VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN TUẤN

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN TUẤN

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự

Mã số: 838.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN THỊ THANH THÙY

HÀ NỘI, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.

Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn Thạc sĩ Luật học “Tội trộm cắp

tài sản từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam” bảo đảm độ tin

cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn kế thừa

từ các tác giả khác đều được trích dẫn đầy đủ. Luận văn này là công trình

nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của tiến sỹ. Nguyễn

Thị Thanh Thùy.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Tuấn

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI

SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ .......................................................... 8

1.1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản ....... 8

1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản theo quy

định của Bộ luật Hình sự hiện hành .............................................................. 21

1.3. Những hạn chế, thiếu sót của Bộ luật Hình sự hiện hành trong quy

định về tội trộm cắp tài sản ........................................................................... 31

CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỘI AN,

TỈNH QUẢNG NAM ................................................................................. 35

2.1. Tình hình có liên quan đến tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố

Hội An, tỉnh Quảng Nam.............................................................................. 35

2.2. Thực trạng định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp

tài sản trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam ............................... 39

2.3. Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp

tài sản trên địa bàn thành phố Hội An ........................................................... 47

CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG

PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN ........................ 53

3.1. Sự cần thiết của việc tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng

quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam vê tội trộm cắp tài sản .................... 53

3.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay về

tội trộm cắp tài sản ....................................................................................... 54

3.3. Một số giải pháp khác góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật

đối với tội trộm cắp tài sản ........................................................................... 56

KẾT LUẬN ................................................................................................. 65

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CẤC CHỮ VIẾT TẮT

Viết đầy đủ Viết tắt

Bộ luật hình sự BLHS :

BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự :

Bộ luật dân sự BLDS :

Cấu thành tội phạm CTTP :

Quy phạm pháp luật QPPL :

Trách nhiệm hình sự TNHS :

Tòa án nhân dân TAND :

TANDTC Tòa án nhân dân tối cao :

THTT Tiến hành tố tụng :

VKSND Viện kiểm sát nhân dân :

VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Cơ cấu các vụ tội phạm đã được đưa ra xét xử giai đoạn 2015 -

2019 ............................................................................................................. 38

Bảng 2.2. Cơ cấu các vụ án trộm cắp tài sản đã được đưa ra xét xử giai

đoạn 2015 - 2019 ......................................................................................... 38

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thành phố Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam, nằm bên bờ Bắc hạ lưu sông

Thu Bồn; có tổng diện tích tự nhiên 61,71 km2, cách thành phố Đà Nẵng

30km về phía đông nam, có vị trí địa lý: Phía đông giáp biển Đông; Phía tây

giáp thị xã Điện Bàn; Phía nam giáp huyện Duy Xuyên; Phía bắc giáp thị xã

Điện Bàn và biển Đông. Ngoài lợi thế nằm gần sân bay Chu Lai của Quảng

Nam và cảng hàng không quốc tế hiện đại Đà Nẵng, Hội An còn có một ưu

thế đặc biệt với vị trí nằm trên “Con đường di sản văn hóa miền Trung” bao

gồm: Hội An- Mỹ Sơn- Huế. Đây được xem là điều kiện khách quan thuận lợi

giúp Hội An thu hút được một lượng lớn khách du lịch trong và ngoài nước.

Với những điều kiện như vậy, thành phố Hội An có quá trình phát triển về

kinh tế với tốc độ cao trong thời gian qua, đời sống người dân ngày càng được

nâng cao. Tuy nhiên, đi cùng với sự phát triển đó thì tình hình tội phạm

những năm gần đây có xu hướng tăng lên và diễn biến ngày càng phức tạp,

mặc dù chính quyền các cấp thành phố Hội An đã rất quan tâm tới công tác

phòng, chống tội phạm, tình hình tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật,

tệ nạn xã hội được kiểm soát. Tuy nhiên, một số loại tội phạm vẫn chưa thực

sự được kiềm chế hiệu quả, trong đó tội trộm cắp tài sản xảy ra khá thường

xuyên trên một phạm vi rộng, một loại hình tội phạm đang có chiều hướng gia

tăng và có diễn biến phức tạp tại thành phố Hội An.

Dưới sự quan tâm chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền, người đứng

đầu cơ quan, tổ chức ở một số ngành tại địa phương, nhiệm vụ phòng, chống

tội phạm được đưa vào chương trình, kế hoạch phát triển theo yêu cầu của

Đảng và Nhà nước, do đó các cơ quan tiến hành tố tụng của thành phố Hội An

luôn thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật trong hoạt động điều

tra, truy tố, xét xử đối với việc xử lý các vụ án hình sự nói chung và tội trộm

1

cắp tài sản nói riêng. Nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố

tụng, chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử ngày càng được nâng cao.

Tỷ lệ phát hiện số vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An chiếm tỷ

lệ cao và được đưa ra xét xử nghiêm minh trước pháp luật. Tuy nhiên, công

tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trộm cắp tài sản trên thực tế địa

bàn thành phố Hội An vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập.

Qua thực tiễn xét xử, số vụ phạm tội trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ lớn

nhất trong cơ cấu nhóm tội xâm phạm sở hữu. Thực tiễn áp dụng quy định của

Bộ luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An cho thấy

những bất cập, khó khăn trong việc xác định một số dấu hiệu định tội, một số

tình tiết định khung hình phạt và mức hình phạt đối với người phạm tội. Hiện

nay vẫn chưa có hướng dẫn mới về các tội trộm cắp tài sản theo quy định của

Bộ Luật hình sự năm 2015, văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật đối với các

tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng còn chưa có

sự thống nhất do đó dẫn đến thực tế áp dụng quy định về các tội này còn

nhiều hạn chế. Do đó, việc nghiên cứu tội phạm cụ thể trong luật hình sự Việt

Nam dưới góc độ thực tiễn tại thành phố Hội An, không những có ý nghĩa sâu

sắc về mặt lý luận mà còn về mặt thực tiễn áp dụng pháp luật.

Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Tội trộm cắp tài sản từ thực

tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận văn Thạc sĩ.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối

với tội này, đề tài góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của các cơ

quan tiến hành tố tụng trong công tác áp dụng pháp luật tại thành phố Hội

An, tỉnh Quảng Nam.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến tội trộm cắp tài sản đã có

nhiều nhiều công trình khoa học được công bố, tiếp cận dưới các góc độ

2

nghiên cứu khác nhau. Các góc độ tiếp cận điển hình nhất bao gồm:

- Nhóm công trình nghiên cứu về quy định của PLHS đối với tội trộm

cắp tài sản gồm có:

+ Nguyễn Ngọc Chí, Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở

hữu, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội, 2001;

Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;

+ Nguyễn Thanh Tùng, Tội trộm cắp tài sản theo Luật hình sự Việt

Nam (trên cơ sở số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh); Luận văn thạc sĩ,

Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015;

+ Lê Thị Hồng, Tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam; Luận

văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013;

+ Trần Thị Phường, Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu

tại tỉnh Bình Định giai đoạn 2006-2010, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa

Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011;

+ Nguyễn Văn Trượng, Một số vấn đề cần hoàn thiện đối với tội trộm

căp tài sản, Tạp chí TAND số 4, tháng 2/2008; v.v...

- Nhóm công trình nghiên cứu về tình hình tội trộm cắp tài sản gồm có:

+ “Tình hình trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội” - Luận

văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Đình Hải năm 2016;

+“Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra các vụ án trộm cắp

tài sản tại chỗ ở của công dân trên địa bàn tỉnh Kom Tum” Luận văn Thạc sỹ

luật học của tác giả Từ Vương Thông năm 2010;

+“Nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản

tại nơi ở của công dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi của lực lượng CSĐT tội

phạm về trật tự xã hội” Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả năm 2015.

- Nhóm công trình nghiên cứu về thực trạng phòng, chống tội trộm cắp

tài sản gồm có:

3

+ Hoàng Văn Hùng, Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng, chống tội

phạm này ở Việt Nam, “Hoạt động của lực lượng cảnh sát nhân dân trong

phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại địa bàn công cộng tại thành phố, thị xã”

của tác giả Đinh Anh Tuấn năm 2009;

+ “Sử dụng biện pháp vận động quần chúng của lực lượng Cảnh sát nhân

dân trong giai đoạn điều tra ban đầu các vụ trộm cắp tài sản” của tác giả Lê

Quốc Trân năm 2010.

+ “Đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố

Đà Nẵng” của tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền năm 2017;

Như vậy, việc nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản không còn là vấn đề

mới. Tuy nhiên, các công trình trên hoặc là có phạm vi nghiên cứu rộng, hoặc

chỉ xem xét dưới góc độ tội phạm học, cũng có những công trình tuy nghiên

cứu về việc áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản gắn với một địa

bàn cụ thể nhưng không liên quan đến tình hình thực tế tại thành phố Hội An,

tỉnh Quảng Nam. Nhiều công trình đã nghiên cứu cách đây khá lâu, do vậy

giá trị lý luận và thực tiễn đã không còn cao. Chính vì vậy, việc nghiên cứu

chuyên sâu về tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật

hình sự của thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam một cách đầy đủ, toàn diện là

yêu cầu cấp thiết.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 . Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng

về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam giai

đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, luận văn đề xuất hoàn thiện quy định của

pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản, cũng như đưa ra các kiến nghị, giải

pháp cụ thể trong hoạt động áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội

trộm cắp tài sản nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm trộm cắp tài

4

sản trên địa bàn thành phố Hội An nói riêng và tỉnh Quảng Nam nói chung.

3.2 . Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu

sau đây:

- Phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản

theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam; Khái quát lịch sử hình thành các

quy định của pháp luật Việt Nam về tội trộm cắp tài sản;

- Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật thông qua hoạt động định tội

danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành

phố Hội An, tỉnh Quảng Nam; những hạn chế, bất cập trong áp dụng pháp

luật tội trộm cắp tài sản;

- Đưa ra các kiến nghị, đề xuất, giải pháp góp phần kiến nghị nâng cao

hiệu quả phòng ngừa tội trộm cắp tài sản.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản,

thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố

Hội An, tỉnh Quảng Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung, đề tài được nghiên cứu dưới góc độ của Luật hình sự và

tố tụng hình sự.

- Về không gian, đề tài được nghiên cứu và khảo sát trong phạm vi

thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.

- Về thời gian, đề tài nghiên cứu dựa trên số liệu thực tế từ thực tiễn xét

xử của Tòa án nhân dân thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến

năm 2019.

5

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của phép duy vật

biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội

phạm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, luận văn đã sử dụng các

phương pháp nghiên cứu sau đây:

- Phương pháp lịch sử: phương pháp này được sử dụng để làm rõ sự

hình thành và phát triển của tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam

từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay.

- Phương pháp thống kê, tổng hợp: phương pháp này được sử dụng để

làm rõ tình hình xử lý hình sự đối với tội trộm cắp tài sản.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng để làm rõ

những vấn đề chung và những hạn chế, vướng mắc về tội trộm cắp tài sản.

- Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân

tích. Cụ thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, luận văn sử dụng

phương pháp tổng hợp kết hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận thức về

vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết quả tổng hợp được thể

hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự.

- Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh giữa pháp luật hiện

hành với các các văn bản pháp luật trước đây qua các giai đoạn lịch sử.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Đề tài góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài

sản, nghiên cứu có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn về tội trộm cắp tài sản

6

xảy ra trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Từ những kết quả đạt được trong quá trình nghiên cứu, đề tài giúp nâng

cao hiệu quả thực tiễn áp dụng pháp luật về tội trộm cắp tài sản. Bên cạnh đó,

nội dung và kết quả nghiên cứu của đề tài có thể khai thác, sử dụng làm tài

liệu tham khảo cho công tác đào tạo luật, nghiên cứu khoa học, hội thảo tập

huấn chuyên đề, nâng cao hiệu quả công tác của các cơ quan tiến hành tố tụng

và người tiến hành tố tụng khi giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản trên địa

bàn thành phố Hội An.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm 3 Chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về tội trộm cắp tài sản theo pháp luật

hình sự;

Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản

trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam;

Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự

về tội trộm cắp tài sản.

7

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO

PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

1.1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội trộm cắp

tài sản

1.1.1. Tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam từ sau Cách

mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm

1985

Quy định về tội trộm cắp tài sản nói riêng và các quy định khác trong

pháp luật hình sự nói chung của nước ta giai đoạn mới giành độc lập bước

đầu được kế thừa từ pháp luật của chế độ cũ. Từ sau Cách mạng tháng Tám

năm 1945, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để bảo vệ thành

quả cách mạng là công cụ hữu hiệu nhất, đặc biệt đã thể hiện chính sách hình

sự đối với các hành vi xâm phạm sở hữu. Một số các văn bản như: Sắc lệnh số

47/SL ngày 10/10/1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh tạm thời giữ lại các luật lệ

tại miền Bắc, Trung, Nam Bộ; Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/02/1946 quy định

các hành vi phá hoại công sản. Ngày 09/11/1946, Quốc hội nước Việt Nam

dân chủ cộng hòa thông qua Hiến pháp đầu tiên, tại Điều 12 đã ghi nhận:

“Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm”. Trong giai

đoạn này Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng đã ban hành một số

Sắc lệnh quy định về tội phạm xâm phạm sở hữu trong đó có tội trộm cắp tài

sản như: Sắc lệnh số 267 ngày 15-6-1958 trừng trị những âm mưu và hành

động phá hoại tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân, làm cản

trở việc thực hiện chính sách kế hoạch của Nhà nước về xây dựng kinh tế và

văn hoá; Sắc lệnh số 12 ngày 12/3/1949 quy định trừng trị các hành vi trộm

cắp vật dụng nhà binh trong thời bình và thời kỳ chiến tranh.

8

Đồng thời, Nhà nước ta cũng quan tâm đến việc bảo vệ các tài sản riêng

của Công dân như quy định tại Thông tư 442-TTg ngày 19-01-1955 của Thủ

tướng Chính phủ.

Tư tưởng chủ đạo giai đoạn này là chú trọng bảo vệ tài sản chung là tài

sản XHCN hơn tài sản riêng tài sản cá nhân. Trước khi Bộ luật hình sự năm

1985 được ban hành thì các hình phạt không được quy định tập trung, sắp xếp

theo một trình tự nhất định và cũng không có tiêu chí đánh giá chung, áp dụng

thống nhất.

Ngoài những văn bản pháp luật có liên quan nêu trên, trong giai đoạn

này còn có Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân

được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21/10/1970 và Pháp lệnh

số 149-LCT ngày 21/10/1970 là Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản

Xã hội chủ nghĩa và. Pháp lệnh này quy định:

Tài sản xã hội chủ nghĩa bao gồm tài sản thuộc quyền sở hữu của Nhà

nước thuộc sở hữu toàn dân, và tài sản thuộc sở hữu của hợp tác xã và các tổ

chức hợp pháp khác thuộc sở hữu của tập thể; tài sản của công dân bao gồm:

của cải do sức lao động của công dân làm ra một cách hợp pháp hoặc để dành

được như xe cộ, tiền bạc, trang sức, nhà cửa và những đồ dùng cá nhân có giá

trị khác.

Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân quy

định tội trộm cắp tài sản riêng của công dân tại Điều 6 như sau:

“1. Kẻ nào trộm cắp tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ ba

tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc những trường hợp sau:

a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;

b) Có tổ chức;

c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

9

d) Gây hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của người bị thiệt hại hoặc

gây hậu quả nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ hai năm đến mười năm.

