VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THẾ THANH
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THẾ THANH
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành:Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS.TRẦN HỮU TRÁNG
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ
công trình nào.
TÊN TÁC GIẢ
NGUYỄN THẾ THANH
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
TRỘM CẮP TÀI SẢN .................................................................................... 9
1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản ................. 9
1.2 Các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình
sự Việt Nam .............................................................................................. 21
1.3 Lịch sử hình thành và phát triển của tội trộm cắp tài sản theo quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam ........................................................ 32
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN
ĐỐNG ĐA – THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................................... 40
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội và tình hình
giải quyết các vụ án hình sự trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố
Hà Nội ....................................................................................................... 40
2.2. Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận
Đống Đa – Thành phố Hà Nội .................................................................. 44
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN ĐỐNG ĐA –
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................................. 66
3.1 Yêu cầu và phương hướng hoàn thiện pháp luật về tội trộm cắp tài sản. ........ 66
3.2. Các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội trộm cắp
tài sản ......................................................................................................... 68
3.3. Các giải pháp về tổ chức thực hiện các quy định pháp luật hình sự
Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành
phố Hà Nội ................................................................................................ 70
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật hình sự BLHS
Bộ luật tố tụng hình sự BLTTHS
Nhà xuất bản NXB
Viện kiểm sát nhân dân VKSND
Tòa án nhân dân TAND
Cảnh sát điều tra CSĐT
Quy phạm pháp luật QPPL
DANH MỤC BẢNG
Bảng số 2.1: Tổng số vụ án, số bị cáo bị xét xử về tội trộm cắp tài sản
trong tương quan với các tội phạm xâm phạm sở hữu khác trên địa
bàn Quận Đống Đa – Thành phố HN từ năm 2015 đến năm 2019 ...... 45
Bảng 2.2: Số vụ án hình sự bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội trộm
cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố HN từ năm
2015 đến năm 2019 ............................................................................... 45
Bảng 2.3: Kết quả xét xử phúc thẩm các vụ án phạm tội trộm cắp tài sản trên
địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố HN từ năm 2015 đến năm 2019 ...... 46
Bảng 2. 4: Thống kê chế tài được áp dụng khi giải quyết tội trộm cắp tài
sản trên địa bàn quận Đống Đa từ năm 2015 đến năm 2019 ................ 50
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhìn lại ba mươi năm đổi mới kể từ năm 1986, đất nước ta do Đảng lãnh
đạo đã đạt được những thành quả to lớn, toàn diện trên tất các các mặt của đời
sống xã hội. Cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, Đảng
ta chủ trương giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống
của nhân dân, tạo tiền đề vững chắc cho sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh những thành tựu to lớn mà chúng ta đã đạt
được, vẫn còn những khuyết điểm, yếu kém và không ít vấn đề bức xúc nảy sinh
chưa được giải quyết đó là sự tha hóa, biến chất về đạo đức, lối sống thực dụng
và hưởng thụ của một bộ phận con người trong xã hội làm phát sinh tệ nạn xã
hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đặc
biệt là tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, tính chất, thủ đoạn
ngày càng tinh vi, xảo quyệt, nhiều vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Để
bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, từ Bộ luật
hình sự năm 1985 lần đầu tiên được pháp điển hóa cho đến Bộ luật hình sự
năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 và Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ
sung năm 2017, pháp luật hình sự Việt Nam đều dành một chương riêng trong
phần các tội phạm để quy định về các tội xâm phạm sở hữu, trong đó có tội
trộm cắp tài sản.
Thực tiễn công tác đấu tranh, phòng chống và xử lý tội phạm cho thấy,
nhờ sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan tiến hành tố tụng, chất lượng hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử ngày càng được nâng cao. Số vụ trộm cắp tài sản
trên địa bàn quận Đống Đa đã được phát hiện chiếm tỷ lệ cao và được đưa ra xét
xử nghiêm minh trước pháp luật. Tuy nhiên, công tác phòng ngừa và đấu tranh
chống tội phạm nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng trên địa bàn quận
Đống Đa vẫn còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân là do ý thức tự bảo vệ tài sản của
mình và tham gia bảo vệ tài sản của người khác trong quần chúng nhân dân còn
1
chưa cao; các cơ quan, đơn vị, tổ chức kinh tế mặc dù có điều kiện về kinh tế
nhưng công tác bảo vệ tài sản còn nhiều hạn chế, mất cảnh giác, không quan
tâm trang bị các phương tiện khoa học kỹ thuật để phục vụ cho việc phòng ngừa
và chống tội phạm; số đối tượng bị phạt tù sau khi chấp hành xong hình phạt tù
để tái hòa nhập cộng đồng còn chưa được quản lý chặt chẽ, chưa được tạo điều
kiện để họ tái hòa nhập cộng đồng và chưa được tạo điều kiện về công ăn việc
làm, do đó số đối tượng này không có việc làm còn nhiều nên tỷ lệ tái phạm còn
cao. Đặc biệt, quá trình áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản
của các cơ quan bảo vệ pháp luật của Quận Đống Đa còn có những hạn chế, một
số vụ việc chưa đánh giá hết tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội,
nên việc định tội danh và áp dụng hình phạt còn chưa thật chính xác; việc áp
dụng một số quy định của pháp luật còn chưa thống nhất, dẫn đến hiệu quả chưa
cao. Chính vì vậy, Tác giả lựa chọn đề tài “Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn
quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội” làm luận văn Thạc sĩ với mong muốn trên
cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn xử lý loại tội này sẽ góp phần bảo đảm việc
áp dụng đúng pháp luật hình sự, qua đó nâng cao chất lượng và hiệu quả của
công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội trộm cắp tài sản tại quận Đống Đa,
Thành phố Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề xây dựng pháp luật hình sự áp dụng
cho tội trộm cắp tài sản đã thu hút không ít sự quan tâm của các nhà tội phạm
học, đặc biệt là các nhà nghiên cứu Luật. Tính đến thời điểm nghiên cứu có thể
chia các công trình nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự
thành hai nhóm lớn sau:
Thứ nhất, nhóm luận văn, luận án, đề tài nghiên cứu khoa học: Các
công trình nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt
Nam nhắc đến như sau: Nguyễn Bá Vinh (2019), Tội Trộm cắp tài sản theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi,
2
Luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã hội; Lê Ngọc Như Chi (2018), Áp
dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn Quận 6, thành
phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã hội; Phạm Tuấn
Anh (2018), Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã
hội; Lê Thị Bình (2018), Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật hình sự Việt Nam
từ thực tiễn tỉnh Bình Phước, Luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã hội;
Phạm Thu Hà (2016) Tội trộm cắp tài sản trong Luật Hình sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Thanh Tùng (2013), Tội
trộm cắp tài sản theo Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa
Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Thị Thu Ba (2016), Tội trộm cắp tài
sản theo Luật hình sự VN( trên cơ sở số liệu xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam), Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội…. Các công trình nghiên cứu này
đã phân tích, làm rõ được một số vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản trong
pháp luật hình sự Việt Nam như: Khái niệm, đặc điểm của tội trộm cắp tài
sản, các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản cũng như lịch sử hình thành
và phát triển của chế định này trong pháp luật hình sự Việt Nam. Bên cạnh đó
còn chỉ ra thực trạng xảy ra tội trộm cắp tài sản trên địa bàn nhất định Tuy
nhiên, những công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở các vấn đề mang
tính lý luận mà chưa đề cập đến thực tiễn áp dụng thủ tục này, Thêm vào đó
công trình đã được công bố từ lâu, chưa cập nhật được các quy định mới về
tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015.
Thứ hai, nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật: trong nhóm này
có thể kể đến các bài viết như: Hồ Sỹ Sơn, Tội trộm cắp tài sản nhìn từ góc độ
so sánh pháp luật từ một số nước trên thế giới, Tạp chí Nhân lực Khoa học Xã
hội - Số 7/ 2016, tr.12-20; Đinh Công Thành, "Bình luận về tội trộm cắp tài
sản", Tạp chí Kiểm sát, Số 10/2018, tr. 43 – 49; Phan Anh Tuấn, Một số đề
xuất hoàn thiện quy định về các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự
3
năm 2015, Tạp chí Khoa học Pháp lý số 8/2015, tr.48-55; Dương Vân Anh,
Yếu tố định lượng tài sản đối với tội trộm cắp tài sản, Tạp chí Kiểm sát -số
23/ 2014, tr.49-52, 62; Nguyễn Thị Xuân, Hoàn thiện quy định cấu thành tội
trộm cắp tài sản tại điều 138 Bộ Luật hình sự, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp -
số 21/2015, tr.37-40; Lê Văn Định, “Bàn về nguyên nhân và điều kiện của tội
trộm cắp tài sản ở Tây Nguyên”, Tạp chí Kiểm sát. Số 10/2017, tr. 20 – 24;
Lê Văn Định, “Đặc điểm nhân thân người phạm tội và phương thức thực hiện
tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai” Tại chí Kiểm sát. Số 6/2015,
tr. 47 – 53; Đỗ Lường Thiện, “Hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về
tội trộm cắp tài sản”, Tạp chí Nghề luật. Số 4/2017, tr. 71 – 73; Trần Mạnh
Hà, “Phân biệt một số dấu hiệu đặc trưng của tội Trộm cắp tài sản khi định tội
danh”, Tạp chí Toà án nhân dân. Số 10/2006, tr. 23 – 28……Các bài viết kể
trên đề cập những vấn đề cơ bản về lý luận của tội trộm cắp tài sản trong pháp
luật hình sự Việt Nam như: Khái niệm, ý nghĩa, các dấu hiệu pháp lý đặc
trưng của tội trộm cắp tài sản. Ngoài ra còn có phân biệt giữa tội trộm cắp tài
sản với các tội trong chương các tội phạm xâm phạm sở hữu khác. Các bài
viết trên đều đến thực tiễn áp dụng cũng như chỉ ra những bất cập, vướng mắc
khi giải quyết án hình sự đối với tội danh là trộm cắp tài sản, đưa ra các kiến
nghị hoàn thiện pháp luật liên quan đến tội danh trên cũng như các biện pháp
phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm này diễn ra trên thực tế. Tuy nhiên các vấn
đề trên được phân tích đánh giá dựa trên các quy định của Bộ luật hình sự
năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 mà chưa cập nhật các quy định mới của
tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015.
Các công trình, bài báo, tạp chí chuyên ngành luật đã nghiên cứu về tội
trộm cắp tài sản trên những khía cạnh cụ thể. Tuy nhiên, cần phải khẳng định
rằng các nghiên cứu kể trên còn có những hạn chế nhất định ở việc thiếu tính
hệ thống, tính toàn diện. Chưa có công trình nào nghiên cứu về tội trộm cắp
tài sản trong pháp luật hình sự trên địa bàn Quận Đống Đa – một trong Quận
4
lớn của thành phố Hà Nội, hơn nữa nhiều công trình đã nghiên cứu và được
công bố từ khá lâu, chưa cập nhật được những điểm mới của tội trộm cắp tài
sản trong Bộ luật hình sự năm 2015 Vì vậy, thông qua quá trình nghiên cứu
Luận văn này, tác giả đi sẽ sâu tìm hiểu toàn diện về loại tội trộm cắp tài sản,
từ đó kế thừa những nội dung đã được tiếp cận từ các công trình nghiên cứu
của các tác giả trước đây để làm rõ một số vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài
sản, thực trạng các quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản và thực
tiễn áp dụng tại Quận Đống Đa, từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật về tội
trộm cắp tài sản.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1 Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Đống Đa, thành
phố Hà Nội giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, luận văn chỉ ra những bất
cập hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật về tội trộm cắp tài sản, từ đó đề
xuất các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự và các giải pháp
khác nhằm bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài
sản trên địa bàn quận Đống Đa nói riêng, thành phố Hà Nội nói chung.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu:
Nhiệm vụ thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận, bao gồm:
- Phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc quy định tội
trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam.
- Làm rõ lịch sử hình thành và phát triển của tội trộm cắp tài sản theo quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay.
- Phân tích làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản trong pháp
luật hình sự Việt Nam, bao gồm khách thể của tội trộm cắp tài sản, mặt chủ quan
5
của tội trộm cắp tài sản, mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản, chủ thể của tội
trộm cắp tài sản.
Nhiệm vụ thứ hai: Làm rõ thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm
cắp tài sản trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, cụ thể
- Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội và tình hình điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố
Hà Nội.
- Phân tích làm rõ những kết quả đạt được trong áp dụng các quy định
pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống
Đa – Thành phố Hà Nội,
- Phân tích làm rõ những tồn tại và hạn chế trong áp dụng các quy định
pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống
Đa – Thành phố Hà Nội.
Nhiệm vụ thứ ba: Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự, cụ thể như sau:
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội trộm
cắp tài sản
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định pháp luật
hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1 Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận về tội trộm cắp
tài sản; các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản
và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, trong đó giới hạn các hoạt động là
định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản trên địa
bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
4.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
6
- Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu dưới góc độ Luật hình sự về tội
trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam thời gian qua, đặc biệt
nghiên cứu tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ hình sự năm 2015, sửa
đổi bổ sung năm 2017 có so sánh với quy định của Bộ luật hình sự năm 1999,
sửa đổi bổ sung năm 2009
- Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định về tội
trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa trong khoảng thời gian từ năm
2015 đến năm 2019, trong đó giới hạn các hoạt động áp dụng pháp luật cơ
bản là định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Triết học Mác-Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng và
Nhà nước về nhà nước và pháp luật; quan điểm, đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước về chiến lược xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Chiến lược quốc gia
phòng, chống tội phạm giai đoạn năm 2016 đến năm 2015 và định hướng đến
năm 2030 và các quan điểm đấu tranh phòng chống tội phạm.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Đối với
phương pháp phân tích, so sánh tác giả dùng nhằm luận giải những vấn đề lý
luận về tội trộm cắp tài sản, làm rõ những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng
các quy định pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội đối với chương 1, chương 3 của luận văn,
ngoài ra tác giả còn kết hợp sử dụng phương pháp tổng hợp, phương pháp
thống kê nhằm làm sáng tỏ thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội trộm cắp tài
sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội được thể hiện ở chương
2 của luận văn .
7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về mặt lý luận của đề tài: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp
phần vào nâng cao nhận thức và áp dụng pháp luật cũng như hoàn thiện lý
luận về tội trộm cắp tài sản trong khoa học luật hình sự Việt Nam.
Về mặt thực tiễn của đề tài: Với kết quả đạt được trong nghiên cứu
của luận văn thì có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong thực tiễn
công tác chỉ đạo, điều hành và tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật, đặc
biệt là nâng cao hiệu quả công tác của các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng khi giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn
quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Với kết quả đạt được trong quá trình nghiên
cứu, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo
Luật và nghiên cứu khoa học
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo thì nội dung của luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội trộm cắp tài sản
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hình sự Việt
Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà
Nội
Chương 3: Những giải bảo đảm áp dụng đúng các quy định pháp
luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa
– Thành phố Hà
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản
1.1.1 Khái niệm về tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam
Sở hữu là một phạm trù kinh tế, thể hiện các quan hệ sản xuất xã hội,
phương thức chiếm hữu và phân phối tài sản trong các hình thái kinh tế - xã
hội và quan hệ xã hội nhất định. Ở Việt Nam, quyền sở hữu về tài sản luôn
được Đảng và Nhà nước quan tâm và được ghi nhận cụ thể tại Điều 32 Hiến
pháp năm 2013 như sau: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp,
của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong
doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.”. Trong pháp luật dân sự,
khái niệm quyền sở hữu được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Quyền sở hữu
có thể được hiểu theo nghĩa rộng là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban thành theo những trình tự, thủ tục luật định để điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong các lĩnh vực liên quan đến sở hữu tài sản trong đời
sống lao động, xã hội. Theo nghĩa hẹp hơn, quyền sở hữu là các xử sự mà
pháp luật cho phép một chủ thể được thực hiện trong những điều kiện và
phạm vi nhất định đối với tài sản.
BLDS năm 2015 quy định: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu đối với tài sản theo
quy định của pháp luật”. Qua đó, quyền sở hữu bao gồm: quyền chiếm hữu
(thực hiện mọi hành vi theo ý chí của chủ sở hữu để nắm giữ, chi phối tài sản
của mình nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội), quyền sử dụng
(thực hiện việc khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản) và
quyền định đoạt (thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ
9
quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản).
Như vậy, tài sản và quyền sở hữu tài sản là những quy định pháp luật
do Nhà nước ban hành nhằm duy trì đời sống kinh tế - xã hội. Khi quyền sở
hữu tài sản bị xâm hại sẽ gây những ảnh hưởng nhất định đến đời sống kinh tế
- xã hội. Hành vi xâm phạm sở hữu là hành vi của một người nhằm tác động
đến việc thực hiện các quyền sở hữu tài sản như phá hoại tài sản, chiếm đoạt
tài sản… Do đó, Nhà nước luôn có những quy định cụ thể để bảo vệ quyền sở
hữu tài sản. Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu khi thỏa mãn đầy đủ các
yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự thì được coi là
tội phạm.
Vấn đề bảo vệ quyền sở hữu về tài sản luôn là vấn đề trọng tâm được
ghi nhận ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, bên cạnh cơ chế để
bảo vệ quyền sở hữu về tài sản thông qua các quy định được ghi nhận trong
bộ luật dân sự và pháp luật tố tụng dân sự, các chế tài xử phạt vi phạm hành
chí được Đảng và Nhà nước ta đã quy định cụ thể các chế tài hình sự trong Bộ
luật hình sự được áp dụng đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài
sản. Đây là biện pháp xử lý nghiêm khắc nhất thể hiện quyền lực của nhà
nước trong xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu về tài sản một cách bất
hợp pháp. Từ BLHS năm 1985 lần đầu tiên được pháp điển hóa đến BLHS
năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 và BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung
năm 2017, pháp luật hình sự Việt Nam đều dành một chương riêng trong phần
các tội phạm để quy định về các tội xâm phạm sở hữu, điều đó cho thấy phần
nào ý nghĩa, tầm quan trọng của chế định này. Dưới góc độ khoa học pháp lý
hình sự, theo đó các tội xâm phạm sở hữu được hiểu như sau:“Các tội xâm
phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật
hình sự quy định thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến quan hệ sở
hữu về tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức mà theo quy định của Bộ luật
10
Hình sự phải bị xử lý hình sự”.
Tội trộm cắp tài sản thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu. Hành vi trộm
cắp tài sản thuộc nhóm hành vi xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
Dưới góc độ khoa học luật hình sự, hành vi "chiếm đoạt tài sản" có nhiều
quan điểm, như:
(i) “hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản
lý của chủ tài sản thành tài sản của mình”
(ii) hoặc là “hành vi chuyển dịch bất hợp pháp tài sản đang do một chủ
thể quản lý thành tài sản của mình. Hành vi chiếm đoạt làm cho chủ tài sản
mất khả năng thực hiện quyền sở hữu, đồng thời tạo khả năng cho người
phạm tội có thể thực hiện được việc chiếm giữ, sử dụng, định đoạt trái pháp
luật tài sản đó. Tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt là tài
sản còn nằm trong sự quản lý của chủ sở hữu”
(iii) hoặc là "hành vi cố ý chuyển biến một cách trái pháp luật tài sản
của người khác thành tài sản của mình hoặc của một nhóm người hoặc cho
người khác mà mình quan tâm”.
Các quan điểm trên đây dưới góc độ khoa học luật hình sự, hành vi
chiếm đoạt tài sản có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi trái pháp luật hình sự,
xâm phạm tới quyền sở hữu về tài sản. Trong một số trường hợp nhất định tùy
thuộc vào biểu hiện của hành vi chiếm đoạt tài sản mà hành vi trên còn có thể
xâm phạm tới quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của con người.
