VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THANH TÙNG
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THANH TÙNG
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ
Hà Nội, 2019
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI CỐ Ý
GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA
NGƯỜI KHÁC ..................................................................................................... 7
1.1 Những vấn đề lý luận ...................................................................................... 7
1.2. Pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác ............................................................................. 19
Chương 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI
CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC
KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TẠI TỈNH QUẢNG NINH ............................ 35
2.1. Khái quát tình hình xét xử sơ thẩm các vụ án về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại tỉnh Quảng Ninh ................. 35
2.2. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong xét xử các vụ án về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác của Tòa
án nhân dân tỉnh Quảng Ninh ............................................................................. 36
Chương 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC
GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC ........................... 57
3.1. Yêu cầu ......................................................................................................... 57
3.2. Các giải pháp ................................................................................................ 63
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 81
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
TAND : Toà án nhân dân
TANDTC : Toà án nhân dân tối cao
TANDCC : Toà án nhân dân cấp cao
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
Nxb : Nhà xuất bản
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người là vốn quý nhất của xã hội. Ở nước ta, quyền con người nói
chung, tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của con người nói riêng được
Hiến pháp và pháp luật bảo vệ. Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi
người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức
khỏe, danh dự và nhân phẩm; không ai bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình
bằng bất cứ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm
danh dự, nhân phẩm”. Điều này hoàn toàn đáp ứng yêu cầu của công ước quốc
tế về chống tra tấn năm 1984 của Liên hợp quốc mà Việt Nam là thành viên.
Để cụ thể hóa quy định này của Hiến pháp, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) đã quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và
nhân phẩm của con người tại Chương XIV, trong đó các tội xâm phạm sức khỏe
của con người gồm 07 tội danh được quy định tại các điều, từ Điều 134 đến
Điều 140 của chương này. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác được quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015. So với Điều
104 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), nội dung cấu thành tội phạm
của tội phạm này về cơ bản được BLHS năm 2015 kế thừa, tuy nhiên có sửa đổi
về kỹ thuật lập pháp và hình phạt theo hướng ít nghiêm khắc hơn so với hình
phạt được quy định tại Điều 104 BLHS năm 1999. Mặc dù, BLHS năm 2015
(Điều 134) quy định tội phạm này có hoàn thiện hơn so với BLHS năm 1999,
nhưng thực tiễn áp dụng hơn một năm qua cho thấy, quy định của Điều 134 về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã bộc bộ
những bất cập, hạn chế nhất định, gây khó khăn, vướng mắc cho thực tiễn áp
dụng.
Quảng Ninh là một tỉnh có nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
kinh tế xã hội, song cũng là một địa bàn phức tạp về an ninh, trật tự. Tình hình
tội phạm nói chung, tình hình các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của con người nói riêng ở tỉnh Quảng Ninh diễn biến phức tạp, gây
thiệt hại nhiều mặt cho đời sống xã hội. Trước tình trạng đó, các cơ quan bảo vệ
1
pháp luật của tỉnh, nhất là Tòa án nhân dân (TAND) đã nêu cao vai trò, trách
nhiệm của mình trong việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm bước đầu thu được
những kết quả nhất định, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chống tội phạm.
Song do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau, việc áp dụng các
quy định của pháp luật hình sự để điều tra, truy tố, xét xử tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác vẫn còn những hạn chế, thiếu
sót, cần phải khắc phục nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm
trong tình hình mới. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện,
chuyên sâu tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác theo pháp luật hình sự Việt Nam nhằm làm phong phú thêm những vấn đề
lý luận, làm rõ những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật thực
định, cũng như những hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn áp dụng ở tỉnh Quảng
Ninh, trên cơ sở đó kiến nghị những giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định
của BLHS hiện hành về tội phạm này là có tính cấp thiết. Vì lý do trên, tác giả
lựa chọn đề tài: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
xảy ra phổ biến trong đời sống xã hội, do vậy đã có nhiều công trình khoa học
mang tính truyền thống nghiên cứu về tội phạm này dưới các phương diện, cấp
độ khác nhau.
- Nghiên cứu về lý luận: Đã có các giáo trình của các cơ sở đào tạo luật
như: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội, Đại học Quốc
gia Hà Nội…, đặc biệt là giáo trình Luật hình sự Việt Nam do GS. TS. Võ
Khánh Vinh làm chủ biên, được Nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành năm
2013. Trong những giáo trình này, các nhà nghiên cứu đều làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận cũng như quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng chỉ ở mức độ khái
quát, cơ bản nhất. Ngoài hệ thống giáo trình Luật hình sự, nghiên cứu lý luận và
2
quy định của BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác còn được các cuốn bình luận khoa học BLHS của nhiều tác giả
đề cập, tiêu biểu là cuốn Bình luận khoa học BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ
sung năm 2017 (phần Các tội phạm) do GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa làm chủ
biên, được Nhà xuất bản Tư pháp phát hành năm 2018.
- Một số công trình khác (chủ yếu là luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ luật
học, chuyên ngành Luật hình sự và Tố tụng hình sự) tập trung nghiên cứu cả lý
luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tiêu biểu là: Luận án
tiến sĩ “Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm xâm phạm sức khỏe của người
khác từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” của tác giả Nguyễn Huy Tài; Luận văn thạc
sĩ “Tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hải Phòng” của tác giả
Nguyễn Thị Hòa, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017; Luận văn thạc sĩ “Tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn” của tác giả Dương Mai
Phương, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017… Các công trình khoa học này
chủ yếu nghiên cứu tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác theo quy định của BLHS năm 1999, từ thực tiễn một địa phương cụ
thể. Ngoài những luận án, luận văn nêu trên còn có một số cuốn sách chuyên
khảo đề cập đến các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
của con người như cuốn:“Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm ,
danh dự của con người” của tác giả Trần Văn Luyện, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội 2000; cuốn “Tìm hiểu tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm của con người” của tác giả Trần Minh Hưởng, Nhà xuất bản Lao
động, Hà Nội, năm 2002… Trong các cuốn sách tham khảo này, ở một mức độ
nhất định, các tác giả cũng đề cập đến tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác.
- Nghiên cứu các khía cạnh khác nhau về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là các bài báo khoa học như: “Bàn về
3
một số quy định của BLHS năm 2015 về các tội phạm xâm phạm sức khỏe của
người khác” của tác giả Nguyễn Huy Tài, Tạp chí Kiểm sát, số 4 năm 2018;
“Một số ý kiến về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác theo quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015” của tác giả Phạm Minh
Tuyên; Tạp chí TAND số 12/2018; “Kiến nghị tiếp tục hoàn thiện quy định về
các tội xâm phạm sức khỏe của người khác trong BLHS năm 2015 và những giải
pháp bảo đảm áp dụng” của tác giả Nguyễn Duy Hữu, Tạp chí TAND số
24/2016…
Như vậy, đã có rất nhiều công trình khoa học đề cập đến tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở các phương diện,
cấp độ và cách tiếp cận khác nhau. Song do mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên
cứu của các công trình đó được giới hạn nên đến nay vẫn chưa có một công trình
nào nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định tại Điều 134 BLHS năm
2015 từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh. Qua đây có thể xác định luận văn của tác giả
không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố có liên quan đến
đề tài luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định của
BLHS năm 2015 và thực tiễn áp dụng tại Quảng Ninh trong những năm gần đây,
luận văn hướng tới mục đích xây dựng các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy
định của BLHS năm 2015 về tội phạm này trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
+ Phân tích, luận giải làm rõ những vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; phân biệt tội phạm này với
một số tội phạm khác có những dấu hiệu giống tội phạm này.
4
+ Bình luận, đánh giá các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, chỉ ra
những điểm hạn chế, bất cập gây khó khăn, vướng mắc cho thực tiễn áp dụng.
+ Khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của BLHS năm 1999 và
BLHS năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự (chủ yếu là TAND) tại
tỉnh Quảng Ninh, rút ra những kết quả đạt được, cũng như những hạn chế, thiếu
sót và nguyên nhân.
+ Luận giải, kiến nghị những giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định
của pháp luật hình sự về tội phạm này trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác và thực tiễn áp dụng các quy định đó tại địa bàn tỉnh
Quảng Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về lý luận: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi lý luận chuyên ngành
Khoa học Luật hình sự và Tố tụng hình sự.
- Về thực tiễn: Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn định tội danh và
quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác tại TAND tỉnh Quảng Ninh.
- Về không gian: địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
- Về thời gian: thực tiễn áp dụng pháp luật từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về
pháp luật và sử dụng pháp luật đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ngoài ra, luận
văn còn dựa trên lý luận chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự để làm rõ
5
đối tượng nghiên cứu.
5.2 Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành,
liên ngành như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, chuyên gia v.v để làm rõ
từng nội dung nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1 Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần
làm rõ và phong phú thêm lý luận chuyên ngành luật hình sự về tội phạm cụ thể.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo
trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đấu tranh phòng, chống tội phạm nói
chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
nói riêng.
Ngoài ra, luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, giảng
dạy và nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Chương 2. Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3. Yêu cầu và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự
về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG
TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
1.1. Những vấn đề lý luận
1.1.1. Khái niệm
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là
một trong những tội phạm được quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam, do
vậy khái niệm về tội phạm này được xây dựng trên cơ sở khái niệm gốc về tội
phạm được quy định tại Điều 8 BLHS hiện hành và dựa vào các quan điểm khoa
học về tội phạm.
Hiện nay trong giới khoa học có nhiều quan điểm khác nhau xoay quanh
vấn đề định nghĩa khái niệm tội phạm, nhưng tựu chung lại có thể chia làm hai
trường phái: trường phái đưa ra định nghĩa khái quát và trường phái đưa ra định
nghĩa đầy đủ.
- Trường phái đưa ra định nghĩa khái quát về tội phạm, theo đó tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS. Như vậy, cách
định nghĩa này chỉ phản ánh hai dấu hiệu đặc trưng trong nội hàm khái niệm tội
phạm, đó là: tính nguy hiểm cho xã hội (dấu hiệu nội dung) và tính được quy
định trong luật (dấu hiệu hình thức pháp lý).
- Trường phái khác thì đưa ra định nghĩa đầy đủ về tội phạm. Một trong
những người theo trường phái này cho rằng: “Khái niệm tội phạm phải thể hiện
được ba phương diện (khách quan, chủ quan và pháp lý) và năm dấu hiệu: a)
bình diện khách quan: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội (1); b) bình
diện pháp lý: tội phạm là hành vi được quy định trong BLHS, tức là bị Luật hình
sự cấm (2); c) bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi được thực hiện một cách
có lỗi (3) bởi người có năng lực trách nhiệm hình sự (4) và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự (5)” [8, tr. 25].
Định nghĩa lập pháp về tội phạm trong BLHS Việt Nam năm 2015 là một
định nghĩa đầy đủ, bao gồm tất cả các dấu hiệu đặc trưng của tội phạm, theo đó:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện
7
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những
lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ
luật này phải bị xử lý hình sự” [18, tr. 50].
Kế thừa những yếu tố hợp lý trong định nghĩa khoa học và định nghĩa
pháp lý về tội phạm, đồng thời dựa vào quy định của Điều 134 BLHS năm 2015,
tác giả đưa ra khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác với nội dung như sau: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm
quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe của con người được quy định trong
BLHS (Điều 134, Chương XIV BLHS), do người có năng lực trách nhiệm hình
sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý và theo quy định
của BLHS phải bị xử lý hình sự”. Khái niệm này đã phản ánh đầy đủ các dấu
hiệu pháp lý đặc trưng của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên cả ba phương diện: khách quan, chủ quan và pháp lý là
cơ sở khoa học cho việc nhận thức đúng đắn về tội phạm này trên thực tế.
1.1.2. Những dấu hiệu pháp lý
Từ khái niệm nêu trên cho thấy, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác có những dấu hiệu pháp lý đặc trưng sau:
- Khách thể của tội phạm: khách thể trực tiếp của tội phạm này là sức
khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ. Khi thực hiện hành vi cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, hành vi của người
phạm tội đã xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm đến sức khỏe của con người
thông qua việc tác động đến cơ thể con người, gây ra những tổn thương cơ thể ở
một mức độ nhất định.
- Mặt khách quan của tội phạm: Cũng như các tội phạm khác, mặt khách
quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài, bao gồm: hành vi, hậu quả, mối
quan hệ nhân quả và các dấu hiệu khách quan khác (như: thời gian, địa điểm,
công cụ, phương tiện, phương thức, thủ đoạn, hoàn cảnh thực hiện hành vi).
8
Trong những dấu hiệu (biểu hiện) nêu trên, hành vi khách quan của tội phạm,
hậu quả nguy hại cho sức khỏe của con người do hành vi phạm tội gây ra và mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả được BLHS quy định là dấu hiệu bắt
buộc để định tội.
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi (hành động hoặc không
hành động) tác động đến cơ thể của người khác gây ra tổn thương cho cơ thể họ.
Khi thực hiện hành vi phạm tội, chủ thể có thể sử dụng công cụ, phương tiện
như: súng, dao, thuốc độc… và cũng có thể dùng chân tay không đấm đá, bóp
cổ… người bị hại. Theo quy định của Điều 134 BLHS, hành vi khách quan của
tội phạm này có hai dạng: hành vi gây thương tích và hành vi gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác. Biểu hiện thực tế của hai loại hành vi này có thể giống
nhau, nhưng khác nhau chủ yếu là hậu quả do hành vi gây ra: hậu quả mà hành
vi gây thương tích gây ra phải để lại những thương tật nhất định trên cơ thể nạn
nhân, còn hậu quả mà hành vi gây tổn hại cho sức khỏe gây ra thì không để lại
những thương tật trên cơ thể nạn nhân mà chỉ làm giảm đáng kể tình trạng sức
khỏe của nạn nhân mà thôi.
Như vây, hậu quả của tội phạm này là hậu quả thương tích hoặc hậu quả
tổn hại về sức khỏe, nhưng phải có tỷ lệ tổn thương cơ thể phải từ 11% trở lên
mới bị xử lý hình sự. Trường hợp tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% thì chỉ xử lý
hình sự nếu thuộc một trong những trường hợp sau:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả
năng gây nguy hại cho nhiều người
Đây là trường hợp, người phạm tội đã sử dụng công cụ có tính nguy hiểm
cao cho xã hội hoặc thủ đoạn phạm tội có khả năng gây nguy hại cho nhiều
người, do vậy đã làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ thực
hiện.
Vấn đề cơ bản là phải thống nhất nhận thức: vũ khí ở đây bao gồm cả vũ
khí quân dụng, vũ khí thô sơ (dao găm, kiếm, lưỡi lê, mã tấu, côn, cung, nỏ, phi
tiêu…) và vũ khí thể thao (súng săn) thậm chí bao gồm cả các loại vũ khí khác
tự chế có tính năng, tác dụng gây sát thương cho con người. Vật liệu nổ bao gồm
thuốc nổ và phụ kiện nổ (như kíp nổ, dây cháy chậm, mồi nổ…); hung khí nguy
hiểm là những vật được sử dụng làm công cụ phạm tội có tính nguy hiểm cao
9
hơn các công cụ phạm tội thông thường nhưng không phải là vũ khí quân dụng,
vũ khí thô sơ. Thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người là thủ đoạn
có khả năng gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe không chỉ cho một người
mà phải từ hai người trở lên, chẳng hạn như: bỏ chất ngộ độc vào thức ăn của
bếp ăn tập thể.
b) Dùng a - xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm
Đây là trường hợp người phạm tội sử dụng những công cụ, phương tiện
phạm tội có tính năng gây nguy hại cao cho sức khỏe của con người. A - xít
nguy hiểm là những loại a - xít có khả năng gây ra nhưng tổn thương cho cơ thể
của nạn nhân khi có sự tiếp xúc giữa a - xít này với cơ thể người (chẳng hạn, gây
bỏng nặng cho người bị tạt a - xít); hóa chất nguy hiểm là hóa chất bất kỳ (ngoài
a - xít) và có khả năng gây tổn hại cho sức khỏe của con người.
c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu,
ốm đau hoặc không có khả năng tự vệ
Đây là trường hợp nạn nhân của tội phạm là các đối tượng có đặc điểm
tâm sinh lý và thể chất không bình thường, cần được ưu tiên bảo vệ. Vì thế hành
vi phạm tội được thực hiện đối với các nạn nhân này sẽ làm tăng tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi đến mức cần xử lý hình sự.
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy cô giáo mình, người nuôi dưỡng, chữa
bệnh cho mình
Đây là trường hợp nạn nhân của tội phạm này là những đối tượng có quan
hệ đặc biệt (quan hệ gia đình, nuôi dưỡng, thầy trò, chữa bệnh) với người phạm
tội. Việc người phạm tội thực hiện hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của những đối tượng này thể hiện tính chất vô đạo lý, do vậy làm tăng
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đến mức cần xử lý hình sự.
đ) Có tổ chức
Đây là trường hợp tội phạm được thực hiện bằng hình thức đồng phạm có
tổ chức, tức là có sự câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm theo quy
định tại Điều 17 BLHS năm 2015. Do vậy, hành vi phạm tội được thực hiện
bằng hình thức này có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn trường hợp phạm tội
độc lập hoặc bằng các hình thức đồng phạm khác.
10
e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn
Đây là trường hợp hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho cho sức
khỏe của người khác do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và họ đã lợi
dụng chức vụ, quyền hạn được giao để thực hiện hành vi phạm tội.
g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án
phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc
đang chấp hành hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo
dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc
Đây là trường hợp chủ thể thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong hoàn cảnh, điều kiện đặc biệt, thể
hiện thái độ không chịu tiếp thu giáo dục, cải tạo hoàn lương của người phạm
tội. Vì vậy, đã làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đến
mức phải xử lý hình sự.
h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
hoặc gây thương tích tổn hại sức khỏe cho sức khỏe của người khác do được
thuê
Đây là trường hợp hành vi gây thương tích hoặc gây tổn thiệt hại cho sức
khỏe của người khác được thực hiện bởi người thuê và người được thuê. Đối với
trường hợp này cả người thuê và người được thuê đều phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm này vì họ đồng phạm với nhau.
i) Có tính tính chất côn đồ
Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác có tính hung hãn, coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác,
như chỉ vì lý do nhỏ nhặt, nhưng người phạm tội vẫn cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Chẳng hạn, người phạm tội cho là nạn
nhân “nhìn đểu” mình nên đã gây thương tích cho họ.
k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn
nhân
Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người đang thi hành công vụ hoặc động cơ của việc gây thương tích gắn liền với
việc thi hành công vụ của nạn nhân, chẳng hạn như để trả thù nạn nhân đã thực
11
thi công vụ gây ảnh hưởng đến lợi ích cá nhân của người phạm tội.
Trên đây là 10 trường hợp đòi hỏi phải có làm tăng tính chất mức độ nguy
hiểm cho xã hội của việc phạm tội, nên hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% vẫn
bị xử lý hình sự. Những tình tiết này được quy định là dấu hiệu định tội tại
khoản 1 Điều 134 BLHS hiện hành.
Do hậu quả của tội phạm được quy định là dấu hiệu bắt buộc, nên giữa
hành vi gây thương tích hoặc hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
và hậu quả thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe phải có mối quan hệ nhân quả
với nhau. Đây cũng là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm
này. Vì thế, khi định tội danh phải chứng minh làm rõ dấu hiệu này.
- Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm này bắt buộc phải thực hiện với lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp
và có thể là cố ý gián tiếp.
Trường hợp cố ý trực tiếp phạm tội là trường hợp người phạm tội nhận
thức rõ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thấy trước được hậu quả thương
tích hoặc tổn hại về sức khỏe có thể hoặc tất yếu xảy ra, nhưng mong muốn hậu
quả đó xảy ra.
Trường hợp cố ý gián tiếp phạm tội là trường hợp người phạm tội cũng
nhận thức được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thấy trước được hậu quả
thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe có thể xảy ra, tuy không mong muốn
nhưng có ý thức để mặc cho những hậu quả đó xảy ra.
- Chủ thể của tội phạm.
Chủ thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực chịu trách
nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định.
+ Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có khả năng
nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi cũng như tính chất
pháp lý của hành vi, đồng thời có khả năng điều khiển được hành vi phạm tội
của mình, tức là không ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
12
quy định tại Điều 21 BLHS.
+ Theo quy định tại Điều 12 và Điều 134 BLHS, thì chủ thể của tội phạm
này phải đủ 16 tuổi trở lên, nếu phạm tội quy định ở khoản 1 và khoản 2 Điều
134 hoặc đủ 14 tuổi trở lên nếu phạm tội quy định tại các khoản 3,4,5 Điều 134
BLHS.
Tóm lại, những dấu hiệu pháp lý đặc trưng thuộc bốn yếu tố cấu thành tội
phạm của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
nêu trên là những dấu hiệu luật định, có tính chất bắt buộc phải chứng minh khi
định tội danh đối với tội phạm này.
1.1.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác với các tội phạm khác có liên quan
1.1.3.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong trường hợp làm chết người với tội giết người
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong trường hợp làm chết người và tội giết người (đã hoàn thành) có nhiều biểu
hiện giống nhau (nhất là những biểu hiện thực tế của hành vi khách quan) nên
trong thực tiễn đã xảy ra một số trường hợp cùng một hành vi phạm tội nhưng
lại có những ý kiến khác nhau khi định tội danh. Do vậy, về mặt lý luận cần
phân biệt rõ hai tội phạm này, để tìm ra những điểm khác nhau giữa chúng, giúp
cho việc định tội danh được chính xác.
So sánh tội cố ý gây thương tích trong trường hợp làm chết người với tội
giết người đã hoàn thành thấy rằng, hai tội phạm này có nhiều biểu hiện giống
nhau như: chủ thể của hai tội phạm này đều là người đủ 14 tuổi trở lên, có năng
lực trách nhiệm hình sự; lỗi của chủ thể đều là lỗi cố ý; hành vi thực hiện tội
phạm tương tự như nhau (như đấm, đá, chém,… nạn nhân) và đều gây ra hậu
quả chết người. Tuy nhiên, giữa hai tội phạm này có sự khác nhau nhất định. Cụ
thể là: về mặt chủ quan, mặc dù cả hai tội phạm này đều được thực hiện với lỗi
cố ý, nhưng nội dung của lỗi cố ý có sự khác nhau. Cố ý giết người là cố ý tước
đoạt tính mạng của nạn nhân, còn cố ý gây thương tích chỉ là cố ý làm cho nạn
nhân bị thương tích, chứ không cố ý tước đoạt tính mạng của nạn nhân và nạn
nhân chết là ngoài nhận định của người phạm tội. Như vậy, điểm khác cơ bản
giữa hai tội phạm này là lỗi của người phạm tội đối với hậu quả chết người xảy
13
ra.
