VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ TIẾN TÀI

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN KRÔNG BÔNG, TỈNH ĐĂK LĂK

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ TIẾN TÀI

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN KRÔNG BÔNG, TỈNH ĐĂK LĂK

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số:8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. PHAN ANH TUẤN

HỒ CHÍ MINH, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số

liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những

kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào

khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Tiến Tài

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................... 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 4

3.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................ 4

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 5

4.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................... 5

4.2. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 5

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ...................................... 5

5.1. Phương pháp luận ................................................................................ 5

5.2. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 5

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn................................................. 6

7. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 6

Chương 1 .............................................................................................................. 8

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN ................................................................................ 8

1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản ........... 8

1.2. Phân biệt tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam với một số tội chiếm đoạt tài sản khác................................................................... 11

1.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản. ..................................................................................................................... 14

1.4. Khái quát lý luận định tội danh tội trộm cắp tài sản ...................... 23

Chương 2 ............................................................................................................ 27

THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KRÔNG BÔNG, TỈNH ĐĂK LĂK ................................................................. 27

2.1. Đặc điểm, tình hình của huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk ảnh hưởng đến áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản ..... 27

2.2. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Krông Bông ........................................... 32

2.3. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trên địa bàn huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk ................................ 46

2.4. Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn xét xử tội trộm cắp tài sản ............................................. 49

Chương 3 ............................................................................................................ 52

CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN ......................................... 52

3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản ................................................................................................... 52

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản ......................................................................................... 54

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của luật hình sự về tội trộm cắp tài sản .......................................................................................................... 54

3.2.2 Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Krông Bông – tỉnh Đăk Lăk ..................................................................... 54

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 63

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 65

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TCTS: Trộm cắp tài sản

BLHS: Bộ luật hình sự

TAND: Tòa án nhân dân

TNHS: Trách nhiệm hình sự

BLDS: Bộ luật dân sự

CTTP: Cấu thành tội phạm

CĐTS: Chiếm đoạt tài sản

XHCN: Xã hội chủ nghĩa

HĐXX: Hội đồng xét xử

UBND: Uỷ ban nhân dân

BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Số lượng số vụ và bị cáo phạm tội tội trộm cắp tài sản bị đưa ra xét xử trong

nhóm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn huyện Krông Bông từ năm 2015 đến năm

2019 ............................................................................................................................... 29

Bảng 2.2. Tỷ lệ tội trộm cắp tài sản trong nhóm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn

huyện Krông Bông từ năm 2015 đến năm 2019............................................................ 30

Bảng 2.3. Tỷ lệ tội phạm đã bị xét xử trên địa bàn huyện Krông Bông giai đoạn từ

năm 2015 đến năm 2019 ................................................................................................ 31

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cùng với sự phức tạp của tội phạm hình sự trên cả nước, tình hình tội phạm

hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk cũng có nhiều biến động và phức tạp, thủ đoạn

hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Qua báo cáo tổng kết hàng năm ở địa bàn

tỉnh Đăk Lăk thì phương thức hoạt động của tội phạm rất đa dạng, mức độ thiệt hại

do chúng gây ra ngày càng lớn. Trong đó có các loại tội phạm như giết người, cướp

tài sản, hiếp dâm, lừa đảo, trộm cắp, buôn bán ma túy... gia tăng. Đặc biệt loại tội

phạm trộm cắp tài sản trong nhà dân xảy ra nhiều, thiệt hại do loại tội phạm này gây

ra rất lớn, làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới tình hình trật tự an toàn xã hội trên địa

bàn.

Krông Bông là một huyện vùng sâu, vùng xa tỉnh Đắk Lắk. Trong những năm

gần đây nhờ thực hiện đúng đắn các chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà

nước, huyện Krông Bông đang từng bước đổi mới và phát triển kinh tế theo hướng

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa để theo kịp xu hướng của đất nước. Cùng với sự phát

triển của nền kinh tế thì kèm theo đó là sự nảy sinh những vấn đề tiêu cực như các

tệ nạn xã hội, cũng như các tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình, tranh chấp di sản

thừa kế, tranh chấp đất đai, đặc biệt là tình hình tội phạm ngày càng gia tăng. Trong

đó, tội trộm cắp tài sản là tội xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản đang xảy

ra khá phổ biến. Trong thời gian gần đây, tình hình TCTS vẫn đang có những

chuyển biến khó lường, gây ra những thiệt hại lớn về tài sản, làm mất trật tự an toàn

xã hội, trong đó có địa bàn huyện Krông Bông. Mặc dù các cơ quan tiến hành tố

tụng tại địa bàn huyện đã nổ lực trong việc đấu tranh, phòng chống tội phạm, tuy

nhiên, việc xử lý loại hình tội phạm này vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thỏa mãn được

yêu cầu đặt ra trong vấn đề phòng chống tội phạm. Để khắc phục tình trạng trên thì

vấn đề đầu tiên là phải nắm vững các quy định của pháp luật về tội trộm cắp tài sản,

nhận thức đúng đắn hành vi phạm tội, xác định những vướng mắc trong việc áp

dụng quy định của pháp luật hình sự của tội này trên thực tiễn để từ đó xác định

1

được các nguyên nhân và đưa ra giải pháp khắc phục để có đường lối xử lý đúng

đắn, đảm bảo sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật.

Vì vậy, Học viên đã lựa chọn đề tài “Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn huyện

Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk” làm luận văn Thạc sĩ với mong muốn trên cơ sở nghiên

cứu lý luận và thực tiễn để khắc phục những bất cập trong quy định của pháp luật

hình sự và đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp

luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Việc nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản được rất nhiều nhà nghiên cứu lý luận,

luật gia hình sự, cán bộ pháp lý quan tâm. Đến nay ở các mức độ khác nhau, trực

tiếp và gián tiếp đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố như: giáo trình,

luận văn, luận án, các bài viết trên các tạp chí…Có thể kể ra một số công trình sau:

- Các giáo trình luật hình sự của các cơ sở đào tạo luật như: (1) Võ Khánh

Vinh (Chủ biên) (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam- Phần Các tội phạm,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; (2) Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo

trình Luật hình sự Việt Nam- Phần Các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà

Nội;…Các giáo trình này cung cấp những kiến thức lý luận cơ bản về dấu hiệu pháp

lý của tội trộm cắp làm cơ sở tham khảo cho luận văn nghiên cứu về lý luận và quy

định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản.

- Các Luận văn thạc sỹ Luật hình sự và tố tụng hình sự có liên quan đến tội

trộm cắp tài sản có thể kể đến như: (1) Luận văn “Tội trộm cắp tài sản theo pháp

luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” của tác giả Lê Thị Bình, Học

viện Khoa học xã hội Việt Nam, năm 2018; (2) Luận văn thạc sỹ Luật học “Thực

trạng, giải pháp nâng cao hiệu qua điều tra tội trộm cắp tài sản của lực lượng cảnh

sát điều tra công an tỉnh Quảng Trị” của tác giả Nguyễn Việt Hùng, Học viện Cảnh

sát nhân dân, năm 2014; (3) Luận văn thạc sỹ Luật học “Tội trộm cắp tài sản ở tỉnh

Quảng Nam: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” của tác giả Phạm

Thị Bé, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, năm 2014; (4) Luận văn thạc sỹ Luật

học “Đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Chương Mỹ,

2

thành phố Hà Nội” của tác giả Nguyễn Anh Tuấn, Học viện Khoa học xã hội Việt

Nam, năm 2013; (5) Luận văn thạc sĩ “Tội trộm cắp tài sản do người nước ngoài

thực hiện từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Trần Thị Bích Liên,

Học viện Khoa học xã hội, 2016; (6) Nguyễn Thanh Tùng, “Tội trộm cắp tài sản

theo Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh)”,

Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013; (7) Trần Thị

Phường, Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu tại tỉnh Bình Định giai

đoạn 2006-2010, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,

2011 … Các luận văn này, nghiên cứu tội trộm cắp tài sản dưới các góc độ khác

nhau và ở các địa phương khác nhau là tài liệu quan trọng cho tác giả tham khảo

xây dựng phần lý luận cũng như cách thức thực hiện nghiên cứu về tội trộm tài sản

khi áp dụng vào địa bàn nghiên cứu của luận văn là huyện Krông Bông, tỉnh Đăk

Lăk.

- Các bài viết trên các tạp chí có liên quan đến đề tài có thể kể đến như: (1) Lê

Văn Định (2017), “Bàn về nguyên nhân và điều kiện của tội trộm cắp tài sản ở Tây

Nguyên”, Kiểm sát, Số 10, tr. 20 – 24; (2) Dương Vân Anh (2014), “Yếu tố định

lượng tài sản đối với tội trộm cắp tài sản”, Kiểm sát, Số 23, tr.49-52;62; (3) Mai Bộ

(2008), “Quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội “trộm cắp tài sản”, Tòa án

nhân dân, 2008, số 4; (4) Nguyễn Văn Trượng (2008), “Một số vấn đề cần hoàn thiện

đối với Tội trộm cắp tài sản”, Tòa án nhân dân, số 4, tháng 2/2008; (5) Trần Mạnh

Hà (2006), “Định tội danh tội trộm cắp tài sản qua một số dấu hiệu đặc trưng”, Nghề

luật, số 5/2006 ...

Các bài viết trên các tạp chí nêu trên trong chừng mực nhất định gợi ý cho

luận văn những vướng mắc từ thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm

cắp tài sản – dù việc áp dụng quy định về tội trộm cắp tài sản theo quy định của

BLHS năm 1999.

Như vậy, qua các công trình nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản trong Luật hình

sự Việt Nam được công bố trong thời gia qua có thể rút ra một số điểm sau:

3

Qua nghiên cứu các công trình trên cho thấy: một số công trình có phạm vi

nghiên cứu rộng, ngược lại có một số công trình chỉ nghiên cứu tội trộm cắp tài sản với

ý nghĩa là tội phạm để nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt, có công

trình thì đã nghiên cứu chủ yếu về tội trộm cắp tài sản theo quy định của BLHS năm

1999, do vậy giá trị lý luận và thực tiễn còn hạn chế.

Trong thời gian từ năm 2015 đến nay, chưa có công trình nào đi sâu nghiên

cứu về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk cũng như địa bàn huyện Krông

Bông, trong khi đó loại tội phạm này đang diễn biến khá phức tạp tại địa phương,

thực tiễn áp dụng quy định của BLHS về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện

Krông Bông cho thấy những bất cập, khó khăn trong việc xác định đối tượng tác

động của tội phạm, một số dấu hiệu định tội, một số tình tiết định khung hình phạt

và mức phạt đối với người phạm tội.

Đối chiếu với các công trình nghiên cứu đã công bố trong nước những năm

gần đây liên quan đến đề tài về tổng thể vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên

cứu, có giá trị lý luận và thực tiễn và không trùng lặp với các công trình đã công bố

do tính đặc thù về địa bàn thực tiễn nghiên cứu là huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk.

Từ các lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn địa bàn

huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk” để làm Luận văn Thạc sĩ Luật học.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự

về Tội trộm cắp tài sản theo quy định của BLHS Việt Nam năm 2015, đồng thời đi

sâu vào phân tích thực tiễn xét xử tội trộm cắp tài sản từ năm 2015 đến 2019 trên

địa bàn huyện Krông Bông, Luận văn đưa ra một số vướng mắc, tồn tại trong thực

tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản để đề xuất một số kiến

nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng

các quy định của BLHS Việt Nam về loại tội phạm này.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được những mục đích trên, đề tài xác định các nhiệm vụ nghiên cứu sau:

4

- Phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản theo quy

định của Bộ luật hình sự Việt Nam;

- Phân biệt tội trộm cắp tài sản với một số tội phạm xâm phạm sở hữu khác

- Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn

huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk; những hạn chế, bất cập trong áp dụng pháp luật

hình sự đối với trộm cắp tài sản .

- Đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự hiệu quả áp dụng

pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Krông Bông, tỉnh Đăk

Lăk

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp

tài sản tại địa bàn huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn

áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản.

- Phạm vi về thời gian: luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định về tội

trộm cắp tài sản từ năm 2015 đến năm 2019.

- Về địa bàn nghiên cứu: luận văn khảo sát, nghiên cứu thông qua các bản án

trên phạm vi tại địa bàn huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài này được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –

Lênin với phép duy vật biện chứng, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về tội

phạm, cải cách tư pháp, hình phạt, đấu tranh phòng chống tội phạm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu Luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ

thể như sau:

5

- Phương pháp lịch sử: phương pháp này được sử dụng để làm rõ sự hình

thành và phát triển của tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam từ sau Cách

mạng Tháng Tám đến nay.

- Phương pháp thống kê, tổng hợp: phương pháp này được sử dụng để làm rõ

tình hình xử lý hình sự đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Krông Bông,

tỉnh Đăk Lăk.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng để làm rõ những vấn

đề chung và những hạn chế, vướng mắc về tội trộm cắp tài sản.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về tội

trộm cắp tài sản, từ đó góp phần nâng cao nhận thức và áp dụng pháp luật cũng như

hoàn thiện lý luận về tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật Hình sự Việt Nam. Qua đó

chỉ ra những tồn tại bất cập của các quy định hiện hành còn sai sót trong quá trình

áp dụng các quy định đó cũng như đưa ra những nguyên nhân để tìm giải pháp khắc

phục, đặc biệt một số giải pháp gắn liền với việc phòng, chống tội phạm này trên

địa bàn Huyện Krông Bông, Tỉnh Đăk Lăk.

Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là

Tòa án trong việc áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trong quá trình

giải quyết các vụ án hình sự . Ngoài ra luận văn còn là cơ sở để đưa ra các kiến nghị

tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến tội trộm cắp tài sản.

Từ đó, làm tiền đề cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực thi tốt nhiệm vụ được

giao, khi xử lý các vụ án về trộm cắp tài sản trên địa bàn Huyện Krông Bông, Tỉnh

Đăk Lăk.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn gồm ba chương với tên gọi như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm

cắp tài sản.

6

Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về

tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Huyện Krông Bông, Tỉnh Đăk Lăk.

Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự

về tội trộm cắp tài sản

7

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản

1.1.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản

Khái niệm của tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS Việt Nam năm 2015,

sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là BLHS năm 2015). Theo đó, “tội phạm là

hành vi nguy hiểm…phải bị xử lý hình sự”.

Khái niệm tội phạm phản ánh những đặc điểm cơ bản: tội phạm là hành vi gây

nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách

nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện, có lỗi và phải xâm

phạm đến các quan hệ xã hội được BLHS bảo vệ.

Khái niệm tội trộm cắp tài sản: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm

đoạt tài sản đang do người khác quản lý, được thực hiện bởi người có năng lực

TNHS và đủ từ 14 tuổi trở lên, thực hiện một cách cố ý, xâm phạm quan hệ sở hữu

tài sản của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân, thỏa mãn các dấu hiệu được quy định

tại Điều 173 BLHS”.

Để có cái nhìn rõ hơn về khái niệm tội trộm cắp tài sản thì chúng ta lần lượt đi

vào phân tích các đặc điểm của tội phạm này. Cụ thể bao gồm các đặc điểm sau:

Thứ nhất, hành vi chiếm đoạt tài sản được thực hiện một cách lén lút

Đặc điểm riêng biệt có tính đặc thù của tội “trộm cắp tài sản” là hành vi “lén

lút”, không có hành vi này thì không phải là trộm cắp. Nếu một hành vi chiếm đoạt

tài sản công khai đối với chủ sở hữu tài sản, người quản lý tài sản thì không thể coi

đó là hành vi trộm cắp, mà hành vi trộm cắp phải được thực hiện một cách lén lút,

vụng trộm đối với chủ sở hữu tài sản. Trong tội “trộm cắp tài sản”, hành vi “lén lút”

chiếm đoạt tài sản có đầy đủ các dấu hiệu này, thiếu một trong những dấu hiệu đó sẽ

không thể hiện hết được bản chất của sự “lén lút”. Nói theo cách khác, “lén lút” là

8

thủ đoạn của một người cố ý thực hiện làm một việc sai trái, vụng trộm không để

cho người khác biết, nhằm mục đích chiếm đoạt trái phép tài sản của họ.