3. Phạm tội trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị

phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN quy định tội trộm

cắp tài sản XHCN tại Điều 7 như sau:

“1. Kẻ nào trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 06 tháng

đến 05 năm.

2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:

a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;

b) Có tổ chức;

c) Có móc ngoặc;

d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

e) Trộm cắp tài sản với số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị đặc biệt;

f) Dùng tài sản trộm cắp được vào việc kinh doanh, bóc lột, đầu cơ,

hoặc vào những việc phạm tội khác thì bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

3. Phạm tội trong trường hợp số tài sản bị xâm phạm rất lớn hoặc có

nhiều tình tiết nghiêm trọng hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị

phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc bị xử tử

hình”.

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự các cơ quan chức năng đã có

những văn bản hướng dẫn giải quyết đối với các trường hợp cụ thể như: Báo

cáo tổng kết công tác của TAND tối cao năm 1971, 1972; Thông tư

213/NCPL ngày 5/5/1973 của TAND tối cao - VKSND tối cao - Bộ Công an.

Nội dung hai pháp lệnh trên đã thể hiện chính sách pháp luật hình sự

đối với các tội xâm phạm về sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài sản nói

riêng thể hiện trình độ kỹ thuật lập pháp của Nhà nước ta nhằm đảm bảo

10

nguyên tắc pháp chế đáp ứng việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm

nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng. Hai cấu thành tội phạm hoàn

chỉnh về tội trộm cắp tài sản đó là tội trộm cắp tài sản XHCN và tội trộm cắp

tài sản riêng của công dân quy định cụ thể và tập trung các tình tiết định

khung tăng nặng trong điều luật, có các khung hình phạt tương ứng với tính

chất và mức độ nguy hiểm của hành vi tội phạm, phân hoá trách nhiệm hình

sự người phạm tội được thể hiện qua hai pháp lệnh này. [26, tr.25].

Việc ban hành hai bản Pháp lệnh tại thời điểm này thể hiện sự quan tâm

của Nhà nước ta đối với tài sản công như tài sản thuộc quyền quản lý trực tiếp

của nhà nước và đối với tài sản riêng của cá nhân, nâng cao lòng tin của nhân

dân đối với chính quyền trong thời điểm này. Tạo niềm tin, nhân dân càng

yên tâm tích cực tham gia sản xuất và chiến đấu chống giặc Mỹ xâm lược.

Ngoài hai pháp lệnh nêu trên, Ban bí thư Trung ương Đảng Lao động

Việt Nam cũng đã ban hành Chỉ thị số 185 ngày 09/12/1970 về tăng cường

bảo vệ tài sản XHCN nhằm chỉ đạo thi hành nội dung hai pháp lệnh trong

thực tiễn cuộc sống.

Sắc luật số 03 quy định về tội phạm và hình phạt được thông qua ngày

15/3/1976. Tại Điều 4 sắc lệnh này quy định: “Phạm các tội như: trộm cắp,

tham ô, lừa đảo, bội tín, cướp giật thì bị phạt tù từ sáu tháng đến bảy năm.

Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến mười lăm năm”.

1.1.2. Tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1985

Năm 1985 Bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta ra đời trên cơ sở của

nền kinh tế bao cấp và thực tiễn của tình hình tội phạm thời kỳ đó. BLHS năm

1985 với ý nghĩa là nguồn duy nhất trong đó quy định tội phạm và hình phạt

tại thời điểm này. BLHS năm 1985 là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xử

lý người phạm tội, song vẫn còn sự phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản XHCN

và tội trộm cắp tài sản của công dân.

11

Tội trộm cắp tài sản XHCN được quy định tại Điều 132 BLHS năm

1985 bao gồm 3 khung hình phạt. Tại khung cơ bản (Khoản 1) có quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản XHCN thì bị phạt cải tạo không giam giữ

đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

Khung tăng nặng thứ nhất được quy định tại Khoản 2 với mức hình

phạt từ 3 năm đến 12 năm nếu trộm cắp thuộc các trường hợp:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba

năm đến mười hai năm: a) Có tổ chức; b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy

hiểm; c) Hành hung để tẩu thoát; d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn; đ) Tái

phạm nguy hiểm.

Khung tăng nặng thứ 2 được quy định tại khoản 3 với mức hình phạt tù

từ mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình trong trường hợp:

3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ

mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.

Tội trộm cắp tài sản của công dân được quy định tại Điều 155 BLHS

năm 1985 bao gồm 3 khung hình phạt. Tại khung cơ bản (Khoản 1) có quy

định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo không

giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

Khung tăng nặng thứ nhất được quy định tại Khoản 2 với mức hình

phạt tù từ hai năm đến mười năm nếu trộm cắp thuộc các trường hợp:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ

hai năm đến mười năm:

a) Có tổ chức;

b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; hành hung để tẩu thoát;

c) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng

khác;

12

d) Tái phạm nguy hiểm

Khung tăng nặng thứ 2 được quy định tại khoản 3 với mức hình phạt tù

từ bảy năm đến hai mươi năm trong trường hợp:

3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ

bảy năm đến hai mươi năm.

Các vấn đề liên quan đến định lượng tài sản để xác định cấu thành Tội

trộm cắp tài sản và các khung hình phạt tăng nặng được hướng dẫn trong các

văn bản như: Nghị quyết 04-HĐTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986 hướng

dẫn áp dụng quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự của Hội

đồng thẩm phán; Thông tư liên ngành 04/TTLN năm 1985 hướng dẫn thi

hành Bộ luật hình sự do Toà án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối

cao - Bộ Tư pháp ban hành.

1.1.3. Tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1999

Trên cơ sở yêu cầu của xã hội, kinh tế nước ta dần chuyển sang nền

kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển theo cơ chế thị trường có sự

quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN, để đảm bảo và thực hiện sự

bình đẳng của các thành phần kinh tế, chính sách hình sự và pháp luật hình sự

cũng phải thay đổi theo. Trước sự phát triển không ngừng của xã hội, việc sửa

đổi, bổ sung các quy định của BLHS 1999 trở thành một yêu cầu tất yếu.

BLHS năm 1999 đã góp phần quan trọng trong quản lý xã hội, đấu tranh và

phòng ngừa tội phạm; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo

vệ lợi ích của Đảng, Nhà nước, tổ chức và của công dân. Tại kỳ họp thứ VI

Quốc hội khóa X ngày 21-12-1999, có hiệu lực từ ngày 01-07-2000 Bộ luật

hình sự năm 1999 được thông qua.

Bộ luật hình sự năm 1999 đã gộp hai chương liên quan đến các tội xâm

phạm sở hữu trong BLHS năm 1985 thành một.

“Điều 138. Tội trộm cắp tài sản

13

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm

nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng

nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi

chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích

mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù

từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

đ) Hành hung để tẩu thoát;

e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai

trăm triệu đồng;

g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

bảy năm đến mười lăm năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm

trăm triệu đồng;

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm

mươi triệu đồng”.

14

So với quy định về tội trộm cắp tài sản trong bộ luật cũ, tội trộm cắp tài

sản tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 có một số điểm mới như sau:

Thứ nhất, tội trộm cắp tài sản tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 đã

hợp nhất hai điều luật về tội trộm cắp tài sản XHCN và tội trộm cắp tài sản

của công dân thành một điều luật. Tuy nhiên, để đấu tranh có hiệu quả với

hành vi trộm cắp tài sản công, Điều 48 BLHS năm 1999 quy định tình tiết

tăng nặng mới “Xâm phạm tài sản nhà nước”.

Thứ hai, Bộ luật hình sự năm 1999 đã định lượng cụ thể giá trị tài sản

bị chiếm đoạt, có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu

đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc

đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm

đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì bị truy cứu theo khoản

1, đồng thời người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các

khoản khác nhau của điều luật tùy theo mức độ vi phạm.

Thứ ba, tội trộm cắp tài sản tại Điều 138 được quy định bốn khung hình

phạt do đó khoảng cách giữ mức tối đa và mức tối thiểu của một khung hình

phạt được thu hẹp lại tạo cơ sở cho việc áp dụng hình phạt chuẩn xác hơn khi

lượng hình.

Thứ tư, Điều 138 BLHS năm 1999 đã xác định ranh giới giữa trường

hợp xử lý hành chính và truy cứu trách nhiệm hình sự. Trộm cắp tài sản có giá

trị có giá trị dưới năm trăm nghìn đồng nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng

hoặc chưa bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về

tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích thì không bị truy cứu trách

nhiệm hình sự.

Tuy nhiên, trước những thay đổi lớn lao trên các mặt của đời sống xã

hội, sự phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập, nhận thức pháp luật

của của người dân ngày càng nâng cao, những thủ đoạn phạm tội ngày càng

15

tinh vi, nhiều loại tội phạm mới xuất hiện… những vấn đề đó đòi hỏi cần

phải có sự điều chỉnh sửa đổi, bổ sung của hệ thống pháp luật trong đó có

pháp luật hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra trong công tác đấu

tranh phòng, chống tội phạm. BLHS năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung một

lần vào năm 2009, xác định lại ranh giới giữa trường hợp hành vi vi phạm

pháp luật hành chính với trường hợp: Trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2 triệu

đồng và hành vi này không gây hậu quả nghiêm trọng hoặc người đó chưa bị

xử lý hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc chưa bị kết án về tội chiếm đoạt

tài sản thì chỉ bị xử phạt hành chính.

1.1.4. Tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015

Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 ra đời đã

kế thừa và phát triển trên cơ sở của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi,

bổ sung năm 2009. Bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật, thể hiện được

tính nhân đạo sâu sắc mang bản chất giai cấp, Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa, phù hợp với luật pháp quốc tế. Phù hợp với các quy định của Hiến

pháp năm 2013 đề cao quyền con người, quyền công dân, đáp ứng được yêu

cầu trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, là cơ sở để khắc phục

những tồn tại, bất cấp trong thực tiễn thi hành Bộ luật Hình sự. Phù hợp với

các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, những vấn đề tội phạm,

hình phạt liên quan đến đối tượng phạm tội là người mang quốc tịch nước

ngoài được quy định khá đầy đủ, chi tiết đáp ứng được quá trình hội nhập và

phát triển với các nước trong khu vực và thế giới. Bộ luật đã cụ thể hóa được

những vấn đề mới, những nguy cơ tiềm ẩn của các loại tội phạm có thể xảy

tra trong tương lai, đảm bảo sự ổn định lâu dài trong quá trình thi hành. Đối

với những nội dung về quy định chung, các tội phạm cụ thể, về bố cục, kết

cấu, vị trí của các chương, điều, khoản, ngôn ngữ diễn đạt về kỹ thuật lập

pháp hoàn toàn phù hợp với Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thể

16

hiện được tính kế thừa và phát triển. Bộ luật Hình sự năm 2015 gồm có 3

Phần, 26 chương, 426 điều so với Bộ luật Hình sự năm 1999 thì Bộ luật này

bãi bỏ 03 điều; giữ nguyên 30 điều; sửa đổi, bổ sung 396 điều, với nhiều nội

dung được sửa đổi lớn. Tội trộm cắp tài sản, được quy định tại Điều 173

BLHS gồm 04 khung và hình phạt bổ sung cụ thể:

Tại khung cơ bản (khoản 1 Điều 173) quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000

đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một

trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm

hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà

còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các

điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được

xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình

họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần

đối với người bị hại.

Khung tăng nặng thứ nhất được quy định tại Khoản 2 với mức hình

phạt tù từ hai năm đến bảy năm nếu trộm cắp thuộc các trường hợp:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000

đồng;

17

d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ) Hành hung để tẩu thoát;

e) Trộm cắp tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới

50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại

các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;

g) Tái phạm nguy hiểm.

Khung tăng nặng thứ hai được quy định tại Khoản 3 với mức hình phạt

tù từ bảy năm đến mười lăm năm nếu trộm cắp thuộc các trường hợp:

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

07 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới

500.000.000 đồng;

b) Trộm cắp tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000

đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d

khoản 1 Điều này;

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

Khung tăng nặng thứ ba được quy định tại Khoản 3 với mức hình phạt

tù từ mười hai năm đến hai mươi năm nếu trộm cắp thuộc các trường hợp:

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

12 năm đến 20 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Trộm cắp tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000

đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d

khoản 1 Điều này;

c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

Ngoài ra, tội trộm cắp tài sản còn quy định hình phạt bổ sung tại khoản

5:

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến

18

50.000.000 đồng.”

Như vậy, so với Điều 138 BLHS năm 1999 về tội trộm cắp tài sản thì

Điều 173 BLHS năm 2015 có một số điểm mới sau đây:

Thứ nhất, bổ sung thêm hai trường hợp đối với hành vi trộm cắp tài sản

thuộc khung hình phạt từ 6 tháng đến 3 năm tù.

Khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 bổ sung thêm 02 trường hợp đối

với những hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng nhưng vẫn

phạm tội trộm cắp tài sản là:

“c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình

họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối

với người bị hại.”

Với tình trạng trộm cắp các loại tài sản dưới 2.000.000 đồng đang ngày

càng gia tăng gây tâm lí hoang mang, bức xúc trong quần chúng nhân dân đòi

hỏi phải có những hình thức răn đe tội phạm, chấn chỉnh lại trật tự xã hội. Do

vậy, việc pháp luật bổ sung thêm các trường hợp này là việc làm cần thiết.

Thứ hai, bỏ một số tình tiết định khung tăng nặng.

Đối chiếu với Bộ luật hình sự 1999, Bộ luật hình sự 2015 đã bỏ các tình

tiết định khung “Gây hậu quả nghiêm trọng; Gây hậu quả rất nghiêm trọng;

Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” quy định tại các khoản 2, 3, 4 Điều 138

BLHS năm 1999. Đây là những tình tiết rất chung, rất khó cho các cơ quan

tiến hành tố tụng có thể xác định được trong quá trình thực hiện chức năng

của mình.

Thứ ba, sửa đổi tình tiết định khung tại khoản 2, tình tiết định khung

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu

đồng” tại BLHS năm 1999 được sửa đổi như sau: Trộm cắp tài sản trị giá từ

2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường

19

hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này”, đồng thời bổ sung

thêm tình tiết định khung tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm”.

Thứ tư, bổ sung các tình tiết định khung tại hoản 3 điều luật bổ sung

thêm 02 tình tiết định khung “Trộm cắp tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến

dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại

các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này và Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.”

Khoản 4, bổ sung thêm 02 tình tiết định khung “Trộm cắp tài sản trị giá

từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các

trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này và Lợi dụng

hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp”

Thứ năm, bỏ hình phạt tù chung thân tại khoản 4 bỏ hình phạt tù chung

thân theo đó sẽ phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.

Tóm lại, nghiên cứu lịch sử các quy định của pháp luật hình sự Việt

Nam từ năm 1945 đến khi BLHS 2015 được ban hành về tội trộm cắp tài sản

cho thấy:

- Tội trộm cắp tài sản từ chỗ được quy định trong từng văn bản riêng lẻ

đã được pháp điển trong các văn bản có hiệu lực pháp lý cao là BLHS; từ chỗ

chỉ quy định các hành vi bị trừng trị đến chỗ có tên tội danh, khung hình phạt

với các tình tiết tăng nặng chi tiết trong khung hình phạt

- Tội trộm cắp tài sản lúc đầu được quy định riêng rẽ đối với tài sản

XHCN và tài sản riêng của công dân với chính sách xử lý đối với tài sản

XHCN là nghiêm khắc hơn. Hiện nay, với sự thay đổi từ nền kinh tế bao cấp

sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nên quan hệ sở hữu cũng thay

đổi theo. Do đó, điều luật hiện nay đã đã hợp nhất hai điều luật lại với nhau.

