực THQCT, kỹ năng đánh giá, phân
tích và định tội danh, xác định rõ các tình tiết tội và định khung hình phạt.
3.2.2. Giải pháp tăng cường công tác hướng dẫn luật
Qua nghiên cứu các vụ án cố ý gây thương tích trong thời gian qua
nhận thấy các cơ quan tiến hành tố tụng thường nhầm lẫn việc định tội danh
giữa Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
với Tội giết người (Điều 123 BLHS), cùng một hành vi, tính chất, hậu quả
tương tự nhau, có nơi định Tội cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả làm chết
người, có nơi định tội giết người. Ngoài ra, việc nhận định tình tiết “phạm tội
có tính chất côn đồ” chưa có sự khác nhau chưa thống nhất trong trong từ vụ
án cụ thể. Trong khi các văn bản hướng dẫn của ngành Tòa án, VKS chưa xác
63
định rõ các đặc trưng cơ bản để phân biệt ranh giới giữa các tội danh trên.
Từ thực tiễn công tác, theo tác giả luận văn khi nghiên cứu hướng dẫn
xử lý đối với tội phạm xâm phạm sức khỏe người khác cần hướng dẫn theo
hướng kết hợp đánh giá giữa ý thức chủ quan, hành vi khách quan và hậu quả
pháp lý, cụ thể: Hành vi sử dụng hung khí nguy hiểm tấn công vào vùng trọng
yếu trên cơ thể (đầu, cổ, ngực, bụng) dẫn đến hậu quả chết người thì mọi
trường hợp phải định tội danh giết người và chỉ định tội danh Cố ý gây
thương tích (có hậu quả chết người) khi tấn công vào các tay, chân nhưng do
mất máu cấp, không cấp cứu kịp thời dẫn đến tử vong. Hành vi sử dụng hung
khí có tính nguy hiểm cao, tấn công với cường độ không mạnh vào các vùng
trọng yếu trên cơ thể con người ( đâm, chém chỉ 01 cái) với lỗi cố ý gián tiếp
thì hậu quả đến đâu xử lý đến đó: Nếu hậu quả chết người thì định Tội giết
người, nếu hậu quả chết người không xảy thì xử lý về Tội cố ý gây thương
tích. Hành vi sử dụng hung khí nguy hiểm, tấn công vào các vùng trọng yếu
trên cơ thể con người với cường độ mạnh ( đâm, chém nhiều cái) nếu nạn
nhân không chết thì cũng phải xử lý Tội giết người.
Hướng dẫn áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất côn đồ”.
Theo tinh thần hướng dẫn tại Công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976
và tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Tòa án năm 1995, TAND Tối cao đã
giải thích về tình tiết “có tính chất côn đồ” như sau: Khái niệm côn đồ được
hiểu là hành động của những tên coi thường pháp luật, luôn luôn phá rối trật
tự trị an, sẵn sàng dùng vũ lực và thích (hay) dùng vũ lực để uy hiếp người
khác phải khuất phục mình, vô cớ hoặc chỉ vì một duyên cớ nhỏ nhặt là đâm
chém, thậm chí giết người. Hành động của chúng thường là xâm phạm sức
khoẻ, tính mạng, danh dự người khác, gây gổ hành hung người khác một cách
vô cớ hoặc vì một duyên cớ nhỏ nhặt..
