VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ ĐOÀN DUY KHÁNH
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO
SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN ĐĂKRLẤP TỈNH ĐĂKNÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ ĐOÀN DUY KHÁNH
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO
SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN ĐĂKRLẤP TỈNH ĐĂKNÔNG
Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8. 38. 01. 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN ANH TUẤN
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến
sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện
Đăkrlấp tỉnh Đăk Nông” là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm dộ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn
Lê Đoàn Duy Khánh
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1
Chương 1 ........................................................................................................................... 8
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CỐ Ý
GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC . 8
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác ..................................................................................................................... 8
1.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác trong luật
hình sự Việt Nam với một số tội phạm khác............................................................................... 12
1.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác ............................................................................................................. 16
1.4. Quy định của Pháp luật hình sự một số nước về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khoẻ của người khác ...................................................................................................... 21
Chương 2 ......................................................................................................................... 27
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG
TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN ĐĂKRLẤP TỈNH ĐĂK NÔNG ........................................................................... 27
2.1. Khái quát tình hình xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn huyện Đăkrlấp tỉnh Đăk Nông trong những năm gần đây .............................. 27
2.2. Quyết định hình phạt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn huyện Đăkrlấp tỉnh Đăk Nông ........................................................................ 43
2.3. Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng pháp hình sự về tội tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Đăkrlấp ................................................................ 49
Chương 3 ......................................................................................................................... 52
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE
CỦA NGƯỜI KHÁC ........................................................................................................... 52
3.1. Các yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác ...................................................................................................... 52
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác .......................................................................................... 53
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ...................... 57
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 60
MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 61
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tình hình xét xử các vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích .............. 28
Bảng 2.2. Số bị cáo bị đưa ra xét xử về tội cố ý gây thương tích so với tội phạm nói
chung từ năm 2015 đến 2019 .................................................................................... 29
Bảng 2.3. Tổng số vụ, bị cáo đã bị xét xử về tội cố ý gây thương tích trên địa bàn
huyện Đăkrlấp ........................................................................................................... 29
Bảng 2.4. Số vụ án đưa ra xét xử về tội cố ý gây thương tích từ năm 2015 đến 2019
................................................................................................................................... 30
Bảng 2.5. Những hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo phạm tội cố ý gây
thương tích giai đoạn 2015 - 07/2019 ....................................................................... 30
Bảng 2.6. Nhân thân của các bị cáo bị xét xử về tội cố ý gây thương tích trên địa
bàn Huyện Đăkrlấp ................................................................................................... 31
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật hình sự Việt Nam là một trong những công cụ sắc bén và hữu hiệu
của nhà nước trong công cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, bảo vệ
những quan hệ xã hội cơ bản nhất và quan trọng nhất trong đời sống xã hội. Đồng
thời, pháp luật hình sự còn góp phần chống lại mọi hành vi phạm tội, giáo dục mọi
người nâng cao ý thức pháp luật, nâng cao ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống
tội phạm.
Tính mạng, sức khỏe là giá trị cao nhất của con người đã được quy định
trong Hiến pháp và ngày càng được đảm bảo trên nhiều phương diện. Tuy vậy, đi
cùng sự phát triển nhanh chóng và những thành tựu to lớn của nền kinh tế thị trường
là những mặt trái của nó, có ảnh hưởng tiêu cực làm nảy sinh nhiều vấn đề về dân
số, việc làm, môi trường, tệ nạn xã hội, tình hình tội phạm nói chung trong đó là sự
gia tăng nhanh chóng và diễn biến phức tạp của tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại đến sức khỏe của người khác. Bên cạnh đó, xu hướng trẻ hóa đối tượng gây
án đang trở nên báo động về lối sống, đạo đức của bộ phận thanh, thiếu niên hiện
nay. Hậu quả mà các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của
người khác là rất lớn, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới tính mạng, sức khỏe và
tinh thần của người bị hại, ảnh hưởng tới tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Qua thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử tại huyện Đăkrlấp cho thấy các tội
phạm về xâm phạm tính mạng, sức khỏe nói chung, tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại đến sức khỏe của người khác nói riêng thường chiếm tỷ lệ lớn trong
tổng số tội phạm về hình sự. Các chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối
với tội phạm về cố ý gây thương tích là rất toàn diện và nghiêm khắc. Nhà nước đã
ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm đẩy lùi và hạn chế tối đa các hành vi
cố ý gây thương tổn đến sức khỏe của người khác. Trên địa bàn huyện Đăkrlấp, các
cấp uỷ đảng, các ngành, các cấp chính quyền và nhân dân đã có nhiều nỗ lực và
quyết tâm trong công tác phòng chống tội phạm về xâm phạm tính mạng, sức khỏe
nói chung, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác
nói riêng. Huyện Đăkrlấp đã tổ chức nhiều đợt cao điểm nhằm rà soát, kiểm tra, đấu
1
tranh, tuyên truyền pháp luật với toàn thể nhân dân, đặc biệt là các dân tộc thiểu số
trên địa bàn huyện về loại tội phạm này, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa cách biệt
với trung tâm huyện, thiếu hiểu biết, trình độ văn hóa thấp. Đồng thời, tăng cường
phối hợp với các trường học trên địa bàn để giáo dục, tuyên truyền cho học sinh từ
khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường nhằm phòng ngừa sớm nhất. Tuy nhiên loại
tội phạm này vẫn tiếp tục gia tăng một cách đều đặn cả số vụ việc và người phạm
tội.
Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
đến sức khỏe của người khác còn cho thấy có những hạn chế, vướng mắc cần phải
hoàn thiện về cả quy định của pháp luật, cũng như hướng dẫn áp dụng pháp luật về
tội cố ý gây thương tích đòi hỏi phải có sự nghiên cứu một cách có hệ thống nhằm
hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích và các giải
pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về tội này. Chính vì vậy, tác giả đã lựa
chọn đề tài này “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người
khác trên theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Đăkrlấp tỉnh Đăk
Nông” để làm Luận văn Thạc sỹ Luật học.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Để thực hiện đề tài, học viên tham khảo nhiều công trình liên quan, trong số
đó có thể kể đến:
- Nhóm thứ nhất: Các Giáo trình Luật hình sự, sách về Định tội danh của các
cơ sở đào tạo như: (1) Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2012), Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam- Phần Các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; (2) Võ Khánh Vinh
(2013), Lý luận chung về định tội danh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; (3) Trường
Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam- Phần Các tội
phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; (4) Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
(2013), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Các tội phạm, Nxb Hồng Đức-
Hội Luật gia Việt Nam, TP.HCM; (5) Lê Cảm (Chủ biên) (2007), Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam-Phần Các tội phạm, Khoa Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà
Nội, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội; (6) Nguyễn Ngọc Hoà (2015), Tội phạm và
cấu thành tội phạm, Nxb Tư pháp, Hà Nội; (7) Phạm Văn Lợi (chủ biên) (2007), 2
Chính sách hình sự trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội; (8) Lê
Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội; (9) Lê Văn Cảm (2018), Nhận thức khoa học về Phần chung
pháp luật hình sự Việt Nam sau pháp điển hoá lần thứ ba, Nxb Đại học Quốc gia,
Hà Nội; (10) Đinh Văn Quế (2017), Bình luận Bộ luật hình sự năm 2015, Nxb
Thông tin và truyền thông, Hà Nội; (11) Hồ Sỹ Sơn (2018), Luật hình sự so sánh,
Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.
Những giáo trình nêu trên có nội dung chủ yếu chỉ dừng lại ở việc phân tích
các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác, lý luận chung về định tội danh. Đây là tài liệu quan trọng cho luận văn
tham khảo khi nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý, lý luận về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo luật hình sự Việt Nam.
- Nhóm thứ hai: Các bài viết có liên quan đến tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, có thể kể đến:
(1) Bài viết “ Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác” của tác giả Phạm Ngọc Minh - Công ty Luật TNHH Everest [23]; (2)
Lê Văn Th phạm tội “cố ý gây thương tích” của tác giả Dương Văn Hưng, Tòa án
quân sự Khu vực 1 Quân chủng Hải quân [20]; (3) Điểm mới của Tội cố ý gây
thương tích theo quy định của BLHS 2015 của tác giả Thân Đình Trung – Nguyễn
Hoàng Hằng – Nguyễn Mạnh Hùng, VKSND quận Long Biên [31]; (4) “Một số
kinh nghiệm khi giải quyết vụ án cố ý gây thương tích “của VKSNDTC [19] ; (5) “
Nhận diện quy định về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của
người khác theo BLHS 2015, một số bất cập và kiến nghị” của tác giả Nguyễn Văn
Dũng – Phó Chánh án TAND thành phố Tam Kỳ [10]; (6) “Trao đổi bài viết: Lê
Văn D có phạm tội cố ý gây thương tích” của tác giả Vũ Thị Minh.[24]
Các bài viết nêu trên giúp tác giả nhận định được một số dấu hiệu về pháp lý
và thực tiễn pháp luật.
- Nhóm thứ ba: Các khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ liên quan đến tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có thể kể đến:
3
(1) Luận văn “Đấu tranh phòng, chống tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác tại địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế” của tác giả
Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2002. Trong luận văn này,
tác giả đã phân tích một số vấn đề lý luận của các quy định về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như: lịch sử hình thành và phát
triển, các dấu hiệu pháp lý, đưa ra thực tiễn áp dụng pháp luật, đề ra một số giải pháp
hoàn thiện các quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong BLHS 1999. Từ luận văn này, giúp tác giả có được một cái nhìn
khái quát về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong BLHS 1999, làm cơ sở để nghiên cứu phát triển hoàn thiện luận văn.
(2) Luận văn “Các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Lê Đình Tĩnh, Đại học
Quốc gia Hà Nội, năm 2014. Trong luận văn này, tác giả phân tích về lịch sử hình
thành và phát triển của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác và so sánh với một số quốc gia trên thế giới. Luận văn cũng đi sâu vào
phân tích về nội dung tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác và các giải pháp hoàn thiện.
Các kết quả nghiên cứu về giải pháp hoàn thiện pháp pháp luật hình sự về tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của các luận
văn thạc sĩ nêu trên là tài liệu tham khảo quan trọng cho đề tài luận văn.
Các công trình trên đã chỉ ra được các dấu hiệu pháp lý, hạn chế và giải pháp
hoàn thiện, tuy nhiên vẫn còn một số nội dung đang nghiên cứu, đang tồn tại một số
ý kiến khác nhau về ranh giới giữa hành vi giết người hay hành vi cố ý gây thương
tích trong một số vụ án, các dấu hiệu định khung hình phạt, về loại hình phạt, mức
hình phạt của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác. Tuy nhiên, do các công trình nghiên cứu trên chủ yếu nghiên cứu tội này theo
quy định của BLHS năm 1999, do đó chưa phân tích được một số bất cập về các
dấu hiệu định tội và một số vấn đề khác còn tồn tại trong tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định của BLHS năm 2015.
Mặt khác, do tính chất đặc thù của địa bàn nghiên cứu, các công trình nêu trên cũng
4
chưa đánh giá được vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn huyện
Đăkrlấp tỉnh Đăk Nông.
Từ những lý do trên, đề tài “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện
Đăkrlấp tỉnh Đăk Nông” được tác lựa chọn sử dụng làm Luận văn Thạc sỹ Luật
học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống, làm rõ những vấn đề lý luận
của luật hình sự và thực tiễn áp dụng quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định trong BLHS năm 2015 tại huyện
Đăkrlấp tỉnh ĐăkNông, đồng thời chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại trong áp dụng
pháp luật hình sự cả về lý luận, thực tiễn, đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật hình sự trong BLHS Việt Nam và đề xuất những giải pháp bảo đảm áp
dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác tại huyện Đăkrlấp cũng như trên toàn quốc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo luật hình sự Việt Nam, đồng thời
phân biệt với một số tội phạm khác có liên quan.
- Phân tích nội dung các quy định của pháp luật hình sự nước ta và của một
số nước trên thế giới về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác.
- Khảo sát, làm rõ thực trạng áp dụng các quy định luật hình sự về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện
Đăkrlấp tỉnh ĐăkNông ; đưa ra nhận xét, đánh giá về những vướng mắc, bất cập
trong các quy định và thực tiễn áp dụng các quy định của Luật hình sự Việt Nam về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn
huyện Đăkrlấp tỉnh ĐăkNông.
5
- Đề xuất các kiến nghị hoàn thiện các quy định về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong Bộ luật hình sự và các giải
pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về tội này trên địa bàn huyện
Đăkrlấp tỉnh ĐăkNông và ở cả nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận chung, những quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam, có so sánh, đối chiếu với quy định của một số nước
trên thế giới về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác và thực tiễn áp dụng tội này trên địa bàn huyện Đăkrlấp tỉnh ĐăkNông.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy
định, áp dụng tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong luật hình sự Việt Nam dưới góc độ pháp lý hình sự.
- Phạm vi về thời gian: khảo sát thực tiễn áp dụng quy định về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ năm 2014 đến tháng
10 năm 2019.
- Về địa bàn nghiên cứu: Tác giả nghiên cứu và khảo sát dựa trên các bản án
thuộc địa bàn huyện Đăkrlấp tỉnh ĐăkNông.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: đề tài này được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin với phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; tư tưởng
Hồ Chí Minh; chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng
chống tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: để hoàn thành đề tài, tác giả đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp lịch sử: phương pháp này được sử dụng để làm rõ sự hình
thành và phát triển quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
6
khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám
đến nay.
- Phương pháp so sánh: được tác giả sử dụng để làm rõ những điểm giống và
khác nhau giữa tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác với các tội phạm khác có liên quan và đối chiếu quy định về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt
Nam với luật hình sự của một số quốc gia.
- Phương pháp thống kê, tổng hợp: phương pháp này được sử dụng để làm rõ
tình hình xử lý hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn huyện Đăkrlấp tỉnh ĐăkNông .
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng để làm rõ những vấn
đề chung và những hạn chế, vướng mắc về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận:
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, từ đó, nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với tội phạm này. Đồng thời đưa ra
những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Những kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
học viên khác, những người quan tâm về đề tài của tác giả và của chính tác giả sau
này.
7. Cơ cấu của luận văn.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Đăkrlấp tỉnh
ĐăkNông
7
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình
sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE
CỦA NGƯỜI KHÁC
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác
Theo giải thích của Từ điển Bách khoa Việt Nam: Sức khỏe của con người là
trạng thái đầy đủ về thể chất, tâm thần mà không chỉ có nghĩa là không có bệnh hay
thương tật; cho phép mỗi người thích ứng nhanh chóng với các biến đổi của môi
trường, giữ được lâu dài khả năng lao động và lao động có hiệu quả [18, tr.835].
Xâm phạm sức khỏe con người được hiểu là thông qua sự tác động làm cho người
đó mất đi một phần hay toàn bộ sức lực có sẵn của chính người đó làm họ khó khăn
trong cử động, hoạt động so với trước khi họ bị hành vi xâm hại tác động tới. Theo
tác giả Đinh Văn Quế: “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác là hành vi của một người cố ý làm cho người khác bị thương hoặc tổn
hại đến sức khỏe” [26, tr. 137].
Dựa trên các phân tích, cơ sở đã nêu và các khái niệm của một số nhà luật
học, tác giả đưa ra khái niệm như sau:
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là
hành vi dùng sức mạnh vật chất cố ý tác động một cách trái pháp luật lên thân thể
của người khác làm cho người đó mất đi một phần hoặc toàn bộ sức lực, gây thiệt
hại đáng kể cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ tổn thương trên cơ thể nhất định
theo quy định của Bộ luật Hình sự, do người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện.
