VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN SƠN
TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội – 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN SƠN
TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH Ngành:Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. ĐINH THỊ MAI
Hà Nội – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập của
riêng tôi; các số liệu, ví dụ, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và
có nguồn gốc rõ ràng. Các luận điểm kế thừa được trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên
cứu của Luận văn chưa từng được công bố trong công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI
PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI .............................................. 7
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm các quy định về
quản lý đất đai .................................................................................................... 7
1.2. Phân biệt tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai với một số tội
phạm có yếu tố chức vụ, quyền hạn ................................................................. 15
1.3. Khái quát quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm
các quy định về quản lý đất đai từ năm 1945 đến khi Bộ luật hình sự năm
2015 có hiệu lực pháp luật................................................................................ 21
1.4. Khái quát lý luận định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm
các quy định về quản lý đất đai…....................................................................29
Tiểu kết Chương 1 ............................................................................................ 39
Chương 2. THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI TẠI
TỈNH BẮC NINH .................................................................................................... 40
2.1. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về tội vi phạm các quy
định về quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh ......................................................... 40
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội về tội vi phạm các quy
định về quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh ......................................................... 51
Tiểu kết Chương 2 ............................................................................................ 58
Chương 3. YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI
DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐÚNG TỘI VI PHẠM CÁC
QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI TẠI TỈNH BẮC NINH .......................... 60
3.1. Yêu cầu của việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi
phạm các quy định về quản lý đất đai .............................................................. 60
3.2. Các giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt đúng
đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh ............ 63
Tiểu kết Chương 3 ............................................................................................ 77
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật hình sự BLHS
Bộ luật tố tụng hình sự BLTTHS
Cơ quan điều tra CQĐT
Cấu thành tội phạm CTTP
Định tội danh ĐTD
Trách nhiệm hình sự TNHS
Tòa án nhân dân TAND
Viện kiểm sát VKS
Xã hội chủ nghĩa XHCN
Quyết định hình phạt QĐHP
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Thống kê tộivi phạm các quy định về quản lý đất đai so với nhóm
tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đã được TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đưa ra
xét xử sơ thẩm giai đoạn 2015 – 2019.
Bảng 2.2. Thống kê tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai so với nhóm
tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đã được TAND tỉnh Bắc Ninh đưa ra xét xử
phúc thẩm giai đoạn 2015 – 2019.
Bảng 2.3. Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử theo CTTP cơ bản tội vi
phạm các quy định về quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019.
Bảng 2.4. Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử theo CTTP tăng nặng tội
vi phạm các quy định về quản lý đất đai từnăm 2015 đến năm 2019.
Bảng 2.5. Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử phạm nhiều tội trong đó
có tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019.
Bảng 2.6. Thống kênhững hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo phạm
vi phạm các quy định về quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019.
Bảng 2.7. Nhân thân của các bị cáo bị xét xử về tội vi phạm các quy định về
quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Điều 53 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài
nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác
và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân
do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Cụ thể hóa Hiến pháp,
Luật Đất đai năm 2013 đã có các quy định về quyền của Nhà nước với tư cách là
đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai và thống nhất quản lý đất.Nhà nước
thực hiện quyền quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quy định hạn mức
giao đất nông nghiệp, hạn mức giao đất ở, hạn mức công nhận quyền sử dụng đất ở
và hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp; quy định thời hạn sử
dụng; trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất, thông qua các hình thức giao
đất, cho thuê đất và công nhận quyền sử dụng đất; quyết định thu hồi đất để sử dụng
vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,
công cộng. Nhà nước có trách nhiệm quản lý thống nhất đất đai theo pháp luật. Để
thực hiện trách nhiệm này, Nhà nước phân công, phân cấp trong quản lý đất đai.
Theo đó, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả nước;
Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thống
nhất quản lý nhà nước về đất đai; Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quản lý
nhà nước về đất đai tại địa phương theo thẩm quyền. Có thể nói, với những chính
sách và quy định của pháp luật về chế độ quản lý đất đai cho thấy tầm quan trọng
của vấn đề này đối với sự phát triển của kinh tế, xã hội của đất nước ta nói chung và
trong phạm vi tỉnh Bắc Ninh nói riêng.
Với việc BLHS 2015 được ban hành mới, có hiệu lực toàn bộ kể từ ngày
01/01/2018, đã đáp ứng cơ bản với tình hình thực tiễn đấu tranh, phòng chống tội vi
phạm các quy định về quản lý đất đai, đặc biệt là việc BLHS năm 2015 đã cụ thể
hóa những tình tiết có tính định tịnh như “đất có diện tích lớn hoặc có giá trị lớn”
và “gây hậu quả nghiêm trọng”, năng lực, trình độ chuyên môn của cán bộ, công
chức của tỉnh Bắc Ninh đã được nâng cao hơn...góp phần nâng cao hiệu quả định tội
danh và quyết định hình phạt tội này trong thực tiễn. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết
các tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trên địa bàn cả nước và trong địa
1
bàn tỉnh Bắc Ninh cho thấy những vi phạm, tội phạm trong lĩnh vực này có xu
hướng phức tạp, có vụ án gây thiệt hại lớn cho kinh tế, trật tự quản lý của Nhà nước
như vụ án “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” xảy ra tại Đà Nẵng năm 2019,
với các bị cáo đa phần là những người đứng đầu, giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt của
thành phố Ðà Nẵng, gây hậu quả thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng cho Nhà nước, gây
thất thoát ngân sách hơn 22.000 tỷ đồng, hay vụ án với 29 bị can bị truy tố về tội
“Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” xảy ra tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc
Ninh.Theo thống kế của TAND tỉnh Bắc Ninh cho thấy trong khoảng thời gian từ
năm 2015 đến năm 2019 trên địa bàn tỉnh xảy ra không nhiều vụ án về tội vi phạm
các quy định về quản lý đất đai nhưng có những vụ án Tòa án phải trả hồ sơ điều tra
02 lần mới giải quyết dứt điểm vụ án; năng lực, trình độ của cán bộ công chức cơ
quan tư pháp trong tỉnh mặc dù đã cải thiện hơn nhưng vẫn còn không đồng đều,
còn hạn chế về nhận thức, cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ còn hạn chế, trong khi đó
về mặt lý luận và quy định pháp lý về tội này vẫn còn những điểm chưa phù hợp.
Những điều này cho thấy sự khó khăn, phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động
định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về quản lý
đất đai trong bối cảnh hiện nay. Do vây, việc nghiên cứu tội vi phạm các quy định
về quản lý đất đai từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh là yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa quan
trọng, góp phần nâng cao chất lượng công cuộc đấu tranh phòng chống tội vi phạm
các quy định về quản lý đất đai ở tỉnh Bắc Ninh.
Xuất phát từ thực tế nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Tội vi phạm các quy
định về quản lý đất đai từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” để làm để tài nghiên cứu cho
luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài trên có thể kể đến như:
(i) Tài liệu là giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo:
Trường đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần
các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; GS.TS Nguyễn Ngọc Hoà (Chủ
biên) (2018), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm
2017 (Phần các tội phạm) - Quyển 2, Nxb Tư pháp, Hà Nội; TS Nguyễn Đức Mai
(2018), Bình luận khoa học – Bộ luật hình sự (hiện hành) (sửa đổi, bổ sung năm
2
2017, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí; Ths. Đinh
Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các tội phạm, tập VI –
Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn
Ngọc Anh, Đỗ Khắc Hưởng (2010), Bình luận Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội.
Nhận xét: Các công trình nghiên cứu trên có đề cập đến tội vi phạm các quy
định về quản lý đất đai. Tuy nhiên, các công trình trên đều nghiên cứu tội danh này
cùng với các tội danh khác của BLHS, chưa phân tích làm rõ một cách sâu sắc,
những tồn tại, hạn chế trong quy định tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai,
cũng như thực tiễn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
(ii) Luận văn, luận án tiến sĩ luật học:
- Luận văn thạc sĩ: Lương Duy Hinh (2013), Các tội phạm trong lĩnh vực
quản lý và sử dụng đất đai trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở nghiên cứu thực
tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội), Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Nhận xét: Đây là luận văn có đề cập trực tiếp đến tội vi phạm các quy định
về quản lý đất đai. Tuy nhiên luận văn nghiên cứu đề tài cùng với tội vi phạm các
quy định về sử dụng đất đai, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn đấu tranh xử lý trên địa
bàn thành phố Hà Nội và trong phạm vi từ năm 2008 đến 2012, khi mà BLHS năm
2015 chưa được ban hành
- Luận án tiến sĩ: Nguyễn Chí Công (2016), Trách nhiệm hình sự đối với các
tội xâm phạm trật tự quản lí kinh tế, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Nhận xét: Luận án có đề cập đến tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai.
Tuy nhiên luận án tập trung nghiên cứu những nội dung xung quanh TNHS đối với
tội xâm phạm trật tư quản lý kinh tế, trong đó có tội vi phạm các quy định về quản
lý đất đai, mà chưa đi sâu vào phân tích một khái niệm và các dấu hiệu pháp lý cụ
thể của tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trong BLHS năm 2015.
Ngoài ra còn có một số công trình khác như: Chuyên đề “Hoàn thiện các quy
định của luật hình sự về các tội phạm kinh tế trong điều kiện hiện nay”, của tác giả
Trần Văn Độ, trong Sách tham khảo dành cho bậc sau đại học của Trường Đại học
Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, năm 1997; Sách “Pháp luật hình sự về các tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” của tác giả Nguyễn Mai Bộ, Nxb. Tư pháp, năm
3
2006; Bài viết “Cần sửa đổi, bổ sung các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế cho
phù hợp với thực tiễn xét xử, Tạp chí TAND, số 02/2009, của tác giả Đinh Văn
Quế; Nguyễn Ngọc Chí (2008), Hoàn thiện các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
trước yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí khoa học (Chuyên san kinh tế - luật).
Nhận xét chung:Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến tội tội vi
phạm các quy định về quản lý đất đai ở khía cạnh, góc độ khác nhau, có nhiều đề tài
được nghiên cứu trước khi BLHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật. Tính đến nay,
chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến tội vi phạm các quy định về quản lý
đất đai theo pháp luật hình sự Việt Nam, một cách cụ thể, chuyên sâu tại địa bàn
một tỉnh là tỉnh Bắc Ninh, trong phạm vi từ năm 2015 đến năm 2019.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống, làm rõ những vấn đề lý luận và
pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng quy định về tội vi phạm các quy định về
quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019,
luận văn kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về tội
vi phạm các quy định về quản lý đất đai trong BLHS Việt Nam và đề xuất một số
giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội vi phạm các quy định về
quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm sáng tỏ những vấn đề chung về tội vi phạm các quy định về quản lý
đất đai trong pháp luật hình sự Việt Nam, mà trọng tâm là BLHS năm 2015.
- Phân tích, đánh giá một số vấn đề lý luận về định tội danh và quyết định
hình phạt, kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của những tồn
tại, hạn chế trong quá trình định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm các
quy định về quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Đưa ra một số yêu cầu và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm các quy định về quản lý
đất đaitrên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tội vi phạm các quy định về quản lý
đất đai theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai mà trọng tâm là BLHS năm
2015 hiện hành, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn định tội danh và quyết định hình
phạt trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, sử dụng số liệu thống kê của TAND tỉnh Bắc Ninh.
Phạm vi không gian: tỉnh Bắc Ninh
Phạm vi thời gian: khoảng thời gian từ năm 2015 đến 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng phương pháp luận duy vật biện
chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước
về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, đường lối đấu tranh
phòng chống tội phạm của nhà nước ta, làm kim chỉ nam xuyên suốt trong toàn bộ
cấu trúc nghiên cứu của luận văn.
Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình
sự như: phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp
logic, phương pháp lịch sử, phương pháp diễn dịch – quy nạp, phương pháp so
sánh, đối chiếu các quy định của pháp luật liên quan với tội phạm vi phạm các quy
định về quản lý đất đai.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận
và nâng cao nhận thức trong hoạt động áp dụng pháp luật về tội vi phạm các quy
định về quản lý đất đai trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Từ một số giải pháp
đưa ra,luận văn sẽ góp phần hoàn thiện hơn những quy định của pháp luật về tội vi
phạm các quy định về quản lý đất đai trong BLHS hiện hành.
Về mặt thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham
khảo cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành, xây dựng hoàn thiện các
5
quy định về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai. Ngoài ra, kết quả đạt được
trong nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
công tác nghiên cứu khoa học chuyên ngành và tài liệu tham khảo đối với người
làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và công tác thực tiễngiải quyết các vụ án tội vi
phạm các quy định về quản lý đất đai của các cơ quan có thẩm quyền nói chung và
trong phạm vi tỉnh Bắc Ninh nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
ba chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận và pháp luật về tội vi phạm các quy định về
quản lý đất đai
Chương 2. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm các
quy định về quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Chương 3. Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình
phạt đúng tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM
CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm các quy định về
quản lý đất đai
1.1.1. Khái niệm
Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thuộc Chương các tội phạm xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế, đây là “những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại
nền kinh tế quốc dân, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ
chức và của công dân qua việc vi phạm quy định của Nhà nước trong quản lý kinh
tế”[38, tr.79]. Trong khoa học pháp lý cũng đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu và
đưa ra khái niệm về tội danh này, mà tiêu biểu như:
Có quan điểm cho rằng: “Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai là việc
người có chức vụ, quyền hạn, lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm dụng chức vụ,
quyền hạn thực hiện hành vi giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử
dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật, đã bị xử lý kỷ luật mà
còn vi phạm”[10, tr.400].
Quan điểm khác cho rằng: Vi phạm các quy định về quản lý đất đai là hành
vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép
chuyển quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật [4,
tr.348].
Luật gia Nguyễn Ngọc Điệp lại cho rằng: Vi phạm các quy định về quản lý
đất đai, được hiểu là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý
Nhà nước về đất đai đã lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để giao đất, thu
hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất trái quy định của pháp luật. [23, tr.239].
Trong cuốn Bình luận khoc học BLHS năm 2015, các tác giả PGS.TS. Trần
Văn Luyện, PGS.TS. Phùng Thế Vác…cho rằng: Vi phạm các quy định về quản lý
đất đai là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý nhà nước về
đất đai đã lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để giao đất, thu hồi, cho thuê,
7
cho phép chuyển quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái
pháp luật [25, tr.397].
Nhận xét: Các quan điểm trên đều đã nêu được bản chất của tội danh này
theo quy định của pháp luật hình sự, tuy nhiên các tác giả vẫn chưa thể hiện được
yếu tố lỗi của tội phạm, năng lực TNHS, khách thể mà chỉ mô tả hành vi thuộc mặt
khách quan của tội phạm.
Trong pháp luật hình sự từ BLHS năm 1985 đến BLHS năm 2015 thì khái
niệm tội phạm được nhà làm luật ghi nhận trong Điều 8 BLHS. Theo đó: Tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự [31, Điều 8].
BLHS năm 2015 hiện hành thì tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thuộc
Chương XVIII, các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế “Người nào lợi dụng hoặc
lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử
dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định của pháp luật...”,hành vi
này xâm phạm đến trật tự quản lý nhà nước về kinh tế nói chung, quản lý về đất đai
nói riêng trong giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất. Tội phạm được thực hiện bởi chủ thể đặc biệt,
ngoài các dấu hiệu về tuổi, năng lực TNHS, đó còn là người có chức vụ, quyền hạn
trong việc quản lý đất đai, được thực hiện với lỗi cố ý, người phạm tội biết được
hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý đất đai, theo quy định của
Luật đất đai, các Nghị định của Chính phủ hoặc các Nghị quyết của Hội đồng nhân
dân hoặc của Ủy ban nhân nhân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, là nguy hiểm
cho xã hội, nhận thức được hậu quả có thể xảy ra hoặc chắc chắn sẽ xảy ra những
vẫn thực hiện.
Trên cơ sở tiếp thu các quan điểm của các nhà nghiên cứu khoa học và quy
định hiện hành của BLHS, tác giả đưa ra khái niệm tội vi phạm các quy định về
8
quản lý đất đai như sau: Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai là hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự, đạt độ tuổi luật định, lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm dụng chức vụ,
quyền hạn thực hiện hành vi giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử
dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật, xâm phạm chế độ quản lý về
đất đai được Nhà nước bảo hộ.
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
Trong pháp luật hình sự hiện hành thì tội vi phạm các quy định về quản lý
đất đai được quy định tại Điều 229 BLHS năm 2015.
Thứ nhất, về khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội
phạm xâm hại [39, tr. 86]. Trong pháp luật hình sự Việt Nam, phân biệt 03 loại
khách thể là khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp.
Khách thể chung của tội phạm là những quan hệ xã hội được quy định tại
khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng,
an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị
xử lý hình sự. Khách thể loại của tội phạm là nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất
bị tội phạm xâm hại, đây là cơ sở để nhà làm luật xếp vào các chương khác nhau
trong phần các tội phạm của BLHS. Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã
hội bị tội phạm trực tiếp xâm hại tới.
Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thuộc Chương XVIII, các tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Tội này có khách thể loại là trật tự quản lý nhà
nước về kinh tế. “Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là các hành vi vi phạm
các quy định của Nhà nước trong quản lý kinh tế, xâm phạm cơ chế Nhà nước quản
lý, vận hành nền kinh tế, gây thiệt hại đáng kể cho nền kinh tế, lợi ích của Nhà
nước, các chủ thể kinh tế và người tiêu dùng” [27, tr.18]. Còn khách thể trực tiếp
của tội phạm là trật tự quản lý nhà nước về đất đai, trong đó:Chính phủ thống nhất
quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả nước.Bộ Tài nguyên và Môi trường
9
chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thống nhất quản lý nhà nước về đất
đai.Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quản lý nhà nước về đất đai tại địa
phương theo thẩm quyền quy định tại Luật này.Đối với tội này thì việc xâm phạm
trật tự quản lý nhà nước về đất đai được thực hiện trong việc giao đất, thu hồi, cho
thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất.
Sự gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm được thực hiện thông qua việc
tác động vào đối tượng tác động của tội phạm, đây là bộ phận cấu thành của khách
thể tội phạm, bị tội phạm tác động đến, gây thiệt hại đáng kể cho những quan hệ xã
hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất
đai thì đối tượng tác động chính là đất đai, thông qua sự tác động trái phép vào đối
tượng này, hành vi phạm tội đã xâm hại đến các quy định của Nhà nước trong lĩnh
vực quản lý đất đai, gây thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức và công dân.
Thứ hai, mặt khách quan của tội phạm:
- Dấu hiệu hành vi khách quan: Có hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ,
quyền hạn để giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng đất, cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật.
- Lợi dụng chức vụ quyền hạn. Được hiểu là việc sử dụng chức vụ, quyền
hạn được giao như là một phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội, giao đất, thu
hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng
đất đai trái pháp luật [36].
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn. Được hiểu là việc người phạm tội thực hiện
những công việc vượt quá quyền hạn, trách nhiệm của họ để giao đất, thu hồi, cho
thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyên mục đích sử dung đất đai
trái pháp luật(Ví dụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã ra quyết định thu hồi đất, trong
khi việc thu hồi đất thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện).
Trong đó:Nhà nước giao đất là việc Nhà nước ban hành quyết định giao đất để
trao quyền sử dụng đất cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.[32, khoản 7, Điều 3].
+ Nhà nước cho thuê đất là việc Nhà nước quyết định trao quyền sử dụng đất
cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất thông qua hợp đồng cho thuê quyền sử dụng
đất.[32, khoản 8, Điều 3].
10
+ Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng
đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử
dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai. [32, khoản 9, Điều 3].
+ Nhà nước cho phép chuyển mục đích sử dụng đất là Nhà nước quyết định
cho phép đối tượng có nhu cầu chuyển mục đích sử dụng từ loại đất này sang sử
dụng vào mục đích khác.
+ Nhà nước cho phép chuyển quyền sử dụng đất là Nhà nước quyết định cho
phép đối tượng có nhu cầu thực hiện các quyền như chuyển nhượng, tặng cho, cho
thuê sang cho đối tượng khác có nhu cầu.
- Giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái
pháp luật. Được hiểu là hành vi thực hiện các nội dung này không đúng quy định
của pháp luật về đất đai.Cụ thể: [14, Điều 97 ].
+ Giao đất, giao lại đất, cho thuê đất không đúng vị trí và diện tích đất trên
thực địa.
+ Giao đất, giao lại đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất
không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng, không phù hợp với kế hoạch sử
dụng đất hàng năm cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Ví dụ: Không đúng thẩm quyền là không đúng quy định tại Điều 59 Luật đất
đai năm 2013:“1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất, cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất trong các trường hợp sau đây:
a) Giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức;
b) Giao đất đối với cơ sở tôn giáo;
c) Giao đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài theo quy định tại khoản 3 Điều 55 của Luật này;
d) Cho thuê đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định tại điểm đ và điểm e khoản 1 Điều 56 của
Luật này;
đ) Cho thuê đất đối với tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao.
2. Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất trong các trường hợp sau đây:
11
a) Giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ
gia đình, cá nhân. Trường hợp cho hộ gia đình, cá nhân thuê đất, cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích thương mại, dịch vụ
với diện tích từ 0,5 héc ta trở lên thì phải có văn bản chấp thuận của Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh trước khi quyết định;
b) Giao đất đối với cộng đồng dân cư.
3. Ủy ban nhân dân cấp xã cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng
vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn.
4. Cơ quan có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không được
ủy quyền”.
+ Giao lại đất, cho thuê đất trong khu công nghệ cao, khu kinh tế, cảng hàng
không, sân bay dân dụng không phù hợp với quy hoạch xây dựng đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
- Thu hồi đất bị coi là trái pháp luật nếu thuộc trường hợp[14, Điều 97 ]
+Không thông báo trước cho người có đất bị thu hồi theo quy định tại Điều
67 của Luật Đất đai.
+ Thu hồi đất không đúng thẩm quyền; không đúng đối tượng; không đúng
với quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phê duyệt.
Ví dụ:Thu hồi đất không đúng thẩm quyền là không đúng quy định tại Điều 66:
“1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:
a) Thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều này;
b) Thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn.
2. Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất trong các trường hợp
sau đây:
a) Thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư;
b) Thu hồi đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà
ở tại Việt Nam.
12
3. Trường hợp trong khu vực thu hồi đất có cả đối tượng quy định tại khoản
1 và khoản 2 Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất hoặc ủy
quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất”.
-Cho phép chuyển quyền sử dụng đất được coi là trái pháp luật khi: cho phép
chuyển quyền sử dụng đất không đúng thủ tục, đối tượng và căn cứ cho phép
chuyển quyền sử dụng đất.
-Ngoài ra còn có một số dạng vi phạm như: [14, Điều 97 ].
a) Không nhận hồ sơ đã hợp lệ, đầy đủ, không hướng dẫn cụ thể khi tiếp
nhận hồ sơ, gây phiền hà đối với người nộp hồ sơ, nhận hồ sơ mà không ghi vào sổ
theo dõi;
b) Tự đặt ra các thủ tục hành chính ngoài quy định chung, gây phiền hà đối
với người xin làm các thủ tục hành chính;
c) Giải quyết thủ tục hành chính không đúng trình tự quy định, trì hoãn việc
giao các loại giấy tờ đã được cơ quan có thẩm quyền ký cho người xin làm thủ tục
hành chính;
d) Giải quyết thủ tục hành chính chậm so với thời hạn quy định;
đ) Từ chối thực hiện hoặc không thực hiện thủ tục hành chính mà theo quy
định của pháp luật về đất đai đã đủ điều kiện để thực hiện;
e) Thực hiện thủ tục hành chính không đúng thẩm quyền;
g) Quyết định, ghi ý kiến hoặc xác nhận vào hồ sơ không đúng quy định gây
thiệt hại hoặc tạo điều kiện cho người xin làm thủ tục hành chính gây thiệt hại cho
Nhà nước, tổ chức và công dân;
h) Làm mất, làm hư hại, làm sai lệch nội dung hồ sơ.
- Hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai được coi là hệ quả của
hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn. Hành vi lợi dụng hoặc lạm
dụng chức vụ, quyền hạn được coi là tiền đề, là thủ đoạn mà người phạm tội sử
dụng để làm trái với quy định của Nhà nước về quản lý đất đai. Nếu trường hợp
cũng lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn nhưng không làm trái với quy
định của Nhà nước về quản lý đất đai, mà trái với các quy định khác về quản lý kinh
tế, quản lýhành chính, quản lý cán bộ…thì không thuộc trường hợp quy định tại
Điều 229 BLHS mà tùy từng trường hợp cụ thể, người phạm tội có thể bị truy cứu
13
TNHS về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế hoặc tội Lợi dụng chức vụ, quyền
hạn trong khi thi hành công vụ hoặc các tội phạm tương ứng có quy định lợi dụng
hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn là yếu tố tăng nặng định khung hình phạt…
* Hậu quả: Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thì hậu quả
không phải là dấu hiệu bắt buộc của CTTP.
* Các dấu hiệu khách quan khác:
Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội vi phạm các quy định của
Nhà nước về sử dụng đất đai, nhà làm luật còn quy định các dấu hiệu khách quan
khác, nếu hành vi thõa mãn một trong các dấu hiệu sau thì mới CTTP (khoản 1,
Điều 229):
+ Đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét
vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000
mét vuông (m2) đến dưới 50.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi
nông nghiệp có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2).
+ Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng
đến dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng
đến dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp.
+ Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.
Được hiểu là người đó đã bị xử lý kỷ luật bằng một trong hình thức kỷ luật
theo quy định pháp luật về xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức như khiển trách;
cảnh cáo; hạ bậc lượng; giáng chức...về vi phạm trong lĩnh vực quản lý đất đai như thu
hồi đất trái pháp luật, cho thuê trái pháp luật...với diện tích đất, giá trị quyền sử dụng
đất thấp hơn quy định ở trường hợp a hoặc b, khoản 1 Điều 229, nhưng chưa hết thời
hạn để được coi là chưa bị xử lý kỷ luậtlại thực hiện một trong các hành vi đó.
Thứ ba, chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ,
quyền hạn liên quan đến việc giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử
dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất mới có thể là chủ thể của tội phạm
này. Đối với người khác chỉ có thể là đồng phạm với vai trò người giúp sức, xúi
giục hoặc chủ mưu của tội phạm.
14
Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do
một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện
một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ,
nhiệm vụ [31]. Đối với tội danh này chủ thể thường là những cán bộ, công chức
trong lĩnh vực quản lý đất đai của cơ quan quản lý đất đai: Cơ quan quản lý nhà
nước về đất đai ở trung ương là Bộ Tài nguyên và Môi trường.Cơ quan quản lý đất
đai ở địa phương được thành lập ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và ở
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; tổ chức dịch vụ công về đất đai được
thành lập và hoạt động theo quy định của Chính phủ.Trong đó, ở xã, phường, thị
trấn thì có công chức làm công tác địa chính theo quy định của Luật cán bộ, công
chức. Công chức địa chính ở xã, phường, thị trấn có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân
dân cấp xã trong việc quản lý đất đai tại địa phương.
Thứ tư, mặt chủ quan của tội phạm:
Người phạm tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thực hiện hành vi
của mình là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm quy định của
Nhà nước về quản lý đất đai, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong
muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ của người phạm tội không phải là
dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.
1.2. Phân biệt tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai với một số tội
phạm có yếu tố chức vụ, quyền hạn
1.2.1. Phân biệt với tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành
công vụ
Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ được quy định
tại Điều 356 BLHS năm 2015, thuộc nhóm tội phạm về tham nhũng. Cả hai tội đều
có điểm giống nhau ở chủ thể đặc biệt đều là người có chức vụ, quyền hạn, sử dụng
chức vụ, quyền hạn vào việc thực hiện tội phạm, và đều thực hiện với lỗi cố ý. Mặc
dù vậy, hai tội có điểm khác nhau:
- Về khách thể của tội phạm:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:Xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai về việc
15
giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục
đích sử dụng đất trái pháp luật.
+ Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ:Xâm phạm
đồng thời hai khách thể trực tiếp: Hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, xâm
hại đến uy tín của Nhà nước. Đồng thời gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
- Về hành vi khách quan của tội phạm:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:Hành vi phạm tội thường
được thể hiện thông qua lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai: giao đất, thu hồi, cho
thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái
quy định của pháp luật.
+ Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Hành vi đặc
trưng trong tội phạm này là hành vi “làm trái” với công vụ (chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, mục đích công tác được phân công) của người có chức vụ, quyền hạn để
gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
- Thủ đoạn phạm tội:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Lợi dụng hoặc lạm dụng chức
vụ, quyền hạn để làm trái quy định của pháp luật.
+ Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để làm trái công vụ, trong quá trình thực hiện công vụ của mình.
- Hậu quả và thời điểm hoàn thành tội phạm:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Hậu quả không phải là dấu
hiệu bắt buộc của CTTP. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực
hiện hành vi quy định tại điểm a, b hoặc c khoản 1 Điều 229 BLHS năm 2015.
+ Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Hậu quả là
dấu hiệu bắt buộc của CTTP. Tội có cấu thành vật chất chỉ được coi là hoàn thành
khi hành vi gây thiệt hại hiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại
khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
- Về yếu tố lỗi:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Được thực hiện bởi một trong hai
hình thức lỗi cố ý: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp (trong đó cố ý trực tiếp là chủ yếu).
16
+ Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Luôn được
thực hiện bởi hình thức lỗi cố ý trực tiếp.
- Về động cơ phạm tội:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Không vì vụ lợi hoặc động cơ
cá nhân khác.
+ Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Động cơ vụ
lợi hay động cơ cá nhân khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.
- Tính nguy hiểm cho xã hội và hình phạt:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Có tính nguy hiểm cho xã hội
thấp hơn. Hình phạt ít nghiêm khắc hơn: Khoản 1: phạt cải tạo không giam giữ đến
03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm; Khoản 2: phạt tù từ 02 năm đến 07
năm; Khoản 3: phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội
còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm
chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
+ Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Có tính nguy
hiểm cho xã hội cao hơn. Hình phạt nghiêm khắc hơn: Khoản 1: phạt cải tạo không
giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm; Khoản 2: phạt tù từ 05
năm đến 10 năm; Khoản 3: phạt tù từ 10 năm đến 15 năm. Hình phạt bổ sung:
Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có
thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
1.2.2. Phân biệt với tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ
Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ được quy định tại Điều 357 BLHS
năm 2015, thuộc nhóm tội phạm về tham nhũng. Cả hai tội đều có điểm giống nhau
ở chủ thể đặc biệt đều là người có chức vụ, quyền hạn, sử dụng chức vụ, quyền hạn
vào việc thực hiện tội phạm, và đều thực hiện với lỗi cố ý. Mặc dù vậy, hai tội có
điểm khác nhau cơ bản sau:
- Về khách thể của tội phạm:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:Xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai về việc
giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục
đích sử dụng đất trái pháp luật.
17
+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ:Xâm phạm đồng thời hai khách
thể:Hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, xâm hại đến uy tín của Nhà nước,
đồng thời gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân.
- Về hành vi khách quan của tội phạm:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:Hành vi phạm tội thường
được thể hiện thông qua lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai: giao đất, thu hồi, cho
thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái
quy định của pháp luật.
+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ:Hành vi đặc trưng trong tội
phạm này là hành vi lạm quyền (vượt quá quyền hạn được giao) “làm trái” với công
vụ của người có chức vụ, quyền hạn để gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
- Thủ đoạn phạm tội:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Lợi dụng hoặc lạm dụng chức
vụ, quyền hạn để làm trái quy định của pháp luật.
+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ: Lạm dụng chức vụ, quyền hạn
mà vượt quá quyền hạn làm trái công vụ mà mình được giao thực hiện.
- Hậu quả và thời điểm hoàn thành tội phạm:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Hậu quả không phải là dấu
hiệu bắt buộc của CTTP. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực
hiện hành vi quy định tại điểm a, b hoặc c khoản 1 Điều 229 BLHS năm 2015.
+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ: Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc
của CTTP. Tội có cấu thành vật chất chỉ được coi là hoàn thành khi hành vi gây
thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng trở lên; gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà
nước,quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhâncủa xã hội, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân.
- Về yếu tố lỗi:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Được thực hiện bởi một trong hai
hình thức lỗi cố ý: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp (trong đó cố ý trực tiếp là chủ yếu).
18
+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ: Luôn được thực hiện bởi hình
thức lỗi cố ý trực tiếp.
- Về động cơ phạm tội:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Không vì vụ lợi hoặc động cơ
cá nhân khác.
+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ: Động cơ vụ lợi hay động cơ cá
nhân khác là dấu hiệu bắt buộc của Cấu thành tội phạm.
- Tính nguy hiểm cho xã hội và hình phạt:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Có tính nguy hiểm cho xã hội
thấp hơn. Hình phạt ít nghiêm khắc hơn: Khoản 1: phạt cải tạo không giam giữ đến
03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm; Khoản 2: phạt tù từ 02 năm đến 07
năm; Khoản 3: phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội
còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm
chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ: Có tính nguy hiểm cho xã hội
cao hơn. Hình phạt nghiêm khắc hơn: Khoản 1: phạt tù từ 01 năm đến 07 năm;
Khoản 2: phạt tù từ 05 năm đến 10 năm; Khoản 3: phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.
Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01
năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
1.2.3. Phân biệt với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được quy định tại Điều 360
BLHS năm 2015, thuộc nhóm tội phạm khác về chức vụ. Cả hai tội đều có điểm
giống nhau ở chủ thể đặc biệt đều là người có chức vụ, quyền hạn. Mặc dù vậy, hai
tội có điểm khác nhau cơ bản sau:
- Về khách thể của tội phạm:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai về
việc giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất trái pháp luật.
+ Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng: Xâm phạm hoạt động
đúng đắn của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội.
19
- Hậu quả và thời điểm hoàn thành tội phạm:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Hậu quả không phải là dấu
hiệu bắt buộc của CTTP. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực
hiện hành vi quy định tại điểm a, b hoặc c khoản 1 Điều 229 BLHS năm 2015.
+ Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng: Hậu quả là dấu hiệu bắt
buộc của CTTP. Tội có cấu thành vật chất chỉ được coi là hoàn thành khi hành vi
gây thiệt hại: tính mạng, sức khỏe, tài sản.
- Về hành vi khách quan của tội phạm:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Hành vi khách quan thường
được thể hiện thông qua việc thực hiện các thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản
lý nhà nước về đất đai: giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng,
cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định của pháp luật.
+ Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng: Hành vi khách quan được
đặc trưng là không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao.
- Về yếu tố lỗi:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Được thực hiện bởi một trong
hai hình thức lỗi cố ý: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp (trong đó cố ý trực tiếp là chủ
yếu).
+ Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng: Luôn được thực hiện với
hình thức lỗi vô ý (thiếu trách nhiệm).
- Tính nguy hiểm cho xã hội và hình phạt:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Có tính nguy hiểm cho xã hội
thấp hơn. Hình phạt ít nghiêm khắc hơn: Khoản 1: phạt cải tạo không giam giữ đến
03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm; Khoản 2: phạt tù từ 02 năm đến 07
năm; Khoản 3: phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội
còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm
chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
+ Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng: Có tính nguy hiểm cho xã
hội cao hơn. Hình phạt nghiêm khắc hơn: Khoản 1: cải tạo không giam giữ đến 03
năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm; Khoản 2: bị phạt tù từ 03 năm đến 07
năm; Khoản 3: bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm
20
tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ 01 năm đến 05 năm.
1.3. Khái quát quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm
các quy định về quản lý đất đai từ năm 1945 đến khi Bộ luật hình sự năm 2015
có hiệu lực pháp luật
1.3.1. Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trong pháp luật hình sự
Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1985
Đây là giai đoạn Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập,
phải đối diện với nhiều khó khăn, thử thách, nhiều thế lực thù địch. Để duy trì trật
tự xã hội, bảo vệ thành quả của Cách mạng, Nhà nước ta đã ban hành sắc lệnh số
47-SL ngày 10/10/1945, tạm thời giữ lại các luật lệ cũ tại ba miền cho đến khi ban
hành các văn bản pháp luật mới đề điều chỉnh các quan hệ trên với điều kiện không
trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hòa.
Đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, luật cũ có nhiều quy định không thích
hợp, một số văn bản pháp luật hình sự quan trọng đã được an hành, trong đó có
những văn bản pháp luật liên quan đến việc xử lý một số loại tội phạm trong lĩnh
vực quản lý kinh tế (trong đó có điều chỉnh hành vi vi phạm, tội phạm trong lĩnh
vực đất đai) Sau năm 1954 mở ra và đánh dấu một giai đoạn hoàn toàn mới của
Cách mạng Việt Nam với hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH ở miền Bắc,
đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Đất nước.Từ năm 1954-1957,
Đảng và Nhà nước chủ trương thực hiện khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh và
phấn đấu hoàn thành những nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân chủ. Với khẩu
hiệu người cày có ruộng, Đảng và Nhà nước đã hoàn thành Cải cách ruộng đất với
một loạt các biện pháp giúp nông dân sau khi được chia ruộng đất và các tư liệu sản
xuất khác đã từng bước khôi phục nền kinh tế nông nghiệp. Với chính sách này,
trong xã hội có rất nhiều các thành phần kinh tế, nhiều cá nhân, cộng đồng dân cư
sử dụng đất. Phù hợp với tình hình mới Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số
267/SL ngày 15/6/1956 quy định:”…nay ban hành sắc lệnh này nhằm trừng trị
những âm mưu, hành động phá hoại hoặc làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước,
của hợp tác xã và của nhân dân,làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch xây
dựng kinh tế và văn hóa[21, Điều 1].
21
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, dù phải đối mặt với rất nhiều khó
khăn, song pháp luật về quản lý kinh tế nói chung và quy định về các tội phạm về
kinh tế nói riêng, song pháp luật về quản lý kinh tế nói riêng vẫn được Nhà nước ta
chú trọng hoàn thiện với nguyên tắc Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu về đất đai theo
tinh thần của Hiến pháp năm 1959 và trong Nghị quyết số 125-CP của Chính phủ về
tăng cường công tác quản lý ruộng đất: “ruộng đất, ao hồ, đồng cỏ của HTX sản
xuất nông nghiệp, các cơ sở quốc doanh, các cơ quan đơn vị khác và của cá nhân
được Nhà nước chứng nhận quyền quản lý và sử dụng đất đều được pháp luật bảo
vệ, không ai được xâm phạm”.[16].
Trong thời kỳ này, các văn bản có vai trò quan trọng thể hiện chính sách hình
sự của Nhà nước ta đối với các tội phạm về kinh tế có thể được kể đến như: Pháp
lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN ngày 21/10/1970 và Pháp lệnh quy
định về việc bảo vệ rừng ngày 06/9/1972.
Trong Pháp lệnh năm 1970 đã xác định“Tài sản xã hội chủ nghĩa là thiêng
liêng, tuyệt đối không ai được xâm phạm. Mọi người đều có nghĩa vụ tôn trọng và
bảo vệ tài sản đó.Mọi hành động xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa phải được phát
hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh”. [47, Điều 2].Trong đó, liên quan đến lĩnh vực
kinh tế, trong đó có quản lý đất đai, Điều 12 Pháp lệnh quy định: “Tội cố ý làm trái
nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ về kinh tế, tài chính, gây thiệt hại đến tài sản
xã hội chủ nghĩa:
1. Kẻ nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, cố ý làm trái nguyên tắc, chính sách,
chế độ và thể lệ về kinh tế, tài chính, gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị
phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:…Thì bị phạt tù từ 5 năm đến
15 năm.
3. Phạm tội trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù
từ 12 năm đến 20 năm”.
Để bảo vệ quan hệ sở hữu XHCN về đất đai trong giai đoạn đó, Pháp lệnh số
147- LCT ngày 11/9/1972 khẳng định: “Rừng và đất rừng thuộc sở hữu của Nhà
nước, tức là của toàn dân, không ai được xâm phạm” [48].Sau ngày thống nhất đất
nước, nhằm kịp thời có công cụ pháp lý để giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn
22
xã hội, góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm có tính chất đặc thù ở miền Nam,
Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban
hành Sắc luật số 03/SL-76 ngày 15/3/1976 quy định các tội phạm và hình phạt được
áp dụng ở miền Nam. Nội dung Sắc luật này và Pháp lệnh ngày 21/10/1970 về cơ
bản là thống nhất. Tuy nhiên, những quy định trong Sắc luật chưa cụ thể, mới chỉ
nêu tội danh mà không mô tả dấu hiệu của tội phạm, không quy định khung của
hình phạt đối với từng tội riêng biệt mà quy định khung hình phạt chung cho từng
nhóm tội, dẫn đến vận dụng không chính xác.
Hiến pháp năm 1980 ra đời, quy định đất đai phải thuộc sở hữu toàn dân,
thuộc về dân tộc Việt Nam. Năm 1987, Luật Đất đai ra đời, đánh dấu một cột mốc
quan trọng của hệ thống pháp luật về đất đai. Luật Đất đai đầu tiên của chúng ta quy
định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước
giao đất cho các nông trường, lâm trường, xí nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân để sử dụng ổn định, lâu dài”.
Nhận xét:Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, Nhà nước ta đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật hình sự. Những văn bản này đã có tác dụng tích cực
trong việc bảo vệ chính quyền nhân dân, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn
xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần bảo đảm thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ. Tội vi phạm các quy định về
quản lý đất đai trong thời kỳ này hầu như ít xảy ra, chưa được quy định bằng điều
luật cụ thể trong các văn bản, mà quy định đan xen với các tội danh khác. Nhưng
với yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, nhiều quy định trước đây không còn phù
hợp, thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất, do mỗi văn bản ban hành riêng lẻ chỉ quy định
một vài tội phạm hoặc một nhóm tội phạm. Không những thế, nhiều tội phạm và
hình phạt không chỉ được quy định trong văn bản pháp luật hình sự, mà còn được
quy định tản mạn trong các văn bản pháp luật về tổ chức hoặc về hành chính, do đó,
việc nghiên cứu và vận dụng gặp nhiều khó khăn. Khá nhiều tội phạm trong thực tế
đã xảy ra, nhưng chưa có văn bản nào quy định, khiến cho công cuộc đấu tranh
chống và phòng ngừa tội phạm có phần bị hạn chế.
1.3.2. Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trong Bộ luật hình
sựnăm 1985
23
BLHS năm 1985 có hiệu lực pháp luật từ ngày 01/7/1986, được sửa đổi, bổ
sung 04 lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Đây là BLHS đầu tiên của Nhà
nước ta, thể hiện một bước tiến dài trong khoa học pháp lý của đấtnước. Trong
BLHS năm 1985, tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai được quy định tại
Điều 180 với tên gọi: Tội vi phạm các quy định về quản lý đất và bảo vệ đất đai,
thuộc Chương XIII, các tội phạm về kinh tế.
Có thể nói đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, các
nhà làm luật đã tội phạm hóa các hành vi vi phạm trong lĩnh vực đất đai, được điều
chỉnh bằng một quy phạm riêng tại Điều 180: [29, Điều 180].
“1- Người nào mua bán, lấn chiếm đất hoặc có hành vi khác vi phạm các
quy định của Nhà nước về quản lý và bảo vệ đất đai gây hậu quả nghiêm trọng
hoặc đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến
một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
2- Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm
đến bảy năm”.
- Dưới góc độ khoa học pháp lý, các yếu tố CTTP của tội này thể hiện:
+ Khách thể của tội phạm: là trật tự quản lý của Nhà nước về đất đai.
+ Mặt khách quan: quy định bởi hai dấu hiệu cần và đủ:Có một trong các
hành vi: mua bán, lấn chiếm đất hoặc hành vi khác vi phạm các quy định của Nhà
nước về quản lý và bảo vệ đất đai. Và có hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý
hành chính mà còn vi phạm.
+ Chủ thể của tội phạm: bất kỳ người nào, có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu
TNHS, cụ thể:Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm do mình
thực hiện.Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS đối với tội
phạm do mình cố ý thực hiện thuộc khoản 2 của Điều luật.
+ Mặt chủ quan của tội phạm: Tội được thực hiện với hình thức lỗi cố ý.