Đối với trường hợp vô cớ gây thương tích thì quá trình áp dụng không
64
gặp khó khăn, vì đây đã thể hiện rõ bản chất côn đồ. Tuy nhiên để đánh giá
thế nào là “duyên cớ nhỏ nhặt” trong vụ việc cụ thể để xem xét hành vi của
người phạm tội có tính chất côn đồ hay không thì chưa có cách hiểu thống
nhất, đặc biệt là trong trường hợp người bị hại có lỗi là nguyên nhân dẫn đến
bị can thực hiện việc phạm tội. Từ thực tiễn áp dụng pháp luật, đề nghị nghiên
cứu hướng dẫn tình tiết phạm tội “có tính chất côn đồ” trong trường hợp này,
ngoài việc đánh giá đặc điểm nhân thân người phạm tội, cũng cần căn cứ vào
hành vi khách quan và lỗi của người bị hại để đánh giá cho chính xác, theo
hướng sau: Người bị hại không có hành vi đánh bị can trước, chỉ có lời nói cự
cải, dẫn đến mâu thuẫn nhưng người phạm tội có hành vi gây thương tích cho
người bị hại, thì đây là phạm tội có tính chất côn đồ. Trường hợp người bị hại
tấn công người có hành vi gây thương tích trước: Thì cần xác định tỷ lệ
thương tật gây ra (nếu có), tính chất mức độ của sự tấn công, để làm căn cứ
xác định hành vi người phạm tội trong trường hợp này có tính chất côn đồ
không. Người bị hại tấn công có cường độ liên tục, gây thương tích hoặc tổn
hại sức khoẻ người phạm tội; hoặc mặc dù không gây tổn thương nhưng là
nguyên nhân dẫn đến việc bị can bị ức chế tâm lý, phản kháng gây thương
tích cho nạn nhân, thì trường hợp này không phạm tội có tính chất côn đồ.
Tất cả các trường hợp có sự chuẩn bị hung khí đánh, đâm chém nhau
gây thương tích đều phải được định tội danh là phạm tội có tính chất côn đồ.
Đối với những vụ việc mâu thuẩn xảy ra trước đó như cải vã, đánh nhau
nhưng đã chấm dứt (về không gian và thời gian) hoặc đã được giải quyết
xong, nhưng sau đó người phạm tội tiếp tục lấy hung khí tìm để đánh, gây
thương tích thì phải xác định hành vi phạm tội có tính chất côn đồ.
Hướng dẫn tố tụng hình sự khi vụ án có nhiều đối tượng thực hiện hành
vi cố ý gây thương tích nhưng quá trình khởi tố điều tra chỉ xác định được
một số bị can, số còn lại không bắt được hoặc chưa xác định rõ thì cần tách vụ
65
án ra để tạm định chỉ, khi nào bắt bị can, đối tượng được sẽ phục hồi điều tra
vụ án, phục hồi điều tra bị can hoặc khởi tố bị can để xử lý, tránh trường hợp
vụ án đã xét xử nhưng khi phát hiện bị can mới thì không thể xử lý hoặc
không có căn cứ tính thời hạn điều tra.
Đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác thuộc khoản 1 Điều 134 BLHS, khởi tố nhiều bị can nhưng bị hại
chỉ rút yêu cầu khởi tố đối với 01 bị can thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã
có văn bản hướng dẫn vẫn tiếp tục điều tra, truy tố, xét xử. Tuy nhiên, hiện cơ
quan điều tra và Tòa án vẫn còn nhiều quan điểm cẩn đình chỉ điều tra vụ án
do bị hại đã rút yêu cầu khởi tố. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần đề
phối hợp với Bộ Công an, Toà án nhân dân tối cao sớm ban hành Thông tư
hướng dẫn rõ ràng để đảm bảo toàn áp dụng thống nhất.
Đối với việc việc người bị hại từ chối giám định tỉ lệ thương tích hoặc
bỏ trốn các cơ quan tố tụng cần đề nghị Bộ Y tế sốm ban hành văn bản
hướng dẫn việc giám định tỷ lệ thương tật dựa trên hồ sơ bệnh án của bị hại
tại bệnh viện để kết luận về tỷ lệ tổn thương cơ thể của bị hại.