- Trong quy định về tội trộm cắp, các nhà làm luật đã từ chỗ không quy

định về giá trị trị tài sản bị trộm cắp đến nay khung cơ bản của tội trộm cắp và

các khung hình phạt tăng nặng đều quy định giá trị cụ thể của tài sản để làm

20

căn cứ định tội cũng như lượng hình phạt.

- Nhà nước ta đã luôn quan tâm đến việc bảo vệ tài sản Nhà nước, tài

sản của hợp tác xã và tài sản của công dân, chính sách xử lý với các hành vi

chiếm đoạt các tài sản này nói chung và hành vi trộm cắp nói riêng trong một

thời gian dài rất nghiêm khắc [19, tr.34].

1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản

theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành

1.2.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản

Theo Từ điển pháp luật hình sự, trộm cắp tài sản là hành vi lén lút

chiếm đoạt tài sản đang có người khác quản lý [9, tr.283].

Theo pháp luật hình sự hiện hành ở nước ta, khái niệm tội phạm được

các nhà làm luật ghi nhận tại Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015. “Tội phạm là

hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng

lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý

hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ

quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an

ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm

quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những

lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ

luật này phải bị xử lý hình sự” [19, Điều 8].

Theo BLHS năm 2015, tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173

thuộc chương XVI quy định về các tội xâm phạm sở hữu.

Theo Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) do

GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên thì để đưa ra được khái niệm tội trộm cắp tài

sản, cần khẳng định tội trộm cắp tài sản phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu

của tội phạm, tức là thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm của nó là: bình

diện khác quan - tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; bình diện pháp lý

21

- tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; bình diện chủ quan - tội phạm là

hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm

hình sự thực hiện một cách có lỗi.

Còn theo Ths Đinh Văn Quế thì “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy

tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản mà không

dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn nào nhằm uy

hiếp tinh thần của người quản lý tài sản”. Theo khái niệm này thì chưa chỉ ra

được khách thể cũng như chủ thể của tội trộm cắp tài sản.

Căn cứ quy định của Điều 173 BLHS năm 2015 và trên cơ sở nghiên

cứu các quan điểm trong khoa học luật hình sự về tội phạm này, thì tác giả

đưa ra khái niệm tội trộm cắp tài sản như sau: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi

lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng trở lên

hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi

chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong

các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ

luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;Gây ảnh hưởng xấu đến an

ninh, trật tự, an toàn xã hội;Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của

người bị hại và gia đình họ; Tài sản là di vật, cổ vật. mà còn vi phạm do

người có đủ năng lực TNHS thực hiện với lỗi cố ý”

1.2.2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản

1.2.2.1. Khách thể của tội trộm cắp tài sản

Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo

vệ và bị tội phạm xâm hại [22, tr.86].

Tội trộm cắp tài sản không xâm phạm đến quan hệ về nhân thân mà chỉ

xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Đây là điểm khác của Tội trộm cắp tài sản với

các khác cũng có yếu tố chiếm đoạt tương tự nhưng quy định thêm thiệt hại

về tính mạng, sức khoẻ như tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài

22

sản, tội cướp giật tài sản trong tình tiết định khung hình phạt. Tội trộm cắp tài

sản là một trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt không xâm

phạm đến quan hệ về nhân thân. Do vậy cũng giống như các tội xâm phạm sở

hữu khác, tội phạm này xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản. Để gây thiệt hại

đến các quyền sở hữu về tài sản, người phạm tội trộm cắp tài sản phải tác

động đến tài sản của người đang quản lý hợp pháp đối với tài sản bị chiếm

đoạt. Như vậy, về nguyên tắc, đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản phải

là tài sản đang được người khác quản lý hợp pháp. Tuy nhiên, trong trường

hợp người chủ tài sản đã giao tài sản cho người khác quản lý như cho mượn,

giữ hộ… nhưng sau đó lại có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của mình thì

vẫn có thể cấu thành tội trộm cắp tài sản.

Sau khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản nhưng bị đuổi bắt

mà có hành vi "hành hung để tẩu thoát" thì bi xem xét theo quy định tại Mục

6 Phần I Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BCA-

BTP của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công

an, Bộ tư pháp ngày 25 tháng 12 năm 2001về việc hướng dẫn áp đụng một số

quy định tại chương XIV "các tội xâm phạm sở hữu" của bộ luật hình sự năm

1999”.

1.2.2.2. Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản

Mặt khách quan của trộm cắp tài sản là những biểu hiện bên ngoài của

tội phạm bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội

phạm và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả [22, tr.99].

- Về hành vi khách quan.

Trong tội trộm cắp tài sản, người phạm tội chỉ có một hành vi khách

quan duy nhất đó là chiếm đoạt tài sản. Dựa vào bản chất của tội trộm cắp tài

sản trên thực tiễn cũng như lý luận đều xác định là hành vi chiếm đoạt tài sản

của người khác một cách lén lút. Trong đó, chiếm đoạt được hiểu là hành vi

23

cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang được sự quản lí của chủ sở hữu tài

sản làm cho chủ tài sản mất khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng,

định đoạt tài sản của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được

việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó. Đặc trưng lén lút của hành vi

chiếm đoạt trong tội trộm cắp tài sản cũng chỉ đòi hỏi phải có trong ý thức của

người phạm tội, nó thể hiện ở việc người phạm tội che giấu hành vi đang

phạm tội của mình, không cho phép chủ tài sản biết có hành vi chiếm đoạt tài

sản khi hành vi này đang xảy ra. Thực tế cho thấy, khi người phạm tội thực

hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản với chủ sở hữu nhưng lại công khai

chiếm đoạt tài sản với những người có mặt ở đó nhưng những người có mặt

lúc tài sản bị chiếm đoạt vì lý do nào đó mà không biết chủ tài sản là ai,

không có trách nhiệm quản lý tài sản đó thì hành vi của người chiếm đoạt tài

sản trong trường hợp này vẫn bị coi là hành vi trộm cắp tài sản; trong trường

hợp này, người chiếm đoạt tài sản chỉ có hành vi che giấu hành vi trộm cắp

của mình đối với chủ tài sản hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản mà

không cần che dấu với những người khác.

Hành vi chiếm đoạt đã thể hiện mục đích chiếm đoạt của người phạm

tội và dấu hiệu chiếm đoạt trong cấu thành cơ bản là chiếm đoạt tài sản. Do

đó tội phạm hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã chiếm đoạt được tài

sản. Trường hợp tài sản chiếm đoạt nhỏ gọn thì coi là đã chiếm đoạt được khi

người phạm tội đã dấu được tài sản trong người; nếu vật chiếm đoạt không to

lớn hơn thì coi chiếm đoạt được khi đã mang được tài sản ra khỏi khu vực bảo

quản; nếu vật chiếm đoạt là tài sản để ở những nơi không hoàn thành khu vực

bảo quản riêng thì coi là đã chiếm đoạt được khi đã dịch chuyển tài sản khỏi

vị trí ban đầu.Trường hợp, người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc

đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng đã bị phát hiện và giành lại, mà người

phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công

24

người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì hành vi

của người phạm tội chuyển hóa từ sang tội cướp tài sản.

- Về đối tượng tác động.

Theo mô tả của khoản 1 Điều 173 thì đối tượng tác động của tội trộm

cắp tài sản có thể khẳng định là tài sản. Theo Điều 105 Bộ luật dân sự năm

2015 thì: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm

bất động sản và động sản”.

Do dấu hiệu chiếm đoạt trong cấu thành tội phạm trộm cắp tài sản được

thực tiễn xét xử từ trước đến nay hiểu là chiếm đoạt được nên đối tượng tác

động có một số đặc điểm riêng biệt như:

Thứ nhất, không phải mọi loại tài sản đều là đối tượng tác động của tội

trộm cắp tài sản

Do xuất phát từ tính chất chiếm đoạt trong hành vi khách quan của tội

trộm cắp tài sản là chiếm đoạt được và thủ đoạn khi thực hiện hành vi chiếm

đoạt nên không phải mọi tài sản thuộc phạm vi của Điều 105 Bộ luật dân sự là

đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản.

Chẳng hạn, đối với vật thì không phải mọi loại vật mà chỉ những vật có

giá trị, ý nghĩa nhất định. Khi phát sinh ý định chiếm đoạt tài sản thì người

phạm tội đều nhắm đến những đặc điểm mà tài sản đó có. Đó có thể là giá trị

tiềm ẩn của vật, ý nghĩa về một khía cạnh nào đó được nhiều người thừa

nhận… Cho nên, một vật chỉ có thể là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài

sản khi nó có giá trị nhất định.

Thông tư số 34/2013/TT-NHNN ngày 31/12/2013 của Thống đốc Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam quy định về phát hành kỳ phiếu, tín phiếu, chứng

chỉ tiền gửi, trái phiếu trong nước của tổ chức tín dụng, chi nhanh ngân hàng

nước ngoài được sửa đổi bởi Thông tư số 16/2016/TT-NHNN ngày

30/6/2016. Theo khoản 1, 2, 3, 4 Điều 2 quy định: “Kỳ phiếu, tín phiếu, chứng

25

chỉ tiền gửi, trái phiếu (sau đây gọi là giấy tờ có giá) là bằng chứng xác nhận

nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phát

hành với người mua giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả

lãi và các điều kiện khác”. Và giấy tờ có giá chia làm 02 loại là giấy tờ có giá

ghi danh và giấy tờ có giá vô danh. Với quy định trên thì chỉ giấy tờ có giá vô

danh mới có thể là đối tượng tác động của TTCTS bởi vì khi chiếm đoạt được

các loại giấy tờ có giá vô danh thì quyền sở hữu của chủ sở hữu mới bị ảnh

hưởng và có khả năng xác lập quyền sở hữu cho người phạm tội. Đối với giấy

tờ có giá hữu danh do quyền sở hữu các loại giấy tờ này gắn liền với cá nhân,

tổ chức có tên trong chính giấy tờ có giá đó. Cho nên về nguyên tắc chỉ người

có tên trên giấy tờ có giá mới xác lập được quyền sở hữu đối với loại tài sản

này.

Đối với quyền về tài sản cũng không phải là đối tượng tác động của

TTCTS, bởi vì, Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 ghi nhận: “Quyền tài sản

là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng

quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Các

quyền tài sản thông thường là quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp,

quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo

hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh

nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng, quyền sử dụng đất, quyền khai

thác tài nguyên thiên nhiên và các quyền tài sản khác. Các quyền này thường

gắn liền với nhân thân con người hoặc được thể hiện qua các giấy tờ có xác

nhận của cơ quan có thẩm quyền. Cho nên, cũng như giấy tờ có giá ghi danh

thì người phạm tội không thể xác lập quyền sở hữu đối với các quyền tài sản

của chủ sở hữu.

Bên cạnh đó, BLDS còn phân chia tài sản thành động sản và bất động

sản. Với tính chất hành vi chiếm đoạt của TTCTS thì chỉ có động sản mới là

26

đối tượng tác động của TTCTS. Tuy nhiên, trong những trường hợp nếu bất

động sản lại thuộc vật đồng bộ như: các bộ phận được lắp vào khung căn nhà,

các vật dụng, thiết bị gắn liền với quyền sử dụng đất… có thể tách rời được

thì những tài sản tách rời được có thể là đối tượng tác động của tội trộm cắp

tài sản.

Thứ hai, tài sản đó có thể là hợp pháp hoặc không hợp pháp

Tài sản là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản có thể là tài sản

hợp pháp tức là những loại tài sản được xác lập quyền sở hữu cho chủ sở hữu

theo các căn cứ: do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp;

được chuyển quyền sở hữu; thu hoa lợi, lợi tức; được thừa kế tài sản; chiếm

hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô chủ, vật bị đánh

rơi, bị bỏ quên…; chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay

tình, liên tục, công khai phù hợp với thời hiệu do BLDS quy định … hoặc có

thể là tài sản bất hợp pháp như do phạm tội, vi phạm pháp luật hành chính, vi

phạm pháp luật dân sự mà có. Tuy nhiên, do pháp luật hình sự không loại trừ

tính chất hợp pháp hoặc bất hợp pháp của đối tượng tác động của tội trộm cắp

tài sản. Vì vậy, tài sản hợp pháp hay bất hợp pháp đều có thể là đối tượng tác

động của tội trộm cắp tài sản.

Thứ ba, những loại tài sản đặc biệt là đối tượng tác động của một số

tội riêng biệt cũng không thể trở thành đối tượng tác động của tội trộm cắp

tài sản

Mặc dù, một người có hành vi lén lút chiếm đoạt thư tín, điện báo,

telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu

chính, viễn thông dưới bất kỳ hình thức nào: Chiếm đoạt thư, điện báo, telex,

fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và

máy tính là làm cho thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được

truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính không đến với người

27

nhận bằng nhiều thủ đoạn khác nhau như: dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực,

lén lút, gian dối, bội tín, công nhiên… Cũng giống như hành vi chiếm đoạt tài

sản trong các tội xâm phạm sở hữu là lấy đi, nhưng tính chất chiếm đoạt ở đây

khác chiếm đoạt tài sản ở chỗ, người phạm tội có thể lấy thư, điện báo, telex,

fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và

máy tính cho mình, nhưng cũng có thể chỉ lấy rồi vứt đi, mà không chiếm hữu

sử dụng. Nếu chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được

truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính để dùng vào mục đích

khác và hành vi dùng vào mục đính khác của người phạm tội lại cấu thành

mọt tội phạm độc lập thì tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu

trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng nếu hành vi chiếm đoạt chỉ là

phương tiện để thực hiện mục đích thì bị truy cứu theo Điều 159 Bộ luật Hình

sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định vềtội xâm phạm bí mật

hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin

riêng tư khác của người khác. Tương tự như vậy, người có hành vi chiếm đoạt

các tài sản sau cũng không phạm tội trộm cắp tài sản mà phạm tội tương ứng

với hành vi mà BLHS quy định như: chất ma túy, tàu thủy, tàu bay; vũ khí

quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; vật liệu nổ; chất phóng xạ; con dấu,

tài liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội; tài liệu bí mật công tác; Tội

chiếm đoạt tài liệu bí mật công tác...

Thứ tư, tài sản đó chưa được chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản

chuyển giao cho người thực hiện hành vi chiếm đoạt

Việc người có hành vi chiếm đoạt lén lút chiếm đoạt tài sản mà có được

chủ sở hữu, người quản lý tài sản chuyển giao hay không chuyển giao cho họ

đều là hành vi phạm tội. Tuy nhiên, dấu hiệu có chuyển giao hay không là

một trong các dấu hiệu quan trọng để phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội lạm

dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp việc chuyển giao không

28

rõ ràng thì cần dựa vào tính chất, địa điểm đặt tài sản để định tội. Trong

trường hợp những tài sản được đặt ở nơi mà ai cũng có tiếp cận như máy vi

tính, tivi, xe mô tô, điện thoại bàn không có sự cất giấu thì người thực hiện

hành vi lén lút chiếm đoạt vẫn phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài

sản. Trường hợp, tài sản được chủ sở hữu cất giấu cẩn thận (như: các vật trang

sức, vàng bạc, tiền…) thì người có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản sẽ phạm

tội trộm cắp tài sản.