8
Với tư cách là một tội phạm, tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác có các dấu hiệu chung của tội phạm:
- Thứ nhất, tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là
hành vi có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội.
Tính nguy hiểm cho xã hội được xác định thông qua các tình tiết như: thiệt
hại về sức khỏe, thủ đoạn phạm tội, mức độ lỗi cố ý, động cơ, mục đích của tội
phạm, nhân thân người phạm tội …
Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phải có tính nguy
hiểm đáng kể cho xã hội, bởi vì những hành vi cố ý gây thương tích mức độ nhẹ tuy
có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính nguy hiểm không đáng kể thì không bị coi là
tội phạm (khoản 2 Điều 8 BLHS năm 2015).
Đặc điểm này có ý nghĩa quan trong về mặt lý luận là khi hoàn thiện các dấu
hiệu định tội của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phải
đảm bảo yêu cầu là cấu thành cơ bản tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác phải có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội.
- Thứ hai, tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành
vi có tính có lỗi.
Lỗi của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là lỗi cố ý
trực tiếp, là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi cố ý xâm hại đến sức
khỏe của người khác và hậu quả do hành vi đó gây ra.
- Thứ ba, tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành
vi có tính trái pháp luật.
Tính trái pháp luật thể hiện ở chỗ tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác phải được quy định trong luật hình sự. Tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác là một tội phạm được quy định tại Điều 134 BLHS
năm 2015 nên khi xác định hành vi cố ý gây thương tích gây nguy hiểm đáng kể
cho xã hội là tội phạm thì phải xác định nó có đầy đủ các dấu hiệu của tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại khoản
1 Điều 134 BLHS.
9
- Thứ tư, tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành
vi có tính phải chịu hình phạt
Hình phạt đối với hành vi cố ý gây thương tích chính là hình thức phản ánh
tính nguy hiểm cho xã hội của tội này, thể hiện tính cưỡng chế nhà nước nghiêm
khắc nhất nhằm răn đe và phòng ngừa đối với loại hành vi nguy hiểm đáng kể cho
xã hội mà tội phạm này gây ra.
Như vậy, tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có đầy
đủ các dấu hiệu chung của tội phạm, đây là tiền đề quan trọng để Luận văn phân
tích các dấu hiệu pháp lý của tội này.
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác
a. Khách thể của tội phạm
Đối tượng tác động của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác là sức khỏe theo Luật Hình sự Việt Nam.
b. Mặt khách quan của tội phạm
Theo quy định của BLHS năm 2015, hành vi khách quan của tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác gồm các loại hành vi sau:
hành vi gây thương tích cho người khác và hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác.
Người phạm tội thực hiện các hành vi như: đâm, chém, bắn, đấm, đá, đốt
cháy, đầu độc, tra tấn… Có trường hợp người phạm tội cưỡng bức người bị hại tự
làm tổn hại cho sức khỏe của mình như tự chọc vào mắt mình, uống thuốc phá thai,
chặt ngón tay…
Nếu hậu quả tổn thương cơ thể dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường
hợp quy định tại điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS thì cũng bị coi là tội
phạm.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác là
cấu thành vật chất nên phải xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả
xảy ra.
10
c. Chủ thể của tội phạm
Tội CYGTT hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác đòi hỏi chủ thể
của tội phạm chỉ cần thỏa mãn hai điều kiện là có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu
TNHS
Theo quy định của Điều 12 BLHS năm 2015 thì phạm tội thuộc khoản 3,4 và
5 Điều 134 BLHS thì người phạm tội đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi mới
phải chịu trách nhiệm hình sự.
d. Mặt chủ quan của tội phạm
Đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác: mặt chủ
quan của tội phạm là lỗi cố ý trực tiếp. Người thực hiện hành vi biết rõ xâm phạm
đến thân thể của người khác là trái phép, là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp
luật ngăn cấm nhưng vẫn thực hiện hành vi gây tổn hại đến sức khỏe của người
khác.
Như vậy, qua phân tích các dấu hiệu pháp lý tội CYGTT hoặc gây tổn hại
đến sức khỏe của người khác, xét trong bốn yếu tố hợp thành của tội phạm, ta thấy
được cố ý gây thương tích, là loại tội phạm xâm phạm tới tính mạng, sức khỏe, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định thực hiện việc thông
qua các hành vi tác động lên thân thể của người khác gây tổn hại đến sức khỏe của
họ.
1.1.3.Các dấu hiệu định khung hình phạt của tội CYGTT hoặc gây tổn hại
đến sức khỏe của người khác
Các dấu hiệu định khung hình phạt được quy định tại khoản 2,3,4,5 và 6
Điều 134 BLHS năm 2015.
Các tình tiết định khung hình phạt được quy định như trong BLHS là căn cứ
để đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội một cách cụ thể và rõ ràng, tạo
phạm vi bao quát rộng hơn đối với những trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích
mà tính chất nguy hiểm của tội phạm cao hơn hoặc thấp hơn những trường hợp
thông thường khác, làm tiền đề cho việc phân hóa và cá thể hóa trách nhiệm hình sự
và hình phạt đối với người phạm tội.
11
1.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe
của người khác trong luật hình sự Việt Nam với một số tội phạm khác
Từ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác, ta có thể phân biệt với một số tội phạm nhằm làm
rõ hơn những điểm khác nhau cơ bản giữa các tội phạm khác với tội phạm này.
1.2.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác (Điều 134) với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135)
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh đều là tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm sức
khỏe con người, hai tội phạm này có nhiều điểm giống nhau về các yếu tố cấu thành
tội phạm. Về khách thể, hai tội này có khách thể trực tiếp giống nhau là đều xâm
phạm đến quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người. Mặt khách quan, hai tội
đều là tội phạm có cấu thành vật chất, đều đòi hỏi tỷ lệ thương tật nhất định mà nạn
nhân gánh chịu. Chủ thể của tội phạm đều là chủ thể thường và đều cố ý. Tuy nhiên,
về cơ bản hai tội này có sự khác nhau. Cụ thể:
Thứ nhất, ở tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trạng thái tinh thần của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc nhưng
đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trạng thái tinh thần của người phạm tội (đang
bị kích động mạnh) lại là dấu hiệu bắt buộc.
Thứ hai, nếu nạn nhân của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác là bất kỳ người nào thì nạn nhân của tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh phải là người đã thực hiện hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với
người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội.
Thứ ba, hai tội phạm này đều có cấu thành vật chất, tuy nhiên tỷ lệ thương
tật mà nạn nhân phải gánh chịu (hậu quả) được quy định đối với hai tội này là khác
12
nhau: ở tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là từ
11% trở lên (trong trường hợp bình thường) còn ở tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh lại
là từ 31% trở lên.
Ngoài ba đặc điểm cơ bản trên thì hai tội phạm này còn có sự khác nhau về
độ tuổi của chủ thể, ở tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác tuổi của người phạm tội là từ đủ 14 tuổi trở lên còn ở tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh tuổi của người phạm tội là từ đủ 16 tuổi trở lên.
Tóm lại, nếu tội phạm thỏa mãn đồng thời cả ba dấu hiệu trên trong dấu hiệu
pháp lý thì chúng ta có thể xác định được đó là tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Còn nếu tội phạm xảy ra chỉ có một trong ba đặc điểm trên thì chúng ta có thể xác
định đó là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
(Điều 134 BLHS). Hai đặc điểm cơ bản là trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
của người phạm tội và hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân có mối
quan hệ nhân quả với nhau. Do vậy, khi xác định tội phạm chúng ta phải xem xét
một cách chính xác để có kết luận đúng đắn tránh tình trạng xác định sai tội danh.
12.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác (Điều 134) với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức
cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136)
Căn cứ vào quy định tại Điều 136, từ khái niệm và các điều kiện của phòng
vệ chính đáng cũng như khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, chúng ta có thể phân biệt hai tội
phạm này qua những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội, trong tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội là
13
xuất phát từ người có hành vi nguy hiểm đang xâm hại đến lợi ích chính đáng của
chính người phạm tội hoặc xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, tập thể, người khác vì
họ muốn bảo vệ các lợi ích đó mà có hành vi chống trả một cách quá mức cần thiết
và gây thương tích nhất định cho nạn nhân; với tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác thì nguyên nhân dẫn đến việc gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là do người phạm tội vì một lý do
nào đó muốn xâm phạm đến sức khỏe, thân thể của người bị hại. Ở tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội thì
lợi ích bị xâm hại ngoài lợi ích của người phạm tội còn có lợi ích của Nhà nước, của
tập thể, của người khác còn trong tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác thì lợi ích bị xâm hại chỉ là người bị hại.
Thứ hai, về mục đích phát sinh hành vi phạm tội, trong trường hợp tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội,
mục đích của hành vi được thực hiện là tích cực chống trả lại sự xâm hại gây cho
mình, cho Nhà nước hoặc cho người khác, gạt bỏ đi đe dọa với lợi ích bảo vệ, đẩy
lùi sự tấn công của nạn nhân còn trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác chủ yếu do mong muốn cá nhân của người phạm tội
muốn xâm phạm đến sức khỏe của người khác.
Thứ ba, về trách nhiệm hình sự, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do
vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội thì người có hành vi cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chỉ phải chịu trách nhiệm
hình sự khi họ phòng vệ quá mức cần thiết và vượt quá quy định trong BLHS; còn
trường hợp tội cố ý thì chỉ cần có hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác và với tỷ lệ tổn thương cơ thể quy định tại Điều 134
BLHS thì sẽ phải chịu TNHS.
14
Thứ tư, động cơ của tội phạm, ở tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc
trong cấu thành tội phạm và không được coi là dấu hiệu định tội nhưng ở tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội
động cơ phạm tội được coi là dấu hiệu định tội, đó là động cơ phòng vệ hoặc động
cơ bắt giữ người phạm tội.
1.2.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác (Điều 134) với tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người trong khi thi hành công vụ (Điều 137)
Căn cứ vào quy định tại Điều 134 và Điều 137, chúng ta có thể phân biệt hai
tội phạm này qua những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội, trong tội gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ là
xuất phát từ hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành
công vụ do dùng vũ lực ngoài những trường hợp cho phép; với tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì nguyên nhân dẫn đến việc
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là do người phạm tội
vì một lý do nào đó muốn xâm phạm đến sức khỏe, thân thể của người bị hại.
Thứ hai, về mục đích phát sinh hành vi phạm tội, trong trường hợp tội gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công
vụ, mục đích của hành vi được thực hiện là sử dụng vũ lực hoặc các biện pháp trong
khuôn khổ pháp luật cho phép để thực hiện công vụ được giao nhưng gây thương
tích cho người khác vượt quá mức cho phép.
Thứ ba, về trách nhiệm hình sự, tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ thì người có hành vi gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chỉ phải chịu trách nhiệm hình
sự khi họ vượt quá quy định trong BLHS; còn trường hợp tội cố ý gây thương tích
15
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người thì chỉ cần có hành vi cố ý và với tỷ lệ tổn
thương cơ thể cho nạn nhạn thuộc các quy định trong BLHS thì sẽ phải chịu TNHS.
Thứ tư, động cơ phạm tội của người đang thi hành công vụ là nhằm bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, của tổ chức hoặc của công dân. Nếu không xuất phát từ động
cơ này thì người phạm tội phải bị xử phạt về tội khác theo quy định của Bộ luật
hình sự [2, tr.162]
Việc phân biệt giữa tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác với các tội khác có ý nghĩa rất quan trọng trong vấn đề định tội
danh, xác định trách nhiệm hình sự một cách chính xác và đúng đắn.
1.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.3.1. Quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe
của người khác trong luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám năm
1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Sau ngày miền Nam hoàn toàn được giải phóng, chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành sắc luật số 03/SL/76 ngày
15/3/1976 quy định về tội phạm và hình phạt với 7 loại tội phạm, trong đó có quy
định về tội CYGTT. Tại điểm b điều 5 sắc luật số 03/SL/76 quy định: “Phạm tội cố
ý gây thương tích thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm, trường hợp nghiêm trọng thì
bị phạt tù đến 20 năm” [16]. Ngày 02/7/1976 Quốc hội chính thức đổi tên nước ta
thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, pháp luật được áp dụng chung
cho cả nước. Do vậy, để giải quyết các vụ án CYGTT, chúng ta chủ yếu áp dụng
điểm b Điều 5 Sắc luật số 03-SL/76 nói trên cho đến trước khi BLHS 1985 ra đời và
đã sớm đi vào cuộc sống và phát huy vai trò, tác dụng tích cực là công cụ sắc bén,
hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
1.3.2. Quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong Bộ luật Hình sự năm 1985
Từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới do Đại hội VI đề ra, BLHS đã dần
biểu hiện những bất cập hạn chế, như Điều 109 quy định về tội CYGTT hoặc gây
16
tổn hại cho sức khỏe của người khác, các điểm, khoản quy định còn chung chung,
trừu tượng, ví dụ như điểm a khoản 2 Điều 109 quy định “Gây thương tích nặng
hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe của người khác”, mà không giải thích rõ thế
nào là thương tích nặng, tổn hại nặng… Do vậy, việc áp dụng pháp luật cho các cơ
quan tố tụng gặp nhiều khó khăn.
1.3.3. Quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong Bộ luật Hình sự năm 1999
BLHS 1999 bổ sung một số tình tiết tăng nặng định khung hình phạt tại Điều
104 như sau: (1) Đối với trẻ em hoặc người chưa thành niên (điểm d khoản 1 Điều
104); (2) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy cô giáo của mình (điểm đ khoản 1 Điều
104); (3) Thuê người khác phạm tội hoặc phạm tội thuê (điểm h khoản 1 Điều 104);
(4) Đối với những người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân
(điểm k khoản 1 Điều 104). [28]
Hình phạt tăng tối đa 20 năm ở BLHS 1985 lên đến chung thân ở BLHS
1999.
1.3.4. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi) về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Bộ luật Hình sự 2015 có nhiều thay đổi so với trước đây. Trong đó, Điều 104
BLHS năm 1999 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ của người khác được sửa đổi bổ sung rõ ràng hơn, phù hợp với thực tại hơn tại
Điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017. Điều 134 BLHS năm 2015 quy định
như sau:
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc
phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng
gây nguy hại cho nhiều người;
b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;
17
c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm
đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng,
chữa bệnh cho mình;
đ) Có tổ chức;
e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt
tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang
chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc,
đưa vào trường giáo dưỡng hoặc cơ sở cai nghiện bắt buộc;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;
i) Có tính chất côn đồ;
k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm
đến 07 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định
tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm
đến 10 năm:
18
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b
khoản 4 Điều này;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định
tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các
trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07
năm đến 14 năm:
a) Làm chết người;
b) Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại
các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các
trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
5. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm
đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Làm chết 02 người trở lên;
19
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường
hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
6. Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy
hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.” [29]
Như vậy, so với quy định về tội CYGTT tại điều 104 Bộ luật 1999 thì Điều
134 năm 2015 có những điểm mới như:
- Bổ sung các trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khoẻ của người khác: Dùng axit sunfuric (H2SO4) hoặc hoá chất nguy
hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác; lợi dụng
chức vụ quyền hạn. Ngoài ra còn làm rõ quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi.