Song song với việc với việc ban hành các văn vản hướng dẫn tố tụng,
hướng dẫn trong việc phân định tội danh và áp dụng các tình tiết tăng nặng
định khung như đã nêu trên, VKSND tối cao cũng cần phối hợp và đề nghị
Tòa án nhân dân tối cao tăng cường xây dựng án lệ trong xét xử loại tội này
3.2.3. Một số giải pháp khác
Tăng cường công tác chỉ đạo và kiểm tra của VKSND cấp trên đối với
VKSND cấp dưới
VKSND được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống
nhất, nên công tác quản lý, chỉ đạo, kiểm tra có vai trò và ý nghĩa quyết định
đến hiệu quả công tác. Để tăng cường hiệu quả công tác quản lý, lãnh đạo,
chỉ đạo điều hành trong ngành Kiểm sát, cần phải quán triệt và tổ chức thực
66
hiện tốt một số nội dung sau:
- Từng cấp Kiểm sát, từng cán bộ, KSV phải nhận thức và quán triệt
sâu sắc nguyên tắc tổ chức và hoạt động của ngành theo đúng quy định của
Luật tổ chức VKSND. Mọi hoạt động quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo điều hành
đều do Viện trưởng của cơ quan thực hiện, các cán bộ, KSV trong đơn vị phải
tuyệt đối chấp hành, tuân thủ sự chỉ đạo điều hành của Viện trưởng. Quyết
định cuối cùng thuộc về Viện trưởng.
- Công tác thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn về nghiệp vụ phải được thực
hiện một cách thường xuyên, liên tục, kịp thời phát hiện những sai phạm,
thiếu sót. Từ đó, VKS cấp trên cần ban hành các kết luận thanh tra, kiểm tra,
văn bản rút kinh nghiệm đối với những sai phạm trong công tác THQCT để
VKS cấp dưới rút kinh nghiệm và phổ biến kịp thời đến từng cán bộ KSV.
Tăng cường trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng, KSV
Thực hiện nghiêm Chỉ thị số 06/CT-VLSNDTC và Chỉ thị số 04/CT-
VLSNDTC ngày 10/07/2015 của Viện trưởng VKSND Tối cao về tăng cường
các biện pháp chống oan, sai… Trách nhiệm của KSV, Viện trưởng, Phó
Viện trưởng VKSND trong hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra là sự chủ
động của VKS đối với các hoạt động điều tra các vụ án hình sự.
Khi thực THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đòi hỏi KSV phải thận
trọng, phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, các tài liệu chứng cứ có thu thập khách
quan, đúng pháp luật trong để đề xuất đường phê chuẩn hoặc không phê
chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra. KSV phải đảm bảo tất cả các hoạt
động điều tra đều được kiểm sát chặt chẽ, phải bám sát vụ án, nắm chắc án,
thuộc án, chủ động ra yêu cầu điều tra và hướng Điều tra viên thực hiện đúng
yêu cầu. Để thực hiện được việc này, KSV phải không ngừng học hỏi kinh
nghiêm, trau dồi bản lĩnh nghề nghiệp, nghiên cứu và cập nhận thường xuyên
67
các văn bản hướng dẫn, trích cứu hồ sơ, luôn chủ động trong mọi tình huống
xảy ra, cần hết sức thận trọng trước khi đề xuất quyết định. KSV phải xây
dựng bản yêu cầu điều tra thật chi tiết nhằm củng cố chứng cứ, làm rõ hành vi
phạm tội của bị can và đồng phạm, xác định tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, xử
lý vật chứng,… Trường hợp phát sinh tình tiết mời, KSV phối hợp với Điều
tra viên bàn bạc, phối hợp đề ra hướng giải quyết phù hợp.
Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa VKS với các cơ quan bảo vệ
pháp luật trong hoạt động đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm
Hoạt động THQCT trong điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác là hoạt động phức tạp. Để hoạt động
THQCT bảo đảm hiệu quả, VKS phải thống nhất với Cơ quan điều tra, Tòa án
nhân dân thành phố Biên Hòa xây dựng được quy chế phối hợp liên ngành
trong hoạt động tố tụng hình sự, đặc biệt là đối với các vụ án lớn, án trọng
điểm, án nghiêm trọng, phức tạp, những vụ án phục vụ nhiệm vụ chính trị địa
phương. Liên ngành tố tụng cần thường xuyên trao đổi khắc phục những thiết
sót, hạn chế, tồn tại để kiến nghị với cấp trên và cấp ủy đảng về các biện pháp
tăng cường hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Bổ sung biên chế, bảo đảm chế độ đãi ngộ và nâng cao hiệu quả công
tác khen thưởng, kỷ luật.
