VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN SƠN

TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội – 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN SƠN

TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH Ngành:Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. ĐINH THỊ MAI

Hà Nội – 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập của

riêng tôi; các số liệu, ví dụ, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và

có nguồn gốc rõ ràng. Các luận điểm kế thừa được trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên

cứu của Luận văn chưa từng được công bố trong công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI

PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI .............................................. 7

1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm các quy định về

quản lý đất đai .................................................................................................... 7

1.2. Phân biệt tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai với một số tội

phạm có yếu tố chức vụ, quyền hạn ................................................................. 15

1.3. Khái quát quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm

các quy định về quản lý đất đai từ năm 1945 đến khi Bộ luật hình sự năm

2015 có hiệu lực pháp luật................................................................................ 21

1.4. Khái quát lý luận định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm

các quy định về quản lý đất đai…....................................................................29

Tiểu kết Chương 1 ............................................................................................ 39

Chương 2. THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH

PHẠT TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI TẠI

TỈNH BẮC NINH .................................................................................................... 40

2.1. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về tội vi phạm các quy

định về quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh ......................................................... 40

2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội về tội vi phạm các quy

định về quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh ......................................................... 51

Tiểu kết Chương 2 ............................................................................................ 58

Chương 3. YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI

DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐÚNG TỘI VI PHẠM CÁC

QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI TẠI TỈNH BẮC NINH .......................... 60

3.1. Yêu cầu của việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi

phạm các quy định về quản lý đất đai .............................................................. 60

3.2. Các giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt đúng

đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh ............ 63

Tiểu kết Chương 3 ............................................................................................ 77

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79

TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Bộ luật hình sự BLHS

Bộ luật tố tụng hình sự BLTTHS

Cơ quan điều tra CQĐT

Cấu thành tội phạm CTTP

Định tội danh ĐTD

Trách nhiệm hình sự TNHS

Tòa án nhân dân TAND

Viện kiểm sát VKS

Xã hội chủ nghĩa XHCN

Quyết định hình phạt QĐHP

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Thống kê tộivi phạm các quy định về quản lý đất đai so với nhóm

tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đã được TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đưa ra

xét xử sơ thẩm giai đoạn 2015 – 2019.

Bảng 2.2. Thống kê tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai so với nhóm

tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đã được TAND tỉnh Bắc Ninh đưa ra xét xử

phúc thẩm giai đoạn 2015 – 2019.

Bảng 2.3. Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử theo CTTP cơ bản tội vi

phạm các quy định về quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019.

Bảng 2.4. Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử theo CTTP tăng nặng tội

vi phạm các quy định về quản lý đất đai từnăm 2015 đến năm 2019.

Bảng 2.5. Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử phạm nhiều tội trong đó

có tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019.

Bảng 2.6. Thống kênhững hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo phạm

vi phạm các quy định về quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019.

Bảng 2.7. Nhân thân của các bị cáo bị xét xử về tội vi phạm các quy định về

quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Điều 53 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài

nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác

và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân

do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Cụ thể hóa Hiến pháp,

Luật Đất đai năm 2013 đã có các quy định về quyền của Nhà nước với tư cách là

đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai và thống nhất quản lý đất.Nhà nước

thực hiện quyền quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quy định hạn mức

giao đất nông nghiệp, hạn mức giao đất ở, hạn mức công nhận quyền sử dụng đất ở

và hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp; quy định thời hạn sử

dụng; trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất, thông qua các hình thức giao

đất, cho thuê đất và công nhận quyền sử dụng đất; quyết định thu hồi đất để sử dụng

vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,

công cộng. Nhà nước có trách nhiệm quản lý thống nhất đất đai theo pháp luật. Để

thực hiện trách nhiệm này, Nhà nước phân công, phân cấp trong quản lý đất đai.

Theo đó, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả nước;

Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thống

nhất quản lý nhà nước về đất đai; Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quản lý

nhà nước về đất đai tại địa phương theo thẩm quyền. Có thể nói, với những chính

sách và quy định của pháp luật về chế độ quản lý đất đai cho thấy tầm quan trọng

của vấn đề này đối với sự phát triển của kinh tế, xã hội của đất nước ta nói chung và

trong phạm vi tỉnh Bắc Ninh nói riêng.

Với việc BLHS 2015 được ban hành mới, có hiệu lực toàn bộ kể từ ngày

01/01/2018, đã đáp ứng cơ bản với tình hình thực tiễn đấu tranh, phòng chống tội vi

phạm các quy định về quản lý đất đai, đặc biệt là việc BLHS năm 2015 đã cụ thể

hóa những tình tiết có tính định tịnh như “đất có diện tích lớn hoặc có giá trị lớn”

và “gây hậu quả nghiêm trọng”, năng lực, trình độ chuyên môn của cán bộ, công

chức của tỉnh Bắc Ninh đã được nâng cao hơn...góp phần nâng cao hiệu quả định tội

danh và quyết định hình phạt tội này trong thực tiễn. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết

các tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trên địa bàn cả nước và trong địa

1

bàn tỉnh Bắc Ninh cho thấy những vi phạm, tội phạm trong lĩnh vực này có xu

hướng phức tạp, có vụ án gây thiệt hại lớn cho kinh tế, trật tự quản lý của Nhà nước

như vụ án “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” xảy ra tại Đà Nẵng năm 2019,

với các bị cáo đa phần là những người đứng đầu, giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt của

thành phố Ðà Nẵng, gây hậu quả thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng cho Nhà nước, gây

thất thoát ngân sách hơn 22.000 tỷ đồng, hay vụ án với 29 bị can bị truy tố về tội

“Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” xảy ra tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc

Ninh.Theo thống kế của TAND tỉnh Bắc Ninh cho thấy trong khoảng thời gian từ

năm 2015 đến năm 2019 trên địa bàn tỉnh xảy ra không nhiều vụ án về tội vi phạm

các quy định về quản lý đất đai nhưng có những vụ án Tòa án phải trả hồ sơ điều tra

02 lần mới giải quyết dứt điểm vụ án; năng lực, trình độ của cán bộ công chức cơ

quan tư pháp trong tỉnh mặc dù đã cải thiện hơn nhưng vẫn còn không đồng đều,

còn hạn chế về nhận thức, cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ còn hạn chế, trong khi đó

về mặt lý luận và quy định pháp lý về tội này vẫn còn những điểm chưa phù hợp.

Những điều này cho thấy sự khó khăn, phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động

định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về quản lý

đất đai trong bối cảnh hiện nay. Do vây, việc nghiên cứu tội vi phạm các quy định

về quản lý đất đai từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh là yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa quan

trọng, góp phần nâng cao chất lượng công cuộc đấu tranh phòng chống tội vi phạm

các quy định về quản lý đất đai ở tỉnh Bắc Ninh.

Xuất phát từ thực tế nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Tội vi phạm các quy

định về quản lý đất đai từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” để làm để tài nghiên cứu cho

luận văn Thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài trên có thể kể đến như:

(i) Tài liệu là giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo:

Trường đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần

các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; GS.TS Nguyễn Ngọc Hoà (Chủ

biên) (2018), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm

2017 (Phần các tội phạm) - Quyển 2, Nxb Tư pháp, Hà Nội; TS Nguyễn Đức Mai

(2018), Bình luận khoa học – Bộ luật hình sự (hiện hành) (sửa đổi, bổ sung năm

2

2017, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí; Ths. Đinh

Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các tội phạm, tập VI –

Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn

Ngọc Anh, Đỗ Khắc Hưởng (2010), Bình luận Luật sửa đổi, bổ sung một số điều

của Bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội.

Nhận xét: Các công trình nghiên cứu trên có đề cập đến tội vi phạm các quy

định về quản lý đất đai. Tuy nhiên, các công trình trên đều nghiên cứu tội danh này

cùng với các tội danh khác của BLHS, chưa phân tích làm rõ một cách sâu sắc,

những tồn tại, hạn chế trong quy định tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai,

cũng như thực tiễn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

(ii) Luận văn, luận án tiến sĩ luật học:

- Luận văn thạc sĩ: Lương Duy Hinh (2013), Các tội phạm trong lĩnh vực

quản lý và sử dụng đất đai trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở nghiên cứu thực

tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội), Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

Nhận xét: Đây là luận văn có đề cập trực tiếp đến tội vi phạm các quy định

về quản lý đất đai. Tuy nhiên luận văn nghiên cứu đề tài cùng với tội vi phạm các

quy định về sử dụng đất đai, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn đấu tranh xử lý trên địa

bàn thành phố Hà Nội và trong phạm vi từ năm 2008 đến 2012, khi mà BLHS năm

2015 chưa được ban hành

- Luận án tiến sĩ: Nguyễn Chí Công (2016), Trách nhiệm hình sự đối với các

tội xâm phạm trật tự quản lí kinh tế, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

Nhận xét: Luận án có đề cập đến tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai.

Tuy nhiên luận án tập trung nghiên cứu những nội dung xung quanh TNHS đối với

tội xâm phạm trật tư quản lý kinh tế, trong đó có tội vi phạm các quy định về quản

lý đất đai, mà chưa đi sâu vào phân tích một khái niệm và các dấu hiệu pháp lý cụ

thể của tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trong BLHS năm 2015.

Ngoài ra còn có một số công trình khác như: Chuyên đề “Hoàn thiện các quy

định của luật hình sự về các tội phạm kinh tế trong điều kiện hiện nay”, của tác giả

Trần Văn Độ, trong Sách tham khảo dành cho bậc sau đại học của Trường Đại học

Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, năm 1997; Sách “Pháp luật hình sự về các tội

xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” của tác giả Nguyễn Mai Bộ, Nxb. Tư pháp, năm

3

2006; Bài viết “Cần sửa đổi, bổ sung các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế cho

phù hợp với thực tiễn xét xử, Tạp chí TAND, số 02/2009, của tác giả Đinh Văn

Quế; Nguyễn Ngọc Chí (2008), Hoàn thiện các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế

trước yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí khoa học (Chuyên san kinh tế - luật).

Nhận xét chung:Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến tội tội vi

phạm các quy định về quản lý đất đai ở khía cạnh, góc độ khác nhau, có nhiều đề tài

được nghiên cứu trước khi BLHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật. Tính đến nay,

chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến tội vi phạm các quy định về quản lý

đất đai theo pháp luật hình sự Việt Nam, một cách cụ thể, chuyên sâu tại địa bàn

một tỉnh là tỉnh Bắc Ninh, trong phạm vi từ năm 2015 đến năm 2019.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống, làm rõ những vấn đề lý luận và

pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng quy định về tội vi phạm các quy định về

quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019,

luận văn kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về tội

vi phạm các quy định về quản lý đất đai trong BLHS Việt Nam và đề xuất một số

giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội vi phạm các quy định về

quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu:

- Làm sáng tỏ những vấn đề chung về tội vi phạm các quy định về quản lý

đất đai trong pháp luật hình sự Việt Nam, mà trọng tâm là BLHS năm 2015.

- Phân tích, đánh giá một số vấn đề lý luận về định tội danh và quyết định

hình phạt, kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của những tồn

tại, hạn chế trong quá trình định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm các

quy định về quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

- Đưa ra một số yêu cầu và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm các quy định về quản lý

đất đaitrên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tội vi phạm các quy định về quản lý

đất đai theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu trong phạm vi quy định của pháp luật hình sự Việt

Nam về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai mà trọng tâm là BLHS năm

2015 hiện hành, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn định tội danh và quyết định hình

phạt trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, sử dụng số liệu thống kê của TAND tỉnh Bắc Ninh.

Phạm vi không gian: tỉnh Bắc Ninh

Phạm vi thời gian: khoảng thời gian từ năm 2015 đến 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng phương pháp luận duy vật biện

chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước

về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, đường lối đấu tranh

phòng chống tội phạm của nhà nước ta, làm kim chỉ nam xuyên suốt trong toàn bộ

cấu trúc nghiên cứu của luận văn.

Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình

sự như: phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp

logic, phương pháp lịch sử, phương pháp diễn dịch – quy nạp, phương pháp so

sánh, đối chiếu các quy định của pháp luật liên quan với tội phạm vi phạm các quy

định về quản lý đất đai.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận

và nâng cao nhận thức trong hoạt động áp dụng pháp luật về tội vi phạm các quy

định về quản lý đất đai trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Từ một số giải pháp

đưa ra,luận văn sẽ góp phần hoàn thiện hơn những quy định của pháp luật về tội vi

phạm các quy định về quản lý đất đai trong BLHS hiện hành.

Về mặt thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham

khảo cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành, xây dựng hoàn thiện các

5

quy định về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai. Ngoài ra, kết quả đạt được

trong nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong

công tác nghiên cứu khoa học chuyên ngành và tài liệu tham khảo đối với người

làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và công tác thực tiễngiải quyết các vụ án tội vi

phạm các quy định về quản lý đất đai của các cơ quan có thẩm quyền nói chung và

trong phạm vi tỉnh Bắc Ninh nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm

ba chương:

Chương 1. Một số vấn đề lý luận và pháp luật về tội vi phạm các quy định về

quản lý đất đai

Chương 2. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm các

quy định về quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Chương 3. Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình

phạt đúng tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

6

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM

CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm các quy định về

quản lý đất đai

1.1.1. Khái niệm

Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thuộc Chương các tội phạm xâm

phạm trật tự quản lý kinh tế, đây là “những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại

nền kinh tế quốc dân, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ

chức và của công dân qua việc vi phạm quy định của Nhà nước trong quản lý kinh

tế”[38, tr.79]. Trong khoa học pháp lý cũng đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu và

đưa ra khái niệm về tội danh này, mà tiêu biểu như:

Có quan điểm cho rằng: “Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai là việc

người có chức vụ, quyền hạn, lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm dụng chức vụ,

quyền hạn thực hiện hành vi giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử

dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật, đã bị xử lý kỷ luật mà

còn vi phạm”[10, tr.400].

Quan điểm khác cho rằng: Vi phạm các quy định về quản lý đất đai là hành

vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép

chuyển quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật [4,

tr.348].

Luật gia Nguyễn Ngọc Điệp lại cho rằng: Vi phạm các quy định về quản lý

đất đai, được hiểu là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý

Nhà nước về đất đai đã lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để giao đất, thu

hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử

dụng đất trái quy định của pháp luật. [23, tr.239].

Trong cuốn Bình luận khoc học BLHS năm 2015, các tác giả PGS.TS. Trần

Văn Luyện, PGS.TS. Phùng Thế Vác…cho rằng: Vi phạm các quy định về quản lý

đất đai là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý nhà nước về

đất đai đã lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để giao đất, thu hồi, cho thuê,

7

cho phép chuyển quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái

pháp luật [25, tr.397].

Nhận xét: Các quan điểm trên đều đã nêu được bản chất của tội danh này

theo quy định của pháp luật hình sự, tuy nhiên các tác giả vẫn chưa thể hiện được

yếu tố lỗi của tội phạm, năng lực TNHS, khách thể mà chỉ mô tả hành vi thuộc mặt

khách quan của tội phạm.

Trong pháp luật hình sự từ BLHS năm 1985 đến BLHS năm 2015 thì khái

niệm tội phạm được nhà làm luật ghi nhận trong Điều 8 BLHS. Theo đó: Tội phạm

là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực

trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,

xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm

chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn

xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi

ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã

hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự [31, Điều 8].

BLHS năm 2015 hiện hành thì tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thuộc

Chương XVIII, các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế “Người nào lợi dụng hoặc

lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử

dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định của pháp luật...”,hành vi

này xâm phạm đến trật tự quản lý nhà nước về kinh tế nói chung, quản lý về đất đai

nói riêng trong giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho

phép chuyển mục đích sử dụng đất. Tội phạm được thực hiện bởi chủ thể đặc biệt,

ngoài các dấu hiệu về tuổi, năng lực TNHS, đó còn là người có chức vụ, quyền hạn

trong việc quản lý đất đai, được thực hiện với lỗi cố ý, người phạm tội biết được

hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý đất đai, theo quy định của

Luật đất đai, các Nghị định của Chính phủ hoặc các Nghị quyết của Hội đồng nhân

dân hoặc của Ủy ban nhân nhân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, là nguy hiểm

cho xã hội, nhận thức được hậu quả có thể xảy ra hoặc chắc chắn sẽ xảy ra những

vẫn thực hiện.

Trên cơ sở tiếp thu các quan điểm của các nhà nghiên cứu khoa học và quy

định hiện hành của BLHS, tác giả đưa ra khái niệm tội vi phạm các quy định về

8

quản lý đất đai như sau: Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai là hành vi

nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm

hình sự, đạt độ tuổi luật định, lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm dụng chức vụ,

quyền hạn thực hiện hành vi giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử

dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật, xâm phạm chế độ quản lý về

đất đai được Nhà nước bảo hộ.

1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai

Trong pháp luật hình sự hiện hành thì tội vi phạm các quy định về quản lý

đất đai được quy định tại Điều 229 BLHS năm 2015.

Thứ nhất, về khách thể của tội phạm:

Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội

phạm xâm hại [39, tr. 86]. Trong pháp luật hình sự Việt Nam, phân biệt 03 loại

khách thể là khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp.

Khách thể chung của tội phạm là những quan hệ xã hội được quy định tại

khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh

thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng,

an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm

quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực

khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị

xử lý hình sự. Khách thể loại của tội phạm là nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất

bị tội phạm xâm hại, đây là cơ sở để nhà làm luật xếp vào các chương khác nhau

trong phần các tội phạm của BLHS. Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã

hội bị tội phạm trực tiếp xâm hại tới.

Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thuộc Chương XVIII, các tội

xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Tội này có khách thể loại là trật tự quản lý nhà

nước về kinh tế. “Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là các hành vi vi phạm

các quy định của Nhà nước trong quản lý kinh tế, xâm phạm cơ chế Nhà nước quản

lý, vận hành nền kinh tế, gây thiệt hại đáng kể cho nền kinh tế, lợi ích của Nhà

nước, các chủ thể kinh tế và người tiêu dùng” [27, tr.18]. Còn khách thể trực tiếp

của tội phạm là trật tự quản lý nhà nước về đất đai, trong đó:Chính phủ thống nhất

quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả nước.Bộ Tài nguyên và Môi trường

9

chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thống nhất quản lý nhà nước về đất

đai.Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quản lý nhà nước về đất đai tại địa

phương theo thẩm quyền quy định tại Luật này.Đối với tội này thì việc xâm phạm

trật tự quản lý nhà nước về đất đai được thực hiện trong việc giao đất, thu hồi, cho

thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất.

Sự gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm được thực hiện thông qua việc

tác động vào đối tượng tác động của tội phạm, đây là bộ phận cấu thành của khách

thể tội phạm, bị tội phạm tác động đến, gây thiệt hại đáng kể cho những quan hệ xã

hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất

đai thì đối tượng tác động chính là đất đai, thông qua sự tác động trái phép vào đối

tượng này, hành vi phạm tội đã xâm hại đến các quy định của Nhà nước trong lĩnh

vực quản lý đất đai, gây thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức và công dân.

Thứ hai, mặt khách quan của tội phạm:

- Dấu hiệu hành vi khách quan: Có hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ,

quyền hạn để giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng đất, cho

phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật.

- Lợi dụng chức vụ quyền hạn. Được hiểu là việc sử dụng chức vụ, quyền

hạn được giao như là một phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội, giao đất, thu

hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng

đất đai trái pháp luật [36].

- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn. Được hiểu là việc người phạm tội thực hiện

những công việc vượt quá quyền hạn, trách nhiệm của họ để giao đất, thu hồi, cho

thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyên mục đích sử dung đất đai

trái pháp luật(Ví dụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã ra quyết định thu hồi đất, trong

khi việc thu hồi đất thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện).

Trong đó:Nhà nước giao đất là việc Nhà nước ban hành quyết định giao đất để

trao quyền sử dụng đất cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.[32, khoản 7, Điều 3].

+ Nhà nước cho thuê đất là việc Nhà nước quyết định trao quyền sử dụng đất

cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất thông qua hợp đồng cho thuê quyền sử dụng

đất.[32, khoản 8, Điều 3].

10

+ Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng

đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử

dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai. [32, khoản 9, Điều 3].

+ Nhà nước cho phép chuyển mục đích sử dụng đất là Nhà nước quyết định

cho phép đối tượng có nhu cầu chuyển mục đích sử dụng từ loại đất này sang sử

dụng vào mục đích khác.

+ Nhà nước cho phép chuyển quyền sử dụng đất là Nhà nước quyết định cho

phép đối tượng có nhu cầu thực hiện các quyền như chuyển nhượng, tặng cho, cho

thuê sang cho đối tượng khác có nhu cầu.

- Giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái

pháp luật. Được hiểu là hành vi thực hiện các nội dung này không đúng quy định

của pháp luật về đất đai.Cụ thể: [14, Điều 97 ].

+ Giao đất, giao lại đất, cho thuê đất không đúng vị trí và diện tích đất trên

thực địa.

+ Giao đất, giao lại đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất

không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng, không phù hợp với kế hoạch sử

dụng đất hàng năm cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.

Ví dụ: Không đúng thẩm quyền là không đúng quy định tại Điều 59 Luật đất

đai năm 2013:“1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất, cho

phép chuyển mục đích sử dụng đất trong các trường hợp sau đây:

a) Giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức;

b) Giao đất đối với cơ sở tôn giáo;

c) Giao đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có

vốn đầu tư nước ngoài theo quy định tại khoản 3 Điều 55 của Luật này;

d) Cho thuê đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định tại điểm đ và điểm e khoản 1 Điều 56 của

Luật này;

đ) Cho thuê đất đối với tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao.

2. Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép

chuyển mục đích sử dụng đất trong các trường hợp sau đây:

11

a) Giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ

gia đình, cá nhân. Trường hợp cho hộ gia đình, cá nhân thuê đất, cho phép chuyển

mục đích sử dụng đất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích thương mại, dịch vụ

với diện tích từ 0,5 héc ta trở lên thì phải có văn bản chấp thuận của Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh trước khi quyết định;

b) Giao đất đối với cộng đồng dân cư.

3. Ủy ban nhân dân cấp xã cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng

vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn.

4. Cơ quan có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép

chuyển mục đích sử dụng đất quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không được

ủy quyền”.

+ Giao lại đất, cho thuê đất trong khu công nghệ cao, khu kinh tế, cảng hàng

không, sân bay dân dụng không phù hợp với quy hoạch xây dựng đã được cơ quan

nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.

- Thu hồi đất bị coi là trái pháp luật nếu thuộc trường hợp[14, Điều 97 ]

+Không thông báo trước cho người có đất bị thu hồi theo quy định tại Điều

67 của Luật Đất đai.

