VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THẾ THANH

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN

QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội - 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THẾ THANH

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN

QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành:Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS.TRẦN HỮU TRÁNG

Hà Nội - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ

công trình nào.

TÊN TÁC GIẢ

NGUYỄN THẾ THANH

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI

TRỘM CẮP TÀI SẢN .................................................................................... 9

1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản ................. 9

1.2 Các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình

sự Việt Nam .............................................................................................. 21

1.3 Lịch sử hình thành và phát triển của tội trộm cắp tài sản theo quy

định của pháp luật hình sự Việt Nam ........................................................ 32

Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT

NAM VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN

ĐỐNG ĐA – THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................................... 40

2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội và tình hình

giải quyết các vụ án hình sự trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố

Hà Nội ....................................................................................................... 40

2.2. Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận

Đống Đa – Thành phố Hà Nội .................................................................. 44

Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ

ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN ĐỐNG ĐA –

THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................................. 66

3.1 Yêu cầu và phương hướng hoàn thiện pháp luật về tội trộm cắp tài sản. ........ 66

3.2. Các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội trộm cắp

tài sản ......................................................................................................... 68

3.3. Các giải pháp về tổ chức thực hiện các quy định pháp luật hình sự

Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành

phố Hà Nội ................................................................................................ 70

KẾT LUẬN .................................................................................................... 76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Bộ luật hình sự BLHS

Bộ luật tố tụng hình sự BLTTHS

Nhà xuất bản NXB

Viện kiểm sát nhân dân VKSND

Tòa án nhân dân TAND

Cảnh sát điều tra CSĐT

Quy phạm pháp luật QPPL

DANH MỤC BẢNG

Bảng số 2.1: Tổng số vụ án, số bị cáo bị xét xử về tội trộm cắp tài sản

trong tương quan với các tội phạm xâm phạm sở hữu khác trên địa

bàn Quận Đống Đa – Thành phố HN từ năm 2015 đến năm 2019 ...... 45

Bảng 2.2: Số vụ án hình sự bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội trộm

cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố HN từ năm

2015 đến năm 2019 ............................................................................... 45

Bảng 2.3: Kết quả xét xử phúc thẩm các vụ án phạm tội trộm cắp tài sản trên

địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố HN từ năm 2015 đến năm 2019 ...... 46

Bảng 2. 4: Thống kê chế tài được áp dụng khi giải quyết tội trộm cắp tài

sản trên địa bàn quận Đống Đa từ năm 2015 đến năm 2019 ................ 50

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nhìn lại ba mươi năm đổi mới kể từ năm 1986, đất nước ta do Đảng lãnh

đạo đã đạt được những thành quả to lớn, toàn diện trên tất các các mặt của đời

sống xã hội. Cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, Đảng

ta chủ trương giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống

của nhân dân, tạo tiền đề vững chắc cho sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh những thành tựu to lớn mà chúng ta đã đạt

được, vẫn còn những khuyết điểm, yếu kém và không ít vấn đề bức xúc nảy sinh

chưa được giải quyết đó là sự tha hóa, biến chất về đạo đức, lối sống thực dụng

và hưởng thụ của một bộ phận con người trong xã hội làm phát sinh tệ nạn xã

hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đặc

biệt là tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, tính chất, thủ đoạn

ngày càng tinh vi, xảo quyệt, nhiều vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Để

bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, từ Bộ luật

hình sự năm 1985 lần đầu tiên được pháp điển hóa cho đến Bộ luật hình sự

năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 và Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ

sung năm 2017, pháp luật hình sự Việt Nam đều dành một chương riêng trong

phần các tội phạm để quy định về các tội xâm phạm sở hữu, trong đó có tội

trộm cắp tài sản.

Thực tiễn công tác đấu tranh, phòng chống và xử lý tội phạm cho thấy,

nhờ sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan tiến hành tố tụng, chất lượng hoạt

động điều tra, truy tố, xét xử ngày càng được nâng cao. Số vụ trộm cắp tài sản

trên địa bàn quận Đống Đa đã được phát hiện chiếm tỷ lệ cao và được đưa ra xét

xử nghiêm minh trước pháp luật. Tuy nhiên, công tác phòng ngừa và đấu tranh

chống tội phạm nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng trên địa bàn quận

Đống Đa vẫn còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân là do ý thức tự bảo vệ tài sản của

mình và tham gia bảo vệ tài sản của người khác trong quần chúng nhân dân còn

1

chưa cao; các cơ quan, đơn vị, tổ chức kinh tế mặc dù có điều kiện về kinh tế

nhưng công tác bảo vệ tài sản còn nhiều hạn chế, mất cảnh giác, không quan

tâm trang bị các phương tiện khoa học kỹ thuật để phục vụ cho việc phòng ngừa

và chống tội phạm; số đối tượng bị phạt tù sau khi chấp hành xong hình phạt tù

để tái hòa nhập cộng đồng còn chưa được quản lý chặt chẽ, chưa được tạo điều

kiện để họ tái hòa nhập cộng đồng và chưa được tạo điều kiện về công ăn việc

làm, do đó số đối tượng này không có việc làm còn nhiều nên tỷ lệ tái phạm còn

cao. Đặc biệt, quá trình áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản

của các cơ quan bảo vệ pháp luật của Quận Đống Đa còn có những hạn chế, một

số vụ việc chưa đánh giá hết tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội,

nên việc định tội danh và áp dụng hình phạt còn chưa thật chính xác; việc áp

dụng một số quy định của pháp luật còn chưa thống nhất, dẫn đến hiệu quả chưa

cao. Chính vì vậy, Tác giả lựa chọn đề tài “Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn

quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội” làm luận văn Thạc sĩ với mong muốn trên

cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn xử lý loại tội này sẽ góp phần bảo đảm việc

áp dụng đúng pháp luật hình sự, qua đó nâng cao chất lượng và hiệu quả của

công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội trộm cắp tài sản tại quận Đống Đa,

Thành phố Hà Nội.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong những năm gần đây, vấn đề xây dựng pháp luật hình sự áp dụng

cho tội trộm cắp tài sản đã thu hút không ít sự quan tâm của các nhà tội phạm

học, đặc biệt là các nhà nghiên cứu Luật. Tính đến thời điểm nghiên cứu có thể

chia các công trình nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự

thành hai nhóm lớn sau:

Thứ nhất, nhóm luận văn, luận án, đề tài nghiên cứu khoa học: Các

công trình nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt

Nam nhắc đến như sau: Nguyễn Bá Vinh (2019), Tội Trộm cắp tài sản theo

pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi,

2

Luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã hội; Lê Ngọc Như Chi (2018), Áp

dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn Quận 6, thành

phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã hội; Phạm Tuấn

Anh (2018), Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn

huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã

hội; Lê Thị Bình (2018), Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật hình sự Việt Nam

từ thực tiễn tỉnh Bình Phước, Luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã hội;

Phạm Thu Hà (2016) Tội trộm cắp tài sản trong Luật Hình sự Việt Nam, Luận

văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Thanh Tùng (2013), Tội

trộm cắp tài sản theo Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa

Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Thị Thu Ba (2016), Tội trộm cắp tài

sản theo Luật hình sự VN( trên cơ sở số liệu xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng

Nam), Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội…. Các công trình nghiên cứu này

đã phân tích, làm rõ được một số vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản trong

pháp luật hình sự Việt Nam như: Khái niệm, đặc điểm của tội trộm cắp tài

sản, các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản cũng như lịch sử hình thành

và phát triển của chế định này trong pháp luật hình sự Việt Nam. Bên cạnh đó

còn chỉ ra thực trạng xảy ra tội trộm cắp tài sản trên địa bàn nhất định Tuy

nhiên, những công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở các vấn đề mang

tính lý luận mà chưa đề cập đến thực tiễn áp dụng thủ tục này, Thêm vào đó

công trình đã được công bố từ lâu, chưa cập nhật được các quy định mới về

tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015.

Thứ hai, nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật: trong nhóm này

có thể kể đến các bài viết như: Hồ Sỹ Sơn, Tội trộm cắp tài sản nhìn từ góc độ

so sánh pháp luật từ một số nước trên thế giới, Tạp chí Nhân lực Khoa học Xã

hội - Số 7/ 2016, tr.12-20; Đinh Công Thành, "Bình luận về tội trộm cắp tài

sản", Tạp chí Kiểm sát, Số 10/2018, tr. 43 – 49; Phan Anh Tuấn, Một số đề

xuất hoàn thiện quy định về các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự

3

năm 2015, Tạp chí Khoa học Pháp lý số 8/2015, tr.48-55; Dương Vân Anh,

Yếu tố định lượng tài sản đối với tội trộm cắp tài sản, Tạp chí Kiểm sát -số

23/ 2014, tr.49-52, 62; Nguyễn Thị Xuân, Hoàn thiện quy định cấu thành tội

trộm cắp tài sản tại điều 138 Bộ Luật hình sự, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp -

số 21/2015, tr.37-40; Lê Văn Định, “Bàn về nguyên nhân và điều kiện của tội

trộm cắp tài sản ở Tây Nguyên”, Tạp chí Kiểm sát. Số 10/2017, tr. 20 – 24;

Lê Văn Định, “Đặc điểm nhân thân người phạm tội và phương thức thực hiện

tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai” Tại chí Kiểm sát. Số 6/2015,

tr. 47 – 53; Đỗ Lường Thiện, “Hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về

tội trộm cắp tài sản”, Tạp chí Nghề luật. Số 4/2017, tr. 71 – 73; Trần Mạnh

Hà, “Phân biệt một số dấu hiệu đặc trưng của tội Trộm cắp tài sản khi định tội

danh”, Tạp chí Toà án nhân dân. Số 10/2006, tr. 23 – 28……Các bài viết kể

trên đề cập những vấn đề cơ bản về lý luận của tội trộm cắp tài sản trong pháp

luật hình sự Việt Nam như: Khái niệm, ý nghĩa, các dấu hiệu pháp lý đặc

trưng của tội trộm cắp tài sản. Ngoài ra còn có phân biệt giữa tội trộm cắp tài

sản với các tội trong chương các tội phạm xâm phạm sở hữu khác. Các bài

viết trên đều đến thực tiễn áp dụng cũng như chỉ ra những bất cập, vướng mắc

khi giải quyết án hình sự đối với tội danh là trộm cắp tài sản, đưa ra các kiến

nghị hoàn thiện pháp luật liên quan đến tội danh trên cũng như các biện pháp

phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm này diễn ra trên thực tế. Tuy nhiên các vấn

đề trên được phân tích đánh giá dựa trên các quy định của Bộ luật hình sự

năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 mà chưa cập nhật các quy định mới của

tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015.

Các công trình, bài báo, tạp chí chuyên ngành luật đã nghiên cứu về tội

trộm cắp tài sản trên những khía cạnh cụ thể. Tuy nhiên, cần phải khẳng định

rằng các nghiên cứu kể trên còn có những hạn chế nhất định ở việc thiếu tính

hệ thống, tính toàn diện. Chưa có công trình nào nghiên cứu về tội trộm cắp

tài sản trong pháp luật hình sự trên địa bàn Quận Đống Đa – một trong Quận

4

lớn của thành phố Hà Nội, hơn nữa nhiều công trình đã nghiên cứu và được

công bố từ khá lâu, chưa cập nhật được những điểm mới của tội trộm cắp tài

sản trong Bộ luật hình sự năm 2015 Vì vậy, thông qua quá trình nghiên cứu

Luận văn này, tác giả đi sẽ sâu tìm hiểu toàn diện về loại tội trộm cắp tài sản,

từ đó kế thừa những nội dung đã được tiếp cận từ các công trình nghiên cứu

của các tác giả trước đây để làm rõ một số vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài

sản, thực trạng các quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản và thực

tiễn áp dụng tại Quận Đống Đa, từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm

hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật về tội

trộm cắp tài sản.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1 Mục đích nghiên cứu của đề tài

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng

pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Đống Đa, thành

phố Hà Nội giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, luận văn chỉ ra những bất

cập hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật về tội trộm cắp tài sản, từ đó đề

xuất các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự và các giải pháp

khác nhằm bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài

sản trên địa bàn quận Đống Đa nói riêng, thành phố Hà Nội nói chung.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu:

Nhiệm vụ thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận, bao gồm:

- Phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc quy định tội

trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam.

- Làm rõ lịch sử hình thành và phát triển của tội trộm cắp tài sản theo quy

định của pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay.

- Phân tích làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản trong pháp

luật hình sự Việt Nam, bao gồm khách thể của tội trộm cắp tài sản, mặt chủ quan

5

của tội trộm cắp tài sản, mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản, chủ thể của tội

trộm cắp tài sản.

Nhiệm vụ thứ hai: Làm rõ thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm

cắp tài sản trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, cụ thể

- Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội và tình hình điều

tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố

Hà Nội.

- Phân tích làm rõ những kết quả đạt được trong áp dụng các quy định

pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống

Đa – Thành phố Hà Nội,

- Phân tích làm rõ những tồn tại và hạn chế trong áp dụng các quy định

pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống

Đa – Thành phố Hà Nội.

Nhiệm vụ thứ ba: Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp

nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự, cụ thể như sau:

- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội trộm

cắp tài sản

- Đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định pháp luật

hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

4.1 Đối tượng nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận về tội trộm cắp

tài sản; các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản

và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, trong đó giới hạn các hoạt động là

định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản trên địa

bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

4.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài.

6

- Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu dưới góc độ Luật hình sự về tội

trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam thời gian qua, đặc biệt

nghiên cứu tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ hình sự năm 2015, sửa

đổi bổ sung năm 2017 có so sánh với quy định của Bộ luật hình sự năm 1999,

sửa đổi bổ sung năm 2009

- Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định về tội

trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa trong khoảng thời gian từ năm

2015 đến năm 2019, trong đó giới hạn các hoạt động áp dụng pháp luật cơ

bản là định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy

vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Triết học Mác-Lê Nin, tư

tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng và

Nhà nước về nhà nước và pháp luật; quan điểm, đường lối chính sách của

Đảng và Nhà nước về chiến lược xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Chiến lược quốc gia

phòng, chống tội phạm giai đoạn năm 2016 đến năm 2015 và định hướng đến

năm 2030 và các quan điểm đấu tranh phòng chống tội phạm.

Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Đối với

phương pháp phân tích, so sánh tác giả dùng nhằm luận giải những vấn đề lý

luận về tội trộm cắp tài sản, làm rõ những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng

các quy định pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn

quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội đối với chương 1, chương 3 của luận văn,

ngoài ra tác giả còn kết hợp sử dụng phương pháp tổng hợp, phương pháp

thống kê nhằm làm sáng tỏ thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội trộm cắp tài

sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội được thể hiện ở chương

2 của luận văn .

7

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Về mặt lý luận của đề tài: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp

phần vào nâng cao nhận thức và áp dụng pháp luật cũng như hoàn thiện lý

luận về tội trộm cắp tài sản trong khoa học luật hình sự Việt Nam.

Về mặt thực tiễn của đề tài: Với kết quả đạt được trong nghiên cứu

của luận văn thì có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong thực tiễn

công tác chỉ đạo, điều hành và tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật, đặc

biệt là nâng cao hiệu quả công tác của các cơ quan tiến hành tố tụng và

người tiến hành tố tụng khi giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn

quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Với kết quả đạt được trong quá trình nghiên

cứu, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo

Luật và nghiên cứu khoa học

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn bao gồm: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu

tham khảo thì nội dung của luận văn được chia làm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội trộm cắp tài sản

Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hình sự Việt

Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà

Nội

Chương 3: Những giải bảo đảm áp dụng đúng các quy định pháp

luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa

– Thành phố Hà

8

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT

VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản

1.1.1 Khái niệm về tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam

Sở hữu là một phạm trù kinh tế, thể hiện các quan hệ sản xuất xã hội,

phương thức chiếm hữu và phân phối tài sản trong các hình thái kinh tế - xã

hội và quan hệ xã hội nhất định. Ở Việt Nam, quyền sở hữu về tài sản luôn

được Đảng và Nhà nước quan tâm và được ghi nhận cụ thể tại Điều 32 Hiến

pháp năm 2013 như sau: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp,

của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong

doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.”. Trong pháp luật dân sự,

khái niệm quyền sở hữu được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Quyền sở hữu

có thể được hiểu theo nghĩa rộng là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà

nước ban thành theo những trình tự, thủ tục luật định để điều chỉnh các quan

hệ xã hội phát sinh trong các lĩnh vực liên quan đến sở hữu tài sản trong đời

sống lao động, xã hội. Theo nghĩa hẹp hơn, quyền sở hữu là các xử sự mà

pháp luật cho phép một chủ thể được thực hiện trong những điều kiện và

phạm vi nhất định đối với tài sản.

BLDS năm 2015 quy định: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu,

quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu đối với tài sản theo

quy định của pháp luật”. Qua đó, quyền sở hữu bao gồm: quyền chiếm hữu

(thực hiện mọi hành vi theo ý chí của chủ sở hữu để nắm giữ, chi phối tài sản

của mình nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội), quyền sử dụng

(thực hiện việc khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản) và

quyền định đoạt (thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ

9

quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản).

Như vậy, tài sản và quyền sở hữu tài sản là những quy định pháp luật

do Nhà nước ban hành nhằm duy trì đời sống kinh tế - xã hội. Khi quyền sở

hữu tài sản bị xâm hại sẽ gây những ảnh hưởng nhất định đến đời sống kinh tế

- xã hội. Hành vi xâm phạm sở hữu là hành vi của một người nhằm tác động

đến việc thực hiện các quyền sở hữu tài sản như phá hoại tài sản, chiếm đoạt

tài sản… Do đó, Nhà nước luôn có những quy định cụ thể để bảo vệ quyền sở

hữu tài sản. Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu khi thỏa mãn đầy đủ các

yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự thì được coi là

tội phạm.

Vấn đề bảo vệ quyền sở hữu về tài sản luôn là vấn đề trọng tâm được

ghi nhận ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, bên cạnh cơ chế để

bảo vệ quyền sở hữu về tài sản thông qua các quy định được ghi nhận trong

bộ luật dân sự và pháp luật tố tụng dân sự, các chế tài xử phạt vi phạm hành

chí được Đảng và Nhà nước ta đã quy định cụ thể các chế tài hình sự trong Bộ

luật hình sự được áp dụng đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài

sản. Đây là biện pháp xử lý nghiêm khắc nhất thể hiện quyền lực của nhà

nước trong xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu về tài sản một cách bất

hợp pháp. Từ BLHS năm 1985 lần đầu tiên được pháp điển hóa đến BLHS

năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 và BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung

năm 2017, pháp luật hình sự Việt Nam đều dành một chương riêng trong phần

các tội phạm để quy định về các tội xâm phạm sở hữu, điều đó cho thấy phần

nào ý nghĩa, tầm quan trọng của chế định này. Dưới góc độ khoa học pháp lý

hình sự, theo đó các tội xâm phạm sở hữu được hiểu như sau:“Các tội xâm

phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ

luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật

hình sự quy định thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến quan hệ sở

hữu về tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức mà theo quy định của Bộ luật

10

Hình sự phải bị xử lý hình sự”.

Tội trộm cắp tài sản thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu. Hành vi trộm

cắp tài sản thuộc nhóm hành vi xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.

Dưới góc độ khoa học luật hình sự, hành vi "chiếm đoạt tài sản" có nhiều

quan điểm, như:

(i) “hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản

lý của chủ tài sản thành tài sản của mình”

(ii) hoặc là “hành vi chuyển dịch bất hợp pháp tài sản đang do một chủ

thể quản lý thành tài sản của mình. Hành vi chiếm đoạt làm cho chủ tài sản

mất khả năng thực hiện quyền sở hữu, đồng thời tạo khả năng cho người

phạm tội có thể thực hiện được việc chiếm giữ, sử dụng, định đoạt trái pháp

luật tài sản đó. Tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt là tài

sản còn nằm trong sự quản lý của chủ sở hữu”

(iii) hoặc là "hành vi cố ý chuyển biến một cách trái pháp luật tài sản

của người khác thành tài sản của mình hoặc của một nhóm người hoặc cho

người khác mà mình quan tâm”.