Hành vi “lén lút” ở đây không nhất thiết là việc làm mà không ai biết, nó có

thể được thực hiện một cách bí mật, vụng trộm, nhưng cũng có thể được thực hiện

một cách công khai, ở nơi có nhiều người.

Thứ hai, bị hại mà tội phạm hướng đến để thực hiện hành vi trộm cắp

Bị hại mà tội phạm hướng đến để thực hiện hành vi trộm cắp là chủ sở hữu và

người quản lý tài sản.

- Chủ sở hữu tài sản: theo quy định tại Điều 158 Bộ luật Dân sự 2015 thì quyền

sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ

sở hữu. Hay nói cách khác, chủ sở hữu là người có quyền: tự quản lý, nắm giữ, chi phối

tài sản theo ý mình mà không bị hạn chế về thời gian; có quyền khai thác các lợi ích,

giá trị của tài sản và quyết định về số phận của tài sản đó.

- Người quản lý tài sản: là người đang nắm giữ hoặc trông coi tài sản, họ

không phải là chủ sở hữu tài sản nên họ không có được đầy đủ ba quyền của chủ sở

hữu. Vì vậy, người quản lý tài sản không được định đoạt tài sản. Họ có thể được

định đoạt tài sản trong phạm vi ủy quyền của chủ sở hữu.

- Thứ ba, về thủ đoạn chiếm đoạt tài sản

Thủ đoạn chiếm đoạt tài sản của người khác có thể dưới các hình thức:

+ Do lâm vào tình trạng không có khả năng để biết như: bị tai nạn ngất…

+ Không có mặt tại nơi để tài sản;

+ Thủ đoạn và phương pháp tinh vi của người phạm tội làm cho chủ tài sản

không biết được việc mình bị mất tài sản ...

Thứ tư, đặc điểm về tài sản bị trộm cắp

Theo quy định tại Điều 105 BLDS 2015 quy định về tài sản theo hướng là một

quy phạm định nghĩa: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”.

Tuy nhiên, không phải tài sản nào cũng là đối tượng tác động của tội trộm cắp

tài sản, mà chỉ những tài sản thuộc các trường hợp sau mới là đối tượng tác động

của loại tội phạm này. Trước hết, tài sản là đối tượng tác động của tội “trộm cắp tài

9

sản” có đặc điểm sau: (1) Phải là một dạng vật chất cụ thể và tồn tại dưới dạng là

một động sản; (2) Là tài sản có sự đầu tư sức lao động của con người; (3) Không

phải là tài sản có tính năng đặc biệt (như: vũ khí quân dụng, ma túy ...); (4) Là tài

sản phải đang trong vòng kiểm soát của chủ sở hữu, người quản lý tài sản; (5) Là tài

sản có giá trị hoặc giá trị sử dụng; (6) Tài sản chưa bị chủ tài sản từ bỏ quyền sở

hữu.

Các đặc điểm trên của tội trộm cắp tài sản là yêu cầu khi sửa đổi, bổ sung quy

định về tội trộm cắp tài sản phải đảm bảo các nội dung này. Chẳng hạn, hành vi

trộm cắp cây rừng chưa có sự đầu tư sức lao động của con người thì không cấu

thành tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS năm 2015)

1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản

1.1.2.1. Khách thể của tội trộm cắp tài sản

Theo quy định của pháp luật hình sự, khách thể trực tiếp của tội trộm cắp tài

sản là quyền sở hữu, mà không xâm phạm đến quan hệ nhân thân, đây cũng là một

trong những điều khác biệt với các tội cướp giật tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm

đoạt tài sản, tội cướp tài sản,... Đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội trộm

cắp tài sản mà nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khỏe là tình

tiết định khung hình phạt.

1.1.2.2. Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản

- Hành vi khách quan: Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản là hành vi

chiếm đoạt tài sản của người khác một cách lén lút. Trong đó, hành vi chiếm đoạt

làm cho chủ tài sản mất khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài

sản của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu, sử

dụng, định đoạt tài sản đó. Tuy nhiên, chủ sở hữu không mất quyền sở hữu của

mình mà chỉ mất khả năng thực tế thực hiện các quyền cụ thể.

Về thủ đoạn khách quan: Thủ đoạn của tội phạm này là thủ đoạn lén lút. Để

chiếm đoạt được tài sản của người khác thì người phạm tội phải thực hiện hành vi

chiếm đoạt. Tuy nhiên, điểm khác biệt cơ bản giữa hành vi chiếm đoạt của tội trộm

cắp tài sản với các tội có tính chất chiếm đoạt khác là tính lén lút.

10

Như vậy, hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác trong tội trộm cắp tài sản

được thực hiện một cách lén lút, nhưng tính lén lút của hành vi có thể chỉ che giấu

đối với chủ sở hữu, người quản lý tài sản, còn đối với những người khác thì không

cần che giấu.

- Hành vi trộm cắp tài sản chỉ cấu thành tội phạm khi:

+ Chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên

+ Hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi

phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168,

169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của BLHS chưa được xóa án tích mà còn vi

phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;

đ) Tài sản là di vật, cổ vật.

1.1.2.3. Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản

Về yếu tố lỗi: Lỗi của người có hành vi chiếm đoạt là lỗi cố ý trực tiếp. Người

thực hiện hành vi chiếm đoạt biết tài sản chiếm đoạt là tài sản đang thuộc quyền sở

hữu của người khác hoặc đang có người quản lý nhưng vẫn mong muốn biến tài sản

đó thành tài sản của mình khi thực hiện hành vi chiếm đoạt.

1.1.2.4. Chủ thể của tội trộm cắp tài sản

Căn cứ theo Điều 12 và Điều 173 BLHS hiện hành ta có thể xác định được

rằng: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài

sản. Còn người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi mà thực hiện hành vi trộm cắp tài sản

thì chỉ phải chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản theo khoản 3 và khoản 4 Điều 173

BLHS.

1.2. Phân biệt tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam với một số

tội chiếm đoạt tài sản khác.

1.2.1. Tội trộm cắp tài sản phân biệt với tội cướp giật tài sản

11

Tội cướp giật tài sản là hành vi mà người phạm tội thực hiện một cách công

khai, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của người khác.

Về mặt khách thể: Khách thể của tội trộm cắp tài sản là những quan hệ sở hữu,

còn khách thể của tội cướp giật tài sản bao gồm các quan hệ sở hữu tài sản và quan

hệ nhân thân (khách thể bổ sung)

Về mặt khách quan: Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản là hành vi

được thực hiện lén lút, kín đáo, che giấu nạn nhân và những người xung quanh. Còn

tội cướp giật tài sản là hành vi công khai, nhanh chóng, gây bất ngờ cho nạn nhân

và những người xung quanh. Dấu hiệu công khai, nhanh chóng là những dấu hiệu

đặc trưng trong tội cướp giật tài sản: nhanh chóng được thể hiện ở việc người phạm

tội tận dụng việc chủ sở hữu tài sản không để ý để nhanh chóng tiếp cận họ để rồi

chiếm đoạt nhanh chóng rồi bỏ trốn, với hành vi nhanh chóng chiếm đoạt tài sản thì

người phạm tội chủ động được hành vi của mình và không để người bị mất tài sản

có đủ điều kiện để ngăn chặn việc chiếm đoạt tài sản nên người phạm tội không cần

phải dùng thêm bất kỳ thủ đoạn nào để đối phó với chủ tài sản; mặc nhiên công khai

hành vi phạm tội của mình trước sự chứng kiến của chủ sở hữu tài sản mà khi hành

vi cướp giật tài sản xảy ra thì người chủ sở hữu tài sản biết được tài sản của mình đã

bị một người khác chiếm đoạt. Không những vậy, ở tội cướp giật tài sản hành vi

phạm tội thể hiện tính chất nguy hiểm cao của tội phạm này nên dấu hiệu hậu quả

không được thể hiện trong CTTP mà điều luật cũng không quy định mức tối thiểu

giá trị mà tài sản bị chiếm đoạt mà người phạm tội chỉ cần có hành vi cướp giật là

phạm tội, không cần biết giá trị tài sản có giá trị như thế nào; còn trong tội trộm cắp

tài sản thì quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt.

Về tính chất: Tội trộm cắp tài sản chỉ nhắm vào tài sản, mà không gây ảnh

hưởng đến tính mạng, sức khỏe của nạn nhân. Còn tội cướp giật tài sản, cũng nhắm

vào tài sản nhưng có thể xâm phạm đến sự an toàn về tính mạng, sức khỏe của nạn

nhân.

1.2.2. Phân biệt tội trộm cắp tài sản và tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

12

Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 172 BLHS năm

2015. Theo đó, công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi mà người phạm tội thực

hiện một cách công khai, lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của người khác trong việc

quản lý tài sản hoặc lợi dụng tình trạng họ không có điều kiện bảo vệ tài sản nhằm

CĐTS của người đó mà không phải dùng bất kỳ thủ đoạn nào khác nhằm uy hiếp

tinh thần người bị hại.

Thứ nhất, về hành vi khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan của Tội

trộm cắp tài sản thể hiện ở hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản của người khác;

còn hành vi khách quan của Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi công khai,

ngang nhiên chiếm đoạt tài sản ngay trước sự chứng kiến của chủ tài sản do chủ tài

sản bị vướng mắc khách quan nào đó mà không thể quản lý được tài sản.

Thứ hai, về nhận thức chủ quan của chủ tài sản: Ở Tội trộm cắp tài sản, người

phạm tội đã sử dụng thủ đoạn "lén lút, bí mật" để người quản lý tài sản không biết

được hành vi chiếm đoạt tài sản của mình, chiếm đoạt tài sản được thực hiện bằng

khả năng không cho phép chủ tài sản biết khi xảy ra hành vi phạm tội; còn ở Tội

công nhiên chiếm đoạt tài sản, khi có hành vi chiếm đoạt tài sản chủ tài sản vẫn

nhận biết được có hành vi chiếm đoạt nhưng do vướng mắc khách quan họ không

có điều kiện bảo vệ tài sản của mình nên người phạm tội mới ngang nhiên chiếm

đoạt tài sản mà không cần dùng bất kì thủ đoạn nào để đối phó với chủ tài sản.

1.2.3. Tội trộm cắp tài sản phân biệt với tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt

tài sản.

Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 BLHS

năm 2015, theo đó, lạm dụng tín nhiệm CĐTS được hiểu là vay, mượn, thuê tài sản

của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi

dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả

lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; hoặc vay, mượn,

thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức

hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả

13

năng trả lại tài sản. Còn hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản là hành vi lén

lút chiếm đoạt tài sản.

Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là chủ thể có đủ năng

lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS, thực hiện với lỗi cố ý. Khách thể của tội lạm dụng

tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội trộm cắp tài sản đều là hành vi xâm hại đến quan

hệ sở hữu. Mục đích của cả hai tội phạm này mà đối tượng hướng đến là chiếm đoạt

tài sản.

1.2.4. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội cướp tài sản.

Sự khác nhau cơ bản giữa tội trộm cắp tài sản với tội cướp tài sản là hành vi

phạm tội của người phạm tội: Đối với tội cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực hoặc

đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc dùng các hành vi khác có khả năng làm cho

nạn nhân mất hoàn toàn khả năng phản kháng, mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản.

Còn đối với tội trộm cắp tài sản, hành vi của người phạm tội là hành vi chiếm đoạt

tài sản bằng thủ đoạn lén lút.

Về quan hệ xã hội bị xâm phạm: Ở tội cướp tài sản, luôn có xâm phạm đến

quyền sở hữu, sức khỏe và tính mạng của nạn nhân. Còn tội trộm cắp tài sản chỉ

xâm phạm đến quyền sở hữu.

Về hậu quả: Ở tội cướp tài sản, người phạm tội chỉ cần có hành vi được mô tả

trong CTTP của tội cướp tài sản là đã cấu thành tội cướp tài sản. Còn ở tội trộm cắp

tài sản, thiệt hại về tài sản là dấu hiệu định tội của tội trộm cắp tài sản.

1.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản.

1.3.1. Quy định về tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự từ năm 1945

đến trước khi ban hành BLHS năm 1985

Ở mỗi giai đoạn, Nhà nước đều ban hành các quy định về tội trộm cắp tài sản

nhằm đấu tranh loại bỏ tội phạm khỏi đời sống xã hội, bởi lẽ đây là hành vi gây

nguy hiểm cho xã hội, cần phải được quan tâm sâu sắc.

Sau Cách mạng tháng tám, nền kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước còn khó

khăn, hệ thống văn bản pháp luật chưa được hoàn thành, do đó, để bảo vệ sự bình

yên của xã hội, hạn chế sự xáo trộn trong đời sống và quan hệ thường nhật của nhân

14

dân, Nhà Nước đã ban hành một số Sắc lệnh trong đó có Sắc lệnh số 12/SL ngày

12/3/1949 phạt tội ăn cắp lấy trộm các vật dụng của nhà binh trong thời bình và

trong thời kỳ chiến tranh. Điều 2 Sắc lệnh 267/SL ngày 15/06/1956 quy định: “Kẻ

nào vì mục đích phá hoại mà trộm cắp, lãng phí, làm hỏng, huỷ hoại, cướp bóc tài

sản của Nhà nước, của hợp tác xã, của nhân dân sẽ bị xử phạt từ năm năm đến hai

mươi năm tù”

Ngoài các Sắc lệnh trên, để bảo hộ tài sản riêng của công dân, giữ gìn trật tự,

trị an, bảo đảm điều kiện thuận lợi cho mọi người tham gia xây dựng chủ nghĩa xã

hội và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; để đề cao đạo đức xã hội chủ nghĩa, chống

lại những hành động xâm phạm tài sản riêng của công dân, Ủy Ban thường vụ quốc

hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành hai Pháp lệnh nhằm trừng trị những

tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài

sản riêng của công dân.

Hai bản pháp lệnh đã xây dựng hai cấu thành tội phạm hoàn chỉnh về tội trộm

cắp tài sản đó là tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và tội trộm cắp tài sản riêng

của công dân, đã quy định cụ thể và tập trung các tình tiết tăng nặng định khung

trong điều luật, có các khung hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ nguy

hiểm của tội phạm.

1.3.2. Quy định tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1985

Các văn pháp luật hình sự kể trên đã phát huy vai trò to lớn trong một thời

gian dài cho đến khi BLHS năm 1985 ra đời. BLHS năm 1985 được Quốc hội khóa

VII thông qua ngày 27/6/1985 đã thể hiện hai loại hành vi xâm phạm sở hữu là hành

vi xâm phạm sở hữu XHCN và hành vi xâm phạm sở hữu của công dân, quy định ở

hai chương khác nhau: các tội xâm phạm sở hữu của công dân.

Tại điều 132 BLHS 1985 quy định tội trộm cắp tài sản XHCN như sau:

1. Người nào trộm cắp tài sản XHCN thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến

hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm

đến mười hai năm:

15

a) Có tổ chức;

b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

c) Hành hung để tẩu thoát;

d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn;

đ) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười

năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.

Điều 155. Tội trộm cắp tài sản của công dân

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo không giam

giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm

đến mười năm:

a) Có tổ chức;

b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; hành hung để tẩu thoát;

c) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác;

d) Tái phạm nguy hiểm

3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm

đến hai mươi năm.

1.3.3. Quy định tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1999

BLHS năm 1985 là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xử lý người phạm tội,

song vẫn còn sự phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản XHCN và tội trộm cắp tài sản

của công dân. Đường lối xử lý của Nhà nước đối với người phạm tội trộm cắp tài

sản XHCN nghiêm khắc hơn người phạm tội trộm cắp tài sản của công dân. Qua

bốn lần sửa đổi, bổ sung (ngày 28/12/1989, ngày 12/8/1991, ngày 22/12/1992 và

ngày 10/5/1997), BLHS năm 1985 không còn là một chỉnh thể thống nhất cần có

một BLHS mới thay thế cho phù hợp với điều kiện xã hội.