Ở tội giết người, khi thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của nạn nhân,
người phạm tội thấy trước hành vi đó có thể hoặc tất yếu gây ra hậu quả chết
người, đồng thời mong muốn hoặc có ý thức bỏ mặc cho hậu quả chết người xảy
ra. Còn ở tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
dẫn đến làm chết người, thì người phạm tội chỉ thấy trước hành vi mà họ thực
hiện có thể hoặc tất yếu gây ra hậu quả thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe với
tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% trở lên và chỉ mong muốn hoặc bỏ mặc cho hậu
quả này xảy ra, còn đối với hậu quả chết người thì người phạm tội tự tin cho
rằng sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Do vậy, lỗi của người phạm
tội đối với hậu quả chết người trong trường hợp này là lỗi vô ý (vô ý vì quá tự
tin), thậm chí có trường hợp đối với hậu quả chết người xảy ra, lỗi của người
phạm tội đối với hậu quả này là lỗi vô ý do cẩu thả, nghĩa là khi thực hiện hành
vi cố ý gây thương tích cho nạn nhân, người phạm tội không thấy trước khả
năng gây ra hậu quả chết người của hành vi mà họ thực hiện, mặc dù phải thấy
trước và có thể thấy trước và cho rằng hậu quả chết người sẽ không xảy ra.
Trên thực tế, việc xác định ý thức chủ quan (lỗi) của người phạm tội trong
hai trường hợp trên gặp không ít khó khăn, phức tạp.
Bởi vì để có căn cứ khẳng định người phạm tội có thấy trước được hậu
quả chết người hay không thì phải phân tích, đánh giá không chỉ những tình tiết
khách quan của vụ án mà còn phải xem xét khả năng nhận thức của người phạm
tội. Những tình tiết khách quan cần phải đánh giá ở đây thường là những tình
tiết như: tính chất, cường độ thực hiện hành vi phạm tội; công cụ và phương tiện
được sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội; vị trí tác động lên cơ thể của nạn
nhân; thời gian, không gian, hoàn cảnh xảy ra tội phạm và những đặc điểm nhân
thân của người phạm tội.
Mặt khác, để có cơ sở kết luận người phạm tội mong muốn hoặc có ý thức
bỏ mặc (phó mặc) cho hậu quả chết người xảy ra hay tự tin cho rằng hậu quả
chết người sẽ không xảy ra cần phải làm rõ ý thức chủ quan của người phạm tội
đối với hậu quả chết người mà họ đã thấy trước. Cụ thể là phải làm rõ những
tình tiết như: mối quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội; động cơ thúc đẩy
chủ thể thực hiện tội phạm; mức độ mãnh liệt của hành vi phạm tội; tính năng,
14
tác dụng của công cụ, phương tiện được sử dụng và cách thức tiến hành; vị trí
tác động trên cơ thể nạn nhân có khả năng làm chết người hay không; hoàn cảnh
cụ thể xảy ra sự kiện phạm tội; thái độ của người phạm tội trước, trong và sau
khi sự việc xảy ra.
Tất cả những tình tiết này cần phải được xem xét, đánh giá một cách toàn
diện, khách quan thì mới có thể xác định được chính xác ý thức chủ quan của
người phạm tội đối với hậu quả chết người.
Ngoài sự khác nhau về ý thức chủ quan (lỗi) đối với hậu quả chết người,
hai tội phạm này còn khác nhau ở nguyên nhân dẫn đến hậu quả chết người
(quan hệ nhân quả). Cụ thể, hậu quả chết người ở trường hợp phạm tội giết
người là do chính hành vi tước đoạt sinh mạng của nạn nhân trực tiếp gây ra;
còn ở tội cố ý gây thương tích làm chết người thì hậu quả chết người xảy ra
không phải do hành vi cố ý gây thương tích gây ra mà do hậu quả thương tích
gây ra. Do vậy, giữa hậu quả thương tích và hậu quả chết người phải có mối
quan hệ nhân quả. Trong mối quan hệ này, hậu quả thương tích là nguyên nhân,
còn hậu quả chết người xảy ra là kết quả của hậu quả thương tích. Về vấn đề
này, TANDTC có giải thích, hướng dẫn như sau: “Thương tích dẫn đến chết
người trước hết là thương tích nặng làm cho nạn nhân chết vì thương tích nặng
này, nghĩa là giữa thương tích và cái chết của nạn nhân phải có mối quan hệ
nhân quả” [43].
Tóm lại, có nắm vững được những điểm khác nhau nêu trên thì định tội
danh mới chính xác, tránh nhầm lẫn tội này với tội khác.
1.1.3.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, do vượt quá phòng vệ
chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội.
Căn cứ vào quy định của BLHS năm 2015 cho thấy, ba tội phạm này có
nhiều điểm tương đồng (điểm giống) như:
Cả ba tội này người phạm tội đều có hành vi cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; hậu quả thương tích hoặc hậu quả tổn
hại về sức khỏe được luật quy định là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan
với một tỷ lệ tổn thương cơ thể nhất định; giữa hành vi phạm tội và hậu quả của
15
tội phạm phải có mối quan hệ nhân quả… Tuy nhiên, ba tội phạm này khác nhau
ở những điểm cơ bản sau đây:
+ Thứ nhất, mức độ hậu quả (tỷ lệ tổn thương cơ thể)
Nếu ở tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác quy định tại Điều 134 BLHS thì tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân chỉ từ
11% trở lên thì đã xử lý hình sự; còn ở các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác… quy định tại Điều 135 và Điều 136 thì tỷ lệ
tổn thương cơ thể của nạn nhân phải từ 31% trở lên mới xử lý hình sự.
+ Thứ hai, nạn nhân của tội phạm.
Nạn nhân của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác (quy định tại Điều 134) là bất kỳ ai, còn nạn nhân của các tội quy
định tại Điều 135 và Điều 136 phải là người có hành vi trái pháp luật nghiêm
trọng đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội (Điều
135); hoặc phải là người có hành vi trái pháp luật xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, của tổ chức, xâm phạm quyền, lợi ích chính đáng của người phạm tội hoặc
của người khác; hoặc là đối tượng phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã mà
người phạm tội đã dùng vũ lực để bắt giữ (Điều 136).
+ Thứ ba, dấu hiệu làm cho tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm giảm đi đáng kể.
Ở tội phạm quy định ở Điều 134 không có dấu hiệu làm cho tính chất của
tội phạm giảm đi đáng kể (tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đặc biệt)
nhưng hai tội quy định tại Điều 135 và Điều 136 có dấu hiệu này. Cụ thể, ở tội
phạm quy định tại Điều 135 có dấu hiệu “trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh”. Theo Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS thì: “trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự
kiềm chế hành vi phạm tội của mình…” [42]. Khi thực hiện hành vi cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, người phạm tội phải
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm
trọng của nạn nhân đối với họ hoặc đối với người thân thích của họ. Qua đây
cho thấy, nguyên nhân dẫn tới “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” phải là
hành vi trái pháp luật (chủ yếu là trái pháp luật hình sự) của nạn nhân đối với
16
người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội, chứ không phải
nguyên nhân nào khác.
Ở tội phạm quy định tại Điều 136 BLHS thì đòi hỏi phải có dấu hiệu
“vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” hoặc dấu hiệu “vượt quá mức cần
thiết khi bắt giữ người phạm tội”.
Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá
mức cần thiết, không phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi xâm hại (khoản 2, Điều 22 BLHS năm 2015). Để đánh giá sự chống trả
gây thương tích cho người có hành vi xâm hại những lợi ích cần bảo vệ là cần
thiết hay vượt quá giới hạn cần thiết khi thực hiện quyền phòng vệ chính đáng,
các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự cần dựa vào những căn cứ sau: tính chất
của quan hệ xã hội bị xâm hại hoặc đe dọa xâm hại, mức độ thiệt hại do hành vi
xâm hại cũng như hành vi phòng vệ gây ra hoặc đe dọa gây ra; cường độ, sức
mãnh liệt của hành vi xâm hại; công cụ, phương tiện, phương pháp mà người
xâm hại và người phòng vệ sử dụng; khả năng chống trả của người phòng vệ…
Dấu hiệu “vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội” được đề
cập ở khoản 2 Điều 24 BLHS, nhưng không giải thích rõ. Tác giả của luận văn
chia sẻ với quan điểm cho rằng: “Đây là trường hợp người bắt giữ đã sử dụng
vũ lực để bắt giữ người phạm tội vượt ra khỏi phạm vi cho phép. Việc dùng vũ
lực rõ ràng là quá mức cần thiết cho việc bắt giữ và việc đó đã gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người bị bắt giữ quy định tại Điều 136 BLHS
năm 2015” [18, tr. 132]
1.1.2.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác với tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong khi thi hành công vụ (Điều 137 BLHS năm 2015)
Hai tội phạm này giống nhau ở chỗ người phạm tội đều có hành vi gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; hậu quả của tội phạm
đều là hậu quả thương tích hoặc hậu quả tổn hại về sức khỏe và được BLHS quy
định là dấu hiệu bắt buộc, giữa hành vi phạm tội và hậu quả của tội phạm xảy ra
phải có mối quan hệ nhân quả…
Tuy nhiên, hai tội phạm này khác nhau cơ bản ở những điểm sau:
Một là, về chủ thể: chủ thể của tội phạm quy định tại Điều 134 là bất kỳ ai
17
(trừ người thi hành công vụ) còn chủ thể của tội phạm được quy định tại Điều
137 BLHS bắt buộc phải là người thi hành công vụ (chủ thể đặc biệt).
Theo Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của
BLHS thì: “Người thi hành công vụ là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ
quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình và
cũng có thể là những công dân được huy động làm nhiệm vụ (như tuần tra, canh
gác…) theo kế hoạch của cơ quan có thẩm quyền, phục vụ lợi ích chung của nhà
nước, của xã hội” [42]
+ Hai là, về biểu hiện cụ thể của hành vi phạm tội: ở tội quy định tại Điều
137, hành vi phạm tội là hành vi dùng vũ lực (chủ yếu là vũ khí) để thực hiện
công vụ ngoài những trường hợp pháp luật cho phép đã gây ra hậu quả thương
tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân. Đồng thời, đối với tội phạm này,
hậu quả thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe phải có tỷ lệ tổn thương cơ thể từ
31% trở lên mới xử lý hình sự (ở tội phạm quy định tại Điều 134 tỷ lệ này là
11% trở lên).
Để xác định hành vi phạm tội này, cần căn cứ vào Luật Quản lý, sử dụng
vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017, theo đó những hành vi dùng vũ
khí ngoài những trường hợp mà Điều 23 luật này cho phép đều bị coi là hành vi
dùng vũ lực ngoài những trường hợp cho phép.
+ Ba là, về động cơ phạm tội: Theo quy định tại Điều 137 thì động cơ
phạm tội phải là động cơ thi hành công vụ vì lợi ích chung. Do vậy, mọi trường
hợp gây thương tích cho người khác kể cả trong khi thi hành công vụ nhưng
xuất phát từ động cơ cá nhân như: do tư thù, do hống hách coi thường sức khỏe
của người khác… thì không thuộc hành vi phạm tội của tội phạm này mà phải
xử lý về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
quy định tại Điều 134 BLHS hiện hành.
Tóm lại, có phân biệt được tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác quy định tại Điều 134 với các tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại Điều 135, Điều 136
và Điều 137 BLHS, các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự mới định tội danh
được chính xác, hạn chế tối đa sự nhầm lẫn về tội danh khi áp dụng pháp luật
18
hình sự để giải quyết vụ án.
1.2. Pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác
1.2.1. Quy định của pháp luật hình sự trong giai đoạn trước khi ban hành Bộ
luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
* Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS năm 1985
Để có cơ sở pháp lý đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, các tội
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người nói riêng,
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, lúc mới được thành lập vào năm 1945 đã
tạm thời sử dụng luật lệ của chế độ cũ không trái với nền độc lập của nước Việt
Nam và chính thể dân chủ cộng hòa. Vấn đề này đã được ghi nhận trong Sắc
lệnh số 47/SL ngày 20/10/1945 của Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng
hòa.
Sau khi miền Bắc giải phóng, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của
con người mới được chính thức quy định tại Thông tư 442-TTg ngày 29/01/1954
của Thủ tướng Chính phủ. Điểm 3 Thông tư này quy định: “Đánh bị thương
phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm”; “Đánh bị thương có tổ chức hay gây thành cố
tật, hay chết người có thể phạt đến 20 năm” [tr. 326]. Thông tư này đã quy định
các trường hợp gây thương tích thông thường và các trường hợp gây thương tích
có tình tiết tăng nặng với các mức phạt khác nhau, thể hiện đường lối xử lý hình
sự có phân biệt, phân hóa đối với các trường hợp phạm tội có tính chất, mức độ
nguy hiểm không như nhau.
Sau ngày miền Nam giải phóng, đất nước được thống nhất, Chính phủ
Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam đã ban hành Sắc luật số 03/SL-76
ngày 15/3/1976 quy định tội phạm và hình phạt đối với 7 nhóm tội phạm cụ thể.
Điều 5 của Sắc luật này quy định các tội phạm xâm phạm thân thể con người
như sau:
“a) Phạm tội giết người thì bị phạt tù từ 15 năm đến tù chung thân hoặc
bị xử tử hình. Trường hợp có tình tiết giảm nhẹ thì mức phạt có thể thấp hơn.
Phạm tội vô ý làm chết người thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm. Trường
hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm.
b) Phạm tội cố ý gây thương tích thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 5 năm.
19
Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm.
Phạm tội vô ý gây thương tích nặng, thì bị phạt tù từ 01 tháng đến 03
năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 10 năm.
c) Phạm các tội khác xâm phạm thân thể của công dân thì bị phạt tù từ 03
tháng đến 10 năm”. [40].
Mặc dù, trong Sắc luật này, tội cố ý gây thương tích không được quy định
thành một điều luật riêng nhưng đây là bước phát triển mới của pháp luật hình
sự Việt Nam bởi đây là văn bản pháp luật hình sự đầu tiên chính thức quy định
các tội xâm phạm thân thể của con người. Sau khi Sắc luật 03/SL-76 được ban
hành, Bộ Tư pháp đã có Thông tư số 03/BTP-TT ngày 15/4/1976 hướng dẫn thi
hành Sắc luật số 03/SL-76. Tại thông tư này, các tội xâm phạm thân thể, nhân
phẩm của công dân được hướng dẫn gồm: cố ý giết người, cố ý gây thương tích,
vô ý làm chết người; vô ý gây thương tích nặng; hiếp dâm và các tội phạm khác
xâm phạm thân thể và nhân phẩm của công dân (như: cưỡng dâm, thông gian
với gái vị thành viên, dâm ô…)
Trong Sắc luật này đã quy định tương đối đầy đủ các tội xâm phạm thân
thể và nhân phẩm của công dân và hình phạt đối với các tội phạm này. Đặc biệt
là ngoài những tội danh được quy định từ điểm a đến điểm c, thì tại điểm d của
Điều 5 Sắc luật này còn quy định: “Phạm các tội khác xâm phạm thân thể và
nhân phẩm của công dân” nhưng không nêu các tội danh cụ thể. Điều này đã
cho phép Tòa án áp dụng nguyên tắc tương tự trong áp dụng pháp luật hình sự
một cách linh hoạt. Song điều này cũng có thể dẫn đến việc tùy tiện trong việc
xử lý người phạm tội.
Như vậy, trước khi BLHS đầu tiên (BLHS năm 1985) được ban hành, các
tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người được
quy định rải rác trong các văn bản pháp luật hình sự ban hành dưới hình thức
Thông tư, Sắc lệnh, Sắc luật. Đây là những văn bản pháp luật hình sự đóng vai
trò là cơ sở pháp lý để định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội xâm
phạm thân thể của con người nói chung, tội cố ý gây thương tích cho sức khỏe
của người khác nói riêng.
* Giai đoạn từ khi ban hành BLHS năm 1985 đến trước khi ban hành
BLHS năm 2015
20
Năm 1985, BLHS đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã được Quốc hội khóa VII, kỳ họp thứ IX chính thức thông qua, đánh dấu một
bước phát triển mới của pháp luật hình sự Việt Nam. Trong Bộ luật này các tội
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người được quy
định tại Chương 2, phần Các tội phạm, chỉ sau Chương 1. “Các tội xâm phạm
an ninh quốc gia”. Chương 2 của BLHS năm 1985 gồm 18 điều luật, trong đó
có 17 điều quy định các tội phạm cụ thể và hình phạt chính đối với các tội phạm
đó (từ Điều 101 đến Điều 117), một điều quy định hình phạt bổ sung (Điều 118).
Lúc mới ban hành (vào năm 1985), Chương 2 mới chỉ quy định có 03 tội danh
xâm phạm sức khỏe của con người, đó là: Điều 103. “Tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ”; Điều 109 “Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”. Điều 110 “Tội vô ý
gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe của người khác”.
Trong hơn chục năm áp dụng, BLHS năm 1985 đã được sửa đổi bổ sung 4 lần
vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Các tội xâm phạm sức khỏe của con
người được sửa đổi, bổ sung vào lần thứ nhất vào năm 1989 (Luật Sửa đổi, bổ
sung BLHS năm 1985 được Quốc hội thông qua vào năm 1989) bổ sung thêm
một số tình tiết định khung như “Gây thương tích cho nhiều người hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của nhiều người” khoản 2 Điều 109 “hoặc trong trường hợp
đặc biệt khác”. Khoản 3 Điều 109.
BLHS năm 1985 được ban hành và sửa đổi, bổ sung bốn lần đã thực sự là
công cụ pháp lý quan trọng để đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta, đánh
dấu một mốc mới trong sự phát triển và hoàn thiện của pháp luật hình sự Việt
Nam.
Sau khi BLHS năm 1985 được ban hành, TANDTC đã có các văn bản
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật này. Đó là Nghị quyết số
04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp
dụng một số quy định trong phần các tội phạm của BLHS; Nghị quyết số 01/89-
HĐTP ngày 29/4/1989 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn bổ sung
việc áp dụng một số quy định của BLHS…
Tại Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986, có hướng dẫn các quy định
của BLHS năm 1985 về Tội giết người (Điều 101); Tội xâm phạm tính mạng,
21
sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 103); Tội vô ý làm
chết người (Điều 104); Tội bức tử (Điều 105); Tội cố ý không cứu giúp người
đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 107); Tội đe dọa giết
người (Điều 108)
Ngoài ra, tại mục 7 của Nghị quyết này còn hướng dẫn phân biệt giữa
thương tích với thương tích nặng và giữa tổn hại cho sức khỏe với tổn hại nặng
cho sức khỏe, theo đó để phân biệt hai trường hợp này thì “trước hết, cần xem
xét nhiều mặt để đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
như: phương tiện, công cụ được sử dụng để gây thương tích, bộ phận của cơ thể
bị trực tiếp xâm phạm, thương tích ban đầu, kết quả cứu chữa…
Sự phân biệt mức độ thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cần dựa vào kết
luận của giám định pháp y và khi cần thiết, dựa vào cả kết luận của bác sĩ điều
trị. Những kết luận đó cho biết mức độ thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe
khi sự việc mới xảy ra và khi đã điều trị xong. Đó là căn cứ giúp việc định tội
danh và quyết định hình phạt cũng như cho việc quyết định mức bồi thường thiệt
hại.
Xét riêng về thương tích thì dựa vào những kết luận nói trên… có thể xác
định:
- Tỷ lệ thương tích từ 10% trở xuống, không gây cố tật là thương tích nhẹ,
chưa đến mức cần thiết phải xử lý về hình sự người gây thương tích đó;
- Tỷ lệ thương tích từ 11% đến 30% là thương tích cần thiết phải xử lý về
hình sự đối với người gây ra (theo Điều 109 khoản 1);
- Tỷ lệ thương tích từ 31% đến 60% là thương tích nặng (theo khoản 2
Điều 109)
- Tỷ lệ thương tích từ 61% trở lên là thương tích rất nặng đến sức khỏe
(khoản 3 Điều 109)
Trong trường hợp gây thương tích có tính nguy hiểm cao như đánh, chém
làm lún xương sọ não, đâm thủng ruột… nhưng nạn nhân được cứu chữa kịp
thời nên không chết, không bị tổn hại nặng về sức khỏe, không để lại cố tật, thì
vẫn xử lý theo Điều 109, khoản 2. Đặc biệt là cần trừng trị nghiêm khắc” [37,tr.
31-32]
Ngoài Nghị quyết này, TANDTC còn ban hành Công văn số 03/TATC
22
ngày 22/10/1987 hướng dẫn về Điều 109 BLHS.
Tại Nghị quyết số 01/89-HĐTP ngày 19/4/1989 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC còn hướng dẫn rõ thêm về thương tích nặng hoặc tổn hại nặng cho
sức khỏe [43, tr. 95-96]
Mặc dù từ ngày được ban hành cho đến khi chấm dứt hiệu lực, BLHS
năm 1985 đã có bốn lần sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu thực tế đấu tranh
phòng, chống tội phạm, nhưng do được ban hành dựa trên cơ chế cũ – cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, đồng thời các lần sửa đổi, bổ sung cũng chỉ sửa đổi bổ
sung một số điều để đáp ứng yêu cầu trước mắt của cuộc đấu tranh phòng,
chống tội phạm, chưa sửa đổi một cách toàn diện. Do vậy, so với tình hình mới
của đất nước, khu vực và thế giới, BLHS năm 1985 đã bộc lộc nhiều hạn chế,
bất cập, đòi hỏi phải sửa đổi toàn diện, căn bản để BLHS thực sự là một công cụ
pháp lý có hiệu lực và hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Với tinh thần đó, ngày 22/12/1999, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã thông qua BLHS mới thay thế BLHS năm 1985 (sau đây gọi
là BLHS năm 1999). So với BLHS năm 1985, quy định của BLHS năm 1999 về
các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người đã
đầy đủ và toàn diện hơn. Trong BLHS năm 1999, các tội xâm phạm sức khỏe
của con người được quy định tại Chương XII, phần Các tội phạm, gồm 06 tội
danh cụ thể. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác được quy định tại Điều 104 như sau:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc
một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3
năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 3 năm.
a. Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều
người
b. Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân
c. Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người
d. Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người
khác không có khả năng tự vệ
đ. Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo mình
23
e. Có tổ chức
g. Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở giáo dục
h. Thuê gây thương tích thuê, gây thương tích thuê
i. Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm
k. Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30% nhưng thuộc
một trong các trường hợp quy định tại các điểm a đến điểm k khoản 1 điều này,
thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà
tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%
nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm a đến điểm k khoản 1
điều này thì bị phạt tù từ 05 năm đến 15 năm.