Các quan điểm trên đây dưới góc độ khoa học luật hình sự, hành vi

chiếm đoạt tài sản có các đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi trái pháp luật hình sự,

xâm phạm tới quyền sở hữu về tài sản. Trong một số trường hợp nhất định tùy

thuộc vào biểu hiện của hành vi chiếm đoạt tài sản mà hành vi trên còn có thể

xâm phạm tới quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự,

nhân phẩm của con người.

Thứ hai, hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi dịch chuyển tài sản từ chủ

tài sản (người sở hữu hợp pháp tài sản hoặc người quản lý hợp pháp tài sản gọi

chung là người quản lý tài sản) sang người thực hiện hành vi chiếm đoạt, làm

cho chủ tài sản mất một trong các quyền sở hữu: quyền chiếm hữu, sử dụng hoặc

quyền định đoạt tài sản của mình, và người chiếm đoạt có thể thực hiện việc

11

chiếm hữu, sử dụng, hoặc định đoạt tài sản đó một cách trái pháp luật.

Thứ ba, hành vi chiếm đoạt tài sản rất đa dạng và được thể hiện dưới

những dạng hành vi khác nhau, tùy thuộc vào mối quan hệ giữa người chiếm

đoạt với tài sản bị chiếm đoạt, hình thức chiếm đoạt, ví dụ: hành vi trộm cắp

tài sản, hành vi cướp tài sản, hành vi cưỡng đoạt tài sản, hành vi công nhiên

chiếm đoạt tài sản, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản...

Thứ tư, tài sản là đối tượng của hành vi chiếm đoạt phải còn nằm trong

sự chiếm hữu, quản lý, kiểm soát của người quản lý tài sản, và phải đáp ứng

đặc điểm riêng. Nếu tài sản đã thoát ly khỏi sự chiếm hữu, quản lý, kiểm soát

của người quản lý tài sản thì không là đối tượng của hành vi chiếm đoạt.

Thứ năm, về mặt chủ quan, người thực hiện hành vi chiếm đoạt phải do

lỗi cố ý, mục đích khi họ thực hiện hành vi là “nhằm chiếm đoạt tài sản”. Do

vậy, lỗi của họ phải là cố ý trực tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt tài

sản nhận thức rõ hành vi của mình, biết được sự nguy hiểm của hành vi cho

xã hội, nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi này.

Trong khoa học luật hình sự, có nhiều quan điểm khác nhau về tội trộm

cắp tài sản, nhưng về cơ bản đều nêu lên được nội hàm của hành vi trộm cắp

tài sản theo quy định của BLHS Việt Nam.

Quan điểm thứ nhất: “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy tài sản

của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản mà không dùng vũ

lực hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc bất cứ thủ đoạn nào khác nhằm uy hiếp

tinh thần của người quản lý tài sản”.

Quan điểm thứ hai: “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài

sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng trở lên hoặc dưới hai triệu

đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về

hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa

án tích mà con vi phạm”.

Quan điểm thứ ba: “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đọa tài

12

sản thuộc quyền sở hữu của người khác, do người có năng lực chịu trách

nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình thức

lỗi cố ý”

Qua ba quan điểm nêu trên, có thể nhận thấy rằng hành vi trộm cắp tài

sản có một số đặc trưng như sau:

Thứ nhất, trộm cắp tài sản là hành vi lén lút

Lén lút là hành vi thể hiện sự giấy giếm, vụng trộm, không công khai

và có ý đồ gian dối. Tính chất lén lút của hành vi trộm cắp tài sản được thể

hiện ở cả hành vi khách quan lẫn ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi

được coi là tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự. Hành vi lén lút

được hiểu là sự giấu giếm vụng trộm lấy tài sản khi chủ sở hữu hoặc người

quản lý tài sản không biết mình bị mất tài sản, chỉ khi tài sản bị chiếm đoạt họ

mới biết tài sản đã bị mất. Hành vi lén lút ở đây không nhất thiết là làm việc

mà không ai biết, nó có thể được thực hiện một cách giấu giếm, vụng trộm,

nhưng có thể được thực hiện một cách công khai, giữa nơi đông người. Tuy

nhiên, việc giấy giếm hay công khai thì chúng đều có một đặc điểm chung

thống nhất đó là “lén lút” với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý

tài sản. Ví dụ: Bản án 08/2018/HS-ST ngày 06/02/2018 về tội trộm cắp tài sản

của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh T. Tóm tắt vụ án như sau: do H không có

tiền trả nợ nên T xúi giục H cùng V đi đến đám cưới nhà anh Thắng ở xã

Nông Trường để trộm cắp xe máy. Đến nơi H phát hiện xe máy Sirius biển

kiểm soát 36B3 42482 màu vàng đen của anh B không có người trông coi nên

H dừng xe và bảo V xuống dùng chiếc vam vẫn mang theo phá khóa và lấy xe

nhưng V không phá được khóa nên H xuống trực tiếp phá khóa và lấy xe

mang về cho T. T bán xe cho chị Ng ở thôn Trúc Chuẩn 2 lấy 10.000.000đ,

chị Ng bán lại cho ông Nguyễn Thọ X lấy 12.000.000đ, khi chị H con gái ông

X mượn chiếc xe này đi lại thì bị anh B phát hiện và báo công an thu giữ.

Như vậy, thông qua ví dụ tại bản án 08/2018/HS-ST ngày 06/02/2018

13

về tội trộm cắp tài sản của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh T trên có thể nhận

thấy rằng hành vi của T mặc dù có công khai tuy nhiên vẫn là lợi dụng lúc

anh B. lơ là, không quản lý trông coi tài sản. Hành vi chiếm đoạt tài sản của T

vẫn là lén lút với chủ sở hữu tài sản.

Thứ hai, trộm cắp là hành vi chiếm đoạt tài sản trái pháp luật

Lén lút không phải đặc trưng duy nhất của hành vi trộm cắp tài sản mà

trong nhiều tội phạm, người thực hiện hành vi được coi là tội phạm cũng lén

lút nhưng là để thực hiện hành vi khác như: cố ý lẻn vào nhà người khác giết

hại những người trong gia đình vì mục đích hận thù hay lẻn vào phòng ngủ

của người khác để thực hiện hành vi hiếp dâm…Vì vậy, khi nói đến tội trộm

cắp tài sản thì không thể không đi kèm với hành vi chiếm đoạt tài sản, nếu lén

lút mà không chiếm đoạt tài sản thì không phải dấu hiệu pháp lý của tội trộm

cắp tài sản.

Hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi trái pháp luật hình sự xâm phạm

tới quyền sở hữu về tài sản. Xét về mặt khách quan là hành vi làm cho chủ tài

sản mất hẳn khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản

của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu,

sử dụng, định đoạt tài sản đó. Như vậy, chiếm đoạt xét về mặt thực tế là quá

trình vừa làm cho chủ tài sản mất tài sản vừa tạo cho người chiếm đoạt có tài

sản đó. Quá trình này xét về mặt pháp lí không làm cho chủ sở hữu mất quyền

sở hữu của mình mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền cụ thể

của quyền sở hữu. Hành vi chiếm đoạt với nội dung là quá trình như vậy được

thể hiện ở những dạng hành vi cụ thể khác nhau, tuỳ thuộc vào mối quan hệ

cụ thể giữa người chiếm đoạt và tài sản chiếm đoạt cũng như vào hình thức

chiếm đoạt cụ thể.[9] Để đánh giá các hành vi chiếm giữ tài sản có phạm tội

hay không, cần phải đánh giá: (1) việc nhận tài sản từ chủ sở hữu của người

phạm tội có phù hợp quy định của pháp luật dân sự hay không; (2) việc chiếm

giữ tài sản có thuộc một trong các trường hợp xác lập quyền sở hữu theo quy

14

định của Bộ luật Dân sự năm 2015 (viết tắt là BLDS) hay không.

Việc xác định hành vi chiếm giữ có trái pháp luật hay không cần dựa

vào quy định của pháp luật dân sự. Theo quy định tại Điều 158 BLDS,

“Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt

tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật”.

Để chiếm đoạt tài sản tạo ra khả năng làm mất quyền sở hữu của chủ sở

hữu và tạo ra quyền sở hữu cho mình, người phạm tội phải chiếm hữu tài sản

một cách trái pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật dân sự không quy định thế nào

là chiếm hữu trái pháp luật mà quy định hành vi chiếm hữu có căn cứ pháp

luật. Theo khoản 1 Điều 179 BLDS, “Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi

phối tài sản một cách trực tiếp hoặc giám tiếp như chủ thể có quyền đối với

tài sản” Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong các

trường hợp sau đây: (1) Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản; (2) Người được chủ sở

hữu uỷ quyền quản lý tài sản; (3) Người được chuyển giao quyền chiếm hữu

thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật; (4) Người

phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu,

tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm phù hợp với các

điều kiện do pháp luật quy định; (5) Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm,

vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy

định và (6) Các trường hợp khác do pháp luật quy định. Bên cạnh đó, BLDS

còn quy định quyền chiếm hữu của từng chủ thể. Ngoài các hành vi chiếm

hữu này là chiếm hữu bất hợp pháp. Vì vậy, để xác định hành vi chiếm hữu

của người phạm tội tại chương các tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và

tội trộm cắp tài sản nói riêng cần phải xác định việc chiếm hữu của người

phạm tội không thuộc các trường hợp chiếm hữu hợp pháp này.

Đối với tội trộm cắp tài sản, người phạm tội không nhận tài sản từ

người phạm tội và việc chiếm giữ tài sản không có sự chứng kiến của người

bị hại nên quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt chỉ có việc tiếp cận, thực

15

hiện hành vi chiếm đoạt mà không có hành vi chiếm giữ tài sản. Chính vì vậy,

trong khoa học luật hình sự, thực tiễn xét xử thống nhất, tội trộm cắp tài sản là

tội mà dấu hiệu chiếm đoạt thể hiện qua việc người phạm tội chiếm đoạt được

tài sản. Để đánh giá người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa phải dựa

vào đặc điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt, được thể hiện qua 03 mức độ sau:

(1) Nếu vật chiếm đoạt gọn nhỏ thì coi đã chiếm đoạt được khi người phạm

tội đã dấu được tài sản trong người; (2) Nếu vật chiếm đoạt không thuộc loại

nói trên thì coi chiếm đoạt được khi đã mang được tài sản ra khỏi khu vực bảo

quản; (3) Nếu vật chiếm đoạt là tài sản để ở những nơi không hình thành khu

vực bảo quản riêng thì coi là đã chiếm đoạt được khi đã dịch chuyển tài sản

khỏi vị trí ban đầu.

Thực tiễn áp dụng của tội này xảy ra nhiều trường hợp người thực hiện

hành vi trộm cắp tài sản sau khi đột nhập và tiếp cận được với tài sản nhưng

chưa chiếm đoạt được tài sản thì bị phát hiện dẫn đến quá trình khởi tố, điều

tra, truy tố, xét xử các vụ án này gặp nhiều khó khăn Ví dụ: tại bản án

18/2018/HSST ngày 09/02/2018 về tội trộm cắp tài sản của Tòa án nhân dân

thị xã BL, tỉnh BP. Tối ngày 05/10/2019 khi đang cùng gia đình ăn cơm ở

phòng ăn thì ông Nguyễn Văn A phát hiện có tiếng động lớn ở phía trước nhà.

Tiến tới kiểm tra thì ông A phát hiện anh Nguyễn Văn B đang đứng cạnh

chiếc xe mô tô 02 (hai) bánh biển số 67B2 -29210 của mình. Được biết anh

Nguyễn Văn B là thanh niên ở trong xóm, không có việc làm ổn định và có

nhiều tiền án tiền sự về tội trộm cắp tài sản. Do nghi ngờ H lấy trộm tài sản là

chiếc xe mô tô 02 bánh số 67B2 -29210 của mình, ông Nguyễn Văn A đã tiến

hành tố giác về hành vi trên của anh Nguyễn Văn B cho cơ quan điều tra có

thẩm quyền để xử lý theo đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, trong quá trình

cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra, xác minh lấy lời khai ban đầu, anh B cho

rằng anh B thấy xe ông A kiểu dáng, mẫu mã của xa đẹp nên chỉ muốn xem

tham khảo để mua. Quá trình ông H chứng kiến cũng chỉ thấy T đứng cạnh

16

chiếc xe máy chứ không thấy anh B có hành vi dịch chuyển tài sản của mình.

Như vậy, thông qua ví dụ trên thấy rằng, cơ quan điều tra không đủ căn cứ để

tiến hành anh B về hành vi trộm cắp tài sản theo tố giác của ông Nguyễn Văn A.

Thứ ba, đối tượng tác động của tội phạm là tài sản đang có chủ sở hữu

hoặc người quản lý tài sản.

Tài sản của người khác được hiểu là tài sản đang có chủ sở hữu hoặc

đang có người quản lý hợp pháp. Nó có thể là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp

pháp của cá nhân và tổ chức; là tài sản phải đang trong tầm kiểm soát của chủ

sở hữu, người quản lý tài sản hay cũng có thể là tài sản do chiếm hữu không

hợp pháp. Hành vi lấy tài sản không còn nằm trong sự quản lý của chủ tài sản

như tài sản bị bỏ quên, đánh rơi, tài sản vô chủ hoặc tài sản mà chủ sở hữu đã

từ bỏ quyền sở hữu thì không phải là hành vi trộm cắp tài sản mà có thể cấu

thành tội danh khác như tội chiếm giữ trái phép tài sản.

Tài sản là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản có thể là tài sản

hợp pháp tức là những loại tài sản được xác lập quyền sở hữu cho chủ sở hữu

theo các căn cứ: do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp;

được chuyển quyền sở hữu; thu hoa lợi, lợi tức; được thừa kế tài sản; chiếm

hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô chủ, vật bị đánh

rơi, bị bỏ quên…; chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay

tình, liên tục, công khai phù hợp với thời hiệu do BLDS quy định … hoặc có

thể là tài sản bất hợp pháp như do phạm tội, vi phạm pháp luật hành chính, vi

phạm pháp luật dân sự mà có. Tuy nhiên, do pháp luật hình sự không loại trừ

tính chất hợp pháp hoặc bất hợp pháp của đối tượng tác động của tội trộm cắp

tài sản. Vì vậy, tài sản hợp pháp hay bất hợp pháp đều có thể là đối tượng tác

động của tội trộm cắp tài sản. Chẳng hạn, Nguyễn Văn A lái xe mô tô chở Lê

Văn N ngồi phía sau áp sát vào xe của chị K để N giật sợi dây chuyền mà chị

N đeo trên cổ. Do trời tối nên cả 02 thỏa thuận, A sẽ giữ sợi dây chuyền, đến

sáng hôm sau sẽ mang đi bán chia nhau tiêu xài. Tuy nhiên, tối hôm đó, do A

17

ngủ say nên không cất sợi dây chuyền cẩn thận để Trần Văn L lén lút chiếm

đoạt. Do hàng xóm phát hiện nên L bị bắt giữ cùng tang vật. Theo định giá

của cơ quan chuyên môn, sợi dây chuyền có giá 12 triệu đồng. Trong trường

hợp này, rõ ràng sợi dây chuyền là tài sản bất hợp pháp (do phạm tội mà có của

A) nhưng L vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 173 BLHS nhằm mục

đích bảo vệ quyền sở hữu gốc về tài sản của chị N là quyền sở hữu tài sản của

chị đã bị A cướp giật tài sản và trong vụ này, ngoài ra A cũng sẽ bị truy cứu

trách nhiệm hình sự về tội cướp giật tài sản theo quy định tại Điều 171 BLHS

Ngoài ra, nếu tài sản thuộc quyền sở hữu của người phạm tội không

được chuyển giao cho người khác quản lý nhưng vì một lý do nào đó mà thoát

khỏi (có thể chỉ là tạm thời) sự quản lý của người phạm tội và khi thực hiện

hành vi người phạm tội hoàn toàn không biết đó là tài sản của bản thân thì

người đó vẫn phạm tội trộm cắp tài sản. Ví dụ: T là người mê cờ bạc, rượu

chè nên bị nợ nần chồng chất. Các chủ nợ liên tục xiết nợ T. Để có tiền trả nợ,

T rủ D đi trộm tài sản nhà ông M. Nhân lúc ông M đang ngủ, T và D đã lẻn

vào nhà lấy trộm được một hộp bên trong đựng 01 chiếc nhẫn vàng 2 chỉ. Sau

khi chiếm đoạt được, T và D thỏa thuận T sẽ mang chiếc nhẫn này đi bán, tiền

kiếm được sẽ chia đôi. Nhưng khi về nhà, T nhận ra đó là chiếc nhẫn của

mình. Sáng hôm sau, T ra hiệu cầm đồ để cầm chiếc nhẫn, đang đi trên đường

thì bị Công an bắt về hành vi trộm cắp tài sản, tang vật lại chính là chiếc nhẫn

của T. Trong trường hợp này, mặc dù, chiếc nhẫn vàng là của T bị thất lạc

nhưng T vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản. Bởi vì,

dấu hiệu “tài sản của người khác” chỉ có giá trị đối với mặt chủ quan của

người phạm tội. Họ cho rằng đó là tài sản của người khác nên mới lén lút

chiếm đoạt, chứ không bắt buộc bản chất tài sản phải là của người khác, hơn

nữa, trường hợp này, tài sản đang thuộc quyền quản lý hợp pháp của ông M.

Cho nên, việc T chiếm đoạt được chính chiếc nhẫn của mình chỉ là sự ngẫu

nhiên chứ không phải là việc mà T đã ý thức được trước đó. Việc xác định

18

nguồn gốc tài sản chỉ có giá trị đối với vấn đề xử lý tài sản đó.

Ngoài ra đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản là tài sản đó vẫn

còn nằm trong sự quản lý của chủ sở hữu (trực tiếp hoặc gián tiếp), chưa thoát

ly khỏi chủ sở hữu. Đó là các loại tài sản chưa bị chấm dứt quyền sở hữu của

chủ sở hữu theo quy định như: Chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình; vật

bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di

chuyển tự nhiên. Trong các trường hợp này, nếu một người có hành vi lén lút

chiếm đoạt các tài sản này cũng không phạm tội trộm cắp tài sản. Bởi vì, chỉ

khi tài sản còn đang do chủ tài sản, người quản lý tài sản chiếm hữu thì hành

vi phạm tội mới có thể làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản, người

quản lý tài sản.

Thêm vào đó việc người có hành vi chiếm đoạt lén lút chiếm đoạt tài

sản mà có được chủ sở hữu, người quản lý tài sản chuyển giao hay không

chuyển giao cho họ đều là hành vi phạm tội. Tuy nhiên, dấu hiệu có chuyển

giao hay không là một trong các dấu hiệu quan trọng để phân biệt tội trộm cắp

tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp việc

chuyển giao không rõ ràng thì cần dựa vào tính chất, địa điểm đặt tài sản để

định tội. Trong trường hợp những tài sản được đặt ở nơi mà ai cũng có tiếp

cận (như xe mô tô, điện thoại bàn, máy vi tính, tivi…), không có sự cất giấu

thì người thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt vẫn phạm tội lạm dụng tín

nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trường hợp, tài sản được chủ sở hữu cất giấu cẩn

thận (như: các vật trang sức, vàng bạc, tiền…) thì người có hành vi lén lút

chiếm đoạt tài sản sẽ phạm tội trộm cắp tài sản.

Chẳng hạn, A làm công cho nhà chị H. Do nhà vừa để ở vừa làm cửa

hàng mua bán hàng nên chị H thuê rất nhiều người làm phụ giúp. A được giao

cùng với một người làm công khác trông coi việc mua bán hàng, chiều tối nấu

ăn cho cả nhà. Làm được một thời gian, A lợi dụng những lúc người làm công

đi vệ sinh đã lấy thùng sữa tươi nhiều nhãn hiệu khác nhau đem ra ngoài.