Thứ hai, hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi dịch chuyển tài sản từ chủ
tài sản (người sở hữu hợp pháp tài sản hoặc người quản lý hợp pháp tài sản gọi
chung là người quản lý tài sản) sang người thực hiện hành vi chiếm đoạt, làm
cho chủ tài sản mất một trong các quyền sở hữu: quyền chiếm hữu, sử dụng hoặc
quyền định đoạt tài sản của mình, và người chiếm đoạt có thể thực hiện việc
11
chiếm hữu, sử dụng, hoặc định đoạt tài sản đó một cách trái pháp luật.
Thứ ba, hành vi chiếm đoạt tài sản rất đa dạng và được thể hiện dưới
những dạng hành vi khác nhau, tùy thuộc vào mối quan hệ giữa người chiếm
đoạt với tài sản bị chiếm đoạt, hình thức chiếm đoạt, ví dụ: hành vi trộm cắp
tài sản, hành vi cướp tài sản, hành vi cưỡng đoạt tài sản, hành vi công nhiên
chiếm đoạt tài sản, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản...
Thứ tư, tài sản là đối tượng của hành vi chiếm đoạt phải còn nằm trong
sự chiếm hữu, quản lý, kiểm soát của người quản lý tài sản, và phải đáp ứng
đặc điểm riêng. Nếu tài sản đã thoát ly khỏi sự chiếm hữu, quản lý, kiểm soát
của người quản lý tài sản thì không là đối tượng của hành vi chiếm đoạt.
Thứ năm, về mặt chủ quan, người thực hiện hành vi chiếm đoạt phải do
lỗi cố ý, mục đích khi họ thực hiện hành vi là “nhằm chiếm đoạt tài sản”. Do
vậy, lỗi của họ phải là cố ý trực tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt tài
sản nhận thức rõ hành vi của mình, biết được sự nguy hiểm của hành vi cho
xã hội, nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi này.
Trong khoa học luật hình sự, có nhiều quan điểm khác nhau về tội trộm
cắp tài sản, nhưng về cơ bản đều nêu lên được nội hàm của hành vi trộm cắp
tài sản theo quy định của BLHS Việt Nam.
Quan điểm thứ nhất: “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy tài sản
của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản mà không dùng vũ
lực hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc bất cứ thủ đoạn nào khác nhằm uy hiếp
tinh thần của người quản lý tài sản”.
Quan điểm thứ hai: “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài
sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng trở lên hoặc dưới hai triệu
đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về
hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa
án tích mà con vi phạm”.
Quan điểm thứ ba: “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đọa tài
12
sản thuộc quyền sở hữu của người khác, do người có năng lực chịu trách
nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình thức
lỗi cố ý”
Qua ba quan điểm nêu trên, có thể nhận thấy rằng hành vi trộm cắp tài
sản có một số đặc trưng như sau:
Thứ nhất, trộm cắp tài sản là hành vi lén lút
Lén lút là hành vi thể hiện sự giấy giếm, vụng trộm, không công khai
và có ý đồ gian dối. Tính chất lén lút của hành vi trộm cắp tài sản được thể
hiện ở cả hành vi khách quan lẫn ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi
được coi là tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự. Hành vi lén lút
được hiểu là sự giấu giếm vụng trộm lấy tài sản khi chủ sở hữu hoặc người
quản lý tài sản không biết mình bị mất tài sản, chỉ khi tài sản bị chiếm đoạt họ
mới biết tài sản đã bị mất. Hành vi lén lút ở đây không nhất thiết là làm việc
mà không ai biết, nó có thể được thực hiện một cách giấu giếm, vụng trộm,
nhưng có thể được thực hiện một cách công khai, giữa nơi đông người. Tuy
nhiên, việc giấy giếm hay công khai thì chúng đều có một đặc điểm chung
thống nhất đó là “lén lút” với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý
tài sản. Ví dụ: Bản án 08/2018/HS-ST ngày 06/02/2018 về tội trộm cắp tài sản
của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh T. Tóm tắt vụ án như sau: do H không có
tiền trả nợ nên T xúi giục H cùng V đi đến đám cưới nhà anh Thắng ở xã
Nông Trường để trộm cắp xe máy. Đến nơi H phát hiện xe máy Sirius biển
kiểm soát 36B3 42482 màu vàng đen của anh B không có người trông coi nên
H dừng xe và bảo V xuống dùng chiếc vam vẫn mang theo phá khóa và lấy xe
nhưng V không phá được khóa nên H xuống trực tiếp phá khóa và lấy xe
mang về cho T. T bán xe cho chị Ng ở thôn Trúc Chuẩn 2 lấy 10.000.000đ,
chị Ng bán lại cho ông Nguyễn Thọ X lấy 12.000.000đ, khi chị H con gái ông
X mượn chiếc xe này đi lại thì bị anh B phát hiện và báo công an thu giữ.
Như vậy, thông qua ví dụ tại bản án 08/2018/HS-ST ngày 06/02/2018
13
về tội trộm cắp tài sản của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh T trên có thể nhận
thấy rằng hành vi của T mặc dù có công khai tuy nhiên vẫn là lợi dụng lúc
anh B. lơ là, không quản lý trông coi tài sản. Hành vi chiếm đoạt tài sản của T
vẫn là lén lút với chủ sở hữu tài sản.
Thứ hai, trộm cắp là hành vi chiếm đoạt tài sản trái pháp luật
Lén lút không phải đặc trưng duy nhất của hành vi trộm cắp tài sản mà
trong nhiều tội phạm, người thực hiện hành vi được coi là tội phạm cũng lén
lút nhưng là để thực hiện hành vi khác như: cố ý lẻn vào nhà người khác giết
hại những người trong gia đình vì mục đích hận thù hay lẻn vào phòng ngủ
của người khác để thực hiện hành vi hiếp dâm…Vì vậy, khi nói đến tội trộm
cắp tài sản thì không thể không đi kèm với hành vi chiếm đoạt tài sản, nếu lén
lút mà không chiếm đoạt tài sản thì không phải dấu hiệu pháp lý của tội trộm
cắp tài sản.
Hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi trái pháp luật hình sự xâm phạm
tới quyền sở hữu về tài sản. Xét về mặt khách quan là hành vi làm cho chủ tài
sản mất hẳn khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt tài sản đó. Như vậy, chiếm đoạt xét về mặt thực tế là quá
trình vừa làm cho chủ tài sản mất tài sản vừa tạo cho người chiếm đoạt có tài
sản đó. Quá trình này xét về mặt pháp lí không làm cho chủ sở hữu mất quyền
sở hữu của mình mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền cụ thể
của quyền sở hữu. Hành vi chiếm đoạt với nội dung là quá trình như vậy được
thể hiện ở những dạng hành vi cụ thể khác nhau, tuỳ thuộc vào mối quan hệ
cụ thể giữa người chiếm đoạt và tài sản chiếm đoạt cũng như vào hình thức
chiếm đoạt cụ thể.[9] Để đánh giá các hành vi chiếm giữ tài sản có phạm tội
hay không, cần phải đánh giá: (1) việc nhận tài sản từ chủ sở hữu của người
phạm tội có phù hợp quy định của pháp luật dân sự hay không; (2) việc chiếm
giữ tài sản có thuộc một trong các trường hợp xác lập quyền sở hữu theo quy
14
định của Bộ luật Dân sự năm 2015 (viết tắt là BLDS) hay không.
Việc xác định hành vi chiếm giữ có trái pháp luật hay không cần dựa
vào quy định của pháp luật dân sự. Theo quy định tại Điều 158 BLDS,
“Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt
tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật”.
Để chiếm đoạt tài sản tạo ra khả năng làm mất quyền sở hữu của chủ sở
hữu và tạo ra quyền sở hữu cho mình, người phạm tội phải chiếm hữu tài sản
một cách trái pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật dân sự không quy định thế nào
là chiếm hữu trái pháp luật mà quy định hành vi chiếm hữu có căn cứ pháp
luật. Theo khoản 1 Điều 179 BLDS, “Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi
phối tài sản một cách trực tiếp hoặc giám tiếp như chủ thể có quyền đối với
tài sản” Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong các
trường hợp sau đây: (1) Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản; (2) Người được chủ sở
hữu uỷ quyền quản lý tài sản; (3) Người được chuyển giao quyền chiếm hữu
thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật; (4) Người
phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu,
tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm phù hợp với các
điều kiện do pháp luật quy định; (5) Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm,
vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy
định và (6) Các trường hợp khác do pháp luật quy định. Bên cạnh đó, BLDS
còn quy định quyền chiếm hữu của từng chủ thể. Ngoài các hành vi chiếm
hữu này là chiếm hữu bất hợp pháp. Vì vậy, để xác định hành vi chiếm hữu
của người phạm tội tại chương các tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và
tội trộm cắp tài sản nói riêng cần phải xác định việc chiếm hữu của người
phạm tội không thuộc các trường hợp chiếm hữu hợp pháp này.
Đối với tội trộm cắp tài sản, người phạm tội không nhận tài sản từ
người phạm tội và việc chiếm giữ tài sản không có sự chứng kiến của người
bị hại nên quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt chỉ có việc tiếp cận, thực
15
hiện hành vi chiếm đoạt mà không có hành vi chiếm giữ tài sản. Chính vì vậy,
trong khoa học luật hình sự, thực tiễn xét xử thống nhất, tội trộm cắp tài sản là
tội mà dấu hiệu chiếm đoạt thể hiện qua việc người phạm tội chiếm đoạt được
tài sản. Để đánh giá người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa phải dựa
vào đặc điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt, được thể hiện qua 03 mức độ sau:
(1) Nếu vật chiếm đoạt gọn nhỏ thì coi đã chiếm đoạt được khi người phạm
tội đã dấu được tài sản trong người; (2) Nếu vật chiếm đoạt không thuộc loại
nói trên thì coi chiếm đoạt được khi đã mang được tài sản ra khỏi khu vực bảo
quản; (3) Nếu vật chiếm đoạt là tài sản để ở những nơi không hình thành khu
vực bảo quản riêng thì coi là đã chiếm đoạt được khi đã dịch chuyển tài sản
khỏi vị trí ban đầu.
Thực tiễn áp dụng của tội này xảy ra nhiều trường hợp người thực hiện
hành vi trộm cắp tài sản sau khi đột nhập và tiếp cận được với tài sản nhưng
chưa chiếm đoạt được tài sản thì bị phát hiện dẫn đến quá trình khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án này gặp nhiều khó khăn Ví dụ: tại bản án
18/2018/HSST ngày 09/02/2018 về tội trộm cắp tài sản của Tòa án nhân dân
thị xã BL, tỉnh BP. Tối ngày 05/10/2019 khi đang cùng gia đình ăn cơm ở
phòng ăn thì ông Nguyễn Văn A phát hiện có tiếng động lớn ở phía trước nhà.
Tiến tới kiểm tra thì ông A phát hiện anh Nguyễn Văn B đang đứng cạnh
chiếc xe mô tô 02 (hai) bánh biển số 67B2 -29210 của mình. Được biết anh
Nguyễn Văn B là thanh niên ở trong xóm, không có việc làm ổn định và có
nhiều tiền án tiền sự về tội trộm cắp tài sản. Do nghi ngờ H lấy trộm tài sản là
chiếc xe mô tô 02 bánh số 67B2 -29210 của mình, ông Nguyễn Văn A đã tiến
hành tố giác về hành vi trên của anh Nguyễn Văn B cho cơ quan điều tra có
thẩm quyền để xử lý theo đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, trong quá trình
cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra, xác minh lấy lời khai ban đầu, anh B cho
rằng anh B thấy xe ông A kiểu dáng, mẫu mã của xa đẹp nên chỉ muốn xem
tham khảo để mua. Quá trình ông H chứng kiến cũng chỉ thấy T đứng cạnh
16
chiếc xe máy chứ không thấy anh B có hành vi dịch chuyển tài sản của mình.
Như vậy, thông qua ví dụ trên thấy rằng, cơ quan điều tra không đủ căn cứ để
tiến hành anh B về hành vi trộm cắp tài sản theo tố giác của ông Nguyễn Văn A.
Thứ ba, đối tượng tác động của tội phạm là tài sản đang có chủ sở hữu
hoặc người quản lý tài sản.
Tài sản của người khác được hiểu là tài sản đang có chủ sở hữu hoặc
đang có người quản lý hợp pháp. Nó có thể là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp
pháp của cá nhân và tổ chức; là tài sản phải đang trong tầm kiểm soát của chủ
sở hữu, người quản lý tài sản hay cũng có thể là tài sản do chiếm hữu không
hợp pháp. Hành vi lấy tài sản không còn nằm trong sự quản lý của chủ tài sản
như tài sản bị bỏ quên, đánh rơi, tài sản vô chủ hoặc tài sản mà chủ sở hữu đã
từ bỏ quyền sở hữu thì không phải là hành vi trộm cắp tài sản mà có thể cấu
thành tội danh khác như tội chiếm giữ trái phép tài sản.
Tài sản là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản có thể là tài sản
hợp pháp tức là những loại tài sản được xác lập quyền sở hữu cho chủ sở hữu
theo các căn cứ: do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp;
được chuyển quyền sở hữu; thu hoa lợi, lợi tức; được thừa kế tài sản; chiếm
hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô chủ, vật bị đánh
rơi, bị bỏ quên…; chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay
tình, liên tục, công khai phù hợp với thời hiệu do BLDS quy định … hoặc có
thể là tài sản bất hợp pháp như do phạm tội, vi phạm pháp luật hành chính, vi
phạm pháp luật dân sự mà có. Tuy nhiên, do pháp luật hình sự không loại trừ
tính chất hợp pháp hoặc bất hợp pháp của đối tượng tác động của tội trộm cắp
tài sản. Vì vậy, tài sản hợp pháp hay bất hợp pháp đều có thể là đối tượng tác
động của tội trộm cắp tài sản. Chẳng hạn, Nguyễn Văn A lái xe mô tô chở Lê
Văn N ngồi phía sau áp sát vào xe của chị K để N giật sợi dây chuyền mà chị
N đeo trên cổ. Do trời tối nên cả 02 thỏa thuận, A sẽ giữ sợi dây chuyền, đến
sáng hôm sau sẽ mang đi bán chia nhau tiêu xài. Tuy nhiên, tối hôm đó, do A
17
ngủ say nên không cất sợi dây chuyền cẩn thận để Trần Văn L lén lút chiếm
đoạt. Do hàng xóm phát hiện nên L bị bắt giữ cùng tang vật. Theo định giá
của cơ quan chuyên môn, sợi dây chuyền có giá 12 triệu đồng. Trong trường
hợp này, rõ ràng sợi dây chuyền là tài sản bất hợp pháp (do phạm tội mà có của
A) nhưng L vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 173 BLHS nhằm mục
đích bảo vệ quyền sở hữu gốc về tài sản của chị N là quyền sở hữu tài sản của
chị đã bị A cướp giật tài sản và trong vụ này, ngoài ra A cũng sẽ bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội cướp giật tài sản theo quy định tại Điều 171 BLHS
Ngoài ra, nếu tài sản thuộc quyền sở hữu của người phạm tội không
được chuyển giao cho người khác quản lý nhưng vì một lý do nào đó mà thoát
khỏi (có thể chỉ là tạm thời) sự quản lý của người phạm tội và khi thực hiện
hành vi người phạm tội hoàn toàn không biết đó là tài sản của bản thân thì
người đó vẫn phạm tội trộm cắp tài sản. Ví dụ: T là người mê cờ bạc, rượu
chè nên bị nợ nần chồng chất. Các chủ nợ liên tục xiết nợ T. Để có tiền trả nợ,
T rủ D đi trộm tài sản nhà ông M. Nhân lúc ông M đang ngủ, T và D đã lẻn
vào nhà lấy trộm được một hộp bên trong đựng 01 chiếc nhẫn vàng 2 chỉ. Sau
khi chiếm đoạt được, T và D thỏa thuận T sẽ mang chiếc nhẫn này đi bán, tiền
kiếm được sẽ chia đôi. Nhưng khi về nhà, T nhận ra đó là chiếc nhẫn của
mình. Sáng hôm sau, T ra hiệu cầm đồ để cầm chiếc nhẫn, đang đi trên đường
thì bị Công an bắt về hành vi trộm cắp tài sản, tang vật lại chính là chiếc nhẫn
của T. Trong trường hợp này, mặc dù, chiếc nhẫn vàng là của T bị thất lạc
nhưng T vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản. Bởi vì,
dấu hiệu “tài sản của người khác” chỉ có giá trị đối với mặt chủ quan của
người phạm tội. Họ cho rằng đó là tài sản của người khác nên mới lén lút
chiếm đoạt, chứ không bắt buộc bản chất tài sản phải là của người khác, hơn
nữa, trường hợp này, tài sản đang thuộc quyền quản lý hợp pháp của ông M.
Cho nên, việc T chiếm đoạt được chính chiếc nhẫn của mình chỉ là sự ngẫu
nhiên chứ không phải là việc mà T đã ý thức được trước đó. Việc xác định
18
nguồn gốc tài sản chỉ có giá trị đối với vấn đề xử lý tài sản đó.
Ngoài ra đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản là tài sản đó vẫn
còn nằm trong sự quản lý của chủ sở hữu (trực tiếp hoặc gián tiếp), chưa thoát
ly khỏi chủ sở hữu. Đó là các loại tài sản chưa bị chấm dứt quyền sở hữu của
chủ sở hữu theo quy định như: Chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình; vật
bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di
chuyển tự nhiên. Trong các trường hợp này, nếu một người có hành vi lén lút
chiếm đoạt các tài sản này cũng không phạm tội trộm cắp tài sản. Bởi vì, chỉ
khi tài sản còn đang do chủ tài sản, người quản lý tài sản chiếm hữu thì hành
vi phạm tội mới có thể làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản, người
quản lý tài sản.
Thêm vào đó việc người có hành vi chiếm đoạt lén lút chiếm đoạt tài
sản mà có được chủ sở hữu, người quản lý tài sản chuyển giao hay không
chuyển giao cho họ đều là hành vi phạm tội. Tuy nhiên, dấu hiệu có chuyển
giao hay không là một trong các dấu hiệu quan trọng để phân biệt tội trộm cắp
tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp việc
chuyển giao không rõ ràng thì cần dựa vào tính chất, địa điểm đặt tài sản để
định tội. Trong trường hợp những tài sản được đặt ở nơi mà ai cũng có tiếp
cận (như xe mô tô, điện thoại bàn, máy vi tính, tivi…), không có sự cất giấu
thì người thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt vẫn phạm tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trường hợp, tài sản được chủ sở hữu cất giấu cẩn
thận (như: các vật trang sức, vàng bạc, tiền…) thì người có hành vi lén lút
chiếm đoạt tài sản sẽ phạm tội trộm cắp tài sản.
Chẳng hạn, A làm công cho nhà chị H. Do nhà vừa để ở vừa làm cửa
hàng mua bán hàng nên chị H thuê rất nhiều người làm phụ giúp. A được giao
cùng với một người làm công khác trông coi việc mua bán hàng, chiều tối nấu
ăn cho cả nhà. Làm được một thời gian, A lợi dụng những lúc người làm công
đi vệ sinh đã lấy thùng sữa tươi nhiều nhãn hiệu khác nhau đem ra ngoài.
19
Ngày 19/01/2012, khi A đang lén đưa hai thùng sữa thì bị phát hiện. Ngoài ra,
A còn khai nhận lấy 16 thùng sữa, trị giá gần 4,8 triệu đồng. Tuy nhiên, giữa
Viện kiểm sát và Tòa án xác định tội danh khác nhau. Trong khi, Viện kiểm
sát truy tố bị cáo về TTCTS nhưng Tòa án lại cho rằng bị cáo phạm tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp này, phải xác định A
phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản vì phải xác định các tài sản
trên đã được chị H giao cho A quản lý và chúng không được chủ sở hữu cất
giấu cẩn thận. Đối với trường hợp một người có hành vi lén lút chiếm đoạt tài
sản do người khác phạm tội mà có nếu người thực hiện hành vi chiếm đoạt
không được người phạm tội chuyển giao tài sản thì người có hành vi lén lút
chiếm đoạt tài sản phạm tội trộm cắp tài sản chứ không phải tội tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có.