Vì vậy, BLHS năm 1999 đã ra đời thay thế cho BLHS năm 1985 trên cơ sở kế

thừa và phát triển cho phù hợp với tình hình xã hội. Xuất phát từ chủ trương, chính

16

sách của Đảng và Nhà nước ta nhằm xây dựng nền kinh tế thị trường theo định

hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

BLHS năm 1999 đã nhập thành hai chương; Các tội xâm phạm sở hữu riêng

của công dân và Các tội xâm phạm sở hữu XHCN vào thành một chương với tên

gọi: Các tội xâm phạm sở hữu. Việc nhập hai chương là việc làm cần thiết bởi:

Thứ nhất: Điều 132 và Điều 155 trong BLHS năm 1985 cơ bản giống nhau về

dấu hiệu pháp lý. Hơn nữa, có nhiều trường hợp người phạm tội Trộm cắp tài sản

họ không quan tâm đến tài sản mình trộm là của ai, họ chỉ nhằm mục đích lấy được

tài sản mà thôi.

Thứ hai: Trong nền kinh tế lúc bây giờ, Nhà nước chủ trương đa dạng hóa

thành phần kinh tế theo các hình thức sở hữu khác nhau nhưng đều phải bình đẳng

trước pháp luật, đều được Nhà nước bảo hộ như sau. Do đó, việc BLHS năm 1985

quy định ở hai chương riêng không còn phù hợp nữa. Đồng thời, thực tiễn cho thấy,

trong nền kinh tế nhiều thành phần, các hình thức sở hữu đan xen nhau do có sự liên

kết, góp vốn cổ phần nên khó có thể xác định được đâu là tài sản riêng của công dân

và đâu là tài sản XHCN.

Thứ ba: tại Điều 15 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nền kinh tế Việt Nam là

nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành

phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữa vai trò chủ đạo”. Và tại điều 179 BLDS quy

định: Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, Nhà nước

công nhận và bảo vệ các hình thức sở hữu gồm sở hữu tư nhân, sở hữu của tổ chức

xã hội, sở hữu toàn dân , sở hữu hỗn hợp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức

chính trị - xã hội.

Vì vậy, khi có hành vi xâm phạm đến sở hữu hỗn hợp thì việc tiếp tục sử dụng

quy định tại BLHS năm 1985 để giải quyết sẽ gặp khó khăn, vướng mắc, nhất là

trong việc định tội danh.

Để khắc phục những sự cố trên, Điều 138 BLHS năm 1999 quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn

đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây

17

hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã

bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị

phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm

đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

đ) Hành hung để tẩu thoát;

e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm

triệu đồng;

g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm

đến mười lăm năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm

triệu đồng;

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai

năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi

triệu đồng.

Và Điều 138 BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến

dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm

trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội

18

chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không

giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm

đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

đ) Hành hung để tẩu thoát;

e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm

triệu đồng;

g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm

đến mười lăm năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm

triệu đồng;

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai

năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi

triệu đồng.

Như vậy, so với BLHS năm 1985 thì Điều 138 BLHS năm 1999 đã có nhiều

sửa đổi bổ sung, nhất là đối với các tình tiết là yếu tố định tội; phân biệt ranh giới

giữa hành vi là tội phạm với hành vi chưa tới mức phải xử lý về hình sự; đây cũng

là điểm khác biệt cơ bản so với BLHS năm 1985 quy định về tội phạm này. Về hình

phạt, Điều 138 quy định nặng hơn Điều 155 và nhẹ hơn Điều 132 BLHS năm 1985

( Điều 132 quy định là tử hình, còn Điều 155 là hai mươi năm tù).

19

Hình phạt bổ sung cũng được quy định ngay trong điều luật.

1.3.4. Quy định tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015(sửa đổi,

bổ sung năm 2017)

Trước tình hình diễn biến tội phạm đang ngày càng phức tạp và để đáp ứng

hiệu quả trong yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, đặc biệt là tội trộm cắp tài

sản trong tình hình mới. Ngày 27/11/2015, Bộ luật hình sự năm 2015 được Quốc

hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01.07.2016. Tuy nhiên, khi chưa có

hiệu lực, do có nhiều sai sót BLHS năm 2015 bị dừng lại để sửa đổi, bổ sung theo

Nghị quyết số 144/2016/QH13 của Quốc hội ngày 29/6/2016. Ngày 20/6/2017,

Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 và Luật

này có hiệu lực từ ngày 1/1/2018. Như vậy, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm

2017) có hiệu lực từ ngày 1/1/2018.

Theo quy định điều 173 bộ luật hình sự 2015 tội trộm cắp tài sản quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến

dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường

hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng

đến 3 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi

phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168,

169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn

vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài

sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị

hại.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 2 năm

đến 7 năm:

a) Có tổ chức;

20

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

đ) Hành hung để tẩu thoát;

e) Trộm cắp tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng

nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1

Điều này;

g) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 7 năm

đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

b) Trộm cắp tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng

nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1

Điều này;

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm

đến 20 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Trộm cắp tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng

nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1

Điều này;

c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000

đồng.

So với Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 về tội trộm cắp tài sản thì Bộ luật

hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có nhiều điểm mới:

Thứ nhất, bổ sung thêm hai trường hợp đối với hành vi trộm cắp tài sản thuộc

khung hình phạt từ 6 tháng đến 3 năm tù.

21

Khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 bổ sung thêm 02 trường hợp đối với

những hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng nhưng vẫn phạm tội

trộm cắp tài sản là:

“c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài

sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị

hại.”

Với tình trạng trộm cắp các loại tài sản dưới 2.000.000 đồng đang ngày càng

gia tăng gây tâm lí hoang mang, bức xúc trong quần chúng nhân dân đòi hỏi phải có

những hình thức răn đe tội phạm, chấn chỉnh lại trật tự xã hội.

Thứ hai, bỏ một số tình tiết định khung tăng nặng.

Đối chiếu với Bộ luật hình sự 1999, Bộ luật hình sự 2015 đã bỏ các tình tiết

định khung “g) Gây hậu quả nghiêm trọng; Gây hậu quả rất nghiêm trọng; Gây hậu

quả đặc biệt nghiêm trọng” quy định tại các khoản 2, 3, 4 Điều 138 BLHS năm

1999. Đây là những tình tiết rất chung, rất khó cho các cơ quan tiến hành tố tụng có

thể xác định được trong quá trình thực hiện chức năng của mình.

Thứ ba, sửa đổi tình tiết định khung

Tại khoản 2, tình tiết định khung “e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi

triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng” tại BLHS năm 1999 được sửa đổi như sau:

e) Trộm cắp tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng

thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều

này”. Đồng thời bổ sung thêm tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm”.

Thứ tư, bổ sung các tình tiết định khung

Tại khoản 3 bổ sung thêm 02 tình tiết định khung

“b) Trộm cắp tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng

nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1

Điều này;

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.”

Khoản 4, bổ sung thêm 02 tình tiết định khung

22

“b) Trộm cắp tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng

nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1

Điều này;

c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp”

Thứ năm, bỏ hình phạt tù chung thân

Tại khoản 4 bỏ hình phạt tù chung thân theo đó sẽ phạt tù từ 12 năm đến 20

năm.

1.4. Khái quát lý luận định tội danh tội trộm cắp tài sản

1.4.1 Khái niệm và đặc điểm định tội danh tội trộm cắp tài sản

Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính lôgic, đồng thời là

một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng như

pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành dựa trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu

thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để đối chiếu, so sánh và

kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã

hội đã thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng được

quy định trong Bộ luật hình sự.[41]

- Định tội danh là hoạt động nhận thức, áp dụng pháp luật hình sự được thực

hiện trên cơ sở xác định đầy đủ, chính xác, khách quan các tình tiết cụ thể của hành

vi phạm tội theo đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành tội

phạm tương ứng và xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm

nhất định với các tình tiết của hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua

các giai đoạn nhất định[3, tr.34].

Định tội danh là giai đoạn cơ bản của việc áp dụng pháp luật hình sự. Định tội

danh đúng có ý nghĩa chính trị - xã hội, đạo đức và pháp lý quan trọng. Nó thể hiện

việc đánh giá chính trị - xã hội và pháp lý đối với những hành vi nhất định; loại trừ

việc truy cứu trách nhiệm hình sự oan sai; là cơ sở quan trọng trong việc áp dụng

hình phạt; cơ sở cho việc xác định các thủ tục tố tụng và giúp cho việc đánh giá

chính xác tình hình tội phạm để có biện pháp phòng ngừa phù hợp có hiệu quả.

23

Việc định tội được thực hiện nhằm đi đến các quyết định hành vi được thực

hiện có cấu thành tội phạm hay không; xác định tội danh và khung hình phạt đối với

hành vi phạm tội.

Bộ luật hình sự là văn bản pháp luật duy nhất quy định tội phạm và hình phạt.

Vì vậy, Bộ luật hình sự là cơ sở pháp lí duy nhất của việc định tội danh. Khi định

tội danh, người định tội căn cứ vào quy phạm pháp luật cụ thể quy định về tội phạm

để xác định hành vi được thực hiện có cấu thành tội phạm hay không.

- Đặc điểm định tội danh tội trộm cắp tài sản

Định tội danh tội trộm cắp tài sản là một trường hợp định tội danh cụ thể, do

đó nó có các đặc điểm của định tội danh:

Thứ nhất, định tội danh tội trộm cắp tài sản là một quá trình lôgic nhất định, là

hoạt động xác nhận và ghi nhận sự phù hợp của trường hợp phạm tội cụ thể với các

dấu hiệu của cấu thành tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 BLHS.

Thứ hai, định tội danh tội trộm cắp tài sản là việc đánh giá nhất định về mặt

pháp lý đối với hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản nguy hiểm cho xã hội.[36,tr.41]

1.4.2. Các hình thức định tội danh tội trộm cắp tài sản

Việc định tội danh tội trộm cắp tài sản được phân chia thành hai hình thức

khác nhau:

Thứ nhất: Định tội danh chính thức

Định tội danh chính thức là sự đánh giá về mặt nhà nước tính chất pháp lý

hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể được Nhà nước ủy quyền

thực hiện. Định tội danh chính thức do người tiến hành tố tụng và người tham gia

tố tụng có liên quan thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án để thực hiện việc

buộc tội, bào chữa hay xét xử vụ án và làm phát sinh hậu quả pháp lí. Chủ thể của

định tội danh chính thức là các cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm: Tòa án, Viện

kiểm sát, Cơ quan điều tra mà trực tiếp là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên,

Hội thẩm nhân dân.

Về hậu quả pháp lý của việc định tội danh chính thức: Những đánh giá, những

kết luận của chủ thể của định tội danh chính thức là cơ sở pháp lý để khởi tố vụ án,

24

để áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Là cơ sở để ra bản kết luận điều tra, bản cáo

trạng và ra bản án.

Thứ hai: Định tội danh không chính thức

Định tội danh không chính thức là sự đánh giá không phải về mặt Nhà nước

tính chất pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể. Chủ thể của định tội

danh không chính thức là ngoài nhóm chủ thể của định tội danh chính thức. Thông

thường chủ thể của định tội danh không chính thức là những người làm công tác

nghiên cứu thể hiện trong các công trình nghiên cứu khoa học, giáo trình, sách giáo

khoa, bài báo. Hoặc là luật gia, luật sư hay bất kỳ người nào quan tâm đến việc

nghiên cứu một vụ án hình sự cụ thể đưa ra những bình luận về vụ án đó về phương

diện định tội danh.

Về hậu quả pháp lý của định tội danh không chính thức là không làm phát sinh

quyền và nghĩa vụ giữa người hoặc pháp nhân thương mại thực hiện hành vi nguy

hiểm cho xã hội với các cơ quan tiến hành tố tụng trong quan hệ pháp luật hình sự,

nhưng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình nghiên cứu pháp luật, là một phương

pháp nhận thức luật pháp, góp phần tạo thành dư luận xã hội về pháp luật, là cơ sở

để kiến nghị hoàn thiện và phát triển khoa học luật hình sự.

25

Tiểu kết Chương 1

Trong chương 1 của Luận văn, để có cái nhìn rõ hơn về tội trộm cắp tài sản,

tác giả đã đưa ra những vấn đề lý luận và pháp luật về tội trộm cắp tài sản bao gồm:

khái niệm, đặc điểm, các dấu hiệu pháp lý, phân biệt tội trộm cắp tài sản trong luật

hình sự Việt Nam với một số tội chiếm đoạt tài sản khác. Bên cạnh đó, tác giả còn

đi sâu phân tích vào lịch sử quy định pháp luật liên quan đến tội trộm cắp tài sản.

Từ đó chúng ta có thể thấy được có sự phát triển trong nhận thức, trong tư duy của

các nhà làm luật, của khoa học pháp lý nói chung và sự phát triển của các quy phạm

pháp luật về tội trộm cắp tài sản ở nước ta nói riêng[41,tr.36]. Như là, từ chỗ có sự

phân biệt về mức độ bảo vệ của pháp luật hình sự đối với các loại hình sở hữu thì

đến nay pháp luật hình sự đã có sự bình đẳng trong việc bảo vệ đối với mọi loại

hình sở hữu.

26

Chương 2

THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN

KRÔNG BÔNG, TỈNH ĐĂK LĂK

2.1. Đặc điểm, tình hình của huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk ảnh hưởng

đến áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản

2.1.1. Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… ảnh hưởng đến áp dụng

pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Krông Bông

Để nghiên cứu tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Krông Bông

chúng ta cần phải nghiên cứu nó với các mối quan hệ với tình hình tội phạm chung

và các điều kiện về đời sống xã hội, kinh tế chính trị, đặc điểm về vị trí địa lý... Qua

đó, chúng ta mới có thể thấy rõ được thực trạng của tình hình tội phạm nói chung

cũng như tội trộm cắp tài sản nói riêng trên địa bàn huyện Krông Bông, từ đó đưa ra

các biện pháp đấu tranh phòng chống.

Krông Bông là một huyện vùng sâu, vùng xa của tỉnh Đắk Lắk, Krông

Bông chủ yếu phát triển kinh tế bằng nông-lâm nghiệp, đã hình thành các cùng

chuyên canh cây nông nghiệp, hiện nay đang có xu hướng chuyển dịch mạnh mẽ

sang công nghiệp, xây dựng, du lịch, dịch vụ phát triển nhờ có nhiều điểm du lịch

nổi tiếng .Đến năm 2019, Krông Bông đã có cơ sở hạ tầng tương đối tốt: 100% số

xã đã có điện lới quốc gia và đường ô tô đến trung tâm xã; Huyện có hệ thống xe

bus đi khắp các xã trong huyện, từ Krông Bông có thể đến 2 thành phố lớn mỗi

ngày thông qua các chuyến xe khách chất lượng tốt, hầu hết trường học đều khang

trang …

Cùng với xu hướng phát triển chung của cả nước và tỉnh Đắk Lắk, những năm

gần đây nền kinh tế của Krông Bông cũng có bước phát triển khả quan. Tổng giá trị

sản xuất trên địa bàn trong năm 2019 đạt: 608,37 tỷ đồng, tăng 1,9 lần so với năm

2015, tăng bình quân hàng năm 13,7%.

27

Ban thường vụ huyện ủy, Uỷ ban nhân dân huyện và Ban chỉ đạo chương trình

xây dựng nông thôn mới của huyện đã ban hành nhiều Chỉ thị, văn bản chỉ đạo và

Hướng dẫn thực hiện đến các cấp, các ngành và 13/13 xã làm cơ sở để phát động

phong trào thi đua “Toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới”. Tập trung đẩy

mạnh công tác tuyên truyền vận động trên các phương tiện truyền thông. Cùng với

công tác tuyên truyền vận động, huyện cũng đã chỉ đạo cho các địa phương kịp thời

phát hiện, biểu dương những tập thể, cá nhân có cách làm hay, sáng tạo trong xây

dựng nông thôn mới nhằm phát huy có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống

chính trị, vai trò của cấp ủy, chính quyền và sự đồng thuận của người dân cùng

chung tay xây dựng nông thôn mới.

