VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM VĂN HOAN

TỘI BUÔN LẬU THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, NĂM 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM VĂN HOAN

TỘI BUÔN LẬU THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC GS.TS. VÕ KHÁNH VINH

HÀ NỘI, NĂM 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Tội buôn lậu theo pháp luật hình sự Việt

Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” là công trình nghiên cứu do chính tôi thực

hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS Võ Khánh Vinh. Các nội dung,

thông tin được trình bày trong luận văn là trung thực.

Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên của mình.

Hà Nội, ngày 28 tháng 06 năm 2019

Tác giả luận văn

Phạm Văn Hoan

MỤC LỤC

MỞ ĐẦ U .......................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI

BUÔN LẬU ...................................................................................................... 6

1.1. Những vấn đề lý luận về tội buôn lậu .................................................. 6

1.2. Những vấn đề pháp luật về Tội buôn lậu theo pháp luật hình sự

Việt Nam ................................................................................................... 16

Chương 2: ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI BUÔN LẬU

TẠI TỈNH QUẢNG NINH ........................................................................... 31

2.1. Khái quát về các đặc điểm có tác động, ảnh hưởng tới việc áp dụng

pháp luật hình sự về tội buôn lậu tại tỉnh Quảng Ninh ............................. 31

2.2. Định tội danh tội buôn lậu tại tỉnh Quảng Ninh ................................ 33

2.3. Áp dụng các hình thức trách nhiệm hình sự đối với tội buôn lậu ...... 56

Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI BUÔN LẬU ........... 65

3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội buôn lậu ........ 65

3.2. Tổng kết thực tiễn gắn với Hướng dẫn áp dụng các quy định của

pháp luật hình sự về tội buôn lậu .............................................................. 68

3.3. Các giải pháp khác ............................................................................. 71

KẾT LUẬN .................................................................................................... 76

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 78

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS : Bộ luật hình sự

BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự

CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng

CTTP : Cấu thành tội phạm

TAND : Tòa án nhân dân

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

TNHS : Trách nhiệm hình sự

BCĐ : Ban chỉ đạo

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang tập trung đẩy mạnh việc tiếp tục

hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ nay đến

năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 theo Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày

03/6/2017, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung Đảng khóa XII; công

cuộc đổi mới đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế đã đạt được nhiều thành

tựu to lớn, đưa nước ta thoát khỏi nhóm thu nhập thấp, trở thành nước có

nhóm thu nhập trung bình, vị thế của nước ta trên trường quốc tế không

ngừng được mở rộng và nâng cao. Sức mạnh tổng hợp từ nguồn nội lực của

đất nước không ngừng được củng cố và phát triển, tình hình chính trị, xã hội

ổn định, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được cải

thiện và nâng cao, được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, bên cạnh các

thành tựu đã đạt được thì tự do thương mại, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã

làm nảy sinh các vấn đề tiêu cực, một số loại hành vi vi phạm pháp luật, tội

phạm có chiều hướng gia tăng, trong đó có tội phạm “Buôn lậu”.

Buôn lậu được xác định là một trong những loại tội phạm nguy hiểm,

trong nền kinh tế thị trường, buôn lậu không chỉ làm ảnh hưởng đến sự phát

triển bình thường, làm thiệt hại cho nền kinh tế của đất nước, gây thất thu

thuế cho Nhà nước mà nó còn đe dọa phá vỡ chính sách kinh tế đất nước, gây

mất an ninh trật tự và làm ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi người tiêu dùng.

Ở nước ta trong những năm gần đây tội phạm buôn lậu có chiều hướng gia

tăng và diễn biến phức tạp, với quy mô ngày càng mở rộng trên nhiều lĩnh

vực, giá trị hàng hóa lớn; các đối tượng buôn lậu sử dụng nhiều phương thức,

thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, hoạt động có tổ chức, manh động, sẵn sàng đối

phó, chống trả quyết liệt các lực lượng chức năng nhằm cướp lại, tẩu tán hàng

hóa,…Nhà nước, các cơ quan chức năng và các địa phương cũng đã có nhiều

1

biện pháp, giả pháp ngăn chặn, song tội phạm buôn lậu vẫn đang diễn biến

phức tạp, gây nguy hiểm cho nền kinh tế và xã hội.

Quảng Ninh là tỉnh miền núi, biên giới, hải đảo, nằm ở phía Đông Bắc

Tổ quốc, có vị trí địa lý thuận lợi và nhiều tiềm năng, lợi thế đặc thù; nằm

trong khu vực hợp tác “hai hành lang, một vành đai kinh tế” Việt Nam -

Trung Quốc, nhịp cầu quan trọng của khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc. Có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, với trữ lượng than

đá chiếm hơn 90% cả nước và lớn nhất Đông Nam Á. Có diện tích đất liền hơn

6.100 km2 và diện tích biển tương đương, với 2.077 hòn đảo lớn nhỏ; dân số gần

1,2 triệu, với 22 dân tộc; 4 thành phố trực thuộc, 2 thị xã và 8 huyện; là tỉnh duy

nhất có cả đường biên giới trên biển và trên bộ, trong đó 10/14 huyện, thị xã,

thành phố tiếp giáp biển, có đường phân định Vịnh Bắc Bộ trên biển dài trên

191 km, có 01 thành phố và 02 huyện với 118,825 km đường biên giới trên bộ

tiếp giáp với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa [4]. Bên cạnh các thành tựu về

kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh mà tỉnh Quảng Ninh đã đạt được trong

những năm qua thì Quảng Ninh cũng được xác định là một trong những địa bàn

trọng điểm trong các tỉnh biên giới phía Bắc về tội phạm buôn lậu.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu tội buôn lậu trên phương diện lý luận và

thực tiễn để phát hiện, đề xuất, kiến nghị giải quyết các vấn đề hạn chế, vướng

mắc trong thực tiễn đấu tranh với tội phạm buôn lậu là hết sức cần thiết. Do đó,

Học viên đã chọn đề tài “Tội buôn lậu theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực

tiễn tỉnh Quảng Ninh” làm đề tài luận văn Thạc sỹ cho mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong thực tế những năm gần đây đã có nhiều công trình, đề tài nghiên

cứu về tội buôn lậu dưới góc độ lý luận và thực tiễn. Điển hình có:

- “ Buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới đất

liền Việt – Trung. Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa và

2

đấu tranh của Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh” (Luận án Tiến sỹ của tác

giả Vũ Đình Nông – 1997);

- “ Chống buôn lậu và gian lận thương mại” (của PGS. Lê Thanh Bình,

NXB Chính trị quốc gia năm 1998);

- “ Một số vấn đề về đấu tranh phòng chống tội buôn lậu” (của tác giả

Ngô Ngọc Thủy, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 1995);

- “ Đấu tranh phòng chống buôn lậu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”

(Luận văn Thạc sỹ của tác giả Dương Thị Nhàn, năm 2006);

- “Điều tra các vụ án buôn lậu của cơ quan Hải quan” (Luận văn Thạc

sỹ của tác giả Dương Xuân Sinh, năm 2016).

Ngoài ra còn nhiều công trình, bài viết nghiên cứu của các tác giả khác

trên các báo, tạp chí Kiểm sát, Hải Quan, Công an nhân dân,….Các công

trình, đề tài nghiên cứu trên về cơ bản đã làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn

trong công tác đấu tranh, phòng chống tội buôn lậu, đồng thời cũng đã phát

hiện, kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả trong phòng ngừa, đấu tranh,

xử lý tội phạm buôn lậu. Tuy nhiên trong thời điểm hiện nay, khi nước ta tiếp

tục hội nhập kinh tế quốc tế ở mức độ đa dạng hơn, sâu hơn, toàn diện hơn

thông qua nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương; mặt khác

còn có sự sửa đỏi, bổ sung các quy đinh của pháp luật, trong đó có pháp luật

Hình sự liên quan trực tiếp tới tội buôn lậu thì tội phạm buôn lậu cũng đã có

những thay đổi, xuất hiện nhiều phương thức thủ đoạn mới, đòi hỏi các cơ

quan, lực lượng chức năng thực thi phòng, chống buôn lậu, các học giả tiếp

tục nghiên cứu, bổ sung cho phù hợp và hiệu quả.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu “Tội buôn lậu theo pháp luật hình sự Việt Nam

từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” nhằm đánh giá một cách khoa học, toàn diện

về tội phạm buôn lậu; trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao

3

hiệu quả trong phòng ngừa, đấu tranh, xử lý tội phạm buôn lậu trong thời

gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ cơ bản của luận văn cần đặt ra và

giải quyết là:

- Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về tội buôn lậu trong Luật hình

sự Việt Nam;

- Nghiên cứu đánh giá tình hình tội phạm buôn lậu và thực hiện áp dụng

pháp luật hình sự về tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh;

- Dự báo tình hình và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy

định pháp luật hình sự Việt Nam về tội buôn lậu.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn

đề lý luận về tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam và thực tiễn công tác

đấu tranh, xử lý tội buôn lậu theo quy định.

4.2. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu từ thực tiễn tỉnh

Quảng Ninh, giai đoạn 2014-2018.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và

phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các

quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải

cách tư pháp, chính sách hình sự trong giai đoạn hiện nay liên quan trực tiếp

tới tội buôn lậu.

5.2. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng đồng thời các phương pháp

suy luận, logic, thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích, chứng minh; tham

khảo ý kiến chuyên gia, tài liệu, sách, báo, tạp chí.

4

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn được nghiên cứu một cách bài bản, có hệ thống và toàn diện

về tội phạm buôn lậu từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, nên kết quả rút ra qua

nghiên cứu có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.

6.1. Ý nghĩa lý luận: Ở góc độ lý luận, luận văn góp phần từng bước

hoàn thiện lý luận chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Ở góc độ thực tiễn, với những đề xuất có tính

thực tế và khả thi sẽ là tư liệu tham khảo để các cơ quan chức năng đưa ra các

biện pháp, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa và xử

lý tội phạm buôn lậu.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; luận văn có

kết cấu chia làm ba chương, gồm:

- Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội buôn lậu

- Chương 2. Áp dụng pháp luật hình sự về tội buôn lậu tại tỉnh Quảng Ninh

- Chương 3. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các quy định của

pháp luật hình sự về tội buôn lậu

5

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT

VỀ TỘI BUÔN LẬU

1.1. Những vấn đề lý luận về tội buôn lậu

1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội buôn lậu

1.1.1.1. Khái niệm tội buôn lậu

Tội phạm nói chung và tội buôn lậu nói riêng là một hiện tượng tiêu cực

của xã hội mà nguồn gốc của nó là từ xã hội và sự phát triển của nó gắn liền

với sự phát triển của xã hội. Mỗi một quốc gia, để bảo vệ lợi ích của đất nước

mình, phù hợp với tập quán thương mại quốc tế đều đưa ra những chính sách

ngăn chặn và làm giảm bớt tác hại của loại tội phạm này.

Điều 8 BLHS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm

2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là BLHS năm 2015)

quy định: “1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong

Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân

thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,

thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ

kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi

ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp

pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã

hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự. 2.

Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho

xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện

pháp khác” [11]. Theo pháp luật hình sự, các hành vi thỏa mãn các yếu tố

được quy định trong Điều 8 BLHS nêu trên mới được coi là tội phạm. Chính

vì lí do đó, hành vi buôn lậu để được coi là tội phạm cũng phải thỏa mãn các

yếu tố được quy định trong Điều 8 BLHS năm 2015. Tội buôn lậu được quy

định tại Điều 188 thuộc “Chương XVIII – Các tội xâm phạm trật tự quản kinh

6

tế” của BLHS năm 2015. Để hiểu được khái niệm của tội buôn lậu cũng như

đặc điểm, ý nghĩa vị trí của tội buôn lậu trong BLHS, cần phải tìm hiểu, làm

rõ khái niệm những cụm từ, thuật ngữ có liên quan của tội danh này.

Theo Từ điển tiếng Việt, “buôn” được hiểu là việc mua đi bán lại một

loại hàng hóa nào đó nhằm kiếm lợi nhuận, “lậu” chỉ sự không chính đáng,

lén lút, trái pháp luật, “buôn lậu là buôn bán hàng hóa trốn thuế hoặc hàng

quốc cấm” [6]. Theo đó, nếu hiểu theo nghĩa thông thường, buôn lậu chỉ đơn

giản là hành vi buôn bán những mặt hàng cấm hoặc những hàng hóa trốn

đóng thuế theo quy định của pháp luật. Cụ thể hơn khái niệm tại Từ điển tiếng

Việt, Từ điển bách khoa Việt Nam giải thích như sau: “Buôn lậu là hành vi

buôn bán trái phép qua biên giới những loại hàng hóa hoặc ngoại tệ, kim khí

và đá quý, những vật phẩm thuộc về di tích lịch sử, văn hóa, những hàng cấm

xuất khẩu hay nhập khẩu hoặc buôn bán hàng hóa nói chung mà trốn thuế và

trốn sự kiểm tra của Hải quan” [7].

Tuy rõ ràng hơn nhưng khái niệm này vẫn chưa thật sự thuyết phục bởi

chưa khái quát được đầy đủ bản chất của hành vi buôn lậu làm cơ sở phân biệt

nó với các vi phạm hay hành vi phạm tội khác. Chính vì vậy, để tìm ra khái

niệm chính xác về hành vi buôn lậu và tội buôn lậu, bên cạnh việc tìm hiểu

khái niệm các cụm từ, thuật ngữ tạo nên tên tội danh, người nghiên cứu cũng

cần tìm hiểu nguồn gốc và bản chất của hành vi buôn lậu. Buôn lậu xuất hiện

trước hết là do có sự chênh lệch, khác nhau của sự phát triển kinh tế, chính trị,

văn hóa xã hội, dẫn đến sự không đồng nhất giữa các quốc gia có trình độ

phát triển sản xuất khác nhau, đặc biệt là các nước trong cùng khu vực về sức

sản xuất (nguồn cung), nhu cầu tiêu dùng (cầu).

Trong điều kiện quốc tế hóa và hội nhập kinh tế quốc tế cùng với sự

phát triển của khoa học và công nghệ, việc phân công sản xuất mang tính

chuyên môn hóa cao đã giúp các nước có nền kinh tế phát triển ngày càng tiết

kiệm triệt để chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm dẫn đến giá

7

thành hạ trong khi sản phẩm chất lượng vượt trội hơn hẳn các quốc gia đang

phát triển hoặc chậm phát triển. Sự chênh lệch ngày càng lớn về giá thành,

chất lượng sản phẩm giữa các nước trong cùng một khu vực tạo ra lợi nhuận

siêu ngạch cho người làm lưu thông hàng hóa. Đây chính là điều kiện sâu xa

khiến hành vi buôn lậu tồn tại và phát triển như một tất yếu khách quan. Với

bản chất là một hoạt động kinh tế bất hợp pháp mang tính xã hội, buôn lậu

luôn chịu sự tác động của các quy luật kinh tế và các quy luật xã hội. Việc

quan niệm về buôn lậu của từng quốc gia trong từng giai đoạn và điều kiện

chính trị, văn hóa, xã hội cũng vì thế mà khác nhau. Những quốc gia có nền

kinh tế phát triển thì khuyến khích xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài để

chiếm lĩnh thị trường, nâng tầm thương hiệu quốc gia – vấn đề được các quốc

gia phát triển đặc biệt quan tâm, do vậy, pháp luật các quốc gia này không tập

trung vào các biện pháp hạn chế xuất khẩu hàng hóa mà chỉ thắt chặt các biện

pháp hạn chế nhập khẩu. Đối với các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển

hơn, sức sản xuất hạn chế, giá cả hàng hóa cao, nhu cầu tiêu dùng của xã hội

lớn, hành vi buôn lậu trở nên phức tạp hơn rất nhiều, bao gồm các hành vi

nhập khẩu (phổ biến là hàng hóa tiêu dùng, linh kiện, hàng cấm...) và xuất

khẩu (phổ biến là tài nguyên thiên nhiên, động thực vật quý hiếm...).

Với những đặc điểm nói trên, BLHS năm 2015 quy định tội buôn lậu tại

Điều 188: “1. Người nào buôn bán qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan

vào nội địa hoặc ngược lại trái pháp luật hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ,

kim khí quý, đá quý trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng

hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây,

thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06

tháng đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định

tại Điều này hoặc tại một trong các điều 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195,

196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa

được xóa án tích mà còn vi phạm; b) Vật phạm pháp là di vật, cổ vật…….

8

6. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt

như sau:

a) Thực hiện hành vi quy định tại khoản 1 Điều này với hàng hóa, tiền

Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới

300.000.000 đồng; hàng hóa trị giá dưới 200.000.000 đồng nhưng là di vật,

cổ vật; hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý trị giá từ

100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm

hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 189,

190, 191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về

một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền

từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng;……

d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này, thì bị phạt

tiền từ 7.000.000.000 đồng đến 15.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động

có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm;

đ) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì

bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;

e) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng

đến 300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực

nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm”.

Căn cứ vào Điều 188 BLHS năm 2015 có thể đưa ra khái niệm về tội

buôn lậu như sau: “Tội buôn lậu là hành vi buôn bán qua biên giới hoặc từ

khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại trái pháp luật hàng hóa, tiền

Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý , di vật, cổ vật; do người hoặc pháp

nhân thương mại có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý

nhằm mục đích kiếm lời”.

Từ khái niệm trên có thể thấy rằng “buôn lậu” với vị trí là một tội phạm

trong BLHS phải có yếu tố bắt buộc là “qua biên giới hoặc từ khu phi thuế

quan vào nội địa hoặc ngược lại”, nếu hành vi buôn bán các mặt hàng kể trên

9

mà không qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại

thì đó không phải là hành vi buôn lậu. Đồng thời, đối tượng của hành vi buôn

lậu theo Luật hình sự Việt Nam được cụ thể bao gồm: hàng hóa, tiền Việt

Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý trị giá ….; Vật phạm pháp là di vật, cổ

vật, bảo vật quốc gia; đồng thời tội buôn lậu trong BLHS còn có thêm dấu

hiệu mục đích của người phạm tội là mục đích kiếm lời, đây là một dấu hiệu

quan trọng nhằm phân biệt giữa tội buôn lậu và tội vận chuyển trái phép hàng

hóa, tiền tệ qua biên giới.

1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội buôn lậu

a) Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự

quản lý việc xuất, nhập khẩu hàng hoá, tiền tệ, kim khí đá quý, di vật, cổ vật,

vật có giá trị lịch sử, văn hóa, bảo vật quốc gia.

Đối tượng tác động của tội buôn lậu là hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại

tệ, kim khí quý, đá quý, vật phạm pháp có giá trị từ 100.000.000 đồng đến

dưới 300.000.000 triệu đồng và vật phạm pháp là di vật, cổ vật. Khi xác định

đối tượng tác động, nếu cần phải trưng cầu giám định của cơ quan chuyên

môn thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải trưng cầu giám định.

b) Mặt khách quan của tội phạm

- Hành vi khách quan: mặt khách quan của tội buôn lậu được thể hiện ở

hành vi buôn bán qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc

ngược lại trái quy định của pháp luật các loại hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại

tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia.

Buôn bán trái với qui định của của pháp luật là các hành vi rất đa dạng,

thủ đoạn tinh vi như: không khai báo hải quan, khai báo không đúng, giả mạo

giấy tờ, vi phạm tiêu chuẩn, định mức hàng hóa miễn thuế, lợi dụng các hình

thức ưu đãi đối với hàng hóa khu chế xuất, gia công đầu tư nước ngoài, khu

kinh tế cửa khẩu, tạm nhập tái xuất,...

10

- Thiệt hại do hành vi buôn lậu gây ra là để lọt những loại hàng cấm

như vũ khí, ma túy, chất nổ, tài liệu phản động,... gây ảnh hưởng an ninh quốc

gia; hàng hóa không đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, vi phạm môi trường, ảnh

hưởng an toàn cộng đồng; không thu đúng, thu đủ được thuế, ảnh hưởng ngân

sách nhà nước; hàng giả, vi phạm sở hữu trí tuệ, lợi dụng các chính sách ưu

đãi, chính sách khuyến khích xuất khẩu, chính sách đối với các mặt hàng

vàng, ngoại tệ, xăng dầu, khoáng sản, lương thực, thủy sản, nhu yếu phẩm,...

ảnh hưởng tới điều tiết kinh tế vĩ mô, phá hoại sản xuất trong nước.

- Một số dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành

tội phạm như giá trị, số lượng hàng hóa vi phạm, địa điểm phạm tội.

+ Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm buôn lậu khi hàng hóa,

Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý trị giá từ 100 triệu đồng đến dưới

300 triệu đồng hoặc dưới 100 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành

chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 189, 190,

191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một

trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; hoặc vật phạm pháp

là di vật, cổ vật.

+ Yếu tố qua biên giới và qua danh giới khu phi thuế quan có ý nghĩa

hết sức quan trọng trong xác định dấu hiệu cấu thành tội buôn lậu.

Biên giới là đường phân cách giữa quốc gia này với quốc gia khác. Biên

giới bao gồm biên giới đường bộ, đường thuỷ, đường không.

