VIỆN HÀN LÂM KHOA HOC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TĂNG VƯƠNG TRỌNG
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN
CÁC TÒA ÁN QUÂN SỰ Ở VIỆT NAM
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRẦN HỮU TRÁNG
HÀ NỘI – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Trước hết tôi gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân đã động viên tôi
rất nhiều, quý thầy cô và bạn bè đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và tạo
điều kiện để tôi hoàn thành luận văn của khóa học. Và đặc biệt em xin trân
thành cảm ơn thầy PGS.TS Trần Hữu Tráng là người hướng dẫn đã tận tình
chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt quá trình làm luận văn vừa qua.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2019
Tác giả
Tăng Vương Trọng
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
: Áp dụng pháp luật ADPL
: Bộ luật hình sự BLHS
: Cố ý gây thương tích CYGTT
: Hội đồng thẩm phán HĐTP
: Hội đồng xét xử HĐXX
: Trách nhiệm hình sự TNHS
: Tòa án nhân dân tối cao TANDTC
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY
TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC ................................................ 8
1.1. Những vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác ................................................................................................................ 8
1.2. Quy định của BLHS2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong sự so sánh với BLHS 1999 ................................................ 19
Chương 2. ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI
CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA
NGƯỜI KHÁC TẠI CÁC TÒA ÁN QUÂN SỰ VIỆT NAM ................................. 28
2.1. Định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong quá trình xét xử tại các Tòa án Quân sự ...................................................... 28
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong quá trình xét xử tại Tòa án Quân sự. ........................ 45
2.3. Nguyên nhân của hạn chế, bất cập ......................................................................... 54
Chương 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC
GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG QUÂN ĐỘI 57
3.1. Yêu cầu hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ...................................................... 57
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về định tội
danh và quyết định hình phạt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác .............................................................................................................. 60
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 69
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây tình hình tội phạm xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe con người trong cả nước đã và đang diễn biến hết sức phức
tạp, luôn chiếm tỷ lệ cao so với tổng số án thụ lý, xét xử và ngày càng có xu
hướng gia tăng. Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác để lại
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Người bị hại phải gánh chịu những hậu quả về
sức khỏe, tinh thần, tổn thương cơ thể, trí tuệ.... Hậu quả xảy ra mà người bị
hại có thể làm gánh nặng cho xã hội, gia đình.
Tuy đã có nhiều văn bản hướng dẫn giải quyết một số vướng mắc trong
quá trình áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội này như: phạm tội
có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm, gây cố tật nhẹ cho nạn nhân,
phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người, phạm tội
đối với người khác không có khả năng tự vệ… Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân khác nhau như việc chưa nắm rõ, chắc các dấu hiệu pháp lý; việc áp dụng
không thống nhất các quy định của pháp luật,... của các cơ quan tiến hành tố
tụng, đặc biệt chưa có hướng dẫn ADPL nên việc định tội danh giữa hai tội này
còn nhiều nhầm lẫn hoặc gây nên tranh luận, khiếu kiện kéo dài.
Để nhận thức đúng, áp dụng thống nhất quy định của BLHS Việt Nam
và áp dụng đúng những quy định mới của BLHS về tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác phù hợp với thực tiễn thì việc làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận, nghiên cứu thực tiễn ADPL về tội tội CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác là rất quan trọng. Qua đó chỉ ra những
vấn đề bất cập, những hạn chế thiếu sót trong định tội danh và quyết định
hình phạt đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
nhằm góp phần nâng cao chất lượng xét xử của các Tòa án quân sự. Từ những
1
vấn đề nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác từ thực tiễn các Tòa án Quân sự ở Việt Nam” làm
luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu Tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dưới góc độ Luật hình sự được công
bố, có thể kể đến một số công trình như sau (tác giả chia thành ba nhóm):
Thứ nhất, hệ thống các giáo trình, sách tham khảo liên quan đến vấn
đề tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như:
- Bình luận khoa học BLHS năm 2015, nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội
tháng 6-2016;
- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) (2016), trường
Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội;
- GS.TS. Võ Khánh Vinh, Bình luận khoa học BLHS (phần các tội
phạm) (2013), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
Thứ hai, hệ thống các Luận văn Thạc sĩ, Luận án Tiến sĩ Luật Học:
Công trình: “Đặc điểm tội phạm học của tội phạm CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác ở Việt Nam hiện nay và các giải pháp nâng
cao hiệu quả phòng ngừa”, của Nguyễn Hữu Cầu, Luận án tiến sĩ Luật học,
Học viện Cảnh sát Nhân dân, Hà Nội, 2002;
Luận văn (2014) “Các tội CYGTT hoặc gây tổn hại sức khỏe của người
khác trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Lê Đình Tĩnh, Luận văn thạc sĩ
luật học, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội;
Luận văn “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam” của
Đặng Thị Hương Dung, Luận văn Thạc sĩ;
Luận văn “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”, của
2
Đinh Thị Hoài Thu, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.
Nguyễn Thị Minh Nguyệt, “Đấu tranh phòng, chống tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế”
Luận văn Thạc sĩ, Khoa luật đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2002;
Lê Đình Tĩnh, “Các tội CYGTT hoặc gây tổn hại đến sức khỏe người
của người khác trong luật hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, Khoa luật Đại
học Quốc gia Hà Nội, năm 2014.
Thứ ba, hệ thống các bài viết, đề tài khoa học:
Bài viết “Một số vấn đề về tình tiết: CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng” của Đinh Văn
Quế, đăng trên Tại chí Tòa án nhân dân kỳ I tháng 9/2010 (số 17);
Bài viết “N phạm tội CYGTT do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng”, Tạp chí TAND, số 3, năm 2011” của tác giả An Văn Khoái đăng trên
Tạp chí TAND, số 3, năm 2011;
Bàn về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác tại Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017 / Nguyễn Văn Hùng, Tòa án nhân dân. Số 1/2018, tr. 19 – 26;
Thứ tư, các công trình nghiên cứu liên quan:
Luật thi hành án hình sự, GS.TS Võ Khánh Vinh, TS Cao Thị Oanh
nhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội năm 2013;
Giáo trình Tội phạm học. Chủ biên PGS.TS Lê Thị Sơn, Nhà xuất bản
Công an nhân dân, Hà Nội 2012;
Lý luận chung về định tội danh GS. TS Võ Khánh Vinh, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội 2013;
Phân biệt tội giết người với tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người
trong Bộ luật Hình sự năm 2015, Đinh Văn Quế, Kiểm sát. Số 7/2018, tr. 50 – 54;
Qua nghiên cứu các công trình đã công bố có liên quan đến đề tài luận
văn trong thời gian qua, tác giả nhận thấy các công trình nghiên cứu về vấn đề
3
lý luận và quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác đã được các nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu khá sớm và sâu sắc, ở nhiều mức độ khác nhau; Đa số các công
trình đã đánh giá những kết quả đạt được, đồng thời chỉ ra những hạn chế, bất
cập trong các quy định pháp luật cũng như trong ADPL vào xét xử các tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên nhiều địa bàn
khác nhau; hầu hết các công trình nghiên cứu đã nêu ra những quan điểm, ý
kiến về các giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hinh sự
về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tuy nhiên,
chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu thực tiễn định tội danh, quyết định
hình phạt Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
quá trình xét xử tại các Tòa án Quân sự. Việc nghiên cứu đề tài này có ý
nghĩa quan trọng trong nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự và trong công tác
đấu tranh phòng chống tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác tại các đơn vị quân đội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là từ việc phân tích để làm rõ
các vấn đề lý luận về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong việc định tội danh và quyết định hình phạt, tổng kết thực tiễn định
tội danh và quyết định hình phạt đối với tội phạm này từ thực tiễn xét xử tại
các Tòa án Quân sự, đánh giá thực tiễn ADPL trong quá trình xét xử tại các
tòa án quân sự, luận văn hướng đến mục đích nhằm đề xuất yêu cầu và những
giải pháp hoàn thiện quy định của BLHSvề tội phạm này và nâng cao chất
lượng, hiệu quả của công tác xét xử.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ
4
nghiên cứu cụ thể như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu các tài liệu và làm rõ những vấn đề lý luận về tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
Thứ hai, thu thập, phân tích số liệu, bản án, khảo sát và đánh giá thực
tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với Tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác qua thực tiễn xét xử tại các tòa án Quân sự;
Thứ ba, nghiên cứu, đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định của BLHS
về tội phạm này và các giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình
phạt đúng đối với Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: những vấn đề lý luận và quy định
của Luật hình sự Việt Nam về Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác qua các giai đoạn, thực tiễn áp dụng quy định của BLHS năm
1999 và BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 về “Tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” trong thực tiễn xét xử của các tòa
án Quân sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài luận văn được nghiên cứu trong phạm vi chuyên
ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự;
Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn ADPL hình sự về tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của các tòa án Quân sự;
Về thời gian: Luận văn sử dụng dữ liệu nghiên cứu được thu thập qua
thực tiễn xét xử tại các Tòa án Quân sự từ năm 2014 đến năm 2018. Các dữ
liệu nghiên cứu được dùng trong luận văn là các số liệu của các Tòa án Quân
sự trong thời gian 05 năm, từ năm 2014 đến năm 2018. Luận văn sử dụng Bộ
luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009 và Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ
sung năm 2017 để nghiên cứu và và đánh giá thực tiễn xét xử các vụ án trong
5
khoảng thời gian này.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng
duy vật của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường
lối Đảng, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đường lối đổi
mới đất nước, định hướng cải cách tư pháp và chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật phục vụ hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm
nói chung và Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng linh hoạt các
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây: phương pháp so sánh, phương
pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp số
liệu dựa trên những bản án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết
của Tòa án quân sự trung ương và các tòa án quân sự quân khu, các thông
báo kiểm tra án để phân tích các tri thức khoa học luật hình sự và luận
chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ các vấn đề lý luận
của Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật
hình sự Việt Nam. Qua đó góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ
kỷ luật, kỷ cương trong môi trường quân đội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn cung cấp những thông tin về nghiên
cứu thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với Tội CYGTT hoặc
6
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong quá trình xét xử tại các Tòa án
Quân sự, có giá trị tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là
Tòa án Quân sự trong thực hiện công tác xét xử được khách quan, công bằng
và có căn cứ pháp luật.
Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho
các cán bộ, giảng viên, nhà nghiên cứu và học viên, sinh viên trong các cơ sở
đào tạo luật trên cả nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm ba chương với tên gọi như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự việt nam
về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác
Chương 2. Định tội danh và quyết định hình phạt tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại các tòa án quân
sự việt nam
Chương 3. Các yêu cầu và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật
hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
7
của người khác trong quân đội
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN
HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
1.1. Những vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác
1.1.1. Khái niệm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác
1.1.1.1. Khái niệm về tội phạm
Điều 8 BLHS năm 2015 sửa đổi 2017 quy định về tội phạm như sau:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS,
do người có năng lực TNHS hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định
của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự [3, tr.19-20].
Tội phạm hiểu theo nghĩa khái quát nhất là hiện tượng xã hội tiêu cực,
trái pháp luật hình sự, mang tính giai cấp và thay đổi theo quá trình của lịch
sử; được thể hiện ở một tổng hợp các tội phạm cụ thể đã xảy ra trong xã hội
và trong khoảng thời gian nhất định [23, tr.91]. Hành vi gây nguy hiểm cho
xã hội do người có năng lực hành vi dân sự gây ra, hành vi đó phải có lỗi và
phải chịu hình phạt. Khi xuất hiện tội phạm cũng là xuất hiện và ra đời của
Nhà nước, và pháp luật, khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng. Để bảo
vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, Nhà nước đã quy định các hành vi gây
nguy hiểm cho xã hội là tội phạm và áp dụng TNHS đối với người nào thực
8
hiện các hành vi đó nên tội phạm mang bản chất là một hiện tượng pháp lý.
Tội phạm cũng là hiện tượng tiêu cực mang thuộc tính xã hội, lịch sử và pháp
lý, tội phạm luôn chứa đựng trong mình đặc tính chống lại Nhà nước, chống
lại xã hội, đi ngược với lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm
đến quyền, tự do và các lợi ích hợp pháp của con người.
1.1.1.2. Khái niệm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác
Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có thể hiểu
là hành vi làm cho người khác bị thương, xâm phạm tới quyền được bảo hộ về
sức khỏe của con người, khiến người khác có những thương tích nhất định
như: Vết bỏng, vết rách trên da thịt, tổn thương hoặc mất đi một số bộ phận
trên cơ thể... [19, tr.79].
Trong tình hình kinh tế xã hội của đất nước ta hiện nay, với sự hòa
nhập của nền kinh tế thị trường thì sự gia tăng tội phạm nói chung, trong đó
có tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khácngày càng diễn
biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng.Điều đó đặt ra cho các nhà lập pháp
phải có các quy định chặt chẽ hơn, sắc bén hơn về phòng chống loại tội phạm
này. Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy
định tại điều 134 BLHS 2015, được chia thành 6 khoản. Trong đó khoản 1
quy định cấu thành cơ bản đối với tội danh này, các khoản 2, 3, 4, 5, 6 quy
định cấu thành tăng nặng cho người mà thực hiện hành vi. Mức cao nhất của
tội này được quy định tại khoản 5 điều 134 BLHS 2015 là tù chung thân.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của người khác
1.1.2.1. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác đó là những chủ thể có quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính
mạng, sức khỏe – những người đang sống, đang tồn tại với tư các là thực thể
9
của xã hội [8; tr.410]. Điều 134 BLHS là tội ghép: Tội CYGTT và tội cố ý
gây tổn hại cho sức khoẻ người khác. Việc quy định điều luật này trong
BLHS nhằm mục đích bảo vệ sức khoẻ cho mọi công dân. Như vậy, khách thể
trực tiếp của tội phạm này là xâm phạm đến sức khoẻ của người khác. Người
khác ở đây được hiểu là một con người cụ thể đang sống, đang tồn tại theo
quy luật của tự nhiên. Nếu một người tự gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ cho chính mình thì không được coi là tội phạm, trừ trường hợp
người đó tự gây thương tích cho chính mình để thực hiện một tội phạm khác.
Ví dụ: Tự gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ cho chính mình để
trốn tránh nghĩa vụ quân sự thì vi phạm vào điểm a khoản 2 Điều 332 BLHS.
Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi cố
ý làm cho người khác bị thương hoặc tổn hại đến sức khỏe một cách trái pháp
luật. Tội phạm xâm phạm đến quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người.
Khách thể của tội CYGTT hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác
chính là quyền được bảo vệ sức khỏe và tôn trọng quyền của con người mà
được luật pháp bảo hộ. Tội CYGTT hoặc gây tổn hại sức khỏe của người
khác thì khách thể trực tiếp chính là sức khỏe của con người. Vì chủ thể của
hầu hết mọi quan hệ xã hội là con người, khi quyền được tôn trọng và bảo vệ
sức khỏe của con người bị xâm phạm nó làm phá vỡ sự ổn định của các quan
hệ xã hội đó.
1.1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là
những hành vi có tính chất gây tổn hại cho sức khỏe của con người. Những hành
vi đó có thể là hành động hoặc không có thể là không hành động [8; tr.410]
Mặt khách quan của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người
khác bao gồm các dấu hiệu biểu hiện ra bên ngoài gồm: Hành vi nguy hiểm
cho xã hội; hậu quả nguy hiểm; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu
quả; phương pháp, phương tiện, công cụ, thủ đoạn để thực hiện hành vi nguy
10
hiểm; thời gian, không gian, địa điểm xảy ra hành vi nguy hiểm.
Hành vi khách quan của tội phạm thể hiện có các đặc tính sau: tính
nguy hiểm cho xã hội; tính trái pháp luật hình sự; có sự kiểm soát của ý thức
và phải có sự điều khiển của ý chí.
Hành vi khách quan của tội phạm có thể thực hiện bằng hành động
hoặc không hành động, bằng hành động tức là người phạm tội thực hiện các
hành vi tác động vào cơ thể người khác làm cho người đó bị thương hoặc bị
tổn hại sức khỏe bằng các công cụ, phương tiện như: Đâm, chém, bắn, đốt
cháy, đầu độc… hoặc không có công cụ, phương tiện phạm tội như: Đấm, đá,
cắn... hoặc có thể thông qua súc vật như: Thả chó cắn, trâu húc, ngựa đá...hay
có thể thông qua người khác như: Nắm chân người khác quăng để gây thương
tích cho người thứ 3, hay ôm người này ném vào người khác... Bằng không
hành động như Y tá cố tình không tiêm cho bệnh nhân....
Hậu quả của tội CYGTT là thương tích, là tổn thương để lại trên cơ thể
con người. Ví dụ: Giập gan, gẫy chân, vỡ đầu... Tội cố ý gây tổn hại cho sức
khoẻ người khác phải có hậu quả xảy ra là làm tổn hại các chức năng, bộ phận
trên cơ thể con người. Ví dụ: làm rối loạn hệ thần kinh, hệ tuần hoàn, tiêu
hoá... Nạn nhân bị thương tích hoặc bị tổn hại đến sức khoẻ ở mức đáng kể,
nếu thương tích không đáng kể thì chưa phải là tội phạm. Theo Điều 134
BLHS thì lấy tỷ lệ thương tật của nạn nhân làm căn cứ để xác định TNHS và
định khung hình phạt đối với người phạm tội, người bị thương tích hoặc bị
tổn hại đến sức khỏe phải có tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên thì người phạm
tội mới bị truy cứu TNHS hoặc gây thương tích dưới 11% nhưng thuộc các
trường hợp: Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho
nhiều người...Căn cứ để xác định tỉ lệ thương tật là kết luận của Hội đồng
giám định y khoa, trong trường hợp ở nơi nào không tổ chức được Hội đồng
giám định y khoa thì có thể căn cứ vào Thông tư 20/2014/TT-BYT ngày 12
tháng 6 năm 2014 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong
11
giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.
Cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người là trường hợp người
phạm tội cố ý với việc gây thương tích nhưng vô ý với hậu quả chết người.
Cũng coi là cố ý gây thương tích dẫn đến chết người trong trường hợp nạn
nhân là người cao tuổi, sức yếu hoặc người bị bệnh nặng chỉ cần tác động
không mạnh cũng đã làm cho nạn nhân bị chết, nhưng vì người phạm tội
không biết tình trạng bệnh tật của nạn nhân. Nhưng nếu người phạm tội biết
rõ tình trạng bệnh tật, sức khỏe của nạn nhân mà vẫn cố ý gây thương tích
nhằm để nạn nhân chết thì nên định tội giết người. Không được coi là cố ý
gây thương tích dẫn đến chết người trong trường hợp nạn nhân bị thương nhẹ,
nhưng vì lý do khác mà nạn nhân chết.
Xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả thương tích thì đây
là dấu hiệu bắt buộc của CTTP. Hành vi trái pháp luật phải là nguyên nhân
gây ra hậu quả thương tích hoặc tổn hại sức khoẻ, tức là có mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi và hậu quả. Để xem xét mối quan hệ nhân quả ta phải dựa
vào những căn cứ sau: Hành vi gây thương tích (được coi là nguyên nhân)
phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội; hành vi gây thương tích phải xảy ra
trước hậu quả gây thương tích về mặt thời gian; hậu quả nguy hiểm phải do
chính hành vi nguy hiểm gây thương tích gây ra chứ không phải là hành vi
nào khác; hành vi gây thương tích đó làm phát sinh hậu quả là nguyên nhân
trực tiếp, hậu quả xảy ra đúng là sự hiện thực hoá khả năng thực tế phát sinh
hậu quả của hành vi trái pháp luật. Ví dụ: do mâu thuẫn cá nhân A đã cầm dao
chém đứt tay của B, mọi người vội vàng đưa B đưa đi cấp cứu thì bị tai nạn
làm B bị gẫy chân, giám định tổng tỷ lệ thương tích B mất 40% sức khoẻ.
Nếu xác định A cầm dao chém B gây tỷ lệ thương tích là 40% là không có
quan hệ nhân quả. Vì hành vi của A dùng dao chém B làm đứt bàn tay B,
Aphải chịu TNHS về thương tích không phải chịu TNHS về thương tích B bị
12
gẫy chân do không có quan hệ nhân quả.
Những dấu hiệu khác như: Phương pháp, phương tiện, công cụ phạm
tội, thời gian, không gian, địa điểm, hoàn cảnh v.v... Có ý nghĩa quan trọng
trong việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội là cơ
sở để định khung hình phạt và quyết định hình phạt.
1.1.2.3. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm theo quy định của BLHS 2015 bao gồm cả cá
nhân và pháp nhân thương mại. Căn cứ Điều 76 BLHS thì Pháp nhân thương
mại không phải chịu TNHS về tội CYGTT hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của
người khác. Do vậy chủ thể tội CYGT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác là cá nhân.
Cá nhân là chủ thể của tội phạm là người có năng lực chịu TNHS và đạt
độ tuổi theo quy định, Điều 12 của BLHS 2015 quy định về tuổi chịu TNHS:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ
những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại
một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170,
171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299,
303 và 304 của Bộ luật này”
Như vậy, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS quy định từ
khoản 1 đến khoản 6 Điều 134 BLHS.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS quy định tại
khoản 3, 4, 5 Điều 134 BLHS năm 2015. (Vì các khoản 1, 2, 6 Điều 134
BLHS thuộc trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng)
Năng lực TNHS là điều kiện cần thiết để có thể xác định con người có
lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ người có năng lực
TNHS mới có thể là chủ thể của tội phạm [8.Tr122]. Người có năng lực
13
TNHS trong tội CYGTT hoặc gây tổn hại đến sức khỏe người khác là người
khi thực hiện hành vi gây thương tích họ nhận thức được tính chất nguy hiểm
về sức khỏe cho người khác của hành vi của mình và có khả năng điều khiển
được hành vi ấy.
1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác bao gồm lỗi, động cơ, mục đích phạm tội.
Lỗi trong hành vi phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ
người khác được thực hiện do cố ý, lỗi cố ý này có thể trực tiếp hoặc gián
tiếp. Tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình nhất định hoặc có
thể gây ra thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của người khác nhưng mong
muốn hoặc có ý thức để mặc,chấp nhận hậu quả đó xẩy ra.[13;414] Lỗi cố ý
gián tiếp là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là có
thể gây hậu quả thương tích cho người khác, tuy không mong muốn nhưng
vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xẩy ra.
Động cơ, mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác. Tuy nhiên, động cơ, mục đích có
thể làm thay đổi tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và cũng là
một trong các căn cứ xem xét phân biệt tội danh với tội danh khác.
1.1.3 Phân biệt tội giết người với tội cố ý gây thương tích
1.1.3.1. Phân biệt trường hợp giết người (tội phạm hoàn thành) với Cố
ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người.
Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách
trái pháp luật; giữa hành vi phạm tội và hậu quả chết người có mối quan hệ
nhân quả; hành vi phạm tội là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả chết người.
Cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người là trường hợp người
phạm tội cố ý với việc gây thương tích nhưng vô ý với hậu quả chết người.
Hậu quả chết người xẩy đến là do nguyên nhân khác như: không cấp cứu kịp,
14
do bị đánh nhưng lại đập đầu xuống đất.
Hai trường hợp trên giống nhau chủ thể đều từ 14 tuổi trở lên có năng
lực trách nhiệm hình sự, cùng có hành vi xâm phạm thân thể người khác như
bắn, chém, đấm, đá…. để lại hậu quả chết người. Vì để lại hậu quả chết người
nên người ta hay căn cứ vào hậu quả để định tội là giết người nên rất dễ nhầm
lẫn. Tuy nhiên, phân tích kỹ các yếu tố cấu thành tội phạm, hai tội trên khác
nhau ở điểm sau:
Xét mặt chủ quan, với tội giết người người phạm tội cố ý tước đoạt tính
mạng của người khác một cách trái pháp luật, người phạm tội thấy trước hậu
quả chết người sẽ hoặc có thể xảy ra và mong muốn hoặc để mặc hậu quả xẩy
ra. Trong tội “Cố ý gây thương tích” dẫn đến hậu quả chết người phạm tội chỉ
cố ý gây thương tích nhưng hậu quả chết người đã xẩy ra. Người phạm tội cố
ý với việc gây thương tích và vô ý với hậu quả chết người. Trước, trong và
sau khi thực hiện hành vi chưa bao giờ người phạm tội phạm tội nhận thức
rằng hành vi sẽ dấn đến hậu quả chết người hoặc có có ý thức để mặc hậu quả
chết người xẩy ra. Hậu quả chết người xảy ra là ngoài ý muốn chủ quan của
người phạm tội, đồng thời đây là tình tiết định khung tăng nặng trong tội Cố ý
gây thương tích.
Mục đích người phạm tội trong tội giết người là tước đoạt đi tính mạng
của người khác. Mục đích người phạm tội trong tội cố ý gây thương tích là
gây thương tích, tổn hại đến sức khỏe của người khác.
Về mặt khách quan của hai tội tương tự nhau hành vi nhưng lại khác
nhau về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả chết người. Hậu quả
chết người của tội giết người là do chính hành vi của người phạm tội trực tiếp
gây nên, ngoài ra không còn nguyên nhân nào khác (quan hệ nhân quả trực
tiếp). Hậu quả chết người của tội cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết
người không chỉ do hành vi của người phạm tội gây nên, hành vi của người
phạm tội không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến chết người mà nạn
15
nhân chết còn do những nguyên nhân khác. Ví dụ: A dùng dao gọt hoa quả
đâm vào đùi B không may trúng động mạnh đùi, B được đưa đi cấp cứu
nhưng do nhà xa bệnh viện nên khi đến bệnh viện đã bị chết do mất máu. A
đâm vào đùi B mất máu là nguyên nhân trực tiếp gây lên hậu quả chết
người. Do vậy A phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người.
1.1.3.2. Phân biệt giết người chưa đạt với cố ý gây thương tích
Giết người chưa đạt là trường hợp người phạm tội mong muốn giết
người nhưng hậu quả chết người chưa xảy ra do nguyên nhân ngoài ý muốn
chủ quan của người phạm tội. Giết người chưa đạt thuộc trường hợp tội phạm
chưa hoàn thành, nhưng tội phạm chưa hoàn thành không phải có mỗi trường
hợp tội phạm chưa đạt mà bao gồm cả việc chuẩn bị phạm tội. Chuẩn bị phạm
tội giết người và giết người chưa đạt là hành vi phạm tội chưa hoàn thành ở
các mức độ khác nhau. Một bên ở gian đoạn chuẩn bị điều kiện cần thiết thực
hiện tội phạm. Một bên đã có hành vi xâm phạm thân thể người bị tấn công.
Giết người chưa đạt xảy ra với lỗi cố ý trực tiếp vì ý thức chủ quan của người
phạm tội là mong muốn hậu quả chết người xảy ra; Cố ý gây thương tích là
hành vi cố ý làm người khác bị thương hoặc gây tổn hại đến sức khỏe một
cách trái pháp luật.
Hai trường hợp trên dễ nhầm lẫn vì giống nhau về mặt khách quan, đều
có hành vi xâm phạm thân thể người khác như bắn, chém, đấm, đá….và chỉ
để lại hậu quả gây thương tích, không có hậu quả chết người. Vì để lại hậu
quả thương tích nên nhiều ngươì đã vội vàng căn cứ vào tỷ lệ thương tích để
định tội Cố ý gây thương tích hoặc chưa chết người thì không phải tội giết
người dẫn đến định tội danh sai.
Hai trường hợp trên khác nhau ở khách thể, chủ thể và chủ quan của tội
phạm.
Xét về khách thể, khách thể bị xâm phạm của tội giết người là tính
mạng con người, còn khách thể bị xâm phạm của tội cố ý gây thương tích dẫn
16
đến hậu quả chết người là sức khỏe của con người.
Xét về chủ thể, chủ thể của tội giết người là người từ đủ 14 tuổi trở lên
và có năng lực trách nhiệm hình sự. Còn người từ đủ 14 tuổi trở lên đến dưới
16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hình sự theo Khoản 3, 4,5 tội cố ý gây thương
tích. Yếu tố chủ thể này cho thấy cùng là hành vi tấn công thân thể người
khác, nếu xác định đó là giết người thì chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự,
nếu xác định đó là cố ý gây thương tích thuộc Khoản 1, 2 Điều 134 thì chủ thể
từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy,
thực tiễn cùng hành vi xâm phạm thân thể người khác nếu đánh giá là tội giết
người thì chủ thể phải chịu TNHS, nếu đánh giá là cố ý gây thương tích thì có
thể chủ thể không phải chịu TNHS.
Xét mặt chủ quan, mặc dù hai tội trên giống nhau lỗi cố ý trực tiếp
nhưng khác nhau ý thức chủ quan của người phạm tội. Nếu người phạm tội
có ý thức tước đoạt tính mạng nạn nhân nhưng vì những lý do khách quan mà
nạn nhân không chết thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
giết người (chưa đạt).
Ví dụ: Sáng 18/5/2015, Nguyễn Vỹ Hùng chuẩn bị 1 đôi găng tay cao
su và một con dao Thái Lan bỏ vào túi quần rồi trèo qua lan can vào phòng
của chị Phan Thị Tâm để trộm cắp tài sản. Trong lúc Hùng lục lọi tìm tài sản
thị chị Tâm bất ngờ đi vào. Sợ bị phát hiện nên Hùng nấp sau cánh cửa
phòng. Lợi dụng lúc sơ hở, Hùng dùng tay bịt miệng chị Tâm rồi kéo vào
phòng ngủ. Trong lúc hai bên giằng co, Hùng rút dao thủ sẵn trong người ra
đâm chị Tâm 2 nhát vào vùng mặt. Chị Tâm cố vùng bỏ chạy kêu cứu thì bị
Hùng đuổi theo và đâm liên tiếp cho đến khi nạn nhân ngã gục rồi kéo vào
phòng ngủ. Lúc bấy giờ, hàng xóm nghe tiếng kêu cứu chạy đến xem thì
Hùng vứt dao, găng tay rồi bỏ trốn. Hậu quả, chị Tâm bị đâm 12 nhát, thương
tích 35%.
Mặc dù chị Tâm chỉ bị thương tích 35% nhưng bị cáo phạm tội Giết
17
người chứ không phải tội cố ý gây thương tích bởi vì ý thức chủ quan của bị
cáo là mong muốn chị Tâm chết che dấu hành vi trộm cắp. Trước khi phạm
tội, bị cáo đã có ý thức chuẩn bị con dao Thái Lan với ý định nếu hành vi
trộm cắp của mình bị phát hiện thì sẽ đánh lại chủ tài sản. Khi chị Tâm phát
hiện, bị cáo đã đâm 02 nhát vào mặt, bị đâm chị Tâm kêu cứu và vùng dạy bỏ
chạy. Đến đậy, bị cáo hoàn toàn có cơ hội bỏ chạy, nhưng không những
không chạy mà bị cáo còn hành vi hung hãn, quyết liệt hơn đuổi theo đâm
nhiều nhát vào người nạn nhân cho đến khi nạn nhân gục ngã thể hiện ý thức
chủ quan là mong muốn nạn nhân chết đến cùng để che dấu hành vi trộm cắp
(lỗi cố ý trực tiếp). Tuy nhiên nạn nhân không chết do nguyên nhân khách
quan ngoài ý muốn của bị cáo. Do vậy, bị cáo phạm tội Giết người (chưa đạt).
Tóm lại, cơ sở phân biệt lỗi tội Giết người và tội Cố ý gây thương
dựa vào ý thức chủ quan của người phạm tội. Xét về ý chí, người phạm tội
có thấy trước hậu quả chết người xảy ra hay không? Xét về lý chí người
phạm tội mong muốn hay chấp nhận hậu quả này? Nếu người phạm tội
không thấy trước hậu quả chết người thì đó là hành vi cố ý gây thương tích.
Nếu người phạm tội có thể thấy trước hậu quả chết ngườinhưng không
mong muốn hậu quả chết người xẩy ra (có ý thức bỏ mặc hậu quả) thì hậu
quả đến đâu người phạm tội chịu trách nhiệm đến đó. Tuy nhiên, thực tế để
xác định ý thức chủ quan của người phạm tội là điều không thật dễ dàng,
bởi ý thức chủ quan là thái độ tâm lý bên trong người phạm tội, muốn nhận
định yếu tố này không có cách nào khác là đánh giá, đối chiếu, phân tích
các tình tiết khách quan một cách toàn diện và biện chứng. Các tình tiết đó
bao gồm: Thời điểm, hoàn cảnh không gian phạm tội, hung khí tấn công, vị
trí tấn công, cường độ tấn công, thái độ lời nói của bị cáo trước, trong và
18
sau khi tấn công, kết luận giám định pháp y...
1.2. Quy định của BLHS2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong sự so sánh với BLHS 1999
Quốc hội khoá 13 với 500 đại biểu đã biểu quyết thông qua BLHS
2015 ngày 27/11/2015 với 84,01% đại biểu tán thành. Và theo quy định tại
Điều 426 BLHS 2015, ngày 01/7/2016 BLHS sẽ có hiệu lực thi hành ngay.
Nhưng ngày 27/6/ 2016 Ủy ban Thường vụ Quốc hội họp với Trưởng đoàn
đại biểu Quốc hội các tỉnh, thành về tiến trình triển khai BLHS 2015.
Do BLHS 2015 có khoảng 90 lỗi kỹ thuật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã
gửi phiếu biểu quyết đến các đại biểu để hoãn thi hành đạo luật này.
Ngày 20/6/2017, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015, BLHS
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018.So sánh Điều 134 của BLHS 2015
với Điều 104 BLHS năm 1999 chúng ta thấy có rất nhiều những điểm sửa đổi,
bổ sung như sau:
1.2.1. Kết cấu của Điều 134 BLHS 2015
Điều 134 BLHS 2015 quy định:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng
thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
.............................................
6. Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít
nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm
nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị
phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02
năm.”
Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 quy định 6 khung hình phạt, tăng về số
19
lượng 2 khung hình phạt so với Bộ luật hình sự 1999, mức hình phạt thấp nhất
và cao nhất không có gì thay đổi. Tại Điều 104 Bộ luật hình sự 1999 quy định
04 khung hình phạt, khung cơ bản (khoản 1) là phạt cải tạo không giam giữ
đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, khoản 2 là phạt tù từ hai
năm đến bảy năm, khoản 3 là phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm, khoản 4
là phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân. Đối với Điều
134 Bộ luật hình sự 2015 quy định 06 khung hình phạt, khung cơ bản là
(khoản 1) so với quy định của BLHS 1999 thì không thay đổi: Phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm, khoản 2
là phạt tù từ 02 năm đến 06 năm (mức hình phạt cao nhất của khung nhẹ hơn
quy định cũ 01 năm tù), khoản 3 là phạt tù từ 05 năm đến 10 năm (mức hình
phạt cao nhất của khung nhẹ hơn quy định cũ 05 năm tù), khoản 4 là phạt
tù từ 07 năm đến 14 năm (mức hình phạt khởi điểm của khung hình phạt này
thấp hơn quy định cũ 03 năm, mức hình phạt cao nhất của khung thấp hơn
quy định cũ 06 năm tù và không có hình phạt chung thân, khoản 5 là phạt tù
từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân, khoản 6 là quy định đối với người
chuẩn bị phạm tội này, với khung hình phạt là cải tạo không giam giữ đến 02
năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
1.2.2. Thay đổi về nội dung của từng khoản trong điều luật
So với quy định tại khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự 1999 thì khoản 1
Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 bổ sung, sửa đổi những nội dung chính như sau:
Khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự 1999 và khoản 1 Điều 134 Bộ luật
hình sự năm 2015 đều lấy các tình tiết tăng nặng ở khoản 1 làm tình tiết định
khung tăng nặng ở khoản 2 đối với trường hợp bị hại tỷ lệ thương tích, tổn hại
sức khỏe từ 11% đến 30%. Nhưng khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự mới đã
thay đổi cách quy định này theo hướng lọc bỏ tình tiết định khung cơ bản
không cần thiết, phân loại các tình tiết định khung tăng nặng với mức độ nguy
hiểm, nguy hại khác nhau để giữ một số tình tiết ở khoản 1 và chuyển một số
20
tình tiết sang khoản 2 theo cấp độ nguy hiểm, nguy hại tương ứng và đưa một
trong những tình tiết định khung cơ bản ở khoản 1 làm cơ sở để áp dụng tình
tiết định khung tăng nặng tại các khoản sau của điều luật mới trong trường
hợp tỷ lệ thương tích, tổn hại sức khỏe của bị hại từ 11% đến 30%.
Thay đổi cụm từ “tỷ lệ thương tật” thành cụm từ “tỷ lệ tổn thương cơ
thể”. Theo tác giả thì cụm từ “tỷ lệ tổn thương cơ thể” là phù hợp với quy
định chuyên ngành của “Thông tư liên tịch số 28/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH
ngày 27 tháng 9 năm 2013 của Bộ Y tế và Bộ Lao động – Thương binh và Xã
hội về quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích, Thông tư số
20/2014/TT-BYT ngày 12 tháng 6 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Y tế về ban
hành Bản tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích”. Nếu theo Thông
tư cũ (Thông tư liên bộ số 12-TTLB ngày 26 tháng 7 năm 1995 của liên Bộ Y
tế – Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội qui định về tiêu chuẩn thương tật
và tiêu chuẩn bệnh tật) thì xác định cụm từ này là “thương tật”thì hợp
lý. Theo tác giả câu từ mà Bộ luật hình sự 2015 dùng là hoàn toàn chính xác,
có cập nhập theo văn bản mới của Bộ y tế, đây là sự thay đổi có ý nghĩa
chuẩn xác của thuật ngữ pháp lý.