+ Thu hồi đất không đúng thẩm quyền; không đúng đối tượng; không đúng

với quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có

thẩm quyền phê duyệt.

Ví dụ:Thu hồi đất không đúng thẩm quyền là không đúng quy định tại Điều 66:

“1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:

a) Thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở

nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều này;

b) Thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn.

2. Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất trong các trường hợp

sau đây:

a) Thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư;

b) Thu hồi đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà

ở tại Việt Nam.

12

3. Trường hợp trong khu vực thu hồi đất có cả đối tượng quy định tại khoản

1 và khoản 2 Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất hoặc ủy

quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất”.

-Cho phép chuyển quyền sử dụng đất được coi là trái pháp luật khi: cho phép

chuyển quyền sử dụng đất không đúng thủ tục, đối tượng và căn cứ cho phép

chuyển quyền sử dụng đất.

-Ngoài ra còn có một số dạng vi phạm như: [14, Điều 97 ].

a) Không nhận hồ sơ đã hợp lệ, đầy đủ, không hướng dẫn cụ thể khi tiếp

nhận hồ sơ, gây phiền hà đối với người nộp hồ sơ, nhận hồ sơ mà không ghi vào sổ

theo dõi;

b) Tự đặt ra các thủ tục hành chính ngoài quy định chung, gây phiền hà đối

với người xin làm các thủ tục hành chính;

c) Giải quyết thủ tục hành chính không đúng trình tự quy định, trì hoãn việc

giao các loại giấy tờ đã được cơ quan có thẩm quyền ký cho người xin làm thủ tục

hành chính;

d) Giải quyết thủ tục hành chính chậm so với thời hạn quy định;

đ) Từ chối thực hiện hoặc không thực hiện thủ tục hành chính mà theo quy

định của pháp luật về đất đai đã đủ điều kiện để thực hiện;

e) Thực hiện thủ tục hành chính không đúng thẩm quyền;

g) Quyết định, ghi ý kiến hoặc xác nhận vào hồ sơ không đúng quy định gây

thiệt hại hoặc tạo điều kiện cho người xin làm thủ tục hành chính gây thiệt hại cho

Nhà nước, tổ chức và công dân;

h) Làm mất, làm hư hại, làm sai lệch nội dung hồ sơ.

- Hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai được coi là hệ quả của

hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn. Hành vi lợi dụng hoặc lạm

dụng chức vụ, quyền hạn được coi là tiền đề, là thủ đoạn mà người phạm tội sử

dụng để làm trái với quy định của Nhà nước về quản lý đất đai. Nếu trường hợp

cũng lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn nhưng không làm trái với quy

định của Nhà nước về quản lý đất đai, mà trái với các quy định khác về quản lý kinh

tế, quản lýhành chính, quản lý cán bộ…thì không thuộc trường hợp quy định tại

Điều 229 BLHS mà tùy từng trường hợp cụ thể, người phạm tội có thể bị truy cứu

13

TNHS về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế hoặc tội Lợi dụng chức vụ, quyền

hạn trong khi thi hành công vụ hoặc các tội phạm tương ứng có quy định lợi dụng

hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn là yếu tố tăng nặng định khung hình phạt…

* Hậu quả: Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thì hậu quả

không phải là dấu hiệu bắt buộc của CTTP.

* Các dấu hiệu khách quan khác:

Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội vi phạm các quy định của

Nhà nước về sử dụng đất đai, nhà làm luật còn quy định các dấu hiệu khách quan

khác, nếu hành vi thõa mãn một trong các dấu hiệu sau thì mới CTTP (khoản 1,

Điều 229):

+ Đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét

vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000

mét vuông (m2) đến dưới 50.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi

nông nghiệp có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2).

+ Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng

đến dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng

đến dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp.

+ Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.

Được hiểu là người đó đã bị xử lý kỷ luật bằng một trong hình thức kỷ luật

theo quy định pháp luật về xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức như khiển trách;

cảnh cáo; hạ bậc lượng; giáng chức...về vi phạm trong lĩnh vực quản lý đất đai như thu

hồi đất trái pháp luật, cho thuê trái pháp luật...với diện tích đất, giá trị quyền sử dụng

đất thấp hơn quy định ở trường hợp a hoặc b, khoản 1 Điều 229, nhưng chưa hết thời

hạn để được coi là chưa bị xử lý kỷ luậtlại thực hiện một trong các hành vi đó.

Thứ ba, chủ thể của tội phạm:

Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ,

quyền hạn liên quan đến việc giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử

dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất mới có thể là chủ thể của tội phạm

này. Đối với người khác chỉ có thể là đồng phạm với vai trò người giúp sức, xúi

giục hoặc chủ mưu của tội phạm.

14

Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do

một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện

một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ,

nhiệm vụ [31]. Đối với tội danh này chủ thể thường là những cán bộ, công chức

trong lĩnh vực quản lý đất đai của cơ quan quản lý đất đai: Cơ quan quản lý nhà

nước về đất đai ở trung ương là Bộ Tài nguyên và Môi trường.Cơ quan quản lý đất

đai ở địa phương được thành lập ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và ở

huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; tổ chức dịch vụ công về đất đai được

thành lập và hoạt động theo quy định của Chính phủ.Trong đó, ở xã, phường, thị

trấn thì có công chức làm công tác địa chính theo quy định của Luật cán bộ, công

chức. Công chức địa chính ở xã, phường, thị trấn có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân

dân cấp xã trong việc quản lý đất đai tại địa phương.

Thứ tư, mặt chủ quan của tội phạm:

Người phạm tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thực hiện hành vi

của mình là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm quy định của

Nhà nước về quản lý đất đai, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong

muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ của người phạm tội không phải là

dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.

1.2. Phân biệt tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai với một số tội

phạm có yếu tố chức vụ, quyền hạn

1.2.1. Phân biệt với tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành

công vụ

Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ được quy định

tại Điều 356 BLHS năm 2015, thuộc nhóm tội phạm về tham nhũng. Cả hai tội đều

có điểm giống nhau ở chủ thể đặc biệt đều là người có chức vụ, quyền hạn, sử dụng

chức vụ, quyền hạn vào việc thực hiện tội phạm, và đều thực hiện với lỗi cố ý. Mặc

dù vậy, hai tội có điểm khác nhau:

- Về khách thể của tội phạm:

+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:Xâm phạm trật tự quản lý kinh

tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai về việc

15

giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục

đích sử dụng đất trái pháp luật.

+ Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ:Xâm phạm

đồng thời hai khách thể trực tiếp: Hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, xâm

hại đến uy tín của Nhà nước. Đồng thời gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước,

quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

- Về hành vi khách quan của tội phạm:

+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:Hành vi phạm tội thường

được thể hiện thông qua lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai: giao đất, thu hồi, cho

thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái

quy định của pháp luật.

+ Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Hành vi đặc

trưng trong tội phạm này là hành vi “làm trái” với công vụ (chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn, mục đích công tác được phân công) của người có chức vụ, quyền hạn để

gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

- Thủ đoạn phạm tội:

+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Lợi dụng hoặc lạm dụng chức

vụ, quyền hạn để làm trái quy định của pháp luật.

+ Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Lợi dụng chức vụ,

quyền hạn để làm trái công vụ, trong quá trình thực hiện công vụ của mình.

- Hậu quả và thời điểm hoàn thành tội phạm:

+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Hậu quả không phải là dấu

hiệu bắt buộc của CTTP. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực

hiện hành vi quy định tại điểm a, b hoặc c khoản 1 Điều 229 BLHS năm 2015.

+ Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Hậu quả là

dấu hiệu bắt buộc của CTTP. Tội có cấu thành vật chất chỉ được coi là hoàn thành

khi hành vi gây thiệt hại hiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại

khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

- Về yếu tố lỗi:

+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Được thực hiện bởi một trong hai

hình thức lỗi cố ý: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp (trong đó cố ý trực tiếp là chủ yếu).

16

+ Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Luôn được

thực hiện bởi hình thức lỗi cố ý trực tiếp.

- Về động cơ phạm tội:

+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Không vì vụ lợi hoặc động cơ

cá nhân khác.

+ Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Động cơ vụ

lợi hay động cơ cá nhân khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.

- Tính nguy hiểm cho xã hội và hình phạt:

+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Có tính nguy hiểm cho xã hội

thấp hơn. Hình phạt ít nghiêm khắc hơn: Khoản 1: phạt cải tạo không giam giữ đến

03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm; Khoản 2: phạt tù từ 02 năm đến 07

năm; Khoản 3: phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội

còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm

chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

+ Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Có tính nguy

hiểm cho xã hội cao hơn. Hình phạt nghiêm khắc hơn: Khoản 1: phạt cải tạo không

giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm; Khoản 2: phạt tù từ 05

năm đến 10 năm; Khoản 3: phạt tù từ 10 năm đến 15 năm. Hình phạt bổ sung:

Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có

thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.

1.2.2. Phân biệt với tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ

Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ được quy định tại Điều 357 BLHS

năm 2015, thuộc nhóm tội phạm về tham nhũng. Cả hai tội đều có điểm giống nhau

ở chủ thể đặc biệt đều là người có chức vụ, quyền hạn, sử dụng chức vụ, quyền hạn

vào việc thực hiện tội phạm, và đều thực hiện với lỗi cố ý. Mặc dù vậy, hai tội có

điểm khác nhau cơ bản sau:

- Về khách thể của tội phạm:

+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:Xâm phạm trật tự quản lý kinh

tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai về việc

giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục

đích sử dụng đất trái pháp luật.

17

+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ:Xâm phạm đồng thời hai khách

thể:Hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, xâm hại đến uy tín của Nhà nước,

đồng thời gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân.

- Về hành vi khách quan của tội phạm:

+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:Hành vi phạm tội thường

được thể hiện thông qua lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai: giao đất, thu hồi, cho

thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái

quy định của pháp luật.

+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ:Hành vi đặc trưng trong tội

phạm này là hành vi lạm quyền (vượt quá quyền hạn được giao) “làm trái” với công

vụ của người có chức vụ, quyền hạn để gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước,

quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

- Thủ đoạn phạm tội:

+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Lợi dụng hoặc lạm dụng chức

vụ, quyền hạn để làm trái quy định của pháp luật.

+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ: Lạm dụng chức vụ, quyền hạn

mà vượt quá quyền hạn làm trái công vụ mà mình được giao thực hiện.

- Hậu quả và thời điểm hoàn thành tội phạm:

+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Hậu quả không phải là dấu

hiệu bắt buộc của CTTP. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực

hiện hành vi quy định tại điểm a, b hoặc c khoản 1 Điều 229 BLHS năm 2015.

+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ: Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc

của CTTP. Tội có cấu thành vật chất chỉ được coi là hoàn thành khi hành vi gây

thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng trở lên; gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà

nước,quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhâncủa xã hội, quyền và lợi ích hợp

pháp của công dân.

- Về yếu tố lỗi:

+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Được thực hiện bởi một trong hai

hình thức lỗi cố ý: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp (trong đó cố ý trực tiếp là chủ yếu).

18

+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ: Luôn được thực hiện bởi hình

thức lỗi cố ý trực tiếp.

- Về động cơ phạm tội:

+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Không vì vụ lợi hoặc động cơ

cá nhân khác.

+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ: Động cơ vụ lợi hay động cơ cá

nhân khác là dấu hiệu bắt buộc của Cấu thành tội phạm.

- Tính nguy hiểm cho xã hội và hình phạt:

+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Có tính nguy hiểm cho xã hội

thấp hơn. Hình phạt ít nghiêm khắc hơn: Khoản 1: phạt cải tạo không giam giữ đến

03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm; Khoản 2: phạt tù từ 02 năm đến 07

năm; Khoản 3: phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội

còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm

chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ: Có tính nguy hiểm cho xã hội

cao hơn. Hình phạt nghiêm khắc hơn: Khoản 1: phạt tù từ 01 năm đến 07 năm;

Khoản 2: phạt tù từ 05 năm đến 10 năm; Khoản 3: phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.

Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01

năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.

1.2.3. Phân biệt với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được quy định tại Điều 360

BLHS năm 2015, thuộc nhóm tội phạm khác về chức vụ. Cả hai tội đều có điểm

giống nhau ở chủ thể đặc biệt đều là người có chức vụ, quyền hạn. Mặc dù vậy, hai

tội có điểm khác nhau cơ bản sau:

- Về khách thể của tội phạm:

+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Xâm phạm trật tự quản lý

kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai về

việc giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển

mục đích sử dụng đất trái pháp luật.

+ Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng: Xâm phạm hoạt động

đúng đắn của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội.

19

- Hậu quả và thời điểm hoàn thành tội phạm:

+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Hậu quả không phải là dấu

hiệu bắt buộc của CTTP. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực

hiện hành vi quy định tại điểm a, b hoặc c khoản 1 Điều 229 BLHS năm 2015.

+ Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng: Hậu quả là dấu hiệu bắt

buộc của CTTP. Tội có cấu thành vật chất chỉ được coi là hoàn thành khi hành vi

gây thiệt hại: tính mạng, sức khỏe, tài sản.

- Về hành vi khách quan của tội phạm:

+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Hành vi khách quan thường

được thể hiện thông qua việc thực hiện các thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản

lý nhà nước về đất đai: giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng,

cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định của pháp luật.

+ Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng: Hành vi khách quan được

đặc trưng là không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao.

- Về yếu tố lỗi:

+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Được thực hiện bởi một trong

hai hình thức lỗi cố ý: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp (trong đó cố ý trực tiếp là chủ

yếu).

+ Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng: Luôn được thực hiện với

hình thức lỗi vô ý (thiếu trách nhiệm).

- Tính nguy hiểm cho xã hội và hình phạt:

+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Có tính nguy hiểm cho xã hội

thấp hơn. Hình phạt ít nghiêm khắc hơn: Khoản 1: phạt cải tạo không giam giữ đến

03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm; Khoản 2: phạt tù từ 02 năm đến 07

năm; Khoản 3: phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội

còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm

chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

+ Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng: Có tính nguy hiểm cho xã

hội cao hơn. Hình phạt nghiêm khắc hơn: Khoản 1: cải tạo không giam giữ đến 03

năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm; Khoản 2: bị phạt tù từ 03 năm đến 07

năm; Khoản 3: bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm

20

tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất

định từ 01 năm đến 05 năm.

1.3. Khái quát quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm

các quy định về quản lý đất đai từ năm 1945 đến khi Bộ luật hình sự năm 2015

có hiệu lực pháp luật

1.3.1. Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trong pháp luật hình sự

Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1985

Đây là giai đoạn Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập,

phải đối diện với nhiều khó khăn, thử thách, nhiều thế lực thù địch. Để duy trì trật

tự xã hội, bảo vệ thành quả của Cách mạng, Nhà nước ta đã ban hành sắc lệnh số

47-SL ngày 10/10/1945, tạm thời giữ lại các luật lệ cũ tại ba miền cho đến khi ban

hành các văn bản pháp luật mới đề điều chỉnh các quan hệ trên với điều kiện không

trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hòa.

Đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, luật cũ có nhiều quy định không thích

hợp, một số văn bản pháp luật hình sự quan trọng đã được an hành, trong đó có

những văn bản pháp luật liên quan đến việc xử lý một số loại tội phạm trong lĩnh

vực quản lý kinh tế (trong đó có điều chỉnh hành vi vi phạm, tội phạm trong lĩnh

vực đất đai) Sau năm 1954 mở ra và đánh dấu một giai đoạn hoàn toàn mới của

Cách mạng Việt Nam với hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH ở miền Bắc,

đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Đất nước.Từ năm 1954-1957,

Đảng và Nhà nước chủ trương thực hiện khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh và

phấn đấu hoàn thành những nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân chủ. Với khẩu

hiệu người cày có ruộng, Đảng và Nhà nước đã hoàn thành Cải cách ruộng đất với

một loạt các biện pháp giúp nông dân sau khi được chia ruộng đất và các tư liệu sản

xuất khác đã từng bước khôi phục nền kinh tế nông nghiệp. Với chính sách này,

trong xã hội có rất nhiều các thành phần kinh tế, nhiều cá nhân, cộng đồng dân cư

sử dụng đất. Phù hợp với tình hình mới Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số

267/SL ngày 15/6/1956 quy định:”…nay ban hành sắc lệnh này nhằm trừng trị

những âm mưu, hành động phá hoại hoặc làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước,

của hợp tác xã và của nhân dân,làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch xây

dựng kinh tế và văn hóa[21, Điều 1].

21

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, dù phải đối mặt với rất nhiều khó

khăn, song pháp luật về quản lý kinh tế nói chung và quy định về các tội phạm về

kinh tế nói riêng, song pháp luật về quản lý kinh tế nói riêng vẫn được Nhà nước ta

chú trọng hoàn thiện với nguyên tắc Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu về đất đai theo

tinh thần của Hiến pháp năm 1959 và trong Nghị quyết số 125-CP của Chính phủ về

tăng cường công tác quản lý ruộng đất: “ruộng đất, ao hồ, đồng cỏ của HTX sản

xuất nông nghiệp, các cơ sở quốc doanh, các cơ quan đơn vị khác và của cá nhân

được Nhà nước chứng nhận quyền quản lý và sử dụng đất đều được pháp luật bảo

vệ, không ai được xâm phạm”.[16].

Trong thời kỳ này, các văn bản có vai trò quan trọng thể hiện chính sách hình

sự của Nhà nước ta đối với các tội phạm về kinh tế có thể được kể đến như: Pháp

lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN ngày 21/10/1970 và Pháp lệnh quy

định về việc bảo vệ rừng ngày 06/9/1972.

Trong Pháp lệnh năm 1970 đã xác định“Tài sản xã hội chủ nghĩa là thiêng

liêng, tuyệt đối không ai được xâm phạm. Mọi người đều có nghĩa vụ tôn trọng và

bảo vệ tài sản đó.Mọi hành động xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa phải được phát

hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh”. [47, Điều 2].Trong đó, liên quan đến lĩnh vực

kinh tế, trong đó có quản lý đất đai, Điều 12 Pháp lệnh quy định: “Tội cố ý làm trái

nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ về kinh tế, tài chính, gây thiệt hại đến tài sản

xã hội chủ nghĩa:

1. Kẻ nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, cố ý làm trái nguyên tắc, chính sách,

chế độ và thể lệ về kinh tế, tài chính, gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị

phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm.

2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:…Thì bị phạt tù từ 5 năm đến

15 năm.

3. Phạm tội trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù

từ 12 năm đến 20 năm”.

Để bảo vệ quan hệ sở hữu XHCN về đất đai trong giai đoạn đó, Pháp lệnh số

147- LCT ngày 11/9/1972 khẳng định: “Rừng và đất rừng thuộc sở hữu của Nhà

nước, tức là của toàn dân, không ai được xâm phạm” [48].Sau ngày thống nhất đất

nước, nhằm kịp thời có công cụ pháp lý để giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn

22

xã hội, góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm có tính chất đặc thù ở miền Nam,

Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban

hành Sắc luật số 03/SL-76 ngày 15/3/1976 quy định các tội phạm và hình phạt được

áp dụng ở miền Nam. Nội dung Sắc luật này và Pháp lệnh ngày 21/10/1970 về cơ

bản là thống nhất. Tuy nhiên, những quy định trong Sắc luật chưa cụ thể, mới chỉ

nêu tội danh mà không mô tả dấu hiệu của tội phạm, không quy định khung của

hình phạt đối với từng tội riêng biệt mà quy định khung hình phạt chung cho từng

nhóm tội, dẫn đến vận dụng không chính xác.

Hiến pháp năm 1980 ra đời, quy định đất đai phải thuộc sở hữu toàn dân,

thuộc về dân tộc Việt Nam. Năm 1987, Luật Đất đai ra đời, đánh dấu một cột mốc

quan trọng của hệ thống pháp luật về đất đai. Luật Đất đai đầu tiên của chúng ta quy

định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước

giao đất cho các nông trường, lâm trường, xí nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ

quan nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân để sử dụng ổn định, lâu dài”.

Nhận xét:Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, Nhà nước ta đã ban

hành nhiều văn bản pháp luật hình sự. Những văn bản này đã có tác dụng tích cực

trong việc bảo vệ chính quyền nhân dân, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn

xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần bảo đảm thực hiện

thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ. Tội vi phạm các quy định về

quản lý đất đai trong thời kỳ này hầu như ít xảy ra, chưa được quy định bằng điều

luật cụ thể trong các văn bản, mà quy định đan xen với các tội danh khác. Nhưng

với yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, nhiều quy định trước đây không còn phù

hợp, thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất, do mỗi văn bản ban hành riêng lẻ chỉ quy định

một vài tội phạm hoặc một nhóm tội phạm. Không những thế, nhiều tội phạm và

hình phạt không chỉ được quy định trong văn bản pháp luật hình sự, mà còn được

quy định tản mạn trong các văn bản pháp luật về tổ chức hoặc về hành chính, do đó,

việc nghiên cứu và vận dụng gặp nhiều khó khăn. Khá nhiều tội phạm trong thực tế

đã xảy ra, nhưng chưa có văn bản nào quy định, khiến cho công cuộc đấu tranh

chống và phòng ngừa tội phạm có phần bị hạn chế.

1.3.2. Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trong Bộ luật hình

sựnăm 1985

23

BLHS năm 1985 có hiệu lực pháp luật từ ngày 01/7/1986, được sửa đổi, bổ

sung 04 lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Đây là BLHS đầu tiên của Nhà

nước ta, thể hiện một bước tiến dài trong khoa học pháp lý của đấtnước. Trong

BLHS năm 1985, tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai được quy định tại

Điều 180 với tên gọi: Tội vi phạm các quy định về quản lý đất và bảo vệ đất đai,

thuộc Chương XIII, các tội phạm về kinh tế.

Có thể nói đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, các

nhà làm luật đã tội phạm hóa các hành vi vi phạm trong lĩnh vực đất đai, được điều

chỉnh bằng một quy phạm riêng tại Điều 180: [29, Điều 180].

“1- Người nào mua bán, lấn chiếm đất hoặc có hành vi khác vi phạm các

quy định của Nhà nước về quản lý và bảo vệ đất đai gây hậu quả nghiêm trọng

hoặc đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến

một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

2- Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm

đến bảy năm”.

- Dưới góc độ khoa học pháp lý, các yếu tố CTTP của tội này thể hiện:

+ Khách thể của tội phạm: là trật tự quản lý của Nhà nước về đất đai.

+ Mặt khách quan: quy định bởi hai dấu hiệu cần và đủ:Có một trong các

hành vi: mua bán, lấn chiếm đất hoặc hành vi khác vi phạm các quy định của Nhà

nước về quản lý và bảo vệ đất đai. Và có hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý

hành chính mà còn vi phạm.

