VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN ĐĂNG THÔNG
TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN ĐĂNG THÔNG
TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ TƯỜNG VY
HÀ NỘI, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn tận tình
của TS. Lê Tường Vy. Các số liệu, tài liệu, kết quả được trình bày trong luận
văn là hoàn toàn chính xác, khách quan và trung thực không trùng lặp và chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Những nội dung trong
luận văn có sử dụng tài liệu tham khảo đều được trích dẫn nguồn một cách
đầy đủ, chính xác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
NGUYỄN ĐĂNG THÔNG
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................... 7
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản ......................... 7
1.2. Lịch sử quy định về tội cướp giật tài sản trong Luật hình sự Việt Nam ..... 12
1.3. Phân biệt tội cướp giật tài sản với một số loại tội khác ............................... 17
Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TẠI QUẬN 9,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................................................................ 23
2.1. Tình hình tội cướp giật tài sản tại Quận 9 trong những năm gần đây ......... 23
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật đối với tội cướp giật tài sản
tại Quận 9 ............................................................................................................ 29
2.3. Những khó khăn và nguyên nhân ................................................................ 45
Chương 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI
SẢN TẠI QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...................................... 48
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật đối với tội
cướp giật tài sản .................................................................................................. 48
3.2. Một số giải pháp nhằm áp dụng đúng các quy định của pháp luật về tội
Cướp giật tài sản .................................................................................................. 52
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 75
DANH MỤC VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
CQĐT : Cơ quan điều tra
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
TNHS : Trách nhiệm hình sự
TPHCM : Thành phố Hồ Chí Minh
VKS : Viện kiểm sát
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Số liệu tình hình khởi tố, truy tố và xét xử tội cướp giật tài
sản tại Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh từ 2015 đến 2019
Bảng 2.2: Số vụ án, số bị cáo phạm tội cướp giật tài sản bị Tòa án trả
hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung tại Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh từ 2015
đến 2019
Bảng 2.3: Hình phạt được áp dụng đối với tội cướp giật tài sản tại
Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh từ 2015 đến 2019
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quận 9 là một quận nằm ở vị trí cửa ngõ Đông Bắc của Thành phố, nối
liền địa bàn kinh tế trọng điểm của khu vực có diện tích 113,896.200 km2, có
13 phường với dân số 235.268 nhân khẩu. Địa bàn Quận 9 vốn là vùng sâu
vùng xa nông thôn của huyện Thủ Đức cũ, là vùng oanh kích tự do của quân
đội Mỹ và Sài Gòn trước kia, nên còn yếu kém nhiều về mọi mặt so với các
quận, huyện khác của Thành phố. Với điểm xuất phát thấp, kinh tế phát triển
không đồng đều, phần lớn là sản xuất nông nghiệp, ngành công nghiệp –tiểu
thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ phát triển chậm, đời sống của nhân dân
còn nhiều khó khăn, mặt bằng dân trí thấp, cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế,
yếu kém.
Tuy nhiên nhờ được sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Thành ủy - UBND
Thành phố, sự giúp đỡ của các Sở, ban, ngành Thành phố; sự lãnh đạo sâu sát
của Quận ủy, sự chủ động động trong quản lý, điều hành của chính quyền, sự
phối hợp có hiệu quả của Mặt trận và các đoàn thể, sự nỗ lực to lớn của nhân
dân, công cuộc xây dựng và phát triển của Quận 9 đã đạt được những thành tựu
nổi bật, làm thay đổi diện mạo của quận vùng ven một cách toàn diện và sâu
sắc. Trên địa bàn Quận có thêm nhiều khu công nghiệp, đặc biệt có Khu công
nghệ cao của Thành phố. Đang hình thành nhiều khu đô thị mới, tập trung và
thu hút ngày càng đông dân cư đến sinh sống, học tập và làm việc. Do đó tình
hình tội phạm trên địa bàn quận cũng có những diễn biến rất phức tạp, ngày
một gia tăng cả về số lượng lẫn thủ đoạn phạm tội có thể nói ngày càng tinh
vi hơn, trong đó có tội cướp giật tài sản xảy ra khá nhiều trong thời gian gần
đây với những thủ đoạn vô cùng manh động và liều lĩnh.
Tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 9, TPHCM so với tổng số tội
phạm hình sự được khởi tố là lớn, từ năm 2015 đến năm 2019 CQĐT đã khởi
1
tố từ nguồn tố giác, từ các tin báo về tội phạm và từ việc bắt quả tang với
tổng số 93 vụ/ 139 bị can
Trước tình hình đó, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm luôn được
các cấp có thẩm quyền trên địa bàn Quận 9 quan tâm. Được thể hiện rõ qua
chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử được quan tâm chú trọng và hiệu
quả nâng lên rõ rệt một phần là có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan tiến
hành tố tụng. Tất cả các vụ cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 9 đều được
đưa ra xét xử nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật. Song bên cạnh
đó, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn
Quận 9 vẫn còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ
quan. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Tội cướp giật tài sản từ thực tiễn
Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn Thạc sĩ của mình là vấn đề
phù hợp cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tội
cướp giật tài sản, những công trình này nghiên cứu ở những góc độ và phạm
vi khác nhau. Cụ thể như sau:
2.1. Nhóm Các luận án luận văn
- Trần Hữu Nghĩa (2014), Tội cướp giật tài sản theo luật hình sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc Gia Hà Nội;
- Nông Anh Vượng (2016), Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên, Luận văn Thạc sĩ, Học viện KHXH;
- Trần Văn Đông (2017), Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ, Học viện KHXH;
- Phạm Tuấn Anh (2018),Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ,
Học viện KHXH;
2
Các công trình nghiên cứu trên đều nói đến lý luận và pháp luật về tội
cướp giật tài sản, đặc điểm của tình hình tội phạm nói chung,phân tích những
những đặc điểm của tội phạm cướp giật tài sản ở mỗi thời kỳ, mỗi vùng lãnh
thổ - hành chính nhất định. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khoa học
này đều mang tính toàn diện, chỉ ra các phương pháp và trang bị cho học viên
có thể hệ thống các khái niệm và phương hướng nghiên cứu tội cướp giật tài.
Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại thì chưa chưa có công trình nghiên cứu
chuyên sâu nào về tội cướp giật tài sản thực tiễn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.
2.2. Nhóm Sách chuyên khảo, giáo trình
- Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội;
- Trịnh Tiến Việt (2001) ,“ Một số điểm mới về các tội xâm phạm sở hữu
trong Bộ luật hình sự năm 1999, Pháp lý;
- Trương Quang Vinh (2000), Các tội xâm phạm sở hữu trong BLHS
năm 1999, Tạp chí Luật học số tháng 4/2000, Đại học Luật Hà Nội;
Đây là một số công trình cung cấp lý thuyết cơ bản, nền tảng về tội phạm
nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng. Các công trình này mang tính lý
thuyết như: Khái niệm tình hình tội phạm, khái niệm phòng ngừa tội phạm,
khái niệm các tội xâm phạm sỏe hữu...Những công trình trên cung cấp cơ sở
lý luận để học viên vận dụng nghiên cứu đề tài luận văn của mình.
2.3. Nhóm các bài báo
- Nguyễn Tuấn Anh, “Tội phạm xâm phạm sở hữu ở nước ta và giải
pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh trong tình hình mới”, Tạp chí
Cảnh sát nhân dân, số 8/2015;
- Nguyễn Mai Bộ, “Về các tội xâm phạm sở hữu”, Tạp chí Tòa án nhân
dân , Số 7, 8 và 9/2018;
Các bài báo trên đều nêu lên những khái niệm về Tội xâm phạm sở hữu
3
nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng, thực trạng các tội này xảy ra trong
thực tiễn. Từ đó tác giả bài báo đưa ra những giải pháp để phòng ngừa đấu
tranh các loại tội phạm này, đây cũng là những giải pháp mà học viên tham
khảo để áp dụng đề xuất những kiến nghị trong luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu luận văn này trên cơ sở nghiên cứu các lý luận, các quy
định của pháp luật, cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp giật
tài sản trên địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ năm 2015 –
2019. Từ đó tác giả đề ra các biện pháp đảm bảo việc áp dụng đúng các quy
định của pháp luật về tội cướp giật tài sản.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất mục đích nghiên cứu đã đặt ra, tác giả tập
trung:
- Phân tích khái niệm về các dấu hiệu pháp lý, các qui định của pháp luật
hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản theo Điều 171 BLHS năm 2015 ( Sửa
đổi, bổ sung năm 2017).
- Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội trộm cắp tài sản, với tội cưỡng đoạt
tài sản, với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và tội cướp tài sản.
- Phân tích thực tiễn xét xử loại tội phạm này trên địa bàn Quận 9 dựa trên
thực tiễn định tội danh và thực tiễn quyết định hình phạt.
- Đề xuất các biện pháp đảm bảo việc áp dụng đúng các quy định của pháp
luật về tội cướp giật tài sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tất cả
các quan điểm khoa học, các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội
cướp giật tài sản. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài
4
sản trên địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi những vấn đề
có liên quan đến tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí
Minh trong thời gian 05 năm ( từ năm 2015 đến năm 2019). Về thực tiễn luận
văn chỉ giới hạn ở định tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án nhân dân
Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận
của Chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tội phạm nói
chung; các văn kiện của Đảng và văn bản pháp luật của Nhà nước về đấu
tranh phòng, chống tội phạm ở Việt Nam nói riêng trong quá trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Nhằm thực hiện các mục tiêu đã đề ra,
tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
+ Phương pháp lịch sử: Tác giả nêu ra và phân tích các quy định của
pháp luật trong BLHS của Việt Nam qua các thời kỳ, Từ đó có cái nhìn tổng
thể về pháp luật nói chung quy định của pháp luật Việt Nam đối với tội cướp
giật tài sản nói riêng.
+ Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê hình sự: Trong luận văn tác
giả đã thu thập số liệu thống kê qua báo cáo tổng kết và tổng hợp các số liệu
của VKSND Quận 9; từ đó tác giả phân tích số liệu theo các tiêu chí đánh giá
để phù hợp với mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn.
+ Phương pháp khảo sát, phân tích, so sánh : Sử dụng phương pháp này
trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã khảo sát tình hình chung, lựa chọn
những vụ án điển hình để nghiên cứu phân tích; tổng hợp kết quả phân tích từ
các điển hình đã lựa chọn để so sánh, rút ra các đánh giá, nhận xét phù hợp
phục vụ cho việc nghiên cứu.
5
+ Phương pháp phỏng vấn, trao đổi: Để làm rõ hơn các vấn đề nghiên
cứu, nhất là những vấn đề chưa được làm rõ bằng các biện pháp khác, tác giả
đã trao đổi, phỏng vấn trực tiếp đối với một số chuyên gia và cán bộ làm công
tác thực tiễn phụ trách các vấn đề có liên quan đến đề tài, từ đó làm rõ hơn
vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Đề tài tác giả chọn nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về tội cướp giật tài sản góp phần
hoàn thiện nội dung quy định của pháp luật về tội cướp giật tài sản.
- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Các giải pháp đề xuất trong đề tài góp phần nâng cao hiệu quả đấu
tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng.
+ Đề tài góp phần giải quyết những vướng mắc khi xét xử loại tội này
trên thực tế xét xử của Tòa án.
+ Ngoài ra kết quả nghiên cứu của đề tài còn có thể dùng làm tài liệu
giảng dạy cho các trường giảng về Luật và làm tài liệu tham khảo cho những
ai quan tâm về loại tội phạm này.
7. Kết cấu của luận văn
Bố cục của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội cướp giật tài sản
trong luật hình sự Việt Nam
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của luật hình sự Việt Nam
đối với tội cướp giật tài sản tại Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3 : Yêu cầu và giải pháp bảo đảm việc áp dụng đúng các quy
định của pháp luật đối với tội cướp giật tài sản tại Quận 9, Thành phố Hồ Chí
Minh.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản
1.1.1. Khái niệm tội cướp giật tài sản
Trước khi làm rõ khái niệm của Tội cướp giật tài sản ta cần làm rõ khái
niệm của tội phạm:
Khái niệm tội phạm: tại Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015: “Tội phạm là
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người
có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy
định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.” [1. Điều 8].
Tội cướp giật tài sản quy định tại Điều 171 BLHS năm 2015: “Người
nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.
Như vậy mặc dù Điều luật chỉ nêu tội danh mà không mô tả hành vi cướp giật
tài sản, nhưng căn cứ vào lý luận và thực tiễn xét xử thì tội cướp giật tài sản
thường xuất hiện với một số hành vi phổ biến sau:
Người phạm tội có hành vi công khai giật lấy tài sản trong tay người
khác hoặc đang trong sự quản lý của người có trách nhiệm về tài sản rồi
nhanh chóng tẩu thoát. Điểm nổi bật của tội cướp giật tài sản khi so sánh với
những tội phạm khác là người phạm tội lợi dụng sơ hở của chủ tài sản hoặc
người quản lý tài sản để nhanh chóng giật lấy tài sản mà họ khó có thể giữ
được hoặc giằng lại được. thông thường tài sản mà người phạm tội cướp giật
7
có thể là loại tài sản gọn nhẹ như: Đồng hồ, dây chuyền vàng, điện thoại...
hoặc những tài sản kồng kềnh như xe đạp, xe máy, ôtô...người phạm tội dùng
những tài sản sau khi giật được làm phương tiện tẩu thoát. Yếu tố bất ngờ
trong Tội cướp giất tài sản cũng là một dấu hiệu đặc trưng của tội phạm.
Hành vi công khai chiếm đoạt tài sản tức là người phạm tội không hề
giấu diếm hành vi phạm tội của mình và ngay sau khi bị mất tài sản người bị
hại biết ngay người giật tài sản của mình. Trong trường hợp này người phạm
tội hoàn toàn không dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản cũng không đe doạ
dùng vũ lực hoặc không dùng các thủ đoạn khác nhằm uy hiếp tinh thần của
chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản.
Có thể thấy tội cướp giật tài sản là một trong những tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản và người phạm tội thực hiện một cách cố
ý. Mục đích chiếm đoạt có trước khi người phạm tội thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản. Qua nghiên cứu tài liệu, giáo trình Luật hình sự, các bài viết trên
tạp chí, bình luận khoa học BLHS và một số tài liệu khác, tác giả có thể khái
quát tội cướp giật tài sản như sau: Tội cướp giật tài sản là hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện với lỗi cố ý bằng cách nhanh chóng giật lấy tài sản của người
khác một cách công khai rồi tìm cách tẩu thoát.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản
1.1.2.1 Khách thể của tội cướp giật tài sản
Tội cướp giật tài sản không chỉ xâm hại đến quyền sở hữu của người
khác mà còn xâm hại đến quan hệ nhân thân nhưng trực tiếp vẫn là quan hệ sở
hữu đối với tài sản của họ. Điều này đã được thể hiện rất rõ trong điều luật khi
quy định Tội cướp giật tài sản đã đưa vào trong cấu thành dấu hiệu về thiệt
hại đến tính mạng, sức khoẻ, đây là những tình tiết định khung hình phạt.
Hành vi cướp giật tài sản đã gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ của
8
người bị hại ví dụ giật tài sản mà gây tai nạn cho người đi đường. Mặc dù
việc gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ không phải là đối tượng tác động mà
người phạm tội nhằm vào, nhưng vẫn thực hiện, mà bất chấp hậu quả xảy ra.
Các tội phạm xâm phạm sở hữu trong chương XVI BLHS năm 2015 đều có
chung một khách thể là quan hệ sở hữu chính vì vậy để phân biệt Tội cướp
giật tài sản với các tội phạm xâm phạm sở hữu khác, chúng ta phải dựa vào
dấu hiệu hành vi khách quan và các dấu hiệu chủ quan khác mà không thể dựa
vào yếu tố khách thể. Như vậy có thể khẳng định tội cướp giật tài sản đã đồng
thời xâm phạm đến hai quan hệ xã hội là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân
thân.
Đối tượng mà tội phạm tác động đến ở tội cướp giật tài sản là con người
cụ thể và tài sản.
1.1.2.2 Mặt khách quan của tội cướp giật tài sản
Hành vi khách quan của tội cướp giật tài sản là công khai chiếm đoạt tài
sản và nhanh chóng tẩu thoát.
Đặc trưng của Tội cướp giật tài sản được chỉ rõ ngay trong tên của điều
luật đó là hành vi giật tài sản, tức là giằng lấy, giật lấy tài sản một cách nhanh
chóng.
Dấu hiệu công khai: Hành vi giật tài sản của người phạm tội được thực
hiện một cách công khai khi hình thức thực hiện cho phép chủ tài sản có khả
năng biết ngay khi hành vi này xảy ra. Đây cũng là một dấu hiệu đặc trưng để
phân biệt với những trường hợp phạm tội có tính lén lút, bí mật, gian dối khác
như hành vi trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tính chất công khai của
hành vi cướp giật tài sản chỉ là công khai về hành vi chứ không công khai về
nhân thân của người phạm tội. Trong thực tế người phạm tội có che giấu thân
phận của mình thì họ vẫn cấu thành tội cướp giật tài sản nếu thực hiện hành
hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm. Thực tiễn cho thấy
9
thủ đoạn phạm tội cướp giật tài sản của người phạm tội có thể thực hiện là rất
đa dạng như: lợi dụng chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản
không chú ý, gặp vướng mắc hoặc các trường hợp khác như lái xe để giật tài
sản. Việc phân tích các thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng có tác dụng để
phân biệt tội cướp giật tài sản với các tội phạm khác ta cũng phải dựa vào thủ
đoạn phạm tội này.
Dấu hiệu nhanh chóng: Đây là phương thức, thủ đoạn lợi dụng sơ hở
hoặc là tạo ra sự sơ hở của chủ tài sản, người phạm tội nhanh chóng tiếp cận,
nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng tẩu thoát. Đây là dấu hiệu cơ
bản quan trọng, bắt buộc phải có trong mặt khách quan của phạm. Đối với tội
cướp giật tài sản thì đa phần tài sản bị chiếm đoạt có đặc điểm là gọn, nhẹ, dễ
dịch chuyển hoặc một số trường hợp là tài sản cồng kềnh nhưng sau khi
chiếm đoạt người phạm tội lại dùng chính tài sản đó làm phương tiện tẩu
thoát như xe máy, ôtô. Chính vì vậy đặc điểm của tài sản cũng là căn cứ để
đánh giá thế nào là dấu hiệu nhanh chóng. Trong các dấu hiệu nhanh chóng
tiếp cận, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng tẩu thoát, thì dấu
hiệu nhanh chóng chiếm đoạt là dấu hiệu quan trọng nhất, đây là dấu hiệu bắt
buộc, không thể thiếu trong cấu thành tội phạm.
Dấu hiệu nhanh chóng là một trong những dấu hiệu giúp chúng ta có thể
phân biệt tội cướp giật tài sản với các tội khác trong chương các tội xâm phạm
sở hữu. Rõ ràng trong mặt khách quan của một số tội phạm xâm phạm sở hữu
ở chương này không cần có dấu hiệu nhanh chóng. Ví dụ như tội cướp tài sản,
người phạm tội cũng không chiếm đoạt tài sản một cách nhanh chóng mà
thông qua hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc, hoặc dùng
các thủ đoạn khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể
chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản.
Hậu quả tội cướp giật tài sản xâm phạm đồng thời đến hai khách thể đó
10
là quyền sở hữu và quyền nhân thân nên hành vi phạm tội cũng sẽ gây ra hậu
quả trước hết là những thiệt hại về tài sản, ngoài ra còn có những thiệt hại về
tính mạng, sức khoẻ. Qua nghiên cứu về lý luận tội phạm ta thấy tội cướp giật
tài sản là tội phạm có cấu thành vật chất, cho nên, tội phạm hoàn thành khi
người phạm tội giật được tài sản, nếu người phạm tội chưa giật được tài sản
thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Tội cướp giật tài sản là tội phạm
nghiêm trọng nên pháp luật hình sự không quy định mức tài sản bị chiếm đoạt
là dấu hiệu cấu thành tội phạm.
1.1.2.3 Mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản
Mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản là những biểu hiện bên trong của
tội phạm, bao gồm lỗi, động cơ, mục đích.