- Phân định mức độ gây tỷ lệ thương tích để quy định hình phạt thay vì gộp
chung vào như trước
- Bổ sung trường hợp bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, hoặc tù chung thân
ngoài các trường hợp đã được quy định tại Bộ luật Hình sự năm 1999, đó là trường
hợp: Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên; Gây thương tích vào vùng mặt của người
khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
- Bổ sung quy định đối với người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Việc quy định tội phạm cụ thể của tội này trong Bộ luật hình sự năm 2015
(sửa đổi) đóng vai trò quan trọng, giúp ta phân biệt giữa tội này và tội phạm khác để
từ đó có thể đưa ra những nhận định chính xác về tội phạm như tội đó thuộc loại tội
phạm nào, tính chất nguy hiểm do hành vi của tội đó ra sao, người thực hiện hành vi
tội đó có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không?
Qua nghiên cứu quy định của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ của người khác từ năm 1945 đến nay cho thấy: các quy định về tội cố ý
20
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác ngày càng hoàn thiện
hơn, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong từng giai đoạn lịch sử.
Cùng với những kinh nghiệm thực tiễn được đúc rút từ thực tiễn đấu tranh phòng
chống tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, việc
nghiên cứu các quy định pháp luật hình sự trước đây và hiện hành về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác là cơ sở khoa học quan
trọng cho việc nghiên cứu hoàn thiện các quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong pháp luật hình sự.
1.4. Quy định của Pháp luật hình sự một số nước về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
1.4.1. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác trong Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1979, sửa đổi năm
1997
Cũng như ở Việt Nam, thì vấn đề về xâm phạm quyền con người, quyền
công dân luôn được nhà nước bảo hộ. và trong BLHS của Trung Hoa cũng dành hẳn
chương IV: Những tội ác xâm phạm quyền của người và các quyền dân chủ của
người dân. Trong đó tội CYGTT được quy định tại Điều 234 của bộ luật này quy
định như sau: Người nào cố ý gây thương tích cho người khác phải bị kết án tù
không quá ba năm, giam giữ hoặc kiểm soát. Ai vi phạm ở khoản trên và gây
thương tích nghiêm trọng cho người đó phải bị kết án không dưới ba năm và không
quá 10 năm tù định định; nếu gây ra cái chết của một người hoặc gây ra sự biến
dạng nghiêm trọng của một người bằng cách gây thương tích nặng nề với các biện
pháp tàn nhẫn đặc biệt thì ông ta sẽ bị kết án tù không thời hạn dưới 10 năm, tù
chung thân hoặc chết. Trường hợp Luật này có các quy định khác thì xử lý theo quy
định.
Tại Điều 235 cũng quy định: Người nào gây ra thương tích nghiêm trọng
cho người khác và gây thương tật nghiêm trọng thì bị phạt tù không quá ba năm
hoặc có thể bị tạm giam. Trường hợp luật này có các quy định khác, các vấn đề sẽ
được giải quyết theo các quy định đó [13]. Như vậy, so với quy về tội CYGTT của
21
luật hình sự Việt Nam thì tội phạm về CYGTT ở nước Trung Quốc chỉ quy định
một cách chung chung về hành vi gây thương tích, không quy định rõ ràng về mức
độ thương tật, về độ tuổi....
Điểm khác biệt lớn nhất ở đây là nhà nước Trung Quốc quy định rất nặng là
tước đoạt mạng sống còn ở Việt Nam thì chỉ có chung thân mà thôi.
1.4.2. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác trong Bộ luật hình sự Liên bang Nga
Điều 111 quy định về tội cố ý gây tổn hại nặng cho sức khỏe như sau:
1. Cố ý gây tổn hại nặng cho sức khỏe, nguy hiểm đến tính mạng hay làm
mất mắt, miệng, tai hay cơ quan nào đó hoặc làm mất chức năng của cơ quan đó
hay làm biến dạng khuôn mặt không sửa được, cũng như gây tổn hại cho sức khỏe
nguy hiểm đến tính mạng hay làm suy giảm sức khỏe, làm mất đáng kể vĩnh viễn
khả năng lao động nghề nghiệp hoặc gây trụy thai, gây rối loạn tâm thần, gây
nghiện ma túy hoặc bị nhiễm độc, thì bị phạt tù từ hai năm đến tám năm.
2. Cũng hành vi đó, nếu được thực hiện:
a) Đối với người hoặc người thân thích của người đó liên quan đến việc thực
hiện công vụ hoặc nghĩa vụ xã hội của người này.
b) Một cách đặc biệt tàn ác, nhạo báng hoặc gây đau đớn cho nạn nhân.
c) Bằng phương pháp nguy hiểm cho mọi người
d) Vì động cơ côn đồ
đ) Vì động cơ hận thù dân tộc, tôn giáo hoặc huyết thống;
e) Với mục đích sử dụng cơ quan hoặc mô của cơ thể nạn nhân;
g) Do làm thuê, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 10 năm
3. Những hành vi quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, nếu:
a) Do một nhóm người, một nhóm người có thỏa thuận trước hoặc một nhóm
người có tổ chức thực hiện;
b) Được thực hiện đối với từ hai người trở lên;
22
c) Được thực hiện nhiều lần hoặc do người trước đây đã phạm tội giết người
theo quy định tại Điều 105 của Bộ luật này thực hiện, thì bị phạt tù từ năm năm đến
12 năm.
4. Những hành vi quy định tại khoản 1, 2 và 3 Điều này, nếu vô ý làm chết
nạn nhân, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm [33].
Điều 112 quy định về tội cố ý gây tổn hại nặng vừa cho sức khỏe như sau:
1. Cố ý gây tổn hại nặng vừa cho sức khỏe không nguy hiểm đến tính mạng
và không gây ra hậu quả quy định tại Điều 111 Bộ luật này, nhưng làm suy giảm
sức khỏe lâu dài hay làm mất đáng kể vĩnh viễn khả năng lao động chung với tỷ lệ
dưới 1/3, thì bị phạt giam từ ba tháng đến sáu tháng hoặc bị phạt tù đến 3 năm.
2. Cũng hành vi đó, nếu:
a) Được thực hiện đối với hai người trở lên;
b) Được thực hiện đối với người hoặc người thân thích của người đó liên
quan đến việc thực hiện công vụ hoặc nghĩa vụ xã hội của người này;
c) Do một nhóm người, một nhóm người có thỏa thuận trước hoặc một nhóm
người có tổ chức thực hiện; d) Được thực hiện một cách đặc biệt tàn ác, nhạo báng
hoặc gây đau đớn cho nạn nhân; đ) Được thực hiện vì động cơ côn đồ;
e) Được thực hiện vì động cơ hận thù dân tộc, chủng tộc, tôn giáo, hoặc
huyết thống;
g) Được thực hiện nhiều lần hoặc do người trước đây đã phạm tội cố ý gây
tổn hại nặng cho sức khỏe hoặc giết người theo quy định tại Điều 105 Bộ luật này
thực hiện thì bị phạt tù đến năm năm [33].
Điều 115 quy định về tội cố ý gây tổn hại nhẹ cho sức khỏe như sau:
Cố ý gây tổn hại nhẹ cho sức khỏe, làm suy giảm sức khỏe trong thời gian
ngắn hay làm mất vĩnh viễn không đáng kể khả năng lao động chung, thì bị phạt
tiền từ năm mươi lần đến một trăm lần mức thu nhập tối thiểu hay mức lương hay
thu nhập khác của người bị kết án trong thời gian đến một tháng, hoặc bị phạt lao
động bắt 28 buộc từ một trăm tám mươi giờ đến hai trăm bốn mươi giờ hoặc bị phạt
lao động cải tạo đến một năm hoặc bị phạt giam từ hai tháng đến bốn tháng [33].
23
So sánh quy định trong BLHS Nga cho thấy hình phạt thấp hơn BLHS Việt
Nam, cụ thể nếu vô ý làm chết người chỉ bị phạt tù cao nhất là 15 năm. Điểm đáng
chú ý của BLHS Liên bang Nga là Bộ luật này chia tội cố ý gây tổn hại cho sức
khỏe thành ba loại ở những mức khác nhau: tổn hại nặng cho sức khỏe (Điều 111);
tổn hại nặng vừa cho sức khỏe (Điều 112) và gây tổn hại nhẹ cho sức khỏe (Điều
115). Mỗi điều luật lại có sự giải thích chi tiết, như thế nào là cố ý gây tổn hại nặng;
thế nào là cố ý gây tổn hại nặng vừa và thế nào được coi là tổn hại nhẹ. Việc phân
chia và nêu rõ khái niệm này đã tạo thuận lợi nhất định cho việc áp dụng pháp luật.
1.4.3. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác trong Bộ luật hình sự Nhật Bản
Bộ luật hình sự của Nhật Bản bao gồm 40 chương và 263 điều. Cụ thể:
Điều 204 BLHS Nhật bản quy định về tội cố ý gây thương tích như sau:
"Người nào gây thương tích cho người khác thì bị phạt tù có lao động bắt buộc đến
10 năm hoặc bị phạt tiền đến ba trăm ngàn Yên hoặc bị phạt tiền về tội hình sự nhỏ"
[34].
Điều 205 BLHS Nhật Bản quy định về tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết
người:
1. Người nào gây thương tích cho người khác mà dẫn đến chết người thì bị
phạt tù có lao động bắt buộc từ 2 năm trở lên.
2. Khi tội phạm quy định tại khoản 1 trên đây được thực hiện đối với ông bà
của mình hoặc của vợ (hoặc chồng) mình thì bị phạt tù chung thân có lao động bắt
buộc từ 3 năm trở lên [15].
Hình phạt của Nhật Bản cũng tương đương với Việt Nam là tù chung thân
nhưng có tiến bộ là có chế tài đối với việc chuẩn bị phạm tội. Tóm lại, việc đối
chiếu so sánh quy định Điều 134 BLHS năm 2015 của nước ta với quy định tương
ứng trong pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới, chúng ta thấy quy định
của Điều 134 BLHS 2015 của nước ta quy định rất cụ thể và tập trung trong một
điều luật (BLHS của Trung Quốc quy định về tội này quá khái quát, BLHS của Nga
và Nhật Bản thì tội này được quy định trong một số điều luật). Việc đối chiếu, so
24
sánh giúp chúng ta tiếp thu những tinh hoa pháp luật tiên tiến trên thế giới, vận
dụng trong việc nghiên cứu pháp luật Việt Nam, rút ra những giá trị lập pháp hợp
lý, tiến bộ có thể được áp dụng một cách có chọn lọc ở Việt Nam. Qua việc nghiên
cứu một số vấn đề lý luận chung về các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của khác cho chúng ta một cái nhìn toàn diện về nhóm tội này, chúng
ta hiểu được khái niệm, định nghĩa về các tội cố ý gây thương tích, hiểu được lịch
sử hình thành và phát triển các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam về các tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ năm 1945 đến
nay. Chúng ta hiểu được những quy định trong luật hình sự về các tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong luật hình sự một số
nước trên thế giới có nhiều ảnh hưởng đến Việt Nam như BLHS Liên bang Nga,
BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, BLHS Nhật Bản. Các quy phạm pháp luật về
các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác qua các
thời kỳ của Việt Nam, cũng như các nước trên thế giới quy định về khách thể, mặt
khách quan, chủ thể, mặt chủ quan, hình phạt có khác nhau nhưng đều giống nhau ở
một điểm nghiêm cấm mọi hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe
của người khác, bảo vệ tuyệt đối tính mạng, sức khỏe của con người. Với đặc điểm
trên, việc đi sau nghiên cứu các quy phạm hiện tại về nhóm tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam để hoàn
thiện các quy phạm trên là việc làm cần thiết và có ý nghĩa về mặt lý luận và thực
tiễn.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 của Luận văn đã nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận
chung của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
giúp chúng ta nắm rõ được những nội dung, những vấn đề cơ bản và đặc trưng của
tội danh này. Đồng thời luận văn cũng phân tích, làm sáng tỏ những quy định về tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .
Trên cơ sở nghiên cứu các bài viết, bình luận khoa học của các nhà Luật hoc,
giáo trình của các trường đại học trên cả nước, khái niệm chung của tội phạm được
25
quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS với những đặc điểm riêng của tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều
134 của BLHS 2015 để xây dựng khái niệm cho tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác. Luận văn đã tiến hành phân biệt tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với các tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong tình trạng tinh thần
bị kích động mạnh, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần
thiết khi bắt giữ người phạm tội và tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người trong khi thi hành công vụ, tạo điều kiện cho việc quy định và định
tội danh trong thực tế được chính xác, phục vụ yêu cầu của công tác đấu tranh,
phòng chống tội phạm.
Luận văn cũng so sánh về quy định CYGTT giữa BLHS Việt Nam với
BLHS một số nước như Nga, Trung Quốc, Nhật Bản để thấy được các nét tương
đồng và khác biệt về quy định CYGTT.
Việc nghiên cứu làm rõ những vấn đề, lý luận cơ bản, chung nhất của tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là cơ sở, nền tảng
cho việc nghiên cứu, phân tích đánh giá các nội dung tại Chương 2 của luận văn
này.
26
Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY
THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI
KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐĂKRLẤP TỈNH ĐĂK NÔNG
2.1. Khái quát tình hình xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Đăkrlấp tỉnh Đăk Nông trong
những năm gần đây
Theo thống kê của Tòa án nhân dân huyện Đăkrlấp, trong thời gian qua, các
cơ quan bảo vệ pháp luật đã tiến hành điều tra, truy tố xét xử nhiều vụ án hình sự về
tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác. Số liệu thông kê mới
nhất của Tòa án nhân dân huyện Đăkrlấp cho thấy, từ năm 2015 đến 2019, Tòa án
nhân dân cấp huyện đã đưa ra xét xử các tội phạm về CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ của người khác như sau.
27
Bảng 2.1. Tình hình xét xử các vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích
Số vụ án Số bị cáo Năm
13 20 2015
15 17 2016
27 39 2017
23 26 2018
21 23 Đến tháng 7/ 2019
99 125 Tổng cộng
Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Đăkrlấp
Qua phân tích bảng 2.1 ta có thể thấy số vụ án về tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của người khác có chiều hướng tăng giảm theo từng năm, trong đó
từ năm 2015 đến năm 2017 có xu hướng tăng (cụ thể từ 13 vụ án với 20 bị cáo –
năm 2015 tăng lên 15 vụ án với 17 bị cáo - năm 2016; nhưng đến năm 2017 số vụ
án tăng đột biến lên đến 27 vụ án với 39 bị cáo); từ năm 2018 đến tháng 07/2019 có
xu hướng giảm (từ 23 vụ án với 26 bị cáo – năm 2018 giảm xuống còn 21 vụ án với
23 bị cáo – tháng 07/2019). Trung bình một vụ án CYGTT có khoảng 1.26 bị
cáo/vụ, năm 2015 là 1.53 bị cáo/vụ, năm 2016 là 1.13 bị cáo/vụ, năm 2017 là 1.44
bị cáo/vụ, năm 2018 là 1.13 bị cáo/vụ, tháng 07/2019 là 1.09 bị cáo/vụ. Điều này
phản ánh có những năm thì tính đồng phạm tương đối cao như năm 2015 và 2017,
nhưng cũng có những năm tính đồng phạm rất thấp.