19

Ngày 19/01/2012, khi A đang lén đưa hai thùng sữa thì bị phát hiện. Ngoài ra,

A còn khai nhận lấy 16 thùng sữa, trị giá gần 4,8 triệu đồng. Tuy nhiên, giữa

Viện kiểm sát và Tòa án xác định tội danh khác nhau. Trong khi, Viện kiểm

sát truy tố bị cáo về TTCTS nhưng Tòa án lại cho rằng bị cáo phạm tội lạm

dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp này, phải xác định A

phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản vì phải xác định các tài sản

trên đã được chị H giao cho A quản lý và chúng không được chủ sở hữu cất

giấu cẩn thận. Đối với trường hợp một người có hành vi lén lút chiếm đoạt tài

sản do người khác phạm tội mà có nếu người thực hiện hành vi chiếm đoạt

không được người phạm tội chuyển giao tài sản thì người có hành vi lén lút

chiếm đoạt tài sản phạm tội trộm cắp tài sản chứ không phải tội tiêu thụ tài

sản do người khác phạm tội mà có.

Như vậy thông qua việc nghiên cứu đặc trưng cơ bản của hành vi trộm

cắp tài sản được đưa trong các quan điểm nêu trên, có thể hiểu một cách khái

quát “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác”.

Tuy nhiên để đưa ra được khái niệm về tội trộm cắp tài sản, trước hết cần

khẳng định tội trộm cắp tài sản phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội

phạm như sau: bình diện khách quan – tội phạm là hành vi nguyên hiểm cho

xã hội; bình diện pháp lý – tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; bình

diện chủ quan – tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự

và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi.

Theo đó, có thể đưa ra định nghĩa về tội trộm cắp tài sản như sau:

“Tội trộm cắp tài sản là hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội, được

quy định trong Bộ luật Hình sự, do người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và

có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện với lỗi cố ý tiếp xâm phạm đến

quyền sở hữu tài sản bằng hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu,

20

người quản lý tài sản hoặc người khác có liên quan”

1.2 Các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản trong pháp luật

hình sự Việt Nam

1.2.1 Khách thể của tội trộm cắp tài sản

Khách thể của các tội xâm phạm sở hữu là quyền sở hữu đối với tài sản

được Luật Hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại gây ra hoặc đe dọa gây ra

thiệt hại nhất định, trong đó bao gồm quyền sở hữu tài sản đối với tài sản của

Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Khách thể của tội trộm cắp tài sản cũng tương

tự như tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội trộm cắp tài sản không xâm

phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Đây cũng

là một điểm khác biệt của tội trộm cắp tài sản so với các tội danh khác, như

tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, đặc

điểm này được thể hiện trong cấu thành tội trộm cắp tài sản nhà làm luật

không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình

phạt. Vì vậy, nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị đuổi

bắt mà có hành vi chống trả để tẩu thoát, gây chết người hoặc gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể

mà người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người

hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

hoặc thuộc trường hợp định khung tang nặng hoặc thuộc trường hợp trộm cắp

tài sản chuyển hóa thành cướp tài sản.

Về đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản là tài sản. Như trên đã đề

cập, theo BLDS Việt Nam tài sản được định nghĩa như sau: “Tài sản là vật,

tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; Tài sản bao gồm bất động sản và động

sản, bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành

trong tương lai”. Cụ thể:

Vật với tư cách là tài sản được hiểu là đối tượng của thế giới vật chất

theo nghĩa rộng bao gồm cả động vật, thực vật, và tồn tại ở mọi trạng thái

21

(rắn, lỏng, khí). Tuy nhiên, để được coi là tài sản thì vật cũng phải thỏa mãn

được những đặc điểm của tài sản đã nêu ở trên. Ví dụ: nước trong một dòng

sông, không khí ngoài khí quyển không thể nằm trong sự kiểm soát, chi phối

của con người, do đó mặc dù cũng được coi là đối tượng tồn tại trong thế giới

vật chất nhưng chúng không được xem xét với tư cách là tài sản. Khi nước

được đóng vào chai, không khí được nén vào bình, con người có thể thực hiện

việc kiểm soát, chi phối chúng, khi đó nước và không khí lại được coi là tài

sản (tồn tại dưới dạng vật). Một điểm lưu ý nhất khi xem xét về vật đó là

không sử dụng tiêu chí “được giao lưu trong dân sự” để khẳng định vật nào là

tài sản. Ví dụ: ma túy là đối tượng bị cấm lưu thông, nhưng ma túy vẫn được

xem xét là một loại tài sản (được thể hiện cụ thể dưới dạng vật).

Tiền là một loại tài sản đặc biệt, có chức năng trao đổi ngang giá với

những loại tài sản khác. Tiền do Ngân hàng Nhà nước độc quyền phát hành và

được hiểu là Việt Nam đồng. Giá trị của tiền được thể hiện ở mệnh giá trên

chính đồng tiền đó. Tiền giữ chủ quyền quốc gia, có giá trị sử dụng ổn định và

được sử dụng rộng rãi trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Bên cạnh chức năng

trao đổi, tiền còn có chức năng dự trữ và thanh toán trên thị trường.

Giấy tờ có giá được hiểu là những giấy tờ trị giá được thành tiền và có

thể chuyển giao được trong giao dịch dân sự. BLDS 2015 không có quy phạm

pháp luật quy định về giấy tờ có giá mà quy định về loại tài sản này nằm rải

rác trong các văn bản pháp luật có liên quan. Theo đó có thể liệt kê một số

giấy tờ có giá như: cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kì phiếu, chứng chỉ tiền

gửi, séc, chứng chỉ ký quỹ…

Xét về mặt vật lý, tài sản là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản

phải tồn tại dưới hình thức động sản theo quy định tại Bộ luật dân sự. Những

tài sản thuộc loại bất động sản có tính chất vật lý cố định không di dời được

như đất đai, nhà cửa... không là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản.

Mặt khác, do pháp luật hình sự Việt Nam không có quy định loại trừ tính chất

22

hợp pháp hoặc bất hợp pháp của đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản

do vật tài sản hợp pháp hay bất hợp pháp đều có thể là đối tượng tác động của

tội phạm này. Ví dụ: Tại bản án 101/2019/HS-ST ngày 03/05/2019 về tội

trộm cắp tài sản của toà án nhân dân thị xã TA, tỉnh BD theo đó Nguyễn Văn

B lái xe mô tô chở Nguyễn Văn C ngồi phía sau áp sát vào xe của chị Nguyễn

Thị K để giật túi xách trong đó có nhiều tài sản có giá trị mà chị để ở cạnh xe.

Do trời tối nên cả 02 thỏa thuận với nhau, B sẽ giữ các túi xách để sáng hôm

sau sẽ mang tài sản bên trong đi bán để kiếm tiền tiêu xài cá nhân. Tuy nhiên,

tối hôm đó, do Nguyễn Văn B ngủ sau nên không cất giữ túi xách cẩn thận để

Trần Văn D lét lút lấy trộm. Được mọi người xung quanh phát hiện nên Trần

Văn D bị phát hiện sự việt. Theo kết luận định giá tài sản của Hội động đình

giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận tổng giá trị tài sản mà Trần Văn D

trộm cắp được có trị giá 25.000.000 (hai mươi lăm triệu đồng). Như vậy trong

trường hợp này, rõ ràng cái túi xách trong đó có nhiều tài sản có giá trị nói

trên là tài sản bất hợp pháp (thông qua hình thức phạm tội mà có) nhưng Trần

Văn D vẫn bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội trộm cắp tài sản.

1.2.2 Chủ thể của tội trộm cắp tài sản

Chủ thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm. Đây

là yếu tố đầu tiên, quyết định tới các yếu tố còn lại của cấu thành tội phạm bởi

nếu không có chủ thể của tội phạm thì sẽ không có các yếu tố thuộc mặt chủ

quan, không có hành vi phạm tội và do đó cũng không có sự xâm hại tới

khách thể được luật hình sự bảo vệ. Chủ thể của tội trộm cắp tài sản là chủ thể

thông thường, không phải là chủ thể đặc biệt. Điều luật sử dụng thuật ngữ

“người nào trộm cắp tài sản”. Người nào ở đây được hiểu là bất kì cá nhân

nào không phật giới tính, trình độ, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, dân tộc, tôn

giáo, đủ tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định của pháp luật

Đối với tội trộm cắp tài sản, chủ thể của tội phạm cũng tương tự như

đối với tội xâm phạm sở hữu khác. Tuy nhiên, người phạm tội từ đủ 14 tuổi

23

đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản

thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự,

vì khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là tội phạm ít nghiêm trọng và khoản 2

Điều 173 Bộ luật hình sự là tội phạm nghiêm trọng, mà theo quy định tại

khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa

đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng và

tội phạm đặc biệt nghiêm trọng của tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS). Vì

vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình

điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội trộm cắp tài sản cần chú ý độ

tuổi của người phạm tội và các tình tiết định khung hình phạt. Nếu người

phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 173 Bộ luật

hình sự thì chỉ cần xác định người phạm tội đủ 14 tuổi là đã phải chịu trách

nhiệm hình sự, nhưng nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2

Điều 173 Bộ luật hình sự thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi mới phải chịu

trách nhiệm hình sự.

1.2.3 Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản

1.2.3.1 Về hành vi khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm

đoạt tài sản. Nếu như hành vi khách quan của các tội phạm khác thường tồn

tại dưới dạng hành động hoặc không hành động, thì hành vi khách quan của

tội trộm cắp tài sản chủ yếu tồn tại dưới dạng hàng động và được thể hiệu ra

bên ngoài thông qua các hoạt động nhất định như đột nhập… Hành vi lén lút

phải là sự giấu giếm vụng trộm lấy tài sản khi chủ sở hữu hoặc người quản lý

tài sản không biết mình bị mất tài sản, chỉ khi tài sản bị chiếm đoạt họ mới

biết tài sản đã bị mất. Hành vi lén lút ở đây không nhất thiết phải lén lút với

những người không phải là chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, hành vi

trộm cắp tài sản có thể được thực hiện một cách giấu giếm, vụng trộm, nhưng

có thể được thực hiện một cách công khai, giữa nơi đông người. Tuy nhiên,

24

việc giấu giếm hay công khai thì chúng đều có một đặc điểm chung thống

nhất đó là “lén lút” với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản.

Do đặc điểm của tội trộm cắp tài sản, nên người phạm tội chỉ có một hành vi

khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng hình thức lén

lút, với thủ đoạn lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người quản lý tài sản,

không trông giữ cẩn thận hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan khác như:

chen lấn, xô đẩy, nhằm tiếp cận tài sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt mà

người quản lý tài sản không biết. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta có thể

chứng kiến rất nhiều hành vi trộm cắp như: trộm cắp ở bến tầu, bến xe, nhà

ga, khách sạn, trong chợ, ngoài đường, trộm đêm, trộm ngày, trộm trên các

phương tiện giao thông... ở đâu, lúc nào cũng có thể xảy ra hành vi trộm cắp

tài sản. Tuy nhiên, không phải trường hợp phạm tội nào cũng giống nhau,

thực tiễn xét xử cho thấy có nhiều trường hợp dễ nhầm lẫn với các tội phạm

khác, có khi chúng ta xác định hành vi đó là tội trộm cắp, nhưng lại không

phải, ngược lại có trường hợp được xác định không phải là hành vi trộm cắp

tài sản nhưng sau đó, đối chiếu với các dấu hiệu của CTTP thì lại thỏa mãn

đầy đủ dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản. Đối với các trường hợp này thường

nhầm với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản, tội chiếm giữ trái phép tài sản. Để xác định hành vi trộm

cắp tài sản và phân biệt tội trộm cắp với một số tội phạm khác gần kề, chúng

ta nghiên cứu một số dạng trộm cắp tài sản có tính chất đặc thù sau:

Thứ nhất, người phạm tội dùng những thủ đoạn gian dối để tiếp cận tài

sản để đến khi có điều kiện đã lén lút chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc

người quản lý tài sản.

Thứ hai, người phạm tội lợi dụng chỗ đông người, chen lấn, xô đẩy để

chiếm đoạt tài sản của người khác.

Thứ ba, người phạm tội lợi dụng người quản lý tài sản không có mặt ở

nơi để tài sản hoặc tài sản không có người trực tiếp quản lý (tài sản ở nơi công

25

cộng), nên đã chiếm đoạt.

Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản có sự khác biệt rất cơ bản

đối với hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 172 Bộ

luật hình sự. Đối với hành vi khách quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài

sản đó là hành vi công khai, ngang nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác

do lợi dụng hoàn cảnh chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản đang trong tình

trạng không có điều kiện bảo vệ tài sản. Tính chất công khai, trắng trợn của hành

vi công nhiên chiếm đoạt tài sản thể hiện ở chổ người phạm tội không giấu giếm

hành vi phạm tội của mình trước trong và ngay sau khi bị mất tài sản người bị

hại biết được người lấy tài sản của mình (biết mà không thể giữ được).

Về điểm khác nhau giữa tội trộm cắp tài và tội công nhiên chiếm đoạt

tài sản, có thể thấy một số điểm khác biệt cơ bản như sau:

Thứ nhất, về hành vi khách quan, đối với hành vi khách quan của tội

trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, còn đối

với hành vi khách quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi công

khai, ngang nhiên chiếm đoạt tài sản ngay trước sự chứng kiến của chủ sở hữu

tài sản, người quản lý tài sản.

Thứ hai, ở tội trộm cắp tài sản, hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản được

thực hiện bằng khả năng không cho phép chủ sở hữu tài sản biết khi xảy ra

hành vi phạm tội hay nói cách khác khi xảy ra hành vi phạm tội trộm cắp tài

sản chủ sở hữu tài sản, người quản lý tài sản không hề biết tài sản của mình bị

chiếm đoạt mà chỉ sau khi tài sản đã bị chiếm đoạt thì họ mới biết. Còn ở tội

công nhiên chiếm đoạt tài sản, khi có hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản,

chủ sở hữu tài sản, người quản ý tài sản nhận biết được có hành vi chiếm đoạt

nhưng họ không có điều kiện bảo vệ tài sản của mình nên người thực hiện

hành vi mới công nhiên chiếm đoạt được tài sản mà không phải sử dụng bất kì

thủ đoạn để đối với phó chủ tài sản, người quản lý tài sản.

Xét ở mặt lí luận, chúng ta có thể dễ dàng phân biệt hai tội trên ở hành

26

vi phạm tội, nhưng trên thực tiễn áp dụng, các cơ quan tiến hành tố tụng,

người tiến hành tố tụng không dễ dàng gì phân biệt được chúng. Có những

trường hợp người phạm tội công khai ngang nhiên chiếm đoạt tài sản nhưng

không phải là hành vi công nhiên chiếm đọa tài sản mà là trộm cắp tài sản,

bởi vì tuy có hành vi công khai, ngang nhiên chiếm đoạt tài sản nhưng người

phạm tội chỉ công khai với người khác, còn đối với chủ sở hữu tàu sản người

phạm tội vẫn có ý thức lén lút khi chiếm đoạt tài sản.

1.2.3.2 Về hậu quả của tội phạm

Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội trộm cắp tài sản là những thiệt

hại do người phạm tội gây ra cho khách thể của tội trộm cắp tài sản. Đối với

tội trộm cắp tài sản, người thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản, giá trị

tài sản bị chiếm đoạt phải đạt đến định mức nhất định mới đủ căn cứ để truy

cứu trách nhiệm hình sự. Trong nội dung điều luật quy định về tội trộm cắp

tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã sử dụng

thuật ngữ “trị giá”. Đây là một điểm tiến bộ về mặt kĩ thuật luật pháp ở nước

ta. Theo từ điển tiếng Việt “trị giá” được hiểu là thứ gì đó được định giá

thành tiền hoặc vật ngang giá có tính chất như tiền. Ví dụ: chiếc xe máy trị giá

15.000.000 đồng, tấm lụa Hà Đông có trị giá bằng 2 thúng thóc. Cần phải

nhấn mạnh rằng, thuật ngữ trị giá và giá trị hoàn toàn khác nhau. “Giá trị” là

cái làm cho một vật có lợi, có ý nghĩa, là đáng quý về một mặt nào đó. Chúng

ta hay sử dụng thuật ngữ giá trị cho các cụm từ: giá trị sử dụng, giá trị giáo

dục… Vệc dùng thuật ngữ “giá trị của tài sản bị chiếm đoạt” trong cấu thành

tội phạm của tội trộm cắp tài sản thực sự chưa chính xác. Do vậy việc Bộ luật

hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 sử dụng thuật ngữ “trị giá tài

sản bị chiếm đoạt” là một điểm mới tiến bộ thể hiện có sự thay đổi trong tư

duy nhận thức lập pháp ở nước ta.

Khoản 1 của điều luật quy định trị giá tài sản bị chiếm đoạt từ

2.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt

27

dưới 2.000.0000 đồng thì phải kèm theo điều kiện như đã bị xử phạt vi phạm

hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; Đã bị kết án về tội

này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 173,

174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc

gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; Tài sản là phương tiện

kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ. Đây là tội có cấu thành tội

phạm vật chất. Tội phạm hoàn thành khi có hậu quả xảy ra.

Các trường hợp định lượng tài sản ở tội trộm cắp tài sản thể hiện:

Trường hợp thứ nhất, tài sản trộm cắp có giá trị từ 2.000.000 đồng đến

dưới 50.000.000 đồng, và không thuộc các trường hợp quy định tại các khoản

khác của Điều luật, thì được điều chỉnh theo chế tài tại Khoản 1 của Điều luật.

Khi thông qua Bộ luật hình sự năm 1999, giá trị tài sản là 500.000 đồng làm

căn cứ để xem xét xử lý trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, sau thời gian thực

tiễn 10 năm triển khai Bộ luật hình sự, do sự phát triển kinh tế, thu nhập bình

quân cũng như sự trượt giá chung trong xã hội, mức quy định này không còn

phù hợp. Năm 2009, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều

của Bộ luật hình sự năm 1999. Theo đó, định lượng tối thiểu truy cứu trách

nhiệm hình sự đối với một số tội quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999,

trong đó có tội trộm cắp tài sản (Điều 138) là 500.000 đồng được điều chỉnh

thành 2.000.000 đồng. Tại Bộ luật hình sự năm 2015, mức định lượng tài sản

này vẫn được giữ nguyên. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, ở một khía

cạnh khác- khía cạnh mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, việc định

lượng (2.000.000 đồng) cũng còn là một vấn đề cần phải xem xét. Nếu ở đô

thị, nơi có thu nhập bình quân đầu ngƣời cao, mức sống cao, thì việc bị trộm

cắp tài sản trị giá 2.000.000 đồng có mức độ ảnh hưởng đến người bị xâm hại

thấp hơn nhiều so với cùng vụ việc, nếu diễn ra ở nông thôn, nơi thu nhập

bình quân thấp, tức là mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau, nhưng chế tài

28

áp dụng lại giống nhau.

Trường hợp thứ hai: tài sản trộm cắp có giá trị dưới 2.000.000 đồng

nhưng gây hậu quả nghiêm trọng. Thông tư liên tịch số 02/VKSTC-

TATCBCA-BQP-BTP ngày 25/12/2001 hướng dẫn áp dụng một số quy định

tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" qui định: Khi áp dụng các tình

tiết "gây hậu quả nghiêm trọng" từ Điều 133 đến Điều 140, Điều 142 và Điều

143 Bộ luật hình sự năm 1999 cần chú ý: Hậu quả phải do hành vi phạm tội

gây ra (có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả). Hậu quả

đó có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản hoặc hậu quả phi vật chất

(gây ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của

Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu về an ninh, trật tự, an toàn xã hội). Đối với tội

trộm cắp tài sản có quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt thì việc xác định hậu

quả thiệt hại về tài sản không phải căn cứ vào giá trị tài sản bị chiếm đoạt vì

giá trị tài sản này đã được quy định thành tình tiết định khung riêng biệt. Hậu

quả phải là thiệt hại về tài sản xảy ra ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Thông

thường người phạm tội trộm cắp tài sản thực hiện hành vi phạm tội của mình

một cách lén lút với chủ sở hữu, ngƣời quản lý tài sản hoặc người khác. Tuy

nhiên thiệt hại cho sức khỏe của người khác cũng có thể xảy ra đối với loại tội

phạm này Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn

cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực

hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an

ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng

tường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là

nghiêm trọng hay không. Tại Bộ luật hình sự năm 2015, tình tiết “gây hậu

quả nghiêm trọng” không còn được quy định như Bộ luật hình sự năm 1999,

mà quy định cụ thể, trực tiếp hơn, đó là: c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh,

trật tự, an toàn xã hội; d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của ngƣời bị

hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về

29

mặt tinh thần đối với người bị hại. (Điểm c, d, Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình

sự năm 2015). Quy định này đã khắc phục được hạn chế trong quy định của

BLHS năm 1999.