Lỗi của người phạm tội cướp giật tài sản chỉ có thể là lỗi cố ý trực tiếp
mà không thể là lỗi có ý gián tiếp hoặc lỗi vô ý. Người phạm tội nhận thức
được hành vi cướp giật tài sản là nguy hiểm cho xã hội thấy trước được hậu
quả của tội phạm nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó.
Người phạm tội cướp giật tài sản chỉ cấu thành tội phạm này khi họ có
mục đích chiếm đoạt tài sản. Nếu như các tội cướp, tội bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản hoặc tội cưỡng đoạt tài sản, thì mục đích chiếm đoạt tài sản có thể
xảy ra trước, trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội. Nhưng đối với tội
cướp giật tài sản mục đích chiếm đoạt tài sản luôn có trước khi người phạm
tội thực hiện hành vi giật tài sản.
1.1.2.4 Chủ thể của tội cướp tài sản
Chủ thể của tội cướp giật tài sản được quy định trong bộ luật hình sự là
người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Người thực hiện hành vi phạm tội không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh
khác (được cơ quan y tế xác nhận là mất khả năng nhận thức hoặc khả năng
điều khiển hành vi).
11
Điều 171 BLHS năm 2015 quy định bốn khung hình phạt. Căn cứ vào
quy định tại Điều 9 BLHS phân loại tội phạm, tội cướp giật tài sản bao gồm
các loại tội nghiêm trọng (Khung 1), rất nghiêm trọng (Khung 2, 3) và đặc
biệt nghiêm trọng (Khung 4) thì chủ thể của tội cướp giật tài sản là bất kỳ
người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi (đối với khoản 1
điều 171) hoặc từ đủ 14 tuổi trở lên (đối với khoản 2, 3 và 4 Điều 171).
1.2. Lịch sử quy định về tội cướp giật tài sản trong Luật hình sự Việt
Nam
1.2.1. Giai đoạn trước Bộ luật hình sự 1985
Để tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động ổn định an ninh trật tự, an ninh
chính trị, bảo vệ đất nước non trẻ, bảo vệ thành quả cách mạng, Quốc hội,
Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật. Một trong những nội dung
đặc biệt quan trọng được Hiến pháp ghi nhận “quyền tư hữu tài sản của công
dân Việt Nam được đảm bảo” Điều 12 Hiến pháp 1946. Vào thời điểm đó
Chủ tịch Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã ký Sắc lệnh số 47/SL ngày
10/10/1945 về việc áp dụng những văn bản của pháp luật không trái với
nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa. Sắc
lệnh số 26/SL ngày 25/02/1946 quy định các hành vi phá hoại công sản. Khi
chưa ban hành được các văn bản pháp luật mới nhà nước ta đã vận dụng pháp
luật của chế độ cũ để quản lý xã hội theo tinh thần của nhà nước dân chủ mới
và Nhà nước ta cũng đã từng bước ban hành những văn bản pháp luật mới
thay thế, góp phần bảo vệ các quan hệ xã hội tiến bộ trong xã hội mới.
Ngày 21/10/1970 ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua 2 pháp lệnh
mới đó là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN tại điều 5 quy
định “kẻ nào cướp giật tài sản XHCN thì bị phạt tù từ 1 năm đến 7 năm”, còn
tại điều 4 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân có
quy định “kẻ nào cướp giật tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ 3 tháng
12
đến 5 năm” . Đến giai đoạn này có thể nói pháp luật về sở hữu nói chung và
tội cướp giật tài sản nói riêng cơ bản đã được thể hiện đầy đủ, toàn diện, độc
lập trong một văn bản riêng. Ngoài ra tại thông tư liên bộ của TANDTC –
VKSNDTC – BCA ngày 16/03/1973 hướng dẫn cụ thể 2 pháp lệnh kể trên
trong đó tội cướp giật tài sản được hiểu là “trường hợp kẻ phạm tội lợi dụng
sơ hở vướng mắc của người giữ tài sản, bất thần giằng lấy tài sản trên tay
người giữ tài sản” đây là hướng dẫn mà sau nay BLHS đã tách 2 hành vi này
thành 2 tội độc lập, với hướng dẫn lợi dụng “vướng mắc” sau này được tách
thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Còn hướng dẫn “bất thần giằng lấy
tài sản trên tay người giữ tài sản” sau này được tách thành tội cướp giật tài
sản. Năm1976 chính phủ đã ban hành sắc lênh quy định tội phạm và hình phạt
SL/03. Tại đây tội cướp giật tài sản được quy định chung với các tội xâm
phạm sở hữu khác tại điều 4. Như vậy các văn bản nói trên là cơ sở pháp lý
quan trọng để đấu tranh với các đối tượng phạm tội cướp giật tài sản trong
giai đoạn này.
1.2.2. Quy định của bộ luật hình sự 1985
Đảng và Nhà nước ta coi PLHS là công cụ không thể thiếu để bảo vệ chế
độ nên Nhà nước ta pháp điển hóa pháp luật hình sự được đẩy mạnh trong
giai đoạn 1982 - 1986 mà đỉnh cao của nó là sự ra đời của một bộ luật thống
nhất, duy nhất xác định tội pham, và hình phạt. BLHS năm 1985 được quy
định rõ Phần chung và Phần riêng gồm 12 chương được chia thành 280 điều.
BLHS năm 1985 là bản tổng kết sâu sắc thực tiễn phòng ngừa, đấu tranh
chống tội phạm của nước ta thời kỳ đó, để theo kịp sự phát triển của đất nước,
cũng như điều chỉnh pháp lý hình sự các quan hệ xã hội đang tồn tại và đáp
ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tội phạm nói chung và tội cướp giật tài
sản nói riêng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều đạo luật hình sự để sửa đổi bổ
sung các quy định của BLHS năm 1985, ban hành vào các năm 1991,1992 và
13
1997 Để phù hợp với tình hình mới, quy định về tội cướp giật tài sản như sau:
Điều 131 quy định:
1. Người nào cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản xã hội chủ
nghĩa, nếu không thuộc trường hợp quy định ở Điều 129, thì bị phạt tù từ 1
năm đến 5 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 3
năm đến 12 năm:
a. Có tổ chức hoặc có tính chuyên nghiệp
b. Dùng thủ đoạn nguy hiểm; hành hung để tẩu thoát
c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác
d. Tái phạm nguy hiểm
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10
đến 20 năm.
Điều 154 quy định:
1. Người nào cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản của người
khác, nếu không thuộc trường hợp quy định ở Điều 151, thì bị phạt tù từ ba 3
tháng đến 3 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 2
năm đến 10 năm:
a. Có tổ chức hoặc có tính chuyên nghiệp
b. Dùng thủ đoạn nguy hiểm; hành hung để tẩu thoát
c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác
d. Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 7
năm đến 15 năm.
- Về hình phạt: Trong giai đoạn này pháp luật hình sự có tư tưởng chủ
đạo là chú trọng bảo vệ tài sản chung (tài sản XHCN) hơn tài sản riêng (tài
14
sản tư nhân). Điểm mới nổi bật của BLHS năm 1985 so với các văn bản pháp
luật trước đây đó là, các hình phạt được quy định tập trung, sắp xếp theo một
trật tự nhất định và có một hệ thống hình phạt và tiêu chí áp dụng tương đối
đầy đủ. Hình phạt có mục đích khác nào giáo dục, răn đe chứ không chỉ là
trừng trị người phạm tội. Mức phạt tối đa ở tội cướp giật tài sản quy định tại
BLHS năm 1985 cũng cao hơn so với mức phạt ở 2 pháp lệnh là Pháp lệnh
trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và trừng trị các tội xâm
phạm tài sản riêng của công dân. Cụ thể ở BLHS năm 1985, mức phạt tối đa
là 15 năm tù với tội cướp giật tài sản riêng công dân và 20 năm tù với tội
cướp giật tài sản XHCN. Tuy nhiên mức hình phạt tối thiểu là một năm tù với
tội cướp giật tài sản XHCN và 3 tháng tù với tội cướp giật tài sản riêng của
công dân thì lại tương đương với hai Pháp lệnh năm 1970. Có thể thấy rõ
BLHS 1985 có mức hình phạt nghiêm khắc hơn so với các văn bản pháp luật
ở giai đoạn trước. Ngoài ra BLHS năm 1985 có quy định 3 khung hình phạt
nhiều hơn so với 2 khung hình phạt của các văn bản trước đây. Điều 131,
Điều 154 BLHS 1985 có quy định tình tiết "dùng thủ đoạn nguy hiểm" và
"chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác" đây là
những tình tiết mới.
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Đây là điểm mới của BLHS 1985. là
một cơ sở quan trọng để người Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân khi xét xử
được chính xác, công tâm, khách quan. Ngày 28/12/1989, Quốc hội thông qua
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1985, trong đó bổ sung
thêm một tình tiết định khung tăng nặng TNHS đối với người "phạm tội có
tính chất chuyên nghiệp" vào điểm a khoản 2 của các điều luật quy định về tội
cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản. Như vậy ta có thể thấy Nguyên
tắc xử lý quy định trong BLHS năm 1985 về cơ bản không thay đổi so với
Pháp lệnh năm 1970. Điều 3 BLHS năm 1985 thì mọi hành vi phạm tội nó
15
phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp
luật trong đó có các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội cướp giật tài sản
nói riêng.
1.2.3. Quy định của Bộ luật hình sự 1999
Để phù hợp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, mở
cửa và hội nhập quốc tế, đồng thời ngăn chặn những tác động tiêu cực của
mặt trái của nền kinh tế thị trường, ngăn chặn sự phát triển với tốc độ nhanh
chóng của tội phạm trong đó có các tội phạm xâm phạm sở hữu. Hiến pháp
năm 1992 đã xác định chúng ta có nhiều thành phần kinh tế, cùng với đó
chúng ta có nhiều hình thức sở hữu. Chính sách hình sự và pháp luật hình sự
cũng cần phải thay đổi phù hợp để bảo vệ sở hữu chung và sở hữu riêng một
cách công bằng, không đặt cái nào nặng cái nào nhẹ, không thiên vị dựa trên
quan điểm nào. BLHS 1985 chúng ta phân định hai hình thức sở hữu để quy
định thành hai khách thể bảo vệ độc lập là tài sản thuộc sở hữu thuộc sở hữu
XHCN và tài sản thuộc sở hữu của công dân như vậy trong điều kiện thực tế
đã không còn phù hợp gây cản trở vướng mắc đến các chính sách đổi mới của
đất nước. Trước tình thế giới nhiều biến động Nhà nước đã tiến hành soạn
thảo và thông qua BLHS năm 1999 tại kỳ họp thứ sáu Quốc hội khóa X
(18/11-21/12/1999) mà trong hệ thống PLHS thực định Việt Nam hiện hành
và lần đầu tiên được thể hiện qua lần pháp điển hóa thứ hai và BLHS năm
1999 ra đời. Chúng ta có thể so sánh hệ thống của BLHS năm 1985 và hệ
thông của BLHS 1999 đã thấy ro sự đổi mới và chăt chẽ hơn, có tất cả 24
chương,10 chương trong phần chung với 77 điều, 14 chương trong Phần các
tội phạm với 267 điều, tổng cộng là 344 điều. BLHS năm 1999 có điểm mới
so với BLHS 1985 khi quy định về các tội phạm xâm phạm sở hữu đó là, các
nhà làm luật đã ghép hai chương IV và VI của BLHS năm 1985 vào thành
một chương (Chương XIV) “các tội xâm phạm sở hữu” trong BLHS năm
16
1999 với 13 tội danh. Theo BLHS năm 1999 thì tội cướp giật tài sản có chế
tài nặng hơn BLHS năm 1985.
1.2.4. Quy định của bộ luật hình sự 2015
Có thể nói trải qua hơn 14 năm thi hành, BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009) đã có những đóng góp rất lớn và hoàn thành sứ mệnh của mình
trong chặng đường xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tuy nhiên trước những thay
đổi lớn lao trên các mặt của đời sống xã hội, sự phát triển của nền kinh tế
trong thời kỳ hội nhập, nhận thức pháp luật của của người dân ngày càng
nâng cao, những thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, nhiều loại tội
phạm mới xuất hiện… những vấn đề đó đòi hỏi cần phải có sự điều chỉnh sửa
đổi, bổ sung của hệ thống pháp luật trong đó có pháp luật hình sự nhằm đáp
ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Ngày 22 tháng 7 năm 2014 Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp đã phối hợp
với các Bộ, ngành liên quan xây dựng dự án Bộ luật hình sự .
Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được thông qua tại kỳ họp thứ 10,
Quốc hội khóa XIII vào ngày 27/11/2015. Quốc Hội quyết nghị kể từ ngày
01/01/2018 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi bổ sung một
số điều theo luật số 12/2017/QH14 chính thức có hiệu lực pháp luật. Tội cướp
giật tài sản quy định, hướng dẫn tại Điều 171 BLHS số 100/2015/QH13 năm
2015.
1.3. Phân biệt tội cướp giật tài sản với một số loại tội khác
1.3.1. Với tội trộm cắp tài sản
Tội trộm cắp tài sản khác biệt với tội cướp giật tài sản tại một số điểm
chính như sau:
Khách thể: Tội cướp giật tài sản xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản,
ngoài ra trong một số trường hợp cụ thể tội phạm này gián tiếp xâm hại đến
sức khỏe và tính mạng của nạn nhân còn ở tội trộm cắp tài sản người phạm tội
17
chỉ xâm phạm tới quyền sở hữu nhưng không xâm phạm tới sức khỏe, tính
mạng của nạn nhân.
Hành vi khách quan của tội cướp giật tài sản: là hành vi công khai,
nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm
quản lý tài sản. Còn hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản là hành vi lén
lút chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài
sản.
Về giá trị tài sản xâm phạm: nếu như tội cướp giật tài sản định lượng tài
sản chiếm đoạt không phải là yếu tố định tội mà chỉ là yếu tố định khung hình
phạt ngược lại với tội trộm cắp tài sản thì định lượng tài sản chiếm đoạt chính
là yếu tố định tội đồng thời là yếu tố định khung hình phạt. Khoản 1 Điều 173
BLHS 2015 quy định, “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ
2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng
thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
Về khắc phục hậu quả: nếu như ở tội cướp giật tài sản người quản lý tài
sản có thể giành lại tài sản của mình bằng cách giật lại hoặc truy đuổi, còn ở
tội trộm cắp tài sản người quản lý tài sản không thể quản lý tài sản, không thể
giành lại tài sản của mình do không phát hiện được hành vi lén lút, bí mật của
người trộm cắp tài sản của mình.
1.3.2. Với tội cưỡng đoạt tài sản
Tội cưỡng đoạt tài sản quy định tại Điều 170 BLHS có một số đặc điểm
để phân biệt với tội cướp giật tài sản tại Điều 171 như sau:
Về khách thể: Tội cướp giật tài sản xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản,
ngoài ra trong một số trường hợp cụ thể tội phạm này gián tiếp xâm hại đến
sức khỏe và tính mạng của nạn nhân còn ở tội cưỡng đoạt tài sản người phạm
tội trực tiếp xâm phạm tới hai quan hệ xã hội đó là quan hệ sở hữu và quan hệ
18
nhân thân thông qua việc xâm hại đến quan hệ nhân thân để chiếm đoạt tài
sản của người bị hại.
Hành vi khách quan của tội cướp giật tài sản: là hành vi công khai,
nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm
quản lý tài sản. còn ở tội cưỡng đoạt tài sản người phạm có hành vi đe dọa sẽ
dùng vũ lực, thể hiện ở thái độ, cử chỉ, lời nói tạo cho người bị đe dọa cảm
giác sợ và tin rằng người phạm tội sẽ dùng bạo lực nếu không để cho lấy tài
sản. Giữa thời điểm đe dọa sẽ dùng vũ lực với thời điểm dùng vũ lực có một
khoảng cách nhất định về thời gian. Hoặc hành vi dùng thủ đoạn khác uy hiếp
tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi đe dọa sẽ làm một
việc gây thiện hại về tài sản, danh dự, uy tín nếu người bị uy hiếp không thỏa
mãn yêu cầu chiếm đoạt tài sản của người phạm tội (như đe dọa hủy hoại tài
sản, loan tin về đời tư, tố giác hành vi phạm pháp…của người bị đe dọa).
Khắc phục hậu quả: nếu như ở tội cướp giật tài sản người quản lý tài sản
có thể giành lại tài sản của mình bằng cách giật lại hoặc truy đuổi. Còn ở tội
cưỡng đoạt tài sản người quản lý tài sản không thể quản lý tài sản, không thể
giành lại tài sản của mình do sự đe doạ, uy hiếp của người phạm tội.
1.3.3. Với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 172 BLHS có một
số đặc điểm để phân biệt với tội cướp giật tài sản tại Điều 171 như sau:
Khách thể: Tội cướp giật tài sản xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản,
ngoài ra trong một số trường hợp cụ thể tội phạm này gián tiếp xâm hại đến
sức khỏe và tính mạng của nạn nhân còn ở tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
người phạm tội chỉ xâm phạm tới quyền sở hữu nhưng không gây thiệt hại về
sức khỏe, tính mạng của người bị hại hoặc người khác.
Hành vi khách quan của tội cướp giật tài sản: là hành vi công khai,
nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm
19
quản lý tài sản.. còn ở tội công nhiên chiếm đoạt tài sản người phạm tội thực
hiện hành vi công khai không cần nhanh chóng chiếm đoạt tài sản do lợi dụng
vướng mắc của chủ tài sản, người quản lý hợp pháp, nên chủ tài sản không có
điều kiện ngăn cản hành vi chiếm đoạt tài sản.
Giá trị tài sản xâm phạm: nếu như tội cướp giật tài sản không giới hạn
giá trị tối thiểu tài sản bị chiếm đoạt thì đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ 2 triệu đồng trở lên hoặc
dưới 2 triệu phải có thêm một trong các điều kiện quy định tại BLHS.
Khắc phục hậu quả: nếu như ở tội cướp giật tài sản người quản lý tài sản
có thể giành lại tài sản của mình bằng cách giật lại hoặc truy đuổi. Còn ở tội
công nhiên chiếm đoạt tài sản người quản lý tài sản không thể quản lý tài sản,
không thể giành lại tài sản của mình do bị vướng mắc.
1.3.4. Với tội cướp tài sản
Tội cướp tài sản và tội cướp giật tài sản là hai tội danh thuộc nhóm tội
xâm phạm đến quyền sở hữu được quy định trong Bộ luật Hình sự. Do có
cùng đối tượng tác động nên hai tội danh này có những điểm giống nhau
trong cấu thành tội phạm. Khách thể của tội phạm: tội cướp tài sản và tội
cướp giật tài sản đều xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Mặt chủ quan của tội
phạm: tội phạm của tội cướp tài sản và tội cướp giật tài sản đều thực hiện
hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi
của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và
mong muốn hậu quả xảy ra. Mục đích của cả hai tội phạm này là chiếm đoạt
tài sản của người khác.
Tuy nhiên 2 tội này có những điểm khác nhau như sau:
+ Tội cướp tài sản: Có 3 dạng hành vi khách quan. Một là dùng vũ
lực: là dùng sức mạnh vật chất tấn công người chủ tài sản, người quản lý tài
sản hoặc bất kỳ người nào khác ngăn cản việc chiếm đoạt của người phạm tội
20
nhằm đè bẹp sự phản kháng, làm tê liệt ý chí của nạn nhân để chiếm đoạt tài
sản. Hành vi dùng vũ lực thường là đấm, đá, trói… hoặc kèm theo sử dụng
các phương tiện, công cụ như dao, súng…; Hai là đe e dọa dùng vũ lực ngay
tức khắc: là đe dạo dùng tức khắc sức mạnh vất chất được thể hiện bằng lời
nói, cử chỉ hành động đe dọa sẽ tấn công người quản lý tài sản hoặc những
người khác nếu không đáp ứng yêu cầu hoặc có ý định ngăn cản hành vi
chiếm đoạt tài sản của người phạm tội. Ví dụ: A dùng súng bắn chỉ thiên và
đe dọa, bắt B phải tháo đồ trang sức trên người đưa cho hắn nếu không hắn sẽ
bắn chết ngay… Ba là hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng
không thể chống cự được: hành vi thứ ba này tuy không phải là hành vi dùng
vu lực nhưng có khả năng làm cho người bị tấn công không thể ngăn cản
được việc chiếm đoạt. Ví dụ như: hành vi đầu độc, hành vi dùng thuốc mê
- Tội cướp giật tài sản:Khác với tội cướp tài sản, người thực hiện hành
vi cướp giật tài sản không dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, hoặc dùng hành
vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự
được mà lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản hoặc có thể tự mình tạo ra
những sơ hở để thực hiện hành vi công khai chiếm đoạt tài sản đang rồi nhanh
chóng tẩu thoát. Hành vi chiếm đoạt ở tội cướp giật tài sản có hai dấu hiệu để
phân biệt với tội cướp tài sản, đó là:Tính công khai của hành vi;Không sử
dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực hoặc những hành vi khác khiến nạn nhân
lâm vào tình trạng không thể kháng cự được.