Khu phi thế quan là khu vực kinh tế nằm trong lãnh thổ Việt Nam có

ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của thủ tướng chính

phủ, quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa giữa khu này và bên ngoài là quan

hệ xuất khẩu, nhập khẩu.

Tuy nhiên, việc xác định hành vi buôn bán trái phép đã qua biên giới

chưa lại không phải căn cứ vào việc hàng hoá đã qua đường biên giới, danh

giới chưa, mà căn cứ vào địa điểm thuộc phạm vi địa bàn kiểm soát của các

11

CQHQ, biên phòng, đường mòn, lối mở biên giới đất liền, khu vực biên giới

trên biển, khu phi thuế quan,... Vì vậy, khi xác định hành vi buôn lậu thông

thường cơ quan có thẩm quyền thường kết hợp xác định địa điểm thuộc khu

vực biên giới, làm rõ các chứng cứ về hành vi giao dịch giữa đối tượng buôn

lậu với đối tác nước ngoài, hành vi trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát cơ quan

Nhà nước,...

c) Chủ thể của tội phạm

- Chủ thể là cá nhân: Chủ thể là cá nhân của tội phạm này là người có

năng lực trách nhiệm hình sự và đến độ tuổi nhất định theo quy định của pháp

luật. Theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017

thì người đủ 16 tuổi trở lên mới là chủ thể của tội phạm này.

- Chủ thể là pháp nhân thương mại: Pháp nhân thương mại phải chịu

trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện: hành vi phạm tội được thực hiện

nhân danh pháp nhân thương mại; hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích

của pháp nhân thương mại; hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo,

điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại; chưa hết thời hiệu truy

cứu trách nhiệm hình sự.

d) Mặt chủ quan của tội phạm

Người thực hiện hành vi buôn lậu là do cố ý (cố ý trực tiếp), tức là nhận

thức rõ hành vi của mình là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới, thấy

trước được hậu quả nguy hiểm của hành vi buôn bán trái phép qua biên giới

và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.

1.1.2. Phân biệt tội buôn lậu với một số tội phạm khác

Việc phân biệt tội buôn lậu với một số tội khác trong BLHS năm 2015

nhằm làm rõ các dấu hiệu, đặc điểm của từng tội phạm gắn với người, pháp

nhân phạm tội; qua đó giúp cho công tác đánh giá, áp dụng pháp luật được

chính xác, khách quan. Trong khuôn khổ luận văn, xin được phân biệt, so

sánh “tội buôn lậu” với một số tội điển hình xâm phạm trật tự quản lý kinh tế:

12

1.1.2.1. Phân biệt tội buôn lậu (Điều 188 BLHS năm 2015) với tội vận

chuyển trái phép hàng hóa tiền tệ qua biên giới (Điều 189 BLHS năm 2015):

Hai tội phạm này về nội dung cấu thành tội phạm có nhiều dấu hiệu giống

nhau như khách thể, chủ thể, đối tượng tác động của tội phạm, lỗi, thủ đoạn

phạm tội. Sự khác nhau cơ bản của hai tội phạm này là ở hành vi khách quan

của nó, thể hiện ở chỗ: Hành vi khách quan của tội buôn lậu là hành vi buôn

bán trái phép qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược

lại hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật. Còn

ở tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới thì hành vi khách

quan là hành vi vận chuyển trái phép qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan

vào nội địa hoặc ngược lại hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá

quý, di vật, cổ vật. Như vậy, ở cả hai tội buôn lậu (Điều 188 Bộ luật hình sự

năm 2015) với tội vận chuyển trái phép hàng hóa tiền tệ qua biên giới (Điều

189 Bộ luật hình sự năm 2015) đều có yếu tố là đưa hàng hóa, tiền Việt Nam,

ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật qua biên giới hoặc từ khu phi thuế

quan vào nội địa hoặc ngược lại; dấu hiệu để có thể phân biệt hành vi của hai

tội này là: Hành vi “buôn bán” và hành vi “vận chuyển” trái phép qua biên

giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại. Hành vi buôn bán

ở tội buôn lậu là hành vi mua, bán, trao đổi hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ,

kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật với mục đích kiếm lời; còn đối với tội vận

chuyển trái phép hàng hóa tiền tệ qua biên giới người phạm tội thực hiện hành

vi vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới, họ không phải chủ

hàng, họ chỉ là người vận chuyển cho chủ hàng, còn người chủ hàng ở đây là

người buôn lậu. Một dấu hiệu rất quan trọng nữa để phân biệt hai tội phạm

này đó là mục đích của tội buôn lậu là buôn bán kiếm lời còn đối với tội vận

chuyển trái phép hàng hóa tiền tệ qua biên giới, mục đích phạm tội không

phải là buôn bán nhằm thu lợi bất chính, họ chỉ vận chuyển thuê để lấy tiền

công, thậm chí còn có trường hợp là vì tình cảm, nể nang mà vận chuyển trái

13

phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Theo đó, nếu phát hiện một người đang

vận chuyển trái phép qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc

ngược lại hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ

vật thì cần xác định mục đích phạm tội, nếu người đó thực hiện hành vi vận

chuyển trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền tệ nhằm mục đích kiếm lời thì

người đó phạm tội buôn lậu theo Điều 188 BLHS năm 2015, còn nếu người

đó thực hiện hành vi vận chuyển trái phép qua biên giới hoặc từ khu phi thuế

quan vào nội địa hoặc ngược lại hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí

quý, đá quý, di vật, cổ vật mà không nhằm mục đích kiếm lời thì người đó

phạm tội vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền tệ theo Điều 189

BLHS năm 2015. Tóm lại, theo BLHS năm 2015 thì điểm khác nhau cơ bản

nhất giữa tội buôn lậu so với tội vận chuyển trái phép hàng hóa tiền tệ qua

biên giới là mục đích; Mục đích của tội buôn lậu là kiếm lời, còn mục đích

của tội vận chuyển trái phép hàng hóa tiền tệ qua biên giới là lấy tiền công

vận chuyển.

1.1.2.2. Phân biệt tội buôn lậu (Điều 188 BLHS năm 2015) với tội sản

xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190 BLHS năm 2015): Hai tội này có một số

điểm giống nhau về chủ thể là cá nhân và pháp nhân thương mại có đầy đủ

năng lực trách nhiệm hình sự; đối tượng tác động của tội phạm là hàng hóa;

lỗi cố ý; thủ đoạn phạm tội. Căn cứ phân biệt hai tội phạm đó là:

+ Về khách thể của tội phạm, ở tội buôn lậu, khách thể là trật tự quản lý

kinh tế mà cụ thể là trật tự việc xuất khẩu hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ,

kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật; trong khi đó, khách thể của tội sản xuất,

buôn bán hàng cấm là trật tự quản lý kinh tế bao gồm cả việc sản xuất và

buôn bán các hàng hóa nhà nước cấm sản xuất, cấm buôn bán, cấm lưu hành

trong phạm vi lãnh thổ nước ta.

+ Về hành vi khách quan, ở tội buôn lậu thì đó là hành vi buôn bán trái

phép qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại; còn

14

ở tội sản xuất, kinh doanh hàng cấm thì hành vi khách quan gồm cả việc sản

xuất và buôn bán các hàng hóa nhà nước cấm sản xuất, cấm buôn bán, cấm

lưu hành trong phạm vi lãnh thổ nước ta hay nói cách khác thì phạm vi, địa

điểm phạm tội đối với tội sản xuất, buôn bán hàng cấm không có yếu tố qua

biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại, điều này hoàn

toàn khác so với tội buôn lậu.

+ Về đối tượng tác động của tội phạm, đối tượng của tội buôn lậu là các

loại hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật; đối

tượng của tội sản xuất, buôn bán hàng cấm lại hẹp hơn, chỉ là những hàng hóa

mà Nhà nước Việt Nam cấm sản xuất, buôn bán, lưu hành.

1.1.2.3. Phân biệt tội buôn lậu (Điều 188 BLHS năm 2015) với tội trốn

thuế (Điều 200 BLHS năm 2015): Tội buôn lậu và tội trốn thuế có một số

điểm giống nhau về chủ thể chung là cá nhân và pháp nhân thương mại có

đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự; về mục đích là trốn tránh sự kiểm soát

và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ liên quan đối với nhà nước theo quy định vì

vụ lợi. Tuy nhiên giữa hai tội phạm này có nhiều điểm khác biệt, cụ thể:

+ Về khách thể của tội phạm, ở tội buôn lậu, khách thể là trật tự quản lý

kinh tế mà cụ thể là trật tự quản lý việc xuất - nhập khẩu hàng hóa, tiền Việt

Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật; còn đối với tội trốn thuế,

khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản

lý việc thu thuế nộp ngân sách Nhà nước.

+ Về đối tượng của tội phạm, đối với tội buôn lậu, đối tượng của hành

vi phạm tội hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ

vật; còn đối với tội trốn thuế thì đối tượng của tội phạm này là số tiền thuế mà

người phạm tội phải nộp theo quy định của pháp luật, theo đó có thể hiểu rằng

mặt hàng chịu thuế theo quy định của tội phạm này là những mặt hàng mà

Nhà nước cho phép kinh doanh và quy định mức thuế suất công khai.

15

+ Về hành vi khách quan của tội phạm, hành vi khách quan của tội buôn

lậu được thể hiện dưới dạng hành động, đó là hành vi buôn bán trái phép qua

biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại; ở tội trốn

thuế, hành vi khách quan được thể hiện dưới cả 2 dạng là hành động và không

hành động (hành vi không hành động: Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không

nộp hồ sơ khai thuế; Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan

đến việc xác định số tiền thuế phải nộp; Không xuất hóa đơn khi bán hàng

hóa, dịch vụ); (thực hiện các hành vi hành động: Sử dụng hóa đơn, chứng từ

không hợp pháp để hạch toán hàng hóa, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động

phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền

thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ,

số tiền thuế được hoàn; Sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để

xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn; Khai sai với thực tế

hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau

khi hàng hóa đã được thông quan, nếu không thuộc trường hợp quy định tại

Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này; Câu kết với người gửi hàng để nhập

khẩu hàng hóa, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều

189 của Bộ luật này; Sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng không chịu thuế,

miễn thuế, xét miễn thuế không đúng mục đích quy định mà không khai báo

việc chuyển đổi mục đích sử dụng với cơ quan quản lý thuế,…).

1.2. Những vấn đề pháp luật về Tội buôn lậu theo pháp luật hình sự

Việt Nam

1.2.1. Lịch sử phát triển các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam

về tội buôn lậu

Tội buôn lậu với tính chất là một hiện tượng tiêu cực của xã hội đã gây

ra những thiệt hại nghiêm trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước, khiến cho Nhà nước gặp nhiều khó khăn trong kiểm soát được hàng hóa

xuất nhập khẩu, gây thất thoát thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu hàng hóa;

16

làm cho thị trường hàng hóa bị rối loạn, mất ổn định, làm cho sự cạnh tranh

trên thị trường thiếu lành mạnh.

Để đấu tranh với hiện tượng tiêu cực này, Nhà nước ta đã đưa ra rất

nhiều biện pháp để ngăn chặn và tiến tới loại trừ hành vi này. Nhận thức được

tác hại của hành vi buôn lậu nên từ rất sớm, hoạt động chống buôn lậu hàng

hóa qua biên giới đã được các triều đại phong kiến Việt Nam đề cao, coi

trọng. Ngay từ thời Lê (thế kỷ XV) đã có luật pháp quy định việc xử phạt đối

với những hành vi buôn lậu. Điều 221 Bộ Quốc triều Hình Luật quy định về

việc chống buôn lậu đối với các quan lại như sau: “Các quan vâng mệnh triều

đình đi sứ nước ngoài mà chỉ lo buôn bán thì phải tội biếm hay đồ. Nếu là vật

quý lạ, cùng là sách vở, và các thứ thuốc men, thì cho phép được mua. Khi về

nước đến quan ải phải khai rõ từng thứ; quan ở trấn ấy, sai quan cấp dưới đệ

trình các thứ đó về kinh để kiểm soát; nếu có thứ gì đáng dâng lên vua dùng,

thì sẽ trả lại tiền mua thứ ấy; còn các thứ khác sẽ trả lại cho người đi sứ. Nếu

giấu giếm không khai thực hiện đều phải xử tội biếm hay bãi chức, đồ vật sẽ

bị tịch thu sung công” [29]. Điều 615 Bộ Quốc triều Hình Luật còn quy định:

“Người ở Vân Đồn, chở hàng hóa Trung Quốc lên kinh thành, mà không có

giấy An Phủ ty cấp cho, khi đến bến Đông Triều lại không đến kho Đề bạc ty

kiểm soát, đã đem đi bán lén lút thì đều phải biếm một tư và phạt tiền 100

quan; thưởng người tố cáo một phần ba (số tiền phạt). Nếu đem “hàng hóa

đến các nơi làng mạc bán giấu giếm thì xử biếm ba tư và phạt tiền 200 quan;

thưởng cho người tố cáo một phần ba…” [30]. Năm 1802 với sự ra đời của

triều Nguyễn, Vua Gia Long đã ban hành Hoàng Việt Luật lệ (còn gọi là bộ

luật Gia Long), trong bộ luật này, tội buôn lậu cũng được quy định nhưng

chưa rõ ràng, cụ thể là tại Điều 133 Hoàng Việt Luật lệ quy định: “Phàm là

thuyền to của khách buôn từ biển cả cập bến thì phải kê khai thiệt, hết tất cả

các hàng hóa cho quan trích lấy một phần. Nếu ghé vào bến thấp lầy của các

nhà mối lái để buôn bán với họ mà không báo thì phạt 100 trượng. Tuy có

17

khai báo mà không khai báo thiệt thì như tội trên. Các hàng hóa không báo và

báo không hết, cho nhập vào quan, ai cất giấu thì chịu cùng tội. Ai chỉ bắt

được thì được thưởng bạc 20 lạng” [18]. Như vậy, có thể thấy rằng ngay từ

thời phong kiến, mặc dù hành vi mua bán trái phép quabiên giới không được

định nghĩa rõ ràng là hành vi buôn lậu như BLHS hiện nay nhưng với những

quy định trên cũng đã chứng tỏ rằng trong xã hội phong kiến tác hại của buôn

lậu đã được nhìn nhận và quan tâm, phòng ngừa.

Sau cách mạng Tháng tám 1945, Nhà nước Việt Nam đã ban hành một

số văn bản pháp luật đấu tranh chống loại tội phạm này. Văn bản pháp luật

hình sự đầu tiên phải kể đến đó là Sắc lệnh số 45 ngày 9/10/1945 do Chủ

tịch Hồ Chí Minh ký quy định cấm xuất cảnh kho thóc, gạo, ngô, đỗ hoặc các

chế phẩm thuộc về ngũ cốc, quy định này nhằm góp phần đẩy lùi nạn đói

năm 1945. Sau đó, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật nhằm

đấu tranh với loại tội phạm này và một trong những văn bản quan trọng phải

kể đến đó là “Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh

doanh trái phép” ban hành ngày 30/6/1982. Khác với các văn bản trước đó,

Pháp lệnh ngày 30/6/1982 đã quy định rõ ràng một tội danh với các dấu hiệu

pháp lý đặc trưng của nó, có thể nói, tại văn bản này khái niệm tội buôn lậu

mới chính thức được ghi nhận trong văn bản pháp luật hình sự của Nhà nước.

Trong pháp lệnh ngày 30/6/1982, tội buôn lậu được quy định ở hai điều luật

khác nhau: Điều 3 – “Tội buôn lậu, tàng trữ hàng cấm” là hành vi: “…Buôn

lậu, tàng trữ vàng bạc, kim khí quý, đá quý, ngoại tệ, vật tư kỹ thuật hoặc các

hàng hóa khác mà Nhà nước cấm buôn bán, tàng trữ…” và Điều 4 – Tội

buôn lậu hoặc tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới là hành vi:

“Buôn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên

giới…”[8] (hàng hóa ở đây được hiểu là mọi hàng hóa ngoài những loại

hàng hóa được coi là hàng cấm được quy định tại Điều 3 của Pháp lệnh). Đối

với hành vi buôn bán trái phép hoặc vận chuyển hàng hóa qua biên giới, nếu

18

có mục đích kinh doanh thì đó là buôn lậu, nếu không có mục đích kinh

doanh thì được coi là vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Buôn lậu

thời kỳ này được quan niệm như là một tội phạm về kinh tế.

Trước bối cảnh nền kinh tế đất nước ngày càng có sự phát triển mạnh

mẽ, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, nhưng kéo theo đó là tình

hình tội phạm cũng có xu hướng tăng, thủ đoạn xảo quyệt hơn và diễn biến

ngày càng phức tạp, Nhà nước đã ban hành BLHS năm 1985 quy

định cụ thể, đồng thời thống nhất về tội phạm và hình phạt để đáp ứng công

cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong hoàn cảnh mới, trong đó có tội

phạm buôn lậu. Sự ra đời của BLHS năm 1985 đã đánh dấu bước

phát triển mới của ngành lập pháp hình sự nước ta. Trong BLHS năm 1985

(với 4 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997) tội buôn

lậu được quy định trong cùng một điều luật với tội vận chuyển trái phép hàng

hóa tiền tệ qua biên giới tại Điều 97 với tên gọi “Tội buôn lậu hoặc

vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới”. Điều 97 BLHS năm

1985 được quy định như sau:

“1. Người nào buôn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép qua biên

giới hàng hóa, tiền tệ Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý hoặc vật phẩm

thuộc di tích lịch sử, văn hóa thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây thì bị phạt từ năm năm đến

mười hai năm: a) Có tổ chức; b) Vật phạm pháp có số lượng lớn hoặc giá trị

lớn; thu lợi bất chính lớn; c) Lợi dụng chiến tranh; d) Lợi dụng chức vụ,

quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội; đ)

Phạm tội nhiều lần hoặc tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ

mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình”. Trong thời kỳ này,

Tội buôn lậu hoặc tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới lại được

quan niệm là tội phạm thuộc nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia [9].

19

Sau hơn 10 năm áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985

trong đó có tội buôn lậu đã bộc lộ nhiều bất cập. Trước tình hình này ngày

21/12/1999 tại kỳ họp lần thứ VI – Quốc hội khóa X đã thông qua BLHS mới

có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2000 (sau đây gọi là BLHS năm 1999) thay

thế BLHS năm 1985. BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009) đã

tách riêng tội buôn lậu và tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và

quy định hai tội này ở hai điều luật khác nhau trong đó tội buôn lậu được quy

định tại Điều 153 với nội dung: “Người nào buôn bán trái phép qua biên

giới… hàng hóa, tiền tệ Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị…

vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa…hàng cấm có số lượng lớn…”. BLHS

năm 1999 coi tội buôn lậu thuộc nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh

tế mà cụ thể là trật tự quản lý trong lĩnh vực xuất - nhập khẩu [10]. Việc luật

quy định như vậy là phù hợp với bản chất kinh tế của tội buôn lậu, điều đó đã

góp phần không nhỏ trong việc giúp chúng ta nhận thức về loại tội phạm này

cũng như có những biện pháp đấu tranh đề ngăn chặn và tiến tới đẩy lùi tội

phạm buôn lậu.

Sau hơn 15 năm thực hiện BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm

2009) đã xuất hiện nhiều vướng mắc, bất cập khi tình hình kinh tế, xã hội có

nhiều thay đổi, đòi hỏi phải có các quy định phù hợp, hiệu quả trong đấu tranh

phòng chống tội phạm ở nước ta. Ngày 27/11/2015, Quốc hội nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, tại kỳ họp thứ 10 đã thông qua BLHS

năm 2015 (Luật số: 100/2015/QH13), có hiệu lực thực hiện từ ngày 1/7/2016.

Tuy nhiên, do một số sai sót về kỹ thuật, nên Quốc hội đã lùi thời hạn có hiệu

lực của BLHS năm 2015 đến khi Luật sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015 có

hiệu lực (Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016) và bổ sung dự án

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13 vào chương

trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016 [13].

20

Ngày 20/6/2017, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

khóa XIV, tại kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều

của BLHS số 100/2015/QH13 (Luật số: 12/2017/QH14); đồng thời ban hành

Nghị quyết số 41/2017/QH14, về việc thi hành BLHS số 100/2015/QH13 đã

được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực

thi hành của BLTTHS số 101/2015/QH13, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình

sự số 99/2015/QH13, Luật thi hành tạm giam, tạm giữ số 94/2015/QH13.

Theo đó, BLHS số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều

theo Luật số: 12/2017/QH14 (sau đây gọi tắt là BLHS năm 2015) có hiệu lực

thi hành kể từ ngày 01/01/2018 [14].

BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) ra đời đánh dấu

một bước tiến quan trọng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho cuộc đấu tranh

phòng, chống tội phạm có hiệu quả; góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của

đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của

Nhà nước và tổ chức, bảo vệ và thúc đẩy kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa

phát triển đúng hướng, tạo môi trường xã hội và môi trường sinh thái an toàn,

lành mạnh cho mọi người dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự nước ta, BLHS năm 2015 đã bổ

sung chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. Đây là điểm

mới nổi bật, mang tính đột phá trong chính sách hình sự nước ta, làm thay đổi

nhận thức truyền thống về tội phạm và hình phạt. Việc bổ sung chế định trách

nhiệm hình sự của pháp nhân vào BLHS xuất phát từ yêu cầu cấp bách của

thực tiễn và nhằm góp phần khắc phục những bất cập, hạn chế trong việc xử

lý các vi phạm pháp luật của pháp nhân trong thời gian qua, nhất là những vi

phạm trong các lĩnh vực kinh tế (trong đó có tội buôn lậu) và môi trường,

đồng thời tạo điều kiện bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người bị thiệt hại do các

vi phạm của pháp nhân gây ra [5].

21

Tại Bộ luật này, tội buôn lậu được quy định tại điều 188, tội đầu tiên

trong Chương Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; tội phạm buôn lậu

trong BLHS năm 2015 có nhiều nội dung được kế thừa, song bên cạnh đó, có

nhiều nội dung bổ sung mới so với BLHS năm 1999; các điểm mới là [24]:

- Thứ nhất là, điểm mới trong việc xác định đối tượng của hành vi buôn

lậu: Khi xem xét về khách thể của tội buôn lậu, cả BLHS năm 1999 và BLHS

năm 2015 đều xếp tội buôn lậu thuộc Chương các tội xâm phạm trật tự quản

lý kinh tế, hơn thế nữa, tội buôn lậu còn được quy định đầu tiên trong nhóm

các tội phạm thuộc Chương này. Điểm khác biệt thể hiện ở chỗ, BLHS năm

2015 có sự phân chia các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế thành các nhóm

tội theo từng lĩnh vực nhất định bao gồm 3 mục: Mục 1. Các tội phạm trong

lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại; Mục 2. Các tội phạm trong lĩnh

vực thuế, tài chính , ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm; Mục 3.Các tội phạm

khác xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.

Xét một cách khái quát, BLHS năm 1999 hay BLHS năm 2015 đều xác

định hành vi buôn lậu xâm phạm đến khách thể là chế độ quản lý ngoại

thương của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bên cạnh đó,

hành vi buôn lậu cũng gây nguy hại đến an ninh biên giới của quốc gia. Như

vậy, dường như không có sự thay đổi trong quan điểm của nhà làm luật khi

xác định khách thể bị xâm hại đối với hành vi buôn lậu.

Tuy vậy, việc xác định đối tượng của hành vi phạm tội trong BLHS

năm 1999 và BLHS năm 2015 có sự khác nhau. Cụ thể, tội buôn lậu được quy

định tại Điều 153 BLHS năm 1999 xác định đối tượng của hành vi này bao

gồm 3 nhóm là (1) Hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý;

(2) Vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá; (3) Hàng cấm.

Tại điều 188 BLHS năm 2015 khi quy định về tội buôn lậu vẫn giữ

nguyên đối tượng thứ nhất của hành vi: hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ,

kim khí quý, đá quý; đối với loại đối tượng thứ hai, BLHS năm 2015 đã có sự

22

quy định mới so với BLHS năm 1999. BLHS năm 1999 quy định “vật phẩm

thuộc di tích lịch sử văn hóa” là đối tượng của hành vi buôn lậu; mặt khác ở

khoản 3 Điều 4 của Luật Di sản văn hóa 2001 và khoản 3 Điều 4 của Luật Di

sản văn hóa 2013 đều xác định: “Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây

dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa

điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học”. Trong khi đó, Luật di sản văn

hóa lại không có khái niệm về “vật phẩm thuộc di tích lịch sử văn hóa”. Xét

về bản chất, đối tượng mà nhà làm luật hình sự muốn nói đến ở đây chính là

các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Chính vì lí do này mà ở BLHS năm 2015

không quy định đối tượng của hành vi buôn lậu là vật phẩm thuộc di tích lịch

sử - văn hóa nữa mà cụ thể hóa thành các đối tượng: di vật, cổ vật; riêng đối

tượng là bảo vật quốc gia được xác định là có giá trị cao hơn nên hành vi

buôn lậu gắn với đối tượng này được đưa về cấu thành tăng nặng của điều

luật. Đối tượng thứ ba của hành vi buôn lậu trong BLHS năm 1999 là “hàng

cấm” đã bị loại bỏ khỏi danh sách các đối tượng của hành vi buôn lậu trong

BLHS năm 2015. Như vậy đồng nghĩa với việc hành vi buôn bán hàng cấm

qua biên giới sẽ không bị xử lý hình sự về tội buôn lậu nữa. Hành vi này sẽ bị

xử lý về “tội buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điều 190 BLHS năm

2015, điều này thể hiện sự thay đổi trong chính sách hình sự của chúng ta đối

với hành vi này.

- Thứ hai là, điểm mới trong việc xác định các hành vi bị coi là phạm

tội buôn lậu: Hành vi khách quan của tội buôn lậu quy định tại Điều 188

BLHS năm 2015 là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới hoặc từ khu phi

thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại các đối tượng nêu ở phần trên. Buôn bán

trái phép qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại

hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý trị giá từ 100.000.000

đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng rơi vào

các trường hợp khác mà điều luật quy định, nhằm mục đích thu lời bất chính.

23

Hành vi này được thực hiện thông qua các thủ đoạn như: sử dụng giấy tờ giả

mạo để xuất, nhập hàng hóa, hoặc xuất, nhập hàng hóa không đúng với nội

dung được phép. Đối với hành vi buôn bán trái phép qua biên giới hoặc từ

khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại di vật, cổ vật luôn bị coi là

phạm tội buôn lậu mà không phụ thuộc vào giá trị của di vật, cổ vật. Dấu hiệu

bắt buộc đối với hành vi buôn bán của tội buôn lậu theo Điều 188 BLHS năm

2015 đó là việc buôn bán phải “qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào

nội địa hoặc ngược lại”, rộng hơn so với dấu hiệu bắt buộc đối với tội danh

này ở Điều 153 BLHS năm 1999 chỉ là “qua biên giới”. Do đó, mặc dù về mặt

địa lý, khu phi thuế quan nằm trong lãnh thổ Việt Nam, nhưng hoạt động

buôn bán giữa khu vực này với bên ngoài vẫn được xác định là quan hệ xuất

khẩu, nhập khẩu; hay nói cách khác, về bản chất pháp lý đây cũng giống như

hành vi buôn bán qua biên giới.

- Thứ ba là, điểm mới của BLHS năm 2015 trong việc xác định chủ thể

của tội buôn lậu: Điểm mới của BLHS năm 2015 so với BLHS năm 1999 đối

với tội buôn lậu đó là đã xác định ngoài cá nhân thì pháp nhân thương mại

cũng là chủ thể của tội phạm này. Việc quy định pháp nhân thương mại là chủ

thể của tội buôn lậu là cần thiết và hợp lý, đảm bảo cơ sở pháp lý để xử lý

hình sự những hành vi phạm tội trên của pháp nhân hiện đang diễn ra khá phổ

biến trên thực tế.

- Thứ tư là, điểm mới về các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt:

Điểm mới đầu tiên trong việc xác định các tình tiết tăng nặng định khung hình

phạt của BLHS năm 2015 so với BLHS năm 1999 đó là luật đã lượng hóa các

tình tiết mang tính chất định tính như: “thu lời bất chính lớn/rất lớn/đặc biệt

lớn”. Đồng thời với đó, luật cũng bỏ đi những tình tiết tăng nặng khác mang

tính chất định như: “gây hậu quả nghiêm trọng/rất nghiêm trọng/đặc biệt

nghiêm trọng”. Tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần” được quy định cụ thể

24

lại thành “phạm tội từ 2 lần trở lên”, giúp cho cơ quan áp dụng pháp luật dễ

dàng hơn khi áp dụng các quy phạm này vào thực tiễn xét xử.

Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 188 BLHS năm 2015 đã bổ sung một tình

tiết tăng nặng định khung mới: “vật phạm pháp là bảo vật quốc gia”. Bảo vật

quốc gia, theo quy định của Luật Di sản văn hóa 2016 được hiểu là hiện vật

được các đời trước truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất

nước về lịch sử, văn hóa, khoa học; với đặc tính như trên, việc tăng nặng trách

nhiệm hình sự đối với hành vi buôn lậu đối tượng này là hợp lý.

Ngoài ra, BLHS 2015 đã chuyển tình tiết tăng nặng “Lợi dụng chiến

tranh, thiên tai, dịch bệnh hoặc hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác” vốn thuộc

khoản 2 của Điều 153 BLHS năm 1999 (khung hình phạt từ 3 năm đến 7 năm

tù) quy định sang khoản 4 Điều 188 năm BLHS năm 2015 (khung hình phạt

cao nhất: từ 12 năm đến 20 năm tù).

- Thứ năm là, điểm mới về hình phạt: Trước hết, có thể nhận xét một

cách khái quát rằng, BLHS năm 2015 đã mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt

tiền đối với tội buôn lậu. Hình phạt tiền được quy định trong các khoản của

Điều 188 BLHS năm 2015 cơ bản theo nguyên tắc: mức phạt tiền sẽ cao hơn

giá trị của vật phạm pháp (trừ di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia); và cao gấp 3

đến 5 lần mức thu lợi bất chính. Bên cạnh đó, một điểm mới nữa trong vấn đề

quy định hình phạt đối với tội buôn lậu ở BLHS năm 2015 so với BLHS năm

1999 đó là ở hình phạt cao nhất của điều luật. Nếu như BLHS năm 1999 xác

định hình phạt nặng nhất có thể áp dụng đối với hành vi buôn lậu là “tù chung

thân” thì BLHS năm 2015 lại xác định hình phạt nặng nhất có thể áp dụng đối

với tội phạm này là “20 năm tù”. Điều này xuất phát từ chính sách hình sự

chung, đó là thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tù chung thân, tử hình.

- Thứ sáu là, điểm mới trong việc xây dựng chế tài hình phạt riêng cho

pháp nhân thương mại phạm tội. Có 3 loại hình phạt được xem xét áp dụng

với pháp nhân phạm tội tương ứng với các mức độ phạm tội khác nhau: phạt

25

tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn và đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Điểm

khác biệt cơ bản giữa trường hợp cá nhân phạm tội và pháp nhân thương mại

phạm tội đó là chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân thương mại khi

hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý trị giá từ 200 triệu

đồng trở lên hoặc di vật, cổ vật hoặc bảo vật Quốc gia; kèm theo đó, pháp

nhân phải đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này

hoặc tại một trong các điều 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của

Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích

mà còn vi phạm; trừ trường hợp thuộc quy định tại Điều 79 BLHS năm 2015

– đình chỉ hoạt động vĩnh viễn đối với pháp nhân thương mại.

Tóm lại, qua nghiên cứu lịch sử phát triển các quy định của pháp luật

hình sự Việt Nam về tội buôn lậu, có thể nhận thấy tội buôn lậu được coi là

một tội phạm có tính truyền thống, nó cũng có những thay đổi theo từng thời

kỳ lịch sử khi tình hình kinh tế - xã hội thay đổi. So với các giai đoạn

trước tội buôn lậu trong BLHS năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung cả về dấu

hiệu pháp lý cũng như đường lối xử lý, phù hợp với tính chất, mức độ nguy

hiểm của loại tội phạm này trong từng trường hợp cụ thể, đồng thời đáp ứng

yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm trong giai đoạn mới.

1.2.2. Các loại cấu thành tội buôn lậu theo Bộ Luật hình sự năm

2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017

BLHS năm 2015, tội buôn lậu được quy định tại điều 188, như sau:

“1. Người nào buôn bán qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa

hoặc ngược lại trái pháp luật hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá

quý trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới

100.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền

từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này

hoặc tại một trong các điều 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của

26

Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích

mà còn vi phạm; b) Vật phạm pháp là di vật, cổ vật.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ

300.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Vật phạm pháp trị giá

từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; d) Thu lợi bất chính từ

100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; đ) Vật phạm pháp là bảo vật

quốc gia; e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; g) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ

chức; h) Phạm tội 02 lần trở lên; i) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ

1.500.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Vật phạm pháp trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;

b) Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12

năm đến 20 năm:

a) Vật phạm pháp trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên; b) Thu lợi bất

chính 1.000.000.000 đồng trở lên; c) Lợi dụng chiến tranh, thiên tai, dịch

bệnh hoặc hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến

100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công

việc nhất định từ 01 đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

6. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt

như sau:

a) Thực hiện hành vi quy định tại khoản 1 Điều này với hàng hóa, tiền

Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới

300.000.000 đồng; hàng hóa trị giá dưới 200.000.000 đồng nhưng là di vật, cổ

vật; hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý trị giá từ

100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm

27

hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 189,

190, 191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về

một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền

từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng;

b) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b,

c, d, đ, h và i khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến

3.000.000.000 đồng;

c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt

tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 7.000.000.000 đồng;

d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này, thì bị phạt

tiền từ 7.000.000.000 đồng đến 15.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động

có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm;

đ) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì

bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;

e) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến

300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất

định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm”.

Từ các quy định về tội buôn lậu theo điều 188 BLHS năm 2015, sửa

đổi, bổ sung năm 2017; có thể thấy tội buôn lậu có 02 loại cấu thành, gồm:

- Thứ nhất, cấu thành tội phạm cơ bản: CTTP cơ bản tội buôn lậu được

quy định tại khoản 1 điều 188 đối với cá nhân và điểm a khoản 6 pháp nhân

thương mại; theo đó đòi hỏi tội phạm là cá nhân phải thỏa mãn các yếu tố về

hành vi được mô tả trong CTTP tại điểm a, b của khoản 1, bao gồm: buôn bán

qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại trái pháp

luật hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý trị giá từ

100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng

nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này

hoặc tại một trong các điều 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của

28

Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích

mà còn vi phạm. Vật phạm pháp là di vật, cổ vật.

Tội phạm là pháp nhân thương mại phải thỏa mãn các yếu tố về hành vi

được mô tả trong CTTP tại a khoản 6 điều 188, cụ thể: Thực hiện hành vi quy

định tại khoản 1 Điều này với hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý,

đá quý trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng; hàng hóa trị

giá dưới 200.000.000 đồng nhưng là di vật, cổ vật; hàng hóa, tiền Việt Nam,

ngoại tệ, kim khí quý, đá quý trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới

200.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy

định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 189, 190, 191, 192, 193, 194,

195, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này,

chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

- Thứ hai, cấu thành tội phạm theo khung tăng nặng: CTTP theo khung tăng

nặng là CTTP mà ngoài dấu hiệu định tội về hành vi quy định tại khoản 1 điều

188 (đối với cá nhân) và điểm a khoản 6 (đối với pháp nhân thương mại) Bộ luật

hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 còn có các dấu hiệu định khung

tăng nặng, nhằm xem xét cách thức, thủ đoạn, mức độ mà hành vi phạm tội gây

nguy hiểm cho xã hội. Các CTTP tăng nặng được quy định tại khoản 2, khoản 3

và khoản 4 điều 188 (đối với cá nhân), cụ thể gồm các trường hợp sau:

+ Khung tăng nặng thứ nhất (khoản 2): Phạm tội thuộc một trong các

trường hợp (a) Có tổ chức; (b) Có tính chất chuyên nghiệp; (c) Vật phạm

pháp trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; (d) Thu lợi bất

chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; (đ) Vật phạm pháp là

bảo vật quốc gia; (e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; (g) Lợi dụng danh nghĩa

cơ quan, tổ chức; (h) Phạm tội 02 lần trở lên; (i) Tái phạm nguy hiểm.

+ Khung tăng nặng thứ hai (khoản 3): Phạm tội thuộc một trong các

trường hợp (a) Vật phạm pháp trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới

29

1.000.000.000 đồng; (b) Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới

1.000.000.000 đồng.

+ Khung tăng nặng thứ ba (khoản 4): Phạm tội thuộc một trong các

trường hợp (a) Vật phạm pháp trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên; (b) Thu lợi

bất chính 1.000.000.000 đồng trở lên; (c) Lợi dụng chiến tranh, thiên tai, dịch

bệnh hoặc hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác.

Các CTTP tăng nặng được quy định tại điểm b,c,d,đ khoản 6 điều 188

(đối với pháp nhân thương mại), cụ thể gồm các trường hợp sau:

+ Khung tăng nặng thứ nhất (điểm b): Phạm tội thuộc một trong các

trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, h và i khoản 2 Điều 188;

+ Khung tăng nặng thứ hai (điểm c): Phạm tội thuộc trường hợp quy

định tại khoản 3 Điều 188;

+ Khung tăng nặng thứ ba (điểm d): Phạm tội thuộc trường hợp quy

định tại khoản 4 Điều 188;

+ Khung tăng nặng thứ tư (điểm đ): Phạm tội thuộc trường hợp quy

định tại Điều 79 của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tiểu kết chương 1

Buôn lậu được xác định là một trong những tội phạm nguy hiểm, không

chỉ làm thiệt hại đến nền kinh tế đất nước, gây thất thu thuế cho Nhà nước mà

còn đe dọa phá vỡ chính sách kinh tế, xã hội, ảnh hưởng không nhỏ đến lợi

ích của người tiêu dùng. Chính vì vậy, trong nội dung Chương 1, tác giả đã

đưa ra những quan điểm, những vấn đề lý luận cụ thể về tội buôn lậu, các dấu

hiệu pháp lý hình sự theo quy định của BLHS Việt Nam, đó chính là các yếu

tố cấu thành tội buôn lậu và các dấu hiệu cụ thể của từng yếu tố. Nghiên cứu

khái quát quy định về tội buôn lậu của Luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ

để qua đó thấy được sự phát triển của nền kinh tế và sự thay đổi của pháp

luật, nhất là những điểm mới trong BLHS năm 2015 nhằm phù hợp với tình

hình thực tế đối với tội buôn lậu, đồng thời làm rõ sự khác biệt giữa tội buôn

30

lậu với một số tội phạm khác trong Luật hình sự để tránh những sai sót, vi

phạm trong quá trình áp dụng pháp luật.

Chương 2

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI BUÔN LẬU

TẠI TỈNH QUẢNG NINH

Do luận văn nghiên cứu về tội buôn lậu theo pháp luật hình sự Việt

Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, mà cụ thể là từ năm 2014 đến hết năm

2018; vì vậy các căn cứ, nội dung viện dẫn, đánh giá, nhận định trong chương

này được thực hiện trên cơ sở áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm

1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đối với tội buôn lậu phát sinh từ năm 2014

đến hết năm 2017; áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm

2017 đối với tội buôn lậu phát sinh trong năm 2018.

2.1. Khái quát về các đặc điểm có tác động, ảnh hưởng tới việc áp

dụng pháp luật hình sự về tội buôn lậu tại tỉnh Quảng Ninh

2.1.1. Về vị trí, địa lý: Quảng Ninh nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam,

phía Bắc giáp nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa; phía Tây Bắc giáp các

tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang; phía Đông và phía Nam giáp Vịnh Bắc Bộ, thành

phố Hải Phòng và tỉnh Hải Dương. Quảng Ninh có diện tích đất tự nhiên

6.102 km2, có đường biên giới trên bộ (118,8 km) và trên biển (gần 191 km)

với Trung Quốc; 03 cửa khẩu (Móng Cái, Hoành Mô, Bắc Phong Sinh) tiếp

giáp với vùng duyên hải rộng lớn Nam Trung Quốc; bờ biển dài 250 km, có

2.077 đảo (chiếm 2/3 số đảo của Việt Nam), trên 40.000 ha bãi triều và hơn

20.000 ha diện tích eo biển và vịnh. Quảng Ninh có vị trí chiến lược trong

vùng Đông Bắc Việt Nam; nằm hai thành phố lớn là Hà Nội và Hải Phòng,

nằm bên Vịnh Bắc Bộ và có biên giới với Trung Quốc (cả trên đất liền và trên

biển), Quảng Ninh đóng một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã

hội và quốc phòng, an ninh. Tỉnh Quảng Ninh có 14 đơn vị hành chính, trong

đó 10/14 huyện, thị xã, thành phố tiếp giáp biển. Dân số Quảng Ninh năm

31

2016 đạt gần 1.224.600 người. Đây cũng là tỉnh duy nhất của cả nước có 04

thành phố (Hạ Long, Uông Bí, Cẩm Phả và Móng Cái) và 02 thị xã (Quảng

Yên và Đông Triều) [4].

