VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ MINH NHẬT

TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1,

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ MINH NHẬT

TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1,

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. PHAN ANH TUẤN

HÀ NỘI, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi

dưới sự hướng dẫn tận tình của Tiến sĩ Phan Anh Tuấn. Các thông tin và kết

quả nghiên cứu trong luận văn là do tôi tự thu thập, phân tích một cách khách

quan, trung thực, phù hợp với thực tế. Các dữ liệu sử dụng trong Luận văn có

nguồn gốc và được trích dẫn rõ ràng theo đúng quy định. Đây là kết quả tôi

đạt được trong quá trình nghiên cứu.

Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính trung thực của số liệu và các nội

dung viết trong luận văn

Tp.HCM, tháng 8 năm 2019

Học viên

Lê Minh Nhật

LỜI CẢM ƠN

Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới Học viện Khoa

học xã hội, Khoa Luật, cùng các thầy cô giáo tham gia giảng dạy đã giúp đỡ tôi

trong quá trình học tập và nghiên cứu.

Đặc biệt tôi xin cảm ơn Tiến sĩ Phan Anh Tuấn – Người thầy trực tiếp hướng

dẫn khoa học, cảm ơn tập thể lãnh đạo cơ quan, cảm ơn bạn bè đồng nghiệp, người

thân đã động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình

học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn này.

Tuy có nhiều cố gắng, nhưng trong Luận văn này không tránh khỏi những

thiếu sót. Tôi kính mong Quý thầy cô, các chuyên gia, những người quan tâm đến

đề tài, đồng nghiệp, gia đình và bạn bè tiếp tục có những ý kiến đóng góp, giúp đỡ

để đề tài được hoàn thiện hơn.

Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!

Tp.HCM, tháng 8 năm 2019

Học viên

Lê Minh Nhật

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN ................................................. 10

1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản ............... 10

1.2. Phân biệt tội cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam với một số

tội phạm khác ............................................................................................... 24

1.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản từ

năm 1945 đến nay ........................................................................................ 26

Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI

CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ

CHÍ MINH ............................................................................................................. 34

2.1. Khái quát tình hình xét xử tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1,

Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây .................................. 34

2.2. Định tội danh tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ

Chí Minh ...................................................................................................... 37

2.3. Thực tiễn áp dụng các tình tiết định khung hình phạt đối tội cướp giật

tài sản ........................................................................................................... 41

2.4. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản ................ 44

2.5. Nhận xét chung về thực tiễn xét xử về tội “Cướp giật tài sản” tại Tòa

án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh ............................................ 49

Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG

ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN ............ 52

3.1. Những nhu cầu và yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự khi xét xử

các vụ án cướp giật tài sản ........................................................................... 52

3.2. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cướp giật

tài sản ........................................................................................................... 55

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 62

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Thống kê số vụ phạm tội và các nhóm tội phạm trên địa bàn Quận

1, Thành phố Hồ Chí Minh, giai đoạn 2013- 2018 ............................................ 34

Bảng 2.2. Thống kê số vụ phạm tội và số người phạm tội cướp giật tài sản so

với tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí

Minh, giai đoạn 2013- 2018 ............................................................................ 35

Bảng 2.3. Thống kê số vụ phạm tội và số người phạm tội cướp giật tài sản so

với tình hình các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ

Chí Minh, giai đoạn 2013- 2018 ..................................................................... 36

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền sở hữu tài sản là quyền cơ bản và quan trọng của mỗi con người,

vì thế, pháp luật của quốc gia nào cũng đều có chế định bảo đảm quyền bất

khả xâm phạm về tài sản cho công dân và có các chế tài, hình phạt đối với cá

nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của người khác. Đây là quyền hiến

định và được nêu tại Điều 32 Hiến pháp năm 2013 như sau: “1. Mọi người có

quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt,

tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức

kinh tế khác; 2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo

hộ.”

Để cụ thể hóa quy định trên, Bộ luật dân sự năm 2015 quy định các nội

dung của quyền sở hữu để chủ sở hữu thực hiện các quyền của mình và sự tôn

trọng của xã hội đối với quyền sở hữu của các cá nhân khác. Bộ luật Hình sự

năm 2015, quy định các chế tài đối với hành vi xâm phạm sở hữu tài sản quy

định tại Chương XVI (các tội xâm phạm sở hữu) trong đó có tội cướp giật tài

sản. Những quy định này là sự bảo vệ của Nhà nước đối với quyền sở hữu của

nhà nước, tổ chức, cá nhân đã được Hiến pháp năm 2013 quy định và thể hiện

thái độ của Nhà nước đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu của nhà

nước, tổ chức, cá nhân.

Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những đô thị lớn nhất nước, đặc

biệt là Quận 1, nơi tập trung các cơ quan hành chính của Thành phố Hồ Chí

Minh, có nhiều danh lam, công trình kiến trúc là nơi thu hút tham quan, vui

chơi giải trí của nhân dân thành phố, nhân dân Quận 1 và du khách trong và

ngoài nước. Những năm gần đây, các vụ án cướp giật tài sản trên địa bàn

Quận 1 không ngừng gia tăng gây ra ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu

đến trật tự, an toàn xã hội, tác động không tốt đến cuộc sống của người dân.

1

Thực tiễn xét xử các vụ án cướp giật tài sản tại Tòa án nhân dân Quận

1, Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tội cướp giật tài sản rất đa dạng về: nhân

thân người phạm tội, độ tuổi và giới tính của người phạm tội, thủ đoạn và

phương tiện phạm tội, có những vụ án có đồng phạm và sử dụng thủ đoạn

nguy hiểm. Quá trình xét xử, là việc Hội đồng xét xử áp dụng pháp luật hình

sự để xác định đúng tội danh, xem xét các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự để quyết định hình phạt. Hình phạt vừa thể hiện thái độ nghiêm

khắc của xã hội đối với hành vi nguy hiểm của tội phạm vừa thể hiện tính

khoan hồng của pháp luật, tạo điều kiện để người phạm tội sớm tái hòa nhập

cộng đồng và làm người có ích cho xã hội. Trong quá trình xét xử các vụ án

cướp giật tài sản cho thấy những khó khăn, bất cập trong việc xác định tội

danh và lượng hình, nhất là việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự.

Trong khi đó, văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật đối với các tội xâm

phạm sở hữu nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng chưa thống nhất; đặc

biệt cho đến nay vẫn chưa có hướng dẫn mới về các tội này theo quy định của

Bộ Luật hình sự năm 2015 dẫn đến thực tế áp dụng quy định về các tội này

còn lúng túng. Hiện nay, vẫn chưa có các văn bản hướng dẫn về các tội xâm

phạm sở hữu nói chung và tội cướp giật nói riêng, và các tình tiết tăng nặng,

giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới mà Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định.

Học viên đã chọn đề tài “Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự

Việt Nam từ thực tiễn quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài Luận văn

Thạc sĩ Luật học của mình để nghiên cứu lý luận và thực tiễn xét xử các vụ án

về tội này tại Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh để rút ra

những đặc điểm chung của các vụ án này, tổng kết đánh giá thực tiễn xét xử

và đưa ra những giải pháp để khắc phục những khó khăn, bất cập khi xét xử

loại án này.

2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Để thực hiện đề tài được giao, học viên tham khảo khá nhiều công trình

về hoặc liên quan đến đề tài, trong số đó có thể kể đến:

- Nhóm thứ nhất: Các Giáo trình Luật hình sự, sách về Định tội danh

của các cơ sở đào tạo như: (1) Lê Cảm (Chủ biên) (2007), Giáo trình Luật

hình sự Việt Nam- Phần chung, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; (2) Lê Cảm –

Trịnh Quốc Toản (2012), Định tội danh – Lý luận, lời giải mẫu và 500 bài

tập, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; (3) Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí

Minh (2016), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Các tội phạm- Quyển

1, Nxb Hồng Đức- Hội Luật gia Việt Nam; (4) Võ Khánh Vinh (Chủ biên)

(2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam- Phần Các tội phạm, Nxb Công an

nhân dân; (5) Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội; (7) Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2016),

Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Các tội phạm- Quyển 2, Nxb Hồng

Đức- Hội Luật gia Việt Nam; (8) Trường Đại học Luật Hà Nội (2002), Giáo

trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân; (9) Học viện Tòa án

(2012), Chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử - Phần kỹ năng giải quyết vụ

án hình sự, Nxb Công an nhân dân.

Những tài liệu và giáo trình nêu trên là những tài liệu nghiên cứu bắt

buộc trong việc học tập và nghiên cứu luật hình sự. Nội dung chính của các

tác phẩm này là trình bày lý luận chung về tội phạm, định tội danh và quyết

định hình phạt, phân tích từng đặc trưng pháp lý cơ bản của mỗi tội danh nói

chung và tội cướp giật tài sản nói riêng. Những tài liệu này là tài liệu tham

khảo cho tác giả nghiên cứu về các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản

trong luận văn.

- Nhóm thứ hai: Các bài viết liên quan đến tội cướp giật tài sản có thể

kể đến:

3

(1) Bài viết “Về các tội xâm phạm sở hữu” của tác giả Nguyễn Mai Bộ,

Tạp chí Tòa án nhân dân – Số 7, 8 và 9/2018. Bài viết phân tích các dấu hiệu

pháp lý của 13 tội trong chương XVI Bộ luật Hình sự năm 2015 về các tội

xâm phạm sở hữu và các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

(2) Bài viết “Một số góp ý về các tội xâm phạm sở hữu trong dự thảo

Bộ luật Hình sự sửa đổi" của tác giả Nguyễn Văn Trương – Trần Giang Nam,

Tạp chí Tòa án nhân dân - 10/2005, Số 20. Bài viết đưa ra các ý kiến về việc

sửa đổi quy định pháp luật về các tội xâm phạm sở hữu cụ thể: mô tả hành vi

cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, tình tiết định khung “có tính

chất chuyên nghiệp” trong tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

(3) Bài viết “Tội cướp giật tài sản và vấn đề chuyển hóa tội phạm theo

pháp luật hình sự Việt Nam” của tác giả Phạm Minh Tuyên, Tạp chí Tòa án

nhân dân tháng 10/2007, Số 19. Bài viết tập trung phân tích tình tiết định

khung trách nhiệm tăng nặng hình sự là “dùng thủ đoạn nguy hiểm” và “hành

hung khi tẩu thoát” và vấn đề chuyển hóa tội phạm từ tội cướp giật tài sản

thành cướp tài sản.

(4) Bài viết “Một số sai lầm phổ biến trong định tội danh đối với tội

cướp tài sản dưới hình thức có tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh" của tác

giả Đoàn Trọng Chỉnh, Tạp chí Kiểm sát, tháng 8/2015, Số 16. Bài viết nêu

các trường hợp có thể nhầm lẫn khi định tội danh giữa cướp tài sản với công

nhiên chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản và trộm cắp tài sản.

Các bài viết trên có ý nghĩa quan trọng trong việc làm rõ các dấu hiệu

pháp lý của tội cướp giật tài sản trong luận văn.

- Nhóm thứ ba: Các luận văn thạc sĩ liên quan đến tội cướp giật tài sản

như: (1) Luận văn thạc sĩ “Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà

Nội: Một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học” của tác giả Trần Anh

Tuấn, Học viện Khoa học xã hội, 2010. Luận văn phân tích đặc điểm các vụ

4

án cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội và đưa ra các giải pháp về

xã hội, phát triển kinh tế để phòng chống và giảm thiểu các vụ án cướp giật

diễn ra trên địa bàn thành phố Hà Nội.

(2) Luận văn thạc sĩ “Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên

địa bàn quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Văn

Tùng, Học viện Khoa học xã hội, 2018. Luận văn nghiên cứu các đặc điểm về

nhân thân của người phạm tội, hiểu rõ các động cơ và mục đích của người

phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Tân Phú và từ đó đưa ra các giải

pháp phòng ngừa hữu hiệu.

(3) Luận văn thạc sĩ “Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu trên

địa bàn tỉnh Kiên Giang” của tác giả Hồ Thanh Lam, Học viện Khoa học xã

hội, 2018. Luận văn nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội xâm phạm

sở hữu nhằm xác định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm và đề

ra các biện pháp phòng ngừa các tội phạm xâm phạm sở hữu và giúp cho việc

định tội danh, định khung hình phạt chính xác.

Những luận văn nêu trên đã nghiên cứu nhiều góc độ khác nhau về tội

cướp giật tài sản trên các địa bàn cụ thể. Từ đó đề ra nhiều giải pháp hoàn

thiện pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản. Đây cũng là nguồn tài liệu

tham khảo quan trọng cho đề tài luận văn.

Qua nghiên cứu các công trình nêu trên, chúng tôi có một vài nhận xét

sau: Các công trình nghiên cứu trên đã phân tích, trình bày những vấn đề pháp

lý của tội cướp giật tài sản, về cấu thành tội phạm, về nhân thân người phạm

tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng, và trên các

địa bàn khác nhau. Các công trình trên cũng đưa ra các giải pháp phòng ngừa

các vụ án cướp giật tài sản ở các biện pháp khác nhau trong đó có biện pháp

pháp luật hình sự. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của đề tài, các công

trình nêu trên chưa nghiên cứu quá trình phát triển các quy định pháp luật về

5

tội cướp giật tài sản theo các Bộ luật Hình sự năm 1989, năm 1999 và năm

2015; cũng chưa phân tích những dấu hiệu pháp lý và tình tiết tăng nặng trách

nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự năm 2015 và không nghiên cứu thực tiễn

các vụ án cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Qua

nghiên cứu thực tiễn xét xử các vụ án cướp giật tài sản tại Tòa án nhân dân

Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, luận văn đưa ra những đánh giá chung về

loại tội phạm này, các đưa ra các giải pháp để áp dụng đúng pháp luật khi xét

xử các vụ án cướp giật tài sản.

Do đó, đề tài “Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ

thực tiễn quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh” được tác giả sử dụng làm Luận

văn Thạc sỹ Luật học.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận, quy định và thực

tiễn áp dụng quy định về tội cướp giật tài sản theo Bộ luật Hình sự năm 2015

khi xét xử tại Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, luận văn sẽ

đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về các dấu

hiệu định tội, định khung hình phạt đối với tội cướp giật tài sản và đề xuất

những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về loại tội phạm

này và áp dụng thống nhất trên toàn quốc.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nêu trên, Luận văn đặt ra và giải quyết các

nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về tội cướp giật tài sản theo

luật hình sự Việt Nam.

- Phân tích nội dung các quy định của pháp luật hình sự về tội cướp giật

tài sản.

6

- Đề xuất các kiến nghị hoàn thiện các quy định về tội cướp giật tài sản

trong Bộ luật hình sự và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của

pháp luật về tội này trên cả nước.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của Bộ luật hình

sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản và thực tiễn xét xử tội cướp giật tài sản

tại Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy

định, áp dụng về tội cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam dưới góc độ

luật hình sự.

- Phạm vi về thời gian: Khảo sát thực tiễn áp dụng quy định về tội cướp

giật tài sản từ năm 2013 đến năm 2018.

- Về địa bàn nghiên cứu: Khảo sát, nghiên cứu thông qua các bản án tại

Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận: đề tài này được nghiên cứu trên cơ sở phương

pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin với phép duy vật biện chứng, các quan

điểm của Đảng và Nhà nước về tội phạm, hình phạt, về cải cách tư pháp, về

đấu tranh phòng chống tội phạm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu: để nghiên cứu Luận văn, tác giả đã sử

dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:

- Phương pháp lịch sử: phương pháp này được sử dụng để làm rõ sự

hình thành và phát triển của tội cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam

từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay.

7

- Phương pháp thống kê: phương pháp này được sử dụng để làm rõ tình

hình xử lý hình sự đối với tội cướp giật tài sản.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng để làm rõ

những vấn đề chung và những hạn chế, vướng mắc về tội cướp giật tài sản.

