VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN BÁ CÔNG

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG

ĐƯỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội – 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN BÁ CÔNG

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG

BỘ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. NGUYỄN THỊ THANH THÙY

Hà Nội - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Giám đốc Học viện Khoa học xã hội đã quyết định giao cho học viên

Nguyễn Bá Công đề tài luận văn thạc sĩ: “Tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”. Chuyên ngành: Luật hình

sự và Tố tụng hình sự; Mã số: 8380104.

Tác giả xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn

Thạc sĩ Luật học về “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” là hoàn toàn trung thực và không trùng lắp với các

đề tài nghiên cứu khác. Các số liệu, nội dung trình bày trong luận văn có trích

dẫn nguồn gốc. Luận văn này là đề tài nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự

hướng dẫn khoa học của cô giáo, TS. Nguyễn Thị Thanh Thùy.

Học viên xin chịu mọi trách nhiệm về tính trung thực của luận văn.

Tác giả luận văn

Nguyễn Bá Công

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH

VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT

NAM .................................................................................................................. 8

1.1. Khái niệm, dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ ........................................................................................ 8

1.2 Quy định pháp luật hiện hành về tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ ...................................................................................... 17

1.3 Khái quát lịch sử Luật hình sự Việt Nam quy định về tội vi phạm quy

định về tham giao thông đường bộ .............................................................. 21

Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 32

Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI

PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI ĐỊA

BÀN TỈNH BẮC NINH.................................................................................. 33

2.1. Khái quát tình hình xét xử tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ tại tỉnh Bắc Ninh ............................................................... 33

2.2. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ của Tòa án tại tỉnh Bắc Ninh ......................................... 36

2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt về tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ của TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh ............................ 45

Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 62

Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH

CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM

GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI BẮC NINH .................................... 63

3.1 Yêu cầu đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội

vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Bắc

Ninh................................................................................................................. 63

3.2. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các quy định của pháp luật

hình sự về xử lý tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ 67

Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 74

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 77

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS Bộ luật hình sự

BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự

TAND Tòa án nhân dân

VKS Viện kiểm sát

TNHS Trách nhiệm hình sự

GS.TS Giáo sư, Tiến sĩ

TS Tiến sĩ

HKTT Hộ khẩu thường trú

BKS Biển kiểm soát

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1 Số vụ án và số bị cáo phạm tội vi phạm các quy định về điều

khiển phương tiện giao thông đường bộ, tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ và tổng số vụ án và bị cáo bị đưa ra xét xử từ năm 2014

đến năm 2018

Bảng 2.2 Thống kê các vụ án và bị cáo bị xét xử về tội vi phạm quy

định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong 05 năm (2014 -

2018) trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Bảng 2.3 Thống kê các vụ án và bị cáo bị xét xử về tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015 trong

năm 2018 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Bảng 2.4 Số bị cáo bị xét xử về tội vi phạm quy định về điều khiển

phương tiện giao thông đường bộ và tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ tại các huyện của tỉnh Bắc Ninh từ năm 2014 đến năm 2018.

Bảng 2.5 Cơ cấu hình phạt Tòa án áp dụng khi xét xử sơ thẩm tội “vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

giai đoạn 2014 - 2018

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Bắc Ninh là một trong những tỉnh có diện tích nhỏ nhất đất nước, tuy

nhiên nằm trong khu vực trọng điểm kinh tế phía Bắc của đất nước nên có hệ

thống đường giao thông thuận lợi, có nhiều tuyến đường huyết mạch trọng

điểm như Quốc lộ 1A, 1B nối Lạng Sơn, Bắc Giang với các tỉnh thành trong

nước hay Quốc lộ 18 nối liền giữa sân bay quốc tế Nội Bài với hệ thống cảng

biển Quảng Ninh, Hải Phòng và các tuyến đường khác nối liền các tỉnh, thành

phố giáp ranh giữa Hải Dương, Hưng Yên và thành phố Hà Nội. Ngoài ra,

Bắc Ninh còn có nhiều khu công nghiệp lớn, tập trung các doanh nghiệp lớn

như Sam Sung, Canon, Hồng Hải,…. Và là nơi có nhiều làng nghề truyền

thống phát triển đa dạng, với số lượng người và xe cơ giới tham gia giao

thông rất lớn, mật độ đông đúc, dẫn đến số lượng các vụ tai nạn giao thông

đường bộ xảy ra với nhiều vụ việc nghiêm trọng xâm hại đến tính mạng, sức

khỏe và tài sản của những người tham gia giao thông và gia tăng trong những

năm gần đây.