Khách thể của tội cướp tài sản:Xâm phạm quyền sở hữu tài sản và
quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe. Khách thể của tội cướp giật tài
sản:Xâm phạm quyền sở hữu tài sản nhưng có thể có hoặc không xâm phạm
quyền được bảo vệ tính mạng sức khỏe.
Tiểu kết Chương 1
21
Nội dung Chương 1 của luận văn trình bày khái quát hệ thống những vấn
đề lý luận và pháp luật về tội phạm cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt
Nam. Trong đó học viên đã nêu khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội cướp
giật tài sản, làm rõ các dấu hiệu về khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan
và chủ thể, ngoài ra học viên đã nghiên cứu làm rõ lịch sử hình thành và phát
triển tội cướp giật tài sản từ năm 1945 đến nay. Từ việc nghiên cứu khái niệm
và dấu hiệu pháp lý của Tội cướp giật tài sản học viên đã phân biệt rõ các tội
trộm cắp tài sản, cưỡng đoạt tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản với tội
trộm cắp tài sản từ đó làm rõ giấu hiệu đặc trưng của tội phạm.
Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội phạm cướp giật tài sản trong
luật hình sự Việt Nam là cơ sở lý luận quan trọng để tác giả nghiên cứu khảo
sát thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội
cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 9, TPHCM một cách có hệ thống, khoa
học sẽ được trình bày trong Chương 2
22
Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TẠI QUẬN 9,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Tình hình tội cướp giật tài sản tại Quận 9 trong những năm gần
đây
2.1.1. Khái quát chung về Quận 9
Quận 9 là một quận nội thành thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, là cửa ngõ
kết nối của toàn vùng Nam Bộ , nằm về phía Đông của TP.HCM, cách trung
tâm thành phố khoảng 7km theo đường Hà Nội, có diện tích tự nhiên là
11.362 ha (11.362 km²). Phía Đông của Quận 9 giáp huyện Nhơn Trạch và
huyện Long Thành của tỉnh Đồng Nai, ; phía Tây Quận 9 giáp với quận thủ
Đức ; phía Nam của Quận 9 giáp với Quận 2 và sông Đồng Nai; phía Bắc của
Quận 9 giáp với tỉnh Bình Dương và một phần thành phố Biên Hòa tỉnh Đồng
Nai.
Ngày 18/3/1997, Ủy ban nhân dân TP.HCM, đã ra Quyết định số
1196/QĐ-UB-NC về việc tách huyện Thủ Đức thành quận 2 (11 phường),
quận 9 (13 phường) và quận Thủ Đức (12 phường). Trong đó đơn vị hành
chính quận 9 gồm toàn bộ diện tích tự nhiên các xã Long Bình, Long Phước,
Long Trường, Long Thạnh Mỹ, Tăng Nhơn Phú, Phú Hữu, Phước Bình, 484
ha của xã Tân Phú, 891 ha của xã Phước Long, 172 ha của xã Hiệp Phú, 140
ha của xã Bình Trưng thuộc huyện Thủ Đức để lập thành 13 phường.
Địa hình: Khu vực Quận 9 nằm trong vùng giáp ranh giữa Đông Nam
Bộ và đồng bằng sông Cửu Long ( hay có thể gọi là vùng chuyển tiếp), địa
hình Quận 9 có xu hướng thấp dần từ Bắc xuống Nam. Là vùng cao của thành
phố Hồ Chí Minh với địa hình lượn sóng, độ cao trung bình từ 10m đến 25m,
đặc biệt có những đồi cao tới 32m như đồi Long Bình. Bên cạnh vùng đất cao
23
còn có vùng trũng như vùng bưng sáu xã có độ cao từ 1m dến 2m. Với địa
hình này sẽ tạo cho quận 9 có điều kiện thuận lợi trong việc phát triển những
khu công nghiệp và du lịch sinh thái.
Khí hậu: Quận 9 nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, cận xích đạo, nhiệt
độ cao đều trong năm và có hai mùa mưa – khô rõ ràng, có tác dụng chi phối
môi trường cảnh quan sâu sắc. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ
tháng 12 đến tháng 4 năm sau.
Giao thông: Trên địa bàn quận có xa lộ Hà Nội chạy qua và nhiều con
đường liên xã đã tạo điều kiện cho việc đi lại của nhân dân và phát triển kinh
tế - xã hội của quận. Bên cạnh đó, do nằm ở hạ lưu sông ngòi, kênh rạch
chằng chịt đã tạo cho quận phát triển giao thông đường thủy. Nhìn chung,
quận 9 có hệ thống giao thông đường bộ và đường thủy tương đối thuận lợi.
Dân số: Trong buổi đầu thành lập, dân số của quận 9 là 126.220 người
với nhiều thành phần dân tộc như Việt, Hoa, Khmer, Chăm và một số dân tộc
khác. Trong đó người Việt chiếm tỷ lệ nhiều nhất.
Văn hóa: Được tách ra từ huyện Thủ Đức, quận 9 có bốn phường thuộc
“vùng bưng” kém phát triển, người dân ở các phường này đa số sống bằng
nghề nông, điều kiện mức hưởng thụ văn hóa còn hạn chế. Chỉ có một số
phường nằm trên trục đường Hà Nội là vùng thị tứ nên người dân ở đây có
điều kiện tham gia và hưởng thụ các hoạt động văn hóa, thể thao. Nhìn chung
đời sống tinh thần của nhân dân trong quận những ngày đầu thành lập rất
nghèo nàn.
Tôn giáo: Quận 9 có 10 đình, 23 chùa, 9 tịnh thất, 15 nhà thờ, 5 tu viện,
01 tiểu thánh đường. Một số đình, chùa được Bộ Văn hóa công nhận là di tích
lịch sử như: Đình Phong Phú, chùa Phước Tường, chùa Hội Sơn. Đình chùa ở
quận 9 không chỉ là nơi sinh hoạt tâm linh của nhân dân mà còn là cơ sở cách
mạng, nơi cung cấp lương thực, tiền bạc, vận động phật tử tham gia cách
24
mạng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược như: chùa Bửu Thạnh (phường Long Trường), chùa Phước Tường
(phường Tăng Nhơn Phú A), đình Phong Phú (phường Tăng Nhơn Phú B).
Người dân quận 9 ngày nay, dù theo tôn giáo nào vẫn đoàn kết gắn bó với
nhau trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn
mình sinh sống.
Sau ngày thành lập, Đảng bộ và chính quyền quận đã chú ý đầu tư cơ sở
vật chất, xây dựng và củng cố các hoạt động văn hóa ở cơ sở, đẩy mạnh việc
xã hội hóa các hoạt động văn hóa tạo ra nét khởi sắc mới trong hoạt động văn
hóa của địa phương. Với sự quan tâm của Đảng và các cấp chính quyền, đời
sống vật chất và tinh thần của đồng bào theo đạo không ngừng được cải thiện.
Các nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân được tôn trọng và đảm bảo. Các lễ hội,
sinh hoạt tôn giáo theo truyền thống được tạo điều kiện thuận lợi. Các chức
sắc tôn giáo an tâm hành đạo gắn bó với dân tộc, sống tốt đời đẹp đạo, tham
gia tích cực các hoạt động xã hội từ thiện, giáo dục, y tế… chấp hành đúng
các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Những đặc điểm tình hình về địa hình, khí hậu, giao thông, dân số, văn
hóa… trên đây ảnh hưởng lớn và theo mức độ khác nhau đến tình hình tội
phạm trên địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó có Tội cướp
giật tài sản.
2.1.2. Tình hình áp dụng pháp luật đối với tội cướp giật tài sản trên
địa bàn Quận 9
Áp dụng pháp luật theo nghĩa chung, đây là loạt động thực hiện pháp
luật, nó mang tính tổ chức quyền lực nhà nước; áp dụng pháp luật được thực
hiện bởi cơ quan nhà nước và cơ quan này phải là cơ quan có thẩm quyền,
hoặc được thực hiện bởi nhà chức trách hay các tổ chức xã hội khác được Nhà
nước trao quyền, mục đích của việc này nhằm cá biệt hoá quy phạm pháp luật
25
vào trong các trường hợp cụ thể, đối với cá nhân cụ thể, tổ chức cụ thể. Hoạt
động áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ, hoạt động áp dụng pháp luật chỉ do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền và nhân viên nhà nước có thẩm quyền tiến
hành, có nghĩa rằng hoạt động áp dụng pháp luật không theo ý chí của các chủ
thể mà nó phải tuân theo theo quy định của pháp luật. Điều này thể hiện tính
chất tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước trong các hoạt động áp dụng pháp
luật. Hoạt động áp dụng pháp luật luôn gắn liền với quyền lực nhà nước đặc
biệt trong lĩnh vực hành pháp và tư pháp, nên hoạt động áp dụng pháp luật
có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực thi quyền lực nhà nước. Thông qua
hoạt động áp dụng pháp luật, các cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước có
thẩm quyền ban hành các quyết định để thực thi trên thực tế các quyền và
nghĩa vụ chủ thể quan hệ pháp luật. Do đó, một trong những hình thức thực
hiện quyền lực nhà nước trong các lĩnh vực của đời sống xã hội chính là áp
dụng pháp luật.
Trên địa bàn Quận 9, việc áp dụng pháp luật luôn được tuân thủ theo
đúng quy định của pháp luật. TAND Quận 9 là cơ quan được giao quyền xét
xử các vụ án hình sự, hành chính, dân sự. Hoạt động xét xử của TAND Quận
9 chính là hoạt động áp dụng pháp luật trong các lĩnh vực giải quyết án hình
sự, dân sự, hành chính khi TAND Quận 9 tiến hành thụ lý theo quy định của
pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm TAND là những chức danh hợp thành Hội
đồng xét xử của Tòa án. TAND Quận 9 có quyền nhân danh nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tòa án sẽ đưa ra những phán quyết nhằm thực
hiện công lý và công bằng xã hội chủ nghĩa, theo những trình tự và nguyên
tắc nhất định. HĐXX của TAND nghiên cứu hồ sơ vụ án, đánh giá tính hợp
pháp và tính có căn cứ của các tình tiết sự việc có trong hồ sơ vụ án và tiến
hành xét xử, ; lựa chọn những quy phạm pháp luật phù hợp; sau đó HĐXX sẽ
ban hành các bản án, quyết định theo một quy trình chặt chẽ, việc ban hành
26
theo quy trình chặt chẽ như vậy nhằm bảo vệ pháp luật, bảo vệ các quyền hợp
pháp của các chủ thể; buộc các chủ thể phải luôn luôn thực hiện đúng nghĩa
vụ của mình theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình HĐXX xét xử một vụ án hình sự, việc HĐXX tuyên bố
một người là có tội, và người đó phải chịu hình phạt theo một khung hình
phạt đã được pháp luật qui định thì nhất thiết phải thông qua hoạt động xét xử
của Tòa án. Một người không được coi là có tội khi người đó chưa bị Tòa án
xét xử và kết án theo các quy định của pháp luật. Một người được coi là có tội
thì người đó phải được xét xử bằng một bản án của Tòa án và bản án đó đã có
hiệu lực pháp luật. Việc xét xử của Tòa án phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy
định của pháp luật tố tụng và phải trải qua các giai đoạn cụ thể như chuẩn bị
xét xử, nghiên cứu hồ sơ, tổ chức phiên tòa xét hỏi, tổ chức và điều khiển việc
tranh luận, việc nghị án và ban hành bản án, quyết định của Tòa án. Việc xét
xử phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản như nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán
và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nguyên tắc mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật; nguyên tắc xét xử công khai; nguyên tắc xét xử tập
thể và quyết định theo đa số v.v... chỉ có thông qua hoạt động xét xử, Tòa án
mới được phép ban hành các bản án, quyết định về hình sự, dân sự, hành
chính để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân và các tổ chức đúng theo quy định của pháp luật. Áp dụng pháp
luật trong hoạt động xét xử của TAND Quận 9 là một nội dung cụ thể, đặc
biệt và quan trọng của hình thức áp dụng pháp luật nói chung. Áp dụng pháp
luật trong hoạt động xét xử của TAND Quận 9 là một trong những phương
tiện pháp lý trực tiếp và hữu hiệu để giáo dục ý thức pháp luật, nâng cao ý
thức tuân thủ pháp luật và xây dựng thói quen sử dụng pháp luật bảo vệ các
quyền, thực thi các nghĩa vụ của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Với cơ
chế xét xử công khai có tranh tụng với một thủ tục chặt chẽ, tỉ mỉ, hoạt động
27
áp dụng pháp luật của TAND Quận 9 có thể nói là một điển hình của việc
thực hiện dân chủ và giữ gìn pháp chế trong đời sống xã hội.
Với đặc thù là một Quận thuộc nội thành TPHCM, là nơi cửa ngõ và giao
thoa giữa Bình Dương, Đồng Nai, Quận 2 và Quận Thủ Đức, nơi có nhiều
người dân các vùng miền đến sinh sống, nhiều khu công nghiệp được xây
dụng nên thu hút lượng lớn người dân nhập cư ở nhiều nơi về sinh sống và
kinh doanh. Người dân từ các vùng miền đến sinh sống trên địa bàn Quận 9,
họ không có nơi ở ổn định, hầu hết họ chỉ tạm trú một thời gian ngắn nhằm để
kiếm các công việc thời vụ. Việc những người dân đến sinh sống và làm việc
trên địa bàn Quận 9 sẽ giúp Quận 9 phát triển kinh tế , văn hóa, xã hội; tuy
nhiên bên cạnh những mặt tích cực là mặt tiêu cực nó mang lại. Đó là các hệ
quả xã hội như tình hình tội phạm trên địa bàn Quận 9 luôn diễn biến rất phức
tạp và có xu hướng gia tăng, trong đó có tội cướp giật tài sản... Chính vì thế
việc xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn, áp dụng hình phạt đúng quy định
pháp luật, các bản án đưa ra hợp tình hợp lý đủ sức răn đe giáo dục chung là
nhiệm vụ rất quan trọng và khó khăn. Tuy gặp khá nhiều khó khăn, nhưng
nhìn chung trong thời gian vừa qua, TAND Quận 9 đã luôn luôn thực hiện tốt
việc xử lý giải quyết các vụ án hình sự, cố gắng hạn chế tối đa số lượng các
bản án, quyết định của Tòa án, không để nhiều bản án hay quyết định bị hủy
hoặc sửa do lỗi chủ quan; 100% các vụ không có người bị kết án oan. Trong
suốt quá trình xét xử các vụ án hình sự nói chung trên địa bàn Quận và các vụ
án cướp giật tài sản nói riêng, các Thẩm phán luôn phấn đấu để việc giải quyết
các vụ án hình sự luôn đạt tỉ lệ giải quyết cao nhất, phiên tòa xét xử luôn đảm
bảo tranh tụng theo tinh thần cải cách tư pháp.
Qua quá trình hoạt động thực tiễn gặp nhiều thuận lợi và khó khăn , nên
việc đúc rút, sơ kết, tổng kết, đánh giá lại thực tiễn áp dụng hình phạt trên địa
bàn Quận 9 luôn được các cơ quan có thẩm quyền chú trọng. Trong giai đoạn
28
05 năm (từ năm 2015 đến năm 2019), TAND Quận 9 đã thụ lý 404 vụ án/839
bị cáo; giải quyết 399 vụ án/832 bị cáo; xét xử 397 vụ án/826 bị cáo. Trong đó
đình chỉ 01 vụ án trên tổng số 02 bị cáo; có 01 vụ án Tòa án phải trả hồ sơ
Viện kiểm sát ; Trong các vụ án được đưa ra xét xử , thì số các vụ án đưa ra
xét xử về Tội cướp giật tài sản là 98 vụ án trong tổng số 404 vụ của toàn Quận,
chiếm tỷ lệ 24%.
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật đối với tội cướp
giật tài sản tại Quận 9
2.2.1. Thực tiễn định tội danh đối với tội cướp giật tài sản
Trong đời sống xã hội có nhiều người có hành vi gây nguy hại cho xã
hội, nhưng không phải tất cả các hành vi gây nguy hại cho xã hội đều là tội
phạm. Trong công tác xét xử án hình sự, yêu cầu là phải xét xử đúng người
đúng tội, và việc xác định đúng người phạm tội, đúng tội phạm đã phạm lại là
trách nhiệm của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự. Để đạt
được yêu cầu này, thì vấn đề cơ bản là phải nắm vững nguyên tắc cơ bản về
xác . Hiện nay trong thực tiễn định tội danh, có một số tội được mô tả có hành
vi khách quan mang những điểm tương tự nhau. Trong thực tiễn việc xác định
tội danh hiện nay gặp khá nhiều khó khăn và còn nhiều quan điểm tranh luận
trái chiều.
Tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 9, TPHCM so với tổng số tội
phạm hình sự được khởi tố là lớn, từ năm 2015 đến năm 2019 CQĐT đã khởi
tố từ nguồn tố giác, từ các tin báo về tội phạm và từ việc bắt quả tang với tổng
số 93 vụ/ 139 bị can; Nổi lên là các đối tượng cướp giật tài sản hình thành ổ
nhóm , và ổ nhóm này ngày càng trẻ hóa về độ tuổi, chúng hoạt động rất
manh động, liều lĩnh, táo bạo và được trang bị vũ khí sẵn sàng chống trả lực
lượng chức năng và những người tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm,
gây thương tích cho người khác khi bị đuổi bắt, gây hoang mang trong nội bộ
29
quần chúng nhân dân,gây ảnh hưởng lớn đến tình hình an ninh trật tự, chính
trị tại địa phương.
Hầu hết các hành vi phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 9,
TP.HCM mà các đối tượng thực hiện đều được chúng chuẩn bị kỹ trước khi
gây án, như: Chuẩn bị phương tiện, quan sát những nạn nhân sơ hở trong
quản lý tài sản, chọn địa điểm dễ tẩu thoát nếu bị phát hiện, nơi có điều kiện
giao thông thuận tiện. Chúng sử dụng những thủ đoạn tinh vi để che giấu
hành vi của mình như: Tháo biển số xe, lắp biển số giả, bên cạnh đó chúng
chuẩn bị ớt bột, gạch, đá... để khi cần thiết sẽ ngăn cản sự truy bắt của nạn
nhân hoặc của người khác. Tính nguy hiểm của tình hình tội cướp giật tài sản
trên địa bàn Quận 9, TP.HCM thể hiện ở chỗ, nó chỉ gây ra những thiệt hại về
tài sản, gây ra những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của người khác. Nhiều
vụ cướp giật tài sản mà các đối tượng sử dụng xe gắn máy làm phương tiện
phạm tội, các đối tượng thường lựa chọn những“con mồi” mà luôn sơ hở mất
cảnh giác, ví dụ: nạn nhân vừa chạy xe vừa nghe điện thoại, nạn nhân đeo
vòng vàng, dây chuyền, bông tai, túi xách có giá trị... Nhiều vụ án xảy ra quá
nhanh, nạn nhân bị bất ngờ đã không làm chủ được tay lái , dẫn đến nạn nhân
bị ngã xe gây thương tích cho bản thân mình và cho những người tham gia
giao thông khác, một số trường hợp còn dẫn đến tử vong. Các đối tượng cướp
giật tài sản trên địa bàn Quận, TPHCM chủ yếu nhắm vào những người là phụ
nữ, bởi những người này thường mang theo trên người những tài sản có giá
trị, do đặc tính chân yếu tay mềm nên ít có khả năng chống trả, truy đuổi hơn
các đối tượng là nam giới.