+ Chủ thể của tội phạm: bất kỳ người nào, có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu

TNHS, cụ thể:Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm do mình

thực hiện.Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS đối với tội

phạm do mình cố ý thực hiện thuộc khoản 2 của Điều luật.

+ Mặt chủ quan của tội phạm: Tội được thực hiện với hình thức lỗi cố ý.

Người phạm tội biết rõ hành vi vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai là

nguy hiểm cho xã hội, nhận thức đượchậu quả có thể hoặc chắc chắn xảy ra nhưng

vẫn cố tình thực hiện.

+ Về hình phạt: Người phạm tội ngoài việc phải chịu một trong các hình phạt

chính được quy định tại Điều 180 BLHS còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung

24

“phạt tiền đến một triệu đồng” hoặc ‘cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những

nghề hoặc những công việc nhất định từ hai năm đến năm năm” (khoản 1, 4 Điều

185 BLHS).

Riêng đối với tội phạm trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai do người

có chức vụ, quyền hạn thực hiện thì được điều chỉnh bởi Điều 174 (tội Cố ý làm trái

những nguyên tắc, chính sách, chế độ quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng)

được kế thừa từ tội Cố ý làm trái nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ về kinh tế,

tài chính, gây thiệt hại đến tài sản XHCX tại Điều 12 của Pháp lệnh năm 1970.

Nhận xét: với việc BLHSnăm 1985 ra đời đã tạo lập được cơ sở pháp lý để

xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật các hành vi xâm hai đến trật tự quản lý nhà

nước về đất đai. Là cơ sở đẻ bảo vệ trật tự, an toàn và ổn định xã hội, giữ vững kỷ

cương và pháp chế XHCN. Tuy nhiên, sau 14 năm được áp dụng, BLHS năm 1985

đã bộc lộnhiềm điểm còn hạn chế, chưa phù hợp với tinh hình thực tiễn của công tác

đấu tranh, phòng chống tội phạm, cần được sửa đổi, bổ sung như tên điều luật chưa

phù hợp với bản chất của hành vi khách quan, nhiều quy định gây khó khăn cho

việc áp dụng, trong BLHS năm 1985 chưa có một Điều luật cụ thể điều chỉnh hành

vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai, đúng bản chất của hành vi này.Tuy

nhiên, quá trình áp dụng pháp luật và dưới góc độ khoa học pháp lý cho thấy: Điều

luật còn chung chung, dẫn đến việc áp dụng pháp luật gặp nhiều khó khăn. Bên

cạnh đó, chính sách hình sự và đường lối xử lý đối với người phạm tội tương đối

nhẹ, không có sự phân biệt tội phạm và hậu quả pháp lý giữa chủ thể đặc biệt

(người có chức vụ, quyền hạn) với chủ thể thường, do đó không đủ sức răn đe,

phòng ngừa chung.

1.3.3. Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trong Bộ luật hình sự năm

1999

BLHS năm 1999, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2000 (sửa đổi, bổ

sung năm 2009). Trong BLHS năm 1999, tội vi phạm các quy định về quản lý đất

đai được quy định tại Điều 174 BLHS năm 1999:

“1.Người nào lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi,

cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất

25

trái pháp luật, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo

không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm

đến bảy năm:

a) Đất có diện tích lớn hoặc có giá trị lớn;

b)Gây hậu quả nghiêm trọng.

3.Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm

mươitriệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất

định từ một năm đến năm năm”.[30].

Về mặt tên tội danh, thì tội phạm này cũng được tách từ tội vi phạm các quy

định về quản lý và bảo vệ đất đai tại Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1985 là do yêu

cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong thực tiễn xét xử.

- Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ,

quyền hạn liên quan đến việc giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử

dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất. Đối với người khác cũng có thể là

chủ thể nhưng họ chỉ là đồng phạm trong vụ án có đồng phạm.

- Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy

định của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai về việc giao đất, thu hồi, cho thuê,

cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất.

- Mặt khách quan của tội phạm:Người phạm tội có hành vi lợi dụng hoặc lạm

dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử

dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đai trái pháp luật như Luật đất đai, các

Nghị định của chính phủ hoặc các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân hoặc của Uỷ

ban nhân nhân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.Hậu quả không phải là dấu

hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.

- Mặt chủ quan của tội phạm:Người phạm tội vi phạm các quy định về quản

lý đất đai thực hiện hành vi của mình là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của

mình là vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý đất đai, mong muốn cho hậu

quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ

của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng

chủ yếu vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác

26

Có thể thấy, Điều 174 BLHS năm 1999 đã thể hiện được bản chất của hành

vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai, có nhiều sửa đổi, bổ sung nhiều theo

hướng có lợi cho người phạm tội như: Quy định cụ thể hành vi khách quan của

người phạm tội; chỉ bị coi là tội phạm khi hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà

còn vi phạm; bổ sung một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt ở khoản 2 của

điều luật; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong cùng điều luật.

Nhận xét: BLHS năm 1999 đã góp phần rất quan trọng trong việc quản lý xã

hội, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an

toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức và của công dân. Tuy

nhiên, có thể thấy Điều 174 vẫn quy định tình tiết mang tính “định tính”,như“Đất

có diện tích lớn hoặc có giá trị lớn”, hoặc “Gây hậu quả nghiêm trọng”, điều này

không những làm cho công tác áp dụng pháp luật trong thực tiễn gặp nhiều khó

khăn mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến công tác hướng dẫn của các cơ quan liên

ngành trung ương. Mức hình phạt áp dụng đối với người phạm tội còn thấp, chưa

phân hóa được TNHS một cách rõ ràng, quy định trong CTTP còn đơn giản.

1.3.4. Điểm mới của Bộluật hình sự năm 2015 về tội vi phạm các quy định

về quản lý đất đai

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chính thức có hiệu lực pháp

luật toàn bộ vào ngày 01/01/2018. Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất

đai được quy định tại Điều 229 BLHS năm 2015. So với quy định tại Điều 174 của

BLHS năm 1999, thì BLHS năm 2015 có những sửa đổi, bổ sung cơ bản như sau:

- Khoản 1: Cụ thể hóa tình tiết có tính định tính “đất có diện tích lớn hoặc có

giá trị lớn” và “gây hậu quả nghiêm trọng” tại khoản 1 Điều 174 BLHS 1999 bằng:

+ Đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét

vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000

mét vuông (m2) đến dưới 50.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi

nông nghiệp có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2).

+ Đất có giá trị quyền dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng đến

dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng đến

dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp.

- Khoản 2: cụ thể hóa các tình tiết có tính định tính “đất có diện tích rất lớn

27

hoặc có giá trị rất lớn”; “gây hậu quả rất nghiêm trọng” tại khoản 2 Điều 174 BLHS

1999 bằng: Đất trồng lúa có diện tích từ 30.000 mét vuông (m2) đến dưới 70.000

mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ

50.000 mét vuông (m2) đến dưới 100.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và

đất phi nông nghiệp có diện tích từ 40.000 mét vuông (m2) đến dưới 80.000 mét

vuông (m2).

+ Đất có giá trị quyền dụng đất được quy thành tiền từ 2.000.000.000 đồng

đến dưới 7.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 5.000.000.000 đồng

đến dưới 15.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp.

Ngoài ra, Điều 229 BLHS năm 2015 còn bổ sung quy định: “Gây ảnh hưởng

xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” là tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 2.

- Khoản 3: Cụ thể hóa các tình tiết “đất có diện tích đặc biệt lớn hoặc có giá

trị đặc biệt lớn” và “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” tại khoản 3 Điều 174

BLHS 1999 bằng: Đất trồng lúa có diện tích 70.000 mét vuông (m2) trở lên; đất

rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích 100.000 mét vuông (m2)

trở lên; đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích 80.000 mét vuông

(m2) trở lên.

+ Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền 7.000.000.000 đồng

trở lên đối với đất nông nghiệp hoặc 15.000.000.000 đồng trở lên đối với đất phi

nông nghiệp.

1.4. Khái quát lý luận định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm

các quy định về quản lý đất đai

1.4.1. Khái quát lý luận định tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý

đất đai

1.4.1.1. Khái niệm định tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai

Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, có nhiều quan điểm khác nhau về

khái niệm định tội danh như:Định tội danh là việc xác nhận về mặt pháp lý sự phù

hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã được thực hiện

với các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng được quy định trong Bộ luật

hình sự. [5, tr.5].

28

Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính

xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu

hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự”

[46, tr.9,10].

Quan điểm của GS.TSKH. Lê Cảm cho rằng: “Định tội danh là quá trình

nhận thức lý luận có tính logic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật

hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các chứng

cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định

sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với

các dấu hiệu của CTTP tương ứng do luật hình sự quy định nhằm đạt được sự thật

khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự,

làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa TNHS một cách công minh, có căn cứ

và đúng pháp luật” [9, tr.716].

Theo tác giả khái niệm định tội danh cần nêu ra được chủ thể, căn cứ, trình

tự thủ tục và kết quả của hoạt động định tội danh. Tiếp thu các quan điểm trên đây,

tác giả đưa ra khái niệm định tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai

như sau:Định tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai là quá trình nhận

thức lý luận có tính logic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình

sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự của cơ quan, người có thẩm quyền, được tiến

hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của

vụ án hình sự nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm

cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của CTTP quy định tại Điều 229 BLHS,

từ đó đưa ra kết luận hành vi đó có cấu thành tội vi phạm các quy định về quản lý

đất đai hay tội phạm khác, nếu cấu thành tội vi phạm các quy định về quản lý đất

đai thì theo điểm, khoản nào của Điều 229 BLHS.

1.4.1.2. Cơ sở của định tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai

Dựa trên khái niệm định tội danh và định tội danh tội vi phạm các quy định

về quản lý đất đai có thể xác định cơ sở định tội danh theo các góc độ sau:

- Cơ sở thực tiễn: Cơ sở thực tiễn của định tội danh và định tội danh tội vi

phạm các quy định về quản lý đất đai là hành vi nguy hiểm cho xã hội đã diễn ra

29

trong thực tiễn, được thể hiện thông qua các tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi

khách quan đó.

- Cơ sở pháp lý: Cơ sở pháp lý của định tội danh và định tội danh tội vi phạm

đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai là toàn bộ các quy định của pháp

luật hiện hành liên quan đến định tội danh đối với tội phạm này. Theo nghĩa hẹp thì

cơ sở pháp lý của định tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai là Điều

229 của BLHS năm 2015 và các quy định liên quan tại phần chung của BLHS năm

2015.

Trong đó, các dấu hiệu quy định trong các Điều luật của BLHS được mô

phỏng, thể hiện dưới các mô hình pháp lý là các cấu thành tội phạm. Hay nói cách

khác, CTTP là cơ sở để người cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng pháp luật

phân tích, so sánh giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực

hiện với các dấu hiệu của CTTP tương ứng do BLHS quy định nhằm xác định sự

phù hợp và kết luận hành vi đó có phạm tội hay không, nếu có thì phạm tội gì.

Các dấu hiệu của CTTP tương ứng có thể là những dấu hiệu bắt buộc phải có

trong bất kỳ CTTP cụ thể như: khách thể của tội phạm, hành vi thuộc mặt khách

quan của tội phạm, lỗi thuộc mặt chủ quan của tội phạm, năng lực TNHS thuộc mặt

chủ thể của tội phạm; ngoài ra, còn có những dấu hiệu không bắt buộc phải có trong

mọi CTTP, có thể có trong cấu thành của tội phạm này nhưng không có trong cấu

thành của tội phạm khác như: hậu quả thuộc mặt khách quan của tội phạm, mục

đích, động cơ phạm tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm.

Căn cứ vào mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và vai trò của nó đối với

việc áp dụng pháp luật hình sự, CTTP được phân thành ba loại: CTTP cơ bản,

CTTP tăng nặng và CTTP giảm nhẹ. CTTP cơ bản là cấu thành chỉ có dấu hiệu định

tội, thể hiện các đặc trưng cho mỗi tội phạm cụ thể và là căn cứ để phân biệt tội

phạm này với tội phạm khác.

- Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thì CTTP được quy

định tại khoản 1 Điều 229 BLHS năm 2015 là CTTP cơ bản của tội vi phạm các quy

định về quản lý đất đai.

Định tội danh đối với khoản 1 Điều 229 khi có một trong các tình tiết sau:

30

+ Đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét

vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000

mét vuông (m2) đến dưới 50.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi

nông nghiệp có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2).

+ Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng

đến dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng

đến dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp.

+ Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.

Được hiểu là người đó đã bị xử lý kỷ luật bằng một trong hình thức kỷ luật

theo quy định pháp luật về xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, như khiển trách;

cảnh cáo; hạ bậc lượng; giáng chức...về vi phạm trong lĩnh vực quản lý đất đai như

thu hồi đất trái pháp luật, cho thuê trái pháp luật...với diện tích đất, giá trị quyền sử

dụng đất thấp hơn quy định ở trường hợp a hoặc b của khoản 1 Điều 229, nhưng

chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý kỷ luật.

- CTTP tăng nặng là cấu thành cơ bản có thêm một hay nhiều tình tiết định

khung tăng nặng mà chúng làm tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm tăng

lên một cách đáng kể.

Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thì CTTP được quy định tại

điểm khoản 2 Điều 229 BLHS năm 2015 là CTTP tăng nặng của tội vi phạm các quy

định về quản lý đất đai. Định tội danh theo CTTP này khi có một trong các dấu hiệu sau:

+ Có tổ chức: Đây là trường hợp có từ 02 người trở lên cố ý cấu kết chặt chẽ

với nhau cùng tham gia phạm tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai.

+ Đất trồng lúa có diện tích từ 30.000 mét vuông (m2) đến dưới 70.000 mét

vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 50.000

mét vuông (m2) đến dưới 100.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi

nông nghiệp có diện tích từ 40.000 mét vuông (m2) đến dưới 80.000 mét vuông (m2).

+ Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ 2.000.000.000

đồng đến dưới 7.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 5.000.000.000

đồng đến dưới 15.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp.

+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội: là gây ra những tác

động xấu đến tình hình an ninh, tác động tiêu cực đến trật tự, an toàn xã hội. Khi áp

31

dụng tình tiết này phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ ảnh

hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. [4, tr.212].

Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thì CTTP được quy định

tại điểm khoản 3 Điều 229 BLHS năm 2015 là CTTP tăng nặng của tội vi phạm các

quy định về quản lý đất đai, khi thỏa mãn dấu hiệu sau:

+ Đất trồng lúa có diện tích 70.000 mét vuông (m2) trở lên; đất rừng đặc

dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích 100.000 mét vuông (m2) trở lên;

đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích 80.000 mét vuông (m2)

trở lên.

+ Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền 7.000.000.000 đồng

trở lên đối với đất nông nghiệp hoặc 15.000.000.000 đồng trở lên đối với đất phi

nông nghiệp.

- CTTP giảm nhẹ là cấu thành cơ bản có thêm một hay nhiều tình tiết định

khung giảm nhẹ mà chúng làm tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm giảm

một cách đáng kể. Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thì không có

CTTP giảmnhẹ.

Để xác định một hành vi phạm tội có CTTP tăng nặng hoặc giảm nhẹ, trước

hết cần xác định hành vi đó có thỏa mãn các dấu hiệu của CTTP cơ bản hay không.

Sự phân loại CTTP này là cơ sở để phân hóa TNHS dựa vào sự phân biệt các mức

độ nguy hiểm khác nhau của các trường hợp phạm tội của một loại tội phạm, là cơ

sở của việc định tội danh và quyết định hình phạt.

1.4.1.3. Các bước định tội danh đối với tội vi phạm các quy định về quản lý

đất đai

Định tội danh và định tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai

thông thườngtrải qua ba bước: [26].

+ Bước 1: Xác định vụ việc, xem xét và đánh giá các tình tiết của vụ án trong

sự phù hợp với hiện thực khách quan.

Trong bước này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS,

Tòa án và một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều

tra theo quy định tại Điều 164 BLTTHS năm 2015 như: Bộ đội biên phòng, Hải

quan, Kiểm lâm..tiến hành thu thập và làm rõ tất cả các tình tiết liên quan đến sự

32

việc đầy đủ, toàn diện, trung thực, chính xác, khách quan và khoa học. Mỗi tình tiết

của vụ án phải được kiểm tra, phân tích, đánh giá độc lập, phải đặt nó trong hoàn

cảnh cụ thể, sau đó đặt trong mối quan hệ với các tình tiết khác, trong cả quá trình

diễn biến sự việc xảy ra. Để từ đó xác định có tội phạm xảy ra không, nếu xảy ra thì

là tội phạm gì, có phải tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai hay không.

Cần làm rõ các nội dung cụ thể sau:

+ Có việc lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ quyền hạn trong lĩnh vực quản lý

đất đai hay không? có thuộc trường hợp giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép

chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định của

pháp luật hay không?

+ Có kèm theo một trong các dấu hiệu như: Đất trồng lúa có diện tích từ

5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng

phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 50.000

mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ

10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2).

+ Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng

đến dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng

đến dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp;

+ Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.

+ Thời gian, địa điểm xảy ra hành vi phạm tội;

+ Diễn biến hành vi phạm tội, động cơ, mục đích;

+ Những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm.

+ Làm rõ có yếu tố đồng phạm hay không.

Điều quan trọng nhất trong giai đoạn này là đối với chủ thể định tội danh là

phải nắm được bản chất của sự việc xảy ra, phải bước đầu khẳng định được khả

năng có dấu hiệu của tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai để tiếp tục chuyển

sang giai đoạn tiếp theo của quá trình định tội danh đối với tội này.

+ Bước 2: Tìm ra tội danh và điều luật tương ứng (phù hợp) với hành vi đã

thực hiện trên thực tế.

Trên cơ sở kết quả tại bước 1, tại bước này Cơ quan, người có thẩm quyền

cần phân tích làm rõ, một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ để tìm ra tội danh và

33

điều luật phù hợp với hành vi đã thực hiện. Đây là giai đoạn trung tâm, chủ thể định

tội danh phải làm những việc sau đây:

Một là, phải đối chiếu từng tình tiết của vụ án xảy ra với các dấu hiệu CTTP của

tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai. Sau đó, phải đối chiếu, so sánh tổng thể tất

cả các tình tiết của vụ án với tổng thể các dấu hiệu CTTP của tội phạm này.

Hai là, phải phát hiện, tìm ra sự đồng nhất giữa các tình tiết điển hình của vụ

án với các dấu hiệu pháp lý tại Điều 229 BLHS. Trường hợp có căn cứ khẳng định

không có sự đồng nhất thì phải kiểm tra lại. Sau khi xác định chắc chắn không có sự

đồng nhất với CTTP tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thì có thể chuyển

sang kiểm tra các quy phạm PLHS khác để kết luận nếu có tội phạm xảy ra không

thuộc trường hợp tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thì cấu thành tội phạm

nào khác.

Trường hợp có căn cứ xác định có dấu hiệu của tội vi phạm các quy định về

quản lý đất đai thì chủ thể định tội danh vẫn phải kiểm tra lại trước khi đi đến kết

luận về đối tượng vụ án phạm tội nói trên. Sau khi xác định được đối tượng vụ án là

người có hành vi phạm tội thì phải xác định các khoản cụ thể của Điều 229 BLHS

được áp dụng. Tiếp đó, phải xác định xem vụ án có yếu tố đồng phạm không, ai là

người đồng phạm, thực hiện tội mua bán trái phép chất ma túy với vai trò cụ thể

nào. Kết thúc giai đoạn này, chủ thể định tội danh đã có căn cứ để xác định đối

tượng vụ án đã thực hiện hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai và hành

vi này đã cấu thành tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai quy định tại Điều

229 BLHS, xác định được các điều luật khác trong phần chung BLHS được áp dụng

để giải quyết vụ án.

+ Bước 3: Ra văn bản áp dụng pháp luật trong đó kết luận một cách có căn

cứ hành vi đã thực hiện có phạm tội không, nếu phạm tội thì theo điều luật nào của

Bộ luật hình sự[26, tr.13,15].

Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai đó là việc đưa ra kết luận

về tội danh với đối tượng đã thực hiện hành vi quy định tại Điều 229 BLHS.

Đây là giai đoạn đưa ra kết luận về việc đối tượng vụ án đã thực hiện tội

phạm vi phạm các quy định về quản lý đất đai. Trong trường hợp định tội danh

chính thức, chủ thể ra các quyết định tố tụng cần thiết theo quy định của BLTTHS

34

để truy cứu TNHS đối với người phạm tội về tội phạm nêu trên. Giai đoạn này giai

đoạn cuối cùng trong quá trình định tội danh. Chủ thể định tội danh phải bằng ý

thức pháp luật xã hội chủ nghĩa và niềm tin nội tâm khẳng định một cách dứt khoát

rằng đối tượng vụ án đã phạm tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai và nêu ra

các điều luật được áp dụng trong cả BLHS và BLTTHS.

1.4.1.4. Các giai đoạn của hoạt động định tội danh đối với tội vi phạm các

quy định về quản lý đất đai

Quá trình định tội danh bao gồm 03 giai đoạn: [48, tr.88, 89].

Trong giai đoạn đầu tiên, các dấu hiệu chung nhất của hành vi được xác

định, hay nói cách khác, xác định loại quan hệ pháp luật. Trong giai đoạn này,

người áp dụng pháp luật giải quyết một vấn đề là trong trường hợp cụ thể này có

các dấu hiệu tội phạm hay không, hay hành vi đó chỉ được coi như một vi phạm

pháp luật khác. Trong trường hợp tìm thấy quan hệ pháp luật hình sự, nghĩa là trong

hành vi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có các dấu hiệu phạm tội,

lúc này quá trình định tội danh chuyển sang giai đoạn hai.

Giai đoạn hai xác định tội phạm trên được nêu trong chương nào của Bộ luật

Hình sự. Việc phân định các Chương của BLHS căn cứ vào khách thể loại của tội phạm.

Giai đoạn thứ ba của quá trình định tội danh là đối chiếu và so sánh các loại

dấu hiệu tội phạm.

Ví dụ: Sau khi xác định rằng hành vi phạm tội này có liên quan đến các tội

xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (Chương XVIII Bộ luật hình sự) cần phải làm sáng

tỏ đó là tội gì: tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai, tội vi phạm quy định về

quản lý rừng...Chính trong giai đoạn này việc so sánh được tiếp tục trong phạm vi

của một điều luật thuộc một chương cụ thể của BLHS: cấu thành cơ bản hay cấu

thành tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS.