Sửa đổi, bổ sung thêm tình tiết định khung cơ bản quy định tại điểm a
khoản 1. Theo quy định ở Bộ luật 1999 thì chỉ xác định 02 tình tiết là: Tình
tiết “dùng hung khí nguy hiểm” và tình tiết “dùng thủ đoạn gây nguy hại cho
nhiều người” nhưng đối với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 được chia
thành 04 tình tiết tương ứng với người phạm tội dùng “vũ khí”,“vật liệu
nổ”, “hung khí nguy hiểm” và “thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều
người”.
Đối với tình tiết “dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người” của
quy định của BLHS 1999 với tình tiết “dùng thủ đoạn có khả năng gây nguy
hại cho nhiều người” của quy định mới. BLHS 2015 bổ sung từ “có khả
năng” vào tình tiết này sẽ giải quyết dứt điểm vướng mắc trong thực tiễn
21
trước đây là người phạm tội “dùng thủ đoạn” trong thực tế các vụ án thì sau
khi tội phạm hoàn thành thì “chưa xảy ra hậu quả gây nguy hại cho nhiều
người” Vấn đề này dẫn đến thiếu thống nhất trong áp dụng pháp luật, đặc biệt
là trong hoạt động tố tụng;
BLHS 2015 bỏ tình tiết định khung cơ bản “Gây cố tật nhẹ cho nạn
nhân” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự 1999. Trong khi
đó điểm b khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 bổ sung tình
tiết “Dùng a – xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm”. Đối với điểm này
trước khi bị sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì điểm b khoản 1 Điều 134 bộ luật
hình sự 2015 quy định là “Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy
hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”;
Bỏ tình tiết “Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều
người” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự 1999. BLHS
2015 quy định tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên” và tại điểm d và “Phạm tội
đối với 02 người trở lên” tại điểm đ khoản 1 Điều 134 và các tình tiết này
cũng bị bỏ ở lần sửa đổi, bổ sung năm 2017, được chuyển sang quy định tại
khoản 2 của Điều 134 Bộ luật hình sự mới.
Sửa đổi các tình tiết “đối với trẻ em”, “phụ nữ đang có thai” thành các
tình tiết “đối với người dưới 16 tuổi”, “phụ nữ mà biết là có thai”; Bổ sung tình
tiết “người chữa bệnh cho mình” vào điểm d khoản 1 Điều 104 BLHS 1999.
Quy định cũ xác định các đối tượng: “Ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo,
người nuôi dưỡng”; Đối với điểm d khoản 1 Điều 134 BLHS 2015 bổ sung
thêm đối tượng “người chữa bệnh cho mình”; Bổ sung tình tiết “Lợi dụng chức
vụ, quyền hạn” theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 134 BLHS 2015.
Sửa đổi điểm g khoản 1 Điều 104 BLHS 1999 theo hướng thêm và sửa
đổi một số trường hợp liên quan đến đối tượng gây thương tích đang trong
thời gian bị cơ quan thẩm quyền quản lý, giáo dục. Bổ sung các trường
hợp “đang chấp hành án phạt tù”, sửa đổi trường hợp “hoặc đang bị áp dụng
22
biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục” thành: “đang chấp hành biện pháp tư
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi
phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo
dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”. Sửa đổi điểm h khoản 1
Điều 104 BLHS 1999 theo hướng bổ sung theo hướng thuật ngữ pháp lý cho
hoàn chỉnh. Thêm nội dung “thuê” hoặc “được thuê” gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác vào tình tiết này để phù hợp với quy định của điều luật
là “gây thương tích” hoặc “gây tổn hại cho sức khỏe” của người khác.
Bỏ tình tiết “tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm i khoản 1 Điều
104 BLHS 1999, bổ sung điểm i khoản 1 Điều 134 BLHS 2015 là “Có tính
chất côn đồ”. Đối với tình tiết tái phạm nguy hiểm được chuyển sang khoản 2
Điều 134 BLHS 2015, tách tình tiết “Có tính chất côn đồ hoặc tái pháp nguy
hiểm” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 104 BLHS 1999 thành 02 tình
tiết “Có tính chất côn đồ” và “ Tái phạm nguy hiểm”. Sửa nội dung của điểm
k khoản 1 Điều 104 BLHS 1999 theo hướng xác định đối tượng bị gây thương
tích, bị gây tổn hại sức khỏe. Đối với quy định cũ thì xác định là tình tiết tăng
nặng do mục đích của người phạm tội “để cản trở người thi hành công
vụ”. Trong thực tiễn xét xử thì rất nhiều trường hợp chứng minh mục
đích “để cản trở” này không rõ ràng, rất khó đủ căn cứ chứng minh, đa phần
phụ thuộc vào lời khai của người phạm tội. Để khắc phục các vướng mắc trên,
điểm k khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự mới đã xác định tình tiết tăng nặng
định khung này là: “đối với người đang thi hành công vụ”. Trong trường hợp
phải chứng minh khi người phạm tội có mục đích “để cản trở người thi hành
công vụ” hoặc “hoạt động công vụ” đó có liên quan đến người phạm tội hoặc
trường hợp người bị hại “chưa” hoặc “đã” thi hành công vụ thì không thuộc
diện điều chỉnh của quy định này mà nó thuộc diện điều chỉnh của vế sau
thuộc điểm k là “hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân”.
So với khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự cũ thì khoản 2 Điều 134 Bộ
23
luật hình sự mới có những thay đổi như sau:
Các quy định tại khoản 2 Điều 134 BLHS 2015 được chia thành 05 tình
tiết định khung tăng nặng. Nội dung tình tiết định khung tăng nặng quy định
tại điểm a khoản 2 Điều 134 BLHS 2015 là việc sử dụng nguyên ý thứ nhất
của khoản 2 Điều 104 BLHS 1999 (trường hợp thương tích, tổn hại sức khỏe
từ 31% đến 60%); tình tiết định khung tăng nặng tại các điểm b, c khoản 2
Điều 134 BLHS 2015 là việc pháp điển hóa hướng dẫn tại tiểu mục 3.2, mục
3 của Nghị quyết số 01/2006/NQ – HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 về tình
tiết “phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người”;
điểm d “Tái phạm nguy hiểm” là tình tiết tăng nặng chuyển từ điểm i khoản 1
Điều 104 BLHS 1999 sang; điểm đ là tình tiết tăng nặng giống ý thứ 2 của
quy định tại khoản 2 Điều 104 BLHS 1999.
Như vậy, việc quy định thêm các tình tiết tăng nặng tại điểm b, c, d
khoản 2 Điều 134 BLHS 2015 là những nội dung quan trong mới trong các
quy định so với khoản 2 Điều 104 BLHS 1999. Nhưng về bản chất thì các
điểm b, c, d khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự mới quy định lại nội dung của
các điểm c, i khoản 1 Điều 104 BLHS 1999. So với khoản 3 Điều 104 BLHS
1999 thì khoản 3 Điều 134 BLHS 2015 có nhưng nội dung thay đổi cơ bản
sau đây:
Khoản 3 Điều 134 BLHS 2015 có 4 tình tiết định khung tăng nặng. Ở
khoản 3 Điều 104 BLHS 1999 quy định 02 điều kiện để xác định tình tiết định
khung tăng nặng đó là: Tỷ lệ thương tật của bị hại từ 61 % trở lên hoặc gây
chết người; tỷ lệ thương tật của người bị hại từ 31% đến 60% nhưng thuộc
một trong các tình tiết định khung quy định tại khoản 1 của điều luật. Khoản 3
Điều 134 BLHS 2015 giữ một phần nội dung của 02 điều kiện trên, tách nó ra
thành điểm a là “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy
định tại điểm b khoản 4 Điều này” và điểm c là “Gây thương tích hoặc gây
24
tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của từ 11%
đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ
điểm a đến điểm k khoản 1 điều này”; còn nội dung “gây chết người” đã
chuyển sang tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 4 Điều 134 BLHS 2015;
và bổ sung thêm hai tình tiết định khung tăng nặng mới tại điểm b và điểm d.
Trong đó, một phần nội dung của 02 tình tiết mới tại các điểm b, d khoản 3
Điều 134 là việc nhà làm luật pháp điển hóa hướng dẫn tại tiểu 3.2, mục 2 của
Nghị quyết số 01/2006/NQ – HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 về tình
tiết “phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người”.
So với khoản 4 Điều 104 BLHS 1999 thì khoản 4 Điều 134 BLHS 2015
có những thay đổi cơ bản sau:Khoản 4 Điều 134 BLHS 2015 có 05 tình tiết
định khung tăng nặng (khoản 4 Điều 104 Bộ luật hình sự cũ không thiết kế
theo kiểu này). Khoản 4 Điều 104 BLHS 1999 quy định hai điều kiện tăng
nặng định khung là: Phạm tội dẫn đến chết nhiều người và trường hợp đặc
biệt nghiêm trọng khác. Đối chiếu các tình tiết tăng nặng quy định từ điểm a
đến điểm đ khoản 4 Điều 134 BLHS 2015 thì thấy:
Hậu quả chết người là tình tiết định khung tăng nặng theo điểm a khoản
4 Điều 134 Bộ luật hình sự mới, với khung hình phạt từ 07 năm đến 14 năm.
Theo Điều 104 Bộ luật hình sự cũ thì hậu quả chết người là điều kiện để khởi
tố, truy tố, xét xử người phạm tội theo khoản 3, với khung hình phạt từ 05
năm đến 15 năm.
Khoản 4 Điều 134 BLHS 2015 bổ sung mới các tình tiết định khung tại
các điểm b, c để xử lý những trường hợp gây thương tích, gây tổn hại sức
khỏe của người khác mà hậu quả để lại vượt quá mức độ được quy định tại
các tình tiết tăng nặng theo khoản 3 Điều 134 BLHS 2015.
Theo đó nếu gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 01 người
với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, mà kèm theo hậu quả là “Làm biến
dạng vùng mặt của người khác” thì sẽ bị khởi tố, truy tố, xét xử theo điểm b
25
khoản 4 Điều 134; nếu gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 01
người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, và thuộc một trong các tình tiết
tăng nặng định khung quy định tại khoản 1 Điều 134 thì sẽ bị khởi tố, truy tố,
xét xử theo điểm d khoản 4 Điều 134; Nếu gây thương tích hoặc gây tổn hại
sức khỏe cho 02 người trở lên tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 61%
trở lên thì sẽ bị khởi tố, truy tố, xét xử theo điểm c khoản 4 Đều 134; nếu gây
thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể của mỗi người từ 30% đến 60%, nhưng thuộc một trong các
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 134 thì sẽ bị khởi tố, truy tố, xét xử
theo điểm đ khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự mới.
Khoản 6 Điều 134 BLHS 2015 quy định mới, bổ sung về nội dung:
“Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm,
hóa chất nguy hiểm hoạc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”. Đây là
quy định mới, tiến bộ để định tội cố ý gây thương tích trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội, nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm.
Tiểu kết chương 1
Tội cố ý gây thương thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người
khác là hành vi trái pháp luật của ngươi có năng lực TNHS cố ý tác động lên
thân thể của người một cách trực tiếp hoặc gián tiếp khác gây thương tích
theo luật định.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác là
hành vi trái pháp luật của người có năng lực TNHS cố ý tác động lên thân thể
của người một cách trực tiếp hoặc gián tiếp khác gây thương tích theo luật
định. Trên cơ sở nghiên cứu về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác tác giả đã nghiên cứu những lý luận để hiểu rõ hơn về tội CYGTT
26
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác qua tìm hiểu, khái quát các quy
định tội và dấu hiệu pháp lý của tội. Từ đó đi phân biệt dấu hiệu pháp lý cuả
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác, phân
biệt dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ của người khác trong trường hợp dẫn đến chết người với tội giết người.
qua đó thấy được sự phát triển, hoàn thiện trong hoạt động lập pháp của các
nhà làm luật Việt Nam. Những kết luận trong chương 1 sẽ làm căn cứ để giải
27
quyết các vấn đề nghiên cứu của chương 2 và chương 3 của luận văn.
Chương 2
ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý
GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA
NGƯỜI KHÁC TẠI CÁC TÒA ÁN QUÂN SỰ VIỆT NAM
2.1. Định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong quá trình xét xử tại các Tòa án Quân sự
2.1.1. Khái quát lý luận của định tội danh tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
Theo Giáo sư Võ Khánh Vinh thì “Định tội danh là việc xác định và
ghi nhận về mặt pháp lỷ sự phù hợp chỉnh xác giữa các dấu hiệu của hành vi
tội phạm cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của CTTP đã được quy
định trong quy phạm pháp luật hình sự" [35; Tr9 - 10]. Định tội danh đúng là
kết quả của quá trình hoạt động của các c
ơ quan tiến hành tố tụng và tạo tiền đề đảm bảo cho việc quyết định hình phạt
trong xét xử đúng đắn.
Định tội danh 1à những biện pháp đưa các quy định của BLHS vào đời
sống xã hội, góp phần vào quá trình đấu tranh phòng,chống tội phạm, thực
hiện chủ trương chính sách, đường lối hình sự của Đảng và nhà nước. Định
tội danh là việc xác định về mặt pháp lý hình sự phù hợp giữa hành vi nguy
hiểm cho xã hội của người phạm tội mà hành vi đó đã được thực hiện trong
thực tế khách quan cùng với dấu hiệu trong CTTP tương ứng được quy định
cụ thể trong BLHS.
Định tội danh với bản chất là một dạng của hoạt động thực tiễn ADPL
hình sự luôn được tiến hành theo các bước cơ bản như sau:
Bước 1: Xác định đúng và khách quan các tình tiết thực tế của vụ án;
Bước 2: Nhận thức một cách thống nhất và chính xác nội dung các quy
phạm pháp luật hình sự phản ánh các dấu hiệu CTTP về tội danh có hướng
28
lựa chọn.
Bước 3: Lựa chọn đúng quy phạm pháp luật hình sự tương ứng để đối
chiếu đầy đủ, chính xác các dấu hiệu CTTP được quy định trong quy phạm
pháp luật của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với
các tình tiết hành vi vi phạm cụ thể được thực hiện trên thực tế, trên cơ sở này
đưa ra kết luân đúng đắn, có cơ sở, có căn cứ về sự đồng nhất giữa hành vi đã
thực hiện với CTTP đã được quy định. Kết luận đó phải được thể hiện dưới
dạng văn bản ADPL.
Bước 4: Ra văn bản ADPL đó là bản án và các quyết định có căn cứ và
đảm bảo sức thuyết phục về ba bước trên.
Hoạt động định tội danh theo hai xu hướng đó là: Định tội danh đúng
và định tội danh sai.
Định tội danh đúng là cơ sở cho việc phân hóa TNHS và cá thể hóa
hình phạt một cách công minh đúng căn cứ pháp luật. Định tội danh đúng sẽ
làm cho việc thực hiện các nguyên tắc tiến bộ được công nhận trong Nhà
nước pháp quyền như: Trách nhiệm do lỗi, nguyên tắc nhân đạo, trách nhiệm
cá nhân nguyên tắc pháp chế, bình đẳng trước pháp luật hình sự; công bằng.
Định tội danh đúng còn là cơ sở để áp dụng chính xác các quy phạm pháp luật
tố tụng hình sự về về thẩm quyền điều tra, tạm giam, tạm giữ, xét xử qua đó
góp phần hữu hiệu cho việc bảo vệ các quyền về con người các quyền về tự
do dân chủ của công dân mà được pháp luật bảo vệ.
Định tội danh sai dẫn đến các hậu quả nghiêm trọng: Không bảo đảm
được tính công bằng trong pháp luật, căn cứ quy định của pháp luật, truy cứu
nhầm TNHS cho người vô tội, bỏ lọt tội phạm, xâm phạm danh dự nhân phẩm
của người khác, xâm phạm nghiêm trọng các quyền tự do dân chủ công dân
được pháp luật bảo vệ công nhận. Định tội danh sai làm giảm uy tín của các
cơ quan tư pháp, vi phạm nghiêm trọng phápchế XHCN, ảnh hưởng xấu đến
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Những vụ việc sảy ra oan sai chủ
29
yếu bắt nguồn từ việc các cơ quan pháp luật vi phạm các nguyên tắc pháp luật
hình sự, chưa có đánh giá đúng về vụ án, suy luận thiếu logic, làm việc theo
cảm tính, khởi tố một các vội vã, để kết thúc vụ án.
Định tội danh thực chất là hoạt động áp dụng pháp luật, do vậy cần căn
cứ theo cơ sở pháp lý. Có rất nhiều văn bản được sử dụng trong hoạt động
định tội danh như: BLHS, Luật Giao thông đường bộ; Bộ luật Dân sự, Luật
Thương mại, Luật Phòng chống ma túy, các nghị quyết của HĐTP nhân dân
tối cao... Tuy nhiên, trong số các văn bản trên, BLHScó vai trò rất quan trọng
đối với định tội danh, là cơ sở pháp lý trực tiếp cho toàn bộ quá trình định tội
danh của người phạm tội. Các văn bản pháp luật còn lại mang tính chất là cơ
sở pháp lý hỗ trợ cho quá trình định tội danh. Ví dụ: Tại tiểu mục 2.1 và 2.2
mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội
đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn về khái niệm “vũ khí,
phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác”là cơ sở để định tội danh đối với
trường hợp quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 134 BLHS.
2.1.2. Thực tiễn định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của người khác của các Tòa án quân sự.
Tòa án quân sự là những tòa án thuộc hệ thống Tòa án nhân dân của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được tổ chức và đảm nhiệm công
tác xét xử hình sự trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Hệ thống các tòa án
quân sự có 3 cấp: Tòa án quân sự trung ương; các Tòa án quân sự quân khu
và tương đương; Tòa án quân sự khu vực. Căn cứ Điều 272, Điều 273
BLTTHS các Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà
bị cáo là:
a) Vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công chức, công
nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn
luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ trong thời
gian tập trung huấn luyện hoặc phối thuộc với Quân đội nhân dân trong
30
chiến đấu, phục vụ chiến đấu; công dân được điều động, trưng tập hoặc hợp
đồng vào phục vụ trong Quân đội nhân dân;
b) Vụ án hình sự mà bị cáo không thuộc đối tượng quy định tại điểm a
khoản 1 Điều này liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của quân nhân tại ngũ, công chức, công
nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn
luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu hoặc gây thiệt hại đến tài
sản, danh dự, uy tín của Quân đội nhân dân hoặc phạm tội trong doanh trại
quân đội hoặc khu vực quân sự do Quân đội nhân dân quản lý, bảo vệ.
Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử tất cả tội phạm xảy ra trong địa
bàn thiết quân luật”
Trong các năm 2014 đến năm 2018, tình hình tội phạm tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác luôn chiếm một tỷ lệ đáng kể
trong tổng số các vụ án hình sự mà Tòa án quân sự thụ lý, giải quyết. Điều
này thể hiện cụ thể trong bảng sau.
Bảng 2.1: Tình hình tội phạmcố ý gây thương tích được xét xử ở
các Tòa án quân sựtừ năm 2014 đến năm 2018 so với tổng số án thụ lý,
giải quyết.