Đối với trường hợp một người có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản do

người khác phạm tội mà có nếu người thực hiện hành vi chiếm đoạt không

được người phạm tội chuyển giao tài sản thì người có hành vi lén lút chiếm

đoạt tài sản phạm TTCTS chứ không phải tội tiêu thụ tài sản do người khác

phạm tội mà có.

- Về hậu quả.

Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội trộm cắp tài sản là những thiệt

hại do người phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra do khách thể của tội phạm.

Tội trộm cắp tài sản xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu của người chủ tài

sản, đó là quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Bị coi là phạm tội

trộm cắp tài sản trong trường hợp tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ hai triệu

đồng trở lên, hoặc nếu giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới hai triệu đồng thì phải

thỏa mãn một trong những điều kiện như: gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã

bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội xâm

phạm sở hữu, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Tội trộm cắp tài sản chỉ

coi là hoàn thành khi người thực hiện hành vi trộm cắp đã chiếm đoạt được tài

sản, còn khi họ chưa chiếm đoạt được tài sản thì hành vi của họ chưa CTTP.

Phạm tội trộm cắp tài sản do chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai triệu đồng trở

lên là trường hợp người phạm tội một lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản

có giá trị từ hai triệu đồng trở lên.

29

- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.

Trong mối quan hệ nhân quả của mặt khách quan của tội trộm cắp tài

sản thì hành vi phạm tội được coi là nguyên nhân và thiệt hại gây ra cho

người đang quảng lý tài sản được coi là hậu quả tội phạm này. Quan hệ nhân

quả có 2 dạng chính là quan hệ nhân quả đơn trực tiếp và quan hệ nhân quả

kép trực tiếp. Trường hợp trộm cắp tài sản chỉ do một người phạm tội gây ra

thì đó là quan hệ nhân quả đơn trực tiếp, trường hợp nhiều người tham gia vào

việc phạm tội thì quan hệ là quan hệ kép trực tiếp.

1.2.2.3. Chủ thể của tội trộm cắp tài sản

Chủ thể của tội trộm cắp tài sản là người đã có lỗi trong việc thực hiện

hành vi nguy hiểm cho xã hội, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ

độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.

Chủ thể của tội trộm cắp tài sản là chủ thể thường, tức là bất cứ ai có

năng lực trách nhiệm hình sự đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Như vậy người phạm tội trộm cắp tài sản là người đủ từ 14 tuổi trở lên,

khi thực hiện hành vi phạm tội không bị mắc bệnh tâm thần, có khả năng

nhận thức, và có thể điều khiển hành vi của mình. Bởi vì, tội trộm cắp tài sản

quy định trong Bộ luật Hình sự là tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc

biệt nghiêm trọng do cố ý nên theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự thì

nếu người từ đủ 14 tuổi nhưng dưới 16 tuổi nếu phạm tội quy định tại khoản

2, 3, 4 Điều 173 Bộ luật Hình sự thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về

hành vi của mình. Trường hợp người phạm tội thuộc tại khoản 3 và khoản 4

Điều 173 BLHS thì chỉ cần xác định người phạm tội đủ 14 tuổi là đã phải chịu

trách nhiệm hình sự, nhưng nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và

khoản 2 Điều 173 BLHS thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi mới phải chịu

TNHS.

1.2.2.4. Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản

30

Tội trộm cắp tài sản cũng được thực hiện do lỗi cố ý, mục đích của

người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản của người đang quản

lý tài sản bằng thủ đoạn lén lút. Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt

buộc trong cấu thành tội phạm của tội này. Tuy nhiên, người phạm tội có thể

có những mục đích khác thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm

hình sự về tội trộm cắp tài sản, nếu mục đich đó không cấu thành một tội

phạm độc lập. Căn cứ vào mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội

trộm cắp tài sản thì người phạm tội phải có động cơ tư lợi, mong muốn chiếm

đoạt tài sản của người khác để phục vụ cho nhu cầu và lợi ích bản thân. Động

cơ đã thúc đẩy, tạo động lực để người phạm tội thực hiện hành vi đến cùng.

Ví dụ: Vì ghét B nên A đã xúi giục C lấy trộm xe của B, nhưng không đòi C

phải chia tiền bán xe cho mình. Trong trường hợp này, A sẽ bị truy cứu trách

nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản với vai trò là đồng phạm (người xúi

giục) mặc dù mục đích của A không phải là chiếm đoạt là tài sản.

1.3. Những hạn chế, thiếu sót của Bộ luật Hình sự hiện hành trong

quy định về tội trộm cắp tài sản

BLHS sửa đổi đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015, có hiệu

lực vào ngày 1/7/2016. Về cơ bản, tội trộm cắp tài sản trong BLHS (sửa đổi)

kế thừa những quy định tại Điều 138 BLHS năm 1999 (sửa đổi). Tuy nhiên,

việc hiểu, áp dụng các quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm

2017) cũng như các văn bản hướng dẫn về tội TCTS còn chưa thống nhất, gặp

nhiều khó khăn, vướng mắc xuất phát từ nguyên nhân là những hạn chế, thiếu

sót của Bộ luật Hình sự hiện hành trong quy định về tội trộm cắp tài sản, cụ

thể như sau:

Thứ nhất, về khái niệm tội trộm cắp tài sản vào trong Điều 173 BLHS

Có ý kiến cho rằng “tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút với chủ sở

31

hữu nhằm chiếm đoạt tài sản” hay “tội trộm cắp tài sản được hiểu là hành vi

lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng trở lên

hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm

đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn

vi phạm” hoặc “trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy tài sản của chủ sở hữu

hoặc người có trách nhiệm quản lý tài mà không dùng vũ lực hoặc đe doạ

dùng vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn nào nhằm uy hiếp tinh thần của người

quản lý tài sản”….

Thứ hai, khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối đa trong khung hình

phạt còn khá rộng

Theo quy định tại Điều 173 BLHS, khoảng cách giữa mức tối thiểu và

tối đa trong khung hình phạt quá dài. Tại khoản 2 phạt tù từ 02 năm đến 07

năm; tại khoản 3 phạt tù từ 07 năm đến 15 năm; tại khoản 4 phạt tù từ 12 năm

đến 20 năm. Điều đó dẫn đến việc áp dụng mức hình phạt phụ thuộc phần lớn

vào ý chí chủ quan của các thành viên trong Hội đồng xét xử có một số

trường hợp còn xảy ra tiêu cực khi lượng hình. Chính vì vậy, một số vụ án

xảy ra tình trạng không công bằng trong quyết định hình phạt đối với cáo bị

cáo, trong cùng một vụ án hoắc trong các vụ án khác nhau nhưng có nội dung

tương tự. Để góp phần hoàn thiện BLHS về tội trộm cắp tài sản, tác giả cho

rằng cần sửa đổi theo hướng rút ngắn khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối

đa trong mỗi khung hình phạt. Cụ thể: khoản 2 có mức hình phạt từ 2 năm

đến 5 năm; khoản 3 có mức hình phạt từ 5 năm đến 10 năm; khoản 4 có mức

hình phạt từ 10 năm đến 15 năm; bổ sung thêm khoản 5 có mức từ 15 năm

đến 20 năm.

Thứ ba, tình tiết định khung đối với hình phạt bổ sung là phạt tiền

chưa được quy định

Theo quy định của BLHS tại Điều 32 thì chủ thể thực hiện hành vi

32

phạm tội chỉ bị áp dụng một loại hình phạt chính và có thể bị áp dụng một

hoặc một số loại hình phạt bổ sung. Như vậy, khi hình phạt tiền được áp dụng

là hình phạt chính thì không áp dụng là hình phạt bổ sung, còn khi hình phạt

tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung thì có thể áp dụng kèm với hình phạt

chính và các hình phạt bổ sung khác như quản chế; cấm đảm nhiệm chức vụ,

cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; trục xuất; tước một

số quyền công dân; tịch thu tài sản...

Với chức năng hỗ trợ cho hình phạt chính, phạt tiền với tư cách là hình

phạt bổ sung tạo điều kiện để toà án có thể xử lí triệt để và công bằng đối với

người phạm tội nhằm đạt được mục đích cao nhất của hình phạt nhưng trên

thực tế khi xét xử thì phần lớn Thẩm phán không áp dụng hình phạt bổ sung.

Bên cạnh đó, khoảng cách phạt giữa mức tối thiểu và tối đa là khá lớn (từ 5

triệu đồng đến 50 triệu đồng) rất dễ dẫn đến sự tuỳ tiện, không thống nhất

trong khi giải quyết những vụ việc tương tự, việc áp dụng mức phạt tiền là

bao nhiêu phụ thuộc vào suy nghĩ chủ quan của Thẩm phán.

Tại điểm d, khoản 1 Điều 173 quy đinh: “Tài sản là phương tiện kiếm

sống chính của bị hại và gia đình họ và điểm đ, khoản 1 Điều 173 quy định “

tài sản là di vật, cổ vật”. Những tài sản này có thể có những loại tuy giá trị

quy thành tiền không đáng kể, nhưng trong từng hoàn cảnh cụ thể, nó lại có

giá trị rất lớn về văn hóa, về tinh thần, thậm chí có tiền cũng không thể mua

được, đặc biệt, không thể quy giá trị tài sản này thành tiền. Chúng tôi thống

nhất với quy định này, tuy nhiên, cơ sở để xác định tài sản đó có giá trị ”đặc

biệt về mặt tinh thần” đối với bị hại và gia đình là điều không dễ. Cần có quy

định khoa học, cụ thể, rõ ràng để quy định này áp dụng được trên thực tế.

Tiểu kết Chương 1

Trong Chương 1 của Luận văn, tác giả đã nghiên cứu một số vấn đề lý

luận về tội trộm cắp tài sản như: làm rõ những dấu hiệu pháp lý của pháp luật

33

hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản, quy định về tội trộm cắp tài sản

trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay, những quy định mới

trong BLHS năm 2015 và những hạn chế, thiếu sót của Bộ luật Hình sự hiện

hành trong quy định về tội trộm cắp tài sản. Qua nghiên cứu các nội dung này,

tác giả tổng kết một số kết quả như sau:

1. Xây dựng được khái niệm tội trộm cắp tài sản như sau: Tội trộm cắp

tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội, lén lút chiếm đoạt tài sản thuộc quyền

sở hữu của người khác, do người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đủ

tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý. Đồng thời, đi sâu vào

phân tích được các dấu hiệu pháp lý của tội cắp tài sản theo pháp luật hình sự

hiện hành.

2. Nghiên cứu được lược sử hình thành và phát triển của tội trộm cắp

tài sản giai đoạn từ năm 1945 đến BLHS năm 2015 qua đó chỉ rõ sự kế thừa

và phát triển ngày càng hoàn thiện hơn quy định về tội trộm cắp tài sản trong

pháp luật hình sự Việt Nam.

3. Tìm ra những điểm mới được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện trong

BLHS năm 2015 so với quy định trước đây, chỉ ra những thiếu sót còn hạn

chế. Đồng thời, những kết quả nghiên cứu của Chương 1 là cơ sở, tiền đề để

tác giả nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật tại chương 2.

34

CHƯƠNG 2

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI

TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỘI AN,

TỈNH QUẢNG NAM

2.1. Tình hình có liên quan đến tội trộm cắp tài sản trên địa bàn

thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam

2.1.1. Khái quát chung về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã

hội trên địa bàn thành phố Hội An

Thành phố Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam, nằm bên bờ Bắc hạ lưu sông

Thu Bồn; có tổng diện tích tự nhiên 61,71 km2, cách thành phố Đà Nẵng

30km về phía đông nam, có vị trí địa lý: Phía đông giáp biển Đông; Phía tây

giáp thị xã Điện Bàn; Phía nam giáp huyện Duy Xuyên; Phía bắc giáp thị xã

Điện Bàn và biển Đông.

Ngoài lợi thế nằm gần sân bay Chu Lai của Quảng Nam và cảng hàng

không quốc tế hiện đại Đà Nẵng, Hội An còn có một ưu thế đặc biệt với vị trí

nằm trên “Con đường di sản văn hóa miền Trung” bao gồm: Hội An- Mỹ

Sơn- Huế. Đây được xem là điều kiện khách quan thuận lợi giúp Hội An thu

hút được một lượng lớn khách du lịch trong và ngoài nước.

Vị trí tiếp giáp biển Đông và cụm đảo Cù Lao Chàm - Khu dự trữ sinh

quyển thế giới đã tạo cho Hội An có thêm lợi thế về khai thác du lịch biển

đảo. Các bãi biển An Bàng, Cửa Đại cách trung tâm phố cổ Hội An khoảng 3

km về phía Đông được bình chọn xếp hạng trong danh sách 50 bãi biển đẹp

nhất trên thế giới. Đặc biệt, 7 km bờ biển Hội An nằm trên trục con đường

biển “5 sao” nối từ phía Nam hầm đèo Hải Vân (Đà Nẵng), dọc theo vành đai

bờ biển Liên Chiểu- Thuận Phước, qua bán đảo Sơn Trà và xuôi theo bãi biển

Non Nước về phố cổ Hội An. Và trong tương lai gần sẽ kết nối với các vùng

35

ven biển phía Nam dọc theo dòng Trường Giang vào đến Quảng Ngãi.

Thành phố Hội An có 13 đơn vị hành chính cấp xã, phường bao gồm 9

phường: Tân An, Thanh Hà, Cẩm An, Cẩm Châu, Cửa Đại, Minh An, Cẩm

Nam, Cẩm Phô, Sơn Phong và 4 xã: Cẩm Kim, Cẩm Thanh, Cẩm Hà, Tân

Hiệp. Hội An trở thành thành phố vào tháng 1 năm 2008 trên cơ sở toàn bộ

diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Hội

An, với 6.148 ha, 122.000 nhân khẩu.

Theo thống kê năm 2019, thành phố Hội An có diện tích là 61,48 km²

và có dân số là 98.599 người: trong đó dân số thành thị là 72.898 người chiếm

75%, dân số nông thôn là 25.701 người chiếm 26%, mật độ dân số đạt 1.604

người/km². Hội An là đô thị lớn thứ hai của Quảng Nam. Tỷ lệ đô thị hoá của

Hội An đã đạt khoảng 75%.

Năm 2019, kinh tế tiếp tục tăng trưởng và phát triển đều trên các lĩnh

vực. Tổng giá trị sản xuất (GO) theo giá so sánh năm 2010 ước đạt 11.780,9

tỷ đồng, tăng 14,34% so với năm 2018, vượt 5,22% so với kế hoạch. Thu

nhập bình quân đầu người đạt 53,1 triệu đồng, tăng 3,1 triệu đồng so với KH

đề ra. Ngành du lịch, thương mại, dịch vụ đạt 4.635 tỷ đồng, tăng 17,34%; đã

có 2,2 triệu lượt khách tham quan, lưu trú tại Hội An, tăng 88,79% so với

cùng kỳ (chủ yếu là khách Hàn Quốc, Trung Quốc); tổng khách lưu trú là 885

nghìn lượt, bình quân ngày khách lưu trú đạt 2,08 ngày. Tuy vậy, cũng chứng

kiến những tồn tại, hạn chế cần khắc phục trên các lĩnh vực du lịch; công

nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; công tác quản lý đất đai; an ninh trật tự… Theo

thống kê của Công an TP.Hội An, đến cuối năm 2019, toàn thành phố xảy ra

52 vụ phạm pháp hình sự liên quan đến tài sản, trong đó có 38 vụ trộm cắp tài

sản. Số thiệt hại các đối tượng gây ra trong các vụ việc gồm 6 laptop, 19 điện

thoại di động, 4.330 USD, 250 Euro, 470 nghìn yên Nhật, 10 cây vàng..., đó

là chưa kể một số tài sản bị hư hỏng.