Trường hợp thứ ba: Tài sản trộm cắp có giá trị dưới 2.000.000 đồng

nhưng người phạm tội trước đó đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm

đoạt. Thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính được quy định

cụ thể tại Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Tại Bộ luật hình

sự năm 2015, nội dung quy định này vẫn được giữ tương tự Bộ luật hình sự

năm 1999.

Trường hợp thứ tư: Tài sản trộm cắp có giá trị dưới 2.000.000 đồng

nhưng người phạm tội trước đó đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản và chưa

được xóa án tích mà còn vi phạm, thì hành vi này vẫn cấu thành tội trộm cắp

tài sản. Tính chất nguy hiểm cho xã hội của trường hợp chiếm đoạt này không

chỉ dựa vào giá trị tài sản chiếm đoạt mà còn dựa vào nhân thân người phạm

tội. Tại Bộ luật hình sự năm 2015, nội dung này được quy định cụ thể, rõ ràng

hơn, đó là: “Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các

điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được

xóa án tích mà còn vi phạm”.

Trường hợp thứ năm: Theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch số

02/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BCA-BTP người thực hiện hành vi trộm

cắp tài sản nhiều lần, bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản

tương ứng theo tổng giá trị tài sản các lần bị xâm phạm nếu: Các hành vi tội

trộm cắp tài sản được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời

gian; Việc thực hiện các hành vi tội trộm cắp tài sản có tính chất chuyên

nghiệp, lấy tài sản trộm cắp là nguồn sống chính; Mục đích tội trộm cắp tài

sản nhưng do điều kiện hoàn cảnh khách quan nên việc tội trộm cắp tài sản

30

được thực hiện nhiều lần nên giá trị tài sản mỗi lần lấy được dưới 2.000.000đ.

1.2.4. Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản

Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, là trạng thái

tâm lý của người, phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do người, đó

thực hiện và đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thể hiện ở dấu

hiệu lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội. Lỗi là dấu hiệu có trong tất

cả các cấu thành tội phạm. Luật hình sự Việt Nam không thừa nhận việc “quy

tội khách quan”, nghĩa là quy kết là tội phạm đối với một người chỉ trên cơ sở

hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội của người đó mà không quan tâm

đến việc người đó có lỗi hay không có lỗi. Việc thừa nhận nguyên tắc có lỗi

của tội phạm là nguyên tắc cơ bản khi xác định trách nhiệm hình sự xuất phát

từ mục đích của trách nhiệm hình sự, của hình phạt áp dụng “…không chỉ

nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý

thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội

mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng

ngừa và đấu tranh chống tội phạm” (Điều 31 BLHS). Dấu hiệu lỗi của tội

phạm được thể hiện trên các mặt là lý trí và ý chí. Lý trí thể hiện khả năng

nhận thức của một người đối với những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội khi thực

hiện hành vi nhất định. Ý chí thể hiện khả năng lựa chọn, điều khiển hành vi

của một người khi thực hiện hành vi nào đó trên cơ sở khả năng nhận thức

được ý nghĩa xã hội của hành vi của mình. Một người bị coi là có lỗi nếu

người đó thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có điều kiện cân

nhắc, lựa chọn quyết định thực hiện hành vi khác phù hợp với đòi hỏi (yêu

cầu) của xã hội. Đối với tội trộm cắp tài sản, người phạm tội thực hiện hành vi

lén lút chiếm đoạt tài sản trong khi nhận thức rõ được hành vi của mình là

nguy hiểm cho xã hội, xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu của chủ sở hữu,

người quản lý tài sản nhưng vẫn mong muốn cho hậu quả đó xảy ra, mong

muốn chiếm đoạt được tài sản. Nói cách khác, lỗi của người phạm tội trộm

31

cắp tài sản là lỗi cố ý trực tiếp. Cũng như đối với tội có tính chất chiếm đoạt

khác, tội trộm cắp tài sản cũng được thực hiện do cố ý. Mục đích của người

phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản

của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt

sản. Vì vậy, có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của

cấu thành tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người

phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt

hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người

phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản, nếu

mục đich đó không cấu thành một tội phạm độc lập.

1.3 Lịch sử hình thành và phát triển của tội trộm cắp tài sản theo

quy định của pháp luật hình sự Việt Nam

1.3.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985

có hiệu lực thi hành

Ở nước ta, ngay từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, các văn bản thể

hiện chính sách hình sự đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu lần lượt

xuất hiện. Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/02/2019 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ban

hành quy định về các hành vi pháp hoại cộng sản; Sắc lệnh số 12 ngày

12/03/1949 quy định trừng trị các hành vi trộm cắp vật dung nhà binh trong

thời bình và thời kì chiến tranh; Sắc lệnh số 267 ngày 15/06/2019 trừng trị

những âm mưa và hành động phá hoạt tài sản của Nhà nước, Hợp tác xã và

của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch của Nhà nước

trong hoạt động xây dưng nền kinh tế, xã hội, văn hóa ở nước ta.

Từ khi Hiến pháp năm 1946 và 1959 lần lượt ra đời trong đó Đảng và

Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc bảo vệ quyền sở hữu tài sản theo đó tại

Điều 42 Hiến pháp năm 1959 quy định “Tài sản công cộng của nước Việt

Nam dân chủ cộng hòa là thiêng liêng không thể xâm phạm. Công dân có

nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng”. Trên tinh thần kế thừa tinh

32

thần của Hiến pháp năm 1959, ngày 21/10/1970, Ủy ban thường vụ Quốc hội

đã thông qua Pháp lệnh trừng trị các tội phạm xâm phạm tài sản xã hội chủ

nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân.

Nhìn chung, các tội phạm xâm phạm sở hữu có sự khác biệt giữa các tội xâm

phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và các tội phạm xâm phạm tài sản riêng của

công dân cụ thể các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa sẽ có mức hình

phạt cao hơn so với các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân.

Ngoài hai pháp lệnh trên, Ban bí thư Trung ương Đảng đã ra chỉ thị số

185 ngày 09/12/1970 về vấn đề tăng cường bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa

nhằm mục đích chỉ đạo thi hành nội dung của hai pháp lệnh trong thực tiễn.

Đến ngày 15/03/1976, Sắc lệnh số 03 quy định về tội phạm và hình phạt được

thông qua. Điều 4 Sắc lệnh số 03 quy định “Phạm các tội như: trộm cắp,

tham ô, lừa đảo, bội tín, cướp giật thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 07 năm.

Trường hợp nghiên trọng thì bị phạt đến 15 năm”

1.3.2 Giai đoạn ban hành Bộ luật hình sự năm 1985

Năm 1985 có thể nói làm một năm chứa đựng dấu mốc quan trọng đánh

dấu bước phát triển về kỹ thuật lập pháp trong lĩnh vực pháp luật hình sự ở

nước ta. Ngày 27/06/1985 Quốc hội đã thông qua Bộ luật hình sự năm 1985.

Đây là nơi tập hợp và thống nhất các quy định của pháp luật về hình sự. Là

công cụ quan trọng để các cơ quan tiến hành tố tụng đấu tranh phòng chống

tội phạm. Trên tinh thần kế thừa từ các văn bản hình sự có từ trước, Bộ luật

hình sự năm 1985 vẫn quy định về hai hình thức của tội phạm trộm cắp bao

gồm “Tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa” và “Tội trộm cắp tài sản của

công dân”. Hai hình thức của tội phạm trộm cắp nói riêng tuy khách thể của

hai tội danh này có sự khác nhau nhưng nhìn ching, trong cấu thành tội phạm

và cụ thể là mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể của tội phạm đều tương tự

nhau. Ngoài ra, hình phạt được áp dụng đối với tội trộm cắp tài sản xã hội chủ

nghĩa có mức hình phạt cao hơn so với tội phạm trộm cắp tài sản của công

33

dân.

Bộ phận cơ sở hạ tầng luôn vận động và phát triển, bộ phận kiến trúc

thượng tầng tất yếu cũng có sự thay đổi nhất định theo trên tinh thần loại bỏ

các quan điểm không phù hợp và tiếp thu những nhân tố tiến bố và có những

bổ sung. Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời trên tinh thần kế thừa và phát huy

nhiều điểm tiến bộ mà cụ thể tại Bộ luật hình sự năm 1999 đã thống nhất gộp

hai hành vi trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và trộm cắp tài sản công dân lại

thành một điều luật thống nhất tại Điều 138. Bên cạnh đó nếu như Bộ luật

hình sự năm 1985 cứ chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa hoặc tài sản của

công dân một cách trái pháp luật thì đã bị xem là tội phạm mà không cần quan

tâm đến giá trị tài sản đã bị chiếm thì đến Bộ luật hình sự năm 1999 đã có sửa

đổi mang tính đột phát theo đó đã quy định cụ thể những hành vi trộm cắp tài sản

nào là nguy hiểm đáng kể cho xã hội và bị coi là tội phạm; những hành vi nào là

nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa nguy hại đáng kể chưa đến mức phải chịu trách

nhiệm hình sự. Và tại Bộ luật hình sự năm 1999 giá trị tài sản đã bị chiếm đoạt là

căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự đối với hành vi trộm cắp tài sản.

Có thể nói Bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành đã góp phần quan

trọng trong việc quản lý xã hội, phòng ngừa đấu tranh tội phạm, giữ vững an

toàn, chính trị, trật tự an toàn xã hội, đóng góp to lớn vào công cuộc xây dựng

và bảo vệ tổ quốc. Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổ, bổ sung lần đầu

vào năm 2009, trong đó tội phạm trộm cắp tài sản có những điểm sửa đổi, bổ

sung quan trọng đó là sửa đổi mức định lượng giá trị tài sản tối thiểu bị chiếm

đoạt của hành vi trộm cắp tài sản, cụ thể sửa cụm từ “năm trăm nghìn đồng”

tại khoản 1 Điều 138 thành “hai triệu đồng”. Các nội dung còn lại của Điều

luật thì vẫn được giữ nguyên.

1.3.3 Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi

bổ sung năm 2017 đến nay

Trước sự đổi mới của các chính sách của Đảng và Nhà nước về mọi

34

mặt từ kinh tế, xã hội và pháp luật, đòi hỏi các quy định của pháp luật hình sự

phải không ngừng có những sửa đổi, bổ sung để đáp ứng cho yêu cầu đấu

tranh phòng chống tội phạm. Theo đó, trong báo cáo kết quả tổng kết thực

tiễn thi hành Bộ luật hình sự do Bộ tư pháp chủ trì. Tại kì họp quốc hội khóa

XIII ngày 27/11/2015 đã thông qua Bộ luật hình sự năm 2015 sau đó với

nhiều lẫn kiểm duyệt khắc ke, chiều ngày 20/06/2019, với tỉ lệ hơn 88% đại

biểu có mặt tán thành Luật sử đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự đã

được ban hành, sẽ có hiệu vào ngày 01/01/2018 và được gọi là Bộ luật hình

sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (sau đây gọi chung là Bộ luật hình sự

năm 2015). Điều 173 BLHS năm 2015 quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000

đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một

trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm

hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về

hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; b) Đã bị kết án về tội này hoặc về

một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và

290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; c) Gây ảnh

hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; d) Tài sản là phương tiện

kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; đ) Tài sản là di vật, cổ vật.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Chiếm

đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; d) Dùng

thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ) Hành hung để tẩu thoát; e) Tài sản là bảo

vật quốc gia; g) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

07 năm đến 15 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến

dưới 500.000.000 đồng; b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

12 năm đến 20 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

35

b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến

50.000.000 đồng.”

Về cơ bản, tội trộm cắp tài sản tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015

đã có sự kế thừa Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, tuy nhiên có một số

điểm sửa đổi, bổ sung đáng chú ý như sau:

Về nội dung kế thừa:

Thứ nhất, giữ nguyên giá trị tài sản bị chiếm đoạt là từ 2.000.000 đồng

hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm

đoạt hoặc đã bị kết án về tội này mà tái phạm khi chưa được xóa án tích.

Thứ hai, giữ nguyên các khung hình phạt (gồm 01 khung hình phạt cơ

bản và 03 khung hình phạt tăng nặng).

Thứ ba, kế thừa các tình tiết định khung hình phạt. Nhìn cung, các tình

tiết định khung hình phạt về cơ bản đã được giữ lại như phạm tội có tổ chức

hay phạm tội có tính chất chuyên nghiện, hành hung để tẩu thoát…

Thứ tư, giữ nguyên hình phạt bổ sung được áp dụng là hình phạt tiền từ

5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Về nội dung sửa đổi, bổ sung:

Thứ nhất, có sự đổi mới về kỹ thuật lập pháp trong đó tại khoản 1 Điều

173 Bộ luật hình sự đã bổ sung các khoản a, b, c, d. Sự sửa đổi này là hoàn

toàn phù hợp vì nó mang tính logic và khoa học trong việc xây dựng các Điều

luật.

Thứ hai, đối với trường hợp phạm tội trộm mà giá trị tài sản chiếm đoạt

dưới 2.000.000 đồng ngoài hai trường hợp được kế thường từ Điều 138 Bộ

luật hình sự năm 1999 thì Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung hai

trường hợp định tội đó là “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã

hội; Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình của

36

họ; Tài sản là di vật, cổ vật” (các điểm c, d khoản 1 Điều 173).

Thứ ba, đối với các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng từ 02 năm

tù đến 07 năm tù: Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung thêm tình tiết định

khung tăng nặng là “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới

37

200.000.000 đồng” (điểm c khoản 2 Điều 173).

Tiểu kết chương 1

Các tội xâm phạm sở hữu nói chung, Tội trộm cắp tài sản nói riêng đều

là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự,

xâm phạm đến quan hệ sở hữu về tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức mà

theo quy định của Bộ luật Hình sự phải bị xử lý hình sự. Trong chương 1 của

Luận văn, tác giả đã nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về

tội trộm cắp tài sản, cụ thể:

1. Luận văn đã đưa ra được khái niệm về tội trộm cắp tài sản được xây

dựng từ đặc trưng của tội trộm cắp tài sản rút ra từ những quan điểm của các

học giả đã đi trước nghiên cứu, theo đó: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi

nguy hiểm đáng kể cho xã hội, được quy định trong Bộ luật Hình sự, do

người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình

sự, thực hiện với lỗi cố ý tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản bằng

hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu, người quản lý tài sản

hoặc người khác có liên quan”.

2. Việc quy định hành vi trộm cắp tài sản được Bộ luật Hình sự quy

định là tội phạm có ý nghĩa quan trọng: là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ

quyền sở hữu của Nhà nứớc, của cơ quan, của tổ chức và công dân khỏi sự

xâm hại của tội phạm; Nhà nước ta ghi nhận đây là hành vi nguy hiểm cho xã

hội, người thực hiện hành vi phạm tội này phải bị trừng trị một cách nghiêm

khắc nhất; có ý nghĩa trong việc giáo dục ý thức pháp luật của người dân,

nâng cao hơn nữa hiệu quả công cuộc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm hiệu

quả, đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã hội, từng bước hạn chế, đẩy lùi và

tiến tới loại bỏ tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội.

3. Luận văn đã nghiêu cứu vài nét về lịch sử pháp luật hình sự Việt

Nam đối với tội trộm cắp tài sản, qua đó thấy rằng, pháp luật hình sự Việt

Nam từ năm 1945 đến nay luôn có các quy định liên quan đến Tội trộm cắp

38

tài sản từ những sắc lệnh, sắc luật, pháp lệnh cho đến việc pháp điển hóa

thành những quy định của Bộ luật Hình sự thể hiện rõ chính sách hình sự của

Đảng và Nhà nước trong công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này;

4. Trên cơ sở kế thừa và phát huy có chọn lọc quy định trong các thời

kỳ trước, Bộ luật hình sự năm 2015 đã xây dựng quy định về Tội trộm cắp tài

sản một cách chi tiết, rõ ràng, tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan tiến hành tố

tụng áp dụng giải quyết nhanh chóng, kịp thời một số vụ án nhất định để

39

những cơ quan này có điều kiện giải quyết các vụ án khác phức tạp hơn.

Chương 2

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN ĐỐNG ĐA –

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội và tình

hình giải quyết các vụ án hình sự trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành

phố Hà Nội

Về đặc điểm tự nhiên: Quận Đống Đa nằm ở trung tâm thủ đô Hà Nội.

Phía bắc giáp quận Ba Đình (ranh giới là phố Nguyễn Thái Học, Giảng Võ,

Láng Hạ, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyên Hồng, Đê La Thành), phía đông bắc

giáp quận Hoàn Kiếm (ranh giới là phố Lê Duẩn), phía đông giáp quận Hai

Bà Trưng (ranh giới là phố Lê Duẩn, đường Giải Phóng và phố Vọng), phía

nam giáp quận Thanh Xuân (ranh giới là đường Trường Chinh, đường

Nguyễn Trãi và sông Tô Lịch), phía tây giáp quận Cầu Giấy (ranh giới là

sông Tô Lịch). Địa hình quận Đống Đa tương đối bằng phẳng. Có một số hồ

lớn như hồ Ba Mẫu, hồ Kim Liên, hồ Xã Đàn, hồ Đống Đa, hồ Văn Chương.

Trước có nhiều ao, đầm nhưng cùng với quá trình đô thị hóa đã bị lấp. Quận

có hai sông nhỏ chảy qua là sông Tô Lịch và sông Lừ. Phía đông có một vài

gò nhỏ, trong đó có gò Đống Đa. Quận Đống Đa có 21 phường: Cát Linh,

Hàng Bột, Khâm Thiên, Khương Thượng, Kim Liên, Láng Hạ, Láng Thượng,

Nam Đồng, Ngã Tư Sở, Ô Chợ Dừa, Phương Liên, Phương Mai, Quang

Trung, Quốc Tử Giám, Thịnh Quang, Thổ Quan, Trung Liệt, Trung Phụng,

Trung Tự, Văn Chương, Văn Miếu.

Về kinh tế: Kinh tế quận tiếp tục tăng trưởng khá, thu ngân sách quận

ước thực hiện đến hết ngày 27/11/2018 hơn 10.146 tỷ đồng (đạt 120,61% kế

hoạch) và ước thực hiện năm 2018 đạt hơn 10.623 tỷ đồng (đạt 126,3% kế

40

hoạch); tổng giá trị sản xuất trên địa bàn quận ước đạt 268.152 tỷ đồng; giá trị

sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn ước thực hiện đạt khoảng

14.250 tỷ đồng (tăng 6,64% so với năm 2017); tỷ lệ hồ sơ nộp trực tuyến của

quận trên tất cả các lĩnh vực đạt 100%, mức độ hài lòng của người dân đạt

91,56%... Sức mạnh nội lực của quận Đống Đa thể hiện khá rõ trong những

năm gần đây khi Quận luôn duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định.

Theo báo cáo của UBND quận, Đảng ủy và UBND quận Đống Đa đã tập

trung đổi mới mô hình tổ chức quản lý cho các doanh nghiệp, hộ gia đình

tham gia hoạt động dịch vụ, thương mại trên địa bàn quận. Ngành dịch vụ,

thương mại của phường có bước phát triển vượt bậc và chiếm tỷ trọng cao

trong cơ cấu kinh tế của quận. Số lựợng doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực

dịch vụ, thương mại tăng nhanh. Quận đã tập trung đầu tư nhiều công trình hạ

tầng kỹ thuật xã hội, sắp xếp lại các chợ, xây dựng và duy trì các tuyến phố

kinh doanh văn minh đô thị - thương mại, đảm bảo an ninh trật tự và môi

trường kinh doanh để khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành

phần kinh tế, các loại hình kinh doanh dịch vụ, thương mại phát triển, đẩy

mạnh các hoạt động kinh tế. Về xây dựng và quản lý đô thị, trong thời gian

qua, Quận đã chủ động phối hợp với các sở, ban ngành của Thành phố để

thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020. Thực

hiện kế hoạch số 01/KH-BCĐ ngày 30/3/2018 của Ban chỉ đạo 197 Thành

phố về tăng cường đôn đốc, kiểm tra, xử lý, giải quyết vi phạm về trật tự an

toàn giao thông, trật tự đô thị, trật tự xây dựng và vệ sinh môi trường trên địa

bàn Thành phố; Mệnh lệnh số 02/ML-CAHN-PV11 ngày 16/3/2018 của giám

đốc Công an Thành phố Hà Nội về tăng cường đảm bảo an toàn giao thông,

trật tự đô thị trên địa bàn năm 2018. Chỉ đạo tăng cường tuần tra, kiểm soát,

phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm; kiên quyết xử lý đối với các lỗi

vi phạm là nguyên nhân chính, trực tiếp dẫn đến un, tắc giao thông.