Mặt khác, Bộ luật hình sự năm 2015 ra đời đã có sự thay đổi lớn về tội

phạm liên quan đến tai nạn giao thông đường bộ đó là sự thay đổi về tên tội

danh từ tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

thành tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, trong đó các

dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm này có sự thay đổi để phù hợp hơn

với tình hình thực tế. Bên cạnh đó, các đề tài nghiên cứu chủ yếu về tội Vi

phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, chưa có nhiều

công trình nghiên cứu về tội phạm Vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ.

Do đó để làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội Vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ là cần thiết và từ đó đề ra những kiến nghị, giải

1

pháp để góp phần phòng, chống tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội, góp phần làm giảm các vụ

việc vi phạm giao thông có dấu hiệu hình sự. Đây là lý do tác giả lựa chọng

đề tài “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn

tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Dưới góc độ pháp lý, trong thời gian qua việc nghiên cứu về tội vi

phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ đã thu hút được sự quan

tâm của nhiều nhà nghiên cứu và cán bộ làm thực tiễn. Đến nay đã có nhiều

công trình nghiên cứu được thể hiện trên ba bình diện - luận án, luận văn,

sách chuyên khảo, bình luận, cũng như giáo trình dành cho hệ đại học và một

số bài viết bình luận như:

* Nhóm thứ nhất (các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ) bao gồm:

- Bùi Kiến Quốc (2001), “Các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội vi

phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ ở Thủ đô Hà

Nội”, Luận án tiến sỹ luật học;

- Nguyễn Văn Tuyên (2018), “Kiểm sát điều tra tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn”, Luận văn thạc

sĩ;

- Nguyễn Hồng Phong (2019) “Tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn

thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ;

- Nguyễn Quang Tuấn (2016), “Kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy

định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ từ thực tiễn tại tỉnh Bắc

Ninh”, Luận văn thạc sỹ luật học;

2

- Nguyễn Đắc Dũng (2011), “Tội vi phạm quy định về điều khiển

phương tiện giao thông đường bộ trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở

nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Ninh)”, Luận văn thạc sĩ;

* Nhóm thứ hai (các sách chuyên khảo, tham khảo) bao gồm:

- GS.TS. Võ Khánh Vinh (2013), Chương X: Các tội xâm phạm

an toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: Giáo trình Luật Hình sự

Việt Nam – Phần các tội phạm, do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

- TS. Phạm Minh Tuyên (2014), Các tội phạm xâm phạm trật

tự, an toàn giao thông đường bộ (Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử ở

Việt Nam), NXB Thanh niên.

- TS. Cao Thị Oanh (2010), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Nxb

Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

- GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa (2018), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam,

Nxb Công an nhân dân.

- GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa (2018), Bình luận khoa học Bộ luật Hình

sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nxb Tư pháp.

- Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các

tội phạm, tập VII, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.

Một số bài viết được đăng trên các tạp chí, trang tin điện tử về tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như:

- Tạp chí Khoa học 2011 bàn về tội vi phạm giao thông đường bộ theo

Bộ luật hình sự năm 2015 Lê Văn Luật (2011), Xác định lỗi khi định

tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về điều khiển

tham gia giao thông đường bộ đường bộ một số vấn đề lý luận và thực tiễn,

Tòa án nhân dân, tr. 10-14.

3

- Nguyễn Duy Nam (2017), Bàn về tội vi phạm quy định tham gia giao

thông đường bộ tại Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015, website:

http://moj.gov.vn.

Tuy nhiên, đa số các công trình nghiên cứu trên đều dựa trên cơ sở Bộ

luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; hiện nay Bộ luật hình sự

năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã ban hành và có hiệu lực, về cấu

thành cơ bản của tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ cũng

trên cơ sở đó có nhiều thay đổi, do vậy về lý luận và thực tiễn có nhiều thay

đổi, do đó việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định của Bộ luật

hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ, cũng như đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu

quả áp dụng đối với các quy định về loại tội phạm này vẫn còn có ý nghĩa lý

luận và thực tiễn, đặc biệt trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Luận văn nghiên cứu một cách tương đối về những vấn đề pháp lý cơ

bản về tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ như: Khái

niệm, các dấu hiệu pháp lý, trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, đồng

thời đi sâu vào phân tích thực tiễn xét xử loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh

Bắc Ninh từ năm 2014 đến năm 2018.