Theo quy định tại Mục I - Thông tư 02/2001/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 về hướng dẫn áp dụng một số quy
định tại chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự thì tình
tiết: "Dùng thủ đoạn nguy hiểm" quy định tại tội cướp giật tài sản của Bộ Luật
30
hình sự là dùng thủ đoạn để cướp giật tài sản mà nguy hiểm đến tính mạng,
sức khoẻ của người bị hại hoặc của người khác như dùng xe mô tô, xe máy để
thực hiện việc cướp giật tài sản; cướp giật của người đang đi mô tô, xe máy...
Cần chú ý là trong trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm để cướp giật tài sản
mà gây ra hậu quả nghiêm trọng, thì phải áp dụng cả hai tình tiết định khung
hình phạt…
Về việc xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ trái phép, bị
sử dụng trái phép, bị huỷ hoại hoặc bị làm hư hỏng được xác định theo giá thị
trường của tài sản đó tại địa phương vào thời điểm tài sản bị chiếm đoạt, bị
chiếm giữ trái phép, bị sử dụng trái phép, bị huỷ hoại hoặc bị làm hư hỏng.
Trong trường hợp có đầy đủ cằn cứ chứng minh rằng người có hành vi xâm
phạm sở hữu có ý định xâm phạm đến tài sản có giá trị cụ thể theo ý thức chủ
quan của họ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người có hành vi xâm phạm.
Ví dụ 1: A thấy một người vừa nhận ở kho bạc 100 triệu đồng bỏ vào
một chiếc túi xách để trước giỏ xe máy nên có ý định cướp giật 100 triệu đồng
này. A lấy xe máy đi theo người vừa nhận tiễn và đã cướp giật được chiếc túi
xách này, nhưng trong chiếc túi xách này chỉ còn có 200 nghìn đổng, bởi vì
100 triệu đồng người nhận tiền đã bỏ vào cốp xe máy. Trong trường hợp này
phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với A theo các điểm d và g khoản 2
Điều 136 BLHS.
Ví dụ 2: B thấy C đeo một chiếc nhẫn mầu vàng. Qua các nguồn tin B
tưởng đây là nhẫn bằng vàng 9,999, có trọng lượng 2 chỉ, nên đã dùng thủ
đoạn gian dối và đã chiếm đoạt được chiếc nhẫn này. Trong trường hợp này
phải lấy trị giá của một chiếc nhẫn bằng vàng 9,999 với trọng lượng 2 chỉ
theo thời giá tại địa phương vào thời điểm chiếm đoạt để xem xét việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với B về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
31
Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi
xâm phạm sở hữu có ý định xâm phạm đến tài sản, nhưng không quan tâm
đến giá trị tài sản bị xâm phạm (trị giá bao nhiêu cũng được), thì lấy giá thị
trường của tài sản bị xâm phạm tại địa phương vào thời điểm tài sản bị xâm
phạm để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi
xâm phạm.
Ví dụ: M thấy một chiếc xe máy dựng trước cửa của một gia đình nên đã
vào lấy trộm không quan tâm đó là xe Trung Quốc hay xe Nhật Bản. Trong
trường hợp này nếu là xe Trung Quốc thì xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt
theo giá trị xe Trung Quốc; nếu là xe Nhật Bản thì xác định giá trị tài sản bị
chiếm đoạt theo giá trị xe Nhật Bản.
Để xác định đúng giá trị tài sản bị xâm phạm trong trường hợp tài sản bị
xâm phạm không còn nữa, cơ quan điều tra cần lấy lời khai của những người
biết về tài sản này để xác định đó là tài sản gì; nhãn, mác của tài sản đó như
thế nào; giá trị tài sản đó theo thời giá thực tế tại địa phương vào thời điểm tài
sản bị xâm phạm là bao nhiêu; tài sản đó còn khoảng bao nhiêu phần trăm…
để trên cơ sở đó có kết luận cuối cùng về giá trị tài sản bị xâm phạm.
Hướng dẫn điểm a khoản 2 “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”:
Về tình tiết “sử dụng thủ đoạn nguy hiểm khác” hoặc “dùng thủ đoạn
nguy hiểm”.“Thủ đoạn nguy hiểm khác” quy định tại điểm d khoản 2 Điều
133 BLHS là ngoài các trường hợp sử dụng vũ khí, phương tiện nguy hiểm để
thực hiện việc cướp tài sản, người phạm tội có thể dùng thủ đoạn khác nguy
hiểm đối với người bị tấn công hoặc những người khác như sử dụng thuốc
ngủ, thuốc mê với liều lượng có thể nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của
nạn nhân; đầu độc nạn nhân; nhốt nạn nhân vào nơi nguy hiểm đến tính mạng,
sức khoẻ; dùng dây chăng qua đường để làm cho nạn nhân đi mô tô, xe máy
vấp ngã để cướp tài sản…“Thủ đoạn nguy hiểm khác” quy định tại điểm d
32
khoản 2 Điều 134 BLHS là ngoài các trường hợp sử dụng vũ khí, phương tiện
nguy hiểm để thực hiện việc bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt
tài sản, người phạm tội có thể dùng thủ đoạn khác nguy hiểm đối với người bị
bắt làm con tin hoặc những người khác như sử dụng thuốc ngủ, thuốc mê với
liều lượng có thể nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của nạn nhân hoặc đầu
độc người bị bắt làm con tin để việc thực hiện bắt cóc được dễ dàng; nhốt
người bị bắt làm con tin vào nơi nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ…, cũng
có thể đầu độc những người khác để họ không thể cản trở được việc bắt làm
con tin…“Dùng thủ đoạn nguy hiểm” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 136
BLHS là dùng thủ đoạn để cướp giật tài sản mà nguy hiểm đến tính mạng, sức
khoẻ của người bị hại hoặc của người khác như dùng xe mô tô, xe máy để
thực hiện việc cướp giật tài sản; cướp giật của người đang đi mô tô, xe máy…
Cần chú ý là trong trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm để cướp giật tài sản
mà gây ra hậu quả nghiêm trọng, thì phải áp dụng cả hai tình tiết định khung
hình phạt quy định tại các điểm d và h khoản 2 Điều 136 BLHS.
Hướng dẫn điểm d khoản 2 “Hành hung để tẩu thoát”: Khi áp đụng tình
tiết “hành hung để tẩu thoát” (điểm đ khoản 2 Điều 136; điểm a khoản 2 Điều
137; điểm đ khoản 2 Điều 138 BLHS) cần chú ý: Phạm tội thuộc trường hợp
“hành hung để tẩu thoát” là trường hợp mà người phạm tội chưa chiếm đoạt
được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ
hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã có những hành vi chống trả lại người bắt giữ
hoặc người bao vây bắt giữ như đánh, chém, bắn, xô ngã… nhằm tẩu thoát.
Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được
tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà người phạm
tội tiếp tục dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công người bị
hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì trường hợp này
33
không phải là “hành hung để tẩu thoát” mà đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu
thành tội cướp tài sản.
Do vậy, tình hình xét xử đối với Tội cướp giật tài sản được các Ngành,
các cấp có thẩm quyền ở Quận 9 quan tâm chỉ đạo thường xuyên, Khi xét xử
loại tội phạm này, mức hình phạt áp dụng thường rất nghiêm khắc nhằm để
răn đe tội phạm khác sẽ xảy ra và mang tính phòng ngừa chung.
Bảng 2.1. Số liệu phản ánh tình hình khởi tố, truy tố và xét xử tội
cướp giật tài sản tại quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến
năm 2019.
Khởi tố Truy tố Xét xử
Năm 2015 2016 2017 2018 2019 Vụ 40 28 29 25 24 Bị can 50 25 25 24 30 Vụ 27 16 23 25 19 Bị can 47 22 23 21 23 Vụ 25 14 21 18 17 Bị cáo 46 20 26 22 25
( Nguồn:Báo cáo tổng kết của Viện kiểm sát nhân dân Quận 9,
Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2019)
Dựa vào bản số liệu trên cho ta thấy rõ tình hình khởi tố, truy tố và xét
xử tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận 9, TP. Hồ Chí Minh từ 2015 đến
2019 như sau:
Năm 2015, CQĐT đã khởi tố 40 vụ/ 50 bị can; VKS truy tố 27 vụ/47 bị
can; TAND đã xét xử 25 vụ/ 46 bị cáo.
Năm 2016, CQĐT đã khởi tố 28 vụ/ 25 bị can; VKS đã truy tố 16 vụ/22
bị can; TAND đã xét xử 14 vụ/20 bị cáo.
Năm 2017, CQĐT đã khởi tố 29 vụ/ 25 bị can; VKS đã truy tố 23 vụ/ 23
bị can; TAND đã xét xử 21 vụ/26 bị cáo.
Năm 2018, CQĐT đã khởi tố 25 vụ/ 24 bị can; VKS đã truy tố 25 vụ/ 21
bị can; TAND đã xét xử 18 vụ/ 22 bị cáo.
34
Năm 2019, CQĐT đã khởi tố 24 vụ/ 30 bị can; VKS đã truy tố 19 vụ/23
bị can; TAND đã xét xử 17 vụ/ 25 bị cáo
Như vậy trong 05 năm (từ năm 2015 đến năm 2019) trên địa bàn Quận 9,
TPHCM đối với tội cướp giật tài sản, số lượng bị cáo trung bình là 02 bị cáo/
01 vụ, có nghĩa rằng số lượng người thực hiện hành vi cướp giật tài sản đa số
từ 02 người, phần lớn các trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm, đó là các
trường hợp dùng xe mô tô điều khiển chở nhau đi cướp giật tài sản (đây là
tình tiết định khung tăng nặng và được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171
BLHS năm 2015). Trong những năm qua trên địa bàn Quận 9, số lượng vụ án
cướp giật tài sản, số bị can và số bị cáo thực hiện phạm tội có xu hướng ngày
càng tăng theo từng năm.Trong đó, số lượng vụ án cướp giật tài sản, số bị can
và số bị cáo thực hiện phạm tội cướp giật tài sản tăng nhiều nhất là năm 2015
và thấp nhất là năm 2016. Nhìn chung tội phạm cướp giật tài sản có xu hướng
ngày càng tăng nhanh và biến động phức tạp qua từng năm.
Bảng 2.2. Số vụ án, bị cáo phạm tội cướp giật tài sản bị Tòa án trả hồ
sơ yêu cầu điều tra bổ sung tại quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm
2015 đến năm 2019.
Năm Tổng số Lý do trả điều tra bổ sung
Vụ Bị cáo Điểm a khoản 1 Điều 179 BLTTHS Điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS
4 2 0 0 2 2015 4
0 0 0 0 0 2016 0
2 1 0 0 1 2017 2
0 0 0 0 0 2018 0
2019 1 1 0 0
1 1 ( Nguồn:Báo cáo tổng kết của Viện kiểm sát nhân dân Quận
9, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2019)
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, số vụ án, bị cáo phạm Tội cướp giật
35
tài sản bị Tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung tại quận 9, Tp. Hồ Chí
Minh từ năm 2015 đến năm 2019 như sau:
+ Năm 2015 có 02 vụ Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung với 04 bị cáo;
+ Năm 2016 và năm 2018 không có trường hợp nào Tòa án trả hồ sơ
điều tra bổ sung;
+ Năm 2017 có 01 vụ với 02 bị cáo mà Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung
+ Năm 2019 có 01 vụ với 01 bị cáo Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung
Như vậy việc trả hồ sơ điều tra bổ sung tuy không chiếm tỷ lệ lớn nhưng
vẫn diễn ra. Bởi nhiều nguyên nhân, trong đó tình hình tội phạm diễn biến
ngày càng phức tạp về quy mô và tính chất. Các vụ án phải trả hồ sơ để điều
tra bổ sung thường là những vụ án lớn, phức tạp, các chứng cứ tài liệu ban
đầu chưa rõ ràng, song trong quá trình điều tra chưa thu thập đầy đủ các
chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án hoặc những nội dung có mâu thuẫn mà
chỉ tập trung thu thập các tài liệu buộc tội. Hệ thống văn bản dưới luật còn
nhiều mâu thuẫn, dẫn đến việc áp dụng pháp luật chưa thống nhất, cách hiểu
và vận dụng còn nhiều mâu thuẫn giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Năng
lực chuyên môn của đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán còn
nhiều hạn chế và thiếu sót, do vậy công tác giải quyết án còn chưa thống nhất,
đồng bộ. Sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng chưa chặt chẽ và
linh hoạt, trong công tác đánh giá chứng cứ còn thiếu đồng nhất. Bên cạnh đó,
số lượng Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán còn thiếu, do vậy gây ra
tình trạng quá tải, áp lực công việc cao dẫn đến tình trạng né tránh trách
nhiệm cá nhân, do vậy còn tồn tại tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Ngoài ra, việc tổng hợp hình phạt trong các vụ án cướp giật tài sản cũng gặp
nhiều bất cập. Về cơ bản BLHS đã quy định rõ ràng, tương đối đầy đủ, tạo cơ
sở pháp lý để Tòa án thực hiện việc tổng hợp hình phạt của nhiều tội hoặc của
nhiều bản án trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự. Tuy nhiên, thực tiễn
36
xét xử cho thấy, việc tổng hợp hình phạt trong các vụ án hình sự còn xảy ra
những vi phạm nghiêm trọng xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người
bị kết án và những quy định đúng đắn của BLHS.
2.2.1.1.Thực tiễn định tội danh tội cướp giật tài sản
Qua quá trình xét xử của Tòa án nhân dân quận 9, TPHCM trong thời
gian từ năm 2015 đến năm 2019, VKS đã truy tố 115 vụ với tổng số179 bị
can, TA đã xét xử sơ thẩm 93 vụ với tổng số 136 bị cáo, trong đó số bị can, bị
cáo bị truy tố, xét xử theo khoản 2 Điều 136 BLHS năm 1999 và khoản 2
Điều 171 BLHS năm 2015 là cao nhất, chiếm tỷ lệ 94,11% so với tổng số bị
cáo bị truy tố, xét xử về tội cướp giật tài sản. Trong đó có nhiều vụ án áp
dụng tình tiết định khung tăng nặng, đó là tình tiết dùng thủ đoạn nguy hiểm,
những vụ áp dụng tình tiết tăng nặng này chiếm tỷ lệ khá cao là 87,18%, tiếp
theo là tình tiết tái phạm nguy hiểm trong Cướp giật tài sản chiếm 27,38%,
tiếp theo nữa và chiếm tỷ lệ ít hơn là tình tiết hành hung để tẩu thoát chiếm
8,07% . Trong một số ít trường hợp thì người phạm tội bị áp dụng tình tiết
phạm tội có tổ chức hoặc tình tiết chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi
triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng . Bằng sự công tâm và nghiêm minh,
TAND Quận 9 đã định tội danh đúng quy định của pháp luật. Trong một số
trường hợp TA định tội danh theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 136
BLHS năm 1999 và điểm d khoản 2 Điều 171 BLHS năm 2015 với phương
thức dùng thủ đoạn nguy hiểm. Ví dụ: Việc dùng xe mô tô đi cướp giật tài
sản. Trong quá trình lực lượng chức năng truy đuổi, bắt giữ có thể xảy ra
những tình tiết bất ngờ và nguy hiểm khác như: trong quá trình chạy trốn,
người phạm tội hoặc lực lượng truy đuổi có thể xảy ra va chạm giao thông với
các phương tiện giao thông khác đang lưu thông trên đường, người phạm tội
tự té ngã gây tai nạn và thương tích cho chính bản than mình hoặc cho người ,
dẫn đến phải tiến hành điều trị thương tích, điều này gây ảnh hưởng đến quá
37
trình xử lý vụ án, lúc này khi tiến hành định tội danh phải tiến hành định tội
danh theo tình tiết tăng nặng TNHS khác, hình thức mà người phạm tội phải
gánh chịu nếu hậu quả xảy ra.
2.2.1.2 Thực tiễn định tội danh tội cướp giật tài sản trong trường hợp
đồng phạm
Khái niệm đồng phạm được quy định tại khoản 1 Điều 20 BLHS năm
1999 và khoản 1 Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015: "Đồng phạm là trường hợp
có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm".
Đối với tội cướp giật tài sản thì đồng phạm có xu hướng ngày càng phổ
biến và đồng phạm ngày càng gia tăng về số lượng, bọn chúng thường hoạt
động có ổ nhóm và có tổ chức, trước khi hành động chúng luôn bàn bạc kỹ
lưỡng, phân hóa vai trò của từng người trong quá trình cướp giật, cách thức
thực hiện hành vi phạm tội như thế nào, cùng với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo
quyệt. Khoa học luật hình sự đã phân ra thành 02 loại đồng phạm. Đó là: đồng
phạm giản đơn và đồng phạm có tổ chức (đồng phạm phức tạp). Đồng phạm
giản đơn là trường hợp theo quy định của pháp luật, tất cả những người phạm
tội cùng thực hiện hành vi cướp giật tài sản nhưng mang tính chất tự phát,
nhất thời, không có sự bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau. Còn đồng phạm
phức tạp là hình thức đồng phạm có sự bàn bạc va tính toán trước, chúng có
sự câu kết chặt chẽ trong việc phân công nhiệm vụ, phân công vai trò của
từng người để cùng thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, định tội danh trong
trường hợp đồng phạm ( bao gồm cả định tội danh đối với đồng phạm giản
đơn và định tội danh đối với đồng phạm phức tạp )cần phải được nghiên cứu
kỹ lưỡng nhằm áp dụng vào thực tế công tác một cách có hiệu quả của các cơ
quan tố tụng, khi đó cần phải phân tích kỹ lưỡng, nhận xét đánh giá từng hành
vi chính xác về vai trò cụ thể của các cá nhân người phạm tội để cá thể hóa
hành vi và quyết định hình phạt cho phù hợp, đúng quy định pháp luật. Việc
38
định tội danh theo hình thức này là một trong những hoạt động rất khó khăn
và rất phức tạp trong hoạt động tố tụng hình sự.
2.2.1.3.Thực tiễn định tội danh tội cướp giật tài sản trong trường hợp
phạm nhiều tội
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự nói chung trên địa bàn cả
nước và việc áp dụng pháp luật hình sự nói riêng trên địa bàn Quận 9,
TPHCM về tội cướp giật tài sản có thể xảy ra hai trường hợp là: hành vi của
chủ thể thực hiện đồng thời thỏa mãn nhiều điều luật khác nhau; hoặc trong
khoảng thời gian nhất định chủ thể thực hiện có thể phạm nhiều tội khác nhau
Nội dung vụ án có nhiều quan điểm định tội danh như sau:
Buổi tối ngày 24/5/2014 Nguyễn Văn N, sinh năm 1990, trú tại Phường
LB có đi từ nhà xuống Phường PL Quận 9, vào cửa hàng bán điện thoại của
anh Bạch Xuân K, sinh năm 1975 mục đích để xem điện thoại, nếu thấy sơ hở
sẽ lấy điện thoại, tài sản của cửa hàng, khi vào cửa hàng N không có tiền. Tại
cửa hàng bán điện thoại Nguyễn Văn N có nói với anh K cho xem chiếc điện
thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG GLAXY SII HD, anh K đưa cho N xem,
N hỏi giá anh K nói giá là 3.000.000 đồng, N giả vờ đồng ý mua và đút điện
thoại vào túi quần trước sự chứng kiến của anh K. Sau đó N tiếp tục hỏi mua
thêm 1 chiếc điện thoại NOKIA 503 nữa, lúc này chị Nguyễn Thị H, sinh năm
1977 là vợ của anh K đang đứng bán hàng cùng chồng nên có lấy chiếc điện
thoại NOKIA 503 cho N xem, chị H có nói với N là “mua thêm cái nữa tặng
người yêu à”, N không nói gì mà hỏi giá, chị H nói là 2.000.000 đồng, N tiếp
tục giả vờ đồng ý mua. Lúc này N có bảo với chị H là mua thêm 1 chiếc SIM
cho điện thoại NOKIA 503. Chi H lấy SIM cho N, tuy nhiên muốn dùng được
chiếc SIM nêu trên cho máy điện thoại NOKIA 503 thì phải cắt SIM nên chị
H đã cắt SIM ở tại nơi bán hàng cho N. Trong lúc chị H đang cúi mặt xuống
cắt SIM, anh K đang làm việc tại cửa hàng không để ý thì đối tượng Nguyễn
39
Văn N đã lấy 2 chiếc điện thoại nêu trên cùng hộp phụ kiện để trên mặt tủ
kính bán hàng bỏ chạy ra ngoài đường. Cùng lúc thì vợ chồng anh K, chị H
đuổi theo, hô hoán cùng người dân đuổi bắt được N. Kết quả định giá tài sản
chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG GALAXY SII HD trị giá tại
thời điểm chiếm đoạt là 2.900.000 đồng và chiếc điện thoại NOKIA 503 trị
giá 1.900.000 đồng.