Trong sản xuất nông nghiệp, các xã trong huyện đã hình thành các vùng sản

xuất hàng hóa tập trung như vùng chuyên canh cây lúa nước, cây ngô lai, cây thuốc

lá, cây sắn cao sản, vùng sản xuất mía nguyên liệu, vùng sản xuất theo mô hình

nông lâm kết hợp ở các xã Hòa Sơn, Khuê Ngọc Điền, Hòa Tân, CưKty, Hòa Lễ,

Hòa Phong, Cư Drăm, Cư Pui và Yang Mao. Những vùng chuyên canh này đã làm

thay đổi một cách cơ bản phương thức sản xuất trong nông nghiệp theo hướng tăng

hệ số sử dụng đất, tăng hiệu quả kinh tế, tăng giá trị thu nhập bình quân từ 50 triệu

đồng/ha lên 70 triệu đồng, thậm chí hàng trăm triệu đồng/1ha. Các mô hình kinh tế

trang trại chăn nuôi dần được hình thành quy mô lớn với các loại con như sản xuất

heo thịt, nuôi bò vỗ béo, nuôi bò nhốt thâm canh, nuôi cá nước ngọt đã tăng cả quy

mô về số lượng và chất lượng.

Chương trình giảm nghèo, giải quyết việc làm được huyện quan tâm chỉ đạo,

ưu tiên tập trung nguồn lực, tạo điều kiện để người nghèo được tiếp cận với các

dịch vụ xã hội cơ bản, phấn đấu vươn lên, từng bước thoát nghèo. Tỉ lệ hộ nghèo

giảm nhanh đồng nghĩa với mức thu nhập của người dân khu vực nông thôn tăng

lên, năm 2019 thu nhập bình quân đầu người trên địa bàn huyện đạt 17 triệu 600

nghìn đồng. Chương trình giải quyết việc làm cho lao động thường xuyên được

28

quan tâm, trong mấy năm qua đã mở được hàng trăm lớp đào tạo nghề và giải quyết

việc làm cho 5.539 người.

Đối với tiêu chí trường học, đến nay khu vực nông thôn trong huyện có 51

trường học, trong đó có 1 trường đạt chuẩn quốc gia. 13/13 xã đạt phổ cập giáo dục

trung học cơ sở, tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp trung học cơ sở và được tiếp tục học

trung học phổ thông, bổ túc, học nghề đạt trên 90%. Huyện duy trì đạt chuẩn phổ

cập trung học cơ sở ở 100% các xã; tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi đến trường đạt 99%;

bậc tiểu học tiếp tục nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục đúng độ tuổi; 100% trẻ

huy động 6 tuổi ra lớp 1, không có hiện tượng trẻ đến lớp trước tuổi.

Mạng lưới y tế xã được củng cố về cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng

khám chữa bệnh cho nhân dân. Mỗi năm có hàng chục nghìn người được khám,

chữa bệnh tại các cơ sở y tế trên địa bàn. Hiện có 13/13 xã đạt chuẩn quốc gia về

y tế.

2.1.2. Thực tiễn xét xử tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Krông Bông

Trong 5 năm, kể từ năm 2015 đến năm 2019, tình hình kinh tế ở huyện Krông

Bông tương đối ổn định, an ninh, chính trị đang dần được giữa vững. Tuy nhiên,

tình hình tội phạm ở huyện Krông Bông nhìn chung vẫn có những diễn biến phức

tạp. Tòa án nhân dân huyện Krông Bông đã xét xử rất nhiều vụ tội trộm cắp tài sản

với nhiều bị cáo thuộc nhiều đối tượng khác nhau. Các số liệu thống kê của Văn

phòng Tòa án nhân dân huyện Krông Bông từ năm 2015 đến năm 2019 cho chúng

ta nhận thấy được cái nhìn tổng quan về tình hình tội trộm cắp tài sản trong những

năm gần đây:

Bảng 2.1. Số lượng số vụ và bị cáo phạm tội tội trộm cắp tài sản bị đưa ra xét

xử trong nhóm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn huyện Krông Bông từ năm 2015

đến năm 2019

29

2015 2016 2017 2018 2019

STT Loại tội phạm Số Bị Số Bị Số Bị Số Bị Số Bị

vụ cáo vụ cáo vụ cáo vụ cáo vụ cáo

1 Tội trộm cắp tài sản 09 14 08 12 08 09 08 11 06 08

2 Tội cướp tài sản 01 06 01 06 0 0 0 0 02 02

3 Tội cướp giật tài sản 0 0 01 01 0 0 0 0 0 0

Tội lừa đảo chiếp đoạt tài 01 01 0 0 0 0 0 0 0 0 4 sản

0 0 0 0 01 01 01 01 0 0 5 khác

Tổng số 11 21 10 19 09 10 09 12 08 10

Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân huyện Krông Bông

Bảng 2.2. Tỷ lệ tội trộm cắp tài sản trong nhóm tội xâm phạm sở hữu trên địa

bàn huyện Krông Bông từ năm 2015 đến năm 2019

2015 2016 2017 2018 2019 Nhóm tội TT Số Bị Số Bị Số Bị Số Bị Số Bị phạm

vụ cáo vụ cáo vụ cáo vụ cáo vụ cáo

Tội trộm 82% 66% 80% 63% 89% 90% 89% 92% 75% 80% 1 cắp tài sản

Tội cướp 9% 29% 10% 32% 0% 0% 0% 0% 25% 20% 2 tài sản

Tội cướp 0% 0% 10% 5% 0% 0% 0% 0% 0% 0% 3 giật tài sản

30

Tội lừa

đảo chiếp 4 9% 5% 0% 0% 11% 10% 11% 8% 0% 0% đoạt tài

sản

5 Khác 0% 0% 0% 0% 0% 0% 0% 0% 0% 0%

Tổng số 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100%

Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân huyện Krông Bông

Bảng 2.3. Tỷ lệ tội phạm đã bị xét xử trên địa bàn huyện Krông Bông giai

đoạn từ năm 2015 đến năm 2019

2015 2016 2017 2018 2019 Nhóm TT Số Số Số Số Số Số Số Số Số Số tội phạm vụ bị cáo bị cáo vụ bị cáo vụ bị cáo vụ bị cáo vụ

1 Xâm phạm sở hữu 45,7% 45,2% 32,35% 35,2% 41,4% 40,8% 45,5% 36,8% 40% 33,3%

Tính mạng, sức 2 0% 0% 0% 0% 0% 0% 0% 0% 0% 0% khỏe

3 Trật tự xã hội 54,3% 54,8% 64,7% 61,1% 51,7% 55,1% 51,5% 57,9% 57,1% 64,2%

4 Ma túy 0% 0% 2,9% 3,7% 6,9% 4,1% 3% 5,3% 2,9% 2,4%

5 Khác 0% 0% 0% 0% 0% 0% 0% 0% 0% 0%

Tổng cộng 35 62 34 54 29 49 33 38 35 42

Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân huyện Krông Bông

Thông qua các bảng khảo sát số liệu trên cho thấy, từ năm 2015 đến năm

2019, Tòa án nhân dân huyện Krông Bông đã xét xử tổng cộng 166 vụ án hình sự

với 245 bị cáo, trong đó:

31

Nhóm tội xâm phạm sở hữu cũng chiếm tỉ lệ khá cao trong các nhóm tội, cụ

thể là 68 vụ và 95 bị cáo, tương ứng với tỷ lệ 40,9% về vụ và 38,8% về số bị cáo

trên tổng số vụ và bị cáo phạm tội nói chung.

Số vụ phạm tội trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ lớn nhất trong cơ cấu nhóm tội

phạm sở hữu, cụ thể là Tòa án nhân dân huyện Krông Bông đã đưa ra xét xử 39 vụ

với 54 số bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản, chiếm tỷ lệ 83,3% số vụ và 75% số bị

cáo trên tổng số tội xâm phạm sở hữu.

Cũng từ bảng số liệu trên cho thấy, tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện

Krông Bông trong 5 năm qua vẫn duy trì ở mức cao, mặc dù đã có giảm về số vụ và

bị cáo, nhưng vẫn giảm không đáng kể. Điều đó cho chúng ta thấy được, công tác

phòng chống đấu tranh tội phạm nói chung, đặc biệt tội trộm cắp tài sản nói riêng

trên địa bàn huyện Krông Bông vẫn còn nhiều bất cập.

2.2. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp

tài sản trên địa bàn huyện Krông Bông

2.2.1. Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Krông

Bông, tỉnh Đăk Lăk

2.2.1.1. Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản theo cấu thành tội phạm cơ

bản

Cấu thành cơ bản của tội trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 173

BLHS. Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Krông Bông

trong thời gian trở lại đây cho thấy phần lớn các vụ án đều được định tội danh đúng

theo yêu cầu của pháp luật và được biểu hiện thông qua một số vụ án như sau. Cụ

thể:

Bản án số 29/2019/HS-ST của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, tỉnh Đăk

Lăk ngày 19/11/2019 có nội dung như sau:

Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 24/6/2019, Y Cen Byă và em vợ là Y Kruê

Byă đi nhặt hạt điều tại vườn điều của ông Trần Văn Sắc, giáp với nhà chị Nguyễn

Thị Ngọc Bích tại thôn 1, Hòa Thành, Krông Bông. Lúc này Y Cen nhìn thấy nhà

chị Bích nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, Y Cen đi tới khu nhà bếp của gia đình

32

chị Bích quan sát không có người, cửa sổ nhà bếp mở, không có khung sắt chắn bảo

vệ, nên Y Cen chui qua cửa sổ vào trong bếp lấy 02 chiếc điện thoại di động hiệu

OPPO đang cắm sạc pin (01 chiếc màu đỏ, 01 chiếc màu đen) để trên chiếc bàn ủi

quần áo và hai dây sạc điện thoại màu trắng rồi chui qua cửa sổ đã vào đi ra

ngoài. Y Cen để hai chiếc điện thoại vào túi quần và cầm hai dây sạc điện thoại đi

đến nơi Y Kruê nhặt hạt điều, khi gặp Y Kruê, Y Cen nói “lấy trộm được điện thoại

rồi”, Y Kruê nói “điện thoại gì?” thì Y Cen nói “đi về đi”, rồi cả hai cùng về nhà Y

Cen ở Dang Kang, trên đường về Y Kruê hỏi Y Cen “lấy được điện thoại ở đâu?” Y

Cen trả lời “lấy trộm được ở một nhà dân”, sau đó Y Cen lấy trong túi quần ra một

chiếc điện thoại màu đen cùng một dây sạc đưa cho Y Kruê, Y Kruê đồng ý lấy để

sử dụng. Khi về đến nhà Y Cen sử dụng chiếc điện thoại màu đỏ để chụp hình Y Cen

và Y Kruê rồi đăng lên facebook của chị Nguyễn Thị Ngọc Bích thì bạn bè trên

facebook của chị Bích phát hiện nên báo cho chị Bích biết, sau đó chị Bích trình

báo cho công an.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 20 ngày 12/7/2019 của Hội đồng định giá

tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Krông Bông kết luận: 01 chiếc điện thoại cảm

ứng màu đen, hiệu OPPO A83 giá trị còn lại 1.700.000 đồng, 01 thiết bị sạc OPPO

màu trắng, số sêri E363842 giá 50.000đ. Tại bản kết luận định giá tài sản kết luận

số 21 ngày 15/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện

Krông Bông kết luận: 01 chiếc điện thoại cảm ứng màu đỏ, hiệu OPPO A3S giá trị

còn lại 1.800.000 đồng, 01 thiết bị sạc OPPO màu trắng, số sêri E132068 giá

70.000đ. Tổng giá trị tài sản là 3.620.000 đồng.

* Tại bản cáo trạng số 27/CT-VKS ngày 25/10/2019, Viện kiểm sát nhân dân

huyện Krông Bông truy tố bị cáo Y Cen Byă về tội: Trộm cắp tài sản, tội phạm và

hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Truy tố bị cáo Y

Kruê Byă về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, tội phạm và hình

phạt được quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.

* Phần Quyết định của bản án

33

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản

1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Y Cen Byă phạm tội: “Trộm

cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Y Cen Byă 09 (chín) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt

đi thi hành án.

Căn cứ khoản 1 Điều 323; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1,

khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Y Kruê Byă 06 (sáu) tháng tù

nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm tính từ ngày tuyên

án sơ thẩm.

Trong thời gian thử thách giao bị cáo Y Kruê Byă cho Ủy ban nhân dân xã

Dang Kang, huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk là nơi bị cáo thường trú, để giám sát

và giáo dục.

* Nhận xét, đánh giá về bản án:

- Trong vụ án này, bị cáo chiếm đoạt tài sản có tổng giá trị tài sản là 3.620.000

đồng và không có tình tiết định khung hình phạt khác nên thỏa mãn cấu thành tội

phạm cơ bản được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

- Vụ án này còn có thể được sử dụng để minh chứng cho định tội danh tội

trộm cắp tài sản trong trường hợp hành vi liên quan đến tội phạm nhưng cấu thành

tội độc lập mà không phải là đồng phạm. Cụ thể trong vụ án này bị cáo Y Kruê Byă

phạm tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” mà không phạm tội trộm

cắp tài sản như bị cáo Y Cen Byă. Hay nói cách khác, hai bị cáo không đồng phạm

với nhau trong việc thực hiện vụ trộm cắp tài sản nên việc định tội danh là khác

nhau.

- Vụ án này cũng có thể được xem xét về thực tiễn quyết định hình phạt đối

với tội trộm cắp tài sản, việc bị cáo Y Kruê Byă bị tòa án xử phạt 06 (sáu) tháng tù

nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án

sơ thẩm khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân tốt.

34

2.2.1.2. Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản theo cấu thành tội phạm

tăng nặng trên địa bàn huyện Krông Bông

Định tội danh tội TCTS theo CTTP tăng nặng là hoạt động định tội danh hành

vi phạm tội TCTS theo khoản 2,3,4 Điều 173 BLHS năm 2015.

Thực tiễn định tội danh tội TCTS theo cấu thành tội phạm tăng nặng đối với

tội TCTS trên địa bàn huyện Krông Bông trong thời gian trở lại đây cho thấy đa số

người tiến hành tố tụng đều định tội danh đúng theo các khoản được quy định trong

tội TCTS và sau đây là một số vụ án cụ thể về tội trộm cắp tài sản.