Về văn hóa xã hội: Thực hiện theo chương trình số 04-CT/TU của

41

Thành ủy về Phát triển văn hóa – xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,

xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh giai đoạn 2016-2020 đến nay đã

được triển khai ở quận Đống Đa. Quận Đống Đa đã triển khai nhiều giải pháp

thiết thực, cụ thể nhằm thực hiện các nội dung, mục tiêu của chương trình 04-

CT/TU theo lộ trình từng giai đoạn. Đến nay các di sản văn hóa trên địa bàn

luôn được bảo tồn, phát huy giá trị; các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục

thể thao quần chúng phát triển mạnh; phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng

đời sống văn hóa, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh… được đông

đảo nhân dân đồng tình hưởng ứng… Thời gian qua, phong trào Toàn dân

đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Năm

2017 có 84.469 gia đình đăng ký xây dựng Gia đình Văn hóa, kết quả có trên

90 % số hộ đăng ký đã đạt danh hiệu Gia đình Văn hóa. 902 tổ dân phố đăng

ký tổ dân phố Văn hóa, có 81 % số tổ đã đạt danh hiệu Tổ dân phố Văn hóa.

Việc đảm bảo trật tự và văn minh đô thị được thực hiện tốt. Đến nay quận và

các phường đã điều chỉnh lại theo đúng quy định 114 biển hiệu; thành lập 02

tổ công tác kiểm tra, xử lý cắt dỡ 2.872 biển dọc, biển vẫy sai quy định; tháo

dỡ 1.445 mái che, mái vẩy, mái hiên di động; phá dỡ hơn 3.951 bục bệ, cầu

dẫn sai quy định, bóc, xóa trên 95% quảng cáo rao vặt tại các mặt phố, đầu

ngõ phố và trên 85% quảng cáo rao vặt trong ngõ phố, khu dân cư, thống kê

đề xuất Sở Thông tin và truyền thông xử lý 64 số điện thoại quảng cáo rao

vặt. Việc thực hiện nếp sống văn minh được đẩy mạnh. Việc chăm sóc sức

khỏe nhân dân cũng được quan tâm với việc cải cách thủ tục khám, chữa bệnh

nhằm tạo điều kiện cho nhân dân. Trung tâm Y tế quận và các phường được

trang bị đầy đủ các trang thiết bị y tế hiện đại phục vụ công tác khám, điều trị

bệnh nhân. Quận Đống Đa đã cấp phát 5.725 thẻ bảo hiểm y tế cho người có

công, 2.471 thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi. Bên cạnh đó, ngành y tế

quận còn tổ chức khám sức khỏe cho học sinh tại các trường mầm non, tiểu

học, THCS, THPT đạt 98,7%; Sự nghiệp giáo dục và đào tạo của Đống Đa

42

được phát huy. Đến nay, 100% trường học có phòng tin học, phòng học ngoại

ngữ. Chất lượng giáo dục và đào tạo tốt, quận Đống Đa tiếp tục là một trong các

đơn vị dẫn đầu Thành phố về phong trào Học sinh giỏi, Giáo viên dạy giỏi.

Để đảm bảo thực hiện tốt công tác phòng, chống tội phạm trộm cắp tài

sản, góp phần đảm bảo tình hình trật tự xã hội địa bàn, Các ban ngành trên địa

bàn Quận luôn tiếp tục triển khai, thực hiện nhiều giải pháp đấu tranh, kiềm

chế kéo giảm loại tội phạm này, nổi bật như: Tiếp tục thực hiện Kế hoạch

phòng ngừa, đấu tranh chống đối tượng trộm cắp vặt; thực hiện Đề án tăng

cường quản lý, giáo dục, cảm hóa thanh thiếu niên vi phạm pháp luật để đưa

đối tượng trộm cắp vào diện quản lý, theo dõi và cảm hóa, giúp đỡ; tăng

cường tuyên truyền qua Đài Truyền Thanh; tranh thủ nguồn kinh phí để lắp

đặt Camera giám sát an ninh phục vụ công tác phòng, chống trộm cắp tài

sản,… Tội phạm trộm cắp còn xảy ra nhiều, phần lớn là do ý thức bảo quản

tài sản của người dân vẫn còn thấp, nhất là địa bàn khu vực nông thôn, vùng

sâu, vùng xa. Tập quán sản xuất của người dân trên địa bàn mang tính nhỏ lẻ,

công cụ, tư liệu sản xuất để phân tán, rơi vãi nhiều nơi nên việc tự phòng, tự

quản tài sản chưa cao. Có một số vụ việc trộm cắp xảy ra nhưng người dân

không trình báo, hoặc trình báo không kịp thời do sợ mất thời gian làm việc

với Công an hoặc bị hại tự khắc phục với đối tượng phạm tội do quen biết,

người cùng địa phương.

Về tình hình điều tra truy tố, xét xử vụ án hình sự trên địa bàn Quận

Đống Đa: căn cứ vào số liệu thống kê tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự

sơ thẩm trên phạm vi Quận Đống Đa các năm, từ năm 2015 đến năm 2019 từ

phòng thống kê tội phạm và công nghệ thông tin Viện kiểm sát nhân dân

Thành phố Hà Nội số liệu cụ thể như sau:

- Năm 2015, Quận Đống Đa đã thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm

629 vụ án hình sự, với 766 bị can.

- Năm 2016, Quận Đống Đa đã thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm

43

536 vụ án hình sự, với 708 bị can.

- Năm 2017, Quận Đống Đa đã thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm

560 vụ án hình sự, với 753 bị can.

- Năm 2018, Quận Đống Đa đã thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm

576 vụ án hình sự, với 632 bị can.

- Năm 2019, Quận Đống Đa đã thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm

583 vụ án hình sự, với 782 bị can.

Qua số liệu thống kê trên thấy, tình hình điều tra truy tố, xét xử vụ án

hình sự trên địa bàn Quận Đống Đa có xu hướng tăng dần về số vụ. Công tác

cải cách tư pháp, đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn Quận Đống

Đa tiếp tục tăng cường. Tuy nhiên, tình hình diễn biến về tội phạm trên địa

bàn Quận có chiều hướng gia tăng. Tội phạm hoạt động với phương thức mới

ngày càng phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn.

2.2. Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận

Đống Đa – Thành phố Hà Nội

2.2.1 Những kết quả đạt được trong định tội danh tội trộm cắp tài sản

trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội

Trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa –Thành phố Hà Nội có

diện biến phức tạp. Thời gian qua các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn

Quận Đống Đa –Thành phố Hà Nội đã có nhiều biện pháp tích cực xử lý và

đấu tranh loại tội phạm này nhằm đảm bảo việc xử lý hành vi trộm cắp tài sản

được công minh, đúng người, đúng tôi, đúng pháp luật, góp phần giữ vững

tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.

Căn cứ vào số liệu thống kê tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự sơ

thẩm trên địa bàn Quận Đống Đa trong 05 năm, từ năm 2015 đến năm 2019 từ

phòng thống kê tội phạm và công nghệ thông tin Viện kiểm sát nhân dân

Thành phố Hà Nội cho thấy tội trộm cắp tài sản trong thực tiễn với số liệu cụ

44

thể như sau:

Bảng số 2.1: Tổng số vụ án, số bị cáo bị xét xử về tội trộm cắp tài sản

trong tương quan với các tội phạm xâm phạm sở hữu khác trên địa bàn

Quận Đống Đa – Thành phố HN từ năm 2015 đến năm 2019

Tội trộm cắp tài sản

Các tội xâm phạm sở hữu khác

Số bị cáo

Số vụ 145 123 133 160 143 704

160 127 124 133 158 702

Số vụ 191 180 193 226 172 962

Số bị cáo 226 204 195 197 137 959

Năm 2015 2016 2017 2018 2019 Tổng

cộng

(Nguồn: Phòng thống kê tội phạm và công nghệ thông tin Viện kiểm

sát nhân dân Thành phố Hà Nội)

Nhìn vào bảng 1 về tổng số vụ án, số bị cáo bị xét xử về tội trộm cắp tài

sản trong tương quan với các tội phạm xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận

Đống Đa – Thành phố HN từ năm 2015 đến năm 2019 nhận thấy: Số vụ án

cũng như số bị can phạm tội trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ lớn trong nhóm tội

phạm xâm phạm sở hữu tại Quận Đống Đa. Điều đó chứng tỏ, loại tội phạm

này luôn duy trì ở mức độ cao. Cụ thể tổng số vụ phạm tội trộm cắp tài sản

chiếm tỉ lệ 70% đối với số vụ và 65% đối với số bị can.

Bảng 2.2: Số vụ án hình sự bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội trộm

cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố HN từ năm 2015

đến năm 2019

Năm

Số vụ và số bị can đã bị khởi tố, điều tra

Số vụ và số bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm

2015 2016 2017 2018 2019 Tổng cộng

Số vụ 145 123 133 160 143 704

Số bị can 160 127 124 133 158 702

Số vụ 103 106 109 111 113 542

Số bị cáo 128 137 129 144 135 673

(Nguồn: Phòng thống kê tội phạm và công nghệ thông tin Viện kiểm

45

sát nhân dân Thành phố Hà Nội)

Nhìn vào bảng 2 về số vụ án hình sự bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về

tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố HN từ năm 2015 đến

năm 2019 nhận thấy: trong vòng 5 năm từ năm 2015 năm 2019. Cụ thể, theo số

liệu về khởi tố điều tra 704 vụ với 702 bị can về tội trộm cắp tài sản thì đưa ra xét

xử có 542 vụ (chiếm tỉ lệ 76%) và 673 bị cáo (95%). Điều này cho thấy rằng các

việc giải quyết các vụ hình sự về tội trộm cắp tài sản được giải quyết hiệu quả trên

thực tiễn. Ngoài ra tội trộm cắp tài sản là một trong những tội phạm phổ biến

trong tổng số các loại tội phạm xảy ra trên địa bàn Quận Đồng Đa

Thực tế cho thấy, qua 5 năm (từ 2015 đến năm 2019), Quận Đống Đa

chưa có vụ án trộm cắp tài sản nào bị hủy. Số vụ án bị cải sửa theo thủ tục phúc

thẩm không nhiều, chủ yếu là cải sửa theo hướng giảm nhẹ hình phạt hoặc sửa

theo hướng cho hưởng án treo do phát sinh thêm một số tình tiết giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự hoặc do hội động xét xử cấp phúc thẩm đánh giá tính chất, mức

độ, hậu quả của hành vi mà xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bảng 2.3: Kết quả xét xử phúc thẩm các vụ án phạm tội trộm cắp tài sản

trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố HN từ năm 2015 đến năm 2019

Kết quả Tòa án cấp phúc thẩm xét xử phúc thẩm.

Năm

Y án

Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án;

Sửa bản án theo hướng tăng nặng TNHS

Đình chỉ việc xét xử phúc thẩm.

Số vụ có kháng cáo, kháng nghị

Sửa bản án theo hướng Giảm nhẹ TNHS

Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại;

04 00 10 00 07 00 05 00 03 00 29 00

02 01 03 01 03 10

00 00 00 00 00 00

06 07 04 09 08 34

00 00 00 00 00 00

2015 12 2016 18 2017 14 2018 15 2019 14 73 Tổng cộng

(Nguồn: Phòng thống kê tội phạm và công nghệ thông tin Viện kiểm

46

sát nhân dân Thành phố Hà Nội).

Nhìn chung, chưa có trường hợp nào bị xét xử oan hoặc bỏ lọt tội

phạm, thực hiện đúng và đầy đủ các thủ tục tố tụng hình sự, không để án quá

thời hạn luật định. Cơ quan tiến hành tố tụng ở Quận Đống Đa tuân thủ

nghiêm túc các quy định của BLHS, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp

luật, đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm

tội, nhân thân người phạm tội, từ đó đưa ra mức hình phạt tương xứng với

hành vi phạm tội của bị cáo, đảm bảo tác dụng tuyên truyền, giáo dục và cải

tạo người phạm tội được quy định tại Điều 138 BLHS năm 1999 và Điều 173

BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Ví dụ như Bản án số: 189/2019/HSST ngày 16/9/2019 của TAND

Quận Đống Đa như sau: ngày 18/6/2019 bà Nguyễn Hồng X sinh năm 1975,

trú tại: phường Kim Liên, Quận Đống Đa, Hà Nội có đơn trình báo cơ quan

điều tra, Công an Quận Đống Đa về việc: Khoảng 13 giờ ngày 17/6/2019 bà

X cùng con gái là Nguyễn Thị Thu V, sinh năm 2005 ngủ trưa tại nhà ở Tổ

47, phường Kim Liên, Quận Đống Đa, Hà Nội, khi đi ngủ bà X có để 01 chiếc

điện thoại Oppo F3- plus màu hồng nhạt, có lắp sim số 01666385263 ở dưới

chiếu cạnh vị trí ngủ. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, bà X tỉnh dậy phát hiện

bị mất chiếc điện thoại. Sau đó, bà X có nhờ anh Nguyễn Xuân H, sinh năm

1995, là hàng xóm kinh doanh Internet có lắp máy camera ở ngoài cửa kiểm

tra lại hình ảnh của quán. Quá trình kiểm tra phát hiện khoảng 14 giờ 10 phút

ngày 17/6/2019 có 01 thanh niên đi xe máy Honda Vision: 19D1-086.29 mặc

áo kẻ sọc, mặc quần ngố, đi dép quai hậu đến và vào quán của bà X, sau đó

thanh niên phóng xe đi về. Anh H cho bà X mượn điện thoại chụp lại hình

ảnh của nam thanh niên và chiếc xe máy trên màn hình rồi đi rửa. Bà X đến

cơ quan công an Quận Đống đa trình báo, kèm theo ảnh về đối tượng thanh

niên khả nghi. Sau khi tiếp nhận đơn trình báo, cơ quan điều tra đã áp dụng

các biện pháp điều tra để xác định được người phạm tội trộm cắp tài sản nêu

47

trên. Quá trình điều tra xác định được: Khoảng 18 giờ ngày 27/6/2019, Hoàng

Mạnh C, sinh năm 1987, hiện đang ở xã Kim Nỗ, huyện Đông Anh, Hà Nội

có chở ông Vũ Hữu Q sinh năm 1957, bằng xe máy BKS:19K1- 086.29 thì bị

lực lượng công an phát hiện và mời về trụ sở làm việc. Tại cáo trạng số

125/CT -VKS ngày 29 tháng 8 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận Đống

đa, thành phố Hà Nội đã truy tố Hoàng Mạnh C về tội “Trộm cắp tài sản” theo

khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

* Trong vụ án này, khi quyết định hình phạt TAND Quận Đống Đa đã

căn cứ quyết định hình phạt như sau:

- Về căn cứ vào các quy định của BLHS: Tại phiên toà bị cáo khai nhận

hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu lời khai của bị cáo tại

phiên toà phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình

điều tra vụ án. Do đó xác định được: Khoảng15 giờ ngày 17 tháng 6 năm

2019, tại nhà bà Nguyễn Hồng X ở phường Kim Liên, Quận Đống Đa, Hà

Nội, lợi dụng sự sơ hở của bà X, Hoàng Mạnh C có hành vi lén lút trộm cắp

chiếc điện thoại OPPO F3 màu hồng, số IMEL1: 863660031596619, số

IMEL2: 863660031596601 trị giá 5.650.000 đồng của bà X để ở chiếu duới

nền nhà. Vì vậy, đủ cơ sở kết luận Hoàng Mạnh C phạm tội “Trộm cắp tài

sản” theo hoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự, điều khoản này quy định hình

phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

- Về căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì chẳng những đã xâm

phạm đến quyền sở hữu tài sản của người hác được pháp luật bảo vệ, mà còn

gây mất trật tự trị an xã hội trên địa bàn Quận Đống Đa. Bị cáo nhận thức

được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Xong do tham lam tư lợi và coi

thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố tình phạm tội.

- Về căn cứ vào nhân thân người phạm tội: Bị cáo có quá trình nhân

thân xấu: Ngày 14/9/2004, Tòa án nhân dân Quận Đống Đa, thành phố Hà

48

Nội xử phạt 08 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Ngày 29/11/2004 TAND

Quận Đống Đa, Hà Nội xử phạt 08 tháng tù về tội cưỡng đoạt tài sản. Tổng

hợp hình phạt 08 tháng tù của bản án này và hình phạt 08 tháng tù của bản án

ngày 14/9/2004. Buộc Hoàng Mạnh C phải chấp hành hình phạt chung cho cả

hai bản án là 16 mười sáu) tháng tù. Bị cáo nộp án phí ngày 12/8/2005, chấp

hành xong hình phạt tù ngày 30/8/2005. Ngày 26/11/2008, Tòa án nhân dân

thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản,

nộp án phí ngày 27/5/2009, chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/6/2009. Mặc

dù các bản án này đã được xóa án, nhưng thể hiện thái độ không chịu tu

dưỡng của bị cáo. Chính vì vậy cần phải xử lý bị cáo nghiêm minh trước pháp

luật mơsi có tác dụng giáo dụng riêng và phòng ngừa chung.

- Về căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS: bị cáo đã

thành khẩn hai báo và ăn năn hối cải, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn,

tài sản đã được thu hồi trả cho người bị hại, gia đình bị cáo bồi thường toàn

bộ cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Do đó, áp dụng các tình tiết

giảm nhẹ được quy định tại điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình

sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện tính nhân đạo của

pháp luật. Căn cứ vào các lý do trên đây khi quyết định hình phạt, TAND

Quận Đống đa đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Hoàng Mạnh C phạm tội

“Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm g, p khoản 1, khoản 2

Điều Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Hoàng Mạnh C 08 (Tám) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 6 năm 2019. Nghị quyết số 326 ngày

30/12/2016 của y ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm,

thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; Tịch thu tiêu hủy: 01 mũ

lưỡi trai màu đen; 01 áo sơ mi kẻ caro màu đen tr ng; 01 đôi dép quai hậu; 01

chiếc điện thoại HT Desire HD A9191 đã bị rạn vỡ màn hình, có lắp sim số

thuê bao 01627469979 (Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng ngày

49

30/8/2019 giữa Công an Quận Đống Đa và chi cục thi hành án dân sự Quận

Đống Đa. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự

sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước.

Trong thời gian qua, cùng với những định hướng phát triển đúng đắn của

Đảng và Nhà nước, Quận Đống Đa đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng

trong mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Tuy nhiên cùng với sự phát triển

của nền kinh tế thì tình hình tội phạm cũng có chiều hướng gia tăng và diễn

biến ngày càng phức tạp với tính chất và mức độ nguy hiểm ngày càng cao.

Hằng năm, các cơ quan tư pháp của Quận phải giải quyết một số lượng khá

lớn các vụ án hình sự trong đó giải quyết nhiều đối với các vụ án về tội trộm

cắp tài sản. Các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm

vụ của mình. Tòa án nhân dân Quận Đống Đa đã đưa ra xét xử các bị cáo về

tội trộm cắp tài sản với mức hình phạt được tác giả thống kê như sau:

Bảng 2. 4: Thống kê chế tài được áp dụng khi giải quyết tội trộm cắp tài

sản trên địa bàn quận Đống Đa từ năm 2015 đến năm 2019

NĂM

CHẾ TÀI ÁP DỤNG

Tù giam

Án treo

CTKGG

HP. tiền

2015

120

08

00

00

2016

135

02

00

00

2017

125

04

00

00

2018

139

05

00

00

2019

00

00

00

Tổng số

644 bc

19 bc

00 bc

00 bc

135

Đa phần các vụ án về tội trộm cắp tài sản đều được Tòa án áp dụng

mức hình phạt là hình phạt tù giam có thời gian. Điều này tương xứng với

tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của các bị cáo đã gây ra.