28
Bảng 2.2 Số bị cáo bị đưa ra xét xử về tội cố ý gây thương tích so với tội
phạm nói chung từ năm 2015 đến 2019
Tội cố ý gây thương tích Tội phạm chung (2) Tỷ lệ % Năm (1) (số bị cáo) (1) so với (2) (số bị cáo)
20 310 6.4 2015
17 301 5.6 2016
39 279 14 2017
26 309 8.4 2018
13 237 5.5 7/2019
115 1436 8.0 Tổng
Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Đăkrlấp
Phân tích bảng 2.2 cho thấy:
Trong thời gian từ năm 2015 đến tháng 07/2019 tổng số các bị cáo bị đưa ra
xét xử là 1436. Trong đó, tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử về tội CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khoẻ của người khác là 115 (chiếm 8.0%) chiếm tỷ lệ trung bình và
có xu hướng tăng giảm không đều theo các năm.
Bảng 2.3. Tổng số vụ, bị cáo đã bị xét xử về tội cố ý gây thương tích trên
địa bàn huyện Đăkrlấp
Số trả hồ sơ Số vụ phải xét xử Số đã xét xử Viện kiểm sát Năm
Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo
13 20 13 20 2 2 2015
15 17 15 17 1 1 2016
27 39 27 39 2 2 2017
23 26 23 26 1 1 2018
21 23 20 22 1 1 7/2019
29
99 125 98 125 7 7 Tổng
Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Đăkrlấp
Bảng 2.4. Số vụ án đưa ra xét xử về tội cố ý gây thương tích từ năm 2015
đến 2019
Tội cố ý gây thương tích Tội phạm chung (2) Tỷ lệ % Năm (1) (số vụ án) (1) so với (2) (số vụ án)
13 212 6.1 2015
15 201 7.5 2016
27 187 14.4 2017
23 214 10.7 2018
21 170 12.3 7/2019
Tổng 99 984 10.0
Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Đăkrlấp
Phân tích bảng 2.4 cho thấy:
Qua bảng 3.4, có thể thấy trong cơ cấu xét xử về tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của người khác từ năm 2015 đến tháng 07/2019 thì tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác chiếm tỷ lệ trung bình và cùng có xu
hướng biến động theo từng năm, trong đó xu hướng chính là tăng. Như năm 2015 số
vụ án được đưa ra xét xử là 6.1% số vụ án được đưa ra xét xử nói chung, đến năm
2017 số vụ về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác chiếm
14.4% các vụ án được đưa ra xét xử, đây cũng là năm có tỷ lệ cao nhất.
Bảng 2.5. Những hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo phạm tội cố
ý gây thương tích giai đoạn 2015 - 07/2019
Số bị Cảnh Tù Tù 03 Tù 07 Tù từ Tù từ Tù
cáo cáo, Án dưới năm năm 15 20 chung Năm đã xét cải tạo treo 03 đến đến năm năm thân,
xử không năm 07 15 đến đến tử
30
giam năm năm 20 chung hình
giữ năm thân
00 02 05 12 02 00 00 00 20 2015
00 01 04 12 00 00 00 00 17 2016
00 01 10 28 00 00 00 00 39 2017
00 01 08 17 01 00 00 00 26 2018
00 00 07 15 00 00 00 00 23 7/2019
00 05 34 84 03 00 00 00 125 Tổng
Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Đăkrlấp
Phân tích bảng 2.5 cho thấy:
Trong giai đoạn từ năm 2015 - tháng 07/2019, trong các bị cáo bị xét xử về
tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trên địa bàn huyện
Đăkrlấp không có trường hợp nào bị cáo bị tuyên không tội, miễn trách nhiệm hình
sự, miễn hình phạt hoặc cảnh cáo. Đặc biệt trong thời gian này không có bị cáo nào
bị áp dụng hình phạt từ 15 năm đến 20 năm.
Việc áp dụng đối với các bị cáo cho hưởng án treo với 05 trường hợp; tù có
thời hạn dưới 03 năm với 34 trường hợp; tù từ 03 năm 07 năm với 84 trường hợp; tù
từ 07 năm đến 15 năm với 03 trường hợp.
Bảng 2.6. Nhân thân của các bị cáo bị xét xử về tội cố ý gây thương tích
trên địa bàn Huyện Đăkrlấp
Cán Từ đủ Từ đủ Tuổi Tái
Số bị bộ Dân 14 16 từ 18 phạm, Người cáo công tộc đến đến đến tái nữ nghiện Năm đã bị chức, thiểu dưới dưới dưới phạm ma tuý xét xử Đảng số 16 18 30 nguy
viên tuổi tuổi tuổi hiểm
20 04 00 00 04 16 09 00 05 2015
17 03 00 00 05 12 07 00 03 2016
31
39 00 05 01 00 10 29 18 10 2017
26 00 03 00 00 05 21 13 03 2018
23 00 03 01 00 04 19 15 02 7/2019
125 00 18 02 00 27 97 62 23 Tổng
Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Đăkrlấp
Phân tích bảng 2.6 cho thấy:
Trong giai đoạn từ 2015 đến tháng 07/2019 có 125 trường hợp bị xét xử về
tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác, trong đó nữ giới phạm
tội 02 người; các đối tượng phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là 27 trường
hợp; các đối tượng phạm tội từ đủ 18 tuổi đến dưới 30 tuổi là 97 trường hợp; người
nghiện ma tuý phạm tội là 62 trường hợp; các đối tượng phạm tội thuộc trường hợp
tái phạm, tái phạm nguy hiểm là 23 trường hợp. Đặc biệt không có trường hợp nào
phạm tội là cán bộ công chức chức, đảng viên.
2.2. Định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trên địa bàn huyện Đăkrlấp tỉnh Đăk Nông
2.2.1. Khái quát lý luận định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác
Để đưa ra được cái nhìn đầy đủ về khái niệm định tội danh, tác giả đã tìm
hiểu và kế thừa các nghiên cứu khoa học về pháp luật hình sự Việt Nam và các khái
niệm về định tội danh của các nhà luật học nổi tiếng. Điều 134 BLHS 2015 có quy
định tội phạm có tội danh là: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác”. Do đó, tác giả có thể đưa ra khái niệm định tội danh tội
CYGTT hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác như sau: Định tội danh tội
danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là việc
xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của
hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu cấu thành tội phạm
được quy định tại Điều 134 BLHS.
Vì có nhiều căn cứ phân loại khác nhau nên tương ứng với đó việc định tội
danh cũng phải phân chia thành các trường hợp khác nhau:
32
Thứ nhất, căn cứ vào các yếu tố cấu thành tội phạm cơ bản (chỉ có các dấu
hiệu định tội gồm những dấu hiệu mô tả tội phạm làm cơ sở pháp lý cho việc phân
biệt tội phạm này với tội phạm khác), định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác được chia thành định tội danh tội CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác theo khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt
chủ quan.
Định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
theo khách thể của tội phạm là định tội danh theo sức khỏe của con người khác mà
hành vi CYGTT xâm hại đến.
Định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
theo mặt khách quan của tội phạm là định tội danh theo các dấu hiệu hành vi khách
quan, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả được quy định tại
Điều 134 BLHS năm 2015.
Định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
theo mặt chủ quan của tội phạm là định tội danh theo dấu hiệu lỗi cố ý trực tiếp của
tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
theo chủ thể của tội phạm là định tội danh theo dấu dấu hiệu chủ thể thường của tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Thứ hai, căn cứ vào hình thức phạm tội, định tội danh tội CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác được chia thành định tội danh trong trường
hợp hành vi phạm tội chưa hoàn thành, trong trường hợp đồng phạm, trong trường
hợp có nhiều tội phạm.
Định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong trường hợp hành vi phạm tội chưa hoàn thành là định tội danh trong trường
hợp phạm tội chưa đạt tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong trường hợp đồng phạm là trường hợp định tội danh trong trường hợp hai
người trở lên cố ý cùng thực hiện tội phạm.
33
Định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong trường hợp có nhiều tội phạm là trường hợp định tội danh trong trường người
phạm tội có nhiều hành vi phạm tội nhưng trong đó có hành vi CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác.
2.2.2. Thực tiễn định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn huyện Đăkrlấp
2.2.2.1. Thực tiễn định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác theo cấu thành tội phạm cơ bản
Thực tiễn định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn huyện Đăkrlấp trong những năm vừa qua cho thấy đa số các tòa
án đều định tội danh đúng theo các dấu hiệu của các yếu tố cấu thành tội phạm. Ví
dụ như bản án số 34/2018/HSST của TAND huyện Đăkrlấp ngày 25-9-2018:
Vào khoảng 06 giờ ngày 30/4/2018, bị cáo Y và Q, T, H (cùng ở thôn 9, xã
Đ, huyện C, tỉnh Đắk Nông và một số người nữa (không xác định được nhân thân)
cùng nhau uống rượu tại nhà Q. Đến khoảng 09 giờ thì số người kia về trước, còn
Y, Q, T, H tiếp tục ngồi uống rượu và hát Karaoke. Uống đến khoảng 11 giờ thì
nghỉ, Q say nên đi ngủ, T, H cũng đi chỗ khác nhậu, Y tiếp tục đi qua nhà hàng xóm
là D để uống rượu tiếp. Khi đang ngồi uống đến khoảng 17 giờ thì T đến nhà D gọi
Y ra ngoài sân và nói với Y là H lấy điện thoại của T. Nghe T nói vậy, Y nói T cùng
nhau qua nhà 2 ông Nh (ở thôn 9 cùng xã) để tìm H hỏi chuyện. Khi cả hai đến nhà
ông Nh thì gặp H đang ở đây, Y gọi H ra ngoài sân để hỏi về việc T bị mất điện
thoại, hai bên nói qua lại một lúc thì Y tát vào mặt H một cái. Sau đó Y, H, T cùng
nhau quay lại nhà Q để tìm điện thoại. Khi về tới nhà Q, trong lúc Y đi tìm điện
thoại thì H và T cãi nhau. Sau khi tìm điện thoại không thấy mà vẫn thấy H và T
đang cãi nhau nên Y đi lại chỗ H và T đá vào mặt, tai của H và T. Thấy bị Y đánh
thì H đánh lại, hai bên xảy ra xô xát đánh nhau. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng
ngày, nhận được tin báo của bà Lê Thị L (thôn trưởng thôn 9, xã Đ) về vụ việc đánh
nhau gây rối trật tự trên địa bàn, ban Công an xã Đ cử đồng chí Nguyễn Văn Th là
Công an viên thường trực đến hiện trường nắm tình hình. Khi đồng chí Th vừa đến
34
nơi, Y nhìn thấy đồng chí Th thì chửi đồng chí Th “mẹ mày th, tao đốt nhà mày, tao
giết cả nhà mày”. Thấy đối tượng tỏ ra hung hãn, nguy hiểm nên đồng chí Th gọi
điện báo về Ban công an xã về việc đối tượng Y có biểu hiện chống đối, yêu cầu
tăng cường lực lượng xuống để giải quyết. Sau đó Ban công an xã đã bố trí lực
lượng gồm dân quân tự vệ cùng Ban công an xã xuống để giải quyết vụ việc. Khi tổ
công tác xuống hiện trường nhà Q thì các đối tượng đã bỏ về nhà hết, nhằm đảm
bảo tình hình an ninh trật tự trên địa bàn, tổ công tác tiến hành đến nhà đối tượng Y
để nhắc nhở. Sau đó, tổ công tác chia làm 2 tổ, tổ đồng chí Lê Văn M - Trưởng
Công an xã cùng 02 đồng chí dân quân tự vệ, tổ đồng chí Th cùng đồng chí Hoàng
Văn A, Nguyễn Tuấn K là dân quân tự vệ xã đi đến nhà đối tượng Y. Khi tới nơi,
đồng chí Th thấy Y và vợ là đang đứng ở bờ hồ, đồng chí Th cùng 02 đồng chí dân
quân đi lại chỗ Y để mời lên giải quyết về việc đánh nhau. Lúc này thấy Y say rượu
không thể làm việc được ngay nên đồng chí Th nhắc nhở Y không được đi quậy nữa
mà đi vào trong nhà ngủ đi, thì Y chửi lại đồng chí Thiết “Mày là th, mẹ mày, mày
muốn tao đánh không”, vừa chửi xong thì Y xông vào dùng tay đấm thẳng vào mặt
của đồng chí Th một cái làm đồng chí Th choáng ngã xuống đất. Thấy Y hung hãn,
tổ công tác khống chế, sau đó Y tiếp tục có hành vi nắm cổ áo đồng chí M đòi đánh,
thấy tình hình phức tạp tổ công tác đã khống chế và đưa Y về UBND xã để làm
việc. Đồng chí Th được đưa đi bệnh viện điều trị vết thương bị rách môi trên, lung
lay 03 răng cửa. Ngày 05/5/2018, bị hại ông Nguyễn Văn Th có đơn yêu cầu khởi tố
vụ án. Vật chứng Cơ quan điều tra thu giữ: Không. Tại Bản kết luận giám định số
640/PY-TgT ngày 22/5/2018 của Trung tâm pháp y, Sở y tế tỉnh Đắk Nông, kết
luận: Nguyễn Văn Th bị vết thương môi trên, sẹo ảnh hưởng thẩm mỹ, tỷ lệ thương
tích là 07% (bảy phần trăm). Tòa tuyên bố bị cáo Y phạm tội“Cố ý gây thương
tích”. Áp dụng điểm k khoản 1 Điều 134; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ
luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Y 09 (chín) tháng tù.
Như vậy, trong bản án này, Tòa án đã định tội danh theo khách thể của tội
phạm. Hành vi của Y là dùng vũ lực gây thiệt hại đến sức khỏe của anh Th trong lúc
anh Th đang thi hành công vụ để lại thương tật là 07%. Vì vậy, theo tác giả thì
35
TAND huyện Đăkrlấp đã định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác và xác định đúng điểm, khoản theo quy định của pháp luật.
2.2.2.2.Thực tiễn định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong trường hợp đặc biệt
* Định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong trường hợp đồng phạm và nhiều tội phạm
Bản án số: 51/2018/HS-ST của TAND huyện Đăkrlấp ngày 23/11/2018:
Vào khoảng 22h30’ ngày 29/01/2018, do có mối quạn hệ tình cảm từ trước
với chị Phan Thị H nên sau khi uống rượu ở nhà tại thôn Thuận Tân, xã Thuận An,
huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông, Cao Như H điều khiển xe mô tô chở Nguyễn văn
L đi đến nhà chị Huy tại thôn 01, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông để tìm gặp chị
Huy. Lúc này tại nhà chị Huy có anh Nguyễn Duy C đến chơi đang ngồi uống bia
với chị Huy, khi thấy Cao Như H đến, sợ H phát hiện thấy anh C có mặt ở nhà mình
nên chị Huy cùng anh C đi vào phòng ngủ của chị Huy đóng cửa lại để tránh mặt H.