2.1.2. Các đặc điểm có tác động, ảnh hưởng tới hoạt động tội phạm

buôn lậu tại tỉnh Quảng Ninh

Trên dọc tuyến biên giới tỉnh Quảng Ninh có 03 cửa khẩu, trong đó có

01 cửa khẩu Quốc tế Bắc Luân tại thành phố Móng Cái và 02 cửa khẩu tiểu

ngạch tại huyện Hải Hà và huyện Bình Liêu; bên cạnh đó còn có 11 điểm xuất

hàng (lối mở, điểm thông quan) phục vụ hoạt động thương mại xuất nhập

khẩu với Trung Quốc. Trong những năm qua, phát huy tốt những lợi thế của

mình, tỉnh Quảng Ninh đã có những bước phát triển nhanh về kinh tế, xã hội,

đảm bảo Quốc phòng an ninh, giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia; đến

nay trong cơ cấu kinh tế của tỉnh thì “Dịch vụ” đã chiếm xấp xỉ 50%, bên

cạnh các tiềm năng, lợi thế về du lịch thì tiềm năng, lợi thế và kết quả trong

lĩnh vực dịch vụ thương mại, xuất nhập khẩu, kinh tế biên giới đã và đang góp

phần quan trọng trong sự phát triển của Tỉnh. Tuy nhiên, khu vực biên giới

tỉnh Quảng Ninh cũng như các tỉnh biên giới phía Bắc khác, tình trạng buôn

lậu và gian lận thương mại, tư thương lợi dụng chính sách ưu đãi để thu gom

hàng miễn thuế đưa vào nội địa,… tuy đã có nhiều biện pháp ngăn chặn

nhưng do những bất cập trong vấn đề tổ chức quản lý, phối hợp các lực lượng

tổ chức quản lý khu kinh tế cửa khẩu và bất cập về chính sách nên có lúc, có

nơi vẫn còn trầm trọng.

Trên tuyến biên giới đất liền: Hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép

hàng hoá qua biên giới và gian lận thương mại diễn ra phức tạp, tập trung tại

các địa bàn trọng điểm là khu vực Cửa khẩu Móng Cái, Hoành Mô, Bắc

Phong Sinh, đường biên từ Km1 đến Km3 phường Ka Long, thành phố Móng

Cái thuộc tỉnh Quảng Ninh... ; lợi dụng địa hình tuyến biên giới tiếp giáp với

Trung Quốc kéo dài, địa hình phức tạp, sông biên giới nhỏ hẹp, nhiều khu vực

32

không có rào chắn, các đối tượng buôn lậu tập kết hàng tại khu vực giáp ranh

biên giới khi có điều kiện thuận lợi thì đưa qua các đường mòn vào các khu

vực chợ, khu vực dân cư sát biên giới; Lợi dụng chính sách ưu đãi của Chính

phủ về trao đổi hàng hoá của cư dân biên giới các đối tượng buôn lậu xé lẻ

hàng hóa, thuê cư dân biên giới xách qua cửa khẩu, sau đó vận chuyển nhỏ lẻ

đưa lên các xe container, xe tải nhỏ, xe khách chạy tuyến đường Móng Cái đi

các tỉnh...đã được gia cố hầm vách tinh vi để chôn giấu hàng lậu nhằm trốn

tránh sự kiểm tra, kiểm soát của các lực lượng chức năng.

Trên tuyến biển, hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa

qua biên giới giảm song vẫn diễn biến phức tạp; hàng nhập lậu chủ yếu là

gạch men, thủy sản...; hàng xuất lậu là than, quặng; các đối tượng sử dụng tàu

có trọng tải lớn dùng hóa đơn, chứng từ vận chuyển nội địa, khi đi qua khu

vực đảo Bạch Long Vĩ chuyển hướng chạy bám theo đường phân định để xuất

lậu sang Trung Quốc.

Theo số liệu thống kê, tại tỉnh Quảng Ninh 5 năm (2014-2018) các lực

lượng chức năng đã phát hiện, bắt giữ, xử lý 12.989 vụ việc liên quan đến

buôn lậu và gian lận thương mại, trị giá hàng hóa 363,12 tỷ đồng; đã khởi tố

333 vụ bằng 465 bị can [3]. Riêng tội buôn lậu (theo điều 153, BLHS năm

1999 và điều 188, BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017) đã truy tố, đưa ra

xét xử 47 vụ bằng 92 bị cáo, trong đó có cả bị cáo là người nước ngoài [28].

2.2. Định tội danh tội buôn lậu tại tỉnh Quảng Ninh

Định tội danh là một vấn đề rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ

án hình sự, là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hoá

hình phạt một cách công minh, chính xác, đồng thời làm cơ sở cho việc áp

dụng các biện pháp ngăn chặn, xác định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử

của các cơ quan tiến hành tố tụng. Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì “Định tội

danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa

các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu

33

của cấu thành tội phạm đã được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự”

[27]. Hay nói cách khác, định tội danh là việc xác định một hành vi cụ thể đã

thực hiện thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của CTTP của tội nào trong số các tội

phạm đã được quy định trong BLHS.

Do đó, định tội danh đúng là tiền đề cho việc phân hoá trách nhiệm

hình sự và cá thể hoá hình phạt một cách công minh có căn cứ pháp luật; sẽ

hỗ trợ cho việc thực hiện một loạt các nguyên tắc tiến bộ được thừa nhận

trong Nhà nước pháp quyền như: nguyên tắc pháp chế, trách nhiệm do lỗi,

trách nhiệm cá nhân, bình đẳng trước pháp luật hình sự, nguyên tắc công

minh nhân đạo và nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm; tạo cơ sở để áp

dụng chính xác các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự về tạm giam, về thẩm

quyền điều tra, xét xử qua đó góp phần hữu hiệu cho việc bảo vệ các quyền và

tự do dân chủ của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Định tội danh sai

sẽ dẫn đến một loạt các hậu quả tiêu cực như: không đảm bảo được tính công

minh có căn cứ đúng pháp luật, truy cứu TNHS người vô tội, bỏ lọt người

phạm tội, xâm phạm thô bạo danh dự nhân phẩm các quyền tự do dân chủ của

công dân là giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận trong Hiến pháp và các

văn bản pháp luật của Nhà nước, các hiệp định, điều ước quốc tế mà Việt

Nam tham gia ký kết, thừa nhận; mặt khác, định tội danh sai làm giảm uy tín

của cơ quan tư pháp, vi phạm pháp chế XHCN, ảnh hưởng đến hiệu quả của

đấu tranh phòng chống tội phạm. Thực tiễn thi hành Nghị quyết

388/UBTVQH ngày 17/03/2003 về bồi thường oan trong tố tụng hình sự cho

thấy những vụ việc oan sai chủ yếu do việc đánh giá chứng cứ phiến diện,

thiếu thận trọng, nôn nóng khởi tố, bắt tạm giam, suy diễn chủ quan.

2.2.1. Các đặc trưng trong hoạt động định tội danh tội buôn lậu tại

tỉnh Quảng Ninh

Với đặc thù là tỉnh có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, với trữ

lượng than đá chiếm hơn 90% cả nước và lớn nhất Đông Nam Á, có đường

34

biên giới trên bộ giáp với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa dài 118,825 km

và đường biên giới trên biển biển dài trên 191 km. Do đó, bên cạnh những đặc

trưng mang tính định lượng, tội phạm tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Quảng

Ninh trong giai đoạn 2014 – 2018, có một số đặc trưng mang tính định tính là:

- Về khách thể và đối tượng tác động của tội phạm: Các vụ án buôn lậu

trên địa bàn tỉnh từ năm 2014 đến năm 2018 đều xâm phạm tới trật tự quản lý

ngoại thương, xuất nhập khẩu của Quảng Ninh với đối tượng buôn lậu chủ

yếu là tài nguyên thiên nhiên (than đá) vận chuyển từ Quảng Ninh qua biên

giới ra nước ngoài (chủ yếu sang Trung Quốc); hàng hóa buôn lậu từ nước

ngoài vào nội địa (chủ yếu từ Trung Quốc) phần lớn là hàng tiêu dùng như

quần áo, vải vóc, một số loại máy móc, thiết bị, điện thoại di động, đồ chơi trẻ

em, thực phẩm, giống vật nuôi,…là những mặt hàng Trung Quốc có lợi thế

sản xuất, giá thành thấp, thị trường Việt Nam có nhu cầu lớn nên lợi nhuận

cao. Tuy nhiên, gần đây do chính sách của nhà nước không khuyến khích khai

thác, giảm sản lượng khai thác than nên tình hình buôn lậu than cũng diễn ra

theo xu hướng giảm; các mặt hàng khác vẫn diễn biến phức tạp [3].

- Về mặt khách quan của tội phạm: Các vụ án buôn lậu trên địa bàn tỉnh

Quảng Ninh từ năm 2014 đến năm 2018 đều được diễn ra phổ biến bằng một

số loại hành vi sau:

+ Buôn bán trái phép hàng hóa (chủ yếu là tài nguyên than) có giá trị từ

một trăm triệu đồng trở lên qua biên giới Việt – Trung bằng đường biển;

+ Buôn bán trái phép hàng cấm có số lượng lớn (thuốc lá điếu do Trung

Quốc sản xuất...) qua biên giới Việt – Trung bằng đường bộ;

+ Buôn bán các loại hàng tiêu dùng, hàng điện tử, phụ tùng xe cơ

giới,.... nhưng không thực hiện các thủ tục kê khai, kiểm hóa, thông quan,

trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của các lực lượng Hải quan, Biên

phòng,....để trốn tránh các nghĩa vụ liên quan như Thuế XNK,....

35

Việc buôn bán trái phép qua biên giới các mặt hàng kể trên thường đi

với các hành vi, thủ đoạn phạm tội đặc trưng như: Hành vi không khai báo

với cơ quan Hải quan về hàng hóa vận chuyển qua biên giới Việt – Trung;

Hành vi khai báo gian dối; Hành vi giả mạo giấy tờ; Không có giấy tờ hợp lệ;

Hành vi trốn tránh sự kiểm soát của hải quan, bộ đội biên phòng biểu hiện ở

việc đi đường tắt qua biên giới, không qua trạm kiểm soát, lợi dụng sơ hở của

các lực lượng chống buôn lậu để đưa hàng hóa qua biên giới, tìm cách tẩu tán

hàng hóa khi bị phát hiện.

- Về chủ thể của tội phạm các vụ án buôn lậu trên địa bàn tỉnh Quảng

Ninh từ năm 2014 đến năm 2018 đều do người đã trên 16 tuổi và đủ năng lực

TNHS thực hiện hành vi phạm tội, trong đó có một số vụ án chủ thể của tội

phạm là người nước ngoài [28].

- Về mặt chủ quan của tội phạm: Thực tiễn các vụ án truy tố và xét xử

tội buôn lậu từ năm 2014 đến năm 2018 ở Quảng Ninh cho thấy có đầy đủ hai

trường hợp tội phạm hoàn thành (người phạm tội đã thực hiện được tội phạm

đến cùng) và trường hợp phạm tội chưa đạt [28].

2.2.2. Định tội danh theo cấu thành tội phạm

2.2.2.1. Định tội danh theo Cấu thành tội phạm cơ bản tội buôn lậu:

- Áp dụng Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì

Định tội danh tội buôn lậu theo CTTP cơ bản là việc định tội danh đối với tội

phạm tội này theo khoản 1 Điều 153 BLHS; đòi hỏi phải thỏa mãn các yếu tố

về hành vi được mô tả trong CTTP tại điểm a, b, c khoản 1 điều này, gồm:

Buôn bán trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim

khí quý, đá quý có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng

hoặc dưới một trăm triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi

buôn lậu hoặc tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158,159,160 và 161

của BLHS 1999 hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án

36

tích mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193,

194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của BLHS 1999;

+ Buôn bán trái phép qua biên giới vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá;

+ Buôn bán trái phép qua biên giới hàng cấm có số lượng lớn hoặc đã bị

xử phạt hành chính về hành vi buôn lậu hoặc tại một trong các điều 154, 155,

156, 157, 158,159,160 và 161 của BLHS 1999 hoặc đã bị kết án về một trong

các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường

hợp quy định tại các điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của

BLHS 1999.

- Áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì

Định tội danh tội buôn lậu theo CTTP cơ bản là việc định tội danh đối với tội

phạm tội này theo khoản 1 Điều 188 BLHS; đòi hỏi phải thỏa mãn các yếu tố

về hành vi được mô tả trong CTTP tại điểm a hoặc b của khoản 1 điều này,

bao gồm:

Buôn bán qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc

ngược lại trái pháp luật hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá

quý trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới

100.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt

tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến

03 năm: Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này

hoặc tại một trong các điều 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của

Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích

mà còn vi phạm; Vật phạm pháp là di vật, cổ vật.

Thực tiễn định tội danh theo CTTP cơ bản tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh

Quảng Ninh từ năm 2014 đến năm 2018 cho thấy: Việc định tội danh theo

CTTP cơ bản có điểm chung chủ yếu là do vật phạm pháp là hàng hóa có giá

trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng; không có vật phẩm

thuộc di tích lịch sử văn hóa.

37

Ví dụ vụ án buôn lậu Cá Song giống, TAND tỉnh Quảng Ninh xét xử

năm 2015 [20]:

...Hoàng Bảo Trung là người Hải Phòng, Việt Nam, sang Trung Quốc

lao động làm thuê cho A Thông chuyên kinh doanh cá giống ở Đông Hưng,

Quảng Tây, Trung Quốc, từ tháng 5.2015. Ngày 29 tháng 6 năm 2015, Trung

thấy vợ chồng Cường là người Việt Nam đến cửa hàng A Thông mua cá Song

giống về Việt Nam. A Thông bảo Trung và Hà, Khánh (Trung không rõ lai

lịch) đếm, lựa chọn 28.000 con cá Song giống cho vào các thùng đưa lên bè

gỗ của Li Wen Yi (Lý Văn Nghệ) và chăm sóc, áp tải, chuyển cá về Việt Nam

giao cho Cường. Số cá song giống không có hóa đơn chứng từ mua bán. Khi

bè gỗ đến bờ đầm tôm nhà bà Dịu (thuộc khu 7 phường Hải Hòa, Tp Móng

Cái, Quảng Ninh, Việt Nam) thì bị công an thành phố Móng Cái phối hợp với

đồn biên phòng Hải Hòa bắt quả tang. Tại bản Kết luận định giá tài sản số 824

ngày 30/06/2015, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thành phố Móng

Cái kết luận: Tổng giá cá, tôm giống là 292.039.200 VNĐ (Hai trăm chín

mươi hai triệu, không trăm ba mươi chìn nghìn, hai trăm đồng), trong đó: cá

trị giá 215.700.000 VNĐ (Hai trăm mười lăm triệu, bảy trăm nghìn đồng),

tôm trị giá 76.339.200 VNĐ (Bảy mươi sáu triệu, ba trăm ba mươi chìn

nghìn, hai trăm đồng). Khi công an kiểm tra bắt giữ, toàn bộ số hàng hóa trên

không có hóa đơn, chứng từ mua bán. Tại bản cáo trạng số 124/KSĐT-HS

ngày 15/10/2015, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị cáo

Hoàng Bảo Trung về tội “Buôn lậu” theo quy định tại khoản 1 Điều 153

BLHS. Tại bản án số 120/2015/HSST ngày 25/11/2015 của TAND tỉnh

Quảng Ninh đã chấp nhận đề nghị truy tố của VKSND tỉnh Quảng Ninh; xét

xử và tuyên bố bị cáo Hoàng Bảo Trung phạm tội “Buôn lậu”, đồng thời áp

dụng điều 153 khoản 1 điểm a và điều 46 khoản 1 điểm g, p BLHS năm 1999,

xử phạt Hoàng Bảo Trung 09 tháng tù, thời hạn tính từ ngày bị bắt 03/7/2015.

Trong vụ án này, quyết định của TAND tỉnh Quảng Ninh về tội danh, khung

38

hình phạt và hình phạt là hoàn toàn đảm bảo theo đúng các quy định của Bộ

luật hình sự hiện hành đối với hành vi phạm tội của Hoàng Bảo Trung, khi

biết rõ việc buôn bán trái phép qua biên giới là phạm pháp những vẫn đưa các

thùng chứa cá, tôm giống trị giá 292.039.200 VNĐ (Hai trăm chín mươi hai

triệu, không trăm ba mươi chìn nghìn, hai trăm đồng) để vận chuyển từ Trung

Quốc về Việt Nam bán kiếm lời cho ông chủ của bị cáo Hoàng Bảo Trung đã

đủ yếu tố CTTP tội “Buôn lậu” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 153

BLHS với mức hình phạt tù quy định là từ 6 tháng đến 3 năm: a) Hàng

hóa...có giá trị từ 100.000.000 đến dưới 300.000.000đ.

2.2.2.2. Định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng đối với tội

buôn lậu: CTTP tăng nặng là CTTP mà ngoài dấu hiệu định tội về hành vi

quy định tại khoản 1 Điều 153 BLHS năm 1999 (sửa đổi năm 2009) hay hiện

nay là khoản 1 điều 188 (đối với cá nhân) và điểm a khoản 6 (đối với pháp

nhân thương mại) BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 còn có các dấu

hiệu định khung tăng nặng, nhằm xem xét cách thức, thủ đoạn, mức độ mà

hành vi phạm tội gây nguy hiểm cho xã hội. Các CTTP tăng nặng được quy

định tại khoản 2, 3 và khoản 4 Điều 153 BLHS năm 1999 hay hiện nay là

khoản 2, khoản 3 và khoản 4 điều 188 (đối với cá nhân), điểm b,c,d,đ khoản 6

(đối với pháp nhân thương mại) BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Định tội danh theo khung tăng nặng thứ nhất: Quy định tại khoản 2

Điều 153 BLHS năm 1999, gồm các hành vi: (điểm a) phạm tội có tổ chức;

(điểm b) có tính chất chuyên nghiệp; (điểm c) tái phạm nguy hiểm; vật phạm

pháp có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng (điểm d);

(điểm đ) hàng cấm có số lượng rất lớn; (điểm e) thu lợi bất chính lớn; (điểm

g) lợi dụng chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh hoặc hoàn cảnh đặc biệt khó khăn

khác; (điểm h) lợi dụng chức vụ, quyền hạn; (điểm i) lợi dụng danh nghĩa cơ

quan, tổ chức; (điểm k) phạm tội nhiều lần; (điểm l) gây hậu quả nghiêm

39

trọng. Hoặc hiện nay được quy định tại khoản 2 điều 188 BLHS năm 2015

(có nội dung thay đổi so với khoản 2 Điều 153 BLHS năm 1999).

Thực tế truy tố và xét xử tội buôn lậu ở Quảng Ninh giai đoạn 2014 –

2018 cho thấy việc định tội danh theo khung tăng nặng thứ nhất chủ yếu

thuộc trường hợp “Vật phạm pháp có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới

năm trăm triệu đồng”; chưa xảy ra đối với các trường hợp phạm tội có tổ

chức; có tính chất chuyên nghiệp; lợi dụng chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh

hoặc hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; lợi

dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; phạm tội nhiều lần; gây hậu quả nghiêm

trọng; Vật phạm pháp là bảo vật quốc gia. Đây là trường hợp quy định yếu tố

định lượng rất rõ ràng về giá trị tài sản vật phạm pháp nên rất dễ xác định

trong quá trình định tội danh, mặc dù trong một số vụ án, biểu hiện của người

phạm tội còn có nhiều điểm giống với các tình tiết khác quy định tại các điểm

khác của khoản này.

- Định tội danh theo khung tăng nặng thứ hai: Quy định tại khoản 3

Điều 153 BLHS năm 1999; hoặc hiện nay được quy định tại khoản 3 điều 188

BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

+ Theo quy định tại khoản 3 Điều 153 BLHS thì các hành vi: (điểm a)

Vật phạm pháp có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng; (điểm

b) Hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn; (điểm c) Thu lợi bất chính rất lớn;

(điểm d) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

+ Theo quy định tại khoản 3 Điều 188 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ

sung năm 2017 thì các hành vi: (điểm a) Vật phạm pháp trị giá từ 500.000.000

đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; (điểm b) Thu lợi bất chính từ 500.000.000

đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.

Thực tế truy tố và xét xử tội buôn lậu ở Quảng Ninh trong 5 năm từ

2014 đến 2018 cho thấy việc định tội danh theo khung tăng nặng thứ hai chỉ

xảy ra phổ biến ở trường hợp “Vật phạm pháp có giá trị từ năm trăm triệu

40

đồng đến dưới một tỷ đồng” là căn cứ chủ yếu; chưa xảy ra đối với các trường

hợp: Hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn; Thu lợi bất chính rất lớn; Gây hậu

quả rất nghiêm trọng. Có lẽ yếu tố “Vật phạm pháp có giá trị từ năm trăm

triệu đồng đến dưới một tỷ đồng” là yếu tố mà một mặt nó giúp các cơ quan

tiến hành tố tụng có thể trưng cầu giám định và cơ quan giám định hoàn toàn

có thể xác định một cách nhanh chóng, khách quan; tạo ra sự thống nhất cao

trong việc xem xét, đánh giá về tính chất, mức độ của tội phạm, thống nhất

trong việc định tội danh và áp dụng trách nhiệm hình sự trong quá trình giải

quyết vụ án; mặt khác có thể do vật phạm pháp có giá trị lớn nên thông

thường nó sẽ tạo ra khoản tiền lãi rất lớn (thu lợi bất chính rất lớn); đồng thời

vật phạm pháp có giá trị rất lớn được các đối tượng buôn lậu, nếu không được

các cơ quan chức năng phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời thì nó cũng sẽ gây

ra hậu quả rất nghiêm trọng đối với các khách thể được Nhà nước bảo vệ.