Như vậy thông qua việc nghiên cứu đặc trưng cơ bản của hành vi trộm
cắp tài sản được đưa trong các quan điểm nêu trên, có thể hiểu một cách khái
quát “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác”.
Tuy nhiên để đưa ra được khái niệm về tội trộm cắp tài sản, trước hết cần
khẳng định tội trộm cắp tài sản phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội
phạm như sau: bình diện khách quan – tội phạm là hành vi nguyên hiểm cho
xã hội; bình diện pháp lý – tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; bình
diện chủ quan – tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự
và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi.
Theo đó, có thể đưa ra định nghĩa về tội trộm cắp tài sản như sau:
“Tội trộm cắp tài sản là hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội, được
quy định trong Bộ luật Hình sự, do người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và
có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện với lỗi cố ý tiếp xâm phạm đến
quyền sở hữu tài sản bằng hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu,
20
người quản lý tài sản hoặc người khác có liên quan”
1.2 Các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản trong pháp luật
hình sự Việt Nam
1.2.1 Khách thể của tội trộm cắp tài sản
Khách thể của các tội xâm phạm sở hữu là quyền sở hữu đối với tài sản
được Luật Hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại gây ra hoặc đe dọa gây ra
thiệt hại nhất định, trong đó bao gồm quyền sở hữu tài sản đối với tài sản của
Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Khách thể của tội trộm cắp tài sản cũng tương
tự như tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội trộm cắp tài sản không xâm
phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Đây cũng
là một điểm khác biệt của tội trộm cắp tài sản so với các tội danh khác, như
tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, đặc
điểm này được thể hiện trong cấu thành tội trộm cắp tài sản nhà làm luật
không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình
phạt. Vì vậy, nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị đuổi
bắt mà có hành vi chống trả để tẩu thoát, gây chết người hoặc gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể
mà người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người
hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
hoặc thuộc trường hợp định khung tang nặng hoặc thuộc trường hợp trộm cắp
tài sản chuyển hóa thành cướp tài sản.
Về đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản là tài sản. Như trên đã đề
cập, theo BLDS Việt Nam tài sản được định nghĩa như sau: “Tài sản là vật,
tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; Tài sản bao gồm bất động sản và động
sản, bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành
trong tương lai”. Cụ thể:
Vật với tư cách là tài sản được hiểu là đối tượng của thế giới vật chất
theo nghĩa rộng bao gồm cả động vật, thực vật, và tồn tại ở mọi trạng thái
21
(rắn, lỏng, khí). Tuy nhiên, để được coi là tài sản thì vật cũng phải thỏa mãn
được những đặc điểm của tài sản đã nêu ở trên. Ví dụ: nước trong một dòng
sông, không khí ngoài khí quyển không thể nằm trong sự kiểm soát, chi phối
của con người, do đó mặc dù cũng được coi là đối tượng tồn tại trong thế giới
vật chất nhưng chúng không được xem xét với tư cách là tài sản. Khi nước
được đóng vào chai, không khí được nén vào bình, con người có thể thực hiện
việc kiểm soát, chi phối chúng, khi đó nước và không khí lại được coi là tài
sản (tồn tại dưới dạng vật). Một điểm lưu ý nhất khi xem xét về vật đó là
không sử dụng tiêu chí “được giao lưu trong dân sự” để khẳng định vật nào là
tài sản. Ví dụ: ma túy là đối tượng bị cấm lưu thông, nhưng ma túy vẫn được
xem xét là một loại tài sản (được thể hiện cụ thể dưới dạng vật).
Tiền là một loại tài sản đặc biệt, có chức năng trao đổi ngang giá với
những loại tài sản khác. Tiền do Ngân hàng Nhà nước độc quyền phát hành và
được hiểu là Việt Nam đồng. Giá trị của tiền được thể hiện ở mệnh giá trên
chính đồng tiền đó. Tiền giữ chủ quyền quốc gia, có giá trị sử dụng ổn định và
được sử dụng rộng rãi trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Bên cạnh chức năng
trao đổi, tiền còn có chức năng dự trữ và thanh toán trên thị trường.
Giấy tờ có giá được hiểu là những giấy tờ trị giá được thành tiền và có
thể chuyển giao được trong giao dịch dân sự. BLDS 2015 không có quy phạm
pháp luật quy định về giấy tờ có giá mà quy định về loại tài sản này nằm rải
rác trong các văn bản pháp luật có liên quan. Theo đó có thể liệt kê một số
giấy tờ có giá như: cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kì phiếu, chứng chỉ tiền
gửi, séc, chứng chỉ ký quỹ…
Xét về mặt vật lý, tài sản là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản
phải tồn tại dưới hình thức động sản theo quy định tại Bộ luật dân sự. Những
tài sản thuộc loại bất động sản có tính chất vật lý cố định không di dời được
như đất đai, nhà cửa... không là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản.
Mặt khác, do pháp luật hình sự Việt Nam không có quy định loại trừ tính chất
22
hợp pháp hoặc bất hợp pháp của đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản
do vật tài sản hợp pháp hay bất hợp pháp đều có thể là đối tượng tác động của
tội phạm này. Ví dụ: Tại bản án 101/2019/HS-ST ngày 03/05/2019 về tội
trộm cắp tài sản của toà án nhân dân thị xã TA, tỉnh BD theo đó Nguyễn Văn
B lái xe mô tô chở Nguyễn Văn C ngồi phía sau áp sát vào xe của chị Nguyễn
Thị K để giật túi xách trong đó có nhiều tài sản có giá trị mà chị để ở cạnh xe.
Do trời tối nên cả 02 thỏa thuận với nhau, B sẽ giữ các túi xách để sáng hôm
sau sẽ mang tài sản bên trong đi bán để kiếm tiền tiêu xài cá nhân. Tuy nhiên,
tối hôm đó, do Nguyễn Văn B ngủ sau nên không cất giữ túi xách cẩn thận để
Trần Văn D lét lút lấy trộm. Được mọi người xung quanh phát hiện nên Trần
Văn D bị phát hiện sự việt. Theo kết luận định giá tài sản của Hội động đình
giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận tổng giá trị tài sản mà Trần Văn D
trộm cắp được có trị giá 25.000.000 (hai mươi lăm triệu đồng). Như vậy trong
trường hợp này, rõ ràng cái túi xách trong đó có nhiều tài sản có giá trị nói
trên là tài sản bất hợp pháp (thông qua hình thức phạm tội mà có) nhưng Trần
Văn D vẫn bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội trộm cắp tài sản.
1.2.2 Chủ thể của tội trộm cắp tài sản
Chủ thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm. Đây
là yếu tố đầu tiên, quyết định tới các yếu tố còn lại của cấu thành tội phạm bởi
nếu không có chủ thể của tội phạm thì sẽ không có các yếu tố thuộc mặt chủ
quan, không có hành vi phạm tội và do đó cũng không có sự xâm hại tới
khách thể được luật hình sự bảo vệ. Chủ thể của tội trộm cắp tài sản là chủ thể
thông thường, không phải là chủ thể đặc biệt. Điều luật sử dụng thuật ngữ
“người nào trộm cắp tài sản”. Người nào ở đây được hiểu là bất kì cá nhân
nào không phật giới tính, trình độ, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, dân tộc, tôn
giáo, đủ tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định của pháp luật
Đối với tội trộm cắp tài sản, chủ thể của tội phạm cũng tương tự như
đối với tội xâm phạm sở hữu khác. Tuy nhiên, người phạm tội từ đủ 14 tuổi
23
đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản
thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự,
vì khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là tội phạm ít nghiêm trọng và khoản 2
Điều 173 Bộ luật hình sự là tội phạm nghiêm trọng, mà theo quy định tại
khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa
đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng và
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng của tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS). Vì
vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội trộm cắp tài sản cần chú ý độ
tuổi của người phạm tội và các tình tiết định khung hình phạt. Nếu người
phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 173 Bộ luật
hình sự thì chỉ cần xác định người phạm tội đủ 14 tuổi là đã phải chịu trách
nhiệm hình sự, nhưng nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2
Điều 173 Bộ luật hình sự thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi mới phải chịu
trách nhiệm hình sự.
1.2.3 Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản
1.2.3.1 Về hành vi khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm
đoạt tài sản. Nếu như hành vi khách quan của các tội phạm khác thường tồn
tại dưới dạng hành động hoặc không hành động, thì hành vi khách quan của
tội trộm cắp tài sản chủ yếu tồn tại dưới dạng hàng động và được thể hiệu ra
bên ngoài thông qua các hoạt động nhất định như đột nhập… Hành vi lén lút
phải là sự giấu giếm vụng trộm lấy tài sản khi chủ sở hữu hoặc người quản lý
tài sản không biết mình bị mất tài sản, chỉ khi tài sản bị chiếm đoạt họ mới
biết tài sản đã bị mất. Hành vi lén lút ở đây không nhất thiết phải lén lút với
những người không phải là chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, hành vi
trộm cắp tài sản có thể được thực hiện một cách giấu giếm, vụng trộm, nhưng
có thể được thực hiện một cách công khai, giữa nơi đông người. Tuy nhiên,
24
việc giấu giếm hay công khai thì chúng đều có một đặc điểm chung thống
nhất đó là “lén lút” với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản.
Do đặc điểm của tội trộm cắp tài sản, nên người phạm tội chỉ có một hành vi
khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng hình thức lén
lút, với thủ đoạn lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người quản lý tài sản,
không trông giữ cẩn thận hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan khác như:
chen lấn, xô đẩy, nhằm tiếp cận tài sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt mà
người quản lý tài sản không biết. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta có thể
chứng kiến rất nhiều hành vi trộm cắp như: trộm cắp ở bến tầu, bến xe, nhà
ga, khách sạn, trong chợ, ngoài đường, trộm đêm, trộm ngày, trộm trên các
phương tiện giao thông... ở đâu, lúc nào cũng có thể xảy ra hành vi trộm cắp
tài sản. Tuy nhiên, không phải trường hợp phạm tội nào cũng giống nhau,
thực tiễn xét xử cho thấy có nhiều trường hợp dễ nhầm lẫn với các tội phạm
khác, có khi chúng ta xác định hành vi đó là tội trộm cắp, nhưng lại không
phải, ngược lại có trường hợp được xác định không phải là hành vi trộm cắp
tài sản nhưng sau đó, đối chiếu với các dấu hiệu của CTTP thì lại thỏa mãn
đầy đủ dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản. Đối với các trường hợp này thường
nhầm với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, tội chiếm giữ trái phép tài sản. Để xác định hành vi trộm
cắp tài sản và phân biệt tội trộm cắp với một số tội phạm khác gần kề, chúng
ta nghiên cứu một số dạng trộm cắp tài sản có tính chất đặc thù sau:
Thứ nhất, người phạm tội dùng những thủ đoạn gian dối để tiếp cận tài
sản để đến khi có điều kiện đã lén lút chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc
người quản lý tài sản.
Thứ hai, người phạm tội lợi dụng chỗ đông người, chen lấn, xô đẩy để
chiếm đoạt tài sản của người khác.
Thứ ba, người phạm tội lợi dụng người quản lý tài sản không có mặt ở
nơi để tài sản hoặc tài sản không có người trực tiếp quản lý (tài sản ở nơi công
25
cộng), nên đã chiếm đoạt.
Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản có sự khác biệt rất cơ bản
đối với hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 172 Bộ
luật hình sự. Đối với hành vi khách quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản đó là hành vi công khai, ngang nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác
do lợi dụng hoàn cảnh chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản đang trong tình
trạng không có điều kiện bảo vệ tài sản. Tính chất công khai, trắng trợn của hành
vi công nhiên chiếm đoạt tài sản thể hiện ở chổ người phạm tội không giấu giếm
hành vi phạm tội của mình trước trong và ngay sau khi bị mất tài sản người bị
hại biết được người lấy tài sản của mình (biết mà không thể giữ được).
Về điểm khác nhau giữa tội trộm cắp tài và tội công nhiên chiếm đoạt
tài sản, có thể thấy một số điểm khác biệt cơ bản như sau:
Thứ nhất, về hành vi khách quan, đối với hành vi khách quan của tội
trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, còn đối
với hành vi khách quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi công
khai, ngang nhiên chiếm đoạt tài sản ngay trước sự chứng kiến của chủ sở hữu
tài sản, người quản lý tài sản.
Thứ hai, ở tội trộm cắp tài sản, hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản được
thực hiện bằng khả năng không cho phép chủ sở hữu tài sản biết khi xảy ra
hành vi phạm tội hay nói cách khác khi xảy ra hành vi phạm tội trộm cắp tài
sản chủ sở hữu tài sản, người quản lý tài sản không hề biết tài sản của mình bị
chiếm đoạt mà chỉ sau khi tài sản đã bị chiếm đoạt thì họ mới biết. Còn ở tội
công nhiên chiếm đoạt tài sản, khi có hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản,
chủ sở hữu tài sản, người quản ý tài sản nhận biết được có hành vi chiếm đoạt
nhưng họ không có điều kiện bảo vệ tài sản của mình nên người thực hiện
hành vi mới công nhiên chiếm đoạt được tài sản mà không phải sử dụng bất kì
thủ đoạn để đối với phó chủ tài sản, người quản lý tài sản.
Xét ở mặt lí luận, chúng ta có thể dễ dàng phân biệt hai tội trên ở hành
26
vi phạm tội, nhưng trên thực tiễn áp dụng, các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng không dễ dàng gì phân biệt được chúng. Có những
trường hợp người phạm tội công khai ngang nhiên chiếm đoạt tài sản nhưng
không phải là hành vi công nhiên chiếm đọa tài sản mà là trộm cắp tài sản,
bởi vì tuy có hành vi công khai, ngang nhiên chiếm đoạt tài sản nhưng người
phạm tội chỉ công khai với người khác, còn đối với chủ sở hữu tàu sản người
phạm tội vẫn có ý thức lén lút khi chiếm đoạt tài sản.
1.2.3.2 Về hậu quả của tội phạm
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội trộm cắp tài sản là những thiệt
hại do người phạm tội gây ra cho khách thể của tội trộm cắp tài sản. Đối với
tội trộm cắp tài sản, người thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản, giá trị
tài sản bị chiếm đoạt phải đạt đến định mức nhất định mới đủ căn cứ để truy
cứu trách nhiệm hình sự. Trong nội dung điều luật quy định về tội trộm cắp
tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã sử dụng
thuật ngữ “trị giá”. Đây là một điểm tiến bộ về mặt kĩ thuật luật pháp ở nước
ta. Theo từ điển tiếng Việt “trị giá” được hiểu là thứ gì đó được định giá
thành tiền hoặc vật ngang giá có tính chất như tiền. Ví dụ: chiếc xe máy trị giá
15.000.000 đồng, tấm lụa Hà Đông có trị giá bằng 2 thúng thóc. Cần phải
nhấn mạnh rằng, thuật ngữ trị giá và giá trị hoàn toàn khác nhau. “Giá trị” là
cái làm cho một vật có lợi, có ý nghĩa, là đáng quý về một mặt nào đó. Chúng
ta hay sử dụng thuật ngữ giá trị cho các cụm từ: giá trị sử dụng, giá trị giáo
dục… Vệc dùng thuật ngữ “giá trị của tài sản bị chiếm đoạt” trong cấu thành
tội phạm của tội trộm cắp tài sản thực sự chưa chính xác. Do vậy việc Bộ luật
hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 sử dụng thuật ngữ “trị giá tài
sản bị chiếm đoạt” là một điểm mới tiến bộ thể hiện có sự thay đổi trong tư
duy nhận thức lập pháp ở nước ta.
Khoản 1 của điều luật quy định trị giá tài sản bị chiếm đoạt từ
2.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt
27
dưới 2.000.0000 đồng thì phải kèm theo điều kiện như đã bị xử phạt vi phạm
hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; Đã bị kết án về tội
này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 173,
174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc
gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; Tài sản là phương tiện
kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ. Đây là tội có cấu thành tội
phạm vật chất. Tội phạm hoàn thành khi có hậu quả xảy ra.
Các trường hợp định lượng tài sản ở tội trộm cắp tài sản thể hiện:
Trường hợp thứ nhất, tài sản trộm cắp có giá trị từ 2.000.000 đồng đến
dưới 50.000.000 đồng, và không thuộc các trường hợp quy định tại các khoản
khác của Điều luật, thì được điều chỉnh theo chế tài tại Khoản 1 của Điều luật.
Khi thông qua Bộ luật hình sự năm 1999, giá trị tài sản là 500.000 đồng làm
căn cứ để xem xét xử lý trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, sau thời gian thực
tiễn 10 năm triển khai Bộ luật hình sự, do sự phát triển kinh tế, thu nhập bình
quân cũng như sự trượt giá chung trong xã hội, mức quy định này không còn
phù hợp. Năm 2009, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật hình sự năm 1999. Theo đó, định lượng tối thiểu truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với một số tội quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999,
trong đó có tội trộm cắp tài sản (Điều 138) là 500.000 đồng được điều chỉnh
thành 2.000.000 đồng. Tại Bộ luật hình sự năm 2015, mức định lượng tài sản
này vẫn được giữ nguyên. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, ở một khía
cạnh khác- khía cạnh mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, việc định
lượng (2.000.000 đồng) cũng còn là một vấn đề cần phải xem xét. Nếu ở đô
thị, nơi có thu nhập bình quân đầu ngƣời cao, mức sống cao, thì việc bị trộm
cắp tài sản trị giá 2.000.000 đồng có mức độ ảnh hưởng đến người bị xâm hại
thấp hơn nhiều so với cùng vụ việc, nếu diễn ra ở nông thôn, nơi thu nhập
bình quân thấp, tức là mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau, nhưng chế tài
28
áp dụng lại giống nhau.
Trường hợp thứ hai: tài sản trộm cắp có giá trị dưới 2.000.000 đồng
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng. Thông tư liên tịch số 02/VKSTC-
TATCBCA-BQP-BTP ngày 25/12/2001 hướng dẫn áp dụng một số quy định
tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" qui định: Khi áp dụng các tình
tiết "gây hậu quả nghiêm trọng" từ Điều 133 đến Điều 140, Điều 142 và Điều
143 Bộ luật hình sự năm 1999 cần chú ý: Hậu quả phải do hành vi phạm tội
gây ra (có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả). Hậu quả
đó có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản hoặc hậu quả phi vật chất
(gây ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của
Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu về an ninh, trật tự, an toàn xã hội). Đối với tội
trộm cắp tài sản có quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt thì việc xác định hậu
quả thiệt hại về tài sản không phải căn cứ vào giá trị tài sản bị chiếm đoạt vì
giá trị tài sản này đã được quy định thành tình tiết định khung riêng biệt. Hậu
quả phải là thiệt hại về tài sản xảy ra ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Thông
thường người phạm tội trộm cắp tài sản thực hiện hành vi phạm tội của mình
một cách lén lút với chủ sở hữu, ngƣời quản lý tài sản hoặc người khác. Tuy
nhiên thiệt hại cho sức khỏe của người khác cũng có thể xảy ra đối với loại tội
phạm này Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn
cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực
hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an
ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng
tường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là
nghiêm trọng hay không. Tại Bộ luật hình sự năm 2015, tình tiết “gây hậu
quả nghiêm trọng” không còn được quy định như Bộ luật hình sự năm 1999,
mà quy định cụ thể, trực tiếp hơn, đó là: c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh,
trật tự, an toàn xã hội; d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của ngƣời bị
hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về
29
mặt tinh thần đối với người bị hại. (Điểm c, d, Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình
sự năm 2015). Quy định này đã khắc phục được hạn chế trong quy định của
BLHS năm 1999.