Do gọi chị Huy nhiều lần nhưng không thấy trả lời nên H lấy 01 con dao (bằng kim
loại có cán làm bằng nhựa màu đen dài 30cm), Nguyễn Văn L lấy 01 con dao (làm
bằng kim loại màu đen, phần lưỡi dao có kích thước 31cm x 7cm, phần cán dao làm
bằng kim loại có kích thước 11cm x 3cm) đi vào cạy cửa phòng ngủ của chị Phan
Thị H. Một lúc sau thì cạy được cửa, Cao Như H thấy chị Phan Thị H và anh
Nguyễn Duy C đang ở trong phòng nên đi vào trong phòng, thấy H cầm dao đi vào
phòng ngủ nên anh C dùng gậy cao su (dài 51cm, đường kính 2,8cm) đánh 01 cái
trúng vào tai trái của H gây thương tích nhẹ, thấy vậy chị H chạy đến đẩy H ra thì bị
H dùng dao kề vào cổ và lôi chị H ra ngoài phòng khách, dùng tay chân đánh đập,
dùng dao cắt, xé hết quần áo đang mặc trên người của chị H. Lúc này, anh C ở trong
phòng ngủ thấy vậy liền hô “Tụi mày không đi tao báo công an”. Nghe vậy, H liền
nói với L “Mày chém chết mẹ thằng đó cho tao”, ngay lập tức, L dùng dao lao vào
chém về phía anh C 01 nhát theo hướng từ trên xuống dưới, anh C giơ tay lên đỡ thì
bị lưỡi dao chém đứt hai ngón tay trái, sau khi chém gây thương tích cho anh L, L
đi ra đứng trước cửa phía bên ngoài phòng ngủ, H hỏi lại L đã chém anh C chưa thì
36
được L trả lời là chém đứt hai ngón tay của anh C rồi. Sau khi đánh đập, cắt và lột
hết quần áo trên người của chị H, H nảy sinh ý định chở chị H về nhà của H ở xã
Thuận Hạnh, huyện Đắk Song. H yêu cầu chị H ra ngoài cổng để lên xe để H chở về
nhưng chị Huy không đồng ý. H lôi chị H ra ngoài, ép chị H lên xe, chị H chống cự
lại, la hét và kêu cứu người đến giúp nhưng không thấy ai can thiệp. Cao Như H
liền túm tóc lôi chị H lên xe mô tô, L từ trong nhà đi ra bế chị H lên xe mô tô, sau
đó H điều khiển chở chị Huy ngồi ở giữa, L ngồi ở sau khống chế, ôm, giữ chị H lại
rồi chở đi (lúc này chị H trong tình trạng người không mặc quần áo). Khi H chở chị
H đi đến khu vực tổ dân phố 16, thị trấn Đắk Mil thì chị H cố vùng vẫy để thoát ra
nên giữa H và chị H giằng co với nhau dẫn đến làm xe mô tô bị ngã xuống đường.
Lợi dụng lúc này, chị H bỏ chạy vào vườn cà phê bên đường gần khu vực nghĩa địa
để trốn thì bị H và L chạy theo bắt chị H lại, dùng vũ lực ép buộc chị H lên xe mô
tô, mặc dù chị H van xin H và L tha cho chị H về nhưng H và L không đồng ý tiếp
tục chở chị H về nhà của H tại thôn Thuận Tân, xã Thuận Hạnh, huyện Đắk Song để
chị H ở đó, không cho về nhà. Sau đó, H và L bỏ đi khỏi địa phương, đối với chị
Phan Thị H và anh Nguyễn Duy C sau khi bị đánh thương tích đã được đưa đến
bệnh viện để cấp cứu và chữa trị.
Tại bản án này, Tòa án đã dựa vào những quy định của pháp luật để định tội
danh tội CYGTT trong trường hợp đặc biệt đối với các bị cáo, cụ thể như sau:
Thứ nhất, Tòa án định tội danh theo đối với trường hợp đồng phạm, với các
nhận định trong bản án: “Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ
vụ án, căn cứ vào lời khai của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan và người làm chứng đã xác định được vào khoảng 22h30’ ngày 29/01/2018,
tại thôn 9A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, Cao Như H và Nguyễn Văn L đã có
hành vi dùng 01 con dao làm bằng kim loại màu đen, phần lưỡi dao có kích thước
31cm x 7cm, phần cán dao làm bằng kim loại có kích thước 11cm x 3cm chém anh
Nuyễn Duy C gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể 12%.”
Và bản án đã quyết định: “Tuyên bố các bị cáo Cao Như H và Nguyễn văn L
phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”.
37
Thứ hai, định tội danh tội CYGTT trong trường hợp nhiều tội phạm, cụ thể
trong bản án này là định tội danh tội CYGTT và tội bắt giữ người trái pháp luật:
Cao Như H và Nguyễn văn L đã có hành vi dùng 01 con dao làm bằng kim
loại màu đen, phần lưỡi dao có kích thước 31cm x 7cm, phần cán dao làm bằng kim
loại có kích thước 11cm x 3cm chém anh Nuyễn Duy C gây thương tích với tỷ lệ
tổn thương cơ thể 12%. Sau đó, Cao Như H và Nguyễn văn L còn có hành vi dùng
vũ lực, đe dọa, khống chế, bắt, giữ chị Phan Thị H đưa lên xe mô tô chở về nhà của
H tại thôn T, xã H, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.
Do đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở pháp lý để kết luận các bị cáo Cao Như H,
Nguyễn văn L phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo 5 điểm đ khoản 2 Điều 134
của Bộ luật hình sự và tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo quy định tại khoản 1
Điều 157 của Bộ luật hình sự.
2.2.2.3. Một số vướng mắc trong thực tiễn định tội danh tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Thực tiễn định tội danh tội CYGTT trên địa bàn huyện Đăkrlấp trong những
năm gần đây cho thấy có một số vướng mắc nảy sinh cần giải quyết ví dụ qua một
số vụ án hình sự cụ thể:
Thứ nhất, về dấu hiệu định tội “dùng hung khí nguy hiểm”
Theo quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì việc sử dụng
"hung khí nguy hiểm" là một trong những căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự
và quyết định mức hình phạt đối với tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại sức khỏe
cho người khác. Tuy nhiên, hiểu thế nào là hung khí nguy hiểm thì thực tiễn xét xử
thời gian qua còn có sự nhận thức khác nhau. Không chỉ nhận thức của những người
tiến hành tố tụng mà ngay cả hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao về vấn đề này cũng chứa đựng những điều bất ổn về mặt lý luận cũng như
đối chiếu với tinh thần của pháp luật thực định.
Khi áp dụng tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” để định tội danh tội
CYGTT cần phải làm rõ:
38
Hung khí nguy hiểm là bản thân nó chứa đựng khả năng gây ra nguy hiểm
đến tính mạng, sức khỏe con người, nó hoàn toàn không phụ thuộc vào cách thức sử
dụng của người phạm tội. Hay phải căn cứ vào cách thức sử dụng hung khí của
người phạm tội để có thể vận dụng tình tiết này (có thể bản chất của phương tiện là
không nguy hiểm nhưng do thủ đoạn, phương pháp của người sử dụng có thể gây
nguy hiểm đến tính mạng hoặc thương tích nặng cho nạn nhân thì mới áp dụng).
Hay cần xem xét toàn diện các vấn đề, tính chất nguy hiểm của hung khí mà người
phạm tội sử dụng, cách thức sử dụng hung khí, động cơ, mục đích và mức độ
thương tích tổn hại sức khỏe nạn nhân.
Đơn cử là bản án số: 46/2018/HS-ST của TAND huyện Đăkrlấp ngày
21/11/2018 đã nêu tại mục 2.2.2. Ta có thể thấy Tòa án đã căn cứ vào hành vi của bị
cáo Lộc Văn D để truy cứu hình sự về tội CYGTT theo quy định tại điểm a khoản 1
Điều 134 BLHS 2015. Theo tác giả, mặc dù 2 cục đá 04 cm và 06 cm tuy rằng
cứng, và cũng được liệt kê tại Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP nhưng ở đây Lộc Văn
D chỉ dùng đá ném theo quán tính khi bị thách thức, không mang chủ ý muốn gây
thương tổn nặng cho người bị hại. Vả lại, hai cục đá ở đây là loại nhỏ, theo tính chất
địa lý ở vùng Tây Nguyên, cụ thể là tại ĐăkNông thì đá thường mềm và giòn, tính
sát thương thấp. Do trúng một số bộ phận dễ bị tổn thương gây ra tỷ lệ thương tật là
16% nhưng theo tác giả, trong trường hợp này Tòa án nên áp dụng quy định “mang
tính chất côn đồ” lý do là mâu thuẫn nhỏ nhặt mà bị cáo đã dùng vũ lực để giải
quyết mấu thuẫn đó. Thể hiện sự coi thường pháp luật và trật tự an toàn xã hội tại
địa phương.
Nghiên cứu vụ việc thứ hai: Lúc 22h ngày 1/5/2019, Nguyễn Văn A, Trần
Văn H. và Phan Xuân T. cùng ngồi nhậu tại ghế đá nhà H. Sau khi uống mỗi người
7 lon bia Sài Gòn thì giữa A. và T. có lời qua tiếng lại, cãi vã với nhau. Trong lúc
A. đang chặt cục đá đông lạnh để bỏ vào ly bia, vì bực tức T. nên A. cầm cục đá
lạnh đập vào đầu T. làm T. ngã gục xuống đất, bất tỉnh. Thấy vậy, H. dưa T. đi bệnh
viện huyện C. cấp cứu và điều trị 5 ngày thì xuất viện.
Kết quả giám định tỷ lệ thương tật của A là 10%.
39
Sau khi có kết quả giám định, thì có 2 quan điểm xử lý vụ việc khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, hành vi A. dùng cục đá lạnh đánh vào đầu T.,
tuy gây thương tích cho T. 10% nhưng không cấu thành tội cố ý gây thương tích
theo điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS, nên A. chỉ bị xử phạt hành chính về hành vi
đánh người.
Bởi vì, cục đá đông lạnh đã tan, không thu giữ vật chứng được. Do đó, cục
đá lạnh không phải là hung khí nguy hiểm, nên hành vi của A. gây thương tích cho
T., tỷ lệ tổn thương có thể của T. là 10%, chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
Quan điểm thứ hai cho rằng, nếu là nước ở dạng tinh thể lỏng thì nước không
phải là hung khí nguy hiểm nhưng nước khi đã đông lạnh thành cục, có độ rắn chắc
và cứng nên lúc nước đã đông cứng thành đá đông lạnh sẽ trở thành hung khí, nếu
A. dùng cục đá đông lạnh đánh vào đầu của T. tức là A. dùng hung khí nguy hiểm
gây thương tích cho T.
Tuy vật chứng không thể thu giữ được nhưng vẫn có đủ căn cứ để chứng
minh đó là hung khí, vì khi nước đã đông lạnh thì thành đá và có độ cứng hơn nhiều
so với cơ thể con người, nên hành vi A. dùng cục đá đông lạnh đánh vào đầu T. với
tỷ lệ tổn thương cơ thể của T là 10% thì đã đủ yếu tố cấu thành tội CYGTT theo
điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS. [25]
Theo tác giả, trong trường hợp này, cục đá lạnh vẫn được tính là hung khí
nguy hiểm, do chủ đích của A là đập vào đầu T để gây thương tích nhằm thỏa mãn
sự bực tức của A. Mà vùng đầu là vùng quan trọng của con người, dễ gây tổn
thương nên theo tác giả, có thể áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134 trong trường hợp
này.
Thứ hai, về dấu hiệu định tội “có tính chất côn đồ”
Theo quy định tại điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 và điều 134 Bộ luật
hình sự năm 2015 thì tình tiết "có tính chất côn đồ" được quy định là tình tiết định
khung tăng nặng hình phạt. Tuy nhiên, việc đánh giá và áp dụng tình tiết "có tính
chất côn đồ" trong vụ án cụ thể như thế nào cho đúng đã gây nhiều khó khăn cho
40
các cơ quan tiến hành tố tụng quá trình giải quyết vụ án bảo đảm khách quan, đúng
pháp luật.
Thực tế, khi áp dụng khái niệm nêu trên để đánh giá tình tiết "có tính chất
côn đồ" trong một số vụ án cụ thể lại có nhiều quan điểm khác nhau.
Ví dụ như bản án số: 62/2018/HS-ST ngày 29-11-2018 của TAND huyện
Đăkrlấp
Khoảng 19 giờ ngày 30/05/2018, tại nhà của Mai Văn Ph, chị Đinh Thị X trú
tại thôn 8 xã NB, huyện ĐS khi đang ngồi ăn cơm tối thì Mai Văn Ph hỏi vợlà chị
Đinh Thị X về tiền công đi làm thuê của hai vợ chồng hiện ở đâu thì chị X trả lời
“tiền công đã dùng để lo chi phí, ăn uống sinh hoạt cho cả gia đình hết rồi” Nghe vợ
trả lời như vậy thì Ph bực tức, mặt khác do trước đó mỗi lần vợ chồng cãi nhau thì
chị X hay bỏ về nhà mẹ đẻ nên Ph muốn đánh chị Ph cho hả giận. Ph đang ngồi xem
tivi thì đứng dậy đi lại chỗ chị X đang ngồi ăn cơm cùng các con rồi bị cáo dùng
chân phải đá mạnh một phát theo hướng từ ngoài vào trong vùng hông bên trái của
chị X, chị X bị đá vào hông thì ôm bụng ngồi tại chỗ còn Ph bỏ ra ngoài. Sau khi bị
Ph đá chị X đi vào nhà vệ sinh thì thấy vùng bụng đau, hông đau hơn, đồng thời
không đứng dậy được nên kêu la để mọi người biết. Sau đó bà Nguyễn Thị Đ là mẹ
ruột chị X và bị cáo Pv đưa chị X đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa huyện Đắk
Song, sau đó chuyển lên điều trị tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Đắk Nông. Qúa trình Pv
đá chị X gây thương tích thì có con của bị cáo và chị X là các cháu Mai Thị Th, Mai
Văn D chứng kiến. Ngày 18/6/2018 chị Đinh Thị X có đơn tố cáo, đơn đề nghị giám
định sức khỏe, đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với bị cáo Ph. Ngày 18/7/2018
Cơ quan CSĐT - Công an huyện Đắk Song đã trưng cầu giám định tỷ lệ tổn thương
cơ thể của chị Đinh Thị X Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số
322/TgT ngày 19/7/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Nông kết luận chị Đinh
Thị X bị tổn thương phải cắt lách hoàn toàn, sau cắt lách có thiếu máu nhẹ. Tỷ lệ
tổn thương cơ thể là 26% sẹo vết thương phần mền số lượng ít, kích thước lớn, tỷ lệ
5,92% sức khỏe. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 32% sức khỏe.
Tại bản án này, TAND huyện Đăkrlấp đã áp dụng tình tiết “có tính chất côn
đồ” để ra quyết định theo điểm c khoản 3 Điều 134 của BLHS đối với bị cáo Ph.
41
Tuy nhiên, theo tác giả trong trường hợp này bị cao Ph đang trong tình trang tinh
thần không ổn định do nhiều lần cãi vã trước đó và câu trả lời của vợ bị cáo nên bị
cáo do ức chế trong nội tâm đã hành động bộc phát đá vào vợ bị cáo. Do không may
nên trúng phần mềm gây ra tỷ lệ thương tật 32%, nhưng thực chất bị cáo chỉ muốn
đá một hoặc hai cái để giải tỏa tâm lý ức chế chứ không mong muốn gây ra hậu quả
như vậy. Cần xét thêm là con bị cáo còn nhỏ, sống phụ thuộc vào vợ nên theo tác
giả trong trường hợp này nên áp dụng điểm a khoản 2 Điều 134. Không phải trong
mọi trường hợp cơ quan xét xử đều áp dụng tình tiết này, cần phải xem xét mọi vẫn
đề một cách toàn diện để các bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời, sống có ích cho xã
hội.