Năm Số lượng tội CYGTT Số lượng án thụ lý xét xử Tỷ lệ %
hoặc GTHĐSK (Vụ/bị cáo)
(Vụ/bị cáo)
2014 66 vụ/150 bị cáo 415 vụ/ 970 bị cáo 16%
2015 87 vụ/ 162 bị cáo 570 vụ/ 1031 bị cáo 15%
2016 85 vụ/ 165 bị cáo 520 vụ/ 865 bị cáo 16%
2017 49 vụ/ 75 bị cáo 453 vụ/ 989 bị cáo 10,1%
2018 45 vụ/ 102 bị cáo 480 vụ/ 1031 bị cáo 9,3%
Tổng số 332 vụ/ 654 bị cáo 2438 vụ/ 4886 bị cáo
31
(Nguồn: số liệu thống kê từ Tòa án quân sự Trung ương)
Qua bảng thống kê trên, chúng ta thấy: Số lượng án cố ý gây thương
tích, gây tổn hại đến sức khỏe người khác chiếm tỷ lệ trung bình từ 9,3% đến
16% số lượng án phải giải quyết của các Tòa án quân sự và tỷ lệ này có xu
hướng giảm trong những năm gần đây; tương ứng với đó số lượng án Cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe người khác có sự tăng giảm
đan xen giữa các năm 2014 đến năm 2016, số án cao nhất vào năm 2015(87
vụ/ 162 bị cáo) tăng so với năm 2014, nhưng năm 2016 lại giảm 02 vụ/ 03 bị
cáo so với năm 2015 và từ năm 2015 trở về đây số lượng án Cố ý gây thương
tích có xu hướng giảm. Điều này cho thấy tình hình tội phạm cố ý gây thương
tích trong những năm gần đây có xu hướng giảm.Chất lượng xét xử án Cố ý
gây thương tích được thống kế tại bảng số liệu dưới đây:
Bảng 2.2: Kết quả xét xử tội phạm cố ý gây thương tích được xét
xử ở các Tòa án quân sự từ năm 2014 đến năm 2018
Năm
Số án sơ thẩm
Số án có
Kết quả xét xử phúc thẩm, giám đốc
thụ lý, xét xử
kháng cáo
thẩm, tái thẩm
Y án sơ
Sửa án sơ
Hủy án
thẩm
thẩm
sơ thẩm
Năm 2014
66 vụ/150 bị
9 vụ/ 15 bị
5 vụ/ 10 bị
2 vụ/ 3 bị cáo 02 vụ/ 02
cáo
cáo
cáo
bị cáo
Năm 2015
87 vụ/ 162 bị
12 vụ/ 23 bị
7 vụ/ 14 bị
3 vụ/ 6 bị cáo 02 vụ/ 03
cáo
cáo
cáo
bị cáo
Năm 2016
85 vụ/ 165 bị
15 vụ/ 34 bị
10 vụ/ 17
3 vụ/ 12 bị
02 vụ/ 5
cáo
cáo
bị cáo
cáo
bị cáo
Năm 2017 39 vụ/ 75 bị cáo
3 vụ/ 6 bị cáo 01 vụ/ 01
9 vụ/ 19 bị cáo
5 vụ/ 12 bị cáo
bị cáo
Năm 2018
0
45 vụ/ 102 bị cáo
10 vụ/ 18 bị cáo
8 vụ/ 15 bị cáo
02 vụ/ 03 bị cáo
Tổng số
332 vụ/ 654 bị
55 vụ/ 109
35 vụ/ 68
13 vụ/ 30 bị
7 vụ/ 11
cáo
bị cáo
bị cáo
cáo
bị cáo
32
(Nguồn: Số liệu thống kê Tòa án quân sự Trung ương)
Qua bảng phân tích tại bảng số liệu trên, chúng ta thấy trung bình 5
năm qua các Tòa án quân sự trong toàn quốc có 20 vụ án bị sửa, bị hủy trên
tổng số 332 vụ án, chiếm 6,2% tổng số các vụ án xét xử về tội cố ý gây
thương tích. Trong những năm gần đây số lượng án bị sửa hủy có xu hướng
giảm, năm 2018 không có án nào bị hủy. Điều này cho thấy chất lượng xét xử
ngày càng được nâng lên. Các con số trên phản ánh chất lượng xét xử của các
Tòa án quân sự về tội cố ý gây thương tích cơ bản tốt, tuy nhiên vẫn còn một
số sai sót. Phần dưới dưới tác giả giới thiệu một số vụ án phản ánh chất lượng
xét xử của Tòa án quân sự cơ bản là tốt:
2.1.2.1. Một số vụ án định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại đến
sức khỏe đúng
Vụ thứ nhất:Viện Kiểm sát quân sư Khu vực X truy tố về tội “Cố ý gây
thương tích” theo khoản 3 Điều 104 BLHS 1999. Tòa án quân sự Khu vực X
trả hồ sơ điều tra bổ sung để làm rõ hành vi giết người.
Vào hồi 13 giờ 30 phút ngày 28 tháng 7 năm 2015, do nghi ngờ Ngô
Quốc Tuấn lấy trộm điện thoại, Đỗ Văn Ninh, Bùi Văn Nam, Trần Đức Hiệp,
Nguyễn Bảo Tùng gọi Ngô Quốc Tuấn ra nói chuyện. Ninh hỏi: “Mày có lấy
điện thoại của dân không?”. Tuấn trả lời: “Em không lấy” thì ngay lập tức,
Ninh dùng tay phải tát mạnh vào mặt, chân phải đá mạnh vào lưng, vào mông
Tuấn. Thấy vậy, Nam, Hiệp, Tùng cùng nhảy vào dùng chân, tay tát, đấm, đá
túi bụi vào đầu trán, mặt, cổ, lưng và bụng Tuấn.
Nam dùng tay phải tát một cái vào má trái, chân phải đá hai cái vào
lưng và nhảy lên đạp rất mạnh vào trán, tay phải đấm vào vai Tuấn. Hiệp
dùng tay phải đấm một cái vào gần đỉnh đầu bên trái, tay trái đấm vào đuôi
lông mày trái và một cái vào má trái. Tùng dùng tay phải tát 3 cái vào mặt và
trái, tay trái đấm 3 cái vào lưng Tuấn. Bị đánh đòn tập thể, Tuấn ngồi thụp
xuống, hai tay ôm gáy thì bị Nam dùng gót chân phải đạp một phát từ trên
33
xuống vào lưng, Hiệp dùng chân phải đá vào lưng, chân trái đạp vào vai,
Tùng dùng chân phải đá 3 cái vào mông, trước đòn đánh liên tiếp Tuấn ngã
hẳn ra đất kêu đau và xin tha. Sau đó, Ninh túm cổ áo Tuấn kéo dậy và hỏi
tiếp: “Mày có lấy điện thoại không?”. Tuấn vẫn trả lời là không, vừa dứt lời
Ninh dùng tay tát vào mặt Tuấn 2 cái, dùng chân trái đạp Tuấn ngồi bệt xuống
đất, Tùng tát 2 cái, Nam dùng chân phải đạp vào vai phải Tuấn làm tuấn ngã
nghiêng người xuống đất rồi dùng tay trái đấm một cái vào vùng cổ sát mang
tai trái của Tuấn làm Tuấn ngã sụp hẳn xuống đất. Thấy vậy, cả bọn không
đánh nữa, nhưng thấy Tuấn ngất đi chúng liền làm hô hấp nhân tạo, gọi người
đưa Tuấn đi cấp cứu nhưng Tuấn đã tử vong trước khi vào viện. Giám định
pháp y kết luận Ngô Quốc Tuấn tử vong do tác động của vật tày có diện giới
hạn, lực tác động mạnh gây chấn thương sọ não và chết.
Trước hành vi trên, Viện kiểm sát quân sự Khu vực X đã truy tố các bị
cáo về tội “Cố ý gây thương tích” gây hậu quả chết người theo Khoản 3 Điều
104 BLHS với lập luận đây là vụ đánh nhau thông thường, không có việc
chuẩn bị phương tiện phạm tội. Ý thức chủ quan của các bị cáo là đánh Tuấn
đau để khai nhận hành vi trộm cắp, để chừa thói ăn cắp vặt, tuy nhiên không
may qua việc gây thương tích làm Tuấn bị chết, việc Tuấn chết là ngoài ý
muốn chủ quan của bị cáo. Thêm vào đó thời gian từ lúc gây thương tích đến
lúc nạn nhân chết là vào 20 ngày, thời gian rất lâu.
Trái lại quan điểm trên, Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu X cho
rằng các bị cáo phạm tội giết người vì: Trong thời gian ngắn, các bị cáo sử
dụng chân, tay đấm đá liên tục; nhiều người cùng đánh một người; lại tập
trung chủ yếu vào vùng đầu, mặt, tai, cổ, ngực bụng là nơi có các bộ phận
quan trọng của con người như não, tim, thận… Khi Tuấn bị đau, ngã xuống
đất kêu đau và van xin mọi người. Song các bị cáo không những không chấp
nhận lời cầu xin của nạn nhân mà còn tiếp tục lần lượt thay nhau hành động
một cách thô bạo và quyết liệt, tiếp tục tấn công cho đến khi Tuấn gục hẳn và
34
ngất đi mới thôi. Hậu quả Tuấn chết do chấn thương sọ não, đây là mối quan
hệ nhân quả trực tiếp, hành vi tấn công của các bị cáo quan hệ nhân quả
Tuấn chết.
Mặc dù, ban đầu các bị cáo không có ý định tước đoạt tính mạng của
Tuấn, nhưng qua hành vi bốn người tập trung đánh một người, mà lại toàn
vào vùng đầu, mặt, cổ… với lực tác động rất mạnh, cường độ tấn công liên
tục thì buộc các bị cáo phải nhận thức hậu quả chết người có thể xẩy ra (Xét
về ý chí các bị cáo thấy trước hậu quả chết người có thể xẩy ra). Sau đòn tập
thể Tuấn ngất đi, các bị cáo đã làm hô hấp nhân tạo, đưa nạn nhân đi bệnh
viện, diễn biến tâm lý cho thấy, các bị cáo không mong muốn hậu quả chết
người xảy ra, tuy nhiên các bị cáo đã tấn công với thái độ bỏ mặc hậu quả,
chết cũng được mà không chết cũng được. Thực tế hậu quả chết người đã xảy
ra nên các bị cáo phạm tội Giết người.
Trước những lập luận trên Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu X đã
trả hồ sơ để Viện kiểm sát khu vực X điều tra bổ sung về hành vi giết người.
Tòa án quân sự cấp Quân khu đã xứt xử các bị cáo về tội giết người.
Vụ thứ hai: HĐXX áp dụng thêm tình tiết định khung “có tính chất côn đồ”.
Vào khoảng 11 giờ 45 phút ngày 05 tháng 5 năm 2015 Vi Tuấn D là
học sinh trường nội trú D đi uống rượu rồi vào khu trọ của Nịnh Đình Đ để
nghỉ trưa. Nhưng do Đ chưa về nên D đứng ở ngoài phòng đập cửa và hò hét.
Thấy Vậy Ngô Hoàng N là chiến sỹ của Lữ đoàn bộ binh 82 – Quân khu 2
đang ngồi chơi phòng bên ra nhắc nhở nên giữ trật tự vì là buổi trưa mọi
người cần ngủ nghỉ. D thôi không đập cửa quay sang chửi bới N. Thấy D mặt
đỏ và có biểu hiện say rượu nên N không nói nữa đi vào phòng đóng cửa lại.
D ở ngoài tiếp tục đập của và hò hét. Lúc này Phan Văn P, và Nịnh Đình Đ là
bạn cùng lớp và cùng phòng Đ về đến nơi, thấy D có biểu hiện say rượu nên
mở cửa cho vào. D vào phòng liền lấy con dao gọt hoa quả và chạy sang
phòng bên cạnh tìm N để nói chuyện. Thấy sự việc như vậy P và Đ ra sức can
35
ngăn nhưng D dọa “thằng nào can tao xiên chết” và sang bên đập cửa phòng
N đòi gặp nói chuyện. N thấy ầm ĩ bên ngoài liền mở cửa ra xem có chuyện gì
vừa mở cửa ra thì D nói “mày vừa nói tao cái gì?” N liền đáp lại: “tao nhắc
mày buổi trưa có ý thức cho mọi người ngủ”. Lời qua tiếng lại D liền cầm dao
nhằm N đâm và miệng nói “để tao dậy cho mày một bài học”. N tránh được
nhưng vẫn bị mũi dao làm rách áo và đâm vào mạn sườn bên phải. N kêu lên
và bỏ chạy ra ngoài, D đuổi theo thì P và Đ xông vào can. P ôm D, Đ cầm tay
định tước dao của D nhưng D vùng ra được. D quay sang cầm dao nhằm P
chém. P tránh được bỏ chạy ra ngoài, D đuổi theo P nhưng không kịp liền
quay lại đuổi Đ trên tay vẫn cầm dao và mồm hét tao chém mày, thì bị bảo vệ
cùng các học sinh trong trường khống chế. Ngô Hoàng N bị thiệt hại 8% về
sức khỏe. Viện Kiểm sát quân sự Khu vực X đã truy tố Ngô Hoàng N về tội
cố ý gây thương tích theo điểm a khoản 1 Điều 104 BLHS với tình tiết “dùng
hung khí nguy hiểm”.
Quá trình xét xử Tòa án quân sự khu vực X đã nhận thấy: D đi uống
rượu buổi trưa về khu trọ đập cửa và la hét, khi Ngô Hoàng N nhắc nhở thì D
lại quay sang chửi N và tiếp tục la hét, chử bới điều này cho thấy D là người
không chấp hành nội quy của khu trọ và có ý thức coi thường người khác. Khi
được mở cửa vào phòng ngay lập tức D đã cầm lấy con dao hoa quả và chạy
sang tìm N để nói chuyện, khi được can ngăn còn nói “thằng nào can tao xiên
chết”, rồi D cầm dao nhằm N đâm và miệng nói “để tao dậy cho mày một bài
học”, khi được can ngăn D còn chém cả người can ngăn, mọi người bỏ chạy
D còn đuổi theo tay vẫn cầm dao và mồm hét tao chém mày. Các hành vi trên
cho thấy D là người coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác, sẵn sàng
dùng dao đâm, chém vì duyên cớ nhỏ nhặt như bị người khác nhắc nhở, khi
người khác can ngăn. Do vậy hành vi của D thỏa mãn thêm yếu tố phạm tội
có tính chất côn đồ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 104 BLHS là có căn cứ,
36
đúng quy định pháp luật.
Chất lượng xét xử (định tội danh) của các Tòa án quân sự cơ bản là tốt,
tuy nhiên có một số vụ án qua công tác kiểm tra án của Tòa án quân sự Trung
ương, của các Tòa án quân sự Quân khu, qua công tác xét xử phúc thẩm, giám
đốc thẩm vẫn còn một số sai sót như còn có trường hợp định tội, định khung
hình phạt sai.
2.1.2.2. Một số hạn chế, sai lầm trong định tội danh
Đây là những sai sót do cơ quan tiến hành tố tụng đánh giá chưa toàn
diện khách quan tất cả các tình tiết của vụ án, các chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án, dẫn đến định tội danh sai. Việc định tội danh nhầm lẫn chủ yếu là giữa tội
giết người (chưa đạt) với hành vi cố ý gây thương tích; giữa hành vi cố ý gây
thương tích dẫn đến hậu quả chết người với hành vi giết người; giữa hành vi
cố ý gây thương tích với hành vi cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng hoặc trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Dưới
đây là một số ví dụ điển hình:
Ví dụ 1:Nhầm lẫn giữa giết người (chưa đạt) với Cố ý gây thương tích.
Vụ Phạm Văn Hiền phạm tội “Cố ý gây thương tích” (Bản án số
01/2016/HSST ngày 14/01/2016 của TAQS Khu vực 2 – Quân khu 5).
Khoảng 7h 30’ ngày 05/10/2015, Phạm Văn Hiền (nhân viên tài chính)
mang sổ nhật kí chi tiêu để Võ Đức Toàn kí xác nhận, do Toàn chưa kí ngay
và bực tức vì tại buổi chào cờ Toàn nhận xét Hiền không hoàn thành nhiệm
vụ trước toàn thể đơn vị, Hiền xuống bếp lấy con dao, loại dùng chặt xương,
dài khoảng 38cm, chỗ rộng nhất 6,8cm, cán sắt, nặng 0,6kg, bỏ vào trong cặp
và đến phòng Toàn, thấy Toàn chưa kí xác nhận, Hiền đến phía sau, cách
Toàn 70 – 80cm, tay phải cầm dao chém hai nhát từ trên xuống dưới, phía sau
đầu Toàn, khi Toàn đứng dậy, Hiền tiếp tục chém nhát thứ hai vào sau cổ
Toàn. Toàn bỏ chạy, Hiền không đuổi theo mà mang dao về để trên bàn. Hiền
37
khai do bực tức nên chém Toàn cho bõ tức và để rằn mặt Toàn lần sau không
được nhận xét như thế. Giám định pháp y kết luận, nạn nhân bị tác động bởi
vật sắc gây nên, tỉ lệ thương tật là 46%.
Quyết định của bản án sơ thẩm “Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Hiền phạm
tội “Cố ý gây thương tích”. Áp dụng khoản 3 Điều 104, điểm b,p,s khoản 1,
khoản 2 Điều 46 BLHS, xử phạt bị cáo Phạm Văn Hiền 5 năm tù, thời hạn
chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 05/10/2015.
Vụ án không có kháng cáo, kháng nghị nhưng qua công tác giám sát
việc xét xử đã kết luận: Tòa sơ thẩm kết án bị cáo Phạm Văn Hiền về tội “Cố
ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 104 BLHS là chưa chính xác. Bởi vì,
do bực tức với Toàn nên Hiền đã chuẩn bị con dao loại chặt xương (to và
nặng - đây là hung khí nguy hiểm), đứng phía sau, chủđộng chém hai nhát từ
trên xuống dưới, vào vùng sau đầu và cổ của Toàn, là những vị trí hiểm yếu
của cơ thể con người, nạn nhân bị chém trong tình huống hoàn toàn bị động,
bất ngờ không thể chống cự được, hành vi của bị cáo thể hiện tính nguy hiểm
cao độ, anh Toàn không chết là ngoài ý thức chủ quan của bị cáo. Do vậy,
hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Văn Hiền phải bị xét xử về tội Giết người
(chưa đạt) mới đúng.
Ví dụ 2: Nhầm lẫn giữa tội cố ý gây thương tích và cố ý gây thương
tích do vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng.
Vụ Nguyễn Thế Hưng phạm tội hành hung đồng đội; Lý Văn Tăng
phạm tội cố ý gây thương tích.
Khoảng 6 giờ ngày 06/6/2016, Nguyễn Thế Hưng và Lý Văn Tăng
cùng một số đồng chí khác được giao nhiệm vụ dọn nhà vệ sinh của đơn vị,
do mâu thuẫn trong việc dọn dẹp Hưng và Tăng có lời qua tiếng lại với nhau
và đấm đá nhau nhưng thôi.