Trung bình mỗi năm, VKSND thành phố Biên Hòa phải thụ lý kiểm sát
khoảng trên 1.000 nguồn tin về tội phạm và khoảng trên 800 vụ án hình sự.
Trong khi tổng số cán bộ KSV được bố trí chuyên sâu về công tác hình sự là
30 người. Với khối lượng công việc nhiều và thường xuyên phải đi khám
nhiệm hiện trường, tham gia nhận dạng, đối chất dẫn đến có nhiều vụ việc
KSV không kịp thời ban hành yêu cầu kiểm tra xác minh tin báo, yêu cầu
điều tra nên có một số vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Khối lượng công việc nhiều, áp lực lớn, trong khi chi phí ăn, ở tại
68
thành phố Biên Hòa thuộc một trong những thành phố đắt đỏ nhất trong toàn
quốc, điều này dẫn đến khả năng tham nhũng rất dễ xảy ra. Do vậy cần đảm
bảo chế độ lương và phụ cấp thỏa đáng hơn dành cho cán bộ, KSV và lãnh
đạo. Tạo điều kiện cho cán bộ ngành kiểm sát yên tâm, tập trung chú trọng
vào công tác chuyên môn, không bị tác động do thu nhập chính đáng, hợp
pháp không đủ để bảo đảm đời sống tương xứng với yêu cầu và điều kiện
công việc; từ đặc tính của nghề nghiệp buộc KSV hàng ngày, hàng giờ phải
đối diện với tội phạm, với những vi phạm pháp luật và đối diện với những
cám dỗ vật chất nên dễ bị tha hóa, biến chất.
Cùng với việc bảo đảm thu nhập cho những người tiến hành tố tụng,
cần thường xuyên xử lí nghiêm minh các trường hợp vi phạm, nêu và phân
tích rõ trách nhiệm của từng KSV trong các trường hợp truy tố oan, sai. Đề
làm được việc này, ngành Kiểm sát cần có những chính sách cán bộ mang đột
phá, thể hiện tinh thần kiên quyết, nhìn thẳng vào sự thật và dám làm trong
sạch bộ máy. Bên cạnh chế độ đãi ngộ thỏa đáng, công tác xử lý vi phạm
nghiêm minh, kiên quyết sẽ kiểm sát thành công hiện tượng tha hóa của bộ
của ngành, củng cố niềm tin của nhân dân đối với ngành kiểm sát.
Tiểu kết chương 3
Công tác THQCT của VKSND trong thời gian qua đã đạt được những
kết quả đáng kể. Ngành Kiểm sát đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm tăng
cường công tác công tố, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm
trật tự, an toàn xã hội.
Từ thực tiễn hoạt động THQCT, tác giả nhận thấy, để bảo đảm công tác
THQCT đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp mà Đảng, Nhà nước đã đặt ra.
Ngành kiểm sát nói chung và VKSND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
nói riêng phải tiến hành đồng bộ các giải pháp từ phương hướng chung như:
Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, đảm bảo tính độc lập của ngành kiểm sát,
69
tăng cường tách nhiệm của người có thẩm quyền..; đến những giải pháp cụ
thể nhằm nâng cao chất lượng THQCT như: Tăng cường năng lực THQCT
của VKSND, xuất phát từ việc nâng cao nhận thức, nâng cao nghiệp vụ, trình
độ chuyên môn của KSV, tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng BLHS và
BLTTHS có liên quan đến THQCT.
Từ những giải pháp nêu trên, tác giả mong muốn những nghiên cứu từ
thực tế của bản thân sẽ được ngành Kiểm sát áp dụng thực tiễn công tác
THQCT để đáp ứng được chỉ tiêu, kế hoạch của toàn Ngành trong thời gian
tới.