- Phương pháp so sánh: được tác giả sử dụng để làm rõ những điểm

giống và khác nhau giữa tội cướp giật tài sản với các tội phạm khác có liên

quan và đối chiếu quy định về tội cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt

Nam với luật hình sự của một số quốc gia.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận :

Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như thực

tiễn về tội cướp giật tài sản, từ đó, đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện

pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn :

Các kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể là tài liệu tham khảo có

giá trị cho các cơ quan nhà nước thực hiện việc hoàn thiện hơn quy định về

tội cướp giật tài sản, và góp phần giải quyết những vướng mắc trong thực tiễn

áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về tội phạm này tại Tòa án nhân dân

Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Những kết quả nghiên cứu của Luận văn đạt được còn có thể làm tài

liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu tiếp theo của chính học viên và

cho những người quan tâm trong quá trình công tác, học tập và nghiên cứu.

7. Cơ cấu của luận văn.

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

luận văn gồm 3 chương.

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội

cướp giật tài sản.

8

Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp

giật tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh

Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật

hình sự về tội cướp giật tài sản.

9

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản

1.1.1. Khái niệm tội cướp giật tài sản

Hiện nay chưa có văn bản pháp luật đưa ra khái niệm chung về tội cướp

giật tài sản. Qua nghiên cứu, chúng tôi tìm thấy một số tài liệu đề cập đến

khái niệm cướp giật tài sản như sau:

- Theo Từ điển tiếng Việt , “cướp giật” là cướp một cách ngang nhiên

và trắng trợn [59, tr.302]. Khái niệm này hành vi cướp giật giống với hành vi

cướp và không có sự khác nhau giữa hành động cướp và cướp giật.

- Theo từ điển Luật học, cướp giật tài sản là “hành vi công khai chiếm

đoạt tài sản một cách nhanh chóng để tránh sự phản kháng của chủ tài sản …

là một trong bốn tội phạm của nhóm tội chiếm đoạt có tính công khai về hành

vi khách quan cũng như về ý thức chủ quan của chủ thể …, là hành vi lợi

dụng sơ hở của chủ tài sản nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng

lẩn tránh”. [9, tr.264]. Khái niệm này, nêu được những đặc trưng của hành vi

cướp giật tài sản và là một loại tội phạm do luật hình sự quy định. Theo đó,

người thực hiện tội phạm cướp giật tài sản là người có mục đích chiếm đoạt

tài sản từ trước và thủ đoạn chiếm đoạt tài sản là bằng cách nhanh chóng giật,

giằng lấy tài sản và nhanh chóng tẩu thoát. Việc giật, giằng lấy tài sản diễn ra

một cách công khai, người phạm tội không có ý định che giấu hành vi của

mình đối với chủ sở hữu cũng những nguời xung quanh. Người bị hại biết

hành vi phạm tội nhưng do diễn ra quá nhanh nên chưa kịp thời phản ứng.

Trên cơ sở đó có thể định nghĩa tội cướp giật tài sản như sau: Tội cướp

giật tài sản là hành vi công khai chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng tẩu thoát

của chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý.

10

1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản

Bộ luật hình sự năm 2015 quy định tội cướp giật tại Điều 171 BLHS

[35]. Từ định nghĩa về tội cướp giật tài sản nêu trên và quy định tại Điều 171

BLHS chúng ta thấy tội cướp giật tài sản có những dấu hiệu pháp lý như sau:

1.1.2.1. Khách thể của tội cướp giật tài sản

Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và

bị tội phạm xâm hại (gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại) [33, tr.62].

Khách thể của tội phạm bao gồm khách thể chung, khách thể loại và khách

thể trực tiếp của tội phạm. Tội cướp giật tài sản được quy định tại Chương

XVI của BLHS năm 2015 có tên là “Các tội xâm phạm sở hữu” vì thế có

khách thể loại là quan hệ sở hữu tài sản. Quan hệ sở hữu tài sản là mối quan

hệ giữa chủ sở hữu đối với tài sản, bao gồm các quyền chiếm hữu, sử dụng và

định đoạt đối với tài sản. Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự năm

2015, thì tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Nhưng

chỉ có tài sản là tiền, vật, giấy tờ có giá (vô danh) mới có thể là đối tượng tác

động của các tội xâm phạm sở hữu.

Do đặc thù của tội cướp giật tài sản là nhanh chóng chiếm đoạt và tẩu

thoát nên đối tượng tác động của tội này thường là những tài sản dưới dạng

vật chất, gọn nhẹ, dễ di chuyển và đồng thời đang nằm trong sự quản lý,

chiếm hữu của chủ tài sản, nhưng đối tượng phạm tội lợi dụng sự sơ hở của

chủ sở hữu trong quá trình quản lý để chiếm đoạt.

Như vậy, khách thể trực tiếp của tội cướp giật tài sản là quan hệ sở hữu

và đối tượng bị tác động trực tiếp là tiền, vật, giấy tờ có giá (vô danh) nêu

trên.

1.2.2.2. Chủ thể của tội cướp giật tài sản

Theo Bộ luật hình sự năm 2015, chủ thể của tội phạm không chỉ là con

người cụ thể mà còn pháp nhân thương mại. Đối với tội cướp giật tài sản, chủ

11

thể của tội phạm chỉ có thể là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ

tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định và thực hiện hành vi nguy hiểm

cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm.

Năng lực trách nhiệm hình sự thể hiện độ tuổi và nhận thức của chủ thể

về hành vi của mình. Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tuổi chịu

trách nhiệm hình sự. Theo đó, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách

nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ

16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý

hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Điều 21 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tình trạng không có

năng lực trách nhiệm hình sự như sau: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm

cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả

năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải

chịu trách nhiệm hình sự”.

Từ những quy định nêu trên, chủ thể của tội phạm phải là người có

năng lực trách nhiệm hình sự. Trong một số cấu thành tội phạm đòi hỏi chủ

thể phải có thêm các dấu hiệu đặc biệt khác vì chỉ chủ thể có dấu hiệu này

mới có thể thực hiện được hành vi phạm tội mà cấu thành tội phạm đó phản

ánh. Theo Điều 171, thì chủ thể của tội cướp giật tài sản không phải là chủ thể

đặc biệt. Nên, người có hành vi cướp giật tài sản chỉ trở thành chủ thể của tội

cướp giật tài sản khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản họ có năng lực trách

nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.

1.1.2.3. Mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản

Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến bên trong phản ánh thái độ tâm

lý của chủ thể đối với hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi đó gây ra, bao

gồm các dấu hiệu về lỗi, động cơ và mục đích. Trong đó, lỗi được phản ánh

trong tất cả cấu thành tội phạm và là dấu hiệu không thể thiếu được của bất cứ

12

cấu thành tội phạm nào.

Tội cướp giật tài sản luôn là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết tài

sản đang có người quản lý, nhận thức hành vi của mình là nguy hiểm cho xã

hội nhưng vẫn thực hiện. Động cơ và mục đích của người phạm tội cướp gật

tài sản là mong muốn chiếm đoạt tài sản của người khác.

1.1.2.4. Mặt khách quan của tội cướp giật tài sản

Mặt khách quan của tội phạm là biểu hiện bên ngoài của tội phạm, bao

gồm hành vi nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và

hậu quả; các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội [50,

tr.71]. Bất cứ tội phạm cụ thể nào cũng đều có những biểu hiện bên ngoài,

nếu không có những biểu hiện này thì cũng không có yếu tố khác của tội

phạm và cũng không có tội phạm.

Hành vi cướp giật tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác

của chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi chiếm đoạt của tội cướp

giật tài sản có dấu hiệu công khai và dấu hiệu nhanh chóng.

* Dấu hiệu công khai:

Dấu hiệu công khai vừa thể hiện tính khách quan của hành vi chiếm

đoạt vừa thể hiện ý thức chủ quan của người phạm tội. Hành vi chiếm đoạt

được coi là công khai, khi hành vi phạm tội được thực hiện thì chủ tài sản có

khả năng biết ngay khi hành vi xảy ra, nghĩa là người phạm tội công khai và

hoàn toàn không có ý định che giấu hành vi phạm tội của mình đối với người

đang chiếm giữ tài sản và những người xung quanh.

Dấu hiệu công khai là đặc trưng cơ bản của tội cướp giật tài sản giúp

phân biệt với dấu hiệu lén lút trong tội trộm cắp tài sản hay dấu hiệu gian dối

trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

* Dấu hiệu nhanh chóng:

Dấu hiệu nhanh chóng phản ánh thủ đoạn, phương thức thực hiện hành

13

vi phạm tội phải khẩn trương, vội vã. Người phạm tội lợi dụng sơ hở của chủ

tài sản (sơ hở này có thể là có sẵn hoặc do người phạm tội chủ động tạo ra)

nhanh chóng tiếp cận, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng tẩu

thoát. Thủ đoạn nhanh chóng chiếm đoạt có thể diễn ra dưới những hình thức

khác nhau, tùy thuộc vào đặc điểm của tài sản chiếm đoạt, vị trí, cách thức

giữ tài sản cũng như những hoàn cảnh bên ngoài khác. Thông thường, hình

thức nhanh chóng có thể chiếm đoạt có thể là giật lấy tài sản, giành lấy tài sản

và nhanh chóng lẩn tránh.

Với thủ đoạn nhanh chóng chiếm đoạt như vậy, người phạm tội triệt

tiêu khả năng phản ứng, ngăn cản của chủ tài sản đối với hành vi chiếm đoạt.

vì thế, trong tội cướp giật tài sản không có bất cứ hành vi dùng vũ lực nào để

chiếm đoạt tài sản, hay dùng bất cứ thủ đoạn khác để đối phó trực tiếp với chủ

tài sản.

Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện

hành vi khách quan được mô tả trong điều luật. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt

không phải là dấu hiệu định tội của tội cướp giật tài sản, nhưng có thể là dấu

hiệu định khung của tội này.

1.1.3. Các dấu hiệu cấu thành tăng nặng của tội cướp giật tài sản

Ngoài khung hình phạt cơ bản, khoản 2, 3, 4 Điều 171 Bộ luật hình sự

quy định hình phạt trong các trường hợp tăng năng trách nhiệm hình sự theo

các khung hình phạt tăng nặng. Những dấu hiệu định khung trong tội cướp

giật tài sản như sau:

- Khoản 2 Điều 171 BLHS quy định: Phạm tội thuộc một trong các

trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Có tổ chức

Phạm tội có tổ chức là “hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ

giữa những người cùng thực hiện tội phạm” (khoản 2 Điều 17 BLHS). Đó là

14

một dạng đồng phạm đặc biệt có sự cấu kết chặt chẽ thể hiện ở mặt chủ quan

và khách quan. Sự cấu kết chặt chẽ thể hiện trong cơ cấu tổ chức của đồng

phạm, có sự phân công vị trí, vai trò và nhiệm vụ của mỗi cá thể trong tổ

chức, mỗi người được giao nhiệm vụ cụ thể và tất cả họ cùng nhau liên kết lại

thực hiện tội hạm và che giấu tội phạm. Sự cấu kết chặt chẽ còn thể hiện trong

sự thống nhất ý chí của những người đồng phạm từ khi chuẩn bị đến khi phạm

tội và kết thúc, kể cả việc đề ra các biện pháp lẫn tránh pháp luật. Phạm tội có

tổ chức luôn có người tổ chức và người thực hành, thường người tổ chức giữ

vai trò quan trọng, là người đề ra các biện pháp, kế hoạch phạm tội và luôn

được mỗi cá nhân trong tổ chức nể trọng và phục tùng.

b) Có tính chất chuyên nghiệp

Về tính tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, Hội đồng Thẩm phán

Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2006/NQ- HĐTP ngày

12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán hướng dẫn áp dụng một số quy định của

Bộ luật Hình sự như sau, chỉ áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên

nghiệp khi có đầy đủ các điều kiện sau:

“a. Cố ý phạm tội từ 05 lần trở lên về cùng một tội phạm không phân

biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình

sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa

án tích;

b. Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy

kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính”.

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000

đồng;

Trong các tội xâm phạm sở hữu, việc xác định giá trị tài sản bị chiếm

đoạt có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hình phạt, nó có thể làm tăng

khung hình phạt áp dụng đối với bị cáo. Vì vậy, khi xác định giá trị tài sản bị

15

chiếm đoạt cần chú ý một số điểm sau đây:

“1. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ trái phép, bị sử dụng trái

phép, bị hủy hoại hoặc bị làm hư hỏng được xác định theo giá trị thị trường

của tài sản đó tại địa phương vào thời điểm tài sản bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ

trái phép, bị sử dụng trái phép, bị hủy hoại hoặc bị làm hư hỏng.

2. Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành

vi xâm phạm sở hữu có ý định xâm phạm đến tài sản có giá trị cụ thể theo ý

thức chủ quan của họ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét việc truy cứu trách

nhiệm hình sự đối với người có hành vi xâm phạm.

3. Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành

vi xâm phạm sở hữu có ý định xâm phạm đến tài sản, nhưng không quan tâm

đến giá trị tài sản bị xâm phạm (trị giá bao nhiêu cũng được) thì lấy giá thị

trường của tài sản bị xâm phạm tại địa phương vào thời điểm tài sản bị xâm

phạm để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi

xâm phạm” [57, tr.4]

Như vậy, khi điều tra các vụ án cướp giật tài sản để xác định giá trị tài

sản, cơ quan điều tra phải tiến hành định giá tài sản bị chiếm đoạt đối với

những tài sản là vật (không phải tiền). Nguyên tắc chung của việc định giá tài

sản là xác định giá của tài sản được xác định là giá tại địa phương nơi xảy ra

hành vi cướp giật và vào thời điểm tài sản bị xâm hại. Ngoại lệ, trường hợp có

căn cứ xác định được người phạm tội có ý định xâm phạm tài sản có giá trị cụ

thể thì áp dụng giá trị của tài sản đó để truy cứu trách nhiệm hình sự.

d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;

Dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng này hiện nay được hướng dẫn

tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP

ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối

cao, Bộ công an và Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định

16

tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật Hình sự năm 1999

như sau:

“... 5.3. “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” quy định tại điểm d khoản 2 Điều

136 Bộ luật Hình sự là dùng thủ đoạn để cướp giật tài sản mà nguy hiểm đến

tính mạng, sức khỏe của người bị hại hoặc của người khác như dùng xe mô

tô, xe máy để thực hiện việc cướp giật tài sản; cướp giật của người đang đi

mô tô, xe máy... cần chú ý là trong trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm để

cướp giật tài sản mà gây ra hậu quả nghiêm trọng, thì phải áp dụng cả hai tình

tiết định khung hình phạt quy định tại các điểm d và h khoản 2 Điều 136 Bộ

luật Hình sự”.

đ) Hành hung để tẩu thoát;

Trong một số trường hợp cướp giật tài sản, quá trình tẩu thoát người

phạm tội có dùng vũ lực để tẩu thoát. Khi quyết định hình phạt đối với những

trường hợp này, các Tòa án thường không thống nhất với nhau. Tại Mục VII,

Nghị quyết 01-HĐTP/NQ ngày 19/04/1989 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án

nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ

luật Hình hướng dẫn như sau:

“a. Nếu là trường hợp do chưa chiếm đoạt được tài sản mà kẻ phạm tội

dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc để chiếm đoạt tài sản cho

bằng được thì cần định tội là cướp tài sản.

b. Nếu là trường hợp kẻ phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản rồi, nhưng

chủ tài sản hoặc người khác đã lấy lại được tài sản đó hoặc đang giành giật tài

sản còn ở trong tay kẻ phạm tội, mà kẻ phạm tội dùng vũ lực, hoặc đe dọa

dùng ngay tức khắc vũ lực để chiếm đoạt tài sản cho bằng được thì cần định

tội cướp tài sản …

Đối với trường hợp trên đây chỉ cần kết án kẻ phạm tội về một tội là

cướp tài sản … và coi việc chiếm đoạt (chưa thành hoặc đã thành) trước khi

17

dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực là tình tiết diễn biến của

tội phạm.

c. Nếu việc dùng vũ lực (hoặc đe dọa dùng vũ lực) là nhằm để tẩu thoát

(kể cả khi tẩu thoát cùng với tài sản đã chiếm đoạt được), thì không kết án kẻ

phạm tội về cướp tài sản … và tùy trường hợp mà kết án họ về tội phạm xảy

ra trước khi dùng vũ lực (hoặc đe dọa dùng vũ lực) và coi việc dùng vũ lực là

tình tiết “hành hung để tẩu thoát”” [25, Mục VII]

Theo hướng dẫn này, việc dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực khi tẩu

thoát của người phạm tội sẽ được định tội là cướp tài sản khi tội xâm phạm sở

hữu khác phụ thuộc vào ý định dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt được tài sản hay

dùng vũ lực để tẩu thoát của người phạm tội.