Sau khi thụ lý giải quyết vụ án này có nhiều quan điểm về việc xác định
tội danh đối với N, tất cả 4 quan điểm về các tội danh khác nhau.
- Quan điểm thứ nhất: N phạm tội Cướp giật tài sản. Về quan điểm này
chúng tôi đồng tình, hành vi của N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài
sản” vì các lý do sau:
Thứ nhất: Nguyễn Văn N có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt
độ tuổi theo quy định luật hình sự. Hành vi của N trực tiếp xâm hại đến quan
hệ sở hữu là quan hệ được pháp luật hình sự bảo vệ.
Thứ hai: Sau khi tiếp cận được tài sản thì N ngay lập tức thực hiện hành
vi nhanh chóng lấy tài sản, nhanh chóng rời khỏi cửa hàng. Hành vi này đã
thoả mãn dấu hiệu hành vi của tội Cướp giật tài sản là “Nhanh chóng chiếm
đoạt tài sản và nhanh chóng tẩu thoát”. Tuy hành vi đó là công khai nhưng
phân biệt rõ với tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản ở chỗ Công khai nhanh
chóng chiếm đoạt tài sản, nhanh chóng rời khỏi hiện trường nhằm thoát khỏi
sự truy đuổi, bắt giữ khi bị phát hiện. Tài sản do N chiếm đoạt có giá trị tại
thời điểm định giá là 5.000.000 đồng.
Thứ ba: Lỗi do N thực hiện là lỗi cố ý trực tiếp, nhận thức rõ về hành vi
phạm tội và mong muốn thực hiện tội phạm đó. Mục đích của N ngay từ khi
vào cửa hàng anh K là lấy tài sản, mục đích này được rõ hơn khi N tiếp cận
được tài sản của chủ sở hữu. Mục đích này thể hiện rõ ở việc N nhận thấy
việc tiếp cận được 2 chiếc điện thoại, N cho rằng đã đầy đủ, không cần xem
40
tiếp (tức là tiếp cận đầy đủ tài sản) và lúc này chỉ cần chiếm đoạt nhanh
chóng, nhanh chóng rời khỏi hiện trường. Tất cả các hành vi gian đối giả vời
mua bán, giả vờ mua SIM điện thoại tất cả đều là “thủ đoạn” của N để tiếp
cận tài sản và lợi dụng lúc sơ hở nhất của chủ sở hữu là thực hiện ngay hành
vi chiếm đoạt tài sản, việc lấy tài sản hoàn toàn ngang nhiên trước sự quản lý
của chủ sở hữu, không hề có sự che giấu, lén lút.
Thứ tư: Chủ sở hữu tài sản là vợ chồng anh K hoàn toàn có khả năng
quản lý trực tiếp đối với tài sản và thực tế là chưa thực hiện việc bàn giao tài
sản cho N. Việc đưa tài sản cho N chỉ là hoat động “cho xem”, mua bán điện
thoại bình thường, tuy nhiên hành vi đó chủ sở hữu đã vô tình để sở hở tài sản
và N đã lợi dụng sơ hở đó để chiếm đoạt tài sản.
- Về quan điểm thứ hai: N phạm tội “ Công nhiên chiếm đoạt tài sản”:
Chúng tôi không đồng ý với quan điểm này vì Công nhiên chiếm đoạt tài sản
là Công khai thực hiện hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng xảy ra trong
trường hợp người chủ tài sản không có điều kiện quản lý trực tiếp hoặc ngăn
cản thực hiện hành vi phạm tội. Trong tình huống trên tuy N chiếm đoạt tài
sản trong sự quan sát, nhìn thấy của vợ chồng anh K, tuy nhiên vợ chồng anh
K hoàn toàn có đủ khả năng và điều kiện để thực hiện việc quản lý trực tiếp
đối với tài sản, thể hiện ở việc ngay sau khi N lấy 2 chiếc điện thoại bỏ chạy
vợ chồng anh K đã đuổi theo và hô hoán mọi người xung quanh đuổi bắt N,
tức là vợ chồng anh K có đủ điều kiện để ngăn cản việc K chiếm đoạt tài sản
và thực tế ngay sau đó đã bắt giữ được K, việc bắt giữ được K cũng phần nào
thể hiện rõ khả năng và điều kiện quản lý tài sản của chủ sở hữu. Mặt khác N
nhanh chóng thực hiện chiếm đoạt tài sản, nhanh chóng rời khỏi hiện trường
không phải là đặc trưng của tội này.
- Về quan điểm thứ ba: N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”: Đối
với quan điểm này nhận thấy N có hành vi giả vờ mua điện thoại để vợ chồng
41
anh K đưa tài sản cho N, tuy nhiên trong trường hợp này chưa thoả mãn dấu
hiệu chiếm đoạt tài sản của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ở tình huống
nêu trên cần phân biệt giữa các khái niệm “đưa tài sản cho xem” và “giao tài
sản cho người khác”. Hành vi gian dối của N ở đây chỉ là để tiếp cận tài sản,
chưa chiếm đoạt được tài sản, hành vi gian dối của N là thủ đoạn để N thực
hiện hành vi chiếm đoạt của tội phạm khác, hành vi chiếm đoạt tài sản sau đó
bỏ chạy thoả mãn dấu hiệu của tội khác. Trong tình huống nêu trên việc vợ
chồng anh K đưa tài sản cho N là để N xem chứ chưa thực hiện việc giao tài
sản quản lý, chưa chấm dứt việc quản lý đối với tài sản sở hữu.
- Quan điểm thứ tư: cho rằng N phạm tội “Trộm cắp tài sản”: Từ tình
huống nêu trên cho thấy N hoàn toàn không có hành vi lén lút. Vì hành vi lén
lút phải thể hiện ở việc, về chủ quan người thực hiện hành vi phạm tội che
giấu hành vi của mình với chủ sở hữu, với người xung quanh và còn có ý thức
che giấu tính bất minh của hành vi đó. Tuy nhiên trong tình huống trên N
hoàn toàn nhận thức được và biết được sau khi lấy tài sản rời khỏi cửa hàng
thì ngày lập tức sẽ bị vợ chồng anh K phát hiện. Tức là việc lấy đi 2 chiếc
điện thoại nêu trên của N hoàn toàn không có sự che giấu, lén lút đối với chủ
sở hữu và che giấu hành vi phạm tội của mình.
Từ những phân tích, nhận định, đánh giá trên tác giả nhận thấy quan
điểm N phạm tội “Cướp giật tài sản” quy định tài Điều 136 BLHS là phù hợp.
2.2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản
Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của TAND là một trong những
phương tiện pháp lý trực tiếp và hữu hiệu để giáo dục ý thức pháp luật, nâng
cao ý thức tuân thủ pháp luật và xây dựng thói quen sử dụng pháp luật bảo vệ
các quyền, thực thi các nghĩa vụ của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Với
cơ chế xét xử công khai có tranh tụng với một thủ tục chặt chẽ, tỉ mỉ, hoạt
động áp dụng pháp luật của TAND có thể nói là một điển hình của việc thực
42
hiện dân chủ và giữ gìn pháp chế trong đời sống xã hội.
Thông qua số liệu thống kê của TAND Quận 9 giai đoạn từ năm 2015
đến 2019, có thể thấy thực trạng áp dụng các hình phạt tại địa bàn Quận 9
như sau:
Bảng 2.3. Hình phạt được áp dụng đối với tội cướp giật tài sản tại
Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2019
Năm Phạt tiền Số bị cáo Cải tạo không giam giữ Tù từ 01 đến 05 năm Tù từ trên 3 năm đến 10 năm Tù từ trên 7 năm đến 15 năm Tù từ trên 12 năm đến 20 năm hoặc chung thân
2015 46 22 0 8 20 13 5
2016 20 10 0 11 5 4 0
2017 26 14 0 13 8 4 1
2018 22 9 0 10 8 3 1
2019 25 7 0 14 7 2 2
( Nguồn:Báo cáo tổng kết của Viện kiểm sát nhân dân Quận 9,
Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2019)
Theo số liệu về mức hình phạt đối với tội cướp giật tài sản trên địa bàn
Quận 9, TPHCM cho thấy khung hình phạt được TAND Quận 9 áp dụng như
sau:
+ Năm 2015: Có 46 bị cáo được đưa ra xét xử. Trong đó: Cải tạo không
giam giữ 0 bị cáo/46 bị cáo ( chiếm 0%); tù từ 01 đến 05 năm có 08 bị cáo/46
bị cáo ( chiếm 17,4%); tù từ 03 năm đến 10 năm có 20 bị cáo / 46 bị cáo (
chiếm 43,5%); tù từ 07 năm đến 15 năm có 13 bị cáo/46 bị cáo ( chiếm 28%);
tù trên 13 năm đến 20 năm hoặc chung thân có 5 bị cáo/46 bị cáo ( chiếm
10,8%); Áp dụng hình phạt tiền có 22 bị cáo.
+ Năm 2016: Có 20 bị cáo được đưa ra xét xử. Trong đó: Cải tạo không
giam giữ 0 bị cáo/20 bị cáo ( chiếm 0%); tù từ 01 đến 05 năm có 11 bị cáo/20
43
bị cáo ( chiếm 55%); tù từ 03 năm đến 10 năm có 05 bị cáo / 20 bị cáo (
chiếm 25%); tù từ 07 năm đến 15 năm có 04 bị cáo/20 bị cáo ( chiếm 20%);
tù trên 13 năm đến 20 năm hoặc chung thân có 0 bị cáo/20 bị cáo ( chiếm
0%); Áp dụng hình phạt tiền có 10 bị cáo.
+ Năm 2017: Có 26 bị cáo được đưa ra xét xử. Trong đó: Cải tạo không
giam giữ 0 bị cáo/20 bị cáo ( chiếm 0%); tù từ 01 đến 05 năm có 13 bị cáo/26
bị cáo ( chiếm 50%); tù từ 03 năm đến 10 năm có 08 bị cáo / 26 bị cáo (
chiếm 30,7%); tù từ 07 năm đến 15 năm có 04 bị cáo/26 bị cáo ( chiếm
15,4%); tù trên 13 năm đến 20 năm hoặc chung thân có 01 bị cáo/26 bị cáo (
chiếm 3,8 %); Áp dụng hình phạt tiền có 14 bị cáo.
+ Năm 2018: Có 22 bị cáo được đưa ra xét xử. Trong đó: Cải tạo không
giam giữ 0 bị cáo/20 bị cáo ( chiếm 0%); tù từ 01 đến 05 năm có 10 bị cáo/22
bị cáo ( chiếm 45,5%); tù từ 03 năm đến 10 năm có 08 bị cáo / 22 bị cáo (
chiếm 36,3%); tù từ 07 năm đến 15 năm có 03 bị cáo/22 bị cáo ( chiếm
13,6%); tù trên 13 năm đến 20 năm hoặc chung thân có 01 bị cáo/22 bị cáo (
chiếm 4,5%); Áp dụng hình phạt tiền có 09 bị cáo.
+ Năm 2019: Có 25 bị cáo được đưa ra xét xử. Trong đó: Cải tạo không
giam giữ 0 bị cáo/20 bị cáo ( chiếm 0%); tù từ 01 đến 05 năm có 14 bị cáo/25
bị cáo ( chiếm 56%); tù từ 03 năm đến 10 năm có 07 bị cáo / 25 bị cáo (
chiếm 28%); tù từ 07 năm đến 15 năm có 02 bị cáo/25 bị cáo ( chiếm 8%); tù
trên 13 năm đến 20 năm hoặc chung thân có 02 bị cáo/25 bị cáo ( chiếm 8%);
Áp dụng hình phạt tiền có 07 bị cáo.
Như vậy trong 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019 trên địa bà Quận 9,
TPHCM không có bị cáo nào được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ
đối với Tội cướp giật tài sản, rõ ràng điều này cho thấy mức độ hành vi phạm
tội của các bị cáo là không hề nhẹ. Số bị cáo phạm Tội cướp giật tài sản trong
năm 2015 là cao nhất với 46 bị cáo và năm 2016 là thấp nhất với 20 bị cáo
44
2.3. Những khó khăn và nguyên nhân
Việc định tội danh tội cướp giật tài sản trong 05 năm từ năm 2015 đến
năm 2019 trên địa bàn Quận 9, TPHCM đã và đang gặp phải những khó khăn,
vướng mắc và hạn chế nhất định. Bởi các nguyên nhân sau:
+ Do trong quá trình giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng nhận
thức và đánh giá chứng cứ không thống nhất với nhau. Việc không thống nhất
này gây ra nhiều luồng quan điểm trái chiều, khi không thống nhất gây ảnh
hưởng đến hoạt động xử lý vụ án hình sự nói chung, và hoạt động xử lý vụ án
cướp giật tài sản nói riêng
+ Trong quá trình xử lý vụ án hình sự, đã để xảy ra những vi phạm về
thủ tục tố tụng hình sự, việc vi phạm này dẫn đến vụ án bị TA hoặc VKS trả
hồ sơ đề điều tra bổ sung, việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung này có thể nhiều
lần hoặc một lần, đối với vụ án sau khi đã xét xử sơ thẩm, cấp phúc thẩm
kháng nghị hủy án sơ thẩm đề điều tra, xét xử lại theo thủ tục chung gây ảnh
hưởng rất nhiều đến chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ
quan tư pháp cấp địa phương .
+ Trong những năm vừa qua việc xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn
Quận 9, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, vẫn còn một số tồn tại, khó
khăn trong quá trình tiến hành định tội danh, nhất là trong trường hợp đồng
phạm, một trong những nguyên nhân gây khó khăn đó là do việc phân hóa vai
trò đồng phạm của từng bị can và các bị cáo chưa được chính xác, hay như
việc xác định các tình tiết tăng nặng, các tình tiết giảm nhẹ đối với từng bị
can, bị cáo chưa thật sự đầy đủ. Việc này gây dẫn đến những sai lầm không
thể khắc phục được, dẫn đến có thể xảy ra trường hợp nhiều vụ án đã bị hủy,
nhiều vụ án bị sửa khi bị kháng cáo, kháng nghị, điều này đã gây ảnh hưởng
lớn đến chất lượng giải quyết vụ án hình sự của các cấp có thẩm quyền.
45
+ Trong trường hợp vụ án có nhiều bị can phạm nhiều tội, hay trong
những trường hợp một bị can cùng lúc thực hiện nhiều hành vi phạm tội khác
nhau, nguyên nhân của trường hợp này là do vụ án có nhiều bị can, liên quan
đến nhiều hành vi phạm tội, nên trong việc xác định và phân hóa vai trò cũng
như hành vi của từng bị can, bị cáo chưa chính xác; bên cạnh đó trình độ,
năng lực của ĐTV, KSV, TP còn hạn chế, nhiều người còn thiếu kinh nghiệm
dẫn đến quá trình điều tra, truy tố, xét xử chưa đầy đủ, toàn diện. Từ việc điều
tra, truy tố, xét xử chưa đầy đủ, toàn diện dẫn đến những sai lầm về chủ thể
hoặc khách thể của tội phạm không được điều tra, xử lý đúng quy định, gây ra
tình trạng bị cáo kháng cáo, hoặc VKS kháng nghị nhiều và kết quả là Bản án
bị hủy để điều tra lại. Việc hủy Bản án như vậy gây ảnh hưởng đến công tác
đấu tranh, phòng chống tội phạm và tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội tại địa phương.
Tiểu kết Chương 2
Việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật đối với tội cướp giật tài
sản một cách nghiêm minh, đúng pháp luật, đúng người, đúng tội luôn là vấn
đề quan trọng được đặt lên hàng đầu của các cơ quan tiến hành tố tụng. Định
tội danh là một vấn đề hết sức quan trọng, là giai đoạn cơ bản trong quá trình
áp dụng pháp luật hình sự. Tất cả những việc làm trước đó (từ khởi tố, điều
tra, truy tố) suy cho cùng là nhằm phục vụ cho việc định tội được chính xác.
Định tội đúng có ý nghĩa quyết định quá trình giải quyết vụ án hình sự, bởi vì
nó là cơ sở cần thiết đầu tiên cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự người
phạm tội. Định tội danh đúng, chính xác, đầy đủ tránh được việc xét xử oan
sai và bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.
Chương 2 luận văn đã khái quát đặc điểm về địa lý, lãnh thổ, dân cư, văn
hóa, dân tộc, tôn giáo cùng những tình hình khác có ảnh hưởng trực tiếp đến
đến diễn biến tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng trên địa
46
bàn Quận 9, TPHCM . Tác giả đã phân tích một cách cụ thể về tình hình tội
phạm trên địa bàn Quận 9, thông qua việc phân tích các số liệu về các vụ án,
số liệu các bị cáo, cũng như việc định tội danh và quyết định hình phạt trong
thời gian 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019 đối với tội cướp giật tài sản .Tác
giả đã nêu ra và phân tích những mặt tích cực đã đạt được,cũng như những
tồn tại, hạn chế trong quá trình tiến hành định tội danh và quyết định hình
phạt đối với tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 9, đồng thời cũng phân
tích những nguyên nhân dẫn đến những tồn tại hạn chế trên, làm cơ sở trong
việc đề xuất một số kiến nghị nhằm đảm bảo áp dụng đúng các quy định của
pháp luật đối với tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 9 mà tác giả sẽ trình
bày ở Chương 3 của luận văn.
47
Chương 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT
TÀI SẢN TẠI QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật
đối với tội cướp giật tài sản
Để đảm bảo việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật đối với tội
cướp giật tài sản một cách nghiêm minh, đúng pháp luật, đúng người, đúng
tội thì điều cần đặt ra đó là vấn đề định tội danh cần phải đúng, chính xác,
điều đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi định tội danh đúng là cơ sở cần
thiết đầu tiên cho việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội tội cướp giật tài
sản theo Điều 171 BLHS năm 2015 căn cứ vào đó mà toà án quyết định một
hình phạt phù hợp đối với hành vi phạm tội đó.
Định tội danh tội cướp giật tài sản đúng là sự thể hiện việc đánh giá
chính xác về pháp lý đối với những hành vi có dấu hiệu đặc trưng của loại tội
phạm này. Từ đó tránh được tình trạng oan, sai trong các vụ án hình sự đồng
thời là điều kiện quan trọng trong việc quyết định hình phạt đúng người đúng
tội. Ngoài ra định tội danh đúng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn trong
công tác phòng ngừa và điều tra, xử lý loại tội phạm này.