Bản án số: 14/2019/HSST Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk

ngày 14/05/2019 có nội dung về vụ án trộm cắp tài sản như sau:

Nguyễn Văn Linh và Bùi Văn Tài là đối tượng có tiền sử sử dụng ma túy. Vào lúc

khoảng 7 giờ 30 phút ngày 08/12/2018 Linh và Tài đi đến Trung tâm y tế huyện Krông

Bông để uống thuốc cai nghiện Methadone. Trên đường đi thì xe bị hư và cả hai đưa đi

sửa, sau đó thì gặp Lê Hùng Cường nên Linh nhờ Cường chở Tài. Khi đi đến ngã ba

cây đa thuộc xã Hòa Lễ thì Linh và Tài đi ăn sáng còn Cường thì đi mua thuốc cai

nghiện, sau đó quay lại ăn sáng cùng với Linh và Tài. Tại đây Cường nói cho Linh và

Tài biết mình có lấy trộm cà phê tươi vào ngày 07/12/2018 và rủ Linh và Tài cùng đi

thì Linh, Tài đồng ý. Sau đó Cường chở Tài đến nhà ông Phạm Văn An ở thôn Thôn 8,

xã Hòa Lễ, huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk, còn Tài đi lấy xe ở tiệm sửa xe. Khi đến

nhà ông Phạm Văn An thì không có ai ở nhà nên Cường mở lưới B40 đi vào bên trong

sân và bê 01 bao cà phê tươi ra ngoài và cùng Tài chở đi bán, trên đường đi thì gặp

Linh nên Linh, Tài, Cường cùng nhau đi bán tại đại lý thu mua nông sản tại xã Hòa Lễ

được 300.000 đồng. Số tiền trên Cường mua ma túy của một đối tượng tên Dương và

cùng Linh, Tài sử dụng. Sau đó Cường điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47K1 –

3690, còn Linh chở Tài bằng xe mô tô biển kiểm soát 47N1 – 13545 tiếp tục đến nhà

ông Phạm Văn An để trộm cắp tài sản. Khi đến nhà ông An thì Cường vào sân bê 02

bao cà phê tươi qua hàng rào, Tài bê 01 bao ra xe của Linh, Cường chở 01 bao và

cùng Tài, Linh chở đi bán. Tiếp đó cà ba quay lại nhà ông An, lần này Cường vào sân

bê 03 bao cà phê tươi qua hàng rào, Tài đến bê 02 bao lên xe của Linh, còn Cường

35

chở 01 bao và cùng nhau đem đi bán. Sau khi bán xong cả ba lại tiếp tục quay lại nhà

ông An, Cường vào sân bê 03 bao cà phê tươi qua hàng rào, Tài đến bê 02 bao lên xe

của Linh, còn Cường chở 01 bao và cùng Tài, Linh chở đi bán. Toàn bộ số cà phê trên

Cường, Linh, Tài đều bán cho bà Lộc – chủ đại lý thu mua nông sản. Tổng số tiền mà

Lê Hùng Cường bán 03 bao cà phê trộm cắp được là 900.000 đồng. Tổng số tiền mà

Nguyễn Văn Linh và Bùi Văn Tài bán 05 bao cà phê trộm cắp được số tiền là

1.600.000 đồng. Số tiền trên Cường đã tiêu xài cá nhân hết. Còn Linh và Tài chia nhau

mỗi người được 800.000 đồng. Linh đã tiêu xài cá nhân hết 100.000 đồng, Tài tiêu xài

cá nhân hết 617.000 đồng. Số tiền còn lại của Linh và Tài đã được cơ quan cảnh sát

điều tra Công an huyện Krông Bông thu giữ. Ngoài lần hành vi phạm tội trên, vào

ngày 07/12/2018 Lê Hùng Cường một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47K1 –

3690 đi từ xã Hòa Phong khi đi đến nhà ông Phạm Văn An tại Thôn 8, xã Hòa Lễ,

huyện Kông Bông, tỉnh Đăk Lăk thì thấy trong sân nhà ông An có nhiều cà phê và

không có ai trông coi nên Cường đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Sau đó Cường

dựng xe sát lề đường, mở lưới B40 vào sân nhà ông An trộm cắp được 03 bao cà phê

tươi và bán tại đại lý thu mua nông sản được 900.000 đồng, số tiền trên Cường tiêu xài

cá nhân hết.

* Phần nhận định của bản án:

Đối với hành vi của các bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng: Ngày 08/12/2018 tại

thôn 8, xã Hòa Lễ, huyện Kông Bông, tỉnh Đăk Lăk lợi dụng sự thiếu cảnh giác của

chủ sở hữu tài sản là ông Phạm Văn An, các bị cáo Lê Hùng Cường, Nguyễn Văn Linh

và Bùi Văn Tài đã lén lút chiếm đoạt 09 bao cà phê tươi có giá trị tại thời điểm chiếm

đoạt là 2.967.400 đồng.

Trước đó ngày 07/12/2018 bị cáo Lê Hùng Cường đã lén lút chiếm đoạt 03 bao

cà phê tươi của ông Phạm Văn An, có giá trị tại thời điểm là 962.000 đồng. Bị cáo

phạm tội thuộc trường hợp đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi

phạm tội do lỗi cố ý. Như vậy, với hành hành vi mà các bị các đã thực hiện, giá trị tài

sản mà các bị cáo chiếm đoạt, bị cáo Lê Hùng Cường bị Viện kiểm sát 5 nhân huyện

Krông Bông truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ

36

luật hình sự với tình tiết “Tái phạm nguy hiểm”. Các bị cáo Nguyễn Văn Linh và Bùi

Văn Tài bị Viện kiểm sát nhân huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk truy tố về tội “Trộm

cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật,

không oan.

Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm do hành vi phạm tội của các bị

cáo đã gây ra:

Các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và khả năng nhận thức được hành

vi, biết hành vi mà mình thực hiện là vi phạm pháp luật nhưng vẫn vẫn cố ý thực hiện.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm

đến quyền về tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Do đó, Hội đồng xét xử xét

thấy cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng đủ để giáo dục các bị cáo trở thành

công dân có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, đồng thời giáo dục người

khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa chung trong xã hội.

Khi thực hiện hành vi phạm tội giữa các bị cáo không có sự phân công trách

nhiệm, không có sự cấu kết chặt chẽ nên hành vi mà các bị cáo thực hiện thuộc trường

hợp đồng phạm giản đơn. Bị cáo Lê Hùng Cường là người khởi xướng và phạm tội

thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” nên cần xử phạt bị cáo Lê Hùng Cường mức

hình phạt cao hơn các bị cáo Nguyễn Văn Linh và Bùi Văn Tài.

Đối với bị cáo Nguyễn Văn Linh mặc dù tham gia với vai trò đồng phạm tuy

nhiên xét về nhân thân, ngày 25/02/2014 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Krông Bông

xử phạt 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, theo bản án số 09/2014/HSST. Mặc

dù bị cáo đã chấp hành xong bản án và được xóa án tích nhưng bị cáo không coi đây là

bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân mà còn thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy hình

phạt áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Văn Linh sẽ nghiêm khắc hơn so với bị cáo Bùi

Văn Tài.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội các bị cáo đã tác

động gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại, các bị cáo đã thành khẩn khai

báo, ăn năn hối cải, thiệt hại mà các bị cáo gây ra không lớn, bị hại có đơn bãi nại xin

giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Do đó Hội đồng xét xử có căn cứ để áp dụng các

37

tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b,h, s khoản 1, khoản 2

Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Lê Hùng Cường và Nguyễn Văn Linh;

đối với bị cáo Bùi Văn Tài, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên

bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự 6 được quy định tại các

điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 bộ luật hình sự. Bị cáo Tài có nhân thân tốt,

nơi cư trú rõ ràng, cụ thể, có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt bị cáo chấp hành

hình phạt tù thì không ảnh hưởng xấu đến công tác đấu tranh, phòng , chống tội phạm.

Xét thấy không cần bắt bị cáo Tài chấp hành hình phạt tù, vì vậy cần áp dụng khoản 1,

khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo Tài được hưởng án treo. Giao bị cáo cho

chính quyền địa phương và gia đình bị cáo phối hợp giám sát, giáo dục, thể hiện chính

sách khoan hồng và nhân đạo của pháp luật.

Đối với hành vi của bà Đặng Thị Lộc – Chủ đại lý thu mua nông sản là người

mua 12 bao cà phê tươi do Lê Hùng Cường, Nguyễn Văn Linh, Bùi Văn Tài trộm cắp

mà có. Bà Lộc không biết tài sản đó do các bị cáo phạm tội mà có nên Cơ quan cảnh

sát điều tra Công an huyện Krông Bông không xem xét xử lý là đúng quy định của

pháp luật nên cần chấp nhận.

* Phần quyết định của bản án

Tuyên bố: Các bị cáo Lê Hùng Cường, Nguyễn Văn Linh và Bùi Văn Tài phạm

tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm g khoản 2 điều 173, các điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của

Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Hùng Cường 02 (hai) năm tù.Thời hạn chấp hành

hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 12/12/2018.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ

luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Linh 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành

hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án, được trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm

giam, ngày 08/12/2018 đến ngày 18/3/2019.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm b, h, i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65

của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Văn Tài 06 tháng tù, nhưng được hưởng án

treo. Thời gian thử thách là 12 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Bùi

38

Văn Tài cho UBND xã Hòa Lễ, huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lăk để giám sát và giáo

dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì

thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

* Nhận xét, đánh giá bản án

- Trong vụ án này, bị cáo Lê Hùng Cường phạm tội thuộc trường hợp đã tái

phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý. Như vậy,

với hành hành vi mà các bị các đã thực hiện, giá trị tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt, bị

cáo Lê Hùng Cường bị Viện kiểm sát 5 nhân huyện Krông Bông truy tố về tội “Trộm

cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự với tình tiết “Tái phạm

nguy hiểm” là đúng quy định của pháp luật. Đây là trường hợp định tội danh theo

CTTP tăng nặng của tội trộm cắp tài sản.

- Vụ án này còn có thể cũng coi là thực tiễn định tội danh theo CTTP cơ bản đối

với các bị cáo Nguyễn Văn Linh và Bùi Văn Tài bị định tội danh tội “Trộm cắp tài sản”

theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

- Vụ án này cũng có thể coi là thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản trong

trường hợp đồng phạm. Cụ thể trong vụ án này, các bị cáo Lê Hùng Cường, Nguyễn

Văn Linh và Bùi Văn Tài phối hợp với nhau để trộm cắp cà phê của người khác nên bị

coi là đồng phạm và bị định tội danh chung cho tất cả người đồng phạm là tội “Trộm

cắp tài sản”

2.2.1.3. Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp đặc biệt

Định tội danh tội trộm cắp tài sản trong các trường hợp đặc biệt như trên đã

nêu gồm các trường hợp định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp phạm

tội chưa đạt, trong trường hợp đồng phạm và trong trường hợp có nhiều tội phạm.

Có thể liệt kê về việc định tội danh tội TCTS trong các trường hợp đặc biệt

như sau:

* Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp đồng phạm

Như Bản án số: 14/2019/HSST Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, tỉnh Đăk

Lăk ngày 14/05/2019 đã nêu ở trên. Trong đó, các bị cáo Lê Hùng Cường, Nguyễn

Văn Linh và Bùi Văn Tài phối hợp với nhau để trộm cắp cà phê của người khác nên bị

39

coi là đồng phạm và bị định tội danh chung cho tất cả người đồng phạm là tội “Trộm

cắp tài sản”

* Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp phạm tội

chưa đạt

Bản án số: 15/2019/HSST Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk

ngày 25/07/2019 có nội dung về vụ án trộm cắp tài sản như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 29/3/2019 Trần Hữu Sơn đang chơi ở quán bida của bà

Ngọc thuộc thôn 2, xã Hòa Sơn, huyện Krông Bông thì gặp tên Tuấn (chưa rõ nhân

thân lai lịch). Một lúc sau, Tuấn rủ Sơn đi trộm xe; Tuấn điều khiển xe mô tô hiệu

Yamaha Sirius màu đỏ đen, không rõ biển số và chở Sơn ngồi phía sau; Tuấn điều

khiển xe đi dọc các tuyến đường tìm xe mô tô để chiếm đoạt. Đến khoảng 10 giờ

cùng ngày, cả hai đến trước cổng nhà số 31, thôn 5, xã Hòa Sơn, huyện Krông

Bông, thì nhìn thấy xe mô tô hiệu Yamaha sirius, biển số 47K1-2361 của anh Danh,

sinh năm 1988, đang dựng trước cổng nhà không người trông coi, Tuấn dừng xe và

đưa cho Sơn cây đoản, bằng kim loại hình chữ “T”, Tuấn đứng cách chiếc xe

khoảng 30 mét để cảnh giới, Sơn đi bộ và tiếp cận chiếc xe và dùng tay phải cầm

cây đoản đưa vào ông khóa điện để phá ổ khóa; lúc này có anh Tô Văn Hoài và chị

Nguyễn Thị Như phát hiện và tri hô, Sơn bỏ chạy khoảng 20 mét thì bị mọi người

bắt giữ và giao Sơn cho Cơ quan Công an lập biên bản người có hành vi phạm tội

quả tang. Đối với tên Tuấn điều khiển xe tẩu thoát.

Căn cứ kết luận định giá tài sản số 107/BB/ĐG ngày 06/4/2019 của Hội đồng

định giá huyện Krông Bông, kết luận: Xe mô tô hiệu Yamaha sirius, biển số 47K1-

2361, số khung EY097220, số máy 5C6J097220, trị giá 11.000.000 đồng.

* Phần Quyết định của Bản án

Tuyên bố bị cáo Trần Hữu Sơn phạm “Tội trộm cắp tài sản (chưa đạt)”.

40

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 15; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 57 Bộ

luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Trần Hữu Sơn

01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày

29/3/2019.

* Nhận xét, đánh giá về bản án

- Trong vụ án này, tòa án đã áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự

về định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp phạm tội chưa đạt thể hiện

trong phần quyết định và nhận định của bản án. Cụ thể như sau:

Điều 173 Tội trộm cắp tài sản, Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến

dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường

hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng

đến 03 năm:

Như vậy hành vi trên của bị cáo Trần Hữu Sơn đủ yếu tố cấu thành tội Trộm

cắp tài sản (chưa đạt) quy định khoản 1 Điều 173 và Điều 15 Bộ luật hình sự. Đây

là trường hợp định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp tội phạm chưa

hoàn thành mà cụ thể trong trường hợp này là phạm tội chưa đạt. Tội danh đối với

trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản chưa hoàn thành cũng như trường hợp tội

phạm hoàn thành.

- Vụ án này còn được nghiên cứu dưới góc độ quyết định hình phạt trong

trường hợp tội phạm chưa hoàn thành. Cụ thể, trong vụ án này bên cạnh hình phạt

quy định khoản 1 Điều 173 còn áp dụng quy định tại Điều 57 Bộ luật Hình sự năm

2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xử phạt bị cáo Trần Hữu Sơn 01 (một) năm 06

(sáu) tháng tù. Mức hình phạt đối với trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản (chưa

đạt) khoan hồng hơn so với trường hợp quyết định hình phạt đối với trường hợp

phạm tội trộm cắp tài sản ở giai đoạn tội phạm hoàn thành.

41

2.2.2 Thực tiễn quyết định hình phạt tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyên

Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk

Từ những hoạt động xét xử trong thực tiễn của hoạt động quyết định hình phạt

trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 trên địa bàn huyện Krông Bông, tỉnh

Đăk Lăk cho thấy số vụ án Tòa án nhân dân huyện Krông Bông đưa ra xét xử là 166

vụ với 245 bị cáo thì những vụ án liên quan đến tội trộm cắp tài sản đều được cơ

quan tiến hành tố tụng huyện Krông Bông xác định đúng tội, đúng người, đúng

pháp luật và việc đưa ra quyết định hình phạt là hoàn toàn chính xác. Khi đưa ra các

quyết định hình phạt, Tòa án nhân dân huyện Krông Bông đã thực hiện đúng về

thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLHS, BLTTHS. Quá trình điều tra và

tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của

Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, bị hại không khiếu nại gì. Do

đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành

tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Trong những vụ án hình sự, trong đó đặc biệt

các vụ án liên quan đến tội trộm cắp tài sản đã được đưa ra xét xử kịp thời, chính

xác, tương xứng với hành vi, thủ đoạn phạm tội của bị cáo.

Từ các bảng thống kê số liệu xét xử về tội trộm cắp tài sản 5 năm qua cho thấy,

các hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện

Krông Bông là hình phạt cải tạo không giam giữ 6 bị cáo (chiếm 11,1%), hình phạt tù

từ 3 năm trở xuống với 15 bị cáo(chiếm 27,8%) trên tổng số 54 bị cáo phạm tội trộm

cắp tài sản, trong đó hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo là 19 bị cáo (chiếm 35,2%);

hình phạt tù từ trên 3 năm đến dưới 7 năm tù là 12 bị cáo (chiếm 22,2%) và hình phạt

từ 7 năm đến 15 năm tù 2 bị cáo (chiếm 3,7%).

Như vậy, trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, trên địa bàn huyện

Krông Bông số người phạm tội trộm cắp tài sản bị xử phạt tù chiếm tỷ lệ 53,7%. Số

vụ án các bị cáo kháng cáo chiếm tỷ lệ ít, không có vụ án nào VKS kháng

nghị[42,tr.62]. Điều đó cho thấy các vụ án trộm cắp tài sản được Tòa án nhân dân

huyện Krông Bông đưa ra xét xử sơ thẩm đã tuân thủ nghiêm túc các quy định của

42

BLHS, đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,

nhân thân người phạm tội, áp dụng tốt các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật, từ

đó đưa ra những mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo,

đảm bảo trong công tác giáo dục, tuyên truyền phòng chống tội phạm trên địa bàn

huyện Krông Bông. Chúng ta có thể minh chứng bằng các bản án sau:

- Bản án số: 15/2019/HSST Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk

ngày 25/07/2019 có nội dung về vụ án trộm cắp tài sản như trên đã nêu.