Tình tiết “hành hung để tẩu thoát” lần nữa được làm rõ và hướng dẫn

tại Thông tư liên tịch số 01/2001 ngày 25/12/2001 như sau:

“6. Khi áp dụng tình tiết “hành hung để tẩu thoát” (điểm đ khoản 2

Điều 136, điểm a khoản 2 Điều 137, điểm đ khoản 2 Điều 138 BLHS) cần

chú ý:

6.1. Phạm tội thuộc trường hợp “hành hung để tẩu thoát” là trường hợp

mà người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài

sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã có những

hành vi chống trả lại người bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ như đánh,

chém, bắn, xô ngã … nhằm tẩu thoát.

6.2. Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm

đoạt được tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà

người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc tấn

công người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì

trường hợp này không phải là “hành hung để tẩu thoát” mà có đầy đủ các dấu

hiệu của tội cướp tài sản.”

18

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà

tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%

Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bỏ tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

“gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng” và đã cụ thể hóa

quy định này bằng cách đưa ra các định lượng về tổn thương sức khỏe, tính

mạng và tài sản.

Như vậy, khi thực hiện hành vi cướp giật tài sản mà gây ra thiệt hại về

sức khỏe, tùy thuộc vào tỷ lệ tổn thương cơ thể mà áp dụng khung hình phạt

tăng nặng phù hợp.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể có thể là tỷ lệ tổn hại sức khỏe, tỷ lệ thương tật,

tỷ lệ thương tích. Việc xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể phải được cơ quan có

chức năng giám định thực hiện và kết luận căn cứ vào Bảng tỷ lệ phần trăm

cơ thể do thương tích do Bộ Y tế ban hành.

g) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai,

người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

Quy định này nhằm bảo vệ những đối tượng yếu thế trong xã hội, đó là

trẻ em (người dưới 16 tuổi), phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc

người không có khả năng tự vệ. Đây là những đối tượng có nhược điểm về

sức khỏe, khả năng phản ứng với các tác động của hành vi cướp giật kém và

cần được xã hội bảo vệ nên việc phạm tội đối với họ sẽ phải chịu hình phạt

nghiêm khắc hơn.

Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-

BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 về phối hợp thực hiện một số quy định của

Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi, quy định

về việc xác định độ tuổi của người bị hại, người bị buộc tội như sau:

19

“1. Việc xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi

căn cứ vào một trong các giấy tờ, tài liệu sau:

a) Giấy chứng sinh;

b) Giấy khai sinh;

c) Chứng minh nhân dân;

d) Thẻ căn cước công dân;

đ) Sổ hộ khẩu;

e) Hộ chiếu.

2. Trường hợp các giấy tờ, tài liệu nêu tại khoản 1 Điều này có mâu

thuẫn, không rõ ràng hoặc không có giấy tờ, tài liệu này thì cơ quan có thẩm

quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải phối hợp

với gia đình, người đại diện, người thân thích, nhà trường, Đoàn thanh niên

Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc tổ chức, cá nhân khác có liên quan nơi người

dưới 18 tuổi học tập, lao động, sinh hoạt trong việc hỏi, lấy lời khai, xác minh

làm rõ mâu thuẫn hoặc tìm các giấy tờ, tài liệu khác có giá trị chứng minh về

tuổi của người đó.

Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp nhưng chỉ xác định

được khoảng thời gian tháng, quý, nửa đầu hoặc nửa cuối của năm hoặc năm

sinh thì tùy từng trường hợp cụ thể cần căn cứ khoản 2 Điều 417 Bộ luật Tố

tụng hình sự để xác định tuổi của họ.

3. Trường hợp kết quả giám định tuổi chỉ xác định được khoảng độ tuổi

của người bị buộc tội, người bị hại thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố

tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy tuổi thấp nhất trong khoảng

độ tuổi đã xác định được để xác định tuổi của họ.

Ví dụ: Kết luận giám định A có độ tuổi trong khoảng từ 13 tuổi 6 tháng

đến 14 tuổi 2 tháng thì xác định tuổi của A là 13 tuổi 6 tháng.”

Như vậy, để xác định người bị hại phải căn cứ vào các tài liệu giấy

20

chứng sinh, giấy khai sinh, căn cước công dân hoặc hộ chiếu. Trường hợp

không có các giấy tờ trên hoặc có căn cứ xác định những tài liệu này không

chính xác thì tiến hành giám định xương để xác định độ tuổi.

Bộ luật Hình sự quy định “phụ nữ mà biết là có thai”, nghĩa là bị cáo

biết được phụ nữ có thai mà vẫn thực hiện hành vi cướp giật đối với họ thì

mới bị áp dụng tình tiết tăng nặng này.

Theo Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng

Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của

Bộ luật Hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hình phạt, giảm thời

hạn chấp hành hình phạt thì “người già” được xác định là người từ đủ 70 tuổi

trở lên; “người quá già yếu” là người từ 70 tuổi trở lên hoặc người từ đủ 60

tuổi nhưng thường xuyên đau ốm.

Người không có khả năng tự vệ là người đang trong thể trạng yếu đuối,

bất lực về thể chất hoặc tinh thần, người bị bệnh tật, người đang ngủ say,

người đang ở trong tình trạng không thể chống đỡ hoặc không thể tự bảo vệ

mình được...

Khác với quy định đối tượng bị tác động là “phụ nữ mà biết là có thai”,

các đối tượng là người dưới 16 tuổi, người già yếu hoặc người không có khả

năng, Bộ luật Hình sự năm 2015 không quy định là bị cáo phải biết người bị

hại dưới 16 tuổi hay người già yếu, không có khả năng tự vệ.

h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

Việc cướp giật tài sản diễn ra thường xuyên và có tính chất lặp đi, lặp

lại trong thời gian dài sẽ gây ra những tác động xấu đến tình hình an ninh, tác

động tiêu cực đến trật tự, an toàn xã hội. Khi áp dụng tình tiết này phải căn cứ

vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ ảnh hưởng xấu đến an ninh,

trật tự, an toàn xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo.

Do vậy, trường hợp gây ảnh hưởng rất xấu đến an ninh, trật tự, an toàn

21

xã hội hoặc gây ảnh hưởng đặc biệt xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội thì

cũng chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội theo khung

hình phạt tại điểm h khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

i) Tái phạm nguy hiểm.

Tái phạm nguy hiểm được quy định tại khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình

sự [35].

Các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng

đều là lỗi cố ý. Người phạm tội đã bị kết án về các tội rất nghiêm trọng do lỗi

cố ý, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội về tội

phạm rất nghiêm trọng được coi là tái phạm nguy hiểm. Bởi lẽ, việc tiếp tục

phạm tội này thể hiện thái độ coi thường pháp luật của bị cáo, không ăn năn

hối cải để làm công dân tốt mà lại tiếp tục phạm tội. Vì thế, cần có hình phạt

nghiêm khắc đối với bị cáo.

Lưu ý, khi áp dụng tình tiết định khung này thì không áp dụng tình tiết

tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm nguy hiểm” quy định tại Điều 53 Bộ

luật Hình sự.

Một ngoại lệ khi áp dụng tình tiết “tái phạm nguy hiểm” khi người

phạm tội là người dưới 18 tuổi. Đó là “người dưới 18 tuổi bị kết án được coi

là không có án tích, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: Người từ đủ

14 tuổi đến dưới 16 tuổi; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội

phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng

do lỗi vô ý” [35, khoản 1 Đ.107]. Như vậy, những người này, khi đã đủ 18

tuổi thực hiện hành vi cướp giật tài sản thì không bị truy cứu trách nhiệm hình

sự về tình tiết “tái phạm nguy hiểm”.

Khoản 3 Điều 171 BLHS quy định phạm tội thuộc một trong các

trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

22

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000

đồng;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà

tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

Là trường hợp người phạm tội lợi dụng vào hoàn cảnh thiên tai, dịch

bệnh để thực hiện hành vi phạm tội cướp giật tài sản. Mức độ nguy hiểm của

hành vi phạm tội trong trường hợp này phụ thuộc vào phạm vi, mức độ của

thiên tai, dịch bệnh, hoặc tính chất, mức độ của những khó khăn khác của xã

hội trong tình trạng thiên tai, dịch bệnh.

Khoản 4 Điều 171 BLHS quy định phạm tội thuộc một trong các

trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ

lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31%

trở lên;

c) Làm chết người;

Làm chết người là trường hợp khi thực hiện hành vi cướp giật, người

phạm tội đã tấn công người bị hại hoặc người khác để chiếm đoạt tài sản hoặc

để tẩu thoát và gây ra cái chết cho họ. Như vậy, lỗi trong trường hợp này là

lỗi vô ý, bởi lẽ, nếu cố ý gây ra cái chết cho người bị hại trong khi thực hiện

hành vi cướp giật, thì hành vi của họ cấu thành 02 tội cướp giật tài sản và giết

người.

d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

Là dấu hiệu định khung chỉ bị áp dụng khi người phạm tội lợi dụng các

hoàn cảnh nêu trên để thực hiện tội phạm. Mức độ nguy hiểm của hành vi

23

phục thuộc vào tính chất của hoàn cảnh chiến tranh, tính chất và mức độ của

tình trạng khẩn cấp. Trong đó, tình trạng chiến tranh là trạng thái xã hội đặc

biệt của đất nước trong thời gian từ khi nhà nước bị xâm lược đến khi hành

động xâm lược đó được chấm dứt trên thực tế. Tình trạng khẩn cấp về quốc

phòng là trạng thái xã hội của đất nước khi có nguy cơ trực tiếp bị xâm lược

hoặc đã xảy ra hành động vũ trang xâm lược hoặc bạo loạn nhưng chưa đến

mức tuyên bố tình trạng chiến tranh.

- Khoản 5 Điều 171 quy định hình phạt bổ sung của tội này: người

phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.

1.2. Phân biệt tội cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam với

một số tội phạm khác

1.2.1. Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội công nhiên chiếm đoạt tài

sản

Điều 172 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội công nhiên chiếm

đoạt tài sản như sau: “Người nào công nhiên chiếm đoạt tài sản của người

khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000

đồng ….”. Cũng như quy định về tội cướp giật tài sản, nhà làm luật không mô

tả hành vi phạm tội và cũng không định nghĩa thế nào là “công nhiên chiếm

đoạt” tài sản. Theo từ điển Tiếng Việt, “công nhiên” là công khai trước mọi

người [59, tr.271]. Về mặt khách quan, công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành

vi chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác một cách công khai khi người

chiếm hữu không có điều kiện ngăn cách bảo vệ. Tuy nhiên, chỉ bị truy cứu

trách nhiệm hình sự khi giá trị tài sản chiếm đoạt từ 2 triệu đồng trở lên hoặc

giá trị tài sản chiếm đoạt dưới 2 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành

chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về tội

này hoặc các tội xâm phạm sở hữu nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi

phạm.

24

Xét về kỹ thuật lập pháp, tội cướp giật tài sản và tội công nhiên chiếm

đoạt tài sản, nhà làm luật không mô tả hành vi phạm tội. Mặt khác, tội cướp

giật tài sản có cấu thành hình thức nghĩa là tội phạm hoàn thành khi thực hiện

hành vi. Ngược lại, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản có cấu thành vật chất,

nghĩa là ngoài hành vi phạm tội còn có hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa

hành vi và hậu quả.

Về hành vi khách quan, cả hai tội cướp giật tài sản và công nhiên chiếm

đoạt tài sản đều có dấu hiệu công khai chiếm đoạt tài sản, người phạm tội

không có ý định che dấu hành vi phạm tội của mình đối với chủ sở hữu và

người xung quanh. Điểm khác nhau, tội cướp giật tài sản còn có dấu hiệu

nhanh chóng chiếm đoạt và nhanh chóng tẩu thoát. Ngược lại, trong cấu thành

tội phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không có dấu hiệu nhanh chóng

tẩu thoát mà lợi dụng tình trạng chủ tài sản do gặp vướng mắc khách quan mà

không có điều kiện quản lý được tài sản của mình.

1.2.2. Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội cướp tài sản

Thực tiễn xét xử thường xung đột giữa tội cướp giật tài sản với tội cướp

tài sản. Vì thế, việc phân biệt giữa hai tội này có ý nghĩa quan trọng trong

việc xác định tội danh và hình phạt.

Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội cướp tài sản như

sau: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành

vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự

được nhằm chiếm đoạt tài sản”.

Xét về kỹ thuật lập pháp, cả hai tội cướp giật tài sản với tội cướp tài sản

đều có cấu thành hình thức, nghĩa là điều luật chỉ quy định hành vi khách

quan. Điểm khác nhau là, nhà làm luật mô tả hành vi khách quan của tội cướp

tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản có dùng vũ lực, hoặc đe dọa dùng vũ lực

nguy tức khắc hoặc những hành vi khác làm cho người chiếm giữ tài sản

25

không thể chống cự được mà giao tài sản cho người phạm tội, hoặc người

phạm tội chiếm lấy tài sản. Ngược lại, hành vi khách quan của tội cướp giật

tài sản không dùng vũ lực và không đe dọa dùng vũ lực làm cho chủ sở hữu

lầm vào tình trạng không thể chống cự để chiếm đoạt tài sản.

1.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài

sản từ năm 1945 đến nay

1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến trước khi có BLHS năm 1985

Đây là giai đoạn nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa mới thành

lập, ở trong tình trạng vừa phải đối phó với thù trong giặc ngoài, vừa xây

dựng đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 47/SL ngày

10/10/1945 cho phép áp dụng một số văn bản của pháp luật cũ không trái với

nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Lúc này, nước Việt

Nam dân chủ cộng hòa chưa có văn bản pháp luật hình sự riêng biệt. Khi đó,

ở Bắc Kỳ áp dụng Hoàng Việt hình luật và ở Nam Kỳ áp dụng luật pháp tu

chính.

Đến năm 1970, Ủy ban Thường vụ quốc ban hành Pháp lệnh số 149-

LCT ngày 21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa.

Theo đó, tội cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa được quy định tại Điều 5 của

Pháp lệnh này [74]. Để bảo vệ các tài sản riêng của công dân, Ủy ban Thường

vụ quốc ban hành Pháp lệnh số 150-LCT ngày 21/10/1970 về trừng trị các tội

xâm phạm tài sản riêng của công dân. Theo đó, tội cướp giật tài sản xã hội

chủ nghĩa được quy định tại Điều 4 của Pháp lệnh này [74]. Những pháp lệnh

này tuy còn sơ khai nhưng đã bước đầu khái quát và nhận diện các tội xâm

phạm sở hữu làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, do đặc điểm

của đất nước vào lúc này, Nhà nước chỉ thừa nhận hai hình thức sở hữu là sở

hữu nhà nước xã hội chủ nghĩa và sở hữu riêng của công dân và coi trọng sở

hữu nhà nước nên hình phạt đối với tội cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa cao

26

hơn tội cướp giật tài sản công dân.