4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân” [4, tr.
128-129].
Điểm mới cơ bản của Điều 104 BLHS năm 1999 so với Điều 109 BLHS
năm 1985 là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác quy định tại Điều 109 được tách thành 03 tội, đó là: Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104); Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh (Điều 105); Tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho
sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106).
Ngoài ra, BLHS năm 1999 còn tăng nặng hình phạt đối với tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Nếu theo quy định tại Điều
109 BLHS năm 1985 thì hình phạt tù tối đa đối với tội này là 20 năm, thì Điều
104 BLHS năm 1999 đã điều chỉnh “phạt tù đến 20 năm hoặc tù chung thân”.
Ngoài ra, BLHS năm 1999 đã bổ sung thêm một số tình tiết tăng nặng
định khung như “đối với trẻ em” (điểm a khoản 1); “đối với ông, bà, cha, mẹ,
người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo mình” (điểm d khoản 1); “thuê gây thương
tích hoặc gây thương tích thuê” (điểm h khoản 1); “đối với người thi hành công
24
vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân” (điểm k khoản 1).
Đặc biệt là BLHS năm 1999 còn quy định cụ thể tỷ lệ thương tật đối với
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với các
mức độ dưới 11%, từ 11% đến 30% (khoản 1); từ 31% đến 60% (khoản 2); từ
61% trở lên (khoản 3) để khắc phục những hạn chế của Điều 109 BLHS năm
1985 là dùng các quy định có tính chất định tính chung chung để thể hiện mức
độ thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác như “gây thương tích
nặng hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe”
Việc sửa đổi, bổ sung nêu trên thể hiện chính sách hình sự, đường lối xử
lý có phân biệt, phân hóa, đáp ứng đòi hỏi của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm
hình sự và cá thể hóa hình phạt của luật hình sự Việt Nam, đồng thời khắc phục
những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật
hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác.
Để đảm bảo áp dụng thống nhất quy định của BLHS năm 1999 về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, Hội đồng thẩm
phán TANDTC đã ban hành Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003;
Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006, trong đó có hướng dẫn áp
dụng một số tình tiết như: “Dùng hung khí nguy hiểm”; “Gây cố tật nhẹ cho nạn
nhân”. Theo đó thì “dùng hung khí nguy hiểm là trường hợp dùng vũ khí hoặc
phương tiện nguy hiểm theo hướng dẫn tại các tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2 phần I
Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC” [43]. Theo hướng dẫn tại mục 2.1 thì “vũ khí là một trong các loại vũ
khí được quy định tại khoản 1 Điều 1 Quy chế quản lý vũ khí vật liệu nổ và công
cụ hỗ trợ” (ban hành kèm theo Nghị định số 47/CP ngày 12/8/1996 của Chính
phủ). Còn phương tiện nguy hiểm (theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.2) là “công cụ,
dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống con người hoặc vật mà
người phạm tội chế tạo ra nhằm làm phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có
sẵn trong tự nhiên mà người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ
hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức
khỏe của người bị tấn công” [43]. Ngoài ra, trong Nghị quyết số 02/2003/NQ-
HĐTP còn liệt kê các công cụ, dụng cụ, vật mà người phạm tội sử dụng để thực
25
hiện tội phạm, cụ thể là: “a. Về công cụ, dụng cụ gồm: búa đinh, dao phay, các
loại dao sắc, nhọn…; b. Về vật mà người phạm tội chế tạo ra gồm: thanh sắt
mài, nhọn, côn gỗ…; c. Về vật có sẵn trong tự nhiên gồm gạch đá, đoạn cây
cứng,…”. Mặc dù trong các nghị quyết này của Hội đồng thẩm phán TANDTC
hướng dẫn tương đối đầy đủ về “hung khí nguy hiểm”, nhưng chủ yếu vẫn theo
kiểu liệt kê, không làm rõ nội hàm cũng như phạm vi của khái niệm “hung khí
nguy hiểm”. Do vậy việc xác định “hung khí nguy hiểm” trên thực tế vẫn còn
không ít khó khăn, vướng mắc, bởi công cụ, dụng cụ, vật được dùng khi phạm
tội có khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khỏe của người bị tấn
công hết sức phong phú, đa dạng, không thể liệt kê hết được.
Về tình tiết “gây cố tật nhẹ cho nạn nhân” BLHS năm 1999 quy định tình
tiết này là dấu hiệu định tội tại khoản 1, là tình tiết định khung tăng nặng tại
khoản 2 và khoản 3 Điều 104. Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày
17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy
định của BLHS quy định: “Cố tật nhẹ cho nạn nhân là hậu quả của hành vi cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân để lại trạng thái
bất thường, không thể chữa được cho một bộ phận cơ thể của nạn nhân với tỷ lệ
thương tật dưới 11% khi thuộc một trong các trường hợp: làm mất một bộ phận
cơ thể nạn nhân, làm mất chức năng một bộ phận cơ thể nạn nhân, làm giảm
chức năng một phận cơ thể của nạn nhân hoặc làm ảnh hưởng đến thẩm mỹ nạn
nhân” [44]. Việc áp dụng tình tiết “gây cố tật nhẹ cho nạn nhân” quy định tại
điểm b khoản 1, Điều 104 BLHS trong trường hợp người phạm tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật
dưới 11% thì không có gì vướng mắc. Khi định tội danh chỉ cần xác định tỷ lệ
thương tật dưới 11% và vết thương mà người phạm tội gây ra cho nạn nhân là cố
tật thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 104.
Song BLHS năm 1999 còn quy định tình tiết này là tình tiết định khung tăng
nặng tại khoản 2 và khoản 3 Điều 104, dẫn đến cách hiểu và áp dụng không
thống nhất, do còn nhận thức khác nhau:
+ Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, chỉ cần xác định nạn nhân có bị cố tật
hay không, nếu nạn nhân bị cố tật (không kể cố tật nhẹ hay cố tật nặng), thì
người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 hay khoản 3 của
26
Điều 104 BLHS.
+ Loại ý kiến khác thì cho là khoản 1 Điều 104 chỉ quy định “gây cố tật
nhẹ cho nạn nhân” chứ không quy định “gây cố tật cho nạn nhân”, nên không
thể áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 104 để truy cứu trách nhiệm hình sự người
phạm tội được vì không thể coi trường hợp khoét bỏ một bên mắt, cắt bỏ một
chân, một cánh tay, gây liệt nửa người… là cố tật nhẹ. Đây là một vấn đề chưa
được giải thích hướng dẫn cụ thể nên dễ dẫn đến áp dụng pháp luật hình sự
không thống nhất khi truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe nên người khác theo khoản 1 hay
khoản 2 và khoản 3 Điều 104 BLHS năm 1999.
Ngoài ra, đối với tội phạm này còn một số tình tiết định tội, định khung
chưa có sự giải thích, hướng dẫn chính thức của cơ quan có thẩm quyền, nên dẫn
tới có những cách hiểu khác nhau, áp dụng khác nhau trong thực tiễn định tội
danh và quyết định hình phạt, như:
+ Tình tiết “phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc phạm tội đối
với nhiều người”; tình tiết “có tính chất côn đồ” quy tại khoản 1 hay khoản 2 và
khoản 3 Điều 104 và tình tiết “trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác”
quy định tại khoản 4 Điều 104 BLHS năm 1999. Mặc dù đã có một số công trình
khoa học giải thích về các tình tiết này nhưng vẫn chưa có sự thống nhất giữa
các nhà nghiên cứu. Chẳng hạn, về tình tiết “trong trường hợp nghiêm trọng
khác” quy định tại khoản 4, Điều 104, có công trình nghiên cứu khoa học giải
thích là “trường hợp có nhiều tình tiết định khung tăng nặng quy định ở khoản 3
Điều 104 BLHS” [1, tr. 87] nhưng công trình nghiên cứu khác thì lại giải thích
là “trường hợp gây thương tích nặng hoặc tổn hại nặng cho sức khỏe của hai
người trở lên (thương tật từ 61% trở lên), gây thương tích cho rất nhiều người,
phạm tội vì động cơ đê hèn…” [53, tr. 87]. Chúng tôi cho rằng do các quan điểm
trên không mang tính chất giải thích chính thức mà chỉ mang tính chất tham
khảo, vì vậy, để áp dụng thống nhất và chính xác tình tiết này, cơ quan có thẩm
quyền cần nghiên cứu, hướng dẫn cụ thể.
1.2.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Ngày 27/11/2015 tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII đã chính thức
27
thông qua BLHS mới thay thế BLHS năm 1999. Bộ luật này được sửa đổi ngày
26/6/2017 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Việc ban hành cũng như
sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015 là “Nhằm phát huy hơn nữa vai trò của BLHS
với tư cách là công cụ pháp lý sắc bén, hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống
tội phạm, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, bảo vệ và thúc đẩy nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển đúng hướng, bảo đảm trật tự an
toàn xã hội, tạo môi trường xã hội và môi trường sinh thái an toàn, lành mạnh
cho mọi người dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế”.
Trong BLHS năm 2015, các tội xâm phạm sức khỏe của con người được
quy định tại Chương XIV phần Các tội phạm, gồm 7 tội danh cụ thể từ Điều 134
đến Điều 140. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác được quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 với nội dung là:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng
thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến
03 năm hoặc phạt từ 06 tháng đến 03 năm
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả
năng gây nguy hại cho nhiều người;
b) Dùng a xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;
c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu,
ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi
dưỡng, chữa bệnh cho mình;
đ) Có tổ chức;
e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
g) Trong thời gian đã bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt
tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc
đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được
thuê;
28
i) Có tính chất côn đồ;
k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn
nhân;
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02
năm đến 06 năm.
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên
mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp
quy định tại điểm từ điểm a đến điểm k, khoản 1 Điều này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 05
năm đến 10 năm
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại
điểm b khoản 4 Điều này;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy
định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 điều này;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên
mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một
trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 điều
này.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 07
năm đến 14 năm.
a) Làm chết người;
b) Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn
29
thương cơ thể 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên
mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 61% trở lên;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy
định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà
tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các
trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
5. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 12
năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
a) Làm chết 02 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên
mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 61% trở lên nhưng thuộc một trong
các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
6. Người chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a xít nguy
hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì bị phạt cải
tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm” [18, tr.
100-103]
Như vậy, Điều 134 BLHS năm 2015 gồm 6 khoản, trong đó khoản 1 quy
định các dấu hiệu pháp lý định tội và khung hình phạt cơ bản của tội phạm này,
các khoản từ khoản 2 đến khoản 5 quy định các trường hợp phạm tội có tình tiết
định khung tăng nặng và khoản 6 quy định trường hợp chuẩn bị phạm tội. So với
Điều 104 BLHS năm 1999 thì quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 có những
điểm mới sau đây:
Một là, cấu trúc của điều luật: Điều 104 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009) thiết kế 4 khoản; Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) thiết kế 6 khoản để quy định các tình tiết định tội và tình tiết định
khung khác nhau của tội phạm này.
Hai là, về các tình tiết định tội và tình tiết định khung hình phạt:
+ Loại bỏ một số tình tiết định tội không cần thiết và gây khó khăn vướng
30
mắc trong thực tiễn định tội danh như: tình tiết “gây cố tật nhẹ cho nạn nhân”,
quy định tại điểm b và tình tiết “phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc
đối với nhiều người” quy định tại điểm d khoản 1 điều 104 BLHS năm 1999
+ Chuyển một số tình tiết định tội quy định tại khoản 1 thành tình tiết
định khung tăng nặng quy định tại khoản 2 như tình tiết “tái phạm nguy hiểm”,
quy định tại điểm i khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999 nay chuyển thành tình
tiết định khung tăng nặng tại điểm d khoản 2 Điều 134 BLHS năm 2015.
+ Đưa các tình tiết định tội quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k tại
khoản 1 làm cơ sở để áp dụng làm tình tiết định khung tăng nặng ở các khoản
sau của Điều 134 BLHS năm 2015 trong trường hợp tỷ lệ tổn thương cơ thể của
nạn nhân từ 11% đến 30% (khoản 2); trường hợp tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31%
đến 60% (khoản 3); trong trường hợp tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên
(khoản 4) và trường hợp gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của 02
người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 61% trở lên (khoản 5)
+ Bổ sung một số tình tiết định tội ở khung cơ bản như: “vật liệu nổ”,
“dùng a xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm”, bổ sung một số tình tiết liên
quan đến đối tượng gây thương tích đang trong thời gian bị cơ quan có thẩm
quyền quản lý, giáo dục, cải tạo như “đang chấp hành án phạt tù” hoặc đối
tượng đặc biệt khác như “lợi dụng chức vụ, quyền hạn”…
Ở khoản 2 Điều 134 BLHS năm 2015 so với khoản 2 Điều 104 BLHS
năm 1999 có những sửa đổi bổ sung Quy định 05 tình tiết định khung tăng nặng
cụ thể, rõ hơn quy định tại khoản 2 Điều 104 BLHS năm 1999 bởi khoản 2 Điều
104 Bộ luật này không quy định cụ thể các tình tiết định khung tăng nặng riêng
(độc lập) mà quy định chung trong hai nội dung là: “tỷ lệ thương tật từ 31% đến
60% và “tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường
hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này”. Như vậy,
điểm mới và khác cơ bản ở đây là theo quy định của Điều 104 chỉ được áp dụng
theo khoản 2 điều luật này khi kèm theo tỷ lệ thương tật của nạn nhân từ 11%
đến 30% thì nay theo quy định tại khoản 2 Điều 134 BLHS năm 2015, các tình
tiết tăng nặng quy định tại điểm b, c, d của khoản 2 được áp dụng độc lập
(không kèm theo điều kiện về tỷ lệ thương tật của nạn nhân).
Ở khoản 3 của Điều 134 BLHS năm 2015 so với khoản 3 Điều 104 BLHS
31
năm 1999 có những sửa đổi, bổ sung như: Quy định 4 tình tiết định khung tăng
nặng độc lập. Trong khi đó, khoản 3 Điều 104 BLHS năm 1999 chỉ quy định hai
yếu tố (tình tiết) để xác định là tình tiết định khung tăng nặng, đó là: “tỷ lệ
thương tật từ 60% trở lên hoặc gây chết người” và “tỷ lệ thương tật từ 31% đến
61% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến
điểm k khoản 1 điều này”. Khoản 3 điều 134 BLHS năm 2015 giữ một phần nội
dung của hai tình tiết trên, đồng thời sửa đổi, bổ sung một số nội dung mới theo
hướng tách thành các tình tiết định khung tăng nặng độc lập quy định tại các
điểm a đến điểm d. Riêng tình tiết “làm chết người” được chuyển thành tình tiết
định khung tăng nặng tại khoản 4 Điều 134.
Ở khoản 4 Điều 134 BLHS năm 2015 so với khoản 4 Điều 104 BLHS năm
1999 có những sửa đổi bổ sung là quy định 05 tình tiết định khung tăng nặng.
Trong khi đó khoản 4 Điều 104 BLHS năm 1999 không thiết kế theo kiểu này mà
chỉ quy định hai tình tiết định khung tăng nặng là “phạm tội dẫn đến chết người”
hoặc “trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác”. Trong 5 tình tiết định khung
tăng nặng quy định tại khoản 4 Điều 134 BLHS năm 2015, có hai tình tiết mới:
“Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ
thể từ 61% trở lên” (điểm b) và “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên”.
Ở khoản 5 Điều 134 BLHS năm 2015 quy định 02 tình tiết định khung
tăng nặng là “làm chết 02 người trở lên” và “gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người
61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ
điểm a đến điểm k khoản 1 điều luật này”. Có thể nhận thấy, các tình tiết định
khung tăng nặng quy định tại khoản 5 Điều 134 BLHS năm 2015 thực chất là kế
thừa quy định các tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 4 Điều 104 BLHS
năm 1999, nhưng có quy định chi tiết hơn, cụ thể hơn khoản 4 Điều 104.
Khoản 6 Điều 134 BLHS năm 2015 là một quy định hoàn toàn mới. Nội
dung quy định tại khoản 6 là vấn đề trách nhiệm hình sự của người phạm tội này
trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 6 Điều
134 BLHS năm 2015 thì không phải bất cứ trường hợp nào chuẩn bị phạm tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đều phải chịu
32
trách nhiệm hình sự theo khoản 6 Điều 134 mà chỉ người nào chuẩn bị phạm tội
này thuộc 01 trong 06 trường hợp cụ thể là: chuẩn bị vũ khí vật liệu nổ; hung khí
nguy hiểm; a xít nguy hiểm; hóa chất nguy hiểm; thành lập hoặc tham gia nhóm
tội phạm mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, khoản 6 Điều 134 đã giới
hạn những trường hợp chuẩn bị phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên nếu so
sánh với quy định tại khoản 2 Điều 14 BLHS năm 2015 thì việc giới hạn những
trường hợp chuẩn bị phạm tội nêu trên mới phải chịu trách nhiệm hình sự là có
sự mâu thuẫn, bởi khoản 2 Điều 14 BLHS năm 2015 không giới hạn như vậy.
Ba là, về hình phạt: Điều 134 BLHS năm 2015 quy định 06 khung hình
phạt (01 khung cơ bản tại khoản 1, 04 khung tăng nặng (tại khoản 2 đến khoản
5) và 01 khung giảm nhẹ (khoản 6). Trong khi đó, Điều 104 BLHS năm 1999
chỉ quy định 04 khung hình phạt (01 khung cơ bản, 03 khung tăng nặng, không
có khung giảm nhẹ). Mức hình phạt thấp nhất và cao nhất của từng khung hình
phạt có sự điều chỉnh nhất định để phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xã hội của từng trường hợp phạm tội cụ thể. Khung hình phạt cơ bản tại khoản 1
Điều 134 BLHS năm 2015 vẫn giữ nguyên như khung cơ bản tại khoản 1 Điều
104 BLHS năm 1999 là “phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù
từ 06 tháng đến 03 năm”. Các khung hình phạt tăng nặng quy định tại khoản 2
đến khoản 5 Điều 134 BLHS năm 2015 tuy có sự sửa đổi mức tối thiểu hoặc
mức tối đa của hình phạt nhưng đều theo hướng thu hẹp khoảng cách giữa mức
tối thiểu và mức tối đa của hình phạt tù có thời hạn. Khoản 6 Điều 134 quy định
khung hình phạt riêng cho trường hợp chuẩn bị phạm tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là “cải tạo không giam giữ đến 02
năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”.
Việc quy định nhiều khung hình phạt, đặc biệt là khung hình phạt riêng cho
trường hợp chuẩn bị phạm tội thể hiện rõ đường lối xử lý có sự phân biệt, phân hóa
trách nhiệm hình sự và nguyên tắc cá thể hóa hình phạt ngay trong BLHS mới.
Bốn là, về kĩ thuật lập pháp, ngoài việc sửa đổi cấu trúc của điều luật,
BLHS năm 2015 còn sửa đổi một số thuật ngữ pháp lý để đảm bảo chuẩn xác về
mặt học thuật, đồng thời phù hợp với các văn bản pháp luật khác. Chẳng hạn,
thuật ngữ “tỷ lệ thương tật” được thay bằng thuật ngữ “tỷ lệ tổn thương cơ thể”
33
để phù hợp với thuật ngữ này được thể hiện trong Thông tư liên tịch số
28/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 27/9/2013 của Bộ Y tế và Bộ Lao động –
Thương binh xã hội về quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích và Thông
tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ trưởng Bộ Y tế về ban hành
bảng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích; hoặc cụm từ “đối với trẻ
em” sửa thành “đối với người dưới 16 tuổi”…
Tóm lại, việc sửa đổi, bổ sung được thể hiện tại Điều 134 BLHS năm
2015 cũng như trong Luật Sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015 đã khắc phục được
những hạn chế, bất cập trong các quy định của BLHS năm 1999 cũng như trong
các quy định của BLHS năm 2015 lúc mới ban hành. Điều đó đã hạn chế được
phần lớn những khó khăn, vướng mắc về cơ sở pháp lý trong định tội danh và
quyết định hình phạt khi xét xử các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác hiện nay.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 của luận văn tập trung nghiên cứu, luận giải những vấn đề lý
luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
theo pháp luật hình sự Việt Nam trên các bình diện: khái niệm, các dấu hiệu
pháp lý đặc trưng (dấu hiệu định tội và dấu hiệu định khung) của tội phạm này.
Ngoài ra, tại chương này còn đề cập vấn đề phân biệt tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với các tội phạm có một số dấu
hiệu tương đồng với tội phạm này. Kết quả nghiên cứu những nội dung này có
thể góp phần làm sáng tỏ và làm phong phú thêm lý luận chuyên ngành luật hình
sự về tội phạm cụ thể.
Ngoài nghiên cứu lý luận, Chương 1 của luận văn còn nghiên cứu, đánh
giá quá trình lập pháp của pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; chỉ ra
những mặt tích cực cũng như những hạn chế, bất cập của pháp luật hình sự nước
ta qua các thời kỳ cần phải sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
Những kết quả nghiên cứu Chương 1 thực sự là cơ sở lý luận và cơ sở
pháp luật để luận văn đề xuất, thiết lập các biện pháp đảm bảo áp dụng đúng các
quy định của pháp luật hình sự trong quá trình giải quyết vụ án về tội phạm này.