Người phạm tội biết rõ hành vi vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai là
nguy hiểm cho xã hội, nhận thức đượchậu quả có thể hoặc chắc chắn xảy ra nhưng
vẫn cố tình thực hiện.
+ Về hình phạt: Người phạm tội ngoài việc phải chịu một trong các hình phạt
chính được quy định tại Điều 180 BLHS còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung
24
“phạt tiền đến một triệu đồng” hoặc ‘cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những
nghề hoặc những công việc nhất định từ hai năm đến năm năm” (khoản 1, 4 Điều
185 BLHS).
Riêng đối với tội phạm trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai do người
có chức vụ, quyền hạn thực hiện thì được điều chỉnh bởi Điều 174 (tội Cố ý làm trái
những nguyên tắc, chính sách, chế độ quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng)
được kế thừa từ tội Cố ý làm trái nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ về kinh tế,
tài chính, gây thiệt hại đến tài sản XHCX tại Điều 12 của Pháp lệnh năm 1970.
Nhận xét: với việc BLHSnăm 1985 ra đời đã tạo lập được cơ sở pháp lý để
xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật các hành vi xâm hai đến trật tự quản lý nhà
nước về đất đai. Là cơ sở đẻ bảo vệ trật tự, an toàn và ổn định xã hội, giữ vững kỷ
cương và pháp chế XHCN. Tuy nhiên, sau 14 năm được áp dụng, BLHS năm 1985
đã bộc lộnhiềm điểm còn hạn chế, chưa phù hợp với tinh hình thực tiễn của công tác
đấu tranh, phòng chống tội phạm, cần được sửa đổi, bổ sung như tên điều luật chưa
phù hợp với bản chất của hành vi khách quan, nhiều quy định gây khó khăn cho
việc áp dụng, trong BLHS năm 1985 chưa có một Điều luật cụ thể điều chỉnh hành
vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai, đúng bản chất của hành vi này.Tuy
nhiên, quá trình áp dụng pháp luật và dưới góc độ khoa học pháp lý cho thấy: Điều
luật còn chung chung, dẫn đến việc áp dụng pháp luật gặp nhiều khó khăn. Bên
cạnh đó, chính sách hình sự và đường lối xử lý đối với người phạm tội tương đối
nhẹ, không có sự phân biệt tội phạm và hậu quả pháp lý giữa chủ thể đặc biệt
(người có chức vụ, quyền hạn) với chủ thể thường, do đó không đủ sức răn đe,
phòng ngừa chung.
1.3.3. Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trong Bộ luật hình sự năm
1999
BLHS năm 1999, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2000 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009). Trong BLHS năm 1999, tội vi phạm các quy định về quản lý đất
đai được quy định tại Điều 174 BLHS năm 1999:
“1.Người nào lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi,
cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất
25
trái pháp luật, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm
đến bảy năm:
a) Đất có diện tích lớn hoặc có giá trị lớn;
b)Gây hậu quả nghiêm trọng.
3.Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm
mươitriệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ một năm đến năm năm”.[30].
Về mặt tên tội danh, thì tội phạm này cũng được tách từ tội vi phạm các quy
định về quản lý và bảo vệ đất đai tại Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1985 là do yêu
cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong thực tiễn xét xử.
- Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ,
quyền hạn liên quan đến việc giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử
dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất. Đối với người khác cũng có thể là
chủ thể nhưng họ chỉ là đồng phạm trong vụ án có đồng phạm.
- Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy
định của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai về việc giao đất, thu hồi, cho thuê,
cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất.
- Mặt khách quan của tội phạm:Người phạm tội có hành vi lợi dụng hoặc lạm
dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử
dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đai trái pháp luật như Luật đất đai, các
Nghị định của chính phủ hoặc các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân hoặc của Uỷ
ban nhân nhân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.Hậu quả không phải là dấu
hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.
- Mặt chủ quan của tội phạm:Người phạm tội vi phạm các quy định về quản
lý đất đai thực hiện hành vi của mình là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của
mình là vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý đất đai, mong muốn cho hậu
quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ
của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng
chủ yếu vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác
26
Có thể thấy, Điều 174 BLHS năm 1999 đã thể hiện được bản chất của hành
vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai, có nhiều sửa đổi, bổ sung nhiều theo
hướng có lợi cho người phạm tội như: Quy định cụ thể hành vi khách quan của
người phạm tội; chỉ bị coi là tội phạm khi hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà
còn vi phạm; bổ sung một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt ở khoản 2 của
điều luật; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong cùng điều luật.
Nhận xét: BLHS năm 1999 đã góp phần rất quan trọng trong việc quản lý xã
hội, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức và của công dân. Tuy
nhiên, có thể thấy Điều 174 vẫn quy định tình tiết mang tính “định tính”,như“Đất
có diện tích lớn hoặc có giá trị lớn”, hoặc “Gây hậu quả nghiêm trọng”, điều này
không những làm cho công tác áp dụng pháp luật trong thực tiễn gặp nhiều khó
khăn mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến công tác hướng dẫn của các cơ quan liên
ngành trung ương. Mức hình phạt áp dụng đối với người phạm tội còn thấp, chưa
phân hóa được TNHS một cách rõ ràng, quy định trong CTTP còn đơn giản.
1.3.4. Điểm mới của Bộluật hình sự năm 2015 về tội vi phạm các quy định
về quản lý đất đai
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chính thức có hiệu lực pháp
luật toàn bộ vào ngày 01/01/2018. Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất
đai được quy định tại Điều 229 BLHS năm 2015. So với quy định tại Điều 174 của
BLHS năm 1999, thì BLHS năm 2015 có những sửa đổi, bổ sung cơ bản như sau:
- Khoản 1: Cụ thể hóa tình tiết có tính định tính “đất có diện tích lớn hoặc có
giá trị lớn” và “gây hậu quả nghiêm trọng” tại khoản 1 Điều 174 BLHS 1999 bằng:
+ Đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét
vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000
mét vuông (m2) đến dưới 50.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi
nông nghiệp có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2).
+ Đất có giá trị quyền dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng đến
dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng đến
dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp.
- Khoản 2: cụ thể hóa các tình tiết có tính định tính “đất có diện tích rất lớn
27
hoặc có giá trị rất lớn”; “gây hậu quả rất nghiêm trọng” tại khoản 2 Điều 174 BLHS
1999 bằng: Đất trồng lúa có diện tích từ 30.000 mét vuông (m2) đến dưới 70.000
mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ
50.000 mét vuông (m2) đến dưới 100.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và
đất phi nông nghiệp có diện tích từ 40.000 mét vuông (m2) đến dưới 80.000 mét
vuông (m2).
+ Đất có giá trị quyền dụng đất được quy thành tiền từ 2.000.000.000 đồng
đến dưới 7.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 5.000.000.000 đồng
đến dưới 15.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp.
Ngoài ra, Điều 229 BLHS năm 2015 còn bổ sung quy định: “Gây ảnh hưởng
xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” là tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 2.
- Khoản 3: Cụ thể hóa các tình tiết “đất có diện tích đặc biệt lớn hoặc có giá
trị đặc biệt lớn” và “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” tại khoản 3 Điều 174
BLHS 1999 bằng: Đất trồng lúa có diện tích 70.000 mét vuông (m2) trở lên; đất
rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích 100.000 mét vuông (m2)
trở lên; đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích 80.000 mét vuông
(m2) trở lên.
+ Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền 7.000.000.000 đồng
trở lên đối với đất nông nghiệp hoặc 15.000.000.000 đồng trở lên đối với đất phi
nông nghiệp.
1.4. Khái quát lý luận định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm
các quy định về quản lý đất đai
1.4.1. Khái quát lý luận định tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý
đất đai
1.4.1.1. Khái niệm định tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, có nhiều quan điểm khác nhau về
khái niệm định tội danh như:Định tội danh là việc xác nhận về mặt pháp lý sự phù
hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã được thực hiện
với các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng được quy định trong Bộ luật
hình sự. [5, tr.5].
28
Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính
xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu
hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự”
[46, tr.9,10].
Quan điểm của GS.TSKH. Lê Cảm cho rằng: “Định tội danh là quá trình
nhận thức lý luận có tính logic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các chứng
cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định
sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với
các dấu hiệu của CTTP tương ứng do luật hình sự quy định nhằm đạt được sự thật
khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự,
làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa TNHS một cách công minh, có căn cứ
và đúng pháp luật” [9, tr.716].
Theo tác giả khái niệm định tội danh cần nêu ra được chủ thể, căn cứ, trình
tự thủ tục và kết quả của hoạt động định tội danh. Tiếp thu các quan điểm trên đây,
tác giả đưa ra khái niệm định tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
như sau:Định tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai là quá trình nhận
thức lý luận có tính logic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự của cơ quan, người có thẩm quyền, được tiến
hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của
vụ án hình sự nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm
cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của CTTP quy định tại Điều 229 BLHS,
từ đó đưa ra kết luận hành vi đó có cấu thành tội vi phạm các quy định về quản lý
đất đai hay tội phạm khác, nếu cấu thành tội vi phạm các quy định về quản lý đất
đai thì theo điểm, khoản nào của Điều 229 BLHS.
1.4.1.2. Cơ sở của định tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
Dựa trên khái niệm định tội danh và định tội danh tội vi phạm các quy định
về quản lý đất đai có thể xác định cơ sở định tội danh theo các góc độ sau:
- Cơ sở thực tiễn: Cơ sở thực tiễn của định tội danh và định tội danh tội vi
phạm các quy định về quản lý đất đai là hành vi nguy hiểm cho xã hội đã diễn ra
29
trong thực tiễn, được thể hiện thông qua các tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi
khách quan đó.
- Cơ sở pháp lý: Cơ sở pháp lý của định tội danh và định tội danh tội vi phạm
đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai là toàn bộ các quy định của pháp
luật hiện hành liên quan đến định tội danh đối với tội phạm này. Theo nghĩa hẹp thì
cơ sở pháp lý của định tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai là Điều
229 của BLHS năm 2015 và các quy định liên quan tại phần chung của BLHS năm
2015.
Trong đó, các dấu hiệu quy định trong các Điều luật của BLHS được mô
phỏng, thể hiện dưới các mô hình pháp lý là các cấu thành tội phạm. Hay nói cách
khác, CTTP là cơ sở để người cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng pháp luật
phân tích, so sánh giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực
hiện với các dấu hiệu của CTTP tương ứng do BLHS quy định nhằm xác định sự
phù hợp và kết luận hành vi đó có phạm tội hay không, nếu có thì phạm tội gì.
Các dấu hiệu của CTTP tương ứng có thể là những dấu hiệu bắt buộc phải có
trong bất kỳ CTTP cụ thể như: khách thể của tội phạm, hành vi thuộc mặt khách
quan của tội phạm, lỗi thuộc mặt chủ quan của tội phạm, năng lực TNHS thuộc mặt
chủ thể của tội phạm; ngoài ra, còn có những dấu hiệu không bắt buộc phải có trong
mọi CTTP, có thể có trong cấu thành của tội phạm này nhưng không có trong cấu
thành của tội phạm khác như: hậu quả thuộc mặt khách quan của tội phạm, mục
đích, động cơ phạm tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm.
Căn cứ vào mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và vai trò của nó đối với
việc áp dụng pháp luật hình sự, CTTP được phân thành ba loại: CTTP cơ bản,
CTTP tăng nặng và CTTP giảm nhẹ. CTTP cơ bản là cấu thành chỉ có dấu hiệu định
tội, thể hiện các đặc trưng cho mỗi tội phạm cụ thể và là căn cứ để phân biệt tội
phạm này với tội phạm khác.
- Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thì CTTP được quy
định tại khoản 1 Điều 229 BLHS năm 2015 là CTTP cơ bản của tội vi phạm các quy
định về quản lý đất đai.
Định tội danh đối với khoản 1 Điều 229 khi có một trong các tình tiết sau:
30
+ Đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét
vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000
mét vuông (m2) đến dưới 50.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi
nông nghiệp có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2).
+ Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng
đến dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng
đến dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp.
+ Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.
Được hiểu là người đó đã bị xử lý kỷ luật bằng một trong hình thức kỷ luật
theo quy định pháp luật về xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, như khiển trách;
cảnh cáo; hạ bậc lượng; giáng chức...về vi phạm trong lĩnh vực quản lý đất đai như
thu hồi đất trái pháp luật, cho thuê trái pháp luật...với diện tích đất, giá trị quyền sử
dụng đất thấp hơn quy định ở trường hợp a hoặc b của khoản 1 Điều 229, nhưng
chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý kỷ luật.
- CTTP tăng nặng là cấu thành cơ bản có thêm một hay nhiều tình tiết định
khung tăng nặng mà chúng làm tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm tăng
lên một cách đáng kể.
Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thì CTTP được quy định tại
điểm khoản 2 Điều 229 BLHS năm 2015 là CTTP tăng nặng của tội vi phạm các quy
định về quản lý đất đai. Định tội danh theo CTTP này khi có một trong các dấu hiệu sau:
+ Có tổ chức: Đây là trường hợp có từ 02 người trở lên cố ý cấu kết chặt chẽ
với nhau cùng tham gia phạm tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai.
+ Đất trồng lúa có diện tích từ 30.000 mét vuông (m2) đến dưới 70.000 mét
vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 50.000
mét vuông (m2) đến dưới 100.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi
nông nghiệp có diện tích từ 40.000 mét vuông (m2) đến dưới 80.000 mét vuông (m2).
+ Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ 2.000.000.000
đồng đến dưới 7.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 5.000.000.000
đồng đến dưới 15.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp.
+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội: là gây ra những tác
động xấu đến tình hình an ninh, tác động tiêu cực đến trật tự, an toàn xã hội. Khi áp
31
dụng tình tiết này phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ ảnh
hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. [4, tr.212].
Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thì CTTP được quy định
tại điểm khoản 3 Điều 229 BLHS năm 2015 là CTTP tăng nặng của tội vi phạm các
quy định về quản lý đất đai, khi thỏa mãn dấu hiệu sau:
+ Đất trồng lúa có diện tích 70.000 mét vuông (m2) trở lên; đất rừng đặc
dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích 100.000 mét vuông (m2) trở lên;
đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích 80.000 mét vuông (m2)
trở lên.
+ Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền 7.000.000.000 đồng
trở lên đối với đất nông nghiệp hoặc 15.000.000.000 đồng trở lên đối với đất phi
nông nghiệp.
- CTTP giảm nhẹ là cấu thành cơ bản có thêm một hay nhiều tình tiết định
khung giảm nhẹ mà chúng làm tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm giảm
một cách đáng kể. Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thì không có
CTTP giảmnhẹ.
Để xác định một hành vi phạm tội có CTTP tăng nặng hoặc giảm nhẹ, trước
hết cần xác định hành vi đó có thỏa mãn các dấu hiệu của CTTP cơ bản hay không.
Sự phân loại CTTP này là cơ sở để phân hóa TNHS dựa vào sự phân biệt các mức
độ nguy hiểm khác nhau của các trường hợp phạm tội của một loại tội phạm, là cơ
sở của việc định tội danh và quyết định hình phạt.
1.4.1.3. Các bước định tội danh đối với tội vi phạm các quy định về quản lý
đất đai
Định tội danh và định tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
thông thườngtrải qua ba bước: [26].
+ Bước 1: Xác định vụ việc, xem xét và đánh giá các tình tiết của vụ án trong
sự phù hợp với hiện thực khách quan.
Trong bước này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS,
Tòa án và một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra theo quy định tại Điều 164 BLTTHS năm 2015 như: Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm..tiến hành thu thập và làm rõ tất cả các tình tiết liên quan đến sự
32
việc đầy đủ, toàn diện, trung thực, chính xác, khách quan và khoa học. Mỗi tình tiết
của vụ án phải được kiểm tra, phân tích, đánh giá độc lập, phải đặt nó trong hoàn
cảnh cụ thể, sau đó đặt trong mối quan hệ với các tình tiết khác, trong cả quá trình
diễn biến sự việc xảy ra. Để từ đó xác định có tội phạm xảy ra không, nếu xảy ra thì
là tội phạm gì, có phải tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai hay không.
Cần làm rõ các nội dung cụ thể sau:
+ Có việc lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ quyền hạn trong lĩnh vực quản lý
đất đai hay không? có thuộc trường hợp giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép
chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định của
pháp luật hay không?
+ Có kèm theo một trong các dấu hiệu như: Đất trồng lúa có diện tích từ
5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng
phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 50.000
mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ
10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2).
+ Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng
đến dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng
đến dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp;
+ Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.
+ Thời gian, địa điểm xảy ra hành vi phạm tội;
+ Diễn biến hành vi phạm tội, động cơ, mục đích;
+ Những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm.
+ Làm rõ có yếu tố đồng phạm hay không.
Điều quan trọng nhất trong giai đoạn này là đối với chủ thể định tội danh là
phải nắm được bản chất của sự việc xảy ra, phải bước đầu khẳng định được khả
năng có dấu hiệu của tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai để tiếp tục chuyển
sang giai đoạn tiếp theo của quá trình định tội danh đối với tội này.
+ Bước 2: Tìm ra tội danh và điều luật tương ứng (phù hợp) với hành vi đã
thực hiện trên thực tế.
Trên cơ sở kết quả tại bước 1, tại bước này Cơ quan, người có thẩm quyền
cần phân tích làm rõ, một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ để tìm ra tội danh và
33
điều luật phù hợp với hành vi đã thực hiện. Đây là giai đoạn trung tâm, chủ thể định
tội danh phải làm những việc sau đây:
Một là, phải đối chiếu từng tình tiết của vụ án xảy ra với các dấu hiệu CTTP của
tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai. Sau đó, phải đối chiếu, so sánh tổng thể tất
cả các tình tiết của vụ án với tổng thể các dấu hiệu CTTP của tội phạm này.
Hai là, phải phát hiện, tìm ra sự đồng nhất giữa các tình tiết điển hình của vụ
án với các dấu hiệu pháp lý tại Điều 229 BLHS. Trường hợp có căn cứ khẳng định
không có sự đồng nhất thì phải kiểm tra lại. Sau khi xác định chắc chắn không có sự
đồng nhất với CTTP tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thì có thể chuyển
sang kiểm tra các quy phạm PLHS khác để kết luận nếu có tội phạm xảy ra không
thuộc trường hợp tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thì cấu thành tội phạm
nào khác.
Trường hợp có căn cứ xác định có dấu hiệu của tội vi phạm các quy định về
quản lý đất đai thì chủ thể định tội danh vẫn phải kiểm tra lại trước khi đi đến kết
luận về đối tượng vụ án phạm tội nói trên. Sau khi xác định được đối tượng vụ án là
người có hành vi phạm tội thì phải xác định các khoản cụ thể của Điều 229 BLHS
được áp dụng. Tiếp đó, phải xác định xem vụ án có yếu tố đồng phạm không, ai là
người đồng phạm, thực hiện tội mua bán trái phép chất ma túy với vai trò cụ thể
nào. Kết thúc giai đoạn này, chủ thể định tội danh đã có căn cứ để xác định đối
tượng vụ án đã thực hiện hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai và hành
vi này đã cấu thành tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai quy định tại Điều
229 BLHS, xác định được các điều luật khác trong phần chung BLHS được áp dụng
để giải quyết vụ án.
+ Bước 3: Ra văn bản áp dụng pháp luật trong đó kết luận một cách có căn
cứ hành vi đã thực hiện có phạm tội không, nếu phạm tội thì theo điều luật nào của
Bộ luật hình sự[26, tr.13,15].
Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai đó là việc đưa ra kết luận
về tội danh với đối tượng đã thực hiện hành vi quy định tại Điều 229 BLHS.
Đây là giai đoạn đưa ra kết luận về việc đối tượng vụ án đã thực hiện tội
phạm vi phạm các quy định về quản lý đất đai. Trong trường hợp định tội danh
chính thức, chủ thể ra các quyết định tố tụng cần thiết theo quy định của BLTTHS
34
để truy cứu TNHS đối với người phạm tội về tội phạm nêu trên. Giai đoạn này giai
đoạn cuối cùng trong quá trình định tội danh. Chủ thể định tội danh phải bằng ý
thức pháp luật xã hội chủ nghĩa và niềm tin nội tâm khẳng định một cách dứt khoát
rằng đối tượng vụ án đã phạm tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai và nêu ra
các điều luật được áp dụng trong cả BLHS và BLTTHS.
1.4.1.4. Các giai đoạn của hoạt động định tội danh đối với tội vi phạm các
quy định về quản lý đất đai
Quá trình định tội danh bao gồm 03 giai đoạn: [48, tr.88, 89].
Trong giai đoạn đầu tiên, các dấu hiệu chung nhất của hành vi được xác
định, hay nói cách khác, xác định loại quan hệ pháp luật. Trong giai đoạn này,
người áp dụng pháp luật giải quyết một vấn đề là trong trường hợp cụ thể này có
các dấu hiệu tội phạm hay không, hay hành vi đó chỉ được coi như một vi phạm
pháp luật khác. Trong trường hợp tìm thấy quan hệ pháp luật hình sự, nghĩa là trong
hành vi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có các dấu hiệu phạm tội,
lúc này quá trình định tội danh chuyển sang giai đoạn hai.
Giai đoạn hai xác định tội phạm trên được nêu trong chương nào của Bộ luật
Hình sự. Việc phân định các Chương của BLHS căn cứ vào khách thể loại của tội phạm.
Giai đoạn thứ ba của quá trình định tội danh là đối chiếu và so sánh các loại
dấu hiệu tội phạm.
Ví dụ: Sau khi xác định rằng hành vi phạm tội này có liên quan đến các tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (Chương XVIII Bộ luật hình sự) cần phải làm sáng
tỏ đó là tội gì: tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai, tội vi phạm quy định về
quản lý rừng...Chính trong giai đoạn này việc so sánh được tiếp tục trong phạm vi
của một điều luật thuộc một chương cụ thể của BLHS: cấu thành cơ bản hay cấu
thành tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS.
Định tội danh dựa vào các dấu hiệu của cấu thành tội phạm là một phương
pháp khoa học của việc áp dụng các quy phạm của pháp luật hình sự. Việc sử dụng
phương pháp này sẽ cho phép tiến hành đối chiếu hành vi nguy hiểm cho xã hội đã
được thực hiện với định nghĩa của pháp luật về loại hình vi tương tự không dựa theo
yếu tố ngẫu nhiên, mà theo các dấu hiệu cơ bản và điển hình mà chúng ta đã được
35
chia thành từng nhóm trong một hệ thống đã được quy định rất khoa học. Đấy chính
là định tội danh dựa theo các dấu hiệu của cấu thành tội phạm.