1.3.2. Theo Bộ luật Hình sự năm 1985

Đối với cá nhân tài sản và quyền sở hữu tài sản là quyền hiến định, là

động lực để con người lao động, tạo ra của cải và phát triển xã hội. Vì vậy, tài

sản và quyền bất khả xâm phạm về tài sản là nội dung quan trọng trong hệ

thống pháp luật của mỗi quốc gia. Tài sản của Nhà nước, của tập thể và của

công dân được bảo vệ một cách hiệu quả bằng các quy định của pháp luật

hình sự.

Tội cướp giật tài sản là một trong các tội được Bộ luật hình sự quy định

tại, có cùng khách thể là quan hệ sở hữu. Đó là những hành vi có lỗi gây thiệt

hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và sự gây thiệt hại này thể

hiện được đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi.

Bộ luật hình sự năm 1985 được Quốc hội thông qua vào ngày

27/6/2985, có hiệu lực vào ngày 01/01/1986, tại Chương 4 các tội xâm phạm

sở hữu xã hội chủ nghĩa và Chương 6 các tội xâm phạm sở hữu của công dân.

Đây đều là những hành vi có lỗi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho

quan hệ sở hữu và sự gây thiệt hại này thể hiện được đầy đủ nhất bản chất

nguy hiểm cho xã hội của hành vi, trong đó có tội cướp giật tài sản. Khách thể

của hai chương này đều là quan hệ sở hữu, có sự phân chia bởi hình thức sở

hữu khác nhau.

Điều 131: Tội cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản xã hội chủ

nghĩa quy định:

“1. Người nào cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản xã hội chủ

nghĩa nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 129, thì bị phạt tù từ một

năm đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba

năm đến mười hai năm:

27

a. Có tổ chức hoặc có tính chuyên nghiệp.

b. Dùng thủ đoạn nguy hiểm, hành hung để tẩu thoát.

c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng

khác.

d. Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội trong các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ

mười năm đến hai mươi năm.”

Điều 154: Tội cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản của công

dân quy định:

“1. Người nào cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản của người

khác, nếu không thuộc trường hợp quy định ở Điều 151, thì bị phạt tù từ ba

tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai

năm đến 10 năm.

a. Có tổ chức hoặc có tính chuyên nghiệp.

b. Dùng thủ đoạn nguy hiểm, hành hung để tẩu thoát.

c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng

khác.

d. Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội trong các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ

bảy đến hai mươi năm.”

Như vậy, do tình hình kinh tế xã hội giai đoạn này, nhà nước đặc biệt

chú trọng bảo vệ tài sản chung (tài sản xã hội chủ nghĩa) hơn tài sản riêng (tài

sản tư nhân), mức hình phạt tối đa là tù 15 năm đối với tội cướp giật tài sản

riêng của công dân và 20 năm tội cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa. Về kỹ

thuật lập pháp, Tội cướp giật tài sản được thể hiện dưới dạng tội ghép trong

một điều luật, quy định chung với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

28

1.3.3. Theo Bộ luật Hình sự năm 1999

Từ sau năm 1986, đất nước bước vào giai đoạn đổi mới và đạt được

những thành tựu to lớn về kinh tế dẫn đến những biến đổi mạnh mẽ trong đời

sống xã hội. Nhằm giải phóng sức lao động, sáng tạo của các tầng lớp trong

xã hội và phù hợp với giai đoạn đất nước chuyển mình, gia nhập vào đời sống

kinh tế quốc tế đòi hỏi nhà nước phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành

phần kinh tế đòi hỏi Nhà nước ta cần có quan điểm bình đẳng giữa sở hữu

chung và sở hữu riêng

Thực tiễn thực thi Bộ luật hình sự năm 1985, việc phân định hai hình

thức sở hữu để quy định thành hai khách thể bảo vệ độc lập là tài sản thuộc sở

hữu xã hội chủ nghĩa và sở hữu của công dân dẫn đến việc định tội danh là rất

khó và không chính xác, không đảm bảo quyền bình đẳng về sở hữu đối với

các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, đến Bộ luật hình

sự năm 1999, các nhà lập pháp đã nhập hai khách thể riêng được quy định tại

Chương 4 và Chương 6 của Bộ luật hình sự năm 1985 thành Chương XIV các

tội xâm phạm sở hữu, gồm có 13 điều. Theo đó, có 12/13 tội danh không

phân biệt tài sản bị xâm phạm thuộc hình thức sở hữu nào và đã chuyển tội

tham ô tài sản về chương các tội phạm về chức vụ. Tội cướp giật tài sản cũng

được quy định tại chương này.

Điều 136: Tội cướp giật tài sản quy định:

“1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một

năm đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị thì bị phạt tù

từ ba năm đến mười năm:

a. Có tổ chức.

b. Có tính chất chuyên nghiệp.

c. Tái phạm nguy hiểm.

29

d. Dùng thủ đoạn nguy hiểm,

đ. Hành hung để tẩu thoát.

e. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ

lệ thương tật từ 11% đến 30%.

g. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai

trăm triệu đồng.

h. Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị thì bị phạt tù

từ bảy năm đến mười lăm năm:

a. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ

lệ thương tật từ 31% đến 60%.

b. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm

trăm triệu đồng.

c. Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị thì bị phạt tù

từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ

lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người.

b. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên.

c. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm

triệu đồng.

Điểm khác biệt quy định về tội cướp giật tài sản theo Bộ luật Hình sự

năm 1985 với Bộ luật hình sự năm 1999, nhà làm luật đã lượng hóa cụ thể

mức độ hậu quả của hành vi phạm tội và có sự phân hóa trách nhiệm hình sự

cao hơn qua việc xây dựng nhiều khung hình phạt với nhiều tình tiết tăng nặng

khung cụ thể hơn. Lần đầu tiên, Bộ luật hình sự quy định về mức phạt tiền.

30

1.3.4. Theo Bộ luật Hình sự năm 2015

BLHS năm 2015 ra đời, trên cơ sở chuyển hóa các quy định của Hiến

pháp năm 2013 về bảo vệ quyền con người, quyền sở hữu tài sản hợp pháp

của Nhà nước và của công dân, kế thừa những quy định của Bộ luật hình sự

năm 1999. Các tội xâm phạm sở hữu được quy định tại Chương XVI vẫn gồm

13 tội. Việc quy định hình phạt xây dựng theo bảo đảm đối xử bình đẳng giữa

chính sách xử lý hành vi xâm phạm tài sản của Nhà nước với hành vi xâm

phạm tài sản của cá nhân theo tinh thần của Hiến pháp 2013; tăng mức phạt

tiền bổ sung đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu và bãi bỏ hình phạt tử hình

(đối với tội Cướp tài sản). Về tội cướp giật tài sản vẫn không có thay đổi

nhiều so với Bộ luật Hình sự năm 1999. Cụ thể:

Điều 171: Tội cướp giật tài sản quy định

“1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01

năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị thì bị phạt tù

từ 03 năm đến 10 năm:

a. Có tổ chức;

b. Có tính chất chuyên nghiệp;

c. Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đ;

d. Dùng thủ đoạn nguy hiểm;

đ. Hành hung để tẩu thoát.

e. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ

lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

g. Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ biết mà có thai, người

già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

h. Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội.

i. Tái phạm nguy hiểm.

31

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị thì bị phạt tù

từ bảy năm đến mười lăm năm:

a. Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

b. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ

lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

c. Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị thì bị phạt tù

từ 12 đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a. Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng trở lên;

b. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ

tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;

c. Làm chết người;

d. Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

5. Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến

100.000.000 đồng.

Những điểm mới của quy định về tội cướp giật tài sản theo Bộ luật

Hình sự năm 2015 là, nhà làm luật đã bổ sung các tình tiết tăng nặng trách

nhiệm hình sự tại điểm g, điểm h khoản 2. Bỏ tình tiết “gây hậu quả nghiêm

trọng và gây hậu quả rất nghiêm trọng” quy định tại điểm h khoản 2, điểm c

khoản 3 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999. Điểm b khoản 4 Điều này bổ

sung tình tiết“Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người

trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên” và tách

tình tiết “làm chết người” thành tình tiết riêng, quy định tại điểm c khoản

4 “làm chết người”. Bỏ tình tiết “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” quy

định tại điểm c khoản 4 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999 thay bằng

tình tiết “Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp” (điểm d

32

khoản 4 Điều 171).

Qua nghiên cứu lịch sử phát triển quy định của tội cướp giật từ năm

1945 đến nay cho thấy: các quy định về tội cướp giật tài sản luôn thay đổi cho

phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng chống tội cướp giật tài sản trong từng

giai đoạn lịch sử và ngày càng hoàn thiện hơn, đảm bảo hơn các yêu cầu của

các nguyên tắc của luật hình sự.

Tiểu kết chương 1

Cho đến nay, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban

hành 03 bộ luật hình sự, đó là Bộ luật Hình sự năm 1985, năm 1999 và năm 2015.

Tội cướp giật tài sản được quy định tại các bộ luật hình sự này được nhà các nhà lập

pháp thể hiện dưới dạng quy định giản đơn và có cấu thành tội phạm hình thức,

nghĩa là chỉ nêu tội danh, không mô tả hành vi phạm tội và tội phạm hoàn thành khi

thực hiện hành vi, hậu quả của hành vi phạm tội có ý nghĩa là tình tiết định khung

hình phạt không có ý nghĩa định tội danh. Tại chương một, Luận văn đã chỉ ra

“cướp giật tài sản là hành vi công khai chiếm đoạt tài sản của người khác và nhanh

chóng tẩu thoát”. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định các mức hình phạt khác

nhau của tội cướp giật tài sản tùy vào các tình tiết định khung tăng nặng trách

nhiệm hình sự khác nhau.

33

Chương 2:

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CƯỚP GIẬT

TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1. Khái quát tình hình xét xử tội cướp giật tài sản trên địa bàn

Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây

Quận 1 là trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của Thành phố Hồ Chí

Minh. Là nơi tập trung các cơ sở kinh doanh, tụ điểm giải trí nên thu hút đông

đảo người dân thành phố nói chung và du khách trong và ngoài nước. Vì thế,

tình hình an ninh trật tự của khu vực này cũng phức tạp.

Trong các năm từ 2013 đến 2018, Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố

Hồ Chí Minh đã xét xử nhiều vụ án hình sự về tất cả các loại tội phạm, trong

đó có các tội xâm phạm sở hữu và tội cướp giật tài sản. Vì thẩm quyền xét xử

của Tòa án nhân dân cấp huyện, nên chỉ xét xử đối với các tội ít nghiêm trọng,

nghiêm trọng và rất nghiêm trọng có khung hình phạt cao nhất là 15 năm tù.

Bảng 2.1. Thống kê số vụ phạm tội và các nhóm tội phạm trên địa

Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Nhóm tội phạm

Số

Số

Số

Số

Số

Số

bị

bị

bị

bị

bị

bị

vụ

vụ

vụ

vụ

vụ

vụ

cáo

cáo

cáo

cáo

cáo

cáo

Xâm phạm sở

146 190 157 198 163 175 159 195 145 201 155 217

hữu

Tính mạng sức

55

70

54

66

50

55

59

77

37

49

26

37

khoẻ

43

57

65

79

75

87

63

79

72

92

59

75

Ma tuý

35

62

30

42

33

39

29

47

33

48

51

63

Trật tự xã hội

16

23

26

40

29

41

31

52

20

23

35

49

Khác

295 402 332 425 350 397 341 450 307 413 326 441

Tổng

bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, giai đoạn 2013- 2018

Nguồn: Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh

34

Qua bảng thống kê trên, tình hình tội phạm trên địa bàn Quận 1, Thành

phố Hồ Chí Minh, giai đoạn 2013- 2018 diễn biến phức tạp, tăng trong năm

2013 đến 2015, giảm trong các năm 2016 đến 2018. Tuy nhiên, số lượng các

vụ án về xâm phạm sở hữu luôn tăng trong các năm và chiếm tỷ lệ từ trên 45

đến 55% trong tổng số các vụ án đưa ra xét xử tại Tòa án nhân dân Quận 1,

Thành phố Hồ Chí Minh.

Bảng 2.2. Thống kê số vụ phạm tội và số người phạm tội cướp giật

tài sản so với tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn Quận 1, Thành

phố Hồ Chí Minh, giai đoạn 2013- 2018

Tình hình tội phạm Tội cướp giật tài sản Tỷ lệ % Năm Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo

2013 295 402 59 76 20 18,9

2014 332 425 47 59 14,15 13,88

2015 350 397 63 82 18 20,6

2016 341 450 68 98 19,9 21,8

2017 307 413 70 101 22,8 24,45

2018 326 441 71 99 21,8 22,44

515 19,3 20,37 Tổng 1.952 2.528 378

Nguồn: Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh

Qua số liệu trên thống kê bảng 2.2 nêu trên cho thấy, từ năm 2013 đến

năm 2018, Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử tổng

cộng 1.952 vụ án hình sự, trong đó có 378 vụ án cướp giật tài sản, chiếm tỷ lệ

19,3%, xét xử 2.528 bị cáo, số bị cáo cướp giật tài sản là 515, chiếm tỷ lệ

20,37%. Trong đó, các vụ án cướp giật tài sản năm sau cao hơn năm trước,

năm 2018 cao nhất với 71 vụ án, năm 2013 thấp nhất với 59 vụ, đặc biệt năm

2014 giảm hơn năm 2013 là 12 vụ sau đó năm 2015 tăng lên 68 vụ án. Trong

năm 27 và 2018 tăng không đáng kể, chỉ 01 vụ án.

35

Bảng 2.3. Thống kê số vụ phạm tội và số người phạm tội cướp giật

tài sản so với tình hình các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận 1,

Thành phố Hồ Chí Minh, giai đoạn 2013- 2018

Năm

Năm

Năm

Năm 2015

Năm 2017 Năm 2018

2014

2016

2013

Nhóm

tội

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

phạm

bị

bị

bị

bị

bị

bị

vụ

vụ

vụ

vụ

vụ

vụ

cáo

cáo

cáo

cáo

cáo

cáo

65

Cướp

32

46

37

56

32

34

39

58

36

60

40

giật tài

sản

Trộm

67

81

79

92

81

87

72

77

85

112 79

109

cắp tài

sản

Cưỡng

5

12

0

0

3

4

1

1

0

0

9

13

đoạt tài

sản lạm

Lừa đảo

12

17

8

10

15

15

18

27

5

5

12

12

chiếm

đoạt tài

sản

25

25

19

21

22

25

12

12

10

12

8

8

Lạm

dụng tín

nhiệm

chiếm

đoạt tài

sản

5

9

14

19

10

10

17

20

9

12

7

10

Khác

146 190 157

198 163 175

159 195 145

201 155

217

Tổng

36

Qua bảng 2.3 thống kê số liệu nêu trên, nhận thấy, từ năm 2013 đến

năm 2018, các vụ án cướp giật tài sản chiếm tỷ trọng cao trong nhóm các tội

xâm phạm sở hữu từ trên 30%, chỉ sau tội trộm cắp tài sản. Hầu như, những

vụ cướp giật tài sản có số bị cáo cao, cho thấy các vụ án này thường có đồng

phạm.

Các số liệu thống kê về tình hình tội cướp giật tài sản tại Quận 1 TP.

Hồ Chí Minh cho thấy nhu cầu cần phải đưa ra các biện pháp trong đó có biện

pháp bằng pháp luật hình sự để phòng, chống tội cướp giật tài sản một cách

có hiệu quả hơn nữa.

2.2. Định tội danh tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành

phố Hồ Chí Minh

Dưới góc độ khoa học “định tội danh là quá trình nhận thức lý luận có

tính lô-gich, là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự

cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ,

các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định

sụ phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực

hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy

định nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác

tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cá thể hóa và phân hóa trách

nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật” [62,

tr.1712]. Điều đó có nghĩa là, Bộ luật Hình sự là đánh giá về mặt pháp lý của

nhà nước đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội, việc thực hiện tội

phạm là thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với các

dấu hiệu của một cấu thành tội phạm tương ứng được quy định trong pháp

luật hình sự.