Trong vụ án này tòa án bên cạnh hình phạt quy định khoản 1 Điều 173 còn áp

dụng quy định tại Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

để xử phạt bị cáo Trần Hữu Sơn 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Mức hình phạt đối

với trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản (chưa đạt) khoan hồng hơn so với trường

hợp quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản ở giai đoạn

tội phạm hoàn thành.

- Bản án số: 01/2020/HS-ST của TAND huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk

ngày 15/01/2020 có nội dung như sau:

Ngày 29/5/2019 Võ Đức Nguyên đi từ Hội An, Quảng Nam vào nhà bác ruột

của mình là ông Võ Đức Trinh tại thôn 5, xã Hòa Tân, huyện Krông Bông, tỉnh Đắk

Lắk chơi và ngủ lại nhà bác. Đến khoảng 07 giờ 00 phút ngày 01/6/2019 Nguyên

thức dậy, lúc này anh Trinh và vợ là chị Nguyễn Thị Nhân không có ở nhà nên

Nguyên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Nguyên thấy một chiếc xe mô tô biển kiểm

soát 47K1-019.56 nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, màu sơn đỏ đen của anh Trinh

dựng ở sân, chìa khóa xe vẫn cắm ở ổ khóa điện nên Nguyên đã lấy chiếc xe và điều

khiển xe ra cổng đi đến nhà ông Võ Văn Lợi, trú tại thôn 5, xã Hòa Tân mượn mũ

bảo hiểm của ông Lợi, sau đó Nguyên điều khiển xe về lại nhà ông Trinh, do vẫn

không thấy ai ở nhà nên Nguyên dựng xe ngoài sân vào phòng ngủ của anh Trinh

lấy 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J2 Prime để trên chiếc ghế nhựa màu

đỏ, bỏ vào túi quần. Sau khi lấy được điện thoại Nguyên ra sân lấy xe điều khiển xe

43

đi vào đường luồng bên hông nhà ông Trinh ra sau nhà đi đến nhà ông Nguyễn Văn

Trung tại thôn 6, xã Hòa Tân, huyện Krông Bông đổ 02 lít xăng rồi điều khiển xe đi

về hướng xã Hòa Thành, huyện Krông Bông và đi sang huyện Cư Kuin để tìm chỗ

tiêu thụ tài sản vừa trộm cắp. Trong quá trình đi tìm nơi tiêu thụ thì Nguyên làm rơi

chiếc điện thoại trộm cắp được dọc đường (không xác định được địa điểm rơi). Đến

sáng ngày 02/6/2019 Nguyên điều khiển chiếc xe lấy trộm được đến tiệm cầm đồ 79

tại buôn Mtá, xã Ea Bhốc, huyện Cư Kuin cầm cho anh Tạ Anh Châu số tiền

4.500.000 đồng, thời hạn cầm 03 ngày, số tiền này Nguyên tiêu xài cá nhân hết. Hết

thời hạn cầm đồ Nguyên không đến lấy nên anh Châu đã bán chiếc xe trên cho một

người khác (không xác định được họ tên, địa chỉ). Đến ngày 16/10/2019 Võ Đức

Nguyên đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Bông đầu thú về

hành vi trộm cắp của mình.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được

thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy: Đã có đủ cơ sở

pháp lý kết luận bị cáo Võ Đức Nguyên đã thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản của

gia đình ông Trinh là chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47K1-019.56 trị giá

8.000.000đ, hành vi đó đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định

tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Xét tính chất mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho

xã hội, hành vi đó không những trực tiếp xâm phạm đến tài sản thuộc quyền sở hữu

của người khác trái pháp luật mà còn làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật

tự tại địa phương nơi cư trú nói riêng và toàn xã hội nói chung. Hiện nay loại tội

phạm này đang ngày càng gia tăng, do vậy hành vi của các bị cáo cần được xử lý

nghiêm. Xét tính chất mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cần phải áp

dụng mức hình phạt tương xứng với mức độ mà bị cáo đã thực hiện để có một bản

án đúng người, đúng tội và đúng pháp luật để có tác dụng giáo dục và phòng ngừa

chung cho xã hội.

Trong ngày 01/6/2019 bị cáo còn thực hiện thêm hành vi trộm cắp tài sản là

chiếc điện thoại di động Samsung J2 Prime, tuy nhiên điện thoại đã bị mất không

44

thu hồi được, thời điểm bị hại mua điện thoại là điện thoại cũ đã qua sử dụng không

biết số sêri máy và không có hiện vật nên Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự

không có căn cứ để định giá, gia đình bị hại không có yêu cầu. Do vậy, HĐXX

không có căn cứ để xử lý bị cáo về hành vi này.

Tình tiết giảm nhẹ: tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã có thái

độ thành khẩn, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm

trọng, phạm tội gây thiệt hại không lớn, sau khi phạm tội bị cáo cùng gia đình đã tự

nguyện bồi thường cho gia đình bị hại 8.000.000đ, bị cáo là cháu ruột của gia đình

bị hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Lúc phạm tội bị cáo chưa đủ

tuổi thành niên, bị cáo mới được 16 năm 07 tháng 19 ngày, nên HĐXX cần áp dụng

các điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt

của bản án cho bị cáo, đồng thời áp dụng Điều 91, khoản 1 Điều 100 BLHS đối với

người chưa thành niên phạm tội nhằm thể hiện chính sách khoan hồng nhân đạo của

pháp luật Nhà nước ta. Xét thấy bị cáo chưa đủ 18 tuổi và có nơi cư trú rõ ràng nên

không cần cách ly bị cáo ra khỏi cuộc sống cộng đồng xã hội, chỉ cần áp dụng hình

phạt cải tạo không giam giữ, cho bị cáo có cơ hội tự cải tạo bản thân ngoài xã hội và

lao động để có thu nhập cho gia đình, giao bị cáo cho chính quyền địa phương cùng

gia đình để giám sát theo dõi cũng đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người

công dân có ích cho gia đình và xã hội sau này.

Đối với Tạ Anh Châu là người nhận cầm đồ chiếc xe mô tô biển kiểm soát

47K1-019.56, khi nhận cầm đồ chiếc xe mô tô này anh Châu không biết chiếc xe là

tài sản do Nguyên trộm cắp mà có, khi cầm đồ có làm hợp đồng đầy đủ nên không có

căn cứ để xử lý anh Châu về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Anh

Châu đã có hành vi cầm đồ của người khác mà không phải chủ tài sản là người đi

cầm (cầm đồ không chính chủ) đã đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện

Krông Bông lập hồ sơ chuyển Công an huyện Cư Kuin xử lý hành chính đối với Tạ

Anh Châu về hành vi trên là đúng theo quy định của pháp luật.

* Phần Quyết định của bản án

45

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91;

khoản 1 Điều 100; khoản 1, khoản 2 Điều 36 Bộ luật hình sự. Tòa án huyện Krông

Bông đã tuyên bố bị cáo Võ Đức Nguyên phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Võ Đức Nguyên 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ. Được

khấu trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 16/10/2019 đến ngày 19/10/2019. Thời hạn chấp

hành hình phạt tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

* Nhận xét về bản án

- Trong vụ án này Tòa án đã áp dụng các Điều 91, khoản 1 Điều 100 BLHS

(và các điều luật khác) để quyết định hình phạt có tính khoan hồng đối với bị cáo là

người dưới 18 tuổi khi phạm tội trộm cắp tài sản. Hình phạt áp dụng đối với người

dưới 18 tuổi có tính khoan hồng hơn so với người đã thành nên phạm tội.

2.3. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình

sự trên địa bàn huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk

Trộm cắp tài sản là một trong những hành vi vi phạm pháp luật hình sự xuất hiện

rất sớm và xảy ra phổ biến trong đời sống xã hội. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã cụ thể

hóa quy định về tội “Trộm cắp tài sản” tại Điều 173 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung

năm 2017). Về hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự liên quan đến tội trộm cắp tài sản,

liên ngành Trung ương gồm Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ

Công an, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-

VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 về việc hướng dẫn áp dụng các quy định tại

Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS.

Tuy nhiên, việc hiểu, áp dụng các quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ

sung năm 2017) cũng như các văn bản hướng dẫn về tội TCTS còn chưa thống nhất,

gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cụ thể như sau:

Thứ nhất, về cấu thành cơ bản của tội phạm

Trường hợp trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2 triệu đồng nhưng “gây hậu quả

nghiêm trọng” đã được bãi bỏ, được thay bằng “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật

46

tự, an toàn xã hội”. Tuy nhiên, BLHS năm 2015 lại chưa quy định rõ về tình tiết

này, từ đó sẽ gây ra những hạn chế trong việc tiếp cận, vì đây là tình tiết nếu không

được giải thích cụ thể sẽ có những cách nhìn nhận chưa thực sự chính xác, dẫn đến

sự tùy nghi.

Thứ hai, về tình tiết định khung tăng nặng“hành hung để tẩu thoát”

BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) vẫn giữ lại tình tiết “hành hung

để tẩu thoát” (tại điểm đ khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015). Theo quy định tại

mục 6 Phần I Thông tư liên tịch số 02 thì khi áp dụng tình tiết “hành hung để tẩu

thoát” tại điểm đ khoản 2 Điều 138 BLHS, thì chuyển hóa từ tội TCTS thành tội

cướp tài sản. Đối với những trường hợp hành hung để tẩu thoát, người phạm tội có

hành vi dùng vũ lực gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng cho người bắt giữ hoặc

người bao vây bắt giữ thì sẽ bị xử lý như thế nào?

Hiện nay Thông tư liên tịch số 02 vẫn chưa giải thích rõ như thế nào là “bị

phát hiện”. Giả sử, nếu một người phạm tội đã thực hiện xong hành vi TCTS, thì

khoảng bao lâu kể từ khi chiếm đoạt xong đến khi bị phát hiện là bao lâu? Chẳng

hạn, nếu một người tội phạm đã hoàn thành xong hành vi trộm cắp 01 chiếc điện

thoại, đến khoảng hai tuần sau khi mang chiếc điện thoại đi bán thì bị lộ, như vậy

trường hợp này có được áp dụng tình tiết này không? Nếu không được xem xét áp

dụng thì khi bị phát hiện, bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ hoặc bị giành lại, hành vi

chống trả của người phạm tội đối với việc bị phát hiện, bắt giữ hoặc bị bao vây bắt

giữ hoặc bị giành lại có cấu thành tội phạm khác hay không? Nếu cấu thành tội

phạm khác như cướp tài sản vậy việc bồi thường trách nhiệm dân sự giải quyết như

thế nào?

Thực tiễn có trường hợp: A trộm cắp của chị C 01 chiếc xe mô tô trị giá là

10.000.000đ. Quá trình thực hiện hành vi phạm tội không bị ai phát hiện. A không

mang đi tiêu thụ ngay mà để lại sử dụng một thời gian. Quá trình sử dụng thì bị D

lấy trộm. Khi D đang tìm nơi tiêu thụ thì bị anh B (là chồng chị C) phát hiện. D rút

dao ra đe dọa anh B sau đó điều khiển xe mô tô bỏ chạy. Trong trường hợp này tài

sản đã nằm ngoài sự quản lý của chủ sở hữu hoặc những người có trách nhiệm quản

47

lý tài sản, vậy hành vi “dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công

người bị hại hoặc người khác nhằm mang tài sản tẩu thoát”của D xử lý như thế nào?

Vì thế, với tình hình phức tạp của tội TCTS hiện nay thì thủ đoạn phạm tội

ngày càng đa dạng, tinh vi hơn. Gây khó khăn cho cơ qua điều tra và những người

tiến hành tố tụng trong việc thực thi nhiệm vụ.

Thứ ba, vấn đề xác định trị giá tài sản chiếm đoạt để xác định tình tiết định

tội, định khung hình phạt trong trộm cắp tài sản

BLHS 2015 không quy định chi tiết, cụ thể về việc lấy giá trị tài sản bị chiếm

đoạt làm căn cứ để xác định tình tiết định tội, tình tiết định khung hình phạt trong các

tội xâm phạm sở hữu, tuy nhiên đến thời điểm hiện tại chưa có văn bản hướng dẫn

nào của cơ quan có thẩm quyền về vấn đề xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt trong

tội trộm cắp tài sản.

Trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử thì việc áp dụng lấy trị giá tài sản bị

chiếm đoạt làm căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự trong trường hợp thực hiện

nhiều lần cùng loại hành vi xâm phạm sở hữu liên tục kế tiếp nhau về mặt thời gian

thì theo tinh thần công văn số 64/TANDTC – PC ngày 03/04/2019 của Tòa án nhân

dân tối cao thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân

sự và tố tụng hành chính thì trong trường hợp này vẫn áp dụng hướng dẫn tại

Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25-12-

2001 của liên ngành tư pháp trung ương hướng dẫn áp dụng một số quy định tại

Chương XIV của BLHS năm 1999 để vận dụng thực hiện (gọi tắt là Thông tư số

02)[21].

Như vậy, Thông tư số 02 của liên ngành tư pháp trung ương chỉ mới hướng

dẫn quy định cụ thể về trường hợp hành vi nhiều lần chiếm đoạt tài sản mà liên tục,

kế tiếp nhau về mặt thời gian trong đó mỗi lần chiếm đoạt tài sản đều dưới mức truy

cứu trách nhiệm hình sự thì cộng tổng giá trị chiếm đoạt tài sản tại các lần để làm

căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người này.

Tại tiểu mục 5 Mục II Thông tư số 02 quy định: “Trong trường hợp một

người… bị xâm phạm, nếu:

a. Các hành vi xâm phạm …”[21].

48

Còn đối với trường hợp các đối tượng thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản

như: “Trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản và lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản”, thực tế tài sản chiếm đoạt được (là tiền) để xác định tình tiết định tội,

tình tiết định khung hình phạt để truy cứu trách nhiệm hình sự thì hiện nay chưa có

văn bản nào quy định, hướng dẫn chi tiết để thi hành đối với việc xác định định

lượng đối với những tài sản trộm cắp, tài sản lừa đảo và tài sản lạm dụng tín nhiệm

để chiếm đoạt để làm tình tiết định tội, tình tiết định khung hình phạt dẫn tới vẫn

còn cách hiểu và nhận thức khác nhau trong quá trình giải quyết vụ án.

2.4. Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế, vướng mắc trong

thực tiễn xét xử tội trộm cắp tài sản

Thứ nhất, do quy định của pháp luật hình sự Việt Nam quy định đối với tội

trộm cắp tài sản còn khái quát dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Việc ban hành

các văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ của cấp trên có lúc chưa được kịp thời, dẫn

đến việc áp dụng pháp luật hình sự còn chưa thống nhất giữa các cơ quan tiến hành

tố tụng.

Thứ hai, năng lực chuyên môn của những người tiến hành tố tụng vẫn còn thấp.

Trong xét xử, nhiều thẩm phán còn sơ sài trong việc nghiên cứu án, chưa thực hiện tốt

công việc được phân công, từ đó dẫn đến việc tuyên án không đúng. Việc xét xử còn bị

tác động bởi những yếu tố bên ngoài dẫn đến việc tuyên án không khách quan, tiêu

cực.

Ngoài những nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc xét xử còn bất cập như đã phân

tích ở trên, thì công tác đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn

huyện Krông Bông vẫn còn nhiều vướng mắc, hạn chế nên tội trộm cắp tài sản và

còn thường xuyên xảy ra và tăng cao, cụ thể là một số nguyên nhân sau:

Công tác tuyên truyền về tội trộm cắp tài sản chưa thực sự rộng rãi đến quần

chúng nhân dân, do đó quần chúng nhân dân chưa thực sự cảnh giác trong việc bảo

vệ tài sản, ý thức chủ động phát hiện đấu tranh tố giác tội phạm. Nhiều gia đình có

tài sản có giá trị, song công tác bảo vệ tài sản lại sơ sài tạo điều kiện thuận lợi cho

các đối tượng trộm cắp thực hiện tội phạm.