34
Chương 2
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý
GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE
CỦA NGƯỜI KHÁC TẠI TỈNH QUẢNG NINH
2.1. Khái quát tình hình xét xử sơ thẩm các vụ án về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại
tỉnh Quảng Ninh
Số liệu thống kê của Phòng Thống kê tổng hợp TAND tỉnh Quảng Ninh
cho thấy, từ năm 2014 đến năm 2018, TAND (cấp huyện và cấp tỉnh) đã thụ lý
giải quyết tổng số 7.189 vụ với 12.909 bị cáo, trong đó đã xét xử 6.201 vụ với
12.909 bị cáo về các tội phạm khác nhau theo quy định của BLHS năm 1999 và
BLHS năm 2015( chiếm 86,2% về số vụ và 81,8% về số bị cáo). Như vậy, tỷ lệ
vụ án và bị cáo đã bị xét xử hình sự sơ thẩm tương đối cao. Đặc biệt là trong
tổng số vụ và bị cáo bị đưa ra xét xử có : 636 vụ được xét xử theo loại án điểm
hoặc lưu động; 26 vụ xét xử theo thủ tục rút gọn, không có vụ án nào xét xử quá
thời hạn luật định. Cụ thể các năm như sau:
+ Năm 2014: thụ lý 1.404 vụ với 2.415 bị cáo, đã xét xử 1.232 vụ với 253
bị cáo, chiếm 87,7% về số vụ và 85,0% về số bị cáo;
+ Năm 2015: thụ lý 1.402 vụ với 2.770 bị cáo, đã xét xử 1.163 vụ với
2.111 bị cáo, chiếm 82,9% về số vụ và 76,2% về số bị cáo;
+ Năm 2016: Thụ lý 1.364 vụ với 2.439 bị cáo, đã xét xử 1.206 vụ với
1.969 bị cáo, chiếm 88,4% về số vụ và 80,7% về số bị cáo;
+ Năm 2017: Thụ lý 1.600 vụ với 2.912 bị cáo, đã xét xử 1.345 vụ với
2.388 bị cáo, chiếm 84,0% về số vụ và 82,0% về số bị cáo;
+ Năm 2018: Thụ lý 1.419 vụ với 2.373 bị cáo, đã xét xử 1.255 vụ với
2.042 bị cáo, chiếm 88,4% về số vụ và 86,0% về số bị cáo.
Trong tổng số 635 vụ án và 998 bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe mà TAND đã thụ lý để giải quyết có 523 vụ với 798 bị
cáo đã được xét xử. Tỷ lệ vụ án và bị cáo đã xét xử về loại án này cũng tương
đối cao, chiếm khoảng 82,3% về số vụ và 79,8% về số bị cáo, cụ thể các năm
như sau:
35
+ Năm 2014: Thụ lý 152 vụ vứi 257 bị cáo, đã xét xử 124 vụ với 206 bị
cáo, chiếm 81,5% về số vụ và 80,1 % về số bị cáo;
+ Năm 2015: Thụ lý 96 vụ với 124 bị cáo, đã xét xử 84 vụ với 106 bị cáo,
chiếm 87,5% về số vụ và 85,4% về số bị cáo;
+ Năm 2016: Thụ lý 100 vụ với 169 bị cáo, đã xét xử 89 vụ với 130 bị
cáo, chiếm 80,9% về số vụ và 76,9% về số bị cáo;
+ Năm 2017: Thụ lý 135 vụ với 232 bị cáo, đã xét xử 111 vụ với 177 bị
cáo, chiếm 82,2% về số vụ và 76,2% về số bị cáo;
+ Năm 2018: Thụ lý 142 vụ với 216 bị cáo, đã xét xử 115 vụ với 179 bị
cáo, chiếm 80,9% về số vụ và 82,8% về số bị cáo. [41].
Như vậy, trong giai đoạn này trung bình mỗi năm TAND tỉnh Quảng
Ninh đã xét xử 104 vụ với 157 bị cáo về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe người khác theo Điều 104 BLHS năm 1999 và Điều 134 BLHS
năm 2015.
Đây mới chỉ là những chỉ số phản ánh mặt lượng của hoạt động áp dụng
pháp luật hình sự trong xét xử các vụ án hình sự nói chung, vụ án về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng ở tỉnh
Quảng Ninh. Do vậy, để thấy được chất lượng xét xử của TAND tỉnh Quảng
Ninh, (nhất là hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt) cần đánh giá cả
mặt tích cực (những kết quả đạt được) và mặt tiêu cực (những hạn chế, thiếu sót
và nguyên nhân)
2.2. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong xét xử các vụ án về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác của Tòa
án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
2.2.1. Những kết quả đạt được
Áp dụng quy định của pháp luật hình sự trong xét xử các vụ án về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hoạt động thực
tiễn của TAND nhằm đưa các quy phạm pháp luật hình sự vào thực tế đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Nội dung áp dụng pháp luật hình sự trong xét xử các vụ
án về tội phạm này, gồm nhiều vấn đề khác nhau. Tuy nhiên, do khuôn khổ của
một luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung đánh giá hai nội dung chính là: định tội
danh và quyết định hình phạt của Tòa án. Việc đánh giá thực tiễn định tội danh
36
và quyết định hình phạt được tiến hành trên cả hai mặt: những kết quả đạt được
(mặt tích cực) và những khó khăn, vướng mắc, hạn chế của hoạt động định tội
danh và quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác quy định tại Điều 104 BLHS năm 1999 và Điều
134 BLHS năm 2015. Trên cơ sở nghiên cứu tổng số 523 vụ với 748 bị cáo đã
được TAND tỉnh Quảng Ninh xét xử và nghiên cứu ngẫu nhiên một số bản án về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại về sức khỏe của người khác, có thể
đánh giá những kết quả đạt được như sau:
* Trong định tội danh.
Do nhận thức đúng đắn bản chất, căn cứ, quy trình, mục đích, ý nghĩa của
hoạt động định tội danh cũng như xem xét một cách khách quan, toàn diện
những tình tiết thực tế của vụ án, TAND tỉnh Quảng Ninh đa phần đã lựa chọn
đúng tội danh để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, không để xảy ra
sai sót, nhầm lẫn giữa tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác với các tội phạm khác có liên quan, nhất là nhầm lẫn giữa tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dẫn đến chết
người với tội giết người đã hoàn thành, hoặc nhầm lẫn giữa tội phạm này với các
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có tình
tiết giảm nhẹ đặc biệt như: trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng, trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh… Vụ án cụ thể như sau đây
là một minh chứng. Tại Bản án số 113/2018/HS-ST ngày 19/10/2018, TAND
tỉnh Quảng Ninh tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Thắng phạm tội cố ý gây thương
tích, áp dụng điểm đ khoản 2 (thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1
Điều 134); điểm b,s,v khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54 BLHS năm 2015,
xử phạt Nguyễn Văn Thắng 15 tháng tù. Nội dung vụ án như sau: Khoảng 16
giờ ngày 11/5/2017, tại gara ô tô của Nguyễn Văn Thắng ở tổ 8, khu Tân Lập 4
phường Cẩm Thủy, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, do bực tức về việc
anh Trần Minh Tuấn có tình cảm với vợ mình là chị Bùi Hương Loan, Nguyễn
Văn Thắng đã có hành vi dùng gậy cứng bằng kim loại hình trụ có ba đoạn dài
khoảng 60 cm và dùng tay, chân, cán chổi đánh nhiều nhát vào đầu và người anh
Tuấn gây thương tích, làm anh Tuấn bị tổn thương cơ thể với tỷ lệ là 19%.
Do vậy, TAND tỉnh Quảng Ninh đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Thắng
37
phạm tội “cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999, nay được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều
134 BLHS năm 2015 như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm
Phả đã truy tố.
Tuy nhiên, đối với vụ án nêu trên, có một số quan điểm và ý kiến trái
ngược nhau về định tội danh hành vi của Nguyễn Văn Thắng.
Quan điểm của bên gỡ tội cho rằng, hành vi gây thương tích cho nạn nhân
Trần Minh Tuấn do bị cáo thực hiện là trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh bởi hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm
tội. Do vậy, phải áp dụng Điều 105 BLHS năm 1999 để truy cứu trách nhiệm
hình sự. Theo quan điểm này, nguyên nhân dẫn tới bị cáo phạm tội gây thương
tích cho nạn nhân Trần Minh Tuấn là do Tuấn có quan hệ bất chính với vợ
Thắng là chị Bùi Hương Loan. Cụ thể, sáng ngày 21/02/2017, anh Tuấn và chị
Loan rủ nhau đến nhà nghỉ Hương Sen ở thị trấn Cái Rồng, huyện Vân Đồn để
tâm sự. Khi anh Tuấn và chị Loan đang trong phòng 203 của nhà nghỉ thì bị anh
Thắng bắt quả tang hai người đang ngồi tâm sự. Chiều ngày 22/02/2017, anh
Tuấn đến phòng làm việc của anh Thắng tại trụ sở Ngân hàng SHB - chi nhánh
Quảng Ninh để xin lỗi anh Thắng. Tại đây anh Tuấn đã nói cho anh Thắng biết
mối quan hệ tình cảm giữa Tuấn và chị Loan và nói đây là lần đầu tiên anh Tuấn
và chị Loan vào nhà nghỉ để tâm sự. Thắng hỏi anh Tuấn có dám cắt ngón tay để
thề là lần đầu tiên không, thì anh Tuấn đồng ý. Khoảng 02 tuần sau, anh Tuấn tự
nguyện cắt một đốt ngón tay út trái rồi đem đến đưa cho Thắng. Thắng để đốt
ngón tay của anh Tuấn trong chiếc bình thủy tinh đựng rượu trên bàn làm việc
của mình. Đến ngày 24/3/2017, Thắng phát hiện ra việc chị Loan và anh Tuấn
thường xuyên liên lạc với nhau bằng điện thoại di động để bàn cách nói dối
Thắng và cùng ngày hôm đó Thắng phát hiện ra anh Tuấn đã có tình cảm với vợ
mình từ tháng 8/2016 và đã nhiều lần cùng chị Loan đi nhà nghỉ, chứ không phải
là lần đầu tiên như anh Tuấn nói. Do bức xúc về việc anh Tuấn phá vỡ hạnh
phúc gia đình mình, nên Thắng gọi điện cho anh Tuấn đến gara ô tô nhà mình để
nói chuyện. Khi anh Tuấn đi xe ô tô đến, Thắng đóng cửa gara, rồi dùng chiếc
gậy cứng bằng kim loại, hình trụ có 3 đoạn, dài khoảng 60 cm đánh liên tiếp
nhiều nhát vào đầu và người anh Tuấn. Khi gậy bị gẫy, Thắng còn dùng tay,
38
chân đấm, đá vào người anh Tuấn, gây thương tích cho Tuấn với tỷ lệ tổn
thương cơ thể là 19%.
Quan điểm của bên buộc tội (Viện kiểm sát) thì cho rằng, hành vi cố ý
gây thương tích của Nguyễn Văn Thắng cho nạn nhân Tuấn không thuộc trường
hợp trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm
trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của
người phạm tội.
Người nghiên cứu hoàn toàn nhất trí với quan điểm này. Bởi lẽ, tại thời
điểm Thắng cầm gậy và dùng chân, tay đánh vào đầu, người nạn nhân là do
Thắng bức xúc về việc Tuấn đã có quan hệ tình cảm với vợ mình, gây ảnh
hưởng đến hạnh phúc gia đình, nhưng quan hệ tình cảm của Tuấn với Loan chưa
phải là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng và đã chấm dứt, đã có sự ngắt quãng
về thời gian. Mặt khác, Thắng đã chủ động gọi Tuấn đến gara ô tô của nhà mình
để gây thương tích cho Tuấn, chứ không phải được thực hiện một cách bột phát,
ngay lập tức. Thắng vẫn hoàn toàn làm chủ được bản thân khi thực hiện hành vi
gây thương tích cho Tuấn. Như vậy, việc TAND tỉnh Quảng Ninh tuyên án bị
cáo Nguyễn Văn Thắng phạm tội cố ý gây thương tích quy định tại khoản 2,
Điều 134 BLHS năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
- Đối với những vụ án cố ý gây thương tích mà bị cáo có sử dụng vũ khí,
vật liệu nổ hoặc hung khí nguy hiểm, TAND tại Quảng Ninh đã căn cứ vào các
văn bản hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS nên đã xác định chính
xác công cụ, phương tiện mà bị cáo sử dụng gây thương tích cho nạn nhân, vì
thế việc áp dụng các tình tiết này hoàn toàn chính xác. Vụ án cụ thể sau đây đã
phản ánh điều đó. Tại bản án số 01/2015/HS-ST ngày 06/01/2015, TAND tỉnh
Quảng Ninh đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành Tuân phạm tội “cố ý gây thương
tích” và “tội chiếm đoạt vũ khí quân dụng” , áp dụng: điểm a, i, k khoản 1 Điều
104; khoản 1 Điều 230; điểm n khoản 1 Điều 46, Điều 50 BLHS năm 1999, xử
phạt bị cáo Nguyễn Thành Tuân 12 tháng tù về tội “cố ý gây thương tích” và 30
tháng tù về tội “chiếm đoạt vũ khí quân dụng”. Tổng hợp hình phạt chung cho cả
hai tội, Tòa án buộc bị cáo Nguyễn Thành Tuân phải chấp hành hình phạt là 42
tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 28/7/2014.
Nội dung vụ án như sau: Do nghi ngờ anh Trịnh Tiến Mạnh - Phó trưởng
39
Công an thành phố Uông Bí tỉnh Quảng Ninh có quan hệ với vợ mình là Lý Thị
Hà nên Tuân ra chợ mua một con dao bầu dùng để giết lợn với mục đích giết
anh Mạnh. Đến ngày 28/7/2014, Tuân một mình dắt con dao bầu vào trong
người, đi taxi đến trụ sở Công an thành phố Uông Bí. Khi đi qua phòng trực ban,
Tuấn nói với cán bộ trực ban là anh Phạm Đức Hiệp cho vào gặp Phó trưởng
Công an thành phố Trịnh Tiến Mạnh, thì anh Hiệp bảo Tuân ở ngoài chờ vì chưa
đến giờ làm việc. Tuân lại xin vào làm việc với Đội Cảnh sát điều tra về trật tự
xã hội. Anh Hiệp hướng dẫn Tuân đến phòng làm việc của Đội điều tra. Tại
phòng làm việc của Đội điều tra, Tuân đã dùng dao đuổi chém Đội trưởng là anh
Đàm Quang Toàn và anh Phan Văn Hùng là cán bộ của Đội, nhưng anh Toàn và
anh Hùng né tránh được. Ngay sau đó, anh Toàn báo cáo lãnh đạo Công an
thành phố Uông Bí và huy động một số cán bộ, chiến sĩ Công an thành phố tham
gia ngăn chặn và vây bắt Tuân. Nhưng Tuân vẫn tiếp tục cầm dao đuổi và đọa
chém bất cứ ai lại gần trong khuôn viên của Công an thành phố Uông Bí.
Anh Đỗ Tiến Long là cán bộ Đội cảnh sát điều tra lúc đó tiếp cận được
Tuân ở khoảng cách gần nhất nên đã yêu cầu Tuân bỏ dao xuống nhưng Tuân
không chấp hành, anh Long dùng súng bắn chỉ thiên 03 phát để cảnh cáo và tiếp
tục yêu cầu Tuân bỏ dao xuống nhưng Tuân vẫn không chấp hành mà còn cầm
dao xông vào đâm chém anh Long, buộc anh phải chống đỡ, né tránh và chỉ bị
Tuân chém trúng một nhát vào khuỷu tay phải gây thương tích.
Ngay lúc đó, anh Toàn cầm súng quân dụng K59 và anh Ngô Thế Anh là
cán bộ điều tra cầm 01 khẩu súng công cụ hỗ trợ (loại sung bắn đạn cao su) lao
vào hỗ trợ anh Long, liền bị Tuân quay sang dùng dao tấn công làm anh Toàn và
anh Thế Anh bị rơi súng. Tuân nhặt cả hai khẩu súng này cầm chĩa vào phía anh
Toàn và Thế Anh. Sau đó, Tuân dắt khẩu súng bắn đạn cao su vào thắt lưng, một
tay cầm dao, một tay cầm khẩu K59 rời khỏi trụ sở Công an thành phố Uông Bí.
Khi đi ra khỏi cổng được một đoạn, Tuân vứt con dao lại bên đường và cầm cả
hai khẩu súng trên tay đi về phía trung tâm thành phố. Lúc này, các anh Toàn,
Thế Anh cùng cán bộ, chiến sĩ Công an thành phố vẫn tiếp tục đuổi bám theo
sau để tìm cách tiếp cận khống chế Tuân. Còn Tuân liên tục quay lại chĩa súng
về phía những người bám theo sau để đe dọa không cho tiếp cận.
Đến đoạn đường nội thị thuộc khu 7, phường Quang Trung, thành phố
40
Uông Bí (cách trụ sở Công an thành phố khoảng 1,5 km) thì bị lực lượng Công
an thành phố phối hợp với nhân dân ở đó khống chế và bắt được Tuân.
Tại bản giám định pháp y thương tích số 78 – 2014/GĐPY của Phòng
giám định pháp y – Sở Y tế Quảng Ninh đã kết luận anh Long bị thương tích với
tỷ lệ tổn thương cơ thể là 08%.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ
vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng
cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, bị hại; căn cứ vào quy định của BLHS năm
1999, TAND tỉnh Quảng Ninh quyết định: Tuyên bị cáo Nguyễn Thành Tuân
phạm hai tội: “Tội cố ý gây thương tích” và “Tội chiếm đoạt vũ khí quân dụng”
và áp dụng điểm a, i, k khoản 1 Điều 104 xử phạt bị cáo Nguyễn Thành Tuân 12
tháng tù về tội cố ý gây thương tích là hoàn toàn chính xác, bởi đây là trường
hợp gây thương tích có tỷ lệ thương tật (tổn thương cơ thể) dưới 11% nhưng bị
cáo phạm tội thuộc trường hợp: dùng hung khí nguy hiểm (dao bầu) quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 104 BLHS là có cơ sở, bởi theo Nghị quyết số 02/2003/NQ
– HĐTP ngày 17/4/2003 của hội đồng thẩm phán TAND thì “Dùng hung khí
nguy hiểm là dùng vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm. Phương tiện nguy hiểm
là công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống con người
(trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra (thanh
sắt dài nhọn, côn gỗ…) nhằm làm phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có
sẵn trong thiên nhiên (gạch, đá, đoạn cây cứng chắc…) mà con người phạm tội
có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ ( búa đinh, dao phay, các loại dao sắc
nhọn…) hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng
hoặc sức khỏe của người bị tấn công” [44].
Mặt khác, việc TAND tỉnh Quảng Ninh áp dụng điểm i khoản 1 Điều 104
để xử phạt bị cáo phạm tội “có tính chất côn đồ” cũng hoàn toàn đúng. Bởi vì,
mặc dù chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về trường hợp này, nhưng cả lý luận
và thực tiễn đều thừa nhận phạm tội có tính chất côn đồ là trường hợp phạm tội
thể hiện tính hung hãn cao độ của chủ thể; coi thường tính mạng, sức khỏe của
người khác, gây thương tích cho người khác không có nguyên cớ hoặc vì
nguyên cớ rất nhỏ nhặt, gây thương tích ở nơi công cộng, coi thường quy tắc
cuộc sống xã hội. Việc TAND tỉnh Quảng Ninh áp dụng điểm k khoản 1 để
41
buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tình tiết “để cản trở người thi hành
công vụ” cũng là hoàn toàn đúng đắn, bởi bị cáo Tuân đã có hành vi gây thương
tích cho chiến sĩ công an thi hành nhiệm vụ vây bắt Tuân.
Thêm vào đó, TAND tỉnh Quảng Ninh cũng không để lọt hành vi nhặt 02
khẩu súng của các chiến sĩ công an khi vây bắt Tuân nên đã bị rơi, bởi đây là
một trong nhưng biểu hiện của hành vi chiếm đoạt vũ khí quân dụng mà Tuân đã
thực hiện. Do vậy. đã áp dụng khoản 1 Điều 230 BLHS năm 1999 để truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội phạm này xử phạt Tuân 30 tháng tù. Sau đó, Tòa án
đã tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội phạm theo quy định tại Điều 50
BLHS năm 1999, buộc bị cáo Nguyễn Thành Tuân phải chấp hành hình phạt là
42 tháng tù.
- Đối với những vụ án cố ý gây thương tích dẫn đến chết người quy định
tại khoản 3 Điều 104 BLHS năm 1999, mặc dù là một loại án phức tạp về việc
xác định lỗi của người phạm tội đối với hậu quả “chết người” đã xảy ra, nhưng
do đánh giá đầy đủ các tình tiết khách quan của vụ án như: hành vi gây thương
tích, hậu quả thương tích, hậu quả chết người do hậu quả thương tích gây ra, ý
thức chủ quan của người phạm tội (lỗi)… nên đảm bảo việc định tội danh được
chính xác, không nhầm lẫn với tội giết người quy định tại Điều 93 BLHS năm
1999. Ví dụ: Tại bản án số 88/2017/HS – ST ngày 14/8/2017, TAND tỉnh Quảng
Ninh tuyên bố bị cáo Chìu Cắm Thành phạm tội “cố ý gây thương tích” trong
trường hợp dẫn đến hậu quả chết người; áp dụng khoản 3 Điều 104 BLHS năm
1999, điểm b, khoản 1,2 Điều 46; điểm d khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999 xử
phạt bị cáo Chìu Cắm Thành 08 năm tù, tính từ ngày bị bắt 02/02/2017.
Nội dung vụ án như sau: khoảng 14 giờ ngày 01/02/2017, tại thôn Pẹc Nả,
xã Bắc Sơn, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, anh Bùi Văn Vinh tự ý vào
nhà của anh Lỷ Quý Thành, nên bị anh Lỷ Quý Thành nghi ngờ anh Vinh là
người đã trộm cắp tài sản của gia đình anh. Sau đó, anh Lỷ Quý Thành đã cùng
em trai là Lỷ Quang Phúc đuổi, vật ngã anh Vinh xuống nền đường. Lúc này
Chìu Cắm Thành đi xe máy từ trong thôn Pẹc Nả đến nơi xảy ra sự việc đã xông
vào dùng chân đá vào mông và đạp mạnh vào người anh Vinh khi anh Vinh
đang nằm dưới nền đường làm anh Vinh bị gãy các xương sườn hai bên; bị dập
hai phổi, rách thủng gan, chảy máu khoang màng phổi và ổ bụng dẫn đến suy hô
42
hấp và tuần hoàn cấp. Khi đưa anh Vinh về sân nhà anh Lỷ Quý Thành thì anh
Vinh tử vong.