Định tội danh dựa vào các dấu hiệu của cấu thành tội phạm là một phương

pháp khoa học của việc áp dụng các quy phạm của pháp luật hình sự. Việc sử dụng

phương pháp này sẽ cho phép tiến hành đối chiếu hành vi nguy hiểm cho xã hội đã

được thực hiện với định nghĩa của pháp luật về loại hình vi tương tự không dựa theo

yếu tố ngẫu nhiên, mà theo các dấu hiệu cơ bản và điển hình mà chúng ta đã được

35

chia thành từng nhóm trong một hệ thống đã được quy định rất khoa học. Đấy chính

là định tội danh dựa theo các dấu hiệu của cấu thành tội phạm.

Tóm lại, có thể nói rằng, việc phân chia các bước, giai đoạn định tội danh

trên chỉ có tính chất tương đối. Cũng có trường hợp việc định tội danh lại phải quay

lại bắt đầu từ đầu để kiểm tra lại tính đúng đắn của kết quả định tội danh nếu như

chủ thể định tội danh có những sai lầm trong quá trình định tội danh.

1.4.2. Khái quát lý luận về quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy

định về quản lý đất đai

1.4.2.1. Khái niệm quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về

quản lý đất đai

Quyết định hình phạt là khái niệm được nhiều công trình khoa học nghiên

cứu và đưa ra khái niệm khác nhau. Tuy nhiên, đa số đều thống nhất với nội hàm:

“Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt (đối

với loại hình phạt có các mức khác nhau) trong phạm vi luật định để áp dụng đối

với chủ thể chịu TNHS)”.[37, tr.315].

Đa số các điều luật về tội phạm cụ thể quy định chế tài gồm nhiều loại hình

phạt chính khác nhau. Quyết định hình phạt đối với chủ thể chịu TNHS là sự lựa

chọn một trong số hình phạt chính và xác định mức hình phạt đối với loại hình phạt

có các mức khác nhau trong khung hình phạt được quy định. Nếu chế tài được quy

định chỉ có một loại hình phạt chính và có các mức khác nhau thì quyết định hình

phạt trong trường hợp này là xác định mức hình phạt trong phạm vi khung hình phạt

được quy đinh.

Do vậy, có thể hiểu Quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về

quản lý đất đai là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt trong phạm

vi quy định tại Điều 229 BLHS năm 2015 để áp dụng đối với chủ thể chịu TNHS về

tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai.

1.4.2.2. Đặc điểm cơ bản của quyết định hình phạt tội vi phạm các quy định

về quản lý đất đai

Thứ nhất, quyết định hình phạt là là giai đoạn sau khi đã thực hiện việc định

tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai. Quyết định hình phạt có liên

quan chặt chẽ với việc xác định tội phạm hay còn gọi là định tội danh, được thực

36

hiện sau khi định tội danh. Việc xác định tội danh đúng tạo tiền đề cho việc quyết

định hình phạt đúng.

Thứ hai, thẩm quyền quyết định hình phạt nói chung và quyết định hình phạt

tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai chỉ thuộc về Tòa án. Chỉ có Tòa án mới

có thẩm quyền quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Khi quyết định hình

phạt, Tòa án (Hội đồng xét xử) nhân danh Nhà nước chính thức xác định về mặt

pháp lý một người có tội và tuyên hình phạt cho người có hành vi phạm tội.

Thứ ba, quyết định hình phạt do Tòa án thực hiện trên cơ sở quy định của

BLHS nhằm xác định khung hình phạt và lựa chọn hình phạt cụ thể trong phạm vi

khung hình phạt đó để áp dụng cho người phạm tội. Đặc điểm này thể hiện, khi

quyết định hình phạt nói chung và tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai

Tòa án căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự như cơ sở của TNHS, các quy

định về hình phạt đối với người phạm tội.., tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã

hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và

tăng nặng trách nhiệm hình sự và phạm vi khung hình phạt quy định tại Điều 229

để áp dụng đối với người phạm tội.

Thứ tư, quyết định hình phạt không mang tính cố định, rập khuôn mà có sự

tuỳ nghi nhất định của Toà án, phụ thuộc vào tích chất, đặc điểm của từng vụ án,

quy định vềloại và mức hình phạt nhất định. Tội phạm nói chung và tội vi phạm các

quy định về quản lý đất đai đều có chế tài lựa chọn giữa hai hay nhiều hình phạt;

mức độ của mỗi loại hình phạt cũng được quy định ở khung rộng, nhất là phạt tù;

các hình phạt bổ sung hay một số chế định khác như miễn trách nhiệm hình sự,

miễn hình phạt, án treo, quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của luật... được quy

định ở dạng tuỳ nghi “có thể”.

Thứ năm, quyết định hình phạt mặc dù tuân thủ quy định của pháp luật, trên

cơ sở các căn cứ do BLHS quy định, nhưng phù thuộc rất nhiều vào ý chí của Thẩm

phán, Hội thẩm, phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, năng lực và đạo đức Thẩm phán, Hội

thẩm khi lượng hình. Đặc điểm này thể hiện bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật, thì

việc nâng cao năng lực, trình độ của Thẩm phán, Hội thẩm có vai trò rất quan trọng.

37

1.4.2.3. Các trường hợp quyết định hình phạt đối với người phạm tội vi phạm

các quy định về quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh

*Quyết định hình phạt theo khoản 1 Điều 229 BLHS năm 2015

Trường hợp người phạm tội phạm tội vi phạm các quy định về quản lý đất

đai theo khoản 1 Điều 229. Căn cứ quy định BLHS, tính chất và mức độ nguy hiểm

cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ

và tăng nặng trách nhiệm hình sự, Tòa án có thể áp dụng hình phạt cải tạo không

giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

*Quyết định hình phạt theo khoản 2 Điều 229 BLHS năm 2015

Trường hợp người phạm tội phạm tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai

theo khoản 2 Điều 229. Căn cứ quy định BLHS, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã

hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng

trách nhiệm hình sự, Tòa án có thể áp dụng hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

*Quyết định hình phạt theo khoản 3 Điều 229 BLHS năm 2015

Trường hợp người phạm tội phạm tội vi phạm các quy định về quản lý đất

đai theo khoản 3 Điều 229. Căn cứ quy định BLHS, tính chất và mức độ nguy hiểm

cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ

và tăng nặng trách nhiệm hình sự, Tòa án có thể áp dụng hình phạt từ 05 năm đến

12 năm.

* Ngoài ra, Tòa án có thể quyết định áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền

từ 10.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành

nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

- Trường hợp Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt

được áp dụng.

+ Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình

phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật

khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51

của BLHS.

+ Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình

phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ

38

hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng

phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

+ Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2

Điều 54 BLHS nhưng khung hình phạt được áp dụng là khoản 1 Điều 229, thì Tòa

án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc

chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do phải được ghi rõ trong

bản án.

- Trường hợp Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội

Khi xét xử cùng 01 lần một người phạm nhiều tội (tội vi phạm các quy định

về quản lý đất đai và tội phạm khác), Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội

và tổng hợp hình phạt theo quy định tại Điều 55 BLHS năm 2015.

- Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm

Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm của tội vi phạm

các quy định về quản lý đất đai, Tòa án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính

chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.

Tiểu kết Chương 1

Thông qua Chương 1 của luận văn tác giả đã phân tích một số vấn đề lý luận

và pháp luật về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai như: khái niệm, đặc

điểm của tội phạm này, từ đó tác giả phân biệt tội này với một số tội dễ gây nhầm

lẫn trong BLHS năm 2015. Ngoài ra, để có một góc nhìn xuyên suốt về tội vi phạm

các quy định về quản lý đất đai, tác giả đã phân tích, khái quát lịch sử lập pháp của

Nhà nước ta về tội danh này từ sau năm 1945 đến khi BLHS năm 2015 có hiệu lực

pháp luật. Những phân tích này là cơ sở để tác giả phân tích những quy định của

BLHS năm 2015 và thực tiễn áp dụng tội danh này tại tỉnh Bắc Ninh tại Chương 2

của luận văn.

39

Chương 2

THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TỘI VI

PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI TẠI TỈNH BẮC NINH

2.1. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về tội vi phạm các quy

định về quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh

2.1.2. Khái quát tình hình định tội danh (xét xử) tội vi phạm các quy định

về quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh

Trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, Tòa án nhân dân hai cấp

tỉnh Bắc Ninh đã đưa ra xét xử tổng số 08 vụ án và27bị cáo về tội vi phạm các quy

định về quản lý đất đai. Cụ thể (xem bảng 2.1; 2.2 phần phụ lục):

Qua bảng thống kê so sánh giữa tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai

so với nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đã được TAND tỉnh Bắc Ninh đưa

ra xét xử sơ thẩm và phúc thẩm giai đoạn 2015 – 2019, cho thấy:

Số vụ phạm tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai chiếm tỷ lệ nhỏ

trong cơ cấu nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, cụ thể là Tòa án nhân dân

hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã đưa ra xét xử sơ thẩm 06 vụ với 27bị cáo tội vi phạm các

quy định về quản lý đất đai, chiếm tỷ lệ 1,98% số vụ và 7,37% số bị cáo nhóm tội

xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và đưa ra xét xử phúc thẩm 04 vụ với 14 bị cáo tội

vi phạm các quy định về quản lý đất đai, chiếm tỷ lệ 4,4% số vụ và 10,5 % số bị cáo

trong nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Có thể thấy, tội vi phạm các quy

định về quản lý đất đai có số bị cáo chiếm tỉ lệ nhiều, do vụ án chủ yếu được thực

hiện dưới hình thức đồng phạm, có sự tham gia của nhiều loại người như giúp sức,

tổ chức và thực hành. Xét xử phúc thẩm đa số là do các bị cáo kháng cáo theo

hướng xin giảm nhẹ hình phạt.

Mặc dù vậy, đây là tội dễ gây ra nhầm lẫn tội danh với nhóm tội phạm về

chức vụ, đặt biệt là tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ hoặc

tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến tình

hình an ninh, chính trị của địa phương do chủ yếu liên quan đến ngươi có chức vụ,

quyền hạn trong lĩnh vực quản lý đất đai. Do vậy, đặt ra yêu cầu cần nâng cao hiệu

quả của việc định tội danh trong thời gian tới.

40

2.1.3. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai

tại tỉnh Bắc Ninh

* Theo cấu thành tội phạm cơ bản:

Do tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai chiếm tỉ lệ không nhiều,

trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019 toàn tỉnh Bắc Ninh đã đưa ra xét

xử là 05 vụ và 24bị cáo theo CTTP cơ bản của tội vi phạm các quy định về quản lý

đất đai. Cụ thể (Xem bảng 2.3 phần phụ lục):

Nhìn chung, quá trình định tội danh và quyết định hình phạt, Tòa án hai cấp

tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện tốt hoạt động định tội danh, không có vụ án nào bị hủy

và đình chỉ vụ án, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra,

truy tố...quá trình định tội danh cơ bản tuân thủ đúng pháp luật, đúng người, đúng

tội và đúng pháp luật. Điển hình như vụ án sau:

Ví dụ: Bản án hình sự sơ thẩm số: 122/2015/HSST ngày 30/9/2015 của

TAND huyện Yên Phong

Nội dung vụ án: Nguyễn Văn Tàu là trưởng thôn Quan Độ nhiệm kỳ 2011-

2013. Năm 2012, Tàu đã tổ chức họp bàn cho anh Nguyễn Văn Trang, sinh năm

1974 ở cùng thôn thuê đất trái thẩm quyền 510m2 đất ở khu vực lòng sông Ngũ

Huyên - hạn thuê là 30 năm, 5 năm ký hợp đồng một lần, anh Trang phải nộp một

lần với số tiền 500.000.000 đồng cho 30 năm thuê đất, mục đích để chứa hàng hóa.

Ngày 06/8/2012, Nguyễn Văn Tàu và Nghiêm Văn Dục (phó thôn), Đặng Đình Thư

(kế toán thôn) ký hợp đồng thuê đất với anh Nguyễn Văn Trang. Ngày 08/8/2012,

anh Trang đã nộp số tiền 500.000.000đ vào quỹ thôn có phiếu thu tiền. Ngày

10/8/2012, Tàu đã tổ chức giao cho anh Trang diện tích 510m2 đất. Ngoài ra cuối

năm 2011, Nguyễn Văn Tàu còn tổ chức họp bàn cho 4 hộ dân thôn Quan Độ thuê

trái thẩm quyền tổng số 880m2 ở khu vực thùng chứa các gốc Bịu, thu tổng số tiền

23.460.000đ. Tổng diện tích đất mà Tàu cho thuê trái thẩm quyền là 1390m2, số

tiền thu được từ việc cho thuê trái thẩm quyền là 523.460.000đ.

Cáo trạng số: 88/CTr-VKS, ngày 11/8/2015 của Viện Kiểm sát nhân dân

huyện Yên Phong đã truy tố Nguyễn Văn Tàu về tội “Vi phạm các quy định về quản

lý đất đại” theo điểm b, khoản 1, Điều 174 Bộ luật hình sự.

41

TAND huyện Yên Phong nhận định: Hành vi cho thuê đất trái thẩm quyền

của bị cáo trên địa bàn thôn Quan Độ đã gây hậu quả nghiêm trọng, mất ổn định

tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây bức xúc trong nhân dân, làm mất niềm tin

của nhân dân đối với chính quyền cơ sở. Bị cáo bị truy tố theo điểm b “đất có diện

tích lớn hoặc có giá trị lớn” của điều luật là có căn cứ pháp luật.Hành vi phạm tội

của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền quản lý thống

nhất của Nhà nước đối với đất đai. Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy

hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.

Trong vụ án này có Đặng Đình Thư và Nghiêm Văn Dục đã tham gia ký hợp

đồng cho anh Nguyễn Văn Trang thuê đất, xét việc làm của Thư, Dục chỉ vì làm lợi

cho địa phương, là giúp việc cho trưởng thôn, tham gia với vai trò thứ yếu, không có

mục đích từ lợi, Cơ quan điều tra không xử lý mà chỉ gọi hỏi, nhắc nhở là phù hợp.

Tòa án đã quyết định: Áp dụng điểm b, khoản 1, Điều 174, tuyên bố bị cáo

Nguyễn Văn Tàu phạm tội “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai" là hoàn toàn

phù hợp với quy định của pháp luật.

*Theo cấu thành tội phạm tăng nặng:

Định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng năng của tội vi phạm các quy

định về quản lý đất đai của TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninhchiếm tỉ lệ rất ít, trong

khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019 toàn tỉnh Bắc Ninh đã đưa ra xét xử là

01 vụ với 03 bị cáo theo CTTP tăng nặng của tội vi phạm các quy định về quản lý

đất đai. Cụ thể (xem bảng 2.4 phần phụ lục):

Nhìn chung, do số vụ định tội danh theo CTTP tăng nặng của Tòa án hai cấp

tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 hầu như không có nhiều.

Do vậy quá trình định tội danh cơ bản tuân thủ đúng pháp luật, đúng người, đúng tội

và đúng pháp luật (xem bảng 2.5 phần phụ lục).

*Trường hợp phạm nhiều tội:

Phạm nhiều tội là thực hiện nhiều hành vi, mỗi hành vi cấu thành một tội

phạm độc lập hoặc chỉ thực hiện một hành vi và hành vi đó cấu thành nhiều tội

phạm khác nhau. Xâm phạm vào các khách thể khác nhau. Các hành vi có thể được

thực hiện vào cùng một thời điểm hoặc vào các thời điểm khác nhau.Tòa án xem

xét, quyểt định tội danh và hình phạt đối với từng hành vi, sau đó tổng hợp hình

42

phạt của bản án. Theo thống kê của TAND tỉnh Bắc Ninh cho thấy, việc xử lý các

trường hợp phạm nhiều tội không nhiều, chủ yếu là các tội đơn lẻ.

Có thể thấy định tội danh trường hợp phạm nhiều tội đối bị cáo phạm tội vi

phạm các quy định về quản lý đất đai, đồng thời có bị cáo phạm một tội phạm khác

chiếm tỉ lệ rất ít trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

Ví dụ: Bản án số: 110/2016/HSST ngày 17/9/2016 của TAND huyện Y, tỉnh

Bắc Ninh

Nội dung vụ án: Vào năm 2013-2014, thôn Yên Vĩ được nhà nước hỗ trợ số

tiền 122.776.8244đ tiền thủy lợi phí, Nguyễn Xuân Khái là Trưởng thôn kiêm chủ

nhiệm HTX dịch vụ nông nghiệp thôn Yên Vĩ nhiệm kỳ 2012-2015 đã nhận số tiền

trên những không nhập quỹ tập thể theo chỉ đạo của Chủ tịch UBND xã Hòa Tiền,

mà 03 lần chiếm đoạt toàn bộ số tiền này (lần thứ nhất: 79.488.244; hai lần còn lại:

một lần 28.896.000đ và một lần 13.932.000đ ).

Trong thời gian làm Trưởng thôn Yên Vũ, Nguyễn Xuân Khái đã tổ chức các

cuộc họp để bàn việc bán đất trái thẩm quyền 16 lô đất ao xóm Trong với diện tích

là 1858,6m2 thu tổng số tiền 4.124.080.000đ. Tham gia cùng với Khái trong việc

bán trái thẩm quyền 16 lô đất trên là Nguyễn Văn Quất - Bí thư Chi bộ kiêm

Trưởng ban kiểm soát thôn Yên Vĩ và Nguyễn Văn Bình - Kế toán thôn Yên Vĩ.

Ngoài ra, Nguyễn Xuân Khái, Nguyễn Văn Bình và Nguyễn Văn Quất còn họp bàn

và thu thêm tiền ngoài quyết định đối với 25 lô đất ở dự án giãn dân khu vệ lũy xóm

Đông với số tiền là 3.903.176.090đ để xây dựng các công trình của thôn theo hướng

dẫn của địa phương và được thống nhất trong hội nghị quân dân chính. Nguyễn

Xuân Khái còn tự quyết định, không họp bàn tập thể, bán trái thẩm quyền 02 lô đất

ở khu vực ao Giếng, 01 lô đất ở khu vực chuôm Cứ: Tổng diện tích của 03 lô đất

này là 381,45m2, thu tổng số tiền 877.335.000đ. Việc làm này của Khái cùng đồng

phạm đã vi phạm Điều 37 Luật đất đai.Việc bán đất trái thẩm quyền của Nguyễn

Xuân Khái cùng đồng phạm đã gây thiệt hại, thất thu ngân sách cho Nhà nước là

611.827.500đ.

Cáo trạng số: 52/CTr- VKS ngày 09/6/2016 của VKSND huyện Y truy tố các

bị cáo Nguyễn Xuân Khái về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành

công vụ” theo điểm b khoản 2 Điều 281 và tội “Vi phạm các quy định về quản lý

43

đất đai” theo điểm b khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự; Nguyễn Văn Bình và

Nguyễn Văn Quất về tội “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” theo điểm b

khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

TAND huyện Y đã nhận định: Cáo trạng truy tố bị cáo Khái về tội “Lợi dụng

chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”; bị cáo Khái, Bình và Quất còn bị

truy tố, xét xử về tội “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” là đúng người, đúng

tội.Tòa án đã áp dụng điểm b khoản 2 Điều 281; điểm b khoản 1 Điều 174 quyết

đinh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân Khái (Tức Nguyễn Văn Khái) phạm tội “Lợi

dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” và tội “Vi phạm các quy định

về quản lý đất đai”; Các bị cáo Nguyễn Văn Bình và Nguyễn Văn Quất phạm tội

“Vi phạm các quy định về quản lý đất đai”.

Nhận xét: Trong vụ án này bị cáo Khái bị truy tố, xét xử về trường hợp

phạm nhiều tội là: tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” với

việc Nguyễn Xuân Khái là Trưởng thôn kiêm chủ nhiệm HTX dịch vụ nông nghiệp

thôn Yên Vĩ nhiệm kỳ 2012-2015 đã nhận số tiền là 122.776.8244đ tiền thủy lợi

phí,những không nhập quỹ tập thể theo chỉ đạo của Chủ tịch UBND xã Hòa Tiền

mà đã chiếm đoạt toàn bộ số tiền này.Ngoài ra Khái còn bị truy tố, xét xử về tội “Vi

phạm các quy định về quản lý đất đai” với hành vi bán trái thẩm quyền 16 lô đất ao

xóm Trong, 02 lô đất ao Giếng, 01 lô đất chuôm Cứ cho 19 hộ dân thôn Yên Vĩ khi

chưa được các cấp có thẩm quyền có quyết định về việc cho phép chuyển mục đích

sử dụng đất. Tổng diện tích đất bán trái thẩm quyền là 2240.05m2, thu tổng số tiền

5.014.415.000đ.

Tòa án xem xét, quyết định tội danh và hình phạt đối với từng hành vi, sau

đó tổng hợp hình phạt của bản án là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật.

2.1.4. Những khó khăn, bất cập trong định tội tội vi phạm các quy định về

quản lý đất đai và nguyên nhân

2.1.4.1.Những khó khăn, bất cập trong định tội tội vi phạm các quy định về

quản lý đất đai

Mặc dù thực tiễn định tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai

trênđịa bàn tỉnh Bắc Ninhđạt được nhiều kết quả thuận lợi, đa số các bản án đều xử lý

44

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử của TAND hai cấp

tỉnh Bắc Ninh vẫn còn có một số khó khăn, bất cập. Một số tồn tại điển hình như:

*Vẫn còn tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung nhiều lần, nhầm lẫntrong việc

định tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai và một số tội phạm về

chức vụ như tội lợi dụng, chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ giữa các cơ

quan tiến hành tố tụng tỉnh Bắc Ninh.