Trường hợp thứ ba: Tài sản trộm cắp có giá trị dưới 2.000.000 đồng
nhưng người phạm tội trước đó đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm
đoạt. Thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính được quy định
cụ thể tại Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Tại Bộ luật hình
sự năm 2015, nội dung quy định này vẫn được giữ tương tự Bộ luật hình sự
năm 1999.
Trường hợp thứ tư: Tài sản trộm cắp có giá trị dưới 2.000.000 đồng
nhưng người phạm tội trước đó đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản và chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm, thì hành vi này vẫn cấu thành tội trộm cắp
tài sản. Tính chất nguy hiểm cho xã hội của trường hợp chiếm đoạt này không
chỉ dựa vào giá trị tài sản chiếm đoạt mà còn dựa vào nhân thân người phạm
tội. Tại Bộ luật hình sự năm 2015, nội dung này được quy định cụ thể, rõ ràng
hơn, đó là: “Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các
điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được
xóa án tích mà còn vi phạm”.
Trường hợp thứ năm: Theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch số
02/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BCA-BTP người thực hiện hành vi trộm
cắp tài sản nhiều lần, bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản
tương ứng theo tổng giá trị tài sản các lần bị xâm phạm nếu: Các hành vi tội
trộm cắp tài sản được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời
gian; Việc thực hiện các hành vi tội trộm cắp tài sản có tính chất chuyên
nghiệp, lấy tài sản trộm cắp là nguồn sống chính; Mục đích tội trộm cắp tài
sản nhưng do điều kiện hoàn cảnh khách quan nên việc tội trộm cắp tài sản
30
được thực hiện nhiều lần nên giá trị tài sản mỗi lần lấy được dưới 2.000.000đ.
1.2.4. Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, là trạng thái
tâm lý của người, phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do người, đó
thực hiện và đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thể hiện ở dấu
hiệu lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội. Lỗi là dấu hiệu có trong tất
cả các cấu thành tội phạm. Luật hình sự Việt Nam không thừa nhận việc “quy
tội khách quan”, nghĩa là quy kết là tội phạm đối với một người chỉ trên cơ sở
hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội của người đó mà không quan tâm
đến việc người đó có lỗi hay không có lỗi. Việc thừa nhận nguyên tắc có lỗi
của tội phạm là nguyên tắc cơ bản khi xác định trách nhiệm hình sự xuất phát
từ mục đích của trách nhiệm hình sự, của hình phạt áp dụng “…không chỉ
nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý
thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội
mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng
ngừa và đấu tranh chống tội phạm” (Điều 31 BLHS). Dấu hiệu lỗi của tội
phạm được thể hiện trên các mặt là lý trí và ý chí. Lý trí thể hiện khả năng
nhận thức của một người đối với những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội khi thực
hiện hành vi nhất định. Ý chí thể hiện khả năng lựa chọn, điều khiển hành vi
của một người khi thực hiện hành vi nào đó trên cơ sở khả năng nhận thức
được ý nghĩa xã hội của hành vi của mình. Một người bị coi là có lỗi nếu
người đó thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có điều kiện cân
nhắc, lựa chọn quyết định thực hiện hành vi khác phù hợp với đòi hỏi (yêu
cầu) của xã hội. Đối với tội trộm cắp tài sản, người phạm tội thực hiện hành vi
lén lút chiếm đoạt tài sản trong khi nhận thức rõ được hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu của chủ sở hữu,
người quản lý tài sản nhưng vẫn mong muốn cho hậu quả đó xảy ra, mong
muốn chiếm đoạt được tài sản. Nói cách khác, lỗi của người phạm tội trộm
31
cắp tài sản là lỗi cố ý trực tiếp. Cũng như đối với tội có tính chất chiếm đoạt
khác, tội trộm cắp tài sản cũng được thực hiện do cố ý. Mục đích của người
phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản
của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt
sản. Vì vậy, có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của
cấu thành tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người
phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt
hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người
phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản, nếu
mục đich đó không cấu thành một tội phạm độc lập.
1.3 Lịch sử hình thành và phát triển của tội trộm cắp tài sản theo
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
1.3.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985
có hiệu lực thi hành
Ở nước ta, ngay từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, các văn bản thể
hiện chính sách hình sự đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu lần lượt
xuất hiện. Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/02/2019 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ban
hành quy định về các hành vi pháp hoại cộng sản; Sắc lệnh số 12 ngày
12/03/1949 quy định trừng trị các hành vi trộm cắp vật dung nhà binh trong
thời bình và thời kì chiến tranh; Sắc lệnh số 267 ngày 15/06/2019 trừng trị
những âm mưa và hành động phá hoạt tài sản của Nhà nước, Hợp tác xã và
của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch của Nhà nước
trong hoạt động xây dưng nền kinh tế, xã hội, văn hóa ở nước ta.
Từ khi Hiến pháp năm 1946 và 1959 lần lượt ra đời trong đó Đảng và
Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc bảo vệ quyền sở hữu tài sản theo đó tại
Điều 42 Hiến pháp năm 1959 quy định “Tài sản công cộng của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa là thiêng liêng không thể xâm phạm. Công dân có
nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng”. Trên tinh thần kế thừa tinh
32
thần của Hiến pháp năm 1959, ngày 21/10/1970, Ủy ban thường vụ Quốc hội
đã thông qua Pháp lệnh trừng trị các tội phạm xâm phạm tài sản xã hội chủ
nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân.
Nhìn chung, các tội phạm xâm phạm sở hữu có sự khác biệt giữa các tội xâm
phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và các tội phạm xâm phạm tài sản riêng của
công dân cụ thể các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa sẽ có mức hình
phạt cao hơn so với các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân.
Ngoài hai pháp lệnh trên, Ban bí thư Trung ương Đảng đã ra chỉ thị số
185 ngày 09/12/1970 về vấn đề tăng cường bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa
nhằm mục đích chỉ đạo thi hành nội dung của hai pháp lệnh trong thực tiễn.
Đến ngày 15/03/1976, Sắc lệnh số 03 quy định về tội phạm và hình phạt được
thông qua. Điều 4 Sắc lệnh số 03 quy định “Phạm các tội như: trộm cắp,
tham ô, lừa đảo, bội tín, cướp giật thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 07 năm.
Trường hợp nghiên trọng thì bị phạt đến 15 năm”
1.3.2 Giai đoạn ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Năm 1985 có thể nói làm một năm chứa đựng dấu mốc quan trọng đánh
dấu bước phát triển về kỹ thuật lập pháp trong lĩnh vực pháp luật hình sự ở
nước ta. Ngày 27/06/1985 Quốc hội đã thông qua Bộ luật hình sự năm 1985.
Đây là nơi tập hợp và thống nhất các quy định của pháp luật về hình sự. Là
công cụ quan trọng để các cơ quan tiến hành tố tụng đấu tranh phòng chống
tội phạm. Trên tinh thần kế thừa từ các văn bản hình sự có từ trước, Bộ luật
hình sự năm 1985 vẫn quy định về hai hình thức của tội phạm trộm cắp bao
gồm “Tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa” và “Tội trộm cắp tài sản của
công dân”. Hai hình thức của tội phạm trộm cắp nói riêng tuy khách thể của
hai tội danh này có sự khác nhau nhưng nhìn ching, trong cấu thành tội phạm
và cụ thể là mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể của tội phạm đều tương tự
nhau. Ngoài ra, hình phạt được áp dụng đối với tội trộm cắp tài sản xã hội chủ
nghĩa có mức hình phạt cao hơn so với tội phạm trộm cắp tài sản của công
33
dân.
Bộ phận cơ sở hạ tầng luôn vận động và phát triển, bộ phận kiến trúc
thượng tầng tất yếu cũng có sự thay đổi nhất định theo trên tinh thần loại bỏ
các quan điểm không phù hợp và tiếp thu những nhân tố tiến bố và có những
bổ sung. Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời trên tinh thần kế thừa và phát huy
nhiều điểm tiến bộ mà cụ thể tại Bộ luật hình sự năm 1999 đã thống nhất gộp
hai hành vi trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và trộm cắp tài sản công dân lại
thành một điều luật thống nhất tại Điều 138. Bên cạnh đó nếu như Bộ luật
hình sự năm 1985 cứ chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa hoặc tài sản của
công dân một cách trái pháp luật thì đã bị xem là tội phạm mà không cần quan
tâm đến giá trị tài sản đã bị chiếm thì đến Bộ luật hình sự năm 1999 đã có sửa
đổi mang tính đột phát theo đó đã quy định cụ thể những hành vi trộm cắp tài sản
nào là nguy hiểm đáng kể cho xã hội và bị coi là tội phạm; những hành vi nào là
nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa nguy hại đáng kể chưa đến mức phải chịu trách
nhiệm hình sự. Và tại Bộ luật hình sự năm 1999 giá trị tài sản đã bị chiếm đoạt là
căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự đối với hành vi trộm cắp tài sản.
Có thể nói Bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành đã góp phần quan
trọng trong việc quản lý xã hội, phòng ngừa đấu tranh tội phạm, giữ vững an
toàn, chính trị, trật tự an toàn xã hội, đóng góp to lớn vào công cuộc xây dựng
và bảo vệ tổ quốc. Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổ, bổ sung lần đầu
vào năm 2009, trong đó tội phạm trộm cắp tài sản có những điểm sửa đổi, bổ
sung quan trọng đó là sửa đổi mức định lượng giá trị tài sản tối thiểu bị chiếm
đoạt của hành vi trộm cắp tài sản, cụ thể sửa cụm từ “năm trăm nghìn đồng”
tại khoản 1 Điều 138 thành “hai triệu đồng”. Các nội dung còn lại của Điều
luật thì vẫn được giữ nguyên.
1.3.3 Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi
bổ sung năm 2017 đến nay
Trước sự đổi mới của các chính sách của Đảng và Nhà nước về mọi
34
mặt từ kinh tế, xã hội và pháp luật, đòi hỏi các quy định của pháp luật hình sự
phải không ngừng có những sửa đổi, bổ sung để đáp ứng cho yêu cầu đấu
tranh phòng chống tội phạm. Theo đó, trong báo cáo kết quả tổng kết thực
tiễn thi hành Bộ luật hình sự do Bộ tư pháp chủ trì. Tại kì họp quốc hội khóa
XIII ngày 27/11/2015 đã thông qua Bộ luật hình sự năm 2015 sau đó với
nhiều lẫn kiểm duyệt khắc ke, chiều ngày 20/06/2019, với tỉ lệ hơn 88% đại
biểu có mặt tán thành Luật sử đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự đã
được ban hành, sẽ có hiệu vào ngày 01/01/2018 và được gọi là Bộ luật hình
sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (sau đây gọi chung là Bộ luật hình sự
năm 2015). Điều 173 BLHS năm 2015 quy định:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000
đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về
hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; b) Đã bị kết án về tội này hoặc về
một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và
290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; c) Gây ảnh
hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; d) Tài sản là phương tiện
kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; đ) Tài sản là di vật, cổ vật.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Chiếm
đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; d) Dùng
thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ) Hành hung để tẩu thoát; e) Tài sản là bảo
vật quốc gia; g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
07 năm đến 15 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến
dưới 500.000.000 đồng; b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
12 năm đến 20 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
35
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng.”
Về cơ bản, tội trộm cắp tài sản tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015
đã có sự kế thừa Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, tuy nhiên có một số
điểm sửa đổi, bổ sung đáng chú ý như sau:
Về nội dung kế thừa:
Thứ nhất, giữ nguyên giá trị tài sản bị chiếm đoạt là từ 2.000.000 đồng
hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm
đoạt hoặc đã bị kết án về tội này mà tái phạm khi chưa được xóa án tích.
Thứ hai, giữ nguyên các khung hình phạt (gồm 01 khung hình phạt cơ
bản và 03 khung hình phạt tăng nặng).
Thứ ba, kế thừa các tình tiết định khung hình phạt. Nhìn cung, các tình
tiết định khung hình phạt về cơ bản đã được giữ lại như phạm tội có tổ chức
hay phạm tội có tính chất chuyên nghiện, hành hung để tẩu thoát…
Thứ tư, giữ nguyên hình phạt bổ sung được áp dụng là hình phạt tiền từ
5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Về nội dung sửa đổi, bổ sung:
Thứ nhất, có sự đổi mới về kỹ thuật lập pháp trong đó tại khoản 1 Điều
173 Bộ luật hình sự đã bổ sung các khoản a, b, c, d. Sự sửa đổi này là hoàn
toàn phù hợp vì nó mang tính logic và khoa học trong việc xây dựng các Điều
luật.
Thứ hai, đối với trường hợp phạm tội trộm mà giá trị tài sản chiếm đoạt
dưới 2.000.000 đồng ngoài hai trường hợp được kế thường từ Điều 138 Bộ
luật hình sự năm 1999 thì Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung hai
trường hợp định tội đó là “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã
hội; Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình của
36
họ; Tài sản là di vật, cổ vật” (các điểm c, d khoản 1 Điều 173).
Thứ ba, đối với các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng từ 02 năm
tù đến 07 năm tù: Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung thêm tình tiết định
khung tăng nặng là “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới
37
200.000.000 đồng” (điểm c khoản 2 Điều 173).
Tiểu kết chương 1
Các tội xâm phạm sở hữu nói chung, Tội trộm cắp tài sản nói riêng đều
là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự,
xâm phạm đến quan hệ sở hữu về tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức mà
theo quy định của Bộ luật Hình sự phải bị xử lý hình sự. Trong chương 1 của
Luận văn, tác giả đã nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về
tội trộm cắp tài sản, cụ thể:
1. Luận văn đã đưa ra được khái niệm về tội trộm cắp tài sản được xây
dựng từ đặc trưng của tội trộm cắp tài sản rút ra từ những quan điểm của các
học giả đã đi trước nghiên cứu, theo đó: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi
nguy hiểm đáng kể cho xã hội, được quy định trong Bộ luật Hình sự, do
người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình
sự, thực hiện với lỗi cố ý tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản bằng
hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu, người quản lý tài sản
hoặc người khác có liên quan”.
2. Việc quy định hành vi trộm cắp tài sản được Bộ luật Hình sự quy
định là tội phạm có ý nghĩa quan trọng: là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ
quyền sở hữu của Nhà nứớc, của cơ quan, của tổ chức và công dân khỏi sự
xâm hại của tội phạm; Nhà nước ta ghi nhận đây là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, người thực hiện hành vi phạm tội này phải bị trừng trị một cách nghiêm
khắc nhất; có ý nghĩa trong việc giáo dục ý thức pháp luật của người dân,
nâng cao hơn nữa hiệu quả công cuộc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm hiệu
quả, đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã hội, từng bước hạn chế, đẩy lùi và
tiến tới loại bỏ tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội.
3. Luận văn đã nghiêu cứu vài nét về lịch sử pháp luật hình sự Việt
Nam đối với tội trộm cắp tài sản, qua đó thấy rằng, pháp luật hình sự Việt
Nam từ năm 1945 đến nay luôn có các quy định liên quan đến Tội trộm cắp
38
tài sản từ những sắc lệnh, sắc luật, pháp lệnh cho đến việc pháp điển hóa
thành những quy định của Bộ luật Hình sự thể hiện rõ chính sách hình sự của
Đảng và Nhà nước trong công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này;
4. Trên cơ sở kế thừa và phát huy có chọn lọc quy định trong các thời
kỳ trước, Bộ luật hình sự năm 2015 đã xây dựng quy định về Tội trộm cắp tài
sản một cách chi tiết, rõ ràng, tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan tiến hành tố
tụng áp dụng giải quyết nhanh chóng, kịp thời một số vụ án nhất định để
39
những cơ quan này có điều kiện giải quyết các vụ án khác phức tạp hơn.
Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN ĐỐNG ĐA –
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội và tình
hình giải quyết các vụ án hình sự trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành
phố Hà Nội
Về đặc điểm tự nhiên: Quận Đống Đa nằm ở trung tâm thủ đô Hà Nội.
Phía bắc giáp quận Ba Đình (ranh giới là phố Nguyễn Thái Học, Giảng Võ,
Láng Hạ, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyên Hồng, Đê La Thành), phía đông bắc
giáp quận Hoàn Kiếm (ranh giới là phố Lê Duẩn), phía đông giáp quận Hai
Bà Trưng (ranh giới là phố Lê Duẩn, đường Giải Phóng và phố Vọng), phía
nam giáp quận Thanh Xuân (ranh giới là đường Trường Chinh, đường
Nguyễn Trãi và sông Tô Lịch), phía tây giáp quận Cầu Giấy (ranh giới là
sông Tô Lịch). Địa hình quận Đống Đa tương đối bằng phẳng. Có một số hồ
lớn như hồ Ba Mẫu, hồ Kim Liên, hồ Xã Đàn, hồ Đống Đa, hồ Văn Chương.
Trước có nhiều ao, đầm nhưng cùng với quá trình đô thị hóa đã bị lấp. Quận
có hai sông nhỏ chảy qua là sông Tô Lịch và sông Lừ. Phía đông có một vài
gò nhỏ, trong đó có gò Đống Đa. Quận Đống Đa có 21 phường: Cát Linh,
Hàng Bột, Khâm Thiên, Khương Thượng, Kim Liên, Láng Hạ, Láng Thượng,
Nam Đồng, Ngã Tư Sở, Ô Chợ Dừa, Phương Liên, Phương Mai, Quang
Trung, Quốc Tử Giám, Thịnh Quang, Thổ Quan, Trung Liệt, Trung Phụng,
Trung Tự, Văn Chương, Văn Miếu.
Về kinh tế: Kinh tế quận tiếp tục tăng trưởng khá, thu ngân sách quận
ước thực hiện đến hết ngày 27/11/2018 hơn 10.146 tỷ đồng (đạt 120,61% kế
hoạch) và ước thực hiện năm 2018 đạt hơn 10.623 tỷ đồng (đạt 126,3% kế
40
hoạch); tổng giá trị sản xuất trên địa bàn quận ước đạt 268.152 tỷ đồng; giá trị
sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn ước thực hiện đạt khoảng
14.250 tỷ đồng (tăng 6,64% so với năm 2017); tỷ lệ hồ sơ nộp trực tuyến của
quận trên tất cả các lĩnh vực đạt 100%, mức độ hài lòng của người dân đạt
91,56%... Sức mạnh nội lực của quận Đống Đa thể hiện khá rõ trong những
năm gần đây khi Quận luôn duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định.
Theo báo cáo của UBND quận, Đảng ủy và UBND quận Đống Đa đã tập
trung đổi mới mô hình tổ chức quản lý cho các doanh nghiệp, hộ gia đình
tham gia hoạt động dịch vụ, thương mại trên địa bàn quận. Ngành dịch vụ,
thương mại của phường có bước phát triển vượt bậc và chiếm tỷ trọng cao
trong cơ cấu kinh tế của quận. Số lựợng doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực
dịch vụ, thương mại tăng nhanh. Quận đã tập trung đầu tư nhiều công trình hạ
tầng kỹ thuật xã hội, sắp xếp lại các chợ, xây dựng và duy trì các tuyến phố
kinh doanh văn minh đô thị - thương mại, đảm bảo an ninh trật tự và môi
trường kinh doanh để khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành
phần kinh tế, các loại hình kinh doanh dịch vụ, thương mại phát triển, đẩy
mạnh các hoạt động kinh tế. Về xây dựng và quản lý đô thị, trong thời gian
qua, Quận đã chủ động phối hợp với các sở, ban ngành của Thành phố để
thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020. Thực
hiện kế hoạch số 01/KH-BCĐ ngày 30/3/2018 của Ban chỉ đạo 197 Thành
phố về tăng cường đôn đốc, kiểm tra, xử lý, giải quyết vi phạm về trật tự an
toàn giao thông, trật tự đô thị, trật tự xây dựng và vệ sinh môi trường trên địa
bàn Thành phố; Mệnh lệnh số 02/ML-CAHN-PV11 ngày 16/3/2018 của giám
đốc Công an Thành phố Hà Nội về tăng cường đảm bảo an toàn giao thông,
trật tự đô thị trên địa bàn năm 2018. Chỉ đạo tăng cường tuần tra, kiểm soát,
phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm; kiên quyết xử lý đối với các lỗi
vi phạm là nguyên nhân chính, trực tiếp dẫn đến un, tắc giao thông.