Ví dụ: Bản án số: 156/2019/HSST ngày 02-8-2019. của TAND quận

Đống Đa như sau: Ngày 14/3/2019, Vũ Mạnh H điều khiển mô tô Honda

50

Wave BKS: 29D2-217.36 đi ngang qua khu vực tập thể Thể thao số 06 phố

Hàng Cháo, phường Cát Linh, quận Đống Đa, Hà Nội. Phát hiện tại đây có 01

xe mô tô Honda SH150, màu đỏ đen, BKS: 29E2- 049.67 của ông Trần Hoài

Trung (sinh năm 1967, trú tại số 06 Hàng Cháo, phường Cát Linh, quận Đống

Đa, Thành phố Hà Nội) để ở khu vực gần chân cầu thang khu tập thể, H nảy

sinh ý định trộm cắp chiếc xe. H để chiếc xe mô tô Honda Wave BKS: 29D2 -

217.36 cạnh bờ tường bên phải của khu tập thể rồi tiến lại gần chiếc Honda

SH150 thấy không khóa cổ và khóa càng xe, H đã dắt chiếc mô tô và cất giấu

tại khu vực ngõ 139Y Nguyễn Thái Học, Điện Biên, Ba Đình, Hà Nội. Sau

khi cất giấu chiếc mô tô SH150 trên, H quay lại khu tập thể lấy chiếc mô tô

Honda Wave BKS: 29D2- 217.36 thì bị ông Trần Hoài Trà công an phường

Cát Linh phối hợp bắt giữ. Tại cơ quan công an Vũ Mạnh H khai nhận: Ngoài

hành vi trộm cắp tài sản của ông Trần Hoài Trung, khoảng cuối tháng

12/2018, H đi bộ trong khu vực Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 tại số 01

Trần Hưng Đạo, phường Bạch Đằng, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội phát hiện

tại khu vực trước cửa tòa nhà Chỉ huy cơ quan trong Bệnh viện Trung ương

Quân đội 108 có để 01 xe mô tô Honda Wave màu trắng BKS 29D2- 217.36.

Quan sát thấy không có người trông giữ, mặt khác xe mô tô không khóa cổ,

khóa càng, H dắt xe mô tô ra khỏi khu vực bệnh viện rồi mang về nhà, mở

cốp xe phát hiện có 01 ví da màu đen bên trong có nhiều giấy tờ H lấy 01

Giấy chứng nhận đăng ký xe Honda Wave BKS 29D2- 217.36 mang tên

Nguyễn Đức Th và vứt chiếc ví da màu đen cùng các giấy tờ khác (không thu

hồi được). Sau đó, H làm chìa khóa điện để sử dụng xe mô tô và dán nilon

màu đỏ mục đích để không bị phát hiện. Tại bản án trên nhận thấy: Việc Tòa

án nhân dân Quận Đống Đa đã quyết định hình phạt dựa vừa các tài liệu

chứng được thể hiện trong hồ sơ vụ án bao gồm: sự thống nhất lời khai của bị

cáo, người tham gia tố tụng, kết luận giám định, vật chứng thu được cùng tài

liệu có trong hồ sơ đã đủ cơ sở kết luận: hành vi của bị cáo H theo điểm c

51

khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Do vậy

Tòa án nhân dân Quận Đống Đa đã tuyên bố: Bị cáo Vũ Mạnh H phạm tội

"Trộm cắp tài sản". Áp dụng: Điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản

2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Xử phạt: Vũ Mạnh H

34 (ba mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/3/2019 là thỏa đáng.

2.2.2 Những tồn tại và hạn chế trong định tội danh tội trộm cắp tài

sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội

Thứ nhất các quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 vẫn

còn điểm nhiều vướng mắc, bất cập cụ thể:

(i) Về tình tiết định khung cơ bản quy định tại điểm c khoản 1 Điều 173

“Gây ảnh ưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội”.

Tình tiết định khung cơ bản quy định tại điểm c khoản 1 Điều 173

“Gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội” vẫn còn có nhiều cách

hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng tình tiết định khung này còn gặp nhiều

khó khăn. Có quan điểm cho rằng tình tiết “gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự

an toàn xã hội” là hành vi của cá nhân, tổ chức làm phát vỡ trật tự, kỉ cương

của xã hội một cách nghiêm trọng, khiến cho bộ một phận không nhỏ người

dân mất lòng tin. Ví dụ: Bản án số: 203/2019/HSST ngày 21/10/2018 của

TAND Quận Đống Đa như sau: P là sinh viên, do ăn chơi đua đòi, nghiệm

điện tử. P đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của người khác để lấy tiền tiêu

xài cá nhân. Một hôm P được K rủ cùng nhau đi trộm chó của ông H là chủ

nhà trọ nơi P và K đang thuê trọ, đem bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Lợi dụng

lúc ông H vắng nhà, P và K đã bỏ chất hóa học cyannure vào bã cho rồi dụ

cho ăn rồi ngay lập tức bỏ vào bao tải để đi tiêu thụ. Tuy nhiên trong quá trình

đi bán thì bị mọi người xung quanh phát hiện và bắt quả tang và được đưa lên

cơ quan công an xử lý. Đối với ví dụ trên có thể nói hành vi P và K đã gây rối

loạn trật tự an toàn xã hội, khiến người dân vô cùng phẩn nộ và bức xúc. Tuy

nhiên, hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của P và K dưới 2.000.000 đồng. P

52

và K chưa có tiền án tiền sự. Vậy hành vi trộm chó có được coi là tình tiết

định khung “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” hay

không?

(ii) Về tình tiết định khung tăng nặng được quy định tại điểm d, khoản

2 Điều 173 “Hành hung để tẩu thoát”.

Theo quy định tại mục 6 Phần I Thông tư liên tịch số 02

02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP hướng dẫn áp dụng chương

XIV "các tội phạm xâm phạm sở hữu" của nộ luật hình sự năm 1999 do Bộ

Công an; Bộ tư pháp; Toà án nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân tối cao

ban hành thì:

“6. Khi áp dụng tình tiết "hành hung để tẩu thoát" (điểm đ khoản 2 Điều

136; điểm a khoản 2 Điều 137; điểm đ khoản 2 Điều 138 BLHS) cần chú ý:

6.1. Phạm tội thuộc trường hợp "hành hung để tẩu thoát" là trường

hợp mà người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt

được tài sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã

có những hành vi chống trả lại người bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ như

đánh, chém, bắn, xô ngã... nhằm tẩu thoát.

6.2. Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm

đoạt được tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà

người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc tấn

công người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì

trường hợp này không phải là "hành hung để tẩu thoát" mà đã có đầy đủ các

dấu hiệu cấu thành tội cướp tài sản”.

Quy định này nhằm xử lý hành vi của người phạm tội cố ý giữ tài sản

chiếm đoạt mặc dù đã bị phát hiện và giữ lại tài sản. Tuy nhiên, việc áp dụng

quy định này có một số vướng mắc như sau:

Một là, trường hợp người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản thì

khoảng thời gian từ khi chiếm đoạt được đến khi bị phát hiện, bắt giữ hoặc bị

53

bao vây bắt giữ hoặc bị giành lại là bao lâu? Trường hợp người phạm tội đã

bỏ đi vài giờ thì mới bị phát hiện, có được xem xét, áp dụng tính tiết này

không? Tác giả cho rằng, chỉ áp dụng các quy định tại mục 6 Phần I Thông tư

liên tịch số 02 khi thời gian từ khi chiếm đoạt được đến khi bị phát hiện, bắt

giữ hoặc bị bao vây bắt giữ hoặc bị giành lại không được kéo dài, bởi vì khi

đó, tội phạm đã hoàn thành và hành vi chống trả của người phạm tội đối với

việc bị phát hiện, bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ hoặc bị giành lại không còn

ý nghĩa.

Hai là, quy định tại tiểu mục 6.2 mục 6 Phần I Thông tư liên tịch số 02

gây khó hiểu bởi vì sau khi chiếm đoạt được tài sản thì người phạm tội bị

giành lại tài sản thì trong trường hợp này người phạm tội dùng vũ lực, đe dọa

dùng vũ lực ngay tức khắc nhằm “giữ cho được tài sản chiếm đoạt được và

tẩu thoát” chứ không phải “chiếm đoạt cho được tài sản” vì hành vi chiếm

đoạt đã thực hiện xong. Hơn nữa, việc sử dụng thuật ngữ “tiếp tục” dùng vũ

lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc cũng chưa phù hợp bởi vì trong tội

trộm cắp tài sản thì người phạm tội không có hành vi dùng vũ lực, đe dọa

dùng vũ lực ngay tức khắc nên việc người phạm tội bị bắt giữ mà dùng vũ

lực, đe dọa dùng vũ lực chỉ mới lần đầu chứ không phải lần thứ hai.

Ba là, quy định của tiểu mục 6.1 và tiểu mục 6.2 mục 6 Phần I Thông

tư liên tịch số 02 gây khó khăn cho việc vận dụng. Chúng ta thấy rằng, việc

chia mục 6 thành tiểu mục 6.1 và tiểu mục 6.2 thực chất là để phân biệt

trường hợp người phạm tội vì sợ bị bắt giữ nên “bỏ của chạy lấy người” với

trường hợp người phạm tội ngoan cố, cố tình chống trả nhằm giữ cho được tài

sản mà minh chiếm đoạt được. Thực tiễn chỉ ra rằng, cả trường hợp tẩu thoát

và cố giữ tài sản để tẩu thoát thì người phạm tội có thể dùng vũ lực, đe dọa

dùng vũ lực ngay tức khắc. Cho nên, việc quy định có những hành vi chống

trả… như đánh, chém, bắn, xô ngã... (tiểu mục 6.1) và dùng vũ lực, đe doạ

dùng vũ lực ngay tức khắc (tiểu mục 6.2) thực chất đều là hành vi dùng vũ

54

lực, đe dọa dùng vũ lực.

Ngoài ra Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT chưa quy định cụ thể thế

nào là “bị phát hiện”. Vấn đề đặt ra ở đây là trong trường hợp người phạm tội

đã chiếm đoạt được tài sản thì khoảng thời gian là bao lâu từ khi chiếm đoạt

được đến khi bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ hoặc bị giành

lại. Giả thiết người phạm tội đã thực hiện xong hành vi trộm cắp 01 chiếc xe

máy, khoảng vài ngày sau trong khi người đó đang đem xe đi tiêu thụ thì bị

phát hiện, như vậy có được xem xét, áp dụng tình tiết này không? .

(iii) Về tình tiết “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm

đoạt tài sản mà còn vi phạm”.

Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 thì một

người có hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới mức tối thiểu (nghĩa là dưới

2.000.000 đồng) thì phải có thêm dấu hiệu khác mới cấu thành tội trộm cắp tài

sản, đó là “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt”. Luật xử

lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định xử lý vi phạm hành chính bao gồm

xử phạt vi phạm hành chính (phạt tiền, cảnh cáo) và các biện pháp xử lý hành

chính khác (giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa

vào cơ sở giáo dục…), những biện pháp xử lý vi phạm hành chính này có tính

nghiêm khắc hơn biện pháp xử phạt vi phạm hành chính, trong khi đó điều

luật lại không quy định tình tiết này là tình tiết định tội. Do vậy, việc áp dụng

tình tiết này vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc.

Thứ hai, khó khăn trong việc định giá về tài sản.

Đối với các hành vi xâm phạm sở hữu nói chung và hành vi trộm cắp

tài sản nói riêng, việc xác định trị giá tài sản bị chiếm đoạt có ý nghĩa rất quan

trọng trong việc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi

phạm tội. Trong trường hợp có đầu đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành

vi xâm phạm sở hữu có ý định xâm phạm đến tài sản có trị giá cụ thể theo ý

thức chủ quan của họ thì lấy trị giá tài sản đó để xem xét xử lý trách nhiệm

55

hình sự đối với người có hành vi vi phạm. Việc định giá trị giá tài sản chỉ đặt

ra trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người đó có hành vi

xâm phạm quyền sở hữu có ý định xâm phạm đến tài sản, nhưng không quan

tâm đến trị tài sản bị xâm phạm, thì lấy giá trị thị trường của tài sản bị xâm

phạm tại địa phương vào thời điểm tài sản bị chiếm đoạt để xem xét truy cứu

trách nhiệm hình sự người đó. Tuy nhiên trên thực tế việc định giá tài sản bị

chiếm đoạt của tội trộm cắp tài sản còn gặp nhiều hạn chế khó khăn nhất định,

cụ thể:

(i) Việc định giá gặp nhiều khó khăn khi không xác định được thời điểm

tài sản bị chiếm đoạt.

Về nguyên tắc, việc định giá tài sản phải xác định được giá trị tài sản

tại thời điểm tài sản bị chiếm đoạt. Tuy nhiên có nhiều trường hợp tài sản bị

chiếm đoạt nhưng một khoảng thời gian sau chủ sở hữu hoặc người quản lý

tài sản mới phát hiện và trình báo với các cơ quan chức năng. Ngoài ra cũng

có trường hợp chủ sở hữu tài sản còn không biết tài sản của mình bị chiếm

đoạt vào thời điểm nào. Điều này gây khó khăn cho hội đồng định giá trong tố

tụng hình sự dẫn đến sự định giá không khách quan, chính xác, có nguy cơ bỏ

lọt tội phạm.

(ii) Định giá tài sản trong trường hợp không truy thu được tài sản bị

trộm cắp.

Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến tội trộm cắp

tài sản xảy ra không ít các trường hợp tài sản bị chiếm đoạt truy thu không

được vì nhiều lí do khác nhau. Về nguyên tắc, để xác định được trị gái tài sản

trong trường hợp tài sản bị xâm phạm không còn nữa, cơ quan điều tra cần lấy

lời khai của người biết về tài sản này để xác định đó là tài sản gì; trị giá tài

sản đó theo thời giá thực tế ở địa phương, và các văn bản, giấy tờ thông tin về

tài sản bị chiếm đoạt…để trên cơ sở đó có kết luận cuốn cùng về trị giá tài sản

bị chiếm đoạt. Tuy nhiên hoạt động này gặp rất nhiều khó khăn trên thực tế

56

bởi lẽ bị hại của tội trộm cắp tài sản thường có tâm thế mong muốn tìm lại

được tài sản cũng như trừng trị kẻ phạm tội nên thường khai theo hướng làm

tăng trị giá tài sản bị chiếm đoạt. Do vậy việc tiến hành định giá tài sản dựa

vào lời khai của bị hại, người phạm tội thực sự còn nhiều khó khăn và bất cập

và còn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan định giá tài sản.

Thứ ba, khó khăn trong việc xác định chính xác tội danh

Định tội danh là một vấn đề quan trọng trong quá trình giải quyết một

vụ án hình sự. Đây là quá trình so sánh, đối chiếu, tìm sự phù hợp giữa hành

vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện với các dấu hiệu pháp lý của một tội

phạm cụ thể được quy định trong BLHS. Việc định tội danh đúng là tiền đề

cho hoạt động phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách

công minh và chính xác. Hoạt động định tội danh trộm cắp tài sản trên thực

tiễn vẫn còn những điểm chưa hợp lý, vẫn còn những quan điểm định tội danh

khác nhau giữa các tội trong nhóm tội xâm phạm sở hữu.

Ví dụ 1: Bản án số: 280/2018/HSST ngày 10/6/2018 của TAND Quận

Đống Đa như sau: Khoảng 16 giờ ngày 23/1/2018, chị Trần Thị T. T cùng ba

người bạn ngồi uống nước chung một bàn tại căng tin Trung Tâm Bồi dưỡng

Chính trị Quận Đống Đa. Một lúc sau, chị T đi lên Phòng đào tạo của Nhà

trường và có để lại một túi xách màu đen trên chiếc ghế chị vừa ngồi. Lúc

này, Nguyễn Hoàng N điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Thanh H chạy ngang

qua, nhìn vào căng tin thì thấy túi xách của chị T nên quay xe lại dừng phía

trước cổng căn tin để H đi bộ vào lấy chiếc túi xách trên. Khi H đi bộ vào căn

tin thì thấy ba người phụ nữ đang nhìn về phía mình nên H giả vờ đi thẳng

vào quầy hỏi mua thuốc lá. Hỏi xong H đi ngược trở ra. Lợi dụng lúc ba

người phụ nữ không để ý, H lấy chiếc túi xách của chị T rồi chạy ra xe của N

đang chờ sẵn tẩu thoát. Nghe tiếng hô hoán, anh Nguyễn Hoàng L đi cùng

chiều với N và H vừa điều khiển xe ô tô đuổi theo vừa điện thoại báo cho tổ

Cảnh sát giao thông tuần tra đến áp sát, bắt giữ N và H cùng tang vật. Tài sản

57

mà N, H chiếm đoạt là 01 túi xách màu đen bên trong có 01 máy tính xách tay

hiệu ASUS trị giá 7.750.000 đồng, 03 tờ 01 USD, 01 tờ 2 USD, 300.000

đồng, 01 USB và một số giấy tờ tùy thân khác.

Việc định tội danh đối với hành vi của H, N có 03 ý kiến khác nhau:

Ý kiến thứ nhất cho rằng, N, H đã phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

Ý kiến thứ hai lại cho rằng, hành vi của N và H đã cấu thành tội cướp

giật tài sản.

Ý kiến thứ ba thì xác định, hành vi của N và H phạm TTCTS.

Đối với ví dụ trên, tác giả đồng ý với quan điểm hành vi của N và H

phạm tội Trộm cắp tài sản. Bởi vì, khi H thực hiện hành vi chiếm đoạt chiếc

túi xách của chị T thì chiếc túi xách vẫn thuộc quyền sở hữu và quản lý của

chị T, do chị T không chuyển giao cho ai trông giữ, quản lý chiếc túi xách này

cho chị. Như vậy, ba người bạn của chị T không ai có trách nhiệm, nghĩa vụ

phải trông giữ, quản lý chiếc túi xách. Do đó, hành vi chiếm đoạt chiếc túi

xách của H và N không phải là hành vi công nhiên trước mặt chủ sở hữu hay

người được ủy quyền quản lý, trông giữ tài sản. Hơn nữa, trong trường hợp,

nếu xác định vì mối quan hệ bạn bè mà 03 người bạn của chị T có trách

nhiệm quản lý túi xách dùm chị T thì hành vi của N, H vẫn phạm tội Trộm

cắp tài sản vì khi thực hiện hành vi chiếm đoạt, H đã lợi dụng lúc ba người

phụ nữ không để ý để thực hiện hành vi chiếm đoạt. Vì vậy, hành vi của H

vừa lén lút với cả chủ sở hữu và với cả người quản lý tài sản. Cho nên việc

xác định H, N phạm tội Trộm cắp tài sản là phù hợp nhất.

Ví dụ 2: Bản án số: 362/2017/HSST ngày 16/9/2017 của TAND Quận

Đống Đa như sau: ngày 18/6/2019 Khoảng 15h ngày 20/8/2017 Lê Khắc H

(20 tuổi, trú tại thành phố H) mang chiếc điện thoại Iphone 4s đã bị hỏng (trị

giá vào thời điểm hiện tại khoảng 04 triệu đồng) ra tiệm điện thoại Hoàng T

nằm trên đường hồ Đắc Di, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội để sửa. Nhân

lúc chủ cửa hàng mải mê trao đổi với các khách hàng khác thì H đã lấy trong

58

túi áo chiếc Iphone 4s bị hỏng của mình để tráo đổi với chiếc điện thoại (giá 8

triệu đồng) của chủ cửa hàng. H bị cơ quan cảnh sát Điều tra Công an quận

Đống Đa bắt quả tang, trong quá trình đấu tranh với H, H đã khai lại đúng nội

dung vụ việc trên.

Xung quanh việc xác định tội danh đối với Lê Khắc H hiện có ba quan

điểm khác nhau, cụ thể:

Quan điểm thứ nhất: Lê Khắc H phạm tội trộm cắp tài sản quy định tại

Điều 173 Bộ luật Hình sự (BLHS) 2015, bởi lẽ, hành vi của H mang tính chất

bí mật, lén lút với chủ tài sản nhằm chiếm đoạt tài sản.

Quan điểm thứ hai: Lê Khắc H phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy

định tại Điều 174 BLHS 2015.

Quan điểm thứ ba: Lê Khắc H phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt

tài sản quy định tại Điều 175 BLHS 2015, bởi lẽ: “Khi chủ tiệm đưa chiếc

điện thoại của mình cho H xem thì lúc đó H chưa có hành vi gian dối nhằm

chiếm đoạt chiếc điện thoại này. Chỉ khi đã có chiếc điện thoại trong tay, H

mới nảy sinh ý định chiếm đoạt. Như vậy là H đã chiếm đoạt tài sản đang do

mình chiếm giữ. Đây chính là đặc trưng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản, đặc trưng này cho phép phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội trộm cắp tài sản”.

Qua nghiên cứu, tác giả đồng tình với quan điểm là phải truy tố, xét xử

Lê Khắc H về tội: “Trộm cắp tài sản”. Và theo tác giả sẽ có 02 trường hợp

xảy ra: Nếu việc truy tố và xét xử Lê Khắc H sau thời điểm 01/01/2018 tức là

ngày Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực pháp luật thì Lê Khắc H phạm tội:

“Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015; còn nếu việc

điều tra, truy tố, xét xử Lê Khắc H trước thời điểm 01/01/2018 thì Lê Khắc H

phạm tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS năm

1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Đối với tội trộm cắp tài sản thì thời điểm hoàn thành của tội phạm phải

59

thỏa mãn dấu hiệu đó là sự chuyển dịch tài sản một cách bất hợp pháp thoát ra

sự quản lý của người quản lý tài sản hay của chủ tài sản; Tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản thì tội phạm hoàn thành khi chủ tài sản hay người quản lý tài sản

chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho người phạm tội do trước đó người phạm

tội có hành vi gian dối với mục đích chiếm đoạt được tài sản của chủ tài sản

hay người quản lý tài sản.

Khác với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì tội Lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản thì thời điểm hoàn thành của tội phạm là dùng thủ đoạn

gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản hoặc đến thời hạn trả lại tài sản

mặc dù có điều kiện có khả năng nhưng cố tình không trả hay nói cách khác

thủ đoạn gian dối thời điểm xuất hiện là sau khi nhận được tài sản hợp pháp

thì hành vi gian dối mới xuất hiện. Do vậy, thời điểm hoàn thành của tội lạm

dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đó là thời điểm bỏ trốn hay cố tình không

trả trong khi có điều kiện có khả năng để trả hay gian dối để không trả.

Trở lại vụ án trên cho thấy, đối với quan điểm cho rằng Lê Khắc H

phạm tội Lừa đảo chiểm đoạt tài sản (quan điểm 2) và Lê Khắc H phạm tội

Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (quan điểm 3) là không có cơ sở. Bởi

lẽ: Đối với quan điểm 1 cho rằng Lê Khắc H phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt

tài sản”; tức là có việc H dùng thủ đoạn gian dối đưa ra thông tin giả nhưng

làm cho người khác (người quản lý tài sản, chủ tài sản) tin đó là sự thật và

giao tài sản cho H. Việc, chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi được hiểu là

hành vi chuyển dịch tài sản một cách trái pháp luật tài sản của người khác

thành của mình. Hậu quả của việc chiểm đoạt gắn liền và có mối quan hệ

nhân quả với hành vi gian dối.

Lê Khắc H khi tới tiệm điện thoại H phát hiện trong tủ kính cửa hàng

có trưng bày một chiếc Iphone 4s giống của mình nên đã hỏi chủ cửa hàng

cho mình xem. Sau khi được chủ tiệm đưa cho xem, một lúc sau H hỏi: “Có

bán không và bán với giá bao nhiêu?”. Khi được chủ cửa hàng trả lời là:

60

“Trưng bày như vậy nếu có khách hàng trả được giá thì bán, nếu anh mua thì

em bán 08 triệu khuyến mãi cho anh vỏ bọc điện thoại trị giá 300 nghìn

đồng”. Chủ tiệm vừa nói dứt lời thì cửa hàng có nhiều khách hàng tới mua

bán và sửa chữa điện thoại, do đó đã không để ý tới H và để cho H xem xét

chiếc điện thoại Iphone 4s một cách thoải mái. Nhân lúc chủ cửa hàng mải mê

trao đổi với các khách hàng khác thì H đã lấy trong túi áo chiếc Iphone 4s bị

hỏng của mình để tráo đổi với chiếc điện thoại của chủ cửa hàng. Sau đó, H

đưa chiếc điện thoại đã bị hỏng của mình cho chủ cửa hàng và nói là sẽ về

nhà suy nghĩ, có gì hai ngày sau sẽ quay trở lại lấy máy nếu chưa có ai mua.

Như vậy, ở đây mặc dù có thể có việc Lê Khắc H không có ý định mua

điện thoại nhưng có ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại Iphone 4s nên đã có

dùng thủ đoạn gian dối như vờ hỏi giá, vờ xem để mua và lợi dụng chủ cửa

hành đông khách nên H đã tráo đổi chiếc điện thoại hỏng của mình bằng việc

lấy trong túi áo chiếc Iphone 4s bị hỏng của mình để tráo đổi với chiếc điện

thoại của chủ cửa hàng. Tức là, không có việc chủ cửa hàng hay nhân viên

của cửa hàng trao, giao quyền sở hữu chiếc điện thoại cho H mà H lợi dụng sơ

hở, lén lút, gian dối tiếp cận để chiếm đoạt chiếc điện thoại đó. Do vậy, không

thể cho rằng Lê Khắc H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Đối với tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bắt buộc hành vi

gian dối phải xuất hiện sau khi nhận được tài sản, được chuyển giao tài sản

hợp pháp. Trong vụ án cũng không có việc Lê Khắc H được chủ cửa hàng

giao, trao quyền sở hữu chiếc điện thoại cho mình. Do vậy, Lê Khắc H cũng

không phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Vì vậy, tác giả cho rằng nên truy tố H với quan điểm thứ nhất như quan

điểm của tác giả đó là Lê Khắc H phải bị truy tố và xét xử về tội “Trộm cắp

tài sản”. Bởi, ngoài các lý do mà các tác giả đã đưa ra phân tích, thì một vấn

đề hết sức quan trọng như trên tôi đã phân tích đó là tội trộm cắp tài sản thì tội

phạm hoàn thành (mặt khách quan của tội phạm) đó là hành vi lén lút, bí mật

61

hoặc cũng có thể gian dối chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của

người khác thành của mình. Việc lén lút, bí mật hay gian dối là nhằm che dấu

hành vi chiếm đoạt tài sản làm cho chủ sở hữu tài sản hay người đang quản lý

tài sản đó không biết việc chiếm đoạt. Trong vụ án này, việc lợi dụng lúc cửa

hàng có đông khách nhân viên sơ hở không để ý Lê Khắc H đã lén lút tráo đổi

chiếc điện thoại hỏng của mình lấy chiếc điện thoại của cửa hàng, tức là

chuyển dịch một cách bất hợp pháp từ tài sản của cửa hàng thành của mình.

Do vây, chỉ có thể truy tố xét xử Lê Khắc H về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng

tội, đúng pháp luật.

Ngoài ra , nghiên cứu về mức án áp dụng đối với những bị cáo phạm

tội trộm cắp tài sản, có 01 vụ án đủ điều kiện áp dụng án treo theo quy định

tại Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 2

Nghị quyết số 02/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

“Hướng dẫn chi tiết về việc áp dụng án treo có nêu rõ điều kiện để được

hưởng án treo”, nhưng lại không được Hội đồng xét xử áp dụng án treo, cụ

thể: Ngày 06 tháng 03 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quận Đống

Đa, Tòa án nhân dân Quận Đống ĐA đã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý

số 06/2019/HSST ngày 19 tháng 02 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra

xét xử số 07/2019/QĐXXST –HS ngày 28 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

G N D – Sinh năm: 1997 ngụ tại Ngõ 73, Phố Ng L B, Phường N Đ, Quận

Đống Đa, Thành phố Hà Nội. tiền án tiền sự: không có. Vào khoảng 13 giờ

ngày 28 tháng 10 năm 2019 bị cáo D sau khi uống rượu, đã đi bộ đến Phố Ng

L B, Phường N Đ, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội thì phát hiện xe mô tô

biển số 29E7 – 2711 của anh N V T đang dựng cặp đường vào chợ, chìa khóa

còn trên xe, không người trông coi, nên đã lén lút lấy trộm chiếc xe của anh

T, chạy khoảng 03 mét thì anh T phát hiện đuổi theo bắt được bị cáo D cùng

với tang vật. Nhưng do bị cáo D có nơi cư trú Thôn M Đ, Xã H N, Huyện V

Y, Tỉnh B G nên để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án, cơ quan tiến hành tố

62

tụng của Quận đã áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với D. Trong

quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn

năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nhưng

Hội đồng xét xử vẫn tuyên phạt D 06 tháng tù giam. Tác giả xét thấy hình

phạt của D là quá nặng so với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm

tội và đặc điểm nhân thân của D, trong trường hợp trên có thể có thể áp dụng

án treo đối với bị cáo D

2.2.3 Nguyên nhân của những tồn tại và hạn chế.

Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn việc giải quyết các vụ án, quyết định

hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố

Hà Nội 5 năm (từ 2015 - 2019) cho thấy bên cạnh những kết quả đạt được thì

vẫn còn có những tồn tại, hạn chế cần khắc phục, đó là khi xem xét để quyết

định hình phạt thì giữa Tòa án và Viện kiểm sát vẫn còn một số trường hợp

chưa thống nhất, đặc biệt là một số tình tiết làm căn cứ để quyết định hình

phạt. Điều đó cho thấy do nhận thức chủ quan của người áp dụng pháp luật

(chủ yếu là Thẩm phán và Kiểm sát viên) có sự khác nhau, sự phối hợp chưa

nhịp nhàng, đồng bộ dẫn đến sự khác biệt trong đánh giá và quyết định hình

phạt. Trình độ năng lực đối với một số Thẩm phán, Hội Thẩm nhân dân, Điều

tra viên, Kiểm sát viên còn hạn chế. Kỹ năng nghề nghiệp và kinh nghiệm của

mỗi cá nhân là không đồng đều. Trong thực thi nhiệm vụ, nhiều cá nhân do

tuổi đời và tuổi nghề còn trẻ chưa nhận thức đúng đắn và chưa làm hết trách

nhiệm khi được giao đánh giá chứng cứ, nghiên cứu hồ sơ vụ án, chưa đầu tư

nghiên cứu kỹ các văn bản pháp luật, đặc biệt là các văn bản mới ban hành,

việc vận dụng những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trong vụ án không chuẩn

xác dẫn đến khi quyết định hình phạt không chính xác.

Hiện nay, BLHS 2015 vừa mới được thông qua với nhiều quy định mới

được sửa đổi bổ sung, trong đó có các quy định về tội trộm cắp tài sản. Do đó

việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cụ thể các quy định

63

của BLHS 2015 còn chưa được kịp thời. Mặt khác, hệ thống pháp luật Việt

Nam quy định đối với tội Trộm cắp tài sản cũng chưa thực sự hoàn thiện, còn

thiếu đồng bộ. Các ban hành văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ đã ban hành đôi

lúc còn thiếu sự thống nhất làm cho người tiến hành tố tụng chưa nắm vững

các quy định mới của BLHS năm 2015, bởi lẽ để áp dụng đúng quy định về

tội trộm cắp tài sản không chỉ nắm vững các quy định tại Điều 173 BLHS mà

còn phải nắm vững các quy định khác ở Phần thứ nhất (Những quy định

chung) và các toäi danh có quy định loại trừ Điều 173, hoặc giống nhau về

hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản (như tham ô, chiếm đoạt vật liệu nổ…). Các

văn bản hướng dẫn về các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài

sản theo quy định của BLHS năm 2015 chưa có, dẫn đến cách hiểu về các dấu

hiệu của các tội phạm không thống nhất giữa những người tiến hành tố tụng

Ngoài ra, các chủ thể phòng, chống tội phạm mà chủ yếu là cơ quan

Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân chưa thể hiện được hết vai

trò, chức năng, nhiệm vụ trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và

tội trộm cắp tài sản nói riêng. Thiếu sự phối hợp, kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở

giữa các cơ quan này cũng như các tổ chức, đơn vị và chủ thể có thẩm quyền

trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao, dẫn đến việc đấu tranh

phòng, chống tội phạm chưa đem lại hiệu quả cao. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ,

công chức có trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa đồng điều, thiếu kinh

nghiệm, thậm trí trong các quan còn thiếu cán bộ chuyên trách tham gia đấu

tranh phòng, chống tội phạm. Hiện nay, tại Thành phố Hà Nội cũng như Quận

Đống Đa là địa bàn trú ẩn, hoạt động của nhiều loại tội phạm, đáng kể nhất là

các đối tượng luôn có xu hướng xâm phạm sở hữu của người khác, đặc biệt là

thực hiện hành vi trộm cắp, vì hành vi này rất khó bị phát hiện và xứ lý, do

các đối tượng lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu lét lúc ra tay, tẩu

64

thoát không để lại dấu vết và tài sản do trộm cắp thường gọn nhẹ, dễ tiêu thụ.

Tiểu kết chương 2

Trong phạm vi chương 2, tác giả tập trung vào việc phân tích, đánh giá

về mặt thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp

tài sản tại Quận Đống Đa - thành phố Hà Nội. Qua đó cho thấy thực tiễn hoạt

động này riêng trên địa bàn Quận Đống Đa luôn được các cơ quan tiến hành

tố tụng quan tâm trú trọng. Các cơ quan tiến hành tố tụng Quận Đống Đa đã

áp dụng đầy đủ các quy định của BLHS, BLTTHS và các văn bản hướng dẫn

để làm căn cứ định tội danh cũng như xử lý vụ án một cách chính xác, đạt

hiệu quả cao, đánh giá đúng tính chât, mức độ của hành vi phạm tội, từ đó

đưa ra mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Thực tế

cho thấy, qua 5 năm (từ 2015 đến 6 tháng năm 2019), Quận Đống Đa chưa có

vụ án trộm cắp tài sản nào bị hủy. Số vụ án bị cải sửa theo thủ tục phúc thẩm

không nhiều, chủ yếu là cải sửa theo hướng giảm nhẹ hình phạt hoặc sửa theo

hướng cho hưởng án treo do phát sinh thêm một số tình tiết giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự hoặc do hội động xét xử cấp phúc thẩm đánh giá tính chất, mức

độ, hậu quả của hành vi mà xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Điều đó

cho thấy sự cố gắng, nỗ lực rất lớn từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng Quận

Đống Đa trong việc khắc phục những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau để đưa

ra đường lối xử lý phù hợp, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng,

chống tội phạm. Bên cạnh những kết quả mà các cơ quan tiến hành tố tụng

Quận Đống Đa đã đạt được, vẫn còn những tồn tại, hạn chế, bất cập trong

việc định tội danh và xử lý các vụ án hình sự. Những tồn tại, bất cập, hạn chế

này nằm trong chính những cách hiểu và áp dụng các quy định pháp luật hình

sự việt nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Đống Đa – thành phố Hà

Nội. Do vậy, đòi hỏi pháp luật phải có những quy định rõ ràng, cụ thể hơn để

65

pháp luật được áp dụng một cách thống nhất.

Chương 3

NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TRỘM CẮP

TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN ĐỐNG ĐA – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1 Yêu cầu và phương hướng hoàn thiện pháp luật về tội trộm cắp

tài sản.

Thứ nhất, yêu cầu bảo đảm thực hiện đầy đủ quy định của Hiến pháp

năm 2013 về quyền con người và quyền cơ bản của công dân.

Quyền con người là sản phẩm quý giá của nhân loại, là sự kết tinh của quá

trình đấu tranh, phát triển lâu dài của tất cả các dân tộc, nhân dân trên toàn thế

giới. Quyền công dân trước hết là quyền con người, việc quy định và thực

hiện nó gắn với chế định quốc tịch, gắn với vị trí pháp lý của công dân trong

quan hệ với Nhà nước, được Nhà nước bảo đảm đối với công dân nước mình.

Vấn đề bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở nước ta Việt Nam càng

được đề cao và chú trọng, được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Hiến pháp

2013 ra đời đã có những thay đổi lớn về chế định quyền con người, quyền

công dân thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đề cao nhân tố con

người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát

triển. Nhất là trong các hoạt động hình sự và tố tụng hình sự, bởi lẽ đây là

hoạt động liên quan đến quá trình nhà nước đưa một người ra xử lý trước

pháp luật khi họ bị coi là tội phạm; luôn thể hiện đậm tính quyền lực nhà

nước được thể hiện thông qua việc áp dụng sức mạnh cưỡng chế nhà nước đối

với đối tượng yếu thế là người bị buộc tội, chính vì vậy quyền con người,

quyền công dân trong hình sự và tố tụng hình là quyền dễ bị xâm phạm, bị tổn

thương nhất và hậu quả để lại nghiêm trọng khi nó gây ảnh hưởng đến quyền

được sống, quyền tự do và sinh mệnh chính trị của một cá nhân. Do vậy, các

quyền này cần thiết phải được tôn trọng và bảo vệ. Bảo vệ quyền con người ở

66

nước ta gắn liền với bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước

của dân, do dân và vì dân và được thực hiện thông qua nhiều biện pháp trong đó

biện pháp pháp luật có vai trò quan trọng. Bảo vệ quyền con người và quyền cơ

bản của công dân là sự định hướng lớn của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình

cải cách tư pháp. Hiến pháp năm 2013 là căn cứ pháp lý cao nhất để bảo vệ quyền

con người. Pháp luật hình sự cụ thể hóa việc bảo vệ quyền con người và quyền cơ

bản của công dân đã được Hiến pháp quy định. Điều 1 BLHS năm 2015 quy định:

“Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước,

bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền

bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo

vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân

theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.” Quy định tại Điều 1

BLHS này đã khẳng định bảo vệ quyền con người, quyền công dân là một trong

những nhiệm vụ quan trọng của luật hình sự. Như vậy, thông qua việc quy định và

áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự chúng ta đã góp phần đưa yêu cầu

đảm bảo quyền con người và quyền cơ bản của công dân mà Hiến pháp năm 2013

đã quy định vào trong cuộc sống.

Thứ hai, yêu cầu cụ thể hóa được chủ trương chính sách của Đảng và

Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống đối với tội trộm cắp tài sản

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm đến xử lý tội

phạm nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng cho nên đã đề ra nhiều chủ

trương, chính sách nhằm đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tội phạm này. Các

chủ trương, chính sách này được thể hiện qua hàng loạt các Nghị quyết, các

văn bản pháp luật, trong đó có BLHS với quy định về tội trộm cắp tài sản.

Chính vì thế, để thể chế hóa hơn nữa các chủ trương, chính sách này của

Đảng và Nhà nước đi vào thực tế sâu rộng hơn, hiệu quả hơn, đáp ứng được

nguyện vọng của nhân dân trong việc phòng, chống tội trộm cắp tài sản thì

việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản là

67

yêu cầu cấp bách trong bối cảnh hiện nay.

Thứ ba, yêu cầu đảm bảo phù hợp với các điều kiện kinh tế, xã hội ở

nước ta.

Xã hội ở mỗi giai đoạn khác nhau thì sẽ có những điều kiện kinh tế -

xã hội khác nhau, và pháp luật ở mỗi giai đoạn cũng sẽ khác nhau. Nước ta

đang trong giai đoạn đổi mới toàn diện, đời sống nhân dân được nâng cao,

chất lượng cuộc sống được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận

lợi đó, nước ta đứng trước nhiều thách thức lớn, trong đó có thách thức từ tình

hình tội phạm môi trường nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng đang diễn

biến phức tạp với mức độ và tính chất nguy hiểm của hành vi là rất cao, hậu quả

thiệt hại xảy ra rất nghiêm trọng... Chính vì vậy, khi hoàn thiện các quy định về

tội trộm cắp tài sản phải quy định được những vấn đề mới vào trong luật như chủ

thể mới, quy định các tình tiết, các dấu hiệu định khung, loại và mức hình phạt

phải phù hợp với điều kiện – xã hội nước ta hiện nay.