Ví dụ:Bản án số 06/2017/HSST ngày 18/01/2017 của TAND tỉnh Bắc Ninh

Xuất phát từ động cơ vụ lợi, vun vén cho lợi ích của địa phương, từ tháng

7/2005 các bị cáo Phạm Tiến Nam, Tống Văn Điệp, Lê Văn Bình, Hoàng Đắc Tư,

Hoàng Duy Minh và Nguyễn Đức Thuận là Chủ tịch, cán bộ địa chính và trưởng

thôn thuộc hai xã Tam Đa, Văn An đã tổ chức họp bàn, thống nhất bán 8710m2

bằng 75 lô đất ở tại khu Gốc Táo, thôn Đại Lâm, xã Tam Đa thuộc hành lang bảo vệ

đê điều (từ chân để ra phía đông 20m), thu tổng số tiền là 3.244.000.000đ. Trong đó

xã Tam Đa bán 38 lộ với diện tích3942 m2, thu được số tiền 1.372.000.000đ; xã

Vạn An bán 37 lô với diện tích 4768 m2 thu được số tiền 1.872.000.000đ. Toàn bộ

số tiền thu được từ việc bán đất thuộc hàng lang đế của thôn Đại Lâm và thôn Vạn

Phúc đều đưa vào đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi của 2 thôn và xã gồm

đường giao thông, trường học, nước sạch. Hậu quả đến nay, các hộ dân mua đất

không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đồng thời UBND hai xã Tam

Đa, Vạn An; các thôn Đại Lâm và Vạn Phúc không có khả năng trả lại tiền cho các

hộ dân.Hành vi của các bị cáo gây thiệt hại cho 75 hộ dân mua đất với tổng số tiền

là 3.244.000.000đ. Tiếp đó, năm 2007, Phạm Tiến Nam là Chủ tịch UBND xã Vạn

An, Tống Văn Điệp là Cán bộ Địa chính xã, Hoàng Anh Tuấn là trưởng thôn

Đương Xá, xã Vạn An đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ được

giao trong việc triển khai Quyết định số 778 ngày 08/6/2007 của Chủ tịch UBND

tỉnh Bắc Ninh về việc thu hồi 29.100,9 m2 đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng -

hạ tầng kỹ thuật khu Dốc Đặng, xã Vạn An. Trong đó có 123 lô (bằng 12.634 m2)

đất quy hoạch khu dân cư nông thôn không thuộc trường hợp phải đấu giá. Phạm

Tiến Nam đã chỉ đạo kê khống danh sách, viết lập khống hồ sơ xin cấp đất, cấp giấy

chứng nhận QSDĐ cho 81 lô đất trong tổng số 123 lô đất để đề nghị cơ quan có

thẩm quyền giao đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó, Nam chỉ đạo

45

bán theo giá thị trường lấy tiền chênh lệch để chi trả đền bù cao hơn phương án bồi

thường cho các hộ bị thu hồi đất và đầu tư xây dựng các công trình tại địa phương.

Theo kết luận của Sở Tài chính tỉnh, hành vi chi trả cao hơn phương án bồi thường

của các bị cáo đã gây thất thoát cho ngân sách nhà nước là 1.791.608.000đ.

VKSND tỉnh Bắc Ninh đã truy tố các bị can trên về tội “Vi phạm các quy

định về quản lý đất đai”, tuy nhiên sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự nêu trên,

ngày 01/12/2015, ngày 09/5/2016 thì TAND tỉnh Bắc Ninh đã 02 lần quyết định trả

hồ sơ điều tra bổ sung cho VKSND tỉnh Bắc Ninh, trong đó có lý do quan trọng

nhất là vấn đề tội danh: Các bị can đều là cán bộ cấp xã không có quyền hạn về

quản lý đất đai như: Giao đất, thu hồi, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất...

(không phải là chủ thể của tội phạm quy định tại Điều 174 BLHS)mà chỉ là người

lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong việc lập hồ sơ xin phê duyệt dự án, lập hồ sơ xin

giao đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau đó nâng mức thu tiền sử

dụng đất và mức đền bù, sử dụng tiền có được do bán đất không đúng quy định. Vì

vậy, các bị can không phạm tội “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” mà phạm

tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo quy định tại Điều

281 BLHS. Tội danh nặng hơn tội danh VKS truy tố.Do vậy, TAND tỉnh Bắc Ninh

đã quyết định trả hồ sơ vụ án hình sự đối với bị can: Phạm Tiến Nam và các đồng

phạm xem xét tội danh truy tố đối với Phạm Tiến Nam và các đồng phạm về tội

“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ” theo Điều 281 BLHS.

Ngày 18/01/2017, TAND tỉnh Bắc Ninh đã mở phiên tòa xét xử vụ án trên,

xác định đã tuyên bố các bị cáo Phạm Tiến Nam, Hoàng Đắc Tư, Tống Văn Điệp,

Hoàng Duy Minh, Nguyễn Đức Thuận, Lê Văn Bình và Hoàng Anh Tuấn phạm tội “Lợi

dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo khoản 3 Điều 281 BLHS.

Nhận xét: Có thể nói vụ án nêu trên là vụ án phức tạp, nhưng quan điểm

định tội danh của Cơ quan tố tụng tỉnh Bắc Ninh còn khác nhau, nguyên nhân xuất

phát từ năng lực, trình độ trong quá tình điều tra, thu thập chứng cứ và quy định

chưa rõ ràng của pháp luật.

* Cùng một chủ thể tội phạm và hành vi vi phạm nhưng các cấp xét xử, các

Tòa án vẫn có quan điểm định tội danh khác nhau trong quá trình xét xử vụ án liên

quan đến quản lý đất đai.

46

Ví dụ: Bản án số 99/2017/HSST ngày 22/11/2017 của TAND huyện Yên

Phong, tỉnh Bắc Ninh

TAND đã nhận định: Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Phong đã ra quyết

định khởi tố và tiến hành điều tra đối với 29 bị can có hành vi vi phạm: “Xã Đông

Phong đã bán đất, thu tiền trái thẩm quyền với tổng số 241 lô, lượt hộ, tương ứng

với diện tích là 28.462,4m2, thu tổng số tiền là 18.730.248.000 đồng. Trong đó:

UBND xã đã trực tiếp bán 04 lô, lượt hộ với diện tích 424m2 đất thu 281.784.000đ;

thôn Phong Nẫm bán 66 lô, lượt hộ với diện tích 7.078,12m thu, số tiền

3.950.167.000 đồng; thôn Phong Xá bán 76 lô, lượt hộ với diện tích 7.854,6m2 thu

số tiền 11.780.918.000 đồng; thôn Đông Xá bán 63 lô lượt hổ với 8.490,67m2 thụ

số tiền 2.079.276.000đ và thôn Đông Yên bán 33 lô, lượt hộ với 4.615m2 thu số

tiền 633.998.000đ. Ngoài ra còn thu tiền đất kep thổ cư được xác định là diện tích

đất thừa so với sơ đồ năm 2002 là 128 lượt hộ với diện tích là 12.345,1m2 thu số

tiền 462.831.800đ. Trong đó thôn Phong Năm thu của 16 lượt hộ với diện tích

781,2m2 thu số tiền 75.292.500đ; thôn Phong Xá thu của 43 lượt hộ với diện tích

4.361,4m2 thu số tiền 196.000.000đ: thôn Đông Xá thu của 37 lượt hộ với diện tích

3.207m2 thu số tiền là 66.013.000đ và thôn Đông Yên thu của 32 lượt hộ với diện

tích 3,995,5m2 thu số tiền là 125.466.300đ. Đến nay số tiền do bán đất trái thẩm

quyền mà có đã được quyết toán nộp về ngân sách UBND xã Đông Phong là

1.786.689.000đ, trong đó thôn Đông Yên là 205.077.000đ; thôn Phong Xá là

541.830.000đ; thôn Đông Xá là 252.327.000đ và thôn Phong Nẫm là 787.455.000đ,

số tiền còn lại do các thôn sử dụng vào xây dựng các công trình của thôn như

trường mầm non, đường bê tông và đình chùa.Bên cạnh việc bán đất trái thẩm

quyền, một số thôn còn ký hợp đồng cho thuê đất công ích, đất chuyên dùng trái

thẩm quyền, toàn bộ số tiền cho thuê các thôn tự thu, tự chi, không phải nộp về

UBND xã” về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo

điều 281 Bộ luật hình sự, mà các bị cáo chủ yếu là Chủ tịch, Phó chủ tịch, Cán bộ

địa chính, Trưởng thôn của xã đã lạm dụng quyền hạn của mình, đã vượt quá quyền

hạn của mình bán đất trái thẩm quyền. Đồng thời, Tòa án cũng đồng quan điểm với

VKS khi nhận định: do các bị cáo không có mục đích vụ lợi nên phạm vào tội “Vi

phạm các qui định về quản lý đất đai” theo Điều 174 Bộ luật hình sự chứ không

47

phải tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” như khởi tố, điều

tra ban đầu.

- Trong khi đó, tại Bản án số 06/2017/HSST ngày 18/01/2017 của TAND

tỉnh Bắc Ninh, cùng với hành vi và chủ thể là Lãnh đạo xã, thôn đã nhận định và 02

lần trả hồ sơ cho VKSND để điều tra bổ sung với lý do: Việc VKSND truy tố các

đối tượng là Chủ tich, Phó Chủ tịch xã, Trưởng thôn... về tội “Vi phạm các quy định

về quản lý đất đai” là không chính xác vì: Các bị can đều là cán bộ cấp xã không có

quyền hạn về quản lý đất đai như: Giao đất, thu hồi, cho phép chuyển mục đích sử

dụng đất... (không phải là chủ thể của tội phạm quy định tại Điều 174 BLHS),

không có đủ căn cứ để cho rằng các bị can phạm tội “Vi phạm các quy định về quản

lý đất đai”. Về bản chất, các bị can đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để bán

đất trái phép vì mục đích vụ lợi cục bộ của địa phương. Do vậy, hành vi của các bị

can có dấu hiệu cấu thành tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công

vụ” theo Điều 281 BLHS. Tội danh nặng hơn tội danh VKS truy tố.TAND tỉnh Bắc

Ninh đã mở phiên tòa xét xử vụ án trên, tại phiên tòa, các bị cáo đều đề nghị HĐXX

xem xét các bị cáo phạm vào tội “Vi phạm các quy định quản lý đất đai” theo Điều

174 BLHS. HĐXX thấy rằng, theo quy định thì chủ thể của tội danh này là chủ thể

đặc biệt, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn liên quan đến việc quản lý đất đai

như: Giao đất, thu hồi đất,... cho phép chuyển mục đích sử dụng đất mà có hành vi

lợi dụng hoặc lạm dụng vượt quá quyền hạn của mình để giao đất, thu hồi đất, cho

phép chuyển mục đích sử dụng đất đai... trái pháp luật. Trong vụ án này, các bị cáo

đều là các cán bộ xã và thôn, không phải là người có chức vụ, quyền hạn liên quan

đến việc quản lý đất đai (như Giao đất, thu hồi đất...) như phân tích ở trên, do vậy

không có cơ sở chấp nhận đề nghị của các bị cáo.

Nhận xét: Có thể thấy cùng dạng hành vi là bán, cho thuê đất trái thẩm

quyền do đối tượng là cán bộ xã, thôn nhưng việc định tội danh đối với trường hợp

này vẫn không có sự thống nhất trong thực tế. Có Tòa án định tội danh là tội “Lợi

dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” có Tòa án định tội danh là tội

“Vi phạm các quy định về quản lý đất đai”.

* Có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm trong vụ án về tội “Vi phạm các quy định về

quản lý đất đai”.

48

Ví dụ: Bản án số 99/2017/HSST ngày 22/11/2017 của TAND huyện Y, tỉnh

Bắc Ninh

Sau khi kết thúc điều tra thấy rằng các bị can không có mục đích vụ lợi nên

ngày 20/8/2017, VKSND huyện Yên Phong ra quyết định thay đổi khởi tố các bị

can Nguyễn Bá Thời, Nguyễn Văn Chiến, Nguyễn Trọng Nhuần, Nguyễn Trọng

Hiền, Nguyễn Mạnh Cường, Ngô Minh Trường, Bùi Minh Quyết, Đỗ Đức Xuyến,

Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Văn Tính, Nguyễn Văn Bộ,

Nguyễn Đức Nhẫn, Nguyễn Bá Kiểm, Nguyễn Bá Phú, Nguyễn Văn Sử, Đỗ Khoản

Vy, Đỗ Bá Hanh, Đỗ Bá Đồng, Nguyễn Đình Mạnh, Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn

Như Huynh, Ngô Tiến Sương, Nguyễn Thị Thể, Ngô Bá Tố về tội “Vi phạm các qui

định về quản lý đất đai theo Điều 174 Bộ luật hình sự. Trước tình hình chính trị địa

phương, căn cứ vào mức độ vi phạm của các bịcan và nhân thân của các bị can,

VKSND huyện Yên Phong đã ra quyết định đìnhchỉ vụ án đối với: Ngô Văn Tố,

Nguyễn Xuân Trường, Đỗ Khoan Đài, Nguyễn Văn Sử, Nguyễn Văn Phụng, Đỗ Bá

Đồng, Ngô Tiến Sương, Nguyễn Đình Mạnh, Đỗ Đức Xuyến, Nguyễn Văn Bộ,

Nguyễn Trọng Hiến, Đỗ Bá Hanh, Nguyễn Đức Nhẫn, Nguyễn Văn Cường và

Nguyễn Thị Thể, Đỗ Khoan Đài, Nguyễn Văn Phụng, Đỗ Bá Đồng, theo quy định

tại Điều 25 Bộ luật hình sự.Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự thụ lý số

68/2017/HSST ngày 29/8/2017, TAND huyện Yên Phong đã ra quyết định số

02/2017/HSST-QĐ ngày 10/10/2017 về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Cụ thể

nội dung yêu cầu điều tra bổ sung: Trong tổng số 15 bị can được đình chỉ vụ án theo

khoản 1 Điều 25 Bộ luật hình sự, nếu tính theo tiêu chí diện tích đất đã bán trái

thẩm quyền thì thấy có một số bị can tham gia bán với diện tích ngang nhau nhưng

có bị can bị truy tố, còn có một số bị can lại được đình chỉ vụ án. Như vậy có dấu

hiệu bỏ lọt người phạm tội. Đến ngày 24/10/2017, VKSND huyện Yên Phong đã có

công văn số 228/VKS trả lời: 15 bị can được đình chỉ vụ án đều là những bị can có

vai trò thứ yếu, nhiều bị can là cán bộ nghỉ hưu có nhiều đóng góp cho Nhà nước

trong thời gian công tác, được tặng thưởng nhiều huân huy chương, có bị can là

thương binh, có bị can gia đình có công, một số bị can có thời gian công tác tại địa

phương đã có nhiều đóng góp cho phong trào của địa phương. Do vậy, VKSND

huyện Yên Phong thấy không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với

49

các bị can này mà miễn trách nhiệm hình sự và xử phạt hành chính, xử lý về Đảng

là phù hợp. VKSND huyện Yên Phong giữ nguyên cáo trạng số 62/CTr-VKS ngày

25/8/2017. Căn cứ Điều 196 BLTTHS về giới hạn của việc xét xử, Toà án nhân dân

huyện Yên Phong chỉ xét xử đối với 14 bị cáo theo tội danh mà VKSND huyện Yên

Phong đã truy tố và Toà án đã có quyết định đưa ra xét xử.Như vậy đã có đủ cơ sở

kết luận các bị cáo Nguyễn Bá Thời, Nguyễn Văn Chiến, Nguyễn Trọng Nhuân,

Nguyễn Mạnh Cường, Bùi Minh Quyết, Ngô Minh Trường, Đô Khoan Vy, Nguyễn

Như Huynh, Nguyễn Bá Kiển, Nguyễn Bá Phú, Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Văn

Băng, Nguyễn Văn Tính và Nguyễn Vĩnh Hài phạm tội “Vi phạm các quy định về

quản lý đất đai”.

Nhận xét: Đây là vụ án có số lượng các bị cáo rất lớn, 29 bị cáo, sau đó đã có

15 bị cáo được đình chỉ vụ án, miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 25

BLHS: “1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, nếu khi tiến hành điều

tra, truy tố hoặc xét xử, do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc

người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa”.Lý do mà VKSND huyện Y

đưa ra là: bị can có vai trò thứ yếu, trong số này có các bị can tham gia bán đất trái

thẩm quyền từ những năm 2005-2007, nhiều bị can là cán bộ nghỉ hưu có nhiều

đóng góp cho Nhà nước trong thời gian công tác, được tặng thưởng nhiều huân huy

chương, có bị can là thương binh, có bị can gia đình có công, một số bị can có thời

gian công tác tại địa phương đã có nhiều đóng góp cho phong trào của địa phương.

Theo tác giả, lý do VKSND huyện Y đưa ra để miễn TNHS là chưa hoàn toàn phù

hợp, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, vì đây chỉ có thể là những tình tiết giảm nhẹ

TNHS, có thể được miễn hình phạt.

2.1.4.2. Nguyên nhân của những khó khăn, bất cập

- Thứ nhất, quy định của BLHS năm 2015 về tội vi phạm các quy định về

quản lý đất đai vẫn còn một số tồn tại, bất cấp; nhiều quy định chưa có hướng dẫn

kịp thời để áp dụng trong thực tiễn.

- Thứ hai, năng lực, trình độ và ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức của đội

ngũ cán bộ, công chức chưa cao, không đồng đều.

- Thứ ba, công tác phối hợp giữa các cơ quan tố tụng trong tỉnh chưa được

chú trọng; trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét

50

xử còn thiếu thốn. Công tác hướng dẫn, tập huấn nghiệp vụ, quy định mới của pháp

luật hình sự, tố tụng hình sự chưa được nâng cao, quan tâm đúng mức.

- Một số nguyên nhân khác như: công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật

còn hạn chế, chưa sâu sát; phương thức, thủ đoạn phạm tội ngày một tinh vi, phức

tạp...cũng là những nguyên nhân làm giảm hiệu quả đấu tranh phòng chống tội lạm

dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn.

2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về

quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh

2.2.1. Khái quát tình hình quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy

định về quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh

Qua bảng số liệu 2.6 phần phụ lục cho thấy, các bị cáo phạm tội vi phạm các

quy định về quản lý đất đai chủ yếu bị áp dụng hình phạt tù nhưng được hưởng án

treo (14 bị cáo so với tổng số bị cáo là 27 bị cáo), có 07 bị cáo được áp dụng hình

phạt cảnh cáo hoặc cải tạo không giam giữ; còn lại là hình phạt tù dưới 03 năm vàtừ

03 đến dưới 07 năm (03 bị cáo). Điều này cho thấy, các vụ án phạm tội vi phạm các

quy định về quản lý đất đai chủ yếu xét xử theo cấu thành tội phạm cơ bản (khoản

1) của Điều luật.

Qua bảng thống kê bảng 2.7 phần phụ lục cho thấy,trong giai đoạn từ năm

2015 đến năm 2019, trong các bị cáo bị xét xử về tội vi phạm các quy định về quản

lý đất đai đều trong độ tuổi trên 30 tuổi. Chủ yếu là Đảng viên, công chức, có 09 đối

tượng là người dân tộc thiểu số và 01 đối tượng là nữ giới.

2.2.2.Thực trạng quyết định hình phạt tội vi phạm các quy định về quản lý

đất đai

*Theo cấu thành tội phạm cơ bản:

Theo khảo sát các bản án về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai giai

đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 cho thấy, quyết định hình phạt của TAND hai cấp

tỉnh Bắc Ninh đều cơ bản phù hợp với quy định của pháp luật, tính chất và mức độ

nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ

TNHS của người phạm tội. Điển hình như vụ án sau đây:

Ví dụ: Trong vụ án theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 122/2015/HSST ngày

30/9/2015 của TAND huyện Y sau khi định tội danh Nguyễn Văn Tàu (là trưởng

51

thôn Quan Độ nhiệm kỳ 2011-2013). Từ năm 2011 và 2012 bị cáo Tàu đã lợi dụng

trưởng thôn, có hành vi cho thuê đất trái thâm quyến 1390m , thu số tiền

535.160.000đ, vi phạm điều 37 Luật đất đai. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Vi

phạm các quy định về quản lý đất đai”, phạm vào khoản 1, Điều 174 Bộ luật hình

sự. Tòa án đã quyết định hình phạt trên 04 căn cứ như sau:

- Căn cứ quy định của pháp luật: khung hình phạt trong khoản 1 Điều 174

BLHS với mức phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng

đến ba năm.

- Tính chấtvà mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi

cho thuê đất trái thẩm quyền của bị cáo trên địa bàn thôn Quan Độ đã gây hậu quả

nghiêm trọng, mất ổn định tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây bức xúc trong

nhân dân, làm mất niềm tin của nhân dân đối với chính quyền cơ sở. Hành vi phạm

tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền quản lý thống

nhất của Nhà nước đối với đất đai. Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch

và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Hành vi phạm tội của bị

cáo gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây bất bình trong nhân dân, do vậy cần phải có

một hình phạt nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

- Nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự:Bản

thân bị cáo chưa có tiền án tiến sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm

trọng. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo,

ăn năn hối cải. Bị cáo chỉ vì lợi ích của địa phương chứ không có mục đích từ lợi, bị

cáo có thời gian phục vụ trong quân đội, do vậy cũng cần xem xét giảm nhẹ một

phân khi quyết định hình phạt, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà

cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ điều kiện cải tạo, giáo dục.

Tòa án đã áp dụng điểm b, khoản 1, Điều 174; điểm hợp khoản 1, 2 điều 46;

điều 60 Bộ luật hình sự; điểm b, khoản 2, điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Xử phạt:

Nguyễn Văn Tàu 15 (mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử

thách 30 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, Giao bị cáo cho UBND xã Văn Môn,

huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục. Cấm bị cáo

đảm nhận công việc liên quan đến lĩnh vực quản lý đất đai trong thời hạn 02 năm kể

từ ngày chấp hành xong hình phạt.

52

*Theo cấu thành tội phạm tăng nặng:

Do việc quyết định hình phạt theo CTTP tăng nặng hầu như không có. Do

vậy, việc quyết định hình phạt của TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đều phù hợp với

quy định của pháp luật, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân

thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của người phạm tội.

*Trường hợp phạm nhiều tội:

Tương tự như việc quyết định hình phạt trong trường hợp CTTP tăng nặng.

Do việc quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm nhiều tội không nhiều, nên

việc quyết định hình phạt của TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh trong trường hợp này cơ

bản đều phù hợp với quy định của pháp luật, tính chất và mức độ nguy hiểm của

hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của người

phạm tội. Điển hình như vụ án sau đây:

Ví dụ:Trong vụ án theo Bản án số: 110/2016/HSST ngày 17/9/2016 của TAND

huyện Y, tỉnh Bắc Ninh, sau khi xác định bị cáo Nguyễn Xuân Khái bị xét xử về tội

“Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ và tội “Vi phạm các quy định

về quản lý đất đai” theo điểm b khoản 2 Điều 281 và điểm b khoản 1 Điều 174.

- Các bị cáo bản thân chưa có tiền án, tiền sự. Số tiền mà bị cáo Khái chiếm

đoạt đã tự nguyện giao nộp đầy đủ tại cơ quan điều tra. Bị cáo Khái được hưởng

tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Quá trình

điều tra, xét xử các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, biết ăn năn hối cải. Các bị

cáo cùng được hưởng tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm c khoản 1 Điều 46 Bộ

luật hình sự. Bị cáo Khái được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, trong đó có 02 tình tiết

giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, hơn nữa số tiền mà bị cáo chiếm đoạt

được đã được khắc phục hoàn toàn nên đại diện VKSND huyện Yên Phong đề nghị

HĐXX áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự cho bị cáo đối với tội “Lợi dụng chức vụ

quyền hạn trong khi thi hành công vụ” là hoàn toàn phù hợp pháp luật.

- Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và nhân thân các bị cáo thấy

cân thiết phải cách ly bị cáo Khái ra khỏi xã hội một thời hạn nhất định mới có thể

cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho xã hội. Bị cáo Khái lợi dụng

chức vụ quyền hạn để trục lợi do vậy cần áp dụng hình phạt bổ sung cấm hành nghề

một thời gian nhất định.

53

* Trên cơ sở lý luận về quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm nhiều

tội, Tòa án quyết định: Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 4 Điều 281; điểm b khoản 1

Điều 174; Điều 50; Điều 47; điểm b,c khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật

hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Khái, 40 tháng tù về tội “Lợi dụng chức vụ

quyền hạn trong khi thi hành công vụ” và 12 tháng tù về tội “Vi phạm các quy định

về quản lý đất đai”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt

chung cho cả hai tội là 52 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được

trừ thời hạn tạm giam từ 24/9/2015 đến 30/11/2015. Cấm bị cáo Khái đảm nhiệm

chức vụ trưởng thôn trong thời hạn 02 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt.

2.2.3. Những khó khăn, bất cập trong quyết định hình phạt đối tội vi phạm

các quy định về quản lý đất đai và nguyên nhân

2.2.3.1. Những khó khăn, bất cập trong quyết định hình phạt đối với tội vi

phạm các quy định về quản lý đất đai

Do số vụ án về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai xảy ra không

nhiều, do vậy tương tự như định tội danh, việc quyết định hình phạt đối với tội này

thực tế chưa gặp quá nhiều khó khăn, bất cập. Tuy nhiên, thực tiễn vừa qua cho thấy

vẫn có một số khó khăn sau:

* Có dấu hiệu của việc miễn TNHS chưa phù hợp:

Cũng theo Bản án số 99/2017/HSST ngày 22/11/2017 của TAND huyện Y,

tỉnh Bắc Ninh: Các bị can Nguyễn Bá Thời, Nguyễn Văn Chiến, Nguyễn Trọng

Nhuần, Nguyễn Trọng Hiền, Nguyễn Mạnh Cường, Ngô Minh Trường, Bùi Minh

Quyết, Đỗ Đức Xuyến, Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Văn

Tính, Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Đức Nhẫn, Nguyễn Bá Kiểm, Nguyễn Bá Phú,

Nguyễn Văn Sử, Đỗ Khoản Vy, Đỗ Bá Hanh, Đỗ Bá Đồng, Nguyễn Đình Mạnh,

Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Như Huynh, Ngô Tiến Sương, Nguyễn Thị Thể, Ngô

Bá Tố về tội “Vi phạm các qui định về quản lý đất đai theo Điều 174 Bộ luật hình

sự. Sau đó, VKSND huyện Yên Phong đã ra quyết định đìnhchỉ vụ án đối với 15

đối tượng: Ngô Văn Tố, Nguyễn Xuân Trường, Đỗ Khoan Đài, Nguyễn Văn Sử,

Nguyễn Văn Phụng, Đỗ Bá Đồng, Ngô Tiến Sương, Nguyễn Đình Mạnh, Đỗ Đức

Xuyến, Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Trọng Hiến, Đỗ Bá Hanh, Nguyễn Đức Nhẫn,

Nguyễn Văn Cường và Nguyễn Thị Thể, Đỗ Khoan Đài, Nguyễn Văn Phụng, Đỗ

54

Bá Đồng, theo quy định tại Điều 25 BLHS,ngày 24/10/2017, VKSND huyện Yên

Phong đã có công văn số 228/VKS trả lời: 15 bị can được đình chỉ vụ án đều là

những bị can có vai trò thứ yếu, nhiều bị can là cán bộ nghỉ hưu có nhiều đóng góp

cho Nhà nước trong thời gian công tác, được tặng thưởng nhiều huân huy chương,

có bị can là thương binh, có bị can gia đình có công, một số bị can có thời gian công

tác tại địa phương đã có nhiều đóng góp cho phong trào của địa phương. Do vậy,

VKSND huyện Yên Phong thấy không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự

đối với các bị can này mà miễn trách nhiệm hình sự và xử phạt hành chính, xử lý về

Đảng là phù hợp. Căn cứ điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự về giới hạn của việc xét

xử, Toà án nhân dân huyện Yên Phong chỉ xét xử đối với 14 bị cáo theo tội danh mà

VKSND huyện Yên Phong đã truy tố và Toà án đã có quyết định đưa ra xét xử.

Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Nguyễn Bá Thời, Nguyễn Văn Chiến,

Nguyễn Trọng Nhuân, Nguyễn Mạnh Cường, Bùi Minh Quyết, Ngô Minh Trường,

Đô Khoan Vy, Nguyễn Như Huynh, Nguyễn Bá Kiển, Nguyễn Bá Phú, Nguyễn

Văn Thiện, Nguyễn Văn Băng, Nguyễn Văn Tính và Nguyễn Vĩnh Hài phạm tội

“Vi phạm các quy định về quản lý đất đai”.

Nhận xét: Theo tác giả, lý do VKSND huyện Y đưa ra để miễn TNHS là

chưa hoàn toàn phù hợp, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, vì đây chỉ có thể là những tình

tiết giảm nhẹ TNHS, có thể được miễn hình phạt theo Điều 54 “Người phạm tội có

thể được miễn hình phạt trong trường hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy

địnhtại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng

chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự”. Đối với trường hợp một số bị can

tham gia bán đất trái thẩm quyền từ những năm 2005-2007, có thể căn cứ vào khoản

5 (Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự) Điều 107 BLTTHS năm 2003 để

đình chỉ vụ án trên, do các bị can bị truy tố theo khoản 1 Điều 174 (là tội ít nghiêm

trọng, thời hiệu truy cứu TNHS là 5 năm).

- Việc quyết định hình phạt vẫn còn nặng hơn so với tính chất và mức độ

nguy hiểm cho xã hội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của bị cáo.

Ví dụ: Bản án số 34/2019/HSPT ngày 14/05/2019 của TAND tỉnh B

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ

án được tóm tắt như sau: Đầu năm 2017,Phạm Việt A, Nguyễn Trọng H (sinh năm

55

1987, cùng trú tại thôn PX, xã CH, huyện T) do cần đất để để canh tác và được

người khác giới thiệu, A và H đã gặp Lê Mạnh K, Phạm Văn X, lúc này là Chủ tịch

UBND xã và Cán bộ địa chính xã CH và Nguyễn Văn C – Bí thư chị bộ kiêm

Trưởng thôn PX, để trao đổi về việc thỏa thuận xin được thuê đất công ích, đất

chuyên dùng của UBND xã CH (đóng trên địa bàn thôn PX), sau khi đạt được sự

thống nhất, tháng 6/2017, Lê Mạnh K giao cho Phạm Văn X (đại diện bên B) ký

hợp đồng với ông Phạm Việt A (đại diện bên A) thuê đất ao có trong khu vực vòng

xuyến với diện tích 3.360m2 và giao cho Nguyễn Văn C ký hợp đồng cho hộ

Nguyễn Trọng H thuê đất ao với diện tích đất ao khu vực vòng xuyến với diện tích

9.000m2. Ngoài ra, K, X và C chỉ đạo, tham gia ký hợp đồng cho 03 hộ khác thuê

đất ao với diện tích là 13.975m2, thời hạn là 5 năm thu tổng số tiền 171.925.000đ.

Gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước số tiền là 536.568.200đ. Toàn bộ số tiền thu

được các bị cáo sử dụng để xây dựng đường làng, thôn và quản lý tại UBND xã CH,

chưa phát hiện có sai phạm khác trong việc sử dụng số tiền thu được từ cho thuê trái

pháp luật. Lê Mạnh K là Chủ tịch UBND xã CH chịu trách nhiệm trước Nhà nước

đối với việc sử dụng đất Nông nghiệp vào mục địch công ích và chịu trách nhiệm

trước nhà nước đối với việc quản lý đất sử dụng vào mục đích công cộng được giao

dể quản lý, đất chưa giao, đất chưa cho thuê tại địa phương. Bị cáo K là người chịu

trách nhiệm trước Nhà nước nhưng bị cáo đã lạm dụng quyền hạn của mình, đã

vượt quá quyền hạn của mình trực tiếp, chỉ đạo X và C cho thuê đất trái thẩm

quyền, trái mục đích sử dụng. Để giúp bị cáo K thực hiện hành vi phạm tội là X và

C giúp sức. Xét nhân thân của các bị cáo thấy:

Đối với bị cáo đều phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên

được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm là khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình

sự. Bị cáo K phục vụ trong quân đội từ tháng 12/1972 đến tháng 8/1981, là thương

binh, được tặng Huy chương kháng chiến hạng nhì, Huân chương chiến sỹ vẻ vang

hạng ba, Huy chương vì sự nghiệp dân số, Huy chương cựu chiến binh Việt Nam,

được 5 lần tặng danh chiệu Chiến sỹ thi đua từ cấp huyện trở lên và 12 bằng khen.

Bố bị cáo được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất. Bị cáo X được

tặng danh hiệu Chiến sỹ thi đua cơ sở. Bố đẻ được tăng thưởng Huân chương kháng

chiến hạng ba. Bị cáo C tham gia quân đội từ tháng 12/1980 đến tháng 5/1985, được

56

tặng Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Bố đẻ là liệt sĩ.Trong quá trình điều

tra, truy tố, xét xử các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn về hành vi phạm tội

của mình.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 06/2019/HS-ST ngày 07/03/2019 của Tòa án

nhân dân huyện T, tỉnh B: Tuyên bố các bị cáo Lê Mạnh K, Phạm Văn X, Nguyễn

Văn C tội “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai”.Áp dụng điểm a, b khoản 1,

Điều 229; điểm i, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51. Xử phạt Lê Mạnh K, 18 tháng tù

nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử. thách 36 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ

thẩm. Cấm bị cáo đảm nhận công việc liên quan đến lĩnh vực quản lý đất đai trong

thời hạn 03 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt.

Xử phạt Phạm Văn X, Nguyễn Văn C mỗi bị cáo 15 tháng tù, cho hưởng án

treo, thời hạn thử thách 30 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Cấm các bị cáo

đảm nhận công việc liên quan đến lĩnh vực quản lý đất dai trong thời lại 02 năm kể

từ ngày chấp hành xong hình phạt.

Các bị cáo kháng cáo, đề nghị xem xét lại hình phạt. Tại cấp phúc thẩm,

HĐXX cho rằng cấp sơ thẩm định tội danh các bị cáo về tội “Vi phạm các quy định

về quản lý đất đai” theo điểm a, b khoản 1 Điều 229 là đúng người, đúng tội. Tuy

nhiên, khi quyết định hình phạt cấp sơ thẩm còn chưa xác định đầy đủ các tình tiết

giảm nhẹ TNHS cho các bị cáo (bỏ sót tình tiết bị cáo K là thương binh, C có bố để

là liệt sĩ, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm x, khoản 1 Điều 51), hình phạt

đã tuyên nặng hơn so với tính chất và mức độ nguy hiểm, nhân thân của các bị cáo

đã thực hiện.

Do vậy, TAND tỉnh Bắc Ninh đã ra Bản án số 34/2019/HSPT ngày

14/05/2019 về tội “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai”. Xử phạt Lê Mạnh K,

Phạm Văn X, Nguyễn Văn C, 12 tháng cải tạo không giam giữ, buộc mỗi bị cáo

phải chấp hành thời gian cải tạo là 08 tháng 09 ngày, tính từ ngày cơ quan Thi hành

án hình sự Công an huyện Yên Phong giao hồ sơ Thi hành án cho chính quyền

UBND xã Đông Phong. Cấm các bị cáo đảm nhận công việc liên quan đến lĩnh vực

quản lý đất đai trong thời hạn 01 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt.

57

2.2.3.2. Nguyên nhân của những khó khăn, bất cập

- Thứ nhất,một số quy định của BLHS năm 2015 về tội về quyết định hình

phạt nói chung và quyết định hình phạt tội vi phạm các quy định về quản lý đất

đaivẫn còn tồn tại, bất cấp.

- Thứ hai, năng lực, trình độ của đội ngũ người làm công tác quyết định hình

phạt như Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân còn hạn chế, không đồng đều. Ý thức

chính trị, phẩm chất đạo đức và trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ chưa cao.

- Thứ ba, công tác phối hợp giữa các cơ quan tố tụng trong tỉnh chưa được

chú trọng; cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử còn hạn

chế, hoạt động hướng dẫn, tập huấn nghiệp vụ, quy định mới của pháp luật hình sự,

tố tụng hình sự chưa được nâng cao, quan tâm đúng mức.

- Ngoài ra còn một số nguyên nhân như việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật,

công tác tổng kết thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về

quản lý đất đaihạn chế, chưa sâu sát...cũng là những nguyên nhân làm giảm hiệu quả

đấu tranh phòng chống tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trên địa bàn.

Tiểu kết Chương 2

Thông qua Chương 2 của luận văn tác giả đã phân tích làm rõ một số vấn đề

lý luận của hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm các quy

định về quản lý đất đai. Đồng thời đánh giá thực trạng định tội danh và quyết định

hình phạt tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai theo CTTP cơ bản, tăng nặng

và trường hợp phạm nhiều tội. Theo đó, bên cạnh những kết quả đạt được như việc

định tội danh và quyết định hình phạt đa số đều đúng người, đúng tội, đúng pháp

luật và phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thì vẫn còn

một số khó khăn, bất cập nhưchưa vẫn còn chưa thống nhất, nhầm lẫn trong việc

định tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai và một số tội phạm về

chức vụ như tội lợi dụng, chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ giữa các cơ

quan tiến hành tố tụng tỉnh Bắc Ninh, quyết định hình phạt trong một số trường hợp

nặng hơn tính chất nguy hiểm củahành vi phạm tội...mà nguyên nhân chủ yếu từ

việc một số quy định của BLHS năm 2015 về tội về vi phạm các quy định về quản

lý đất đai vẫn còn tồn tại, năng lực, trình độ của đội ngũ người làm công tác định tội

danh và quyết định hình phạt còn hạn chế, không đồng đều, công tác phối hợp giữa

58

các cơ quan tố tụng trong tỉnh chưa được chú trọng…Những kết quả nghiên cứu

này là cơ sở để tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả định tội

danh và quyết định hình phạt tội này trong Chương 3 của luận văn.

59

Chương 3

YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT

ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐÚNG TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ

ĐẤT ĐAITẠI TỈNH BẮC NINH

3.1. Yêu cầu của việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi

phạm các quy định về quản lý đất đai

3.1.1. Yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong định tội danh và quyết

định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai

Nguyên tắc pháp chế XHCN khẳng định yêu cầu tuân thủ pháp luật nghiêm

chỉnh, triệt để và thống nhất đối với tất cả các cá nhân, tổ chức. Các nguyên tắc cơ

bản của pháp chế là tính thống nhất, tính hợp lý và áp dụng chung. Mục đích của

pháp chế là nhằm đạt được sự tuân thủ pháp luật đối với tất các các chủ thể quan hệ

pháp luật, thiết lập trạng thái hợp pháp trong hệ thống các quan hệ xã hội. Nguyên

tắc này đòi hỏi hệ thống pháp luật cần được hoàn thiện, là cơ sở pháp lý vững chắc

để định tội danh và quyết định hình phạt, trong khi đó về tội vi phạm các quy định

về quản lý đất đai vẫn còn một số nội dung chưa rõ ràng cụ thể, chưa có sự phù hợp

giữa BLHS và Luật đất đai năm 2013, trong quá trình định tội danh và quyết định

hình phạt chủ thể vẫn còn một số tồn tại, thiếu sót trong việc đánh giá chứng cứ, cân

nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, nhân thân của bị cáo.

Do vậy, việc nghiên cứu hoàn thiện tội vi phạm các quy định về quản lý đất

đai, nâng cao chất lượng định tội danh và quyết định hình phạt tội này có ý nghĩa

quan trọng, góp phần bảo đảm pháp chế trong hoạt động xây dựng và áp dụng pháp

luật hình sự, tố tụng hình sự.

3.1.2. Yêu cầu của việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân và của

phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm trong định tội danh và quyết định

hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai

Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa,

xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp

luật; quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật

trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã

60

hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng". Trong đó, quyền con người, quyền

công dân trong lĩnh vực đất đai luôn được Nhà nước ta bảo đảm “Tổ chức, cá nhân

được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Người sử dụng

đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định

của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ” (Điều 54 Hiến pháp). Cụ thể

hơn tại Điều 4, Luật Đất đai 2013 quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà

nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất

cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này”.Có thể thấy, từ khi Hiến pháp

1980 ra đời quyền sở hữu đất đai ở nước ta do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, còn

quyền sử dụng đất đai vừa có ở Nhà nước, vừa có ở trong từng chủ sử dụng cụ thể,

để sử dụng đất đai có hiệu quả Nhà nước phải giao đất, cho thuê, cho phép chuyển

mục đích sử dụng đất... cho các chủ thể trực tiếp sử dụng và phải quy định một hành

lang pháp lý cho phù hợp để vừa đảm bảo lợi ích cho người trực tiếp sử dụng, vừa

đảm bảo lợi ích của Nhà nước.Sự phát triển, bổ sung và đề cao quyền con người,

quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp 2013 đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn

thiện các quy định của BLHS hiện hành, pháp luật đất đai để làm cho các quyền này

của người dân được thực hiện trên thực tế, theo đó, một mặt, BLHS phải xử lý

nghiêm các hành vi xâm hại các quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong

lĩnh vực quản lý đất đai; mặt khác cần nghiên cứu, đề xuất sửa đổi hệ thống hình

phạt theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý

người phạm tội. Trên tinh thần, đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa quyền sở hữu đất

đai và quyền sử dụng đất đai,giữa lợi ích của Nhà nước và lợi ích của người sử dụng

là yêu cầu quan trọng để bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực đất đai.

3.1.3. Yêu cầu của việc tiếp tục cải cách tư pháp

Trong thời gian tới, Nhà nước ta chuẩn bị tổng kết 15 năm thực hiện công

cuộc cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính

trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trong thời gian này mặc dù công

tác tư pháp, cải cách tư pháp đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần phát

triển, bảo vệ đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa,

hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án có nhiều tiến bộ, từng bước hạn chế

được tình trạng oan, sai…, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập

61

quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân

dân, vì nhân dân. Tuy nhiên, hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt nói

chung và tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai nói riêng vẫn còn những tồn

tại, hạn chế nhất định, đã phần nào làm ảnh hưởng tới chất lượng của công cuộc cải

cách tư pháp thời gian qua và trong lộ trình mới. Do vậy, trong thời gian tới việc

“coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu

quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình

phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với

một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng

đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối

đa quá cao trong một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ

kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những

hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã

hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế”. Đồng thời, “xử lý nghiêm khắc hơn

đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những

người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi

dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương

cho người khác”. Đây là những định hướng quan trọng cho việc nghiên cứu, hoàn

thiện các quy định của BLHS trong đó có tội vi phạm các quy định về quản lý đất

đai nhằm thể chế hóa quan điểm mới về chính sách hình sự trên của Đảng và Nhà

nước ta trong thời gian tới.

3.1.4. Yêu cầu của hội nhập quốc tế và phù hợp với các quy định giữa

Luật đất đai với các hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai

Xu thế chủ động hội nhập quốc tế đã trở thành nhu cầu nội tại của Việt Nam.

Trên thực tế, Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực và đã trở

thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế đa phương, trong quan hệ hợp tác song

phương với các quốc gia, Việt Nam đã đàm phán và ký kết nhiều Hiệp định tương

trợ tư pháp về hình sự và hiệp định dẫn độ với các nước trên thế giới.

Cùng với yêu cầu của hội nhập quốc tế đó thì các hoạt động của Nhà nước do

các chủ thể có thẩm quyền tiến hành liên quan đến giao đất, cho thuê, chuyển mục

đích sử dụng đất...để thực hiện các hoạt động đầu tư kinh doanh ngày một gia tăng,

62

phát triển, kéo theo đó là những hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai

cũng tăng lên. BLHS hiện hành chưa phản ánh được một cách đầy đủ, toàn diện

những đặc điểm và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm này trong điều kiện

hội nhập quốc tế, chưa tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thuận lợi cho việc định tội danh và

quyết định hình phạt với tội phạm này. Điều này, đòi hỏi phải tiếp tục sửa đổi, bổ

sung BLHS để nội luật hóa các quy định trong các điều ước quốc tế mà nước ta là

thành viên liên quan đến lĩnh vực đất đai, nhưng phải bảo đảm phù hợp với thể chế,

chính sách của Nhà nước, nhằm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của quốc gia thành

viên,đồng thời, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc chủ động và tăng cường hợp tác

quốc tế trong phòng, chống tội phạm.

3.2. Các giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt đúng

đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật và tăng cường nhận thức đúng lý luận về định tội

danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai

* Hoàn thiện pháp luật về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai

- Thứ nhất: Giữa BLHS năm 2015 với Luật đất đai năm 2013 và các văn bản

hướng dẫn chưa có sự thống nhất trong sử dụng đơn vị đo diện tích đất. Cụ thể:

BLHS năm 2015 sử dụng đơn vị tính là mét vuông (m2); trong khi Luật đất đai và

văn bản hướng dẫn sử dụng đơn vị tính là “hecta”.

- Thứ hai: Luật đất đai năm 2013 và Nghị định 43/2014/NĐ-CP bên cạnh các

hành vi vi phạm như giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất trái pháp luật thì có quy định

hành vi và trường hợp vi phạm trong hoạt động trưng dụng đất: “Vi phạm quy định

về trưng dụng đất bao gồm các hành vi sau: b) Trưng dụng đất không đúng các

trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 72 của Luật Đất đai”.

Trong khi hành vi trưng dựng đất và thu hồi đất có tính chất khá giống nhau,

được quy định song hành trong nhiều Điều luật, có mục đích để thực hiện nhiệm vụ

quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng,

chống thiên tai.

Do vậy, tác giả kiến nghị nhà làm luật cần bổ sung hành vi trưng dụng đất

trái pháp luật vào CTTP tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai, nhằm tránh bỏ

lọt tội phạm và phù hợp với thực tiễn.

63

- Thứ ba, CTTP cơ bản tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai quy định

chung các hành vi giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho

phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định của pháp luật với đối tượng: a) Đất

trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét vuông (m2); đất

rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2)

đến dưới 50.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có

diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2);b) Đất có giá

trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng đến dưới

2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng đến dưới

5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp. Theo tác giả, việc quy định trên

chưa hợp lý, bởi những lý do sau:

+ Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi giao đất, thu hồi, cho thuê,

cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy

định của pháp luật là khác nhau. Trong đó hành vi thu hồi và chuyển mục đích sử

dụng đất có tính chất nguy hiểm hơn vì ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người

bị thu hồi đất và kết cấu, quỹ đất của địa phương.