Về văn hóa xã hội: Thực hiện theo chương trình số 04-CT/TU của
41
Thành ủy về Phát triển văn hóa – xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh giai đoạn 2016-2020 đến nay đã
được triển khai ở quận Đống Đa. Quận Đống Đa đã triển khai nhiều giải pháp
thiết thực, cụ thể nhằm thực hiện các nội dung, mục tiêu của chương trình 04-
CT/TU theo lộ trình từng giai đoạn. Đến nay các di sản văn hóa trên địa bàn
luôn được bảo tồn, phát huy giá trị; các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục
thể thao quần chúng phát triển mạnh; phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh… được đông
đảo nhân dân đồng tình hưởng ứng… Thời gian qua, phong trào Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Năm
2017 có 84.469 gia đình đăng ký xây dựng Gia đình Văn hóa, kết quả có trên
90 % số hộ đăng ký đã đạt danh hiệu Gia đình Văn hóa. 902 tổ dân phố đăng
ký tổ dân phố Văn hóa, có 81 % số tổ đã đạt danh hiệu Tổ dân phố Văn hóa.
Việc đảm bảo trật tự và văn minh đô thị được thực hiện tốt. Đến nay quận và
các phường đã điều chỉnh lại theo đúng quy định 114 biển hiệu; thành lập 02
tổ công tác kiểm tra, xử lý cắt dỡ 2.872 biển dọc, biển vẫy sai quy định; tháo
dỡ 1.445 mái che, mái vẩy, mái hiên di động; phá dỡ hơn 3.951 bục bệ, cầu
dẫn sai quy định, bóc, xóa trên 95% quảng cáo rao vặt tại các mặt phố, đầu
ngõ phố và trên 85% quảng cáo rao vặt trong ngõ phố, khu dân cư, thống kê
đề xuất Sở Thông tin và truyền thông xử lý 64 số điện thoại quảng cáo rao
vặt. Việc thực hiện nếp sống văn minh được đẩy mạnh. Việc chăm sóc sức
khỏe nhân dân cũng được quan tâm với việc cải cách thủ tục khám, chữa bệnh
nhằm tạo điều kiện cho nhân dân. Trung tâm Y tế quận và các phường được
trang bị đầy đủ các trang thiết bị y tế hiện đại phục vụ công tác khám, điều trị
bệnh nhân. Quận Đống Đa đã cấp phát 5.725 thẻ bảo hiểm y tế cho người có
công, 2.471 thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi. Bên cạnh đó, ngành y tế
quận còn tổ chức khám sức khỏe cho học sinh tại các trường mầm non, tiểu
học, THCS, THPT đạt 98,7%; Sự nghiệp giáo dục và đào tạo của Đống Đa
42
được phát huy. Đến nay, 100% trường học có phòng tin học, phòng học ngoại
ngữ. Chất lượng giáo dục và đào tạo tốt, quận Đống Đa tiếp tục là một trong các
đơn vị dẫn đầu Thành phố về phong trào Học sinh giỏi, Giáo viên dạy giỏi.
Để đảm bảo thực hiện tốt công tác phòng, chống tội phạm trộm cắp tài
sản, góp phần đảm bảo tình hình trật tự xã hội địa bàn, Các ban ngành trên địa
bàn Quận luôn tiếp tục triển khai, thực hiện nhiều giải pháp đấu tranh, kiềm
chế kéo giảm loại tội phạm này, nổi bật như: Tiếp tục thực hiện Kế hoạch
phòng ngừa, đấu tranh chống đối tượng trộm cắp vặt; thực hiện Đề án tăng
cường quản lý, giáo dục, cảm hóa thanh thiếu niên vi phạm pháp luật để đưa
đối tượng trộm cắp vào diện quản lý, theo dõi và cảm hóa, giúp đỡ; tăng
cường tuyên truyền qua Đài Truyền Thanh; tranh thủ nguồn kinh phí để lắp
đặt Camera giám sát an ninh phục vụ công tác phòng, chống trộm cắp tài
sản,… Tội phạm trộm cắp còn xảy ra nhiều, phần lớn là do ý thức bảo quản
tài sản của người dân vẫn còn thấp, nhất là địa bàn khu vực nông thôn, vùng
sâu, vùng xa. Tập quán sản xuất của người dân trên địa bàn mang tính nhỏ lẻ,
công cụ, tư liệu sản xuất để phân tán, rơi vãi nhiều nơi nên việc tự phòng, tự
quản tài sản chưa cao. Có một số vụ việc trộm cắp xảy ra nhưng người dân
không trình báo, hoặc trình báo không kịp thời do sợ mất thời gian làm việc
với Công an hoặc bị hại tự khắc phục với đối tượng phạm tội do quen biết,
người cùng địa phương.
Về tình hình điều tra truy tố, xét xử vụ án hình sự trên địa bàn Quận
Đống Đa: căn cứ vào số liệu thống kê tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự
sơ thẩm trên phạm vi Quận Đống Đa các năm, từ năm 2015 đến năm 2019 từ
phòng thống kê tội phạm và công nghệ thông tin Viện kiểm sát nhân dân
Thành phố Hà Nội số liệu cụ thể như sau:
- Năm 2015, Quận Đống Đa đã thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm
629 vụ án hình sự, với 766 bị can.
- Năm 2016, Quận Đống Đa đã thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm
43
536 vụ án hình sự, với 708 bị can.
- Năm 2017, Quận Đống Đa đã thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm
560 vụ án hình sự, với 753 bị can.
- Năm 2018, Quận Đống Đa đã thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm
576 vụ án hình sự, với 632 bị can.
- Năm 2019, Quận Đống Đa đã thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm
583 vụ án hình sự, với 782 bị can.
Qua số liệu thống kê trên thấy, tình hình điều tra truy tố, xét xử vụ án
hình sự trên địa bàn Quận Đống Đa có xu hướng tăng dần về số vụ. Công tác
cải cách tư pháp, đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn Quận Đống
Đa tiếp tục tăng cường. Tuy nhiên, tình hình diễn biến về tội phạm trên địa
bàn Quận có chiều hướng gia tăng. Tội phạm hoạt động với phương thức mới
ngày càng phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn.
2.2. Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận
Đống Đa – Thành phố Hà Nội
2.2.1 Những kết quả đạt được trong định tội danh tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội
Trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa –Thành phố Hà Nội có
diện biến phức tạp. Thời gian qua các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn
Quận Đống Đa –Thành phố Hà Nội đã có nhiều biện pháp tích cực xử lý và
đấu tranh loại tội phạm này nhằm đảm bảo việc xử lý hành vi trộm cắp tài sản
được công minh, đúng người, đúng tôi, đúng pháp luật, góp phần giữ vững
tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
Căn cứ vào số liệu thống kê tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự sơ
thẩm trên địa bàn Quận Đống Đa trong 05 năm, từ năm 2015 đến năm 2019 từ
phòng thống kê tội phạm và công nghệ thông tin Viện kiểm sát nhân dân
Thành phố Hà Nội cho thấy tội trộm cắp tài sản trong thực tiễn với số liệu cụ
44
thể như sau:
Bảng số 2.1: Tổng số vụ án, số bị cáo bị xét xử về tội trộm cắp tài sản
trong tương quan với các tội phạm xâm phạm sở hữu khác trên địa bàn
Quận Đống Đa – Thành phố HN từ năm 2015 đến năm 2019
Tội trộm cắp tài sản
Các tội xâm phạm sở hữu khác
Số bị cáo
Số vụ 145 123 133 160 143 704
160 127 124 133 158 702
Số vụ 191 180 193 226 172 962
Số bị cáo 226 204 195 197 137 959
Năm 2015 2016 2017 2018 2019 Tổng
cộng
(Nguồn: Phòng thống kê tội phạm và công nghệ thông tin Viện kiểm
sát nhân dân Thành phố Hà Nội)
Nhìn vào bảng 1 về tổng số vụ án, số bị cáo bị xét xử về tội trộm cắp tài
sản trong tương quan với các tội phạm xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận
Đống Đa – Thành phố HN từ năm 2015 đến năm 2019 nhận thấy: Số vụ án
cũng như số bị can phạm tội trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ lớn trong nhóm tội
phạm xâm phạm sở hữu tại Quận Đống Đa. Điều đó chứng tỏ, loại tội phạm
này luôn duy trì ở mức độ cao. Cụ thể tổng số vụ phạm tội trộm cắp tài sản
chiếm tỉ lệ 70% đối với số vụ và 65% đối với số bị can.
Bảng 2.2: Số vụ án hình sự bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội trộm
cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố HN từ năm 2015
đến năm 2019
Năm
Số vụ và số bị can đã bị khởi tố, điều tra
Số vụ và số bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm
2015 2016 2017 2018 2019 Tổng cộng
Số vụ 145 123 133 160 143 704
Số bị can 160 127 124 133 158 702
Số vụ 103 106 109 111 113 542
Số bị cáo 128 137 129 144 135 673
(Nguồn: Phòng thống kê tội phạm và công nghệ thông tin Viện kiểm
45
sát nhân dân Thành phố Hà Nội)
Nhìn vào bảng 2 về số vụ án hình sự bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về
tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố HN từ năm 2015 đến
năm 2019 nhận thấy: trong vòng 5 năm từ năm 2015 năm 2019. Cụ thể, theo số
liệu về khởi tố điều tra 704 vụ với 702 bị can về tội trộm cắp tài sản thì đưa ra xét
xử có 542 vụ (chiếm tỉ lệ 76%) và 673 bị cáo (95%). Điều này cho thấy rằng các
việc giải quyết các vụ hình sự về tội trộm cắp tài sản được giải quyết hiệu quả trên
thực tiễn. Ngoài ra tội trộm cắp tài sản là một trong những tội phạm phổ biến
trong tổng số các loại tội phạm xảy ra trên địa bàn Quận Đồng Đa
Thực tế cho thấy, qua 5 năm (từ 2015 đến năm 2019), Quận Đống Đa
chưa có vụ án trộm cắp tài sản nào bị hủy. Số vụ án bị cải sửa theo thủ tục phúc
thẩm không nhiều, chủ yếu là cải sửa theo hướng giảm nhẹ hình phạt hoặc sửa
theo hướng cho hưởng án treo do phát sinh thêm một số tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự hoặc do hội động xét xử cấp phúc thẩm đánh giá tính chất, mức
độ, hậu quả của hành vi mà xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bảng 2.3: Kết quả xét xử phúc thẩm các vụ án phạm tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố HN từ năm 2015 đến năm 2019
Kết quả Tòa án cấp phúc thẩm xét xử phúc thẩm.
Năm
Y án
Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án;
Sửa bản án theo hướng tăng nặng TNHS
Đình chỉ việc xét xử phúc thẩm.
Số vụ có kháng cáo, kháng nghị
Sửa bản án theo hướng Giảm nhẹ TNHS
Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại;
04 00 10 00 07 00 05 00 03 00 29 00
02 01 03 01 03 10
00 00 00 00 00 00
06 07 04 09 08 34
00 00 00 00 00 00
2015 12 2016 18 2017 14 2018 15 2019 14 73 Tổng cộng
(Nguồn: Phòng thống kê tội phạm và công nghệ thông tin Viện kiểm
46
sát nhân dân Thành phố Hà Nội).
Nhìn chung, chưa có trường hợp nào bị xét xử oan hoặc bỏ lọt tội
phạm, thực hiện đúng và đầy đủ các thủ tục tố tụng hình sự, không để án quá
thời hạn luật định. Cơ quan tiến hành tố tụng ở Quận Đống Đa tuân thủ
nghiêm túc các quy định của BLHS, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp
luật, đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội, nhân thân người phạm tội, từ đó đưa ra mức hình phạt tương xứng với
hành vi phạm tội của bị cáo, đảm bảo tác dụng tuyên truyền, giáo dục và cải
tạo người phạm tội được quy định tại Điều 138 BLHS năm 1999 và Điều 173
BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Ví dụ như Bản án số: 189/2019/HSST ngày 16/9/2019 của TAND
Quận Đống Đa như sau: ngày 18/6/2019 bà Nguyễn Hồng X sinh năm 1975,
trú tại: phường Kim Liên, Quận Đống Đa, Hà Nội có đơn trình báo cơ quan
điều tra, Công an Quận Đống Đa về việc: Khoảng 13 giờ ngày 17/6/2019 bà
X cùng con gái là Nguyễn Thị Thu V, sinh năm 2005 ngủ trưa tại nhà ở Tổ
47, phường Kim Liên, Quận Đống Đa, Hà Nội, khi đi ngủ bà X có để 01 chiếc
điện thoại Oppo F3- plus màu hồng nhạt, có lắp sim số 01666385263 ở dưới
chiếu cạnh vị trí ngủ. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, bà X tỉnh dậy phát hiện
bị mất chiếc điện thoại. Sau đó, bà X có nhờ anh Nguyễn Xuân H, sinh năm
1995, là hàng xóm kinh doanh Internet có lắp máy camera ở ngoài cửa kiểm
tra lại hình ảnh của quán. Quá trình kiểm tra phát hiện khoảng 14 giờ 10 phút
ngày 17/6/2019 có 01 thanh niên đi xe máy Honda Vision: 19D1-086.29 mặc
áo kẻ sọc, mặc quần ngố, đi dép quai hậu đến và vào quán của bà X, sau đó
thanh niên phóng xe đi về. Anh H cho bà X mượn điện thoại chụp lại hình
ảnh của nam thanh niên và chiếc xe máy trên màn hình rồi đi rửa. Bà X đến
cơ quan công an Quận Đống đa trình báo, kèm theo ảnh về đối tượng thanh
niên khả nghi. Sau khi tiếp nhận đơn trình báo, cơ quan điều tra đã áp dụng
các biện pháp điều tra để xác định được người phạm tội trộm cắp tài sản nêu
47
trên. Quá trình điều tra xác định được: Khoảng 18 giờ ngày 27/6/2019, Hoàng
Mạnh C, sinh năm 1987, hiện đang ở xã Kim Nỗ, huyện Đông Anh, Hà Nội
có chở ông Vũ Hữu Q sinh năm 1957, bằng xe máy BKS:19K1- 086.29 thì bị
lực lượng công an phát hiện và mời về trụ sở làm việc. Tại cáo trạng số
125/CT -VKS ngày 29 tháng 8 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận Đống
đa, thành phố Hà Nội đã truy tố Hoàng Mạnh C về tội “Trộm cắp tài sản” theo
khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
* Trong vụ án này, khi quyết định hình phạt TAND Quận Đống Đa đã
căn cứ quyết định hình phạt như sau:
- Về căn cứ vào các quy định của BLHS: Tại phiên toà bị cáo khai nhận
hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu lời khai của bị cáo tại
phiên toà phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình
điều tra vụ án. Do đó xác định được: Khoảng15 giờ ngày 17 tháng 6 năm
2019, tại nhà bà Nguyễn Hồng X ở phường Kim Liên, Quận Đống Đa, Hà
Nội, lợi dụng sự sơ hở của bà X, Hoàng Mạnh C có hành vi lén lút trộm cắp
chiếc điện thoại OPPO F3 màu hồng, số IMEL1: 863660031596619, số
IMEL2: 863660031596601 trị giá 5.650.000 đồng của bà X để ở chiếu duới
nền nhà. Vì vậy, đủ cơ sở kết luận Hoàng Mạnh C phạm tội “Trộm cắp tài
sản” theo hoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự, điều khoản này quy định hình
phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Về căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì chẳng những đã xâm
phạm đến quyền sở hữu tài sản của người hác được pháp luật bảo vệ, mà còn
gây mất trật tự trị an xã hội trên địa bàn Quận Đống Đa. Bị cáo nhận thức
được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Xong do tham lam tư lợi và coi
thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố tình phạm tội.
- Về căn cứ vào nhân thân người phạm tội: Bị cáo có quá trình nhân
thân xấu: Ngày 14/9/2004, Tòa án nhân dân Quận Đống Đa, thành phố Hà
48
Nội xử phạt 08 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Ngày 29/11/2004 TAND
Quận Đống Đa, Hà Nội xử phạt 08 tháng tù về tội cưỡng đoạt tài sản. Tổng
hợp hình phạt 08 tháng tù của bản án này và hình phạt 08 tháng tù của bản án
ngày 14/9/2004. Buộc Hoàng Mạnh C phải chấp hành hình phạt chung cho cả
hai bản án là 16 mười sáu) tháng tù. Bị cáo nộp án phí ngày 12/8/2005, chấp
hành xong hình phạt tù ngày 30/8/2005. Ngày 26/11/2008, Tòa án nhân dân
thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản,
nộp án phí ngày 27/5/2009, chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/6/2009. Mặc
dù các bản án này đã được xóa án, nhưng thể hiện thái độ không chịu tu
dưỡng của bị cáo. Chính vì vậy cần phải xử lý bị cáo nghiêm minh trước pháp
luật mơsi có tác dụng giáo dụng riêng và phòng ngừa chung.
- Về căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS: bị cáo đã
thành khẩn hai báo và ăn năn hối cải, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn,
tài sản đã được thu hồi trả cho người bị hại, gia đình bị cáo bồi thường toàn
bộ cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Do đó, áp dụng các tình tiết
giảm nhẹ được quy định tại điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình
sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện tính nhân đạo của
pháp luật. Căn cứ vào các lý do trên đây khi quyết định hình phạt, TAND
Quận Đống đa đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Hoàng Mạnh C phạm tội
“Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm g, p khoản 1, khoản 2
Điều Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Hoàng Mạnh C 08 (Tám) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 6 năm 2019. Nghị quyết số 326 ngày
30/12/2016 của y ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; Tịch thu tiêu hủy: 01 mũ
lưỡi trai màu đen; 01 áo sơ mi kẻ caro màu đen tr ng; 01 đôi dép quai hậu; 01
chiếc điện thoại HT Desire HD A9191 đã bị rạn vỡ màn hình, có lắp sim số
thuê bao 01627469979 (Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng ngày
49
30/8/2019 giữa Công an Quận Đống Đa và chi cục thi hành án dân sự Quận
Đống Đa. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự
sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước.
Trong thời gian qua, cùng với những định hướng phát triển đúng đắn của
Đảng và Nhà nước, Quận Đống Đa đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng
trong mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Tuy nhiên cùng với sự phát triển
của nền kinh tế thì tình hình tội phạm cũng có chiều hướng gia tăng và diễn
biến ngày càng phức tạp với tính chất và mức độ nguy hiểm ngày càng cao.
Hằng năm, các cơ quan tư pháp của Quận phải giải quyết một số lượng khá
lớn các vụ án hình sự trong đó giải quyết nhiều đối với các vụ án về tội trộm
cắp tài sản. Các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm
vụ của mình. Tòa án nhân dân Quận Đống Đa đã đưa ra xét xử các bị cáo về
tội trộm cắp tài sản với mức hình phạt được tác giả thống kê như sau:
Bảng 2. 4: Thống kê chế tài được áp dụng khi giải quyết tội trộm cắp tài
sản trên địa bàn quận Đống Đa từ năm 2015 đến năm 2019
NĂM
CHẾ TÀI ÁP DỤNG
Tù giam
Án treo
CTKGG
HP. tiền
2015
120
08
00
00
2016
135
02
00
00
2017
125
04
00
00
2018
139
05
00
00
2019
00
00
00
Tổng số
644 bc
19 bc
00 bc
00 bc
135
Đa phần các vụ án về tội trộm cắp tài sản đều được Tòa án áp dụng
mức hình phạt là hình phạt tù giam có thời gian. Điều này tương xứng với
tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của các bị cáo đã gây ra.
Ví dụ: Bản án số: 156/2019/HSST ngày 02-8-2019. của TAND quận
Đống Đa như sau: Ngày 14/3/2019, Vũ Mạnh H điều khiển mô tô Honda
50
Wave BKS: 29D2-217.36 đi ngang qua khu vực tập thể Thể thao số 06 phố
Hàng Cháo, phường Cát Linh, quận Đống Đa, Hà Nội. Phát hiện tại đây có 01
xe mô tô Honda SH150, màu đỏ đen, BKS: 29E2- 049.67 của ông Trần Hoài
Trung (sinh năm 1967, trú tại số 06 Hàng Cháo, phường Cát Linh, quận Đống
Đa, Thành phố Hà Nội) để ở khu vực gần chân cầu thang khu tập thể, H nảy
sinh ý định trộm cắp chiếc xe. H để chiếc xe mô tô Honda Wave BKS: 29D2 -
217.36 cạnh bờ tường bên phải của khu tập thể rồi tiến lại gần chiếc Honda
SH150 thấy không khóa cổ và khóa càng xe, H đã dắt chiếc mô tô và cất giấu
tại khu vực ngõ 139Y Nguyễn Thái Học, Điện Biên, Ba Đình, Hà Nội. Sau
khi cất giấu chiếc mô tô SH150 trên, H quay lại khu tập thể lấy chiếc mô tô
Honda Wave BKS: 29D2- 217.36 thì bị ông Trần Hoài Trà công an phường
Cát Linh phối hợp bắt giữ. Tại cơ quan công an Vũ Mạnh H khai nhận: Ngoài
hành vi trộm cắp tài sản của ông Trần Hoài Trung, khoảng cuối tháng
12/2018, H đi bộ trong khu vực Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 tại số 01
Trần Hưng Đạo, phường Bạch Đằng, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội phát hiện
tại khu vực trước cửa tòa nhà Chỉ huy cơ quan trong Bệnh viện Trung ương
Quân đội 108 có để 01 xe mô tô Honda Wave màu trắng BKS 29D2- 217.36.
Quan sát thấy không có người trông giữ, mặt khác xe mô tô không khóa cổ,
khóa càng, H dắt xe mô tô ra khỏi khu vực bệnh viện rồi mang về nhà, mở
cốp xe phát hiện có 01 ví da màu đen bên trong có nhiều giấy tờ H lấy 01
Giấy chứng nhận đăng ký xe Honda Wave BKS 29D2- 217.36 mang tên
Nguyễn Đức Th và vứt chiếc ví da màu đen cùng các giấy tờ khác (không thu
hồi được). Sau đó, H làm chìa khóa điện để sử dụng xe mô tô và dán nilon
màu đỏ mục đích để không bị phát hiện. Tại bản án trên nhận thấy: Việc Tòa
án nhân dân Quận Đống Đa đã quyết định hình phạt dựa vừa các tài liệu
chứng được thể hiện trong hồ sơ vụ án bao gồm: sự thống nhất lời khai của bị
cáo, người tham gia tố tụng, kết luận giám định, vật chứng thu được cùng tài
liệu có trong hồ sơ đã đủ cơ sở kết luận: hành vi của bị cáo H theo điểm c
51
khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Do vậy
Tòa án nhân dân Quận Đống Đa đã tuyên bố: Bị cáo Vũ Mạnh H phạm tội
"Trộm cắp tài sản". Áp dụng: Điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản
2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Xử phạt: Vũ Mạnh H
34 (ba mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/3/2019 là thỏa đáng.
2.2.2 Những tồn tại và hạn chế trong định tội danh tội trộm cắp tài
sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội
Thứ nhất các quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 vẫn
còn điểm nhiều vướng mắc, bất cập cụ thể:
(i) Về tình tiết định khung cơ bản quy định tại điểm c khoản 1 Điều 173
“Gây ảnh ưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội”.
Tình tiết định khung cơ bản quy định tại điểm c khoản 1 Điều 173
“Gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội” vẫn còn có nhiều cách
hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng tình tiết định khung này còn gặp nhiều
khó khăn. Có quan điểm cho rằng tình tiết “gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự
an toàn xã hội” là hành vi của cá nhân, tổ chức làm phát vỡ trật tự, kỉ cương
của xã hội một cách nghiêm trọng, khiến cho bộ một phận không nhỏ người
dân mất lòng tin. Ví dụ: Bản án số: 203/2019/HSST ngày 21/10/2018 của
TAND Quận Đống Đa như sau: P là sinh viên, do ăn chơi đua đòi, nghiệm
điện tử. P đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của người khác để lấy tiền tiêu
xài cá nhân. Một hôm P được K rủ cùng nhau đi trộm chó của ông H là chủ
nhà trọ nơi P và K đang thuê trọ, đem bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Lợi dụng
lúc ông H vắng nhà, P và K đã bỏ chất hóa học cyannure vào bã cho rồi dụ
cho ăn rồi ngay lập tức bỏ vào bao tải để đi tiêu thụ. Tuy nhiên trong quá trình
đi bán thì bị mọi người xung quanh phát hiện và bắt quả tang và được đưa lên
cơ quan công an xử lý. Đối với ví dụ trên có thể nói hành vi P và K đã gây rối
loạn trật tự an toàn xã hội, khiến người dân vô cùng phẩn nộ và bức xúc. Tuy
nhiên, hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của P và K dưới 2.000.000 đồng. P
52
và K chưa có tiền án tiền sự. Vậy hành vi trộm chó có được coi là tình tiết
định khung “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” hay
không?
(ii) Về tình tiết định khung tăng nặng được quy định tại điểm d, khoản
2 Điều 173 “Hành hung để tẩu thoát”.
Theo quy định tại mục 6 Phần I Thông tư liên tịch số 02
02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP hướng dẫn áp dụng chương
XIV "các tội phạm xâm phạm sở hữu" của nộ luật hình sự năm 1999 do Bộ
Công an; Bộ tư pháp; Toà án nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân tối cao
ban hành thì:
“6. Khi áp dụng tình tiết "hành hung để tẩu thoát" (điểm đ khoản 2 Điều
136; điểm a khoản 2 Điều 137; điểm đ khoản 2 Điều 138 BLHS) cần chú ý:
6.1. Phạm tội thuộc trường hợp "hành hung để tẩu thoát" là trường
hợp mà người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt
được tài sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã
có những hành vi chống trả lại người bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ như
đánh, chém, bắn, xô ngã... nhằm tẩu thoát.
6.2. Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm
đoạt được tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà
người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc tấn
công người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì
trường hợp này không phải là "hành hung để tẩu thoát" mà đã có đầy đủ các
dấu hiệu cấu thành tội cướp tài sản”.
Quy định này nhằm xử lý hành vi của người phạm tội cố ý giữ tài sản
chiếm đoạt mặc dù đã bị phát hiện và giữ lại tài sản. Tuy nhiên, việc áp dụng
quy định này có một số vướng mắc như sau:
Một là, trường hợp người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản thì
khoảng thời gian từ khi chiếm đoạt được đến khi bị phát hiện, bắt giữ hoặc bị
53
bao vây bắt giữ hoặc bị giành lại là bao lâu? Trường hợp người phạm tội đã
bỏ đi vài giờ thì mới bị phát hiện, có được xem xét, áp dụng tính tiết này
không? Tác giả cho rằng, chỉ áp dụng các quy định tại mục 6 Phần I Thông tư
liên tịch số 02 khi thời gian từ khi chiếm đoạt được đến khi bị phát hiện, bắt
giữ hoặc bị bao vây bắt giữ hoặc bị giành lại không được kéo dài, bởi vì khi
đó, tội phạm đã hoàn thành và hành vi chống trả của người phạm tội đối với
việc bị phát hiện, bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ hoặc bị giành lại không còn
ý nghĩa.
Hai là, quy định tại tiểu mục 6.2 mục 6 Phần I Thông tư liên tịch số 02
gây khó hiểu bởi vì sau khi chiếm đoạt được tài sản thì người phạm tội bị
giành lại tài sản thì trong trường hợp này người phạm tội dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc nhằm “giữ cho được tài sản chiếm đoạt được và
tẩu thoát” chứ không phải “chiếm đoạt cho được tài sản” vì hành vi chiếm
đoạt đã thực hiện xong. Hơn nữa, việc sử dụng thuật ngữ “tiếp tục” dùng vũ
lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc cũng chưa phù hợp bởi vì trong tội
trộm cắp tài sản thì người phạm tội không có hành vi dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc nên việc người phạm tội bị bắt giữ mà dùng vũ
lực, đe dọa dùng vũ lực chỉ mới lần đầu chứ không phải lần thứ hai.
Ba là, quy định của tiểu mục 6.1 và tiểu mục 6.2 mục 6 Phần I Thông
tư liên tịch số 02 gây khó khăn cho việc vận dụng. Chúng ta thấy rằng, việc
chia mục 6 thành tiểu mục 6.1 và tiểu mục 6.2 thực chất là để phân biệt
trường hợp người phạm tội vì sợ bị bắt giữ nên “bỏ của chạy lấy người” với
trường hợp người phạm tội ngoan cố, cố tình chống trả nhằm giữ cho được tài
sản mà minh chiếm đoạt được. Thực tiễn chỉ ra rằng, cả trường hợp tẩu thoát
và cố giữ tài sản để tẩu thoát thì người phạm tội có thể dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc. Cho nên, việc quy định có những hành vi chống
trả… như đánh, chém, bắn, xô ngã... (tiểu mục 6.1) và dùng vũ lực, đe doạ
dùng vũ lực ngay tức khắc (tiểu mục 6.2) thực chất đều là hành vi dùng vũ
54
lực, đe dọa dùng vũ lực.
Ngoài ra Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT chưa quy định cụ thể thế
nào là “bị phát hiện”. Vấn đề đặt ra ở đây là trong trường hợp người phạm tội
đã chiếm đoạt được tài sản thì khoảng thời gian là bao lâu từ khi chiếm đoạt
được đến khi bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ hoặc bị giành
lại. Giả thiết người phạm tội đã thực hiện xong hành vi trộm cắp 01 chiếc xe
máy, khoảng vài ngày sau trong khi người đó đang đem xe đi tiêu thụ thì bị
phát hiện, như vậy có được xem xét, áp dụng tình tiết này không? .
(iii) Về tình tiết “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm
đoạt tài sản mà còn vi phạm”.
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 thì một
người có hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới mức tối thiểu (nghĩa là dưới
2.000.000 đồng) thì phải có thêm dấu hiệu khác mới cấu thành tội trộm cắp tài
sản, đó là “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt”. Luật xử
lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định xử lý vi phạm hành chính bao gồm
xử phạt vi phạm hành chính (phạt tiền, cảnh cáo) và các biện pháp xử lý hành
chính khác (giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa
vào cơ sở giáo dục…), những biện pháp xử lý vi phạm hành chính này có tính
nghiêm khắc hơn biện pháp xử phạt vi phạm hành chính, trong khi đó điều
luật lại không quy định tình tiết này là tình tiết định tội. Do vậy, việc áp dụng
tình tiết này vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc.
Thứ hai, khó khăn trong việc định giá về tài sản.
Đối với các hành vi xâm phạm sở hữu nói chung và hành vi trộm cắp
tài sản nói riêng, việc xác định trị giá tài sản bị chiếm đoạt có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi
phạm tội. Trong trường hợp có đầu đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành
vi xâm phạm sở hữu có ý định xâm phạm đến tài sản có trị giá cụ thể theo ý
thức chủ quan của họ thì lấy trị giá tài sản đó để xem xét xử lý trách nhiệm
55
hình sự đối với người có hành vi vi phạm. Việc định giá trị giá tài sản chỉ đặt
ra trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người đó có hành vi
xâm phạm quyền sở hữu có ý định xâm phạm đến tài sản, nhưng không quan
tâm đến trị tài sản bị xâm phạm, thì lấy giá trị thị trường của tài sản bị xâm
phạm tại địa phương vào thời điểm tài sản bị chiếm đoạt để xem xét truy cứu
trách nhiệm hình sự người đó. Tuy nhiên trên thực tế việc định giá tài sản bị
chiếm đoạt của tội trộm cắp tài sản còn gặp nhiều hạn chế khó khăn nhất định,
cụ thể:
(i) Việc định giá gặp nhiều khó khăn khi không xác định được thời điểm
tài sản bị chiếm đoạt.
Về nguyên tắc, việc định giá tài sản phải xác định được giá trị tài sản
tại thời điểm tài sản bị chiếm đoạt. Tuy nhiên có nhiều trường hợp tài sản bị
chiếm đoạt nhưng một khoảng thời gian sau chủ sở hữu hoặc người quản lý
tài sản mới phát hiện và trình báo với các cơ quan chức năng. Ngoài ra cũng
có trường hợp chủ sở hữu tài sản còn không biết tài sản của mình bị chiếm
đoạt vào thời điểm nào. Điều này gây khó khăn cho hội đồng định giá trong tố
tụng hình sự dẫn đến sự định giá không khách quan, chính xác, có nguy cơ bỏ
lọt tội phạm.
(ii) Định giá tài sản trong trường hợp không truy thu được tài sản bị
trộm cắp.
Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến tội trộm cắp
tài sản xảy ra không ít các trường hợp tài sản bị chiếm đoạt truy thu không
được vì nhiều lí do khác nhau. Về nguyên tắc, để xác định được trị gái tài sản
trong trường hợp tài sản bị xâm phạm không còn nữa, cơ quan điều tra cần lấy
lời khai của người biết về tài sản này để xác định đó là tài sản gì; trị giá tài
sản đó theo thời giá thực tế ở địa phương, và các văn bản, giấy tờ thông tin về
tài sản bị chiếm đoạt…để trên cơ sở đó có kết luận cuốn cùng về trị giá tài sản
bị chiếm đoạt. Tuy nhiên hoạt động này gặp rất nhiều khó khăn trên thực tế
56
bởi lẽ bị hại của tội trộm cắp tài sản thường có tâm thế mong muốn tìm lại
được tài sản cũng như trừng trị kẻ phạm tội nên thường khai theo hướng làm
tăng trị giá tài sản bị chiếm đoạt. Do vậy việc tiến hành định giá tài sản dựa
vào lời khai của bị hại, người phạm tội thực sự còn nhiều khó khăn và bất cập
và còn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan định giá tài sản.
Thứ ba, khó khăn trong việc xác định chính xác tội danh
Định tội danh là một vấn đề quan trọng trong quá trình giải quyết một
vụ án hình sự. Đây là quá trình so sánh, đối chiếu, tìm sự phù hợp giữa hành
vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện với các dấu hiệu pháp lý của một tội
phạm cụ thể được quy định trong BLHS. Việc định tội danh đúng là tiền đề
cho hoạt động phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách
công minh và chính xác. Hoạt động định tội danh trộm cắp tài sản trên thực
tiễn vẫn còn những điểm chưa hợp lý, vẫn còn những quan điểm định tội danh
khác nhau giữa các tội trong nhóm tội xâm phạm sở hữu.
Ví dụ 1: Bản án số: 280/2018/HSST ngày 10/6/2018 của TAND Quận
Đống Đa như sau: Khoảng 16 giờ ngày 23/1/2018, chị Trần Thị T. T cùng ba
người bạn ngồi uống nước chung một bàn tại căng tin Trung Tâm Bồi dưỡng
Chính trị Quận Đống Đa. Một lúc sau, chị T đi lên Phòng đào tạo của Nhà
trường và có để lại một túi xách màu đen trên chiếc ghế chị vừa ngồi. Lúc
này, Nguyễn Hoàng N điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Thanh H chạy ngang
qua, nhìn vào căng tin thì thấy túi xách của chị T nên quay xe lại dừng phía
trước cổng căn tin để H đi bộ vào lấy chiếc túi xách trên. Khi H đi bộ vào căn
tin thì thấy ba người phụ nữ đang nhìn về phía mình nên H giả vờ đi thẳng
vào quầy hỏi mua thuốc lá. Hỏi xong H đi ngược trở ra. Lợi dụng lúc ba
người phụ nữ không để ý, H lấy chiếc túi xách của chị T rồi chạy ra xe của N
đang chờ sẵn tẩu thoát. Nghe tiếng hô hoán, anh Nguyễn Hoàng L đi cùng
chiều với N và H vừa điều khiển xe ô tô đuổi theo vừa điện thoại báo cho tổ
Cảnh sát giao thông tuần tra đến áp sát, bắt giữ N và H cùng tang vật. Tài sản
57
mà N, H chiếm đoạt là 01 túi xách màu đen bên trong có 01 máy tính xách tay
hiệu ASUS trị giá 7.750.000 đồng, 03 tờ 01 USD, 01 tờ 2 USD, 300.000
đồng, 01 USB và một số giấy tờ tùy thân khác.
Việc định tội danh đối với hành vi của H, N có 03 ý kiến khác nhau:
Ý kiến thứ nhất cho rằng, N, H đã phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Ý kiến thứ hai lại cho rằng, hành vi của N và H đã cấu thành tội cướp
giật tài sản.
Ý kiến thứ ba thì xác định, hành vi của N và H phạm TTCTS.
Đối với ví dụ trên, tác giả đồng ý với quan điểm hành vi của N và H
phạm tội Trộm cắp tài sản. Bởi vì, khi H thực hiện hành vi chiếm đoạt chiếc
túi xách của chị T thì chiếc túi xách vẫn thuộc quyền sở hữu và quản lý của
chị T, do chị T không chuyển giao cho ai trông giữ, quản lý chiếc túi xách này
cho chị. Như vậy, ba người bạn của chị T không ai có trách nhiệm, nghĩa vụ
phải trông giữ, quản lý chiếc túi xách. Do đó, hành vi chiếm đoạt chiếc túi
xách của H và N không phải là hành vi công nhiên trước mặt chủ sở hữu hay
người được ủy quyền quản lý, trông giữ tài sản. Hơn nữa, trong trường hợp,
nếu xác định vì mối quan hệ bạn bè mà 03 người bạn của chị T có trách
nhiệm quản lý túi xách dùm chị T thì hành vi của N, H vẫn phạm tội Trộm
cắp tài sản vì khi thực hiện hành vi chiếm đoạt, H đã lợi dụng lúc ba người
phụ nữ không để ý để thực hiện hành vi chiếm đoạt. Vì vậy, hành vi của H
vừa lén lút với cả chủ sở hữu và với cả người quản lý tài sản. Cho nên việc
xác định H, N phạm tội Trộm cắp tài sản là phù hợp nhất.
Ví dụ 2: Bản án số: 362/2017/HSST ngày 16/9/2017 của TAND Quận
Đống Đa như sau: ngày 18/6/2019 Khoảng 15h ngày 20/8/2017 Lê Khắc H
(20 tuổi, trú tại thành phố H) mang chiếc điện thoại Iphone 4s đã bị hỏng (trị
giá vào thời điểm hiện tại khoảng 04 triệu đồng) ra tiệm điện thoại Hoàng T
nằm trên đường hồ Đắc Di, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội để sửa. Nhân
lúc chủ cửa hàng mải mê trao đổi với các khách hàng khác thì H đã lấy trong
58
túi áo chiếc Iphone 4s bị hỏng của mình để tráo đổi với chiếc điện thoại (giá 8
triệu đồng) của chủ cửa hàng. H bị cơ quan cảnh sát Điều tra Công an quận
Đống Đa bắt quả tang, trong quá trình đấu tranh với H, H đã khai lại đúng nội
dung vụ việc trên.
Xung quanh việc xác định tội danh đối với Lê Khắc H hiện có ba quan
điểm khác nhau, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất: Lê Khắc H phạm tội trộm cắp tài sản quy định tại
Điều 173 Bộ luật Hình sự (BLHS) 2015, bởi lẽ, hành vi của H mang tính chất
bí mật, lén lút với chủ tài sản nhằm chiếm đoạt tài sản.
Quan điểm thứ hai: Lê Khắc H phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy
định tại Điều 174 BLHS 2015.
Quan điểm thứ ba: Lê Khắc H phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản quy định tại Điều 175 BLHS 2015, bởi lẽ: “Khi chủ tiệm đưa chiếc
điện thoại của mình cho H xem thì lúc đó H chưa có hành vi gian dối nhằm
chiếm đoạt chiếc điện thoại này. Chỉ khi đã có chiếc điện thoại trong tay, H
mới nảy sinh ý định chiếm đoạt. Như vậy là H đã chiếm đoạt tài sản đang do
mình chiếm giữ. Đây chính là đặc trưng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản, đặc trưng này cho phép phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội trộm cắp tài sản”.
Qua nghiên cứu, tác giả đồng tình với quan điểm là phải truy tố, xét xử
Lê Khắc H về tội: “Trộm cắp tài sản”. Và theo tác giả sẽ có 02 trường hợp
xảy ra: Nếu việc truy tố và xét xử Lê Khắc H sau thời điểm 01/01/2018 tức là
ngày Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực pháp luật thì Lê Khắc H phạm tội:
“Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015; còn nếu việc
điều tra, truy tố, xét xử Lê Khắc H trước thời điểm 01/01/2018 thì Lê Khắc H
phạm tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Đối với tội trộm cắp tài sản thì thời điểm hoàn thành của tội phạm phải
59
thỏa mãn dấu hiệu đó là sự chuyển dịch tài sản một cách bất hợp pháp thoát ra
sự quản lý của người quản lý tài sản hay của chủ tài sản; Tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản thì tội phạm hoàn thành khi chủ tài sản hay người quản lý tài sản
chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho người phạm tội do trước đó người phạm
tội có hành vi gian dối với mục đích chiếm đoạt được tài sản của chủ tài sản
hay người quản lý tài sản.
Khác với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì tội Lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản thì thời điểm hoàn thành của tội phạm là dùng thủ đoạn
gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản hoặc đến thời hạn trả lại tài sản
mặc dù có điều kiện có khả năng nhưng cố tình không trả hay nói cách khác
thủ đoạn gian dối thời điểm xuất hiện là sau khi nhận được tài sản hợp pháp
thì hành vi gian dối mới xuất hiện. Do vậy, thời điểm hoàn thành của tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đó là thời điểm bỏ trốn hay cố tình không
trả trong khi có điều kiện có khả năng để trả hay gian dối để không trả.
Trở lại vụ án trên cho thấy, đối với quan điểm cho rằng Lê Khắc H
phạm tội Lừa đảo chiểm đoạt tài sản (quan điểm 2) và Lê Khắc H phạm tội
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (quan điểm 3) là không có cơ sở. Bởi
lẽ: Đối với quan điểm 1 cho rằng Lê Khắc H phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản”; tức là có việc H dùng thủ đoạn gian dối đưa ra thông tin giả nhưng
làm cho người khác (người quản lý tài sản, chủ tài sản) tin đó là sự thật và
giao tài sản cho H. Việc, chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi được hiểu là
hành vi chuyển dịch tài sản một cách trái pháp luật tài sản của người khác
thành của mình. Hậu quả của việc chiểm đoạt gắn liền và có mối quan hệ
nhân quả với hành vi gian dối.
Lê Khắc H khi tới tiệm điện thoại H phát hiện trong tủ kính cửa hàng
có trưng bày một chiếc Iphone 4s giống của mình nên đã hỏi chủ cửa hàng
cho mình xem. Sau khi được chủ tiệm đưa cho xem, một lúc sau H hỏi: “Có
bán không và bán với giá bao nhiêu?”. Khi được chủ cửa hàng trả lời là:
60
“Trưng bày như vậy nếu có khách hàng trả được giá thì bán, nếu anh mua thì
em bán 08 triệu khuyến mãi cho anh vỏ bọc điện thoại trị giá 300 nghìn
đồng”. Chủ tiệm vừa nói dứt lời thì cửa hàng có nhiều khách hàng tới mua
bán và sửa chữa điện thoại, do đó đã không để ý tới H và để cho H xem xét
chiếc điện thoại Iphone 4s một cách thoải mái. Nhân lúc chủ cửa hàng mải mê
trao đổi với các khách hàng khác thì H đã lấy trong túi áo chiếc Iphone 4s bị
hỏng của mình để tráo đổi với chiếc điện thoại của chủ cửa hàng. Sau đó, H
đưa chiếc điện thoại đã bị hỏng của mình cho chủ cửa hàng và nói là sẽ về
nhà suy nghĩ, có gì hai ngày sau sẽ quay trở lại lấy máy nếu chưa có ai mua.
Như vậy, ở đây mặc dù có thể có việc Lê Khắc H không có ý định mua
điện thoại nhưng có ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại Iphone 4s nên đã có
dùng thủ đoạn gian dối như vờ hỏi giá, vờ xem để mua và lợi dụng chủ cửa
hành đông khách nên H đã tráo đổi chiếc điện thoại hỏng của mình bằng việc
lấy trong túi áo chiếc Iphone 4s bị hỏng của mình để tráo đổi với chiếc điện
thoại của chủ cửa hàng. Tức là, không có việc chủ cửa hàng hay nhân viên
của cửa hàng trao, giao quyền sở hữu chiếc điện thoại cho H mà H lợi dụng sơ
hở, lén lút, gian dối tiếp cận để chiếm đoạt chiếc điện thoại đó. Do vậy, không
thể cho rằng Lê Khắc H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Đối với tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bắt buộc hành vi
gian dối phải xuất hiện sau khi nhận được tài sản, được chuyển giao tài sản
hợp pháp. Trong vụ án cũng không có việc Lê Khắc H được chủ cửa hàng
giao, trao quyền sở hữu chiếc điện thoại cho mình. Do vậy, Lê Khắc H cũng
không phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Vì vậy, tác giả cho rằng nên truy tố H với quan điểm thứ nhất như quan
điểm của tác giả đó là Lê Khắc H phải bị truy tố và xét xử về tội “Trộm cắp
tài sản”. Bởi, ngoài các lý do mà các tác giả đã đưa ra phân tích, thì một vấn
đề hết sức quan trọng như trên tôi đã phân tích đó là tội trộm cắp tài sản thì tội
phạm hoàn thành (mặt khách quan của tội phạm) đó là hành vi lén lút, bí mật
61
hoặc cũng có thể gian dối chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của
người khác thành của mình. Việc lén lút, bí mật hay gian dối là nhằm che dấu
hành vi chiếm đoạt tài sản làm cho chủ sở hữu tài sản hay người đang quản lý
tài sản đó không biết việc chiếm đoạt. Trong vụ án này, việc lợi dụng lúc cửa
hàng có đông khách nhân viên sơ hở không để ý Lê Khắc H đã lén lút tráo đổi
chiếc điện thoại hỏng của mình lấy chiếc điện thoại của cửa hàng, tức là
chuyển dịch một cách bất hợp pháp từ tài sản của cửa hàng thành của mình.
Do vây, chỉ có thể truy tố xét xử Lê Khắc H về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng
tội, đúng pháp luật.
Ngoài ra , nghiên cứu về mức án áp dụng đối với những bị cáo phạm
tội trộm cắp tài sản, có 01 vụ án đủ điều kiện áp dụng án treo theo quy định
tại Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 2
Nghị quyết số 02/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
“Hướng dẫn chi tiết về việc áp dụng án treo có nêu rõ điều kiện để được
hưởng án treo”, nhưng lại không được Hội đồng xét xử áp dụng án treo, cụ
thể: Ngày 06 tháng 03 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quận Đống
Đa, Tòa án nhân dân Quận Đống ĐA đã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý
số 06/2019/HSST ngày 19 tháng 02 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra
xét xử số 07/2019/QĐXXST –HS ngày 28 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:
G N D – Sinh năm: 1997 ngụ tại Ngõ 73, Phố Ng L B, Phường N Đ, Quận
Đống Đa, Thành phố Hà Nội. tiền án tiền sự: không có. Vào khoảng 13 giờ
ngày 28 tháng 10 năm 2019 bị cáo D sau khi uống rượu, đã đi bộ đến Phố Ng
L B, Phường N Đ, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội thì phát hiện xe mô tô
biển số 29E7 – 2711 của anh N V T đang dựng cặp đường vào chợ, chìa khóa
còn trên xe, không người trông coi, nên đã lén lút lấy trộm chiếc xe của anh
T, chạy khoảng 03 mét thì anh T phát hiện đuổi theo bắt được bị cáo D cùng
với tang vật. Nhưng do bị cáo D có nơi cư trú Thôn M Đ, Xã H N, Huyện V
Y, Tỉnh B G nên để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án, cơ quan tiến hành tố
62
tụng của Quận đã áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với D. Trong
quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn
năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nhưng
Hội đồng xét xử vẫn tuyên phạt D 06 tháng tù giam. Tác giả xét thấy hình
phạt của D là quá nặng so với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội và đặc điểm nhân thân của D, trong trường hợp trên có thể có thể áp dụng
án treo đối với bị cáo D
2.2.3 Nguyên nhân của những tồn tại và hạn chế.
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn việc giải quyết các vụ án, quyết định
hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố
Hà Nội 5 năm (từ 2015 - 2019) cho thấy bên cạnh những kết quả đạt được thì
vẫn còn có những tồn tại, hạn chế cần khắc phục, đó là khi xem xét để quyết
định hình phạt thì giữa Tòa án và Viện kiểm sát vẫn còn một số trường hợp
chưa thống nhất, đặc biệt là một số tình tiết làm căn cứ để quyết định hình
phạt. Điều đó cho thấy do nhận thức chủ quan của người áp dụng pháp luật
(chủ yếu là Thẩm phán và Kiểm sát viên) có sự khác nhau, sự phối hợp chưa
nhịp nhàng, đồng bộ dẫn đến sự khác biệt trong đánh giá và quyết định hình
phạt. Trình độ năng lực đối với một số Thẩm phán, Hội Thẩm nhân dân, Điều
tra viên, Kiểm sát viên còn hạn chế. Kỹ năng nghề nghiệp và kinh nghiệm của
mỗi cá nhân là không đồng đều. Trong thực thi nhiệm vụ, nhiều cá nhân do
tuổi đời và tuổi nghề còn trẻ chưa nhận thức đúng đắn và chưa làm hết trách
nhiệm khi được giao đánh giá chứng cứ, nghiên cứu hồ sơ vụ án, chưa đầu tư
nghiên cứu kỹ các văn bản pháp luật, đặc biệt là các văn bản mới ban hành,
việc vận dụng những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trong vụ án không chuẩn
xác dẫn đến khi quyết định hình phạt không chính xác.
Hiện nay, BLHS 2015 vừa mới được thông qua với nhiều quy định mới
được sửa đổi bổ sung, trong đó có các quy định về tội trộm cắp tài sản. Do đó
việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cụ thể các quy định
63
của BLHS 2015 còn chưa được kịp thời. Mặt khác, hệ thống pháp luật Việt
Nam quy định đối với tội Trộm cắp tài sản cũng chưa thực sự hoàn thiện, còn
thiếu đồng bộ. Các ban hành văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ đã ban hành đôi
lúc còn thiếu sự thống nhất làm cho người tiến hành tố tụng chưa nắm vững
các quy định mới của BLHS năm 2015, bởi lẽ để áp dụng đúng quy định về
tội trộm cắp tài sản không chỉ nắm vững các quy định tại Điều 173 BLHS mà
còn phải nắm vững các quy định khác ở Phần thứ nhất (Những quy định
chung) và các toäi danh có quy định loại trừ Điều 173, hoặc giống nhau về
hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản (như tham ô, chiếm đoạt vật liệu nổ…). Các
văn bản hướng dẫn về các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài
sản theo quy định của BLHS năm 2015 chưa có, dẫn đến cách hiểu về các dấu
hiệu của các tội phạm không thống nhất giữa những người tiến hành tố tụng
Ngoài ra, các chủ thể phòng, chống tội phạm mà chủ yếu là cơ quan
Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân chưa thể hiện được hết vai
trò, chức năng, nhiệm vụ trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và
tội trộm cắp tài sản nói riêng. Thiếu sự phối hợp, kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở
giữa các cơ quan này cũng như các tổ chức, đơn vị và chủ thể có thẩm quyền
trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao, dẫn đến việc đấu tranh
phòng, chống tội phạm chưa đem lại hiệu quả cao. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ,
công chức có trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa đồng điều, thiếu kinh
nghiệm, thậm trí trong các quan còn thiếu cán bộ chuyên trách tham gia đấu
tranh phòng, chống tội phạm. Hiện nay, tại Thành phố Hà Nội cũng như Quận
Đống Đa là địa bàn trú ẩn, hoạt động của nhiều loại tội phạm, đáng kể nhất là
các đối tượng luôn có xu hướng xâm phạm sở hữu của người khác, đặc biệt là
thực hiện hành vi trộm cắp, vì hành vi này rất khó bị phát hiện và xứ lý, do
các đối tượng lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu lét lúc ra tay, tẩu
64
thoát không để lại dấu vết và tài sản do trộm cắp thường gọn nhẹ, dễ tiêu thụ.
Tiểu kết chương 2
Trong phạm vi chương 2, tác giả tập trung vào việc phân tích, đánh giá
về mặt thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp
tài sản tại Quận Đống Đa - thành phố Hà Nội. Qua đó cho thấy thực tiễn hoạt
động này riêng trên địa bàn Quận Đống Đa luôn được các cơ quan tiến hành
tố tụng quan tâm trú trọng. Các cơ quan tiến hành tố tụng Quận Đống Đa đã
áp dụng đầy đủ các quy định của BLHS, BLTTHS và các văn bản hướng dẫn
để làm căn cứ định tội danh cũng như xử lý vụ án một cách chính xác, đạt
hiệu quả cao, đánh giá đúng tính chât, mức độ của hành vi phạm tội, từ đó
đưa ra mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Thực tế
cho thấy, qua 5 năm (từ 2015 đến 6 tháng năm 2019), Quận Đống Đa chưa có
vụ án trộm cắp tài sản nào bị hủy. Số vụ án bị cải sửa theo thủ tục phúc thẩm
không nhiều, chủ yếu là cải sửa theo hướng giảm nhẹ hình phạt hoặc sửa theo
hướng cho hưởng án treo do phát sinh thêm một số tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự hoặc do hội động xét xử cấp phúc thẩm đánh giá tính chất, mức
độ, hậu quả của hành vi mà xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Điều đó
cho thấy sự cố gắng, nỗ lực rất lớn từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng Quận
Đống Đa trong việc khắc phục những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau để đưa
ra đường lối xử lý phù hợp, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng,
chống tội phạm. Bên cạnh những kết quả mà các cơ quan tiến hành tố tụng
Quận Đống Đa đã đạt được, vẫn còn những tồn tại, hạn chế, bất cập trong
việc định tội danh và xử lý các vụ án hình sự. Những tồn tại, bất cập, hạn chế
này nằm trong chính những cách hiểu và áp dụng các quy định pháp luật hình
sự việt nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Đống Đa – thành phố Hà
Nội. Do vậy, đòi hỏi pháp luật phải có những quy định rõ ràng, cụ thể hơn để
65
pháp luật được áp dụng một cách thống nhất.
Chương 3
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TRỘM CẮP
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN ĐỐNG ĐA – THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1 Yêu cầu và phương hướng hoàn thiện pháp luật về tội trộm cắp
tài sản.
Thứ nhất, yêu cầu bảo đảm thực hiện đầy đủ quy định của Hiến pháp
năm 2013 về quyền con người và quyền cơ bản của công dân.
Quyền con người là sản phẩm quý giá của nhân loại, là sự kết tinh của quá
trình đấu tranh, phát triển lâu dài của tất cả các dân tộc, nhân dân trên toàn thế
giới. Quyền công dân trước hết là quyền con người, việc quy định và thực
hiện nó gắn với chế định quốc tịch, gắn với vị trí pháp lý của công dân trong
quan hệ với Nhà nước, được Nhà nước bảo đảm đối với công dân nước mình.
Vấn đề bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở nước ta Việt Nam càng
được đề cao và chú trọng, được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Hiến pháp
2013 ra đời đã có những thay đổi lớn về chế định quyền con người, quyền
công dân thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đề cao nhân tố con
người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát
triển. Nhất là trong các hoạt động hình sự và tố tụng hình sự, bởi lẽ đây là
hoạt động liên quan đến quá trình nhà nước đưa một người ra xử lý trước
pháp luật khi họ bị coi là tội phạm; luôn thể hiện đậm tính quyền lực nhà
nước được thể hiện thông qua việc áp dụng sức mạnh cưỡng chế nhà nước đối
với đối tượng yếu thế là người bị buộc tội, chính vì vậy quyền con người,
quyền công dân trong hình sự và tố tụng hình là quyền dễ bị xâm phạm, bị tổn
thương nhất và hậu quả để lại nghiêm trọng khi nó gây ảnh hưởng đến quyền
được sống, quyền tự do và sinh mệnh chính trị của một cá nhân. Do vậy, các
quyền này cần thiết phải được tôn trọng và bảo vệ. Bảo vệ quyền con người ở
66
nước ta gắn liền với bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
của dân, do dân và vì dân và được thực hiện thông qua nhiều biện pháp trong đó
biện pháp pháp luật có vai trò quan trọng. Bảo vệ quyền con người và quyền cơ
bản của công dân là sự định hướng lớn của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình
cải cách tư pháp. Hiến pháp năm 2013 là căn cứ pháp lý cao nhất để bảo vệ quyền
con người. Pháp luật hình sự cụ thể hóa việc bảo vệ quyền con người và quyền cơ
bản của công dân đã được Hiến pháp quy định. Điều 1 BLHS năm 2015 quy định:
“Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền
bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo
vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân
theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.” Quy định tại Điều 1
BLHS này đã khẳng định bảo vệ quyền con người, quyền công dân là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của luật hình sự. Như vậy, thông qua việc quy định và
áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự chúng ta đã góp phần đưa yêu cầu
đảm bảo quyền con người và quyền cơ bản của công dân mà Hiến pháp năm 2013
đã quy định vào trong cuộc sống.
Thứ hai, yêu cầu cụ thể hóa được chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống đối với tội trộm cắp tài sản
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm đến xử lý tội
phạm nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng cho nên đã đề ra nhiều chủ
trương, chính sách nhằm đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tội phạm này. Các
chủ trương, chính sách này được thể hiện qua hàng loạt các Nghị quyết, các
văn bản pháp luật, trong đó có BLHS với quy định về tội trộm cắp tài sản.
Chính vì thế, để thể chế hóa hơn nữa các chủ trương, chính sách này của
Đảng và Nhà nước đi vào thực tế sâu rộng hơn, hiệu quả hơn, đáp ứng được
nguyện vọng của nhân dân trong việc phòng, chống tội trộm cắp tài sản thì
việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản là
67
yêu cầu cấp bách trong bối cảnh hiện nay.
Thứ ba, yêu cầu đảm bảo phù hợp với các điều kiện kinh tế, xã hội ở
nước ta.
Xã hội ở mỗi giai đoạn khác nhau thì sẽ có những điều kiện kinh tế -
xã hội khác nhau, và pháp luật ở mỗi giai đoạn cũng sẽ khác nhau. Nước ta
đang trong giai đoạn đổi mới toàn diện, đời sống nhân dân được nâng cao,
chất lượng cuộc sống được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận
lợi đó, nước ta đứng trước nhiều thách thức lớn, trong đó có thách thức từ tình
hình tội phạm môi trường nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng đang diễn
biến phức tạp với mức độ và tính chất nguy hiểm của hành vi là rất cao, hậu quả
thiệt hại xảy ra rất nghiêm trọng... Chính vì vậy, khi hoàn thiện các quy định về
tội trộm cắp tài sản phải quy định được những vấn đề mới vào trong luật như chủ
thể mới, quy định các tình tiết, các dấu hiệu định khung, loại và mức hình phạt
phải phù hợp với điều kiện – xã hội nước ta hiện nay.
Thứ tư, yêu cầu hội nhập quốc tế
Việt Nam là thành viên chính thức của nhiều công ước quốc tế về
phòng chống tội phạm cũng như kinh tế. Vì vậy, các quy định của pháp luật
Việt Nam nói chung và pháp luật hình sự nói riêng cần phải phù hợp với các
quy định bắt buộc của công ước này. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung các quy
định pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản cũng phải phù hợp với các quy
định của công ước quốc tế mà nước ta đã tham gia. Bên cạnh đó, việc áp dụng
pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản phải đảm bảo yêu cầu hội nhập của
nước ta (nhất là về kinh tế) với quốc tế.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội
trộm cắp tài sản
Thứ nhất, hoàn thiện về tình tiết định khung cơ bản quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 173 “Gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội”.
Quan điểm của tác giả cho rằng, khi đánh giá về tính chất của hành vi
68
“gây ảnh ưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội” là phải xem xét đến tính
chất, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra xâm phạm nghiêm trọng đến trật tự,
kỷ cương xã hội, xâm phạm đến sự mất ổn định trong đời sống của người dân,
gây tâm lý phẩn nộ trong một phạm vi khu dân cư, gây khó khăn cho công tác
quản lý nhà nước của cấp chính quyền. Do vậy để đảm bảo pháp luật hình sự
được áp dụng được thống nhất tác giả đề xuất sửa đổi điểm c khoản 1 Điều
173 theo hướng:
1. Bỏ tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”
2. Hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần sớm ban hành quy định
hướng dẫn chi tiết về việc áp dụng tình tiết định khung cơ bản đối với tình
theo trên theo hướng quy định trong từng lĩnh vực cụ thể, mức độ, phạm vi
ảnh hưởng đến tình hình trật tự, an toàn xã hội. Đồng thời quy định chặt chẽ
trình tự tiếp nhận thông tin phản ánh tình hình của nhân dân về các hành vi
“Gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội” khi chưa bị phát hiện để
làm căn cứ xử lý sau này.
Thứ hai, Hoàn thiện về tình tiết định khung tăng nặng được quy định
tại điểm d, khoản 2 Điều 173 “Hành hung để tẩu thoát”.
Để khắc phục các vướng mắc trên, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung
mục 6 Phần I Thông tư liên tịch số 02 như sau:
6.1. Phạm tội thuộc trường hợp “hành hung để tẩu thoát” là trường hợp
mà người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc ngay sau khi chiếm
đoạt được tài sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì
đã có những hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc chống trả
lại người bắt giữ hoặc người bao vây nhằm tẩu thoát.
6.2. Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc ngay sau
khi chiếm đoạt được tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác giành
lại, mà người phạm tội có hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức
khắc tấn công người bị hại hoặc người khác nhằm giữ cho được tài sản chiếm
69
đoạt được và tẩu thoát thì trường hợp này không phải là “hành hung để tẩu
thoát” mà đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội cướp tài sản”. Hoặc bỏ hẳn
cụm từ “hoặc ngay sau khi chiếm đoạt được tài sản” trong 02 tiểu mục này.
Ngoài ra cần thiết phải sửa đổi theo hướng thay cụm từ “đã chiếm đoạt
được tài sản” bằng cụm từ “ngay sau khi thực hiện hành vi chiếm đoạt được
tài sản” để tránh gây hiểu lầm, khó khăn trong quá trình áp dụng.
Thứ ba, hoàn thiện tình tiết “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành
vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm”.
Xuất phát từ việc xuất hiện trường hợp người có hành vi chiếm đoạt tài
sản đã bị áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính khác (biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn; biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; biện pháp
đưa vào cơ sở giáo dục) sau đó lại có hành vi chiếm đoạt tài sản trị giá dưới
mức tối thiểu (dưới 2.000.000 đồng) nhưng nếu theo quy định của BLHS hiện
hành thì dù người đó đủ tuổi chịu TNHS cũng không có đủ dấu hiệu về mặt
khách quan để xử lý về mặt hình sự. Chính vì vậy, tác giả đề xuất cần có hướng
dẫn cụ thể quy định của điểm a khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 về tình tiết
“đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi
phạm”, theo đó có thể có văn bản hướng dẫn theo hướng “đã bị xử lý vi phạm
hành chính về hành vi chiếm đoạt mà còn vi phạm”, như vậy mới có thể tránh bỏ
lọt tội 72 phạm, áp dụng thống nhất, đảm bảo sự công bằng của pháp luật.
3.3. Các giải pháp về tổ chức thực hiện các quy định pháp luật hình
sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành
phố Hà Nội
Thứ nhất cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm và kỹ năng của người
tiến hành tố tụng trong việc áp dụng các quy định pháp luật hình sự Việt Nam
về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội
Đối với kiểm sát viên: Do tính chất của vụ án của tội trộm cắp tài sản
thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp Quận/ Huyện/ Thị xã nên các Viện kiểm
70
sát cấp Quận/ Huyện/ Thị xã trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội
phải nâng cao vai trò chủ trong việc áp dụng các quy định pháp luật hình sự
việt nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà
Nội. Với vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân được quy
định trong Hiến pháp, Luật tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân, Luật tố tụng
hình sự, Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát sự
tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự,
trong đó có vai trò thực hành quyền công tố và kiểm sát sự tuân theo pháp luật
trong việc áp dụng thủ tục rút gọn của Cơ quan điều tra và Tòa án cho nên
Kiểm sát viên được phân công phải trên cơ sở xem xét các điều kiện bảo đảm
đủ các căn cứ để khởi tố về tội trộm cắp tài sản, xem xét việc ban hành hoặc
hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục của Cơ quan điều tra và Tòa án là có căn
cứ và hợp pháp hay không, khi phát hiện có các vi phạm trong việc áp dụng
hoặc hủy bỏ thủ tục rút gọn thì tùy vào tính chất, mức độ vi phạm Kiểm sát
viên báo cáo, đề xuất với lãnh đạo viện, lãnh đạo đơn vị để lãnh đạo thực hiện
các hoạt động khắc phục vi phạm đó thông qua quan hệ chế ước giữa Viện
kiểm sát và Cơ quan điều tra, quan hệ phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát.
Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ trong việc giải quyết tin báo của Cơ
quan Điều tra, kịp thời ban hành các yêu cầu kiểm tra, xác minh để làm rõ
những về đề có liên quan đến vụ án. Kiểm sát viên phải bám sát hoạt động
giải quyết nguồn tin về tội phạm trộm cắp tài sản, nếu thấy vụ án hình sự đủ
cơ sở để khởi tố vụ án về tội trộm cắp tài sản thì Kiểm sát viên chủ động trao
đổi với Cơ quan điều tra và Điều tra viên để ra tiến hành thủ tục khởi tố vụ án
hình sự về tội trộm cắp tài sản. Có như vậy mới nâng cao được trách nhiệm
của Điều tra viên trong khi giải quyết án. Hơn thế nữa, Kiểm sát viên phải
kiểm sát chặt chẽ các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn mà đặc biệt là biện
pháp tạm giam nhằm trách tình trạng “lạm dụng” biện pháp này để thuận lợi
cho quá trình điều tra, truy tố mà làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
71
pháp của bị can, bị cáo.
Đối với Điều tra viên: Điều tra viên ngay từ khi được phân công thụ lý
vụ án, nếu thấy có cơ sở Điều tra viên phải quan tâm đến hành vi lén lút nhằm
chiếm đoạt tài sản, động cơ và công cụ phương tiện thực hiện hành vi trộm
cắp. Ngay từ khi giải quyết nguồn tin Điều tra viên phải tiến hành ngay các
hoạt động xác định, tiến hành các hoạt động kiểm tra xác minh, các biện pháp
điều tra như: định giá tài sản, lấy lời khai bị hại, trưng cầu giám định… để
làm căn cứ để ra các quyết định tố tụng có căn cứ và đúng pháp luật. Ngoài ra
Điều tra viên chủ động thực hiện đầy đủ các yêu cầu kiểm tra, xác minh, yêu
cầu điều tra, phải chủ động trao đổi với Kiểm sát viên để thống nhất nội dung
và quan điểm xử lý vụ án đối với tội trộm cắp tài sản, tránh tình trạng vi phạm
thời hạn thời hạn điều tra, thiếu các tài liệu, chứng cứ quan trọng dẫn đến việc
Viện kiểm sát trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Đối với thẩm phán: Thẩm phán được phân công ngay sau khi nhận
được hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến phải nghiên cứu hồ sơ một
cách toàn diện, khách quan, kiểm tra lại các căn cứ buộc tội bị can về tội trộm
cắp tài sản, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can. Trong
trường hợp còn những vấn đề nào chưa rõ trong vụ án phải tiến hành trao đổi
ngay với Kiểm sát viên, trong trường hợp cần thiết thì ban hành quyết định
yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung các chứng cứ. Hạn chế việc trả hồ sơ điều tra
bổ sung.
Thứ hai tăng cường hơn nữa mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng trong việc giải quyết những vụ án về tội trộm cắp tài sản.
Việc giải những vụ án về tội trộm cắp tài sản cần phải có sự phối hợp
giữa các cơ quan tố tụng, vì vậy cần phải tăng cường xây dựng mối quan hệ
phối hợp chặt chẽ giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong việc giải
quyết án rút gọn. Viện kiểm sát phải chủ động bàn bạc thống nhất quan điểm
72
với Cơ quan điều tra, Tòa án vụ án trước khi ra quyết định khởi tố vụ án đối
với các vụ án trộm cắp tài sản có trị giá tài sản lớn, có nhiều tình tiết phức tạp,
liên quan đến nhiều đối tượng.
Thứ ba, tăng cường công tác tập huấn, hướng dẫn áp dụng các quy
định pháp luật hình sự việt nam về tội trộm cắp tài sản trong thực tiễn.
Thường xuyên tổ chức các chương trình tập huấn, các hóa đào tạo nhằm
n ng trình độ chuyên môn của những người tiến hành tố tụng. Đây là hoạt
động quan trọng nhất trong việc trau dồi và nâng cao năng lực của những
người người tiến hành tố tụng. Trình độ chuyên môn của người người tiến
hành tố tụng là yếu tố quan trọng nhất đồng thời là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp
tới hiệu quả của công tác xử lý tội phạm, giải quyết các vụ án hình sự trong
thực tiễn ngành Tòa án cần tổ chức hội nghị chuyên đề hướng dẫn công tác xét
xử về các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng, đặc
biệt chú đến vấn đề định tội danh, các căn cứ quyết định hình phạt, các nguyên
tắc áp dụng hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để
đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật Các chương trình
tập huấn hoặc các hóa đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ là
hoạt động của các cơ quan nhà nưức có thẩm quyền tự xây dựng và mở ra bao
gồm các khóa đạo tạo, chương trình tập huấn chuyên môn của riêng các
ngành, hoặc các chương trình tập huấn, đào tạo phối hợp giữa các cơ quan liên
ngành; hoặc là các hoạt động trong khuôn khổ các dự án hợp tác giữa các cơ
quan tư pháp trong nước và các cơ quan tư pháp quốc tế hoặc các tổ chức xã
hội, tổ chức phi chính phủ nhằm hướng tới huấn luyện, đào tạo chuyên sâu các
cán bộ pháp luật về một hoặc một số lĩnh vực cụ thể trong tư pháp hình sự.
Thường xuyên tổ chức các đợt kiểm tra kiến thức chuyên môn, đánh giá trình
độ, từ đó có chế độ tuyên dương, khen thưởng xứng đáng. Phát động các
phong trào thi đua có ý nghĩa trau dồi về đạo đức, tác phong sống, làm việc
73
nghiêm túc, lành mạnh; coi đây là cơ sở đề xuất bổ nhiệm, miễn nhiệm.
Thứ tư, cần trang bị đầy đủ phương tiện, kinh phí phục vụ công tác cho
những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Thực tế cho thấy hiện nay, nhiều cơ quan tiến hành tố tụng như viện
kiểm sát, Tòa án chưa được trang bị đầy đủ các phương tiện phục vụ các công
tác trong quá trình giải quyết vụ án hình sự trong đó có giải quyết các vụ án
hình sự về tội trộm cắp tài sản, nhất là trong hoạt động đi xác minh trị giá tài
sản bị chiếm đoạt điều đó ảnh hưởng trực tiếp tới việc đảm bảo chất lượng
của công tác giải quyết, xét xử vụ án. Bên cạnh đó, chế độ dành cho những
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng còn nhiều hạn chế chưa đảm bảo nhu
cầu của họ nên dễ này sinh tâm lý chán nản, không tận tâm với nghề hay bỏ
nghề… làm mất đi không ít những người thực sự có kĩ năng, chuyên môn,
nghiệp vụ trong việc giải quyết vụ án hình sự nói chung và giải quyết vụ án
theo thủ tục rút gọn nói riêng. Vì vậy cần phải trang bị đầy đủ phương tiện,
kinh phí phục vụ công tác cho các đơn vị Viện kiểm sát nhân dân cấp để hoàn
74
thành tốt công tác này.
Tiểu kết chương 3
1. Các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự việt
nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống đa phải dựa trên những
vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng của chế định này trên phạm Quận Đống
đa sao cho vừa đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia
tố tụng, đặc biệt là của bị can, bị cáo trong vụ án trộm cắp tài sản.
2. Các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến
thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự bao gồm: hoàn thiện các quy định tại
Điều 173 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bên cạnh đó, còn có
giải pháp về tổ chức thực hiện tổ chức thực hiện các quy định pháp luật hình
sự việt nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố
Hà Nội trong đó yêu cầu tăng cường nâng cao nhận thức, trách nhiệm và kỹ
năng của người tiến hành tố tụng trong việc áp dụng các quy định pháp luật
hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản; tăng cường hơn nữa mối quan hệ
phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết những vụ án
về tội trộm cắp tài sản; tăng cường công tác tập huấn, hướng dẫn áp dụng các
quy định pháp luật hình sự việt nam về tội trộm cắp tài sản trong thực tiễn.
Ngoài ra còn cần trang bị đầy đủ phương tiện, kinh phí phục vụ công tác cho
75
những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
KẾT LUẬN
1. Tội trộm cắp tài sản là hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội, được
quy định trong Bộ luật Hình sự, do người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và
có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện với lỗi cố ý tiếp xâm phạm đến
quyền sở hữu tài sản bằng hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu,
người quản lý tài sản hoặc người khác có liên quan.
2. Lịch sử hình thành và phát triển tội trộm cắp tài sản trong pháp luật
hình sự Việt Nam đã được hình thành từ rất sớm, được hướng dẫn bởi các sắc
lệnh và các thông tư liên ngành. Thông qua việc nghiên cứu các văn bản này
sẽ tiếp thu những “hạt nhân hợp lý” nhằm hoàn thiện tội trộm cắp tài sản
trong BLHS ở nước ta
3. Thực trạng giải quyết án hình sự bằng trình tự tố tụng rút gọn trong
thời gian trên địa bàn Quận Đống đa đã đạt được những kết quả tốt đẹp. Tuy
nhiên vẫn còn những tồn tại và hạn chế của các quy định về tội trộm cắp tài sản
trong BLHS năm 2015 vẫn còn mang tính hình thức, chưa thể hiện được tính
khả thi của chúng trên thực tiễn. Cần phải được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung.
4. Trước xu hướng vận động và phát triển không ngừng của xã hội, đây
là một vấn đề tất yếu đòi hỏi việc cần phải không ngừng tiếp tục nghiên cứu
sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình sự về tội trộm cắp nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng quy định này, việc sửa đổi, bổ sung không chỉ thực hiện
các kiến nghị về mặt hoàn thiện các quy định pháp luật mà cần phải hoàn
thiện về mặt tổ chức thực hiện áp dụng các quy định về tội trộm cắp tài sản
trên thực tế trên thực tế.
5. Luận văn đã đưa ra giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật
liên quan các quy định pháp luật, các giải pháp về tổ chức thực các quy định
về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa. Qua đó nâng cao chất
lượng giải quyết các vụ án tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Đống Đa, tiết
kiệm thời gian, công sức của người tiến hành tố tụng, các chi phí tố tụng khác
liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự nhưng vẫn đảm bảo không để lọt
76
tội phạm, không làm oan người vô tội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 08/ NQ – TW của Bộ chính trị
ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới.
2. Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 48 – NQ/TW của Bộ Chính trị
ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
3. Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 49– NQ/TW của Bộ Chính trị
ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
4. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật hình sự
2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp năm
2013, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, “Quyết định về việc ban hành quy chế
tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và
truy tố”. Số 03, ngày 29 tháng 12 năm 2017.
9. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, “Quyết định về việc ban hành quy chế
công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự”. Số 505,
ngày ngày 18 tháng 12 năm 2017.
10. Vũ Quang Dũng (2008), Luận Văn thạc sĩ luật học, “Thủ tục rút gọn
trong tố tụng hình sự - lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành
phố Hà Nội” Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
11. Nguyễn Văn Hiển (2004), “Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt
77
Nam, Hà Nội.
12. Nguyễn Mạnh Hiền (2006), “Một số kinh nghiện giải quyết án theo thủ
tục rút gọn của các cơ quan tiến hành tố tụng ở tỉnh Hà Tây”, Tạp chí
Kiểm sát, số 13/2006.
13. Trần Quỳnh Hoa (2014), “Một số kiến nghị về thủ tục rút gọn trong tố
tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát số 19/2014.
14. TS. Bùi Đức Hứa (2015), “Vấn đề thủ tục rút gọn trong điều tra vụ án
hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí khoa học
kiểm sát, số 03/2015.
15. TS. Phan Thị Thanh Mai (2010), “Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự
nhằm hạn chế việc phải chuyển từ thủ tục rút gọn sang thủ tục chung để
giải quyết vụ án”, Tạp chí Luật học số 5/2010.
16. Nguyễn Minh Quang (2001), Luận văn thạc sĩ luật học, “Thủ tục rút
gọn - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” Hà Nội.
17. Nguyễn Văn Quảng (2011), Luận án tiến sĩ Luật học, “Hoàn thiện thủ
tục rút gọn trong bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, Những vấn đề lý luận
và thực tiễn”.
18. TS. Lê Hữu Thể - TS. Đỗ Văn Đương. ThS. Nguyễn Thị Thủy (Đồng
chủ biên) (2013) “Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc
đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp”,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – sự thật.
19. Đỗ Thị Phượng (2008) “Một số vấn đề về thủ tục rút gọn trong Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2003”, Kỷ yếu hội thảo “Thủ tục đặc biệt trong tố
tụng hình sự”, Khoa luật hình sự, Trường Đại học Luật Hà Nội.
20. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Bộ luật Tố tụng hình sự Nhật
Bản, bản dịch tiếng Việt, Hà Nội.
21. Viên kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Bộ luật Tố tụng hình sự Liên
78
bang Nga năm 2001, bản dịch tiếng Việt, Hà Nội.
22. Viên kiểm sát nhân dân tối cao (2007), Bộ luật Tố tụng hình sự Đức,
Tạp chí Thông tin khoa học kiểm sát, số 5&6/2007.
23. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, (2014), Thống kê tình hình thụ lý, giải
quyết án hình sự trên phạm vi cả nước năm 2014.
24. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, (2015), Thống kê tình hình thụ lý, giải
quyết án hình sự trên phạm vi cả nước năm 2015.
25. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, (2016), Thống kê tình hình thụ lý, giải
quyết án hình sự trên phạm vi cả nước năm 2016.
26. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, (2017), Thống kê tình hình thụ lý, giải
quyết án hình sự trên phạm vi cả nước năm 2017.
27. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, (2018), Thống kê tình hình thụ lý, giải
quyết án hình sự trên phạm vi cả nước năm 2018.
28. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, (2019), Thống kê tình hình thụ lý, giải
quyết án hình sự trên phạm vi cả nước năm 2019.
29. Viên kiểm sát nhân dân tối cao - Viện khoa học kiểm sát, “Thông tin
79
khoa học kiểm sát số 05+06/2008”.