Định tội danh là tiền đề để áp dụng các quy định pháp luật tố tụng hình

sự và luật hình sự. Đó là các quy định về thẩm quyền điều tra, truy tố và xét

37

xử và tính thời hạn tạm giam, tạm giữ, điều tra, truy tố và xét xử … Định tội

danh đúng sẽ loại trừ việc kết án vô căn cứ những người có hành vi nguy

hiểm cho xã hội, không trái pháp luật hình sự và tạo tiền đề pháp lý cho việc

quyết định hình phạt công bằng đối với những người phạm tội. Hậu quả cơ

bản nhất của quyết định hình phạt là việc áp dụng hình phạt hoặc các biện

pháp khác do luật quy định đối với người phạm tội. Vì vậy, việc định tội danh

ảnh hưởng rất lớn lớn đến lợi ích lớn đến lợi ích xã hội, quyền, lợi ích hợp

pháp của tổ chức, cá nhân.

Để định tội danh đúng phải nắm vững cấu thành của tội phạm. Nếu

không nắm vững cấu thành của tội “Cướp giật tài sản” dễ dẫn đến sai lầm khi

định tội danh. Cấu thành tội phạm bao gồm những dấu hiệu cần và đủ. Vì nếu

thiếu một trong các dấu hiệu đó thì cấu thành tội phạm không được xác định.

Và cũng là dấu hiệu đủ cho một cấu thành tội phạm vì không cần thêm một

dấu hiệu nào cho bất cứ một cấu thành tội phạm nào vì nó đã được xác định

và có đủ cơ sở để phân biệt với một cấu thành tội phạm cụ thể này với cấu

thành tội phạm khác.

Ví dụ, Bản án số 79/2016/HSST ngày 14/3/2016 của Tòa án nhân dân

Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh mô tả hành vi phạm tội như sau:

“Khoảng 04 giờ 30 ngày 08/08/2015, chị Đinh Thị Kim Liên đi taxi

đến trước nhà số 50 Bùi Viện, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1. Chị Liên

xuống xe lấy tiền trả cho anh Phạm Thanh Tùng, tài xế taxi, thì bất ngờ bị

Nguyễn Minh Tiến đi bộ từ phía sau áp sát người chị Liên dùng tay phải cướp

giật lấy tiền trên tay chị Liên rồi nhanh chóng tẩu thoát.”

Phần quyết định của Bản án số 79/2016/HSST ngày 14/3/2016 tuyên

bố bị cáo Nguyễn Minh Tiến phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Để tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh Tiến phạm tội “Cướp giật tài sản”,

Hội đồng xét xử đã đánh giá sự phù hợp giữa hành vi phạm tội do bị cáo thực

38

hiện với cấu thành tội phạm của tội “Cướp giật tài sản” do Bộ luật Hình sự

quy định. Hội đồng xét xử nhận định “căn cứ lời khai của bị cáo tại Cơ quan

điều tra, lời khai người bị hại, người làm chứng, tang vật đã thu giữ và các tài

liệu khác có trong hồ sơ có cơ sở xác định bị cáo Tiến có hành vi chiếm đoạt

tài sản là 590.000 đồng của chị Đinh Thị Kim Liên rồi nhanh chóng tẩu

thoát”. Thực vậy, hành vi phạm tội của bị cáo Tiến “đi bộ từ phía sau áp sát

người chị Liên dùng tay phải cướp giật lấy tiền trên tay chị Liên rồi nhanh

chóng tẩu thoát” có đầy đủ dấu hiệu đặc trưng của tội “Cướp giật tài sản” là

công khai chiếm đoạt và nhanh chóng tẩu thoát.

Tuy nhiên, thực tế xét xử, có những vụ án hành vi phạm tội của bị cáo

không thấy rõ các dấu hiệu của tội “ Cướp giật tài sản” và dễ nhầm lẫn sang

các tội khác. Vì vậy, Hội đồng xét xử phải nắm vững cấu thành tội phạm để

định đúng tội danh, không gây oan sai cho người phạm tội.

Tại Bản án số 238/2016/HSST ngày 26/5/2016 của Tòa án nhân dân

Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh mô tả hành vi phạm tội như sau:

“Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 11/12/2015, Trịnh Anh Tuấn thuê xe

ôm của ông Nguyễn Ngọc Hải đi từ giao lộ Nguyễn Tri Phương gặp Bà Hạt,

đến trước nhà số 102/7/23 Công Quỳnh, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Khi đến nơi, Tuấn xuống xe và mượn điện thoại ông Hải để gọi cho bạn. Ông

Hải vẫn đứng cạnh quan sát Tuấn. Lúc này, Tuấn nảy sinh ý định chiếm đoạt

chiếc điện thoại nên cầm điện thoại nhanh chóng bỏ chạy vào hẻm 102 tẩu

thoát. Ông Hải có đuổi theo nhưng do hẻm sâu và không biết đường nên ông

Hải không tìm được Tuấn. Khoảng 10 phút sau, ông Hải đi lòng vòng tìm

Tuấn thì nhìn thấy Tuấn đang đi bộ ở xa lộ Trần Hưng Đạo, Đề Thám Quận 1

nên truy hô và đuổi theo liên tục đến hẻm 100 Trần Hưng Đạo thì có ông Hồ

Văn Mỹ (là bảo vệ dân phố đang trực tại hẻm trên), nhìn thấy liền bắt giữ

Tuấn và thu giữ trên tay phải Tuấn chiếc điện thoại Nokia 220 của ông Hải.

39

Sau đó, ông Mỹ, ông Hải đưa Tuấn cùng vật chứng về trụ sở công an phường

Phạm Ngũ Lão lập biên bản xử lý”.

Phần Quyết định của bản án: “Tuyên bố bị cáo Trịnh Anh Tuấn phạm

tội “Cướp giật tài sản””.

Trong vụ án nêu trên, hành vi phạm tội của bị cáo Trịnh Anh Tuấn

không thấy rõ đặc điểm của tội “Cướp giật tài sản” là công khai chiếm đoạt

tài sản thể hiện hành động “giật tài sản”. Bị cáo Tuấn, nhận được chiếc điện

thoại hợp pháp từ người bị hại và nhanh chóng bỏ chạy. Chỉ có dấu hiệu

“nhanh chóng tẩu thoát” là nhận thấy rõ. Liệu dấu hiệu “nhanh chóng tẩu

thoát” có phải là dấu hiệu đặc trưng riêng có của tội tội “Cướp giật tài sản”

mà không có trong các tội phạm khác. Trong các tội xâm phạm sở hữu dấu

hiệu “nhanh chóng tẩu thoát” cũng xuất hiện trong cấu thành của các tội xâm

phạm sở hữu khác như cướp, trộm cắp.

Nếu xét hành vi của bị cáo Tuấn, thuê xe ôm, mượn điện thoại của bị

hại Hải - người lái xe ôm, gọi điện thoại và cầm điện thoại bỏ chạy rất dễ

nhầm lẫn với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Điều 174 Bộ luật Hình sự năm

2015 quy định “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của

người khác”. Ở đây, bị cáo Tuấn đã có hành vi gian dối là thuê xe ôm làm

người lái xe ôm tin tưởng giao điện thoại cho Tuấn sử dụng. Tuy nhiên, nếu

xem xét kỹ nội dung “Ông Hải vẫn đứng cạnh quan sát Tuấn”, nghĩa là tài sản

vẫn nằm trong sự quản lý của chủ tài sản, bị cáo Tuấn chưa chiếm đoạt được

tài sản. Nên “việc thuê xe ôm, mượn điện thoại để gọi” chỉ là thủ đoạn tiếp

cận người bị hại của bị cáo, nhằm khi người bị hại sơ hở để chiếm đoạt tài sản

của họ. Hành vi “cầm điện thoại nhanh chóng bỏ chạy”, lúc này, bị cáo Tuấn

mới chiếm đoạt được tài sản và xuất hiện dấu hiệu “nhanh chóng tẩu thoát”

đặc trưng của tội “Cướp giật tài sản”. Như vậy, Hội đồng xét xử nắm rõ cấu

thành tội phạm của tội “Cướp giật tài sản”, đã phân tích đánh giá hành vi

40

phạm tội để ghi nhận và xác định những điểm đặc trưng, phù hợp giữa hành

vi phạm tội và cấu thành tội phạm để định tội danh đúng.

Thực tiễn xét xử trên cho thấy, có sự tương đồng trong hành vi phạm

tội của bị cáo Tuấn với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bị cáo Tuấn đã có thủ

đoạn gian dối mượn điện thoại của ông Hải và nhanh chóng tẩu thoát. Tuy

nhiên theo phân tích ở trên, lúc này tài sản vẫn trong tầm quản lý của ông Hải,

bị cáo Tuấn chưa chiếm đoạt tài sản.

Thông qua vụ án này, thực tiễn áp dụng quy định của Điều 171 Bộ luật

Hình sự cho thấy nên mô tả hành vi cướp giật tài sản để áp dụng pháp luật

thống nhất khi điều tra, truy tố, xét xử các vụ án cướp giật tài sản.

2.3. Thực tiễn áp dụng các tình tiết định khung hình phạt đối tội

cướp giật tài sản

2.3.1. Thực tiễn áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “sử dụng thủ

đoạn nguy hiểm”

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử phải đánh giá hành vi phạm

tội phù hợp với cấu thành cơ bản, cấu thành tăng nặng của tội phạm do Bộ

luật Hình sự đã quy định để quyết định hình phạt cụ thể áp dụng đối với từng

bị cáo. Để định khung hình phạt tăng nặng làm cơ sở để quyết định hình phạt

thì phải áp dụng đúng các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của tội

cướp giật tài sản. Thực tiễn áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “sử dụng

thủ đoạn nguy hiểm” được thể hiện thông qua bản án sau:

Tại Bản án số 213/2017/HSST ngày 22/9/2017 của Tòa án nhân dân

Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử đã xem xét, nhận định tính

chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để quyết định mức hình phạt cụ

thể áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Ngọc Thái như sau:

Hành vi phạm tội của bị cáo được mô tả như sau: “Vào khoảng 00 giờ

30 phút ngày 13/4/2017, Nguyễn Ngọc Thái điều khiển xe mô tô biển số

41

76V9- 2911 đi lòng vòng qua nhiều tuyến đường tìm người có tài sản để cướp

giật. Khi đi đến trước số nhà 17 Đặng Trần Côn, phường Bến Thành, Quận 1,

phát hiện chị Nguyễn Thị Hồng đang đứng trước cửa nhà trên tay cầm chiếc

túi xách, Thái liền điều khiển xe mô tô áp sát chị Hồng dùng tay trái giật

chiếc túi xách rồi tăng ga bỏ chạy thoát. Chị Hồng liên truy hô, có hai đồng

chí Nguyễn Đình Tuấn, Nguyễn Công Hiệu (Công an Quận 1) đi tuần tra

chứng kiến sự việc nên đuổi theo qua nhiều tuyến đường đến trước nhà số 01

Bùi Thị Xuân, Quận 1 thì bắt giữ được Thái thu giữ vật chứng đưa về phường

Bến Thành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.”

Tại phần Quyết định của Bản án số 213/2017/HSST ngày 22/9/2017

nêu trên quyết định như sau:

“Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Thái phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136, điểm g, p khoản 1 Điều 46 của Bộ

luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Thái 04 (bốn) năm tù.”

Để có quyết định hình phạt như trên, Hội đồng xét xử đã nhận định

hành vi của bị cáo Thái như sau: “Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý, nguy

hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản

của công dân … Trong vụ việc, bị cáo sử dụng xe gắn máy để làm phương

tiện thực hiện hành vi phạm tội, là tình tiết định khung tăng nặng “dùng thủ

đoạn nguy hiểm được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Hình

sự” và cũng phù hợp theo hướng dẫn tại điểm 5.3 của Thông tư liên tịch số

02/2001 ngày 25/12/2001 về “dùng thủ đoạn nguy hiểm” như dùng xe mô tô,

xe máy để thực hiện việc cướp giật tài sản.

2.3.2. Thực tiễn áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “sử dụng thủ

đoạn nguy hiểm” và “tái phạm nguy hiểm”

Thực tiễn áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “sử dụng thủ đoạn

nguy hiểm” và “tái phạm nguy hiểm” được thể hiện qua bản án sau:

42

Tại Bản án số 14/2015/HSST ngày 28/01/2015 của Tòa án nhân dân

Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử đã xem xét, nhận định tính

chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của người phạm

tội để quyết định mức hình phạt cụ thể áp dụng đối với bị cáo.

“Vào khoảng 12 giờ 45 phút ngày 01/9/2014, một mình Huỳnh Quốc

Cường sinh năm 1985 điều khiển xe gắn máy BS 54T5-4138 qua nhiều tuyến

đường khu vực nhà thờ Đức Bà nhằm người có tài sản sơ hở để cướp giật tài

sản. Khi đến đối diện cổng chính nhà thờ Đức Bà, Công xã Pari, phường Bến

Nghé, Quận 1, thì Cường phát hiện chị Hồ Thị Hiền đang đứng phía sau

tượng Đức Mẹ, trên tay có cầm một máy chụp hình hiệu Canon, Cường liền

điều khiển xe áp sát trước mặt chị Hiền đồng thời dùng tay trái giật chiếc máy

chụp hình của chị Hiền. Sau khi cướp giật được tài sản, Cường tăng ga bỏ

chạy theo hướng ngược chiều đường Nguyễn Du ra đường Hai Bà Trưng. Khi

bị cướp giật tài sản, chị Hiền truy hô cướp, lúc này có các đồng chí Tuyến,

đồng chí Minh (trinh sát Đội CSĐTTP về TTXH CAQ1) đang đi tuần tra phát

hiện vụ việc cướp giật tài sản và tuy đuổi, áp sát đối tượng Cường đến giao lộ

Nguyễn Siêu – Thi Sách, đồng chí Tuyến bắn 03 phát súng chỉ thiên yêu cầu

Cường dừng xe nhưng Cường vẫn tiếp tục điều khiển xe bỏ chạy. Đồng chí

tuyến bắn tiếp 01 phát súng vào đùi phải của Cường làm Cường ngã xe xuống

đường và bị bắt giữ cùng vật chứng giao về Công an phường Bến Nghé lập hồ

sơ phạm tội quả tang”.

Phần quyết định của Bản án như sau: “Tuyên bố bị cáo Huỳnh Quốc

Cường phạm tội “Cướp giật tài sản”. Áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 136;

điểm g, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999; Xử phạt bị cáo

Huỳnh Quốc Cường 05 (năm) năm tù. Thời hạn tính từ ngày 01/9/2014.”

Trong vụ án nêu trên, hành vi của bị cáo Cường “điều khiển xe áp sát

trước mặt chị Hiền đồng thời dùng tay trái giật chiếc máy chụp hình của chị

43

Hiền. Sau khi cướp giật được tài sản, Cường tăng ga bỏ chạy theo hướng

ngược chiều đường Nguyễn Du ra đường Hai Bà Trưng” và sử dụng xe gắn

máy là thỏa mãn dấu hiệu “sử dụng thủ đoạn nguy hiểm” của cấu thành tăng

nặng của tội cướp giật (khoản 2 Điều 136 BLHS năm 1999)

Để xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm trong hành vi của bị cáo

Cường, Hội đồng xét xử còn xem xét nhân thân người phạm tội. Theo đó,

“Qua thống kê tội phạm đã thể hiện ngày 05/01/2009 bị cáo Cường đã phạm

tội “Cướp giật tài sản” bị Tòa án nhân dân Quận 1 xử phạt 03 năm tù giam,

đến ngày 05/10/2011, Cường đã chấp hành xong hình phạt và đến ngày

01/9/2014, Cường lại dùng xe gắn máy giật tài sản như nêu trên …. thuộc

trường hợp tái phạm nguy hiểm”. Căn cứ theo khoản 2, Điều 49 Bộ luật Hình

sự năm 1999 (hay khoản 2, Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015) về tái phạm

nguy hiểm nhận thấy, bị cáo Cường chưa được xóa án tích, thời hạn chấp

hành xong hình phạt là ngày 05/10/2011, thời hạn để xóa án tích đối với bị

cáo Cường là 03 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù và không phạm

tội mới trong thời hạn đó. Ngày để xóa án tích của bị cáo Cường là ngày

06/10/2014, nhưng chưa hết thời hạn này, ngày 01/9/2014, bị cáo Cường lại

phạm tội “Cướp giật tài sản” và có tình tiết định khung tăng nặng là “sử dụng

thủ đoạn nguy hiểm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều

136 Bộ luật hình sự được xem là tội phạm rất nghiêm trọng là thỏa mãn tình

tiết tái phạm nguy hiểm.