Buổi chiều trong khi tăng gia, Hưng nói “thích bật thì tối nay cho bật”
và “tối nay có thằng bị đánh”. Tăng nghe thấy và nghĩ là tối nay Hưng sẽ
38
đánh mình, nên khoảng 21 giờ cùng ngày, Tăng đã vào kho của Đại đội lấy
một chiếc đục sắt không có cán (loại đục tràng) về cất dưới chiếu đầu giường
ngủ. Khoảng 22 giờ cùng ngày, sau khi đi gác về, Hưng gọi Quách Gia Định
đi đánh Tăng. Hưng đến giường Tăng nói “mày đi ra ngoài tao bảo”, Tăng nói
“có gì cho tao xin lỗi”, lập tức Hưng dùng tay phải tát hai cái vào má Tăng và
nói “dậy, đi ra ngoài tao bảo”, rồi Hưng đi trước. Tăng lấy chiếc đục ở dưới
chiếu cho vào túi quần dài bên trái rồi đi theo sau. Khi Tăng ra đến chỗ Hưng
và Định đứng thì Hưng nói “sao tao gọi mày không ra, mày muốn gì”, Tăng
nói “có gì tao xin lỗi”, Hưng liền dùng tay phải đấm vào bụng và vào má trái
tăng, Tăng chưa kịp phản ứng gì thì Định lao vào đấm hai cái vào má Tăng.
Bị đánh, Tăng vừa chạy đồng thời tay trái rút đục trong túi quần ra, lúc này
Định đuổi theo sau và cách Tăng khoảng 50cm, Tăng ngoái lại nhìn Định và
đâm quàng từ trước về sau, từ trái qua phải, từ trên xuống dưới làm phần nhọn
đầu tra cán đục đâm vào trước giữa cổ Định. Sau khi sơ cấp cứu và kiểm tra
thấy vết thương của Định không còn chảy máu, huyết áp, tim mạch, nhiệt độ,
ăn uống, nói chuyện bình thường. Đến khoảng 9 giờ ngày 07/6/2011 thì tình
trạng sức khỏe của Định yếu đi, huyết áp tụt, nên đơn vị đã đưa đến Bệnh
viện 109 để cấp cứu nhưng đã tử vong hồi 10 giờ 50 ngày 07/6/2016.
Quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2016/HSST ngày
13/7/2016 của Tòa án quân sự Khu vực 2 Quân khu 2 tuyên bố bị cáo Nguyễn
Thế Hưng phạm tội hành hung đồng đội; bị cáo Lý Văn Tăng phạm tội cố ý
gây thương tích.Áp dụng khoản 3 Điều 104; điểm b, p, đ khoản 1 Điều 46, xử
phạt bị cáo Lý Văn Tăng 66 tháng tù.
Trong vụ án này cấp sơ thẩm đã không xem xét khách quan, toàn diện
các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên việc đánh giá hành vi phạm tội của bị
cáo là chưa chính xác. Sáng ngày 06/6/2011, Hưng đã đánh và đe dọa buổi tối
sẽ đánh Lý Văn Tăng, và ngay buổi tối hôm đó, Hưng lại rủ Quách Gia Định
gọi Tăng ra ngoài để đánh (tát, đấm) Tăng, làm Tăng phải bỏ chạy, nhưng nạn
39
nhân Định vẫn tiếp tục đuổi theo. Lúc này, Tăng rất bực tức và sợ bị Tăng và
Định đánh tiếp nên đã có hành vi chống trả lại nhằm ngăn chặn sự truy đuổi,
tấn công của Định, làm Định bị thương dẫn đến tử vong. Trong vụ án này,
hành vi phạm tội của bị cáo Lý Văn Tăng thỏa mãn dấu hiệu cấu thành Tội cố
ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng quy định tại Điều
106 BLHS.
Ví dụ 3: Nhầm lẫn giữa tội cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết
người với tội giết người.
Vụ án Dương Công Trường phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo
khoản 3 Điều 104 BLHS.
Vào khoảng 19h30 ngày 28/9/2015, Trung úy CN Dương Văn Huyên
cùng hai chiến sỹ đi dự tết trung thu tại thôn Nà Danh, xã Vũ Sơn, Bắc Sơn,
Lạng Sơn. Đến khoảng 21 giờ kết thúc chương trình văn nghệ Huyênđến quán
nhà chị Hoàng Thị Minh uống nước, đợi Nông Thị Lệ đến thì có một số thanh
niên địa phương đến gây sự, cho rằng Huyên đến tái gái của xóm. Huyên cùng
hai chiến sỹ không nói gì. Cùng lúc này, Nông Thị Lệ đi xe máy qua cửa quan
nước gọi Huyên xuống nhà Lệ chơi. Huyên quay ra nói chuyện với Lệ, thì
Dương Công Trường cho rằng Huyên coi thường mình, không thèm nói
chuyện mà quay sang nói chuyện với Lệ nên đi tới, đứng cách khoảng 50cm về
bên trái Huyên và nắm tay phải đấm mạnh một cái vào vùng thái dương trái
của Dương Văn Huyên kêu “bộp” một tiếng. Ngay sau khi bị đấm, Huyên từ từ
đổ người về phía Lệ chạm vào đầu xe máy làm chiếc xe cũng đổ theo và Huyên
ngã ngửa xuống rìa đường. Mọi người gọi Huyên không phản ứng gì liền đưa
Huyên đi cấp cứu nhưng Huyên đã tử vong hồi 21 giờ 40 phút cùng ngày. Theo
kết luận giám định pháp y, Dương Văn Huyên chết do có lực tác dụng vào
vùng thái dương trái gây chấn thương sọ não kín.
Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định Dương Công Trường phạm tội cố ý gây
thương tích dẫn đến chết người bởi vì giữa bị cáo và nạn nhân không có mâu
40
thuẫn gay gắt dẫn đến việc bị cáo phải giết nạn nhân, không xác định được
động cơ và mục đích phạm tội. Thêm vào đó hành vi đấm một cái, kết hợp lời
khai của bị cáo không hề muốn cướp đi tính mạng của nạn nhân cho thấy bị
cáo không có chủ ý giết người, nạn nhân chết ngoài ý muốn của quan của y.
Ngược lại quan điểm trên, chúng tôi cho rằng động cơ mục đích không
phải là yếu tố cho phép phân biệt được giữa tội giết người và cố ý gây thương
tích. Để định tội danh cần xác định được hành vi khách quan và ý thức chủ
quan của của bị cáo. Do nghi ngờ việc Huyên đến tán gái của xóm và cho
rằng Huyên coi thường mình nên khi nạn nhân đang nói chuyện với chị Lệ, bị
cáo đi gần tới (cách 50 cm) và nắm tay phải đấm mạnh một cái vào vùng thái
dương trái của nạn nhân kêu “bộp” một cái, tiếng kêu rõ thể hiện rõ lực đánh
rất mạnh. Hậu quả nạn nhân bị chấn thương sọ não kín và chết vì thương tích
này, hậu quả chết người xảy ra có mối quan hệ nhân quả trực tiếp với hành vi
gây thương tích. Trong khi hành động bị cáo không bị ai cản trở, có thời gian
suy nghĩ kỹ càng để lựa chọn phương án hành động nhưng bị cáo đã lựa chọn
đấm vào vùng thái dương – vị trí rất nguy hiểm. Bị cáo nhận thức được hành
vi đấm vào vùng thái dương có thể gây hậu quả chết người, bị cáo thấy trước
hậu quả chết người có thể xẩy ra, tuy bị cáo không mong muốn nạn nhân chết
nhưng vẫn hành động có ý thức bỏ mặc hậu quả xẩy ra, hậu quả chết người đã
xảy ra do vậy bị cáo phạm tội “Giết người” với lỗi cố ý gián tiếp.
* Áp dụng chưa đúng các tình tiết định khung
Đây là một số trường hợp Hội đồng xét xử đánh giá chưa chính xác các
yếu tố định khung hình phạt (như chưa làm rõ thế nào là hung khí nguy hiểm,
có tính chất côn đồ, phạm tội nhiều lần…) nên dẫn đến định khung hình phạt
chưa chính xác, dưới đây là một số vụ án chứng minh cho điều này.
Ví dụ 1: Vụ án Hứa Văn Tâm và đồng phạm phạm tội cố ý gây thương
tích theo khoản 1 Điều 104 BLHS.
Khoảng 18h15' ngày 08/8/2009, Nông Văn Huy, Hứa Văn Tâm, Lần
41
Văn Thống, Vương Minh Anh có mặt tại sân bóng chuyền của Đại đội cơ
động thuộc Tiểu đoàn huấn luyện - cơ động, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng
tỉnh Cao Bằng để xem và tham gia chơi bóng chuyền. Để bảo đảm cho việc
luyện tập của đơn vị nên chỉ huy đơn vị đã yêu cầu các thanh niên rời khỏi
sân bóng. Nông Văn Huy đang giữ quả bóng của đơn vị đã tỏ thái độ không
đồng ý và đá quả bóng xuống sông Gâm. Quân nhân Nguyễn Việt Dũng yêu
cầu Huy đi nhặt quả bóng về trả cho đơn vị nhưng Huy kiên quyết không đi
nhặt mà có thái độ chửi bới, thách thức các quân nhân trong đơn vị và đe dọa
quân nhân Nguyễn Việt Dũng rồi bỏ ra xe để đi về. Thấy vậy Nguyễn Việt
Dũng đã lao đến đấm một phát trúng vào thái dương bên trái của Huy. Cùng
lúc đó, Hứa Văn Tâm thấy Huy bị đánh liền lao đến dùng tay đấm trúng vào
mặt Nguyễn Việt Dũng, Vương Minh Anh dùng hai tay ôm chặt Nguyễn Việt
Dũng để Lần Văn Thống và Hứa Văn Tâm dùng tay chân đánh Dũng. Thống
dùng tay đánh mạnh trúng vào mang tai bên phải của Dũng, Tâm dùng mũ cối
đập trúng vào vùng thái dương đỉnh phải của Dũng. Thấy Dũng bị mũ cối đập
vào thái dương nên Vương Minh Anh buông Dũng ra. Sau đó các bị can ra xe
mô tô đi khỏi đơn vị. Hậu quả, Nguyễn Việt Dũng bị thương với tỉ lệ thương
tật là 12% tạm thời.
Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu X dựa trên tỷ lệ thương tật 12%
đã xét xử các bị cáo Tâm, Thống, Anh về tội cố ý gây thương tích theo khoản
1 Điều 104 BLHS năm 1999.
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng phải xét xử bị cáo Hứa Văn Tâm về tội
cố ý gây thương tích theo khoản 2 Điều 104 mới chính xác, bởi vì:
Chiếc mũ cối mà Hứa Văn Tâm đánh Dũng là vật cứng, đầu mũ có bọc
sắt đây là công cụ nếu sử dụng để tấn công vào đầu người khác có khả năng
gây sát thương cao, gây nguy hiểm đến sức khỏe của người khác. Vì vậy căn
cứ mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội
đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì mũ cối được xác định là hung
42
khí nguy hiểm.
Các bị cáo phạm tội với vai trò là đồng phạm giản đơn, không hề có sự
tính toán bàn bạc trước. Vương Minh Anh ôm Nguyễn Việt Dũng nhằm mục
đích để Hứa Văn Tâm và Lần Văn Thống dùng chân, tay tấn công gây thương
tích. Khi thấy Hứa Văn Tâm dùng mũ cối đập Dũng, các bị cáo biết nhưng
không có hành động căn ngăn, có ý thức bỏ mặc hậu quả xẩy ra do vậy các bị
cáo cùng phạm tội Cố ý gây thương tích theo khoản 2 Điều 104 BLHS.
Ví dụ 2: Vụ án Nông Quốc Hoan phạm tội “cố ý gây thương tích” theo
khoản 2 Điều 104 BLHS với 3 tình tiết định khung tăng nặng.
Khoảng 22 giờ 20 phút ngày 17/12/2016 Nông Quốc Hoan cùng Nông
Thành Luân đến quán nhà Nguyễn Xuân Học ở xóm Đoỏng Pán, xã Kháng
Chiến, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn uống nước, khi đến quán nhà Học
thì Triệu Sinh Tiến và Triệu Văn Qúy cùng đến. Sau đó Tiến, Hoan, Luân và
Qúy có ngồi uống rượu với nhau. Sau khi uống hết chai rượu thì Tiến và Qúy
về trước. Thấy vậy Hoan đi theo Tiến cách khoảng 2m thì nói "anh ở lại uống
với em một tý nữa đã"; Tiến bảo "anh mệt rồi, về thôi để khi khác anh em
mình gặp nhau"; Hoan bảo "anh không ở lại, em đâm anh một nhát", đồng
thời Hoan lấy dao trong túi áo đến cách Tiến khoảng 50cm-60cm, tay phải
cầm dao đâm trúng vào ngực phải làm Tiến ngã xuống đường bất tỉnh.
Ngoảnh lại phía cổng quán, thấy Qúy đang đi xe máy ra, Hoan tiến lại gần
Qúy cách khoảng 50cm nói với Qúy "mày xuống xe", đồng thời tay phải cầm
dao đâm trúng vào phần giữa xương ức của Qúy. Hoan và Quý ngay lập tức
được đưa đi bệnh viện. Tỷ lệ tổn đối với Triệu Văn Qúy là 01%. Triệu Sinh
Tiến là bị vết thương thấu ngực vào phổi được đưa đến bệnh viện đa khoa tỉnh
Lạng Sơn, tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Lạng Sơn đã giám định tỷ lệ thương tật
của Tiến là 27%. Sau đó Tiến được chuyển xuống bệnh viện Quân y 110
QK1, tại đây tiến được giám định pháp ý với tỷ lệ thương tật là 15%.
Tòa án quân sự Khu vực 2 – Quân khu X nhận định: Hành vi dùng dao
43
nhọn đâm gây thương tích cho Triệu Sinh Tiến và Triệu Văn Qúy của bị cáo
Nông Quốc Hoan đã xâm phạm đến quyền được bảo hộ về sức khỏe của con
người, hành vi được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp và lỗi hoàn toàn thuộc về
bị cáo. Con dao bị cáo dùng để gây thương tích cho những người bị hại là
"hung khí nguy hiểm"; hành vi gây thương tích cho người bị hại Triệu Sinh
Tiến và Triệu Văn Qúy là "phạm tội đối với nhiều người"; hành vi chỉ vì do
bực tức việc mời những người bị hại ở lại uống rượu nhưng không được nên
bị cáo gây thương tích cho những người bị hại là "có tính chất côn đồ" được
quy định tại ý 1 điểm a, ý 2 điểm c và ý 1 điểm i khoản 1 Điều 104 BLHS.
Như vậy hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “cố ý gây
thương tích” theo quy định tại khoản 2 Điều 104 BLHS.
Tuy nhiên, tác giả cho rằng hành vi gây thương tích của bị cáo Nông
Quốc Hoan không thuộc trường hợp “phạm tội đối với nhiều người” bởi vì
Căn cứ vào Điểm c.2 mục 3.2 của nghị quyết HĐTP 01/2016 ngày 12/5/2006
của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật
Hình sự: “Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội nhiều lần đối đối với nhiều người"
quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104 của BLHS để xét xử bị cáo theo khoản 2
Điều 104 của BLHS trong các trường hợp sau đây: c.2. Cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của hai người trở lên (có thể một lần, có thể
nhiều lần đối với mỗi người) mà trong đó có ít nhất hai người và mỗi người
một lần tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%”. Nông Quốc Hoan gây thương tích
cho 02 người nhưng tỷ lệ thương tật Triệu Sinh Tiến là 27%, đối với Triệu
Văn Qúy là 01%. Tỷ lệ thương tích của Quý không thuộc quy định từ 11%
đến 30% nên Nông Quốc Hoan không phạm tội với tình tiết định khung tăng
nặng là “phạm tội nhiều lần”.
Thêm vào đó, trong vụ án này Triệu Sinh Tiến có 2 bản kết luật giám
định pháp y, mà 2 bản kết luận giám định này là khác nhau. HĐXX không
lập luận để lấy kết luận giám định pháp y nào làm căn cứ để định tội, định
44
khung hình phạt là chưa chính xác.
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong quá trình xét xử tại
Tòa án Quân sự.
Theo số liệu thống kê từ Tòa án quân sự Trung ương 5 năm qua các
Tòa án quân sự xét xử 654 bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích”, việc áp
dụng hình phạt đối với các bị cáo được thể hiện theo bảng số liệu dưới đây.
Bảng 2.3: Bảng biểu diễn mức hình phạt áp dụng khi xét xử tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Hình phạt áp dụng
Tù từ Cải
tạo Tù từ 03 03 Tù từ Tù từ Tổng không năm trở năm 07 năm 15 năm Tù Năm số bị giam xuống đến đến đến chung cáo giữ (hưởng dưới dưới dưới thân
án treo) 07 15 năm 20 năm
năm
2 86 (32) 59 3 2014 150 0 0
5 82 (39) 70 5 2015 162 0 0
9 77 (25) 71 8 2016 165 0 0
7 30 (19) 33 5 2017 75 0 0
6 65 (38) 25 6 2018 102 0 0
Tổng 654 29 340 (153) 258 30 0 0
Tỷ lệ % 4% 52% 40% 4 % 0 0
Qua bảng số liệu trên chúng ta thấy, trong tổng số 654 bị cáo bị áp
dụng hình phạt thì hình phạt thì không có bị cáo nào bị áp dụng hình phạt tù
từ 15 năm đến dưới 20 năm, tù chung thân; có 29 bị cáo bị hình phạt cải tạo
45
không giảm giữ được, chiếm tỷ lệ thấp nhất; sau đó là hình phạt tù từ 07 năm
đến 15 năm là 30 bị cáo chiếm tương đương khoảng 4%; hình phạt tù từ 3
năm đến dưới 7 năm chiếm tỷ lệ đáng kể là 40%; hình phạt tù dưới 3 năm
chiếm tỷ lệ cao nhất là 52%.
Trong những năm gần đây việc áp dụng hình phạt không tước quyền tự
do có xu hướng tăng so với tổng số bị cáo bị áp dụng hình phạt. Năm 2016 tỷ
lệ này là 31 bị cáo/ 165 bị cáo = 18%; Năm 2017 tỷ lệ này là 26 bị cáo/ 75 bị
cáo = 34%; Năm 2018 tỷ lệ này là 44 bị cáo/ 102 bị cáo = 43%. Con số này
phản ánh trong những năm gần đây các Tòa án quân sự đã áp dụng hình phạt
không tước quyền tự do mở hơn so với những năm trước.Tuy nhiên qua việc
xem lại chất lượng xét xử tại Bảng 2.2 cho thấy tỷ lệ sửa, hủy án trong những
năm gần đây có xu hướng giảm và chiếm tỷ lệ rât thấp điều này cho thấy việc
áp dụng hình phạt không tước quyền tự do (cải tạo không giảm giữ hay án
treo) của Các Tòa án quân sự là đúng quy định pháp luật.