Mặc dù Chìu Cắm Thành có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt gửi lên
TAND cấp cao tại Hà Nội, nhưng khi xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận
định: hành vi phạm tội của bị cáo Chìu Cắm Thành bị truy tố, xét xử về tội “Cố
ý gây thương tích” thuộc trường hợp “dẫn đến chết người” theo khoản 3 Điều
104 BLHS năm 1999 là có căn cứ pháp luật, đúng người, không oan sai. Thêm
vào đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án này còn nhận định: “Tòa án cấp sơ
thẩm đã đánh giá tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội mà bị cáo thực
hiện, hậu quả đã xảy ra, xem xét nhân thân, áp dụng tình tiết tăng nặng, các tình
tiết giảm nhẹ để xử phạt bị cáo Chìu Cắm Thành 08 năm tù là có căn cứ pháp
luật, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và hậu quả mà bị cáo đã
gây ra” [38]. Người nghiên cứu đồng tình với bản án sơ thẩm của TAND tỉnh
Quảng Ninh và bản án phúc thẩm của TAND cấp cao tại Hà Nội và cho rằng
đây là vụ án cố ý gây thương tích thuộc trường hợp “dẫn đến chết người”, bởi bị
cáo Chìu Cắm Thành không quen biết, không có mâu thuẫn gì với nạn nhân
Vinh; hậu quả chết người xảy ra nằm ngoài nhận định (ý thức chủ quan) của bị
cáo, khi thực hiện hành vi đá, đạp vào mông, vào sườn nạn nhân, bị cáo tự tin
cho rằng không thể tước đi tính mạng của nạn nhân, không mong muốn hoặc bỏ
mặc cho hậu quả chết người xảy ra, vì vậy lỗi của bị cáo đối với hậu quả chết
người gây ra cho nạn nhân Vinh là lỗi vô ý, do vậy không thể truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội giết người (Điều 93 BLHS) đối với bị cáo Chìu Cắm
Thành.
* Trong quyết định hình phạt
Theo số liệu thống kê của TAND tỉnh Quảng Ninh, thì từ năm 2014 –
2018, các loại hình phạt chính mà Tòa án quyết định áp dụng đối với những
người bị kết án về các tội phạm khác nhau gồm: cảnh cáo 21/10.629 (chiếm
0,19%); phạt tiền 114/10.629 (chiếm 1,07%); cải tạo không giam giữ 135/10.629
(chiếm 1,27%); bị phạt tù cho hưởng án treo 2019/10.629 ( chiếm 18,99%); phạt
tù từ 3 năm trở xuống 5.023/10.629 (chiếm 47,25 %); phạt tù từ 3 năm đến 7
năm 1.584/10.629 (chiếm 14,90%); phạt tù từ trên 7 năm đến 15 năm
1052/10.629 (chiếm 9,89%); phạt tù trên 15 năm đến 20 năm 387/10.629 (chiếm
43
3.64%); tù chung thân 108/10.629 (chiếm 1,01%). Qua đó thấy rằng, hình phạt
được áp dụng đối với bị cáo chủ yếu là hình phạt tù (tù có thời hạn và tù chung
thân), chiếm 78,22%, các hình phạt không tước tự do đối với người bị kết án chỉ
chiếm 21,76%. Trong các mức phạt tù có thời hạn thì phạt tù 3 năm trở xuống là
chủ yếu.
Đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác thì hình phạt được TAND tỉnh Quảng Ninh quyết định áp
dụng đối với người bị kết án như sau: Trong tổng số 798 bị cáo mà TAND tỉnh
Quảng Ninh đã xét xử có 05 bị cáo xử phạt cải tạo không giam giữ (chiếm
0,62%); 368 bị cáo bị xử phạt tù từ 03 năm trở xuống (chiếm 46,11%); 191 bị
cáo bị xử phạt tù từ trên 3 năm đến 7 năm đến 15 năm (chiếm 2,88%). Số còn lại
tòa tuyên bố miễn trách nhiệm hình sự hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo.
Riêng hình phạt bổ sung, TAND tỉnh Quảng Ninh không áp dụng đối với bất cứ
bị cáo nào phạm tội này.
Nhìn chung, hình phạt mà TAND tỉnh Quảng Ninh quyết định áp dụng
đối với người bị kết án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác là có căn cứ, phù hợp với tính chất. mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Loại và mức hình phạt cụ thể mà TAND
tỉnh Quảng Ninh quyết định áp dụng đối với bị cáo đều thuộc chế tài mà điều
luật quy định. Nhờ đó đã phát huy được mục đích phòng ngừa riêng cũng như
phòng ngừa chung của hình phạt đã tuyên. Kết quả xét xử phúc thẩm, tỷ lệ y án
sơ thẩm chiếm 64,32% đã chứng minh kết quả này. Ví dụ, tại bản án phúc thẩm
số 29/2018/HSPT ngày 24/01/2018, mặc dù bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt,
nhưng TADN cấp cao tại Hà Nội khi xét xử phúc thẩm vụ án này đã căn cứ vào
các chứng cứ, tài liệu được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả
tranh luận, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của
Kiểm sát viên, Luật sư, Bị cáo Hội đồng xét xử phúc thẩm đã nhận định: “Tòa
án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất rất nghiêm trọng về hành vi phạm tội của
bị cáo, hậu quả xảy ra, xem xét nhân thân, áp dụng tình tiết tăng nặng, các tình
tiết giảm nhẹ để xử phạt bị cáo 08 năm tù là có căn cứ pháp luật, phù hợp với
tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, hậu quả mà bị cáo đã thực
44
hiện và gây ra. Tại phiên tòa phúc thẩm, xét bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ
mới nên kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo là không có cơ sở chấp nhận”.
Với nhận định đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm TAND cấp cao tại Hà Nội quyết
định không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên quyết định của bản án
sơ thẩm về tội danh cũng như hình phạt.
Tóm lại, trong định tội danh và quyết định hình phạt, TAND tỉnh Quảng
Ninh đã bám sát đường lối, nguyên tắc xử lý người phạm tội mà pháp luật đã
quy định; căn cứ vào quy định của BLHS, nhất là Điều 104 BLHS năm 1999
(Điều 134 BLHS năm 2015) và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án… nên
việc định tội danh cũng như quyết định hình phạt đảm bảo đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, hạn chế tối đa oan sai trong xét xử các vụ
án về tội phạm này. Qua đó đã đóng góp không nhỏ vào công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm, đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn tính mạng, sức khỏe
cho người dân tại địa phương.
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Ngoài những kết quả đạt được nêu trên, việc áp dụng pháp luật hình sự,
nhất là trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với bị cáo phạm tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác vẫn còn một số
hạn chế, sai sót nhất định:
Thứ nhất, trong định tội danh
Sai sót, hạn chế trong định tội danh đối với tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho người khác thể hiện ở những vấn đề sau:
+ Một là, vẫn còn hiện tượng tranh chấp về tội danh giữa “giết người” và
“Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
trường hợp dẫn đến chết người”. Sự hạn chế này là do có quan điểm nhận định:
“hậu quả thế nào thì giải quyết thế; hành vi gây ra hậu quả chết người với lỗi cố
ý thì xử về tội giết người, còn hành vi không gây ra hậu quả chết người mà chỉ
gây ra hậu quả thương tích với lỗi cố ý thì xử về tội cố ý gây thương tích” . Theo
chúng tôi, việc nhận định như vậy là không hoàn toàn chính xác cả về lý luận và
thực tiễn giải quyết loại án này. Bởi lỗi là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt chủ quan
của cấu thành tội phạm, đòi hỏi phải xác định trong mọi trường hợp khi định tội
danh. Việc xác định lỗi đúng là tiền đề để định tội danh đúng, ngược lại xác định
45
lỗi không đúng sẽ dẫn tới định tội danh sai, vì cùng những biểu hiện khách quan
như nhau (như cầm dao chém người khác) nếu xác định lỗi đối với hành vi và
hậu quả của hành vi khác nhau thì sẽ có những kết luận khác nhau về tội danh.
Thực tiễn ở Quảng Ninh có tình trạng này là do việc xác định lỗi ở tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khá phức tạp.
Do vậy, để có thể xác định được lỗi của người có hành vi gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đối với hành vi mà họ thực hiện và đối
với hậu quả do hành vi của họ gây ra, đòi hỏi các chủ thể áp dụng pháp luật hình
sự không chỉ nắm vững những dấu hiệu đặc trưng của các loại (hình thức) lỗi đã
được ghi nhận trong các điều luật của BLHS mà còn phải hiểu rõ bản chất cũng
như nội dung của từng loại lỗi. Chỉ trên cơ sở nhận thức đầy đủ về lỗi và các loại
lỗi mới có thể xác định đúng lỗi trong trường hợp phạm tội xảy ra trên thực tế.
Cụ thể là:
+ Để nhận định trường hợp phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác là lỗi cố ý trực tiếp phải chứng minh được khi thực
hiện hành vi phạm tội, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe
của hành vi đó có thể hoặc tất yếu xảy ra và mong muốn cho hậu quả thương
tích hoặc tổn hại về sức khỏe xảy ra. Còn trong trường hợp lỗi cố ý gián tiếp thì
người phạm tội khi thực hiện hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác, tuy cũng nhận thức được hành vi đó là nguy hiểm cho xã
hội, nhưng chỉ thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả thương
tích, mặc dù không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
+ Khác với trường hợp cố ý phạm tội, trường hợp vô ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại nặng cho người khác, người phạm tội có thể thấy trước hậu quả
nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ thực hiện, nhưng tự tin cho rằng hậu
quả thương tích sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được (lỗi vô ý vì quá tự
tin), hoặc khi thực hiện hành vi (xử sự), người phạm tội do cẩu thả nên không ý
thức được tính chất gây thiệt hại của hành vi, mặc dù (nếu không cẩu thả) họ có
thể thấy trước và buộc phải thấy trước.
Có nắm vững những vấn đề nêu trên thì mới nhận định chính xác khi định
tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
46
nhất là trong trường hợp dẫn đến làm chết người. Bởi lẽ, thực tế cho thấy, khi
thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác dẫn đến chết người, người phạm tội chỉ cố ý đối với hậu quả thương tích,
còn đối với hậu quả chết người do hậu quả thương tích gây ra thì lỗi của người
phạm tội là lỗi vô ý, tức là nằm ngoài nhận định của người phạm tội. Người
phạm tội trong trường hợp này tự tin cho rằng, hành vi mà họ thực hiện chỉ có
khả năng gây ra thương tích, không có khả năng gây ra hậu quả chết người
(không thể tước đi sinh mạng của người khác), do vậy, đối với trường hợp này
chỉ có thể xử lý người phạm tội về “tội cố ý gây thương tích” trong trường hợp
có tình tiết định khung tăng nặng “dẫn đến chết người” quy định tại khoản 3
Điều 104 BLHS năm 1999 (nay là tình tiết “làm chết người” quy định tại khoản
4 Điều 134 BLHS năm 2015). Tuy nhiên, trường hợp nếu người phạm tội nhận
thấy hành vi của mình có thể tước đoạt sinh mạng của người khác (có thể gây ra
hậu quả chết người, nhưng để mặc cho hậu quả đó xảy ra (cố ý gián tiếp) thì hậu
quả thực tế do hành vi gây ra đến đâu thì sẽ xử lý đến đó. Trường hợp nạn nhân
không chết mà chỉ bị thương tích thì xử lý về tội “Cố ý gây thương tích”; còn
trường hợp nạn nhân chết, thì bị xử lý về “tội giết người” với lỗi cố ý gián tiếp.
+ Hai là, có một số trường hợp mặc dù có hành vi cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, nhưng TAND tỉnh Quảng Ninh
không thể đưa vụ án ra xét xử vì nhiều lý do khác nhau như nạn nhân từ chối
giám định tổn thương cơ thể; nạn nhân không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự (đối
với những trường hợp chỉ khởi tố vụ án khi có yêu cầu của người bị hại theo quy
định của BLTTHS). Điều đó cũng có nghĩa là để lọt tội phạm. Vụ cố ý gây
thương tích xảy ra ở địa bàn thành phố Hạ Long tỉnh Quảng Ninh sau đây là một
ví dụ: Do mâu thuẫn từ trước, nên 15h ngày 25/5/2017, Nguyễn Văn Hải đã lấy
1 con dao bầu (loại dao giết lợn) giấu trong người rồi đến tìm anh Nguyễn Văn
Sơn để gây thương tích. Khi gặp anh Sơn ở khu vực bến xe Bãi Cháy, Hải dùng
dao dâm 2 nhát vào bụng Sơn rồi bỏ chạy; hậu quả là làm anh Sơn bị thương
nặng, phải cắt bỏ 0,5 mét ruột, lá lách. Sau khi sự việc xảy ra giữa Hải và Sơn đã
tự hòa giải, bồi thường dân sự. Do được bồi thường thỏa đáng, Sơn đã từ chối
giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể. Vì không xác định được tỷ lệ tổn thương cơ
thể của nạn nhân, nên cơ quan tiến hành tố tụng hình sự đã không xử lý hình sự
47
đội với Nguyễn Văn Hải được, dẫn tới lọt tội phạm.
Người nghiên cứu cho rằng, đối với việc giải quyết các vụ gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì vấn đề xác định mức độ
hậu quả của hành vi (tỷ lệ tổn thương cơ thể) có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bởi
thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này cho thấy, để xác định một người
thực hiện hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
có phạm tội hay không? Nếu phạm tội thì phạm vào khoản nào được quy định
tại Điều 104 BLHS năm 1999 (nay là Điều 134 BLHS năm 2015), có bắt buộc
phải giám định mức độ tổn thương cơ thể của nạn nhân. Theo quy định của Điều
104 BLHS năm 1999 cũng như Điều 134 BLHS năm 2015 thì mức độ (tỷ lệ %)
tổn thương cơ thể của nạn nhân phải từ 11% trở lên mới xử lý hình sự hoặc nếu
dưới mức đó thì phải thuộc một trong các trường hợp được quy định từ điểm a
đến điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999 (nay là BLHS năm 2015) mới
cấu thành tội phạm. Nhưng qua thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm
này cho thấy việc xác định mức độ tổn thương cơ thể (tỷ lệ thương tật) của nạn
nhân gặp không ít khó khăn, vướng mắc như: nạn nhân từ chối giám định hoặc
do để quá lâu mới tố giác tội phạm nên khi đó vết thương đã lành, quá trình điều
trị nạn nhân lại không làm bệnh án… nên đã gây khó khăn, lúng túng cho cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự trong việc áp dụng pháp luật hình sự xử lý người
phạm tội. Điều đó cũng dẫn đến bỏ lọt tội phạm hoặc làm cho việc giải quyết vụ
án bị kéo dài, ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự.
+ Ba là, việc định tội danh đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác được thực hiện dưới hình thức đồng phạm,
chưa thật sự chính xác và còn nhiều quan điểm khác nhau. Vụ án cụ thể sau đây
cho thấy điều đó. Ngày 02/6/2015 tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh do bị
kích động về tinh thần bởi hành vi trái pháp luật của Đỗ Văn Quân, nên Trần
Văn Mạnh đã xông vào đấm, đá Đỗ Văn Quân. Khi hai người đang đánh nhau
thì Nguyễn Viết Hải là bạn thân của Mạnh đi ngang qua nhìn thấy, đã cầm 1
thanh gỗ cứng dài 1m lao đến và nói với Mạnh “để tớ giúp sức cậu”, Mạnh gật
đầu đồng ý. Ngay lúc đó, Hải cầm thanh gỗ cứng đập liên tiếp nhiều nhát vào
người Quân gây thương tích với tỷ lệ thương tật 22% (theo kết luận giám định
thương tật của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ninh).
48
Về vụ án này, có quan điểm cho rằng, Hải và Mạnh đồng phạm với nhau
về tội cố ý gây thương tích và đều được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự “phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần” quy định tại điểm
đ khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999. Do vậy, cần áp dụng khoản 2 Điều 104;
điểm đ khoản 1 Điều 46 để xử lý cả hai người (Mạnh và Hải). Nhưng quan điểm
khác thì lại cho rằng, Hải phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 104
còn Mạnh phạm tội có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm
đ khoản 1 Điều 46 nên được xem xét để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Quan
điểm thứ ba nhận định: Chỉ có Hải mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý
gây thương tích theo khoản 2 Điều 104; còn hành vi dùng chân, tay đấm, đá nạn
nhân của Trần Văn Mạnh chưa gây ra hậu quả thương tích cho nạn nhân nên
không đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
Những quan điểm nêu trên, theo chúng tôi là chưa hoàn toàn chính xác.
Đối với vụ án này, căn cứ vào Điều 20 BLHS năm 1999 thì hoàn toàn thỏa mãn
yếu tố đồng phạm, bởi có từ 2 người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm
(tội cố ý gây thương tích). Do vậy, tất cả những người đồng phạm (Mạnh và
Hải) đều phải chịu trách nhiệm hình sự chung về hành vi và hậu quả do hành vi
phạm tội của họ gây ra cho Quân (gây thương tích cho Quân với tỷ lệ tổn
thương cơ thể 22%). Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc phân hóa trách nhiệm
hình sự và cá thể hóa hình phạt thì mặc dù những người đồng phạm phải chịu
trách nhiệm hình sự chung về tội phạm mà họ cố ý cùng tham gia thực hiện,
nhưng trên cơ sở hành vi của chính mình; những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng
trách nhiệm hình sự riêng thuộc người nào thì chỉ áp dụng đối với người đó;
những người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt
quá (thái quá) của người thực hành. Với những đòi hỏi của nguyên tắc này cho
thấy, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “phạm tội trong trường hợp bị kích
động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại”, là tình tiết thuộc
riêng của Mạnh, do vậy chỉ áp dụng đối với Mạnh. Còn Hải không có tình tiết
này nên không được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, trong quyết định hình phạt
Đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác, hình phạt mà TAND tỉnh Quảng Ninh quyết định áp dụng đối với
49
người bị kết án chủ yếu là hình phạt tù có thời hạn, không có vụ án nào quyết
định các hình phạt không tước tự do (cải tạo không giam giữ) mặc dù đối với
một số vụ án có đầy đủ căn cứ, điều kiện để áp dụng loại hình phạt này. Do vậy,
thực tiễn này chưa đáp ứng được một trong những phương hướng xử lý người
phạm tội được thể hiện trong Chiến lược cải cách tư pháp là:“tăng cường áp
dụng hình phạt không giam giữ… đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng
thiện trong việc xử lý người phạm tội” [7].
Đối với một số vụ án, mức phạt tù mà TAND tỉnh Quảng Ninh xử phạt bị
cáo chưa thật sự thỏa đáng và hoàn toàn phù hợp với tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, do chưa đánh giá đầy đủ các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
hoặc quá tùy nghi trong việc áp dụng khoản 2 Điều 46 để xác định những tình
tiết khác là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và ghi rõ trong bản án.
Dường như không có vụ án nào, TAND tỉnh Quảng Ninh áp dụng Điều 47
BLHS năm 1999 để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn
của điều luật, mặc dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy
định tại khoản 1 Điều 46, thậm chí có thêm cả những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999. Chẳng hạn,
trong vụ án Chìu Cắm Thành phạm tội cố ý gây thương tích trong trường hợp
dẫn đến chết người, mặc dù TAND tỉnh Quảng Ninh nhận định: “về tình tiết
giảm nhẹ: bị cáo có nhân thân tốt, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai
báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại
theo yêu cầu của gia đình bị hại. Nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy
định tại điểm b, p khoản 1 Điều 46 BLHS. Đồng thời cũng xét bị cáo là người
dân tộc thiểu số, sinh sống ở xã có điều kiên kinh tế đặc biệt khó khăn…” [46].
Ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm, luật sư bào chữa cho bị cáo còn cho biết
thêm: bị cáo phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự, có thời gian tham gia
quân đội, có thành tích trong chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, trong đấu
tranh phòng chống tội phạm ở địa phương, nhưng Tòa án sơ thẩm không xét
những tình tiết này để áp dụng điểm s khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 “Người
phạm tội có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công
50
tác” để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Vì vậy, luật sư bào chữa cho bị
cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng Điều 47 BLHS năm 1999 để xử
phạt bị cáo mức án dưới mức khởi điểm của khung hình phạt mà điều luật đã
quy định [8]. Song Tòa phúc thẩm cũng như Tòa sơ thẩm đều không áp dụng
Điều 47 để xử phạt bị cáo mức án dưới mức khởi điểm của khung hình phạt mà
điều luật quy định.
2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót
Những hạn chế, thiếu sót nêu trên là do những nguyên nhân khách quan
và chủ quan khác nhau, nhưng chủ yếu là những nguyên nhân sau:
+ Một là, nguyên nhân xuất phát từ những quy định của pháp luật, đó là
sự bất cập, hạn chế của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và pháp luật khác có
liên quan đến điều tra, truy tố, xét xử người phạm tội.
Trước hết, các quy định của BLHS năm 1999 cũng như BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) có liên quan đến việc giải quyết vụ án về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác vẫn còn những
hạn chế, bất cập nhất định. Cụ thể là:
+ BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) cũng như BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác có một số dấu hiệu thuộc cấu thành tội
phạm cơ bản giống một số tội phạm khác như: tội giết người (trong trường hợp
chỉ mới gây ra hậu quả thương tích); tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá
phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm
tội; tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi
thi hành công vụ… Mặt khác, khi quy định những tội danh này, nhà làm luật
không mô tả dấu hiệu hành vi gây thương tích và dấu hiệu hành vi gây tổn hại về
sức khỏe của người khác một cách cụ thể, rõ ràng để phân biệt giữa chúng.
Những hạn chế, bất cập này gây không ít khó khăn cho những người có thẩm
quyền áp dụng pháp luật hình sự trong việc định tội danh, đặc biệt là xác định
lỗi của người phạm tội đối với việc gây ra hậu quả chết người để kết luận là tội
giết người hay là tội cố ý gây thương tích hay gây tổn hại cho sức khỏe của
51
người khác dẫn đến chết người.
+ Mặt khác, đối với các tội xâm phạm sức khỏe của con người, các nhà
làm luật đều quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể đối với từng tội để làm ranh giới
giữa xử lý hành chính với xử lý hình sự như: đối với tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104 BLHS năm 1999 nay
là Điều 135 BLHS năm 2015), tỷ lệ tổn thương cơ thể phải từ 11% trở lên, nếu
dưới mức đó thì phải thuộc một trong các trường hợp có tình tiết làm tăng tính
nguy hiểm cho xã hội thì mới cấu thành tội phạm, mới xử lý hình sự hoặc đối
với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105 BLHS năm 1999 nay là Điều
135 BLHS năm 2015) thì tỷ lệ tổn thương cơ thể phải từ 31% trở lên mới xử lý
hình sự… Thêm vào đó, tỷ lệ tổn thương cơ thể còn được quy định là dấu hiệu
định khung ở các khoản 2, 3 của điều luật quy định những tội phạm này. Do vậy,
để áp dụng pháp luật được đúng đắn, cơ quan có thẩm quyền bắt buộc phải tiến
hành giám định pháp y để xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân và chỉ
khi tỷ lệ tổn thương cơ thể thực tế của nạn nhân đáp ứng tỷ lệ tổn thương cơ thể
mà luật định thì cơ quan tiến hành tố tụng hình sự mới khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử. Nhưng trên thực tế, do nhiều lý do mà nạn nhân từ chối giám định hoặc
giám định muộn nên không có căn cứ để khởi tố vụ án, dẫn tới để lọt tội phạm.