Thứ tư, yêu cầu hội nhập quốc tế

Việt Nam là thành viên chính thức của nhiều công ước quốc tế về

phòng chống tội phạm cũng như kinh tế. Vì vậy, các quy định của pháp luật

Việt Nam nói chung và pháp luật hình sự nói riêng cần phải phù hợp với các

quy định bắt buộc của công ước này. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung các quy

định pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản cũng phải phù hợp với các quy

định của công ước quốc tế mà nước ta đã tham gia. Bên cạnh đó, việc áp dụng

pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản phải đảm bảo yêu cầu hội nhập của

nước ta (nhất là về kinh tế) với quốc tế.

3.2. Các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội

trộm cắp tài sản

Thứ nhất, hoàn thiện về tình tiết định khung cơ bản quy định tại điểm c

khoản 1 Điều 173 “Gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội”.

Quan điểm của tác giả cho rằng, khi đánh giá về tính chất của hành vi

68

“gây ảnh ưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội” là phải xem xét đến tính

chất, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra xâm phạm nghiêm trọng đến trật tự,

kỷ cương xã hội, xâm phạm đến sự mất ổn định trong đời sống của người dân,

gây tâm lý phẩn nộ trong một phạm vi khu dân cư, gây khó khăn cho công tác

quản lý nhà nước của cấp chính quyền. Do vậy để đảm bảo pháp luật hình sự

được áp dụng được thống nhất tác giả đề xuất sửa đổi điểm c khoản 1 Điều

173 theo hướng:

1. Bỏ tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”

2. Hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần sớm ban hành quy định

hướng dẫn chi tiết về việc áp dụng tình tiết định khung cơ bản đối với tình

theo trên theo hướng quy định trong từng lĩnh vực cụ thể, mức độ, phạm vi

ảnh hưởng đến tình hình trật tự, an toàn xã hội. Đồng thời quy định chặt chẽ

trình tự tiếp nhận thông tin phản ánh tình hình của nhân dân về các hành vi

“Gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội” khi chưa bị phát hiện để

làm căn cứ xử lý sau này.

Thứ hai, Hoàn thiện về tình tiết định khung tăng nặng được quy định

tại điểm d, khoản 2 Điều 173 “Hành hung để tẩu thoát”.

Để khắc phục các vướng mắc trên, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung

mục 6 Phần I Thông tư liên tịch số 02 như sau:

6.1. Phạm tội thuộc trường hợp “hành hung để tẩu thoát” là trường hợp

mà người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc ngay sau khi chiếm

đoạt được tài sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì

đã có những hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc chống trả

lại người bắt giữ hoặc người bao vây nhằm tẩu thoát.

6.2. Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc ngay sau

khi chiếm đoạt được tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác giành

lại, mà người phạm tội có hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức

khắc tấn công người bị hại hoặc người khác nhằm giữ cho được tài sản chiếm

69

đoạt được và tẩu thoát thì trường hợp này không phải là “hành hung để tẩu

thoát” mà đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội cướp tài sản”. Hoặc bỏ hẳn

cụm từ “hoặc ngay sau khi chiếm đoạt được tài sản” trong 02 tiểu mục này.

Ngoài ra cần thiết phải sửa đổi theo hướng thay cụm từ “đã chiếm đoạt

được tài sản” bằng cụm từ “ngay sau khi thực hiện hành vi chiếm đoạt được

tài sản” để tránh gây hiểu lầm, khó khăn trong quá trình áp dụng.

Thứ ba, hoàn thiện tình tiết “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành

vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm”.

Xuất phát từ việc xuất hiện trường hợp người có hành vi chiếm đoạt tài

sản đã bị áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính khác (biện pháp giáo

dục tại xã, phường, thị trấn; biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; biện pháp

đưa vào cơ sở giáo dục) sau đó lại có hành vi chiếm đoạt tài sản trị giá dưới

mức tối thiểu (dưới 2.000.000 đồng) nhưng nếu theo quy định của BLHS hiện

hành thì dù người đó đủ tuổi chịu TNHS cũng không có đủ dấu hiệu về mặt

khách quan để xử lý về mặt hình sự. Chính vì vậy, tác giả đề xuất cần có hướng

dẫn cụ thể quy định của điểm a khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 về tình tiết

“đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi

phạm”, theo đó có thể có văn bản hướng dẫn theo hướng “đã bị xử lý vi phạm

hành chính về hành vi chiếm đoạt mà còn vi phạm”, như vậy mới có thể tránh bỏ

lọt tội 72 phạm, áp dụng thống nhất, đảm bảo sự công bằng của pháp luật.

3.3. Các giải pháp về tổ chức thực hiện các quy định pháp luật hình

sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành

phố Hà Nội

Thứ nhất cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm và kỹ năng của người

tiến hành tố tụng trong việc áp dụng các quy định pháp luật hình sự Việt Nam

về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội

Đối với kiểm sát viên: Do tính chất của vụ án của tội trộm cắp tài sản

thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp Quận/ Huyện/ Thị xã nên các Viện kiểm

70

sát cấp Quận/ Huyện/ Thị xã trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội

phải nâng cao vai trò chủ trong việc áp dụng các quy định pháp luật hình sự

việt nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà

Nội. Với vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân được quy

định trong Hiến pháp, Luật tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân, Luật tố tụng

hình sự, Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát sự

tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự,

trong đó có vai trò thực hành quyền công tố và kiểm sát sự tuân theo pháp luật

trong việc áp dụng thủ tục rút gọn của Cơ quan điều tra và Tòa án cho nên

Kiểm sát viên được phân công phải trên cơ sở xem xét các điều kiện bảo đảm

đủ các căn cứ để khởi tố về tội trộm cắp tài sản, xem xét việc ban hành hoặc

hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục của Cơ quan điều tra và Tòa án là có căn

cứ và hợp pháp hay không, khi phát hiện có các vi phạm trong việc áp dụng

hoặc hủy bỏ thủ tục rút gọn thì tùy vào tính chất, mức độ vi phạm Kiểm sát

viên báo cáo, đề xuất với lãnh đạo viện, lãnh đạo đơn vị để lãnh đạo thực hiện

các hoạt động khắc phục vi phạm đó thông qua quan hệ chế ước giữa Viện

kiểm sát và Cơ quan điều tra, quan hệ phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát.

Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ trong việc giải quyết tin báo của Cơ

quan Điều tra, kịp thời ban hành các yêu cầu kiểm tra, xác minh để làm rõ

những về đề có liên quan đến vụ án. Kiểm sát viên phải bám sát hoạt động

giải quyết nguồn tin về tội phạm trộm cắp tài sản, nếu thấy vụ án hình sự đủ

cơ sở để khởi tố vụ án về tội trộm cắp tài sản thì Kiểm sát viên chủ động trao

đổi với Cơ quan điều tra và Điều tra viên để ra tiến hành thủ tục khởi tố vụ án

hình sự về tội trộm cắp tài sản. Có như vậy mới nâng cao được trách nhiệm

của Điều tra viên trong khi giải quyết án. Hơn thế nữa, Kiểm sát viên phải

kiểm sát chặt chẽ các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn mà đặc biệt là biện

pháp tạm giam nhằm trách tình trạng “lạm dụng” biện pháp này để thuận lợi

cho quá trình điều tra, truy tố mà làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp

71

pháp của bị can, bị cáo.

Đối với Điều tra viên: Điều tra viên ngay từ khi được phân công thụ lý

vụ án, nếu thấy có cơ sở Điều tra viên phải quan tâm đến hành vi lén lút nhằm

chiếm đoạt tài sản, động cơ và công cụ phương tiện thực hiện hành vi trộm

cắp. Ngay từ khi giải quyết nguồn tin Điều tra viên phải tiến hành ngay các

hoạt động xác định, tiến hành các hoạt động kiểm tra xác minh, các biện pháp

điều tra như: định giá tài sản, lấy lời khai bị hại, trưng cầu giám định… để

làm căn cứ để ra các quyết định tố tụng có căn cứ và đúng pháp luật. Ngoài ra

Điều tra viên chủ động thực hiện đầy đủ các yêu cầu kiểm tra, xác minh, yêu

cầu điều tra, phải chủ động trao đổi với Kiểm sát viên để thống nhất nội dung

và quan điểm xử lý vụ án đối với tội trộm cắp tài sản, tránh tình trạng vi phạm

thời hạn thời hạn điều tra, thiếu các tài liệu, chứng cứ quan trọng dẫn đến việc

Viện kiểm sát trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Đối với thẩm phán: Thẩm phán được phân công ngay sau khi nhận

được hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến phải nghiên cứu hồ sơ một

cách toàn diện, khách quan, kiểm tra lại các căn cứ buộc tội bị can về tội trộm

cắp tài sản, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can. Trong

trường hợp còn những vấn đề nào chưa rõ trong vụ án phải tiến hành trao đổi

ngay với Kiểm sát viên, trong trường hợp cần thiết thì ban hành quyết định

yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung các chứng cứ. Hạn chế việc trả hồ sơ điều tra

bổ sung.

Thứ hai tăng cường hơn nữa mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan

tiến hành tố tụng trong việc giải quyết những vụ án về tội trộm cắp tài sản.

Việc giải những vụ án về tội trộm cắp tài sản cần phải có sự phối hợp

giữa các cơ quan tố tụng, vì vậy cần phải tăng cường xây dựng mối quan hệ

phối hợp chặt chẽ giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong việc giải

quyết án rút gọn. Viện kiểm sát phải chủ động bàn bạc thống nhất quan điểm

72

với Cơ quan điều tra, Tòa án vụ án trước khi ra quyết định khởi tố vụ án đối

với các vụ án trộm cắp tài sản có trị giá tài sản lớn, có nhiều tình tiết phức tạp,

liên quan đến nhiều đối tượng.

Thứ ba, tăng cường công tác tập huấn, hướng dẫn áp dụng các quy

định pháp luật hình sự việt nam về tội trộm cắp tài sản trong thực tiễn.

Thường xuyên tổ chức các chương trình tập huấn, các hóa đào tạo nhằm

n ng trình độ chuyên môn của những người tiến hành tố tụng. Đây là hoạt

động quan trọng nhất trong việc trau dồi và nâng cao năng lực của những

người người tiến hành tố tụng. Trình độ chuyên môn của người người tiến

hành tố tụng là yếu tố quan trọng nhất đồng thời là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp

tới hiệu quả của công tác xử lý tội phạm, giải quyết các vụ án hình sự trong

thực tiễn ngành Tòa án cần tổ chức hội nghị chuyên đề hướng dẫn công tác xét

xử về các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng, đặc

biệt chú đến vấn đề định tội danh, các căn cứ quyết định hình phạt, các nguyên

tắc áp dụng hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để

đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật Các chương trình

tập huấn hoặc các hóa đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ là

hoạt động của các cơ quan nhà nưức có thẩm quyền tự xây dựng và mở ra bao

gồm các khóa đạo tạo, chương trình tập huấn chuyên môn của riêng các

ngành, hoặc các chương trình tập huấn, đào tạo phối hợp giữa các cơ quan liên

ngành; hoặc là các hoạt động trong khuôn khổ các dự án hợp tác giữa các cơ

quan tư pháp trong nước và các cơ quan tư pháp quốc tế hoặc các tổ chức xã

hội, tổ chức phi chính phủ nhằm hướng tới huấn luyện, đào tạo chuyên sâu các

cán bộ pháp luật về một hoặc một số lĩnh vực cụ thể trong tư pháp hình sự.

Thường xuyên tổ chức các đợt kiểm tra kiến thức chuyên môn, đánh giá trình

độ, từ đó có chế độ tuyên dương, khen thưởng xứng đáng. Phát động các

phong trào thi đua có ý nghĩa trau dồi về đạo đức, tác phong sống, làm việc

73

nghiêm túc, lành mạnh; coi đây là cơ sở đề xuất bổ nhiệm, miễn nhiệm.

Thứ tư, cần trang bị đầy đủ phương tiện, kinh phí phục vụ công tác cho

những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Thực tế cho thấy hiện nay, nhiều cơ quan tiến hành tố tụng như viện

kiểm sát, Tòa án chưa được trang bị đầy đủ các phương tiện phục vụ các công

tác trong quá trình giải quyết vụ án hình sự trong đó có giải quyết các vụ án

hình sự về tội trộm cắp tài sản, nhất là trong hoạt động đi xác minh trị giá tài

sản bị chiếm đoạt điều đó ảnh hưởng trực tiếp tới việc đảm bảo chất lượng

của công tác giải quyết, xét xử vụ án. Bên cạnh đó, chế độ dành cho những

người có thẩm quyền tiến hành tố tụng còn nhiều hạn chế chưa đảm bảo nhu

cầu của họ nên dễ này sinh tâm lý chán nản, không tận tâm với nghề hay bỏ

nghề… làm mất đi không ít những người thực sự có kĩ năng, chuyên môn,

nghiệp vụ trong việc giải quyết vụ án hình sự nói chung và giải quyết vụ án

theo thủ tục rút gọn nói riêng. Vì vậy cần phải trang bị đầy đủ phương tiện,

kinh phí phục vụ công tác cho các đơn vị Viện kiểm sát nhân dân cấp để hoàn

74

thành tốt công tác này.

Tiểu kết chương 3

1. Các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự việt

nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống đa phải dựa trên những

vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng của chế định này trên phạm Quận Đống

đa sao cho vừa đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia

tố tụng, đặc biệt là của bị can, bị cáo trong vụ án trộm cắp tài sản.

2. Các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến

thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự bao gồm: hoàn thiện các quy định tại

Điều 173 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bên cạnh đó, còn có

giải pháp về tổ chức thực hiện tổ chức thực hiện các quy định pháp luật hình

sự việt nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố

Hà Nội trong đó yêu cầu tăng cường nâng cao nhận thức, trách nhiệm và kỹ

năng của người tiến hành tố tụng trong việc áp dụng các quy định pháp luật

hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản; tăng cường hơn nữa mối quan hệ

phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết những vụ án

về tội trộm cắp tài sản; tăng cường công tác tập huấn, hướng dẫn áp dụng các

quy định pháp luật hình sự việt nam về tội trộm cắp tài sản trong thực tiễn.

Ngoài ra còn cần trang bị đầy đủ phương tiện, kinh phí phục vụ công tác cho

75

những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

KẾT LUẬN

1. Tội trộm cắp tài sản là hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội, được

quy định trong Bộ luật Hình sự, do người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và

có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện với lỗi cố ý tiếp xâm phạm đến

quyền sở hữu tài sản bằng hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu,

người quản lý tài sản hoặc người khác có liên quan.

2. Lịch sử hình thành và phát triển tội trộm cắp tài sản trong pháp luật

hình sự Việt Nam đã được hình thành từ rất sớm, được hướng dẫn bởi các sắc

lệnh và các thông tư liên ngành. Thông qua việc nghiên cứu các văn bản này

sẽ tiếp thu những “hạt nhân hợp lý” nhằm hoàn thiện tội trộm cắp tài sản

trong BLHS ở nước ta

3. Thực trạng giải quyết án hình sự bằng trình tự tố tụng rút gọn trong

thời gian trên địa bàn Quận Đống đa đã đạt được những kết quả tốt đẹp. Tuy

nhiên vẫn còn những tồn tại và hạn chế của các quy định về tội trộm cắp tài sản

trong BLHS năm 2015 vẫn còn mang tính hình thức, chưa thể hiện được tính

khả thi của chúng trên thực tiễn. Cần phải được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung.

4. Trước xu hướng vận động và phát triển không ngừng của xã hội, đây

là một vấn đề tất yếu đòi hỏi việc cần phải không ngừng tiếp tục nghiên cứu

sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình sự về tội trộm cắp nhằm nâng

cao hiệu quả áp dụng quy định này, việc sửa đổi, bổ sung không chỉ thực hiện

các kiến nghị về mặt hoàn thiện các quy định pháp luật mà cần phải hoàn

thiện về mặt tổ chức thực hiện áp dụng các quy định về tội trộm cắp tài sản

trên thực tế trên thực tế.

5. Luận văn đã đưa ra giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật

liên quan các quy định pháp luật, các giải pháp về tổ chức thực các quy định

về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa. Qua đó nâng cao chất

lượng giải quyết các vụ án tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Đống Đa, tiết

kiệm thời gian, công sức của người tiến hành tố tụng, các chi phí tố tụng khác

liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự nhưng vẫn đảm bảo không để lọt

76

tội phạm, không làm oan người vô tội.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 08/ NQ – TW của Bộ chính trị

ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời

gian tới.

2. Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 48 – NQ/TW của Bộ Chính trị

ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt

Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.

3. Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 49– NQ/TW của Bộ Chính trị

ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

4. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2015, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật hình sự

2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp năm

2013, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật tổ chức

Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, “Quyết định về việc ban hành quy chế

tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và

truy tố”. Số 03, ngày 29 tháng 12 năm 2017.

9. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, “Quyết định về việc ban hành quy chế

công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự”. Số 505,

ngày ngày 18 tháng 12 năm 2017.

10. Vũ Quang Dũng (2008), Luận Văn thạc sĩ luật học, “Thủ tục rút gọn

trong tố tụng hình sự - lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành

phố Hà Nội” Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

11. Nguyễn Văn Hiển (2004), “Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt

77

Nam, Hà Nội.

12. Nguyễn Mạnh Hiền (2006), “Một số kinh nghiện giải quyết án theo thủ

tục rút gọn của các cơ quan tiến hành tố tụng ở tỉnh Hà Tây”, Tạp chí

Kiểm sát, số 13/2006.

13. Trần Quỳnh Hoa (2014), “Một số kiến nghị về thủ tục rút gọn trong tố

tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát số 19/2014.

14. TS. Bùi Đức Hứa (2015), “Vấn đề thủ tục rút gọn trong điều tra vụ án

hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí khoa học

kiểm sát, số 03/2015.

15. TS. Phan Thị Thanh Mai (2010), “Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự

nhằm hạn chế việc phải chuyển từ thủ tục rút gọn sang thủ tục chung để

giải quyết vụ án”, Tạp chí Luật học số 5/2010.

16. Nguyễn Minh Quang (2001), Luận văn thạc sĩ luật học, “Thủ tục rút

gọn - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” Hà Nội.

17. Nguyễn Văn Quảng (2011), Luận án tiến sĩ Luật học, “Hoàn thiện thủ

tục rút gọn trong bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, Những vấn đề lý luận

và thực tiễn”.

18. TS. Lê Hữu Thể - TS. Đỗ Văn Đương. ThS. Nguyễn Thị Thủy (Đồng

chủ biên) (2013) “Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc

đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp”,

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – sự thật.

19. Đỗ Thị Phượng (2008) “Một số vấn đề về thủ tục rút gọn trong Bộ luật

Tố tụng hình sự năm 2003”, Kỷ yếu hội thảo “Thủ tục đặc biệt trong tố

tụng hình sự”, Khoa luật hình sự, Trường Đại học Luật Hà Nội.

20. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Bộ luật Tố tụng hình sự Nhật

Bản, bản dịch tiếng Việt, Hà Nội.

21. Viên kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Bộ luật Tố tụng hình sự Liên

78

bang Nga năm 2001, bản dịch tiếng Việt, Hà Nội.

22. Viên kiểm sát nhân dân tối cao (2007), Bộ luật Tố tụng hình sự Đức,

Tạp chí Thông tin khoa học kiểm sát, số 5&6/2007.

23. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, (2014), Thống kê tình hình thụ lý, giải

quyết án hình sự trên phạm vi cả nước năm 2014.

24. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, (2015), Thống kê tình hình thụ lý, giải

quyết án hình sự trên phạm vi cả nước năm 2015.

25. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, (2016), Thống kê tình hình thụ lý, giải

quyết án hình sự trên phạm vi cả nước năm 2016.

26. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, (2017), Thống kê tình hình thụ lý, giải

quyết án hình sự trên phạm vi cả nước năm 2017.

27. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, (2018), Thống kê tình hình thụ lý, giải

quyết án hình sự trên phạm vi cả nước năm 2018.

28. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, (2019), Thống kê tình hình thụ lý, giải

quyết án hình sự trên phạm vi cả nước năm 2019.

29. Viên kiểm sát nhân dân tối cao - Viện khoa học kiểm sát, “Thông tin

79

khoa học kiểm sát số 05+06/2008”.