Ví dụ vụ án về buôn lậu phụ tùng xe ô tô: Tại bản án số 25/2017/STHS,

ngày 09/3/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh [21], cụ thể:

Năm 2011, Chen Chun Ying (Trần Xuân Oanh), Quốc tịch Trung Quốc

đến thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam bằng Giấy thông hành

xuất nhập cảnh và Hộ chiếu hợp pháp để buôn bán vòng bi, phụ tùng xe ô tô

nên đã ký hợp đồng thuê gian hàng của Công ty cổ phần khách sạn Hồng Vận

(có địa chỉ tại phường Ka Long, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh) phục

vụ việc kinh doanh và thuê Vũ Thị Hiền làm phiên dịch, giao dịch, bán hàng

cho mình. Đồng thời Ying nhờ Hiền đứng tên làm thủ tục đăng ký kinh doanh

mở cửa hàng, đến ngày 20/5/2011 được phòng Tài chính – kế hoạch thành

phố Móng Cái cấp Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh (tên biển hiệu:

Vòng Bi Anh Khôn; ngành nghề kinh doanh: bán buôn, bán lẻ vòng bi các

loại). Chen Chun Ying còn nhờ Hiền đứng tên mở một tài khoản số

8090205096360 tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt

Nam, Chi nhánh thành phố Móng Cái để giao dịch tiền với khách mua hàng.

41

Quá trình kinh doanh từ năm 2011 đến khi bị bắt giữ, toàn bộ hàng hóa được

đặt mua tại Trung Quốc, không có hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc,

thuê công ty chuyên vận chuyển hàng tại Trung Quốc vận chuyển, tập kết tại

Đông Hưng, Trung Quốc; sau đó Chen Chun Ying thuê một người phụ nữ

Việt Nam tên Sơn (không rõ nhân thân, địa chỉ) vận chuyển hàng trái phép

qua biên giới, không làm thủ tục Hải quan, không nộp thuế theo quy định và

giao cho Chen Chun Ying tại cửa hàng ở Móng Cái để bán cho khách hàng

Việt Nam với mục đích kiếm lời. Chen Chun Ying trả công cho Sơn 30.000

đồng/kiện hàng và trực tiếp chỉ đạo, điều hành toàn bộ hoạt động buôn bán,

kinh doanh tại cửa hàng.

Cũng từ năm 2011 đến khi bị bắt giữ, theo sự chỉ đạo của Chen Chun

Ying, Hiền trực tiếp giao dịch với khách hàng là người Việt Nam để bán hàng

tại cửa hàng và bán hàng qua điện thoại, trực tiếp đến Ngân hàng rút tiền về

đưa cho Chen Chun Ying khi khách mua hàng chuyển tiền vào tài khoản.

Trong quá trình làm thuê, Hiền biết rõ toàn bộ hàng hóa Chen Chun Ying

buôn bán đều có nguồn gốc từ Trung Quốc, được buôn lậu qua biên giới về

cửa hàng nhưng vẫn làm thuê cho Chen Chun Ying để lấy tiền công. Từ

khoảng cuối tháng 5/2015 đến tháng 02/2016, cũng theo chỉ đạo của Chen

Chun Ying, Hiền trực tiếp gọi điện thoại cho cho người phụ nữ tên Sơn

khoảng 4 đến 5 lần, để thuê Sơn vận chuyển hàng hóa từ Đông Hưng, Trung

Quốc nhập lậu đưa về cử hàng cho Chen Chun Ying. Quá trình kinh doanh

hàng nhập lậu, Chen Chun Ying còn trực tiếp thuê, trả tiền công cho nhiều

người đến cửa hàng làm công nhân bốc vác, đóng gói; đồng thời có 01 phụ nữ

người Trung Quốc giúp việc cho bị can Chen Chun Ying tại cửa hàng. Từ

năm 2011 số người công nhân thay đổi liên tục, đến thời điểm bị bắt, Chen

Chun Ying thuê 03 người gồm: Vi Văn Hơn (sinh năm 1995), Trần Việt Hợi

(sinh năm 1994) đều trú tại xã Hải Xuân, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng

42

Ninh và Dũng (chưa rõ nhân thân, địa chỉ) và trả lương cho mỗi người 05

triệu đồng/tháng.

Hồi 15 giờ 30 phút, ngày 15/3/2016, Phòng cảnh sát điều tra tội phạm

về kinh tế và tham nhũng, Công an tỉnh Quảng Ninh phối hợp với lực lượng

Hải quan, Biên phòng và Công an thành phố Móng Cái kiểm tra cửa hàng treo

biển A Khôn ở khu C, Công ty cổ phần khách sạn Hồng Vận, thuộc khu 3,

phường Ka Long, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, phát hiện xe ô tô tải

biển kiểm soát 29C-112.88 đang bốc chuyển hàng hóa vào trong cửa hàng.

Tại thời điểm kiểm tra, chủ cửa hàng là Chen Chun Ying, lái xe tải là Nguyễn

Đăng Khoa (sinh năm 1994, trú tại phường Ninh Dương, thành phố Móng

Cái, tỉnh Quảng Ninh) không xuất trình được giấy tờ, hóa đơn, chứng từ hợp

pháp chứng minh nguồn gốc của hàng hóa. Vật chứng thu giữ gồm: Thu giữ

3320 chiếc vòng bi các loại trên xe ô tô tải biển kiểm soát 29C-112.88 đang

được bốc chuyển vào trong cửa hàng; thu giữ trong cửa hàng: 43.405 chiếc

vòng bi các loại, 3.688 chiếc đèn pha các loại, 740 củ gạt nước xe ô tô con,

132 chiếc giảm chấn cầu xe tải, 84 chiếc củ đề xe các loại. (Quá trình điều tra,

đã xác định được: Đối với 3.320 chiếc vòng bi các loại trên xe ô tô tải biển

kiểm soát 29C-112.88 bị thu giữ vào ngày 15/3/2016 là do Chen Chun Ying

thuê người phụ nữ tên Sơn vận chuyển trái phép từ Đông Hưng, Trung Quốc

qua biên giới về cửa hàng; sau khi vận chuyển hàng hóa về thành phố Móng

Cái, Sơn thuê Nguyễn Đăng Khoa lái xe ô tô tải biển kiểm soát 29C-112.88

chở hàng từ khu vực chợ Vinh Cơ, thành phố Móng Cái đến cửa hàng vòng bi

Anh Khôn, Khoa không biết là hàng hóa buôn lậu. Trong lúc Nguyễn Đăng

Khoa đang giao vòng bi cho Chen Chun Ying tại cửa hàng thì bị các lực

lượng kiểm tra, thu giữ).

Tại kết luận đánh giá tài sản ngày 03/11/2016 của Hội đồng định giá tài

sản trong tố tụng hình sự tỉnh Quảng Ninh kết luận: Toàn bộ hàng hóa thu giữ

của Chen Chun Ying trong vụ án đều do Trung Quốc sản xuất, chưa qua sử

43

dụng, tổng trị giá là 804.377.500 đồng (Tám trăm linh bốn triệu, ba trăm bảy

mươi bảy nghìn, năm trăm đồng).

Kết quả xác minh tại Cục Hải quan tỉnh Quảng Ninh thể hiện: Từ tháng

5/2011 đến tháng 4/2016, các Chi cục Hải quan trực thuộc Cục Hải quan tỉnh

Quảng Ninh không làm thủ tục nhập khẩu cho lô hàng nào của cơ sở kinh

doanh vòng bi Anh Khôn.

Tại bản cáo trạng số 124/KSĐT-HS ngày 28/11/2016 của VKSND tỉnh

Quảng Ninh đã truy tố các bị can Chen Chun Ying và Vũ Thị Hiền tội “Buôn

lậu” theo điểm a, khoản 3 điều 153 BLHS năm 1999 (Vật phạm pháp có giá

trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng).

Tại phiên tòa, đại diện VKSND tỉnh Quảng Ninh vẫn giữ nguyên quan

điểm như đã truy tố và đề nghị xử phạt: Bị cáo Chen Chun Ying mức án từ 07

năm đến 08 năm tù và đề nghị xử phạt bị cáo Vũ Thị Hiền 30 tháng đến 36

tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm. Các luật sư

bào chữa cho các bị cáo cùng có quan điểm đồng ý về tội danh mà Viện Kiểm

sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã truy tố. Các bị cáo cũng khai nhận phù hợp

về hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của các nhân chứng, phù

hợp với các tài liệu, chứng cứ được điều tra thu thập có trong hồ sơ; bị cáo

Chen Chun Ying thừa nhận đã vi phạm pháp luật Việt Nam về buôn lậu hàng

hóa; bị cáo Vũ Thị Hiền biết toàn bộ số thiết bị phụ tùng ô tô được sản xuất

tại Trung Quốc, đều được vận chuyển bất hợp pháp qua biên giới vào Việt

Nam, nhưng do hoàn cảnh làm thuê để kiếm sống (được Chen Chun Ying trả

lương 05 triệu đồng/tháng) nên đã giúp Ying buôn bán vi phạm pháp luật.

Tại bản án số 25/2017/HSST ngày 09/3/2017 của TAND tỉnh Quảng

Ninh đã chấp nhận đề nghị truy tố của VKSND tỉnh Quảng Ninh; xét xử và

tuyên bố bị cáo Chen Chun Ying (Trần Xuân Oanh) và bị cáo Vũ Thị Hiền

phạm tội “Buôn lậu”. Đồng thời áp dụng điểm a, khoản 3 điều 153; điểm p

khoản 1 điều 46; điều 20, điều 53 BLHS năm 1999, xử phạt Chen Chun Ying

44

(Trần Xuân Oanh) 07 năm tù, thời hạn tính từ ngày bị bắt 01/4/2016. Áp dụng

điểm a, khoản 3 điều 153; điểm p khoản 1 điều 46; điều 20, điều 53 BLHS

năm 1999; xử phạt bị cáo Vũ Thị Hiền 03 năm tù cho hưởng án treo, thời gian

thử thách 05 năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm,....

Trong vụ án này, quyết định của TAND tỉnh Quảng Ninh về tội danh,

khung hình phạt và hình phạt là hoàn toàn đảm bảo theo đúng các quy định

của BLHS hiện hành đối với hành vi phạm tội của Chen Chun Ying (Trần

Xuân Oanh) và Vũ Thị Hiền, khi biết rõ việc buôn bán trái phép qua biên giới

là phạm pháp nhưng vẫn thực hiện hành vi buôn lậu với giá trị hàng hóa lớn

(Vật phạm pháp có tổng trị giá là 804.377.500 đồng). Vụ án được xác định là

đồng phạm đơn giản, trong đó Chen Chun Ying (Trần Xuân Oanh) có vai trò

đầu vụ; Vũ Thị Hiền đồng phạm với vai trò thứ yếu, là người làm thuê, phụ

thuộc hoàn toàn và chịu sự chỉ đạo của Chen Chun Ying để giúp Chen Chun

Ying bán hàng.

- Định tội danh theo khung tăng nặng thứ ba: Quy định tại khoản 4

Điều 153 BLHS năm 1999 và khoản 4 điều 188 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ

sung năm 2017, cụ thể:

Theo quy định tại khoản 4 Điều 153 BLHS năm 1999 thì các hành vi

sau đây sẽ được xem xét định tội danh tại khoản này: (điểm a) Vật phạm pháp

có giá trị từ một tỷ đồng trở lên; (điểm b) Thu lợi bất chính đặc biệt lớn;

(điểm c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 188 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung

năm 2017 thì các hành vi sau đây sẽ được xem xét định tội danh tại khoản

này: (điểm a) Vật phạm pháp trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên; (điểm b) Thu

lợi bất chính 1.000.000.000 đồng trở lên; (điểm c) Lợi dụng chiến tranh, thiên

tai, dịch bệnh hoặc hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác.

Thực tế truy tố và xét xử tội buôn lậu ở Quảng Ninh giai đoạn 2014 –

2018 cho thấy việc định tội danh vào khoản 4 Điều 153 BLHS năm 1999 là

45

những vụ án mà các cơ quan tố tụng thường lấy điểm a khoản 4 điều 153

BLHS năm 1999 hoặc điểm a khoản 4 điều 188 BLHS năm 2015 làm căn cứ

chính; đây thường là những vụ án phức tạp, kéo dài; cá biệt có vụ án mà

TAND phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung; căn cứ để định tội danh theo khung

tăng nặng thường lấy căn cứ “Vật phạm pháp có giá trị từ một tỷ đồng trở

lên” làm căn cứ chủ yếu; các căn cứ khác thường không được xác định, không

được đề cập mặc dù có thể xác định được một cách tương đối về khoản lợi bất

chính mà các đối tượng đã thu được.

Ví dụ về vụ án buôn lậu nhiều loại hàng hóa từ Trung Quốc về Việt

Nam do Lương Quang Thắng (tức Thắng Cành cầm đầu): Tại bản án số

35/2017/STHS, ngày 29/3/2017 của TAND tỉnh Quảng Ninh [22], cụ thể:

Khoảng năm 2011, Lương Quang Thắng quen biết với Đào Thị Thu

Hoa, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại và xây dựng Tân Vinh Hoa,

chuyên làm dịch vụ vận chuyển hàng hóa trên tuyến đường hải Phòng –

Quảng Ninh. Hoa đã chủ động liên lạc, đặt vấn đề, thỏa thuận làm ăn với

Tháng trong việc vận chuyển hàng nhập lậu được đưa từ Trung Quốc về Việt

Nam. Hoa và Thắng thỏa thuận: Thắng có nhiệm vụ tìm khách có hàng nhập

lậu cần chuyển từ Móng Cái – Quảng Ninh đi các tỉnh, sau đó gom hàng

chuyển cho Hoa chở đi giao cho các khách hàng. Hoa và Thắng thống nhất

tiền công vận chuyển được tính theo mỗi kiện hàng từ khoảng 200.000 đồng

đến 600.000 đồng. Thắng trực tiếp thu tiền công vận chuyển của các chủ hàng

và được hưởng từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng/kiện hàng, số còn lại trả cho

Hoa. Từ ngày 20/01/2012 đến ngày 27/01/2014, Thắng đã chuyển khoản vào

tài khoản số 2111205013101 và tài khoản số 0031000651807 của Hoa tại

Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Hồng

Bàng và Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam tổng số 16 lần, với tổng

số tiền là 1.180.000.000 đồng.

46

Đến tháng 8/2013, Thắng và Hoa thỏa thuận: Thắng chịu trách nhiệm

nhận mua, thu gom và vận chuyển hàng hóa nhập lậu từ Trung Quốc về thành

phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, Hoa chịu trách nhiệm vận chuyển đi các tỉnh

giao cho khách hàng. Thực hiện theo thỏa thuận, Thắng đã tổ chức đường dây

thu gom hàng hóa bên Trung Quốc, chuyển trái phép về Việt Nam bằng

đường sông từ cửa khẩu Biên Mậu – Trung Quốc đến bế đò sông Ka Long,

khu vực biên giới Việt Nam – Trung Quốc, địa phận phường Hải Hòa, thành

phố Móng Cái, sau đó đưa về các kho chợ ASEAN, kho Cây Dừa, giao cho

Hoa đưa đi các tỉnh khác tiêu thụ và đưa đi giao hàng tại thành phố Móng Cái.

Để thực hiện đưa hàng hóa từ Trung Quốc về Việt Nam tiêu thụ, Thắng

thuê đoạn đường xuống Bến đò sông Ka Long, khu vực biên giới Việt Nam –

Trung Quốc là đất của Nguyễn Thị Huyên với số tiền 10.000.000 đồng/tháng,

thời hạn 05 năm, từ 2013 đến 2018 với mục đích vận chuyển hàng hóa từ cửa

khẩu Biên Mậu về bến sông Ka Long. Thắng thỏa thuận với Nguyễn Thanh

Phương và Trần Thị Tuyến là lái đò trực tiếp vận chuyển hàng hóa từ cửa

khẩu Biên Mậu về bến sông Ka Long với giá 900.000 đồng/chuyến, bố trí

thêm đò chở hàng cho Thắng, đồng thời thông qua Phương, Thắng nắm bắt

được mực nước sông Ka Long lên, xuống để bố trí việc đưa hàng từ cửa khẩu

Biên Mậu – Trung Quốc về bến sông Ka Long.

Lương Quang Thắng sử dụng nhà riêng tại khu 4, phường Hải Hòa,

thành phố Móng Cái và từ tháng 03/2014 thuê thêm một phần đất của bà Tạ

Thị Hường để làm kho chứa hàng và thuê thêm Lê Văn Thụy làm bảo vệ,

quản lý hàng hóa tại kho Cây Dừa. Đào Thị Thu Hoa là người trả tiền công

cho Lê Văn Thụy, đồng thời nhờ Thụy ký Hợp đồng thuê đất với bà Tạ Thị

Hường (kho Cây Dừa) và có trách nhiệm thanh toán tiền thuê đất với bà

Hường. Từ tháng 4/2014, Thắng thuê thêm 05 ki ốt và phần đất của Ban Quản

lý chợ ASEAN thuộc phường Hải Hòa, thành phố Móng Cái để làm kho chứa

hàng hóa (kho ASEAN).

47

Lương Quang Thắng mua và sử dụng 05 xe ô tô tải; thuê 03 lái xe là

Đàm Trì Mạnh, Dương Văn Quảng và Lê Văn Hùng với tiền công là

6.000.000 đồng/người/tháng để lái các xe của Thắng làm phương tiện sử dụng

khi vận chuyển hàng hóa từ bến sông Ka Long về kho Asean và kho Cây

Dừa, đưa hàng hóa đi tiêu thụ. Ngoài các lái xe thuê theo tháng, tùy theo số

lượng hàng hóa, Thắng thuê thêm một số lái xe khác chở theo từng chuyến.

Đào Thị Thu Hoa mua và sử dụng 02 ô tô tải thuê Nguyễn Văn Sình và

Lê Văn Dân làm lái xe chở hàng theo từng chuyến từ Hải Phòng đến Quảng

Ninh và ngược lại, mỗi chuyến Hoa trả tiền công là 600.000 đồng.

Cuối tháng 10/2014, sau khi tham khảo ý kiến của Nguyễn Thanh

Phương về mực nước lên xuống của sông Ka Long; ngày 01/11/2014, Lương

Quang Thắng điện thoại cho Trần Thị Tuyến đề nghị Tuyến sử dụng 02 đò

của gia đình, đồng thời thuê cho Thắng thêm 01 đò nữa để vận chuyển hàng

hóa từ cửa khầu Biên Mậu – Trung Quốc về bến sông Ka Long vào thời điểm

đêm ngày 01/11 rạng sáng ngày 02/11/2014; Tuyến thông báo đò của gia đình

Tuyến bị hỏng không chở được và trực tiếp thuê các đò khác (đò của Trương

Văn Dũng) chở hàng cho Thắng. Đến rạng sáng ngày 02/11/2014, khi các đò

chở hàng về bến đò sông Ka Long, thuộc khu 4, phường Hải Hòa, thành phố

Móng Cái, Thắng chỉ đạo các lái xe Đàm Trì Mạnh, Dương Văn Quảng và Lê

Văn Hùng, đồng thời thuê thêm Lê Hồng Phong cùng một số đối tượng khác

(hiện không xác định được nhân thân, địa chỉ) lái xe ra bến đò sông Ka Long

chở hàng hóa về kho Cây Dừa và kho Asean. Đến khoảng 04 giờ 30 phút

ngày 02/11/2014, Thắng trực tiếp chỉ đạo bốc hàng, vận chuyển vào kho Cây

Dừa và kho Asean thì bị phát hiện, bắt giữ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ

Công an đã thu giữ 1.107 kiện hàng tại khu vực bến đò sông Ka Long và kho

Cây Dừa , kho Asean.

Ngoài số hàng hóa thu giữ tại khu vực bến đò sông Ka Long và kho

Cây Dừa , kho Asean; Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an làm rõ: Ngày

48

01/11/2014, Lương Quang Thắng chỉ đạo Lê Văn Thụy chuyển số hàng hóa

tồn của kho Cây Dừa qua Trạm Kiểm soát liên hợp Km15, Quốc lộ 18, tỉnh

Quảng Ninh để giao cho Đào Thị Thu Hoa đi tiêu thụ. Lê văn Thụy điện thoại

cho Đàm Trì mạnh và Dương Văn Quảng lái xe đến kho Cây Dừa chở hàng

hóa đến bãi đất trống cách Trạm Kiểm soát liên hợp Km15 khoảng 4 đến 5

cây số để sang hàng lên xe của Nguyễn Văn Sình. Khi Nguyễn Văn Sình cùng

Nguyễn Xuân Tùng là người áp tải hàng hóa chở hàng đến khu vực thành phố

Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh thì bị kiểm tra, thu giữ 130 kiện hàng hóa trên xe.

Cơ quan cảnh sát điều tra ra quyết định trưng cầu định giá tài sản trong

tố tụng hình sự. Tại kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự ngày

26/2/2015 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Quảng

Ninh, kết luận: Hàng hóa định giá bao gồm các mặt hàng tiêu dùng, có tổng

trị giá là: 5.043.283.203 đồng; trị giá hàng hóa trên xe do Nguyễn Văn Sình

điều khiển là 312.326.890 đồng. Tổng số hàng hóa thu giữ của Lương Quang

Thắng có giá trị 5.355.660.093 đồng.

Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đã tiến hành bắt khẩn cấp đối với

Dương Văn Quảng, Đàm Trì Mạnh, Nguyễn Hồng Phong, Lê Văn Thụy,

Nguyễn Thanh Phương, Nguyễn văn Sình và Nguyễn Xuân Tùng về hành vi

“Buôn lậu”. Đối với Lương Quang Thắng bỏ trốn, đến ngày 10/11/2014 đã

đến cơ quan Công an đầu thú.

Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đã tiến hành khởi tố vụ án, khởi

tố bị can. Quá trình điều tra và điều tra bổ sung đã làm rõ hành vi của Lương

Quang Thắng và đồng bọn phạm tội “buôn lậu”, bên cạnh đó có 01 đối tượng

là Trương Văn Dũng phạm tội “vận chuyển trái phép hàng hóa hàng hóa qua

biên giới”. Thắng cùng đồng bọn đều khai báo và thừa nhận và về hành vi

buôn bán, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới để bán kiếm lời.

Tại bản cáo trạng số 02/CT–VKSTC-V3 ngày 05/12/2016 của VKSND

tối cao đã truy tố các bị can Lương Quang Thắng, Đào Thị Thu Hoa, Trần Thị

49

Tuyến, Nguyễn Thanh Phương, Dương Văn Quảng, Đàm Trì Mạnh, Lê Mạnh

Hùng, Lê Văn Thụy về tội “Buôn lậu” theo điểm a, khoản 4 điều 153 Bộ luật

hình sự năm 1999; Truy tố Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Văn Sình về tội

“Buôn lậu” theo điểm d, khoản 2 điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999; Truy tố

Trương Văn Dũng về tội “Vận chuyển trái phép hàng hóa hàng hóa qua biên

giới” theo điểm a, khoản 2 điều 154 BLHS năm 1999.

Tại phiên tòa công khai ngày 29/3/2017, các bị cáo cũng khai nhận phù

hợp về hành vi phạm tội của mình của mình, phù hợp với lời khai của các

nhân chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ được điều tra thu thập có

trong hồ sơ; các bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội, biết là phạm tội

nhưng vẫn thực hiện. Tại bản án số 25/2017/HSST ngày 09/3/2017 của

TAND tỉnh Quảng Ninh đã tuyên bố các bị cáo Lương Quang Thắng, Đào Thị

Thu Hoa, Trần Thị Tuyến, Nguyễn Thanh Phương, Dương Văn Quảng, Đàm

Trì Mạnh, Lê Mạnh Hùng, Lê Văn Thụy, Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Văn

Sình phạm tội “Buôn lậu”. Tuyên bố Trương Văn Dũng phạm tội “Vận

chuyển trái phép hàng hóa hàng hóa qua biên giới”.

Đồng thời áp dụng điểm a, khoản 4 điều 153 BLHS năm 1999; Nghị

quyết số 144/2016/QH 13; điểm a khoản 4 điều 188 BLHS năm 2015 và các

tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng theo quy định của BLHS năm 1999,

BLHS năm 2015 để quyết định hình phạt đối với các bị cáo Lương Quang

Thắng, Đào Thị Thu Hoa, Trần Thị Tuyến, Nguyễn Thanh Phương, Dương

Văn Quảng, Đàm Trì Mạnh, Lê Mạnh Hùng, Lê Văn Thụy.

Áp dụng điểm d, khoản 2 điều 153 BLHS năm 1999; Nghị quyết số

144/2016/QH 13; điểm s,x khoản 1 điều 51 BLHS năm 2015 và các tình tiết

giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng theo quy định của BLHS năm 1999, BLHS năm

2015 để quyết định hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Hồng Phong,

Nguyễn Văn Sình. Áp dụng điểm a, khoản 2 điều 154 BLHS năm 1999; Nghị

50

quyết số 144/2016/QH 13; khoản 3 điều 7; điểm s,x khoản 1 điều 51 BLHS

năm 2015 để quyết định hình phạt đối với các bị cáo Trương Văn Dũng.

2.2.2.3. Một số vấn đề vướng mắc trong việc định tội danh tội buôn lậu:

Qua nghiên cứu thực tiễn trong việc định tội danh đối với tội buôn lậu tại tỉnh

Quảng Ninh, giai đoạn 2014-2018 và đặc biệt là giai đoạn 2014-2017 là giai

đoạn thực hiện theo BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì thấy

các cơ quan tiến hành tố tụng gặp rất nhiều khó khăn trong xác định một số

tình tiết mà theo quy định tại điều 153 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung

năm 2009) thì đây là các tình tiết định khung tăng nặng, cụ thể:

- Thứ nhất: Vướng mắc trong việc xác định tình tiết hàng cấm có số

lượng lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn: Trên thực tế, theo quy định tại Phụ lục 1-

Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh (tại Văn bản hợp nhất số

19/VBHN-BCT ngày 09/05/2014 quy định chi tiết luật thương mại về hàng

hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện)

bao gồm rất nhiều loại hàng cấm, tuy nhiên xác định thế nào là hàng cấm có

số lượng lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn lại chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ

thể. Riêng đối với hàng cấm là pháo nổ, tại Thông tư liên tịch số

06/2008/TTLTBCA-VKSNDTC-TANDTC “Hướng dẫn việc truy cứu trách

nhiệm hình sự đối với các hành vi sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử

dụng trái phép pháo nổ và thuốc pháo” đã có hướng dẫn cụ thể việc xác định

thế nào là buôn lậu pháo nổ với số lượng lớn, rất lớn, đặc biệt lớn. Tại các

khoản 2.3, 2.4, 2.5 Điều 2 Mục III của Thông tư liên tịch này có quy định như

sau: 2.3. Người nào mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép pháo nổ có số

lượng từ 10 kg đến dưới 50 kg (được coi là số lượng lớn) hoặc dưới số lượng

đó, nhưng đã bị xử phạt hành chính, hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì bị

truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 tương ứng của Điều 153, Điều 154

hoặc Điều 155 BLHS. 2.4. Người nào mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép

pháo nổ có số lượng từ 50 kg đến dưới 150 kg (được coi là số lượng rất lớn)

51

thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 tương ứng của Điều 153,

Điều 154 hoặc Điều 155 BLHS. 2.5. Người nào mua bán, vận chuyển, tàng

trữ trái phép pháo nổ có số lượng từ 150 kg trở lên (được coi là số lượng đặc

biệt lớn) thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 tương ứng của Điều

153, Điều 154 hoặc Điều 155 BLHS. Một loại hàng cấm khác là thuốc lá điếu

nhập lậu, pháp luật hiện hành đã có văn bản về việc xử lý hình sự căn cứ theo

quy định tại Điều 25 Nghị định số 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015 của

Chính phủ (Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số

185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013) quy định xử phạt vi phạm trong hoạt

động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng. Tuy nhiên, theo Điều 25 chỉ có hướng dẫn cụ thể đối với

việc xử lý hành chính hành vi buôn bán thuốc lá nhập dưới 500 bao. Đối với

hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu từ

500 bao trở lên, Điều 25 quy định sẽ bị xem xét xử lý hình sự theo khoản 1,

Điều 155 BLHS (căn cứ khoản 2 Điều 25, Nghị định 124/2015/NĐCP). Cũng

như các loại hàng cấm khác, việc xử lý hình sự đối với tình tiết định khung

tăng nặng, như: Hàng phạm pháp có số lượng lớn (khoản 1 Điều 155); Hàng

phạm pháp có số lượng rất lớn (điểm đ khoản 2 Điều 155); Hàng phạm pháp

có số lượng đặc biệt lớn (khoản 3, Điều 155 BLHS) là chưa có văn bản hướng

dẫn cụ thể. Điều này làm cho các CQTHTT gặp nhiều khó khăn khi xem xét,

xác định và lựa chọn định tội danh theo CTTP nào.

- Thứ hai: Vướng mắc trong việc xác định tình tiết thu lợi bất chính lớn,

rất lớn hoặc đặc biệt lớn: Trên thực tế chưa có văn bản nào của cơ quan Nhà

nước có thẩm quyền hướng dẫn cách xác định tình tiết thu lợi bất chính lớn,

rất lớn hay đặc biệt lớn đối với tội buôn lậu; vì vậy trong hầu hết các vụ án

buôn lậu thì việc xác định TNHS của người phạm tội chủ yếu căn cứ vào giá

trị hàng phạm pháp theo kết quả định giá hàng hóa của hội đồng định giá tài

sản trong tố tụng hình sự. Việc các bị cáo đã thu lợi bất chính là bao nhiêu

52

thường không xác định được nên ít được sử dụng làm căn cứ định tội danh.

Thực tế trên địa bản tỉnh Quảng Ninh, giai đoạn 2014-2017 đã đưa ra xét xử

như một số vụ buôn lậu lớn, hoạt động trong thời gian dài, lượng hàng hóa

thu giữ cũng rất lớn như “Vụ án buôn lậu nhiều loại hàng hóa từ Trung Quốc

về Việt Nam do Lương Quang Thắng (tức Thắng Cành): Tại bản án số

35/2017/STHS, ngày 29/3/2017 của TAND tỉnh Quảng Ninh”, các CQTHTT

không thể xác định số tiền thu lợi bất chính là bao nhiêu mà chỉ tính được giá

trị hàng phạm pháp làm căn cứ định khung tăng nặng, do vậy chưa đánh giá

đúng mức độ nguy hiểm cho xã hội để có đường lối xử lý phù hợp.

- Thứ ba: Vướng mắc trong việc xác định tình tiết gây hậu quả nghiêm

trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng đối với tội buôn lậu. Song

trong suốt thời gian thực hiện BLHS năm 1999, chưa có văn bản hướng dẫn

của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng,

rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng do hành vi buôn lậu gây ra nên rất

khó khăn trong định tội danh buôn lậu.

Tuy nhiên, các vướng mắc nêu trên đã được tiếp thu, nghiên cứu và sửa

đổi, bổ sung thông qua việc ban hành ban hành BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ

sung năm 2017) thay thế cho BLHS năm 1999. Các tình tiết tăng nặng định

khung hình phạt mang tính chất định tính trong tội buôn lậu (điều 153) đã

được lượng hóa như: “thu lời bất chính lớn/rất lớn/đặc biệt lớn”. Đồng thời

với đó, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cũng bỏ đi những tình

tiết tăng nặng khác mang tính chất định tính như: “gây hậu quả nghiêm

trọng/rất nghiêm trọng/đặc biệt nghiêm trọng”, giúp áp dụng pháp luật dễ

dàng hơn trong thực tiễn định tội danh.

2.2.2.4. Thực trạng bỏ lọt tội phạm trong thực tiễn định tội danh đối với

tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

Qua nghiên cứu thực tiễn định tội danh đối với tội buôn lậu trên địa bàn

tỉnh Quảng Ninh cho thấy vẫn còn việc bỏ lọt tội phạm trong vụ án buôn lậu,

53

mà tội phạm bị bỏ lọt chủ yếu là đối tượng thực hiện hành vi vận chuyển trái

phép hàng hóa qua biên giới. Điển hình như vụ án “buôn lậu phụ tùng xe ô

tô”, tại bản án số 25/2017/STHS, ngày 09/3/2017 của TAND tỉnh Quảng

Ninh, đã nêu tại mục 2.2.2.2. chương này:

... Chen Chun Ying thuê một người phụ nữ Việt Nam tên Sơn (không rõ

nhân thân, địa chỉ) vận chuyển hàng trái phép qua biên giới, không làm thủ

tục Hải quan, không nộp thuế theo quy định và giao cho Chen Chun Ying tại

cửa hàng ở Móng Cái để bán cho khách hàng Việt Nam với mục đích kiếm

lời. Chen Chun Ying trả công cho Sơn 30.000 đồng/ kiện hàng và trực tiếp chỉ

đạo, điều hành toàn bộ hoạt động buôn bán, kinh doanh tại cửa hàng.

...Từ khoảng cuối tháng 5/2015 đến tháng 02/2016, cũng theo chỉ đạo

của Chen Chun Ying, Hiền trực tiếp gọi điện thoại cho cho người phụ nữ tên

Sơn khoảng 4 đến 5 lần, để thuê Sơn vận chuyển hàng hóa từ Đông Hưng,

Trung Quốc nhập lậu đưa về cửa hàng cho Chen Chun Ying.

....Hồi 15 giờ 30 phút, ngày 15/3/2016, Phòng cảnh sát điều tra tội phạm

về kinh tế và tham nhũng, Công an tỉnh Quảng Ninh phối hợp với lực lượng

Hải quan, Biên phòng và Công an thành phố Móng Cái kiểm tra cửa hàng,

phát hiện xe ô tô tải biển kiểm soát 29C-112.88 đang bốc chuyển hàng hóa

vào trong cửa hàng. Đối với các loại hàng hóa trên xe ô tô tải biển kiểm soát

29C-112.88 bị thu giữ vào ngày 15/3/2016 là do Chen Chun Ying thuê người

phụ nữ tên Sơn vận chuyển trái phép từ Trung Quốc qua biên giới về cửa

hàng; sau khi vận chuyển hàng hóa về thành phố Móng Cái, Sơn thuê Nguyễn

Đăng Khoa lái xe ô tô tải biển kiểm soát 29C-112.88 chở hàng từ khu vực chợ

Vinh Cơ, thành phố Móng Cái đến cửa hàng vòng bi Anh Khôn, Khoa không

biết là hàng hóa buôn lậu. Trong lúc Nguyễn Đăng Khoa đang giao vòng bi

cho Chen Chun Ying tại cửa hàng thì bị các lực lượng kiểm tra, thu giữ.

54

Tại bản cáo trạng số 124/KSĐT-HS ngày 28/11/2016 của VKSND tỉnh

Quảng Ninh đã truy tố các bị can Chen Chun Ying và Vũ Thị Hiền tội “Buôn

lậu” theo điểm a, khoản 3 điều 153 BLHS năm 1999.

Cũng tại bản cáo trạng này (trang 5) có đoạn nêu: “Đối với người đàn

ông Trung Quốc tên A Khôn (bị can Chen Chun Ying khai là người thuê và

chỉ đạo việc Chen Chun Ying kinh doanh hàng hóa buôn lậu tại Việt Nam);

người phụ nữ tên Sơn là người được bị can Chen Chun Ying thuê vận chuyển

hàng nhập lậu từ Trung Quốc về thành phố Móng Cái; người phụ nữ Trung

Quốc tên Hồ Anh (bị can Hiền khai là người giúp việc cho Chen Chun Ying

tại cửa hàng, bị can Chen Chun Ying khai là người quản lý tiền bán hàng cho

A Khôn) và người thanh niên tên Dũng được Chen Chun Ying thuê bốc xếp,

đóng gói hàng hóa, nhưng không rõ nhân thân, địa chỉ nên không có căn cứ để

điều tra, xử lý”. Ở đây chỉ xét riêng trường hợp người phụ nữ tên Sơn, là

người được Ying thuê vận chuyển hàng nhập lậu từ Trung Quốc về thành phố

Móng Cái trong suốt thời gian từ 2011 đến 2016, do đó giữa Ying và Hiền với

người phụ nữ tên Sơn đã nhiều lần gặp nhau, nhiều lần giao dịch với nhau, có

số điện thoại của nhau, có sự tin tưởng nhau nên mới giao cho vận chuyển

hàng từ nhập lậu từ Trung Quốc về thành phố Móng Cái trong suốt thời gian

5 năm; tuy nhiên các CQTHTT viện dẫn lý do là không rõ nhân thân, địa chỉ

nên không có căn cứ để điều tra, xử lý. Tác giả cho rằng có dấu hiệu bỏ lọt tội

phạm, cụ thể đối với trường hợp người phụ nữ tên Sơn với tội danh “Vận

chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới” theo điều 154 BLHS năm

1999; nguyên nhân do các CQTHTT không quyết liệt làm đến cùng.

Tóm lại, qua nghiên cứu định tội danh tội buôn lậu tại tỉnh Quảng Ninh

giai đoạn 2014 - 2018 cho thấy các CQTHTT đã tuân thủ nghiêm chỉnh điều

153 BLHS năm 2009 và điều 188 BLHS năm 2015 cũng như các quy định có

liên quan của BLTTHS; có sự nhận thức đúng đắn, đầy đủ các tình tiết của

hành vi phạm tội đã xảy ra, áp dụng chính xác nội dung của các quy phạm

55

pháp luật trong điều luật về tội buôn lậu để điều tra, truy tố, xét xử tội buôn

lậu theo quy định. Tuy nhiên, cũng vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc

trong định tội danh tội buôn lậu liên quan đến một số tình tiết định khung tăng

nặng như như 3 nội dung vướng mắc đã phân tích ở trên; bên cạnh đó còn có

một số khó khăn khác mang tính đặc thù liên quan đến các đối tượng phạm tội

là người nước ngoài, do đó trong quá trình định tội danh các CQTHTT phải

thực hiện nhiều quy trình, thủ tục, dẫn đến thường kéo dài thời hạn xử lý vụ

án hoặc một số trường hợp được xác định là có liên quan song không xử lý

được do không xác định được nhân thân, địa chỉ...làm hạn chế, ảnh hưởng đến

hiệu quả công tác đấu tranh với tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh.

2.3. Áp dụng các hình thức trách nhiệm hình sự đối với tội buôn lậu

Áp dụng các hình thức TNHS đối với tội buôn lậu thực chất là chủ thể

tiến hành tố tụng căn cứ vào quy định của pháp luật hình sự, đối chiếu với

hành vi phạm tội và các yếu tố khác có liên quan theo quy định để quyết định

áp dụng loại hình phạt, mức phạt cụ thể và áp dụng các biện pháp tư pháp.

- Về hình phạt: Đối với tội buôn lậu, BLHS năm 2015 quy định hình

phạt chính gồm phạt tiền, tù có thời hạn (bỏ hình phạt tù chung thân so với

BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009) và hình phạt bổ sung gồm phạt

tiền (khi không áp dụng là hình phạt chính), cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm

hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu

một phần hoặc toàn bộ tài sản đối với người phạm tội. Đối với pháp nhân

(chưa được quy định trong BLHS năm 1999); Hình phạt chính bao gồm: Phạt

tiền, Đình chỉ hoạt động có thời hạn, Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn; Hình phạt

bổ sung bao gồm: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất

định, Cấm huy động vốn, Phạt tiền - khi không áp dụng là hình phạt chính.

- Về các biện pháp tư pháp: Điều 46 BLHS năm 2015 quy định:

56

+ Đối với người phạm tội: (a) Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến

tội phạm; (b) Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công

khai xin lỗi; (c) Bắt buộc chữa bệnh.

+ Đối với pháp nhân thương mại phạm tội: (a) Tịch thu vật, tiền trực

tiếp liên quan đến tội phạm; (b) Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt

hại; buộc công khai xin lỗi; (c) Khôi phục lại tình trạng ban đầu; (d) Thực

hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra.

+ Đối với tội buôn lậu, biện pháp tư pháp chủ yếu được áp dụng là Tịch

thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm.

2.3.1. Kết quả thực hiện quyết định hình phạt đối với tội buôn lậu

trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

Trong 5 năm, từ 2014 đến hết năm 2018, TAND 2 cấp ở tỉnh Quảng

Ninh đã đưa ra xét xử 47 vụ bằng 92 bị cáo (trong đó, có một số bị cáo là

người nước ngoài); chưa có vụ án nào được đưa ra xét xử mà chủ thể tội

phạm là pháp nhân thương mại [28]. Khi quyết định hình phạt đối với tội

phạm tội buôn lậu, TAND hai cấp ở Quảng Ninh đã nghiêm túc vận dụng

đúng các nguyên tắc quyết định hình phạt, căn cứ quyết định hình phạt thông

qua 04 căn cứ, bao gồm: Căn cứ vào các quy định của BLHS; Căn cứ vào tính

chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; Căn cứ vào nhân

thân người phạm tội; Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS.

Loại hình phạt chính được áp dụng là hình phạt tù có thời hạn; chưa có

trường hợp nào được áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính. Trong áp

dụng hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn, chưa có trường hợp nào bị

áp dụng mức hình phạt 20 năm tù, tù chung thân; bên cạnh đó, số lượng bị

cáo được hưởng án treo cũng chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ.

Loại hình phạt bổ sung được áp dụng chủ yếu là phạt tiền.