Có trường hợp, cơ quan có thẩm quyền giám định, kết quả giám định tỷ lệ tổn
thương cơ thể không chính xác phải trưng cầu giám định lại nhiều lần, làm cho
việc giải quyết vụ án bị kéo dài. Trong khi đó BLTTHS năm 2003 lại không quy
định chế tài bắt buộc đối với người bị hại (nạn nhân) trong trường hợp từ chối
giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể (như: bị dẫn giải, áp giải) mà chỉ quy định:
“Người bị hại… nếu từ chối khai báo mà không có lý do chính đáng thì có thể bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 BLHS” (Điều 51 BLTTHS năm
2003). Về phía cơ quan giám định, BLTTHS năm 2003 cũng không quy định cơ
quan này phải thực hiện yêu cầu giám định của cơ quan tiến hành tố tụng hình
sự trong thời hạn cụ thể. Chính vì vậy, việc giám định tỷ lệ thương tật thường bị
kéo dài nên khi có kết quả giám định thì đã qua thời hạn giải quyết, xử lý tin
báo, tố giác về tội phạm quy định tại Điều 103 BLTTHS năm 2003.
+ Ngoài ra, BLTTHS năm 2003 cũng như BLTTHS năm 2015 quy định
52
một số tội chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu của người bị hại, đó là
những tội quy định tại khoản 1 Điều 104, Điều 105, Điều 106, Điều 108, Điều
109 BLHS năm 1999 (nay là khoản 1 Điều 134, Điều 135, Điều 136, Điều 138
và Điều 139 BLHS năm 2015). Như vậy, theo quy định này, tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại khoản 1 Điều
104 BLHS năm 1999 (nay là khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015) là một trong
những tội chỉ được khởi tố vụ án khi có yêu cầu của người bị hại. Do pháp luật
quy định như vậy nên đối với trường hợp người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố
trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải đình chỉ. Điều này dẫn tới không
thể xử lý hình sự được hành vi phạm tội, gây khó khăn, phức tạp cho hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử vụ án, ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm.
+ Đối với việc ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật thì vẫn
còn tình trạng ban hành không kịp thời hoặc sử dụng những văn bản hướng dẫn
áp dụng một số quy định của BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999 đã hết hiệu
lực thi hành để xác định những vấn đề mới được quy định trong BLHS năm
2015. Một số nội dung giải thích, hướng dẫn áp dụng thì chưa thật cụ thể, rõ
ràng vẫn còn tình trạng chung chung… Điều đó làm cho việc áp dụng pháp luật
hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự để giải quyết vụ án về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (trong trường hợp
thông thường cũng như trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt) không
đảm bảo thống nhất. Chẳng hạn, Nghị quyết số 04/NQ- HĐTP ngày 29/11/1986
đến nay vẫn được áp dụng để giải thích một số tình tiết định tội, định khung hình
phạt được quy định trong BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015. Bên cạnh đó,
trong BLHS còn nhiều quy định đòi hỏi phải có sự giải thích, hướng dẫn nhưng
vẫn chưa được hướng dẫn áp dụng, gây khó khăn, vướng mắc cho TAND trong
việc định tội danh và quyết định hình phạt.
+ Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật còn hạn chế, mang
tính hình thức; kinh phí cho hoạt động này chưa thật sự thỏa đáng. Trong tổng
số các vụ án hình sự mà TAND tỉnh Quảng Ninh xét xử có 636 vụ được xét xử
theo loại án điểm hoặc xét xử lưu động tại địa phương nơi xảy ra tội phạm nhằm
tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân, nhưng kết quả đạt
53
được không cao, bởi chưa thực sự tạo điều kiện để người dân tiếp cận với pháp
luật, nâng cao ý thức pháp luật, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là
phát huy vai trò, trách nhiệm tố giác tội phạm, cung cấp tài liệu, chứng cứ cho
các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự giải quyết kịp thời vụ án.
Hai là, nguyên nhân xuất phát từ cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng
pháp luật hình sự trong việc giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Ngoài nguyên nhân xuất phát từ những quy định của pháp luật nêu trên,
thì những hạn chế, thiếu sót trong việc áp dụng pháp luật hình sự nói chung,
trong định tội danh và quyết định hình phạt nói riêng còn có những nguyên nhân
từ phía cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng pháp luật hình sự. Cụ thể là:
+ Một số người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng chưa nhận
thức đúng, thống nhất về các tình tiết (dấu hiệu) định tội, định khung hình phạt
của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Điều
đó dẫn tới việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội phạm này thiếu
chính xác, chưa thật sự “tâm phục, khẩu phục”
+ Đội ngũ cán bộ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân chưa thật sự ổn định và
chuyên nghiệp. Trình độ, kỹ năng xét xử của đội ngũ này tuy đã được nâng lên
đáng kể, nhưng chưa ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cải cách tư pháp, nhất là
chưa thực sự đồng đều, còn thiếu những chuyên gia giỏi trong việc giải quyết
từng loại án cụ thể. Kiến thức về xã hội, trình độ ngoại ngữ, khả năng vận dụng
khoa học – công nghệ hiện đại, tiên tiến trong hoạt động công vụ của đội ngũ
cán bộ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân còn hạn chế nhiều mặt. Điều đó ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả xét xử.
+ Do tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và
hội nhập quốc tế, một số cán bộ có thẩm quyền giải quyết vụ án còn có biểu hiện
tiêu cực như: thiếu trách nhiệm trong thực thi công vụ, chưa thật sự chí công, vô
tư, thật sự khách quan và chỉ tuân theo pháp luật khi giải quyết vụ án, cá biệt
còn có trường hợp vi phạm đạo đức công vụ, nghề nghiệp, vi phạm pháp luật
trong quá trình giải quyết vụ án. Hiện tượng “chạy án” ở nơi này, nơi khác tại
địa phương đôi khi vẫn còn xảy ra. Những hạn chế thuộc chủ thể nêu trên đã tác
động rất lớn đến chất lượng áp dụng pháp luật hình sự, làm cho việc giải quyết
54
vụ án chưa thiếu khách quan, đúng đắn.
+ Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, tổng kết rút kinh nghiệm trong
điều tra, truy tố, xét xử, nhất là trong định tội danh và quyết định hình phạt chưa
được tiến hành thường xuyên, định kỳ, đột xuất, đôi khi còn mang tính hình
thức. Do vậy, chưa kịp thời có những biện pháp khắc phục những khó khăn
vướng mắc cũng như những hạn chế, thiếu sót trong quá trình giải quyết vụ án,
chưa rút ra được những kinh nghiệm xét xử để phổ biến rộng rãi và nếu đủ điều
kiện thì xây dựng thành án lệ.
+ Công tác phối, kết hợp giữa các cơ quan, người tiến hành tố tụng hình
sự trong quá trình giải quyết vụ án tuy đã được chú ý, nhưng chưa thật sự chặt
chẽ; nội dung, hình thức phối hợp chưa cụ thể, rõ ràng. Trong một số trường
hợp, việc phối hợp giữa các cơ quan và người tiến hành tố tụng hình sự chưa
thật sự tích cực, chủ động, kịp thời, nhịp nhàng, thậm chí vẫn còn biểu hiện
“quyền anh, quyền tôi” trong việc giải quyết vụ án. Do vậy, chưa phát huy được
thế mạnh của mỗi chủ thể cũng như sức mạnh tổng hợp của các cơ quan và
người tiến hành tố tụng hình sự để làm rõ sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo
việc giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội.
+ Việc đầu tư kinh phí, phương tiện công tác (nhất là phương tiện khoa
học – công nghệ hiện đại, nhất là phương tiện khoa học kỹ thuật hình sự cho các
cơ quan tiến hành tố tụng hình sự còn khiêm tốn, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn
đặt ra; chế độ, chính sách ưu đãi chưa thật sự đảm bảo cho các bộ yên tâm công
tác và hạn chế tiêu cực không đáng có .v.v
Tiểu kết chương 2
Chương 2 của luận văn tập trung phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự, nhất là hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt của
TAND tỉnh Quảng Ninh trong xét xử các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Kết quả nghiên cứu chương này cho
thấy, công tác xét xử của TAND tỉnh Quảng Ninh trong những năm qua (2014 –
2018) đã đạt được nhiều kết quả tích cực, đáp ứng yêu cầu xử lý tội phạm và
người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
55
khác, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội, góp phần không nhỏ vào cuộc đấu tranh phòng,
chống tội phạm này ở địa phương, tạo nên môi trường xã hội ổn định về an ninh
trật tự, an toàn về tính mạng, sức khỏe của con người.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động áp dụng pháp luật
hình sự nói chung, định tội danh và quyết định hình phạt nói riêng trong giải
quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại về sức khỏe của người
khác gặp không ít khó khăn, vướng mắc cũng như vẫn còn những hạn chế, thiếu
sót nhất định cần có những biện pháp khắc phục.
Những hạn chế, thiếu sót này là do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ
quan khác nhau, trong đó có những nguyên nhân là do những hạn chế, bất cập
trong các quy định của pháp luật, thậm chí có những nguyên nhân xuất phát từ
chủ thể áp dụng pháp luật hình sự, nhất là đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân.
Những kết quả nghiên cứu ở chương này là cơ sở thực tế quan trọng để
xây dựng các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự
trong quá trình giải quyết các vụ án về loại tội phạm này trong thời gian tới.
56
Chương 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
3.1. Yêu cầu
Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nói chung, định tội danh và quyết
định hình phạt để giải quyết vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác nói riêng là hoạt động thực tiễn pháp lý, mang tính quyền
lực nhà nước, có ý nghĩa chính trị - xã hội và pháp lý sâu sắc, tác động đến
quyền con người. Do vậy, trong mọi trường hợp, việc áp dụng pháp luật hình sự
phải đáp ứng các yêu cầu có tính nguyên tắc mà thực tiễn đặt ra.
Trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị, xã hội (đặc biệt là tình hình tội
phạm) ở nước ta hiện nay, chúng tôi cho rằng hoạt động áp dụng pháp luật hình
sự, nhất là định tội danh và quyết định hình phạt cần đáp ứng các yêu cầu sau:
3.1.1. Yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân
Ở nước ta hiện nay, việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân là mục
tiêu nhất quán, xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Các quyền con người, quyền
công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn
trọng và bảo vệ, đảm bảo theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 14).
Để thể chế hóa Hiến pháp, BLHS năm 2015 và BLTTHS năm 2015 khi
xác định nhiệm vụ của Bộ luật đều quy định việc bảo vệ quyền con người,
quyền công dân là một trong những nhiệm vụ mà các cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự phải thực hiện khi điều tra, truy tố, xét xử người bị buộc tội.
Trong những năm qua, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự, nhất là của TAND trong phạm vi cả nước cũng
như ở từng địa phương (trong đó có tỉnh Quảng Ninh) đã có những kết quả thiết
thực trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, vẫn còn
những tồn tại, hạn chế nhất định ảnh hưởng đến quyền còn người, quyền công
dân, đặc biệt là trong việc bắt, giam giữ, khám xét, dùng nhục hình, bức cung
người bị buộc tội. Tình trạng xét xử oan, sai, xét sử chưa thực sự đúng người,
57
đúng tội, đúng pháp luật ở nơi này, nơi khác vẫn còn xảy ra. Những hạn chế, sai
sót này mặc dù không đáng kể nhưng đã ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến quyền
con người, gây bức xúc trong xã hội. Một số phần tử chống đối ở trong và ngoài
nước đã lợi dụng những hạn chế, tiêu cực đó để thổi phồng, bóp méo, xuyên tạc
thậm chí vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền nhằm chống Đảng và Nhà nước
ta. Vì vậy, việc bảo vệ và đảm bảo quyền con người nói chung, quyền của người
bị buộc tội nói riêng trong hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, nhất là áp dụng
hình phạt cũng như các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự cần phải được quan
tâm đặc biệt ở góc độ bảo vệ quyền con người.
Để bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội, trong quá trình áp dụng
pháp luật hình sự để giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền, trong đó
TAND phải đảm bảo khách quan, toàn diện, kết hợp hài hòa giữa trừng trị với
khoan hồng, với giáo dục, cải tạo, cảm hóa người phạm tội; đáp ứng yêu cầu
hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, đề cao hiệu quả phòng ngừa tội
phạm. Hình phạt mà TAND tuyên phạt bị cáo phải phù hợp với tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các
tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự có trong vụ án, đồng thời phải
phù hợp với khả năng thi hành của người bị kết án, đảm bảo mục đích phòng
ngừa riêng và phòng ngừa chung của hình phạt.
Bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong áp dụng pháp
luật hình sự xử lý người bị buộc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác không chỉ là yêu cầu mà còn là mục tiêu, động lực thúc
đẩy hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của cơ quan, người tiến hành tố tụng
hình sự, nhất là của TAND trong định tội danh và quyết định hình phạt đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo đảm công lý, công bằng xã hội.
3.1.2. Yêu cầu cải cách tư pháp
Cải cách tư pháp là một trong những nội dung quan trọng trong đường lối
đổi mới toàn diện đất nước của Đảng và Nhà nước ta.
Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW này 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra mục tiêu của cải cách tư pháp là :
“Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
58
công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam
XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có
hiệu quả và hiệu lực cao” [7]. Để đạt được mục tiêu này, Nghị quyết đã đề ra
phương hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp, trong đó có những phương hướng,
nhiệm vụ trở thành yêu cầu cần quán triệt trong hoạt động áp dụng pháp luật để
giải quyết vụ án hình sự nói chung, vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng. Những phương hướng, nhiệm vụ
này liên quan đến cả chủ thể, trình tự, thủ tục, cả nội dung áp dụng pháp luật
hình sự.
Trước hết, về phương hướng cải cách tư pháp, Nghị quyết số 49 –
NQ/TW và Kết luận số 92 – KL/TW của Bộ Chính trị nhấn mạnh:
“1. Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự… phù hợp với nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp
theo hướng kế thừa những ưu điểm của mô hình tố tụng thẩm vấn và tiếp thu có
chọn lọc những yếu tố tiến bộ của mô hình tố tụng tranh tụng, đảm bảo tính
đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người;
kết hợp chặt chẽ việc đổi mới thủ tục tố tụng tư pháp với việc cải cách thủ tục
hành chính tư pháp phù hợp với hoạt động tư pháp.
2. Tổ chức hệ thống các cơ quan tư pháp, luật sư và các chế định bổ trợ
tư pháp theo hướng hợp lý, khoa học, hiện đại, hiệu quả. Toà án nhân dân là cơ
quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, có vị
trí trung tâm của hoạt động tư pháp và xét xử là hoạt động trọng tâm…
3. Xây dựng, kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, luật
sư, bổ trợ tư pháp. Xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, tiêu chuẩn
chính trị, đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã
hội đối với từng loại cán bộ. Đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp
luật của từng chức danh tư pháp. Từng bước thực hiện chế độ thi tuyển đối với
một số chức danh tư pháp.
4. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng mô hình tổ
chức Đảng trong các cơ quan tư pháp phù hợp với tổ chức TAND và VKSND
bốn cấp theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, nâng
59
cao chất lượng đảng viên trong các cơ quan tư pháp; phát huy vai trò giám sát
của các cơ quan dân cử, của công luận và của nhân dân đối với hoạt động tư
pháp” [3].
Xuất phát từ những phương hướng trên, Nghị quyết số 49-NQ/TW đã đề
ra các nhiệm vụ cải cách tư pháp:
“1. Hoàn thiện pháp luật hình sự, đề cao hiệu quả phòng ngừa, tính nhân
đạo, hướng thiện và bảo vệ quyền con người trong việc xử lý người phạm tội.
Hạn chế việc áp dụng hình phạt tử hình; giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng
hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số tội phạm…
Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm. Quy định
là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế. Đồng
thời rà soát loại bỏ một số hành vi tội phạm đã được quy định trong BLHS nay
không còn là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là
người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức vụ, quyền
hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác…
Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn
của các chức danh tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng
quyền và trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán để họ chủ
động và có đủ điều kiện trong thực hiện nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu
trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình.
Hoàn thiện pháp luật về tạm giữ, tạm giam, hạn chế và thu hẹp các trường hợp
áp dụng biện pháp tạm giam; thu hẹp người có thẩm quyền quyết định việc áp
dụng biện pháp tạm giam.
Xây dựng cơ chế thực hiện có hiệu quả trên thực tế chủ trương tăng
cường nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, bảo đảm vai trò, trách
nhiệm của luật sư và kiểm sát viên trong hoạt động tranh tụng…
Thực hiện công khai hóa các bản án; trừ bản án hình sự về tội xâm phạm
an ninh quốc gia hoặc liên quan đến thuần phong, mỹ tục. Xây dựng cơ chế bảo
đảm mọi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực phải được thi hành.
60
2. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức,
bộ máy của các cơ quan tư pháp; chế định luật sư;
3. Hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp;
4. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững
mạnh;
5. Hoàn thiện cơ chế giám sát của cơ quan dân cử và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân đối với cơ quan tư pháp.
6. Tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp” [7].
TAND là một thiết chế trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, là cơ
quan xét xử của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có thẩm quyền áp dụng
pháp luật hình sự để giải quyết các vụ án hình sự, trong đó có vụ án về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Do vậy, TAND
luôn phải quán triệt những phương hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp nhằm bảo
vệ công lý, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân, đấu tranh phòng,
chống tội phạm có hiệu quả.
3.1.3. Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, tạo môi trường xã hội
ổn định, an toàn, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
Hiện nay do nhiều nguyên nhân khác nhau, đặc biệt là sự tác động của
mặt trái nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, tình hình tội phạm trong
phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương có mức độ xảy ra ngày càng cao,
diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng. Phân tích số liệu thống kê tội phạm
của VKSNDTC cho thấy, trong cơ cấu tình hình tội phạm, thì nhóm các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người có tỷ phần đứng
hàng thứ tự trong các nhóm tội xảy ra phổ biến ở nước ra. Trong tổng số các tội
phạm xâm phạm đến con người, thì tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của con người có tỷ lệ cao nhất.
Ở địa bàn tỉnh Quảng Ninh, theo số liệu thống kê của TAND tỉnh cho
thấy, từ năm 2014 đến năm 2018 có tổng số 635 vụ với 998 bị cáo phạm tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Trung bình mỗi
năm ở giai đoạn này có khoảng 127 vụ với 199 bị cáo bị TAND thụ lý xét xử về
tội phạm này. Thực trạng này đặt ra yêu cầu phải tăng cường đấu tranh phòng,
61
chống loại tội phạm này đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó có
TAND.
Để góp phần đấu tranh phòng, chống có hiệu quả tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì việc xử lý tội phạm, nhất là
việc định tội danh phải đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để
lọt tội phạm, đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện kịp thời, xử lý
nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật. Hình phạt mà TAND quyết định
áp dụng đối với người bị kết án phải góp phần đạt được mục đích phòng ngừa
riêng và phòng ngừa chung của hình phạt.
Việc áp dụng pháp luật hình sự để đấu tranh phòng, chống tội phạm có
hiệu quả không ngoài mục đích tạo môi trường xã hội ổn định, thuận lợi cho sự
phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước và xã hội. Do vậy, khi áp dụng pháp luật hình sự xử lý tội
phạm, TAND phải tính toán, xem xét để làm sao hoạt động đó không tác động
tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội, đến việc bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, cũng như lợi ích quốc gia, dân tộc, nhưng vẫn đáp ứng được
yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.
3.1.4. Yêu cầu hội nhập quốc tế
Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, thì hội nhập quốc tế là một vấn đề
tất yếu khách quan đối với nước ta. Đảng ta xác định “Hội nhập quốc tế là định
hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hội nhập quốc tế trên cơ
sở phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực; hội nhập kinh tế là trọng tâm,
hội nhập các lĩnh vực khác từng bước mở rộng; nghiêm chỉnh tuân thủ các cam
kết quốc tế đi đôi với chủ động, tích cực tham gia xây dựng, thực hiện các chuẩn
mực chung bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc” [15, tr. 132].
Trong lĩnh vực tư pháp, Đảng và Nhà nước ta chủ trương: “Tăng cường
củng cố và tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp với
các nước. Tổ chức thực hiện tốt các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta đã ký kết
hoặc tham gia. Tiếp tục ký hiệp định tương trợ tư pháp với các nước khác, trước
hết là các nước láng giềng, các nước trong khu vực, các nước có quan hệ truyền
thống, các nước có đông người Việt Nam sinh sống. Tăng tường phối hợp chung
trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm có yếu tố quốc tế và khủng bố
62
quốc tế với các tổ chức INTERPOL, ASEANPOL,… , với cảnh sát các nước láng
giềng và khu vực, với cảnh sát một số quốc gia có nhiều công dân Việt Nam sinh
sống, lao động, học tập” [3, tr. 33 -34].
Quán triệt chủ trương đó, đến nay Nhà nước ta đã ký kết hoặc tham gia
nhiều công ước quốc tế về đấu tranh phòng, chống tội phạm, điển hình là : 03
công ước của Liên hợp quốc về chống ma túy; 9/13 công ước của Liên hợp quốc
về chống khủng bố; công ước quốc tế về chống tham nhũng, chống rửa tiền,
buôn bán người, công ước quốc tế về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.
v.v. Đặc biệt là năm 2013, Việt Nam đã tham gia Công ước quốc tế về chống
tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục
con người của Liên hợp quốc. Ngoài ra, Việt Nam còn ký kết nhiều hiệp định
tương trợ tư pháp hình sự với các nước trên thế giới, hiệp định dẫn độ tội phạm,
hiệp định chuyển giao phạm nhân bị kết án phạt tù... với các nước láng giềng,
các nước trong khu vực và các nước có nhiều người Việt Nam sinh sống, học
tập, lao động. Với tư cách là quốc gia thành viên tham gia các công ước quốc tế
nêu trên, Việt Nam đã tích cực nội luật hóa các yêu cầu về đấu tranh phòng,
chống tội phạm quốc tế, tội phạm khủng bố, tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia, tội phạm ma túy, rửa tiền, buôn bán người, tội phạm tham nhũng… trong
BLHS cũng như các luật chuyên ngành về đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Những yêu cầu này không chỉ đòi hỏi đối với hoạt động lập pháp mà còn đối với
hoạt động áp dụng pháp luật đấu tranh phòng, chống tội phạm. Do vậy, trong
quá trình áp dụng pháp luật hình sự, cũng như trong quyết định hình phạt, xử lý
người phạm tội, TAND phải quán triệt các yêu cầu về hợp tác quốc tế đấu tranh
phòng, chống tội phạm, đặc biệt là yêu cầu của Công ước quốc tế về chống tra
tấn và các hình thức trừng phạt vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người của Liên
hợp quốc để vừa đảm bảo áp dụng đúng pháp luật Việt Nam, vừa đáp ứng được
các yêu cầu của pháp luật quốc tế.