70
KẾT LUẬN
VKSND đã có lịch sử hơn 55 năm hình thành và phát triển. Dù phạm vi
công tác kiểm sát có lúc mở rộng, có lúc thu hẹp, nhưng chức năng THQCT
và kiểm sát các hoạt động tư pháp luôn được Hiến pháp ghi nhận. Thực hiện
chức năng của mình, ngành Kiểm sát đã góp phần quan trọng trong việc giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ pháp chế XHCN. Hiện
nay, trước yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, một trong
những yêu cầu cấp bách là phải cải cách tư pháp để các cơ quan tư pháp trở
thành chỗ dựa vững chắc, là công cụ sắc bén trong bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người. Tiến trình cải cách tư pháp, đã có nhiều quan điểm khác
nhau về vị trí, chức năng, mô hình tổ chức của ngành Kiểm sát, tuy nhiên
Đảng, Nhà nước vẫn tiếp tục khẳng định vai trò không thể thay thế của VKS
trong việc THQCT và kiểm sát các hoạt động pháp. Hoạt động THQCT ở giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự nói chung và vụ án Cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng của VKSND thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tích,
góp phần tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm
an ninh chính trị tại địa phương. Bên cạnh những thành tích đã đạt được, hoạt
động THQCT ở giai đoạn điều tra các vụ án Cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác của VKSND thành phố Biên Hòa vẫn
còn bộc lộ những thiếu sót, hạn chế. Tác giả luận văn đã sử dụng và kết hợp
các phương pháp nghiên cứu khoa học, kế thừa và tiếp thu những thành tựu
của những người đi trước, so sánh và đối chiếu những tài liệu, sách chuyên
khảo để phân tích, đánh giá thực trạng của hoạt động THQCT ở giai đoạn
điều tra các vụ án Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác của VKSND thành phố Biên Hòa. Từ đó, đưa ra những giải pháp
71
khắc phục và nâng cao chất lượng của hoạt động này. Luận văn tập trung đi
sâu vào nghiên cứu, phân tích làm rõ những vấn đề cụ thể sau:
- Phân tích và đưa ra khái niệm về quyền công tố, THQCT giúp phân
biệt hai khai niệm này trong khoa học và thực tiễn. Phân tích làm rõ cơ sở lý
luận về THQCT ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
- Đánh giá thực trạng THQCT ở giai đoạn điều tra vụ án Cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của VKSND thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Phân tích những nguyên nhân khách quan, chủ
quan của những thành quả đạt được và những tồn tại, hạn chế, thiếu sót.
- Chỉ ra một số bất cập giữa lý luận và thực tiễn, đưa ra giải pháp bảo
đảm hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra vụ án Cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của VKSND thành phố Biên Hòa
ngày càng hoàn thiện hơn, đạt kết quả cao hơn nữa. Đồng thời, đề xuất, kiến
nghị đến các cơ quan chức năng có thẩm quyền kịp thời hướng dẫn, chỉnh sửa
những quy định pháp luật chưa rõ ràng, cụ thể, chưa sát với thực tiễn.
Thực hiện tốt công tác THQCT ở giai đoạn điều tra sẽ góp phần quan
trọng vào quá trình giải quyết các vụ án đúng người, đúng tội, đúng quy định
của pháp luật, chống oan, sai, bỏ lọt tội phạm.
Đạt được kết quả nghiên cứu nêu trên là quá trình nỗ lực phấn đấu của
bản thân tác giả; sự giúp đỡ nhiệt tình của TS. Nguyễn Ngọc Hà - Phó trưởng
Khoa Luật, Học viện An ninh nhân dân; các thầy, cô giáo của Học viện Khoa
học xã hội, các đồng nghiệp trong ngành kiểm sát đã tận tình hướng dẫn, giúp
đỡ tác giả trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này. Tuy nhiên,
do điều kiện và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học còn hạn chế, luận văn
không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự
góp ý kiến của các nhà khoa học, quí thầy cô để luận văn được hoàn thiện
hơn.