Yêu cầu cơ bản để định tội danh của Tội cướp giật tài sản điều
171BLHS: việc xây dựng, ban hành điều luật phải chỉ rõ các dấu hiệu tội
phạm cơ bản hạn chế việc sử dụng từ ngữ hiểu theo nhiều nghĩa dẫn đến việc
viện dẫn thiếu chính sác và phải xây dựng hệ thống văn bản hướng dẫn kịp
thời. Như vậy để định tội danh đối với tội cướp giật tài sản đúng, chính xác
cần đảm bảo các yêu cầu sau:
Thứ nhất, Đảm bảo yêu cầu của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Để tạo cho xã hội có trật tự, kỷ cương, tính thượng tôn pháp luật bảo
48
đảm an ninh trật tự của toàn xã hội, hạnh phúc của nhân dân thì cần thiết phải
nghiêm chỉnh thực hiện các yêu cầu của nguyên tắc pháp chế. Đây là nguyên
tắc được quy định cụ thể trong Hiến pháp Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam Hiến pháp năm 2013 “Nhà nước ........ quản lý xã hội bằng Hiến
pháp và pháp luật”. Muốn như vậy thì đòi hỏi bộ máy nhà nước nói chung và
các cơ quan tư pháp nói riêng phải được tổ chức hoạt động theo đúng quy
định của pháp luật. Thực hiện tốt nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự nói
chung và các tội xâm phạm sở hữu nói riêng trong đó có tội cướp giật tài sản
là cơ sở để đảm bảo cho các cơ quan tư pháp hoạt động nhịp nhàng, đồng bộ
phát huy hiệu lực, hiệu quả của quyền lực nhà nước, bào đảm công lý và công
bằng trong xã hội. Pháp chế vừa là nhu cầu, vừa là kết quả khách quan của
quá trình thiết lập, xây dựng và phát triển luật hình sự nói chung và tội cướp
giật tài sản nói riêng, chính vì vậy yêu cầu đòi hỏi việc tuân thủ nghiêm chỉnh
nguyên tắc pháp chế lại càng cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết. Trước
tiên yêu cầu của nguyên tắc pháp chế trong hoạt động định tội danh tội cướp
giật tài sản đó là những quy định về tội cướp giật tài sản trong BLHS phải
được xây dựng hoàn thiện, chính xác, rõ ràng, trên những cơ sở khoa học, đáp
ứng nhu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm diễn ra trên địa bàn cả nước nói
chung và quận 9 TPHCM nói riêng. Tiếp theo là việc áp dụng pháp luật của
các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng hình sự trên địa
bàn quận 9 phải tuyệt đối tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật
hình sự, muốn vậy đầu tiên phải nhận thức đúng, sâu sắc các quy định pháp
luật hình sự về tội cướp giật tài sản, các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội
phạm này so với các tội xâm phạm sở hữu khác. Quá trình các cơ quan chức
năng định tội danh phải đánh giá, kiểm tra đầy đủ các tình tiết cả khách quan
lẫn chủ quan của vụ án, mối liên hệ giữa những tình tiết đó; từ đó thu thập, so
sánh đối chiếu những tài liệu chứng cứ thu thập được nhằm xác định sự phù
49
hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội với các dấu hiệu đặc trưng của tội
cướp giật tài sản quy định trong BLHS và ra kết luận chính xác. Khi giải
quyết vụ án hình sự cướp giật tài sản vấn đề quan trọng đặt ra là phải nhanh
chóng, kịp thời, đúng theo quy định của pháp luật; quá trình khởi tố, điều tra,
truy tố và xét xử phải có căn cứ xác đáng khẳng định đúng người, đúng tội,
không làm oan người vô tội nhưng đồng thời không bỏ lọt tội phạm. Mặt khác
nếu phát hiện có hành vi vi phạm nguyên tắc pháp chế XHCN của cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thì đều bị xử lý nghiêm minh. Có
thể nói thực hiện đúng, chính sác, đầy đủ yêu cầu của nguyên tắc pháp chế
XHCN đối với tội cướp giật tài sản cũng chính là đã thực hiện được yêu cầu
để bảo đảm việc định tội danh đúng.
Thứ hai, yêu cầu cải cách tư pháp: trong thời gian vừa qua, Đảng và Nhà
nước ta thực sự rất chú trọng, quan tâm đến việc cải cách nâng cao chất lượng
công tác tư pháp, các cơ quan tư pháp có hoạt động hiệu quả mới đảm bảo
được các yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn
hiện nay. Cụ thể trong Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng,
Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương đảng
về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới ban hành
ngày 02/01/2002; Nghị quyết số 48/NQ-TW về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020,
ban hành ngày ngày 24/05/2015; Nghị quyết số 49/NQ-TW về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020. Ngoài ra Đảng ta đã “đẩy mạnh việc thực hiện
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Xây dựng hệ thống tư pháp, trong
sạch, vững mạnh, bảo đảm công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”
thực hiện theo đúng Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng năm 2011 đã đề ra. Theo quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết số 08/NQ-
TW ngày 02/01/2002: “công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý
50
kịp thời nghiêm minh các loại tội phạm hinh sự...” Tuy nhiên “chất lượng
công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân
dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các
quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối
với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp.” Đây cũng chính là đánh giá
của Nghị quyết số 08/NQ-TW. Chính vì thế trong thời gian tới TW Đảng đã
đặt ra mục tiêu, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Một trong những
nội dung để thực hiện tốt cải cách tư pháp đó chính là xây dựng đội ngũ cán
bộ tư pháp trong sạch về đạo đức, vững về chính trị giỏi về pháp luật đặc biệt
là xác định đúng các tình tiết của vụ án, nhận thức đúng nội dung các quy
định trong BLHS nói chung và tội cướp giật tài sản theo Điều 171 BLHS năm
2015 nói riêng đây chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong cải
cách tư pháp. Tại Nghị quyết số 49/ - NQTW đã khẳng định rõ phương hướng
xây dựng đội ngũ cán bộ là “xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư
pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn,
trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm
chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với
từng loại cán bộ, tiến tới thực hiện chế độ thi tuyển đối với một số chức
danh” qua đó có thể thấy cải cách tư pháp cũng chính là yêu cầu để bảo đảm
định tội danh đúng nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng.
Thứ ba, yêu cầu bảo vệ quyền con người
Quyền con người là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm, trên nhiều
lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị trong đó
có quyền sở hữu tài sản và quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ bị hành
vi phạm tội cướp giật xâm hại đến và để bảo vệ quyền con người một cách
thiết thực và có hiệu quả đòi hỏi phải có hệ thống căn cứ pháp lý đầy đủ.
Chính vì vậy qua các bản Hiến pháp, các công ước quốc tế mà Việt Nam đã
51
ký kết đều ghi nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hiến pháp năm
2013 đã ghi nhận trách nhiệm của Nhà nước là: công nhận, tôn trọng, bảo vệ
và bảo đảm quyền con người; và quyền con người được Hiến pháp 2013 tách
ra thành một nội dung độc lập trong Chương II thay vì quy định chung trong
Chương V Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Điều này nói rõ Hiến
pháp và pháp luật Việt Nam ghi nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
Hiến pháp có quy định rõ vai trò quan trọng của toàn án nhân dân trong việc
bảo vệ quyền con người. Điều 102 Hiến pháp nước CHXHCNVN năm 2013
quy định“Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.
Tòa án thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền công dân trong đó có quyền sở hữu
về tài sản thông qua việc xét xử, nhất là xét xử những vụ xâm phạm sở hữu
nói chung và những vụ cướp giật tài sản nói riêng, thực hiện nghiêm chỉnh
các nguyên tắc không bỏ lột tội phạm, không làm oan người vô tôi; nguyên
tắc hai cấp xét xử, ngoài ra theo BLTTHS năm 2015, Tòa án bảo vệ quyền sở
hữu tài sản và quyền nhân thân trong tội cướp giật tài sản khi kết thúc xét xử
bằng bản án hoặc quyết định tuyên bố một người có tội, áp dụng hình phạt,
trên cơ sở xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã
được thu thập trong quá trình tố tụng và căn cứ vào kết quả tranh tụng.
3.2. Một số giải pháp nhằm áp dụng đúng các quy định của pháp
luật về tội cướp giật tài sản
3.2.1. Các giải pháp chung
3.2.1.1 Tiếp tục củng cố và không ngừng tăng cường Nguyên tắc pháp chế
Khoản 1 Điều 8 Hiến pháp 2013 quy định: “Nhà nước được tổ chức và
hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và
52
pháp luật….” và Điều 2 Bộ luật Hình sự quy định: “Chỉ người nào phạm một
tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.”
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong Luật hình sự Việt Nam
được thể hiện ở việc xét xử hình sự phải đúng người, đúng tội, không bỏ lọt
tội phạm, không xử oan người vô tội, hình phạt phải tương xứng với tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Các nguyên tắc này là những
tư tưởng chủ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự
trong công cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Theo quy định của
BLHS nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện rất rõ: chỉ khi nào hành
vi của con người cụ thể đã được thực hiện, hành vi ấy được Luật Hình sự quy
định thì họ mới phải chịu trách nhiệm Hình sự. Hành vi đã thực hiện dù nguy
hiểm đến đâu nhưng không được Luật Hình sự quy định thì không phải là tội
phạm, người thực hiện hành vi ấy không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trong giai đoạn hiện nay Đảng và nhà nước ta đã và đang tập trung xây
dựng nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân dân
và vì nhân dân trong đó tôn trọng và bảo vệ quyền con người nói chung và
quyền sở hữu tài sản nói riêng là một yêu cầu quan trọng. Như vậy muốn thực
hiện được mục tiêu trên thì phải thường xuyên củng cố và không ngừng tăng
cường pháp chế trong luật hình sự nói chung và trong chế định các tội xâm
phạm sở hữu nói riêng trong đó có tội cướp giật tài sản.
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, xử lý nghiêm mọi hành vi vi
phạm pháp luật hình sự, trong đó có hành vi phạm tội cướp giật tài sản. Đồng
thời hạn chế, ngăn chặn những biểu hiện chủ quan, tuỳ tiện, lộng quyền của
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Trong hoạt động định tội
danh đối với tội cướp giật tài sản cần phải tiếp tục xây dựng hoàn thiện, chính
xác, rõ ràng, trên những cơ sở khoa học, đáp ứng nhu cầu đấu tranh, phòng
chống tội phạm diễn ra trên cả nước nói chung và trên địa bàn Quận 9
53
TPHCM nói riêng. Như vậy đòi hỏi ngày càng phải hoàn thiện các quy định
pháp luật về tội cướp giật tài sản đảm bảo tính chính xác trong định tội danh
điều này có ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong công tác phòng ngừa và điều tra,
xử lý loại tội phạm này.
Hiện nay Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến tăng cường pháp chế
trong lĩnh vực đấu tranh với các loại tội phạm hình sự trong đó có tội cướp
giật tài sản điều đó thể hiện ở chỗ nhà nước ta tiếp tục cụ thể hoá những nội
dung của chính sách hình sự và các chủ trương đường lối của Đảng và Chính
phủ trong lĩnh vực pháp luật hình sự. Nhằm răn đe, giáo dục và nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân qua đó tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, quyền công dân. Sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động
của mỗi Ngành cũng phải được thực hiện một cách toàn diện, chặt chẽ cả về
chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ, từ quá trình xây dựng chủ trương,
đường lối, quan điểm đó. Quán triệt phương châm Đảng lãnh đạo toàn diện
trong tổ chức, đổi mới hoạt động và công tác cán bộ của các ngành mũi nhọn
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm cướp giật tài
sản nói riêng.
Nhà nước Việt nam thừa nhận các quyền của công dân thông qua việc
nghi nhận bằng hiến pháp, bộ luật và các văn bản pháp luật khác...Đến lượt
mình pháp luật chính là cơ sở cho mọi hoạt động bảo vệ quyền công dân. Rõ
ràng quyền sở hữu của công dân được bảo đảm nhất khi chúng ta có hệ thống
pháp luật hình sự nói chung và chế định các tội xâm phạm sở hữu nói riêng
trong đó có tội cướp giật tài sản được hoàn thiện.
3.2.1.2 Tiếp tục quán triệt thực hiện tốt công cuộc cải cách tư pháp
Cải cách tư pháp là vấn đề hết sức hệ trọng, liên quan đến các thể chế
chính trị, quyền con người, quyền công dân và sự ổn định phát triển của đất
nước. Sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW, Ban Chỉ đạo
54
Cải cách tư pháp Trung ương (sau đây gọi tắt là Ban Chỉ đạo) và các cấp ủy,
tổ chức đảng trực thuộc Trung ương (Đảng ủy Công an Trung ương, Quân ủy
Trung ương, Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp, Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân
tối cao, Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao...) và các tỉnh ủy,
thành ủy trực thuộc Trung ương đã tích cực tuyên truyền, phổ biến rộng rãi
nội dung của Nghị quyết đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; kịp
thời xây dựng kế hoạch, chương trình hành động cụ thể để triển khai thực
hiện ở các ngành, các cấp; thường xuyên tổ chức kiểm tra, đôn đốc, hướng
dẫn việc thực hiện; định kỳ kiểm điểm, đánh giá kết quả triển khai thực hiện
và tiến hành sơ kết (3 năm, 5 năm), tổng kết (8 năm, 15 năm).
Tiếp tục quán triệt thực hiện mục tiêu của Chiến lược cải cách tư pháp
"Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được
tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao". Mục tiêu nêu trên đến nay vẫn còn
nguyên giá trị, đã được tiếp tục khẳng định trong Văn kiện Đại hội đảng toàn
quốc lần thứ XI và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa XI).
Cải cách tư pháp phải luôn luôn phải đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối,
nghiêm chỉnh, triệt để của Đảng, phải giữ được sự ổn định cao về chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội đồng thời khẳng định được bản chất Nhà nước ta
là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chiến lược Cải cách
tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với ý
chí, nguyện vọng của nhân dân; góp phần xây dựng xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bảo
vệ quyền con người quyền công dân...
Tiếp tục xây dựng, sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật hình sự nói
chung và các quy định về tội cướp giật tài sản nói riêng, theo hướng phòng
55
ngừa, giáo dục, răn đe không để tội phạm xảy ra là chính, phát huy tối đa giá
trị nhân đạo, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời bảo vệ quyền công
dân, quyền con người trong việc điều tra, truy tố xét xử những vụ án liên quan
đến loại tội phạm này. Việc quyết định áp dụng hình phạt tử hình, hình phạt
tù, cần được xem xét cẩn trọng và trọng tạo điều kiện cho bị cáo có thời gian
cơ hội trở về với cuộc sống trở thành người có ích cho xã hội áp dụng hình
phạt phạt tiền cao hơn nữa, hình phạt cải tạo không giam giữ rộng hơn đối với
tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng.
Tiếp tục hoàn thiện, về cơ cấu tổ chức của hệ thống TAND, VKSND và
CQĐT. Đổi mới công tác tổ chức xét xử tại toà hoặc lưu động, để thể hiện
được tính giáo dục, răn đe và tính công bằng nghiêm minh của pháp luật hình
sự tạo điều kiện cho hệ thống tư pháp nói chung và TAND nói riêng được
hoàn thiện và đảm bảo thực thi quyền tư pháp. Phải tổ chức tốt phiên toà để
cho hoạt động tranh tụng phát huy được hiệu quả cao nhất, đảm bảo tính
khách quan và công bằng trong xét xử đây chính là điểm then chốt, quan
trọng của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Không ngừng quan tâm, tạo
điều kiện, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ làm công tác tư pháp theo
hướng, giỏi về pháp luật, nghiệp vụ,vững vàng về chính trị tư tưởng, trong
sạch, khách quan, công bằng trong công việc.
3.2.2. Các giải pháp cụ thể
3.2.2.1 Hoàn thiện pháp luật hình sự
Tội cướp giật tài sản được quy định tại Điều 171 được quy định thành 5
khoản với 18 điểm, trong khi Điều 136 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm
2009 (sau đây gọi tắt là BLHS năm 1999) chỉ quy định 14 điểm. Cũng tại các
điểm của Điều 171 BLHS năm 2015 không sử dụng từ ngữ để chỉ số lượng,
giá trị như các điểm của Điều 136 BLHS năm 1999 đã quy định: “...bị phạt tù
từ một năm đến năm năm” được thay bằng các con số như “...bị phạt tù từ 01
56
năm đến 05 năm”, đồng thời BLHS năm 2015 còn thay thế thuật ngữ “giá
trị” bằng “trị giá”. Theo đó quy định “chiếm đoạt tài sản giá trị từ năm mươi
triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng …” được thay bằng “chiếm đoạt tài
sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng…”. như vậy sự
thay đổi này là hoàn toàn phủ hợp, bảo đảm tính rõ ràng, thống nhất; rõ ràng
từ trị giá dễ hiểu và sát nghĩa hơn tránh được việc hiểu nhiều nghĩa, cụm từ
giá trị có thể hiểu là sự cảm nhận mang tính chủ quan của chủ thể đối với một
sự vật, hiện tượng hay một trạng thái nào đó. Đối với một đồ vật, tài sản hoặc
dịch vụ thì giá trị chính là giá trị sử dụng, công dụng của nó; còn trị giá tức là
định giá được bằng tiền hay một đơn vị tương đương tiền tệ của một đồ vật,
tài sản hay một dịch vụ nào đó. Đối với tội cướp giật tài sản, việc định giá đối
với tài sản bị chiếm đoạt mặc dù không phải là dấu hiệu bắt buộc trong việc
định tội danh nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc định khung hình phạt
đối với người phạm tội; trong cuộc sống có nhiều người có thể bị nhầm lẫn về
khái niệm “trị giá” và“giá trị”, chính vì vậy, để đảm bảo áp dụng pháp luật
một các thống nhất và chính xác thì việc thay đổi thuật ngữ như vậy là hoàn
toàn phù hợp và cần thiết.
Tội cướp giật tài sản quy định tại điều 171 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ
sung năm 2017) các nhà làm luật đã bỏ đi một số điểm không phù hợp và bổ
sung thêm nhiều điểm mới so với điều 136 BLHS năm 1999: cụ thể đã bỏ một
số tình tiết định khung tăng nặng như “Gây hậu quả nghiêm trọng; Gây hậu
quả rất nghiêm trọng; Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, đây là nhưng tình
tiết mang tính chất định tính và rất khó xác định. Các nhà làm luật đã bổ sung
thêm 4 tình tiết định khung mới trong khoản 2, 3 và 4 của điều luật cho phù
hợp với thực tiễn, cụ thể bổ sung thêm điểm g, điểm h, tại Khoản 2 Điều 171
BLHS 2015: “Điểm g: Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết
là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; Điểm h: Gây
57
ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”; bổ sung thêm điểm c tại
Khoản 3: “Điểm c: Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh”; Bổ sung thêm điểm b,
điểm d Khoản 4: “Điểm b: Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ
của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể
của mỗi người 31% trở lên; Điểm d: Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình
trạng khẩn cấp”. Những điểm mới trong tội cướp giật tài sản điều 171 Bộ luật
hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017 đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu định tội
danh và quyết định hình phạt, đồng thời còn góp phần to lớn cho công tác
phòng ngừa và đấu với loại tội phạm này. Mặc dù BLHS năm 2015 mới được
ban hành và sửa đổi bổ sung năm 2017 tuy nhiên qua quá trình thi hành trong
thực tiễn vẫn còn có một số vướng mắc nhất định đó là:
Tại điểm g khoản 2 Điều 170 tội cướp giật tài sản Bộ luật Hình sự năm
2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 vẫn quy định “Người già yếu” là tình tiết
định khung, nhưng hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn như thế nào
là “Người già yếu”. Hiện nay, hệ thống pháp luật Việt Nam mới chỉ có khái
niệm “Người cao tuổi” quy định Điều 2 Luật người cao tuổi. Theo hướng dẫn
của Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP thì“Người già” là người từ 70 tuổi trở
lên còn tại Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP quy định “Người quá già yếu” được
xác định là người từ 70 tuổi trở lên hoặc người từ 60 tuổi trở lên nhưng
thường xuyên đau ốm. Riêng đối với khái niệm “Người già yếu” quy định tại
các điều luật nói trên của Bộ luật Hình sự năm 2015, đến nay vẫn chưa có
hướng dẫn cụ thể, gây khó khăn trong áp dụng pháp luật.
Ví dụ: Trần Văn An cướp giật một chiếc điện thoại Iphone 6 trị giá
5.000.000 đồng của ông Hoàng Văn Bảo, đến thời điểm thực hiện hành vi
phạm tội người bị hại ông Bảo đã 70 tuổi, nhưng vẫn không thể áp dụng tình
tiết “Người giá yếu” để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với An. Bởi vì, quá
58
trình điều tra ông Bảo cho rằng, mặc dù ông đã 70 tuổi là “Người già”, nhưng
không “yếu”, bản thân ông sống một mình, tự lao động để nuôi sống bản
thân, Không cần ai chăm sóc. Trường hợp này, nếu áp dụng tình tiết “Người
giá yếu” thì An phạm tội theo quy định tại khoản 2 Điều 171 (khung hình
phạt 3-10 năm tù), nhưng nếu không áp dụng tình tiết “Người giá yếu” thì An
chỉ phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 171 (khung hình phạt 01-05 năm tù).