49

Việc triển khai thúc đẩy kinh tế ở những vùng miền vẫn còn chưa thực sự hiệu

quả. Tỷ lệ thất nghiệp còn chiếm tỷ lệ cao, chênh lệch giàu nghèo còn lớn, phát triển

kinh tế, xã hội chưa đồng đều tại các vùng, địa phương trong tỉnh.

Chính quyền địa phương mặc dù đã có nhiều chính sách hỗ trợ cũng như tạo

điều kiện cho hộ nghèo được thoát nghèo, tuy nhiên vẫn chưa đem lại hiệu quả cao.

Trong khi đó, chúng ta chưa thực sự thực hiện tốt các chính sách xã hội như tạo việc

làm để giải quyết nạn thất nghiệp.

Chưa có chính sách hợp lý cho những người mãn hạn tù trở về, nên việc tái

phạm còn nhiều. Mặc dù, trong trại giam các phạm nhân được học nghề song khi

mãn hạn tù thì các phạm nhân rất khó xin việc làm. Các doanh nghiệp, người sử

dụng lao động còn e ngại và không có niềm tin đối với các đối tượng này. Vì vậy,

sau khi mãn hạn tù thì phần lớn họ vẫn là người thất nghiệp. Và việc quay lại con

đường cũ là điều khó tránh khỏi.

Tiểu kết Chương 2

Ở chương 2, tác giả đã đi sâu vào việc phân tích về hoạt động định tội danh,

nêu ra những thực tiễn trong áp dụng quy định của PLHS về tội TCTS tại huyện

Krông Bông – tỉnh Đăk Lăk. Từ đó, cho chúng ta thấy được thực tiễn của hoạt động

điịnh tội danh đối với tội trộm cắp tài sản nói riêng và tội phạm hình sự nói chung

trên địa bàn huyện Krông Bông luôn được các cơ quan tố tụng quan tâm đặc biệt.

Từ thực tiễn cho thấy, từ năm 2015 đến năm 2019, huyện Krông Bông chưa có vụ

án trộm cắp tài sản nào bị hủy. Số vụ án bị cải sửa theo thủ tục phức thẩm là không

có. Qua đó, cho thấy sự cố gắng, nổ lực từ các cơ quan tiến hành tố tụng ở huyện

Krông Bông trong việc điều tra, xét xử với những điều kiện hoàn cảnh khác nhau để

đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đấu tranh,

phòng trong tội phạm ở hoàn cảnh có diễn biến phức tạp như hiện nay.

Bên cạnh những kết quả đạt được, ngoài ra vẫn còn một số hạn chế, vướng

mắc trong việc định tội danh và xử lý các vụ án hình sự. Những hạn chế này xuất

phát từ những cách hiểu và áp dụng quy định của pháp luật để định tội danh đối với

50

tội trộm cắp tài sản. Vì vậy, yêu cầu pháp luật phải có những quy định rõ ràng, chi

tiết hơn để pháp luật được áp dụng một cách thống nhất.

51

Chương 3

CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP

LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội trộm cắp

tài sản

Thứ nhất, yêu cầu của Đảng trong công tác đấu tranh phòng chống tội trộm

cắp tài sản

Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến lĩnh vực đấu

tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng. Từ những

quan điểm của Đảng thông qua các Văn kiện và Nghị quyết trong đấu tranh phòng

chống tội phạm, cần phải quán triệt những nội dung sau:

Trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài

sản nói riêng là sự nghiệp của toàn Đảng và toàn dân, vì vậy phải kết hợp sức mạnh

tổng hợp của cả hệ thống chính trị, được đặt dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng,

đặc biệt vai trò của Viện kiểm sát, Công an, Tòa án, cùng với đó là sự tham gia của

các đoàn thể và nhân dân.

Các cấp ủy Đảng chính quyền cần giám sát theo dõi và giáo dục cán bộ, đảng

viên luôn có ý thức gương mẫu chấp hành chủ trương chính sách của Đảng, pháp

luật của Nhà nước.

Trong đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản, phải đặt hoạt động phòng

ngừa lên vị trí hàng đầu, luôn luôn nhắc nhở tất cả mọi người phải đề cao tinh thần

cảnh giác, sẵn sàng có biện pháp hỗ trợ bảo vệ tài sản của các cơ quan nhà nước và

nhân dân, tạo ra một môi trường lành mạnh để không tạo ra những kẻ hở về chính

sách pháp luật cho bọn tội phạm có cơ hội để phạm tội, từ đó có ý thức chấp hành

pháp luật.

Cơ quan công an, Tòa án, Viện kiểm sát phải luôn bám sát Nghị quyết của

Đảng, chỉ thị của nhà nước trong lãnh đạo chỉ đạo công tác, thực hiện chức năng

nhiệm vụ của mình, để có những chủ trương biện pháp phù hợp với từng địa

52

phương, đơn vị trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội

trộm cắp tài sản nói riêng.

Phát động tinh thần dũng cảm bắt kẻ gian trong xã hội để tuyên dương, khen

thưởng, động viên các cá nhân có tinh thần gan dạ trong công cuộc đấu tranh phòng

chống tội phạm. Đề xuất những biện pháp bảo vệ tính mạng sức khỏe của người làm

chứng, người thân của họ để tránh khỏi sự đe dọa trả thù của tội phạm trộm cắp tài

sản.

- Thứ hai, yêu cầu phải thích hợp với tình hình kinh tế nước ta hiện nay

Xã hội ở mỗi thời điểm khác nhau, thì sẽ có những điều kiện kinh tế - xã hội trái

ngược nhau, từ đó pháp luật của mỗi giai đoạn cũng sẽ khác nhau. Trong thời điểm

hiện nay, nước ta đang dần đổi mới một cách toàn diện, cuộc sống của nhân dân ngày

càng được cải thiện. Tuy vậy, bên cạnh những phát triển đó, đất nước ta vẫn đang còn

gặp nhiều khó khăn, thử thách lớn trong vệc đấu tranh với những loại hình tội phạm

khác nhau, trong đó có tội trộm cắp tài sản được tội phạm thực hiện với những thủ

đoạn tinh vi, gây ra hậu quả nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội. Với tình hình tội

trộm cắp tài sản đang có diễn biến phức tạp như hiện nay, việc hoàn thiện các quy định

về tội trộm cắp tài sản phải quy định được các vấn đề mới vào trong luật như các dấu

hiệu định khung, chủ thể mới, quy định các tình tiết, mức hình phạt phải phù hợp với

điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta trong thời điểm này.

- Thứ ba, yêu cầu về hội nhập quốc tế

Nước ta là một trong những thành viên chính thức của nhiều công ước quốc tế về

đấu tranh, phòng chống tội phạm. Do vậy, các quy định của pháp luật hình sự Việt

Nam nói chung và pháp luật hình sự nói riêng cần phải phù hợp với các quy định bắt

buộc của công ước này. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hình sự về

tội trộm cắp tài sản cũng phải phù hợp với các quy định của công ước quốc tế mà nước

ta đã tham gia. [36, tr.66]

53

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội

trộm cắp tài sản

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của luật hình sự về tội trộm cắp tài

sản

Với tính phổ biến và phức tạp của tội trộm cắp tài sản thì hành vi phạm tội sẽ

diễn ra muôn hình muôn vẻ, sẽ có nhiều trường hợp có những cách hiểu và vận

dụng khác nhau trong thực tế, do đó cần phải có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng, tránh

hiện tượng áp dụng thiếu thống nhất của các cơ quan tố tụng. Theo tôi, cần phải

hoàn thiện pháp luật hình sự về tội trộm cắp theo hướng: loại bỏ các dấu hiệu định

tội “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ”, “tài

sản là di vật, cổ vật” trong cấu thành cơ bản của tội trộm cắp tài được quy định tại

khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Việc nhà làm luật đã quy định một số trường hợp trộm cắp tài sản dưới 2 triệu

đồng nhưng có thêm các dấu hiệu “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của

người bị hại và gia đình họ” hoặc “tài sản là di vật, cổ vật” thì bị coi là tội phạm

trong khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là một hình

thức mở rộng phạm vi tội phạm hóa của tội này. Việc tội phạm hóa này sẽ dẫn đến

nhiều vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội

trộm cắp tài sản, và về mặt lý luận không đảm bảo yêu cầu của nguyên tắc pháp chế

trong áp dụng pháp luật hình sự.

Trên cơ sở như vậy, tác giả kiến nghị loại bỏ các dấu hiệu định tội “tài sản là

phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ”, “tài sản là di vật, cổ

vật” trong cấu thành cơ bản của tội trộm cắp tài quy định tại khoản 1 Điều 173

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

3.2.2 Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật

hình sự năm 2015 về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Krông Bông –

tỉnh Đăk Lăk

3.2.2.1 Giải pháp về hướng dẫn áp dụng pháp luật

54

Theo tác giả, để có thể áp dụng quy định của BLHS thống nhất thì cần hướng

dẫn để hiểu đúng về tình tiết định khung “hành hung để tẩu thoát” và chuyển hóa từ

tội trộm cắp tài sản sang tội cướp tài sản.

Vì do Thông tư liên tịch số 02/2001 hướng dẫn chưa đầy đủ các trường hợp

chuyển hóa tội phạm từ tội cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm

cắp tài sản sang tội cướp tài sản, dẫn đến người tiến hành tố tụng hiểu việc chuyển

hóa sang tội cướp chỉ giới hạn trong trường hợp mà Thông tư 02/2001 nêu ra mà

thôi. Từ đó, tác giả xin đưa ra kiến nghị thay đổi như sau:

Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT- Văn bản hướng dẫn mới

TANDTC-VKSNDTCBCA-BTP

Khi áp dụng tình tiết "hành hung để tẩu 6. Khi áp dụng tình tiết “hành hung để

thoát" (điểm đ khoản 2 Điều 171; điểm tẩu thoát” (điểm đ khoản 2 Điều 136;

b khoản 2 Điều 173; điểm đ khoản 2 điểm a khoản 2 Điều 137; điểm đ

Điều 173 BLHS năm 2015) cần chú ý: khoản 2 Điều 138 BLHS) cần chú ý:

1. Phạm tội thuộc trường hợp 6.1. Phạm tội thuộc trường hợp “ để "hành hung để tẩu thoát" là trường hợp tẩu thoát” là trường hợp mà người mà người phạm tội chưa chiếm đoạt phạm tội chưa chiếm đoạt được tài được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã có những bị bao vây bắt giữ thì đã có những hành vi chống trả lại người bắt giữ hoặc hành vi chống trả lại người bắt giữ người bao vây bắt giữ như đánh, chém, hoặc người bao vây bắt giữ như đánh, bắn, xô ngã... nhằm tẩu thoát. chém, bắn, xô ngã... nhằm tẩu thoát. 2. Nếu người phạm tội chưa chiếm

6.2. Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản mà người phạm tội

đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay

được tài sản, nhưng đã bị người bị tức khắc tấn công người bị hại nhằm

hại hoặc người khác giành lại, mà chiếm đoạt cho được tài sản, thì trường

55

người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, hợp này có đầy đủ các dấu hiệu cấu

đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc tấn thành tội cướp tài sản.

công người bị hại hoặc người khác 3. Nếu người phạm tội đã chiếm

nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, đoạt được tài sản, nhưng đã bị người bị

thì trường hợp này không phải là hại hoặc người khác đã giành lại được

“hành hung để tẩu thoát” mà đã có tài sản hoặc đang giành giật tài sản còn

đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội trong sự chiếm hữu người phạm tội, mà

cướp tài sản. người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe

dọa dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công

người bị hại hoặc người khác nhằm

chiếm đoạt cho được tài sản, thì trường

hợp này không phải là hành hung để tẩu

thoát.

3.2.2.2 Một số giải pháp khác

Thứ nhất, các biện pháp tăng cường áp dụng các quý định của PLHS về tội

trộm cắp nên được thực hiện cùng lúc, để việc áp dụng các biện pháp được tốt hơn.

Thứ hai, nâng cao vai trò của các cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát

Hệ thống các cơ quan tư pháp có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình đấu

tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản. Ngoài ra, các cơ quan này còn là lực lượng

hàng đầu đấu tranh chống các loại tội phạm. Với những yêu cầu đặt ra trong công

cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm ở điều kiện và tình hình cấp thiết như hiện

nay, đòi hỏi những cơ quan bảo vệ pháp luật cần có những biện pháp chặt chẽ để

nâng cao năng lực con người, phương tiện kỹ thuật và hiệu quả thực hiện hoạt động

chức năng, nhiệm vụ.

Năng lực và nhận thức chuyên môn của các chủ thể tiến hành tố tụng là

nguyên nhân chính dẫn đến các vi phạm pháp luật trong hoạt động giải quyết án. Vì

vậy, giải pháp đầu tiên để hạn chế tình trạng vi phạm pháp luật trong hoạt động giải

quyết các vụ án trộm cắp tài sản là nâng cao trình độ chuyên môn, rèn luyện kỹ

56

năng nghiệp vụ và bổ sung những cán bộ có trình độ vào đội ngũ chủ thể tiến hành

tố tụng.

Có nhận thức đúng về mục tiêu giải quyết án đó là: không bỏ lọt tội phạm và

không xử oan người vô tội. Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến

hành tố tụng, làm hết khả năng phát hiện dấu hiệu tội phạm, xác định chính xác người

phạm tội, điều tra chứng minh đầy đủ mọi tình tiết sự thật của vụ án...

Thứ ba, tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện, kỹ thuật cho các cơ quan tiến

hành tố tụng, tôn vinh khen thưởng những cán bộ làm công tác bảo vệ pháp luật.

Với các cơ quan điều tra, cần trang bị thêm các phương tiện kỹ thuật hiện đại

giúp cho việc điều tra xác minh tội phạm và người phạm tội một cách nhanh chóng

kịp thời chính xác. Đầu tiên, Nhà nước cần trang bị các vũ khí và các phương tiện

để phục vụ điều tra như phương tiện ghi âm, ghi hình… một cách đầy đủ. Nếu thiếu

những phương tiện này, các chiến sĩ công an và điều tra viên sẽ gặp nhiều khó khăn

trong công tác đấu tranh chống tội phạm và điều tra xác minh những chứng cứ, dấu

vết.

Với những cán bộ là công an, là đội ngũ quan trọng trong việc phòng chống

tội phạm ở khắp nơi. Trong thời gian sắp tới lực lượng Công an cần tiếp tục làm tốt

các vai trò yêu cầu về nghiệp vụ công tác điều tra cơ bản, từ cơ sở đó xác lập và

phân loại các đối tượng trộm cắp tài sản khác nhau để có những biện pháp xử lý phù

hợp. Kết hợp chặt chẽ với các đoàn thể, tổ chức làm tốt công tác tuyên truyền vận

động người thân không thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, phát hiện và tố giác

những đối tượng, băng nhóm trộm cắp tài sản với cơ quan Công an. Ngoài ra, còn

phải làm tốt công tác tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông, thông tin đại

chúng để người dân có được nhận thức rõ hơn về hậu quả pháp lý của tội trộm cắp

tài sản.

Đối với Tòa án nhân dân, cần đẩy mạnh công tác xét xử giải quyết các vụ án

và các bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản một cách nghiêm minh, tránh việc xét xử

không đúng, làm oan sai người vô tội, bỏ lọt tội phạm. Tòa án nhân dân các cấp cần

thực hiện xét xử các phiên tòa lưu động về tội trộm cắp tài sản nhiều hơn nữa, để từ

57

đó tuyên truyền cũng như phổ biến giáo dục pháp luật đến nhân dân, hạn chế các

hành vi trộm cắp tài sản.

Thứ tư, tăng cường kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm đối với những trường

hợp giải quyết vụ án về tội trộm cắp tài sản.