2.4. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản

Quyết định hình phạt là giai đoạn cuối cùng của áp dụng pháp luật hình

sự, được Tòa án (với nghĩa là Hội đồng xét xử) thực hiện ngay sau việc định

tội danh, định khung hình phạt. Quyết định hình phạt tức là việc Tòa án lựa

chọn biện pháp trách nhiệm hình sự cụ thể để áp dụng đối với người phạm tội

trên cơ sở các căn cứ pháp luật quy định nhằm đạt được mục đích trừng phạt,

44

răn đe, và phòng ngừa chung. Chỉ Tòa án là cơ quan có thẩm quyền duy nhất

được quyết định hình phạt. Ngoài Tòa án, không ai có thể quyết định hình

phạt đối với người phạm tội. Việc quyết định hình phạt được thực hiện trên cơ

sở các căn cứ pháp luật quy định.

Quyết định hình phạt là việc xác định người phạm tội có phải chịu trách

nhiệm hình sự hay được miễn trách nhiệm hình sự. Trường hợp phải chịu

trách nhiệm hình sự thì người đó phải chịu hay miễn hình phạt; lựa chọn loại,

mức hình phạt và quyết định biện pháp chấp hành hình phạt theo chế tài pháp

luật quy định.

Thông qua bản án sau, chúng ta thấy rõ việc áp dụng các quy định của

Bộ luật hình sự trong việc quyết định hình phạt. Bản án số 144/2018/HSST

ngày 17/9/2018 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh có nội

dung vụ án như sau:

“Do cần tiền tiêu xài cho bản thân, nên Nguyễn Hoàng Tín điện thoại

rủ Nguyễn Hoàng Tú đi cướp giật tài sản và Tú đồng ý. Đến khoảng 21 giờ

ngày 10/4/2018, Nguyễn Hoàng Tín (Sn; 15/9/2003) điều khiển xe gắn máy

hiệu Honda, loại Future, biển số 59N1 – 369.72, chở Nguyễn Hoàng Tú (Sn;

25/3/2000) ngồi phía sau đi trên đường tìm người có tài sản để cướp giật. Khi

đến trước nhà số 31 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường Nguyễn Thái Bình, Quận 1

thì Tú phát hiện anh Hứa Thuận Phong đang điều khiển xe gắn máy chở chị

Nguyễn Thị Thúy Hằng, trên tay trái chị Hằng đang cầm chiếc điện thoại di

động hiệu Iphone X màu trắng để sử dụng nên Tú nói Tín điều khiển xe áp sát

chị Hằng để giật. Tín liền chạy xe gắn máy áp sát bên trái để Tú ngồi phía sau

xe dùng tay phải giật chiếc điện thoại di động cua chị Hằng, sau đó Tín điều

khiển xe gắn máy chở Tú bỏ chạy. Chị Hằng truy hô và cùng anh Phong đuổi

theo, cùng lúc đó có anh Nguyễn Đoan Tiến và Trần Trung Nghĩa (là trinh sát

đặc nhiệm Đội cảnh sát hình sự - Công an Quận 1) cùng các anh Vũ Cao

45

Tùng và Đàm Đình Trọng (là người dân) chứng kiến sự việc nên hỗ trợ truy

đuổi Tín, Tú qua nhiều tuyến đường. Khi đi đến trước cây xăng số 40, số 01

Phạm Ngũ Lão, phường Nguyễn Thái Bình, Quận 1 thì Tú ném chiếc điện

thoại Iphone X xuống đường, anh Trọng nhìn thấy nên dừng lại thu giữ chiếc

điện thoại di động trên. Sau đó, Tín tiếp tục điều khiển xe máy bỏ chạy đến

khu vực Quách Thị Trang (trước chợ Bến Thành), Quận 1 thì bị ngã xe. Tín

bỏ lại xe gắn máy chạy bộ đến trước nhà số 1-3 Phan Chu Trinh, Quận 1 thì

bị anh Tiến và anh Trọng bắt giữ, riêng Tú tiếp tục dựng xe gắn máy biển số

59N1 – 369.72 bỏ chạy đến khu vực vòng xoay Ngã Sáu Phù Đổng, Quận 1

thì bị anh nghĩa và anh Tùng bắt giữ cùng phương tiện gây án”.

Phần quyết định của Bản án như sau:

“Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng Tín phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; Điều 101; điểm b, h,s khoản 1,

khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm

2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Tín 01 (một) năm tù. Thời hạn tính từ

ngày bắt bị cáo chấp hành án (được trừ đi thời gian đã bị tạm giam trước đó từ

ngày 10/4/2018 đến ngày 20/4/2018).

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng Tú phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b, h,s khoản 1, khỏan 2 Điều

51 của Bộ luật Hình sự 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị

cáo Nguyễn Hoàng Tú 03 (ba) năm tù. Thời hạn tính từ ngày 10/4/2018.

Nhận thấy, qua mô tả hành vi phạm tội nêu trên, có cơ sở nhận định, bị

cáo Nguyễn Hoàng Tín, Nguyễn Hoàng Tú đã phạm tội “Cướp giật tài sản”

với phương thức dùng xe gắn máy để thực hiện hành vi cướp giật được xem

là thủ đoạn nguy hiểm, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản

2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đồng thời, Hội đồng xét xử cũng nhận định về vai trò của các bị cáo

46

trong vụ án, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với

từng bị cáo như sau: “Trong vụ án, bị cáo Tín là người khởi xướng, rủ rê lôi

kéo bị cáo Tú là người trực tiếp thực hiện hành vi cướp giật tài sản của người

bị hại, do đó vai trò của hai bị cáo trong việc thực hiện hành vi phạm tội là

như nhau. Đối với các bị cáo cần có mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng

với hành vi phạm tội. Tuy nhiên, xét các bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra

ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, bản thân chưa có tiền án, tiền sự, tài sản đã

kịp thời thu hồi trả lại cho người bị hại. Nên khi lượng hình Hội đồng xét xử

áp dụng các điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự giảm

nhẹ một phần hình phạt tạo điều kiện cho các bị cáo sửa chữa sai lầm, trở

thành người công dân có ích cho xã hội. Riêng đối với bị cáo Nguyễn Hoàng

Tín, tại thời điểm phạm tội bị cáo là người chưa thành niên (sn 15/9/2003),

tuy nhiên bị cáo là người chủ mưu, cầm đầu, rủ rê bị cáo Tú phạm tội, tính

chất, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo phạm tội với

mục đích kiếm tiền tiêu xài cho bản thân do đó, khi xem xét quyết định mức

hình phạt đối với bị cáo Hội đồng xét xử cũng đã áp dụng các tình tiết giảm

nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và quy định tại Điều 101 Bộ luật Hình

sự năm 2015 nên không chấp nhận cho bị cáo được hưởng án treo như đề

nghị của Đại diện Viện Kiểm sát và các luật sư bào chữa cho bị cáo”.

Như vậy, Hội đồng xét xử đã không chấp nhận đề nghị cho bị cáo Tín

hưởng án treo của Đại diện Viện Kiểm sát và các luật sư, đã áp dụng điểm d

khoản 2 Điều 171; Điều 101; điểm b, h,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ

luật Hình sự 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn

Hoàng Tín 01 (một) năm tù. Thời hạn tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án

(được trừ đi thời gian đã bị tạm giam trước đó từ ngày 10/4/2018 đến ngày

20/4/2018). Mặc dù, Hội đồng xét xử đã áp dụng nhiều tình tiết giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự và áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, quyết

47

định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng. Mức

án 01 (một) năm tù đối với bị cáo Tín là nghiêm khắc và không hợp vì tại

thời điểm xét xử sở thẩm bị cáo Tín chỉ 15 tuổi 0 tháng và 02 ngày, thiết nghĩ

nên áp dụng biện pháp cải tạo không giam giữ, để bị cáo tiếp tục việc học tập

theo đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát và các Luật sư của bị cáo.

Tại Bản án 160/HCPT ngày 22/3/2019 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ

Chí Minh đã xem xét và sửa Bản án số 144/2018/HSST ngày 17/9/2018 của

Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh như sau:

“Áp dụng Điểm g Khoản 2 Điều 171; các điểm h, s Khoản 1, Khoản 2

Điều 51; Điều 91; Khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được

sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Tín 01 (năm) tù nhưng cho bị cáo được

hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm, tính từ ngày tuyên án”.

Để có quyết định như trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã nhận định về

hành vi, tính chất nguy hiểm cho xã hội của bị cáo Tín và hoàn cảnh, nhân

thân, độ tuổi của bị cáo Tín như sau:

“Bị cáo Nguyễn Hoàng có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng; mức

hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt đối với bị cáo là 01 năm tù; bị cáo có

03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 1 Điều 51 của

Bộ luật Hình sự năm 2015. Ngoài ra, bị cáo Tín phạm tội khi mới 14 tuổi 6

tháng 26 ngày nên nhận thức có phần còn hạn chế; hiện tại bị cáo Tín đang đi

học, ngoài ra do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên bản thân bị cáo Tín còn

phải lao động phụ giúp gia đình thể hiện bị cáo có khả năng tự cải tạo, không

cần phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù, việc cho bị cáo hưởng án treo

không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự,

an toàn xã hội. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng quy định tại Điều

65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được hướng dẫn bởi Nghị quyết số

48

02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 05 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán

Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân

Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh và kháng cáo của người đại diện hợp pháp

của bị cáo Nguyễn Hoàng Tín, sửa một phần bản án sơ thẩm cho bị cáo Tín

được hưởng án treo”.

Từ thực tiễn xét xử trên nhận thấy, khi xét xử đòi hỏi Hội đồng xét xử

phải xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng cũng như giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự, nhân thân của bị cáo để quyết định hình phạt phù hợp. Bản án phúc

thẩm số 160/HSPT ngày 22/3/2019 đã quyết định hình phạt có lý có tình, xem

xét đến nhân thân của bị cáo Tín và tạo điều kiện để bị cáo tiếp tục đi học,

nhận được sự giáo dục, chăm sóc, quản lý của gia đình. Từ đó, bị cáo Tín có

phục thiện, thay đổi, phấn đấu thành công dân có ích cho xã hội.

2.5. Nhận xét chung về thực tiễn xét xử về tội “Cướp giật tài sản”

tại Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh

Từ phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự khi xét xử các vụ án

về cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh những năm

từ 2013 cho đến 2018, có một số kết luận như sau:

* Về ưu điểm:

- Chương 2 đã dẫn chứng các bản án điển hình của Tòa án nhân dân

Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh khi xét xử các vụ án cướp giật tài sản cho

thấy, đa số Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã xác định đúng tội danh, định

khung hình phạt và quyết định hình phạt phù hợp với các quy định của Bộ

luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật Hình sự năm 2015 về định tội, định khung

và quyết định hình phạt. Không có án bị hủy về tội cuớp giật tài sản, một

lượng nhỏ án bị sửa về hình phạt, hoặc cho hưởng án treo.

- Tội cướp giật tài sản là tội phạm có tính phổ biến trong nhóm tội

phạm xâm phạm sở hữu, và thường xuyên xảy ra và xét xử thường xuyên, lặp

49

đi lặp lại nhiều lần nên những người tiến hành tố tụng đều nắm vững các các

dấu hiệu pháp lý của tội này nên đa số áp dụng đúng quy định. Mặt khác, Tòa

án nhân dân Quận 1 và Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thường

xuyên tổ chức tập huấn các quy định của Bộ luật Hình sự nên Thẩm phán và

Hội thẩm nhân dân nắm vững các quy định của pháp luật về tội cướp giật tài

sản.

* Những tồn tại, hạn chế:

- Thực tế áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản trên địa bàn

Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời đây cho thấy không có những vụ

án gây oan sai (định tội sai) mà chỉ có các sai sót liên quan đến các dấu hiệu

định khung, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và xử lý vật

chứng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bị cáo. Có một vài vụ án Hội

đồng xét xử chưa xem xét toàn diện các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình

sự của bị cáo, không cần thiết cách lý bị cáo khỏi xã hội, có thể áp dụng án

treo nên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã sửa án và áp dụng án

treo, như vụ án của Nguyễn Hoàng Tín nêu trên.

- Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Bộ luật Hình sự năm 2015 có

những quy định mới, đặc biệt là các quy định trách nhiệm hình sự và hình

phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nên vẫn còn những sai sót trong

việc áp dụng hình phạt đối với đối tượng phạm tội này.

- Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định một số tình tiết giảm nhẹ và tăng

nặng trách nhiệm hình sự mới vì vậy, nên cần tập huấn cho Thẩm phán, Hội

thẩm nhân dân để người tiến hành tố tụng áp dụng ddusngs quy định pháp

luật khi quyết định hình phạt.

Tiểu kết Chương 2

Thực tiễn xét xử về tội “Cướp giật tài sản” tại Tòa án nhân dân Quận 1,

Thành phố Hồ Chí Minh khá phong phú. Tuy nhiên, vì thẩm quyền xét xử của

50

Tòa án cấp quận huyện cao nhất là các tội phạm rất nghiêm trọng, có khung

hình phạt cao nhất là 15 năm. Nên Tòa án nhân dân Quận 1 xét xử về tội

“Cướp giật tài sản” cao nhất là khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999

(tương ứng với Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015). Quá trình xét xử, Hội

đồng xét xử đã định tội danh “Cướp giật tài sản” theo cấu thành cơ bản và

định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự. Đồng thời, Hội đồng xét xử cũng

đã quyết định hình phạt trong những tình huống, vụ án phạm tội khác nhau,

có tính chất phức tạp trong hành vi phạm tội và nhân thân khác nhau. Hội

đồng xét xử đã vận dụng các đúng và hợp lý các quy định của Bộ luật hình sự

để cá thể hóa hình phạt áp dụng đối với từng bị cáo, vừa đảm bảo tính răn đe,

giáo dục đối với từng bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

51

Chương 3:

CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢO ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP

LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

3.1. Những nhu cầu và yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự khi

xét xử các vụ án cướp giật tài sản

Pháp luật của Nhà nước là sự thể chế hóa đường lối, chủ trương của

Đảng trong việc lãnh đạo và quản lý xã hội phát triển theo định hướng nhất

định. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật phải đảm bảo một

số cơ sở, yêu cầu nhất định như: cụ thể hóa được chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước; phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở nước ta;

phải phù hợp với ý thức pháp luật của người dân; đồng thời đảm bảo được

tính hiệu quả, tính đồng bộ của pháp luật… Các quy định về tội cướp giật tài

sản trong pháp luật hình sự Việt Nam là sự thể chế hóa đường lối, chủ trương

của Đảng trong phòng, chống tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói

riêng. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện quy định về tội cướp giật tài

sản của pháp luật hình sự Việt Nam phải đảm bảo các yêu cầu cụ thể sau:

- Thứ nhất, phải cụ thể hóa được chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Để đấu tranh phòng, chống tội phạm chung, tội cướp giật tài sản nói

riêng, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ

trương, chính sách nhằm đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tội phạm này. Các

chủ trương, chính sách này được thể hiện qua các Nghị quyết và Hiến pháp

như: Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày

21/8/2006 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm; Nghị quyết số

21/NQ-CP ngày 12/05/2009 của Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia

52

phòng, chống tội phạm đến năm 2020; Hiến pháp năm 2013… Chính vì thế,

việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản

phải cụ thể hóa được chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được quy

định trong các Nghị quyết, Hiến pháp nêu trên để đảm bảo chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước đi vào thực tế cuộc sống. Cụ thể là chủ trương,

chính sách: khoan hồng đối với những người cướp giật tài sản nhưng đã tự

giác khai báo trước khi bị phát hiện; trừng trị nghiêm khắc những đối tượng

cướp giật tài sản có tổ chức, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

- Thứ hai, phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta.

Pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và điều chỉnh các

quan hệ xã hội trong quốc gia đó. Mỗi quốc gia ở mỗi giai đoạn khác nhau thì

sẽ có những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau. Do đó, pháp luật của các

quốc gia ở mỗi giai đoạn khác nhau cũng sẽ khác nhau để phù hợp với điều

kiện kinh tế - xã hội của giai đoạn đó. Nếu các quy định của pháp luật không

phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của quốc gia thì sẽ kìm hãm sự phát

triển kinh tế - xã hội, hiệu quả áp dụng trong thực tế không cao. Chính vì vậy,

khi hoàn thiện các quy định về tội cướp giật tài sản phải phù hợp với điều

kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay là: xây dựng Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tích

cực và chủ động hội nhập quốc tế; đời sống vật chất, tinh thần, trình độ dân trí

và ý thức pháp luật của người dân ngày càng được nâng cao…

- Thứ ba, phải phù hợp với ý thức pháp luật của nhân dân.

Nhân dân là người góp phần xây dựng nên những quy định pháp luật

thông qua những kiến nghị, góp ý về các quy định của pháp luật và nhân dân

là người góp phần đưa các quy định đó vào trong thực tiễn. Khi điều luật phù

hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân thì sẽ được nhân dân thực hiện tốt

trong thực tiễn, tính hiệu quả của pháp luật sẽ được đảm bảo, đồng thời ý thức

53

pháp luật của người dân sẽ được nâng cao. Và ngược lại, khi điều luật đó

không phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân thì sẽ có thể tạo ra sự

cản trở cho việc tuân thủ cũng như áp dụng điều luật trong thực tiễn. Vì vậy,

yêu cầu đặt ra là khi hoàn thiện quy định pháp luật nói chung, quy định pháp

luật hình sự về tội cướp giật tài sản nói riêng phải rõ ràng, phù hợp với ý chí

và ý thức pháp luật của người dân, đảm bảo được sự phù hợp và khả năng tiếp

cận của mọi tầng lớp nhân dân. Có như vậy mới bảo đảm cho mục tiêu của

Nhà nước ta đề ra khi quy định tội cướp giật tài sản mới có thể đạt được.

- Thứ tư, phải đảm bảo tính hiệu quả và tính đồng bộ của pháp luật.

Tính hiệu quả của pháp luật được hiểu là kết quả của sự tác động của

pháp luật đối với các quan hệ xã hội được điều chỉnh trong một khoảng không

gian và thời gian cụ thể, so với mục tiêu mà Nhà nước đề ra khi ban hành

pháp luật. Còn tính đồng bộ của pháp luật có thể hiểu là sự thống nhất, phù

hợp trong các quy định của pháp luật; là sự phù hợp trong cùng một quy định,

giữa quy định này với quy định khác trong pháp luật. Các quy định của pháp

luật phải có hiệu quả và đồng bộ thì mới tồn tại ổn định lâu dài trong thực

tiễn, nếu không có hiệu quả hoặc không đồng bộ thì sẽ nhanh chóng bị sửa

đổi, bổ sung hoặc bị thay thế bằng quy định khác phù hợp và có hiệu quả hơn.

Vì vậy, khi sửa đổi, bổ sung quy định về tội cướp giật tài sản trong

BLHS hiện hành thì phải đảm bảo được tính hiệu quả, đó là phải bảo vệ được

hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức và hướng đến giảm dần tội cướp

giật tài sản xảy ra trong thời gian tới, đồng thời giáo dục mọi người ngày càng

hiểu biết hơn và tuân thủ tốt hơn các quy định của pháp luật hình sự về tội

cướp giật tài sản. Đồng thời, các quy định về tội cướp giật tài sản được hoàn

thiện cũng phải đảm bảo sự thống nhất, không được mâu thuẫn, chồng chéo

nhau giữa các quy định trong tội này, giữa tội cướp giật tài sản với tội khác

trong BLHS, giữa tội cướp giật tài sản với các hành vi vi phạm hành chính...

54

- Thứ năm, phải đảm bảo khả năng chứng minh về tố tụng.

Khi có một hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra trên thực tế thì các cơ

quan chức năng phải tiến hành áp dụng các biện pháp được pháp luật quy

định để xác định hành vi đó có đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay không; nếu

là tội phạm thì đó là tội phạm gì, do ai thực hiện và hậu quả của tội phạm như

thế nào... . Để thực hiện tốt việc chứng minh tội phạm đòi hỏi các cơ quan

tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải hiểu rõ các dấu hiệu pháp lý

của tội đó và có khả năng chứng minh được các dấu hiệu pháp lý đó bằng các

chứng cứ. Do đó, các quy định của pháp luật hình sự phải đảm bảo khả năng

chứng minh về tố tụng. Có như vậy mới chứng minh được và xử lý được tội

phạm trên thực tế. Cho nên, khi hoàn thiện các quy định của tội cướp giật tài

sản thì cần phải đảm bảo khả năng chứng minh về tố tụng. Qua đó, giúp cho

hoạt động chứng minh tội cướp giật tài sản theo quy định trong tố tụng hình

sự sẽ thuận lợi hơn, hiệu quả hơn, đạt kết quả tốt hơn

3.2. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội

cướp giật tài sản

3.2.1. Kiến nghị sửa đổi Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015

- Thứ nhất, mô tả cụ thể hành vi cướp giật tài sản tại Điều 171 BLHS

Qua lý luận về tội cướp giật tài sản và thực tiễn xét xử các vụ án cướp

giật tài sản đã được trình bày tại Chương 1 và 2 của Luận văn này cho thấy

một trong những vướng mắc là Điều 171 Bộ luật hình sự quy định về tội cướp

giật tài sản thể hiện dưới hình thức cấu thành hình thức, không mô tả cụ thể

hành vi phạm tội, nên gây khó khăn và nhầm lẫn trong một số trường hợp mà

hành vi phạm tội có tính chất tương đồng với các tội phạm khác. Do đó,

chúng tôi đề xuất hoàn thiện quy định về tội cướp giật tài sản theo hướng mô

tả cụ thể hành vi cướp giật tài sản. Cụ thể, khoản 1 Điều 171 BLHS sửa đổi

như sau:

55

“1. Người nào công khai và nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của người

khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”

Quy định theo Điều 171 Bộ luật hình sự hiện hành, không mô tả cụ thể

hành vi phạm tội gây khó hiểu đối với người dân, đồng thời cũng dễ gây

nhầm lần đối với người tiến hành tố tụng khi xác định tội danh. Do đó, việc

sửa đổi, bổ sung này giúp giải quyết được vướng mắc trong thực tiễn khi áp

dụng quy định của Điều 171 BLHS, tránh nhầm lẫn giữa tội cướp giật tài sản

với các tội phạm khác.

Trên cơ sở các phân tích nêu trên, Luận văn kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy

định về tội cướp giật tài sản tại Điều 171 BLHS năm 2015 như sau:

Bộ luật hình sự năm 2015

Kiến nghị sửa đổi, bổ sung

(sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Điều 171. Tội cướp giật tài sản

Điều 171. Tội cướp giật tài sản

“1. Người nào cướp giật tài sản của 1. Người nào công khai và nhanh

người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm chóng chiếm đoạt tài sản của người

đến 05 năm. khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05

năm.

- Thứ hai, kiến nghị TAND Tối cao ra nghị quyết hướng dẫn mới về

tình tiết “hành hung để tẩu thoát” trong các tội xâm phạm sở hữu

Tình tiết “hành hung để tẩu thoát” trong các tội xâm phạm sở hữu và

trường hợp chuyển hóa sang tội cướp tài sản hiện nay được hướng dẫn tại

Thông tư liên tịch số 02/2001.

Cơ sở để phân biệt hai trường hợp nêu trên là quy định của BLHS năm

2015 về dấu hiệu “hành hung để tẩu thoát” trong các tội cướp giật tài sản

(Điều 171 BLHS) và dấu hiệu định tội của tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS).

Trong quy định của BLHS năm 2015, dấu hiệu “hành hung để tẩu thoát” chỉ

bao gồm dấu hiệu “hành hung” kết hợp với dấu hiệu “để tẩu thoát” mà không

56

bao gồm các điều kiện nào khác; còn để cấu thành tội cướp tài sản thì theo

Điều 168 BLHS năm 2015 thì chỉ cần dấu hiệu “dùng vũ lực” (hành hung) kết

hợp với dấu hiệu “nhằm chiếm đoạt tài sản” (để chiếm đoạt tài sản) [35,

khoản 1 Đ.168] mà không bao gồm các điều kiện nào khác. Trong trường hợp

hành hung để chiếm đoạt tài sản, có nghĩa là chuyển hóa sang tội cướp tài sản

thì dấu hiệu “hành hung” phải có mức độ có khả năng đè bẹp hoặc làm tê liệt

sự chống cự của bị hại hoặc người khác tham gia đuổi bắt người phạm tội.

Trên cơ sở các phân tích nêu trên, Luận văn kiến nghị kiến nghị Tòa án

nhân dân Tối cao ban hành nghị quyết hướng dẫn mới về tình tiết “hành hung

để tẩu thoát” trong tội cướp giật tài sản thay thế nội dung hướng dẫn tình tiết

này tại Thông tư liên tịch số 02/2001 để làm rõ hơn nội hàm của tình tiết này

và phân biệt tình tiết này với trường hợp chuyển hóa sang tội cướp tài sản cụ

thể như sau:

Thông tư liên tịch số 02/2001 Kiến nghị ban hành trong Nghị quyết

mới hướng dẫn BLHS hiện hành

“6. Khi áp dụng tình tiết "hành hung Khi áp dụng tình tiết "hành hung để

để tẩu thoát" (điểm đ khoản 2 Điều tẩu thoát" (điểm đ khoản 2 Điều 171

136; điểm a khoản 2 Điều 137; điểm đ BLHS; điểm b khoản 2 Điều 172

khoản 2 Điều 138 BLHS) cần chú ý: BLHS; điểm đ khoản 2 Điều 173

BLHS) cần chú ý:

6.2. Nếu người phạm tội chưa chiếm 6.2. Nếu người phạm tội chưa chiếm

đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt đoạt được tài sản hoặc đang giành

được tài sản, nhưng đã bị người bị hại giật tài sản với bị hại hoặc đã chiếm

hoặc người khác giành lại, mà người đoạt được tài sản, mà người phạm tội

phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe dọa tiếp tục dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ

dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công lực ngay tức khắc tấn công người bị

người bị hại hoặc người khác nhằm hại hoặc người khác nhằm chiếm

57

chiếm đoạt cho được tài sản, thì đoạt cho được tài sản, thì trường hợp

trường hợp này không phải là "hành này không phải là "hành hung để tẩu

hung để tẩu thoát" mà đã có đầy đủ thoát" mà đã có đầy đủ các dấu hiệu

các dấu hiệu cấu thành tội cướp tài cấu thành tội cướp tài sản.

sản.” Việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ

lực ngay tức khắc trong trường hợp

này phải ở mức độ có khả năng đè

bẹp hoặc làm tê liệt sự chống cự của

bị hại hoặc người khác tham gia bắt

giữ người phạm tội.

Trong trường hợp người phạm tội

dùng vũ lực vừa để tẩu thoát và cũng

vừa để chiếm đoạt cho được tài sản

thì đây có dấu hiệu cấu thành tội

cướp tài sản.

- Tình tiết “hành hung để tẩu

thoát” (điểm đ khoản 2 Điều 171

BLHS; điểm b khoản 2 Điều 172

BLHS; điểm đ khoản 2 Điều 173

BLHS) hay trong trường hợp cấu

thành tội cướp tài sản nêu trên phải

trong phạm vi thời gian hành vi

chiếm đoạt đã bắt đầu và chưa kết

thúc. Hành vi chiếm đoạt chưa kết

thúc ở đây được hiểu là người phạm

58

tội chưa có khả năng thực tế thực

hiện đầy đủ các quyền chiếm hữu, sử

dụng, định đoạt tài sản về mặt thực

tế. Việc dùng vũ lực sau khi hành vi

chiếm đoạt đã kết thúc thì không coi

là “hành hung để tẩu thoát” hay cấu

thành tội cướp tài sản.

3.2.2 Các giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về

tội cướp giật tài sản

3.2.2.1. Tăng cường tập huấn pháp luật hình sự

Để áp dụng đúng pháp luật thì phải hiểu rõ pháp luật không chỉ đọc

hiểu câu chữ theo lối “tầm chương trích cú” mà phải hiểu tinh thần của pháp

luật, nguyên nhân, quá trình phát triển của điều luật để áp dụng đúng. Vì thế,

Tòa án nhân dân Quận 1 nên kết hợp với Viện Kiểm sát nhân dân Quận 1, Cơ

quan điều tra Công an Quận 1 và Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh

tập huấn, các buổi tọa đàm trao đổi nghiệp vụ nhằm nâng trình độ chuyên

môn của những người tiến hành tố tụng. Bởi lẽ, việc xét xử đảm bảo nguyên

tắc tố tụng, quyết định hình phạt hợp tình, hợp lý phụ thuộc hoàn toàn vào

trình độ chuyên môn của Hội đồng xét xử nói riêng và người tiến hành tố

tụng nói chung. Ngược lại, nếu trình độ chuyên môn của những người tiến

hành tố tụng kém cỏi sẽ không thể giải quyết đúng được các vụ án hình sự sẽ

dẫn đến oan, sai và giảm hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

3.2.2.2. Tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật

Hoạt động tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật có ý nghĩa quan trọng,

qua hoạt động này cho thấy bức tranh toàn cảnh của tình hình tội phạm trên

59

địa bàn về số lượng các vụ án, các nhóm tội phạm nào tăng hoặc giảm, về

nhân thân người phạm tội, độ tuổi, trình độ và hoàn cảnh của người phạm tội.

Quá trình tổng kết này có ý nghĩa trong công tác phòng ngừa tội phạm vì nó

chỉ ra các nguyên nhân, động cơ của người phạm tội để có phương án đấu

tranh thích hợp về mặt xã hội, kinh tế và chính trị.

Ngoài ra, hoạt động tổng kết xét xử tổng hợp những vướng mắc, khó

khăn và tồn tại trong việc áp dụng pháp luật khi xét xử các vụ án hình sự nói

riêng và vụ án cướp giật tài sản nói chung. Trên cơ sở đó, đề ra các giải pháp,

kiến nghị sửa đổi, bổ sung pháp luật cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống

hoặc kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao ban hành các hướng dẫn áp dụng

thống nhất pháp luật trong công tác xét xử các vụ án có bị cáo phạm tội cướp

giật tài sản.