36

2.2.2. Tình hình xét xử tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố

Hội An, tỉnh Quảng Nam

Trong những năm qua, tuy điều kiện công tác còn nhiều khó khăn

nhưng toàn thể các cán bộ của các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Hội

An vẫn luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Bằng sự cố gắng, nỗ lực của

các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Hội An, công tác xử lý các vụ án đã

đạt hiệu quả cao, chưa có trường hợp nào xét xử oan người không có tội hoặc

bỏ lọt tội phạm, thực hiện đúng và đầy đủ thủ tục tố tụng, không để án quá

hạn luật định. Cơ quan tiến hành tố tụng định tội danh trong quá trình giải

quyết vụ án đã đánh giá một cách toàn diện, khách quan. Các chứng cứ được

thu thập đầy đủ, đúng quy định của pháp luật tố tụng, các tình tiết xác định

hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ của vụ

án hình sự để xem xét, định tội danh một cách đầy đủ, khách quan và chính

xác đảm bảo thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm đã được quy định trong

Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Theo thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Hội An trong 5 năm qua

trên địa bàn thành phố Hội An đã xảy ra 216 vụ phạm pháp hình sự, trung

bình mỗi năm xảy ra 43 vụ. Trong đó, các tội xâm phạm sở hữu 97 vụ, chiếm

tỷ lệ 44,9%. Đặc biệt đáng chú ý trong năm năm đã xét xử 68 vụ trộm cắp tài

sản.

Dưới đây là bảng thống kê có liên quan đến tội trộm cắp tài sản trong

mối tương quan với tình hình tội phạm chung và các tội phạm xâm phạm sở

hữu đã bị khởi tố và xét xử trên địa bàn thành phố Hội An từ năm 2015 đến

năm 2019 (số liệu tổng hợp của Tòa án nhân dân thành phố Hội An).

37

Bảng 2.1. Cơ cấu các vụ tội phạm đã được đưa ra xét xử

giai đoạn 2015 - 2019

Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 S Nhóm tội Số Số bị Số Số bị Số Số bị Số Số bị Số Số bị TT vụ cáo vụ cáo vụ cáo vụ cáo vụ cáo

1 Xâm phạm sở 19 29 17 32 15 26 22 37 24 41 hữu

2 Tính mạng, sức 8 12 11 9 15 12 18 6 7 15 khỏe

3 Trật tự xã hội 5 9 5 9 4 6 2 6 5 13

4 Ma túy 11 15 13 18 12 12 15 10 7 15

5 Khác 0 0 1 1 0 1 3 0 0 0

Tổng cộng 43 65 39 67 37 62 51 79 46 84

Nguồn: Thống kê Tòa án nhân dân thành phố Hội An

Bảng 2.2. Cơ cấu các vụ án trộm cắp tài sản đã được đưa ra xét xử giai

đoạn 2015 - 2019

Tổng số

Số vụ/ số

Số vụ/ số

Tỷ lệ (%)

vụ/tổng số

bị

bị

Số bị cáo/số

bị cáo

cáo phạm

cáo phạm

STT

vụ phạm tội

phạm tội

tội xâm

tội trộm

(2)/(1)

(3)/(1)

trộm cắp tài

nói chung

phạm sở

cắp tài sản

sản

(1)

hữu (2)

(3)

2015

43/65

19/29

11/19

44.18/44.61 25.58/29.23

1,72

2016

39/67

17/32

13/20

43.58/47.76 33.33/29.85

1,53

2017

37/62

15/26

09/13

40.54/41.93 24.32/20.96

1,44

2018

51/79

22/37

14/23

43.13/46.83 27.45/29.11

1,64

2019

46/84

24/41

16/27

52.17/48.81 34.78/32.14

1,68

Tổng 216/357

97/165

63/102

44.91/46.21 29.16/28.57 1,61

Nguồn: Thống kê Tòa án nhân dân thành phố Hội An

38

Thông qua các bảng khảo sát số liệu trên cho thấy, từ năm 2015 đến năm

2019, Tòa án nhân dân thành phố Hội An đã xét xử tổng cộng 216 vụ án hình

sự với 357 bị cáo, trong đó:

Nhóm tội xâm phạm sở hữu chiếm tỷ lệ lớn trong các nhóm tội, cụ thể là

97 vụ và 165 bị cáo, tương ứng tỷ lệ 44,91% về vụ và 46,21% về số bị cáo trên

tổng số vụ và bị cáo phạm tội nói chung. Từ các bảng số liệu về cơ cấu các vụ

án trộm cắp tài sản đã được đưa ra xét xử giai đoạn 2015 – 2019 cho thấy, tội

trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An trong 5 năm qua vẫn duy trì ở

mức cao, mặc dù có chiều hướng tăng cả về số vụ lẫn bị cáo, trung bình mỗi

năm khoảng 13 vụ với 20 bị cáo, chiếm tỷ lệ 1,61 người/vụ.

- So sánh với các tội phạm trong nhóm tội sở hữu thì số vụ phạm tội

trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ lớn nhất trong cơ cấu nhóm tội xâm phạm sở hữu,

cụ thể là Tòa án nhân dân thành phố Hội An đã đưa ra xét xử 63 vụ với 102 bị

cáo phạm tội trộm cắp tài sản, chiếm tỷ lệ 29,16% số vụ và 28,57% số bị cáo

trên tổng số bị cáo phạm tội nói chung; và chiếm tỷ lệ 64,94% số vụ và

61,81% số bị cáo trên tổng số tội xâm phạm sở hữu.

2.2. Thực trạng định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội

trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam

So với BLHS năm 1999, tội trộm cắp tài sản trong BLHS năm 2015 đã

được sửa đổi, bổ sung đầy đủ, cụ thể hơn nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho

các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc nhận thức và áp dụng thống nhất các

quy định của BLHS trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các tội trộm cắp

tài sản những năm qua. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật

hình sự hiện hành về các tội phạm này những năm gần đây cho thấy giữa các

cơ quan tiến hành tố tụng vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế trong quá trình giải

quyết các vụ án. Cụ thể là:

39

- Thứ nhất: Vướng mắc trong xác định tội danh

Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội

An, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn từ năm 2015 đến 2019 cho thấy đa số

các tòa án đều định tội danh đúng. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn một số

vướng mặc. Điển hình như vụ án tại Bản án hình sự sơ thẩm số

08/2016/HSST ngày 03/2/2016 của TAND TP Hội An:

Khoảng 17 giờ ngày 28/11/2015 Bùi Thị N đi chơi tại xã Cẩm Thanh

nhưng do xe bị hỏng, trời gần tối nên N phải gửi xe tại gia đình chị Bùi Thị P

rồi thuê xe ôm của anh Bùi Văn Đ. Khi đi đến đường Trần Phú, do không có

đủ tiền mặt để trả xe ôm nên chị Bùi Thị N nói với Đ đợi chị vào cây ATM để

rút tiền, khi đi chị Nhi vẫn để chiếc cặp số của mình tại xe máy của Đức và

nói nhờ Đức trông hộ. Do trên đường đi chị N có nói chuyện với Đ về việc

mình mới đi làm ăn tại Mỹ về, có người bạn nhờ mang quà về cho gia đình tại

nên Đ nghĩ chiếc cặp số của chị N sẽ có nhiều tài sản có giá trị nên đã nảy

sinh ý định chiếm đoạt tài sản. Lợi dụng lúc chị N mải rút tiền không để ý Đ

đã nổ máy chạy mất mang theo chiếc cặp số của chị Bùi Thị N. Kết quả điều

tra cho thấy toàn bộ tài sản bị cáo Đức chiếm đoạt gồm: 500 đô la Mỹ, 01 bộ

quần áo; cùng toàn bộ giấy tờ tùy thân của chị N. Đối với hành vi nêu trên của

Bùi Văn Đ có một số quan điểm khác nhau về việc định tội danh cụ thể:

Quan điểm thứ nhất cho rằng cần phải truy tố, xét xử bị cáo Đ về tội

lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản vì: trong vụ án này chị N đã tin tưởng

giao tài sản cho Đ và nhờ Đ trông coi giúp, Đ đã lợi dụng lòng tin của chị N

và chiếm đoạt tài sản của chị N.

Quan điểm thứ hai cho rằng Bùi Văn Đ phạm tội Công nhiên chiếm

đoạt tài sản vì Bùi Văn Đ đã chiếm đoạt tài sản của chị Nhi trong tình trạng

chị N biết Đ thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của mình nhưng không thể

làm gì được.

40

Quan điểm thứ ba cho rằng đây là tội trộm cắp tài sản vì hành vi của

Bùi Văn Đ thỏa mãn dấu hiệu lén lút chiếm đoạt tài sản của chị N trên cơ sở

nhận định một số điều kiện cụ thể: khoảng cách giữa cây ATM với chỗ Đ

dựng xe là khoảng 15m; Đ ngồi sẵn trên xe; chị Nhi đứng quay lưng vào Đ và

mải rút tiền nên không thấy việc Đ lấy xe của mình.

Tòa án nhân dân TP Hội An kết luận Bùi Văn Đ phạm tội trộm cắp tài

sản, án có hiệu lực và không bị kháng cáo kháng nghị. Cần đồng tình với kết

quả xét xử của Tòa án trên cơ sở phân tích theo quan điểm thứ ba để thấy rõ

rằng hành vi của Đ đã thỏa mãn dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản.

Rõ ràng việc định tội trong thực tế về tội trộm cắp tài sản cũng có vấn

đề khi điều luật không mô tả hành vi thế nào là trộm cắp tài sản.

- Thứ hai: Xác định không đúng khung hình phạt

Về cơ bản, các vụ án xảy ra trên địa bàn đã được TAND thành phố Hội

An áp dụng đúng các quy định của BLHS về quyết định hình phạt đối với tội

trộm cắp tài sản trong các trường hợp như: theo cấu thành cơ bản cuả tội trộm

cắp tài sản, theo các cấu thành tăng nặng của tội trộm cắp tài sản và trong

trường hợp đặc biệt. Các trường hợp quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp

tài sản tương ứng với các trường hợp định tội danh tội trộm cắp tài sản, gắn

liền với định tội danh tội trộm cắp tài sản theo cấu thành tội phạm. Thực tiễn

áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản, qua nghiên cứu của tác giả trên

địa bàn thành phố Hội An vẫn có một số tồn tại, vướng mắc như vụ án sau

đây.

Vụ án: T và Đ rủ nhau đi bắt trộm chó. T sử dụng các đồ vật mang

theo, tiến hành làm dụng cụ bắt trộm chó, rồi điện thoại cho Đ chạy xe ra đón.

Trên đường đi phát hiện một con chó. Đ dừng xe, T dùng dụng cụ đã chuẩn bị

tròng vào cổ con chó kéo lên xe, Đ chở đi được khoảng 20m thi gặp lực lượng

công an xã đang tuần tra phát hiện truy đuổi. Trên đường bỏ chạy, T thả lại

41

con chó dưới đường (con chó còn sống, hôm sau quay về nhà). Sau đó cả hai

bị bắt. TAND thành phố Hội An đã xử Đ phạm tội trộm cắp tài sản, áp dụng

điểm a khoản 2 Điều 138; điểm g, p khoản 1, 2 Điều 46; Điều 47 BLHS.

Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xử Đ 06 tháng tù giam về tội trộm

cắp tài sản theo khoản 1 điều 138 BLHS

Theo quan điểm của tác giả thì: Do bị cáo Đ đã bị xử phạt hành chính

về hành vi chiếm đoạt vào ngày 27/5/2014 nên hành vi cùng T bắt trộm 01

con chó, trị giá 400.000 đồng mới hội đủ yếu tố cấu thành cơ bản tội phạm

nhưng cấp sơ thẩm truy tố và xét xử bị cáo Đ theo điểm a khoản 2 Điều 138 là

không đúng, gây bất lợi cho bị cáo.

Đồng thời, đây là vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn,

không phải là vụ án có tổ chức. Đ và T đều là người thực hành, giữa Đ và T

không có sự bàn bạc, phân công, không có sự câu kết chặt chẽ theo Điều 20

BLHS năm 1999, đơn thuần là T rủ rê và Đ đồng ý rồi cùng nhau thực hiện

hành vi, sau đó bị công an phát hiện. Như vậy, tòa sơ thẩm áp dụng khoản 2

Điều 138, phạm tội có tổ chức là không phù hợp.

- Thứ ba: Tuyên mức hình phạt tù không tương xứng với hành vi

phạm tội của bị cáo

Tòa án cân nhắc không đúng căn cứ “tính chất, mức độ nguy hiểm cho

xã hội của hành vi phạm tội” nên khi quyết định hình phạt cho bị cáo thiếu

chính xác dẫn đến tuyên phạt mức án quá nhẹ, không có tính răn đe, giáo dục

các bị cáo hoặc quá nặng, không cá thể hóa hình phạt. Thực tiễn đó đã và

đang diễn ra, thể hiện qua các vụ án sau đây:

Vụ án: Ngày 25/3/2016, Ch gặp K tại thành phố Đà Nẵng, K rủ Ch đi

trộm xe máy kiếm lấy tiền tiêu xài. Khoảng 22 giờ đến trạm y tế xã Cẩm Kim,

K và Ch nhìn thấy xe máy, BKS 92C… nhãn hiệu Wave RS Cả hai dừng lại,

K dắt xe máy giấu vào bụi cây ven đường rồi cùng Ch đi bộ vào trạm y tế lấy

42

xe và đẩy ra phía sau trạm y tế. Tại đây, cả hai cùng bẻ khóa cổ, bật dây khóa

điện để nổ máy xe. Ch điện thoại cho L nhờ L bán xe máy trộm cắp. Khi L

đến thì K và Ch giao xe cho L, đến trưa L quay lại quán cà phê đưa cho K và

Ch 700.000 đồng và nói là đem xe bán phế liệu được 800.000 đồng, L lấy

100.000 đồng. K và Ch chia nhau mỗi người 300.000 đồng, còn 100.000 đồng

thì xài chung. Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định giá trị

còn lại của chiếc xe mô tô là 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).

Bản án sơ thẩm xác định bị cáo K và Ch phạm tội trộm cắp tài sản theo

điểm a, khoản 2, Điều 138 BLHS và các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ

theo điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS nên áp dụng điều 47 BLHS

và xử phạt bị cáo K 12 tháng tù và xử phạt bị cáo Ch 09 tháng tù.