Đẩy mạnh công tác lãnh đạo, thanh tra, kiểm tra, chỉ đạo, kiểm sát đối với hoạt

động giải quyết án. Thủ trưởng của các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải tiếp tục

quan tâm đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo cũng như thanh tra, kiểm tra thường xuyên

để có những điều chỉnh kịp thời các biểu hiện sai phạm của các cán bộ, công chức

của mình trong các quá trình tiến hành các hoạt động giải quyết vụ án về tội trộm

cắp tài sản.

Viện kiểm sát vừa là cơ quan thay mặt Nhà nước để thực hành quyền công tố,

đấu tranh với tội phạm, nhưng đồng thời phải thực hiện nhiệm vụ kiểm sát hoạt

động tư pháp, trong đó có hoạt động giải quyết án. Vì vậy, để hạn chế vi phạm pháp

luật trong hoạt động giải quyết vụ án trộm cắp tài sản thì kiểm sát viên cần phải

theo sát vụ án ngay từ đầu. Trong quá trình tiến hành tố tụng, sự phối hợp công tác

giữa các cơ quan tiến hành tố tụng là cần thiết. Vi phạm được phát hiện càng sớm

thì càng dễ khắc phục và sẽ hạn chế được các hậu quả của nó. Công tác thanh tra,

kiểm tra, chỉ đạo lại càng cần thiết hơn ở cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, vì trong

quá trình điều tra cần phải ra nhiều quyết định ảnh hưởng đến quyền lợi của nghi

can và ảnh hưởng lớn đến kết quả giải quyết án. Để hạn chế tình trạng bắt sai và

giam giữ quá hạn do việc kiểm tra, thanh tra, lãnh đạo, chỉ đạo thiếu sâu sắc và chưa

kịp thời, thì việc thanh tra kiểm tra không chỉ phải tiến hành một cách thường

xuyên, mà còn phải bám sát với thực tế, tránh tình trạng chỉ nghe qua các báo cáo.

Xử lý triệt để các vi phạm pháp luật trong hoạt động giải quyết án. Nếu vi

phạm pháp luật không được phát hiện và xử lý triệt để thì không ngăn chặn được vi

phạm pháp luật kế tiếp vừa có nguy cơ làm vi phạm pháp luật tăng thêm và nghiêm

trọng hơn. Tuy nhiên, để xử lý được những vi phạm pháp luật xảy ra trong quá trình

các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản thì nhất thiết

58

phải áp dụng các biện pháp như: các trường hợp phát hiện hoặc có tin báo, tố giác

về bất kỳ một các bộ ngành Tư pháp nào có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong quá

trình giải quyết vụ án cũng đều phải được điều tra, xác minh ngay để xử lý dứt

điểm…

Việc xử lý kỷ luật phải đúng quy định và phù hợp với mức độ vị phạm. Ngoài

ra cần nghiên cứu để có những quy định buộc những người cố ý vi phạm pháp luật

trong hoạt động giải quyết các vụ án gây ra oan sai cho người dân phải có trách

nhiệm liên đới trong việc bồi thường cho người bị oan.

Thứ năm, đối với HĐND và UBND các cấp

Phải có kế hoạch đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm cho

tầng lớp thanh niên trong độ tuổi lao động tránh để xảy ra tình trạng thất nghiệp,

không có việc làm, không có thu nhập ổn định dẫn đến con đường phạm tội. Đặc

biệt là sự quan tâm chỉ đạo của các cấp có biện pháp theo dõi quản lý các đối tượng

đã có tiền án tiền sự, diện sau cai nghiện ma túy… Tạo điều kiện thuận lợi để cho

họ có thể hòa nhập với cộng đồng, để từ đây có thể hạn chế đến mức thấp nhất các

trường hợp có thể xảy ra như tái phạm, tái phạm nguy hiểm. đây là một trong những

nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các bạn, ngành, đoàn thể để

đạt được kết quả tốt nhất.

Triển khai công tác phổ cập giáo dục cho những người có trình độ văn hóa

thấp, phải được các cấp chính quyền, đoàn thể quan tâm hơn nữa. Động viên các

thanh thiếu niên trong độ tuổi đến trường theo học các lớp bổ túc văn hóa nhằm

nâng cao nhận thức về đạo đức và ý thức pháp luật để sống có ít cho xã hội.

Thứ sáu, công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân,

phát động quần chúng nâng cao ý thức bảo vệ tài sản của mình và tham gia bảo vệ

tài sản của người khác.

Thúc đẩy việc tuyên truyền, giải thích cho mọi người tinh thần cảnh giác, quan

tâm trong việc giữ gìn tài sản và tích cực tham gia bảo quản tài sản của chính bản

thân mình và mọi người. Tăng cường công tác tuyên truyền các quy định của pháp

luật, đồng thời thông báo, phổ biến phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm

59

trộm cắp tài sản, đặc biệt là các phương thức, thủ đoạn mới để mọi người dân nâng

cao ý thức và cảnh giác, phòng ngừa tội phạm, tự bảo vệ tài sản.

Giáo dục phổ biến về quyền hạn và nghĩa vụ của công dân trong việc đấu

tranh phòng chống tội phạm.

Các cơ quan chức năng, các tổ chức đoàn thể cần phối hợp với Nhà trường và

gia đình quan tâm hơn nữa đến công tác giáo dục ý thức cho các thế hệ trẻ, đặc biệt

là các em học sinh đang ở lứa tuổi mới lớn; có biện pháp quản lý, giáo dục các cháu

để các cháu tránh đi vào con đường phạm tội. Đồng thời tăng cường công tác tuyên

truyền, giáo dục pháp luật để người dân hiểu về các chính sách pháp luật, nhất là Bộ

luật hình sự; nâng cao ý thức cảnh giác để không tạo sơ hở cho kẻ xấu thực hiện

hành vi chiếm đoạt tài sản.

Thứ bảy, tăng cường kiểm tra, tuần tra, giám sát và phát hiện, xử lý kịp thời về

trộm cắp tài sản

Thường xuyên tổ chức tuần tra nhân dân, tuần tra của các lực lượng chức năng

để canh gác, bảo vệ, phát hiện, phòng ngừa, bắt giữ các đối tượng trộm cắp tài sản.

Các đơn vị, lực lượng công an sẽ tập trung rà soát và dựng các đường dây, đối

tượng, ổ nhóm có biểu hiện trộm cắp tài sản chuyên nghiệp, hoạt động phức tạp để

triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh triệt xóa. Đồng thời gọi hỏi, răn đe,

giáo dục các đối tượng nghi vấn, có tiền án tiền sự về tội trộm cắp tài sản, quản lý

chặt số người nghiện ma túy. Lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự, cảnh

sát cơ động, cảnh sát giao thông sẽ tăng cường công tác tuần tra vũ trang, tuần tra

nghiệp vụ tại các khu vực, địa bàn trọng điểm, phức tạp thường xuyên xảy ra các vụ

trộm cắp tài sản để kịp thời phát hiện, ngăn chặn bắt giữ các đối tượng phạm tội.

Nâng cao hiệu quả công tác điều tra xử lý tội phạm trộm cắp tài sản, tập trung

vào các hành vi trộm cắp tài sản có tính đồng phạm, không để hình thành băng

nhóm phạm tội. trong việc điều tra các vụ án, cần làm rõ vai trò, vị trí của từng đối

tượng trong thực hiện hành vi phạm tội để có hình thức xử lý phù hợp. Bên cạnh

công tác phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm trộm cắp tài sản, cần thực hiện các

60

biện pháp đấu tranh với tội phạm cờ bạc, ma túy, quản lý giáo dục thanh thiếu niên

hư có nguy cơ vi phạm pháp luật.

Tăng cường phối hợp, trao đổi thông tin giữa các lực lượng trong và ngoài

ngành Công an; trong và ngoài tỉnh để quản lý chặt chẽ các đối tượng có điều kiện

và khả năng phạm tội. Quản lý chặt chẽ hoạt động lưu trú, tạm trú, tạm vắng, nhằm

phát hiện những đối tượng ngoại tỉnh đến lưu trú để cấu kết với những đối tượng

trên địa bàn hoạt động trộm cắp tài sản. Tăng cường công tác tuần tra ban đêm, tập

trung vào những địa bàn thường xuyên xảy ra các vụ trộm cắp tài sản, các tụ điểm

đối tượng hình sự thường tụ tập hoạt động.

61

Tiểu kết Chương 3

Từ những nội dung về lý luận và thực tiễn đã được phân tích, đánh giá trong

chương 1 và chương 2, ở phạm vi 3 chương này, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và

thực trạng tội phạm trộm cắp tài sản, khi mà hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn, bất

cập trong quá trình phát hiện, xét xử các vụ án trộm cắp trên địa bàn huyện Krông

Bông, tỉnh Đăk Lăk, những khó khăn, bất cập trong quá trình đấu tranh, phòng

chống tội trộm cắp tài sản khi mà ý thức pháp luật của người dân vẫn chưa được cải

thiện. Những biện pháp này đóng góp vào công cuộc đấu tranh, phòng chống tội

phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng. Từ đó, bảo đảm hiệu quả áp dụng

pháp luật trong quá trình định tội danh và giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản trên

địa bàn huyện Krông Bông – tỉnh Đăk Lăk.

62

KẾT LUẬN

Trong những năm qua, nhờ thực hiện những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà

nước, chúng ta đã được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa -

xã hội, chính trị. Tuy vậy, vẫn còn những khía cạnh vẫn chưa được hoàn thiện, thiếu

kinh nghiệm trong quản lý kinh tế, cũng như quản lý xã hội cùng với những tác động

tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường, hoạt động của tội phạm hình sự diễn ra có

xu hướng ngày càng gia tăng cả về quy mô, lẫn tính chất và mức độ. Điểm đáng chú ý

của loại tội phạm trộm cắp tài sản là: đối tượng phạm tội rất đa dạng về thành phần và

lứa tuổi, nhưng vẫn tập trung chủ yếu ở đối tượng nghiện ma túy, cờ bạc, xu hướng

hoạt động của chúng là cấu kết, phối hợp với nhau tạo thành các băng đảng để hoạt

động một cách chuyên nghiệp. Trong một số trường hợp khi bị phát hiện và bị đuổi bắt,

chúng công khai chống trả lại để chiếm đoạt bằng được tài sản. Trong khi đó công tác

tổ chức tiến hành điều tra với loại tội phạm này của cơ quan cảnh sát điều tra ở một số

địa phương vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định, dẫn đến kết quả điều tra, xét xử

chưa đạt được hiệu quả cao, nhiều vụ án còn bị bết tắc chưa giải quyết được.

Vì thế, để góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh với tội phạm trộm

cắp tài sản, trước hết cần phải xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự. Sau đó,

tiếp tục nâng cao trách nhiệm của các cơ quan chuyên trách, bảo vệ pháp luật như:

Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan Công an, Thanh tra, Tư pháp…Các cơ quan này có

trách nhiệm thi hành đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình theo

pháp luật để phát hiện và xử lý kịp thời đúng pháp luật mọi hành vi phạm tội, người

phạm tội.

Người đứng đầu cơ quan tổ chức phải gương mẫu chấp hành luật, không được

bao che những người thuộc quyền quản lý mình vi phạm pháp luật, phải tố giác

người phạm tội với các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Ngoài ra, các cơ quan chức năng cũng phải đưa ra các biện pháp nhằm nâng

cao đời sống của nhân dân như các điều kiện về nhà ở, ăn uống, giáo dục, tạo việc

làm… để mọi công dân có điều kiện tham gia đấu tranh, phòng chống tội phạm.

63

Công dân có thể trực tiếp, hoặc gián tiếp tố giác người phạm tội, giúp các cơ quan

tiến hành tố tụng trong việc điều tra, xác minh bắt giữ người phạm tội thực hiện

quyền phòng vệ chính đáng, tham gia giám sát, quản lý giáo dục người bị kết án,

giúp đỡ người bị kết án tái hòa nhập cộng đồng.

64

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Văn Biên, Đinh Thế Hưng (2017) Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm

2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Thế giới, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Nguyễn Ngọc Chí (2000) Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở

hữu, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

3. Lê Văn Đệ (2004) Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự

Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

4. Trần Mạnh Hà (2006), Định tội danh tội trộm cắp tài sản qua một số dấu hiệu

đặc trưng, Tạp chí nghề luật, số 5/2006, tr.12-18

5. Trần Mạnh Hà (2006) “Phân biệt một số dấu hiệu đặc trưng của tội Trộm cắp

tài sản khi định tội danh”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5, tr.7-10.

6. Nguyễn Ngọc Hòa (2004), Cấu thành tội phạm – Lý luận và thực tiễn, Nxb Tư

pháp, Hà Nội.

7. Học viện Tư Pháp (2001) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà

Nội.

8. Lê Văn Luật (2002) “Bàn về định tội danh đối với một số tội xâm phạm sở

hữu”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4, tr.15-18

9. Luật xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 ngày 20 tháng 6 năm 2012

của Quốc hội.

10. Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng thẩm phán –

Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần

Chung của Bộ luật hình sự năm 1999.

11. Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng thẩm phán -

Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần

chung của Bộ luật hình sự năm 1999.

12. Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán

Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình

sự.

65

13. Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán

Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình

sự.

14. Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán

Tòa án nhân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự

về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp

hành hình phạt.

15. Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán

Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình

sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp

hành hình phạt.

16. Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng thẩm phán

Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự về án

treo.

17. Cao Thị Oanh – chủ biên (2015), Các tội xâm phạm sỡ hữu có tính chất chiếm

đoạt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

18. Cao Thị Oanh – Lê Đăng Doanh (chủ biên) (2015), Bình luận Bộ luật hình sự

năm 2015, Nxb Lao Động, Hà Nội.

19. Cao Thị Oanh (2015), Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

20. Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

21. Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày

25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ

công an – Bộ tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV

“Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự năm 1999.

22. Nguyễn Thị Mộng Thúy (2013), Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự

Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã

hội.

23. Tòa án nhân dân huyện Krông Bông ( 2015), Báo cáo tổng kết năm 2015, Đăk Lăk.

66

24. Tòa án nhân dân huyện Krông Bông ( 2016), Báo cáo tổng kết năm 2016, Đăk Lăk.

25. Tòa án nhân dân huyện Krông Bông ( 2017), Báo cáo tổng kết năm 2017, Đăk Lăk.

26. Tòa án nhân dân huyện Krông Bông ( 2018), Báo cáo tổng kết năm 2018, Đăk Lăk.

27. Tòa án nhân dân huyện Krông Bông ( 2019), Báo cáo tổng kết năm 2019, Đăk Lăk.

28. Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk (2019), Bản án hình sự sơ

thẩm số 14/2019/HSST ngày 14/05/2019.

29. Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk (2019), Bản án hình sự sơ

thẩm số 15/2019/HSST ngày 25/07/2019.

30. Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk (2019), Bản án hình sự sơ

thẩm số 29/11/2019/HSST ngày 19/11/2019.

31. Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk (2020), Bản án hình sự sơ

thẩm số 01/2020/HSST ngày 15/01/2020.

32. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập 1,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

33. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập 2,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

34. Trượng- Nguyễn Văn Trượng (2008), Một số vấn đề cần hoàn thiện đối với tội

trộm cắp tài sản, Tạp chí TAND, số 3.

35. Đào Trí Úc (2000) Tội phạm học Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Lê Thị Bình (2018) Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ

thực tiễn tỉnh Bình Phước, luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự,

Học viện Khoa học xã hội.

37. Trịnh Tiến Việt (2013) Pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng, Nxb Giao

thông vận tải Hà Nội, Hà Nội.

38. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình lý luận chung về định tội danh, Nxb Công

an nhân dân, Hà Nội.

39. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

67

40. Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

41. Th.s Nguyễn Văn Điền (2019) “định tội danh đối với tội chưa thành”,<

http://pup.edu.vn/index.php/news/Nghien-cuu-Trao-doi/Dinh-toi-danh-doi-

voi-toi-pham-chua-hoan-thanh-2239.html>,(03/08/2019).

42. Phạm Tuấn Anh (2018) tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam

từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội.

68