57

Để nhìn nhận rõ hơn về nội dung quyết định hình phạt đối với tội buôn

lậu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, sau đây tác giả xin được viện dẫn, phân

tích, đánh giá trên cơ sở vụ án điển hình tại tỉnh Quảng Ninh, năm 2018:

Ví dụ về vụ án buôn lậu pháo nổ (hàng cấm có số lượng lớn); theo bản

án số 16/2018/HS-ST, ngày 09/02/2018 của TAND thành phố Móng Cái, tỉnh

Quảng Ninh [23], như sau: Ngày 08/12/2017, Tống Thị Hoài Thương (sinh

năm 1995) xuất cảnh sang thành phố Đông Hưng – Trung Quốc gặp người

đàn ông tên A Nhì (không rõ lai lịch, địa chỉ) đưa 3.400.000 đồng tiền Việt

Nam để đặt mua 05 thùng pháo trứng với giá 8.000 đồng/quả và 05 thùng

pháo dàn loại 36 lỗ với giá 180.000 đồng/hộp, mục đích để mang về thành

phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh để bán cho đối tượng tên Tuấn (không rõ lai

lịch, địa chỉ) kiếm lời. Đến khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 09/12/2017, A Nhì

gọi điện thoại bảo Thương đi ra bờ sông biên giới ở bến Xuồng, thuộc khu 3,

phường Hải Hòa, thành phố Móng Cái để nhận pháo; thương đồng ý và đi đến

bến Xuồng nhận 05 thùng pháo trứng và 05 thùng pháo dàn của A Nhì giao

qua một người đàn ông lái đò (không rõ lai lịch, địa chỉ) chở số pháo trên đi

từ đường biên Trung Quốc sang. Sau đó Thương thuê anh Đào Văn Thanh

(sinh năm 1988, làm nghề xe ôm) chở số pháo vừa nhận đến cổng chợ Ka

Long để giao cho đối tượng tên Tuấn, còn Thương thuê anh Nguyễn Văn

Thành (sinh năm 1970, làm nghề xe ôm) chở Thương đi cùng. Khi cả ba đến

cổng chợ Ka Long và đang giao pháo cho đối tượng tên Tuấn thì bị Tổ công

tác của Phòng cảnh sát kinh tế, Công an tỉnh Quảng Ninh bắt quả tang. Tuấn

bỏ chạy thoát.

Vật chứng thu giữ gồm: Thu giữ của Thương 720 quả pháo trứng hình

trụ tròn đựng thong 60 hộp giấy bìa cứng, kích thước mỗi hộp là 29x15x10

cm, bên ngoài mỗi hộp có in các hoa văn và chữ nước ngoài, bên trong mỗi

hộp có 12 quả pháo và 01 ống phóng, có trọng lượng 41 kg; 120 dàn pháo 36

lỗ có tổng trọng lượng 97 kg, cùng một số phương tiện khác.

58

Tại Bản kết luận giám định số 5197/BKL-PTM ngày 10/12/2017 của

Phòng Tham mưu, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Ninh kết luận: 720 quả pháo

trứng (bao gồm cả trọng lượng các ống phóng) thu giữ của Tống Thị Hoài

Thương gửi giám định có tổng trọng lượng là 34,86 kg là pháo nổ, do nước

ngoài sản xuất; 120 hộp hình vuông có tổng trọng lượng 97 kg thu giữ của Tống

Thị Hoài Thương gửi giám định là pháo hoa nổ dàn, do nước ngoài sản xuất.

Quá trình điều tra, Thương khai nhận các hành vi phạm tội như trên.

Ngày 18/01/2018, VKSND thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh có

cáo trạng số 16/KSĐT-HS truy tố ra trước TAND thành phố Móng Cái, tỉnh

Quảng Ninh để xét xử bị can Tống Thị Hoài Thương về tội “buôn lậu” quy

định tại điểm c khoản 1 điều 153 BLHS năm 1999.

Liên quan đến đối tượng tên Tuấn mua pháo của Thương nhưng điều tra

không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý. Đối với

Đào Văn Thanh là người dùng xe mô tô chở pháo thuê cho Thương nhưng

Thanh không biết đó là pháo nên không đủ căn cứ để xử lý. Đối với 97 kg

pháo hoa nổ dàn thu giữ của Thương không phải là pháo nổ nên không đủ căn

cứ để truy cứu TNHS đối với Thương liên quan đến số pháo này.

Ngày 09/02/2018, TAND thành phố Móng Cái đã mở phiên tòa xét xử;

tuyên bố bị cáo Tống Thị Hoài Thương phạm tội “buôn lậu” quy định tại

khoản c điểm 1 điều 153 BLHS năm 1999.

Trong vụ án này, TAND thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh đã căn

cứ theo các quy định của BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 để quyết định

hình phạt cho bị cáo Tống Thị Hoài Thương, cụ thể:

- Về căn cứ vào các quy định của BLHS: Căn cứ vào hành vi phạm tội

của bị cáo được thể hiện cùng với trọng lượng pháo nổ mà bị cáo buôn bán

trái phép qua biên giới do cơ quan điều tra thu giữ được: 720 quả pháo trứng

(bao gồm cả trọng lượng các ống phóng) thu giữ của Tống Thị Hoài Thương

gửi giám định có tổng trọng lượng là 34,86 kg là pháo nổ, do nước ngoài sản

59

xuất, số pháo nổ trên được xác định là hàng cấm có số lượng lớn theo Thông

tư liên tịch số 06/2008/TTLTBCA-VKSNDTC-TANDTC “Hướng dẫn việc

truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi sản xuất, mua bán, vận

chuyển, tàng trữ, sử dụng trái phép pháo nổ và thuốc pháo”; theo đó tại các

khoản 2.3 Điều 2 Mục III của Thông tư liên tịch này có quy định “Người nào

mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép pháo nổ có số lượng từ 10 kg đến

dưới 50 kg (được coi là số lượng lớn),....”. Cùng với các tài liệu khác có trong

hồ sơ vụ án, đối chiếu với các quy định của phần các tội phạm của BLHS năm

1999, đủ căn cứ kết luận: Tống Thị Hoài Thương phạm tội “Buôn lậu” theo

quy định tại điểm c khoản 1 Điều 153 BLHS năm 1999.

Khi quyết định hình phạt chính đối với bị cáo Tống Thị Hoài Thương,

TAND thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh đã xem xét, đối chiếu giữa quy

định về khung hình phạt của khoản 1 điều 153 BLHS năm 1999 và khoản 1

điều 188 BLHS năm 2015 và thấy quy định tại BLHS năm 1999 có lợi cho bị

cáo nên cần xem xét áp dụng khi quyết định hình phạt (theo Nghị quyết số

144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội).

- Về căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; bị cáo phạm

tội với lỗi cố ý trực tiếp, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp

luật song vì tham lợi bất chính, ý thức coi thường pháp luật, bị cáo vẫn cố ý

thực hiện hành vi phạm tội nên cần áp dụng một hình phạt nghiêm khắc và

tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo để cách ly bị cáo khỏi

xã hội một thời gian mới cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho

gia đình và xã hội, đồng thời mới có tác dụng ngăn ngừa tội phạm.

- Về căn cứ vào nhân thân người phạm tội: Trước khi phạm tội, bị cáo

có nhân thân tốt; sau khi phạm tội, bị cáo nhận thức được việc làm sai trái về

hành vi phạm tội của mình.

60

- Về căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS: Bị cáo

phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo,

thể hiện thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó được

hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm i và điểm s khoản 1 điều 51 BLHS năm

2015. BLHS năm 2015 có lợi cho bị cáo nên cần xem xét áp dụng khi quyết

định hình phạt (theo Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc

hội). Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về hình phạt bổ sung: Trong vụ án này, bị cáo thực hiện hành vi phạm

tội vì mục đích vụ lợi nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối

với bị cáo. Đối chiếu giữa quy định về mức tiền phạt của khoản 5 điều 153

BLHS năm 1999 và khoản 5 điều 188 BLHS năm 2015 và thấy quy định tại

BLHS năm 1999 có lợi cho bị cáo nên cần xem xét áp dụng khi quyết định

hình phạt bổ sung (theo Nghị quyết 144/2016/QH13).

Căn cứ vào các lý do nêu trên khi quyết định hình phạt tại bản án số

16/2018/HS-ST ngày 09/02/2018 của TAND thành phố Móng Cái, tỉnh

Quảng Ninh. Tuyên bố bị cáo Tống Thị Hoài Thương phạm tội “Buôn lậu”

theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 153 BLHS năm 1999.

Áp dụng khoản c điểm 1 điều 153 BLHS năm 1999; khoản 3 điều 7;

điểm i, s khoản 1 điều 51 BLHS năm 2015; xử phạt Tống Thị Hoài Thương

18 tháng tù, thời hạn chấp hành tính từ ngày tạm giữ, 09/12/2017. Áp dụng

khoản 5 điều 153 BLHS năm 1999, phạt Tống Thị Hoài Thương số tiền 3

triệu đồng sung ngân sách nhà nước. Đồng thời tuyên xử lý các vật chứng liên

quan theo quy định của BLHS và Bộ luật TTHS năm 2015.

Quyết định hình phạt trên là hoàn toàn đúng đắn, áp dụng chính xác các

quy định tại BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 (theo Nghị quyết số

144/2016/QH13) để lựa chọn khung hình phạt, căn cứ đúng vào các quy định

về việc quyết định hình phạt tại quy định tại BLHS năm 1999 và BLHS năm

2015 để đưa ra hình phạt tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi

61

phạm tội. Tác giả hoàn toàn đồng ý với quyết định hình phạt của TAND thành

phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh trong bản án nói trên.

2.3.2. Một số vướng mắc trong việc quyết định hình phạt tội buôn lậu

- Về các tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS

năm 1999: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại khoản 1 Điều 46

BLHS năm 1999, là căn cứ để cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng khi quyết

định hình phạt cụ thể cho bị cáo. Đồng thời, tại khoản 2 Điều 46 BLHS năm

1999 còn cho phép Tòa án có thể coi các tình tiết khác chưa được được quy

định tại khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải

ghi rõ các tình tiết “mới” này trong bản án.

Thực tế áp dụng khoản 2 điều 46 BLHS năm 1999 trong xét xử cho

thấy có rất nhiều tình tiết “mới” ngoài các tình tiết quy định tại khoản 1 điều

46; song do không được bổ sung vào Luật nên ở các Tòa án chưa có sự thống

nhất trong áp dụng tình tiết “mới”, có Tòa án áp dụng, có Tòa án không áp

dụng; các tình tiết mới phổ biến là: bị cáo là người có công với cách mạng, bị

cáo là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sỹ.

Tuy nhiên, tại BLHS năm 2015 đã bổ sung tình tiết “Người phạm tội là

người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ” là

tình tiết giảm nhẹ tại điểm x khoản 1 điều 51; tạo sự thống nhất trong áp dụng

của TAND các cấp khi xét xử.

- Về quyết định hình phạt khi áp dụng quy định tại Điều 47 BLHS năm

1999: Điều 47 BLHS năm 1999 quy định: “Khi có ít nhất hai tình tiết giảm

nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Tòa án có thể quyết định

một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy

định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật...”.

Ví dụ, bị cáo bị truy tố và đưa ra xét xử về tội “buôn lậu” theo khoản 3

điều 153 BLHS năm 1999; nhưng do bị cáo là đồng phạm, với vai trò giúp

sức, phạm tội lần đầu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ; khi đó Hội đồng xét xử có

62

thể áp dụng điều 47 khi quyết định hình phạt và mức phạt dưới mức thấp nhất

của khung hình phạt quy định tại khoản 3 (dưới 7 năm tù), song hình phạt và

mức phạt cụ thể được áp dụng nhẹ hơn phải nằm trong khung hình phạt quy

định tại khoản 2 điều 153 (từ 3 năm tù đến 7 năm tù). Trong một số trường

hợp cụ thể thì hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật

đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật

vẫn nghiêm khắc quá mức cần thiết, đặc biệt trong vụ án đồng phạm, khi

người phạm tội không phải có vai trò chính mà ngược lại chỉ có vai trò rất mờ

nhạt, phạm tội lần đầu,...Do đó, hình phạt và mức phạt chưa thật sự tương

xứng với hành vi của người phạm tội trong vụ án.

Tuy nhiên, tại BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung kịp thời để khắc

phục vấn đề này, cụ thể: Tại khoản 2 điều 54 BLHS năm 2015 quy định “2.

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình

phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề

nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong

vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể” tạo sự thống nhất, linh hoạt

trong quyết định hình phạt đảm bảo tương xứng với tính chất mức độ nguy

hiểm do hành vi phạm tội gây ra trong một số trường hợp cụ thể.

Tóm lại, qua nghiên cứu thực trạng quyết định hình phạt về tội buôn lậu

tại tỉnh Quảng Ninh cho thấy, TAND hai cấp ở Quảng Ninh đã nghiêm túc vận

dụng đúng các nguyên tắc quyết định hình phạt, căn cứ quyết định hình phạt

theo quy định; đồng thời đã vận dụng và áp dụng chính xác các quy định tại

BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 (theo Nghị quyết số 144/2016/QH13

ngày 29/6/2016) đảm bảo cho người phạm tội được hưởng hình phạt nhẹ hơn

trong trường hợp có quy định tại BLHS năm 2015. Hình phạt tuyên đảm bảo

tính nghiêm minh, tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.

Tiểu kết chương 2

63

Định tội danh và quyết định hình phạt là hai hoạt động thực tiễn của

Tòa án, có ý nghĩa quan trọng thể hiện quan điểm của Nhà nước đối với tội

buôn lậu, đồng thời có biện pháp trừng trị nghiêm khắc tương xứng với tính

chất nguy hiểm của hành vi và các đặc điểm về nhân thân của người phạm tội.

Chương 2 luận văn đã phân tích các nội dung lí luận của hoạt động định tội

danh và quyết định hình phạt; đồng thời tìm hiểu việc vận dụng các nội dung

lí luận này vào thực tiễn áp dụng pháp luật thông qua hoạt động định tội danh

và quyết định hình phạt về tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai

đoạn 2014-2018. Từ đó, luận văn đi tới đối chiếu các vấn đề lí luận với thực

tiễn để tìm ra những vấn đề vướng mắc khi áp dụng các quy phạm pháp luật

vào xử lý loại tội phạm này. Kết quả nghiên cứu không chỉ có ý nghĩa giúp

nắm bắt tình hình thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt về tội buôn

lậu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2014 - 2018 cũng như các đặc

trưng của tình hình loại tội phạm này trên địa bàn, mà còn có ý nghĩa làm tiền

đề cho việc nghiên cứu và đưa ra các giải pháp khắc phục những tồn tại khi áp

dụng các quy định của pháp luật để xử lý loại tội phạm này trong thực tiễn.

64

Chương 3

CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG

CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI BUÔN LẬU

3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội buôn lậu

Tại điều 4 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về

trách nhiệm phòng ngừa và đấu tranh phòng chống tội phạm [12]: “1. Cơ

quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và các cơ quan hữu

quan khác có trách nhiệm thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

của mình, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, tổ

chức, cá nhân phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, giám sát và giáo dục

người phạm tội tại cộng đồng. 2. Cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giáo dục

những người thuộc quyền quản lý của mình nâng cao cảnh giác, ý thức bảo vệ

và tuân theo pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa;

kịp thời có biện pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm trong

cơ quan, tổ chức của mình. 3. Mọi công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia

phòng, chống tội phạm”. Theo quy định trên thì mọi cơ quan, tổ chức, công

dân đều có trách nhiệm đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Từ quy định trên cũng như qua thực tiễn công tác đấu tranh phòng

chống tội phạm nói chung và tội buôn lậu nói riêng cho thấy, hiệu quả của

65

công tác này phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của các cơ quan pháp luật,

đặc biệt là các CQTHTT (Cơ quan Công an, VKSND, TAND và các cơ quan

hữu quan khác), là các cơ quan trực tiếp giải quyết các trường hợp có dấu

hiệu của tội phạm hình sự. Tuy nhiên, để hoạt động của các cơ quan này luôn

đúng pháp luật, thực hiện đúng công tác truy cứu TNHS, không bỏ lọt tội

phạm và không xử lý oan người vô tội thì yếu tố đầu tiên cần phải có là một

khung pháp lý vững chắc, rõ ràng. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật hình sự luôn

là đòi hỏi đầu tiên và mang tính cấp thiết không ngừng nhằm đảm bảo cho

hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật của các CQTHTT.

Sự kiện Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 ra

đời cùng với Bộ luật TTHS; Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự; Luật thi

hành tạm giữ, tạm giam và đều có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 đã tạo

ra một bước hoàn thiện căn bản, toàn diện các quy định của pháp luật hình sự

nước ta trong giai đoạn hiện nay; đánh dấu một bước tiến quan trọng, tạo cơ

sở pháp lý vững chắc cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả;

góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ

quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ chức, bảo vệ và

thúc đẩy kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa phát triển đúng hướng, tạo môi

trường xã hội và môi trường sinh thái an toàn, lành mạnh cho mọi người dân,

đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Về những nội dung đã được hoàn thiện trong các quy định đối với tội

buôn lậu trong BLHS năm 2015: khi định tội danh theo quy định tại điều 153

BLHS năm 1999 các CQTHTT gặp rất nhiều vướng mắc từ các tình tiết định

tính song không có hướng dẫn, định lượng cụ thể như: Vướng mắc trong việc

xác định tình tiết hàng cấm có số lượng lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn; Vướng

mắc trong việc xác định tình tiết thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt

lớn; Vướng mắc trong việc xác định tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất

nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng đối với tội buôn lậu. Tuy nhiên

66

những vướng mắc này đã được BLHS năm 2015 lượng hóa (thu lời bất chính

lớn/rất lớn/đặc biệt lớn), bỏ đi những tình tiết tăng nặng khác mang tính chất

định tính như: “gây hậu quả nghiêm trọng/rất nghiêm trọng/đặc biệt nghiêm

trọng”,.... giúp cho cơ quan áp dụng pháp luật dễ dàng hơn khi áp dụng các

quy phạm này vào thực tiễn định tội danh [12].

Do BLHS năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực đến

nay mới được hơn 01 năm, nên về cơ bản chưa phát sinh vướng mắc khi áp

dụng. Song qua nghiên cứu các điểm mới của bộ luật này cùng với các văn

bản pháp luật hình sự khác và thực tế xã hội; tác giả mạnh dạn đề nghị các cơ

quan có thẩm quyền nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một vài điểm sau để tránh

người và pháp nhân thương mại lợi dụng, cụ thể:

- Thứ nhất: Về điều 51, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tại khoản 2 quy định: “ Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu

thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ

trong bản án”. Đây là điểm mới so với BLHS năm 1999.

Việc quy định đầu thú có thể được coi là tình tiết giảm nhẹ TNHS nhằm

vận động, khuyến khích, kêu gọi người phạm tội sau khi đã bị phát hiện hành

vi phạm tội hoặc sau khi đã bị truy nã không tiếp tục lẩn trốn, giúp cho cơ

quan điều tra không phải mất nhiều thời gian, công sức tổ chức truy tìm, giúp

sớm làm sáng tỏ hành vi phạm tội và kết thúc sớm quá trình tiến hành tố tụng.

Tuy nhiên trong thực tế sẽ phát sinh trường hợp người phạm tội lợi dụng quy

định này, cố tình chủ động thực hiện kế hoạch lẩn trốn một khoảng thời gian

ngắn hoặc một thời gian ngắn, sau đó ra đầu thú để được hưởng tình tiết giảm

nhẹ TNHS.

Vì vậy tình tiết này có thể trở thành kẽ hở của pháp luật, tác giả đề nghị

cần quy định khoảng thời gian nhất định kể từ thời điểm phát hiện người

phạm tội đến khi người phạm tội ra đầu thú để xem xét áp dụng tình tiết giảm

nhẹ này; cụ thể là nếu người phạm tội đã bị phát hiện mà ra đầu thú trước khi

67

cơ quan điều tra phát lệnh truy nã thì mới được xem xét cho hưởng tình tiết

giảm nhẹ từ việc đầu thú.

- Thứ hai: Về hình phạt đối với pháp nhân thương mại (điều 33 BLHS

năm 2015), cụ thể: Hình phạt chính bao gồm: Phạt tiền; Đình chỉ hoạt động có

thời hạn; Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Hình phạt bổ sung bao gồm: Cấm

kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; Cấm huy động

vốn; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính pháp nhân thương mại.

Theo quan điểm của tác giả thì việc áp dụng hình phạt tiền đối với pháp

nhân thương mại phạm tội là hoàn toàn có tác dụng và đạt được mục đích của

hình phạt. Bên cạnh đó, các hình phạt khác đối với pháp nhân thương mại

như: Đình chỉ hoạt động có thời hạn; Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn khi áp

dụng là hình phạt chính thì thực chất chỉ là pháp nhân bị đình chỉ không hoạt

động chứ người đại diện pháp nhân bị đình chỉ vẫn có thể tiếp tục hoạt động

nếu có nhu cầu, thông qua việc thành lập mới một pháp nhân khác, vì vậy

hình phạt áp dụng trong trường hợp này không đủ sức răn đe, trừng trị đối với

người đại diện pháp nhân thương mại phạm tội.

Trên đây là một số ý kiến của tác giả nhằm bổ sung, góp phần hoàn

thiện hơn nữa Bộ luật hình sự Việt Nam về tội buôn lậu, đảm bảo các quy

định của pháp luật hình sự thật sự có tác dụng cưỡng chế nghiêm khắc, trừng

trị, giáo dục người phạm tội cũng như tác dụng phòng ngừa chung đối với

toàn thể xã hội.