Bộ luật Hình sự năm 2015 tại Điều 51 và Điều 52 đã bỏ khái
niệm “Người già” chính vì vậy khái niệm “Người già yếu” và “Người quá
già yếu” không còn căn cứ để áp dụng pháp luật. Do đó, các điều luật trong
Bộ luật hình sự nói chung và tội cướp giật tài sản Điều 171 BLHS 2015 (sửa
đổi bổ sung năm 2017) vẫn giữ khái niệm “Người già yếu’ để làm căn cứ
định khung là không phù hợp, thiếu tính khả thi và thiếu thống nhất trong quy
định của Bộ luật Hình sự. Để khắc phục vấn đề này, các cơ quan có thẩm
quyền cần có văn bản hướng dẫn cụ thể theo hướng“Người già yếu” là người
từ đủ 70 tuổi trở lên hoặc là người đủ 60 tuổi đến dưới 70 tuổi nhưng thường
xuyên đau ốm hoặc là sửa đổi theo hướng “Người già yếu” thành khái
niệm “Người từ 70 tuổi trở lên”.
Tình tiết “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” được
áp dụng là tình tiết định khung tăng nặng khoản 2 đối với Tội cướp giật tài
sản Điều 171 BLHS năm 2015. Trên thực tế khi áp dụng tình tiết này sẽ gặp
những khó khăn nhất định do cách hiểu, nhận thức thiếu thống nhất trong thực
tiễn áp dụng vì đây là tình tiết, hậu quả mang tính phi vật chất; việc đánh giá,
áp dụng dễ mang tính tùy nghi, phụ thuộc vào nhận thức của các cơ quan,
người tiến hành tố tụng cũng như phụ thuộc vào đặc trưng, điều kiện phát
triển kinh tế của từng vùng miền, địa phương khác nhau. Đây là tình tiết rất
chung chung mà không cụ thể rất khó cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà
án xác định vì có thể dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người
59
vô tội, đồng thời còn xuất hiện tình trạng xét xử không thống nhất giữa các
địa phương. Cần có quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn mang tính liệt kê về tình
tiết này có như vậy mới tránh áp dụng tùy tiện theo vùng, địa phương, tránh
oan sai, bỏ lọt tội phạm.
Điều 171 BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) có quy định tình tiết:
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ. Tại các khoản 2, khoản 3 ta
thấy trong thực tế nếu có trường hợpngười phạm tội giật tài sản của người bị
hại lại gây thương tích cho người đó mà qua giám định tỷ lệ thương tật cơ thể
từ 30% đến dưới 31% hoặc từ 60% đến dưới 61%. Đây là điểm mà các nhà
làm luật không quy định thì việc các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng
khung, khoản để định tội danh, quyết định hình phạt sẽ khó xác định, dễ gây
ra sự tùy nghi.
Ví dụ: Nguyễn Văn Lâm có hành vi cướp giật túi xách của chị Đặng Thu
Thảo đang điều khiển xe máy ngược chiều với Lâm, Làm chị thảo Ngã xe
xuống đường gây thương tích với tỷ lệ thương tật cơ thể qua giám định là
30,5%. Như vậy trong trường hợp này Toà án có thể áp dụng Khoản 1 hoặc
Khoản 2 Điều 171 BLHS năm 2015. Điều này là không phù hợp sẽ dẫn đến
xét xử và quyết định hình phạt theo ý thức chủ quan chính vì vậy cần thiết sửa
đổi theo hướng như sau: sửa đổi điểm b Khoản 3 thành “Gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ
trên 30% đến 60%”; đồng thời sửa đổi điểm b, Khoản 4 thành “Gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ
trên 60% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02
người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 30% trở lên”.
3.2.2.2. Tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự về Tội cướp
giật tài sản
Một trong những yêu cầu cấp thiết của việc xây dựng Nhà nước ta là
60
pháp luật phải đi vào cuộc sống và được nghiêm chỉnh chấp hành. Để pháp
luật được mọi cơ quan, tổ chức và công dân chấp hành nghiêm chỉnh thì bên
cạnh việc tổ chức, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xử lý nghiêm
những người vi phạm pháp luật, việc giải thích pháp luật giúp cho các cơ
quan áp dụng pháp luật hiểu đúng ý tứ và tinh thần của văn bản pháp luật nói
chung và của từng điều luật nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng. Điều này đặt
ra yêu cầu đối với các cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật còn phải
ban hành các hướng dẫn, giải thích pháp luật kịp thời.
Hiện nay, các hướng dẫn nghiệp vụ đối với các tội xâm phạm sở hữu nói
chung và tội cướp giật tài sản nói riêng của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
cho BLHS năm 2015 còn chậm ban hành. Trong thời gian qua mặc dù quy
định về tội cướp giật tài sản đã được điều chỉnh theo quy định tại BLHS năm
2015 nhưng các Toà án đa phần vẫn dựa vào những hướng dẫn nghiệp vụ của
Hội đồng thẩm phán TANDTC được ban hành để hướng dẫn các quy định của
BLHS năm 1999 đối với tội cướp giật tài sản. Do vậy yêu cầu đặt ra là để đấu
tranh có hiệu quả đối với các tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói
riêng thì Hội đồng Thẩm phán TANDTC cần nhanh chóng ban hành nghị
quyết hướng dẫn chi tiết áp dụng một số quy định của BLHS về các tội phạm
này. Cụ thể, TANDTC đã ban hành Quyết định 151/QĐ-TANDTC ngày
9/8/2017, quy định nhiệm vụ của toà án trong đó có nhiệm vụ hướng dẫn áp
dụng thống nhất pháp luật là quan trọng, cấp thiết hàng đầu.
Để có thể áp dụng pháp luật trong thời gian tới một cách hiệu quả đòi hỏi
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần thực nghiêm túc nghị Nghị quyết số
49/-NQTW vê công tác cải cách tư pháp trong đó có nhiệm vụ hoàn thiện
pháp luật trong đó có pháp luật hình sự và tố tụng hình sự; thường xuyên, kịp
thời sửa đổi, bổ sung, khắc phục những vướng mắc trong khi áp dụng trong
thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử. Tăng cường giải thích và hướng dẫn áp
61
dụng pháp luật cho các cơ quan tố tụng cấp dưới để thực hiện việc định tội
danh một cách chính xác tránh tình trạng oan sai. Thực hiện tốt công tác cải
cách tư pháp cũng chính là cần tiếp tục tăng cường đổi mới cơ chế, phương
thức hoạt động của các cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đặc
biệt là trình độ năng lực của cán bộ xây dựng pháp luật nhằm nâng cao chất
lượng công tác xây dựng pháp luật hình sự nói chung và tội cướp giật tài sản
nói riêng. Đây là yêu cầu, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu làm cơ sở vững
chắc cho việc bảo đảm áp dụng pháp luật. Trong thời gian qua Hội đồng
Thẩm phán TANDTC đã ban hành nhiều Nghị quyết hướng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật. Những Nghị quyết này đã thống nhất nhận thức trong áp
dụng pháp luật, đặc biệt là các vấn đề nóng, dư luận bức xúc, các cơ quan tiến
hành tố tụng đang có nhận thức khác nhau như: xâm hại tình dục, các tội xâm
phạm sở hữu trong đó có tội cướp giật tài sản... Đồng thời, TANDTC đã đổi
mới công tác bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật thông qua việc tổ chức
đối thoại trực tuyến giữa Hội đồng Thẩm phán TANDTC với Tòa án các cấp
để trao đổi, giải đáp những vấn đề vướng mắc trong thực tiễn xét xử, qua đó
kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong công tác chuyên môn, góp phần
nâng cao chất lượng công tác xét xử. Đây là giải pháp mới trong hướng dẫn
áp dụng pháp luật, có tác dụng thiết thực nên đã thu hút được đông đảo các
Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên toàn quốc tham gia.
Ngoài ra việc tổng kết thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt
cũng là một nhiệm vụ quan trọng. TANDTC tiếp tục đẩy mạnh công tác tổng
kết thực tiễn xét xử thông qua việc tổ chức nhiều hội nghị chuyên đề về thực
tiễn thi hành pháp luật như: về giám đốc thẩm, tái thẩm, về biện pháp khẩn
cấp tạm thời. Qua đó, tiếp nhận các vấn đề vướng mắc trong thực tiễn xét xử
tại TAND các cấp để nghiên cứu, giải đáp giúp cho các Tòa án áp dụng thống
nhất pháp luật.
62
Bên cạnh đó, cần sửa đổi một số điều tại Thông tư liên tịch số
01/2017/TTLT-BCA-BQP-VKSTC-BNN&PTNT liên quan đến nhiệm vụ
quyền hạn của VKS và CQĐT trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố vụ án hình sự nói chung và vụ án về cướp giật
tài sản nói riêng nhằm hình thành quan hệ phối hợp chặt chẽ ngay từ đầu.
Theo quy định của BLTTHS thì VKS không có trách nhiệm giải quyết mọi tố
giác tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, mà chỉ trong trường hợp phát
hiện CQĐT có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác
minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt
tội phạm. Để thống nhất trong việc thực hiện BLTTHS, ngày 29/12/2017 liên
ngành Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành thông tư liên tịch số
01/2017 quy định quan hệ phối hợp giữa Cơ quan có thẩm quyền trong việc
tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cụ thể tài
Điều 5 và Điều 6 của Thông tư. Tuy nhiên vẫn còn bỏ ngỏ đối với các tố giác,
tin báo về tội phạm nếu VKS tiếp nhận thì có chuyển ngay cho CQĐT có
thẩm quyền giải quyết hay không? Điều này cũng sẽ gây khó khăn trong việc
giải quyết vụ án cướp giật tài sản nói chung và nói riêng trên địa bàn Quận.
Chính vì vậy tác giả đề xuất bổ sung vào Điều 5, khoản 2, điểm b của Thông
tư 01/2017 về trách nhiệm tiếp nhận, thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo
tội phạm sẽ ghi rõ việc VKS có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo vè tội
phạm và chuyển ngay đến CQĐT có thẩm quyền để giải quyết.
3.2.2.3 Nâng cao nhận thức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức
của người tiến hành tố tụng
Tại Nghị quyết số 49/-NQTW đã khẳng định rõ phương hướng xây dựng
đội ngũ cán bộ là “xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là
cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm
63
pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức,
chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán
bộ, tiến tới thực hiện chế độ thi tuyển đối với một số chức danh” qua đó có
thể thấy cải cách tư pháp mà trong đó là cải cách về công tác cán bộ có vai trò
rất quan trong quyết định đến kết quả công tác định tội danh nói chung và tội
cướp giật tài sản nói riêng.
Đối với điều tra viên
Điều tra vụ án hình sự nói chung và vụ án hình sự cướp giật tài sản nói
chung là một giai đoạn trong tố tụng hình sự, sau quá trình điều tra CQĐT có
quyền Đình chỉ điều tra vụ án hình sự hoặc là chuyển toàn bộ các tài liệu của
vụ án đó cho Viện Kiểm sát kèm theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị
can. Chính vì vậy trong giai đoạn này nhận thức, năng lực và trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ của ĐTV có vai trò quan trọng, then chốt trong công cuộc đấu
tranh chống tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng. và song
song với đó công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ điều tra được đặt lên hàng
đầu. Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị
đã xác định: “Nghiên cứu xây dựng đề án thành lập cơ quan thống nhất đầu
mối đào tạo nghề nghiệp cho cán bộ có chức danh tư pháp và nghiên cứu
khoa học tư pháp. Đối với Điều tra viên thì do trường của Bộ Công an đào
tạo”.
Thứ nhất, Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra Công an quận 9
TPHCM phải phát huy vai trò gương mẫu, nêu cao tinh thần trách nhiệm của
bản thân, thấy rõ trách nhiệm của lãnh đạo chỉ huy và chịu trách nhiệm về
những vấn đề thuộc sự chỉ đạo, quản lý của mình. Qua đó tăng cường quán
triệt, giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức về ý nghĩa, vai trò và
tầm quan trọng của công tác điều tra vụ án hình sự nói chung và vụ án cướp
giật tài sản nói riêng đến cán bộ, chiến sỹ trong đơn vị của mình quản lý, từ
64
đó từng cán bộ, chiến sĩ đều thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình.
Thứ hai, các cấp lãnh đạo của Công an TP HCM nói chung và Công an
quận 9 nói riêng cần nghiên cứu phối hợp với TAND, VKSND cùng cấp xây
dựng các chương trình tập huấn chuyên môn trong giải quyết các vụ hình sự
nói chung và các vụ án cướp giật tài sản nói riêng cho cán bộ ngành tư pháp
bao gồm: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra và điều tra viên, một
số người được quyền tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu vụ án hình
sự. Tăng cường việc xây dựng kế hoạch đào tạo chuyên đề về tội phạm cướp
giật tài sản cho cán bộ hướng tới mục đích nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ điều tra với tội phạm này. Thường xuyên quan tâm, mở các lớp tập
huấn, đào tạo, bồi dưỡng giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức,
nâng cao nghiệp vụ (nghiệp vụ điều tra) đồng thời cần thường xuyên quan
tâm bổ sung lực lượng cho các đơn vị còn thiếu đặc biệt là hoàn thiện về tổ
chức và tăng cường sức chiến đấu của lực lượng cảnh sát điều tra về trật tự xã
hội trên địa bàn theo hướng củng cố, tăng cường về số lượng và chất lượng
điều tra viên huyện vì đa số vụ án cướp giật tài sản do cơ quan điều tra công
an quận thụ lý điều tra. Những nội dung đưa vào học tập cho ĐTV, cán bộ
điều tra cần thiết thực gắn liền với việc áp dụng luật trong thực tiễn đấu tranh
chống loại tội phạm này. Ngoài ra còn giúp hướng dẫn giải quyết các vướng
mắc cụ thể trong điều tra, giúp tháo gỡ và thống nhất áp dụng pháp luật.
Thứ ba Ngoài lực lượng ĐTV và cán bộ điều tra trực tiếp thực hiện
nhiệm vụ điều tra vụ án hình sự còn có một số cán bộ thực hiện nhiệm vụ tư
pháp khác làm việc tại trại tạm giam, nhà tạm giữ, Công an Phường của Công
an quận 9 TP HCM họ cũng phải được bồi dưỡng kiến thức pháp luật tố tụng
hình sự. Việc bồi dưỡng kiến thức pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến
công tác điều tra ban đầu, lấy lời khai người bị hại, người làm chứng, cách sử
lý đối với trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, tiếp nhận tin
65
báo về tội phạm..., khởi tố và áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam là điều
cần thiết. Đảm bảo các yêu cầu về điều tra và các chế độ giam giữ, không để
các đối tượng bị tạm giam, tạm giữ trốn, thông cung, chết.... trong nhà tạm
giữ, trại tạm giam.
Thứ tư, cần nâng cao hơn nữa năng lực, trình độ quản lý, chuyên môn
nghiệp vụ và pháp luật tố tụng của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan
CSĐT cho phù hợp với tình hình mới. Điều này đòi hỏi lãnh đạo Bộ Công an
thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng và phối hợp với các
trường, học viện cấp chứng chỉ cho các đối tượng này.. Tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra công tác của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân có liên
quan đến hoạt động tố tụng hình sự, trong đó về nội dung áp dụng biện pháp
ngăn chăn, khởi tố, điều tra ... cần phải được kiểm tra tích cực và thường
xuyên.
Thứ năm, hiện nay tại Quận 9, TP HCM có số lượng người nước ngoài
học tập và làm việc khá đông, trong đó cũng có không ít đối tượng phạm tội
vì vậy để đấu tranh với các đối tượng phạm tội là người nước ngoài một vấn
đề đặt ra đó là nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học cho ĐTV hiện nay, có thể
nói trình độ ngoại ngữ và tin học của ĐTV còn hạn chế, nhất là trình độ ngoại
ngữ. Theo quy định, ĐTV phải có trình độ B ngoại ngữ. Tuy nhiên, thực tế
khả năng giao tiếp với người nước ngoài của ĐTV chưa đáp ứng yêu cầu.
Chúng ta cũng đã nghiên cứu nhiều giải pháp nhưng chưa giải quyết được vấn
đề này, có nhiều lý do như ĐTV lớn tuổi, học ngoại ngữ đã lâu nhưng không
được ôn lại và giao tiếp thường xuyên. Để nâng cao trình độ ngoại ngữ Bộ
Công An cần phối hợp với các trung tâm ngoại ngữ mở các lớp bồi dưỡng đào
tạo cho cán bộ chiến sỹ.
Thứ sáu, bồi dưỡng đạo đức và kỹ năng nghề nghiệp của ĐTV. Đạo đức
nghề nghiệp là yếu tố quan trọng trong công tác của ĐTV. Các quy định của
66
pháp luật nói chung pháp luật tố tụng hình sự nói riêng đã quy định những
điều ĐTV được làm và không được làm. Đó là chuẩn mực cho hành vi của
ĐTV, ĐTV phải tuân thủ nghiêm túc, không được vi phạm dù là vi phạm nhỏ
nhất. Ý thức tuân thủ pháp luật phải được rèn luyện trong cuộc sống hàng
ngày, trong quá trình học tập và trong quá trình công tác. Lãnh đạo cấp trên
phải thường xuyên quan tâm, giáo dục ý thức này để tạo thành thói quen trong
cuộc sống, công tác của ĐTV. Phải tôn trọng các nguyên tắc cơ bản trong
điều tra vụ án có như thế mới bảo đảm sự thống nhất, khách quan của chứng
cứ chứ không do suy diễn, định kiến. ĐTV phải biết kiềm chế tình cảm và cá
tính nóng nảy của mình khi thực hiện nhiệm vụ để tránh bộc lộ sự nóng vội,
nóng tính làm mất đi sự tỉnh táo của mình. Kiên quyết và thận trọng trong xử
lý công việc.
Đối với kiểm sát viên
Trước yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của VKS theo yêu cầu của
cải cách tư pháp, việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, trong đó có đội ngũ
Kiểm sát viên VKSND trong sạch, có phẩm chất, năng lực nhằm bảo đảm
hiệu lực, hiệu quả của hoạt động kiểm sát là một nội dung rất quan trọng và
cấp thiết. công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Kiểm sát viên là một nhu cầu
tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu bức thiết của công cuộc cải cách tư pháp. Mục
tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát là: “Công minh, chính trực, khách
quan, thận trọng, khiêm tốn”, sẵn sàng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao cụ thể:
Thứ nhất, Thường xuyên giáo dục, rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo
đức, bản lĩnh chính trị, trách nhiệm của đội ngũ Kiểm sát viên, trong thực
hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội cướp giật tài
sản nói riêng. Trong công việc người kiểm sát viên phải siêng năng, cần mẫn,
không tham lam, nhũng nhiễu, công bằng, khách quan. Thực hiên đầy đủ
67
nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
Kiểm sát viên phải luôn luôn thể hiện được hình ảnh là người đại diện
cho sự công bằng, đại diện cho chính nghĩa, lẽ phải, có phẩm chất đạo đức và
đặc biệt phải có đủ năng lực để hoàn thành công việc chuyên môn được giao,
chính là những cán bộ vững vàng về chính trị, giỏi về pháp luật, nghiệp vụ
như lời bác Hồ dạy phải vừa hồng vừa chuyên.
Thứ hai, nâng cao trình độ cho kiểm soát viên đó là những kiến thức
phục vụ cho hoạt động tố tụng như kiến thức pháp luật, khoa học xã hội, tâm
lý học, tội phạm học... đây là những kiến thức bổ trợ quan trọng cho hoạt
động công tố tại toà đặc biệt là nội dung tranh luận. Để làm được điều đó thì
cần có sự quan tâm của Lãnh đạo ngành kiểm soát trong đó phải thường
xuyên theo sát và đổi mới công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
ngành kiểm sát một cách có trọng tâm trọng điểm, hướng về cấp cơ sở. Mục
tiêu giáo dục bám sát lời dạy của Bác đối với cán bộ kiểm sát: “Công minh,
chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”. Các cấp các đơn vị trong
ngàng kiểm sát phải thường xuyên tổ chức tổng kết rút kinh nghiệm về mọi
mặt công tác.