3.2. Nhiệm vụ

Quá trình nghiên cứu tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ nhằm làm rõ các dấu hiệu pháp lý cấu thành tội phạm này và thực

tiễn xét xử người phạm tội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Từ đó tìm ra những

một số vướng mắc, tồn tại trong công tác xét xử loại tội phạm này, đồng thời

đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định

4

của Bộ luật hình sự trong việc xử lý loại tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn đi sâu nghiên cứu về dấu hiệu pháp lý tội phạm Vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ và thực tiễn xét xử tại tỉnh Bắc Ninh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu về tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ từ thực tiễn xét xử tại tỉnh Bắc Ninh từ ngày 01/01/2014 đến ngày

31/12/2018.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách, chủ trương của

Đảng và Nhà nước về công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện mục đích nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp

nghiên cứu như: Phân tích quy phạm pháp luật; tổng hợp và thống kê xã hội

học; khảo sát thực tiễn; phân tích, so sánh và nghiên cứu. Cụ thể:

Phương pháp phân tích quy phạm pháp luật được tác giả sử dụng tại

chương 1 và chương 2 để làm rõ về các dấu hiệu pháp lý thực tiễn việc định

tội danh, áp dụng hình phạt tại tỉnh Bắc Ninh đối với tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ.

Phương pháp tổng hợp, phân tích và thống kê xã hội, khảo sát thực tiễn

được tác giả sử dụng tại chương 2, nhằm làm rõ thực trạng và nguyên nhân

công tác áp dụng pháp luật trong việc xét xử tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ từ thực tiễn xét xử tại tỉnh Bắc Ninh.

5

Phương pháp phân tích, so sánh và nghiên cứu được tác giả sử dụng

trong toàn bộ 03 chương của luận văn nhằm làm rõ các đặc điểm, sự khác

nhau qua các thời kỳ của loại tội phạm từ đó đánh giá những hạn chế, thiếu

sót khi điều tra, truy tố và xét xử loại tội phạm này tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp một phần hoàn thiện về mặt lý

luận đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong

khoa học luật hình sự Việt Nam. Cụ thể đã làm rõ các vấn đề chung về tội này

trong luật hình sự Việt Nam, phân tích khái quát sự hình thành và phát triển

của luật hình sự của nước ta về loại tội phạm này từ năm 1945 đến nay; làm

sáng tỏ các quy định của Bộ luật hính sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm

2017; phân tích thông qua thực tiễn khởi tố, điều tra, xét xử trên địa bàn tỉnh

Bắc Ninh từ năm 2014 đến năm 2018, qua đó chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập

của quy định hiện hành, từ đó đưa ra nguyên nhân và tìm giải pháp khắc phục,

nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ ở khía cạnh lập pháp và thực tiễn

áp dụng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Ngoài ý nghĩa về mặt lý luận, luận văn còn có thể được sử dụng làm tài

liệu nghiên cứu, tham khảo, học tập. Một số đề xuất, kiến nghị của luận văn

có thể cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ công tác lập pháp và hoạt

động thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến tội phạm vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, qua đó góp phần nâng cao

hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh

Bắc Ninh nói riêng và toàn quốc nói chung.

6

7. Kết cấu của luận văn

- Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ theo Luật hình sự Việt Nam

- Chương 2: Thực tiễn áp dụng hình phạt về tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh

- Chương 3: Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự về

tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

7

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái niệm, dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ

1.1.1 Khái niệm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

Khái niệm tội phạm được Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung

năm 2017 (gọi tắt là BLHS 2015) quy định:

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật

Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương

mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống

nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế,

nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp

pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của

công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ

nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự. [3, Điều 8],

Theo quy định của BLHS năm 2015, thì khái niệm của các loại tội

phạm cụ thể được quy định trong các điều luật phần các tội phạm cụ thể, bằng

mô tả các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội phạm đó là tính nguy hiểm

cho xã hội và tính có lỗi. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015 được hiểu là: Việc một người có

hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ (người này có thể

điều khiển hoặc sử dụng phương tiện giao thông đường bộ hoặc người này

dẫn dắt súc vật hoặc người này thực hiện hành vi đi bộ tham gia giao thông

đường bộ) gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho

sức khoẻ, tài sản của người khác, và được thực hiện với lỗi vô ý.