Quá trình nghiên cứu 332 bản án xét xử về tội cố ý gây thương tích
trong 5 năm qua, tác giả thấy rằng về cơ bản việc quyết định hình phạt của
các Tòa án quân sự là tốt, đã tuân thủ đúng các quy định pháp luật, xem xét
toàn diện, khách quan các tình tiết của vụ án, vai trò đồng phạm và nhân thân
của bị cáo, đặc biệt các trường hợp áp dụng hình phạt cải tạo không giảm giữ
hoặc cho hưởng án treo được xem xét thận trọng, chắc chắn đúng quy định
của pháp luật, dưới đây là một số vụ án cụ thể:
2.2.1 Một số vụ án quyết định hình phạt đúng
Ví dụ 1:Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị cho bị cáo hưởng án treo
nhưng HĐXX không chấp nhận.
Vụ án Đặng Đình Trình phạm tội “Cố ý gây thương tích” (Bản án số
02/2017/HSST ngày 09/5/2017 của Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5)
Sáng ngày 10/01/2017 Đặng Đình Trình đang ngồi chơi tại rẫy nhà chị
Đàm Thị Duyên với anh Lê Văn Cường thì nghe vợ gọi điện bị anh Trần
46
Thanh Thủy chặn đường đánh. Nghe xong Trình chạy xuống bếp nhà chị
Duyên lấy con dao dài, mũi nhọn bỏ lên xe mô tô chạy đến Lô cao su số 3,
Đội 16 nơi vợ Trình đang ở đó. Tới nơi Trình chỉ hỏi: “Mẹ thằng nào đánh vợ
tao” rồi tay phải cầm dao chém nhiều nhát vào người anh Trần Thanh Thủy.
Thấy anh Thủy bị chém, Trần Hồng Anh vào căn ngăn cũng bị Trình chém
vào người. Sau khi chém Trần Hồng Anh thì Đặng Đình Trình ngã và bị tước
mất dao. Hậu quả: anh Trần Thanh Thủy bị thương tích 10%, Trần Hồng Anh
bị thương tích 10%.
Viện kiểm sát quân sự khu vực X – Quân khu 5 đề nghị áp dụng điểm a
khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 65
BLHS xử phạt Đặng Đình Trình 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo thời gian
thử thách là 24 tháng.
Tuy nhiên, HĐXX Tòa án quân sự Khu vực 1 – Quân khu 5 nhận định:
xem xét đánh giá toàn diện vụ án thì hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm dùng
dao chém nhiều nhát vào nhiều người, chém cả người vào căn ngăn, hành vi
phạm tội của bị cáo có tính chất côn đồ, phạm tội đối với nhiều người, do vậy
không chấp nhận đề nghị đại diện Viện kiểm sát cho bị cáo hưởng án treo, cần
áp dụng hình phạt tù để đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung. Do vậy
HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134, điểm b, s, i khoản 1 và khoản 2
Điều 51, Điều 38 BLHS xử phạt Đặng Đình Trình 01 năm tù.
Qua vụ án này chúng ta thấy rằng, mặc dù đại diện Viện Kiểm sát đề
nghị hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo (bị cáo đủ điều kiện để hưởng án
treo) nhưng HĐXX căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội xét thấy
cần xử nghiêm, áp dụng hình phạt tù với bị cáo là phù hợp.
Ví dụ 2: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị hình phạt tù nhưng HĐXX cho
bị cáo được hưởng án treo.
Vụ án Triệu Văn Bách và đồng phạm phạm tội “Cố ý gây thương tích”
47
theo khoản 3 Điều 104 BLHS. (Tòa án quân sự Khu vực 2 Quân khu 1)
Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 09/02/2016 Triệu Văn Bách, Chu Văn
Quân, Nguyễn Tùng Lâm rủ nhau đi chơi về đến quán Karaoke Lộc Vừng
thuộc thôn Đơn Xa, xã Hòa Bình, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn. Tại đây Lý
Văn Quang là bạn của Lâm có mời Quân, Bách, Lâm vào phòng hát của nhóm
Quang (trong đó có Mai Xuân Long). Đến khoảng 23 giờ thì nhóm của Bách,
Quân, Lâm ra ngoài trước; khi ra ngoài quán Lộc Vừng thì bị Mai Xuân Long
chửi nên Bách đã lao vào dùng tay, chân đánh Long trước; Quân dùng chổi
lau nhà đập Long, Lâm cũng lao vào dùng tay đấm Long 2 cái nhưng trượt.
Trong lúc đánh Long, Bách chạy ra xe mô tô của mình mở cốp cầm dao và
lao vào đâm nhiều nhát vào người Long. Thấy Long bị đâm chảy máu, cả bọn
Bách, Quân, Lâm bỏ chạy. Hậu quả Mai Xuân Long bị tổn hại sức khỏe 40%.
Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng khoản 3 Điều 104; điểm b, p
khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 20, Điều 53; Điều 33 Xử phạt Triệu
Văn Bách 45 tháng tù, Chu Văn Quân 24 tháng tù, Nguyễn Tùng Lâm 24
tháng tù.
Hội đồng xét xử TAQS Khu vực 1 Quân khu 1 cho rằng: Đây là vụ án
có tính chất đồng phạm giản đơn, các bị cáo không hề có sự bàn bạc đánh
người từ trước mà xuất phát từ việc Long chửi bị cáo Bách trước. Sau đó
Bách lao vào đấm, đá Long; Quân thấy vậy cầm chổi lau nhà vụt Long; Lâm
cũng lao vào đấm Long 2 cái nhưng trượt. Trong lúc đánh nhau Bách tự ý bỏ
chạy ra cốp xe lấy dao đâm Long, Quân và Lâm thấy nhưng không kịp căn
ngăn có ý thức bỏ mặc hậu quả xẩy ra nên các bị cáo phải chịu chung hậu
quả. Tuy nhiên, đánh giá vai trò từng đồng phạm HĐXX thấy Nguyễn Tùng
Lâm là người thực hành có vai trò không đáng kể (Lâm chỉ lao vào đấm Long
2 cái nhưng trượt). Do vậy đại diện Viện kiểm sát đề nghị Lâm mức án 24
tháng tù bằng mức án của Quân là không phù hợp. Xem xét tính chất mức độ
hành vi phạm tội của từng đồng phạm, HĐXX đã áp dụng khoản 3 Điều 104;
48
điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 20, Điều 53; Điều 60
BLHS xử phạt Nguyễn Tùng Lâm 20 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời
gian thử thách là 40 tháng.
Qua vụ án này, chúng ta thấy HĐXX đã cá thể hóa trách nhiệm hình sự
từng đồng phạm trong quyết định hình phạt, Bách là người dùng dao đâm
Long nên chịu TNHS cao nhất, sau đó là Quân dùng chổi quét nhà vụt Long
chịu TNHS sau bị cáo Bách, Lâm là người dùng tay đấm nhưng không trúng
nên chịu TNHS nhẹ nhất.
2.2.2. Một số vụ án quyết định hình phạt có sai sót
Bên cạnh nhưng ưu điểm nêu trên,việc quyết định hình phạt đối với
654 bị cáo trong 5 năm qua vẫn có một số sai sót đã được nhắc đến trong các
thông báo kiểm tra án của Tòa án quân sự Trung ương, của các Tòa án quân
sự Quân khu như:Áp dụng hình phạt cho một số bị cáo chưa nghiêm, chưa
tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; cho bị cáo
hưởng án treo chưa đúng các quy định của pháp luật, đặc biệt là các Nghị
quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 hướng dẫn áp dụng Điều 60
BLHS về án treo; Nghị quyết 02/2018 của Hội đồng thẩm phán TAND tối
cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 BLHS về án treo, cụ thể có trường hợp sau:
Ví dụ 1:HĐXX cho hưởng án treo không đúng quy định pháp luật.
Khoảng 18h gày 20/8/2016, Nguyễn Quang Dũng cùng nhóm bạn đi
liên hoan sinh nhật tại nhà hàng thuộc địa phận xã Kha Sơn, huyện Phú Bình,
tỉnh Thái Nguyên. Ngồi bên cạnh có có Triệu Văn Sang đến đang đợi bạn.
Sang thấy nhóm của Dũng nói chuyện ồn ào nên quay sang gây sự. Hai bên
lời qua tiếng lại, thách thức nhau.Thấy nhóm Dũng đông, nên Sang đã bỏ ra
ngoài gọi em mình là Long mang tuýt sắt đến hỗ trợ. Khi Long đến, Sang và
Long cầm tuýt sắt lao vào vụt liên tiếp vào Dũng. Nhóm Dũng thấy vậy bỏ
chạy. Hậu quả Dũng bị thương tật với tỷ lệ 8%. Ngày 15 tháng 3 năm 2016,
Triệu Văn Sang bị công an huyện Phú Bình xử lý hành chính phạt 300.000
49
đồng vì hành vi vượt đèn đỏ.
HĐXX Tòa án quân sự khu vực 1 Quân khu 1 đã áp dụng điểm a khoản
1 Điều 104, điểm b, s khoản 1 Điều 46, Điều 33, Điều 60 Bộ luật hình sự xử
phạt Triệu Văn Sang 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử
thách là 24 tháng.
Trong trường hợp này, bị cáo đã có 01 tiền sự về hành vi vượt đèn đỏ,
nhưng HĐXX vẫn áp dụng cho bị cáo hưởng án treo là không đúng theo quy
định tại điểm b, khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày
06/11/2013 hướng dẫn áp dụng điều 60 BLHS về án treo.
Ví dụ 2: HĐXX lạm dụng Điều 47, Điều 60 BLHS 1999.
Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 24/8/2015 Phạm Minh Chung cùng Võ
Thanh Quất và một số chiến sỹ khác sau khi làm nhiệm vụ về ăn cơm tại nhà
ăn của đơn vị, khi ăn xong Chung dọn bát, đĩa phần ăn của mình (theo quy
định của đơn vị nếu ca gác nào về muộn thì dọn phần bát, đĩa của mình vào
nơi quy định), thấy Võ Thanh Quất ăn xong đi về nhưng chưa dọn phần của
Quất nên Chung đã gọi Quất quay lại. Khi Quất quay lại thì Chung nói "Mày
ăn xong không dọn để ai dọn", Quất nói "Bây giờ quay lại dọn cũng được chứ
sao". Nghe Quất nói vậy Chung dùng bát ăn cơm đập vào mặt Quất 02 phát,
bị Chung đánh Quất choáng váng lùi về phía sau, Chung túm lấy áo mưa Quất
đang quàng trên người kéo lại đồng thời dùng chân phải đá vào người Quất
làm Quất ngã ngửa đập đầu xuống nền nhà. Sau khi ngã, Quất co giật kêu ú ớ,
thấy vậy Chung chạy đến nâng Quất dậy cùng với Khương Văn Nam bế Quất
vào giường trực nhà bếp. Quất được đơn vị đưa đi cấp cứu. Võ Thanh Quất bị
chấn thương sọ não, phải mổ hộp sọ điều trị, tỷ lệ thương tật là 45%.
Tòa án quân sự khu vực 1 Quân khu X áp dụng Khoản 3 Điều 104; các
Điểm b, p, s Khoản 1, 2 Điều 46, Điều 47 Điều 60 BLHS xử phạt Phạm Minh
Chung 03 (ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 tháng.
Gia đình bị cáo kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt. Hội đồng xét xử sơ
50
thẩm đã sửa bản án sơ thẩm, xử phạt Phạm Minh Chung 05 (năm) năm tù.
Qua vụ án này chúng ta thấy rằng, hành vi của Phạm Minh Chung là rất
nguy hiểm cho xã hội, vì duyên cớ nhỏ nhặt (Quất không dọn bát ăn cơm) đã
dùng bát ăn cơm là vật cứng khi vỡ văng thành nhiều mảnh sắc nhọn – là
hung khí nguy hiểm đập vào mặt Võ Thanh Quất, Quất lùi lại Chung liền túm
áo đạp nạn nhân đập đầu xuống nền nhà, Võ Thanh Quất bị chấn thương sọ
não, phải mổ hộp sọ điều trị, tỷ lệ thương tật là 45%. Chung có 3 tình tiết
giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS nên việc áp dụng Điều 47
BLHS xem xét dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là có phần châm
trước cho bị cáo. Nay lại áp dụng Điều 60 BLHS cho bị cáo hưởng án treo là
không nghiêm.
Ví dụ 3: HĐXX áp dụng Điều 47 BLHS 1999 chưa nghiêm.
Vụ Phạm Văn Khá phạm tội “Cố ý gây thương tích” (Bản án số
04/2015/HSST ngày 23/11/2015 của Tòa án quân sự Khu vực 1 – Qk 7).
Thực hiện kế hoạch đấu tranh chống buôn lậu, vận chuyển thuốc lá
điếu qua biên giới ở địa bàn trọng điểm Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh
Tây Ninh. Khoảng 19h 15’ ngày 10/10/2014, Tổ công tác Đội đặc nhiệm
Phòng chống ma túy Bộ đội Biên phòng tỉnh Tây Ninh gồm 02 đồng chí do
Nguyễn Đức Long, đại úy, tổ trưởng và Lê Thanh Liêm, Thiếu úy QNCN,
HLV chó nghiệp vụ, tổ viên, sử dụng xe mô tô cá nhân làm nhiệm vụ tuần tra
kiểm soát. Trong lúc tuần tra, tổ phát hiện trong ruộng mía dọc đường mòn
khu vực biên giới có người ẩn nấp, quân nhân Long hô “chúng tôi là cán bộ
biên phòng đang đi tuần tra, yêu cầu cho kiểm tra”, thì người này bỏ chạy.
Quân nhân Liêm đuổi theo thì phát hiện them 02 người nữa, cả ba cùng bỏ
chạy về phía Campuchia. Kiểm tra vị trí các đối tượng ẩn nấp, tổ công tác
phát hiện các đối tượng bỏ lại 02 bao tải thuốc lá. Long điện thoại xin lực
lượng tăng cường để đưa tang vật về đồn xử lý. Trên đường đưa tang vật về
đồn, Long nghe tiếng hô “Đánh chết bọn biên phòng” và thấy Phạm Văn Khá
51
cùng 02 đối tượng vừa bỏ chạy mỗi người cầm 01 khúc cây dài khoảng 01 m,
to gần bằng cổ tay, xông vào đánh Long. Long hô “Tôi là Bộ đội Biên phòng
đang làm nhiệm vụ”, đồng thời dùng sung bắn đạn cao su bắn 03 phát nhưng
Khá vẫn xông vào đánh Long, Long đưa sung lên (tay trái) nhằm vào Khá bắn
nhưng đạn không nổ thì bị Khá dùng gậy đánh trúng vào tay làm khẩu sung
của Long rơi xuống đất. Thấy Long bị đánh, Liêm và Bằng chạy đến chống
trả và giải vây cho Long. Liêm lấy khúc cây gần đó quơ qua lại rồi chọc trúng
vào cằm Khá, làm cho Khá ngã xuống đất. Lúc này Long cũng bị những đối
tượng đi cùng Khá đánh nên trượt chân ngã. Tuy bị ngã nhưng Long vẫn
chồm người lên để khống chế Khá, nhưng đã bị Khá quay người lại dùng
khúc cây đánh trúng vai trái, lúc đó hai đối tượng đi cùng Khá đánh liên tục
vào đầu, làm Long ngất xỉu. Khi các quân nhân Bộ đội Biên phòng rút lui,
Phạm Văn Khá đã lấy xe máy của tổ công tác chở bao tải thuốc lá sang
Campuchia. Hậu quả: quân nhân Nguyễn Đức Long bị thương tật với tỉ lệ
24,8%; Tổ công tác Bộ đội Biên phòng không hoàn thành nhiệm vụ chống
buôn lậu.
HĐXX Tòa án quân sự Khu vực 1 – Quân khu 7 đã áp dụng khoản 2
Điều 104, điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47, Điều 20, Điều 52,
Điều 33 BLHS xử phạt Phạm Văn Khá 20 tháng tù.
Chúng tôi cho rằng xử phạt Phạm Văn Khá 20 tháng tù là chưa nghiêm.
Bởi vìtrong vụ án này Phạm Văn Khá cùng một số đối tượng với ý thức coi
thường pháp luật, có hành vi chống trả lại lực lượng Bộ đội Biên phòng một
cách quyết liệt, gây thương tích cho quân nhân Nguyễn Đức Long với tỉ lệ
thương tật là 24,8%; tự ý lấy xe mô tô của tổ trinh sát chở bao tải thuốc lá
sang Campuchia, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự
để quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự đối với hành vi
phạm tội của bị cáo xử phạt Phạm Văn Khá 20 tháng tù là chưa nghiêm.
52
*Ví dụ 4:Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm hình phạt không nghiêm:
Vụ án Đoàn Mạnh Cường phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm
đ khoản 2 Điều 134 BLHS.
Khoảng 14 giờ ngày 13/3/2017, Nguyễn Văn Nam gọi điện thoại cho
Đoàn Mạnh Cường, hẹn gặp nhau để giải quyết mâu thuẫn giữa 2 người đã có
từ trước. Lúc gặp nhau khi Nam, Cường đang nói chuyện, Cường rút gậy kim
loại mang theo vụt vào vai trái của Nam rồi bỏ chạy, Nam nhờ bạn chở xe
máy đuổi theo. Khi đuổi kịp, Nam cũng dùng gậy kim loại vụt Cường nhưng
không trúng, Nam bị Cường vụt lại trúng vào gò má bên trái làm Nam bị
choáng ngã đập đầu xuống đường, Cường vụt thêm một nhát trúng vào trán
Nam rồi nhặt gậy của Nam bỏ chạy. Nguyễn Văn Nam bị thương tích với tỷ
lệ thương tật là 55%.
Tòa án quân sự Khu vực 2 – Quân khu 9 đã áp dụng điểm c, khoản 3
Điều 134, điểm p, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo Đoàn
Mạnh Cường 06 (sáu) năm tù. Buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại số tiền
80.000.000 (tám mươi triệu đồng), bị cáo đã bồi thường 60 triệu, còn phải bồi
thường tiếp 20.000.000 đồng. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Trước khi mở phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt
hại. Tại phiên tòa phúc thẩm HĐXX lập luận: Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo
đã bồi thường toàn bộ thiệt hại, đây thể hiện thái độ ăn năn hối cải, quyết tâm
khắc phục hậu quả của bị cáo, đây là tình tiết giảm nhẹ mới theo quy định tại
điểm b, khoản 1 Điều 51 BLHS - cần xem xét giảm nhẹ đối với bị cáo. Vì
vậy, HĐXX phúc thẩm quyết định chấp nhận kháng cáo của bị cáo sửa hình
phạt từ 06 năm tù xuống còn 05 (năm) năm tù.
Viện kiểm sát quân sự Quân khu 9 đã kháng nghị giám đốc thẩm bản
án hình sự phúc thẩm. Kết quả xét xử giám đốc thẩm tuyên hủy bản án phúc
thẩm, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Qua vụ án này, chúng ta thấy rằng, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã sai
53
khi xác định bị cáo bồi thường thêm 20.000.000 triệu đồng là tình tiết giảm
nhẹ mới theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS. Tình tiết này đã
được xem xét và áp dụng tại phiên tòa sơ thẩm, nay tại phiên tòa phúc thẩm
lại xem xét như một tình tiết giảm nhẹ độc lập là không có căn cứ.