Tóm lại, có thể nói rằng, việc phân chia các bước, giai đoạn định tội danh
trên chỉ có tính chất tương đối. Cũng có trường hợp việc định tội danh lại phải quay
lại bắt đầu từ đầu để kiểm tra lại tính đúng đắn của kết quả định tội danh nếu như
chủ thể định tội danh có những sai lầm trong quá trình định tội danh.
1.4.2. Khái quát lý luận về quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy
định về quản lý đất đai
1.4.2.1. Khái niệm quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về
quản lý đất đai
Quyết định hình phạt là khái niệm được nhiều công trình khoa học nghiên
cứu và đưa ra khái niệm khác nhau. Tuy nhiên, đa số đều thống nhất với nội hàm:
“Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt (đối
với loại hình phạt có các mức khác nhau) trong phạm vi luật định để áp dụng đối
với chủ thể chịu TNHS)”.[37, tr.315].
Đa số các điều luật về tội phạm cụ thể quy định chế tài gồm nhiều loại hình
phạt chính khác nhau. Quyết định hình phạt đối với chủ thể chịu TNHS là sự lựa
chọn một trong số hình phạt chính và xác định mức hình phạt đối với loại hình phạt
có các mức khác nhau trong khung hình phạt được quy định. Nếu chế tài được quy
định chỉ có một loại hình phạt chính và có các mức khác nhau thì quyết định hình
phạt trong trường hợp này là xác định mức hình phạt trong phạm vi khung hình phạt
được quy đinh.
Do vậy, có thể hiểu Quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về
quản lý đất đai là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt trong phạm
vi quy định tại Điều 229 BLHS năm 2015 để áp dụng đối với chủ thể chịu TNHS về
tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai.
1.4.2.2. Đặc điểm cơ bản của quyết định hình phạt tội vi phạm các quy định
về quản lý đất đai
Thứ nhất, quyết định hình phạt là là giai đoạn sau khi đã thực hiện việc định
tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai. Quyết định hình phạt có liên
quan chặt chẽ với việc xác định tội phạm hay còn gọi là định tội danh, được thực
36
hiện sau khi định tội danh. Việc xác định tội danh đúng tạo tiền đề cho việc quyết
định hình phạt đúng.
Thứ hai, thẩm quyền quyết định hình phạt nói chung và quyết định hình phạt
tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai chỉ thuộc về Tòa án. Chỉ có Tòa án mới
có thẩm quyền quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Khi quyết định hình
phạt, Tòa án (Hội đồng xét xử) nhân danh Nhà nước chính thức xác định về mặt
pháp lý một người có tội và tuyên hình phạt cho người có hành vi phạm tội.
Thứ ba, quyết định hình phạt do Tòa án thực hiện trên cơ sở quy định của
BLHS nhằm xác định khung hình phạt và lựa chọn hình phạt cụ thể trong phạm vi
khung hình phạt đó để áp dụng cho người phạm tội. Đặc điểm này thể hiện, khi
quyết định hình phạt nói chung và tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
Tòa án căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự như cơ sở của TNHS, các quy
định về hình phạt đối với người phạm tội.., tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và
tăng nặng trách nhiệm hình sự và phạm vi khung hình phạt quy định tại Điều 229
để áp dụng đối với người phạm tội.
Thứ tư, quyết định hình phạt không mang tính cố định, rập khuôn mà có sự
tuỳ nghi nhất định của Toà án, phụ thuộc vào tích chất, đặc điểm của từng vụ án,
quy định vềloại và mức hình phạt nhất định. Tội phạm nói chung và tội vi phạm các
quy định về quản lý đất đai đều có chế tài lựa chọn giữa hai hay nhiều hình phạt;
mức độ của mỗi loại hình phạt cũng được quy định ở khung rộng, nhất là phạt tù;
các hình phạt bổ sung hay một số chế định khác như miễn trách nhiệm hình sự,
miễn hình phạt, án treo, quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của luật... được quy
định ở dạng tuỳ nghi “có thể”.
Thứ năm, quyết định hình phạt mặc dù tuân thủ quy định của pháp luật, trên
cơ sở các căn cứ do BLHS quy định, nhưng phù thuộc rất nhiều vào ý chí của Thẩm
phán, Hội thẩm, phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, năng lực và đạo đức Thẩm phán, Hội
thẩm khi lượng hình. Đặc điểm này thể hiện bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật, thì
việc nâng cao năng lực, trình độ của Thẩm phán, Hội thẩm có vai trò rất quan trọng.
37
1.4.2.3. Các trường hợp quyết định hình phạt đối với người phạm tội vi phạm
các quy định về quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh
*Quyết định hình phạt theo khoản 1 Điều 229 BLHS năm 2015
Trường hợp người phạm tội phạm tội vi phạm các quy định về quản lý đất
đai theo khoản 1 Điều 229. Căn cứ quy định BLHS, tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ
và tăng nặng trách nhiệm hình sự, Tòa án có thể áp dụng hình phạt cải tạo không
giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
*Quyết định hình phạt theo khoản 2 Điều 229 BLHS năm 2015
Trường hợp người phạm tội phạm tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
theo khoản 2 Điều 229. Căn cứ quy định BLHS, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng
trách nhiệm hình sự, Tòa án có thể áp dụng hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
*Quyết định hình phạt theo khoản 3 Điều 229 BLHS năm 2015
Trường hợp người phạm tội phạm tội vi phạm các quy định về quản lý đất
đai theo khoản 3 Điều 229. Căn cứ quy định BLHS, tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ
và tăng nặng trách nhiệm hình sự, Tòa án có thể áp dụng hình phạt từ 05 năm đến
12 năm.
* Ngoài ra, Tòa án có thể quyết định áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền
từ 10.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
- Trường hợp Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt
được áp dụng.
+ Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật
khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51
của BLHS.
+ Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ
38
hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng
phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
+ Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2
Điều 54 BLHS nhưng khung hình phạt được áp dụng là khoản 1 Điều 229, thì Tòa
án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc
chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do phải được ghi rõ trong
bản án.
- Trường hợp Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Khi xét xử cùng 01 lần một người phạm nhiều tội (tội vi phạm các quy định
về quản lý đất đai và tội phạm khác), Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội
và tổng hợp hình phạt theo quy định tại Điều 55 BLHS năm 2015.
- Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm
Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm của tội vi phạm
các quy định về quản lý đất đai, Tòa án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính
chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.
Tiểu kết Chương 1
Thông qua Chương 1 của luận văn tác giả đã phân tích một số vấn đề lý luận
và pháp luật về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai như: khái niệm, đặc
điểm của tội phạm này, từ đó tác giả phân biệt tội này với một số tội dễ gây nhầm
lẫn trong BLHS năm 2015. Ngoài ra, để có một góc nhìn xuyên suốt về tội vi phạm
các quy định về quản lý đất đai, tác giả đã phân tích, khái quát lịch sử lập pháp của
Nhà nước ta về tội danh này từ sau năm 1945 đến khi BLHS năm 2015 có hiệu lực
pháp luật. Những phân tích này là cơ sở để tác giả phân tích những quy định của
BLHS năm 2015 và thực tiễn áp dụng tội danh này tại tỉnh Bắc Ninh tại Chương 2
của luận văn.
39
Chương 2
THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TỘI VI
PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI TẠI TỈNH BẮC NINH
2.1. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về tội vi phạm các quy
định về quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh
2.1.2. Khái quát tình hình định tội danh (xét xử) tội vi phạm các quy định
về quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh
Trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, Tòa án nhân dân hai cấp
tỉnh Bắc Ninh đã đưa ra xét xử tổng số 08 vụ án và27bị cáo về tội vi phạm các quy
định về quản lý đất đai. Cụ thể (xem bảng 2.1; 2.2 phần phụ lục):
Qua bảng thống kê so sánh giữa tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
so với nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đã được TAND tỉnh Bắc Ninh đưa
ra xét xử sơ thẩm và phúc thẩm giai đoạn 2015 – 2019, cho thấy:
Số vụ phạm tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai chiếm tỷ lệ nhỏ
trong cơ cấu nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, cụ thể là Tòa án nhân dân
hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã đưa ra xét xử sơ thẩm 06 vụ với 27bị cáo tội vi phạm các
quy định về quản lý đất đai, chiếm tỷ lệ 1,98% số vụ và 7,37% số bị cáo nhóm tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và đưa ra xét xử phúc thẩm 04 vụ với 14 bị cáo tội
vi phạm các quy định về quản lý đất đai, chiếm tỷ lệ 4,4% số vụ và 10,5 % số bị cáo
trong nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Có thể thấy, tội vi phạm các quy
định về quản lý đất đai có số bị cáo chiếm tỉ lệ nhiều, do vụ án chủ yếu được thực
hiện dưới hình thức đồng phạm, có sự tham gia của nhiều loại người như giúp sức,
tổ chức và thực hành. Xét xử phúc thẩm đa số là do các bị cáo kháng cáo theo
hướng xin giảm nhẹ hình phạt.
Mặc dù vậy, đây là tội dễ gây ra nhầm lẫn tội danh với nhóm tội phạm về
chức vụ, đặt biệt là tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ hoặc
tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến tình
hình an ninh, chính trị của địa phương do chủ yếu liên quan đến ngươi có chức vụ,
quyền hạn trong lĩnh vực quản lý đất đai. Do vậy, đặt ra yêu cầu cần nâng cao hiệu
quả của việc định tội danh trong thời gian tới.
40
2.1.3. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
tại tỉnh Bắc Ninh
* Theo cấu thành tội phạm cơ bản:
Do tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai chiếm tỉ lệ không nhiều,
trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019 toàn tỉnh Bắc Ninh đã đưa ra xét
xử là 05 vụ và 24bị cáo theo CTTP cơ bản của tội vi phạm các quy định về quản lý
đất đai. Cụ thể (Xem bảng 2.3 phần phụ lục):
Nhìn chung, quá trình định tội danh và quyết định hình phạt, Tòa án hai cấp
tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện tốt hoạt động định tội danh, không có vụ án nào bị hủy
và đình chỉ vụ án, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra,
truy tố...quá trình định tội danh cơ bản tuân thủ đúng pháp luật, đúng người, đúng
tội và đúng pháp luật. Điển hình như vụ án sau:
Ví dụ: Bản án hình sự sơ thẩm số: 122/2015/HSST ngày 30/9/2015 của
TAND huyện Yên Phong
Nội dung vụ án: Nguyễn Văn Tàu là trưởng thôn Quan Độ nhiệm kỳ 2011-
2013. Năm 2012, Tàu đã tổ chức họp bàn cho anh Nguyễn Văn Trang, sinh năm
1974 ở cùng thôn thuê đất trái thẩm quyền 510m2 đất ở khu vực lòng sông Ngũ
Huyên - hạn thuê là 30 năm, 5 năm ký hợp đồng một lần, anh Trang phải nộp một
lần với số tiền 500.000.000 đồng cho 30 năm thuê đất, mục đích để chứa hàng hóa.
Ngày 06/8/2012, Nguyễn Văn Tàu và Nghiêm Văn Dục (phó thôn), Đặng Đình Thư
(kế toán thôn) ký hợp đồng thuê đất với anh Nguyễn Văn Trang. Ngày 08/8/2012,
anh Trang đã nộp số tiền 500.000.000đ vào quỹ thôn có phiếu thu tiền. Ngày
10/8/2012, Tàu đã tổ chức giao cho anh Trang diện tích 510m2 đất. Ngoài ra cuối
năm 2011, Nguyễn Văn Tàu còn tổ chức họp bàn cho 4 hộ dân thôn Quan Độ thuê
trái thẩm quyền tổng số 880m2 ở khu vực thùng chứa các gốc Bịu, thu tổng số tiền
23.460.000đ. Tổng diện tích đất mà Tàu cho thuê trái thẩm quyền là 1390m2, số
tiền thu được từ việc cho thuê trái thẩm quyền là 523.460.000đ.
Cáo trạng số: 88/CTr-VKS, ngày 11/8/2015 của Viện Kiểm sát nhân dân
huyện Yên Phong đã truy tố Nguyễn Văn Tàu về tội “Vi phạm các quy định về quản
lý đất đại” theo điểm b, khoản 1, Điều 174 Bộ luật hình sự.
41
TAND huyện Yên Phong nhận định: Hành vi cho thuê đất trái thẩm quyền
của bị cáo trên địa bàn thôn Quan Độ đã gây hậu quả nghiêm trọng, mất ổn định
tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây bức xúc trong nhân dân, làm mất niềm tin
của nhân dân đối với chính quyền cơ sở. Bị cáo bị truy tố theo điểm b “đất có diện
tích lớn hoặc có giá trị lớn” của điều luật là có căn cứ pháp luật.Hành vi phạm tội
của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền quản lý thống
nhất của Nhà nước đối với đất đai. Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy
hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.
Trong vụ án này có Đặng Đình Thư và Nghiêm Văn Dục đã tham gia ký hợp
đồng cho anh Nguyễn Văn Trang thuê đất, xét việc làm của Thư, Dục chỉ vì làm lợi
cho địa phương, là giúp việc cho trưởng thôn, tham gia với vai trò thứ yếu, không có
mục đích từ lợi, Cơ quan điều tra không xử lý mà chỉ gọi hỏi, nhắc nhở là phù hợp.
Tòa án đã quyết định: Áp dụng điểm b, khoản 1, Điều 174, tuyên bố bị cáo
Nguyễn Văn Tàu phạm tội “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai" là hoàn toàn
phù hợp với quy định của pháp luật.
*Theo cấu thành tội phạm tăng nặng:
Định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng năng của tội vi phạm các quy
định về quản lý đất đai của TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninhchiếm tỉ lệ rất ít, trong
khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019 toàn tỉnh Bắc Ninh đã đưa ra xét xử là
01 vụ với 03 bị cáo theo CTTP tăng nặng của tội vi phạm các quy định về quản lý
đất đai. Cụ thể (xem bảng 2.4 phần phụ lục):
Nhìn chung, do số vụ định tội danh theo CTTP tăng nặng của Tòa án hai cấp
tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 hầu như không có nhiều.
Do vậy quá trình định tội danh cơ bản tuân thủ đúng pháp luật, đúng người, đúng tội
và đúng pháp luật (xem bảng 2.5 phần phụ lục).
*Trường hợp phạm nhiều tội:
Phạm nhiều tội là thực hiện nhiều hành vi, mỗi hành vi cấu thành một tội
phạm độc lập hoặc chỉ thực hiện một hành vi và hành vi đó cấu thành nhiều tội
phạm khác nhau. Xâm phạm vào các khách thể khác nhau. Các hành vi có thể được
thực hiện vào cùng một thời điểm hoặc vào các thời điểm khác nhau.Tòa án xem
xét, quyểt định tội danh và hình phạt đối với từng hành vi, sau đó tổng hợp hình
42
phạt của bản án. Theo thống kê của TAND tỉnh Bắc Ninh cho thấy, việc xử lý các
trường hợp phạm nhiều tội không nhiều, chủ yếu là các tội đơn lẻ.
Có thể thấy định tội danh trường hợp phạm nhiều tội đối bị cáo phạm tội vi
phạm các quy định về quản lý đất đai, đồng thời có bị cáo phạm một tội phạm khác
chiếm tỉ lệ rất ít trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Ví dụ: Bản án số: 110/2016/HSST ngày 17/9/2016 của TAND huyện Y, tỉnh
Bắc Ninh
Nội dung vụ án: Vào năm 2013-2014, thôn Yên Vĩ được nhà nước hỗ trợ số
tiền 122.776.8244đ tiền thủy lợi phí, Nguyễn Xuân Khái là Trưởng thôn kiêm chủ
nhiệm HTX dịch vụ nông nghiệp thôn Yên Vĩ nhiệm kỳ 2012-2015 đã nhận số tiền
trên những không nhập quỹ tập thể theo chỉ đạo của Chủ tịch UBND xã Hòa Tiền,
mà 03 lần chiếm đoạt toàn bộ số tiền này (lần thứ nhất: 79.488.244; hai lần còn lại:
một lần 28.896.000đ và một lần 13.932.000đ ).
Trong thời gian làm Trưởng thôn Yên Vũ, Nguyễn Xuân Khái đã tổ chức các
cuộc họp để bàn việc bán đất trái thẩm quyền 16 lô đất ao xóm Trong với diện tích
là 1858,6m2 thu tổng số tiền 4.124.080.000đ. Tham gia cùng với Khái trong việc
bán trái thẩm quyền 16 lô đất trên là Nguyễn Văn Quất - Bí thư Chi bộ kiêm
Trưởng ban kiểm soát thôn Yên Vĩ và Nguyễn Văn Bình - Kế toán thôn Yên Vĩ.
Ngoài ra, Nguyễn Xuân Khái, Nguyễn Văn Bình và Nguyễn Văn Quất còn họp bàn
và thu thêm tiền ngoài quyết định đối với 25 lô đất ở dự án giãn dân khu vệ lũy xóm
Đông với số tiền là 3.903.176.090đ để xây dựng các công trình của thôn theo hướng
dẫn của địa phương và được thống nhất trong hội nghị quân dân chính. Nguyễn
Xuân Khái còn tự quyết định, không họp bàn tập thể, bán trái thẩm quyền 02 lô đất
ở khu vực ao Giếng, 01 lô đất ở khu vực chuôm Cứ: Tổng diện tích của 03 lô đất
này là 381,45m2, thu tổng số tiền 877.335.000đ. Việc làm này của Khái cùng đồng
phạm đã vi phạm Điều 37 Luật đất đai.Việc bán đất trái thẩm quyền của Nguyễn
Xuân Khái cùng đồng phạm đã gây thiệt hại, thất thu ngân sách cho Nhà nước là
611.827.500đ.
Cáo trạng số: 52/CTr- VKS ngày 09/6/2016 của VKSND huyện Y truy tố các
bị cáo Nguyễn Xuân Khái về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành
công vụ” theo điểm b khoản 2 Điều 281 và tội “Vi phạm các quy định về quản lý
43
đất đai” theo điểm b khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự; Nguyễn Văn Bình và
Nguyễn Văn Quất về tội “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” theo điểm b
khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.
TAND huyện Y đã nhận định: Cáo trạng truy tố bị cáo Khái về tội “Lợi dụng
chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”; bị cáo Khái, Bình và Quất còn bị
truy tố, xét xử về tội “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” là đúng người, đúng
tội.Tòa án đã áp dụng điểm b khoản 2 Điều 281; điểm b khoản 1 Điều 174 quyết
đinh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân Khái (Tức Nguyễn Văn Khái) phạm tội “Lợi
dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” và tội “Vi phạm các quy định
về quản lý đất đai”; Các bị cáo Nguyễn Văn Bình và Nguyễn Văn Quất phạm tội
“Vi phạm các quy định về quản lý đất đai”.
Nhận xét: Trong vụ án này bị cáo Khái bị truy tố, xét xử về trường hợp
phạm nhiều tội là: tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” với
việc Nguyễn Xuân Khái là Trưởng thôn kiêm chủ nhiệm HTX dịch vụ nông nghiệp
thôn Yên Vĩ nhiệm kỳ 2012-2015 đã nhận số tiền là 122.776.8244đ tiền thủy lợi
phí,những không nhập quỹ tập thể theo chỉ đạo của Chủ tịch UBND xã Hòa Tiền
mà đã chiếm đoạt toàn bộ số tiền này.Ngoài ra Khái còn bị truy tố, xét xử về tội “Vi
phạm các quy định về quản lý đất đai” với hành vi bán trái thẩm quyền 16 lô đất ao
xóm Trong, 02 lô đất ao Giếng, 01 lô đất chuôm Cứ cho 19 hộ dân thôn Yên Vĩ khi
chưa được các cấp có thẩm quyền có quyết định về việc cho phép chuyển mục đích
sử dụng đất. Tổng diện tích đất bán trái thẩm quyền là 2240.05m2, thu tổng số tiền
5.014.415.000đ.
Tòa án xem xét, quyết định tội danh và hình phạt đối với từng hành vi, sau
đó tổng hợp hình phạt của bản án là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật.
2.1.4. Những khó khăn, bất cập trong định tội tội vi phạm các quy định về
quản lý đất đai và nguyên nhân
2.1.4.1.Những khó khăn, bất cập trong định tội tội vi phạm các quy định về
quản lý đất đai
Mặc dù thực tiễn định tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
trênđịa bàn tỉnh Bắc Ninhđạt được nhiều kết quả thuận lợi, đa số các bản án đều xử lý
44
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử của TAND hai cấp
tỉnh Bắc Ninh vẫn còn có một số khó khăn, bất cập. Một số tồn tại điển hình như:
*Vẫn còn tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung nhiều lần, nhầm lẫntrong việc
định tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai và một số tội phạm về
chức vụ như tội lợi dụng, chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng tỉnh Bắc Ninh.