3.2. Tổng kết thực tiễn gắn với Hướng dẫn áp dụng các quy định

của pháp luật hình sự về tội buôn lậu

3.2.1. Chú trọng tổng kết thực tiễn công tác áp dụng các quy định của

pháp luật hình sự về tội buôn lậu: Xuất phát từ quan điểm, Thực tiễn là cơ

sở của lý luận, bởi mọi tri thức được hình thành dù gián tiếp hay trực tiếp, đều

có nguồn gốc từ thực tiễn. Thực tiễn là động lực của lý luận, bởi hoạt động

thực tiễn làm biến đổi thế giới, biến đổi bản thân con người, làm cho con

68

người ngày càng hoàn thiện các năng lực của chính mình, trong đó có năng

lực nhận thức. Thực tiễn luôn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ và phương

hướng phát triển nhận thức, đòi hỏi phải có tri thức mới, nhất là những tri

thức được khái quát thành lý luận để trở lại chỉ đạo thực tiễn. Thực tiễn là

điểm khởi nguồn của lý luận và cũng là đích trở về của lý luận, nơi kiểm

nghiệm tính chân lý của lý luận.

Tổng kết thực tiễn công tác áp dụng các quy định của pháp luật hình sự

về tội buôn lậu của nhà nước trong công tác đấu tranh phòng chống buôn lậu

nói chung và tổng kết thực tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng trong khởi

tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với tội phạm buôn lậu nói riêng

có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp đúc kết những kinh nghiệm, giúp phát

hiện ra những điểm còn hạn chế, vướng mắc gây khó khăn cản trở để có biện

pháp, quy định bổ sung, khắc phục. Thông thường thì Nhà nước và các cơ

quan tư pháp định kỳ đều tổ chức tổng kết thực tiễn áp dụng các quy định của

pháp luật hình sự trong đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và trong

đấu tranh phòng chống tội buôn lậu nói riêng để kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn

nhằm nâng cao hiệu quả công tác áp dụng các quy định của pháp luật hình sự

về tội buôn lậu. Song do kinh tế xã hội không ngừng vận động và thay đổi,

bên cạnh đó chính sách về ngoại thương của các quốc gia cũng thường xuyên

thay đổi; do đó tội phạm buôn lậu vì thế cũng không ngừng thay đổi, qua đó

đòi hỏi công tác tổng kết thực tiễn cần phải được tiến hành thường xuyên ở

từng cơ quan, từng lực lượng, từng địa phương và trong toàn quốc để đáp ứng

tốt hơn, hiệu quả hơn trong công tác đấu tranh với tội phạm buôn lậu. Chính

nhờ có tổng kết thực tiễn thi hành BLHS năm 1999 mà các nhà làm luật mới

có cơ sở để xây dựng BLHS năm 2015 phù hợp hơn, khoa học hơn, rõ ràng

hơn như hiện nay, góp phần ngày càng hoàn thiện hệ thống nói chung và pháp

luật hình sự nói riêng.

69

3.2.2. Kịp thời hướng dẫn áp dụng các quy định của pháp luật hình

sự về tội buôn lậu

Để áp dụng BLHS năm 2015 trong công tác đấu tranh phòng chống tội

phạm; đến nay các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản hướng

dẫn áp dụng, tạo cơ sở cho việc áp dụng thống nhất các quy định của BLHS,

điển hình như: Công văn 301/TANDTC-PC năm 2016 áp dụng quy định có

lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015; Công văn

276/TANDTC-PC năm 2016 hướng dẫn áp dụng quy định có lợi cho người

phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết 01/2016/NQ-

HĐTP hướng dẫn áp dụng quy định tại khoản 3 điều 7 Bộ Luật hình sự

100/2015/QH13; Công văn 148/TANDTC-PC năm 2017 triển khai, thi hành

Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết 41/2017/QH14; Công văn

154/TANDTC-PC về việc xử lý hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc

lá điếu nhập lậu trong nội địa; Công văn 256/TAND-PC ngày 31/7/2017

hướng dẫn Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 về BLHS; Công văn

3010/VKSTC-V14 hướng dẫn thực hiện Nghị quyết 41/2017/QH14 về thi

hành BLHS 2015; Nghị định 115/2017/NĐ-CP quy định chi tiết trình tự, thủ

tục, mức tiền pháp nhân thương mại phải nộp để bảo đảm thi hành án; việc

tạm giữ, hoàn trả, nộp ngân sách nhà nước số tiền đã nộp; Công văn

04/TANDTC-PC năm 2018 về áp dụng Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị

quyết 41/2017/QH14; Quyết định 1559/QĐ-BTP năm 2017 về Kế hoạch triển

khai thi hành Bộ luật Hình sự; Chỉ thị 02/CT-TTg năm 2018 về việc triển khai

thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015; Nghị định 19/2018/NĐ-CP tiếp tục

hướng dẫn Bộ luật hình sự 2015 về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích

chất ma túy; Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 66 và

Điều 106 của Bộ luật hình sự về tha tù trước thời hạn có điều kiện; Nghị định

19/2018/NĐ-CP quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma

túy tại một số điều của bộ luật hình sự năm 2015; nghị định 37/2018/NĐ-

70

CP quy định chi tiết thi hành các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18

tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự; Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP

hướng dẫn áp dụng điều 66 và điều 106 của bộ luật hình sự về tha tù trước thời

hạn có điều kiện; nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng điều 65

của bộ luật hình sự về án treo;...

Đối với tội buôn lậu được quy định tại điều 188 BLHS năm 2015, mặc

dù đã gỡ bỏ, khắc phục được nhiều vướng mắc, điểm định tính so với BLHS

năm 1999. Song để nâng cao hiệu quả thi hành, cần nghiên cứu hướng dẫn kịp

thời về tình tiết “qua biên giới” “từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược

lại”. Tình tiết “qua biên giới” là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của

cấu thành tội buôn lậu nhưng để xác định thế nào là “qua biên giới” vẫn chưa

có văn bản hướng dẫn cụ thể dẫn đến cách hiểu không giống nhau, có ý kiến

cho rằng “biên giới” ở đây là biên giới địa lí nước ta với các nước khác,

nhưng cũng có ý kiến cho rằng “biên giới” ở đây không chỉ được hiểu theo

nghĩa hẹp là biên giới địa lí mà phải hiểu theo nghĩa rộng là hàng rào biên

giới thuế quan, vùng kiểm soát của bộ đội biên phòng, an ninh cửa khẩu, vùng

kiểm tra của hải quan trên tất cả các tuyến đường (đường bộ, đường thủy,

đường sắt, đường hàng không, đường bưu điện quốc tế) ở mọi khu vực (kể cả

khu chế xuất). Có thể thấy rằng, cách hiểu thứ hai là hợp lí hơn, chính vì vậy,

để thống nhất về nhận thức đối với hành vi phạm tội buôn lậu thì các cơ quan

có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn cụ thể, tránh sự không thống nhất

trong cách hiểu về tình tiết này.

3.3. Các giải pháp khác

Thứ nhất: Hoàn thiện tổ chức, bộ máy gắn với nâng cao đạo đức

nghề nghiệp, chuyên môn nghiệp vụ đối với đội ngũ các cơ quan thực thi

công vụ đấu tranh phòng chống buôn lậu: Cùng với giải pháp hoàn thiện

pháp luật hình sự về tội buôn lậu; để nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của

pháp luật hình sự về tội buôn lậu, chúng ta cũng cần áp dụng đồng thời các

71

giải pháp về hoàn thiện các cơ quan đấu tranh phòng chống tội phạm buôn

lậu, trong đó cần:

- Chú trọng nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan điều tra nhằm tạo

lập cơ chế pháp lý hữu hiệu kiểm soát sự tuân thủ pháp luật và xử lý nghiêm

minh vi phạm pháp luật, bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo đảm an

toàn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; cơ quan điều tra các cấp phải lãnh

đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ các quy định của BLHS năm 2015 gắn với thực

hiện BLTTHS năm 2015, Luật tạm giam, tạm giữ,.....

- Nâng cao hiệu quả hoạt động đối với công tác kiểm sát của VKS theo

tinh thần Chiến lược cải cách tư pháp từ nay đến năm 2020, VKS tiếp tục

thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp,

nhiệm vụ của VKS trong tố tụng hình sự cần được hoàn thiện theo hướng

“tăng cường trách nhiệm của VKS trong hoạt động điều tra, gắn công tố với

điều tra”, tăng cường vai trò, trách nhiệm của Kiểm sát viên tại phiên Tòa.

Chủ động khai thác và xử lý có hiệu quả nguồn tố giác, tin báo về tội phạm

diễn ra và đảm bảo các tố giác, tin báo đó đều được tiến hành xác minh, giải

quyết đúng quy định của pháp luật. Mặt khác, cần quan tâm, tăng cường hơn

nữa ý thức trách nhiệm của các Kiểm sát viên trong việc thực hiện các quyền

hạn tố tụng; cần chú trọng hơn nữa chất lượng cán bộ kiểm sát, vừa phải đảm

bảo những người cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, vừa phải coi

trọng phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp.

- Nâng cao hiệu quả hoạt động đối với Tòa án các cấp, qua đó nâng cao

chất lượng công tác xét xử để thực hiện mục tiêu “xây dựng nền tư pháp trong

sạch, vững mạnh, dân chủ nghiêm minh…hoạt động tư pháp mà trọng tâm là

hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”.

- Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan thi hành án hình sự: Để đảm

bảo nguyên tắc mọi bản án, quyết định hình sự có hiệu lực phải được các cá

nhân, tổ chức liên quan tôn trọng, thực hiện, pháp luật nên quy định chặt chẽ

72

hơn điều kiện được áp dụng các biện pháp ngăn chặn cũng như hạn chế việc

áp dụng các biện pháp này. Cụ thể: khi áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi

khởi nơi cư trú”, ngoài việc xem xét về nơi cư trú của người phạm tội thì cần

thêm điều kiện về nhân thân của bị can, bị cáo; tính chất, mức độ nguy hiểm

cho xã hội của hành vi phạm tội do bị can, bị cáo gây ra. Cần tăng cường

công tác tuyên truyền giáo dục cho các phạm nhân phạm tội buôn lậu kết hợp

với việc cho họ được lao động, cải tạo giúp họ nhận ra những sai lầm trở

thành người có ích cho xã hội. Đặc biệt, cần thay đổi nhận thức của họ về

hành vi buôn lậu cần giáo dục cho họ hiểu rằng đây là hành vi vi phạm pháp

luật để sau khi chấp hành xong hình phạt họ không có tư tưởng phạm tội.

- Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan chức năng khác như Cơ

quan Quản lý thị trường, lực lượng Hải quan, Biên phòng, Cảnh sát biển,...nói

chung cơ quan điều tra chống buôn lậu trong các lược lượng này nói riêng nhằm

kịp thời phát hiện, xử lý ngay tại biên giới các hành vi buôn lậu theo quy định.

Thứ hai: Tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác chống buôn lậu:

Cùng với xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thì tội phạm buôn lậu đang trở thành

một hoạt động mang tính toàn cầu, tác động tiêu cực đến nền kinh tế các quốc

gia. Để phòng, chống buôn lậu, Việt Nam cần mở rộng quan hệ hợp tác, hỗ

trợ lẫn nhau trong vấn đề phòng chống tội phạm, nhất là các nước trong khu

vực và các nước chung đường biên giới như Trung Quốc, Lào, Campuchia.

Thứ ba: Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo 389 quốc gia

và Ban chỉ đạo 389 các địa phương: Qua đó, để BCĐ 389 các cấp thực sự là

đầu mối giúp chính phủ và cấp ủy, chính quyền các địa phương làm tốt công

tác lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, lực lượng trên địa bàn phối hợp hiệu quả

trong công tác tuyên truyền, đấu tranh với tội phạm buôn lậu nhất là các địa

phương có đường biên giới trên bộ, trên biển và cảng hàng không quốc tế.

Tóm lại, trên cơ sở nghiên cứu tội phạm buôn lậu theo pháp luật hình sự

Việt Nam, giai đoạn 2014-2018 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, cùng việc phân

73

tích cơ sở lí luận và thực tiễn cũng như yêu cầu cấp thiết của việc hướng dẫn

sửa đổi, bổ sung BLHS liên quan đến tội buôn lậu, tác giả cũng đưa ra những

hướng hoàn thiện pháp luật hình sự đối với tội buôn lậu và những giải pháp

nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam đối với

tội phạm này nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng,

chống tội tội buôn lậu trong thời gian tới.

74

Tiểu kết chương 3

Chương 3 của luận văn đã tập trung đánh giá tình hình, phân tích các

yêu cầu đảm bảo áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự trong đấu

tranh, xử lý tội buôn lậu, đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao

hiệu quả xử lý tội buôn lậu, bao gồm: Quan tâm hoàn thiện pháp luật hình sự;

Chú trọng tổng kết thực tiễn công tác áp dụng các quy định của pháp luật hình

sự về tội buôn lậu gắn với kịp thời hướng dẫn áp dụng các quy định của pháp

luật hình sự về tội buôn lậu; các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ

quan tư pháp,.... Việc đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lý

tội buôn lậu là cần thiết, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện

nay, khi mà tình hình tội phạm hình sự nói chung và tội phạm buôn lậu nói

riêng ngày càng diễn biến phức tạp, đòi hỏi mọi cơ quan, tổ chức, công dân

đều có trách nhiệm và luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, đấu tranh phòng ngừa

và chống tội phạm.

75

KẾT LUẬN

Buôn lậu là một tội phạm có tính lịch sử, một hiện tượng tiêu cực của

xã hội, nó đã và đang diễn biến hết sức phức tạp, gây ra những hậu quả

nghiêm trọng đối với đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Do đó, yêu cầu

đặt ra hiện nay đối với không chỉ các cơ quan bảo vệ pháp luật mà còn là đối

với các nhà nghiên cứu, xây dựng pháp luật hình sự cũng như toàn thể nhân

dân là phải tìm ra các biện pháp đấu tranh có hiệu quả, các chế tài phù hợp

nhằm kiềm chế, đẩy lùi và hướng tới loại bỏ loại tội phạm này ra khỏi đời

sống kinh tế - xã hội.

Với những điều kiện thuận lợi, đặc thù về đường biên giới kéo dài, địa

hình phức tạp như đã phân tích, tỉnh Quảng Ninh đã và đang trở thành một

điểm nóng của tội buôn lậu, mặc dù công tác đấu tranh phòng, chống tội buôn

lậu luôn được cấp ủy, chính quyền và các cơ quan bảo vệ pháp luật của Tỉnh

coi trọng và xác định là nhiệm vụ cấp bách. Vì vậy việc nghiên cứu các nội

dung lí luận về tội buôn lậu và thực tiễn hoạt động xử lý loại tội phạm này

trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh là hết sức cần thiết, qua đó giúp chúng ta nhận

thức rõ ràng, đầy đủ hơn về các đặc điểm và bản chất pháp lý của tội buôn

lậu, về tính nguy hiểm và yêu cầu phải đấu tranh phòng ngừa, trừng trị

nghiêm khắc đối với tội buôn lậu.

Bên cạnh đó, luận văn cũng đã phân tích làm rõ sự khác biệt giữa tội

buôn lậu với một số tội phạm khác được quy định trong BLHS năm 2015 mà

giữa chúng với tội buôn lậu có những dấu hiệu, đặc điểm gần giống hoặc

giống nhau, để giúp chúng ta nhận biết và phân biệt rõ các dấu hiệu, đặc điểm

của từng tội phạm gắn với người, pháp nhân thương mại phạm tội; qua đó

giúp cho công tác đánh giá, áp dụng pháp luật hình sự của các CQTHTT được

chính xác, khách quan.

Thông qua việc nghiên cứu Tội buôn lậu theo pháp luật hình sự Việt

Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, cùng với việc làm rõ các vấn đề về mặt lí

76

luận và pháp luật đối với tội buôn lậu theo pháp luật Việt Nam; tác giả còn tập

trung phân tích việc áp dụng pháp luật hình sự về tội buôn lậu thể hiện qua

hai hoạt động là hoạt động định tội danh và hoạt động quyết định hình phạt.

Qua đó, chỉ ra những vấn đề còn hạn chế, vướng mắc giữa nội dung quy phạm

pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về tội buôn lậu; đồng thời đưa ra các

nhận định, dự báo về tình hình tội buôn lậu và đề xuất những vấn đề liên quan

tới việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội buôn lậu cũng như nâng

cao năng lực của các cơ quan THTT, các cơ quan và đội ngũ cán bộ thực thi

nhiệm vụ phòng chống buôn lậu,... trong đấu tranh, phòng chống tội phạm

buôn lậu nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự

vào xử lý loại tội phạm này trên thực tiễn./.

77

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị - Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

(2005) Nghị quyết 49/NQ-TW “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020”, ngày 02/6/2005, Hà Nội.

2. Ban chỉ đạo 389 Quốc gia (2019), dấu ấn 5 năm thành lập Ban chỉ đạo

389, https://www.nhandan.com.vn/hanggiahangthat/item/39549102-dau-

an-5-nam-thanh-lap-ban-chi-dao-389-quoc-gia.html, truy cập ngày

15/6/2019.

3. Ban chỉ đạo 389 tỉnh Quảng Ninh, Báo cáo tổng kết năm 2014, 2015,

2016, 2017 và 2018 về công tác phòng chống buôn lậu, gian lận thương

mại, Quảng Ninh.

4. Báo Quảng Ninh (2018), Giới thiệu chung về Quảng Ninh,

http://thuviendientu.baoquangninh.com.vn/cac-don-vi-hanh-

chinh/201810/gioi-thieu-chung-ve-tinh-quang-ninh-2284365/index.htm,

truy cập ngày 01/6/2019

5. PGS.TS Nguyễn Hòa Bình (2018), chuyên đề những nội dung sửa đổi

lớn và những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015,

http://vks.haugiang.gov.vn/luat-to-chuc-vkstc-cac-dao-luat-tu-

hap/nhung-noi-dung-sua-doi-lon-va-diem-moi-cua-bo-luat-hinh-su-nam-

2015-74.html, truy cập ngày 01/6/2019.

6. Hoàng Phê (2003), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Đà Nẵng.

7. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam

(2002), Từ điển bách khoa Việt Nam 2, NXB từ điển bách khoa, Hà Nội.

8. Hội đồng Nhà nước (1982), Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu,

làm hàng giả, kinh doanh trái phép.

9. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

78

11. Quốc hội (2009), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự

năm 1999, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự năm 2015, NXB Tư pháp, Hà Nội.

13. Quốc hội (2016), Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 về việc

lùi hiệu lực thi hành của BLHS số 100/2015/QH13, BLTTHS số

101/2015/QH13, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự số

99/2015/QH13, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 và bổ

sung dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số

100/2015/QH13 vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016.

14. Quốc hội (2017), Luật số 12/2017/QH14, sửa đổi, bổ sung một số điều

của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, Hà Nội.

15. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, NXB Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

16. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nhà xuất bản Lao

động, Hà Nội.

17. Quốc hội (2017), Nghị quyết số 41/2017/QH14 về việc thi hành Bộ luật

hình sự số 100 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số

12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật tố tụng hình sự số

101/2015/QH13, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự số

99/2015/QH13, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13.

18. Nguyễn Văn Thành – Vũ Trinh – Trần Hựu (1994), Hoàng Việt luật lệ

(Luật Gia Long) III, NXB Văn hóa thông tin, trang 390-391, Hà Nội.

19. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, báo cáo tổng kết công tác các năm

2014, 2015, 2016, 2017 và 2018, Quảng Ninh.

20. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2015), Bản án số 120/2015/HSST

ngày 25/11/2015, Quảng Ninh.

21. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2017), Bản án số 25/2017/HSST

79

ngày 09/3/2017, Quảng Ninh.

22. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2017), Bản án số 35/2015/HSST

ngày 29/3/2017, Quảng Ninh.

23. Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh (2018), Bản án

số 16/2018/HSST ngày 09/2/2018, Quảng Ninh.

24. Lê Nguyên Trường (2018), Một số điểm mới của tội buôn lậu trong Bộ

luật hình sự năm 2015 và những vấn đề đặt ra khi thực hiện triển khai tại

thành phố Hải Phòng, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội; Luật

học, tập 34, số 4 (2018) Tr 96-102.

25. GS, TS. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần

chung, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội.

26. GS, TS Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần

các tội phạm, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội.

27. GS, TS. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình lý luận chung về định tội

danh, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội.

28. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh, báo cáo tổng kết công tác các

năm 2014, 2015, 2016, 2017 và 2018, Quảng Ninh.

29. Viện sử học Việt Nam (1991), Quốc triều hình luật (Luật hình Triều Lê),

Nhà xuất bản Pháp lý, Hà Nội, tr.96.

30. Viện sử học Việt Nam (1991), Quốc triều hình luật (Luật hình Triều Lê),

Nhà xuất bản Pháp lý, Hà Nội, tr.210-211.

31 Công văn 301/TANDTC-PC năm 2016 áp dụng quy định có lợi cho

người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015.

32 Công văn 276/TANDTC-PC năm 2016 hướng dẫn áp dụng quy định có

lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015.

33 Công văn 154/TANDTC-PC về việc xử lý hành vi tàng trữ, vận chuyển,

buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa;.....

80

34 Nghị định 115/2017/NĐ-CP quy định chi tiết trình tự, thủ tục, mức tiền

pháp nhân thương mại phải nộp để bảo đảm thi hành án; việc tạm giữ,

hoàn trả, nộp ngân sách nhà nước số tiền đã nộp.

81