Qua vụ án trên nhận thấy, hành vi của K và Ch phạm tội có tổ chức, có

sự thông mưu lâu dài và bền vững, cả K và Ch cùng là người thực hành, số

tiền bán tài sản trộm cắp được chia đôi nên mức án đối với bị cáo K và Ch là

ngang nhau. Hơn nữa, khung hình phạt theo điểm a, khoản 2 Điều 138 BLHS

từ 2 đến 7 năm nhưng tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 47 xử phạt các bị cáo

mức án như thế là quá nhẹ, không có tính răn đe, giáo dục các bị cáo…

Vụ án: Ngày 12/12/2014, thấy T muốn chơi game nhưng không có tiền,

Đ đã xúi giục T trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài và chơi game. Đêm

ngày 13/12/2014, Đ và T cùng nhau rủ đi trộm cắp tài sản, bàn bạc là thấy chỗ

nào sơ hở thì vào trộm. Đ điều khiển xe chở T, khi đi đến khu vực cổng phụ

công ty trách nhiệm hữu hạn Thái Bình phát hiện có nhiều bành sắt phi 3 bên

trong. Cả hai cùng trèo qua tường rào vào bên trong khu vực công ty rồi Đ lấy

chiếc kiềm cộng lực có sẵn tại đây cắt một bành sắt phi 3 phân ra thành những

cuộn nhỏ hơn rồi cùng T vận chuyển ra bên ngoài đi tiêu thụ. Đ ở bên trong

chuyển các cuộn sắt ra bên ngoài cho T giữ. Khi đang chuyển đến cuộn thứ ba

thì bị lực lượng bảo vệ công ty trách nhiệm hữu hạn Thái Bình phát hiện, bắt

43

giữ cùng tang vật và báo công an.

Tại thời điểm phạm tội Đ đã thành niên và T là vị thành niên, cả hai bị

Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận xét là có vai trò ngang nhau trong vụ án trộm

cắp tài sản theo điểm a khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Đ bị áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 47 BLHS và bị áp dụng

tình tiết tăng nặng theo điểm n khoản 1 Điều 48 BLHS (xúi giục người chưa

thành niên phạm tội). T cũng được áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 74,

Điều 69 (không áp dụng Điều 47) BLHS. Cả hai bị cáo cùng bị xử phạt 01

năm 06 tháng tù. Vụ án này có những vấn đề sau:

Nếu theo phương pháp đối trừ 01 tình tiết tăng nặng tại Điều 48 BLHS

thì trường hợp của Đ không đủ điều kiện áp dụng Điều 47 BLHS. Như vậy,

Hội đồng xét xử đã không tính trừ đi tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

tại Điều 48 đối với Đ, đồng thời cũng xác định điểm p khoản 1 Điều 46 là có

02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới áp dụng Điều 47 cho Đ, áp

dụng pháp luật về Điều 47 như thế là không đúng quy định. Hơn nữa, cả hai

bị cáo Đ và T có vai trò ngang nhau, nhưng T là người chưa thành niên, theo

quy định của pháp luật thì mức hình phạt của T cao nhất là bằng ¾ của Đ,

việc xử phạt cả hai bị cáo cùng mức 01 năm 06 tháng tù là không đúng.

- Thứ tư: Việc áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo còn tùy tiện

Về lý luận “án treo” không phải là hình phạt, mà chỉ là biện pháp “miễn

chấp hành hình phạt tù có điều kiện”. Điều kiện mà pháp luật quy định đó

chính là “thời gian thử thách”. Do đó, hình phạt tù mà tòa án áp dụng cho bị

cáo được hưởng án treo là tạm thời chưa bắt bị cáo phải chấp hành mà phải

tuẩn thủ các quy định về án treo, nếu trong thời gian thử thách mà bị cáo

phạm tội mới thì mới bắt bị cáo chấp hành.

Nếu hết thời gian thử thách mà bị cáo không phạm tội mới nữa thì coi

như không bị phạt tù.

44

Việc cho các bị cáo được hưởng án treo thể hiện tính nhân đạo trong

chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta, song nếu các tòa án áp dụng

quá linh hoạt, quá thoáng thì không phát huy được tác dụng giáo dục, phòng

ngừa tội phạm.

Phải thừa nhận để xảy ra tình trạng áp dụng án treo tùy tiện như trên

chính là do luật hở nên dễ bị lạm dụng. Quy định tại khoản 1 điều 65 Bộ luật

hình sự về việc “xét thấy không cần thiết phải chấp hành hình phạt tù thì tòa

án quyết định cho bị cáo được hưởng án treo” mang tính tùy nghi, dễ bị chi

phối bởi quan điểm chủ quan của thẩm phán, không loại trừ yếu tố tiêu cực..

Cụ thể như trường hợp vụ án sau:

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2019/HSST ngày 09/2/2019 đã quyết

định: Áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 173; Điểm b, r, s Khoản 1, Khoản 2

Điều 51, Khoản 1 Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt các bị

cáo Hồ Văn T, Hồ Văn D mỗi bị cáo 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo,

thời gian thử thách 30 tháng cùng về tội trộm cắp tài sản.

Ngày 05/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam đã ban

hành kháng nghị phúc thẩm phần hình phạt của bản án hình sự sơ thẩm nêu

trên đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử vụ án theo hướng không

áp dụng Điều 65 BLHS 2015 và không cho bị cáo Hồ Văn T hưởng án treo.

Việc kháng nghị đúng hình thức và chủ thể theo quy định tại Điều 336, Điều

337 và Điều 338 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên đã phát biểu quan điểm: Tòa án

cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Hồ Văn T, Hồ Văn D về tội trộm cắp tài sản

với tình tiết định khung “Có tổ chức” quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 173

BLHS là có căn cứ. Tuy nhiên, trong vụ án này, bị cáo Hồ Văn T giữ vai trò

chính, là người chủ mưu, khởi xướng, thực hành tích cực, trực tiếp thực hiện

hành vi trộm cắp tài sản của người bị hại; bị cáo Hồ Văn D giữ vai trò thứ

45

yếu, có hành vi tham gia bàn bạc, chuẩn bị công cụ, cùng T cạy phá rồi sửa lại

hàng rào và canh giới bên ngoài; Tòa án cấp sơ thẩm nhận định vai trò của

các bị cáo trong vụ án này ngang nhau là không chính xác. Từ đó áp dụng

Điều 65 BLHS cho bị cáo Hồ Văn T được hưởng án treo là vi phạm Nghị

quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án

nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo.

Tại Khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 02 quy định những trường hợp không cho

hưởng án treo: “Người phạm tội là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan

cố chống đối, côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp,

lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm

trọng”. Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng Điểm b Khoản 1 Điều 355; Điểm d

Khoản 2 Điều 357 BLTTHS 2015 chấp nhận kháng nghị của VKSND tỉnh

Quảng Nam; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2019/HSST ngày 09/10/2019

theo hướng không áp dụng Điều 65 BLHS năm 2015 và không cho bị cáo Hồ

Văn T hưởng án treo.

Thống nhất với quan điểm của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử đã chấp

nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND tỉnh Quảng Nam; sửa bản án hình

sự sơ thẩm xử phạt bị cáo Hồ Văn T 15 tháng tù giam.

Thứ năm: Bất cập trong quy định về “Xóa án tích đối với người

dưới 18 tuổi phạm tội”

Điều 107 BLHS 2015 quy định về xóa án tích đối với người dưới 18

tuổi phạm tội như sau “Người dưới 18 tuổi bị kết án được coi là không có án

tích, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Người từ đủ 14 tuổi đến

dưới 16 tuổi; b) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít

nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô

ý”.

Điều 137 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 về thời hạn được coi là

46

chưa bị xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên quy định như

sau “1. Người chưa thành niên được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành

chính nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử

phạt hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không tái

phạm. 2. Người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính nếu

trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử lý hoặc từ

ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử lý mà không tái phạm thì được coi

là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính”.

Thực tiễn có trường hợp một người dưới 18 tuổi bị kết án 06 tháng tù

về tội “Trộm cắp tài sản”, sau khi thi hành xong hình phạt tù lại thực hiện

hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng thì lại không đủ yếu tố

cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” do được coi là không có án tích. Tuy nhiên,

nếu trước đó người này bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài

sản; ngay sau đó lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới

2.000.000 đồng thì lại đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo Điểm a Khoản 1

Điều 173 BLHS 2015.

Như vậy, một người dưới 18 tuổi nếu phạm tội ít nghiêm trọng thì được

coi là không có án tích nhưng nếu bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị áp

dụng biện pháp xử lý hành chính thì thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt

hành chính, chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính phải đủ 6 tháng hoặc

01 năm. Do đó, hậu quả pháp lý của hành vi vi phạm hành chính nặng hơn

hành vi vi phạm hình sự.

Có sự bất hợp lý nêu trên là do Luật Xử lý vi phạm hành chính năm

2012 chưa theo kịp Bộ luật hình sự 2015 nên cần sửa đổi Luật Xử lý vi phạm

hành chính năm 2012 cho phù hợp với quy định của Bộ luật Hình sự 2015.

2.3. Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội

47

trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An

Từ thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trên địa bàn thành phố Hội An

trong những năm vừa qua, tác giả đưa ra một số kết luận sau:

- Về ưu điểm:

- Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn

thành phố Hội An qua các bản án được nghiên cứu mà tác giả đã nêu đều cho

thấy đa số các bản án đều áp dụng đúng quy định của BLHS về xác định tội

danh, định khung và quyết định hình phạt đúng. Các hạn chế, sai sót chỉ

chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số các vụ án được đưa ra xét xử.

- Tội trộm cắp tài sản là tội phạm có tính phổ biến chiếm tỷ lệ so với các

tội phạm khác nên những người tiến hành tố tụng thường xuyên nghiên cứu

và vận dụng các quy định của pháp luật nên đều nắm vững các các dấu hiệu

pháp lý của tội này.

- Các cơ quan tố tụng, những người tiến hành tố tụng thường xuyên

được tập huấn các quy định của BLHS nên việc áp dụng các quy định về tội

trộm cắp tài sản ít xảy ra sai sót.

- Hình phạt mà Tòa án áp dụng đối với các bị cáo về cơ bản đảm bảo

nghiêm minh, đúng quy định, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm

tội của bị cáo, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong

tình hình hiện nay

Trong 05 năm qua, nhìn chung việc áp dụng pháp luật hình sự về tội

trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An chưa có trường hợp nào xét

xử oan người không có tội hoặc bỏ lọt tội phạm, thực hiện đúng và đầy đủ thủ

tục tố tụng, không để án quá hạn luật định. Cơ quan tiến hành tố tụng trong

quá trình định tội danh đối với bị cáo đã đánh giá một cách toàn diện, khách

quan, các tình tiết trong hành vi phạm tội đã thỏa mãn các yếu tố cấu thành

tội phạm đã được quy định trong Điều 178 BLHS. Các chứng cứ, các tình tiết

48

phạm tội được thu thập đầy đủ, đảm bảo tính hợp pháp, khách quan và liên

quan đến quá trình giải quyết vụ án. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cũng

được xem xét đầy đủ khi lượng lượng hình.

- Về hạn chế, vướng mắc:

+ Bên cạnh những kết quả đạt được thì cũng còn một số hạn chế, tồn

tại, như: Tiến độ giải quyết nguồn tin về tội phạm, giải quyết án của Cơ quan

điều tra còn chậm; tỷ lệ giải quyết án của Viện kiểm sát chưa đạt chỉ tiêu

Ngành đề ra; hoạt động trực tiếp kiểm sát trên một số lĩnh vực công tác chưa

được triển khai thực hiện; trong quá trình giải quyết một số vụ việc ở một số

đơn vị còn để xảy ra sai sót, phải kiểm điểm, rút kinh nghiệm.

- Một số người tiến hành tố tụng chưa chú ý hết các quy định về Tội

trộm cắp tài sản trong BLHS năm 2015 và các quy định vể tố tụng TRONG

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, dẫn đến nhầm lẫn trong quá trình áp dụng.

- Quyết định hình phạt nặng, nhẹ không phù hợp với tính chất, mức độ

của hành vỉ phạm tội; vị trí, vai trò phạm tội của các bị cáo trong công tác giải

quyết, xét xử theo thủ tục sơ thẩm.

+ Việc hiểu và áp dụng các văn bản về các tội xâm phạm sở hữu nói

chung và tội trộm cắp tài sản theo quy định của BLHS năm 2015 còn chưa

thống nhất giữa những người tiến hành tố tụng, giữa các cấp xét xử, dẫn đến

cách hiểu về các dấu hiệu của các tội phạm không thống nhất dẫn đến phải trả

hồ sơ, điều tra bổ sung hoặc bị cấp trên hủy án để điều tra, xét xử lại.

+ Công tác, đào tạo, tập huấn chuyên đề về kỹ năng giải quyết vụ án

hình sự đối với tội trộm cắp tài sản chưa được chú trọng nên dẫn đến nhiều

cán bộ chưa cập nhật kiến thức mới.

+ Thực tiễn vẫn có sự nể nang, chưa kiên quyết, quyết đoán dẫn đến

hoạt động thu thập chứng cứ, sử dụng, đánh giá chứng cứ để chứng minh tội

phạm với mong muốn nhanh chóng giải quyết vụ án nên dẫn đến các chứng

49

cứ chưa được đầy đủ và chặt chẽ, để xảy ra những vi phạm tố tụng.

- Nguyên nhân của các hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp

dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản:

Để xảy ra những hạn chế, tồn tại nêu trên một phần là do dịch bệnh

Covid – 19 bùng phát kéo dài đã ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện

một số nhiệm vụ của đơn vị. Bên cạnh đó, trong kỳ trên địa bàn thành phố

phát sinh nhiều vụ, việc có tính chất phức tạp, cần có thời gian để xác minh,

giải quyết. Ngoài ra, còn có nguyên nhân chủ quan dẫn đến hạn chế đó là Thủ

trưởng một số đơn vị chưa đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu

trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành đơn vị dẫn đến sai sót trong thực

hiện nhiệm vụ. Qua tổng kết có thể rút ra một số nguyên nhân cơ bản sau:

Thứ nhất, Hệ thống văn bản dưới luật còn nhiều mâu thuẫn, đặc biệt hệ

thống văn bản pháp luật liên quan đến các tội XPSH nói chung và tội trộm

cắp tài sản theo quy định của BLHS năm 2015 dẫn đến việc áp dụng pháp luật

chưa thống nhất, cách hiểu và vận dụng còn nhiều mâu thuẫn giữa các cơ

quan tiến hành tố tụng.

Thứ hai, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử còn

hạn chế. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ pháp luật không đồng đều. Việc xét

xử còn bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài đẫn đến việc tuyên án không

khách quan, tiêu cực

Ngoài những nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc xét xử còn bất cập như

đã phân tích ở trên, thì công tác đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản

trên địa bàn tỉnh Quảng Nam vẫn còn vướng mắc, hạn chế nên tội trộm cắp tài

sản vẫn diễn ra thường xuyên và tăng cao, cụ thể là một số nguyên nhân sau:

- Công tác tuyên truyền về tội trộm cắp tài sản chưa đến với quần

chúng, do đó quần chúng chưa thật sự cảnh giác trong việc bảo vệ tài sản, ý

thức chủ động phát hiện đấu tranh tố giác tội phạm.

50

- Công tác phối hợp giữa các cơ quan chuyên trách còn nhiều hạn chế,

vì vậy đã làm giảm khả năng phòng chống tội phạm trộm cắp tài sản nói

chung.

- Tổ chức phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương chưa hợp lý. Tỷ lệ

thất nghiệp cao, chênh lệch giàu nghèo lớn, phát triển kinh tế, xã hội chưa

đồng đều tại các vùng miền, địa phương trong tỉnh.