Ví dụ:Bản án số 06/2017/HSST ngày 18/01/2017 của TAND tỉnh Bắc Ninh
Xuất phát từ động cơ vụ lợi, vun vén cho lợi ích của địa phương, từ tháng
7/2005 các bị cáo Phạm Tiến Nam, Tống Văn Điệp, Lê Văn Bình, Hoàng Đắc Tư,
Hoàng Duy Minh và Nguyễn Đức Thuận là Chủ tịch, cán bộ địa chính và trưởng
thôn thuộc hai xã Tam Đa, Văn An đã tổ chức họp bàn, thống nhất bán 8710m2
bằng 75 lô đất ở tại khu Gốc Táo, thôn Đại Lâm, xã Tam Đa thuộc hành lang bảo vệ
đê điều (từ chân để ra phía đông 20m), thu tổng số tiền là 3.244.000.000đ. Trong đó
xã Tam Đa bán 38 lộ với diện tích3942 m2, thu được số tiền 1.372.000.000đ; xã
Vạn An bán 37 lô với diện tích 4768 m2 thu được số tiền 1.872.000.000đ. Toàn bộ
số tiền thu được từ việc bán đất thuộc hàng lang đế của thôn Đại Lâm và thôn Vạn
Phúc đều đưa vào đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi của 2 thôn và xã gồm
đường giao thông, trường học, nước sạch. Hậu quả đến nay, các hộ dân mua đất
không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đồng thời UBND hai xã Tam
Đa, Vạn An; các thôn Đại Lâm và Vạn Phúc không có khả năng trả lại tiền cho các
hộ dân.Hành vi của các bị cáo gây thiệt hại cho 75 hộ dân mua đất với tổng số tiền
là 3.244.000.000đ. Tiếp đó, năm 2007, Phạm Tiến Nam là Chủ tịch UBND xã Vạn
An, Tống Văn Điệp là Cán bộ Địa chính xã, Hoàng Anh Tuấn là trưởng thôn
Đương Xá, xã Vạn An đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ được
giao trong việc triển khai Quyết định số 778 ngày 08/6/2007 của Chủ tịch UBND
tỉnh Bắc Ninh về việc thu hồi 29.100,9 m2 đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng -
hạ tầng kỹ thuật khu Dốc Đặng, xã Vạn An. Trong đó có 123 lô (bằng 12.634 m2)
đất quy hoạch khu dân cư nông thôn không thuộc trường hợp phải đấu giá. Phạm
Tiến Nam đã chỉ đạo kê khống danh sách, viết lập khống hồ sơ xin cấp đất, cấp giấy
chứng nhận QSDĐ cho 81 lô đất trong tổng số 123 lô đất để đề nghị cơ quan có
thẩm quyền giao đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó, Nam chỉ đạo
45
bán theo giá thị trường lấy tiền chênh lệch để chi trả đền bù cao hơn phương án bồi
thường cho các hộ bị thu hồi đất và đầu tư xây dựng các công trình tại địa phương.
Theo kết luận của Sở Tài chính tỉnh, hành vi chi trả cao hơn phương án bồi thường
của các bị cáo đã gây thất thoát cho ngân sách nhà nước là 1.791.608.000đ.
VKSND tỉnh Bắc Ninh đã truy tố các bị can trên về tội “Vi phạm các quy
định về quản lý đất đai”, tuy nhiên sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự nêu trên,
ngày 01/12/2015, ngày 09/5/2016 thì TAND tỉnh Bắc Ninh đã 02 lần quyết định trả
hồ sơ điều tra bổ sung cho VKSND tỉnh Bắc Ninh, trong đó có lý do quan trọng
nhất là vấn đề tội danh: Các bị can đều là cán bộ cấp xã không có quyền hạn về
quản lý đất đai như: Giao đất, thu hồi, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất...
(không phải là chủ thể của tội phạm quy định tại Điều 174 BLHS)mà chỉ là người
lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong việc lập hồ sơ xin phê duyệt dự án, lập hồ sơ xin
giao đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau đó nâng mức thu tiền sử
dụng đất và mức đền bù, sử dụng tiền có được do bán đất không đúng quy định. Vì
vậy, các bị can không phạm tội “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” mà phạm
tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo quy định tại Điều
281 BLHS. Tội danh nặng hơn tội danh VKS truy tố.Do vậy, TAND tỉnh Bắc Ninh
đã quyết định trả hồ sơ vụ án hình sự đối với bị can: Phạm Tiến Nam và các đồng
phạm xem xét tội danh truy tố đối với Phạm Tiến Nam và các đồng phạm về tội
“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ” theo Điều 281 BLHS.
Ngày 18/01/2017, TAND tỉnh Bắc Ninh đã mở phiên tòa xét xử vụ án trên,
xác định đã tuyên bố các bị cáo Phạm Tiến Nam, Hoàng Đắc Tư, Tống Văn Điệp,
Hoàng Duy Minh, Nguyễn Đức Thuận, Lê Văn Bình và Hoàng Anh Tuấn phạm tội “Lợi
dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo khoản 3 Điều 281 BLHS.
Nhận xét: Có thể nói vụ án nêu trên là vụ án phức tạp, nhưng quan điểm
định tội danh của Cơ quan tố tụng tỉnh Bắc Ninh còn khác nhau, nguyên nhân xuất
phát từ năng lực, trình độ trong quá tình điều tra, thu thập chứng cứ và quy định
chưa rõ ràng của pháp luật.
* Cùng một chủ thể tội phạm và hành vi vi phạm nhưng các cấp xét xử, các
Tòa án vẫn có quan điểm định tội danh khác nhau trong quá trình xét xử vụ án liên
quan đến quản lý đất đai.
46
Ví dụ: Bản án số 99/2017/HSST ngày 22/11/2017 của TAND huyện Yên
Phong, tỉnh Bắc Ninh
TAND đã nhận định: Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Phong đã ra quyết
định khởi tố và tiến hành điều tra đối với 29 bị can có hành vi vi phạm: “Xã Đông
Phong đã bán đất, thu tiền trái thẩm quyền với tổng số 241 lô, lượt hộ, tương ứng
với diện tích là 28.462,4m2, thu tổng số tiền là 18.730.248.000 đồng. Trong đó:
UBND xã đã trực tiếp bán 04 lô, lượt hộ với diện tích 424m2 đất thu 281.784.000đ;
thôn Phong Nẫm bán 66 lô, lượt hộ với diện tích 7.078,12m thu, số tiền
3.950.167.000 đồng; thôn Phong Xá bán 76 lô, lượt hộ với diện tích 7.854,6m2 thu
số tiền 11.780.918.000 đồng; thôn Đông Xá bán 63 lô lượt hổ với 8.490,67m2 thụ
số tiền 2.079.276.000đ và thôn Đông Yên bán 33 lô, lượt hộ với 4.615m2 thu số
tiền 633.998.000đ. Ngoài ra còn thu tiền đất kep thổ cư được xác định là diện tích
đất thừa so với sơ đồ năm 2002 là 128 lượt hộ với diện tích là 12.345,1m2 thu số
tiền 462.831.800đ. Trong đó thôn Phong Năm thu của 16 lượt hộ với diện tích
781,2m2 thu số tiền 75.292.500đ; thôn Phong Xá thu của 43 lượt hộ với diện tích
4.361,4m2 thu số tiền 196.000.000đ: thôn Đông Xá thu của 37 lượt hộ với diện tích
3.207m2 thu số tiền là 66.013.000đ và thôn Đông Yên thu của 32 lượt hộ với diện
tích 3,995,5m2 thu số tiền là 125.466.300đ. Đến nay số tiền do bán đất trái thẩm
quyền mà có đã được quyết toán nộp về ngân sách UBND xã Đông Phong là
1.786.689.000đ, trong đó thôn Đông Yên là 205.077.000đ; thôn Phong Xá là
541.830.000đ; thôn Đông Xá là 252.327.000đ và thôn Phong Nẫm là 787.455.000đ,
số tiền còn lại do các thôn sử dụng vào xây dựng các công trình của thôn như
trường mầm non, đường bê tông và đình chùa.Bên cạnh việc bán đất trái thẩm
quyền, một số thôn còn ký hợp đồng cho thuê đất công ích, đất chuyên dùng trái
thẩm quyền, toàn bộ số tiền cho thuê các thôn tự thu, tự chi, không phải nộp về
UBND xã” về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo
điều 281 Bộ luật hình sự, mà các bị cáo chủ yếu là Chủ tịch, Phó chủ tịch, Cán bộ
địa chính, Trưởng thôn của xã đã lạm dụng quyền hạn của mình, đã vượt quá quyền
hạn của mình bán đất trái thẩm quyền. Đồng thời, Tòa án cũng đồng quan điểm với
VKS khi nhận định: do các bị cáo không có mục đích vụ lợi nên phạm vào tội “Vi
phạm các qui định về quản lý đất đai” theo Điều 174 Bộ luật hình sự chứ không
47
phải tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” như khởi tố, điều
tra ban đầu.
- Trong khi đó, tại Bản án số 06/2017/HSST ngày 18/01/2017 của TAND
tỉnh Bắc Ninh, cùng với hành vi và chủ thể là Lãnh đạo xã, thôn đã nhận định và 02
lần trả hồ sơ cho VKSND để điều tra bổ sung với lý do: Việc VKSND truy tố các
đối tượng là Chủ tich, Phó Chủ tịch xã, Trưởng thôn... về tội “Vi phạm các quy định
về quản lý đất đai” là không chính xác vì: Các bị can đều là cán bộ cấp xã không có
quyền hạn về quản lý đất đai như: Giao đất, thu hồi, cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất... (không phải là chủ thể của tội phạm quy định tại Điều 174 BLHS),
không có đủ căn cứ để cho rằng các bị can phạm tội “Vi phạm các quy định về quản
lý đất đai”. Về bản chất, các bị can đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để bán
đất trái phép vì mục đích vụ lợi cục bộ của địa phương. Do vậy, hành vi của các bị
can có dấu hiệu cấu thành tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công
vụ” theo Điều 281 BLHS. Tội danh nặng hơn tội danh VKS truy tố.TAND tỉnh Bắc
Ninh đã mở phiên tòa xét xử vụ án trên, tại phiên tòa, các bị cáo đều đề nghị HĐXX
xem xét các bị cáo phạm vào tội “Vi phạm các quy định quản lý đất đai” theo Điều
174 BLHS. HĐXX thấy rằng, theo quy định thì chủ thể của tội danh này là chủ thể
đặc biệt, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn liên quan đến việc quản lý đất đai
như: Giao đất, thu hồi đất,... cho phép chuyển mục đích sử dụng đất mà có hành vi
lợi dụng hoặc lạm dụng vượt quá quyền hạn của mình để giao đất, thu hồi đất, cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất đai... trái pháp luật. Trong vụ án này, các bị cáo
đều là các cán bộ xã và thôn, không phải là người có chức vụ, quyền hạn liên quan
đến việc quản lý đất đai (như Giao đất, thu hồi đất...) như phân tích ở trên, do vậy
không có cơ sở chấp nhận đề nghị của các bị cáo.
Nhận xét: Có thể thấy cùng dạng hành vi là bán, cho thuê đất trái thẩm
quyền do đối tượng là cán bộ xã, thôn nhưng việc định tội danh đối với trường hợp
này vẫn không có sự thống nhất trong thực tế. Có Tòa án định tội danh là tội “Lợi
dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” có Tòa án định tội danh là tội
“Vi phạm các quy định về quản lý đất đai”.
* Có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm trong vụ án về tội “Vi phạm các quy định về
quản lý đất đai”.
48
Ví dụ: Bản án số 99/2017/HSST ngày 22/11/2017 của TAND huyện Y, tỉnh
Bắc Ninh
Sau khi kết thúc điều tra thấy rằng các bị can không có mục đích vụ lợi nên
ngày 20/8/2017, VKSND huyện Yên Phong ra quyết định thay đổi khởi tố các bị
can Nguyễn Bá Thời, Nguyễn Văn Chiến, Nguyễn Trọng Nhuần, Nguyễn Trọng
Hiền, Nguyễn Mạnh Cường, Ngô Minh Trường, Bùi Minh Quyết, Đỗ Đức Xuyến,
Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Văn Tính, Nguyễn Văn Bộ,
Nguyễn Đức Nhẫn, Nguyễn Bá Kiểm, Nguyễn Bá Phú, Nguyễn Văn Sử, Đỗ Khoản
Vy, Đỗ Bá Hanh, Đỗ Bá Đồng, Nguyễn Đình Mạnh, Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn
Như Huynh, Ngô Tiến Sương, Nguyễn Thị Thể, Ngô Bá Tố về tội “Vi phạm các qui
định về quản lý đất đai theo Điều 174 Bộ luật hình sự. Trước tình hình chính trị địa
phương, căn cứ vào mức độ vi phạm của các bịcan và nhân thân của các bị can,
VKSND huyện Yên Phong đã ra quyết định đìnhchỉ vụ án đối với: Ngô Văn Tố,
Nguyễn Xuân Trường, Đỗ Khoan Đài, Nguyễn Văn Sử, Nguyễn Văn Phụng, Đỗ Bá
Đồng, Ngô Tiến Sương, Nguyễn Đình Mạnh, Đỗ Đức Xuyến, Nguyễn Văn Bộ,
Nguyễn Trọng Hiến, Đỗ Bá Hanh, Nguyễn Đức Nhẫn, Nguyễn Văn Cường và
Nguyễn Thị Thể, Đỗ Khoan Đài, Nguyễn Văn Phụng, Đỗ Bá Đồng, theo quy định
tại Điều 25 Bộ luật hình sự.Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự thụ lý số
68/2017/HSST ngày 29/8/2017, TAND huyện Yên Phong đã ra quyết định số
02/2017/HSST-QĐ ngày 10/10/2017 về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Cụ thể
nội dung yêu cầu điều tra bổ sung: Trong tổng số 15 bị can được đình chỉ vụ án theo
khoản 1 Điều 25 Bộ luật hình sự, nếu tính theo tiêu chí diện tích đất đã bán trái
thẩm quyền thì thấy có một số bị can tham gia bán với diện tích ngang nhau nhưng
có bị can bị truy tố, còn có một số bị can lại được đình chỉ vụ án. Như vậy có dấu
hiệu bỏ lọt người phạm tội. Đến ngày 24/10/2017, VKSND huyện Yên Phong đã có
công văn số 228/VKS trả lời: 15 bị can được đình chỉ vụ án đều là những bị can có
vai trò thứ yếu, nhiều bị can là cán bộ nghỉ hưu có nhiều đóng góp cho Nhà nước
trong thời gian công tác, được tặng thưởng nhiều huân huy chương, có bị can là
thương binh, có bị can gia đình có công, một số bị can có thời gian công tác tại địa
phương đã có nhiều đóng góp cho phong trào của địa phương. Do vậy, VKSND
huyện Yên Phong thấy không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
49
các bị can này mà miễn trách nhiệm hình sự và xử phạt hành chính, xử lý về Đảng
là phù hợp. VKSND huyện Yên Phong giữ nguyên cáo trạng số 62/CTr-VKS ngày
25/8/2017. Căn cứ Điều 196 BLTTHS về giới hạn của việc xét xử, Toà án nhân dân
huyện Yên Phong chỉ xét xử đối với 14 bị cáo theo tội danh mà VKSND huyện Yên
Phong đã truy tố và Toà án đã có quyết định đưa ra xét xử.Như vậy đã có đủ cơ sở
kết luận các bị cáo Nguyễn Bá Thời, Nguyễn Văn Chiến, Nguyễn Trọng Nhuân,
Nguyễn Mạnh Cường, Bùi Minh Quyết, Ngô Minh Trường, Đô Khoan Vy, Nguyễn
Như Huynh, Nguyễn Bá Kiển, Nguyễn Bá Phú, Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Văn
Băng, Nguyễn Văn Tính và Nguyễn Vĩnh Hài phạm tội “Vi phạm các quy định về
quản lý đất đai”.
Nhận xét: Đây là vụ án có số lượng các bị cáo rất lớn, 29 bị cáo, sau đó đã có
15 bị cáo được đình chỉ vụ án, miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 25
BLHS: “1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, nếu khi tiến hành điều
tra, truy tố hoặc xét xử, do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc
người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa”.Lý do mà VKSND huyện Y
đưa ra là: bị can có vai trò thứ yếu, trong số này có các bị can tham gia bán đất trái
thẩm quyền từ những năm 2005-2007, nhiều bị can là cán bộ nghỉ hưu có nhiều
đóng góp cho Nhà nước trong thời gian công tác, được tặng thưởng nhiều huân huy
chương, có bị can là thương binh, có bị can gia đình có công, một số bị can có thời
gian công tác tại địa phương đã có nhiều đóng góp cho phong trào của địa phương.
Theo tác giả, lý do VKSND huyện Y đưa ra để miễn TNHS là chưa hoàn toàn phù
hợp, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, vì đây chỉ có thể là những tình tiết giảm nhẹ
TNHS, có thể được miễn hình phạt.
2.1.4.2. Nguyên nhân của những khó khăn, bất cập
- Thứ nhất, quy định của BLHS năm 2015 về tội vi phạm các quy định về
quản lý đất đai vẫn còn một số tồn tại, bất cấp; nhiều quy định chưa có hướng dẫn
kịp thời để áp dụng trong thực tiễn.
- Thứ hai, năng lực, trình độ và ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức của đội
ngũ cán bộ, công chức chưa cao, không đồng đều.
- Thứ ba, công tác phối hợp giữa các cơ quan tố tụng trong tỉnh chưa được
chú trọng; trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét
50
xử còn thiếu thốn. Công tác hướng dẫn, tập huấn nghiệp vụ, quy định mới của pháp
luật hình sự, tố tụng hình sự chưa được nâng cao, quan tâm đúng mức.
- Một số nguyên nhân khác như: công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật
còn hạn chế, chưa sâu sát; phương thức, thủ đoạn phạm tội ngày một tinh vi, phức
tạp...cũng là những nguyên nhân làm giảm hiệu quả đấu tranh phòng chống tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn.
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về
quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh
2.2.1. Khái quát tình hình quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy
định về quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh
Qua bảng số liệu 2.6 phần phụ lục cho thấy, các bị cáo phạm tội vi phạm các
quy định về quản lý đất đai chủ yếu bị áp dụng hình phạt tù nhưng được hưởng án
treo (14 bị cáo so với tổng số bị cáo là 27 bị cáo), có 07 bị cáo được áp dụng hình
phạt cảnh cáo hoặc cải tạo không giam giữ; còn lại là hình phạt tù dưới 03 năm vàtừ
03 đến dưới 07 năm (03 bị cáo). Điều này cho thấy, các vụ án phạm tội vi phạm các
quy định về quản lý đất đai chủ yếu xét xử theo cấu thành tội phạm cơ bản (khoản
1) của Điều luật.
Qua bảng thống kê bảng 2.7 phần phụ lục cho thấy,trong giai đoạn từ năm
2015 đến năm 2019, trong các bị cáo bị xét xử về tội vi phạm các quy định về quản
lý đất đai đều trong độ tuổi trên 30 tuổi. Chủ yếu là Đảng viên, công chức, có 09 đối
tượng là người dân tộc thiểu số và 01 đối tượng là nữ giới.
2.2.2.Thực trạng quyết định hình phạt tội vi phạm các quy định về quản lý
đất đai
*Theo cấu thành tội phạm cơ bản:
Theo khảo sát các bản án về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai giai
đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 cho thấy, quyết định hình phạt của TAND hai cấp
tỉnh Bắc Ninh đều cơ bản phù hợp với quy định của pháp luật, tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
TNHS của người phạm tội. Điển hình như vụ án sau đây:
Ví dụ: Trong vụ án theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 122/2015/HSST ngày
30/9/2015 của TAND huyện Y sau khi định tội danh Nguyễn Văn Tàu (là trưởng
51
thôn Quan Độ nhiệm kỳ 2011-2013). Từ năm 2011 và 2012 bị cáo Tàu đã lợi dụng
trưởng thôn, có hành vi cho thuê đất trái thâm quyến 1390m , thu số tiền
535.160.000đ, vi phạm điều 37 Luật đất đai. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Vi
phạm các quy định về quản lý đất đai”, phạm vào khoản 1, Điều 174 Bộ luật hình
sự. Tòa án đã quyết định hình phạt trên 04 căn cứ như sau:
- Căn cứ quy định của pháp luật: khung hình phạt trong khoản 1 Điều 174
BLHS với mức phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng
đến ba năm.
- Tính chấtvà mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi
cho thuê đất trái thẩm quyền của bị cáo trên địa bàn thôn Quan Độ đã gây hậu quả
nghiêm trọng, mất ổn định tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây bức xúc trong
nhân dân, làm mất niềm tin của nhân dân đối với chính quyền cơ sở. Hành vi phạm
tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền quản lý thống
nhất của Nhà nước đối với đất đai. Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch
và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Hành vi phạm tội của bị
cáo gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây bất bình trong nhân dân, do vậy cần phải có
một hình phạt nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
- Nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự:Bản
thân bị cáo chưa có tiền án tiến sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm
trọng. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo,
ăn năn hối cải. Bị cáo chỉ vì lợi ích của địa phương chứ không có mục đích từ lợi, bị
cáo có thời gian phục vụ trong quân đội, do vậy cũng cần xem xét giảm nhẹ một
phân khi quyết định hình phạt, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà
cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ điều kiện cải tạo, giáo dục.
Tòa án đã áp dụng điểm b, khoản 1, Điều 174; điểm hợp khoản 1, 2 điều 46;
điều 60 Bộ luật hình sự; điểm b, khoản 2, điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Xử phạt:
Nguyễn Văn Tàu 15 (mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử
thách 30 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, Giao bị cáo cho UBND xã Văn Môn,
huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục. Cấm bị cáo
đảm nhận công việc liên quan đến lĩnh vực quản lý đất đai trong thời hạn 02 năm kể
từ ngày chấp hành xong hình phạt.
52
*Theo cấu thành tội phạm tăng nặng:
Do việc quyết định hình phạt theo CTTP tăng nặng hầu như không có. Do
vậy, việc quyết định hình phạt của TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đều phù hợp với
quy định của pháp luật, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân
thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của người phạm tội.
*Trường hợp phạm nhiều tội:
Tương tự như việc quyết định hình phạt trong trường hợp CTTP tăng nặng.
Do việc quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm nhiều tội không nhiều, nên
việc quyết định hình phạt của TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh trong trường hợp này cơ
bản đều phù hợp với quy định của pháp luật, tính chất và mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của người
phạm tội. Điển hình như vụ án sau đây:
Ví dụ:Trong vụ án theo Bản án số: 110/2016/HSST ngày 17/9/2016 của TAND
huyện Y, tỉnh Bắc Ninh, sau khi xác định bị cáo Nguyễn Xuân Khái bị xét xử về tội
“Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ và tội “Vi phạm các quy định
về quản lý đất đai” theo điểm b khoản 2 Điều 281 và điểm b khoản 1 Điều 174.
- Các bị cáo bản thân chưa có tiền án, tiền sự. Số tiền mà bị cáo Khái chiếm
đoạt đã tự nguyện giao nộp đầy đủ tại cơ quan điều tra. Bị cáo Khái được hưởng
tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Quá trình
điều tra, xét xử các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, biết ăn năn hối cải. Các bị
cáo cùng được hưởng tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm c khoản 1 Điều 46 Bộ
luật hình sự. Bị cáo Khái được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, trong đó có 02 tình tiết
giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, hơn nữa số tiền mà bị cáo chiếm đoạt
được đã được khắc phục hoàn toàn nên đại diện VKSND huyện Yên Phong đề nghị
HĐXX áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự cho bị cáo đối với tội “Lợi dụng chức vụ
quyền hạn trong khi thi hành công vụ” là hoàn toàn phù hợp pháp luật.
- Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và nhân thân các bị cáo thấy
cân thiết phải cách ly bị cáo Khái ra khỏi xã hội một thời hạn nhất định mới có thể
cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho xã hội. Bị cáo Khái lợi dụng
chức vụ quyền hạn để trục lợi do vậy cần áp dụng hình phạt bổ sung cấm hành nghề
một thời gian nhất định.
53
* Trên cơ sở lý luận về quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm nhiều
tội, Tòa án quyết định: Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 4 Điều 281; điểm b khoản 1
Điều 174; Điều 50; Điều 47; điểm b,c khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật
hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Khái, 40 tháng tù về tội “Lợi dụng chức vụ
quyền hạn trong khi thi hành công vụ” và 12 tháng tù về tội “Vi phạm các quy định
về quản lý đất đai”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt
chung cho cả hai tội là 52 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được
trừ thời hạn tạm giam từ 24/9/2015 đến 30/11/2015. Cấm bị cáo Khái đảm nhiệm
chức vụ trưởng thôn trong thời hạn 02 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt.
2.2.3. Những khó khăn, bất cập trong quyết định hình phạt đối tội vi phạm
các quy định về quản lý đất đai và nguyên nhân
2.2.3.1. Những khó khăn, bất cập trong quyết định hình phạt đối với tội vi
phạm các quy định về quản lý đất đai
Do số vụ án về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai xảy ra không
nhiều, do vậy tương tự như định tội danh, việc quyết định hình phạt đối với tội này
thực tế chưa gặp quá nhiều khó khăn, bất cập. Tuy nhiên, thực tiễn vừa qua cho thấy
vẫn có một số khó khăn sau:
* Có dấu hiệu của việc miễn TNHS chưa phù hợp:
Cũng theo Bản án số 99/2017/HSST ngày 22/11/2017 của TAND huyện Y,
tỉnh Bắc Ninh: Các bị can Nguyễn Bá Thời, Nguyễn Văn Chiến, Nguyễn Trọng
Nhuần, Nguyễn Trọng Hiền, Nguyễn Mạnh Cường, Ngô Minh Trường, Bùi Minh
Quyết, Đỗ Đức Xuyến, Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Văn
Tính, Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Đức Nhẫn, Nguyễn Bá Kiểm, Nguyễn Bá Phú,
Nguyễn Văn Sử, Đỗ Khoản Vy, Đỗ Bá Hanh, Đỗ Bá Đồng, Nguyễn Đình Mạnh,
Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Như Huynh, Ngô Tiến Sương, Nguyễn Thị Thể, Ngô
Bá Tố về tội “Vi phạm các qui định về quản lý đất đai theo Điều 174 Bộ luật hình
sự. Sau đó, VKSND huyện Yên Phong đã ra quyết định đìnhchỉ vụ án đối với 15
đối tượng: Ngô Văn Tố, Nguyễn Xuân Trường, Đỗ Khoan Đài, Nguyễn Văn Sử,
Nguyễn Văn Phụng, Đỗ Bá Đồng, Ngô Tiến Sương, Nguyễn Đình Mạnh, Đỗ Đức
Xuyến, Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Trọng Hiến, Đỗ Bá Hanh, Nguyễn Đức Nhẫn,
Nguyễn Văn Cường và Nguyễn Thị Thể, Đỗ Khoan Đài, Nguyễn Văn Phụng, Đỗ
54
Bá Đồng, theo quy định tại Điều 25 BLHS,ngày 24/10/2017, VKSND huyện Yên
Phong đã có công văn số 228/VKS trả lời: 15 bị can được đình chỉ vụ án đều là
những bị can có vai trò thứ yếu, nhiều bị can là cán bộ nghỉ hưu có nhiều đóng góp
cho Nhà nước trong thời gian công tác, được tặng thưởng nhiều huân huy chương,
có bị can là thương binh, có bị can gia đình có công, một số bị can có thời gian công
tác tại địa phương đã có nhiều đóng góp cho phong trào của địa phương. Do vậy,
VKSND huyện Yên Phong thấy không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với các bị can này mà miễn trách nhiệm hình sự và xử phạt hành chính, xử lý về
Đảng là phù hợp. Căn cứ điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự về giới hạn của việc xét
xử, Toà án nhân dân huyện Yên Phong chỉ xét xử đối với 14 bị cáo theo tội danh mà
VKSND huyện Yên Phong đã truy tố và Toà án đã có quyết định đưa ra xét xử.
Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Nguyễn Bá Thời, Nguyễn Văn Chiến,
Nguyễn Trọng Nhuân, Nguyễn Mạnh Cường, Bùi Minh Quyết, Ngô Minh Trường,
Đô Khoan Vy, Nguyễn Như Huynh, Nguyễn Bá Kiển, Nguyễn Bá Phú, Nguyễn
Văn Thiện, Nguyễn Văn Băng, Nguyễn Văn Tính và Nguyễn Vĩnh Hài phạm tội
“Vi phạm các quy định về quản lý đất đai”.
Nhận xét: Theo tác giả, lý do VKSND huyện Y đưa ra để miễn TNHS là
chưa hoàn toàn phù hợp, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, vì đây chỉ có thể là những tình
tiết giảm nhẹ TNHS, có thể được miễn hình phạt theo Điều 54 “Người phạm tội có
thể được miễn hình phạt trong trường hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy
địnhtại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng
chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự”. Đối với trường hợp một số bị can
tham gia bán đất trái thẩm quyền từ những năm 2005-2007, có thể căn cứ vào khoản
5 (Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự) Điều 107 BLTTHS năm 2003 để
đình chỉ vụ án trên, do các bị can bị truy tố theo khoản 1 Điều 174 (là tội ít nghiêm
trọng, thời hiệu truy cứu TNHS là 5 năm).
- Việc quyết định hình phạt vẫn còn nặng hơn so với tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của bị cáo.
Ví dụ: Bản án số 34/2019/HSPT ngày 14/05/2019 của TAND tỉnh B
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau: Đầu năm 2017,Phạm Việt A, Nguyễn Trọng H (sinh năm
55
1987, cùng trú tại thôn PX, xã CH, huyện T) do cần đất để để canh tác và được
người khác giới thiệu, A và H đã gặp Lê Mạnh K, Phạm Văn X, lúc này là Chủ tịch
UBND xã và Cán bộ địa chính xã CH và Nguyễn Văn C – Bí thư chị bộ kiêm
Trưởng thôn PX, để trao đổi về việc thỏa thuận xin được thuê đất công ích, đất
chuyên dùng của UBND xã CH (đóng trên địa bàn thôn PX), sau khi đạt được sự
thống nhất, tháng 6/2017, Lê Mạnh K giao cho Phạm Văn X (đại diện bên B) ký
hợp đồng với ông Phạm Việt A (đại diện bên A) thuê đất ao có trong khu vực vòng
xuyến với diện tích 3.360m2 và giao cho Nguyễn Văn C ký hợp đồng cho hộ
Nguyễn Trọng H thuê đất ao với diện tích đất ao khu vực vòng xuyến với diện tích
9.000m2. Ngoài ra, K, X và C chỉ đạo, tham gia ký hợp đồng cho 03 hộ khác thuê
đất ao với diện tích là 13.975m2, thời hạn là 5 năm thu tổng số tiền 171.925.000đ.
Gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước số tiền là 536.568.200đ. Toàn bộ số tiền thu
được các bị cáo sử dụng để xây dựng đường làng, thôn và quản lý tại UBND xã CH,
chưa phát hiện có sai phạm khác trong việc sử dụng số tiền thu được từ cho thuê trái
pháp luật. Lê Mạnh K là Chủ tịch UBND xã CH chịu trách nhiệm trước Nhà nước
đối với việc sử dụng đất Nông nghiệp vào mục địch công ích và chịu trách nhiệm
trước nhà nước đối với việc quản lý đất sử dụng vào mục đích công cộng được giao
dể quản lý, đất chưa giao, đất chưa cho thuê tại địa phương. Bị cáo K là người chịu
trách nhiệm trước Nhà nước nhưng bị cáo đã lạm dụng quyền hạn của mình, đã
vượt quá quyền hạn của mình trực tiếp, chỉ đạo X và C cho thuê đất trái thẩm
quyền, trái mục đích sử dụng. Để giúp bị cáo K thực hiện hành vi phạm tội là X và
C giúp sức. Xét nhân thân của các bị cáo thấy:
Đối với bị cáo đều phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên
được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm là khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình
sự. Bị cáo K phục vụ trong quân đội từ tháng 12/1972 đến tháng 8/1981, là thương
binh, được tặng Huy chương kháng chiến hạng nhì, Huân chương chiến sỹ vẻ vang
hạng ba, Huy chương vì sự nghiệp dân số, Huy chương cựu chiến binh Việt Nam,
được 5 lần tặng danh chiệu Chiến sỹ thi đua từ cấp huyện trở lên và 12 bằng khen.
Bố bị cáo được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất. Bị cáo X được
tặng danh hiệu Chiến sỹ thi đua cơ sở. Bố đẻ được tăng thưởng Huân chương kháng
chiến hạng ba. Bị cáo C tham gia quân đội từ tháng 12/1980 đến tháng 5/1985, được
56
tặng Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Bố đẻ là liệt sĩ.Trong quá trình điều
tra, truy tố, xét xử các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn về hành vi phạm tội
của mình.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 06/2019/HS-ST ngày 07/03/2019 của Tòa án
nhân dân huyện T, tỉnh B: Tuyên bố các bị cáo Lê Mạnh K, Phạm Văn X, Nguyễn
Văn C tội “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai”.Áp dụng điểm a, b khoản 1,
Điều 229; điểm i, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51. Xử phạt Lê Mạnh K, 18 tháng tù
nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử. thách 36 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ
thẩm. Cấm bị cáo đảm nhận công việc liên quan đến lĩnh vực quản lý đất đai trong
thời hạn 03 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt.
Xử phạt Phạm Văn X, Nguyễn Văn C mỗi bị cáo 15 tháng tù, cho hưởng án
treo, thời hạn thử thách 30 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Cấm các bị cáo
đảm nhận công việc liên quan đến lĩnh vực quản lý đất dai trong thời lại 02 năm kể
từ ngày chấp hành xong hình phạt.
Các bị cáo kháng cáo, đề nghị xem xét lại hình phạt. Tại cấp phúc thẩm,
HĐXX cho rằng cấp sơ thẩm định tội danh các bị cáo về tội “Vi phạm các quy định
về quản lý đất đai” theo điểm a, b khoản 1 Điều 229 là đúng người, đúng tội. Tuy
nhiên, khi quyết định hình phạt cấp sơ thẩm còn chưa xác định đầy đủ các tình tiết
giảm nhẹ TNHS cho các bị cáo (bỏ sót tình tiết bị cáo K là thương binh, C có bố để
là liệt sĩ, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm x, khoản 1 Điều 51), hình phạt
đã tuyên nặng hơn so với tính chất và mức độ nguy hiểm, nhân thân của các bị cáo
đã thực hiện.
Do vậy, TAND tỉnh Bắc Ninh đã ra Bản án số 34/2019/HSPT ngày
14/05/2019 về tội “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai”. Xử phạt Lê Mạnh K,
Phạm Văn X, Nguyễn Văn C, 12 tháng cải tạo không giam giữ, buộc mỗi bị cáo
phải chấp hành thời gian cải tạo là 08 tháng 09 ngày, tính từ ngày cơ quan Thi hành
án hình sự Công an huyện Yên Phong giao hồ sơ Thi hành án cho chính quyền
UBND xã Đông Phong. Cấm các bị cáo đảm nhận công việc liên quan đến lĩnh vực
quản lý đất đai trong thời hạn 01 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt.
57
2.2.3.2. Nguyên nhân của những khó khăn, bất cập
- Thứ nhất,một số quy định của BLHS năm 2015 về tội về quyết định hình
phạt nói chung và quyết định hình phạt tội vi phạm các quy định về quản lý đất
đaivẫn còn tồn tại, bất cấp.
- Thứ hai, năng lực, trình độ của đội ngũ người làm công tác quyết định hình
phạt như Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân còn hạn chế, không đồng đều. Ý thức
chính trị, phẩm chất đạo đức và trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ chưa cao.
- Thứ ba, công tác phối hợp giữa các cơ quan tố tụng trong tỉnh chưa được
chú trọng; cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử còn hạn
chế, hoạt động hướng dẫn, tập huấn nghiệp vụ, quy định mới của pháp luật hình sự,
tố tụng hình sự chưa được nâng cao, quan tâm đúng mức.
- Ngoài ra còn một số nguyên nhân như việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật,
công tác tổng kết thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về
quản lý đất đaihạn chế, chưa sâu sát...cũng là những nguyên nhân làm giảm hiệu quả
đấu tranh phòng chống tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trên địa bàn.
Tiểu kết Chương 2
Thông qua Chương 2 của luận văn tác giả đã phân tích làm rõ một số vấn đề
lý luận của hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm các quy
định về quản lý đất đai. Đồng thời đánh giá thực trạng định tội danh và quyết định
hình phạt tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai theo CTTP cơ bản, tăng nặng
và trường hợp phạm nhiều tội. Theo đó, bên cạnh những kết quả đạt được như việc
định tội danh và quyết định hình phạt đa số đều đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật và phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thì vẫn còn
một số khó khăn, bất cập nhưchưa vẫn còn chưa thống nhất, nhầm lẫn trong việc
định tội danh tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai và một số tội phạm về
chức vụ như tội lợi dụng, chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng tỉnh Bắc Ninh, quyết định hình phạt trong một số trường hợp
nặng hơn tính chất nguy hiểm củahành vi phạm tội...mà nguyên nhân chủ yếu từ
việc một số quy định của BLHS năm 2015 về tội về vi phạm các quy định về quản
lý đất đai vẫn còn tồn tại, năng lực, trình độ của đội ngũ người làm công tác định tội
danh và quyết định hình phạt còn hạn chế, không đồng đều, công tác phối hợp giữa
58
các cơ quan tố tụng trong tỉnh chưa được chú trọng…Những kết quả nghiên cứu
này là cơ sở để tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả định tội
danh và quyết định hình phạt tội này trong Chương 3 của luận văn.
59
Chương 3
YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT
ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐÚNG TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ
ĐẤT ĐAITẠI TỈNH BẮC NINH
3.1. Yêu cầu của việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi
phạm các quy định về quản lý đất đai
3.1.1. Yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong định tội danh và quyết
định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
Nguyên tắc pháp chế XHCN khẳng định yêu cầu tuân thủ pháp luật nghiêm
chỉnh, triệt để và thống nhất đối với tất cả các cá nhân, tổ chức. Các nguyên tắc cơ
bản của pháp chế là tính thống nhất, tính hợp lý và áp dụng chung. Mục đích của
pháp chế là nhằm đạt được sự tuân thủ pháp luật đối với tất các các chủ thể quan hệ
pháp luật, thiết lập trạng thái hợp pháp trong hệ thống các quan hệ xã hội. Nguyên
tắc này đòi hỏi hệ thống pháp luật cần được hoàn thiện, là cơ sở pháp lý vững chắc
để định tội danh và quyết định hình phạt, trong khi đó về tội vi phạm các quy định
về quản lý đất đai vẫn còn một số nội dung chưa rõ ràng cụ thể, chưa có sự phù hợp
giữa BLHS và Luật đất đai năm 2013, trong quá trình định tội danh và quyết định
hình phạt chủ thể vẫn còn một số tồn tại, thiếu sót trong việc đánh giá chứng cứ, cân
nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, nhân thân của bị cáo.
Do vậy, việc nghiên cứu hoàn thiện tội vi phạm các quy định về quản lý đất
đai, nâng cao chất lượng định tội danh và quyết định hình phạt tội này có ý nghĩa
quan trọng, góp phần bảo đảm pháp chế trong hoạt động xây dựng và áp dụng pháp
luật hình sự, tố tụng hình sự.
3.1.2. Yêu cầu của việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân và của
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm trong định tội danh và quyết định
hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa,
xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật; quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật
trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
60
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng". Trong đó, quyền con người, quyền
công dân trong lĩnh vực đất đai luôn được Nhà nước ta bảo đảm “Tổ chức, cá nhân
được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Người sử dụng
đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định
của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ” (Điều 54 Hiến pháp). Cụ thể
hơn tại Điều 4, Luật Đất đai 2013 quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất
cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này”.Có thể thấy, từ khi Hiến pháp
1980 ra đời quyền sở hữu đất đai ở nước ta do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, còn
quyền sử dụng đất đai vừa có ở Nhà nước, vừa có ở trong từng chủ sử dụng cụ thể,
để sử dụng đất đai có hiệu quả Nhà nước phải giao đất, cho thuê, cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất... cho các chủ thể trực tiếp sử dụng và phải quy định một hành
lang pháp lý cho phù hợp để vừa đảm bảo lợi ích cho người trực tiếp sử dụng, vừa
đảm bảo lợi ích của Nhà nước.Sự phát triển, bổ sung và đề cao quyền con người,
quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp 2013 đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn
thiện các quy định của BLHS hiện hành, pháp luật đất đai để làm cho các quyền này
của người dân được thực hiện trên thực tế, theo đó, một mặt, BLHS phải xử lý
nghiêm các hành vi xâm hại các quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong
lĩnh vực quản lý đất đai; mặt khác cần nghiên cứu, đề xuất sửa đổi hệ thống hình
phạt theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý
người phạm tội. Trên tinh thần, đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa quyền sở hữu đất
đai và quyền sử dụng đất đai,giữa lợi ích của Nhà nước và lợi ích của người sử dụng
là yêu cầu quan trọng để bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực đất đai.
3.1.3. Yêu cầu của việc tiếp tục cải cách tư pháp
Trong thời gian tới, Nhà nước ta chuẩn bị tổng kết 15 năm thực hiện công
cuộc cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trong thời gian này mặc dù công
tác tư pháp, cải cách tư pháp đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần phát
triển, bảo vệ đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án có nhiều tiến bộ, từng bước hạn chế
được tình trạng oan, sai…, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập
61
quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Tuy nhiên, hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt nói
chung và tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai nói riêng vẫn còn những tồn
tại, hạn chế nhất định, đã phần nào làm ảnh hưởng tới chất lượng của công cuộc cải
cách tư pháp thời gian qua và trong lộ trình mới. Do vậy, trong thời gian tới việc
“coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu
quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình
phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với
một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng
đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối
đa quá cao trong một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ
kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những
hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế”. Đồng thời, “xử lý nghiêm khắc hơn
đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những
người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi
dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương
cho người khác”. Đây là những định hướng quan trọng cho việc nghiên cứu, hoàn
thiện các quy định của BLHS trong đó có tội vi phạm các quy định về quản lý đất
đai nhằm thể chế hóa quan điểm mới về chính sách hình sự trên của Đảng và Nhà
nước ta trong thời gian tới.
3.1.4. Yêu cầu của hội nhập quốc tế và phù hợp với các quy định giữa
Luật đất đai với các hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai
Xu thế chủ động hội nhập quốc tế đã trở thành nhu cầu nội tại của Việt Nam.
Trên thực tế, Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực và đã trở
thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế đa phương, trong quan hệ hợp tác song
phương với các quốc gia, Việt Nam đã đàm phán và ký kết nhiều Hiệp định tương
trợ tư pháp về hình sự và hiệp định dẫn độ với các nước trên thế giới.
Cùng với yêu cầu của hội nhập quốc tế đó thì các hoạt động của Nhà nước do
các chủ thể có thẩm quyền tiến hành liên quan đến giao đất, cho thuê, chuyển mục
đích sử dụng đất...để thực hiện các hoạt động đầu tư kinh doanh ngày một gia tăng,
62
phát triển, kéo theo đó là những hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai
cũng tăng lên. BLHS hiện hành chưa phản ánh được một cách đầy đủ, toàn diện
những đặc điểm và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm này trong điều kiện
hội nhập quốc tế, chưa tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thuận lợi cho việc định tội danh và
quyết định hình phạt với tội phạm này. Điều này, đòi hỏi phải tiếp tục sửa đổi, bổ
sung BLHS để nội luật hóa các quy định trong các điều ước quốc tế mà nước ta là
thành viên liên quan đến lĩnh vực đất đai, nhưng phải bảo đảm phù hợp với thể chế,
chính sách của Nhà nước, nhằm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của quốc gia thành
viên,đồng thời, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc chủ động và tăng cường hợp tác
quốc tế trong phòng, chống tội phạm.
3.2. Các giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt đúng
đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật và tăng cường nhận thức đúng lý luận về định tội
danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
* Hoàn thiện pháp luật về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
- Thứ nhất: Giữa BLHS năm 2015 với Luật đất đai năm 2013 và các văn bản
hướng dẫn chưa có sự thống nhất trong sử dụng đơn vị đo diện tích đất. Cụ thể:
BLHS năm 2015 sử dụng đơn vị tính là mét vuông (m2); trong khi Luật đất đai và
văn bản hướng dẫn sử dụng đơn vị tính là “hecta”.
- Thứ hai: Luật đất đai năm 2013 và Nghị định 43/2014/NĐ-CP bên cạnh các
hành vi vi phạm như giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất trái pháp luật thì có quy định
hành vi và trường hợp vi phạm trong hoạt động trưng dụng đất: “Vi phạm quy định
về trưng dụng đất bao gồm các hành vi sau: b) Trưng dụng đất không đúng các
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 72 của Luật Đất đai”.
Trong khi hành vi trưng dựng đất và thu hồi đất có tính chất khá giống nhau,
được quy định song hành trong nhiều Điều luật, có mục đích để thực hiện nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng,
chống thiên tai.
Do vậy, tác giả kiến nghị nhà làm luật cần bổ sung hành vi trưng dụng đất
trái pháp luật vào CTTP tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai, nhằm tránh bỏ
lọt tội phạm và phù hợp với thực tiễn.