3.2.2.3. Tăng cường khả năng, năng lực của cán bộ xét xử

Chất lượng xử lý tội phạm hình sự nói chung và xử lý tội phạm tội

cướp giật tài sản nói riêng của các cơ quan pháp luật phụ thuộc rất lớn vào

năng lực của các cán bộ pháp luật, mà ở đây chủ yếu là những người tiến

hành tố tụng. Đặc biệt là khả năng năng lực của cán bộ xét xử. Ngay kể cả với

những quy phạm pháp luật hình sự thể hiện trình độ pháp lý cao, nhưng nếu

các chủ thể áp dụng pháp luật hình sự là những người thiếu năng lực hoặc yếu

kém trong việc vận dụng các quy phạm này vào giải quyết vụ án hình sự

trong thực tiễn, thì việc các vụ án hình sự được giải quyết chậm chạp, thiếu

chính xác hoặc thậm chí là oan sai là hoàn toàn có thể xảy ra. Trình độ, năng

lực của những chủ thể áp dụng pháp luật càng yếu kém thì khả năng chậm

chạp hoặc sai lầm trong giải quyết vụ án hình sự càng cao. Vì vậy để đảm bảo

cho công tác giải quyết các vụ án tội phạm tội tội cướp giật tài sản luôn đạt

chất lượng cao, xử lý nhanh chóng, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì

đội ngũ những người tiến hành tố tụng luôn phải có được năng lực cao. Việc

60

không ngừng nâng cao năng lực của những người tiến hành tố tụng luôn là

đòi hỏi mang tính liên tục.

Tiểu kết Chương 3

Chương 3 của Luận văn cũng đã đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng

đúng đúng pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản gồm các giải pháp pháp

luật như: kiến nghị sửa đổi Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 cần được

thiết kế theo hướng mô tả rõ ràng tội cướp giật tài sản (thiết kế dưới dạng quy

định mô tả). Ngoài ra, chương 3 của Luận văn cũng đưa ra các giải pháp khác

nhằm bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản như:

cần tổ chức tập huấn về các quy định pháp luật hình sự; tổng kết thực tiễn áp

dụng pháp luật hàng năm và nâng cao năng lực của cán bộ xét xử …

61

KẾT LUẬN

1. Thời gian qua, trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh tội

cướp giật tài sản có chiều hướng gia tăng và trở thành nỗi sợ hãi của người

dân và du khách khi ra đường. Để phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả đối

với tội phạm này, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã thay đổi, sửa chữa bổ sung

những tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với tội cướp

giật tài sản.

2. Thực tiễn xét xử các vụ án cướp giật tài sản tại Tòa án nhân dân

Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh rất đa dạng và phong phú. Vì thẩm quyền

xét xử của Tòa án cấp quận, huyện chỉ với các tội phạm ít nghiêm trọng,

nghiêm trọng và rất nghiêm trọng nên hình phạt chủ yếu là dưới 15 năm tù.

Thủ đoạn, phương thức thực hiện tội phạm thường là dùng xe máy, áp sát

người bị hại, giật tài sản và nhanh chóng tẩu thoát. Các vụ án có đồng phạm

chiếm tỷ lệ cao, thường là đồng phạm giản đơn, một người điều khiển xe

máy, người còn lại giật tài sản. Nên tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là

dùng thủ đoạn nguy hiểm và có đồng phạm. Trong một vài vụ án, bị cáo đã

từng bị kết án chưa xóa án tích về tội phạm cướp giật hoặc tội phạm khác, thể

hiện thái độ xem thường pháp luật của bị cáo. Ngoài ra, còn có vụ án là người

dưới 18 tuổi phạm tội, có vai trò là xúi giục người đã thành niên phạm tội. Về

quyết định hình phạt, không có áp dụng biện pháp án treo hay cải tạo không

giam giữ đối với loại tội phạm này.

3. Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn xét xử các vụ án cướp giật tài

sản tại Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh tác giả đưa ra

những đặc trưng về nhân thân người phạm tội, thủ đoạn và phương tiện phạm

tội và người bị hại và tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ án cướp giật tài sản.

Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra các kiến nghị để áp dụng có hiệu quả pháp luật

hình sự khi xét xử loại tội phạm nay như sau: Sửa đổi Điều 171 Bộ luật Hình

62

sự năm 2015 theo hướng mô tả hành vi cướp giật tài sản, cần có hướng dẫn cụ

thể đối với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “hành hung khi tẩu

thoát” và sự chuyển hóa sang tội cướp tài sản và các giải pháp khi áp dụng

quy định về đồng phạm và thể hiện nhận định của Hội đồng xét xử đối với

hành vi phạm tội trong bản án.

63

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Ngọc Anh (2003) Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt

Nam năm 1999, Tập 2, Phần các tội phạm – Quyển 1, NXB chính trị quốc gia,

Hà Nội.

2. Nguyễn Ngọc Anh (2009) “Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự

về các tội xâm phạm sở hữu”, Tạp chí Công an nhân dân, số 4, tr.22-26.

3. Nguyễn Ngọc Anh (2002) “Một số vấn đề cần chú ý khi áp Thông tư

liên tịch số 02/2001/TTLT ngày 25/12/2001, hướng dẫn xử lý các tội xâm

phạm sở hữu”, Tạp chí Công an nhân dân, số 2, tr.16-18.

4. Phạm Văn Beo (2010) Luật hình sự Việt Nam (Quyển 2 – Phần các

tội phạm), NXB chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Trần Văn Biên, Đinh Thế Hưng (2017) Bình luận khoa học Bộ luật

hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) NXB Thế giới, Thành phố Hồ

Chí Minh.

6. Thái Chí Bình (2012) “Tội trộm cắp tài sản – Những vấn đề lý luận

và thực tiễn”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7, tr. 37-39.

7. Nguyễn Thị Bình (2010) Quyết định hình phạt trong đồng phạm,

Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

8. Nguyễn Mai Bộ (2018) “Về các tội xâm phạm sở hữu”, Tạp chí Tòa

án nhân dân, số 7, số 8, 9.

9. Bộ Tư pháp – Viện Khoa học pháp lý (2006) Từ điển luật học, NXB

Từ điển Bách khoa – NXB Tư pháp.

10. Lê Cảm (2000) Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung Luật

hình sự, tập III, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội.

11. Lê Cảm (Chủ biên) (2007) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam- Phần

chung, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

12. Lê Cảm (2005) Những vấn đề cơ bản về khoa học hình sự (Phần

chung), NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

13. Lê Cảm – Trịnh Quốc Toản (2012) Định tội danh- Lý luận, lời giải

mẫu và 500 bài tập, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội.

14. Nguyễn Ngọc Chí (2000) Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm

phạm sở hữu, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

15. Đoàn Trọng Chỉnh (2015) “Một số sai lầm phổ biến trong định tội

danh đối với tội cướp tài sản dưới hình thức có tổ chức tại Thành phố Hồ Chí

Minh”, Tạp chí Kiểm sát, số 16, tr.28-32.

16. Chủ tịch nước (1946) Sắc lệnh số 47-SL của chủ tịch Hồ Chí Minh

tạm thời giữ lại các luật lệ ở Miền Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành

các văn bản pháp luật thống nhất trong toàn quốc, ban hành ngày

10/10/1946, Hà Nội.

17. Chủ tịch nước (1958) Sắc lệnh số 267 trừng trị những âm mưu và

hành động phá hoại tài sản nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân, làm

cản trở việc thực hiện chính sách kế hoạch của nhà nước về xây dựng kinh tế

và văn hóa, ban hành ngày 15/6/1958, Hà Nội.

18. Lê Văn Đệ (2004) Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật

hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

19. Nguyễn Ngọc Điệp (2017) Bình luận khoa học phần các tội phạm –

Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), NXB Thế giới,

Thành phố Hồ Chí Minh.

20. Đinh Thị Bích Hà (dịch và giới thiệu) (2007) Bộ luật hình sự của

nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, NXB Tư pháp, Hà Nội.

21. Trần Mạnh Hà (2006) “Phân biệt một số dấu hiệu đặc trưng của tội

Trộm cắp tài sản khi định tội danh”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5, tr.7-10.02

22. Nguyễn Ngọc Hòa – Lê Thị Sơn (2006) Từ điển pháp luật hình sự,

NXB Tư pháp, Hà Nội.

23. Học viện Tòa án (2012) Chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử -

Phần kỹ năng giải quyết vụ án hình sự, Nxb Công an nhân dân.

24. Học viện Tư Pháp (2011) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, NXB

Tư pháp, Hà Nội.

25. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (1989) Nghị quyết 01-

HĐTP/NQ của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ

sung việc áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự, ban hành ngày

19/04/1989 , Hà Nội.

26. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2006) Nghị quyết số

01/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng

dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, ban hành ngày 12/5/2006,

Hà Nội.

27. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2007) Nghị quyết

01/2007/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự

về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hình phạt, giảm thời hạn chấp hành

hình phạt, ban hành ngày 02/10/2007, Hà Nội.

28. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2003) Nghị quyết số

02/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng

dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, ban hành ngày 17/4/2003,

Hà Nội.

29. Lê Văn Luật (2002) “Bàn về định tội danh đối với một số tội xâm

phạm sở hữu”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1(32), tr.53-56.

30. Đinh Văn Quế (1998) Bình luận án, NXB Thành phố Hồ Chí Minh,

31. Quốc hội (1999) Bộ luật Hình sự năm 1999, Hà Nội.

32. Quốc hội (2005) Bộ luật Hình sự năm 2005, Hà Nội.

33. Quốc hội (2015) Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Hà

Nội.

34. Quốc hội (2003) Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, Hà Nội.

35. Quốc hội (2015) Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Hà Nội.

36. Quốc hội (2013) Hiến pháp năm 2013, Hà Nội.

37. Quốc hội (2012) Luật xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.

38. Lê Thị Sơn (2004) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập 1, NXB

Công an nhân dân.

39. Phùng Thiên Tân (2011) Bộ luật hình sự Canada (quyển 2), Nxb.

Công an nhân dân, Hà Nội.

40. Võ Ngọc Thạch (2015) “Một số quy định miễn, giảm trách nhiệm

hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự Liên

bang Nga”, Tạp chí Kiểm sát, số 07, tr.57-59.

41. Nguyễn Thị Mộng Thúy (2013) Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật

hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học

viện Khoa học xã hội.

42. Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (2015) Bản án số

01/2015/HS-ST ngày 09/01/2015, Thành phố Hồ Chí Minh.

43. Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (2015) Bản án số

03/2015/HS-ST ngày 14/01/2015, Thành phố Hồ Chí Minh

44. Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (2015) Bản án số

14/2015/HS-ST ngày 28/01/2015, Thành phố Hồ Chí Minh

45. Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (2016) Bản án số

79/2016/HS-ST ngày 14/03/2016, Thành phố Hồ Chí Minh

46. Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (2016) Bản án số

213/2017/HS-ST ngày 22/9/2017, Thành phố Hồ Chí Minh

47. Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (2016) Bản án số

241/2016/HS-ST ngày 27/05/2016, Thành phố Hồ Chí Minh

48. Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (2017) Bản án số

214/2017/HS-ST ngày 22/9/2017, Thành phố Hồ Chí Minh

49. Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (2017) Bản án số

226/2017/HS-ST ngày 25/9/2017, Thành phố Hồ Chí Minh

50. Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (2018) Bản án số

96/2018/HS-ST ngày 23/5/2018, Thành phố Hồ Chí Minh

51. Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (2018) Bản án số

98/2018/HS-ST ngày 23/5/2018, Thành phố Hồ Chí Minh

52. Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (2018) Bản án số

142/2018/HS-ST ngày 29/8/2018, Thành phố Hồ Chí Minh

53. Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (2018) Bản án số

144/2018/HS-ST ngày 27/9/2018, Thành phố Hồ Chí Minh

54. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2017) Bản án số

36/HSPT ngày 20/02/2017 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh,

Thành phố Hồ Chí Minh.

55. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2019) Bản án số

160/HSPT ngày 22/3/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh,

Thành phố Hồ Chí Minh.

56. Tòa án nhân dân tối cao (1975) Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập

1, TANDTC XB, Hà Nội.

57. Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Công

an – Bộ Tư pháp (2001) Thông tư số 02/2001 hướng dẫn áp dụng một số quy

định tại chương XIV “Các tội phạm xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự

năm 1999, ban hành ngày 25/12/2001, Hà Nội.

58. Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Công

an – Bộ Tư pháp - Bộ Lao động Thương binh xã hội (2018) Thông tư liên tịch

số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH về phối hợp

thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối

với người dưới 18 tuổi , ban hành ngày 21/12/2018, Hà Nội.

59. Trung tâm từ điển học Vietlex (2009) Từ điển tiếng Việt, NXB Đà

Nẵng.

60. Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (1995) Giáo trình Luật hình sự

Việt Nam – Phần chung, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

61. Trường Đại học Luật Hà Nội (2001) Giáo trình Luật hình sự Việt

Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

62. Trường Đại học Luật Hà Nội (2002) Giáo trình Luật hình sự Việt

Nam, NXB Công an nhân dân;

63. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010) Giáo trình Luật hình sự Việt

Nam, tập I, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

64. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005) Giáo trình Luật hình sự Việt

Nam, tập II, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

65. Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh (2012) Giáo trình Luật hình

sự Việt Nam – Phần chung, NXB Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam.

66. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2016) Giáo trình Luật hình

sự Việt Nam - Phần Các tội phạm- Quyển 1 , NXB Hồng Đức- Hội Luật gia

Việt Nam;

67. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2016) Giáo trình Luật hình

sự Việt Nam - Phần Các tội phạm- Quyển 2, NXB Hồng Đức- Hội Luật gia

Việt Nam;

68. Trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2005) Giáo trình luật hình sự Việt

Nam – Phần chung, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

69. Nguyễn Văn Trượng (2009) “Trách nhiệm hình sự đối với người

thực hiện hành vi xâm phạm sở hữu có giá trị tài sản bị xâm phạm dưới mức

tối thiểu”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8, tr.20 -23.

70. Nguyễn Văn Trượng và Trần Giang Nam (2015) “Một số góp ý về

các tội phạm xâm phạm sở hữu trong dự thảo Bộ luật hình sự sửa đổi”, Tạp

chí Tòa án nhân dân, số 20, tr.30 -35.

71. Phạm Minh Tuyên (2017) “Tội cướp giật tài sản và vấn đề chuyển

hóa tội phạm theo pháp luật Hình sự Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số

19, tr.42-45.

72. Đào Trí Úc (1994) Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự

Việt Nam, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội.

73. Đào Trí Úc (2000) Tội phạm học Việt Nam, một số vấn đề lý luận và

thực tiễn, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội.

74. Ủy ban thường vụ Quốc Hội (1970) Pháp lệnh số 149/ trừng trị các

tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, ban hành LCT ngày 21/10/1970, Hà

Nội.

75. Ủy ban thường vụ Quốc Hội (1970) Pháp lệnh số 150/LCT trừng trị

các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, ban hành ngày 21/10/1970, Hà

Nội.

76. Ủy ban thường vụ Quốc Hội (2000) Tổng hợp văn bản quy phạm

pháp luật của Quốc hội, tập 1, NXB Tư pháp, Hà Nội.

77. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ tư pháp (1999) Bình luận

khoa học Bộ luật Hình sự (Phần chung), NXB chính trị quốc gia, Hà Nội.

78. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (1995) Hình phạt

trong luật Hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

79. Viện ngôn ngữ học (2000) Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Đà

Nẵng.

80. Trịnh Tiến Việt (2013) Pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng, NXB

Giao thông vận tải Hà Nội, Hà Nội.

81. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2012) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam

- Phần Các tội phạm, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

82. Võ Khánh Vinh (2014) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần các

tội phạm, NXB khoa học xã hội, Hà Nội.

83. Võ Khánh Vinh (2014) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần

chung, NXB khoa học xã hội, Hà Nội.

84. Võ Khánh Vinh (2013) Lý luận chung về định tội danh, NXB Khoa

học xã hội, Hà Nội.

85. Võ Khánh Vinh (1990) “Nguyên tắc cá thể hóa việc quyết định hình

phạt”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 08, tr.12-14.

86. Nguyễn Như Ý, Đỗ Xuân Việt, Phan Châu Thành (2006) Từ điển

Tiếng Việt cơ bản, NXB Thanh niên, Hà Nội.