3.2. Các giải pháp
Cùng với việc quán triệt các yêu cầu trên, để đảm bảo áp dụng đúng quy
định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác, cần áp dụng đồng bộ các nhóm giải pháp cơ bản sau đây:
63
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự
Thứ nhất, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung quy định của BLHS hiện hành về
tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134).
Mặc dù BLHS năm 2015 nói chung, Điều 134 nói riêng đã được sửa đổi
bổ sung năm 2017, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2018 nhưng qua hơn một năm
áp dụng đã bộc lộ những bất cập, hạn chế nhất định gây khó khăn, vướng mắc
cho thực tiễn áp dụng, cụ thể là:
- Tại Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), nhà làm
luật không mô tả cụ thể, rõ ràng dấu hiệu hành vi cố ý gây thương tích và hành
vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng như hậu quả của hai hành vi
này, nên việc nhận thức và đánh giá chưa được thống nhất và chính xác. Người
nghiên cứu cho rằng, xét về bản chất thì đây là hai hành vi khác nhau, mặc dù
cách thức thực hiện trên thực tế có thể như nhau (như: đấm, đá, bóp cổ, đầu độc
bằng thuốc độc...), tuy nhiên, hậu quả do hai hành vi này gây ra cho nạn nhân là
khác nhau: hậu quả của hành vi cố ý gây thương tích là hậu quả thương tích để
lại cố tật trên cơ thể nạn nhân, còn hậu quả của hành vi cố ý gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác là hậu quả tổn hại về sức khỏe không để lại cố tật trên cơ
thể nạn nhân (chẳng hạn, đá vào bụng nạn nhân dẫn tới xảy thai)… Đồng thời,
với kỹ thuật lập pháp thể hiện hai hành vi này tại Điều 134 BLHS năm 2015 cho
thấy, đây là trường hợp một điều luật quy định hai tội phạm khác nhau, do có
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội tương đương nhau. Đối với trường hợp
này, phải căn cứ vào hành vi thực tế mà người phạm tội thực hiện là hành vi
nào: cố ý gây thương tích hay cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác để
định tội danh tương ứng, tránh tình trạng lấy tên của điều luật để xác định tội
danh cho trường hợp một người chỉ thực hiện một trong hai hành vi nêu trên. Do
vậy, người nghiên cứu cho rằng cần mô tả cụ thể dấu hiệu hành vi và hậu quả
của hai tội phạm này trong điều luật, hoặc tách thành hai tội độc lập quy định ở
các điều luật khác nhau để bảo đảm định tội danh cũng như quyết đình hình phạt
được chính xác, thống nhất.
- Về trường hợp tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% quy định tại khoản 1
Điều 134 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Khoản 1 Điều 134 quy định
“trường hợp tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% nhưng thuộc một trong các
64
trường hợp được quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k thì người có hành
vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phải bị xử lý
hình sự”. Theo chúng tôi, quy định này chưa thực sự hợp lý và phù hợp với thực
tế. Bởi nếu theo quy định của khoản 1, Điều 134 thì trường hợp một người cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân với tỷ lệ tổn thương
cơ thể chỉ 1% hoặc 2%, 3%, nhưng thuộc một trong những trường hợp quy định
tại các điểm từ a đến k khoản 1 Điều 134 BLHS thì vẫn phải chịu trách nhiệm
hình sự vì tỷ lệ tổn thương cơ thể trong trường hợp này đều dưới 11%. Chúng
tôi cho rằng, việc xử lý hình sự đối với trường hợp này là không cần thiết, gây
tốn kém cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thậm chí có thể làm tăng mâu thuẫn
trong nội bộ quần chúng nhân dân. Do vậy, chúng tôi hoàn toàn đồng ý với quan
điểm cho rằng: “Trường hợp này có thể áp dụng khoản 2 Điều 8 BLHS năm
2015 (trước đây là khoản 4 Điều 8 BLHS năm 1999) để coi đây là hành vi tuy có
dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội không
đáng kể và xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc thông qua hòa giải”. Mặt
khác, để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm này, mà cần thiết
phải xử lý hình sự thì nên quy định mức tối thiểu về tỷ lệ tổn thương cơ thể đối
với trường hợp tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11%, cụ thể là từ 5% đến dưới
11%” [34, tr. 58]. Do vậy, khoản 1 Điều 134 BLHS 2015 cần sửa đổi như sau:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
con người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến dưới 30% hoặc từ 5%
đến dưới 11% nhưng thuộc trường hợp sau đây, thì bị phạt…”.
Quy định như vậy sẽ không chỉ có tác dụng hạn chế việc truy cứu trách
nhiệm hình sự trong một số trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại về sức
khỏe cho người khác có mức độ tổn thương không đáng kể, mà còn giúp phân
biệt trường hợp này với trường hợp phạm tội chống người thi hành công vụ
(Điều 330 BLHS năm 2015).
- Về vấn đề trách nhiệm hình sự của người chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ,
hung khí nguy hiểm, a –xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc
tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác quy định tại khoản 6 Điều 134 cũng phải xem xét sửa đổi phù
hợp. Bởi theo quy định tại khoản 1 đến khoản 5 Điều 134, thì hành vi gây
65
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chỉ cấu thành tội
phạm và bị xử lý hình sự nếu gây hậu quả thương tật hoặc hậu quả tổn hại về
sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% trở lên; Trường hợp tỷ lệ tổn
thương cơ thể dưới 11% thì phải có một trong những tình tiết bổ sung làm tăng
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hôi của hành vi mới xử lý hình sự. Như vậy,
đối với tội phạm này, hậu quả là dấu hiệu bắc buộc để định tội và định khung
hình phạt, nghĩa là phải có hậu quả thương tật hoặc tổn hại về sức khỏe xảy ra
với tỷ lệ tổn thương cơ thể mà luật định mới xử lý hình sự. Trong khi đó, người
mới có hành vi chuẩn bị phạm tội quy định tại khoản 6 Điều 134 BLHS năm
2015 hoàn toàn chưa gây ra hậu quả thương tật hoặc tổn hại cho sức khỏe của
bất kỳ ai thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự và có thể bị phạt cải tạo không
giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Do vậy, có ý kiến
cho rằng: “Đây là điều bất hợp lý và dễ nhầm lẫn sang tội tàng trữ trái phép vũ
khí quân dụng (Điều 304); tội tàng trữ trái phép vật liệu nổ (Điều 305); tội tàng
trữ trái phép vũ khí thô sơ ( Điều 306)” [48, tr. 5].
Mặc dù khoản 6 Điều 134 BLHS năm 2015 có giới hạn những trường hợp
chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự, gồm chuẩn bị a – xít nguy
hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc có hành vi thành lập hoặc tham gia nhóm tội
phạm, nhưng lại mâu thuẫn với quy định tại Điều 14 khoản 2 vì điều khoản này
không giới hạn các trường hợp chuẩn bị phạm tội cụ thể này phải chịu trách
nhiệm hình sự, nghĩa là mọi trường hợp chuẩn bị phạm tội đều phải chịu trách
nhiệm hình sự. Ngoài ra, khoản 6 còn mâu thuẫn với khoản 1 Điều 134 BLHS
năm 2015. Do có sự mâu thuẫn này mà có quan điểm cho rằng: “Không nên quy
định và xử lý tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác ở giai đoạn chuẩn bị” [17, tr. 11 -12]. Nhưng quan điểm khác thì lại cho
rằng: “Nên quy định và xử lý tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội” [17, tr. 37-39]. Chúng tôi
ủng hộ quan điểm này vì có cơ sở lý luận, thực tiễn và pháp lý. Tuy nhiên, để
khắc phục sự mâu thuẫn giữa quy định tại khoản 2 Điều 14 với khoản 6 Điều
134 cần sửa đổi khoản 1 và khoản 2 Điều 14 bằng cách thêm cụm từ “trừ trường
hợp quy định tại khoản 6 Điều 134”, còn khoản 2 bổ sung cụm từ “khoản 6
Điều 134”.
66
- Một số tình tiết định tội, định khung hình phạt quy định tại Điều 134 còn
có tính chất định tính, chưa cụ thể, rõ ràng, minh bạch nên khó áp dụng thống
nhất trong thực tiễn. Do vậy, để có cơ sở xác định chính xác và áp dụng thống
nhất các tình tiết này, cơ quan có thẩm quyền cần kịp thời ra văn bản hướng dẫn
thi hành.
Mặc dù, đa số những tình tiết định tội quy định từ điểm a đến điểm k
khoản 1 Điều 134 tương ứng với những tình tiết được quy định từ điểm a đến
điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999 đã được hướng dẫn ở một số văn bản
của cơ quan có thẩm quyền. Chẳng hạn, tình tiết quy định tại điểm a “Dùng vũ
khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại
cho nhiều người” hoặc điểm d “đối với ông, bà, cha, mẹ thầy cô giáo mình” đã
được hướng dẫn tại khoản 3 Nghị quyết số 01/2006/NQ – HĐTP ngày
12/5/2006. Những nội dung hợp lý trong những hướng dẫn trước đây của Hội
đồng thẩm phán TANDTC cần được kế thừa trong những hướng dẫn mới. Tuy
nhiên, tại khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 còn một số tình tiết mới hoặc
trước đây chưa được hướng dẫn, đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban
hành văn bản giải thích, hướng dẫn để các chủ thể có thẩm quyền nhận thức và
áp dụng thống nhất. Trước mắt, cần sớm ban hành giải thích, hướng dẫn về các
tình tiết “A-xít nguy hiểm”, “Người già yếu, ốm đau”, “Người chữa bệnh cho
mình”, “Thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm”, “phạm tội có tính chất côn
đồ...”. Nghiên cứu một số văn bản pháp luật có liên quan, chúng tôi thấy có một
số tình tiết tại khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015, ở một chừng mực nhất định
đã được giải thích. Ví dụ: tình tiết “hóa chất” đã được giải thích và quy định cụ
thể tại Điều 4 của Luật Hóa chất năm 2007, hoặc “người già” về độ tuổi đã
được giải thích tại Pháp lệnh người cao tuổi... nhưng loại hóa chất cụ thể nào là
hóa chất nguy hiểm; hoặc người như thế nào là người già yếu, ốm đau, để phân
biệt với người già khỏe, không trong tình trạng đau ốm. Tương tự như vậy, việc
xác định tình tiết “người chữa bệnh cho mình” được xem xét ở thời điểm, mức
độ bệnh tật như thế nào là người “đang” hay “đã” chữa bệnh cho người phạm
tội, chữa bệnh nội trú tại bệnh viện hay chữa ngoại trú tại gia đình và những loại
bệnh gì thì thuộc phạm vi quy định này… Việc xác định những vấn đề này nếu
không được hướng dẫn cụ thể sẽ dẫn đến tình trạng nhận thức và áp dụng không
67
thống nhất.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS năm 2015 có liên
quan đến việc giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác, cụ thể là:
- Theo quy định của Điều 155 BLTTHS năm 2015, có 10 tội quy định tại
khoản 1 các điều: Điều 134, 135, 136, 138, 139,141, 143, 155, 156, và 226 của
BLHS, trong đó có tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác (Khoản 1 Điều 134), thì cơ quan có thẩm quyền chỉ được khởi tố vụ
án hình sự về những tội phạm này khi có yêu cầu của người bị hại hoặc người
đại diện của người bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tinh
thần, thể chất hoặc đã chết. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì
vụ án phải bị đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút
yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức và trong trường
hợp này tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án [21, tr. 294].
Đối với quy định này, có ý kiến cho rằng: “Điều này ảnh hưởng lớn đến
việc giải quyết vụ án bị kéo dài, không đúng quy định của pháp luật, dẫn tới
nhiều trường hợp không thể chứng minh được nên không thể xử lý được hành vi
phạm tội, bỏ lọt tội phạm, gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử,
ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm”. [21, tr.57] Với quan
niệm như vậy, nên những người theo quan điểm này đề xuất: “Bỏ các quy định
khởi tố theo yêu cầu của người bị hại đối với các tội quy định tại khoản 1 của
các điều luật đã được liệt kê” [21, tr 60]. Theo chúng tôi không cần bỏ quy định
của Điều 155 BLTTHS về khởi tố theo yêu cầu của người bị hại đối với tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại
khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015. Bởi thực tế cho thấy, những trường hợp gây
thương tích, hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân chưa đến mức nghiêm
trọng quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015, đặc biệt là trường hợp
nạn nhân là người ruột thịt, thân thích của người phạm tội thì người bị hại (nạn
nhân) thường không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự để đảm bảo hạnh phúc, tình
cảm gia đình, bạn bè, đạo lý con người… Mặt khác, có một số trường hợp giữa
người gây thương tích và nạn nhân lại thỏa thuận với nhau về bồi thường dân sự
68
và nếu mức bồi thường thỏa đáng thì người bị hại cũng không yêu cầu khởi tố
hoặc đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thì họ tự nguyện rút yêu cầu. Để tôn trọng
quyền tự định đoạt của người bị hại và đảm bảo hài hòa về mặt lợi ích của các
bên và hạn chế những mâu thuẫn không đáng có trong đời sống xã hội thì không
cần bỏ quy định về khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 155
BLTTHS năm 2015.
- Sửa đổi, bổ sung biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự đối với trường
hợp người bị hại từ chối hoặc cản trở giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể không vì
lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan quy định tại khoản 4 Điều 62
BLTTHS năm 2015. Lý do kiến nghị sửa đổi, bổ sung vấn đề này là vì, theo quy
định của pháp luật, nếu chưa có kết luận của cơ quan giám định pháp y về tỷ lệ
tổn thương cơ thể thì không có căn cứ để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử người
bị buộc tội. Mặc dù vậy, trên thực tế có nhiều trường hợp người bị hại từ chối
giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể mà không có lý do chính đáng, dẫn đến không
có căn cứ để giải quyết vụ việc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác đã xảy ra. Do vậy, để khắc phục vấn đề này, chúng tôi kiến nghị
sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 62 BLTTHS năm 2015 như sau:
“4. Người bị hại có nghĩa vụ:
a) Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền, trường hợp cố ý
vắng mặt hoặc từ chối, cản trở việc giám định không vì lý do bất khả kháng
hoặc trở ngại khách quan, thì có thể bị dẫn giải hoặc phải chịu trách nhiệm hình
sự theo Điều 382 BLHS”.
Nếu không sửa đổi, bổ sung như vậy thì không có căn cứ khởi tố vụ án
hình sự hoặc việc giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác bị kéo dài, gây khó khăn cho hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử vụ án.
3.2.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của Bộ luật hình sự
hiện hành về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác
Để đảm bảo áp dụng đúng quy định của BLHS năm 2015 về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, theo người nghiên
cứu, cần áp dụng đồng bộ các giải pháp sau:
69
3.2.2.1. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề
nghiệp cho những người có thẩm quyền áp dụng pháp luật hình sự giải quyết vụ
án
Trong Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cũng như trong Báo cáo tổng
kết 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49 – NQ/TN ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị về Chiến lược này có đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và
bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh theo hướng đề cao quyền hạn và trách
nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo
đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại
cán bộ… [21, tr. 3]. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, cần phải làm tốt các công
việc sau:
Một là, đối với đội ngũ thẩm phán
Trước tiên, cần hoàn thiện tiêu chí, điều kiện, quy trình bổ nhiệm thẩm
phán. Mặc dù vấn đề này đã được quy định tương đối chặt chẽ trong Luật Tổ
chức TAND năm 2014, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cũng như
một số văn bản pháp luật khác, nhưng kết quả tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán
vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn xét xử. Ở một
vài địa phương; việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán chủ yếu là chỉ quan tâm
đến số lượng, ít chú ý đến chất lượng. Vấn đề tổ chức thi tuyển để chọn người
bổ nhiệm thẩm phán tuy đã được triển khai, nhưng vẫn mang tính hình thức,
không có tính cạnh tranh cao. Một số điều kiện để được bổ nhiệm Thẩm phán
được quy định trong luật chưa cụ thể, rõ ràng, còn chung chung và rất khó đánh
giá. Chẳng hạn, khoản 3 Điều 68 Luật Tổ chức TAND năm 2014 có quy định
một trong những điều kiện để bổ nhiệm Thẩm phán là “có năng lực xét xử”. Vậy
như thế nào là “có năng lực xét xử” thì việc đánh giá chưa có sự thống nhất,
dẫn tới có trường hợp Thẩm phán được bổ nhiệm không đáp ứng được yêu cầu
“có năng lực xét xử”.
- Vấn đề tiếp theo không kém phần quan trọng là tiếp tục đổi mới nội
dung, phương thức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, kỹ năng xét xử, đạo đức công vụ cho đội ngũ Thẩm phán. Tại báo cáo tổng
kết 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49 – NQ/TW của Bộ chính trị đã nhấn mạnh:
70
“ Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ
nguồn của các chức danh tư pháp (trong đó có Thẩm phán), bổ trợ tư pháp.
Thường xuyên bồi dưỡng cán bộ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới
về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực
tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong sáng, có bản lĩnh dũng cảm đấu tranh vì công
lý, bảo vệ pháp chế XHCN, tôn trọng và bảo vệ quyền con người” [1, tr. 32].
Đây là một chủ trương hết sức đúng đắn, bởi cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp nói
chung, đội ngũ thẩm phán nói riêng là những chủ thể có thẩm quyền áp dụng
pháp luật hình sự trong việc giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Nếu trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
kỹ năng nghề nghiệp hạn chế, đạo đức công vụ yếu kém…thì sẽ ảnh hưởng đến
chất lượng, hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết đúng đắn vụ án.
Mặc dù vậy, trong một thời gian dài, công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên
môn, nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm phán nói riêng, cán bộ tư pháp nói chung
chưa được chú trọng đúng mức. Phương thức đào tạo chủ yếu trang bị kiến thức
cơ bản mang tính lý luận, ít chú ý đến đào tạo kỹ năng xét xử đối với từng loại
án cũng như kinh nghiệm thực tiễn xét xử… Do vậy, thời gian tới cần tiếp tục
đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo chuyên sâu về kỹ năng xét xử đối với
từng loại án, nhất là loại án về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của con người, tăng cường tập huấn nghiệp vụ để phổ biến kinh
nghiệm xét xử cho đội ngũ Thẩm phán.
Thêm vào đó, cần nghiên cứu kéo dài thời gian nhiệm kỳ của Thẩm phán
TANDTC theo hướng bổ nhiệm một lần Thẩm phán TANDTC đến khi nghỉ
hưu, đồng thời kéo dài tuổi nghỉ hưu của Thẩm phán TANDTC đến 65 tuổi.
Hiện nay, theo quy định của pháp luật thì nhiệm kỳ đầu của Thẩm phán là 05
năm. Khi kết thúc nhiệm kỳ thì phải làm thủ tục bổ nhiệm lại. Thực tế cho thấy
quy định thủ tục, điều kiện bổ nhiệm lại chức danh Thẩm phán đã cho phép sàng
lọc những Thẩm phán không đủ điều kiện, năng lực công tác. Tuy nhiên, việc bổ
nhiệm Thẩm phán theo nhiệm kỳ 05 năm đã làm cho một số Thẩm phán nảy
sinh “tư duy nhiệm kỳ”, chưa mang hết khả năng, trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ của mình để thực thi công vụ, cá biệt có người còn tranh thủ nhiệm kỳ được
bổ nhiệm làm Thẩm phán để thu vén lợi ích cá nhân.
71
Mặt khác, nhiệm kỳ thẩm phán ngắn dẫn đến việc có một số Thẩm phán
có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ xét xử giỏi, có phẩm chất đạo đức trong
sáng không còn điều kiện, thời gian phát huy khả năng của mình để phục vụ
nhân dân, phụng sự Tổ quốc, bảo vệ công lý và công bằng xã hội. Do vậy, ngoài
Thẩm phán TANDTC, cần nghiên cứu bổ nhiệm lại lần thứ hai đối với những
Thẩm phán TAND cấp tỉnh, cấp huyện có phẩm chất, đạo đức công vụ trong
sáng, có kiến thức chuyên môn nghiệp vụ sâu rộng, có nhiều kĩ năng xét xử và
còn tuổi công tác, có sức khỏe tốt tiếp tục đảm nhiệm chức danh thẩm phán.
+ Trong bối cảnh kinh tế thị trường cũng như đời sống sinh hoạt hiện nay
cần quan tâm hơn nữa đến cải cách chế độ tiền lương cũng như đãi ngộ khác,
nhất là trợ cấp nghề nghiệp cho đội ngũ Thẩm phán để họ thực sự yên tâm thực
thi công vụ, hạn chế tối đa những hiện tượng tiêu cực không đáng có.
+ Cùng với việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng xét xử
cho Thẩm phán, cần chú trọng hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tư tưởng,
đạo đức lối sống cho đội ngũ này. Có như vậy, mới có thể đáp ứng được những
yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, mới có thể hạn chế được những biều hiện suy
thoái về chính trị, tư tưởng – một căn bệnh nguy hiểm của không ít cán bộ ở
nước ta hiện nay.
Hai là, đối với Hội thẩm nhân dân và cán bộ tư pháp khác (Thư ký tòa án,
Thẩm tra viên.).
Đối với đội ngũ này, cần tập trung triển khai các giải pháp cụ thể để nâng
cao vai trò, trách nhiệm, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là kiến thức pháp
luật, tin học; nghiên cứu đổi mới, bổ sung tiêu chuẩn, điều kiện tuyển chọn Hội
thẩm nhân dân, Thư ký tòa án, Thẩm tra viên… Các điều kiện, tiêu chuẩn này
phải được quy định cụ thể, rõ ràng, minh bạch hơn. Đồng thời, Hội thẩm nhân
dân cũng như cán bộ tư pháp khác cũng phải thường xuyên được giáo dục chính
trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống và có chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với họ, để họ
toàn tâm, toàn ý phát huy vai trò, trách nhiệm của mình trong công tác; tránh
hiện tượng ỷ lại vào quyết định của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa; đề cao tính
độc lập, khách quan, chỉ tuân thủ pháp luật của Hội thẩm nhân dân.
Trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới có đề ra một
72
nhiệm vụ là: “Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong hoạt
động tố tụng trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
từng cơ quan, không hữu khuynh, đùn đẩy trách nhiệm” [5, tr. 4]. Quán triệt
nhiệm vụ này, ba cơ quan tiến hành tố tụng hình sự cần tăng cường phối hợp
chặt chẽ trong suốt quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi tiếp nhận, xử lý, giải
quyết tin báo về tội phạm cho đến khi xét xử vụ án. Muốn vậy, phải xây dựng
được một cơ chế phối hợp chặt chẽ, khoa học, trong đó phân định rõ chức năng,
nhiệm vụ của từng cơ quan và trách nhiệm phối hợp của ba cơ quan này để tạo
ra mối quan hệ cần thiết, bổ sung cho nhau trong suốt quá trình giải quyết vụ án
về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Đồng
thời, phải kiên quyết khắc phục hiện tượng hữu khuynh, tình trạng: “quyền anh,
quyền tôi” hoặc đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Đối với từng vụ án, từng giai
đoạn tố tụng cần xác định nội dung, hình thức phối hợp cụ thể sát với tình hình
thực tế; việc phối hợp phải được tiến hành kịp thời, thường xuyên, liên tục. Kinh
nghiệm cho thấy, nếu ba cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phối hợp chặt chẽ,
nhịp nhàng với nhau thì việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, cũng như các vụ án
hình sự nói chung được tiến hành nhanh chóng, kịp thời và chính xác, việc định
tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, hạn chế tối đa những sai sót, nhất là việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Cùng với việc tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự, Tòa án cần chú trọng phối hợp với các cơ quan bổ trợ tư pháp, nhất là
cơ quan giám định tư pháp. Thực tế cho thấy, vụ án về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có được giải quyết kịp thời,
nhanh chóng hay không, có đúng thời hạn luật định hay không, phần nào phụ
thuộc vào kết quả giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể của cơ quan giám định pháp
y. Bởi, theo quy định của pháp luật hình sự, tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân
được nhà làm luật quy định là dấu hiệu bắt buộc để định tội cũng như định
khung hình phạt. Chỉ khi nào có kết luận của cơ quan giám định pháp y về tỷ lệ
tổn thương cơ thể của nạn nhân từ 11% trở lên thì mới xử lý hình sự, các cơ
quan tiến hành tố tụng mới khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử người bị buộc tội.
Như vậy, tỷ lệ tổn thương cơ thể được xác định trong bản kết luận giám định
73
pháp y của cơ quan giám định có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cả định tội
danh và quyết định hình phạt của Tòa án. Do vậy, việc giám định tỷ lệ tổn
thương cơ thể của nạn nhân đòi hỏi phải kịp thời, chính xác, khách quan, có
khoa học thì việc định tội danh và quyết định hình phạt mới chính xác, có cơ sở.
Mọi trường hợp giám định không chính xác, không kịp thời sẽ ảnh hưởng rất lớn
đến chất lượng giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác. Với ý nghĩa như vậy, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố
tụng nói chung, Tòa án nói riêng phải hết sức coi trọng phối hợp với cơ quan
giám định tư pháp.
Trong quá trình xét xử vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác, những người tham gia tố tụng có vai trò không
nhỏ đối với việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, nhất là Luật sư bào
chữa. Do vậy, Hội đồng xét xử phải hết sức tôn trọng và lắng nghe ý kiến của họ
khi tranh luận, tranh tụng tại phiên tòa. Thực tế cho thấy, phiên tòa nào có luật
sư bào chữa tham gia thì việc giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác sẽ được chính xác, khách
quan, công bằng và nhân đạo hơn, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc
tội, người bị hại… được bảo vệ tốt hơn. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta, vai trò
của Luật sư, của người bào chữa chưa được đề cao đúng mức trong xã hội, cũng
như trong hoạt động tố tụng hình sự. Vì thế, để phát huy vai trò của luật sư bào
chữa trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung, trong hoạt động tranh luận,
tranh tụng tại phiên tòa nói riêng cần đẩy mạnh triển khai các biện pháp để phát
triển và nâng cao năng lực của đội ngũ luật sư đã được đề cập trong Chiến lược
phát huy nghề luật sư đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại
Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày 05/7/2011. Đồng thời xây dựng cơ chế phối
hợp đảm bảo cho Luật sư bào chữa thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm
của mình đúng quy định của pháp luật và lương tâm nghề nghiệp, nhất là cơ chế
bảo đảm cho Luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa.
3.2.2.3. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra, giám
sát xét xử, tổng kết thực tiễn, xây dựng án lệ về vụ án cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại về sức khỏe người khác
Để đảm bảo hoạt động định tội danh và quyết định của TAND trong xét
74
xử các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác được chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
vấn đề không kém phần quan trọng là phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, thanh
tra, kiểm tra, giám sát hoạt động xét xử của Tòa án.
Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày -2/6/2005 của Bộ Chính trị đã đề ra
nhiệm vụ: “Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò giám
sát của cơ quan dân cử, của công luận và nhân dân đối với hoạt động tư pháp”
[6, tr. 4]. Đây là việc hết sức cấp thiết và quan trọng, vì thế phải thường xuyên
đổi mới và tăng cường hơn nữa công tác này. Thực tế cho thấy ở địa phương
nào, Tòa án cấp nào làm tốt công tác này thì ở đó hoạt động xét xử nói chung,
hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt trong giải quyết vụ án về tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng sẽ có
chất lượng, hiệu quả, sẽ phát hiện và khắc phục kịp thời những hạn chế, sai sót
trong hoạt động xét xử của Tòa án. Mặc dù có ý nghĩa, vai trò quan trọng như
vậy, nhưng có thể thấy, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực
hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp nói chung, hoạt động xét xử của Tòa án nói
riêng có nơi, có lúc còn bị buông lỏng, chưa thường xuyên, kịp thời, chất lượng
chưa cao.
Cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và cả trong ngành tòa án cũng như
trong xã hội còn thiếu một cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát một cách
đầy đủ, công khai, minh bạch và có hiệu quả để ngăn chặn, khắc phục kịp thời
những hạn chế, yếu kém trong hoạt động xét xử của Tòa án. Việc thanh tra,
kiểm tra trong nội bộ ngành tòa án đối với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
xét xử của Tòa án dường như chưa đạt được kết quả mong muốn do nhiều
nguyên nhân khác nhau. Trong khi đó, giám sát của các cơ quan dân cử (Quốc
hội, Hội đồng nhân dân) cũng như cơ quan thanh tra chuyên ngành đôi khi còn
mang tính hình thức, chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Giám sát của nhân dân đối
với hoạt động xét xử của Tòa án chưa thực sự phát huy tác dụng vì chưa có các
quy định cụ thể, chặt chẽ, đầy đủ về quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt
động xét xử của Tòa án… Về vấn đề này, trong Báo cáo tổng kết 8 năm thực
hiện Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: “Vai trò lãnh đạo của các cấp ủy, tổ
75
chức đảng đối với một số nhiệm vụ cải cách tư pháp còn hạn chế, có nơi bị
buông lỏng, thiếu kiểm tra, đôn đốc, sự phối giữa các cấp ủy đảng các cơ quan
tư pháp với nhau và với cấp ủy đảng địa phương chưa thật sự chặt chẽ” [7, tr.
24].
Có thể thấy, những hạn chế, yếu kém trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
kiểm tra, giám sát này đã ảnh hưởng không nhỏ đối với chất lượng, hiệu quả xét
xử của Tòa án. Do vậy, để nâng cao chất lượng hiệu quả xét xử, để việc định tội
danh và quyết định hình phạt của Tòa án đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, hạn chế những oan sai trong xử lý vụ án về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cần chú trọng đổi mới và tăng
cường hơn nữa công tác lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, sự chỉ đạo của
Tòa án cấp trên nhưng trên nguyên tắc: “Khi xét xử, Tòa án độc lập và chỉ tuân
thủ theo pháp luật”. Do vậy, khi thực hiện công tác lãnh đạo, chỉ đạo cần tránh
sự can thiệp quá sâu vào hoạt động tác nghiệp của Tòa án.
Mặt khác, cần đề cao vai trò kiểm tra, giám sát các hoạt động tư pháp của
Viện kiểm sát, vai trò của cơ quan thanh tra chuyên ngành đối với hoạt động xét
xử của Tòa án. Đồng thời, cần xây dựng một cơ chế giám sát của nhân dân, của
công luận đối với hoạt động xét xử của Tòa án một cách cụ thể, công khai, minh
bạch, trong đó quy định rõ quyền và nghĩa vụ giám sát của nhân dân đối với
hoạt động xét xử của Tòa án cũng như của các cơ quan tư pháp khác.
Bên cạnh đó, cần triển khai tổ chức nhiều phiên tòa lưu động ở nơi xảy ra
vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác vừa để
nhân dân địa phương có điều kiện giám sát hoạt động xét xử của Tòa án, vừa để
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân.
Cùng với việc đổi mới và tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo thanh tra,
kiểm tra, giám sát hoạt động xét xử của Tòa án, cần định kỳ tổng kết thực tế xét
xử để đánh giá những kết quả đạt được, rút ra bài học kinh nghiệm… và phổ
biến rộng rãi những kinh nghiệm đó trong ngành tòa án nếu có đủ điều kiện thì
xây dựng thành án lệ. Đến nay, Hội đồng thẩm phán TANDTC mới chỉ xây
dựng được 01 án lệ số 01/2016/AL về vụ án giết người và tội có ý gây thương
tích dẫn đến chết người theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06/4/2016 của
Chánh án TANNDTC. Đồng thời, khi tổng kết cần đặc biệt chú ý đến việc chỉ ra
76
những hạn chế, thiếu sót trong hoạt động xét xử, đề ra phương hướng, biện pháp
khắc phục kịp thời, không để cho những hạn chế, thiếu sót đó tiếp tục xảy ra,
gây ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả xét xử, nhất là đối với hoạt động định
tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án.
3.2.2.4. Đầu tư kịp thời, thỏa đáng phương tiện công tác, nhất là phương tiện
khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và kinh phí cho các cơ quan tiến hành tố
tụng hình sự thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao
Trong nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/5/20005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra phương hướng: “Tổ chức các
cơ quan tư pháp và các chế định hỗ trợ tư pháp hợp lý , khoa học và hiện đại về
cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc” [7].
Đây là một phương hướng hết sức đúng đắn, nhất là trong bối cảnh tác
động của cuộc cách mạng 4.0. Trong bối cảnh đó, để đảm bảo cho TAND định
tội danh và quyết định hình phạt đúng, nâng cao chất lượng xét xử các vụ án về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng như
các vụ án hình sự khác, Nhà nước cần đầu tư thỏa đáng kinh phí, đảm bảo các
điều kiện phục vụ hoạt động tư pháp phù hợp với đặc thù của từng cơ quan tư
pháp, đặc biệt là TAND.
Trước hết, cần đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách cho các
cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp, trong đó có TAND. Tiếp tục đầu tư xây
dựng trụ sở làm việc của TAND khang trang phù hợp với yêu cầu sử dụng. Ưu
tiên trang bị phương tiện phục vụ công tác điều tra, công tác xét xử, thi hành án,
công tác giám định tư pháp; tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt
động xét xử, tiến tới xây dựng Tòa án điện tử.
Trên đây là những giải pháp cơ bản, nếu được triển khai đồng bộ, kịp
thời, quyết liệt, chắc chắn sẽ nâng cao chất lượng xét xử, đảm bảo áp dụng đúng
pháp luật hình sự trong định tội danh cũng như quyết định hình phạt của TAND
không chỉ ở tỉnh Quảng Ninh mà còn trong phạm vi cả nước.
Kết luận chương 3:
Xuất phát từ thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại tỉnh
77
Quảng Ninh đặt ra vấn đề phải tìm ra những giải pháp nâng cao chất lượng xét
xử, đảm bảo định tội danh và quyết định hình phạt đúng, thỏa đáng đối với
người bị kết án phạm tội này. Việc đề ra các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng
quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác cần phải quán triệt các yêu cầu mà thực tiễn đặt ra,
trong đó tập trung vào các yêu cầu cơ bản như: yêu cầu bảo vệ quyền con người,
yêu cầu cải cách tư pháp, yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, yêu cầu hội
nhập quốc tế. Những yêu cầu này có tính chất định hướng, chỉ đạo việc thiết lập
hệ thống giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Để đáp ứng các yêu cầu trên nhằm đảm bảo định tội danh đúng và quyết
định hình phạt thỏa đáng, cần triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản
từ việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự, đến việc tăng cường nhân
lực, vật lực cho hoạt động xét xử các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác. Những giải pháp này nếu được triển khai
thực hiện đồng bộ nhất định sẽ đem lại kết quả thiết thực trong quá trình giải
quyết vụ án.
78
KẾT LUẬN
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là
xảy ra tương đối phổ biến trong đời sống xã hội, xâm phạm quyền được tôn
trọng và bảo vệ về sức khỏe của con người, ảnh hưởng tiêu cực đến an toàn và
trật tự xã hội, đến quyền con người.
Để có cơ sở pháp lý thống nhất cho công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm này, pháp luật hình sự Việt Nam đã sớm quy định hành vi cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe con người là một tội danh cụ thể trong các
văn bản pháp luật hình sự và quy định này ngày càng được hoàn thiện.
Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự để xử lý tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên phạm vi cả nước
cũng như ở từng địa phương, trong đó có tỉnh Quảng Ninh thì ngoài những kết
quả đạt được, vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót. Những hạn chế, thiếu sót này
do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau như: sự hạn chế, bất
cập trong các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật có liên quan; trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ của chủ thể áp dụng phát luật còn yếu
kém; (không loại trừ ở TAND); kinh phí, điều kiện, phương tiện công tác của
các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự nói chung và của TAND nói riêng còn hạn
chế…
Để đảm bảo chất lượng xét xử, nhất là định tội danh và quyết định hình
phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác cần phải triển khai đồng bộ các giải pháp khác nhau như: tiếp tục hoàn
thiện các quy định của BLHS năm 2015 và các quy định của BLTTHS năm
2015 có liên quan đến việc điều tra, truy tố, xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp cho chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật
hình sư; tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa TAND với các cơ quan hữu quan;
tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra, giám sát xét xử, tổng kết thực
tiễn, xây dựng án lệ về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác; đầu tư kịp thời, thỏa đáng kinh phí, điều kiện, phương tiện công
tác cho các cơ quan tư pháp, nhất là TAND... Các giải pháp này nếu được triển
khai đồng bộ, liên tục, kiên quyết nhất định sẽ đem lại kết quả thiết thực trong
79
áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết vụ án về tội phạm này.
Trong quá trình thực hiện luận văn, mặc dù học viên đã có nhiều cố gắng,
nhưng không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Tác giả kính mong nhận
được sự đóng góp của các nhà khoa học, các cán bộ thực tiễn, các thầy, cô giáo
và các bạn đồng nghiệp để luận văn hoàn thiện và có giá trị khoa học cao hơn.
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tư pháp – Viện Khoa học pháp lý (2003), Bình luận BLHS năm
1999 – Tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 81.
2. Bộ Tư pháp – Viện Khoa học pháp lý (2014), Quyền con người trong
Hiến pháp năm 2013, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 13.
3. Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp (2014), Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách Tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
4. Bộ Tư pháp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (2000),Số chuyên đề Bộ luật
hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999, Hà Nội.
5. Phạm Văn Beo (2008), Luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm,
Nxb Đại học Cần Thơ, tr. 95-100;
6. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/11/2002 Về
một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội;
7. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về
Chiến lược cải cách đến năm 2020, Hà Nội;
8. Lê Cảm, Trịnh Tiến Việt (2004), Định tội danh: Lý luận, hướng dẫn
mẫu và 350 bài tập thực hành, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội
9. Phạm Văn Cần (2000), “Phân biệt dấu hiệu cơ bản của tội giết người
và tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người”, Tạp chí Kiểm sát số 2, tr 14-15;
10. Nguyễn Chí Cường (2011), “Một số đề xuất, kiến nghị từ thực tiễn thi
hành Điều 104 BLHS” Tạp chí Kiểm sát số 5, tr. 47-48;
11. Hoàng Thái Duy (2017), “Công ước chống tra tấn và những biện pháp
thực thi hiệu quả nghĩa vụ thành viên của Việt Nam”, Tạp chí Luật học số 11, tr.
3-14;
12. Nguyễn Văn Dũng (2018) “Bàn về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại sức khỏe của người khác tại Điều 134 BLHS năm 2005, sửa đổi bổ sung
năm 2017”, Tạp chí TAND số 1, Hà Nội, tr. 19-26;
13. Lê Đăng Doanh (2008), “Một số kỹ năng của luật sư trong việc định
81
tội danh của một số tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người”, Tạp chí
Nghề luật số 1, tr. 28-30;
14. Nguyễn Văn Duyến (2006), “Phân biệt các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng với các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh”, Tạp chí TAND số 3, Hà Nội, tr. 18-21;
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý
luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 – 2016), NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, tr. 132.
16. Đỗ Đức Hồng Hà (2005), “Phân biệt các loại tội cố ý gây thương tích
trong những trường hợp nạn nhân là người có lỗi và cũng có hành vi xâm phạm
tính mạng, sức khỏe của người khác hoặc người thân thích của người phạm tội”,
Tạp chí TAND số 24, Hà Nội, tr. 10-12;
17. Đỗ Đức Hồng Hà (2004), “Phân biệt tội giết người với tội cố ý gây
thương tích”, Tạp chí TAND số 3, Hà Nội, tr 7-11;
18. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2018), Bình luận khoa học BLHS năm
2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Phần các tội phạm) - Quyển 1, Nxb Tư
Pháp, Hà Nội;
19. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2014), Giáo trình luật hình sự Việt
Nam - Tập 1, NXB CAND, Hà Nội;
20. Trần Minh Hưởng (2011), “Một số những khó khăn, vướng mắc trong
việc áp dụng Điều 104 BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác”, Tạp chí Kiểm sát số 10, Hà Nội, tr. 24-40;
21. Nguyễn Mạnh Hùng (Chủ biên) (2018), Bình luận khoa học BLTTHS
năm 2005, NXB Lao động, Hà Nội;
22. Trần Minh Hưởng (2002), Tìm hiểu tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người, NXB Lao động, Hà Nội;
23. Nguyễn Thị Hòa (2017), Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành
phố Hải Phòng, Luận văn Thạc sĩ, Học viện KHXH, Hà Nội;
82
24. Nguyễn Duy Hữu (2016), “Kiến nghị tiếp tục hoàn thiện quy định về
các tội xâm phạm sức khỏe của người khác trong BLHS năm 2015 và những giải
pháp đảm bảo áp dụng”, Tạp chí TAND số 24, Hà Nội, tr. 1-6;
25. Tạ Quang Khải (2010), “Bàn về các tội phạm có yếu tố gây thương
tích và trường hợp từ chối giám định của người bị hại trong các vụ án hình sự”,
Tạp chí Kiểm sát, số 10, tr. 24-40;
26. Trần Văn Luyện (2000), Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người (sách tham khảo), NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội;
27. Nguyễn Đức Mai (2003), “Phân biệt tội cố ý gây thương tích dẫn đến
chết người với các tội giết người vô ý làm chết người”, Tạp chí TAND số 4, tr.
10-12;
28. Dương Tuyết Miên (2007), Định tội danh và quyết định hình phạt,
Nxb CAND, Hà Nội;
29. Phạm Văn Phước (2015), “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Ninh Thuận”, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH, Hà Nội;
30. Dương Mai Phương (2017), “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh lạng Sơn”, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH, Hà Nội;
31. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học BLHS - Phần các tội phạm
- Quyển 1, NXB thành phố Hồ Chí Minh;
32. Đinh Văn Quế (2018), “Phân biệt tội giết người với tội cố ý gây
thương tích dẫn đến chết người trong bộ luật hình sự năm 2015”, Tạp chí Kiểm
soát số 7;
33. Nguyễn Huy Tài (2018), “Quy định về các tội xâm phạm sức khỏe của
người khác trong các giai đoạn của lịch sử pháp luật hình sự”, Tạp chí Dân chủ
và pháp luật số 2, tr. 31-35;
34. Nguyễn Huy Tài (2018), “Bàn về một số quy định của BLHS năm
2015 về tội xâm phạm đến sức khỏe”, Tạp chí Kiểm sát, số 4, tr. 56-60;
83
35. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khóa XIV
(2016), Báo cáo số 377/BC-TTKQH ngày 18/11/2016
36. Quốc hội (2017), Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ năm 2017.
37. Tòa án nhân dân tối cao (1990), các văn bản về hình sự, dân sự (1984
– 1990), Hà Nội.
38. Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội (2018), Bản án phúc thẩm số
29/2018/HSPT ngày 24/1/2018.
39. Tòa án nhân dân tối cao (1989), Hệ thống văn bản pháp luật hình sự.
40. Tòa án nhân dân tối cao, (1975), Tập luật lệ về hình sự.
41. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Thống kê các vụ án xét xử sơ thẩm về
các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người giai
đoạn 2001-2017, Hà Nội.
42. Tòa án nhân dân tối cao (1986), Nghị quyết số 04/HĐTP ngày
29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy
định của BLHS.
43. Tòa án nhân dân tối cao (1989), Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày
14/9/1989 của Hội đồng thẩm phán TANDTC, Hà Nội
44. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP
ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán TANDTC, Hà Nội.
45. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2018) Thống kê các vụ án xét xử
sơ thẩm về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
người giai đoạn 2014 - 2018.
46. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2018), Một số bản án hình sự sơ
thẩm về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
người giai đoạn 2014 - 2018;
47. Nguyễn Anh Tuấn (2000), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS
năm 1999), Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7, tr. 77-82;
48. Phạm Minh Tuyên (2018), “Một số ý kiến về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định tại Điều 134 BLHS
84
năm 2015”, tạp chí TAND số 12, tr. 1-5;
49. Nguyễn Văn Trượng (2009), “Phân biệt tội giết người với tội cố ý gây
thương tích (trường hợp dẫn đến chết người)”, Tạp chí TAND số 13, tr 18-22;
50. Võ Khánh Vinh (2011), Lý luận chung về định tội danh, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội;
51. Võ Khánh Vinh (2013) (Chủ biên), Giáo trình luật hình sự Việt Nam
phần các tội phạm, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội;
52. Trần Thị Quang Vinh (Chủ biên) (2015), Giáo trình luật hình sự Việt
Nam (Phần các tội phạm - Quyển 1), NXB Hồng Đức;
53. Phùng Thế Vắc (Chủ biên) (2001), Bình luận khoa học BLHS năm
1999 (Phần các tội phạm), NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 22.
85