2.3. Nguyên nhân của hạn chế, bất cập
Những bất cập, hạn chế trong quá trình định tội danh, định khung hình
phạt đối với tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác” xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong phạm vi chuyên
đề này, chúng tôi tập chung đề cập tới hai nguyên nhân cơ bản: nguyên nhân
về về đội ngũ cán bộ và nguyên nhân từ hệ thống pháp luật.
* Nguyên nhân về đội ngũ cán bộ.
Do đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán còn thiếu về số
lượng so với chỉ tiêu biên chế được giao, một số ít còn hạn chế trình độ, năng
lực và kinh nghiệm công tác thực tiễn, công tác cán bộ của các cơ quan tư
pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình hiện nay. Qua theo dõi báo cáo
tổng kết công tác hàng năm và xuất phát từ thực tiễn đội ngũ cán bộ chức
danh tư pháp của các Tòa án quân sự thì đội ngũ cán bộ Tòa án có chức tư
pháp của các TAQS còn thiếu và có nhiều vị trí phải kiêm nhiệm. Ví dụ:
Trong năm 2016 , 2017 Tòa án quân sự Khu vực 2 – Quân khu 1 có 7 đồng
chí, trong đó có 01 Thẩm phán đồng thời là Chánh án làm nhiệm vụ xét xử và
01 Thư ký Tòa án. Trong khi đó biên chế đủ cho TAQS cấp khu vực là 13
người (Bao gồm 6 thẩm phán, 4 Thư ký và 3 nhân viên . Tình trạng này cũng
tương tự với các Quân khu khác.
Do đội ngũ Thẩm phán còn thiếu về số lượng phải kiêm nhiệm nhiều
công việc có một số ít cán bộ trình độ chuyên môn chưa cao, nên dẫn đến tình
trạng Thẩm phán chưa nghiên cứu kỹ các văn bản áp dụng pháp luật và hồ sơ
vụ án; chưa đánh giá toàn diện khách quan, chặt chẽ các chứng cứ có trong hồ
sơnên dễ dẫn đến sai lầm trong việc định tội danh, định khung hình phạt. Một
54
số Thẩm phán còn lạm dụng các quy định của pháp luật áp dụng hình phạt
chưa nghiêm (điều này thể hiện qua việc HĐXX cho bị cáo hưởng án treo
không đúng quy định pháp luật, áp dụng Điều 47, Điều 60 BLHS 1999).
Bên cạnh đội ngũ Thẩm phán còn thiếu về số lượng thì đội ngũ Hội
thẩm quân nhân các Tòa án quân sự cũng chưa phát huy được hết vai trò và
trách nhiệm của mình với tư cách là thành viên Hội đồng xét xử. Đa số trong
các vụ án, các Hội thẩm quân nhân thường tham gia cho đủ thành phần, thực
tế vai trò của Hội thẩm quân nhân trong định tội danh, định khung hình phạt
là rất thấp.
Hoạt động lập hồ sơ và kiểm sát việc lập hồ sơ, thu thập chứng cứ trong
một số vụ án của Điều tra viên chưa chặt chẽ, chỉ chú trọng lời khai của bị
can mà chưa chú ý đến các chứng cứ khác; không chú ý điều tra làm rõ động
cơ, mục đích phạm tội; tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ một số vụ án còn rất
nhiều mâu thuẫn. Kiểm sát các hoạt động điều tra làm rõ hành vi, thủ đoạn,
xác định mục đích phạm tội và việc lập hồ sơ của Cơ quan Viện kiểm sát
chưa tốt, nhiều vụ án chỉ chú trọng thu thập chứng cứ buộc tội, bỏ qua chứng
cứ gỡ tội trong vụ án, khi đánh giá chứng cứ nhất là mặt khách quan của tội
phạm còn mang tính chủ quan, suy diễn gây ra oan, sai cho người vô tội là
khó tránh khỏi.
* Nguyên nhân từ công tác xây dựng, hướng dẫn, giải thích phápluật:
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
quy định tại Điều 104 BLHS năm 1999 và Điều 134 BLHS 2015 đã quy định
cụ thể, rõ ràng về từng trường hợp gây thương tích, tuy nhiên việc hướng dẫn
cho những quy định này thì còn có quy định dàn trải tại nhiều các văn bản
khác nhau, dẫn đến quá trình áp dụng gặp nhiều khó khăn. Quá trình định tội
danh để phân biệt giữa hành vi giết người hay cố ý gây thương tích dẫn đến
hậu quả chết người gặp nhiều khó khăn trong việc xác định ý thức chủ
quan.Việc xác định ý thức chủ quan phải căn cứ vào các yếu tố của mặt khách
55
quan, từ hành vi khách quan đánh giá ý thức chủ quan là một vấn đề có nhiều
cách hiểu khác nhau trong thực tiễn. Nhưng cho đến nay, các cơ quan có thẩm
quyền vẫn chưa ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể giúp phân biệt giữa tội
giết người với hành vi cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người. Xuất
phát từ nguyên nhân này, nên nhận thức giữa các địa phương, giữa các cơ
quan tố tụng còn khác nhau, cho nên trong cùng một vụ án còn nhiều quan
điểm khác nhau về tội danh.
Ngoài ra pháp luật chưa quy định rõ về trường hợp có nhiều kết luận
giám định pháp y trong cùng một vụ án thì cơ quan tố tụng chọn kết quả giám
định nào để làm cơ sở định tội, định khung hình phạt.
Tiểu kết chương 2
Xuất phát từ thực tiễn các vụ án trong đó các phần “Quyết định hình
phạt” và “Định tội danh” về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác theo Điều 134 BLHS mà Tòa án quân sự đã xét xử.Các cơ quan
tiến hành tố tụng quân sự đã làm tốt lý luận về tội phạm, áp dụng các nguyên
tắc của “Định tội danh” và “quyết định hình phạt” một các đúng đắn, từ đó
quyết định khung hình phạt một cách đúng đắn, bảo đảm không bỏ lọt tội
phạm, không kết án oan cho người vô tội. Tuy nhiên, trong thời buổi mở cửa,
thời buổi kinh tế thị trường trước sự du nhập văn hóa của các nước trên thế
giới, trong đó có cả những văn hóa xấu độc, nêncũng tác động phần nào tới
tâm lý tội phạm. Nên đòi hỏi các cơ quan tố tụng cũng cần nâng cao nghiệp
vụ chuyên môn, các nhà lập pháp cần đưa ra các văn bản dưới luật quy định
chặt chẽ hơn để khi xét lượng hình bảo đảm sự nghiêm khắc của pháp luật
nhưng vẫn tính nhân đạo của Đảng và Nhà nước. Trong luận văn này tác giả
xin đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự
về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong quân đội
56
được thể hiện trong chương 3 sau đây.
Chương 3
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC
GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
TRONG QUÂN ĐỘI
3.1. Yêu cầu hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
3.1.1 Một số nguyên nhân vướng mắc còn tồn tại để nâng cao chất
lượng xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong quân đội.
Pháp luật do con người tạo ra, luôn luôn dần dần tự hoàn thiện qua các
thời kỳ để tự hoàn thiện pháp luật cho phù hợp với xu thế phát triển của nhân
loại. Trong thực tiễn hiện nay trong quân đội cũng như ngoài Tòa án nhân
dân, nâng cao chất lượng xét xử là một trong những vấn đề cấp bách hiện nay.
Có nhiều vụ án xét xử chưa nghiêm, có trường hợp áp dụng các tình tiết định
khung hình phạt không đúng. Áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS, tăng
nặng TNHS không chính xác do nhận thức chủ quan về quy định cuả pháp
luật không đầy đủ, thiếu thống nhất nên dẫn tới quyết định không đúng,
không phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng ngừa tội phạm, chưa đáp ứng
được yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị trên địa bàn.
Trong thực tiễn hiện nay, cần có những sửa đổi bổ sung các quy định
và hướng dẫn áp dụng pháp luật đối với tội “cố ý gây thương tích hoặc hay
tổn hại cho sức khỏa của người khác” nhất là thống nhất trong định tội danh
và áp dụng hình phạt do chưa có các án lệ phù hợp với đặc thù quân đội.
Có những trường hợp Thẩm phán không nâng cao trách nhiệm trong
nghiên cứu xét xử còn có tính ỷ lại vào Ủy ban thẩm phán, không nâng cao
57
được tính độc lập trong xét xử còn bị nhiều tác động bên ngoài. Từ đó không
phát huy được tính giáo dục, răn đe đối với người phạm tội nói riêng và đối
với xã hội nói chung. Các vướng mắc phát sinh thường xuyên trong thực tế
các vụ án và ADPL của Tòa án quân sự các cấp diễn ra thường xuyên, do đó
Tòa án quân sự cần phải tổ chức học tập quán triệt, triển khai các văn bản
pháp luật, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm thực tiễn các vụ án, từ đó đề ra các
hướng giải quyết.
Việc tự học từ rèn của một số cán bộ trong Quân đội còn hạn chế,
chưa nhận thức chính xác chức năng vai trò của mình trong cơ quan tư
pháp quân đội. Những sai sót đã được Tòa án nhân dân tối cáo, Tòa án
quân sự trung ương chỉ ra, kết luận, đã hướng dẫn rút kinh nghiệm thành
văn bản, và trong thông báo kiểm tra án các quý nhưng vẫn xảy ra tái diễn,
chưa rút được kinh nghiệm.
Kiến thức pháp luật của các đồng chí Hội thẩm quân nhân còn rất nhiều
hạn chế, do đó chất lượng xét xử của một số phiên tòa còn chưa cao. Đa phần
các đồng chí Hội thẩm Quân nhân đều phó mặc công tác xét xử cho Thẩm
phán – chủ tọa phiên tòa, có trường hợp chưa đánh giá hết mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội của bị cáo. Còn đơn giản trong nhận thức, chưa nghiên
cứu hồ sơ tỉ mỉ thận trọng dẫn đến khi mở phiên tòa Hội thẩm quân nhân
không làm hết chức năng vai trò của mình. Cá biệt còn một số vụ án chưa
xem xét hết các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS, không chính xác, áp
dụng còn mang tính chủ quan cá nhân tùy tiện, gượng ép dẫn đến việc quyết
định hình phạt không chính xác.
3.1.2 Một số yêu cầu hoàn thiện tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác
Con người là một thực thể của xã hội, muốn xã hội tốt đẹp thực thể
trong xã hội đó phải được bảo vệ, chăm lo tới quyền dù là nhỏ nhất trong xã
hội. Điều này được thể hiện trong Hiến pháp 2013 của nước ta, hướng tới một
58
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện được mục tiêu trên thì
phải thực hiện tốt các quyền về con người nhất là quyền bất khả xâm phạm về
thân thể. Để làm được việc đó thì yêu cầu đặt ra cho các nhà lập pháp càng
nặng nề hơn nữa, cần hoàn thiện luật cho phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của xã hội. Nhưng vẫn đề mới mà do xã hội phát triển đặt ra cần được
thể hiện hóa bằng các quy định điều luật. Xu hướng để đạt được mục tiêu trên
đó chính là tôn chỉ mục đích “phòng hơn chống”, thể hiện quan điểm nhân
đạo của Đảng và Nhà nước, nhưng cũng đồng thời các điều luật đưa ra cũng
phải mang tính răn đe cao cho nhưng kẻ khác lấy đó làm bài học.
Một vấn đề nữa đặt ra đối Nhà nước đó là giải quyết vấn đề quyền con
người, sau khi những người phạm tội mãn hạn tù quay trở lại tái hòa nhập
cộng đồng. Liệu họ có hoàn lương, trở thành công dân tốt chuộc lại phần nào
nhưng lỗi lầm cho bị hại, cho xã hội đúng như những gì xã hội mong đợi.
Thực tế cho thấy đa phần những người chấp hành án phạt tù xong họ trở về xã
hội đời thường đều phải chịu nhưng dè bỉu của xã hội, con cái vợ (chồng) con
họ đều phải chịu những điều tiếng phân biệt vô hình của dư luận. Hệ lụy sau
khi người chấp hành án phạt tù trở về với cộng đồng là vô cùng lớn rất khó
lường. Chính vì thế điều này phải đặt ra cho các nhà làm luật phải có những
chính sách, chế tài phù hợp với từng địa phương, từng vùng miền để giúp
những người lầm lỡ tái hòa nhập cộng đồng làm người có ích cho xã hội.
Một yêu cầu cấp thiết nữa đặt ra là vấn đề cải cách tư pháp trong hình
sự. Không chỉ riêng hình sự với tính cách là công cụ pháp lý quan trọng và
sắc bén nhất trong việc bảo đảm và bảo vê quyền con người, quyền cơ bản
của công dân. Theo đó, một mặt BLHS 2015 đã đảm bảo tốt hơn quyền con
người, quyền công dân xử lý nghiêm các hành vi xâm hại các quyền con
người, quyền cơ bản của công dân; mặt khác cần nghiên cứu, đề xuất sửa đổi
theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý
người phạm tội; tạo điều kiện thuận lợi để người bị kết án tái hòa nhập cộng
59
đồng. Thực tiễn cho thấy, vẫn còn tình trạng quyền con người, quyền cơ bản
của công dân, nhất là đối với các đối tượng yếu thế trong xã hội vẫn chưa
được tôn trọng một cách đầy đủ, toàn diện. Nhìn chung, người dân chưa
thực sự cảm thấy an toàn về môi trường sống, vẫn còn xảy ra những vụ giết
người, cướp của tàn bạo gây chấn động trong dư luận và gây tâm lý hoang
mang trong một bộ phận nhân dân; người dân chưa thực sự yên tâm phát huy
tính sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như tích cực, chủ
động tham gia phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật. Tình trạng ô
nhiễm môi trường, mất vệ sinh an toàn thực phẩm, mất an toàn trong lao
động…đã đến mức báo động. Đối với người bị kết án thì việc xóa án tích,
nhất là đương nhiên được xóa án tích hiện nay rất phức tạp, thủ tục rườm rà
chưa tạo điều kiện thuận lợi cho họ tái hòa nhập cộng đồng. Vì vậy, BLHS
phải được tiếp tục hoàn thiện để góp phần tạo ra một khung pháp lý đủ mạnh
nhằm bảo vệ một môi trường sống an lành cho người dân; bảo vệ tốt hơn các
quyền con người.
Như tác giả đã trình bầy ở trên đó là một số nguyên nhân vướng mắc
chủ quan khiến cho việc ADPL nói chung và tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe cuả người khác nói riêng khi áp dụng vào thực tiễn xét xử còn
vướng mắc, chưa đúng với pháp luật, chưa đúng với tinh thần nhân đạo của
Đảng và nhà nước. Sau đây tác giả xin trình bầy các giải pháp góp phần hoàn
thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác.
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định của pháp luật
hình sự về định tội danh và quyết định hình phạt tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
3.2.1. Tăng cường công tác đào tạo nghiệp vụ và tuyển chọn cán bộ
Lực lượng cán bộ của ngành Tòa án quân sự đang có xu hướng già hóa,
giảm dần vì trong thời gian gần đây công tác tuyển dụng không được thường
60
xuyên liên tục, khi tuyển dụng thì ồ ạt tạo lên sự chồng chéo, cán bộ thì có
nhưng không có chức danh tư pháp nên không phân công làm những công tác
chuyên môn được. Do vậy cần phải có cơ chế tuyển dụng mang tính thường
xuyên, cơ chế này cũng phù hợp với cơ chế và nhu cầu thực tiễn của ngành
Tòa án Quân sự. Đồng thời cũng khuyến khích, chọn lọc được những cán bộ
đủ phẩm chất, đạo đức, trình độ năng lực vào ngành.
Bên cạnh đó công tác bồi dưỡng cán bộ cho phù hợp đặc thù Quân đội
khi tuyển dụng cán bộ mới vào ngành Tòa án quân sự cũng là một yêu cầu
cấp thiết đặt ra.Với đặc thù ngành Tòa án quân sự, không những phải tuân thủ
những quy định chung của pháp luật, quy định hành chính chung của ngành
Tòa án nhân dân, bảo đảm tính thống nhất, và khôngchỉ làm công việc chuyên
môn là công tác xét xử,mà còn phải đảm nhiệm công tác hành chính, quân sự
như mọi quân nhân khác, luôn tập chung vào nhiệm vụ chính trị của Quân
đội, góp phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn của đất nước, khi có
mệnh lệnh sẵn sàng cầm súng ra chiến trường. Do đó cần phải mở thêm các
khóa huấn luyện kỹ thuật chiến đấu, các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho
phù hợp với đặc thù quân đội. Từ đó nâng cao tạo ý chí tự học tự rèn, tự tu
dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, không ngại khó khăn gian khổ xứng đáng
phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ.
3.2.2. Giải pháp về nâng cao chất lượng của hoạt động ủy ban thẩm
phán Tòa án quân sự
Việc hướng dẫn áp dụng các quy định pháp luật trong Tòa án nhân dân
nói chung do HĐTPTANDTC chịu trách nhiệm, đối với Quân đội thì đó là
Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương, Ủy ban thẩm phán có nhiệm
vụ và quyền hạn đó là thống nhất ADPL trong ngành Tòa án quân sự, có như
vậy thì mới bảo đảm được tính thống nhất cao trong ngành Tòa án nhân dân
nói chung và Tòa án quân sự nói riêng, tránh được chồng chéo, mâu thuẫn
trong áp dụng các quy định của pháp luật, tránh tạo lên sự mâu thuẫn, khó
61
hiểu khi vận dụng luật. Các văn bản hướng dẫn dưới luật lên đồng bộ, thống
nhất cao, rõ ràng những điều luật nào còn hiệu lực, hiệu lực nào hết hiệu lực
để các cấp bên dưới áp dụng được thống nhất. Thực tế trong hệ thống pháp
luật của chúng ta việc các văn bản luật còn chồng chéo, nghị định, thông tư
đôi khi còn hướng dẫn khác nhau, chưa phân hóa được trách nhiệm cụ thể của
các ban ngày nào có quyền thực hiện, nên rất khó cho việc thực hiện, nghiên
cứu và áp dụng vào thực tiễn công việc.
Một vấn đề nữa đặt ra là nhiệm vụ cho công tác hành chính quân sự của
các Tòa án quân sự là rất lớn như tác giả đã trình bầy ở phần trên nên thời
gian đầu tư cho tự học nghiên cứu các văn bản pháp luật là rất hạn chế, mỗi
văn bản pháp luật ban hành lại được rất nhiều các văn bản hướng dẫn của các
cơ quan chức năng, và sau khi áp dụng vào thực tiễn lại nảy sinh các vấn đề
thực tế và lại ra văn bản sửa đổi hướng dẫn mới. Văn bản mới ra đời sẽ phủ
nhận văn bản cũ hoặc bổ sung những điều còn thiếu sót mà văn bản cũ chưa
đề cập hướng dẫn đến. Chính vì thế hệ thống các văn bản hướng dẫn ADPL
của chúng ta chưa đồng bộ, nội dung hướng dẫn còn mang tính chồng chéo
nên khi áp dụng trong thực tiễn vào vụ án còn có vướng mắc cần được sự
thống nhất.