2.2.3. Định khung tăng nặng trong tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
sức khỏe của người khác mà cơ quan xét xử đều áp dụng
Thực tiễn áp dụng các dấu hiệu định khung của tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Đăkrlấp trong những
năm vừa qua cho thấy Tòa án đều áp dụng đúng các dấu hiệu định khung theo các
khoản được quy định trong tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác và điều này được thể hiện thông qua rất nhiều các vụ án. Đơn cử như vụ án:
Bản án số: 46/2018/HS-ST của TAND huyện Đăkrlấp ngày 21/11/2018 có nội
dung:
Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 18/4/2018, Lộc Văn D, Lộc Văn L, Lữ Văn
T cùng nhau uống rượu tại chòi rẫy nhà D tại thôn B, xã E, huyện C, tỉnh Đăk
Nông. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, anh Lữ Văn N đi ngang qua 2 thì ghé vào
chơi và cùng ngồi uống rượu, uống được khoảng 03 ly rượu (loại ly mắt trâu) thì hết
rượu, nên anh N đưa tiền cho T, D đi mua bia và đồ ăn, đến khoảng 21 giờ 30 phút
cùng ngày thì T, D mua về và cùng L, anh N ngồi uống bia. Khi vừa uống được
khoảng nửa lon bia thì giữa D và anh N xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau về việc làm
đường đi chung (vì hai nhà chung một tuyến đường), anh N dùng tay đập vỡ bánh
tráng đang để dưới nền nhà, thấy vậy D liền nắm cổ áo anh N thì được L và T can
ngăn, sau đó, D đi vào phía sau nhà bếp lấy 01 đoạn ống nhựa để đánh nhau thì
42
được L, T tiếp tục can ngăn nên D dừng lại và ngồi xuống nền nhà. Lúc này, anh N
đi ra ngoài sân và nói “mày thích gì thì ra đây”, D nghe vậy thì chạy ra sân nhặt 02
cục đá (loại đá 4x6) ném về phía anh N, phát thứ nhất trúng sượt vào phần trán và
tai trái của anh N, phát thứ hai thì trúng vào vùng sườn trái của anh N, sau đó, T
chạy ra can ngăn thì D dừng lại. anh N nói D chở anh N đi cấp cứu tại bệnh viện thì
D đồng ý và lấy xe mô tô chở anh N đi ra trạm xá xã E, sau đó thuê xe ô tô chở anh
N đến bệnh viện đa khoa Thiện Hạnh, TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk để điều
trị. Vật chứng của vụ án: 02 (hai) cục đá không rõ hình dạng, màu xanh đen, kích
thước chỗ nhỏ nhất 04 cm, lớn nhất 06 cm do Lộc Văn D giao nộp. Tại Bản kết luận
pháp y thương tích số 936/PY-TgT ngày 07/8/2018 của Trung tâm Pháp y, Sở Y tế
tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Lữ Văn N bị đa thương, gãy 03 (ba) xương sườn, dập lách;
tỷ lệ thương tích là 16% (mười sáu phần trăm) sức khỏe; do vật cứng, tày tác động.
Trong vụ án này, TAND huyện Đăkrlấp tại Bản án số: 46/2018/HS-ST ngày
21/11/2018 dựa vào tổng tỷ lệ thương tích làm cơ sở để định khung hình phạt tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với nhận định: Vào khoảng
21 giờ 40 phút ngày 18/4/2018, tại chòi rẫy nhà Bị cáo, do xảy ra mâu thuẫn với anh
N về chuyện làm đường đi chung, nên D đã có hành vi dùng 02 cục đá (loại đá 4x6)
ném về phía anh N, trong đó 01 cục đá trúng sượt vào phần trán và tai trái, 01 cục
đá trúng vào vùng sườn trái của anh N, gây thương tích cho anh N với tỷ lệ thương
tích là 16% (mười sáu phần trăm). Lời khai của Bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù
hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác, và phù hợp với các tài liệu
chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Do đó đã có đủ căn cứ kết luận bị
cáo Lộc Văn D phạm tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ, khoản 2 Điều
134 BLHS.
2.2. Quyết định hình phạt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Đăkrlấp tỉnh Đăk Nông
Hiện nay, trong khoa học luật hình sự khái niệm quyết định hình phạt được
hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau nhưng nhìn chung được hiểu theo nghĩa hẹp và
nghĩa rộng:
43
Quyết định hình phạt theo nghĩa hẹp là quyết định hình phạt chính và hình
phạt bổ sung.
Quyết định hình phạt theo nghĩa rộng là quyết định hình phạt chính, quyết
định hình phạt bổ sung, quyết định biện pháp chấp hành hình phạt, miễn TNHS,
miễn hình phạt hoặc là quyết định áp dụng các biện pháp tư pháp khác nhằm mục
đích thay thế hoặc bổ sung cho hình phạt.
Dựa trên các cơ sở này, tác giả có thể đưa ra khái niệm quyết định hình phạt
tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:
Quyết định hình phạt đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt với mức hình phạt cụ thể trong
phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác.
* Các căn cứ:
Khoản 1 Điều 50 BLHS, như vậy, theo quy định này, các căn cứ quyết định
hình phạt đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác bao
gồm: (1) Căn cứ vào các quy định của BLHS; (2) Căn cứ tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; (3) Căn cứ nhân thân người phạm tội; (4)
Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS.
* Phân loại:
- Căn cứ vào loại cấu thành tội phạm CYGTT tương ứng, quyết định hình
phạt đối với tội CYGTT được chia thành quyết định hình phạt theo cấu thành tội
phạm cơ bản của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (khoản
1 Điều 134 BLHS năm 2015) và quyết định hình phạt theo các cấu thành tội phạm
tăng nặng (các khoản 2,3,4,5 Điều 134 BLHS năm 2015).
- Căn cứ vào tính chất đặc biệt của quyết định hình phạt, quyết định hình
phạt đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được chia
thành: quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng
(Điều 54 BLHS năm 2015), quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
(Điều 55 BLHS năm 2015), quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa
44
đạt (Điều 57 BLHS), quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm (Điều 58
BLHS).
* Thực tiễn trên địa bàn huyện Đăkrlấp trong những năm gần đây
Về cơ bản, Tòa án nhân dân huyện Đăkrlấp đều áp dụng đúng các quy định
của BLHS về quyết định hình phạt đối với tội CYGTT trong các trường hợp như:
theo cấu thành cơ bản, theo các cấu thành tăng nặng và trong trường hợp đặc biệt.
* Thực tiễn quyết định hình phạt theo cấu thành tội phạm cơ bản của tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện
Đăkrlấp
Bản án số 06/2019/HSST ngày 22/02/2019 của TAND huyện Đăkrlấp:
Do có mâu thuẫn trong việc nợ tiền với Nguyễn Xuân B nên ngày 05/8/2018,
anh Nguyễn Huy P đến quán bún của bà Văn Thị T (mẹ ruột của Nguyễn Xuân B)
tại thôn 4, xã Q, huyện Đ để tìm B đòi nợ. Khi tới quán không gặp B nên anh P đã
dùng gậy sắt đập phá đồ đạc tại quán làm hư hỏng một số tài sản. Đến khoảng 20
giờ 00 2 phút, ngày 20/8/2018, B đã gọi điện thoại hỏi anh P “đang ở đâu” thì anh P
trả lời “đang ở phòng trọ”. Khoảng 30 phút sau, B cầm theo 01 con dao đến phòng
trọ để tìm anh P thì gặp anh P và Nguyễn Nhất D; khi gặp anh P nói “có gì từ từ nói,
anh cầm dao xuống đây làm gì”; rồi B và anh P cãi qua lại việc nợ tiền; một lúc sau
anh P nói “giờ muộn rồi, có gì anh ra ngoài để ngày mai nói chuyện”, ngay lúc đó B
dơ dao lên chém một nhát theo hướng từ trên xuống dưới trúng vào bắp tay trái và
vùng ngực trái của anh P; anh P lùi lại ngồi lên góc giường ngủ thì bị B tiếp tục
chém một nhát trúng vào cẳng chân trái; B tiếp tục kề dao vào cổ anh P uy hiếp, anh
P chống cự làm rách da ở cổ; lúc này anh D đứng ra can ngăn, xin tha cho anh P thì
B dừng lại, cầm dao rời khỏi hiện trường. Còn anh P được anh D đưa đến bệnh viện
để cấp cứu. Anh P điều trị vết thương từ ngày 21/8/2018 đến 27/8/2018 thì ra viện .
Ngày 27/9/2018 anh P có đơn yêu cầu giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể và yêu cầu
khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Nguyễn Xuân B.
Qua phân tích bản án nêu trên, có thể thấy Hội đồng xét xử đã áp dụng nhiều
quy định của BLHS để đưa ra quyết định hình phạt đối với tội CYGTT như:
45
Về độ nguy hiểm:
“Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm vì bị cáo biết tính mạng, sức khỏe
của con người được pháp luật tôn trọng và bảo vệ; mặc dù giữa bị cáo và bị hại có
mâu thuẫn trước đó từ việc vay nợ, bị hại đã đến quán của mẹ bị cáo đập phá tài sản
nhưng bằng thái độ hung hăng bị cáo đã dùng dao là hung khí nguy hiểm chém bị
hại để giải quyết mâu thuẫn, gây tổn thương cơ thể cho bị hại là 10%. Do vậy, hành
vi của bị cáo cần phải xử phạt nghiêm, nhằm cải tạo giáo dục bị cáo, đồng thời răn
đe và phòng ngừa chung.”
Hội đồng xét xử nhận xét:
“Tuy nhiên, bị cáo là người có nhân thân tốt; phạm tội lần đầu; sau khi phạm
tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tác động gia đình bồi thường một
phần thiệt hại; bị cáo có ông ngoại là liệt sỹ nên bị cáo được hưởng các tình tiết
giảm nhẹ quy tại các điểm b,i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.”
- Trong vụ án này, quyết định hình phạt theo cấu thành tội phạm cơ bản của
tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (theo khoản 1 Điều 134
BLHS năm 2015) được thể hiện trong Phần quyết định của bản án:
“Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân B phạm tội “Cố ý gây thương tích” Áp dụng
điểm a khoản 1 Điều 134; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật
hình sự: xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân B 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình
phạt tù tính từ ngày 30/10/2018.”
* Thực tiễn quyết định hình phạt theo các cấu thành tội phạm tăng nặng của
tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện
Đăkrlấp
Như đã nêu ở phần nghiên cứu về thực tiễn định tội danh tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo cấu thành tội phạm tăng nặng trên địa
bàn huyện Đăkrlấp, tại Bản án số: 46/2018/HS-ST của TAND huyện Đăkrlấp ngày
21/11/2018 có nội dung về vụ Lộc Văn D phạm tội “Cố ý gây thương tích”, tương
ứng với định tội danh tội CYGTT theo cấu thành tội phạm tăng nặng đối với hành
vi của bị cáo D thì tòa án cũng quyết định hình phạt đối với bị cáo D theo cấu thành
tội phạm tăng nặng của tội CYGTT. Cụ thể, Tòa án nhân dân huyện Đăkrlấp đã
quyết định:
46
“1. Tuyên bố: bị cáo Lộc Văn D phạm tội: “Cố ý gây thương tích”. Xử phạt:
bị cáo Lộc Văn D 02 năm 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách
là 05 năm. Thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Lộc Văn D cho Uỷ ban nhân dân xã E, huyện C, tỉnh Đắk Nông
là nơi Bị cáo thường trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
* Thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp đặc biệt đối với tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Đăkrlấp
- Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp
dụng đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Ví dụ tại Bản án số: 46/2018/HS-ST của TAND huyện Đăkrlấp ngày
21/11/2018 có nội dung về vụ Lộc Văn D phạm tội “Cố ý gây thương tích” nêu trên
tòa án đã áp dụng Điều 54 BLHS năm 2015 để quyết định hình phạt dưới mức thấp
nhất của khung hình phạt được áp dụng của tội CYGTT đối với bị cáo D.
Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm và có nhiều tội phạm
Ví dụ, tại Bản án số: 51/2018/HS-ST của TAND huyện Đăkrlấp ngày
23/11/2018 như đã nêu tại phần định tội danh tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong trường hợp đồng phạm và nhiều tội phạm, Tòa án quyết
định:
“1. Tuyên bố các bị cáo Cao Như H và Nguyễn văn L phạm tội “Cố ý gây
thương tích” và “Bắt, giữ người trái pháp luật”.
1.1. Áp dụng khoản 2 Điều 134; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm b, khoản 1,
khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Tuyên phạt bị cáo Cao Như H 02 (hai) năm
06 (sáu) tháng tù về tội Cố ý gây thương tích. Áp dụng khoản 1 Điều 157; điểm h
khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Tuyên phạt
bị cáo Cao Như H 09 (chín) tháng tù về tội Bắt, giữ người trái pháp luật. Áp dụng
khoản 1 Điều 55 của Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo
Cao Như H phải chấp hành hình phạt chung 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn
tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 16/3/2018.
1.2. Áp dụng khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ
luật hình sự: Tuyên phạt bị cáo Nguyễn văn L 02 (hai) năm tù về tội Cố ý gây
thương tích. 8 Áp dụng khoản 1 Điều 157; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự:
47
Tuyên phạt bị cáo Nguyễn văn L 09 (chín) tháng tù về tội Bắt, giữ người trái pháp
luật. Áp dụng khoản 1 Điều 55 của Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt của hai tội,
buộc bị cáo Nguyễn văn L phải chấp hành hình phạt chung từ 02 (hai) năm 09
(chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 21/3/2018.”
* Hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Đăkrlấp
Ngoài những bản án áp dụng đúng theo quy định của pháp luật, tác giả nhân
thấy một số bản án chưa thật sự hợp lý như:
Chẳng hạn Bản án số: 32/2018/HSST Ngày 11/9/2018 của TAND huyện
Đăkrlấp:
Vào tối 21/5/2018, Lưu Đức Ng đến quán Karaoke Valentin của bà Nguyễn
Thị Diệu A tại thôn 03, xã N D, huyện C, tỉnh Đ N để hát karaoke. Đến khoảng 23
giờ cùng ngày thì hát xong; Ng ra ngồi uống nước ở quầy đợi và gọi Hoàng Hiền B
(là nhân viên của quán) đến nói chuyện. Trong khi Ngọc và B đang nói chuyện thì
bà A gọi B vào để dọn phòng đón khách; Ng nghe vậy thì bực tức, khó chịu nên đạp
vào cánh cửa phòng hát karaoke, sau đó đi ra ngoài đạp đổ 01 (một) chậu cây rồi
tiếp tục đòi đi vào nhà để nói chuyện thì được B can ngăn nên Ng đi về. Sau khi đi
về được khoảng 30 phút thì Ng quay lại quán Karaoke Valentin tìm bà A để nói
chuyện thì bà A không ra mà gọi cho Công an xã N D đến làm việc. Sau đó, Trần
Ngọc T (là công an viên xã N D) đến thì bà A ra ngoài nói chuyện cùng với Lưu
Đức Ng. Trong quá trình nói chuyện thì bà A nói Ng say rồi không tiếp chuyện nữa
nên Ng liền đứng dậy, giơ nắm đấm tay phải lên và đấm vào vùng mặt của bà A 01
(một) cái. Sau đó, Ngọc tiếp tục đòi lao vào đánh bà A thì được T và mọi người
xung quanh can ngăn nên Ng bỏ đi về nhà. Vật chứng của vụ án Cơ quan CSĐT
Công an huyện C thu giữ: Không. Bản kết luận pháp y thương tích số 656/PY-TgT
ngày 25/5/2018 của Trung tâm Pháp y - Sở Y tế tỉnh Đ L, kết luận: Nguyễn Thị
Diệu A bị vết thương mũi, gãy xương chính mũi; tỷ lệ thương tích là 15% (mười
lăm phần trăm) sức khỏe.
Trong vụ án này bị cáo Lưu Đức Ng bị Tòa án tuyên bố phạm tội “Cố ý gây
thương tích” với thời hạn 03 năm tù giam. Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm s
48
khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng
người đúng tội.