63
- Thứ ba, CTTP cơ bản tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai quy định
chung các hành vi giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định của pháp luật với đối tượng: a) Đất
trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét vuông (m2); đất
rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2)
đến dưới 50.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có
diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2);b) Đất có giá
trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng đến dưới
2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng đến dưới
5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp. Theo tác giả, việc quy định trên
chưa hợp lý, bởi những lý do sau:
+ Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi giao đất, thu hồi, cho thuê,
cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy
định của pháp luật là khác nhau. Trong đó hành vi thu hồi và chuyển mục đích sử
dụng đất có tính chất nguy hiểm hơn vì ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người
bị thu hồi đất và kết cấu, quỹ đất của địa phương.
+ CTTP quy định diện tích đất nêu trên chưa có sự phân biệt đất tại đô thị và
đất tại nông thôn, đất nông nghiệp và đất phi nông nghiệp. Khác với tài sản khác,
giá trị quyền sử dụng đất, tầm quan trọng, sức ảnh hưởng của diện tích đất bị giao,
thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền, chuyển mục đích đến kinh tế, chính trị,
quốc phòng ở các vị trí là khác nhau… phụ thuộc vào tình hình chính trị, kinh tế, xã
hội của địa phương đó.
Trong khi đó, Nghị định 91/2019/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai, đều có sự phân định loại đất, khu vực nông thôn hay đô thị để xác
định mức xử phạt:
Ví dụ:Điều 9 Nghị định quy định:1. Chuyển đất trồng lúa sang đất trồng cây
lâu năm, đất trồng rừng (trừ trường hợp quy định tại khoản 7 Điều 14 của Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại khoản 11 Điều 2 của Nghị định
số 01/2017/NĐ-CP) thì hình thức và mức xử phạt như sau:
a) Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển
mục đích trái phép dưới 0,5 héc ta;....
64
2. Chuyển đất trồng lúa sang đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối thì hình
thức và mức xử phạt như sau:
a) Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển
mục đích trái phép dưới 0,1 héc ta;...
3. Chuyển đất trồng lúa sang đất phi nông nghiệp tại khu vực nông thôn thì
hình thức và mức xử phạt như sau:
a) Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển
mục đích trái phép dưới 0,01 héc ta;....
4. Chuyển đất trồng lúa sang đất phi nông nghiệp tại khu vực đô thị thì hình
thức và mức xử phạt bằng hai (02) lần mức phạt quy định tại khoản 3 Điều này....”
+ Ngoài ra, Điều luật định lượng đặc điểm của diện tích đất đai khá lớn, dẫn
đến khó xử lý hình sự cán bộ có vi phạm vừa và nhỏ. Quan chức quản lý đất đai là
người hiểu biết, nên họ có thể dễ dàng nắm được và biết cách lách qua điều luật
này.
- Về kỹ thuật lập pháp của Điều 229 như hiện nay có thể dẫn đến lách luật,
bỏ lọt tội phạm. Tác giả đưa ra một ví dụ sau để chứng minh:
Ví dụ: A là chủ tịch UBND xã X có hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn
giao 5000mét vuông (m2) đất rừng đặc dụng và 6000mét vuông (m2) đất nông
nghiệp khác. Tuy nhiên, mặc dù tổng diện tích đất giao trái pháp luật là 10.000 mét
vuông (m2) nhưng xét riêng thì mỗi hành vi giao đất trái pháp luật chưa đủ định
lượng theo điểm a khoản 1 Điều 229 BLHS năm 2015 (Đất trồng lúa có diện tích từ
5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng
phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 50.000
mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ
10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2), dễ làm cho các đối tượng
lách luật để thực hiện hành vi vi phạm.
- Có thể nói trong thực tiễn định tội danh vẫn còn nhầm lẫn trong việc định tội
danh tội “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” với tội “Lợi dụng chức vụ, quyền
hạn trong khi thi hành công vụ”, trong đó có tỉnh Bắc Ninh. Việc phân biệt hai tội
danh này chủ yếu dựa vào yếu tố: khi thực hiện hành vi, chủ thể có vụ lợi hoặc động
cơ cá nhân khác thuộc mặt chủ quan của tội phạm hay không. Trong đó:Động cơ vụ
65
lợi là vì lợi ích vật chất của mình, của đơn vị mình hoặc của một tổ chức mà mình
tham gia... Nói chung, thực tiễn xét xử việc xác định động cơ vụ lợi không khó,
nhưng khó nhất vẫn là việc xác định động cơ cá nhân khác của người phạm tội. Động
cơ cá nhân khác là vì lợi ích phi vật chất của mình, của người khác mà mình quan
tâm như: vì nể nang, vì cảm tình cá nhân, vì danh vọng, địa vị xã hội...
Tuy nhiên, về mặt thực tiễn đa số các vụ án về tội vi phạm các quy định về
quản lý đất đai nói chung và trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đều có mục đích, động cơ
nhất định, trong đó nhiều trường hợp không làm rõ được yếu tố vụ lợi (nhận hối lộ,
chiếm đoạt tài sản...)nên phải xác định là tội vi phạm các quy định về quản lý đất
đai. Do vậy, để việc định tội danh được thuận lợi, phù hợp với quy định của pháp
luật, tác giả kiến nghị nhà làm luật cần có văn bản hướng dẫn: Trường hợp lợi dụng
hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển
quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định của pháp luật
mà không có yếu tố vụ lợi, động cơ cá nhân (bao gồm cả trường hợp không chứng
minh được yếu tố này) hoặc mặc dù có yếu tố vụ lợi như sau khi nhận số tiền từ
việc giao, cho thuê, cho phép chuyển nhượng và thu hồi đã sử dụng vào mục đích
chung của địa phương, làm lợi cho địa phương…thì cần xác định là tội vi phạm các
quy định về quản lý đất đai, ngược lại nếu vi vụ lợi, động cơ cá nhân (tư lợi) như:
chiếm đoạt làm của riêng, nhận hối lộ để làm trái...thì cần xác định là nhóm tội
phạm về chức vụ, trong đó có tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành
công vụ.
* Từ những phân tích nêu trên, tác giả kiến nghị: Nhà làm luật cần có những
sửa đổi, bổ sung Điều 229 theo hướng sau:
- Thống nhất đơn vị tính diện tích đất là mét vuông (m2) trong luật đất đai và
BLHS năm 2015.
- Bổ sung hành vi “Trưng dụng đất trái quy định của pháp luật” vào CTTP
tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai.
- Bổ sung vào khoản 1 Điều 229: Có hành vi giao đất, thu hồi đất…trái quy
định của pháp luật mà tổng diện tích đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản
xuất hoặc các loại đất nông nghiệp khác, đất phi nông nghiệp tương đương với diện
tích đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất quy định tại điểm a khoản này.
66
Bổ sung vào khoản 2 Điều 229: Có hành vi giao đất, thu hồi đất…trái quy định
của pháp luật mà tổng diện tích đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất hoặc
các loại đất nông nghiệp khác, đất phi nông nghiệp tương đương với diện tích đất rừng
đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất quy định tại điểm …khoản này.
Bổ sung vào khoản 3 Điều 229: Có hành vi giao đất, thu hồi đất…trái quy định
của pháp luật mà tổng diện tích đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất hoặc
các loại đất nông nghiệp khác, đất phi nông nghiệp tương đương với diện tích đất rừng
đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất quy định tại điểm a khoản này.
- Phân hóa TNHS và định lượng đất đai và giá trị quyền sử dụng đất theo khu
vực nông thôn, đô thị và theo loại đất sẽ chuyển đổi (trường hợp chuyển đổi mục
đích sử dụng đất).
- BLHS năm 2015 đã cụ thể hóa các tình tiết có tính định tính “gây hậu quả
nghiêm trọng”, “Gây hậu quả rất nghiêm trọng” “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng” thành các tình tiết định lượng cụ thể. Tuy nhiên, theo tác giả việc cụ thể hóa
tình tiết này chưa phản ánh hết được các hậu quả mà hành vi giao đất, thu hồi, cho
thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái
quy định của pháp luật gây ra như: thay đổi kết cấu, quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất ảnh hướng đến các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo
vệ môi trường và thích ứng biến đổi khí hậu trên cơ sở tiềm năng đất đai và nhu cầu
sử dụng đất của các ngành, lĩnh vực đối với từng vùng kinh tế - xã hội và đơn vị
hành chính trong một khoảng thời gian xác định, hoặc người được nhận chuyển
nhượng, được chuyển mục đích quyền sử dụng đất, được giao đất có hành vi hủy
hoại đất (làm biến dạng địa hình hoặc làm suy giảm chất lượng đất, gây ô nhiễm),
gây cản trở hoặc thiệt hại cho việc sử dụng đất của người khác...Do vậy, tác giả kiến
nghị nhà làm luật trong thời gian tới cần tiếp tục cụ thể hóa, quy định một số hậu
quả khác liên quan đến hành vi trái pháp luật quy định tại Điều 229 BLHS.
* Tăng cường nhận thức đúng về lý luận định tội danh và quyết định hình
phạt tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai.
Định tội danh là quá trình nhận thức lý luận có tính logic, trên cơ sở pháp
luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và chứng cứ, các tài liệu thu thập
được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu
67
hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của CTTP
tương ứng do luật hình sự quy định nhằm đạt được sự thật khách quan. Do vậy, việc
tăng cường nhận thức đúng về lý luận định tội danh và quyết định hình phạt có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Để công tác này có hiệu quả trong thực tế cần thực hiện
tổng hợp nhiều biện pháp quan trọng như hoàn thiện các quy định của pháp luật
thực định, lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt và tăng cường năng lực,
phẩm chất chính trị, đạo đức và trình độ chuyên môn của những người làm công tác
định tội danh và quyết định hình phạt.
3.2.2. Tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật về
tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
Lãnh đạo Cơ quan tố tụng tỉnh Bắc Ninh cần quán triệt, tổ chức thực hiện
nghiêm túc, hiệu quả BLHS, BLTTHS năm 2015 và văn bản hướng dẫn nói chung
và liên quan đến lĩnh vực đất đai nói riêng; khắc phục ngay những tồn tại, hạn chế
trong việc áp dụng pháp luật ở địa phương liên quan đến áp dụng pháp luật hình sự
đối với các tội danh liên quan đến quản lý đất đai.
- Cần có hướng dẫn cụ thể đối với dấu hiệu:
+ “Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm”, để làm cơ sở truy
cứu TNHS đối với trường hợp đã có tình tiết này, nay lại tái phạm. Theo tác giả quy
định này hiện nay có điểm không hợp lý, có thể tạo ra sự không công bằng trong xử
lý TNHS:
Cụ thể: Đối với hành vi phạm quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển
mục đích sử dụng đất thuộc trường hợp:Giao đất, giao lại đất, cho thuê đất không
đúng vị trí và diện tích đất trên thực địa có tính nguy hiểm cho xã hội ít hơn, thông
thường bị xử lý kỷ luật nhẹ hơn (theo Nghị định 181/NĐ-CP hướng dẫn luật đất đai
trước đây thì: nếu cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách chức, tái phạm do cố ý thì bị cách
chức hoặc buộc thôi việc) so với hành vi giao đất, giao lại đất, cho thuê đất, cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng,
không phù hợp với quy hoạch sử dụng đất chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết
hoặc quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã
được xét duyệt (theo Nghị định 181/NĐ-CP hướng dẫn luật đất đai trước đây thì do
cố ý thì bị cách chức; tái phạm do cố ý thì bị buộc thôi việc) hoặc hành vi vi phạm
68
quy định về thu hồi đất như không thông báo trước cho người có đất bị thu hồi theo
quy định tại Điều 39 của Luật Đất đai (theo Nghị định 181 thì cố ý thì bị hạ bậc
lương; tái phạm do cố ý thì bị hạ ngạch) trong khi đó, hành vi thu hồi đất không
đúng thẩm quyền; không đúng đối tượng; không đúng với quy hoạch sử dụng đất
chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết đã được xét duyệt (Nghị định 181/NĐ-CP thì
nếu cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách chức; tái phạm do cố ý thì bị buộc thôi việc).
Tuy nhiên, với cách quy định của CTTP tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
thì không phân hóa được những trường hợp vi phạm chỉ bị xử lý hạ ngạnh với
trường hợp cách chức, buộc thôi việc…), không tạo ra sự công bằng trong việc cá
thể hóa TNHS trong thực tiễn.
Tác giả kiến nghị: cần quy định theo hướng: phân biệt cụ thể trường hợp bị
xử lý kỷ luật theo mức nào thì tái phạm mới bị truy cứu TNHS. Hướng dẫn cụ thể
về dấu hiệu này, để tạo điều kiện thuận lợi đối với các cơ quan tố tụng trong việc
phân tích, đánh giá và kết tội đối với người có hành vi phạm tội.
+ Thực tiễn cho thấy đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
được thực hiện dưới hình thức đồng phạm, trong đó vai trò người thực hành do
người có chức vụ, quyền hạn thực hiện, nhưng việc truy cứu TNHS là do đặc điểm
về nhân thân của người đó là “đã bị xử lý kỷ luật” trước đó mà không phải là do
diện tích hoặc giá trị đất đai. Vậy người đồng phạm như người giúp sức có bị truy
cứu TNHS về tội này hay không? có được giảm nhẹ TNHS nếu truy cứu hay không.
Theo tác giả cần có văn bản hướng dẫn cụ thể, vì đây là tội danh thường được thực
hiện dưới hình thức đồng phạm, trong đó có những vụ án có số lượng đồng phạm
rất lớn (VD: 29 đồng phạm trong vụ án vi phạm về quản lý đất đại xảy ra tại huyện
Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh mà tác giả phân tích tại Chương 2).
Ví dụ: A là Chủ tịch UBND huyện X đã lợi dụng chức vụ quyền hạn được
giao để thực hiện việc giao đất trái pháp luật đất rừng đặc dụng 1000 m2 cho doanh
nghiệp Y, trong đó ông B là Chánh văn phòng huyện X là người biết được hành vi
trái này nhưng không có ý kiến, đã trực tiếp soạn thảo quyết định giao đất trình Chủ
tịch huyện ký ban hành. Trước đó, Chủ tịch UBND huyện X đã từng bị xử lý kỷ
luật về hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai với hình thức giáng chức
(sau đó được khôi phục lại) nhưng chưa hết thời hạn bị coi là chưa bị xử lý kỷ luật.
69
Chiếu theo quy định tại Điều 229 BLHS năm 2015 thì ông A sẽ bị truy cứu TNHS
về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai, nhưng ông B có xử lý TNHS với vai
trò đồng phạm hay không? Do vậy, cũng cần có hướng dẫn kịp thời.
- Cần có hướng dẫn dấu hiệu định khung hình phạt “Gây ảnh hưởng xấu đến an
ninh, trật tự, an toàn xã hội”. Đây là dấu hiệu được quy định mới trong BLHS năm 2015,
tuy nhiên hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể để áp dụng trong thực tiễn, có thể dẫn đến
cách hiểu và vận dụng khác nhau. Do vậy, trong thời gian tới nhà làm luật cần có hướng
dẫn kịp thời để áp dụng trong định tội danh và quyết định hình phạt.
- Điều 229 quy định diện tích đất và giá trị quyền sử dụng đất bị thiệt hại đối
với từng loại đất như đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới
30.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện
tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 50.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp
khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000
mét vuông (m2) hoặc đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ
500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ
1.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông
nghiệp...nhưng hiện không có văn bản hướng dẫn quy đổi trường hợp đối tượng là
các loại đất khác nhau về nhóm: như đất trồng lúa với đất phi nông nghiệp, đất
trồng lúa với đất rừng đặc dùng, phòng hộ, sản xuất hoặc khi chủ thể thực hiện
nhiều dạng hành vi khác nhau (giao đất, thu hồi đất...cùng thời điểm hoặc liên tiếp
nhau) được xác định như thế nào.
Ví dụ: A giao đất trái pháp luật 4.000 mét vuông (m2) đất trồng lúa và 5.000
mét vuông (m2) đất rừng đặc dụng. Trường hợp này xác định như thế nào? có quy
đổi được 5.000 mét vuông (m2) giữa đất rừng đặc dụng tương ứng với bao nhiêu
mét vuông (m2)đất trồng lúa hay không? thiệt hại nếu theo quy định hiện hành thì
không thể xử lý TNHS của A.
Ví dụ 2: A giao đất 1.000 mét vuông (m2), thu hồi 1.000 mét vuông (m2),
cho thuê 1.000 mét vuông (m2) và cho phép chuyển mục đích sử dụng đất 2.000
mét vuông (m2), đều là đất trồng lúa. Trường hợp này có cộng tổng diện tích của
các lần giao, thu hồi, cho thuê và cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để xác
định vi phạm của A hay không?
70
Theo tác giả, đổi với 02 vấn đề trên cần có hướng dẫn cụ thể để tránh bỏ lọt
tội phạm trong thực tiễn định tội danh đối với tội này.
- Ngoài ra, theo tác giả cũng cần hướng dẫn khi nào thì cần định giá giá trị
quyền sử dụng đấtquy thành tiền, để định tội danh. Ví dụ: A cho phép chuyển mục
đích sử dụng đất 50.000 mét vuông (m2) đất phi nông nghiệp trái pháp luật. Trường
hợp này có cần định gía giá trị quyền sử dụng đất thành tiền hay không? Nếu định
giá trên 1.000.000.000 đồng thì A có bị áp dụng hai tình tiết a, b khoản 1 Điều 229
không?...cần phải có hướng dẫn cụ thể để áp dụng.
- Đối với những vấn đề vướng mắc trong thực tiễn xét xử nhưng chưa thể
ban hành ngay được Nghị quyết hướng dẫn, thì cơ quan có thẩm quyền tỉnh Bắc
Ninh cần đề nghị Hội đồng Thẩm phán tổng hợp và ban hành các Tập giải đáp
vướng mắc nghiệp vụ để các Tòa án tham khảo, để kịp thời tháo gỡ nhiều vướng
mắc về áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết các loại vụ án.
- Tòa án nhân dân tối cao cần xem xét, lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ,
mang tính chuẩn mực trong áp dụng pháp luật để giải quyết các tình huống thực tế
phức tạp, hiện còn có những vướng mắc hoặc cách hiểu khác nhau để đề xuất phát
triển làm án lệ, đặc biệt là đối với những vụ án có sự nhầm lẫn giữa tội vi phạm các
quy định về quản lý đất đai với nhóm tội chức vụ như tội lợi dụng chức vụ, quyền
hạn trong khi thi hành công vụ, tội lạm quyền trong thi hành công vụ... Trên cơ sở
đề xuất của các Tòa án, Tòa án nhân dân tối cao tổ chức các Hội nghị tham vấn ý
kiến của Hội đồng tư vấn án lệ với sự tham gia của đại diện các cơ quan có liên
quan và các nhà khoa học có nhiều kinh nghiệm thực tiễn cũng như uy tín nghề
nghiệp để Hội đồng Thẩm phán có thêm cơ sở xem xét, phát triển thành án lệ.
3.2.3. Tăng cường tổng kết thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt
đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
- Thựchiện nghiêm túc Nghị quyết số 96/2019/QH14 ngày 27 tháng 11 năm
2019 của Quốc hội về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công
tác của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Ninh cần tăng
cường tổn kết thực tiễn và thực hiện một số nhiệm vụ sau:
+ VKSND tỉnh Bắc Ninh cần tăng cường chỉ đạo Viện kiểm sát nhân dân
địa phương trong tỉnh tăng cường năng lực thực hành quyền công tố và kiểm sát
71
việc tuân theo pháp luật trong giải quyết các vụ án hình sự trong lĩnh vực đất đai và
vụ án về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai nói riêng.
+ Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Bắc Ninh cần áp dụng đồng bộ các giải pháp
để thực hiện tốt hơn công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, trong đó có vi phạm, tội phạm liên quan
đến tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai. Bảo đảm 100% trường hợp thụ lý,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được kiểm sát. Kiểm sát
100% số vụ án hình sự ngay từ khi khởi tố. Kiểm sát chặt chẽ các hoạt động điều
tra, kịp thời đề ra yêu cầu điều tra để giải quyết vụ án khẩn trương, đúng pháp luật.
Không để xảy ra trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội.
+ Ngành Tòa án cần tăng cường công tác tổng kết thực tiễn xét xử, giải
quyết các loại vụ án, phát triển án lệ và bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật.
Triển khai hiệu quả việc công khai bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án trên
Cổng thông tin điện tử, Đề án Tòa án điện tử từ năm 2020. [35].
Đối với Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Ninh cần có giải pháp nâng cao chất
lượng xét xử các loại án. Tỷ lệ giải quyết án hình sự đạt trên 88% trong đó có án liên
quan đến lĩnh vực đất đai; Tăng cường công tác kiểm tra, giám đốc xét xử. Hạn chế đến
mức thấp nhất tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan.
- Thường xuyên tổ chức các phiên họp rút kinh nghiệm giữa các cơ quan tố
tụng tỉnh Bắc Ninh đối với những vụ án vi phạm các quy định về quản lý đất đai phức
tạp, được dư luận quan tâm nhưng có vướng mắc trong việc định tội danh và quyết định
hình phạt để rút ra những kinh nghiệm, bài học đối với những vụ án liên quan khác.
3.2.4. Tăng cường, năng lực xét xử các vụ án hình sự của Thẩm phán, Hội
thẩm
- Thực hiện đúng nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, đảm bảo các tiêu chí đặt ra đối với phiên
tòa theo tinh thần cải cách tư pháp. Theo đó, phiên tòa phải đảm bảo các yêu cầu
sau: Hội đồng xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; thực hiện tốt nguyên tắc
tranh tụng; tôn trọng quyền con người; Hội đồng xét xử phải thực hiện hết thẩm
quyền của mình theo quy định của pháp luật.
72
- Công tác xét xử các vụ án hình sự nói chung và vụ án vi phạm các quy định
về quản lý đất đai nói riêngphải đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Việc tranh tụng tại phiên tòa tiếp tục được chú trọng theo hướng thực chất, hiệu
quả; tăng cường công tác phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng được thực
hiện đúng theo các quy định của pháp luật tố tụng.
- Việc tổ chức thi tuyển tuyển chọn Thẩm phán sơ cấp, nâng ngạch Thẩm
phán trung cấp được thực hiện nghiêm túc, công khai, đúng quy định của pháp luật,
mở rộng nguồn, nhằm lựa chọn những người có trình độ, năng lực tốt nhất để bổ
nhiệm, từ đó tạo động lực và mở ra phong trào thi đua học tập, trau dồi kiến thức
chuyên môn nghiệp vụ trong đội ngũ cán bộ, công chức.
- Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ và
nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ, công chức Tòa án các cấp cần thực hiện
nghiêm túc Quy chế đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức, người lao động trong
Tòa án nhân dân do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành, tăng cường ứng
dụng hệ thống truyền hình trực tuyến phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đã
giúp cho đông đảo cán bộ, Thẩm phán Tòa án các cấp được tham gia quá trình đào
tạo. Cùng với việc tổ chức các lớp đào tạo bồi dưỡng định kỳ, lãnh đạo Tòa án cần
khuyến khích cán bộ, công chức trong toàn hệ thống tự học tập, trau dồi để nâng
cao trình độ chuyên môn, đặc biệt là việc tự học thông qua hoạt động rút kinh
nghiệm công tác xét xử, tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm để giúp các Thẩm phán
nâng cao tinh thần trách nhiệm trong quá trình chuẩn bị xét xử, cũng như khi tổ
chức phiên tòa; thông qua hoạt động rút kinh nghiệm sau phiên tòa, Thẩm phán và
những người tham gia sẽ được học hỏi để nâng cao về kỹ năng xử lý các tình huống
và điều hành phiên tòa, cũng như trình độ nhận thức và áp dụng pháp luật.
Cùng với việc chú trọng đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, công
tác giáo dục chính trị tư tưởng và rèn luyện phẩm chất chính trị cho đội ngũ cán bộ,
công chức Tòa án các cấp cũng cần được quan tâm hơn nữa. Tòa án nhân dân tối
cao đã xác định một trong những giải pháp để nâng cao chất lượng công tác xét xử
là phải nâng cao bản lĩnh, đạo đức nghề nghiệp cho các Thẩm phán, theo đó mỗi
Thẩm phán phải thấm nhuần lời dạy của Bác: “phụng công, thủ pháp, chí công, vô
tư”, phải thực sự là những người luôn công minh, chính trực, đặt lợi ích của nhân
73
dân, của nhà nước lên trên hết, tuyệt đối tuân thủ những quy định của hiến pháp và
pháp luật, với tinh thần thượng tôn pháp luật, khách quan, không thiên vị, tư lợi cá
nhân.
Tòa án nhân dân tỉnh cần chủ động xây dựng kế hoạch và tổ chức các lớp
bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho Thẩm phán, công chức và Hội
thẩm Tòa án nhân dân thuộc quyền quản lý, cũng như cử cán bộ, công chức tham
gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, quản lý nhà nước tại địa phương.
3.2.5. Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật
- Nângcao nhận thức, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống cho cán bộ, đảng viên, trong đó chú trọng nội dung xây dựng Đảng về đạo
đức, truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc; kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa đào
tạo với rèn luyện trong thực tiễn và đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện nghiêm túc chế độ học tập, bồi dưỡng lý luận
chính trị và cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, nhất là cán bộ trẻ được đào tạo ở
nước ngoài.
- Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ. Tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, triển khai đồng bộ; thường xuyên hướng dẫn,
kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện; ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả những tiêu cực,
tham nhũng trong công tác cán bộ. Chú trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp
có phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới, nâng cao chất
lượng công tác tham mưu, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về công
tác tổ chức, cán bộ, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của cách
mạng công nghiệp 4.0. Đồng bộ hóa đội ngũ cán bộ đủ bản lĩnh, nhân cách và năng
lực tương ứng. Chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và trên hết, đòi hỏi
phải có sự tâm huyết và tinh thần trách nhiệm cao.
- Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả chủ trương công khai bản án, quyết
định có hiệu lực của Tòa án trên Cổng thông tin điện tử theo Chỉ thị của Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao. Đây là bước đột phá trong hoạt động chỉ đạo điều hành
của lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao nhằm nâng cao năng lực, trách nhiệm của các
Thẩm phán, tăng tính thống nhất trong việc áp dụng pháp luật cũng như tạo điều
kiện để nhân dân tham gia giám sát hoạt động xét xử của Tòa án. Trên cơ sở theo
74
dõi, tổng hợp các ý kiến bình luận, các Tòa án kịp thời rút kinh nghiệm đối với các
Thẩm phán có các bản án còn có những hạn chế để lưu ý khắc phục, nhằm nâng cao
chất lượng bản án.
3.2.6. Các giải pháp khác
*Giải pháp về tổ chức, cán bộ
- Tăng cường kỷ cương, kỷ luật công vụ, đề cao trách nhiệm người đứng
đầu; thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức; tăng cường giáo dục chính trị, đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm
công vụ. Sắp xếp bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Rà soát đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là
cán bộ có chức danh tư pháp; trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt Đề án vị trí
việc làm. Trên cơ sở Nghị quyết của Đảng và của Quốc hội, nghiên cứu xây dựng
cơ chế phân bổ biên chế cho các cơ quan tư pháp bảo đảm đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ được giao. Thường xuyên thanh tra, kiểm tra việc thực thi nhiệm vụ của đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, thanh tra viên,
kiểm toán viên; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh người có hành vi phạm
pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
- Tiếp tục cải cách, hiện đại hóa nền tư pháp. Chính phủ có lộ trình, kế
hoạch bố trí kinh phí để bảo đảm điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất, trang thiết bị,
phương tiện làm việc cho Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành
án. Tập trung triển khai hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, thông suốt trong
hoạt động của các cơ quan tư pháp. Nâng cấp trang thiết bị cho hoạt động điều tra,
khám nghiệm hiện trường, giám định tư pháp, nhất là các thiết bị ghi âm, ghi hình
có âm thanh phục vụ công tác điều tra theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình
sự. Bố trí đủ kinh phí đầu tư trụ sở các cơ quan tư pháp, cơ sở giam giữ phạm nhân
đã xuống cấp nghiêm trọng hoặc quá tải bảo đảm cho các cơ quan tư pháp thực hiện
tốt nhiệm vụ được giao; tạo điều kiện để Tòa án nhân dân tối cao triển khai Đề án
Tòa án điện tử từ năm 2020.
- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và các phương pháp hiện đại;
chủ động chọn lọc, xử lý thông tin, bảo đảm nguồn thông tin chính thống, thông tin
có định hướng.
75
- Tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương, chế độ
bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công; đến năm 2020, tiền lương của công chức
được cải cách cơ bản, bảo đảm được cuộc sống của công chức và gia đình ở mức
trung bình khá trong xã hội. Sửa đổi, bổ sung các quy định về chế độ phụ cấp ngoài
lương theo ngạch, bậc, theo cấp bậc chuyên môn, nghiệp vụ và điều kiện làm việc
khó khăn, nguy hiểm, độc hại.
+ Thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại và nâng cao chất lượng
đội ngũ công chức, bảo đảm đến năm 2021 giảm được 10% so với biên chế giao
năm 2015. Hoàn thiện tiêu chí để xác định biên chế công chức, số lượng người làm
việc trong đơn vị sự nghiệp công lập, cơ cấu công chức của các bộ, ngành, địa
phương, gắn với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi, tính chất công việc, tiêu
chuẩn chức danh công chức và trên cơ sở xác định vị trí việc làm một cách khoa
học, sát thực tế.
* Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
với Cơ quan thanh tra.
Có thể nói với đặc thù và chức năng, nhiệm vụ của mình, rất nhiều vụ án liên
quan đến quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng và địa bản cả nước nói
riêng được phát hiện qua công tác thanh tra, đặc biệt là thanh tra chuyên ngành
trong lĩnh vực đất đai, kết quả đã phát hiện nhiều tồn tại, sai phạm trong quản lý, sử
dụng đất đai ở hầu hết các đối tượng được thanh tra, kiểm tra. Do vậy, đối với tội vi
phạm các quy định về quản lý đất đai việc tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa
Cơ quan điêu tra, Viện kiểm sát với Cơ quan thanh tra có ý nghĩa vô cùng quan
trọng.
+ Cơ quan thanh tra, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát căn cứ vào chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng ngành, theo quy định của pháp luật có trách
nhiệm thường xuyên quan hệ, phối hợp để trao đổi, cung cấp cho nhau thông tin về
tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm đã được phát hiện thông qua hoạt động thanh
tra, điều tra và kiểm sát điều tra; kịp thời trao đổi thông tin, kết quả giải quyết tố
giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan thanh tra về những vụ việc,
những lĩnh vực trọng điểm mà Cơ quan thanh tra, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát
cùng quan tâm. Đối với những vụ việc Cơ quan thanh tra đã tiến hành thanh tra
76
nhưng không kiến nghị khởi tố, nếu có căn cứ cho thấy cần phải tiếp tục xác minh
làm rõ, thì Cơ quan thanh tra có công văn đề nghị Cơ quan điều tra phối hợp để xác
minh làm rõ thêm.
+ Quan hệ phối hợp trong việc xử lý các vụ việc có dấu hiệu tội phạm do Cơ
quan thanh tra kiến nghị khởi tố: Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra, nếu
Cơ quan thanh tra nhận được tố giác, tin báo về tội phạm hoặc phát hiện vụ việc có
dấu hiệu tội phạm với đầy đủ tài liệu, chứng cứ, thì Cơ quan thanh tra chuyển ngay
tố giác, tin báo về tội phạm hoặc tài liệu, chứng cứ và hồ sơ vụ việc đó kèm theo
kiến nghị khởi tố cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền theo quy định tại Điều 26 Bộ
luật Tố tụng hình sự.
+ Trong trường hợp vụ việc có dấu hiệu tội phạm được phát hiện và kết luận
sau khi kết thúc cuộc thanh tra, thì trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày ký
kết luận thanh tra, Cơ quan thanh tra ra quyết định chuyển hồ sơ vụ việc đó và văn
bản kiến nghị khởi tố đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền để xem xét khởi tố vụ án
hình sự, đồng thời thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp biết theo
quy định tại điểm o khoản 1 Điều 48 và điểm n khoản 1 Điều 55 Luật Thanh tra
năm 2010.
- Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, rà soát và xử lý nghiêm các hành vi
vi phạm về đất đai theo quy định của BLHS năm 2015.Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát cần tích cực phối hợp, nắm thông tin với Cơ quan trong quản lý đất đai như Sở
Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường, các sở, ngành liên quan
rà soát, kiểm tra, đánh giá lại tình hình quản lý, sử dụng quỹ đất nông nghiệp vào mục
đích công ích, kịp thời phát hiện, xử lý những trường hợp cho thuê cho mượn trái
phép, sử dụng không đúng mục đích, không đúng đối tượng, không lập hồ sơ cho
thuê đất công ích hoặc hồ sơ không đầy đủ, rõ ràng, không thực hiện đăng ký đất đai
theo quy định.
Tiểu kết Chương 3
Thông qua Chương 3 của luận văn tác giả đã phân tích một số yêu cầu của
việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với vi phạm các quy định về quản lý
đất đai như yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa, yêu cầu của việc bảo vệ quyền
con người, quyền công dân và của phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm,
77
yêu cầu của hội nhập quốc tế và phù hợp với các quy định giữa Luật đất đai với các
hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai, yêu cầu của việc tiếp tục cải cách
tư pháp. Trên cơ sở đó tác giả luận văn đã đưa ra một số giải pháp bảo đảm định tội
danh và quyết định hình phạt đúng đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất
đai tại tỉnh Bắc Ninh như giải pháp hoàn thiện pháp luật và tăng cường nhận thức
đúng lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy
định về quản lý đất đai, giải pháp tăng cường khả năng, năng lực xét xử hình sự của
Thẩm phán, Hội thẩm cũng như công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật
và tăng cường tổng kết thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi
phạm các quy định về quản lý đất đai và một số giải pháp khác để nâng cao hiệu
quả của hoạt động này trong thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
78
KẾT LUẬN
Thông qua 03 Chương của luận văn tác giả đã phân tích làm sáng tỏ một số
vấn đề chung về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trong pháp luật hình sự
Việt Nam, mà trọng tâm là BLHS năm 2015 như: khái niệm, dấu hiệu pháp lý phân
biệt với một số tội dễ gây nhầm lẫn trong BLHS năm 2015, lịch sử lập pháp của
Nhà nước ta về tội danh này từ sau năm 1945 đến khi BLHS năm 2015 có hiệu lực
pháp luật.
Phân tích, đánh giá một số vấn đề lý luận về định tội danh và quyết định hình
phạt cũng như kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của những
tồn tại, hạn chế trong quá trình định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm
các quy định về quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Đưa ra một số yêu cầu và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm các quy định về quản lý
đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Kết quả nghiên cứu của luận văn phần nào đã đạt được yêu cầu, mục đích
nghiên cứu của luận văn. Tuy nhiên, đề tài được nghiên cứu trong bối cảnh BLHS
năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 với nhiều quy định mới, trong đó có
những bổ sung quan trọng đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai, trong
khi văn bản hướng dẫn BLHS năm 2015 chưa được ban hành kịp thời để hướng
dẫn, làm tiền đề áp dụng trong thực tiễn, trong khi đó, kiến thức và kinh nghiệm của
tác giả luận văn còn hạn chế, do vậy luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, hạn
chế. Do vậy, tác giả luận văn mong được sự đóng góp của quý thầy cô, đồng nghiệp
và những người quan tâm đến đề tài, để luận văn được hoàn thiện hơn, là cơ sở lý
luận khoa học cho hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm các
quy định về quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng và trong phạm vi cả
nước nói chung./.
79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, ban hành ngày 02/01/2002, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW về chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020, ban hành ngày 24/5/2005, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, ban hành ngày 02/6/2005, Hà Nội.
4. Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng (chủ biên), Bình luận khoa học BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb. Thế giới, Hà Nội.
5. Phạm Văn Beo (2010) Luật hình sự Việt Nam - Quyển 2 (Phần các tội
phạm), Nxb. Chính trị quốc gia, Cần Thơ.
6. Nguyễn Mai Bộ (2006),Pháp luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự quản
lý kinh tế”, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
7. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tư pháp, Bộ Công an,
VKSNDTC, TANDTC (2007), Thông tư liên tịch số 19 ngày 08/3/2007 hướng dẫn
áp dụng một số điều của Bộ luật hình sự về các tội phạm tronglĩnh vực quản lý
rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản, Hà Nội.
8. Bộ Tư pháp (1976), Thông tư số 03/BTP/TT, Hà Nội.
9. Lê Cảm (2004), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb.Công an nhân dân,
Hà Nội.
10. Lê Cảm (Chủ biên) (2007), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các
tội phạm), Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
11. Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản (2004), Định tội danh: Lý luận, hướng dẫn
mẫu và 350 bài tập thực hành, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
12. Nguyễn Ngọc Chí (2008), Hoàn thiện các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế trước yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí khoa học (Chuyên san kinh tế -
luật), Hà Nội.
13. Chính phủ (2019), Nghị định số 9/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019, Nghị
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, Hà Nội.
14. Chính phủ (2014), Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014, Quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, Hà Nội.
15. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004, Quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, Hà Nội.
16. Chính phủ (1971), Nghị quyết số 125-CP ngày 28/06/1971 về tăng cường
công tác quản lý ruộng đất, Hà Nội.
17. Chủ tịch nước (1945), Sắc lệnh số 47-SL ngày 10/10/1945,Hà Nội.
18. Chủ tịch nước (1945), Sắc lệnh số 07/SL ngày 05/9/1945, Hà Nội
19. Chủ tịch nước (1946), Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/02/1946 về trừng trị tội
phá hoại công sản, Hà Nội.
20. Chủ tịch nước (1946), Sắc lệnh số 223/SL ngày 17/11/1946, quy định
truy tố các tội hối lộ, biển thủ công quỹ, Hà Nội.
21. Chủ tịch nước (1956), Sắc lệnh số 267/SL ngày 15/6/1956, trừng trị
những âm mưu, hành động phá hoại hoặc làm thiệt hại đến tài sản Nhà nước, của
hợp tác xã và củanhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch xây
dựng kinh tế và văn hóa, Hà Nội.
22. Nguyễn Chí Công (2016), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
trật tự quản lí kinh tế, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
23. Nguyễn Ngọc Điệp (2017), Bình luận khoa học Phần các tội phạm BLHS
năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb. Thế giới, Hà Nội
24. Lương Duy Hinh (2013), Các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng
đất đai trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn
thành phố Hà Nội), Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
25. PGS. TS. Trần Văn Luyện (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), phần các tội phạm, Nxb. Công an nhân dân,
Hà Nội.
26. Dương Tuyết Miên (2005), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb.
Lao động – Xã hội, Hà Nội.
27. Nguyễn Văn Nam (2008), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế trong luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Viện
Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.
28. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
29. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
30. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
31. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
32. Quốc hội (2013), Luật Đất đai, Hà Nội.
33. Quốc hội (2012), Luật xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.
34. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, Công chức, Hà Nội.
35. Quốc hội (2019), Nghị quyết số 96/2019/QH14 ngày 27 tháng 11 năm
2019 về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, Hà Nội.
36. Ths. Đinh Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các
tội phạm, tập VI – Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, Nxb. Thành phố Hồ
Chí Minh.
37. Trường Đại học luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,
tập II. Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
38. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình luậthình sự Việt Nam
(tập 2), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội
39. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình luật hình sự Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
40. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình luật hình sự Việt Nam
(tập II), Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội.
41. Tòa án nhân dân tối cao (2017),1 Báo cáo số 38/BC-TA ngày 10/10/2017,
Hà Nội.
42. Tòa án nhân dân huyện tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 122/2015/HSST ngày
30/9/2015, Bắc Ninh.
43. Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, Bản án số
110/2016/HSST ngày 17/9/2016, Bắc Ninh.
44. Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 99/2017/HSST ngày
22/11/2017, Bắc Ninh.
45. Tòa án nhân dân tỉnh B, Bản án số 34/2019/HSPT ngày 14/05/2019, Bắc
Ninh.
46. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình Lý luận chung về định tội danh,
Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội.
47. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1970), Pháp lệnh số 149-LCT ngày
21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm tài sản Xã hội chủnghĩa, Hà Nội.
48. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1972), Pháp lệnh số số 147- LCT ngày
06/9/1972 về việc bảo vệ rừng, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Bảng 2.1. Thống kê tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai so với nhóm
tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đã được TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đưa ra
xét xử sơ thẩm giai đoạn 2015 – 2019
Tỷ lệ % (2)/ (1) Năm Tổng số vụ án và bị cáo phạm tôi vi phạm các quy định về quản lý đất đai (2) Tổng số vụ án và bị cáo thuộc nhóm tội xâm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (1)
Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo
58 60 57 63 65 303 66 75 68 78 79 366 02 01 01 01 01 06 04 03 14 03 03 27 3,4% 1,6% 1,75% 1,5% 1,53% 1,98% 6,06% 4% 20,5 3,84 3,79 7,37% 2015 2016 2017 2018 2019 Tổng
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019)
Bảng 2.2. Thống kê tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai so với nhóm
tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đã được TAND tỉnh Bắc Ninh đưa ra xét xử
phúc thẩm giai đoạn 2015 – 2019
Tỷ lệ % (2)/ (1) Tổng số vụ án và bị cáo phạm tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai (2) Năm Tổng số vụ án và bị cáo thuộc nhóm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (1)
Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo
15 24 01 03 6,6% 12,5% 2015
21 31 00 00 00 00 2016
23 32 01 07 4,3% 21,8% 2017
17 25 01 01 5,8% 4% 2018
14 21 01 03 7,1% 14% 2019
90 133 04 14 4,4% 10,5% Tổng
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019)
Bảng 2.3.Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử theo CTTP cơ bản tội vi phạm
các quy định về quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019
Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai (1) Đinh tội danh theo CTTP cơ bản (khoản 1) của Điều 174 BLHS năm 1999 hoặc 229 BLHS năm 2015 (2) Năm
Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo
02 04 01 01 2015
01 03 01 03 2016
01 14 01 14 2017
01 03 01 03 2018
01 03 01 03 2019
06 27 05 24 Tổng
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019)
Bảng 2.4.Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử theo CTTP tăng nặng tội vi phạm
các quy định về quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019
Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai (1) Đinh tội danh theo CTTP cơ bản (khoản 2, 3) của Điều 174 BLHS năm 1999 hoặc 229 BLHS năm 2015 (2) Năm
Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo
02 04 01 03 2015
01 03 00 00 2016
01 14 00 00 2017
01 03 00 00 2018
01 03 00 00 2019
06 27 01 03 Tổng
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019)
Bảng 2.5.Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử phạm nhiều tội trong đó
có tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019
Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai Số vụ và số bị cáo phạm nhiều tội, trong đó có tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai Năm
Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo
2015 02 04 00 00
2016 01 03 01 01
2017 01 14 00 00
2018 01 03 00 00
2019 01 03 00 00
Tổng 06 27 01 01
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019)
Bảng 2.6. Thống kê những hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo phạm vi
phạm các quy định về quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019
Số bị Cảnh Tù Tù Tù Tù từ cáo cáo, 03 07 từ 15 20 Tù đã Tù chung cải Án dưới năm năm năm năm Năm xét thân, tử tạo treo 03 đến đến đến đến xử hình không năm 07 15 20 chung (sơ giam năm năm năm thân thẩm) giữ
2015 04 00 01 01 00 00 02 00 00
2016 03 00 02 00 00 00 01 00 00
2017 14 04 09 01 00 00 00 00 00
2018 03 00 02 01 00 00 00 00 00
2019 03 03 00 00 00 00 00 00 00
Tổng 27 07 14 03 00 00 03 00 00
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019)
Bảng 2.7. Nhân thân của các bị cáo bị xét xử về tội vi phạm các quy định về quản
lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019
Số bị Cán Từ đủ Từ đủ Tuổi Tái
cáo bộ Dân 14 16 từ 18 phạm, Người đã bị công tộc đến đến đến tái nghiện Năm Nữ xét xử chức, thiểu dưới dưới dưới phạm ma tuý (sơ Đảng số 16 18 30 nguy
thẩm) viên tuổi tuổi tuổi hiểm
2015 04 04 01 00 00 00 03 00 00
2016 03 03 01 00 00 00 02 00 00
2017 14 14 05 00 00 00 08 00 00
2018 03 03 01 00 00 00 02 00 00
2019 03 03 01 01 00 00 01 00 00
Tổng 27 27 09 01 00 00 16 00 00
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019)