Ủy ban thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương, Viện kiểm sát quân sự
Trung ương cần phối kết hợp chặt chẽ để thống nhất áp dụng các văn bản liên
ngành hướng dẫn các cơ quan tiến hành tố tụng trong Quân đội để giải quyết
các vấn đề về nghiệp vụ như: giải thích áp dụng các quy định pháp luật không
chỉ trong tội CYGGT gây tổn hại sức khỏe người khác mà các BLHS, Bộ luật
Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự nhằm tạo ra sự đồng thuận cao
trong thống nhất nhận thức đối với từng điều luật, từ đó giúp cho các đơn vị
cấp dưới thống nhất áp dụng, tránh được sự tùy tiện trong nhận thức khi tiến
hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
3.2.3.Các kiến nghị sửa đổi, hướng dẫn áp dụng pháp luật một các
62
thống nhất.
3.2.3.1. Tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật các tình tiết quy định
tại các điểm a đến k khoản 1 Điều 134 BLHS.
Theo phân tích ở trên, chưa có văn bản hướng dẫn mới áp dụng các tình
tiết quy định tại các điểm a đến k khoản 1 Điều 134 BLHS 2015. Do vậy, hiện
nay để áp dụng các tình tiết này các Cơ quan tiến hành tố tụng phải căn cứ
vào nhiều văn bản khác nhau để áp dụng ví dụ: hướng dẫn về hung khí nguy
hiểm và thủ đoạn nguy hiểm theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2003/NQ-
HĐTP ngày 17/4/2003; tình tiết phạm tội nhiều lần, phạm tội đối với thầy cô
giáo theo hướng dẫn tại mục Điểm c.2 mục 3.2 và mục 3.3 Nghị quyết số
01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2016.
Việc áp dụng Điều 134 BLHS năm 2015 mà lại căn cứ vào các văn bản
hướng dẫn áp dụng pháp luật của BLHS năm 1999 là không bảo đảm giá trị
hiệu lực về mặt pháp lý. Thêm vào đó, có nhiều hướng dẫn cũ còn chung
chung, chưa cụ thể, khó áp dụng trong thực tiễn, dưới đây là ví dụ:
Tại điểm i khoản 1 Điều 134 BLHS có quy định tình tiết “có tính chất
côn đồ”hướng dẫn cách hiểu đúng tình tiết này vẫn không có gì mới và cụ thể
từ Công văn số 38/NCPL của TANDTC, kết luận hội nghị tổng kết công tác
ngành Tòa án năm 1995 của Chánh án TANDTC. Trong thực tiễn khi xét xử
thì cần thiết phải có hướng dẫn cụ thể hơn, tránh sự tùy tiện trong xét xử,
trong đánh giá để áp dụng các tình tiết này giữa các cơ quan tố tụng được
thống nhất và giữa các thành viên trong Hội đồng xét xử nhất trí cao.
Trong thực tiễn xét xử có những vấn đề mà tác giả thấy còn tồn tại đối
với điểm i khoản 1 Điều 134 như sau: Không phải tất cả các trường hợp người
phạm tội đều có đều có nhân thân xấu, thích dùng vũ lực để áp chế người
khác, mà khi dùng vũ lực để áp chế người khác thì chưa chắc là tình tiết “có
tính chất côn đồ” do nguyên cớ nhỏ hay vô nguyên cớ mà phạm tội có “tính
chất côn đồ”. Khi xem xét phải bảo đảm tính khách quan của vụ án. Có thể
63
người phạm tội có thể do nguyên cớ nhỏ nhặt, hoặc vô cớ mà phạm tội nhưng
hành động khi phạm tội của bị cáo không quyết liệt, có dấu hiệu dã man, hung
hãn khi gây thương tích cho bị hại. Họ còn có nhân thân tốt thì không nên coi
trường hợp người phạm tội đó có tính chất côn đồ. Khi xem xét thực tiễn vụ
án này thì Hội đồng xét xử cũng lên cân nhắc tới các yếu tố như: Nhân thân
người phạm tội, tính nguy hiểm khi bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, hậu
quả mà hành vi phạm tội đó gây ra, thái độ ý thức của bị cáo đối với bị hại sau
khi thực hiện hành vi phạm tội...
3.2.3.2. Đề nghị HĐTP TANDTC tăng cường các án lệ để phân biệt
giữa tội cố ý gây thương với tội giết người.
Năm 2016, HĐTP TANDTC đã ban hành án lệ số 01 về vụ án “Giết
người” là cơ sở pháp lý quan trọng cho các chủ thể tiến hành tố tụng áp dụng
pháp luật đối với các trường hợp tương tự. Án lệ này đã giúp ích rất nhiều cho
các cơ quan tố tụng trong quân đội trong định tội danh giữa trường hợp giết
người và cố ý gây thương tích. Tuy nhiên thực tiễn luôn thay đổi với nhiều
hành vi gây thương tích, giết người ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn mà xét
thấy cần có thểm án lệ để việc áp dụng pháp luật được khách quan, công
bằng, bảo đảm các nguyên tắc như sau:
Bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì phải được
giải quyết như nhau:
Số, tên án lệ, tình huống pháp lý, giải pháp pháp lý trong án lệ và tình
huống pháp lý của vụ việc đang được giải quyết phải được viện dẫn, phân tích
trong phần “Nhận định của Tòa án”.
Tùy từng trường hợp cụ thể có thể trích dẫn toàn bộ hoặc một phần nội
dung của án lệ để làm rõ quan điểm của Tòa án trong việc xét xử, giải quyết
64
vụ việc tương tự.
Ví dụ: Đối với trường hợp thuê gây thương tích mà người được thuê có
hành vi giết người thì người thuê gây thương tích có chịu TNHS với tội giết
người hay không?
3.2.3.3. Đề nghị hướng dẫn về giám đi tư pháp đối với trường hợp bị
xâm phạm sức khỏe trong các vụ án gây thương tích.
Trong các vụ nhất là các vụ án về nhóm tội về “Xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người” thì giám định là hoạt động bổ
trợ tư pháp giữ vai trò quan trọng trong các quá trình điều tra, truy tố, xét xử
các vụ án hình sự. Thông qua hoạt động giám định, tổ chức hoặc người giám
định tư pháp sử dụng các kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học kỹ
thuật, nghiệp vũ kỹ thuật để đi đến kết luận chuyên môn về những vấn đề liên
quan tới vụ án. Đồng thời kết luận giám định là một trong những chứng cứ
quan trọng để các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng giải
quyết vụ án đúng đắn, bảo đảm cho công tác định tội danh và áp dụng hình
phạt một cách đúng đắn nhất.
Trong thực tiễn các vụ án đã xét xử của Tòa án quân sự việc áp dụng
các quy định của pháp luật về giám định tư pháp để trưng cầu giám định và sự
dụng kết quả giám định phục vụ cho việc giải quyết các vụ án hình sự còn tồn
tại những vướng mắc nhất định trong thời gian vừa qua. Có những vụ án có
nhiều kết quả giám định khác nhau, khi mới xẩy ra vụ án thì kết quả giám
định khác, một thời gian sau thì kết luận trưng cầu giám định về tỷ lệ thương
tích lại thì ra con số khác. Điều này gây khó khăn Hội đồng xét xử không biết
chọn kết quả giám định nào để đảm bảo cho việc định tội danh và áp dụng
hình phạt.
Với thực tiễn như trên tác giả kiến nghị cần có các quy định về tính
phủ định của các kết luận giám định, kết quả giám định trước phủ định kết
quả giám định sau, hoặc của cơ quan cấp trên phủ định cơ quan cấp dưới,
65
nhưng phải tuân theo trình tự các tuyến giám định; tránh trường hợp đổ dồn
lên cơ quan cấp trên để giám định. Đối với các vụ án hình sự mà bị hại vì lý
do nào đó không đồng ý đi trưng cầu giám định, mà hành vi của người phạm
tội gây nguy hiểm cho xã hội thì cần có các chế tài cần thiết để bắt buộc
người bị hại phải đi giám định thương tật. Có như vậy thì khi đưa vào thực
tiễn các vụ án Hội đồng xét xử mới có đủ căn cứ để định tội danh và quyết
định hình phạt. Trong thực tiễn không ít những kẻ có tiền đã coi thường sức
khỏe tính mạng của người khác, sẵn sàng gây ra những hành vi nguy hiểm
cho xã hội, cho một người thậm chí nhiều người, sau đó dùng tiền bạc, vật
chất, dùngquyền lực bắt họ phải im lặng, không cho họ đi giám định sức
khỏe, không làm đơn yêu cầu khởi tố, vì vậy các cơ quan tiến hành tố tụng
không thể khởi tố vụ án, không khởi tố bị can được. Vì vậy rất cần thiết phải
đưa ra những quy định chặt chẽ hơn đối với các quy định khi giám định sức
khỏe để bảo đảm tính nghiêm minh, răn đe của pháp luật nhưng đầy tính
nhân đạo của Đảng và nhà nước.
Tiểu kết chương 3
Trong chương 3 tác giả đã nêu các yêu cầu và giải pháp hoàn thiện các
quy định của pháp luật hình sự về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trên cơ sở thực tiễn xét xử của các Tòa án quân sự. Các giải
pháp mà tác giả đưa ra sẽ góp phần khắc phục được những hạn chế, vướng mắc
trong công tác xét xử các vụ án hình sự nói chung và những vụ án về tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng, góp phần
hiệu quả vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, tạo tiền đề và hành
66
lang pháp lý vững chắc bảo vệ quyền con người khi chúng ta hội nhập quốc tế.
KẾT LUẬN
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe người khác
theo quy định tại Điều 104 BLHS 1999 và Điều 134 BLHS 2015 thường
chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng số tội phạm bị truy tố xét xử hàng năm của các
Tòa án quân sự (trung bình 10 vụ án thì có 01 vụ Cố ý gây thương tích).
Những biểu hiện mang tính chủ quan hay khách quan của tội này cũng rất đa
dạng và ngày càng phức tạp nên cũng gây khó khăn cho công tác xét xử, định
tội danh, áp dụng hình phạt. Mặc dù TANDTC và các cơ quan tiến hành tố
tụng ở cấp trung ương đã ra nhiều văn bản dưới luật, các Nghị quyết, Thông
tư hướng dẫn để công tác xét xử được thống nhất nhưng trong thực tiễn xét
xử các vụ án nàytại Tòa án quân sự còn một số vướng mắc, hạn chế. Điều này
được thể hiện qua một số vấn đề tác giả đã nêu như vấn đề định tội danh còn
chưa nhất quán giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc quyết định hình phạt
chưa tương ứng với mức độ tính chất hành vi mà bị cáo đã gây ra cho xã hội,
không bảo đảm được sự công bằng của pháp luật, làm giảm uy tín của những
người tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do vậy tác giả đã nghiên
cứu về những lý luận và tìm ra những bất cập trong những văn bản pháp luật
hiện hành; đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong hệ thống Tòa án
quân sự.
Trong thực tiễn xét xử đối với ngành Tòa án quân sự luôn luôn thể hiện
nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, thể hiện quan điểm “Trừng trị kết hợp
với khoan hồng” trong chính sách mà Đảng và Nhà nước đã xây dựng và ban
hành. Tuy nhiên không phải lúc nào chúng ta cũng áp dụng đúng pháp luật
một cách chính xác và tuyệt đối bởi vì một số quy định của luật còn chưa
thống nhất, quy định còn chung chung, chưa có tính cụ thể cao, tạo ra cách
hiểu khác nhau cho mỗi vụ án nhất là các vụ án về CYGTT hoặc gây tổn hại
67
cho sức khỏe của người khác. Các vấn đề nảy sinh chủ yếu là vấn đề định tội
danh, và quyết định hình phạt trong vụ án. Sự hạn chế này đã phần nào làm
giảm tính đấu tranh phòng chống tội phạm nhất là tội phạm trong Quân đội.
Hạn chế này thể hiện và xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau về lập
pháp, về hướng dẫn ADPL, về sự đồng bộ của các văn bản pháp luật về chất
lượng của cán bộ trong đội ngũ cán bộ ngành Tòa án quân sự.
Với đặc thù Quân đội, Toà án quân sự các cấp cần tạo điều kiện thuận
lợi cho Hội thẩm quân nhân thực hiện tốt nhiệm vụ, bằng cách chủ động sắp
xếp thời gianđồng thời gian bố trí Hội thẩm quân nhân không tham gia các
công việc ở đơn vị, tập chung vào nghiên cứu các vụ án khi có án mới thụ lý,
để nâng cao chất lượng xét xử. Những người tiến hành tố tụng, nhất là Thư ký
các phiên tòa nên chủ động tham mưu đối với Chánh án về việc phân công
Hội thẩm quân nhân tham gia xét xử các vụ án cho phù hợp với sở trường
từng hội thẩm.
Vì vậy cần ban hành các quy định cần thiết để đảm bảo các công tác
ADPL một cách thống nhất đồng bộ để có hiệu quả một cách tốt nhất; bảo
đảm mối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tư pháp trong Quân đội. Cần có
một biện pháp đồng bộ quy định các hệ thống văn bản pháp luật hiện hành
của nước ta. Các quy định cần thống nhất về mặt ngôn ngữ học, để tránh sự
hiểu lần giữa các khái niệm quy phạm pháp luật. Cần phải rà soát các quy
định pháp luật, xem quy định nào đã đầy đủ, quy định nào còn thiếu, cần phải
bổ xung chỉnh sửa để hoàn thiện hơn bằng các nghị quyết hướng dẫn của
HĐTPTANDTC. Cần bổ xung các án lệ cần thiết cho ngành Tòa án, muốn
như vậy thì ngành Tòa án quân sự cũng cần chủ động nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là đội ngũ Thẩm phán để có đủ điều kiện hoàn
68
thành tốt nhiệm vụ nhất là trong thời kỳ hội nhập phát triển như hiện nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Văn Beo (2008), “Luật hình sự Việt Nam – Phần các tội phạm”,
NXB Đại học Cần Thơ, Cần Thơ, Tr.95-100.
2. Bộ Nội Vụ - Tổng Cục Cảnh sát, “Tội phạm ở Việt Nam thực trạng,
nguyên nhân và giải pháp”, NXB Công an nhân dân 1994, Tr.179.
3. Bộ Luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, NXB Thế
giới, năm 2017.
4. Bộ luật Tố tụng Hình sự, NXB Tư Pháp, Hà Nội, năm 2016.
5. Bộ Luật Hình sự năm 1999, NXB Thống kê, 2008.
6. Các báo cáo tổng kết công tác năm của TAQSTW từ năm 2014 đến năm 2018;
7. Các Thông báo kiểm tra án của TAQSTW từ năm 2014 đến năm 2018.
8. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội, tập 1 Nhà xuất
bản Công an nhân dân Hà Nội 2011.
9. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội, tập 2 Nhà xuất
bản Công an nhân dân Hà Nội 2011.
10. Nguyễn Ngọc Hà, Bình luận khoa học bộ luật hình sự 2015, NXB Tư Pháp.
11. Hiến Pháp Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1992,
NXB Chính trị quốc gia, năm 2002.
12. Nguyễn Ngoc Hòa (2017), Bình luân khoa học bộ luật hình sự 2015,
sửa đổi bổ sung 2017, phần chung,NXB Tư Pháp
13. Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao, Nghi quyết số 02/1988/NQ-
HĐTP ngày 10/11/1988.
14. Hội đồi thẩm phán TANDTC,Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày
19/04/1989 hướng dẫn áp dụng bổ sung một số quy định của BLHS.
15. Hội đồng thẩm phán TANDTC (2000), Nghị quyết số 01/2000/NQ-
HĐTP ngày 04/08/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS
69
năm 1999.
16. Hội đồng thẩm phán TANDTC (2003), Nghị quyết số 02/2003/NQ-
HĐTP ngày 17/04/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS
năm 1999.
17. Hội đồng thẩm phán TANDTC (1999), Nghị quyết số 01/2006/NQ-
HĐTP ngày 15/02/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS
năm 1999.
18. Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Nghị quyết số
02/2003/NQHĐTP ngày 17/4/2003 của hướng dẫn áp dụng một số quy
định của BLHS.
19. Tạ Quang Khải (2010), “Bàn về các tội phạm có yếu tố gây thương tích
và trường hợp từ chối giám định của người bị hại trong các vụ án hình
sự”, Tạp chí Kiểm sát, số tết 03 tháng 2/2010.
20. Liên Bộ Y tế, Bộ lao động- Thương binh- Xã hôi, Thông tư số
12/1995/TTLT ngày 26/7/1995 quy định về tiêu chuẩn thương tật và tiêu
chuẩn bệnh tật mới.
21. Dương Tuyết Miên (2004), Định tội danh và quyết đinh hình phạt, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội .
22. Một số bản án của Tòa án quân sự từ năm 2014 đến năm 2018.
23. Dương Mai Phương (2017), “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Lạng Sơn” (Luận văn thạc sỹ Luật học, Học viện khoa học xã hội).
24. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học BLHS phần các tội phạm,
NXB Tp Hồ chí Minh.
25. Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam, nghị quyết số
32/1999/NQ- UBTVQH10, ngày 21/12/1999.
26. Lý Văn Quyền, Giáo trình tội phạm học – Đại học luật Hà Nội NXB
Công an Nhân dân.
27. Hồ Sỹ Sơn (2009), Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam,
NXB Khoa học xã hội hà Nội.
70
28. Toà án nhân dân tối cao, công văn số 140/KHXX, ngày 11/2/1998.
29. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), giáo trình Luật hình sự Việt Nam
(phần chung), NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
30. Đào Trí Úc (chủ biên)(1996), Quyết định hình phạt trong Luật hình sự
việt Nam, Tội phạm học, Luật hình sự, Luật TTHS, NXB Chính trị quốc
gia Hà Nội
31. Phùng Thế Vắc và Trần Văn Luyện, Bình luận khoa học BLHS năm
1999 phần các tội phạm, NXB Chính trị quốc gia.
32. Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Thống kê thụ lý và giải quyết các vụ
án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm.
33. Võ Khánh Vinh (1993), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt
Nam. NXB Khoa học xã hội.
34. Võ Khánh Vinh (2003), “thay đổi tội danh: một số vấn đề lý luận và thực
tiễn”, Tạp chí tòa án nhân dân, Số 12/2003.
35. Võ khánh Vinh (2003), lý luận chung về định tội danh, NXB Khoa học
xã hội.
36. Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về tội danh. NXB Khoa học xã hội.
37. Võ Khánh Vinh (2014) Luật hình sự Việt Nam: Phần chung, giáo trình
sau đại học, NXB Khoa học xã hội hà Nội.
38. Võ Khánh Vinh (2014) Luật hình sự Việt Nam: Phần các tội phạm cụ
thể, giáo trình sau đại học, NXB Khoa học xã hội Hà Nội
Trang Web:
39. http://www.baomoi.com
71
40. http: //www.tapchikiemsat.org.vn