Nhưng xét sâu vào nhân thân của bị cáo: “Ngày 21/12/2005 bị cáo bị Chủ
tịch UBND huyện C ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
trường giáo dưỡng về hành vi gây rối trật tự công cộng, chấp hành xong ngày
07/02/2008. Ngày 12/8/2011 bị Tòa án nhân dân huyện C xử phạt 03 (ba) năm tù về
tội Cố ý gây thương tích, quy định tại Điều 104 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung
năm 2009), chấp hành xong ngày 03/9/2013. Ngày 20/01/2016 bị Cơ quan CSĐT
Công an huyện C khởi tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích”, quy định tại khoản 1
Điều 104 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); đến ngày 03/4/2017 được
Cơ quan CSĐT Công an huyện C ra quyết định đình chỉ điều tra do bị hại rút đơn
yêu cầu khởi tố và chuyển hồ sơ vụ việc cho Công an huyện C ra quyết định xử phạt
hành chính với số tiền 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng). Bị cáo Lưu
Đức Ng đã 02 lần bị khởi tố về hành vi “Cố ý gây thường tích”, mặc dù bị cáo đã
chấp hành xong hình hình 03 (ba) năm tù nhưng không lấy đó làm bài học cho bản
thân mà, có thái độ coi thường pháp luật, xem thường tính mạng và sức khỏe của
người khác. Vì vậy cần áp dụng mức hình phạt thật nghiêm, tương xứng với hành vi
phạm tôi của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định
để cải tạo giáo, dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.” ‘
Điều này chứng tỏ bị cáo Ng vẫn còn chưa ăn năn, hối cải, tu chí làm ăn sau
những lần bị pháp luật răn đe, tách khỏi xã hội. Bản tính của bị cáo vẫn còn hung
hăng, coi thường pháp luật, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt mà đã sử dụng vũ lực để giải
quyết gây ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội. Chính vì vậy, tác giả cho rằng Tòa án
không nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình
sự năm 2015 để thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật. Theo đó, tác giả cho rằng
Tòa án nên xử phạt bị cáo 04 năm tù giam để bị cáo có thời gian suy nghĩ, cải tạo,
góp phần đóng góp cho xã hội.
2.3. Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng pháp hình sự về tội tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Đăkrlấp
* Về ưu điểm:
49
- Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt qua một số bản án điển
hình mà Chương 2 đã nêu cho thấy phần lớn các bản án đều áp dụng đúng quy định
của BLHS về định tội quyết định hình phạt.
- Tội CYGTT là tội phạm có tính phổ biến nên đa số những người tiến hành
tố tụng do giải quyết nhiều vu án thường xuyên đều nắm vững các dấu hiệu pháp lý
của tội này, do đó áp dụng đúng quy định pháp luật.
- Ngành Tòa án nói chung và địa phương nói riêng thường xuyên tổ chức các
đợt tập huấn, trao đổi kinh nghiệm về các quy định của BLHS hiện hành nên việc áp
dụng các quy định về tội CYGTT ít xảy ra sai sót.
* Hạn chế:
- Thực tế áp dụng pháp luật hình sự về tội CYGTT trên địa bàn huyện
Đăkrlấp trong khoảng thời gian từ năm 2015 - 2019 cho thấy không có những vụ án
gây oan sai mà chỉ có các sai sót liên quan đến các dấu hiệu định khung, các tình
tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, cho hưởng án treo.
- Một số người tiến hành tố tụng chưa nắm rõ và hiểu hết các quy định mới
của BLHS năm 2015 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, dẫn đến nhầm lẫn trong
quá trình áp dụng.
* Nguyên nhân:
- Nguyên nhân chủ yếu của của các vướng mắc, sai sót trên thực tiễn chủ yếu
là do người tiến hành tố tụng chưa nắm vững và tìm hiểu kĩ càng các quy định mới
của BLHS năm 2015, bởi lẽ để áp dụng đúng quy định về tội CYGTT không chỉ
nắm vững các quy định tại Điều 134 BLHS mà còn phải nắm vững các quy định
khác ở Phần chung và các tội có đặc điểm gần với tội CYGTT như CYGTT trong
tình trạng bị kích động mạnh, trong khi thi hành công vụ …
- Các văn bản hướng dẫn về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe nói
chung và tội CYGTT theo quy định của BLHS năm 2015 vẫn còn chưa cụ thể, rõ
ràng dẫn đến cách hiểu về các dấu hiệu của các tội phạm không thống nhất giữa
những người tiến hành tố tụng.
Tiểu kết chương 2
Chương 2 đã đạt được một số thành quả sau:
50
Đã phân tích, đánh giá một cách khái quát tình hình xét xử tội CYGTT trên
địa bàn huyện Đăkrlấp trong thời gian từ 2015 - 2019, từ đó chỉ ra: (1) Những khó
khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng áp dụng các quy định pháp luật về tội
CYGTT; (2) Các biện pháp phòng chống tội CYGTT trên địa bàn huyện Đăkrlấp
trong thời gian vừa qua chưa thật sự hiệu quả, đòi hỏi phải có sự thay đổi về quy
định của pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS
về tội CYGTT.
Đã nghiên cứu những vấn đề về định tội danh và quyết định hình phạt tội
CYGTT từ thực tiễn huyện Đăkrlấp trong những năm gần đây.
Đã có những đánh giá chung về thực tiễn áp dụng pháp hình sự về tội
CYGTT trên địa bàn huyện Đăkrlấp, làm nền tảng cho các giải pháp áp dụng đúng
pháp luật hình sự về tội CYGTT ở Chương 3.
51
Chương 3
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO
SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
3.1. Các yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Thứ nhất, tôn trọng và bảo đảm thực thi các quyền con người, quyền công
dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013
Ở nước ta, hiến pháp năm 2013 là căn cứ pháp lý cao nhất để bảo vệ quyền
con người, quyền công dân. Cần có cơ chế cụ thể để khuyến khích và thúc đẩy thực
hiện quyền dân chủ, quyền công dân, nâng cao nhận thức và ý thức thực hiện quyền
con người của người dân. Chúng ta cũng cần tiếp tục phát huy dân chủ để thực hành
một cách đẩy đủ các quyền của người dân. Nhà nước cần chú ý đến các nhóm yếu
thế trong xã hội và tạo cho họ nhiều cơ hội hơn trong sự phát triển của mỗi con
người, mỗi công dân, khắc phục dần sự cách biệt về cơ hội và điều kiện trong sự
phát triển. Bên cạnh đó, cũng cần đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả hơn quy chế
dân chủ ở cơ sở, tăng cường tiếng nói cũng như cơ hội để người dân thể hiện và
thực hiện tốt nhất quyền và nghĩa vụ cơ bản của mình.
Thứ hai, yêu cầu cụ thể hóa được chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước trong đấu tranh phòng, chống đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác
Trong mọi thời kỳ, Đảng và Nhà nước ta không ngừng quan tâm đến việc xử
lý tội phạm nói chung, tội CYGTT nói riêng cho nên đã đề ra nhiều chủ trương,
chính sách nhằm đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tội phạm này.
Thứ ba, yêu cầu đảm bảo phù hợp với các điều kiện kinh tế, xã hội ở nước ta
Ở những giai đoạn lịch sử khác nhau thì sẽ có những điều kiện kinh tế - xã
hội khác nhau. Nước ta đang trong giai đoạn đổi mới hòa nhập với thế giới, đời
sống nhân dân từng bước được nâng cao, chất lượng cuộc sống được cải thiện đáng
kể. Tuy nhiên, bên cạnh đó, tệ nạn xã hội ngày càng tăng cao theo sự phát triển của
52
đất nước, cụ thể là tội CYGTT đang diễn biến phức tạp với mức độ và tính chất
nguy hiểm của hành vi là rất cao, hậu quả thiệt hại xảy ra rất nghiêm trọng. Do đó,
khi hoàn thiện một điều luật nào đó cần phải nhìn nhận, phân tích, đánh giá tính phù
hợp của nó với thực trạng kinh tế xã hội thời điểm đó.
Thứ tư, phải đảm bảo tính đồng bộ của pháp luật
Các quy định của pháp luật mới ban hành phải đồng bộ trong hệ thống pháp
luật thì mới tồn tại ổn định lâu dài trong thực tiễn, nếu không sẽ nhanh chóng bị sửa
đổi, bổ sung hoặc bị thay thế bằng quy định khác phù hợp hơn.
Vì vậy, khi hoàn thiện các quy định pháp luật về tội CYGTT trong BLHS
hiện hành phải đảm bảo được tính đồng bộ trong tổng thể hệ thống pháp luật của
Nước ta, như các quy định của tội CYGTT được hoàn thiện phải đảm bảo sự thống
nhất, không được mâu thuẫn, chồng chéo nhau giữa các quy định trong tội này, giữa
tội CYGTT với tội khác trong BLHS.
Thứ năm, phải phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế
Với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế toàn cầu hiện nay, Việt Nam đã, đang và
sẽ là thành viên của nhiều công ước quốc tế, hiệp định về phòng chống tội phạm
cũng như kinh tế, quân sự. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật
hình sự về tội CYGTT cũng phải phù hợp với các quy định của công ước quốc tế,
Hiệp định mà Việt Nam đã tham gia. Bên cạnh đó, việc áp dụng pháp luật hình sự
về tội CYGTT cũng phải đảm bảo yêu cầu hội nhập của nước ta với thế giới.
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự
Thứ nhất, như đã nêu tại tiểu mục 2.2.2.4 tại Chương 2 cho thấy thực tế việc
đinh tội danh đối với các bị cáo phạm tội CYGTT có tính chất “dùng hung khí nguy
hiểm” trong thời gian qua trên địa bàn cả nước nói chung và huyện Đăkrlấp nói
riêng còn nhiều quan điểm khác nhau.
Theo quy định tại Điều 104 Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009
(sau đây gọi là Bộ luật Hình sự năm 1999) và Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015
53
sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Sau đây gọi là Bộ luật Hình sự năm 2015) thì việc sử
dụng "hung khí nguy hiểm" là một trong những căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình
sự và quyết định mức hình phạt đối với tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại sức khỏe
cho người khác.
Như vậy có thể thấy, hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP viện
dẫn ở trên cho thấy khái niệm “dùng hung khí nguy hiểm” quy định tại Điều 104 Bộ
luật Hình sự năm 1999 và Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 bao gồm cả nội hàm
“sử dụng vũ khí, phương tiện khác” quy định trong tội CYGTT.
Trên cơ sở phân tích và đề xuất như trên, Luận văn kiến nghị Hội đồng thẩm
phán TANDTC xây dựng Nghị quyết mới trên cơ sở sửa đổi, bổ sung nội dung
Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP hướng dẫn như sau:
Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày Kiến nghị ban hành trong Nghị
17-4-2003 của Hội đồng Thẩm phán quyết mới hướng dẫn BLHS hiện
TANDTC hành
“Dùng hung khí nguy hiểm” quy định tại “Dùng hung khí nguy hiểm” quy định
điểm a khoản 1 Điều 104 của BLHS là tại điểm a khoản 1 Điều 134 của BLHS
trường hợp dùng vũ khí hoặc phương tiện là trường hợp dùng phương tiện nguy
nguy hiểm theo hướng dẫn tại các tiểu hiểm để cố ý gây thương tích hoặc gây
mục 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết tổn hại cho sức khoẻ của người khác.
số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17-4-2003 “Phương tiện nguy hiểm” là công cụ,
của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ
dân tối cao để cố ý gây thương tích hoặc cho cuộc sống của con người (trong sản
gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác. xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà
2.1. “Vũ khí” là một trong các loại vũ khí người phạm tội chế tạo ra nhằm làm
được quy định tại khoản 1 Điều 1 Quy phương tiện thực hiện tội phạm hoặc
chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ vật có sẵn trong tự nhiên mà người
hỗ trợ (ban hành kèm theo Nghị định số phạm tội có được và nếu sử dụng công
47/CP ngày 12/8/1996 của Chính phủ). cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người
2.2. “Phương tiện nguy hiểm” là công cụ, khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính
54
dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ mạng hoặc sức khỏe của người bị tấn
cho cuộc sống của con người (trong sản công.
xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người a. Về công cụ, dụng cụ
phạm tội chế tạo ra nhằm làm phương tiện Ví dụ: các loại búa, các loại dao…
thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong b. Về vật mà người phạm tội chế tạo ra
tự nhiên mà người phạm tội có được và Ví dụ: thanh sắt mài nhọn, côn gỗ...
nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó c. Về vật có sẵn trong tự nhiên
tấn công người khác thì sẽ gây nguy hiểm Ví dụ: các loại đá hay thanh gỗ chắc
đến tính mạng hoặc sức khỏe của người bị chắn…
tấn công. Khi áp dụng các tình tiết “dùng vũ khí,
a. Về công cụ, dụng cụ vật liệu nổ”, “dùng a-xít nguy hiểm
Ví dụ: các loại búa, các loại dao… hoặc hóa chất nguy hiểm” quy định tại
b. Về vật mà người phạm tội chế tạo ra Điều 134 BLHS năm 2015 thì không áp
Ví dụ: thanh sắt mài nhọn, côn gỗ... dụng tình tiết thêm “dùng hung khí
c. Về vật có sẵn trong tự nhiên nguy hiểm” nữa
Ví dụ: các loại đá hay thanh gỗ chắc
chắn…
Theo quan điểm tác giả, để thống nhất trong việc xác định tội danh đối với
người phạm tội CYGTT có tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” cần bổ sung một số
chi tiết tại tiểu mục 3.1 Mục 3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP là phải tấn công
vào các bộ phận quan trọng dễ gây tổn thương hoặc để lại tỷ lệ thương tật từ 5% trở
lên và đưa ra một văn bản hướng dẫn cụ thể. Sở dĩ cần phải hạn chế ở thương tích
5% đến dưới 11% khi có một trong các tình tiết quy định tại điểm a đến điểm k
khoản 1 Điều 134 BLHS nhằm hạn chế những hành vi bị coi là tội phạm và phải
trừng trị theo quy định của luật hình sự. Những hành vi gây thương tích khi có một
trong các tình tiết quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS mà có tỷ
lệ thương tật dưới 5% được coi là thương tích nhẹ và sẽ được giải quyết bằng các
biện pháp khác như hành chính, dân sự v.v...
55
Thứ hai, cũng tại tiểu mục 2.2.2.4 cũng còn cho thấy một vướng mắc về tình
tiết “có tính chất côn đồ” cũng còn nhiều vướng mắc:
Tại Điểm i Khoản 1 Điều 134 BLHS quy định tình tiết "có tính chất côn đồ",
cho đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn nào mới và cụ thể hơn Công văn số
38/NCPL ngày 06-01-1976 của TAND Tối cao, Kết luận Hội nghị tổng kết công tác
Toà án năm 1995 của Chánh án TAND Tối cao và Kết luận của Ủy ban Thẩm phán
TAQS Trung ương tại Hội nghị tổng kết công tác ngành TAQS năm 2006, TAND
tối cao đã giải thích về tình tiết “có tính chất côn đồ” như sau: Khái niệm côn đồ
được hiểu là hành động của những tên coi thường pháp luật, luôn luôn phá rối trật
tự trị an, sẵn sàng dùng vũ lực và thích (hay) dùng vũ lực để uy hiếp người khác
phải khuất phục mình, vô cớ hoặc chỉ vì một duyên cớ nhỏ nhặt là đâm chém, thậm
chí giết người. Thực tiễn xét xử cần thiết có hướng dẫn cụ thể hơn, tránh sự tùy tiện
hoặc bất đồng quan điểm khi xem xét, đánh giá để áp dụng hay không áp dụng tình
tiết này giữa các cơ quan tố tụng và giữa các thành viên trong Hội đồng xét xử.