- Chính quyền địa phương mặc dù đã có nhiều chính sách hỗ trợ cũng

như tạo điều kiện cho hộ nghèo được thoát nghèo, tuy nhiên vẫn chưa đem lại

hiệu quả cao, số hộ nghèo vẫn chiếm tỷ lệ cao. Trong khi đó chúng ta chưa

thực hiện tốt các chính sách xã hội như tạo việc làm để giải quyết nạn thất

nghiệp;

- Chưa có chính sách hợp lý cho những người mãn hạn tù trở về nên

việc tái phạm còn nhiều. Mặc dù, trong trại giam các phạm nhân được học

nghề song khi mãn hạn tù thì các phạm nhân rất khó xin việc làm.

Tiểu kết Chương 2

Trong Chương 2 của Luận văn, tác giả đã nghiên cứu một số nội dung

sau:

1. Đã phân tích khái quát về tình hình kinh tế, chính trị xã hội thành

phố Hội An, tình hình xét xử tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội

An trong những năm gần đây, từ đó chỉ ra: tội trộm cắp tài sản trên địa bàn

thành phố Hội An trong 5 năm qua vẫn duy trì ở mức cao, mặc dù có chiều

hướng tăng cả về số vụ lẫn bị cáo, trung bình mỗi năm khoảng 13 vụ với 20 bị

cáo, chiếm tỷ lệ 1,61 người/vụ. Điều đó cho thấy, công tác đấu tranh phòng,

chống tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội

An còn nhiều khó khăn.

2. Bên cạnh những kết quả mà các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố

51

Hội An đã đạt được, vẫn còn những tồn tại, hạn chế, bất cập trong việc định

tội danh và quyết định hình phạt các vụ án hình sự về tội trộm cắp tài sản.

Những tồn tại, bất cập, hạn chế này nằm trong chính những cách hiểu và áp

dụng quy định của pháp luật để áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản.

3. Chương 2 của Luận văn cũng đã đánh giá chung về thực tiễn áp dụng

pháp hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An, chỉ ra

những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại hạn chế đó trong quá

trình áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản. Từ đó, làm nền tảng

cho các giải pháp áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản ở

Chương 3.

52

CHƯƠNG 3

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP

LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

3.1. Sự cần thiết của việc tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả

áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam vê tội trộm cắp tài sản

Điều 32 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền sở hữu về thu

nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất,

phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Quyền

sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ” [14, Điều 32]. Để

bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam bên cạnh việc

nghiên cứu góp phần làm rõ những quy định của Hiến pháp về quyền con

người, quyền công dân, thiết nghĩ chúng ta phải hoàn thiện tất cả các văn bản

quy phạm pháp luật từ Luật, pháp lệnh đến các văn bản dưới luật theo tinh

thần về quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp,

đồng thời mọi cơ quan nhà nước, tổ chức khi thực hiện mọi hoạt động cần

phải tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân..

Những năm gần đây tội phạm trộm cắp tài sản diễn ra phức tạp và phổ

biến, trong đó nhiều vụ do đối tượng phạm tội chuyên nghiệp, hoạt động có

băng nhóm gây ra. Nhiều vụ tội phạm do các đối tượng hoạt động là dân từ

nơi khác đến chứ không phải trong địa bàn thực hiện. Thực tiễn cho thấy hiệu

quả công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trộm cắp tài sản còn rất

hạn chế. Trong thời gian qua, các địa phương đã đề ra nhiều kế hoạch phòng

ngừa đấu tranh chống trộm xe gắn máy, phòng chống trộm cắp tài sản trong

nhà dân, phòng chống trộm cắp tài sản của người nước ngoài… nhằm đấu

tranh ngăn chặn tội phạm này, nhưng chưa thực sự có kết quả đáng kể.

BLHS sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua ngày 17/11/2015, có hiệu

53

lực vào ngày 01/7/2016. Để triển khai thi hành BLHS năm 2015 và Nghị

quyết của Quốc hội về việc thi hành BLHS, các cơ quan tố tụng thành phố Đà

Nẵng đã chủ động xây dựng kế hoạch triển khai thi hành BLHS năm 2015.

Trong đó, xác định cụ thể các nhiệm vụ, nhất là rà soát để kịp thời triển khai

ngay các quy định có hiệu lực từ khi Chủ tịch nước công bố; tổ chức quán

triệt và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để phổ biến, tập huấn BLHS năm

2015, đồng thời rà soát các văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời đề nghị

sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới.

Tuy nhiên, để BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thực sự là

công cụ pháp lý sắc bén và hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm,

đặc biệt là tội trộm cắp tài sản thì cần tiếp tục hoàn thiện những quy định về

tội phạm này. Việc hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật có liên

quan đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi trộm cắp tài

sản phải được tiến hành đồng bộ, toàn diện đồng thời với việc hoàn thiện toàn

bộ hệ thống pháp luật Việt Nam.

3.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện

nay về tội trộm cắp tài sản

Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự tội trộm cắp tài sản trên địa bàn

thành phố Hội An trong những năm gần đây cho thấy có một số vướng mắc

và đề xuất hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay

về tội trộm cắp tài sản như sau:

Thứ nhất, bổ sung hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản vào nội

hàm quy định tại Điều 173 BLHS hiện hành.

Cần phải mô tả cụ thể và đưa ra định nghĩa pháp lý khái niệm để hạn

chế dẫn đến nhầm lẫn trong việc định tội danh. Trong tội trộm cắp tài sản,

điều luật quy định theo cách chỉ nêu tên của tội danh mà không mô tả hành vi

thuộc mặt khách quan của tất cả các tội phạm. Do đó, để đảm bảo sự thống

54

nhất trong cách hiểu và áp dụng pháp luật, cần thiết nên bổ sung quy định mô

tả hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm.

Có ý kiến cho rằng “tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút với chủ sở

hữu nhằm chiếm đoạt tài sản” hay “tội trộm cắp tài sản được hiểu là hành vi

lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng trở lên

hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm

đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn

vi phạm” hoặc “trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy tài sản của chủ sở hữu

hoặc người có trách nhiệm quản lý tài mà không dùng vũ lực hoặc đe doạ

dùng vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn nào nhằm uy hiếp tinh thần của người

quản lý tài sản”….

Vì vậy, để thống nhất một cách hiểu về khái niệm này thì cần phải đưa

ra một khái niệm như thế nào là tội trộm cắp tài sản là một điều hết sức cần

thiết. Có thể đưa khái niệm tội trộm cắp tài sản vào Điều 173 như sau: “Người

nào lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến

dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng….’

Thứ hai, rút ngắn khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối đa trong khung

hình phạt

Mức tối thiểu và tối đa được quy định trong cùng một khung hình phạt

như vậy là quá dài. Điều nay dễ dẫn đến việc áp dụng mức hình phạt một cách

tùy tiện, phụ thuộc phần lớn vào ý chí chủ quan của Thẩm phán, Hội thẩm

Khoản 2 mức tối thiểu là 2 năm, mức tối đa là 7 năm (khoảng cách 5 năm); tại

khoản 3 mức tối thiểu 7 năm, mức tối đa 15 năm (khoản cách 8 năm); tại

khoản 4 mức tối thiểu là 12, mức tối đa là 20 năm.

Thứ ba, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể đối với hình phạt bổ sung là

phạt tiền

Trong 5 năm từ 2015 đến 2019 TAND thành phố Hội An hoàn toàn

55

không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, cho dù tính chất của mỗi vụ án

khác nhau. Với chức năng hỗ trợ cho hình phạt chính, phạt tiền với tư cách là

hình phạt bổ sung tạo điều kiện để toà án có thể xử lí triệt để và công bằng đối

với người phạm tội nhằm đạt được mục đích cao nhất của hình phạt nhưng

trên thực tế khi xét xử thì phần lớn Thẩm phán không áp dụng hình phạt bổ

sung. Bên cạnh đó, khoảng cách phạt giữa mức tối thiểu và tối đa là khá lớn

(từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng) rất dễ dẫn đến sự tuỳ tiện, không thống

nhất trong khi giải quyết những vụ việc tương tự, việc áp dụng mức phạt tiền

là bao nhiêu phụ thuộc vào suy nghĩ chủ quan của Thẩm phán.

Do đó, cần phải có văn bản hướng dẫn chi tiết, cụ thể, rõ ràng đối với

hình phạt bổ sung này.

3.3. Một số giải pháp khác góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng

pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản

Qua thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản trên địa

bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam đã nêu ở Chương 2, tác giả đề xuất

một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật đối

với tội trộm cắp tài sản như sau:

- Tăng cường tập huấn pháp luật hình sự.

Thường xuyên tổ chức các chương trình tập huấn nghiệp vụ, các khóa

đào tạo nhằm nâng trình độ chuyên môn bởi vì công tác đào tạo, bồi dưỡng

chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, viên chức TAND các cấp

được xác định là một trong các giải pháp để nâng cao chất lượng công tác xét

xử của TAND các cấp. Chú trọng đổi mới về nội dung, phương pháp đào tạo,

bồi dưỡng bảo đảm thực chất, gắn với yêu cầu thực tiễn công tác xét xử của

TAND. Cần quán triệt một số văn bản pháp luật mới và trao đổi, rút kinh

nghiệm về một số kỹ năng giải quyết vụ án để thống nhất cách hiểu, cách áp

dụng quy định của pháp luật khi giải quyết các loại án này; đồng thời kiến

56

nghị, đề xuất liên quan đến hoạt động xét xử từ đó nhằm giúp cho TAND áp

dụng pháp luật một cách thống nhất, qua đó góp phần nâng cao trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng xét xử của các Thẩm phán, Hội thẩm nhằm

hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.

Qua nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm

cắp tại thành phố Hội An, tác giả cho rằng cần đưa một số nội dung sau vào

chuyên đề tập huấn:

+ Các cơ quan tiến hành tố tụng khi xác định tài sản bị chiếm đoạt cần

căn cứ vào phong tục, tập quán và lối sống của người dân để làm căn cứ giám

định giá trị thiệt hại.

+ Tài sản là phương tiện sống chính, là chỗ dựa, phương tiện mưu sinh

duy nhất của người bị hại và gia đình họ nếu bị trộm cắp thì người bị hại và

gia đình họ sẽ rơi vào tình trạng khó khăn. Vì vậy, đối với những trường hợp

này thì tài sản bị trộm cắp phải được xác định là tài sản đặc biệt quan trọng,

những đối tượng phạm tội sẽ bị xử lý nặng hơn so với những trường hợp

khác.

- Tăng cường khả năng, năng lực của cán bộ xét xử.

TAND thành phố Hội An luôn chú trọng đến hình thức tự đào tạo, đào

tạo tại chỗ như khuyến khích công chức tăng cường công tác nghiên cứu khoa

học nhằm phát hiện những vướng mắc, bất cập trong áp dụng pháp luật; tạo

điều kiện về thời gian và kinh phí để Tổ nghiên cứu khoa học trẻ hoạt động;

hưởng ứng các cuộc thi về chuyên môn, nghiệp vụ do TAND tỉnh Quảng

Nam tổ chức; mở lớp tập huấn kỹ thuật quay phim, ghi hình và phát thanh

viên cho công chức phụ trách công tác công nghệ thông tin.

Cử công chức đi học trung cấp lý luận chính trị hệ không tập trung tại

Trường Chính trị tỉnh Quảng Nam để đảm bảo tiêu chuẩn công chức và cử

công chức tham gia lớp Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm phán do Tòa án

57

nhân dân tối cao tổ chức.

- Tăng cường nguồn lực và cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và

hoàn thiện chế độ chính sách đối với Thẩm phán, cán bộ tòa án.

Đầu tư cơ sở vật chất cho ngành Tòa án là cần thiết, sao cho xứng tầm

nhiệm vụ. Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị cũng đã nêu rõ đến năm 2010 phải

chấm dứt tình trạng thuê trụ sở làm việc nhưng đến nay vẫn chưa hoàn thành

mục tiêu đó. Với biên chế cũng vậy, với áp lực án tăng nhưng biên chế không

tăng như hiện nay là áp lực rất lớn cho ngành Tòa án, vậy nên nghiên cứu

đầu tư công nghệ thông tin để làm sao những vụ án đơn giản có thể xét xử

theo thủ tục rút gọn hoặc ứng dụng công nghệ thông tin vào xét xử. Trong

thời gian qua, chính sách đối với Thẩm phán và cán bộ TAND đã được quan

tâm, Thẩm phán có thang bậc lương riêng, được hưởng phụ cấp trách nhiệm,

để họ yên tâm công tác và đầu tư nhiều thời gian vào công tác chuyên môn

tuy nhiên chế độ phụ cấp nghề nghiệp đối với các chức danh tư pháp và Hội

thẩm nhân dân vẫn còn thấp, không ổn định, chưa tương xứng với trách

nhiệm và công sức, trí tuệ của họ.

- Tiếp tục đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt

động chuyên môn đã góp phần nâng cao hiệu quả việc quản lý, theo dõi và

đem lại lợi ích trong công tác chuyên môn. Xây dựng lại hệ thống hộp thư

mạng nội bộ, phát huy tiện ích của hệ thống, tăng cường tính bảo mật, hỗ trợ

tốt cho việc khai thác thông tin phục vụ công tác chuyên môn, góp phần tiết

kiệm chi phí, bảo đảm an toàn dữ liệu, thông tin. Kịp thời triển khai và tập

huấn công tác báo cáo, thống kê đối với công chức làm công tác báo cáo,

thống kê tại các Viện nghiệp vụ góp phần đưa công tác tổng hợp, thống kê đi

vào nề nếp, quy cũ đáp ứng được yêu cầu phục vụ tốt quản lý, lãnh đạo, điều

hành trong thời gian tới.

- Tăng cường xử lý tội phạm về các hành vi tiêu thụ tài sản do

58

phạm tội mà có.

Bên cạnh đó, vấn đề tiêu thụ hàng gian, sản phẩm do phạm tội mà có

vẫn có diễn biến phức tạp. Mặc dù Luật sửa đổi Bộ luật hình sự 2017 quy

định rõ các biện pháp ngăn chặn, xử lý tội phạm về các hành vi tiêu thụ tài

sản do phạm tội mà có, tuy nhiên, cơ quan chức năng vẫn gặp khó khi phải

chứng minh và xử lý hành vi tiêu thụ hàng gian… Cả cơ quan chức năng và

người dân đều biết đường đi của tài sản gian, tài sản do phạm tội mà có nhưng

vẫn "bó tay" vì thiếu bằng chứng để buộc tội...

Thực tiễn cho thấy, người bán hàng gian nếu bị cơ quan chức năng triệu

tập thì họ cũng chỉ cần khai báo rằng mình không biết đây là tài sản do người

khác phạm tội mà có. Đó cũng chính là những kẽ hở của pháp luật dẫn đến

việc nạn trộm cắp máy tính, điện thoai, xe máy, gương xe ô tô… vẫn cứ tiếp

diễn. Người bị hại không khó để mua lại chính tài sản của mình bị đánh cắp

và người bán những tài sản gian đó thì vẫn không hề hấn gì.

- Giải pháp về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.