72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Văn Beo (2010) Luật hình sự Việt Nam, phần các tội phạm,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2011) Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
3. Bộ Chính trị (2010) Kết luận số 79-KL/TW của Bộ Chính trị về Đề
án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều
tra theo Nghị quyết 49-NĐ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, ban hành ngày 28/7/2010, Hà Nội.
4. Bộ Công an (2000) Từ điển bách khoa công an nhân dân, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
5. Trường Chinh (1967) Kết luận tại Hội nghị tổng kết ngành Kiểm sát
năm 1967;
6. Trần Văn Độ (2001) “Một số vấn đề về quyền công tố”, Tạp chí Luật
học, số 3, tr.8-12.
7. Quốc hội (1999) Bộ luật Hình sự 1999, Hà Nội.
8. Quốc hội (2003) Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Hà Nội.
9. Quốc hội (2015) Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Hà Nội
10. Quốc hội (2014) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Quốc hội (2004) Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2004,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Lê Hữu Thể (2000) “Về khái niệm quyền công tố”, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, số 7, tr.8-15.
13. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai (2013) Báo cáo tổng kết công
tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2013, Đồng Nai.
14. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai (2014) Báo cáo tổng kết công
tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2014, Đồng Nai.
15. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai (2015) Báo cáo tổng kết công
tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2015, Đồng Nai.
16. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai (2017) Báo cáo tổng kết công
tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2017, Đồng Nai.
17. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai (2018) Báo cáo tổng kết công
tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2018, Đồng Nai.
18. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2016) Báo cáo tổng kết
công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2016, Quảng Ngãi.
19. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2011) Chuyên đề tập huấn “tăng
cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư
pháp”, Hà Nội.
20. Viện Ngôn ngữ học (1994) Từ điển tiếng việt, Nxb Khoa học kỹ
thuật, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Bảng 2.1: Tổng số vụ án hình sự đã khởi tố trên địa bàn Thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2013 -2018
Tiêu chí 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Tổng
Tội phạm về ma túy 117 141 141 111 113 122 623
Tội phạm về tham 0 0 02 0 0 0 02 nhũng và chức vụ
Tội phạm kinh tế -
chức vụ khác, môi 09 06 07 13 02 37 04
trường
Tội phạm về sở hữu 377 399 394 377 273 254 1820
Tội xâm phạm tính
83 157 116 103 115 138 629 mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm
Tội phạm an toàn công
cộng, trật tự công 58 180 163 138 142 125 748
cộng, quản lý hành
chính
Tội phạm xâm phạm 06 01 03 0 04 0 0
hoạt động tư pháp
Tội phạm xâm phạm 0 0 0 0 04 04 0 quyền tự do dân chủ
1
Bảng 2.2: Tổng số bị can đã bị khởi tố hình sự trên địa bàn Thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2013 - 2018
Tiêu chí 2013 2014 2015 2016 2017 Tổng
Tội phạm về ma túy 161 194 194 145 135 828
Tội phạm tham nhũng chức vụ 0 02 0 0 0 02
Tội phạm kinh tế - chức vụ 13 07 12 20 02 54 khác, môi trường
Tội phạm về sở hữu 546 612 498 434 300 2390
Tội xâm phạm tính mạng, sức 243 161 164 169 121 858 khỏe, danh dự, nhân phẩm
Tội phạm an toàn công cộng,
trật tự công cộng, quản lý 363 491 361 335 215 1765
hành chính
Tội phạm xâm phạm hoạt 01 07 0 0 0 08 động tư pháp
Tội phạm xâm phạm quyền tự 0 0 08 0 0 08 do dân chủ
2
Bảng 2.3. Tổng số vụ án và bị can bị khởi tố của tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Trên địa bàn Thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2013 - 2018
Tiêu chí 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Tổng
136 83 74 95 114 83 573 Tổng số vụ án
221 137 134 151 108 78 829 Tổng số bị can
Lưu ý: Số vụ án các năm 2017 và 2018 nhiều hơn số bị can do khởi tố
vụ án nhưng chưa xác định được bị can.
(Nguồn: Theo báo cáo Kết quả công tác kiểm sát từ năm 2013 đến năm
2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa).
3