Thứ ba, Thường xuyên rèn luyện các kỹ năng nghiệp vụ như kỹ năng
viết cáo trạng, trình bày bản luận tội, diễn đạt, đối đáp trôi chảy, khả năng
phản xạ linh hoạt trước các vấn đề mới phát sinh trong quá trình tranh tụng tại
phiên tòa...Kiểm sát viên phải rèn luyện để luôn thể hiện phong cách ứng xử
có văn hóa trong mọi hành vi, thái độ, cách xưng hô, tôn trọng sự điều khiển
của chủ tọa phiên tòa, tôn trọng quyền và nghĩa vụ của những người tham gia
tố tụng nhất là những người tham gia tranh tụng với mình. Kiểm sát viên phải
thường xuyên đánh giá lại hoạt động của mình, kịp thời rút kinh nghiệm một
cách nghiêm túc để tránh thiếu sót. Đồng thời, chú ý lắng nghe các ý kiến góp
ý của đồng nghiệp, dư luận quần chúng tham dự phiên tòa với thái độ cầu thị
68
để hoàn thiện kỹ năng nghiệp vụ.
Lãnh đạo ngành kiểm sát cần quan tâm, tổ chức các lớp bồi dưỡng Kỹ
năng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên, đặc biệt chú trọng đến hoạt
động tranh luận của kiểm sát viên tại phiên tòa. Để đạt được hiệu quả cao
trong hoạt động tranh tụng đòi hỏi kiểm sát viên phải có bản lĩnh, có lập luận
sắc bén, đánh giá chứng cứ chính sác, khách quan, phân tích tổng hợp có sức
thuyết phục cao.
Đối với Thẩm phán
Thẩm phán giữ vai trò quan trọng việc xét xử, đây là giai đoạn trung tâm
của hoạt động tố tụng vì thế nhận thức, năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo
đức của đội ngũ thẩm phán là yếu tố mang tính quyết định đến hiệu quả quá
trình giải quyết vụ án hình sự nói chung và vụ án cướp giật tài sản nói riêng.
Thứ nhất, thường xuyên giáo dục, nâng cao phẩm chất đạo đức, bản lĩnh
chính trị, trách nhiệm của đội ngũ thẩm phán và cán bộ Toà án trong thực
hiện nhiệm vụ xét xử các vụ án hình sự nói chung và vụ án cướp giật tài sản
nói riêng. Công tác bồi dưỡng cần có chương trình kế hoạch cụ thể, được xây
dựng dựa trên chương trình kế hoạch công tác của toàn ngành. Lãnh đạo các
cấp ngành toà án cần tăng cường quán triệt, giáo dục chính trị tư tưởng, thẩm
phán và đội ngũ cán bộ ngành toà án thông qua các đợt học tập, sinh hoạt
chính trị, hay các hội nghị chuyên đề, đặc biệt là hoạt động tổng kết định kỳ
hàng năm công tác xét xử của toà án nhằm nâng cao nhận thức về ý nghĩa, vai
trò và tầm quan trọng của công tác xét xử vụ án hình sự.
Thứ hai, sắp xếp bố trí một cách khoa học bộ máy tổ chức ngành toà án.
Trong thời gian tới Tòa án nhân dân cần thực hiện nghiêm túc hơn nữa nhiệm
vụ bảo đảm biên chế, số lượng Thẩm phán trong tình hình số lượng các loại
vụ, việc thuộc thẩm quyền của Tòa án tăng hằng năm, năm sau cao hơn năm
trước; các Tòa án nhân dân cần được quan tâm đổi mới cả về tổ chức, bộ máy
69
và mở rộng về thẩm quyền theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
năm 2014 và các đạo luật tố tụng tư pháp, nhưng không được bổ sung về biên
chế vì phải thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng về tinh giản biên chế và cơ
cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, để giải quyết vấn đề này thời
gian qua lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao đã chỉ đạo các đơn vị chức năng
nghiên cứu và phê duyệt phương án bố trí cán bộ cho các đơn vị trong bộ máy
giúp việc, Học viện Tòa án; cán bộ làm Thư ký cho lãnh đạo, Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao; cán bộ, Thẩm phán cho các Tòa án nhân dân cấp cao để
bảo đảm hoạt động.
Thứ ba, hiện nay việc xây dựng, tuyển chọn đội ngũ cán bộ thẩm phán
gặp nhiều khó khăn vì trong giai đoạn này toàn hệ thống chính trị đang tích
cực thực hiện việc tinh gọn bộ máy, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và đặt trong
tổng thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Vì vậy, đòi hỏi lãnh đạo ngành
toà án cần phát huy tinh thần trách nhiệm, nghiên cứu kỹ tài liệu; xuất phát từ
tình hình thực tế tại đơn vị và kinh nghiệm quản lý, lãnh đạo trong quá trình
công tác, tập trung thảo luận, phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện và đề
xuất có chất lượng để hoàn thiện các quy định, quy chế về công tác tổ chức
cán bộ của hệ thống Tòa án; làm cơ sở cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
Thẩm phán có đủ phẩm chất, năng lực theo yêu cầu của nền công vụ tiên tiến,
chuyên nghiệp và hiện đại, bảo đảm cho các Tòa án nhân dân sẵn sàng đảm
nhiệm và hoàn thành tốt những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp của thời kỳ hội
nhập; góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Thứ tư, để tạo sự chuyển biến tích cực hơn nữa trong công tác tổ chức
cán bộ, góp phần tạo thế và lực bền vững cho sự phát triển của hệ thống Tòa
án trong giai đoạn cách mạng mới của đất nước, trong thời gian tới, yêu cầu
các Tòa án cần thực hiện đồng bộ các giải pháp cụ thể để tiếp tục đẩy mạnh
cải cách chế độ công vụ, công chức và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
70
Đây là nhiệm vụ trọng tâm của hàng năm, có ý nghĩa chiến lược đối với sự
phát triển của hệ thống Tòa án, nên cần có những giải pháp phù hợp, khả thi,
có lộ trình, bước đi vững chắc và sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị trong
toàn hệ thống; đáp ứng được yêu cầu công tác hiện tại cũng như lâu dài và
giải quyết được những vấn đề thực tế đang đặt ra đối với tổ chức bộ máy của
hệ thống Tòa án.
Quan hệ giữa TAND với VKSND và với CQCSĐT, đặc biệt là mối quan
hệ giữa CQCSĐT và VKSND trong điều tra các vụ án về cướp giật tài sản
chịu sự tác động và ảnh hưởng trực tiếp từ nhận thức của KSV và ĐTV là
những người trực tiếp thụ lý, điều tra và thực hành quyền công tố, kiểm sát
điều tra các vụ án về Tội cướp giật tài sản. Cho nên các ĐTV và KSV của hai
ngành cần nhận thức rõ rằng quan hệ giữa CQCSĐT với VKSND phải trên cơ
sở tôn trọng chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan theo quy định của pháp
luật. Quan hệ giữa hai cơ quan này trong suốt quá trình điều tra vụ án cướp
giật tài sản kể từ khi nhận được tin báo, tố giác tội phạm đến khi kết thúc điều
tra càng chặt chẽ sẽ là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công trong điều
tra các vụ án cướp giật tài sản, bảo đảm thực hiện đúng nhiệm vụ được quy
định tại BLTTHS. Luôn duy trì mối quan hệ và thực hiện tốt sự phối hợp
trong giai đoạn điều tra, truy tố các vụ án về cướp giật tài sản được mỗi ĐTV,
KSV nhận thức rằng đây là trách nhiệm quan trọng hàng đầu của hai cơ quan
trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm cướp giật tài sản, góp phần
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa , bảo vệ trật tự pháp luật, giáo dục mọi người
ý thức tuân theo pháp luật.
3.2.2.4.Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giải thích pháp luật
Trong những năm qua, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật về tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng được Quận uỷ,
UBND Quận 9 thực hiện thông qua nhiều hình thức như sau:
71
Thực hiện Quyết định số 705/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ. Thời
gian qua các cấp lãnh đạo UBND Quận 9 đã ban hành các Quyết định, Kế
hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật trong các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể
của quận với mục tiêu thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Chương trình phổ
biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2017-2021; gắn triển khai thực hiện các
nhiệm vụ, giải pháp và trách nhiệm được giao.
Thực hiện có hiệu quả Đề án “Tăng cường, phổ biến giáo dục pháp luật
cho người đang chấp hành hình phạt tù, người bị áp dụng biện pháp tư pháp
hoặc các biện pháp xử lý hành chính, người mới ra tù tái hòa nhập cộng đồng,
thanh thiếu niên vi phạm pháp luật, lang thang cơ nhỡ giai đoạn 2017-2021”.
Hàng năm, các cấp chính quyền của quận đã xây dựng kế hoạch thực
hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua kế hoạch
nhiệm vụ công tác trọng tâm hàng năm. Tuyên truyền,phổ biến, giáo dục
thông qua các phương tiện truyền hình, báo chí. Để thực hiện tốt công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật, lãnh đạo Quận uỷ, UBND Quận 9 đã chú trọng đẩy
mạnh công tác thông tin, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật thông qua Truyền hình Thành phố, Báo, Tạp chí, Cổng
thông tin điện tử của TAND quận. Đồng thời nội dung thông tin tuyên truyền
được đổi mới, cập nhật liên tục nhằm thu hút đông đảo bạn đọc trong và ngoài
Tòa án.
Ngoài ra tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn được thực hiện
thông qua công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các ĐTV, KSV, TP;
Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể trong quận thực
hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến nhân dân. Tuyên
truyền pháp luật còn được thực hiện qua hình thức xét xử lưu động nhằm
tuyên truyền, giáo dục cho các tầng lớp nhân dân trên địa bàn Quận hiểu rõ
hơn về những mối nguy hiểm từ việc phạm tội cướp giật tài sản nói riêng
72
cũng như các tội phạm và các tệ nạn xã hội khác nói chung, từ đó nâng cao
tinh thần cảnh giác, đấu tranh, phòng ngừa với những biểu hiện xấu và hành
vi vi phạm pháp luật, góp phần giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn
mình sinh sống.
Hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật là một bộ phận của công
tác giáo dục chính trị tư tưởng. Việc tăng cường công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật để nhằm khắc phục tình trạng thiếu am hiểu hoặc
thậm chí vi phạm pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức. Do đặc thù công
việc và vị trí, uy tín của đội ngũ cán bộ Tòa án, VKS, CQĐT, đòi hỏi cán bộ,
công chức phải là đội ngũ tiên phong thực hiện tốt pháp luật. Họ cần có sự
hiểu biết, tôn trọng pháp luật; thực hiện tốt mọi quy định của pháp luật, cũng
như nội quy, quy chế của cơ quan đơn vị. Khắc phục tư tưởng, hành vi lợi
dụng chức vụ, quyền hạn để gây phiền hà, sách nhiễu đến cá nhân, tập thể và
nhân dân, thậm chí gây ra những tình trạng lộn xộn mất kỷ cương trong quản
lý nhà nước và xã hội, dẫn đến kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội. Đối với
TAND Quận 9 tuyên truyền phổ biến pháp luật thông qua những hoạt động
sau:
Thông qua hoạt động của Toà án là xét xử các vụ án hình sự, từ đó
thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục, răn đe người dân, người phạm tội.
Thông qua hoạt động xét xử, các quy định của pháp luật về tội cướp giật tài
sản đến với người dân cụ thể, dễ hiểu; qua đó nhận thức, hiểu biết về pháp
luật của người dân được nâng lên, tạo sự chuyển biến cơ bản về ý thức tôn
trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật trong quần chúng nhân dân. Hình
thức tuyên truyền này có ý nghĩa giáo dục thực tế rất cao đó là tấm gương cho
những người chuẩn bị phạm tội...
Đặc biệt tổ chức các phiên tòa xét xử lưu động tại địa bàn nơi xảy ra vụ
73
án hoặc các địa bàn trọng điểm về tội phạm cướp giật tài sản. Hoạt động này
luôn mang lại hiệu quả cao trong công tác tuyên tuyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật; có tác dụng trực tiếp đến những người tham dự hoặc theo dõi phiên
toà; tạo ra sự quan tâm của đông đảo cộng đồng dân cư ở địa phương; ý thức
chấp hành quy định pháp luật của nhân dân được nâng cao rõ rệt góp phần
trong việc phòng ngừa có hiệu quả các loại tội phạm nói chung,
Ngoài ra toà án còn thông qua hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật
để Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục đây là hệ thống các văn bản mới được
ban hành.
Tiểu kết Chương 3
Qua công tác thực tiễn việc định tội danh và quyết định hình phạt tội
cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 9 TP HCM đã trình bày ở Chương 2. Tác
giả đã đưa ra các yêu cầu, các biện pháp chung và các biện pháp cụ bao gồm:
các biện pháp chung như tiếp tục củng cố và không ngừng tăng cường nguyên
tắc pháp chế và tiếp tục quán triệt thực hiện tốt công cuộc cải cách tư pháp;
các biện pháp cụ thể như, hoàn thiện pháp luật hình sự và tăng cường hướng
dẫn áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản, nâng cao nhận thức,
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức của người tiến hành tố tụng, tăng
cường tuyên truyền, phổ biến, giải thích pháp luật tới người dân đối với Tội
cướp giật tài sản tài sản ở Chương 3.Các biện pháp chung và các biện pháp cụ
thể mà tác giả đưa ra góp phần khắc phục một số những khó khăn, vướng
mắc, bất cập, từ đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động định tội
danh và quyết định hình phạt, nhằm hạn chế những sai lầm trong định tội
danh như oan sai, bỏ lột tội phạm. Kết quả của việc định tội danh đúng có tác
dụng rất lớn trong công cuộc phòng ngừa và đấu tranh với loại tội phạm này.
74
KẾT LUẬN
Trước nhu cầu thực tiễn của công tác đấu tranh phòng ,chống tội phạm
nói chung và công tác đấu tranh phòng, chống tội cướp giật tài sản nói riêng,
việc định tội danh chính xác đối với hành vi phạm tội nói chung và loại tội
phạm này nói riêng là rất quan trọng,luôn luôn được Đảng, Nhà nước và các
Cơ quan tố tụng đặt lên hàng đầu. Bỡi lẽ, định tội danh đúng đối với hành vi
phạm tội sẽ giúp cho quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, và làm oan người vô tội như
một số trường hợp oan sai đã xảy ra trong thời gian qua. Làm tốt công tác
định tội danh tội cướp giật tài sản sẽ phát huy được mục đích cải tạo phạm
nhân, giáo dục ý thức pháp luật cho người phạm tội, đồng thời sẽ giúp người
phạm tội nhận thức được sai trái của bản thân để từ đó rèn luyện tu dưỡng trở
thành công dân lương thiện, sống và lao động có ích cho xã hội. Thực tiễn kết
quả công tác định tội danh tội cướp giật tài sản tại địa bàn quận 9 TPHCM đã
đạt được nhiều kết quả tích cực. Kết quả này chủ yếu đạt được trong việc áp
dụng thống nhất, đầy đủ ,chính xác các quy định của pháp luật trong từng các
đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với tội cướp giật tài sản. Tuy
nhiên,vẫn còn những trường hợp định tội danh chưa chính xác. Hoặc dẫn đến
việc sau khi Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử thì bản án bị VKS kháng cáo,
kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy án để điều tra, truy tố và xét xử
lại… Việc này gây ảnh hưởng đến quá trình xử lý vụ án, gây bức xúc trong dư
luận, làm giảm uy tín của các Cơ quan tố tụng trên địa bàn Quận 9 nói riêng
và các Cơ quan tố tụng trên địa phương cả nước nói chung, từ đó gây ảnh
hưởng lớn đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trên phạm vi cả nước
trong giai đoạn hiện nay.
75
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã cố gắng thu thập và phân tích
những vấn đề có liên quan về tội phạm cướp giật tài sản và đề xuất những
kiến nghị nhằm đảo bảo cho việc định tội danh tội cướp giật tài sản cho đúng
pháp luật. Tuy nhiên dưới góc độ thực tiễn công tác của tác giả thì luận văn
vẫn còn những thiếu sót và hạn chế, rất mong nhận được sự đóng góp của các
nhà khoa học , các thầy cô giáo, các cán bộ thực tiễn trong công tác phòng
ngừa và định tội danh tội cướp giật tài sản để luận văn được hoàn thiện hơn
và có ý nghĩa thực tiễn trong công tác phòng ngừa tội phạm.
76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Cảm (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại
học quốc gia, Hà Nội.
2. Lê Cảm (1999), Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn
Nhà nước pháp quyền, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
3. Lê Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong kho học luật hình sự (phần
chung), Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
4. Lê Cảm (2003), Trách nhiệm hình sự và miễn truy cứu trách nhiệm hình
sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
5. Nguyễn Ngọc Chí (2000), Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm xâm
phạm sở hữu, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp
luật, Hà Nội.
6. Đại học Quốc gia Hà Nội (1993), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần
các tội phạm), Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
7. Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần
chung), Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Lê Thị Thu Hà (2004), Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt
Nam: Một số khía cạnh pháp lý và tội phạm học, Luận văn thạc sỹ Luật, Khoa
Luật – Đại học quốc gia Hà Nội.
10. Nguyễn Ngọc Hòa (1990) ,“Một số ý kiến về hành hung để tẩu thoát trong
Bộ luật hình sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, Hà Nội.
11. Nguyễn Ngọc Hòa (1991), Tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
12. Hội đồng thẩm phán (2000) Nghị quyết 01/2000/NQ - HĐTP của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
trong phần chung của bộ luật hình sự năm 1999, ban hành ngày 04/8/2000, Hà
Nội.
13. Dương Tuyết Miên (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
14. Dương Tuyết Miên (2004), Quyết định hình phạt, Luận án tiến sĩ luật học,
Trường Đại học luật, Hà Nội.
15. Đỗ Ngọc Quang (1999), Giáo trình tội phạm, Nxb Đại học quốc gia, Hà
Nội.
16. Đinh Văn Quế (1988), Bình luận án, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành
phố Hồ Chí Minh.
17. Đinh Văn Quế (2004), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
18. Đinh Văn Quế (2000),Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Quốc hội (2009),Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm
2009, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Quốc hội (2015),Bộ luật hình sự năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
21. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
23. Quốc hội (2017), Bộ luật tố tụng hình sự hình sự năm 2015, sửa đổi bổ
sung năm 2017, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội
24. Hồ Sỹ Sơn (2008),“Hoàn thiện về một số quy định của hình phạt và quyết
định hình phạt của BLHS năm 1999 nhằm đảm bảo hơn nữa về nguyên tắc
nhân đạo trong luật hình sự”, Tạp chí Luật học, số 04, tr.42-43 .
25. Hồ Sỹ Sơn (2008) “Những hạn chế trong các quy định của BLHS năm
1999 về khái niệm hình phạt, mục đích hình phạt và hướng khắc phục”, Tạp
chí Tòa án nhân dân, Hà Nội.
26. Hồ Sỹ Sơn (2008),“Những hạn chế trong các quy định của BLHS năm
1999 về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS và hướng khắc phục”, Tạp
chí Tòa án nhân dân, số 16, Tr 2 – 4, 9.
28. Toà Án Nhân Dân Tối Cao, Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao, Bộ Công
An, Bộ Tư Pháp (2001) Thông tư liên tịch số 02/TTLT của Toà Án Nhân Dân
Tối Cao, Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao, Bộ Công An, Bộ Tư Pháp số
02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm
2001 về việc hướng dẫn áp đụng một số quy định tại chương XIV "các tội
xâm phạm sở hữu" của bộ luật hình sự năm 1999, ban hành ngày 25/12/2001,
Hà Nội.
29. Trường Đại học luật Hà Nội (1994),Giáo trình luật hình sự Việt Nam –
Phần chung, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
30. Trường Đại học luật Hà Nội (2000), Giáo trình luật hình sự Việt Nam –
Phần các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.