Tuyên truyền giáo dục cho mọi công dân hiểu pháp luật và có ý thức

chấp hành pháp luật là tiền đề quan trọng để phòng ngừa tội phạm mà đặc biệt

là phòng ngừa tội trộm cắp tài sản. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là

một trong những chủ trương, chính sách lớn của Đảng ta. Trong những năm

qua, nhất là từ khi có Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09-12-2003 của Ban Bí thư

về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân", công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật của hệ thống Tòa án nhân dân đã được thực hiện

thông qua nhiều hình thức và đã đạt được kết quả tích cực. Mặc dù, Đảng,

Nhà nước ta rất quan tâm, chú trọng đến công tác giáo dục ý thức pháp luật

cho cán bộ, nhân dân nhưng hiệu quả của công tác này vẫn chưa đem lại hiệu

quả như mong muốn.

59

Qua nghiên cứu các nguyên nhân và điều kiện từ phía con người, xét

thấy chúng ta cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác giáo dục, tuyên truyền cho

mọi người trong cộng đồng xã hội trước hết hiểu biết về pháp luật, có ý thức

tôn trọng pháp luật đồng thời góp phần nâng cao ý thức đấu tranh, phòng

chống tội phạm.

Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cũng cần được quan tâm

đúng mức. Bên cạnh tuyên truyền pháp luật thông qua công tác xét xử các vụ

án phức tạp, các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, có sự tham dự đông đảo của

quần chúng nhân dân thì việc đưa tin, bài trên Trang tin điện tử của đơn vị,

đăng tải các video phản ánh hoạt động trên mạng xã hội (youtube) hoặc phối

hợp thực hiện chuyên mục phát sóng trên Đài phát thanh thành phố là những

kênh tuyên truyền pháp luật hữu hiệu.

- Tăng cường kiểm tra, tuần tra, giám sát và phát hiện, xử lý kịp

thời về trộm cắp tài sản.

Tập trung xây dựng lực lượng giữ gìn an ninh trật tự tại địa bàn xóm

ấp, khu phố, xã, phường, thị trấn với lực lượng công an làm nồng cốt. Áp

dụng các biện pháp nghiệp vụ có hiệu quả để phát hiện kịp thời và ngăn chặn

các vụ trộm cắp tài sản. Chính quyền phải tạo điều kiện giúp đỡ những người

có tiền án, tiền sự tại địa phương để họ có thể ổn định cuộc sống và tái hòa

nhập cộng đồng. Kiên quyết xử lý hành chính bằng các biện pháp giáo dục tại

xã, phường, thị trấn; đưa vào cơ sở giáo dục; trường giáo dưỡng đối với

những người có hành vi trộm cắp nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm

hình sự.

Tổ chức tuần tra nhân dân, tuần tra của các lực lượng chức năng để

canh gác, bảo vệ, phòng ngừa, phát hiện, bắt giữ các đối tượng trộm cắp tài

sản. Các đơn vị, lực lượng công an trong tỉnh sẽ tập trung rà soát và dựng các

đường dây, ổ nhóm, đối tượng có biểu hiện trộm cắp tài sản chuyên nghiệp

60

hoạt động liên tuyến, liên địa bàn, hoạt động phức tạp để triển khai các biện

pháp phòng ngừa, lập án đấu tranh triệt xóa. Đồng thời, gọi hỏi, răn đe, giáo

dục các đối tượng nghi vấn, có tiền án, tiền sự về tội trộm cắp tài sản; quản lý

chặt số người nghiện ma túy và tổ chức ký cam kết không thực hiện các hành

vi vi phạm pháp luật, trộm cắp tài sản. Lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm

về trật tự, cảnh sát cơ động, cảnh sát giao thông sẽ tăng cường công tác tuần

tra vũ trang, tuần tra nghiệp vụ tại các khu vực, địa bàn trọng điểm, phức tạp

thường xảy ra các vụ trộm cắp tài sản để kịp thời phát hiện, ngăn chặn bắt giữ

các đối tượng phạm tội.

Các tệ nạn về ma túy, cờ bạc là một trong những nguyên nhân, điều

kiện phát sinh tội trộm cắp tài sản, gây ảnh hưởng không tốt đến trật tự an

toàn xã hội. Vì vậy, cơ quan chuyên môn cần tập trung đấu tranh, triệt xóa các

tụ điểm đánh bạc cũng như mua bán ma túy xảy ra.

- Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong hoạt động

phòng chống tội trộm cắp tài sản.

Công an thành phố, phối hợp với các ngành chức năng, tăng cường các

mặt công tác nghiệp vụ, nắm chắc diễn biến tình hình trên địa bàn. Mở các

đợt cao điểm ra quân tấn công tội phạm; tập trung lực lượng, biện pháp đấu

tranh trên các tuyến, địa bàn trọng điểm, triệt xóa đường dây ttiêu thụ tài sản

do phạm tội mà có. Tăng cường công tác phối hợp trong điều tra, truy tố, xét

xử các đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản theo pháp luật. Đặc biệt, cần tăng

cường sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong ngăn ngừa, đấu tranh phòng,

chống tội phạm trên địa bàn thảnh phố, nhất là sự phối hợp giữa các lực lượng

Công an, Sở Lao động, Thương binh và xã hội, Sở Y tế, Tòa án, Bộ đội Biên

phòng, Hải quan thành phố. Tổ chức tuần tra, kiểm soát chặt chẽ vào các

khung giờ mà người dân nghỉ ngơi, mất cảnh giác. Đấu tranh chống tội phạm

nói chung và người phạm tội nói riêng là trách nhiệm của các cơ quan nhà

61

nước, mà nòng cốt là các cơ quan bảo vệ pháp luật, đó là Cơ quan điều tra,

Viện kiểm sát, Tòa án. Những cơ quan này đóng vai trò quan trọng trong việc

bảo vệ chính quyền, bảo đảm cho nhà nước được ổn định về chính trị, phát

triển mạnh về kinh tế, xã hội công bằng văn minh. Các cơ quan này đòi hỏi

phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau và thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ

của mình do pháp luật quy định. Phải huy động được các cơ quan nhà nước,

các tổ chức kinh tế, xã hội, các đoàn thể và công dân vào công tác phòng

chống tội phạm, mà đặc biệt là tội trộm cắp tài sản.

Để tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành

phố tiếp tục được giữ vững và ổn định, phục vụ tốt cho công cuộc xây dựng

và phát triển của địa phương, không để phát sinh điểm nóng, khiếu kiện đông

người, các tệ nạn xã hội như: ma túy, mại dâm, băng nhóm tội phạm, cướp,

cướp giật tài sản… Trong thời gian đến, ngoài việc tiếp tục tranh thủ sự lãnh

đạo, chỉ đạo của cấp ủy địa phương và Ban cán sự đảng TAND tỉnh Quảng

Nam, Tòa án nhân dân thành phố Hội An còn tranh thủ sự giúp đỡ, phối hợp

của các cơ quan, đơn vị trong thành phố, triển khai thực hiện một cách có hiệu

quả những giải pháp mà đơn vị đề ra hàng năm, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi các

loại tội phạm và giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các tranh chấp phát sinh

trong nhân dân, đem lại sự bình yên cho Đô thị cổ Hội An. Qua đó, cùng với

đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố xây dựng Đô thị cổ Hội An sớm

trở thành thành phố “Sinh thái – Văn hóa – Du lịch” như mục tiêu đã đề ra.

- Tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật.

Công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn phải có sự gắn bó

chặt chẽ và biện chứng, trong đó hoạt động lý luận cần tập trung nghiên cứu

những vấn đề cơ bản, làm rõ những bất cập và vạch ra xu hướng vận động của

thực tiễn; ngược lại, hoạt động tổng kết thực tiễn phải giải quyết những khó

khăn, vướng mắc và là cơ sở để bổ sung lý luận.

62

Công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn phải có sự gắn bó

chặt chẽ và biện chứng, trong đó hoạt động lý luận cần tập trung nghiên cứu

những vấn đề cơ bản, làm rõ những bất cập và vạch ra xu hướng vận động của

thực tiễn; ngược lại, hoạt động tổng kết thực tiễn phải giải quyết những khó

khăn, vướng mắc và là cơ sở để bổ sung lý luận.

- Tổ chức Hội nghị sơ kết thực hiện Quy chế phối hợp giữa các cơ quan

tư pháp qua đó đã ban hành kết luận chung về hội nghị góp phần giải đáp,

tháo gỡ vướng mắc nâng cao chất lượng công tác phối hợp giữa VKSND

TAND và CQĐT trong thời gian tới.

- Tổng kết thực tiễn và tổ chức hội nghị, hội thảo về nâng cao chất

lượng công tác kháng nghị phúc thẩm trong các lĩnh vực kiểm sát; tiếp tục tổ

chức hội nghị tập huấn chuyên sâu theo nhóm tội danh trong lĩnh vực hình sự

để giúp các địa phương tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng

pháp luật.

Tiểu kết Chương 3

Tại Chương 3 của Luận văn, tác giả đã đi vào nghiên cứu, phân tích các

nội dung cơ bản như:

1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội trộm cắp

tài sản gồm: yêu cầu đảm bảo thực hiện đầy đủ quy định của Hiến pháp năm

2013 về quyền con người và quyền cơ bản của công dân; yêu cầu đưa các quy

định của Bộ luật hình sự năm 2015 vào cuộc sống; yêu cầu cụ thể hóa được

chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống

tội trộm cắp tài sản; yêu cầu đảm bảo phù hợp với các điều kiện kinh tế, xã

hội ở nước ta; yêu cầu hội nhập quốc tế.

2. Chương 3 của Luận văn cũng đã đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các

quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay về tội trộm cắp tài sản như:

63

bổ sung khái niệm tội trộm cắp tài sản vào trong Điều 173 BLHS sửa đổi; rút

ngắn khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối đa trong khung hình phạt, cần đưa

ra tình tiết định khung đối với hình phạt bổ sung là phạt tiền, cần hướng dẫn

cụ thể về tình tiết “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài

sản mà còn vi phạm” và “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã

hội”, hoàn thiện, làm rõ quy định về tình tiết “hành hung để tẩu thoát”;

3. Bên cạnh đó Chương 3 của Luận văn cũng đưa ra các giải pháp nhằm

nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản như:

tăng cường tập huấn pháp luật hình sự; tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng

pháp luật; tăng cường khả năng, năng lực của cán bộ xét xử; tăng cường

nguồn lực và cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và hoàn thiện chế độ chính

sách đối với Thẩm phán, cán bộ tòa án và một số giải pháp khác về phòng

ngừa đối với tội phạm này.

64

KẾT LUẬN

Qua thực tiễn nghiên cứu đề tài “Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật

hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam”, Luận

văn đã làm rõ một số vấn đề sau:

Trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 các cơ quan tiến hành tố

tụng thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam đã có nhiều cố gắng nhằm giải quyết

các vụ án hình sự đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; tránh việc

bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Bên cạnh những thành công đạt

được, thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, thiếu

sót, làm giảm hiệu quả trong nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm này.

Một số quy định về tội trộm cắp tài sản chưa rõ ràng dẫn đến việc vận dụng

các quy định của BLHS về tội trộm cắp tài sản chưa thống nhất, làm cho công

tác xét xử đạt kết quả chưa cao.

Luận văn đã đi sâu phân tích, đánh giá thực tiễn công tác giải quyết các

vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An giai đoạn từ năm 2015 -

năm 2019; chỉ ra được những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn

chế cần khắc phục trong quá trình áp dụng pháp luật cũng như xử lý các vụ án

hình sự nói chung và đối với tội trộm cắp tài sản nói riêng.

Qua đó phân tích, kiến nghị cả về lập pháp cũng như những vấn đề cần

rút kinh nghiệm trong thực tiễn giải quyết các vụ án trộm cắp tài, từ đó tìm ra

các giải pháp hợp lý, đưa ra những kiến nghị phương hướng để hoàn thiện

pháp luật hình sự cũng như những biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy

định của pháp luật hình sự. Qua việc đề xuất những giải pháp, tác giả mong

muốn góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác đấu tranh phòng,

chống tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng

Nam.

65

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ tư pháp (2015), Báo cáo kết quả tổng kết thực tiễn thi hành Bộ luật

hình sự, (trangtinphapluat.com truy cập ngày 10/9/2015).

2. Lê Cảm (2005), "Những vấn đề lý luận về bốn yếu tố cấu thành tội

phạm", Tạp chí TAND (7), tr. 11- 14.

3. Lê Văn Đệ (2005), Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình

sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

4. Trần Mạnh Hà (2006), Định tội danh tội trộm cắp tài sản qua một số dấu

hiệu đặc trưng, (http://www.intecovietnam.com).

5. Trần Mạnh Hà (2006), Phân biệt một số dấu hiệu đặc trưng của tội trộm

cắp tài sản khi định tội danh.

6. Bùi Đăng Hiếu (2005), “Tiền, một loại tài sản trong quan hệ pháp luật

hình sự”, Tạp chí Luật học, (1), tr. 37.

7. Nguyễn Ngọc Hòa (2000), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb Công

an Nhân dân, Hà Nội.

8. Nguyễn Ngọc Hoà (2004), Cấu thành tội phạm- Lý luận và thực tiễn,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

9. Nguyễn Ngọc Hòa - Lê Thị Sơn (2006), Từ điển pháp luật hình sự, Nxb

Tư Pháp.

10. Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết số

01/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định

của Bộ luật hình sự, Hà Nội.

11. Hoàng Văn Hùng (2007), Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng chống

tội phạm này ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, trường Đại học Luật

Hà Nội, Hà nội.

12. Cao Thị Oanh - chủ biên (2015), Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất

chiếm đoạt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

13. Trần Thị Phường (2011), Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở

hữu tại tỉnh Bình Định giai đoạn 2006-2010, Luận văn Thạc sĩ Luật học,

Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.

14. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Hà Nội.

15. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự năm 1999, Hà Nội.

16. Quốc hội (2009), Bộ luật Hình sự năm 1999 (sđ, bs năm 2009), Hà Nội.

17. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Hà Nội.

18. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, Hà Nội.

19. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Hà Nội.

20. Toà án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao- Bộ Công an-

Bộ Tư pháp (2001), Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-

VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25-12-2001 hướng dẫn áp dụng một số quy

định tại chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự

năm 1999, Hà Nội.

21. Tòa án nhân dân thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam (2015 - 2019), Báo

cáo tổng kết công tác các năm.

22. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,

tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

23. Nguyễn Thanh Tùng (2013), Tội trộm cắp tài sản theo Luật hình sự Việt

Nam (trên cơ sở số liệu địa bàn TP Hồ Chí Minh), luận văn thạc sĩ Luật

học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.

24. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1946), Sắc lệnh số 47- SL ngày 10-10-1946

của chủ tịch Hồ Chí Minh tạm thời giữ lại các luật lệ tại miền Bắc,

Trung, Nam Bộ cho đến khi ban hành các văn bản pháp luật thống nhất

trong toàn quốc.

25. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1949), Sắc lệnh số 12 ngày 12-3-1949 quy

định trừng trị các hành vi trộm cắp vật dụng nhà binh trong thời bình và

thời kì chiến tranh.

26. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1970), Pháp lệnh số 149-LCT ngày

21/10/1970, Trừng trị các tội xâm phạm tài sản Xã hội Chủ nghĩa.

30. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1970), Sắc lệnh số 267 ngày 15-6-1958

trừng trị những âm mưu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước,

của hợp tác xã và của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách kế

hoạch của Nhà nước về xây dựng kinh tế và văn hoá.

27. Võ Khánh Vinh (2010), Giáo trình Lý luận chung về Định tội danh, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

28. Trịnh Tiến Việt (chủ biên) (2015), Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng

pháp luật hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.