Không phải rằng, tất cả các trường hợp người phạm tội có nhân thân xấu, thích
dùng vũ lực để khuất phục người khác hoặc người phạm tội cứ vô cớ hay vì duyên
cớ nhỏ nhặt mà phạm tội đều là phạm tội có tính chất côn đồ. Nếu người phạm tội
vô cớ hoặc chỉ vì duyên cớ nhỏ nhặt mà phạm tội, nhưng hành vi phạm tội của họ
không mang tính quyết liệt, hung hãn, dã man và họ có nhân thân tốt, thì không nên
coi là trường hợp phạm tội có tính chất côn đồ. Khi áp dụng tình tiết này, cần cân
nhắc tới các yếu tố khác, như nhân thân người phạm tội, tính chất nguy hiểm của
hành vi phạm tội, ý thức thái độ khi phạm tội, nguyên nhân phạm tội ... [30, tr.44-
50]
Còn về tình tiết “có tính chất côn đồ” sự nhận thức, áp dụng khác nhau đến
từ việc hiểu nội dung của 02 tình tiết này.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, “phạm tội có tính chất côn đồ” và “có tính
chất côn đồ” là trường hợp khi phạm tội, người phạm tội rõ ràng đã coi thường
những quy tắc trong cuộc sống, có những hành vi ngang ngược, càn quấy, bất chấp
sự can ngăn của người khác, chỉ vì những nguyên cớ nhỏ nhặt, nhưng cũng cố tình
56
gây sự để phạm tội. Tính chất côn đồ phụ thuộc vào 02 yếu tố: (1) Nhân thân người
phạm tội (bao gồm: quá khứ của họ, tính cách, thái độ xử sự của họ trong cuộc sống
hàng ngày; và (2) không gian, địa điểm nơi xảy ra tội phạm. Theo quan điểm này thì
nhân thân của người phạm tội là một trong những căn cứ để xem xét có áp dụng
TTTN trách nhiệm hình sự “phạm tội có tính chất côn đồ” bên cạnh việc xem xét
các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm (hành vi đã thực hiện, không gian,
địa điểm phạm tội).
Quan điểm khác cho rằng, côn đồ là kẻ chuyên gây sự, hành hung. Phạm tội
có tính chất côn đồ là phạm tội hoàn toàn từ nguyên cớ do mình gây ra. Quan điểm
này đã có sự phân biệt “côn đồ” với “có tính chất côn đồ”. Theo đó, khi xem xét có
vận dụng tình tiết “phạm tội có tính chất côn đồ”, “có tính chất côn đồ” hay không
hoàn toàn dựa vào hành vi mà người phạm tội đã thực hiện. Trong đó, nguyên nhân
dẫn đến hành vi phạm tội được thực hiện có ý nghĩa quan trọng để đánh giá hành vi
phạm tội có tính chất côn đồ hay không.
Tác giả thống nhất với quan điểm thứ hai bởi vì, theo Từ điển tiếng Việt, côn
đồ có nghĩa “kẻ chuyên gây sự, hành hung”. Tức thuật ngữ “côn đồ” chỉ chủ thể chứ
không phải chỉ hành vi. Vì vậy, tác giả đề xuất ngành Tòa án phải thường xuyên
trao đổi kinh nghiệm thực tiễn xét xử để thống nhất đối với tình tiết “có tính chất
côn đồ”. Không phải rằng, tất cả các trường hợp người phạm tội có nhân thân xấu,
thích dùng vũ lực để khuất phục người khác hoặc người phạm tội cứ vô cớ hay vì
duyên cớ nhỏ nhặt mà phạm tội đều là phạm tội có tính chất côn đồ. Nếu người
phạm tội vô cớ hoặc chỉ vì duyên cớ nhỏ nhặt mà phạm tội, nhưng hành vi phạm tội
của họ không mang tính quyết liệt, hung hãn, dã man và họ có nhân thân tốt, thì
không nên coi là trường hợp phạm tội có tính chất côn đồ. Khi áp dụng tình tiết này,
cần cân nhắc tới các yếu tố khác, như nhân thân người phạm tội, tính chất nguy
hiểm của hành vi phạm tội, ý thức thái độ khi phạm tội, nguyên nhân phạm tội ...
[30, tr.44-50]
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác
57
3.3.1. Tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật
Pháp luật được coi là công cụ quản lý xã hội hữu hiệu. Những năm qua, công
tác xây dựng pháp luật ở nước ta ngày càng được coi trọng. Các văn bản pháp luật
không ngừng được bổ sung, góp phần điều tiết các quan hệ xã hội đa dạng. Tuy
nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện các quy định của pháp luật vẫn còn không
ít mặt hạn chế. Trong thời gian tới, để đẩy mạnh hơn nữa hiệu quả của công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật, cần thực hiện các biện pháp đổi mới nội dung, hình thức,
biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật, củng cố, tăng cường đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên pháp luật, kiện toàn Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật.
3.3.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong đó có việc tuyên
truyền cho quần chúng nhân dân không vi phạm pháp luật, không phạm các tội cố ý
gây thương tích trong những năm qua được quan tâm. Hàng tháng, hàng ngày báo
chí, truyền hình đều đưa tin những vụ án lớn, nghiêm trọng để cảnh giác quần
chúng nhân dân cảnh giác bảo vệ mình. Công tác tuyên truyền được phát động đến
từng tổ, thôn, xóm, giáo dục tình làng nghĩa xóm, học sinh các cấp được giáo dục
không gây gổ đánh nhau, không vi phạm pháp luật. Đặc điểm của các tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe người khác, đối tượng đánh và người bị đánh
thường là có quan hệ với nhau, rượu chè không làm chủ bản thân, để hạn chế nhóm
tội này cần giáo dục tuyên truyền sự tương thân, tương ái, đoàn kết anh em, không
uống bia rượu, sống lành mạnh. Trong phần nâng cao hiệu quả việc áp dụng những
quy định của BLHS năm 1999 về các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác, tác giả đã mạnh dạn đưa vào những quan điểm như bỏ
quy định khởi tố theo yêu cầu của bị hại đối với nhóm tội này, hoàn thiện hướng
dẫn tình tiết định khung: gây cố tật nhẹ cho nạn nhân cùng một số tình tiết khác, bổ
sung một số tình tiết định khung tăng nặng mới, phương hướng hoàn thiện về hình
phạt đối với nhóm tội trên... Tác giả hy vọng những đóng góp trên có ý nghĩa trong
58
việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về các tội cố ý gây thương tích trong luật
hình sự Việt Nam.
Tiểu kết chương 3
Chương 3 của luận văn đã đạt được một số nội dung sau:
1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội CYGTT gồm:
tôn trọng và bảo đảm thực thi các quyền con người, quyền công dân được ghi nhận
trong Hiến pháp năm 2013; yêu cầu cụ thể hóa được chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống đối với tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; yêu cầu đảm bảo phù hợp với các
điều kiện kinh tế, xã hội ở nước ta; phải đảm bảo tính đồng bộ của pháp luật; phải
phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế.
2. Chương 3 của Luận văn cũng đã đưa ra các giải pháp về pháp luật nhằm
bảo đảm áp dụng đúng đúng pháp luật hình sự về tội CYGTT như: (1) đề xuất tăng
cường trao đổi trong nghành Tòa án nhằm thống nhất về tình tiết “có tính chất côn
đồ”; (2) Kiến nghị sửa đổi Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP về nội dung: bổ sung
quy định tấn công người khác vào các bộ phận dễ tổn thương của con người như
đầu,thân thể gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vào các bộ phận khác ít nguy hiểm
hơn mà để lại tỷ lệ thương tật từ 5% trở lên.
3. Ngoài ra, Chương 3 của Luận văn cũng đưa ra các giải pháp khác nhằm
bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác như: (1) Tăng cường công tác giải thích, hướng
dẫn áp dụng pháp luật; (2) Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
59
KẾT LUẬN
Các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong luật hình sự Việt Nam đã có lịch sử phát triển tương đối dài gắn liền với
những giai đoạn lịch sử của pháp luật hình sự. Về cơ bản, quy định của pháp luật
hình sự từ chỗ rất đơn giản, sơ khai, thì nay đã thành một hệ thống các văn bản pháp
luật ngày một hoàn chỉnh hơn, quy định đã rõ ràng và có sự phân hóa cao về mức
độ hình sự. Trong quá trình xử lý tội phạm CYGTT trên địa bàn huyện Đăkrlấp đã
đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ tuy nhiên, trên thực tế, việc xét xử oan vẫn
xảy ra dù số lượng rất nhỏ, do định tội danh chưa chính xác, do không làm rõ dấu
hiệu pháp lý cũng như hành vi khách quan của tội phạm, bởi vì nhiều loại tội phạm
có hành vi khách quan tương tự tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác, nên dấu hiệu pháp lý của nó cũng tương tự như nhau. Vì vậy,
việc nghiên cứu đưa ra những đặc trưng và các dấu hiệu pháp lý của các tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; quá trình áp dụng pháp
luật trong thực tiễn xét xử; những hạn chế, thiếu sót, vướng mắc trong quá trình áp
dụng pháp luật để xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác - nguyên nhân và các biện pháp khắc phục có một ý nghĩa hết sức quan
trọng trong quá trình học tập và công tác của mình. Luận văn cũng đưa ra được một
số kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bố sung và giải thích một số quy phạm pháp luật có
liên quan đến tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác nhằm hoàn thiện pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng
xét xử về loại tội phạm này trong hoạt động xét xử của ngành TAND, cũng như góp
phần nhỏ bé vào công cuộc cải cách pháp luật ở nước ta hiện nay.
Tóm lại, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn các tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là vấn đề rộng lớn và còn mới mẻ,
cần phải có nhiều thời gian và công sức nghiên cứu mới thấu đáo được. Trong quá
trình nghiên cứu, tác giả đã có nhiều cố gắng, nhưng khả năng và điều kiện nghiên
cứu có hạn, chắc chắn luận văn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định.
60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Văn Beo (2010) Luật hình sự Việt Nam (Quyển 2 – Phần các tội
phạm), NXB chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Trần Văn Biên, Đinh Thế Hưng (2017) Bình luận khoa học Bộ luật hình
sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), NXB Thế giới, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Bộ Công an – Bộ Tư pháp - Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân
dân tối cao (2001) Thông tư số 02/2001 của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm
sát nhân dân tối cao – Bộ Công an – Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy
định tại chương XIV “Các tội phạm xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự năm
1999, ban hành ngày 25/12/2001, Hà Nội.
4. Bộ Tư pháp (1995) Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
5. Bộ Tư pháp (1957) Thông tư 301/VHH-HS về vấn đề bài trừ tệ nạn cờ
bạc, ban hành ngày 14/01/1957, Hà Nội.
6. Lê Văn Cảm (2018) Nhận thức khoa học về phần chung pháp luật hình sự
Việt Nam sau pháp điển hoá lần thức ba, NXB đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
7. Lê Cảm (2005) Những vấn đề cơ bản về khoa học hình sự (Phần chung),
NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
8. Chủ tịch nước nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1948) Sắc luật 168/SL
về ấn định cách trừng trị tội đánh bạc, ban hành ngày 14/04/1948, Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Kim Cương (2017) Các tội cờ bạc theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học
viện Khoa học xã hội.
10. Nguyễn Văn Dũng (2017) “Nhận diện quy định về Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác theo BLHS 2015, một số bất cập
và kiến nghị”, Trang thông tin điện tử Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ,
cho-suc-khoe-cua-nguoi-khac-tai-bo-luat-hinh-su-nam-2015-sua-doi-bo-sung-nam- 2017-mot-so-bat-cap-va-kien-nghi.html>, (6/11/2017). 11. Đại học Luật Hà Nội (2010) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập I, NXB Công an nhân dân, Hà Nội. 12. Đại học Luật Hà Nội (2014) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 13. Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh (2012) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung, NXB Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam. 14. Đinh Bích Hà (2007) Bộ luật hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 15. Trần Thị Hiền (2011) Bộ luật hình sự Nhật Bản, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 16. Nguyễn Ngọc Hòa (2004) Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 17. Nguyễn Duy Hội - Công ty Luật TNHH Everest (2018) “Hung khí nguy hiểm theo quy định của pháp luật hình sự”, Hệ thống phân tích tra cứu pháp luật luanviet.co, phap-luat-hinh-su/n20161028120822667.html>, (04/01/2018). 18. Hội đồng Quốc gia (2003) Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 19. Thúy Hồng (2013) “Một số kinh nghiệm khi giải quyết vụ án cố ý gây thương tích”, Trang thông tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 20. Dương Văn Hưng (2018) “Lê văn Th phạm tội Cố ý gây thương tích ”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, van-th-pham-toi-co-y-gay-thuong-tich>, (25/7/2018). 21. Trần Văn Hưởng (2013) Bình luận khoa học luật hình sự Việt Nam (có sửa đổi, bổ sung năm 2009), Nxb Hồng Đức, Hà Nội 22. Trần Văn Luyện, Phùng Thế Vắc và các cộng sự (2018) Bình luận khoa học, bộ luật hình sự 2015, NXB Công An, Hà Nội. 23. Phạm Ngọc Minh - Công ty Luật TNHH Everest (2019) “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”, Hệ thống phân tích tra cứu pháp luật luanviet.co, gay-ton-hai-cho-suc-khoe-cua-nguoi-khac/n20161028120823171.html>, (25/4/2019). 24. Vũ Thị Minh (2016) “Lê Văn D có phạm tội cố ý gây thương tích”, Trang điện tử Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang, pham-toi-co-y-gay-thuong-tich-393/>, (29/12/2016). 25. Thanh Nghị (2019) “Thế nào là dùng "hung khí nguy hiểm" trong tội cố ý gây thương tích?” Báo điện tử Bảo vệ pháp luật, cach-tu-phap/dien-dan/the-nao-la-dung-hung-khi-nguy-hiem-trong-toi-co-y-gay- thuong-tich-73656.html>, (01/8/2019). 26. Đinh Văn Quế (2002) Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội phạm), tập 1 “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người”, (Bình luận chuyên sâu), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. 27. Quốc hội (1985) Bộ luật hình sự năm 1985 (sửa đổi), Hà Nội. 28. Quốc hội (1999) Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi) , Hà Nội. 29. Quốc hội (2015) Bộ luật hình sự năm 2015, (sửa đổi) , Hà Nội. 30. Trương Đức Thuận, Nguyễn Sơn (2013), “Tìm hiểu pháp luật tội cố ý gây thương tích”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(66), tr.44-50. 31. Thân Đình Trung – Nguyễn Hoàng Hằng – Nguyễn Mạnh Hùng, VKSND quận Long Biên “Điểm mới của Tội cố ý gây thương tích theo quy định của BLHS 2015”, Tạp chí Kiểm sát online, thuong-tich-theo-quy-dinh-cua-blhs-nam-2015-47120.html>, (23/11/2017). 32. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011) Bộ luật hình sự Liên bang Đức, (Bản dịch), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 33. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011) Bộ luật hình sự Liên bang Nga, (Bản dịch), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 34. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011) Bộ luật hình sự Nhật Bản, (Bản dịch), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 35. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011) Bộ luật hình sự Trung Quốc, (Bản dịch), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 36. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 37. Uỷ ban thường vụ Quốc Hội (2000) Pháp lệnh người cao tuổi số 23/2000/PL-UBTVQH, ban hành ngày 28/04/2000, Hà Nội. 38. Võ Khánh Vinh (2013) Lý luận chung về định tội danh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội