VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN TUẤN
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN TUẤN
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 838.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ THANH THÙY
HÀ NỘI, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn Thạc sĩ Luật học “Tội trộm cắp
tài sản từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam” bảo đảm độ tin
cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn kế thừa
từ các tác giả khác đều được trích dẫn đầy đủ. Luận văn này là công trình
nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của tiến sỹ. Nguyễn
Thị Thanh Thùy.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Tuấn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI
SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ .......................................................... 8
1.1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản ....... 8
1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản theo quy
định của Bộ luật Hình sự hiện hành .............................................................. 21
1.3. Những hạn chế, thiếu sót của Bộ luật Hình sự hiện hành trong quy
định về tội trộm cắp tài sản ........................................................................... 31
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỘI AN,
TỈNH QUẢNG NAM ................................................................................. 35
2.1. Tình hình có liên quan đến tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố
Hội An, tỉnh Quảng Nam.............................................................................. 35
2.2. Thực trạng định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp
tài sản trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam ............................... 39
2.3. Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp
tài sản trên địa bàn thành phố Hội An ........................................................... 47
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN ........................ 53
3.1. Sự cần thiết của việc tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng
quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam vê tội trộm cắp tài sản .................... 53
3.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay về
tội trộm cắp tài sản ....................................................................................... 54
3.3. Một số giải pháp khác góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
đối với tội trộm cắp tài sản ........................................................................... 56
KẾT LUẬN ................................................................................................. 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CẤC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ Viết tắt
Bộ luật hình sự BLHS :
BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự :
Bộ luật dân sự BLDS :
Cấu thành tội phạm CTTP :
Quy phạm pháp luật QPPL :
Trách nhiệm hình sự TNHS :
Tòa án nhân dân TAND :
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao :
THTT Tiến hành tố tụng :
VKSND Viện kiểm sát nhân dân :
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Cơ cấu các vụ tội phạm đã được đưa ra xét xử giai đoạn 2015 -
2019 ............................................................................................................. 38
Bảng 2.2. Cơ cấu các vụ án trộm cắp tài sản đã được đưa ra xét xử giai
đoạn 2015 - 2019 ......................................................................................... 38
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam, nằm bên bờ Bắc hạ lưu sông
Thu Bồn; có tổng diện tích tự nhiên 61,71 km2, cách thành phố Đà Nẵng
30km về phía đông nam, có vị trí địa lý: Phía đông giáp biển Đông; Phía tây
giáp thị xã Điện Bàn; Phía nam giáp huyện Duy Xuyên; Phía bắc giáp thị xã
Điện Bàn và biển Đông. Ngoài lợi thế nằm gần sân bay Chu Lai của Quảng
Nam và cảng hàng không quốc tế hiện đại Đà Nẵng, Hội An còn có một ưu
thế đặc biệt với vị trí nằm trên “Con đường di sản văn hóa miền Trung” bao
gồm: Hội An- Mỹ Sơn- Huế. Đây được xem là điều kiện khách quan thuận lợi
giúp Hội An thu hút được một lượng lớn khách du lịch trong và ngoài nước.
Với những điều kiện như vậy, thành phố Hội An có quá trình phát triển về
kinh tế với tốc độ cao trong thời gian qua, đời sống người dân ngày càng được
nâng cao. Tuy nhiên, đi cùng với sự phát triển đó thì tình hình tội phạm
những năm gần đây có xu hướng tăng lên và diễn biến ngày càng phức tạp,
mặc dù chính quyền các cấp thành phố Hội An đã rất quan tâm tới công tác
phòng, chống tội phạm, tình hình tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật,
tệ nạn xã hội được kiểm soát. Tuy nhiên, một số loại tội phạm vẫn chưa thực
sự được kiềm chế hiệu quả, trong đó tội trộm cắp tài sản xảy ra khá thường
xuyên trên một phạm vi rộng, một loại hình tội phạm đang có chiều hướng gia
tăng và có diễn biến phức tạp tại thành phố Hội An.
Dưới sự quan tâm chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền, người đứng
đầu cơ quan, tổ chức ở một số ngành tại địa phương, nhiệm vụ phòng, chống
tội phạm được đưa vào chương trình, kế hoạch phát triển theo yêu cầu của
Đảng và Nhà nước, do đó các cơ quan tiến hành tố tụng của thành phố Hội An
luôn thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật trong hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử đối với việc xử lý các vụ án hình sự nói chung và tội trộm
1
cắp tài sản nói riêng. Nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng, chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử ngày càng được nâng cao.
Tỷ lệ phát hiện số vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An chiếm tỷ
lệ cao và được đưa ra xét xử nghiêm minh trước pháp luật. Tuy nhiên, công
tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trộm cắp tài sản trên thực tế địa
bàn thành phố Hội An vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập.
Qua thực tiễn xét xử, số vụ phạm tội trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ lớn
nhất trong cơ cấu nhóm tội xâm phạm sở hữu. Thực tiễn áp dụng quy định của
Bộ luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An cho thấy
những bất cập, khó khăn trong việc xác định một số dấu hiệu định tội, một số
tình tiết định khung hình phạt và mức hình phạt đối với người phạm tội. Hiện
nay vẫn chưa có hướng dẫn mới về các tội trộm cắp tài sản theo quy định của
Bộ Luật hình sự năm 2015, văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật đối với các
tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng còn chưa có
sự thống nhất do đó dẫn đến thực tế áp dụng quy định về các tội này còn
nhiều hạn chế. Do đó, việc nghiên cứu tội phạm cụ thể trong luật hình sự Việt
Nam dưới góc độ thực tiễn tại thành phố Hội An, không những có ý nghĩa sâu
sắc về mặt lý luận mà còn về mặt thực tiễn áp dụng pháp luật.
Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Tội trộm cắp tài sản từ thực
tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận văn Thạc sĩ.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối
với tội này, đề tài góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của các cơ
quan tiến hành tố tụng trong công tác áp dụng pháp luật tại thành phố Hội
An, tỉnh Quảng Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến tội trộm cắp tài sản đã có
nhiều nhiều công trình khoa học được công bố, tiếp cận dưới các góc độ
2
nghiên cứu khác nhau. Các góc độ tiếp cận điển hình nhất bao gồm:
- Nhóm công trình nghiên cứu về quy định của PLHS đối với tội trộm
cắp tài sản gồm có:
+ Nguyễn Ngọc Chí, Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở
hữu, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội, 2001;
Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
+ Nguyễn Thanh Tùng, Tội trộm cắp tài sản theo Luật hình sự Việt
Nam (trên cơ sở số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh); Luận văn thạc sĩ,
Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015;
+ Lê Thị Hồng, Tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam; Luận
văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013;
+ Trần Thị Phường, Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu
tại tỉnh Bình Định giai đoạn 2006-2010, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011;
+ Nguyễn Văn Trượng, Một số vấn đề cần hoàn thiện đối với tội trộm
căp tài sản, Tạp chí TAND số 4, tháng 2/2008; v.v...
- Nhóm công trình nghiên cứu về tình hình tội trộm cắp tài sản gồm có:
+ “Tình hình trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội” - Luận
văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Đình Hải năm 2016;
+“Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra các vụ án trộm cắp
tài sản tại chỗ ở của công dân trên địa bàn tỉnh Kom Tum” Luận văn Thạc sỹ
luật học của tác giả Từ Vương Thông năm 2010;
+“Nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản
tại nơi ở của công dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi của lực lượng CSĐT tội
phạm về trật tự xã hội” Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả năm 2015.
- Nhóm công trình nghiên cứu về thực trạng phòng, chống tội trộm cắp
tài sản gồm có:
3
+ Hoàng Văn Hùng, Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng, chống tội
phạm này ở Việt Nam, “Hoạt động của lực lượng cảnh sát nhân dân trong
phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại địa bàn công cộng tại thành phố, thị xã”
của tác giả Đinh Anh Tuấn năm 2009;
+ “Sử dụng biện pháp vận động quần chúng của lực lượng Cảnh sát nhân
dân trong giai đoạn điều tra ban đầu các vụ trộm cắp tài sản” của tác giả Lê
Quốc Trân năm 2010.
+ “Đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng” của tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền năm 2017;
Như vậy, việc nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản không còn là vấn đề
mới. Tuy nhiên, các công trình trên hoặc là có phạm vi nghiên cứu rộng, hoặc
chỉ xem xét dưới góc độ tội phạm học, cũng có những công trình tuy nghiên
cứu về việc áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản gắn với một địa
bàn cụ thể nhưng không liên quan đến tình hình thực tế tại thành phố Hội An,
tỉnh Quảng Nam. Nhiều công trình đã nghiên cứu cách đây khá lâu, do vậy
giá trị lý luận và thực tiễn đã không còn cao. Chính vì vậy, việc nghiên cứu
chuyên sâu về tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật
hình sự của thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam một cách đầy đủ, toàn diện là
yêu cầu cấp thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 . Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng
về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam giai
đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, luận văn đề xuất hoàn thiện quy định của
pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản, cũng như đưa ra các kiến nghị, giải
pháp cụ thể trong hoạt động áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội
trộm cắp tài sản nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm trộm cắp tài
4
sản trên địa bàn thành phố Hội An nói riêng và tỉnh Quảng Nam nói chung.
3.2 . Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu
sau đây:
- Phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản
theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam; Khái quát lịch sử hình thành các
quy định của pháp luật Việt Nam về tội trộm cắp tài sản;
- Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật thông qua hoạt động định tội
danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành
phố Hội An, tỉnh Quảng Nam; những hạn chế, bất cập trong áp dụng pháp
luật tội trộm cắp tài sản;
- Đưa ra các kiến nghị, đề xuất, giải pháp góp phần kiến nghị nâng cao
hiệu quả phòng ngừa tội trộm cắp tài sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản,
thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố
Hội An, tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung, đề tài được nghiên cứu dưới góc độ của Luật hình sự và
tố tụng hình sự.
- Về không gian, đề tài được nghiên cứu và khảo sát trong phạm vi
thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
- Về thời gian, đề tài nghiên cứu dựa trên số liệu thực tế từ thực tiễn xét
xử của Tòa án nhân dân thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến
năm 2019.
5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của phép duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội
phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, luận văn đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp lịch sử: phương pháp này được sử dụng để làm rõ sự
hình thành và phát triển của tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam
từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay.
- Phương pháp thống kê, tổng hợp: phương pháp này được sử dụng để
làm rõ tình hình xử lý hình sự đối với tội trộm cắp tài sản.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng để làm rõ
những vấn đề chung và những hạn chế, vướng mắc về tội trộm cắp tài sản.
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân
tích. Cụ thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, luận văn sử dụng
phương pháp tổng hợp kết hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận thức về
vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết quả tổng hợp được thể
hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự.
- Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh giữa pháp luật hiện
hành với các các văn bản pháp luật trước đây qua các giai đoạn lịch sử.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài
sản, nghiên cứu có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn về tội trộm cắp tài sản
6
xảy ra trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ những kết quả đạt được trong quá trình nghiên cứu, đề tài giúp nâng
cao hiệu quả thực tiễn áp dụng pháp luật về tội trộm cắp tài sản. Bên cạnh đó,
nội dung và kết quả nghiên cứu của đề tài có thể khai thác, sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho công tác đào tạo luật, nghiên cứu khoa học, hội thảo tập
huấn chuyên đề, nâng cao hiệu quả công tác của các cơ quan tiến hành tố tụng
và người tiến hành tố tụng khi giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản trên địa
bàn thành phố Hội An.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 Chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tội trộm cắp tài sản theo pháp luật
hình sự;
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam;
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự
về tội trộm cắp tài sản.
7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội trộm cắp
tài sản
1.1.1. Tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam từ sau Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm
1985
Quy định về tội trộm cắp tài sản nói riêng và các quy định khác trong
pháp luật hình sự nói chung của nước ta giai đoạn mới giành độc lập bước
đầu được kế thừa từ pháp luật của chế độ cũ. Từ sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để bảo vệ thành
quả cách mạng là công cụ hữu hiệu nhất, đặc biệt đã thể hiện chính sách hình
sự đối với các hành vi xâm phạm sở hữu. Một số các văn bản như: Sắc lệnh số
47/SL ngày 10/10/1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh tạm thời giữ lại các luật lệ
tại miền Bắc, Trung, Nam Bộ; Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/02/1946 quy định
các hành vi phá hoại công sản. Ngày 09/11/1946, Quốc hội nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa thông qua Hiến pháp đầu tiên, tại Điều 12 đã ghi nhận:
“Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm”. Trong giai
đoạn này Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng đã ban hành một số
Sắc lệnh quy định về tội phạm xâm phạm sở hữu trong đó có tội trộm cắp tài
sản như: Sắc lệnh số 267 ngày 15-6-1958 trừng trị những âm mưu và hành
động phá hoại tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân, làm cản
trở việc thực hiện chính sách kế hoạch của Nhà nước về xây dựng kinh tế và
văn hoá; Sắc lệnh số 12 ngày 12/3/1949 quy định trừng trị các hành vi trộm
cắp vật dụng nhà binh trong thời bình và thời kỳ chiến tranh.
8
Đồng thời, Nhà nước ta cũng quan tâm đến việc bảo vệ các tài sản riêng
của Công dân như quy định tại Thông tư 442-TTg ngày 19-01-1955 của Thủ
tướng Chính phủ.
Tư tưởng chủ đạo giai đoạn này là chú trọng bảo vệ tài sản chung là tài
sản XHCN hơn tài sản riêng tài sản cá nhân. Trước khi Bộ luật hình sự năm
1985 được ban hành thì các hình phạt không được quy định tập trung, sắp xếp
theo một trình tự nhất định và cũng không có tiêu chí đánh giá chung, áp dụng
thống nhất.
Ngoài những văn bản pháp luật có liên quan nêu trên, trong giai đoạn
này còn có Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân
được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21/10/1970 và Pháp lệnh
số 149-LCT ngày 21/10/1970 là Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản
Xã hội chủ nghĩa và. Pháp lệnh này quy định:
Tài sản xã hội chủ nghĩa bao gồm tài sản thuộc quyền sở hữu của Nhà
nước thuộc sở hữu toàn dân, và tài sản thuộc sở hữu của hợp tác xã và các tổ
chức hợp pháp khác thuộc sở hữu của tập thể; tài sản của công dân bao gồm:
của cải do sức lao động của công dân làm ra một cách hợp pháp hoặc để dành
được như xe cộ, tiền bạc, trang sức, nhà cửa và những đồ dùng cá nhân có giá
trị khác.
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân quy
định tội trộm cắp tài sản riêng của công dân tại Điều 6 như sau:
“1. Kẻ nào trộm cắp tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ ba
tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc những trường hợp sau:
a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;
b) Có tổ chức;
c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
9
d) Gây hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của người bị thiệt hại hoặc
gây hậu quả nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ hai năm đến mười năm.
3. Phạm tội trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị
phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN quy định tội trộm
cắp tài sản XHCN tại Điều 7 như sau:
“1. Kẻ nào trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 06 tháng
đến 05 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:
a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;
b) Có tổ chức;
c) Có móc ngoặc;
d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
e) Trộm cắp tài sản với số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị đặc biệt;
f) Dùng tài sản trộm cắp được vào việc kinh doanh, bóc lột, đầu cơ,
hoặc vào những việc phạm tội khác thì bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
3. Phạm tội trong trường hợp số tài sản bị xâm phạm rất lớn hoặc có
nhiều tình tiết nghiêm trọng hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị
phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc bị xử tử
hình”.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự các cơ quan chức năng đã có
những văn bản hướng dẫn giải quyết đối với các trường hợp cụ thể như: Báo
cáo tổng kết công tác của TAND tối cao năm 1971, 1972; Thông tư
213/NCPL ngày 5/5/1973 của TAND tối cao - VKSND tối cao - Bộ Công an.
Nội dung hai pháp lệnh trên đã thể hiện chính sách pháp luật hình sự
đối với các tội xâm phạm về sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài sản nói
riêng thể hiện trình độ kỹ thuật lập pháp của Nhà nước ta nhằm đảm bảo
10
nguyên tắc pháp chế đáp ứng việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm
nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng. Hai cấu thành tội phạm hoàn
chỉnh về tội trộm cắp tài sản đó là tội trộm cắp tài sản XHCN và tội trộm cắp
tài sản riêng của công dân quy định cụ thể và tập trung các tình tiết định
khung tăng nặng trong điều luật, có các khung hình phạt tương ứng với tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi tội phạm, phân hoá trách nhiệm hình
sự người phạm tội được thể hiện qua hai pháp lệnh này. [26, tr.25].
Việc ban hành hai bản Pháp lệnh tại thời điểm này thể hiện sự quan tâm
của Nhà nước ta đối với tài sản công như tài sản thuộc quyền quản lý trực tiếp
của nhà nước và đối với tài sản riêng của cá nhân, nâng cao lòng tin của nhân
dân đối với chính quyền trong thời điểm này. Tạo niềm tin, nhân dân càng
yên tâm tích cực tham gia sản xuất và chiến đấu chống giặc Mỹ xâm lược.
Ngoài hai pháp lệnh nêu trên, Ban bí thư Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam cũng đã ban hành Chỉ thị số 185 ngày 09/12/1970 về tăng cường
bảo vệ tài sản XHCN nhằm chỉ đạo thi hành nội dung hai pháp lệnh trong
thực tiễn cuộc sống.
Sắc luật số 03 quy định về tội phạm và hình phạt được thông qua ngày
15/3/1976. Tại Điều 4 sắc lệnh này quy định: “Phạm các tội như: trộm cắp,
tham ô, lừa đảo, bội tín, cướp giật thì bị phạt tù từ sáu tháng đến bảy năm.
Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến mười lăm năm”.
1.1.2. Tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1985
Năm 1985 Bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta ra đời trên cơ sở của
nền kinh tế bao cấp và thực tiễn của tình hình tội phạm thời kỳ đó. BLHS năm
1985 với ý nghĩa là nguồn duy nhất trong đó quy định tội phạm và hình phạt
tại thời điểm này. BLHS năm 1985 là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xử
lý người phạm tội, song vẫn còn sự phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản XHCN
và tội trộm cắp tài sản của công dân.
11
Tội trộm cắp tài sản XHCN được quy định tại Điều 132 BLHS năm
1985 bao gồm 3 khung hình phạt. Tại khung cơ bản (Khoản 1) có quy định:
1. Người nào trộm cắp tài sản XHCN thì bị phạt cải tạo không giam giữ
đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
Khung tăng nặng thứ nhất được quy định tại Khoản 2 với mức hình
phạt từ 3 năm đến 12 năm nếu trộm cắp thuộc các trường hợp:
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba
năm đến mười hai năm: a) Có tổ chức; b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy
hiểm; c) Hành hung để tẩu thoát; d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn; đ) Tái
phạm nguy hiểm.
Khung tăng nặng thứ 2 được quy định tại khoản 3 với mức hình phạt tù
từ mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình trong trường hợp:
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ
mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Tội trộm cắp tài sản của công dân được quy định tại Điều 155 BLHS
năm 1985 bao gồm 3 khung hình phạt. Tại khung cơ bản (Khoản 1) có quy
định:
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
Khung tăng nặng thứ nhất được quy định tại Khoản 2 với mức hình
phạt tù từ hai năm đến mười năm nếu trộm cắp thuộc các trường hợp:
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ
hai năm đến mười năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; hành hung để tẩu thoát;
c) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng
khác;
12
d) Tái phạm nguy hiểm
Khung tăng nặng thứ 2 được quy định tại khoản 3 với mức hình phạt tù
từ bảy năm đến hai mươi năm trong trường hợp:
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ
bảy năm đến hai mươi năm.
Các vấn đề liên quan đến định lượng tài sản để xác định cấu thành Tội
trộm cắp tài sản và các khung hình phạt tăng nặng được hướng dẫn trong các
văn bản như: Nghị quyết 04-HĐTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986 hướng
dẫn áp dụng quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự của Hội
đồng thẩm phán; Thông tư liên ngành 04/TTLN năm 1985 hướng dẫn thi
hành Bộ luật hình sự do Toà án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối
cao - Bộ Tư pháp ban hành.
1.1.3. Tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1999
Trên cơ sở yêu cầu của xã hội, kinh tế nước ta dần chuyển sang nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN, để đảm bảo và thực hiện sự
bình đẳng của các thành phần kinh tế, chính sách hình sự và pháp luật hình sự
cũng phải thay đổi theo. Trước sự phát triển không ngừng của xã hội, việc sửa
đổi, bổ sung các quy định của BLHS 1999 trở thành một yêu cầu tất yếu.
BLHS năm 1999 đã góp phần quan trọng trong quản lý xã hội, đấu tranh và
phòng ngừa tội phạm; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo
vệ lợi ích của Đảng, Nhà nước, tổ chức và của công dân. Tại kỳ họp thứ VI
Quốc hội khóa X ngày 21-12-1999, có hiệu lực từ ngày 01-07-2000 Bộ luật
hình sự năm 1999 được thông qua.
Bộ luật hình sự năm 1999 đã gộp hai chương liên quan đến các tội xâm
phạm sở hữu trong BLHS năm 1985 thành một.
“Điều 138. Tội trộm cắp tài sản
13
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm
nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích
mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù
từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
đ) Hành hung để tẩu thoát;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai
trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm
trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm
mươi triệu đồng”.
14
So với quy định về tội trộm cắp tài sản trong bộ luật cũ, tội trộm cắp tài
sản tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 có một số điểm mới như sau:
Thứ nhất, tội trộm cắp tài sản tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 đã
hợp nhất hai điều luật về tội trộm cắp tài sản XHCN và tội trộm cắp tài sản
của công dân thành một điều luật. Tuy nhiên, để đấu tranh có hiệu quả với
hành vi trộm cắp tài sản công, Điều 48 BLHS năm 1999 quy định tình tiết
tăng nặng mới “Xâm phạm tài sản nhà nước”.
Thứ hai, Bộ luật hình sự năm 1999 đã định lượng cụ thể giá trị tài sản
bị chiếm đoạt, có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu
đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc
đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm
đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì bị truy cứu theo khoản
1, đồng thời người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các
khoản khác nhau của điều luật tùy theo mức độ vi phạm.
Thứ ba, tội trộm cắp tài sản tại Điều 138 được quy định bốn khung hình
phạt do đó khoảng cách giữ mức tối đa và mức tối thiểu của một khung hình
phạt được thu hẹp lại tạo cơ sở cho việc áp dụng hình phạt chuẩn xác hơn khi
lượng hình.
Thứ tư, Điều 138 BLHS năm 1999 đã xác định ranh giới giữa trường
hợp xử lý hành chính và truy cứu trách nhiệm hình sự. Trộm cắp tài sản có giá
trị có giá trị dưới năm trăm nghìn đồng nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng
hoặc chưa bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về
tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích thì không bị truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, trước những thay đổi lớn lao trên các mặt của đời sống xã
hội, sự phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập, nhận thức pháp luật
của của người dân ngày càng nâng cao, những thủ đoạn phạm tội ngày càng
15
tinh vi, nhiều loại tội phạm mới xuất hiện… những vấn đề đó đòi hỏi cần
phải có sự điều chỉnh sửa đổi, bổ sung của hệ thống pháp luật trong đó có
pháp luật hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra trong công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm. BLHS năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung một
lần vào năm 2009, xác định lại ranh giới giữa trường hợp hành vi vi phạm
pháp luật hành chính với trường hợp: Trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2 triệu
đồng và hành vi này không gây hậu quả nghiêm trọng hoặc người đó chưa bị
xử lý hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc chưa bị kết án về tội chiếm đoạt
tài sản thì chỉ bị xử phạt hành chính.
1.1.4. Tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015
Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 ra đời đã
kế thừa và phát triển trên cơ sở của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi,
bổ sung năm 2009. Bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật, thể hiện được
tính nhân đạo sâu sắc mang bản chất giai cấp, Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, phù hợp với luật pháp quốc tế. Phù hợp với các quy định của Hiến
pháp năm 2013 đề cao quyền con người, quyền công dân, đáp ứng được yêu
cầu trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, là cơ sở để khắc phục
những tồn tại, bất cấp trong thực tiễn thi hành Bộ luật Hình sự. Phù hợp với
các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, những vấn đề tội phạm,
hình phạt liên quan đến đối tượng phạm tội là người mang quốc tịch nước
ngoài được quy định khá đầy đủ, chi tiết đáp ứng được quá trình hội nhập và
phát triển với các nước trong khu vực và thế giới. Bộ luật đã cụ thể hóa được
những vấn đề mới, những nguy cơ tiềm ẩn của các loại tội phạm có thể xảy
tra trong tương lai, đảm bảo sự ổn định lâu dài trong quá trình thi hành. Đối
với những nội dung về quy định chung, các tội phạm cụ thể, về bố cục, kết
cấu, vị trí của các chương, điều, khoản, ngôn ngữ diễn đạt về kỹ thuật lập
pháp hoàn toàn phù hợp với Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thể
16
hiện được tính kế thừa và phát triển. Bộ luật Hình sự năm 2015 gồm có 3
Phần, 26 chương, 426 điều so với Bộ luật Hình sự năm 1999 thì Bộ luật này
bãi bỏ 03 điều; giữ nguyên 30 điều; sửa đổi, bổ sung 396 điều, với nhiều nội
dung được sửa đổi lớn. Tội trộm cắp tài sản, được quy định tại Điều 173
BLHS gồm 04 khung và hình phạt bổ sung cụ thể:
Tại khung cơ bản (khoản 1 Điều 173) quy định:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000
đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà
còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các
điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được
xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình
họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần
đối với người bị hại.
Khung tăng nặng thứ nhất được quy định tại Khoản 2 với mức hình
phạt tù từ hai năm đến bảy năm nếu trộm cắp thuộc các trường hợp:
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng;
17
d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ) Hành hung để tẩu thoát;
e) Trộm cắp tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới
50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại
các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
g) Tái phạm nguy hiểm.
Khung tăng nặng thứ hai được quy định tại Khoản 3 với mức hình phạt
tù từ bảy năm đến mười lăm năm nếu trộm cắp thuộc các trường hợp:
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới
500.000.000 đồng;
b) Trộm cắp tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d
khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
Khung tăng nặng thứ ba được quy định tại Khoản 3 với mức hình phạt
tù từ mười hai năm đến hai mươi năm nếu trộm cắp thuộc các trường hợp:
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Trộm cắp tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000
đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d
khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Ngoài ra, tội trộm cắp tài sản còn quy định hình phạt bổ sung tại khoản
5:
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
18
50.000.000 đồng.”
Như vậy, so với Điều 138 BLHS năm 1999 về tội trộm cắp tài sản thì
Điều 173 BLHS năm 2015 có một số điểm mới sau đây:
Thứ nhất, bổ sung thêm hai trường hợp đối với hành vi trộm cắp tài sản
thuộc khung hình phạt từ 6 tháng đến 3 năm tù.
Khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 bổ sung thêm 02 trường hợp đối
với những hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng nhưng vẫn
phạm tội trộm cắp tài sản là:
“c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình
họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối
với người bị hại.”
Với tình trạng trộm cắp các loại tài sản dưới 2.000.000 đồng đang ngày
càng gia tăng gây tâm lí hoang mang, bức xúc trong quần chúng nhân dân đòi
hỏi phải có những hình thức răn đe tội phạm, chấn chỉnh lại trật tự xã hội. Do
vậy, việc pháp luật bổ sung thêm các trường hợp này là việc làm cần thiết.
Thứ hai, bỏ một số tình tiết định khung tăng nặng.
Đối chiếu với Bộ luật hình sự 1999, Bộ luật hình sự 2015 đã bỏ các tình
tiết định khung “Gây hậu quả nghiêm trọng; Gây hậu quả rất nghiêm trọng;
Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” quy định tại các khoản 2, 3, 4 Điều 138
BLHS năm 1999. Đây là những tình tiết rất chung, rất khó cho các cơ quan
tiến hành tố tụng có thể xác định được trong quá trình thực hiện chức năng
của mình.
Thứ ba, sửa đổi tình tiết định khung tại khoản 2, tình tiết định khung
Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu
đồng” tại BLHS năm 1999 được sửa đổi như sau: Trộm cắp tài sản trị giá từ
2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường
19
hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này”, đồng thời bổ sung
thêm tình tiết định khung tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm”.
Thứ tư, bổ sung các tình tiết định khung tại hoản 3 điều luật bổ sung
thêm 02 tình tiết định khung “Trộm cắp tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến
dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại
các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này và Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.”
Khoản 4, bổ sung thêm 02 tình tiết định khung “Trộm cắp tài sản trị giá
từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các
trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này và Lợi dụng
hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp”
Thứ năm, bỏ hình phạt tù chung thân tại khoản 4 bỏ hình phạt tù chung
thân theo đó sẽ phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
Tóm lại, nghiên cứu lịch sử các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam từ năm 1945 đến khi BLHS 2015 được ban hành về tội trộm cắp tài sản
cho thấy:
- Tội trộm cắp tài sản từ chỗ được quy định trong từng văn bản riêng lẻ
đã được pháp điển trong các văn bản có hiệu lực pháp lý cao là BLHS; từ chỗ
chỉ quy định các hành vi bị trừng trị đến chỗ có tên tội danh, khung hình phạt
với các tình tiết tăng nặng chi tiết trong khung hình phạt
- Tội trộm cắp tài sản lúc đầu được quy định riêng rẽ đối với tài sản
XHCN và tài sản riêng của công dân với chính sách xử lý đối với tài sản
XHCN là nghiêm khắc hơn. Hiện nay, với sự thay đổi từ nền kinh tế bao cấp
sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nên quan hệ sở hữu cũng thay
đổi theo. Do đó, điều luật hiện nay đã đã hợp nhất hai điều luật lại với nhau.
- Trong quy định về tội trộm cắp, các nhà làm luật đã từ chỗ không quy
định về giá trị trị tài sản bị trộm cắp đến nay khung cơ bản của tội trộm cắp và
các khung hình phạt tăng nặng đều quy định giá trị cụ thể của tài sản để làm
20
căn cứ định tội cũng như lượng hình phạt.
- Nhà nước ta đã luôn quan tâm đến việc bảo vệ tài sản Nhà nước, tài
sản của hợp tác xã và tài sản của công dân, chính sách xử lý với các hành vi
chiếm đoạt các tài sản này nói chung và hành vi trộm cắp nói riêng trong một
thời gian dài rất nghiêm khắc [19, tr.34].
1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản
theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành
1.2.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản
Theo Từ điển pháp luật hình sự, trộm cắp tài sản là hành vi lén lút
chiếm đoạt tài sản đang có người khác quản lý [9, tr.283].
Theo pháp luật hình sự hiện hành ở nước ta, khái niệm tội phạm được
các nhà làm luật ghi nhận tại Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015. “Tội phạm là
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những
lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ
luật này phải bị xử lý hình sự” [19, Điều 8].
Theo BLHS năm 2015, tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173
thuộc chương XVI quy định về các tội xâm phạm sở hữu.
Theo Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) do
GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên thì để đưa ra được khái niệm tội trộm cắp tài
sản, cần khẳng định tội trộm cắp tài sản phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu
của tội phạm, tức là thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm của nó là: bình
diện khác quan - tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; bình diện pháp lý
21
- tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; bình diện chủ quan - tội phạm là
hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách có lỗi.
Còn theo Ths Đinh Văn Quế thì “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy
tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản mà không
dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn nào nhằm uy
hiếp tinh thần của người quản lý tài sản”. Theo khái niệm này thì chưa chỉ ra
được khách thể cũng như chủ thể của tội trộm cắp tài sản.
Căn cứ quy định của Điều 173 BLHS năm 2015 và trên cơ sở nghiên
cứu các quan điểm trong khoa học luật hình sự về tội phạm này, thì tác giả
đưa ra khái niệm tội trộm cắp tài sản như sau: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi
lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng trở lên
hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi
chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong
các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ
luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;Gây ảnh hưởng xấu đến an
ninh, trật tự, an toàn xã hội;Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của
người bị hại và gia đình họ; Tài sản là di vật, cổ vật. mà còn vi phạm do
người có đủ năng lực TNHS thực hiện với lỗi cố ý”
1.2.2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản
1.2.2.1. Khách thể của tội trộm cắp tài sản
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo
vệ và bị tội phạm xâm hại [22, tr.86].
Tội trộm cắp tài sản không xâm phạm đến quan hệ về nhân thân mà chỉ
xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Đây là điểm khác của Tội trộm cắp tài sản với
các khác cũng có yếu tố chiếm đoạt tương tự nhưng quy định thêm thiệt hại
về tính mạng, sức khoẻ như tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài
22
sản, tội cướp giật tài sản trong tình tiết định khung hình phạt. Tội trộm cắp tài
sản là một trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt không xâm
phạm đến quan hệ về nhân thân. Do vậy cũng giống như các tội xâm phạm sở
hữu khác, tội phạm này xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản. Để gây thiệt hại
đến các quyền sở hữu về tài sản, người phạm tội trộm cắp tài sản phải tác
động đến tài sản của người đang quản lý hợp pháp đối với tài sản bị chiếm
đoạt. Như vậy, về nguyên tắc, đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản phải
là tài sản đang được người khác quản lý hợp pháp. Tuy nhiên, trong trường
hợp người chủ tài sản đã giao tài sản cho người khác quản lý như cho mượn,
giữ hộ… nhưng sau đó lại có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của mình thì
vẫn có thể cấu thành tội trộm cắp tài sản.
Sau khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản nhưng bị đuổi bắt
mà có hành vi "hành hung để tẩu thoát" thì bi xem xét theo quy định tại Mục
6 Phần I Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BCA-
BTP của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công
an, Bộ tư pháp ngày 25 tháng 12 năm 2001về việc hướng dẫn áp đụng một số
quy định tại chương XIV "các tội xâm phạm sở hữu" của bộ luật hình sự năm
1999”.
1.2.2.2. Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản
Mặt khách quan của trộm cắp tài sản là những biểu hiện bên ngoài của
tội phạm bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả [22, tr.99].
- Về hành vi khách quan.
Trong tội trộm cắp tài sản, người phạm tội chỉ có một hành vi khách
quan duy nhất đó là chiếm đoạt tài sản. Dựa vào bản chất của tội trộm cắp tài
sản trên thực tiễn cũng như lý luận đều xác định là hành vi chiếm đoạt tài sản
của người khác một cách lén lút. Trong đó, chiếm đoạt được hiểu là hành vi
23
cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang được sự quản lí của chủ sở hữu tài
sản làm cho chủ tài sản mất khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được
việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó. Đặc trưng lén lút của hành vi
chiếm đoạt trong tội trộm cắp tài sản cũng chỉ đòi hỏi phải có trong ý thức của
người phạm tội, nó thể hiện ở việc người phạm tội che giấu hành vi đang
phạm tội của mình, không cho phép chủ tài sản biết có hành vi chiếm đoạt tài
sản khi hành vi này đang xảy ra. Thực tế cho thấy, khi người phạm tội thực
hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản với chủ sở hữu nhưng lại công khai
chiếm đoạt tài sản với những người có mặt ở đó nhưng những người có mặt
lúc tài sản bị chiếm đoạt vì lý do nào đó mà không biết chủ tài sản là ai,
không có trách nhiệm quản lý tài sản đó thì hành vi của người chiếm đoạt tài
sản trong trường hợp này vẫn bị coi là hành vi trộm cắp tài sản; trong trường
hợp này, người chiếm đoạt tài sản chỉ có hành vi che giấu hành vi trộm cắp
của mình đối với chủ tài sản hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản mà
không cần che dấu với những người khác.
Hành vi chiếm đoạt đã thể hiện mục đích chiếm đoạt của người phạm
tội và dấu hiệu chiếm đoạt trong cấu thành cơ bản là chiếm đoạt tài sản. Do
đó tội phạm hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã chiếm đoạt được tài
sản. Trường hợp tài sản chiếm đoạt nhỏ gọn thì coi là đã chiếm đoạt được khi
người phạm tội đã dấu được tài sản trong người; nếu vật chiếm đoạt không to
lớn hơn thì coi chiếm đoạt được khi đã mang được tài sản ra khỏi khu vực bảo
quản; nếu vật chiếm đoạt là tài sản để ở những nơi không hoàn thành khu vực
bảo quản riêng thì coi là đã chiếm đoạt được khi đã dịch chuyển tài sản khỏi
vị trí ban đầu.Trường hợp, người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc
đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng đã bị phát hiện và giành lại, mà người
phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công
24
người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì hành vi
của người phạm tội chuyển hóa từ sang tội cướp tài sản.
- Về đối tượng tác động.
Theo mô tả của khoản 1 Điều 173 thì đối tượng tác động của tội trộm
cắp tài sản có thể khẳng định là tài sản. Theo Điều 105 Bộ luật dân sự năm
2015 thì: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm
bất động sản và động sản”.
Do dấu hiệu chiếm đoạt trong cấu thành tội phạm trộm cắp tài sản được
thực tiễn xét xử từ trước đến nay hiểu là chiếm đoạt được nên đối tượng tác
động có một số đặc điểm riêng biệt như:
Thứ nhất, không phải mọi loại tài sản đều là đối tượng tác động của tội
trộm cắp tài sản
Do xuất phát từ tính chất chiếm đoạt trong hành vi khách quan của tội
trộm cắp tài sản là chiếm đoạt được và thủ đoạn khi thực hiện hành vi chiếm
đoạt nên không phải mọi tài sản thuộc phạm vi của Điều 105 Bộ luật dân sự là
đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản.
Chẳng hạn, đối với vật thì không phải mọi loại vật mà chỉ những vật có
giá trị, ý nghĩa nhất định. Khi phát sinh ý định chiếm đoạt tài sản thì người
phạm tội đều nhắm đến những đặc điểm mà tài sản đó có. Đó có thể là giá trị
tiềm ẩn của vật, ý nghĩa về một khía cạnh nào đó được nhiều người thừa
nhận… Cho nên, một vật chỉ có thể là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài
sản khi nó có giá trị nhất định.
Thông tư số 34/2013/TT-NHNN ngày 31/12/2013 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam quy định về phát hành kỳ phiếu, tín phiếu, chứng
chỉ tiền gửi, trái phiếu trong nước của tổ chức tín dụng, chi nhanh ngân hàng
nước ngoài được sửa đổi bởi Thông tư số 16/2016/TT-NHNN ngày
30/6/2016. Theo khoản 1, 2, 3, 4 Điều 2 quy định: “Kỳ phiếu, tín phiếu, chứng
25
chỉ tiền gửi, trái phiếu (sau đây gọi là giấy tờ có giá) là bằng chứng xác nhận
nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phát
hành với người mua giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả
lãi và các điều kiện khác”. Và giấy tờ có giá chia làm 02 loại là giấy tờ có giá
ghi danh và giấy tờ có giá vô danh. Với quy định trên thì chỉ giấy tờ có giá vô
danh mới có thể là đối tượng tác động của TTCTS bởi vì khi chiếm đoạt được
các loại giấy tờ có giá vô danh thì quyền sở hữu của chủ sở hữu mới bị ảnh
hưởng và có khả năng xác lập quyền sở hữu cho người phạm tội. Đối với giấy
tờ có giá hữu danh do quyền sở hữu các loại giấy tờ này gắn liền với cá nhân,
tổ chức có tên trong chính giấy tờ có giá đó. Cho nên về nguyên tắc chỉ người
có tên trên giấy tờ có giá mới xác lập được quyền sở hữu đối với loại tài sản
này.
Đối với quyền về tài sản cũng không phải là đối tượng tác động của
TTCTS, bởi vì, Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 ghi nhận: “Quyền tài sản
là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng
quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Các
quyền tài sản thông thường là quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp,
quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo
hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh
nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng, quyền sử dụng đất, quyền khai
thác tài nguyên thiên nhiên và các quyền tài sản khác. Các quyền này thường
gắn liền với nhân thân con người hoặc được thể hiện qua các giấy tờ có xác
nhận của cơ quan có thẩm quyền. Cho nên, cũng như giấy tờ có giá ghi danh
thì người phạm tội không thể xác lập quyền sở hữu đối với các quyền tài sản
của chủ sở hữu.
Bên cạnh đó, BLDS còn phân chia tài sản thành động sản và bất động
sản. Với tính chất hành vi chiếm đoạt của TTCTS thì chỉ có động sản mới là
26
đối tượng tác động của TTCTS. Tuy nhiên, trong những trường hợp nếu bất
động sản lại thuộc vật đồng bộ như: các bộ phận được lắp vào khung căn nhà,
các vật dụng, thiết bị gắn liền với quyền sử dụng đất… có thể tách rời được
thì những tài sản tách rời được có thể là đối tượng tác động của tội trộm cắp
tài sản.
Thứ hai, tài sản đó có thể là hợp pháp hoặc không hợp pháp
Tài sản là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản có thể là tài sản
hợp pháp tức là những loại tài sản được xác lập quyền sở hữu cho chủ sở hữu
theo các căn cứ: do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp;
được chuyển quyền sở hữu; thu hoa lợi, lợi tức; được thừa kế tài sản; chiếm
hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô chủ, vật bị đánh
rơi, bị bỏ quên…; chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay
tình, liên tục, công khai phù hợp với thời hiệu do BLDS quy định … hoặc có
thể là tài sản bất hợp pháp như do phạm tội, vi phạm pháp luật hành chính, vi
phạm pháp luật dân sự mà có. Tuy nhiên, do pháp luật hình sự không loại trừ
tính chất hợp pháp hoặc bất hợp pháp của đối tượng tác động của tội trộm cắp
tài sản. Vì vậy, tài sản hợp pháp hay bất hợp pháp đều có thể là đối tượng tác
động của tội trộm cắp tài sản.
Thứ ba, những loại tài sản đặc biệt là đối tượng tác động của một số
tội riêng biệt cũng không thể trở thành đối tượng tác động của tội trộm cắp
tài sản
Mặc dù, một người có hành vi lén lút chiếm đoạt thư tín, điện báo,
telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu
chính, viễn thông dưới bất kỳ hình thức nào: Chiếm đoạt thư, điện báo, telex,
fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và
máy tính là làm cho thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được
truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính không đến với người
27
nhận bằng nhiều thủ đoạn khác nhau như: dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực,
lén lút, gian dối, bội tín, công nhiên… Cũng giống như hành vi chiếm đoạt tài
sản trong các tội xâm phạm sở hữu là lấy đi, nhưng tính chất chiếm đoạt ở đây
khác chiếm đoạt tài sản ở chỗ, người phạm tội có thể lấy thư, điện báo, telex,
fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và
máy tính cho mình, nhưng cũng có thể chỉ lấy rồi vứt đi, mà không chiếm hữu
sử dụng. Nếu chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được
truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính để dùng vào mục đích
khác và hành vi dùng vào mục đính khác của người phạm tội lại cấu thành
mọt tội phạm độc lập thì tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng nếu hành vi chiếm đoạt chỉ là
phương tiện để thực hiện mục đích thì bị truy cứu theo Điều 159 Bộ luật Hình
sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định vềtội xâm phạm bí mật
hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin
riêng tư khác của người khác. Tương tự như vậy, người có hành vi chiếm đoạt
các tài sản sau cũng không phạm tội trộm cắp tài sản mà phạm tội tương ứng
với hành vi mà BLHS quy định như: chất ma túy, tàu thủy, tàu bay; vũ khí
quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; vật liệu nổ; chất phóng xạ; con dấu,
tài liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội; tài liệu bí mật công tác; Tội
chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác...
Thứ tư, tài sản đó chưa được chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản
chuyển giao cho người thực hiện hành vi chiếm đoạt
Việc người có hành vi chiếm đoạt lén lút chiếm đoạt tài sản mà có được
chủ sở hữu, người quản lý tài sản chuyển giao hay không chuyển giao cho họ
đều là hành vi phạm tội. Tuy nhiên, dấu hiệu có chuyển giao hay không là
một trong các dấu hiệu quan trọng để phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp việc chuyển giao không
28
rõ ràng thì cần dựa vào tính chất, địa điểm đặt tài sản để định tội. Trong
trường hợp những tài sản được đặt ở nơi mà ai cũng có tiếp cận như máy vi
tính, tivi, xe mô tô, điện thoại bàn không có sự cất giấu thì người thực hiện
hành vi lén lút chiếm đoạt vẫn phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản. Trường hợp, tài sản được chủ sở hữu cất giấu cẩn thận (như: các vật trang
sức, vàng bạc, tiền…) thì người có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản sẽ phạm
tội trộm cắp tài sản.
Đối với trường hợp một người có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản do
người khác phạm tội mà có nếu người thực hiện hành vi chiếm đoạt không
được người phạm tội chuyển giao tài sản thì người có hành vi lén lút chiếm
đoạt tài sản phạm TTCTS chứ không phải tội tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có.
- Về hậu quả.
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội trộm cắp tài sản là những thiệt
hại do người phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra do khách thể của tội phạm.
Tội trộm cắp tài sản xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu của người chủ tài
sản, đó là quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Bị coi là phạm tội
trộm cắp tài sản trong trường hợp tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ hai triệu
đồng trở lên, hoặc nếu giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới hai triệu đồng thì phải
thỏa mãn một trong những điều kiện như: gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã
bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội xâm
phạm sở hữu, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Tội trộm cắp tài sản chỉ
coi là hoàn thành khi người thực hiện hành vi trộm cắp đã chiếm đoạt được tài
sản, còn khi họ chưa chiếm đoạt được tài sản thì hành vi của họ chưa CTTP.
Phạm tội trộm cắp tài sản do chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai triệu đồng trở
lên là trường hợp người phạm tội một lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản
có giá trị từ hai triệu đồng trở lên.
29
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
Trong mối quan hệ nhân quả của mặt khách quan của tội trộm cắp tài
sản thì hành vi phạm tội được coi là nguyên nhân và thiệt hại gây ra cho
người đang quảng lý tài sản được coi là hậu quả tội phạm này. Quan hệ nhân
quả có 2 dạng chính là quan hệ nhân quả đơn trực tiếp và quan hệ nhân quả
kép trực tiếp. Trường hợp trộm cắp tài sản chỉ do một người phạm tội gây ra
thì đó là quan hệ nhân quả đơn trực tiếp, trường hợp nhiều người tham gia vào
việc phạm tội thì quan hệ là quan hệ kép trực tiếp.
1.2.2.3. Chủ thể của tội trộm cắp tài sản
Chủ thể của tội trộm cắp tài sản là người đã có lỗi trong việc thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ
độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.
Chủ thể của tội trộm cắp tài sản là chủ thể thường, tức là bất cứ ai có
năng lực trách nhiệm hình sự đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Như vậy người phạm tội trộm cắp tài sản là người đủ từ 14 tuổi trở lên,
khi thực hiện hành vi phạm tội không bị mắc bệnh tâm thần, có khả năng
nhận thức, và có thể điều khiển hành vi của mình. Bởi vì, tội trộm cắp tài sản
quy định trong Bộ luật Hình sự là tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng do cố ý nên theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự thì
nếu người từ đủ 14 tuổi nhưng dưới 16 tuổi nếu phạm tội quy định tại khoản
2, 3, 4 Điều 173 Bộ luật Hình sự thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về
hành vi của mình. Trường hợp người phạm tội thuộc tại khoản 3 và khoản 4
Điều 173 BLHS thì chỉ cần xác định người phạm tội đủ 14 tuổi là đã phải chịu
trách nhiệm hình sự, nhưng nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và
khoản 2 Điều 173 BLHS thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi mới phải chịu
TNHS.
1.2.2.4. Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản
30
Tội trộm cắp tài sản cũng được thực hiện do lỗi cố ý, mục đích của
người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản của người đang quản
lý tài sản bằng thủ đoạn lén lút. Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt
buộc trong cấu thành tội phạm của tội này. Tuy nhiên, người phạm tội có thể
có những mục đích khác thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội trộm cắp tài sản, nếu mục đich đó không cấu thành một tội
phạm độc lập. Căn cứ vào mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội
trộm cắp tài sản thì người phạm tội phải có động cơ tư lợi, mong muốn chiếm
đoạt tài sản của người khác để phục vụ cho nhu cầu và lợi ích bản thân. Động
cơ đã thúc đẩy, tạo động lực để người phạm tội thực hiện hành vi đến cùng.
Ví dụ: Vì ghét B nên A đã xúi giục C lấy trộm xe của B, nhưng không đòi C
phải chia tiền bán xe cho mình. Trong trường hợp này, A sẽ bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản với vai trò là đồng phạm (người xúi
giục) mặc dù mục đích của A không phải là chiếm đoạt là tài sản.
1.3. Những hạn chế, thiếu sót của Bộ luật Hình sự hiện hành trong
quy định về tội trộm cắp tài sản
BLHS sửa đổi đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015, có hiệu
lực vào ngày 1/7/2016. Về cơ bản, tội trộm cắp tài sản trong BLHS (sửa đổi)
kế thừa những quy định tại Điều 138 BLHS năm 1999 (sửa đổi). Tuy nhiên,
việc hiểu, áp dụng các quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm
2017) cũng như các văn bản hướng dẫn về tội TCTS còn chưa thống nhất, gặp
nhiều khó khăn, vướng mắc xuất phát từ nguyên nhân là những hạn chế, thiếu
sót của Bộ luật Hình sự hiện hành trong quy định về tội trộm cắp tài sản, cụ
thể như sau:
Thứ nhất, về khái niệm tội trộm cắp tài sản vào trong Điều 173 BLHS
Có ý kiến cho rằng “tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút với chủ sở
31
hữu nhằm chiếm đoạt tài sản” hay “tội trộm cắp tài sản được hiểu là hành vi
lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng trở lên
hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm
đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn
vi phạm” hoặc “trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy tài sản của chủ sở hữu
hoặc người có trách nhiệm quản lý tài mà không dùng vũ lực hoặc đe doạ
dùng vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn nào nhằm uy hiếp tinh thần của người
quản lý tài sản”….
Thứ hai, khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối đa trong khung hình
phạt còn khá rộng
Theo quy định tại Điều 173 BLHS, khoảng cách giữa mức tối thiểu và
tối đa trong khung hình phạt quá dài. Tại khoản 2 phạt tù từ 02 năm đến 07
năm; tại khoản 3 phạt tù từ 07 năm đến 15 năm; tại khoản 4 phạt tù từ 12 năm
đến 20 năm. Điều đó dẫn đến việc áp dụng mức hình phạt phụ thuộc phần lớn
vào ý chí chủ quan của các thành viên trong Hội đồng xét xử có một số
trường hợp còn xảy ra tiêu cực khi lượng hình. Chính vì vậy, một số vụ án
xảy ra tình trạng không công bằng trong quyết định hình phạt đối với cáo bị
cáo, trong cùng một vụ án hoắc trong các vụ án khác nhau nhưng có nội dung
tương tự. Để góp phần hoàn thiện BLHS về tội trộm cắp tài sản, tác giả cho
rằng cần sửa đổi theo hướng rút ngắn khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối
đa trong mỗi khung hình phạt. Cụ thể: khoản 2 có mức hình phạt từ 2 năm
đến 5 năm; khoản 3 có mức hình phạt từ 5 năm đến 10 năm; khoản 4 có mức
hình phạt từ 10 năm đến 15 năm; bổ sung thêm khoản 5 có mức từ 15 năm
đến 20 năm.
Thứ ba, tình tiết định khung đối với hình phạt bổ sung là phạt tiền
chưa được quy định
Theo quy định của BLHS tại Điều 32 thì chủ thể thực hiện hành vi
32
phạm tội chỉ bị áp dụng một loại hình phạt chính và có thể bị áp dụng một
hoặc một số loại hình phạt bổ sung. Như vậy, khi hình phạt tiền được áp dụng
là hình phạt chính thì không áp dụng là hình phạt bổ sung, còn khi hình phạt
tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung thì có thể áp dụng kèm với hình phạt
chính và các hình phạt bổ sung khác như quản chế; cấm đảm nhiệm chức vụ,
cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; trục xuất; tước một
số quyền công dân; tịch thu tài sản...
Với chức năng hỗ trợ cho hình phạt chính, phạt tiền với tư cách là hình
phạt bổ sung tạo điều kiện để toà án có thể xử lí triệt để và công bằng đối với
người phạm tội nhằm đạt được mục đích cao nhất của hình phạt nhưng trên
thực tế khi xét xử thì phần lớn Thẩm phán không áp dụng hình phạt bổ sung.
Bên cạnh đó, khoảng cách phạt giữa mức tối thiểu và tối đa là khá lớn (từ 5
triệu đồng đến 50 triệu đồng) rất dễ dẫn đến sự tuỳ tiện, không thống nhất
trong khi giải quyết những vụ việc tương tự, việc áp dụng mức phạt tiền là
bao nhiêu phụ thuộc vào suy nghĩ chủ quan của Thẩm phán.
Tại điểm d, khoản 1 Điều 173 quy đinh: “Tài sản là phương tiện kiếm
sống chính của bị hại và gia đình họ và điểm đ, khoản 1 Điều 173 quy định “
tài sản là di vật, cổ vật”. Những tài sản này có thể có những loại tuy giá trị
quy thành tiền không đáng kể, nhưng trong từng hoàn cảnh cụ thể, nó lại có
giá trị rất lớn về văn hóa, về tinh thần, thậm chí có tiền cũng không thể mua
được, đặc biệt, không thể quy giá trị tài sản này thành tiền. Chúng tôi thống
nhất với quy định này, tuy nhiên, cơ sở để xác định tài sản đó có giá trị ”đặc
biệt về mặt tinh thần” đối với bị hại và gia đình là điều không dễ. Cần có quy
định khoa học, cụ thể, rõ ràng để quy định này áp dụng được trên thực tế.
Tiểu kết Chương 1
Trong Chương 1 của Luận văn, tác giả đã nghiên cứu một số vấn đề lý
luận về tội trộm cắp tài sản như: làm rõ những dấu hiệu pháp lý của pháp luật
33
hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản, quy định về tội trộm cắp tài sản
trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay, những quy định mới
trong BLHS năm 2015 và những hạn chế, thiếu sót của Bộ luật Hình sự hiện
hành trong quy định về tội trộm cắp tài sản. Qua nghiên cứu các nội dung này,
tác giả tổng kết một số kết quả như sau:
1. Xây dựng được khái niệm tội trộm cắp tài sản như sau: Tội trộm cắp
tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội, lén lút chiếm đoạt tài sản thuộc quyền
sở hữu của người khác, do người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý. Đồng thời, đi sâu vào
phân tích được các dấu hiệu pháp lý của tội cắp tài sản theo pháp luật hình sự
hiện hành.
2. Nghiên cứu được lược sử hình thành và phát triển của tội trộm cắp
tài sản giai đoạn từ năm 1945 đến BLHS năm 2015 qua đó chỉ rõ sự kế thừa
và phát triển ngày càng hoàn thiện hơn quy định về tội trộm cắp tài sản trong
pháp luật hình sự Việt Nam.
3. Tìm ra những điểm mới được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện trong
BLHS năm 2015 so với quy định trước đây, chỉ ra những thiếu sót còn hạn
chế. Đồng thời, những kết quả nghiên cứu của Chương 1 là cơ sở, tiền đề để
tác giả nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật tại chương 2.
34
CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI
TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỘI AN,
TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Tình hình có liên quan đến tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
2.1.1. Khái quát chung về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội trên địa bàn thành phố Hội An
Thành phố Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam, nằm bên bờ Bắc hạ lưu sông
Thu Bồn; có tổng diện tích tự nhiên 61,71 km2, cách thành phố Đà Nẵng
30km về phía đông nam, có vị trí địa lý: Phía đông giáp biển Đông; Phía tây
giáp thị xã Điện Bàn; Phía nam giáp huyện Duy Xuyên; Phía bắc giáp thị xã
Điện Bàn và biển Đông.
Ngoài lợi thế nằm gần sân bay Chu Lai của Quảng Nam và cảng hàng
không quốc tế hiện đại Đà Nẵng, Hội An còn có một ưu thế đặc biệt với vị trí
nằm trên “Con đường di sản văn hóa miền Trung” bao gồm: Hội An- Mỹ
Sơn- Huế. Đây được xem là điều kiện khách quan thuận lợi giúp Hội An thu
hút được một lượng lớn khách du lịch trong và ngoài nước.
Vị trí tiếp giáp biển Đông và cụm đảo Cù Lao Chàm - Khu dự trữ sinh
quyển thế giới đã tạo cho Hội An có thêm lợi thế về khai thác du lịch biển
đảo. Các bãi biển An Bàng, Cửa Đại cách trung tâm phố cổ Hội An khoảng 3
km về phía Đông được bình chọn xếp hạng trong danh sách 50 bãi biển đẹp
nhất trên thế giới. Đặc biệt, 7 km bờ biển Hội An nằm trên trục con đường
biển “5 sao” nối từ phía Nam hầm đèo Hải Vân (Đà Nẵng), dọc theo vành đai
bờ biển Liên Chiểu- Thuận Phước, qua bán đảo Sơn Trà và xuôi theo bãi biển
Non Nước về phố cổ Hội An. Và trong tương lai gần sẽ kết nối với các vùng
35
ven biển phía Nam dọc theo dòng Trường Giang vào đến Quảng Ngãi.
Thành phố Hội An có 13 đơn vị hành chính cấp xã, phường bao gồm 9
phường: Tân An, Thanh Hà, Cẩm An, Cẩm Châu, Cửa Đại, Minh An, Cẩm
Nam, Cẩm Phô, Sơn Phong và 4 xã: Cẩm Kim, Cẩm Thanh, Cẩm Hà, Tân
Hiệp. Hội An trở thành thành phố vào tháng 1 năm 2008 trên cơ sở toàn bộ
diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Hội
An, với 6.148 ha, 122.000 nhân khẩu.
Theo thống kê năm 2019, thành phố Hội An có diện tích là 61,48 km²
và có dân số là 98.599 người: trong đó dân số thành thị là 72.898 người chiếm
75%, dân số nông thôn là 25.701 người chiếm 26%, mật độ dân số đạt 1.604
người/km². Hội An là đô thị lớn thứ hai của Quảng Nam. Tỷ lệ đô thị hoá của
Hội An đã đạt khoảng 75%.
Năm 2019, kinh tế tiếp tục tăng trưởng và phát triển đều trên các lĩnh
vực. Tổng giá trị sản xuất (GO) theo giá so sánh năm 2010 ước đạt 11.780,9
tỷ đồng, tăng 14,34% so với năm 2018, vượt 5,22% so với kế hoạch. Thu
nhập bình quân đầu người đạt 53,1 triệu đồng, tăng 3,1 triệu đồng so với KH
đề ra. Ngành du lịch, thương mại, dịch vụ đạt 4.635 tỷ đồng, tăng 17,34%; đã
có 2,2 triệu lượt khách tham quan, lưu trú tại Hội An, tăng 88,79% so với
cùng kỳ (chủ yếu là khách Hàn Quốc, Trung Quốc); tổng khách lưu trú là 885
nghìn lượt, bình quân ngày khách lưu trú đạt 2,08 ngày. Tuy vậy, cũng chứng
kiến những tồn tại, hạn chế cần khắc phục trên các lĩnh vực du lịch; công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; công tác quản lý đất đai; an ninh trật tự… Theo
thống kê của Công an TP.Hội An, đến cuối năm 2019, toàn thành phố xảy ra
52 vụ phạm pháp hình sự liên quan đến tài sản, trong đó có 38 vụ trộm cắp tài
sản. Số thiệt hại các đối tượng gây ra trong các vụ việc gồm 6 laptop, 19 điện
thoại di động, 4.330 USD, 250 Euro, 470 nghìn yên Nhật, 10 cây vàng..., đó
là chưa kể một số tài sản bị hư hỏng.
36
2.2.2. Tình hình xét xử tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố
Hội An, tỉnh Quảng Nam
Trong những năm qua, tuy điều kiện công tác còn nhiều khó khăn
nhưng toàn thể các cán bộ của các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Hội
An vẫn luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Bằng sự cố gắng, nỗ lực của
các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Hội An, công tác xử lý các vụ án đã
đạt hiệu quả cao, chưa có trường hợp nào xét xử oan người không có tội hoặc
bỏ lọt tội phạm, thực hiện đúng và đầy đủ thủ tục tố tụng, không để án quá
hạn luật định. Cơ quan tiến hành tố tụng định tội danh trong quá trình giải
quyết vụ án đã đánh giá một cách toàn diện, khách quan. Các chứng cứ được
thu thập đầy đủ, đúng quy định của pháp luật tố tụng, các tình tiết xác định
hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ của vụ
án hình sự để xem xét, định tội danh một cách đầy đủ, khách quan và chính
xác đảm bảo thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm đã được quy định trong
Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.
Theo thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Hội An trong 5 năm qua
trên địa bàn thành phố Hội An đã xảy ra 216 vụ phạm pháp hình sự, trung
bình mỗi năm xảy ra 43 vụ. Trong đó, các tội xâm phạm sở hữu 97 vụ, chiếm
tỷ lệ 44,9%. Đặc biệt đáng chú ý trong năm năm đã xét xử 68 vụ trộm cắp tài
sản.
Dưới đây là bảng thống kê có liên quan đến tội trộm cắp tài sản trong
mối tương quan với tình hình tội phạm chung và các tội phạm xâm phạm sở
hữu đã bị khởi tố và xét xử trên địa bàn thành phố Hội An từ năm 2015 đến
năm 2019 (số liệu tổng hợp của Tòa án nhân dân thành phố Hội An).
37
Bảng 2.1. Cơ cấu các vụ tội phạm đã được đưa ra xét xử
giai đoạn 2015 - 2019
Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 S Nhóm tội Số Số bị Số Số bị Số Số bị Số Số bị Số Số bị TT vụ cáo vụ cáo vụ cáo vụ cáo vụ cáo
1 Xâm phạm sở 19 29 17 32 15 26 22 37 24 41 hữu
2 Tính mạng, sức 8 12 11 9 15 12 18 6 7 15 khỏe
3 Trật tự xã hội 5 9 5 9 4 6 2 6 5 13
4 Ma túy 11 15 13 18 12 12 15 10 7 15
5 Khác 0 0 1 1 0 1 3 0 0 0
Tổng cộng 43 65 39 67 37 62 51 79 46 84
Nguồn: Thống kê Tòa án nhân dân thành phố Hội An
Bảng 2.2. Cơ cấu các vụ án trộm cắp tài sản đã được đưa ra xét xử giai
đoạn 2015 - 2019
Tổng số
Số vụ/ số
Số vụ/ số
Tỷ lệ (%)
vụ/tổng số
bị
bị
Số bị cáo/số
bị cáo
cáo phạm
cáo phạm
STT
vụ phạm tội
phạm tội
tội xâm
tội trộm
(2)/(1)
(3)/(1)
trộm cắp tài
nói chung
phạm sở
cắp tài sản
sản
(1)
hữu (2)
(3)
2015
43/65
19/29
11/19
44.18/44.61 25.58/29.23
1,72
2016
39/67
17/32
13/20
43.58/47.76 33.33/29.85
1,53
2017
37/62
15/26
09/13
40.54/41.93 24.32/20.96
1,44
2018
51/79
22/37
14/23
43.13/46.83 27.45/29.11
1,64
2019
46/84
24/41
16/27
52.17/48.81 34.78/32.14
1,68
Tổng 216/357
97/165
63/102
44.91/46.21 29.16/28.57 1,61
Nguồn: Thống kê Tòa án nhân dân thành phố Hội An
38
Thông qua các bảng khảo sát số liệu trên cho thấy, từ năm 2015 đến năm
2019, Tòa án nhân dân thành phố Hội An đã xét xử tổng cộng 216 vụ án hình
sự với 357 bị cáo, trong đó:
Nhóm tội xâm phạm sở hữu chiếm tỷ lệ lớn trong các nhóm tội, cụ thể là
97 vụ và 165 bị cáo, tương ứng tỷ lệ 44,91% về vụ và 46,21% về số bị cáo trên
tổng số vụ và bị cáo phạm tội nói chung. Từ các bảng số liệu về cơ cấu các vụ
án trộm cắp tài sản đã được đưa ra xét xử giai đoạn 2015 – 2019 cho thấy, tội
trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An trong 5 năm qua vẫn duy trì ở
mức cao, mặc dù có chiều hướng tăng cả về số vụ lẫn bị cáo, trung bình mỗi
năm khoảng 13 vụ với 20 bị cáo, chiếm tỷ lệ 1,61 người/vụ.
- So sánh với các tội phạm trong nhóm tội sở hữu thì số vụ phạm tội
trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ lớn nhất trong cơ cấu nhóm tội xâm phạm sở hữu,
cụ thể là Tòa án nhân dân thành phố Hội An đã đưa ra xét xử 63 vụ với 102 bị
cáo phạm tội trộm cắp tài sản, chiếm tỷ lệ 29,16% số vụ và 28,57% số bị cáo
trên tổng số bị cáo phạm tội nói chung; và chiếm tỷ lệ 64,94% số vụ và
61,81% số bị cáo trên tổng số tội xâm phạm sở hữu.
2.2. Thực trạng định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội
trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
So với BLHS năm 1999, tội trộm cắp tài sản trong BLHS năm 2015 đã
được sửa đổi, bổ sung đầy đủ, cụ thể hơn nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho
các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc nhận thức và áp dụng thống nhất các
quy định của BLHS trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các tội trộm cắp
tài sản những năm qua. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật
hình sự hiện hành về các tội phạm này những năm gần đây cho thấy giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế trong quá trình giải
quyết các vụ án. Cụ thể là:
39
- Thứ nhất: Vướng mắc trong xác định tội danh
Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội
An, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn từ năm 2015 đến 2019 cho thấy đa số
các tòa án đều định tội danh đúng. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn một số
vướng mặc. Điển hình như vụ án tại Bản án hình sự sơ thẩm số
08/2016/HSST ngày 03/2/2016 của TAND TP Hội An:
Khoảng 17 giờ ngày 28/11/2015 Bùi Thị N đi chơi tại xã Cẩm Thanh
nhưng do xe bị hỏng, trời gần tối nên N phải gửi xe tại gia đình chị Bùi Thị P
rồi thuê xe ôm của anh Bùi Văn Đ. Khi đi đến đường Trần Phú, do không có
đủ tiền mặt để trả xe ôm nên chị Bùi Thị N nói với Đ đợi chị vào cây ATM để
rút tiền, khi đi chị Nhi vẫn để chiếc cặp số của mình tại xe máy của Đức và
nói nhờ Đức trông hộ. Do trên đường đi chị N có nói chuyện với Đ về việc
mình mới đi làm ăn tại Mỹ về, có người bạn nhờ mang quà về cho gia đình tại
nên Đ nghĩ chiếc cặp số của chị N sẽ có nhiều tài sản có giá trị nên đã nảy
sinh ý định chiếm đoạt tài sản. Lợi dụng lúc chị N mải rút tiền không để ý Đ
đã nổ máy chạy mất mang theo chiếc cặp số của chị Bùi Thị N. Kết quả điều
tra cho thấy toàn bộ tài sản bị cáo Đức chiếm đoạt gồm: 500 đô la Mỹ, 01 bộ
quần áo; cùng toàn bộ giấy tờ tùy thân của chị N. Đối với hành vi nêu trên của
Bùi Văn Đ có một số quan điểm khác nhau về việc định tội danh cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng cần phải truy tố, xét xử bị cáo Đ về tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản vì: trong vụ án này chị N đã tin tưởng
giao tài sản cho Đ và nhờ Đ trông coi giúp, Đ đã lợi dụng lòng tin của chị N
và chiếm đoạt tài sản của chị N.
Quan điểm thứ hai cho rằng Bùi Văn Đ phạm tội Công nhiên chiếm
đoạt tài sản vì Bùi Văn Đ đã chiếm đoạt tài sản của chị Nhi trong tình trạng
chị N biết Đ thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của mình nhưng không thể
làm gì được.
40
Quan điểm thứ ba cho rằng đây là tội trộm cắp tài sản vì hành vi của
Bùi Văn Đ thỏa mãn dấu hiệu lén lút chiếm đoạt tài sản của chị N trên cơ sở
nhận định một số điều kiện cụ thể: khoảng cách giữa cây ATM với chỗ Đ
dựng xe là khoảng 15m; Đ ngồi sẵn trên xe; chị Nhi đứng quay lưng vào Đ và
mải rút tiền nên không thấy việc Đ lấy xe của mình.
Tòa án nhân dân TP Hội An kết luận Bùi Văn Đ phạm tội trộm cắp tài
sản, án có hiệu lực và không bị kháng cáo kháng nghị. Cần đồng tình với kết
quả xét xử của Tòa án trên cơ sở phân tích theo quan điểm thứ ba để thấy rõ
rằng hành vi của Đ đã thỏa mãn dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản.
Rõ ràng việc định tội trong thực tế về tội trộm cắp tài sản cũng có vấn
đề khi điều luật không mô tả hành vi thế nào là trộm cắp tài sản.
- Thứ hai: Xác định không đúng khung hình phạt
Về cơ bản, các vụ án xảy ra trên địa bàn đã được TAND thành phố Hội
An áp dụng đúng các quy định của BLHS về quyết định hình phạt đối với tội
trộm cắp tài sản trong các trường hợp như: theo cấu thành cơ bản cuả tội trộm
cắp tài sản, theo các cấu thành tăng nặng của tội trộm cắp tài sản và trong
trường hợp đặc biệt. Các trường hợp quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp
tài sản tương ứng với các trường hợp định tội danh tội trộm cắp tài sản, gắn
liền với định tội danh tội trộm cắp tài sản theo cấu thành tội phạm. Thực tiễn
áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản, qua nghiên cứu của tác giả trên
địa bàn thành phố Hội An vẫn có một số tồn tại, vướng mắc như vụ án sau
đây.
Vụ án: T và Đ rủ nhau đi bắt trộm chó. T sử dụng các đồ vật mang
theo, tiến hành làm dụng cụ bắt trộm chó, rồi điện thoại cho Đ chạy xe ra đón.
Trên đường đi phát hiện một con chó. Đ dừng xe, T dùng dụng cụ đã chuẩn bị
tròng vào cổ con chó kéo lên xe, Đ chở đi được khoảng 20m thi gặp lực lượng
công an xã đang tuần tra phát hiện truy đuổi. Trên đường bỏ chạy, T thả lại
41
con chó dưới đường (con chó còn sống, hôm sau quay về nhà). Sau đó cả hai
bị bắt. TAND thành phố Hội An đã xử Đ phạm tội trộm cắp tài sản, áp dụng
điểm a khoản 2 Điều 138; điểm g, p khoản 1, 2 Điều 46; Điều 47 BLHS.
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xử Đ 06 tháng tù giam về tội trộm
cắp tài sản theo khoản 1 điều 138 BLHS
Theo quan điểm của tác giả thì: Do bị cáo Đ đã bị xử phạt hành chính
về hành vi chiếm đoạt vào ngày 27/5/2014 nên hành vi cùng T bắt trộm 01
con chó, trị giá 400.000 đồng mới hội đủ yếu tố cấu thành cơ bản tội phạm
nhưng cấp sơ thẩm truy tố và xét xử bị cáo Đ theo điểm a khoản 2 Điều 138 là
không đúng, gây bất lợi cho bị cáo.
Đồng thời, đây là vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn,
không phải là vụ án có tổ chức. Đ và T đều là người thực hành, giữa Đ và T
không có sự bàn bạc, phân công, không có sự câu kết chặt chẽ theo Điều 20
BLHS năm 1999, đơn thuần là T rủ rê và Đ đồng ý rồi cùng nhau thực hiện
hành vi, sau đó bị công an phát hiện. Như vậy, tòa sơ thẩm áp dụng khoản 2
Điều 138, phạm tội có tổ chức là không phù hợp.
- Thứ ba: Tuyên mức hình phạt tù không tương xứng với hành vi
phạm tội của bị cáo
Tòa án cân nhắc không đúng căn cứ “tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội” nên khi quyết định hình phạt cho bị cáo thiếu
chính xác dẫn đến tuyên phạt mức án quá nhẹ, không có tính răn đe, giáo dục
các bị cáo hoặc quá nặng, không cá thể hóa hình phạt. Thực tiễn đó đã và
đang diễn ra, thể hiện qua các vụ án sau đây:
Vụ án: Ngày 25/3/2016, Ch gặp K tại thành phố Đà Nẵng, K rủ Ch đi
trộm xe máy kiếm lấy tiền tiêu xài. Khoảng 22 giờ đến trạm y tế xã Cẩm Kim,
K và Ch nhìn thấy xe máy, BKS 92C… nhãn hiệu Wave RS Cả hai dừng lại,
K dắt xe máy giấu vào bụi cây ven đường rồi cùng Ch đi bộ vào trạm y tế lấy
42
xe và đẩy ra phía sau trạm y tế. Tại đây, cả hai cùng bẻ khóa cổ, bật dây khóa
điện để nổ máy xe. Ch điện thoại cho L nhờ L bán xe máy trộm cắp. Khi L
đến thì K và Ch giao xe cho L, đến trưa L quay lại quán cà phê đưa cho K và
Ch 700.000 đồng và nói là đem xe bán phế liệu được 800.000 đồng, L lấy
100.000 đồng. K và Ch chia nhau mỗi người 300.000 đồng, còn 100.000 đồng
thì xài chung. Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định giá trị
còn lại của chiếc xe mô tô là 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).
Bản án sơ thẩm xác định bị cáo K và Ch phạm tội trộm cắp tài sản theo
điểm a, khoản 2, Điều 138 BLHS và các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ
theo điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS nên áp dụng điều 47 BLHS
và xử phạt bị cáo K 12 tháng tù và xử phạt bị cáo Ch 09 tháng tù.
Qua vụ án trên nhận thấy, hành vi của K và Ch phạm tội có tổ chức, có
sự thông mưu lâu dài và bền vững, cả K và Ch cùng là người thực hành, số
tiền bán tài sản trộm cắp được chia đôi nên mức án đối với bị cáo K và Ch là
ngang nhau. Hơn nữa, khung hình phạt theo điểm a, khoản 2 Điều 138 BLHS
từ 2 đến 7 năm nhưng tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 47 xử phạt các bị cáo
mức án như thế là quá nhẹ, không có tính răn đe, giáo dục các bị cáo…
Vụ án: Ngày 12/12/2014, thấy T muốn chơi game nhưng không có tiền,
Đ đã xúi giục T trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài và chơi game. Đêm
ngày 13/12/2014, Đ và T cùng nhau rủ đi trộm cắp tài sản, bàn bạc là thấy chỗ
nào sơ hở thì vào trộm. Đ điều khiển xe chở T, khi đi đến khu vực cổng phụ
công ty trách nhiệm hữu hạn Thái Bình phát hiện có nhiều bành sắt phi 3 bên
trong. Cả hai cùng trèo qua tường rào vào bên trong khu vực công ty rồi Đ lấy
chiếc kiềm cộng lực có sẵn tại đây cắt một bành sắt phi 3 phân ra thành những
cuộn nhỏ hơn rồi cùng T vận chuyển ra bên ngoài đi tiêu thụ. Đ ở bên trong
chuyển các cuộn sắt ra bên ngoài cho T giữ. Khi đang chuyển đến cuộn thứ ba
thì bị lực lượng bảo vệ công ty trách nhiệm hữu hạn Thái Bình phát hiện, bắt
43
giữ cùng tang vật và báo công an.
Tại thời điểm phạm tội Đ đã thành niên và T là vị thành niên, cả hai bị
Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận xét là có vai trò ngang nhau trong vụ án trộm
cắp tài sản theo điểm a khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự.
Đ bị áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 47 BLHS và bị áp dụng
tình tiết tăng nặng theo điểm n khoản 1 Điều 48 BLHS (xúi giục người chưa
thành niên phạm tội). T cũng được áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 74,
Điều 69 (không áp dụng Điều 47) BLHS. Cả hai bị cáo cùng bị xử phạt 01
năm 06 tháng tù. Vụ án này có những vấn đề sau:
Nếu theo phương pháp đối trừ 01 tình tiết tăng nặng tại Điều 48 BLHS
thì trường hợp của Đ không đủ điều kiện áp dụng Điều 47 BLHS. Như vậy,
Hội đồng xét xử đã không tính trừ đi tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
tại Điều 48 đối với Đ, đồng thời cũng xác định điểm p khoản 1 Điều 46 là có
02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới áp dụng Điều 47 cho Đ, áp
dụng pháp luật về Điều 47 như thế là không đúng quy định. Hơn nữa, cả hai
bị cáo Đ và T có vai trò ngang nhau, nhưng T là người chưa thành niên, theo
quy định của pháp luật thì mức hình phạt của T cao nhất là bằng ¾ của Đ,
việc xử phạt cả hai bị cáo cùng mức 01 năm 06 tháng tù là không đúng.
- Thứ tư: Việc áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo còn tùy tiện
Về lý luận “án treo” không phải là hình phạt, mà chỉ là biện pháp “miễn
chấp hành hình phạt tù có điều kiện”. Điều kiện mà pháp luật quy định đó
chính là “thời gian thử thách”. Do đó, hình phạt tù mà tòa án áp dụng cho bị
cáo được hưởng án treo là tạm thời chưa bắt bị cáo phải chấp hành mà phải
tuẩn thủ các quy định về án treo, nếu trong thời gian thử thách mà bị cáo
phạm tội mới thì mới bắt bị cáo chấp hành.
Nếu hết thời gian thử thách mà bị cáo không phạm tội mới nữa thì coi
như không bị phạt tù.
44
Việc cho các bị cáo được hưởng án treo thể hiện tính nhân đạo trong
chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta, song nếu các tòa án áp dụng
quá linh hoạt, quá thoáng thì không phát huy được tác dụng giáo dục, phòng
ngừa tội phạm.
Phải thừa nhận để xảy ra tình trạng áp dụng án treo tùy tiện như trên
chính là do luật hở nên dễ bị lạm dụng. Quy định tại khoản 1 điều 65 Bộ luật
hình sự về việc “xét thấy không cần thiết phải chấp hành hình phạt tù thì tòa
án quyết định cho bị cáo được hưởng án treo” mang tính tùy nghi, dễ bị chi
phối bởi quan điểm chủ quan của thẩm phán, không loại trừ yếu tố tiêu cực..
Cụ thể như trường hợp vụ án sau:
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2019/HSST ngày 09/2/2019 đã quyết
định: Áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 173; Điểm b, r, s Khoản 1, Khoản 2
Điều 51, Khoản 1 Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt các bị
cáo Hồ Văn T, Hồ Văn D mỗi bị cáo 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo,
thời gian thử thách 30 tháng cùng về tội trộm cắp tài sản.
Ngày 05/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam đã ban
hành kháng nghị phúc thẩm phần hình phạt của bản án hình sự sơ thẩm nêu
trên đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử vụ án theo hướng không
áp dụng Điều 65 BLHS 2015 và không cho bị cáo Hồ Văn T hưởng án treo.
Việc kháng nghị đúng hình thức và chủ thể theo quy định tại Điều 336, Điều
337 và Điều 338 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên đã phát biểu quan điểm: Tòa án
cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Hồ Văn T, Hồ Văn D về tội trộm cắp tài sản
với tình tiết định khung “Có tổ chức” quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 173
BLHS là có căn cứ. Tuy nhiên, trong vụ án này, bị cáo Hồ Văn T giữ vai trò
chính, là người chủ mưu, khởi xướng, thực hành tích cực, trực tiếp thực hiện
hành vi trộm cắp tài sản của người bị hại; bị cáo Hồ Văn D giữ vai trò thứ
45
yếu, có hành vi tham gia bàn bạc, chuẩn bị công cụ, cùng T cạy phá rồi sửa lại
hàng rào và canh giới bên ngoài; Tòa án cấp sơ thẩm nhận định vai trò của
các bị cáo trong vụ án này ngang nhau là không chính xác. Từ đó áp dụng
Điều 65 BLHS cho bị cáo Hồ Văn T được hưởng án treo là vi phạm Nghị
quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo.
Tại Khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 02 quy định những trường hợp không cho
hưởng án treo: “Người phạm tội là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan
cố chống đối, côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp,
lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng”. Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng Điểm b Khoản 1 Điều 355; Điểm d
Khoản 2 Điều 357 BLTTHS 2015 chấp nhận kháng nghị của VKSND tỉnh
Quảng Nam; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2019/HSST ngày 09/10/2019
theo hướng không áp dụng Điều 65 BLHS năm 2015 và không cho bị cáo Hồ
Văn T hưởng án treo.
Thống nhất với quan điểm của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử đã chấp
nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND tỉnh Quảng Nam; sửa bản án hình
sự sơ thẩm xử phạt bị cáo Hồ Văn T 15 tháng tù giam.
Thứ năm: Bất cập trong quy định về “Xóa án tích đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội”
Điều 107 BLHS 2015 quy định về xóa án tích đối với người dưới 18
tuổi phạm tội như sau “Người dưới 18 tuổi bị kết án được coi là không có án
tích, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi; b) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô
ý”.
Điều 137 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 về thời hạn được coi là
46
chưa bị xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên quy định như
sau “1. Người chưa thành niên được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành
chính nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử
phạt hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không tái
phạm. 2. Người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính nếu
trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử lý hoặc từ
ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử lý mà không tái phạm thì được coi
là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính”.
Thực tiễn có trường hợp một người dưới 18 tuổi bị kết án 06 tháng tù
về tội “Trộm cắp tài sản”, sau khi thi hành xong hình phạt tù lại thực hiện
hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng thì lại không đủ yếu tố
cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” do được coi là không có án tích. Tuy nhiên,
nếu trước đó người này bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài
sản; ngay sau đó lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới
2.000.000 đồng thì lại đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo Điểm a Khoản 1
Điều 173 BLHS 2015.
Như vậy, một người dưới 18 tuổi nếu phạm tội ít nghiêm trọng thì được
coi là không có án tích nhưng nếu bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị áp
dụng biện pháp xử lý hành chính thì thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt
hành chính, chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính phải đủ 6 tháng hoặc
01 năm. Do đó, hậu quả pháp lý của hành vi vi phạm hành chính nặng hơn
hành vi vi phạm hình sự.
Có sự bất hợp lý nêu trên là do Luật Xử lý vi phạm hành chính năm
2012 chưa theo kịp Bộ luật hình sự 2015 nên cần sửa đổi Luật Xử lý vi phạm
hành chính năm 2012 cho phù hợp với quy định của Bộ luật Hình sự 2015.
2.3. Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội
47
trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An
Từ thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trên địa bàn thành phố Hội An
trong những năm vừa qua, tác giả đưa ra một số kết luận sau:
- Về ưu điểm:
- Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
thành phố Hội An qua các bản án được nghiên cứu mà tác giả đã nêu đều cho
thấy đa số các bản án đều áp dụng đúng quy định của BLHS về xác định tội
danh, định khung và quyết định hình phạt đúng. Các hạn chế, sai sót chỉ
chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số các vụ án được đưa ra xét xử.
- Tội trộm cắp tài sản là tội phạm có tính phổ biến chiếm tỷ lệ so với các
tội phạm khác nên những người tiến hành tố tụng thường xuyên nghiên cứu
và vận dụng các quy định của pháp luật nên đều nắm vững các các dấu hiệu
pháp lý của tội này.
- Các cơ quan tố tụng, những người tiến hành tố tụng thường xuyên
được tập huấn các quy định của BLHS nên việc áp dụng các quy định về tội
trộm cắp tài sản ít xảy ra sai sót.
- Hình phạt mà Tòa án áp dụng đối với các bị cáo về cơ bản đảm bảo
nghiêm minh, đúng quy định, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm
tội của bị cáo, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong
tình hình hiện nay
Trong 05 năm qua, nhìn chung việc áp dụng pháp luật hình sự về tội
trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An chưa có trường hợp nào xét
xử oan người không có tội hoặc bỏ lọt tội phạm, thực hiện đúng và đầy đủ thủ
tục tố tụng, không để án quá hạn luật định. Cơ quan tiến hành tố tụng trong
quá trình định tội danh đối với bị cáo đã đánh giá một cách toàn diện, khách
quan, các tình tiết trong hành vi phạm tội đã thỏa mãn các yếu tố cấu thành
tội phạm đã được quy định trong Điều 178 BLHS. Các chứng cứ, các tình tiết
48
phạm tội được thu thập đầy đủ, đảm bảo tính hợp pháp, khách quan và liên
quan đến quá trình giải quyết vụ án. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cũng
được xem xét đầy đủ khi lượng lượng hình.
- Về hạn chế, vướng mắc:
+ Bên cạnh những kết quả đạt được thì cũng còn một số hạn chế, tồn
tại, như: Tiến độ giải quyết nguồn tin về tội phạm, giải quyết án của Cơ quan
điều tra còn chậm; tỷ lệ giải quyết án của Viện kiểm sát chưa đạt chỉ tiêu
Ngành đề ra; hoạt động trực tiếp kiểm sát trên một số lĩnh vực công tác chưa
được triển khai thực hiện; trong quá trình giải quyết một số vụ việc ở một số
đơn vị còn để xảy ra sai sót, phải kiểm điểm, rút kinh nghiệm.
- Một số người tiến hành tố tụng chưa chú ý hết các quy định về Tội
trộm cắp tài sản trong BLHS năm 2015 và các quy định vể tố tụng TRONG
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, dẫn đến nhầm lẫn trong quá trình áp dụng.
- Quyết định hình phạt nặng, nhẹ không phù hợp với tính chất, mức độ
của hành vỉ phạm tội; vị trí, vai trò phạm tội của các bị cáo trong công tác giải
quyết, xét xử theo thủ tục sơ thẩm.
+ Việc hiểu và áp dụng các văn bản về các tội xâm phạm sở hữu nói
chung và tội trộm cắp tài sản theo quy định của BLHS năm 2015 còn chưa
thống nhất giữa những người tiến hành tố tụng, giữa các cấp xét xử, dẫn đến
cách hiểu về các dấu hiệu của các tội phạm không thống nhất dẫn đến phải trả
hồ sơ, điều tra bổ sung hoặc bị cấp trên hủy án để điều tra, xét xử lại.
+ Công tác, đào tạo, tập huấn chuyên đề về kỹ năng giải quyết vụ án
hình sự đối với tội trộm cắp tài sản chưa được chú trọng nên dẫn đến nhiều
cán bộ chưa cập nhật kiến thức mới.
+ Thực tiễn vẫn có sự nể nang, chưa kiên quyết, quyết đoán dẫn đến
hoạt động thu thập chứng cứ, sử dụng, đánh giá chứng cứ để chứng minh tội
phạm với mong muốn nhanh chóng giải quyết vụ án nên dẫn đến các chứng
49
cứ chưa được đầy đủ và chặt chẽ, để xảy ra những vi phạm tố tụng.
- Nguyên nhân của các hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp
dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản:
Để xảy ra những hạn chế, tồn tại nêu trên một phần là do dịch bệnh
Covid – 19 bùng phát kéo dài đã ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện
một số nhiệm vụ của đơn vị. Bên cạnh đó, trong kỳ trên địa bàn thành phố
phát sinh nhiều vụ, việc có tính chất phức tạp, cần có thời gian để xác minh,
giải quyết. Ngoài ra, còn có nguyên nhân chủ quan dẫn đến hạn chế đó là Thủ
trưởng một số đơn vị chưa đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu
trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành đơn vị dẫn đến sai sót trong thực
hiện nhiệm vụ. Qua tổng kết có thể rút ra một số nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, Hệ thống văn bản dưới luật còn nhiều mâu thuẫn, đặc biệt hệ
thống văn bản pháp luật liên quan đến các tội XPSH nói chung và tội trộm
cắp tài sản theo quy định của BLHS năm 2015 dẫn đến việc áp dụng pháp luật
chưa thống nhất, cách hiểu và vận dụng còn nhiều mâu thuẫn giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng.
Thứ hai, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử còn
hạn chế. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ pháp luật không đồng đều. Việc xét
xử còn bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài đẫn đến việc tuyên án không
khách quan, tiêu cực
Ngoài những nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc xét xử còn bất cập như
đã phân tích ở trên, thì công tác đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam vẫn còn vướng mắc, hạn chế nên tội trộm cắp tài
sản vẫn diễn ra thường xuyên và tăng cao, cụ thể là một số nguyên nhân sau:
- Công tác tuyên truyền về tội trộm cắp tài sản chưa đến với quần
chúng, do đó quần chúng chưa thật sự cảnh giác trong việc bảo vệ tài sản, ý
thức chủ động phát hiện đấu tranh tố giác tội phạm.
50
- Công tác phối hợp giữa các cơ quan chuyên trách còn nhiều hạn chế,
vì vậy đã làm giảm khả năng phòng chống tội phạm trộm cắp tài sản nói
chung.
- Tổ chức phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương chưa hợp lý. Tỷ lệ
thất nghiệp cao, chênh lệch giàu nghèo lớn, phát triển kinh tế, xã hội chưa
đồng đều tại các vùng miền, địa phương trong tỉnh.
- Chính quyền địa phương mặc dù đã có nhiều chính sách hỗ trợ cũng
như tạo điều kiện cho hộ nghèo được thoát nghèo, tuy nhiên vẫn chưa đem lại
hiệu quả cao, số hộ nghèo vẫn chiếm tỷ lệ cao. Trong khi đó chúng ta chưa
thực hiện tốt các chính sách xã hội như tạo việc làm để giải quyết nạn thất
nghiệp;
- Chưa có chính sách hợp lý cho những người mãn hạn tù trở về nên
việc tái phạm còn nhiều. Mặc dù, trong trại giam các phạm nhân được học
nghề song khi mãn hạn tù thì các phạm nhân rất khó xin việc làm.
Tiểu kết Chương 2
Trong Chương 2 của Luận văn, tác giả đã nghiên cứu một số nội dung
sau:
1. Đã phân tích khái quát về tình hình kinh tế, chính trị xã hội thành
phố Hội An, tình hình xét xử tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội
An trong những năm gần đây, từ đó chỉ ra: tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
thành phố Hội An trong 5 năm qua vẫn duy trì ở mức cao, mặc dù có chiều
hướng tăng cả về số vụ lẫn bị cáo, trung bình mỗi năm khoảng 13 vụ với 20 bị
cáo, chiếm tỷ lệ 1,61 người/vụ. Điều đó cho thấy, công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội
An còn nhiều khó khăn.
2. Bên cạnh những kết quả mà các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố
51
Hội An đã đạt được, vẫn còn những tồn tại, hạn chế, bất cập trong việc định
tội danh và quyết định hình phạt các vụ án hình sự về tội trộm cắp tài sản.
Những tồn tại, bất cập, hạn chế này nằm trong chính những cách hiểu và áp
dụng quy định của pháp luật để áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản.
3. Chương 2 của Luận văn cũng đã đánh giá chung về thực tiễn áp dụng
pháp hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An, chỉ ra
những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại hạn chế đó trong quá
trình áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản. Từ đó, làm nền tảng
cho các giải pháp áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản ở
Chương 3.
52
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
3.1. Sự cần thiết của việc tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam vê tội trộm cắp tài sản
Điều 32 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền sở hữu về thu
nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất,
phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Quyền
sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ” [14, Điều 32]. Để
bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam bên cạnh việc
nghiên cứu góp phần làm rõ những quy định của Hiến pháp về quyền con
người, quyền công dân, thiết nghĩ chúng ta phải hoàn thiện tất cả các văn bản
quy phạm pháp luật từ Luật, pháp lệnh đến các văn bản dưới luật theo tinh
thần về quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp,
đồng thời mọi cơ quan nhà nước, tổ chức khi thực hiện mọi hoạt động cần
phải tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân..
Những năm gần đây tội phạm trộm cắp tài sản diễn ra phức tạp và phổ
biến, trong đó nhiều vụ do đối tượng phạm tội chuyên nghiệp, hoạt động có
băng nhóm gây ra. Nhiều vụ tội phạm do các đối tượng hoạt động là dân từ
nơi khác đến chứ không phải trong địa bàn thực hiện. Thực tiễn cho thấy hiệu
quả công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trộm cắp tài sản còn rất
hạn chế. Trong thời gian qua, các địa phương đã đề ra nhiều kế hoạch phòng
ngừa đấu tranh chống trộm xe gắn máy, phòng chống trộm cắp tài sản trong
nhà dân, phòng chống trộm cắp tài sản của người nước ngoài… nhằm đấu
tranh ngăn chặn tội phạm này, nhưng chưa thực sự có kết quả đáng kể.
BLHS sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua ngày 17/11/2015, có hiệu
53
lực vào ngày 01/7/2016. Để triển khai thi hành BLHS năm 2015 và Nghị
quyết của Quốc hội về việc thi hành BLHS, các cơ quan tố tụng thành phố Đà
Nẵng đã chủ động xây dựng kế hoạch triển khai thi hành BLHS năm 2015.
Trong đó, xác định cụ thể các nhiệm vụ, nhất là rà soát để kịp thời triển khai
ngay các quy định có hiệu lực từ khi Chủ tịch nước công bố; tổ chức quán
triệt và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để phổ biến, tập huấn BLHS năm
2015, đồng thời rà soát các văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời đề nghị
sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới.
Tuy nhiên, để BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thực sự là
công cụ pháp lý sắc bén và hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm,
đặc biệt là tội trộm cắp tài sản thì cần tiếp tục hoàn thiện những quy định về
tội phạm này. Việc hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật có liên
quan đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi trộm cắp tài
sản phải được tiến hành đồng bộ, toàn diện đồng thời với việc hoàn thiện toàn
bộ hệ thống pháp luật Việt Nam.
3.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện
nay về tội trộm cắp tài sản
Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
thành phố Hội An trong những năm gần đây cho thấy có một số vướng mắc
và đề xuất hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay
về tội trộm cắp tài sản như sau:
Thứ nhất, bổ sung hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản vào nội
hàm quy định tại Điều 173 BLHS hiện hành.
Cần phải mô tả cụ thể và đưa ra định nghĩa pháp lý khái niệm để hạn
chế dẫn đến nhầm lẫn trong việc định tội danh. Trong tội trộm cắp tài sản,
điều luật quy định theo cách chỉ nêu tên của tội danh mà không mô tả hành vi
thuộc mặt khách quan của tất cả các tội phạm. Do đó, để đảm bảo sự thống
54
nhất trong cách hiểu và áp dụng pháp luật, cần thiết nên bổ sung quy định mô
tả hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm.
Có ý kiến cho rằng “tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút với chủ sở
hữu nhằm chiếm đoạt tài sản” hay “tội trộm cắp tài sản được hiểu là hành vi
lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng trở lên
hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm
đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn
vi phạm” hoặc “trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy tài sản của chủ sở hữu
hoặc người có trách nhiệm quản lý tài mà không dùng vũ lực hoặc đe doạ
dùng vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn nào nhằm uy hiếp tinh thần của người
quản lý tài sản”….
Vì vậy, để thống nhất một cách hiểu về khái niệm này thì cần phải đưa
ra một khái niệm như thế nào là tội trộm cắp tài sản là một điều hết sức cần
thiết. Có thể đưa khái niệm tội trộm cắp tài sản vào Điều 173 như sau: “Người
nào lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến
dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng….’
Thứ hai, rút ngắn khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối đa trong khung
hình phạt
Mức tối thiểu và tối đa được quy định trong cùng một khung hình phạt
như vậy là quá dài. Điều nay dễ dẫn đến việc áp dụng mức hình phạt một cách
tùy tiện, phụ thuộc phần lớn vào ý chí chủ quan của Thẩm phán, Hội thẩm
Khoản 2 mức tối thiểu là 2 năm, mức tối đa là 7 năm (khoảng cách 5 năm); tại
khoản 3 mức tối thiểu 7 năm, mức tối đa 15 năm (khoản cách 8 năm); tại
khoản 4 mức tối thiểu là 12, mức tối đa là 20 năm.
Thứ ba, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể đối với hình phạt bổ sung là
phạt tiền
Trong 5 năm từ 2015 đến 2019 TAND thành phố Hội An hoàn toàn
55
không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, cho dù tính chất của mỗi vụ án
khác nhau. Với chức năng hỗ trợ cho hình phạt chính, phạt tiền với tư cách là
hình phạt bổ sung tạo điều kiện để toà án có thể xử lí triệt để và công bằng đối
với người phạm tội nhằm đạt được mục đích cao nhất của hình phạt nhưng
trên thực tế khi xét xử thì phần lớn Thẩm phán không áp dụng hình phạt bổ
sung. Bên cạnh đó, khoảng cách phạt giữa mức tối thiểu và tối đa là khá lớn
(từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng) rất dễ dẫn đến sự tuỳ tiện, không thống
nhất trong khi giải quyết những vụ việc tương tự, việc áp dụng mức phạt tiền
là bao nhiêu phụ thuộc vào suy nghĩ chủ quan của Thẩm phán.
Do đó, cần phải có văn bản hướng dẫn chi tiết, cụ thể, rõ ràng đối với
hình phạt bổ sung này.
3.3. Một số giải pháp khác góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản
Qua thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản trên địa
bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam đã nêu ở Chương 2, tác giả đề xuất
một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật đối
với tội trộm cắp tài sản như sau:
- Tăng cường tập huấn pháp luật hình sự.
Thường xuyên tổ chức các chương trình tập huấn nghiệp vụ, các khóa
đào tạo nhằm nâng trình độ chuyên môn bởi vì công tác đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, viên chức TAND các cấp
được xác định là một trong các giải pháp để nâng cao chất lượng công tác xét
xử của TAND các cấp. Chú trọng đổi mới về nội dung, phương pháp đào tạo,
bồi dưỡng bảo đảm thực chất, gắn với yêu cầu thực tiễn công tác xét xử của
TAND. Cần quán triệt một số văn bản pháp luật mới và trao đổi, rút kinh
nghiệm về một số kỹ năng giải quyết vụ án để thống nhất cách hiểu, cách áp
dụng quy định của pháp luật khi giải quyết các loại án này; đồng thời kiến
56
nghị, đề xuất liên quan đến hoạt động xét xử từ đó nhằm giúp cho TAND áp
dụng pháp luật một cách thống nhất, qua đó góp phần nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng xét xử của các Thẩm phán, Hội thẩm nhằm
hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.
Qua nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm
cắp tại thành phố Hội An, tác giả cho rằng cần đưa một số nội dung sau vào
chuyên đề tập huấn:
+ Các cơ quan tiến hành tố tụng khi xác định tài sản bị chiếm đoạt cần
căn cứ vào phong tục, tập quán và lối sống của người dân để làm căn cứ giám
định giá trị thiệt hại.
+ Tài sản là phương tiện sống chính, là chỗ dựa, phương tiện mưu sinh
duy nhất của người bị hại và gia đình họ nếu bị trộm cắp thì người bị hại và
gia đình họ sẽ rơi vào tình trạng khó khăn. Vì vậy, đối với những trường hợp
này thì tài sản bị trộm cắp phải được xác định là tài sản đặc biệt quan trọng,
những đối tượng phạm tội sẽ bị xử lý nặng hơn so với những trường hợp
khác.
- Tăng cường khả năng, năng lực của cán bộ xét xử.
TAND thành phố Hội An luôn chú trọng đến hình thức tự đào tạo, đào
tạo tại chỗ như khuyến khích công chức tăng cường công tác nghiên cứu khoa
học nhằm phát hiện những vướng mắc, bất cập trong áp dụng pháp luật; tạo
điều kiện về thời gian và kinh phí để Tổ nghiên cứu khoa học trẻ hoạt động;
hưởng ứng các cuộc thi về chuyên môn, nghiệp vụ do TAND tỉnh Quảng
Nam tổ chức; mở lớp tập huấn kỹ thuật quay phim, ghi hình và phát thanh
viên cho công chức phụ trách công tác công nghệ thông tin.
Cử công chức đi học trung cấp lý luận chính trị hệ không tập trung tại
Trường Chính trị tỉnh Quảng Nam để đảm bảo tiêu chuẩn công chức và cử
công chức tham gia lớp Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm phán do Tòa án
57
nhân dân tối cao tổ chức.
- Tăng cường nguồn lực và cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và
hoàn thiện chế độ chính sách đối với Thẩm phán, cán bộ tòa án.
Đầu tư cơ sở vật chất cho ngành Tòa án là cần thiết, sao cho xứng tầm
nhiệm vụ. Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị cũng đã nêu rõ đến năm 2010 phải
chấm dứt tình trạng thuê trụ sở làm việc nhưng đến nay vẫn chưa hoàn thành
mục tiêu đó. Với biên chế cũng vậy, với áp lực án tăng nhưng biên chế không
tăng như hiện nay là áp lực rất lớn cho ngành Tòa án, vậy nên nghiên cứu
đầu tư công nghệ thông tin để làm sao những vụ án đơn giản có thể xét xử
theo thủ tục rút gọn hoặc ứng dụng công nghệ thông tin vào xét xử. Trong
thời gian qua, chính sách đối với Thẩm phán và cán bộ TAND đã được quan
tâm, Thẩm phán có thang bậc lương riêng, được hưởng phụ cấp trách nhiệm,
để họ yên tâm công tác và đầu tư nhiều thời gian vào công tác chuyên môn
tuy nhiên chế độ phụ cấp nghề nghiệp đối với các chức danh tư pháp và Hội
thẩm nhân dân vẫn còn thấp, không ổn định, chưa tương xứng với trách
nhiệm và công sức, trí tuệ của họ.
- Tiếp tục đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt
động chuyên môn đã góp phần nâng cao hiệu quả việc quản lý, theo dõi và
đem lại lợi ích trong công tác chuyên môn. Xây dựng lại hệ thống hộp thư
mạng nội bộ, phát huy tiện ích của hệ thống, tăng cường tính bảo mật, hỗ trợ
tốt cho việc khai thác thông tin phục vụ công tác chuyên môn, góp phần tiết
kiệm chi phí, bảo đảm an toàn dữ liệu, thông tin. Kịp thời triển khai và tập
huấn công tác báo cáo, thống kê đối với công chức làm công tác báo cáo,
thống kê tại các Viện nghiệp vụ góp phần đưa công tác tổng hợp, thống kê đi
vào nề nếp, quy cũ đáp ứng được yêu cầu phục vụ tốt quản lý, lãnh đạo, điều
hành trong thời gian tới.
- Tăng cường xử lý tội phạm về các hành vi tiêu thụ tài sản do
58
phạm tội mà có.
Bên cạnh đó, vấn đề tiêu thụ hàng gian, sản phẩm do phạm tội mà có
vẫn có diễn biến phức tạp. Mặc dù Luật sửa đổi Bộ luật hình sự 2017 quy
định rõ các biện pháp ngăn chặn, xử lý tội phạm về các hành vi tiêu thụ tài
sản do phạm tội mà có, tuy nhiên, cơ quan chức năng vẫn gặp khó khi phải
chứng minh và xử lý hành vi tiêu thụ hàng gian… Cả cơ quan chức năng và
người dân đều biết đường đi của tài sản gian, tài sản do phạm tội mà có nhưng
vẫn "bó tay" vì thiếu bằng chứng để buộc tội...
Thực tiễn cho thấy, người bán hàng gian nếu bị cơ quan chức năng triệu
tập thì họ cũng chỉ cần khai báo rằng mình không biết đây là tài sản do người
khác phạm tội mà có. Đó cũng chính là những kẽ hở của pháp luật dẫn đến
việc nạn trộm cắp máy tính, điện thoai, xe máy, gương xe ô tô… vẫn cứ tiếp
diễn. Người bị hại không khó để mua lại chính tài sản của mình bị đánh cắp
và người bán những tài sản gian đó thì vẫn không hề hấn gì.
- Giải pháp về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
Tuyên truyền giáo dục cho mọi công dân hiểu pháp luật và có ý thức
chấp hành pháp luật là tiền đề quan trọng để phòng ngừa tội phạm mà đặc biệt
là phòng ngừa tội trộm cắp tài sản. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là
một trong những chủ trương, chính sách lớn của Đảng ta. Trong những năm
qua, nhất là từ khi có Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09-12-2003 của Ban Bí thư
về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân", công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật của hệ thống Tòa án nhân dân đã được thực hiện
thông qua nhiều hình thức và đã đạt được kết quả tích cực. Mặc dù, Đảng,
Nhà nước ta rất quan tâm, chú trọng đến công tác giáo dục ý thức pháp luật
cho cán bộ, nhân dân nhưng hiệu quả của công tác này vẫn chưa đem lại hiệu
quả như mong muốn.
59
Qua nghiên cứu các nguyên nhân và điều kiện từ phía con người, xét
thấy chúng ta cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác giáo dục, tuyên truyền cho
mọi người trong cộng đồng xã hội trước hết hiểu biết về pháp luật, có ý thức
tôn trọng pháp luật đồng thời góp phần nâng cao ý thức đấu tranh, phòng
chống tội phạm.
Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cũng cần được quan tâm
đúng mức. Bên cạnh tuyên truyền pháp luật thông qua công tác xét xử các vụ
án phức tạp, các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, có sự tham dự đông đảo của
quần chúng nhân dân thì việc đưa tin, bài trên Trang tin điện tử của đơn vị,
đăng tải các video phản ánh hoạt động trên mạng xã hội (youtube) hoặc phối
hợp thực hiện chuyên mục phát sóng trên Đài phát thanh thành phố là những
kênh tuyên truyền pháp luật hữu hiệu.
- Tăng cường kiểm tra, tuần tra, giám sát và phát hiện, xử lý kịp
thời về trộm cắp tài sản.
Tập trung xây dựng lực lượng giữ gìn an ninh trật tự tại địa bàn xóm
ấp, khu phố, xã, phường, thị trấn với lực lượng công an làm nồng cốt. Áp
dụng các biện pháp nghiệp vụ có hiệu quả để phát hiện kịp thời và ngăn chặn
các vụ trộm cắp tài sản. Chính quyền phải tạo điều kiện giúp đỡ những người
có tiền án, tiền sự tại địa phương để họ có thể ổn định cuộc sống và tái hòa
nhập cộng đồng. Kiên quyết xử lý hành chính bằng các biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn; đưa vào cơ sở giáo dục; trường giáo dưỡng đối với
những người có hành vi trộm cắp nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm
hình sự.
Tổ chức tuần tra nhân dân, tuần tra của các lực lượng chức năng để
canh gác, bảo vệ, phòng ngừa, phát hiện, bắt giữ các đối tượng trộm cắp tài
sản. Các đơn vị, lực lượng công an trong tỉnh sẽ tập trung rà soát và dựng các
đường dây, ổ nhóm, đối tượng có biểu hiện trộm cắp tài sản chuyên nghiệp
60
hoạt động liên tuyến, liên địa bàn, hoạt động phức tạp để triển khai các biện
pháp phòng ngừa, lập án đấu tranh triệt xóa. Đồng thời, gọi hỏi, răn đe, giáo
dục các đối tượng nghi vấn, có tiền án, tiền sự về tội trộm cắp tài sản; quản lý
chặt số người nghiện ma túy và tổ chức ký cam kết không thực hiện các hành
vi vi phạm pháp luật, trộm cắp tài sản. Lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm
về trật tự, cảnh sát cơ động, cảnh sát giao thông sẽ tăng cường công tác tuần
tra vũ trang, tuần tra nghiệp vụ tại các khu vực, địa bàn trọng điểm, phức tạp
thường xảy ra các vụ trộm cắp tài sản để kịp thời phát hiện, ngăn chặn bắt giữ
các đối tượng phạm tội.
Các tệ nạn về ma túy, cờ bạc là một trong những nguyên nhân, điều
kiện phát sinh tội trộm cắp tài sản, gây ảnh hưởng không tốt đến trật tự an
toàn xã hội. Vì vậy, cơ quan chuyên môn cần tập trung đấu tranh, triệt xóa các
tụ điểm đánh bạc cũng như mua bán ma túy xảy ra.
- Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong hoạt động
phòng chống tội trộm cắp tài sản.
Công an thành phố, phối hợp với các ngành chức năng, tăng cường các
mặt công tác nghiệp vụ, nắm chắc diễn biến tình hình trên địa bàn. Mở các
đợt cao điểm ra quân tấn công tội phạm; tập trung lực lượng, biện pháp đấu
tranh trên các tuyến, địa bàn trọng điểm, triệt xóa đường dây ttiêu thụ tài sản
do phạm tội mà có. Tăng cường công tác phối hợp trong điều tra, truy tố, xét
xử các đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản theo pháp luật. Đặc biệt, cần tăng
cường sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong ngăn ngừa, đấu tranh phòng,
chống tội phạm trên địa bàn thảnh phố, nhất là sự phối hợp giữa các lực lượng
Công an, Sở Lao động, Thương binh và xã hội, Sở Y tế, Tòa án, Bộ đội Biên
phòng, Hải quan thành phố. Tổ chức tuần tra, kiểm soát chặt chẽ vào các
khung giờ mà người dân nghỉ ngơi, mất cảnh giác. Đấu tranh chống tội phạm
nói chung và người phạm tội nói riêng là trách nhiệm của các cơ quan nhà
61
nước, mà nòng cốt là các cơ quan bảo vệ pháp luật, đó là Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án. Những cơ quan này đóng vai trò quan trọng trong việc
bảo vệ chính quyền, bảo đảm cho nhà nước được ổn định về chính trị, phát
triển mạnh về kinh tế, xã hội công bằng văn minh. Các cơ quan này đòi hỏi
phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau và thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ
của mình do pháp luật quy định. Phải huy động được các cơ quan nhà nước,
các tổ chức kinh tế, xã hội, các đoàn thể và công dân vào công tác phòng
chống tội phạm, mà đặc biệt là tội trộm cắp tài sản.
Để tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành
phố tiếp tục được giữ vững và ổn định, phục vụ tốt cho công cuộc xây dựng
và phát triển của địa phương, không để phát sinh điểm nóng, khiếu kiện đông
người, các tệ nạn xã hội như: ma túy, mại dâm, băng nhóm tội phạm, cướp,
cướp giật tài sản… Trong thời gian đến, ngoài việc tiếp tục tranh thủ sự lãnh
đạo, chỉ đạo của cấp ủy địa phương và Ban cán sự đảng TAND tỉnh Quảng
Nam, Tòa án nhân dân thành phố Hội An còn tranh thủ sự giúp đỡ, phối hợp
của các cơ quan, đơn vị trong thành phố, triển khai thực hiện một cách có hiệu
quả những giải pháp mà đơn vị đề ra hàng năm, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi các
loại tội phạm và giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các tranh chấp phát sinh
trong nhân dân, đem lại sự bình yên cho Đô thị cổ Hội An. Qua đó, cùng với
đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố xây dựng Đô thị cổ Hội An sớm
trở thành thành phố “Sinh thái – Văn hóa – Du lịch” như mục tiêu đã đề ra.
- Tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật.
Công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn phải có sự gắn bó
chặt chẽ và biện chứng, trong đó hoạt động lý luận cần tập trung nghiên cứu
những vấn đề cơ bản, làm rõ những bất cập và vạch ra xu hướng vận động của
thực tiễn; ngược lại, hoạt động tổng kết thực tiễn phải giải quyết những khó
khăn, vướng mắc và là cơ sở để bổ sung lý luận.
62
Công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn phải có sự gắn bó
chặt chẽ và biện chứng, trong đó hoạt động lý luận cần tập trung nghiên cứu
những vấn đề cơ bản, làm rõ những bất cập và vạch ra xu hướng vận động của
thực tiễn; ngược lại, hoạt động tổng kết thực tiễn phải giải quyết những khó
khăn, vướng mắc và là cơ sở để bổ sung lý luận.
- Tổ chức Hội nghị sơ kết thực hiện Quy chế phối hợp giữa các cơ quan
tư pháp qua đó đã ban hành kết luận chung về hội nghị góp phần giải đáp,
tháo gỡ vướng mắc nâng cao chất lượng công tác phối hợp giữa VKSND
TAND và CQĐT trong thời gian tới.
- Tổng kết thực tiễn và tổ chức hội nghị, hội thảo về nâng cao chất
lượng công tác kháng nghị phúc thẩm trong các lĩnh vực kiểm sát; tiếp tục tổ
chức hội nghị tập huấn chuyên sâu theo nhóm tội danh trong lĩnh vực hình sự
để giúp các địa phương tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng
pháp luật.
Tiểu kết Chương 3
Tại Chương 3 của Luận văn, tác giả đã đi vào nghiên cứu, phân tích các
nội dung cơ bản như:
1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội trộm cắp
tài sản gồm: yêu cầu đảm bảo thực hiện đầy đủ quy định của Hiến pháp năm
2013 về quyền con người và quyền cơ bản của công dân; yêu cầu đưa các quy
định của Bộ luật hình sự năm 2015 vào cuộc sống; yêu cầu cụ thể hóa được
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống
tội trộm cắp tài sản; yêu cầu đảm bảo phù hợp với các điều kiện kinh tế, xã
hội ở nước ta; yêu cầu hội nhập quốc tế.
2. Chương 3 của Luận văn cũng đã đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay về tội trộm cắp tài sản như:
63
bổ sung khái niệm tội trộm cắp tài sản vào trong Điều 173 BLHS sửa đổi; rút
ngắn khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối đa trong khung hình phạt, cần đưa
ra tình tiết định khung đối với hình phạt bổ sung là phạt tiền, cần hướng dẫn
cụ thể về tình tiết “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài
sản mà còn vi phạm” và “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã
hội”, hoàn thiện, làm rõ quy định về tình tiết “hành hung để tẩu thoát”;
3. Bên cạnh đó Chương 3 của Luận văn cũng đưa ra các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản như:
tăng cường tập huấn pháp luật hình sự; tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng
pháp luật; tăng cường khả năng, năng lực của cán bộ xét xử; tăng cường
nguồn lực và cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và hoàn thiện chế độ chính
sách đối với Thẩm phán, cán bộ tòa án và một số giải pháp khác về phòng
ngừa đối với tội phạm này.
64
KẾT LUẬN
Qua thực tiễn nghiên cứu đề tài “Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam”, Luận
văn đã làm rõ một số vấn đề sau:
Trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 các cơ quan tiến hành tố
tụng thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam đã có nhiều cố gắng nhằm giải quyết
các vụ án hình sự đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; tránh việc
bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Bên cạnh những thành công đạt
được, thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, thiếu
sót, làm giảm hiệu quả trong nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm này.
Một số quy định về tội trộm cắp tài sản chưa rõ ràng dẫn đến việc vận dụng
các quy định của BLHS về tội trộm cắp tài sản chưa thống nhất, làm cho công
tác xét xử đạt kết quả chưa cao.
Luận văn đã đi sâu phân tích, đánh giá thực tiễn công tác giải quyết các
vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An giai đoạn từ năm 2015 -
năm 2019; chỉ ra được những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn
chế cần khắc phục trong quá trình áp dụng pháp luật cũng như xử lý các vụ án
hình sự nói chung và đối với tội trộm cắp tài sản nói riêng.
Qua đó phân tích, kiến nghị cả về lập pháp cũng như những vấn đề cần
rút kinh nghiệm trong thực tiễn giải quyết các vụ án trộm cắp tài, từ đó tìm ra
các giải pháp hợp lý, đưa ra những kiến nghị phương hướng để hoàn thiện
pháp luật hình sự cũng như những biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy
định của pháp luật hình sự. Qua việc đề xuất những giải pháp, tác giả mong
muốn góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng
Nam.
65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ tư pháp (2015), Báo cáo kết quả tổng kết thực tiễn thi hành Bộ luật
hình sự, (trangtinphapluat.com truy cập ngày 10/9/2015).
2. Lê Cảm (2005), "Những vấn đề lý luận về bốn yếu tố cấu thành tội
phạm", Tạp chí TAND (7), tr. 11- 14.
3. Lê Văn Đệ (2005), Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình
sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
4. Trần Mạnh Hà (2006), Định tội danh tội trộm cắp tài sản qua một số dấu
hiệu đặc trưng, (http://www.intecovietnam.com).
5. Trần Mạnh Hà (2006), Phân biệt một số dấu hiệu đặc trưng của tội trộm
cắp tài sản khi định tội danh.
6. Bùi Đăng Hiếu (2005), “Tiền, một loại tài sản trong quan hệ pháp luật
hình sự”, Tạp chí Luật học, (1), tr. 37.
7. Nguyễn Ngọc Hòa (2000), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb Công
an Nhân dân, Hà Nội.
8. Nguyễn Ngọc Hoà (2004), Cấu thành tội phạm- Lý luận và thực tiễn,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
9. Nguyễn Ngọc Hòa - Lê Thị Sơn (2006), Từ điển pháp luật hình sự, Nxb
Tư Pháp.
10. Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết số
01/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định
của Bộ luật hình sự, Hà Nội.
11. Hoàng Văn Hùng (2007), Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng chống
tội phạm này ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, trường Đại học Luật
Hà Nội, Hà nội.
12. Cao Thị Oanh - chủ biên (2015), Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
13. Trần Thị Phường (2011), Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở
hữu tại tỉnh Bình Định giai đoạn 2006-2010, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
14. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Hà Nội.
15. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự năm 1999, Hà Nội.
16. Quốc hội (2009), Bộ luật Hình sự năm 1999 (sđ, bs năm 2009), Hà Nội.
17. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Hà Nội.
18. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, Hà Nội.
19. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Hà Nội.
20. Toà án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao- Bộ Công an-
Bộ Tư pháp (2001), Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25-12-2001 hướng dẫn áp dụng một số quy
định tại chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự
năm 1999, Hà Nội.
21. Tòa án nhân dân thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam (2015 - 2019), Báo
cáo tổng kết công tác các năm.
22. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,
tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
23. Nguyễn Thanh Tùng (2013), Tội trộm cắp tài sản theo Luật hình sự Việt
Nam (trên cơ sở số liệu địa bàn TP Hồ Chí Minh), luận văn thạc sĩ Luật
học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
24. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1946), Sắc lệnh số 47- SL ngày 10-10-1946
của chủ tịch Hồ Chí Minh tạm thời giữ lại các luật lệ tại miền Bắc,
Trung, Nam Bộ cho đến khi ban hành các văn bản pháp luật thống nhất
trong toàn quốc.
25. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1949), Sắc lệnh số 12 ngày 12-3-1949 quy
định trừng trị các hành vi trộm cắp vật dụng nhà binh trong thời bình và
thời kì chiến tranh.
26. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1970), Pháp lệnh số 149-LCT ngày
21/10/1970, Trừng trị các tội xâm phạm tài sản Xã hội Chủ nghĩa.
30. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1970), Sắc lệnh số 267 ngày 15-6-1958
trừng trị những âm mưu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước,
của hợp tác xã và của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách kế
hoạch của Nhà nước về xây dựng kinh tế và văn hoá.
27. Võ Khánh Vinh (2010), Giáo trình Lý luận chung về Định tội danh, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
28. Trịnh Tiến Việt (chủ biên) (2015), Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng
pháp luật hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.