+ CTTP quy định diện tích đất nêu trên chưa có sự phân biệt đất tại đô thị và

đất tại nông thôn, đất nông nghiệp và đất phi nông nghiệp. Khác với tài sản khác,

giá trị quyền sử dụng đất, tầm quan trọng, sức ảnh hưởng của diện tích đất bị giao,

thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền, chuyển mục đích đến kinh tế, chính trị,

quốc phòng ở các vị trí là khác nhau… phụ thuộc vào tình hình chính trị, kinh tế, xã

hội của địa phương đó.

Trong khi đó, Nghị định 91/2019/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực đất đai, đều có sự phân định loại đất, khu vực nông thôn hay đô thị để xác

định mức xử phạt:

Ví dụ:Điều 9 Nghị định quy định:1. Chuyển đất trồng lúa sang đất trồng cây

lâu năm, đất trồng rừng (trừ trường hợp quy định tại khoản 7 Điều 14 của Nghị

định số 43/2014/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại khoản 11 Điều 2 của Nghị định

số 01/2017/NĐ-CP) thì hình thức và mức xử phạt như sau:

a) Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển

mục đích trái phép dưới 0,5 héc ta;....

64

2. Chuyển đất trồng lúa sang đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối thì hình

thức và mức xử phạt như sau:

a) Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển

mục đích trái phép dưới 0,1 héc ta;...

3. Chuyển đất trồng lúa sang đất phi nông nghiệp tại khu vực nông thôn thì

hình thức và mức xử phạt như sau:

a) Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển

mục đích trái phép dưới 0,01 héc ta;....

4. Chuyển đất trồng lúa sang đất phi nông nghiệp tại khu vực đô thị thì hình

thức và mức xử phạt bằng hai (02) lần mức phạt quy định tại khoản 3 Điều này....”

+ Ngoài ra, Điều luật định lượng đặc điểm của diện tích đất đai khá lớn, dẫn

đến khó xử lý hình sự cán bộ có vi phạm vừa và nhỏ. Quan chức quản lý đất đai là

người hiểu biết, nên họ có thể dễ dàng nắm được và biết cách lách qua điều luật

này.

- Về kỹ thuật lập pháp của Điều 229 như hiện nay có thể dẫn đến lách luật,

bỏ lọt tội phạm. Tác giả đưa ra một ví dụ sau để chứng minh:

Ví dụ: A là chủ tịch UBND xã X có hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn

giao 5000mét vuông (m2) đất rừng đặc dụng và 6000mét vuông (m2) đất nông

nghiệp khác. Tuy nhiên, mặc dù tổng diện tích đất giao trái pháp luật là 10.000 mét

vuông (m2) nhưng xét riêng thì mỗi hành vi giao đất trái pháp luật chưa đủ định

lượng theo điểm a khoản 1 Điều 229 BLHS năm 2015 (Đất trồng lúa có diện tích từ

5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng

phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 50.000

mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ

10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2), dễ làm cho các đối tượng

lách luật để thực hiện hành vi vi phạm.

- Có thể nói trong thực tiễn định tội danh vẫn còn nhầm lẫn trong việc định tội

danh tội “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” với tội “Lợi dụng chức vụ, quyền

hạn trong khi thi hành công vụ”, trong đó có tỉnh Bắc Ninh. Việc phân biệt hai tội

danh này chủ yếu dựa vào yếu tố: khi thực hiện hành vi, chủ thể có vụ lợi hoặc động

cơ cá nhân khác thuộc mặt chủ quan của tội phạm hay không. Trong đó:Động cơ vụ

65

lợi là vì lợi ích vật chất của mình, của đơn vị mình hoặc của một tổ chức mà mình

tham gia... Nói chung, thực tiễn xét xử việc xác định động cơ vụ lợi không khó,

nhưng khó nhất vẫn là việc xác định động cơ cá nhân khác của người phạm tội. Động

cơ cá nhân khác là vì lợi ích phi vật chất của mình, của người khác mà mình quan

tâm như: vì nể nang, vì cảm tình cá nhân, vì danh vọng, địa vị xã hội...

Tuy nhiên, về mặt thực tiễn đa số các vụ án về tội vi phạm các quy định về

quản lý đất đai nói chung và trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đều có mục đích, động cơ

nhất định, trong đó nhiều trường hợp không làm rõ được yếu tố vụ lợi (nhận hối lộ,

chiếm đoạt tài sản...)nên phải xác định là tội vi phạm các quy định về quản lý đất

đai. Do vậy, để việc định tội danh được thuận lợi, phù hợp với quy định của pháp

luật, tác giả kiến nghị nhà làm luật cần có văn bản hướng dẫn: Trường hợp lợi dụng

hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển

quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định của pháp luật

mà không có yếu tố vụ lợi, động cơ cá nhân (bao gồm cả trường hợp không chứng

minh được yếu tố này) hoặc mặc dù có yếu tố vụ lợi như sau khi nhận số tiền từ

việc giao, cho thuê, cho phép chuyển nhượng và thu hồi đã sử dụng vào mục đích

chung của địa phương, làm lợi cho địa phương…thì cần xác định là tội vi phạm các

quy định về quản lý đất đai, ngược lại nếu vi vụ lợi, động cơ cá nhân (tư lợi) như:

chiếm đoạt làm của riêng, nhận hối lộ để làm trái...thì cần xác định là nhóm tội

phạm về chức vụ, trong đó có tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành

công vụ.

* Từ những phân tích nêu trên, tác giả kiến nghị: Nhà làm luật cần có những

sửa đổi, bổ sung Điều 229 theo hướng sau:

- Thống nhất đơn vị tính diện tích đất là mét vuông (m2) trong luật đất đai và

BLHS năm 2015.

- Bổ sung hành vi “Trưng dụng đất trái quy định của pháp luật” vào CTTP

tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai.

- Bổ sung vào khoản 1 Điều 229: Có hành vi giao đất, thu hồi đất…trái quy

định của pháp luật mà tổng diện tích đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản

xuất hoặc các loại đất nông nghiệp khác, đất phi nông nghiệp tương đương với diện

tích đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất quy định tại điểm a khoản này.

66

Bổ sung vào khoản 2 Điều 229: Có hành vi giao đất, thu hồi đất…trái quy định

của pháp luật mà tổng diện tích đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất hoặc

các loại đất nông nghiệp khác, đất phi nông nghiệp tương đương với diện tích đất rừng

đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất quy định tại điểm …khoản này.

Bổ sung vào khoản 3 Điều 229: Có hành vi giao đất, thu hồi đất…trái quy định

của pháp luật mà tổng diện tích đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất hoặc

các loại đất nông nghiệp khác, đất phi nông nghiệp tương đương với diện tích đất rừng

đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất quy định tại điểm a khoản này.

- Phân hóa TNHS và định lượng đất đai và giá trị quyền sử dụng đất theo khu

vực nông thôn, đô thị và theo loại đất sẽ chuyển đổi (trường hợp chuyển đổi mục

đích sử dụng đất).

- BLHS năm 2015 đã cụ thể hóa các tình tiết có tính định tính “gây hậu quả

nghiêm trọng”, “Gây hậu quả rất nghiêm trọng” “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm

trọng” thành các tình tiết định lượng cụ thể. Tuy nhiên, theo tác giả việc cụ thể hóa

tình tiết này chưa phản ánh hết được các hậu quả mà hành vi giao đất, thu hồi, cho

thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái

quy định của pháp luật gây ra như: thay đổi kết cấu, quy hoạch, kế hoạch sử dụng

đất ảnh hướng đến các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo

vệ môi trường và thích ứng biến đổi khí hậu trên cơ sở tiềm năng đất đai và nhu cầu

sử dụng đất của các ngành, lĩnh vực đối với từng vùng kinh tế - xã hội và đơn vị

hành chính trong một khoảng thời gian xác định, hoặc người được nhận chuyển

nhượng, được chuyển mục đích quyền sử dụng đất, được giao đất có hành vi hủy

hoại đất (làm biến dạng địa hình hoặc làm suy giảm chất lượng đất, gây ô nhiễm),

gây cản trở hoặc thiệt hại cho việc sử dụng đất của người khác...Do vậy, tác giả kiến

nghị nhà làm luật trong thời gian tới cần tiếp tục cụ thể hóa, quy định một số hậu

quả khác liên quan đến hành vi trái pháp luật quy định tại Điều 229 BLHS.

* Tăng cường nhận thức đúng về lý luận định tội danh và quyết định hình

phạt tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai.

Định tội danh là quá trình nhận thức lý luận có tính logic, trên cơ sở pháp

luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và chứng cứ, các tài liệu thu thập

được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu

67

hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của CTTP

tương ứng do luật hình sự quy định nhằm đạt được sự thật khách quan. Do vậy, việc

tăng cường nhận thức đúng về lý luận định tội danh và quyết định hình phạt có ý

nghĩa vô cùng quan trọng. Để công tác này có hiệu quả trong thực tế cần thực hiện

tổng hợp nhiều biện pháp quan trọng như hoàn thiện các quy định của pháp luật

thực định, lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt và tăng cường năng lực,

phẩm chất chính trị, đạo đức và trình độ chuyên môn của những người làm công tác

định tội danh và quyết định hình phạt.

3.2.2. Tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật về

tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai

Lãnh đạo Cơ quan tố tụng tỉnh Bắc Ninh cần quán triệt, tổ chức thực hiện

nghiêm túc, hiệu quả BLHS, BLTTHS năm 2015 và văn bản hướng dẫn nói chung

và liên quan đến lĩnh vực đất đai nói riêng; khắc phục ngay những tồn tại, hạn chế

trong việc áp dụng pháp luật ở địa phương liên quan đến áp dụng pháp luật hình sự

đối với các tội danh liên quan đến quản lý đất đai.

- Cần có hướng dẫn cụ thể đối với dấu hiệu:

+ “Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm”, để làm cơ sở truy

cứu TNHS đối với trường hợp đã có tình tiết này, nay lại tái phạm. Theo tác giả quy

định này hiện nay có điểm không hợp lý, có thể tạo ra sự không công bằng trong xử

lý TNHS:

Cụ thể: Đối với hành vi phạm quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển

mục đích sử dụng đất thuộc trường hợp:Giao đất, giao lại đất, cho thuê đất không

đúng vị trí và diện tích đất trên thực địa có tính nguy hiểm cho xã hội ít hơn, thông

thường bị xử lý kỷ luật nhẹ hơn (theo Nghị định 181/NĐ-CP hướng dẫn luật đất đai

trước đây thì: nếu cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách chức, tái phạm do cố ý thì bị cách

chức hoặc buộc thôi việc) so với hành vi giao đất, giao lại đất, cho thuê đất, cho

phép chuyển mục đích sử dụng đất không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng,

không phù hợp với quy hoạch sử dụng đất chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết

hoặc quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã

được xét duyệt (theo Nghị định 181/NĐ-CP hướng dẫn luật đất đai trước đây thì do

cố ý thì bị cách chức; tái phạm do cố ý thì bị buộc thôi việc) hoặc hành vi vi phạm

68

quy định về thu hồi đất như không thông báo trước cho người có đất bị thu hồi theo

quy định tại Điều 39 của Luật Đất đai (theo Nghị định 181 thì cố ý thì bị hạ bậc

lương; tái phạm do cố ý thì bị hạ ngạch) trong khi đó, hành vi thu hồi đất không

đúng thẩm quyền; không đúng đối tượng; không đúng với quy hoạch sử dụng đất

chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết đã được xét duyệt (Nghị định 181/NĐ-CP thì

nếu cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách chức; tái phạm do cố ý thì bị buộc thôi việc).

Tuy nhiên, với cách quy định của CTTP tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai

thì không phân hóa được những trường hợp vi phạm chỉ bị xử lý hạ ngạnh với

trường hợp cách chức, buộc thôi việc…), không tạo ra sự công bằng trong việc cá

thể hóa TNHS trong thực tiễn.

Tác giả kiến nghị: cần quy định theo hướng: phân biệt cụ thể trường hợp bị

xử lý kỷ luật theo mức nào thì tái phạm mới bị truy cứu TNHS. Hướng dẫn cụ thể

về dấu hiệu này, để tạo điều kiện thuận lợi đối với các cơ quan tố tụng trong việc

phân tích, đánh giá và kết tội đối với người có hành vi phạm tội.

+ Thực tiễn cho thấy đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai

được thực hiện dưới hình thức đồng phạm, trong đó vai trò người thực hành do

người có chức vụ, quyền hạn thực hiện, nhưng việc truy cứu TNHS là do đặc điểm

về nhân thân của người đó là “đã bị xử lý kỷ luật” trước đó mà không phải là do

diện tích hoặc giá trị đất đai. Vậy người đồng phạm như người giúp sức có bị truy

cứu TNHS về tội này hay không? có được giảm nhẹ TNHS nếu truy cứu hay không.

Theo tác giả cần có văn bản hướng dẫn cụ thể, vì đây là tội danh thường được thực

hiện dưới hình thức đồng phạm, trong đó có những vụ án có số lượng đồng phạm

rất lớn (VD: 29 đồng phạm trong vụ án vi phạm về quản lý đất đại xảy ra tại huyện

Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh mà tác giả phân tích tại Chương 2).

Ví dụ: A là Chủ tịch UBND huyện X đã lợi dụng chức vụ quyền hạn được

giao để thực hiện việc giao đất trái pháp luật đất rừng đặc dụng 1000 m2 cho doanh

nghiệp Y, trong đó ông B là Chánh văn phòng huyện X là người biết được hành vi

trái này nhưng không có ý kiến, đã trực tiếp soạn thảo quyết định giao đất trình Chủ

tịch huyện ký ban hành. Trước đó, Chủ tịch UBND huyện X đã từng bị xử lý kỷ

luật về hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai với hình thức giáng chức

(sau đó được khôi phục lại) nhưng chưa hết thời hạn bị coi là chưa bị xử lý kỷ luật.

69

Chiếu theo quy định tại Điều 229 BLHS năm 2015 thì ông A sẽ bị truy cứu TNHS

về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai, nhưng ông B có xử lý TNHS với vai

trò đồng phạm hay không? Do vậy, cũng cần có hướng dẫn kịp thời.

- Cần có hướng dẫn dấu hiệu định khung hình phạt “Gây ảnh hưởng xấu đến an

ninh, trật tự, an toàn xã hội”. Đây là dấu hiệu được quy định mới trong BLHS năm 2015,

tuy nhiên hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể để áp dụng trong thực tiễn, có thể dẫn đến

cách hiểu và vận dụng khác nhau. Do vậy, trong thời gian tới nhà làm luật cần có hướng

dẫn kịp thời để áp dụng trong định tội danh và quyết định hình phạt.

- Điều 229 quy định diện tích đất và giá trị quyền sử dụng đất bị thiệt hại đối

với từng loại đất như đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới

30.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện

tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 50.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp

khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000

mét vuông (m2) hoặc đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ

500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ

1.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông

nghiệp...nhưng hiện không có văn bản hướng dẫn quy đổi trường hợp đối tượng là

các loại đất khác nhau về nhóm: như đất trồng lúa với đất phi nông nghiệp, đất

trồng lúa với đất rừng đặc dùng, phòng hộ, sản xuất hoặc khi chủ thể thực hiện

nhiều dạng hành vi khác nhau (giao đất, thu hồi đất...cùng thời điểm hoặc liên tiếp

nhau) được xác định như thế nào.

Ví dụ: A giao đất trái pháp luật 4.000 mét vuông (m2) đất trồng lúa và 5.000

mét vuông (m2) đất rừng đặc dụng. Trường hợp này xác định như thế nào? có quy

đổi được 5.000 mét vuông (m2) giữa đất rừng đặc dụng tương ứng với bao nhiêu

mét vuông (m2)đất trồng lúa hay không? thiệt hại nếu theo quy định hiện hành thì

không thể xử lý TNHS của A.

Ví dụ 2: A giao đất 1.000 mét vuông (m2), thu hồi 1.000 mét vuông (m2),

cho thuê 1.000 mét vuông (m2) và cho phép chuyển mục đích sử dụng đất 2.000

mét vuông (m2), đều là đất trồng lúa. Trường hợp này có cộng tổng diện tích của

các lần giao, thu hồi, cho thuê và cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để xác

định vi phạm của A hay không?

70

Theo tác giả, đổi với 02 vấn đề trên cần có hướng dẫn cụ thể để tránh bỏ lọt

tội phạm trong thực tiễn định tội danh đối với tội này.

- Ngoài ra, theo tác giả cũng cần hướng dẫn khi nào thì cần định giá giá trị

quyền sử dụng đấtquy thành tiền, để định tội danh. Ví dụ: A cho phép chuyển mục

đích sử dụng đất 50.000 mét vuông (m2) đất phi nông nghiệp trái pháp luật. Trường

hợp này có cần định gía giá trị quyền sử dụng đất thành tiền hay không? Nếu định

giá trên 1.000.000.000 đồng thì A có bị áp dụng hai tình tiết a, b khoản 1 Điều 229

không?...cần phải có hướng dẫn cụ thể để áp dụng.

- Đối với những vấn đề vướng mắc trong thực tiễn xét xử nhưng chưa thể

ban hành ngay được Nghị quyết hướng dẫn, thì cơ quan có thẩm quyền tỉnh Bắc

Ninh cần đề nghị Hội đồng Thẩm phán tổng hợp và ban hành các Tập giải đáp

vướng mắc nghiệp vụ để các Tòa án tham khảo, để kịp thời tháo gỡ nhiều vướng

mắc về áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết các loại vụ án.

- Tòa án nhân dân tối cao cần xem xét, lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ,

mang tính chuẩn mực trong áp dụng pháp luật để giải quyết các tình huống thực tế

phức tạp, hiện còn có những vướng mắc hoặc cách hiểu khác nhau để đề xuất phát

triển làm án lệ, đặc biệt là đối với những vụ án có sự nhầm lẫn giữa tội vi phạm các

quy định về quản lý đất đai với nhóm tội chức vụ như tội lợi dụng chức vụ, quyền

hạn trong khi thi hành công vụ, tội lạm quyền trong thi hành công vụ... Trên cơ sở

đề xuất của các Tòa án, Tòa án nhân dân tối cao tổ chức các Hội nghị tham vấn ý

kiến của Hội đồng tư vấn án lệ với sự tham gia của đại diện các cơ quan có liên

quan và các nhà khoa học có nhiều kinh nghiệm thực tiễn cũng như uy tín nghề

nghiệp để Hội đồng Thẩm phán có thêm cơ sở xem xét, phát triển thành án lệ.

3.2.3. Tăng cường tổng kết thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt

đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai

- Thựchiện nghiêm túc Nghị quyết số 96/2019/QH14 ngày 27 tháng 11 năm

2019 của Quốc hội về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công

tác của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Ninh cần tăng

cường tổn kết thực tiễn và thực hiện một số nhiệm vụ sau:

+ VKSND tỉnh Bắc Ninh cần tăng cường chỉ đạo Viện kiểm sát nhân dân

địa phương trong tỉnh tăng cường năng lực thực hành quyền công tố và kiểm sát

71

việc tuân theo pháp luật trong giải quyết các vụ án hình sự trong lĩnh vực đất đai và

vụ án về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai nói riêng.

+ Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Bắc Ninh cần áp dụng đồng bộ các giải pháp

để thực hiện tốt hơn công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, trong đó có vi phạm, tội phạm liên quan

đến tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai. Bảo đảm 100% trường hợp thụ lý,

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được kiểm sát. Kiểm sát

100% số vụ án hình sự ngay từ khi khởi tố. Kiểm sát chặt chẽ các hoạt động điều

tra, kịp thời đề ra yêu cầu điều tra để giải quyết vụ án khẩn trương, đúng pháp luật.

Không để xảy ra trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội.

+ Ngành Tòa án cần tăng cường công tác tổng kết thực tiễn xét xử, giải

quyết các loại vụ án, phát triển án lệ và bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật.

Triển khai hiệu quả việc công khai bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án trên

Cổng thông tin điện tử, Đề án Tòa án điện tử từ năm 2020. [35].

Đối với Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Ninh cần có giải pháp nâng cao chất

lượng xét xử các loại án. Tỷ lệ giải quyết án hình sự đạt trên 88% trong đó có án liên

quan đến lĩnh vực đất đai; Tăng cường công tác kiểm tra, giám đốc xét xử. Hạn chế đến

mức thấp nhất tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan.

- Thường xuyên tổ chức các phiên họp rút kinh nghiệm giữa các cơ quan tố

tụng tỉnh Bắc Ninh đối với những vụ án vi phạm các quy định về quản lý đất đai phức

tạp, được dư luận quan tâm nhưng có vướng mắc trong việc định tội danh và quyết định

hình phạt để rút ra những kinh nghiệm, bài học đối với những vụ án liên quan khác.

3.2.4. Tăng cường, năng lực xét xử các vụ án hình sự của Thẩm phán, Hội

thẩm

- Thực hiện đúng nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm

xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, đảm bảo các tiêu chí đặt ra đối với phiên

tòa theo tinh thần cải cách tư pháp. Theo đó, phiên tòa phải đảm bảo các yêu cầu

sau: Hội đồng xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; thực hiện tốt nguyên tắc

tranh tụng; tôn trọng quyền con người; Hội đồng xét xử phải thực hiện hết thẩm

quyền của mình theo quy định của pháp luật.

72

- Công tác xét xử các vụ án hình sự nói chung và vụ án vi phạm các quy định

về quản lý đất đai nói riêngphải đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Việc tranh tụng tại phiên tòa tiếp tục được chú trọng theo hướng thực chất, hiệu

quả; tăng cường công tác phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng được thực

hiện đúng theo các quy định của pháp luật tố tụng.

- Việc tổ chức thi tuyển tuyển chọn Thẩm phán sơ cấp, nâng ngạch Thẩm

phán trung cấp được thực hiện nghiêm túc, công khai, đúng quy định của pháp luật,

mở rộng nguồn, nhằm lựa chọn những người có trình độ, năng lực tốt nhất để bổ

nhiệm, từ đó tạo động lực và mở ra phong trào thi đua học tập, trau dồi kiến thức

chuyên môn nghiệp vụ trong đội ngũ cán bộ, công chức.

- Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ và

nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ, công chức Tòa án các cấp cần thực hiện

nghiêm túc Quy chế đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức, người lao động trong

Tòa án nhân dân do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành, tăng cường ứng

dụng hệ thống truyền hình trực tuyến phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đã

giúp cho đông đảo cán bộ, Thẩm phán Tòa án các cấp được tham gia quá trình đào

tạo. Cùng với việc tổ chức các lớp đào tạo bồi dưỡng định kỳ, lãnh đạo Tòa án cần

khuyến khích cán bộ, công chức trong toàn hệ thống tự học tập, trau dồi để nâng

cao trình độ chuyên môn, đặc biệt là việc tự học thông qua hoạt động rút kinh

nghiệm công tác xét xử, tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm để giúp các Thẩm phán

nâng cao tinh thần trách nhiệm trong quá trình chuẩn bị xét xử, cũng như khi tổ

chức phiên tòa; thông qua hoạt động rút kinh nghiệm sau phiên tòa, Thẩm phán và

những người tham gia sẽ được học hỏi để nâng cao về kỹ năng xử lý các tình huống

và điều hành phiên tòa, cũng như trình độ nhận thức và áp dụng pháp luật.

Cùng với việc chú trọng đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, công

tác giáo dục chính trị tư tưởng và rèn luyện phẩm chất chính trị cho đội ngũ cán bộ,

công chức Tòa án các cấp cũng cần được quan tâm hơn nữa. Tòa án nhân dân tối

cao đã xác định một trong những giải pháp để nâng cao chất lượng công tác xét xử

là phải nâng cao bản lĩnh, đạo đức nghề nghiệp cho các Thẩm phán, theo đó mỗi

Thẩm phán phải thấm nhuần lời dạy của Bác: “phụng công, thủ pháp, chí công, vô

tư”, phải thực sự là những người luôn công minh, chính trực, đặt lợi ích của nhân

73

dân, của nhà nước lên trên hết, tuyệt đối tuân thủ những quy định của hiến pháp và

pháp luật, với tinh thần thượng tôn pháp luật, khách quan, không thiên vị, tư lợi cá

nhân.

Tòa án nhân dân tỉnh cần chủ động xây dựng kế hoạch và tổ chức các lớp

bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho Thẩm phán, công chức và Hội

thẩm Tòa án nhân dân thuộc quyền quản lý, cũng như cử cán bộ, công chức tham

gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, quản lý nhà nước tại địa phương.

3.2.5. Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật

- Nângcao nhận thức, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối

sống cho cán bộ, đảng viên, trong đó chú trọng nội dung xây dựng Đảng về đạo

đức, truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc; kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa đào

tạo với rèn luyện trong thực tiễn và đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện nghiêm túc chế độ học tập, bồi dưỡng lý luận

chính trị và cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, nhất là cán bộ trẻ được đào tạo ở

nước ngoài.

- Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ. Tập

trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, triển khai đồng bộ; thường xuyên hướng dẫn,

kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện; ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả những tiêu cực,

tham nhũng trong công tác cán bộ. Chú trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp

có phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới, nâng cao chất

lượng công tác tham mưu, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về công

tác tổ chức, cán bộ, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của cách

mạng công nghiệp 4.0. Đồng bộ hóa đội ngũ cán bộ đủ bản lĩnh, nhân cách và năng

lực tương ứng. Chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và trên hết, đòi hỏi

phải có sự tâm huyết và tinh thần trách nhiệm cao.

- Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả chủ trương công khai bản án, quyết

định có hiệu lực của Tòa án trên Cổng thông tin điện tử theo Chỉ thị của Chánh án

Tòa án nhân dân tối cao. Đây là bước đột phá trong hoạt động chỉ đạo điều hành

của lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao nhằm nâng cao năng lực, trách nhiệm của các

Thẩm phán, tăng tính thống nhất trong việc áp dụng pháp luật cũng như tạo điều

kiện để nhân dân tham gia giám sát hoạt động xét xử của Tòa án. Trên cơ sở theo

74

dõi, tổng hợp các ý kiến bình luận, các Tòa án kịp thời rút kinh nghiệm đối với các

Thẩm phán có các bản án còn có những hạn chế để lưu ý khắc phục, nhằm nâng cao

chất lượng bản án.

3.2.6. Các giải pháp khác

*Giải pháp về tổ chức, cán bộ

- Tăng cường kỷ cương, kỷ luật công vụ, đề cao trách nhiệm người đứng

đầu; thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công

chức, viên chức; tăng cường giáo dục chính trị, đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm

công vụ. Sắp xếp bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; thực hiện tốt chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Rà soát đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là

cán bộ có chức danh tư pháp; trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt Đề án vị trí

việc làm. Trên cơ sở Nghị quyết của Đảng và của Quốc hội, nghiên cứu xây dựng

cơ chế phân bổ biên chế cho các cơ quan tư pháp bảo đảm đáp ứng yêu cầu nhiệm

vụ được giao. Thường xuyên thanh tra, kiểm tra việc thực thi nhiệm vụ của đội ngũ

cán bộ, công chức, viên chức, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, thanh tra viên,

kiểm toán viên; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh người có hành vi phạm

pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp.

- Tiếp tục cải cách, hiện đại hóa nền tư pháp. Chính phủ có lộ trình, kế

hoạch bố trí kinh phí để bảo đảm điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất, trang thiết bị,

phương tiện làm việc cho Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành

án. Tập trung triển khai hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, thông suốt trong

hoạt động của các cơ quan tư pháp. Nâng cấp trang thiết bị cho hoạt động điều tra,

khám nghiệm hiện trường, giám định tư pháp, nhất là các thiết bị ghi âm, ghi hình

có âm thanh phục vụ công tác điều tra theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình

sự. Bố trí đủ kinh phí đầu tư trụ sở các cơ quan tư pháp, cơ sở giam giữ phạm nhân

đã xuống cấp nghiêm trọng hoặc quá tải bảo đảm cho các cơ quan tư pháp thực hiện

tốt nhiệm vụ được giao; tạo điều kiện để Tòa án nhân dân tối cao triển khai Đề án

Tòa án điện tử từ năm 2020.

- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và các phương pháp hiện đại;

chủ động chọn lọc, xử lý thông tin, bảo đảm nguồn thông tin chính thống, thông tin

có định hướng.

75

- Tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương, chế độ

bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công; đến năm 2020, tiền lương của công chức

được cải cách cơ bản, bảo đảm được cuộc sống của công chức và gia đình ở mức

trung bình khá trong xã hội. Sửa đổi, bổ sung các quy định về chế độ phụ cấp ngoài

lương theo ngạch, bậc, theo cấp bậc chuyên môn, nghiệp vụ và điều kiện làm việc

khó khăn, nguy hiểm, độc hại.

+ Thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại và nâng cao chất lượng

đội ngũ công chức, bảo đảm đến năm 2021 giảm được 10% so với biên chế giao

năm 2015. Hoàn thiện tiêu chí để xác định biên chế công chức, số lượng người làm

việc trong đơn vị sự nghiệp công lập, cơ cấu công chức của các bộ, ngành, địa

phương, gắn với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi, tính chất công việc, tiêu

chuẩn chức danh công chức và trên cơ sở xác định vị trí việc làm một cách khoa

học, sát thực tế.

* Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát

với Cơ quan thanh tra.

Có thể nói với đặc thù và chức năng, nhiệm vụ của mình, rất nhiều vụ án liên

quan đến quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng và địa bản cả nước nói

riêng được phát hiện qua công tác thanh tra, đặc biệt là thanh tra chuyên ngành

trong lĩnh vực đất đai, kết quả đã phát hiện nhiều tồn tại, sai phạm trong quản lý, sử

dụng đất đai ở hầu hết các đối tượng được thanh tra, kiểm tra. Do vậy, đối với tội vi

phạm các quy định về quản lý đất đai việc tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa

Cơ quan điêu tra, Viện kiểm sát với Cơ quan thanh tra có ý nghĩa vô cùng quan

trọng.

+ Cơ quan thanh tra, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát căn cứ vào chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng ngành, theo quy định của pháp luật có trách

nhiệm thường xuyên quan hệ, phối hợp để trao đổi, cung cấp cho nhau thông tin về

tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm đã được phát hiện thông qua hoạt động thanh

tra, điều tra và kiểm sát điều tra; kịp thời trao đổi thông tin, kết quả giải quyết tố

giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan thanh tra về những vụ việc,

những lĩnh vực trọng điểm mà Cơ quan thanh tra, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát

cùng quan tâm. Đối với những vụ việc Cơ quan thanh tra đã tiến hành thanh tra

76

nhưng không kiến nghị khởi tố, nếu có căn cứ cho thấy cần phải tiếp tục xác minh

làm rõ, thì Cơ quan thanh tra có công văn đề nghị Cơ quan điều tra phối hợp để xác

minh làm rõ thêm.

+ Quan hệ phối hợp trong việc xử lý các vụ việc có dấu hiệu tội phạm do Cơ

quan thanh tra kiến nghị khởi tố: Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra, nếu

Cơ quan thanh tra nhận được tố giác, tin báo về tội phạm hoặc phát hiện vụ việc có

dấu hiệu tội phạm với đầy đủ tài liệu, chứng cứ, thì Cơ quan thanh tra chuyển ngay

tố giác, tin báo về tội phạm hoặc tài liệu, chứng cứ và hồ sơ vụ việc đó kèm theo

kiến nghị khởi tố cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền theo quy định tại Điều 26 Bộ

luật Tố tụng hình sự.

+ Trong trường hợp vụ việc có dấu hiệu tội phạm được phát hiện và kết luận

sau khi kết thúc cuộc thanh tra, thì trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày ký

kết luận thanh tra, Cơ quan thanh tra ra quyết định chuyển hồ sơ vụ việc đó và văn

bản kiến nghị khởi tố đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền để xem xét khởi tố vụ án

hình sự, đồng thời thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp biết theo

quy định tại điểm o khoản 1 Điều 48 và điểm n khoản 1 Điều 55 Luật Thanh tra

năm 2010.

- Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, rà soát và xử lý nghiêm các hành vi

vi phạm về đất đai theo quy định của BLHS năm 2015.Cơ quan điều tra, Viện kiểm

sát cần tích cực phối hợp, nắm thông tin với Cơ quan trong quản lý đất đai như Sở

Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường, các sở, ngành liên quan

rà soát, kiểm tra, đánh giá lại tình hình quản lý, sử dụng quỹ đất nông nghiệp vào mục

đích công ích, kịp thời phát hiện, xử lý những trường hợp cho thuê cho mượn trái

phép, sử dụng không đúng mục đích, không đúng đối tượng, không lập hồ sơ cho

thuê đất công ích hoặc hồ sơ không đầy đủ, rõ ràng, không thực hiện đăng ký đất đai

theo quy định.

Tiểu kết Chương 3

Thông qua Chương 3 của luận văn tác giả đã phân tích một số yêu cầu của

việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với vi phạm các quy định về quản lý

đất đai như yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa, yêu cầu của việc bảo vệ quyền

con người, quyền công dân và của phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm,

77

yêu cầu của hội nhập quốc tế và phù hợp với các quy định giữa Luật đất đai với các

hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai, yêu cầu của việc tiếp tục cải cách

tư pháp. Trên cơ sở đó tác giả luận văn đã đưa ra một số giải pháp bảo đảm định tội

danh và quyết định hình phạt đúng đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất

đai tại tỉnh Bắc Ninh như giải pháp hoàn thiện pháp luật và tăng cường nhận thức

đúng lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy

định về quản lý đất đai, giải pháp tăng cường khả năng, năng lực xét xử hình sự của

Thẩm phán, Hội thẩm cũng như công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật

và tăng cường tổng kết thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi

phạm các quy định về quản lý đất đai và một số giải pháp khác để nâng cao hiệu

quả của hoạt động này trong thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.

78

KẾT LUẬN

Thông qua 03 Chương của luận văn tác giả đã phân tích làm sáng tỏ một số

vấn đề chung về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trong pháp luật hình sự

Việt Nam, mà trọng tâm là BLHS năm 2015 như: khái niệm, dấu hiệu pháp lý phân

biệt với một số tội dễ gây nhầm lẫn trong BLHS năm 2015, lịch sử lập pháp của

Nhà nước ta về tội danh này từ sau năm 1945 đến khi BLHS năm 2015 có hiệu lực

pháp luật.

Phân tích, đánh giá một số vấn đề lý luận về định tội danh và quyết định hình

phạt cũng như kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của những

tồn tại, hạn chế trong quá trình định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm

các quy định về quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

Đưa ra một số yêu cầu và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm các quy định về quản lý

đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

Kết quả nghiên cứu của luận văn phần nào đã đạt được yêu cầu, mục đích

nghiên cứu của luận văn. Tuy nhiên, đề tài được nghiên cứu trong bối cảnh BLHS

năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 với nhiều quy định mới, trong đó có

những bổ sung quan trọng đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai, trong

khi văn bản hướng dẫn BLHS năm 2015 chưa được ban hành kịp thời để hướng

dẫn, làm tiền đề áp dụng trong thực tiễn, trong khi đó, kiến thức và kinh nghiệm của

tác giả luận văn còn hạn chế, do vậy luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, hạn

chế. Do vậy, tác giả luận văn mong được sự đóng góp của quý thầy cô, đồng nghiệp

và những người quan tâm đến đề tài, để luận văn được hoàn thiện hơn, là cơ sở lý

luận khoa học cho hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm các

quy định về quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng và trong phạm vi cả

nước nói chung./.

79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW về một số nhiệm vụ trọng

tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, ban hành ngày 02/01/2002, Hà Nội.

2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW về chiến lược xây dựng và

hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm

2020, ban hành ngày 24/5/2005, Hà Nội.

3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW về chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020, ban hành ngày 02/6/2005, Hà Nội.

4. Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng (chủ biên), Bình luận khoa học BLHS

năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb. Thế giới, Hà Nội.

5. Phạm Văn Beo (2010) Luật hình sự Việt Nam - Quyển 2 (Phần các tội

phạm), Nxb. Chính trị quốc gia, Cần Thơ.

6. Nguyễn Mai Bộ (2006),Pháp luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự quản

lý kinh tế”, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

7. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tư pháp, Bộ Công an,

VKSNDTC, TANDTC (2007), Thông tư liên tịch số 19 ngày 08/3/2007 hướng dẫn

áp dụng một số điều của Bộ luật hình sự về các tội phạm tronglĩnh vực quản lý

rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản, Hà Nội.

8. Bộ Tư pháp (1976), Thông tư số 03/BTP/TT, Hà Nội.

9. Lê Cảm (2004), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb.Công an nhân dân,

Hà Nội.

10. Lê Cảm (Chủ biên) (2007), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các

tội phạm), Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.

11. Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản (2004), Định tội danh: Lý luận, hướng dẫn

mẫu và 350 bài tập thực hành, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

12. Nguyễn Ngọc Chí (2008), Hoàn thiện các tội xâm phạm trật tự quản lý

kinh tế trước yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí khoa học (Chuyên san kinh tế -

luật), Hà Nội.

13. Chính phủ (2019), Nghị định số 9/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019, Nghị

định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, Hà Nội.

14. Chính phủ (2014), Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014, Quy

định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, Hà Nội.

15. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004, Quy

định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, Hà Nội.

16. Chính phủ (1971), Nghị quyết số 125-CP ngày 28/06/1971 về tăng cường

công tác quản lý ruộng đất, Hà Nội.

17. Chủ tịch nước (1945), Sắc lệnh số 47-SL ngày 10/10/1945,Hà Nội.

18. Chủ tịch nước (1945), Sắc lệnh số 07/SL ngày 05/9/1945, Hà Nội

19. Chủ tịch nước (1946), Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/02/1946 về trừng trị tội

phá hoại công sản, Hà Nội.

20. Chủ tịch nước (1946), Sắc lệnh số 223/SL ngày 17/11/1946, quy định

truy tố các tội hối lộ, biển thủ công quỹ, Hà Nội.

21. Chủ tịch nước (1956), Sắc lệnh số 267/SL ngày 15/6/1956, trừng trị

những âm mưu, hành động phá hoại hoặc làm thiệt hại đến tài sản Nhà nước, của

hợp tác xã và củanhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch xây

dựng kinh tế và văn hóa, Hà Nội.

22. Nguyễn Chí Công (2016), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm

trật tự quản lí kinh tế, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

23. Nguyễn Ngọc Điệp (2017), Bình luận khoa học Phần các tội phạm BLHS

năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb. Thế giới, Hà Nội

24. Lương Duy Hinh (2013), Các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng

đất đai trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn

thành phố Hà Nội), Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

25. PGS. TS. Trần Văn Luyện (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự

năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), phần các tội phạm, Nxb. Công an nhân dân,

Hà Nội.

26. Dương Tuyết Miên (2005), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb.

Lao động – Xã hội, Hà Nội.

27. Nguyễn Văn Nam (2008), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm

trật tự quản lý kinh tế trong luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Viện

Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.

28. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

29. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

30. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

31. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

32. Quốc hội (2013), Luật Đất đai, Hà Nội.

33. Quốc hội (2012), Luật xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.

34. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, Công chức, Hà Nội.

35. Quốc hội (2019), Nghị quyết số 96/2019/QH14 ngày 27 tháng 11 năm

2019 về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, Hà Nội.

36. Ths. Đinh Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các

tội phạm, tập VI – Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, Nxb. Thành phố Hồ

Chí Minh.

37. Trường Đại học luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,

tập II. Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

38. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình luậthình sự Việt Nam

(tập 2), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội

39. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình luật hình sự Việt Nam,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

40. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình luật hình sự Việt Nam

(tập II), Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội.

41. Tòa án nhân dân tối cao (2017),1 Báo cáo số 38/BC-TA ngày 10/10/2017,

Hà Nội.

42. Tòa án nhân dân huyện tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 122/2015/HSST ngày

30/9/2015, Bắc Ninh.

43. Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, Bản án số

110/2016/HSST ngày 17/9/2016, Bắc Ninh.

44. Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 99/2017/HSST ngày

22/11/2017, Bắc Ninh.

45. Tòa án nhân dân tỉnh B, Bản án số 34/2019/HSPT ngày 14/05/2019, Bắc

Ninh.

46. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình Lý luận chung về định tội danh,

Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội.

47. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1970), Pháp lệnh số 149-LCT ngày

21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm tài sản Xã hội chủnghĩa, Hà Nội.

48. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1972), Pháp lệnh số số 147- LCT ngày

06/9/1972 về việc bảo vệ rừng, Hà Nội.

PHỤ LỤC

Bảng 2.1. Thống kê tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai so với nhóm

tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đã được TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đưa ra

xét xử sơ thẩm giai đoạn 2015 – 2019

Tỷ lệ % (2)/ (1) Năm Tổng số vụ án và bị cáo phạm tôi vi phạm các quy định về quản lý đất đai (2) Tổng số vụ án và bị cáo thuộc nhóm tội xâm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (1)

Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo

58 60 57 63 65 303 66 75 68 78 79 366 02 01 01 01 01 06 04 03 14 03 03 27 3,4% 1,6% 1,75% 1,5% 1,53% 1,98% 6,06% 4% 20,5 3,84 3,79 7,37% 2015 2016 2017 2018 2019 Tổng

(Nguồn: Báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019)

Bảng 2.2. Thống kê tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai so với nhóm

tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đã được TAND tỉnh Bắc Ninh đưa ra xét xử

phúc thẩm giai đoạn 2015 – 2019

Tỷ lệ % (2)/ (1) Tổng số vụ án và bị cáo phạm tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai (2) Năm Tổng số vụ án và bị cáo thuộc nhóm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (1)

Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo

15 24 01 03 6,6% 12,5% 2015

21 31 00 00 00 00 2016

23 32 01 07 4,3% 21,8% 2017

17 25 01 01 5,8% 4% 2018

14 21 01 03 7,1% 14% 2019

90 133 04 14 4,4% 10,5% Tổng

(Nguồn: Báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019)

Bảng 2.3.Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử theo CTTP cơ bản tội vi phạm

các quy định về quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019

Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai (1) Đinh tội danh theo CTTP cơ bản (khoản 1) của Điều 174 BLHS năm 1999 hoặc 229 BLHS năm 2015 (2) Năm

Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo

02 04 01 01 2015

01 03 01 03 2016

01 14 01 14 2017

01 03 01 03 2018

01 03 01 03 2019

06 27 05 24 Tổng

(Nguồn: Báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019)

Bảng 2.4.Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử theo CTTP tăng nặng tội vi phạm

các quy định về quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019

Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai (1) Đinh tội danh theo CTTP cơ bản (khoản 2, 3) của Điều 174 BLHS năm 1999 hoặc 229 BLHS năm 2015 (2) Năm

Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo

02 04 01 03 2015

01 03 00 00 2016

01 14 00 00 2017

01 03 00 00 2018

01 03 00 00 2019

06 27 01 03 Tổng

(Nguồn: Báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019)

Bảng 2.5.Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử phạm nhiều tội trong đó

có tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019

Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai Số vụ và số bị cáo phạm nhiều tội, trong đó có tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai Năm

Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo

2015 02 04 00 00

2016 01 03 01 01

2017 01 14 00 00

2018 01 03 00 00

2019 01 03 00 00

Tổng 06 27 01 01

(Nguồn: Báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019)

Bảng 2.6. Thống kê những hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo phạm vi

phạm các quy định về quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019

Số bị Cảnh Tù Tù Tù Tù từ cáo cáo, 03 07 từ 15 20 Tù đã Tù chung cải Án dưới năm năm năm năm Năm xét thân, tử tạo treo 03 đến đến đến đến xử hình không năm 07 15 20 chung (sơ giam năm năm năm thân thẩm) giữ

2015 04 00 01 01 00 00 02 00 00

2016 03 00 02 00 00 00 01 00 00

2017 14 04 09 01 00 00 00 00 00

2018 03 00 02 01 00 00 00 00 00

2019 03 03 00 00 00 00 00 00 00

Tổng 27 07 14 03 00 00 03 00 00

(Nguồn: Báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019)

Bảng 2.7. Nhân thân của các bị cáo bị xét xử về tội vi phạm các quy định về quản

lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019

Số bị Cán Từ đủ Từ đủ Tuổi Tái

cáo bộ Dân 14 16 từ 18 phạm, Người đã bị công tộc đến đến đến tái nghiện Năm Nữ xét xử chức, thiểu dưới dưới dưới phạm ma tuý (sơ Đảng số 16 18 30 nguy

thẩm) viên tuổi tuổi tuổi hiểm

2015 04 04 01 00 00 00 03 00 00

2016 03 03 01 00 00 00 02 00 00

2017 14 14 05 00 00 00 08 00 00

2018 03 03 01 00 00 00 02 00 00

2019 03 03 01 01 00 00 01 00 00

Tổng 27 27 09 01 00 00 16 00 00

(Nguồn: Báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019)