Dưới góc độ Luật hình sự, nhiều tác giả đã đưa ra các khái niệm về tội

vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như:

8

Theo tác giả Đinh Văn Quế thì “Vi phạm quy định về điều khiển

phương tiện giao thông đường bộ là hành vi vi phạm quy định về an toàn giao

thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng

cho sức khỏe, tài sản của người khác” [38, tr.13]. Quan điểm này mới chỉ nêu

định nghĩa hành vi chứ chưa làm rõ khái niệm tội vi phạm quy định về điều

khiển phương tiện giao thông đường bộ, hơn nữa, hành vi phạm tội khác tội

phạm, vì khái niệm tội phạm đòi hỏi phải đầy đủ như khái niệm trong Điều 8

Bộ luật hình sự năm 2015 hiện hành.

Còn tác giả Trần Minh Hưởng lại cho rằng “Tội vi phạm quy định về

điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là hành vi xâm phạm những quy

định của Nhà nước về an toàn giao thông đường bộ”[39, tr.434]. Chúng tôi

cho rằng, quan điểm này khá chung chung, chưa đầy đủ và chưa nêu cụ thể

hành vi phạm tội và dấu hiệu chủ thể của tội phạm này.

Tác giả Ngô Ngọc Thủy đưa ra quan điểm cụ thể hóa về hành vi phạm

tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ như:

“Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ( đây là

cách giải thích theo quy định tại Điều 202 BLHS năm 1999), tức là hành vi

của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nhưng mà vi phạm

quy định về an toàn giao thông đường bộ sau đó gây thiệt hại nghiêm trọng

cho sức khỏe, tài sản của người khác hoặc gây thiệt hại cho tính mạng người

khác”.

Theo tác giả Nguyễn Hồng Phong đưa ra khái niệm về tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ “là hành vi của người tham gia giao

thông đường bộ có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm

hình sự mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ, do lỗi vô ý gây

thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác hoặc gây thiệt

hại cho tính mạng người khác” [24, tr10,11].

9

Về các khái niệm nêu trên, tác giả đồng ý với khái niệm mà tác giả

Nguyễn Hồng Phong đã đưa ra vì khái niệm này đã nêu cơ bản đầy đủ các dấu

hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Do đó, tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ được

hiểu là hành vi của người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách

nhiệm hình sự, người này tham gia giao thông đường bộ nhưng không thực

hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các quy định, quy tắc đảm bảo

an toàn giao thông đường bộ như vi phạm Luật giao thông đường bộ, các bộ

quy tắc khi tham gia giao thông.

1.1.2 Đặc điểm của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ

Những đặc điểm, dấu hiệu của các tội vi phạm an toàn giao thông

đường bộ là cơ sở xem xét, xác định hành vi phạm tội của chủ thế. Các dấu

hiệu này bao gồm hành vi nguy hiểm cho xã hội; được BLHS quy định; do

chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện; tính có lỗi; xâm hại đến

trật tự an toàn giao thông đường bộ; tính phải chịu hình phạt tương ứng.

i) Đặc điểm thứ nhất là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. Hành vi của

tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trước hết phải là hành

vi nguy hiểm cho xã hội, tức là phải thể hiện bằng hành vi xác định của con

người. Hành vi đó xâm hại đến các quan hệ xã hội được BLHS bảo vệ. Hành

vi nguy hiểm cho xã hội của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ là hành vi vi phạm các quy tắc an toàn, luật giao thông đường bộ và

hành vi này gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác, của

tổ chức, Nhà nước và được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành

động.

ii) Đặc điểm thứ hai là hành vi vi phạm phải được BLHS quy định

10

Theo quy định của Điều 2 BLHS năm 2015 quy định về cơ sở của trách

nhiệm hình sự: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy

định mới phải chịu trách nhiệm hình sự". [3, Điều 2]

Nếu hành vi của chủ thề không cấu thành các tội được quy định trong

BLHS thì không bị coi là tội phạm và không phải chịu hình phạt trong BLHS,

trong trường hợp này là tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015.

iii) Đặc điểm thứ ba là do chủ thế có năng lực trách nhiệm hình sự và

đạt đủ độ tuổi theo quy định của BLHS thực hiện:

Người có năng lực trách nhiệm hình sự phải đạt độ tuổi theo quy định

của BLHS và có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình;

- Về độ tuổi: Theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015 về tuổi chịu

trách nhiệm hình sự:

“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi

tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự

về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại

một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170,

171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299,

303 và 304 của Bộ luật này”. [3, Điều 12]

- Về khả năng nhận thức và điểu khiển hành vi của chủ thể: BLHS năm

2015 dùng phưong pháp loại trừ khi quy định các trường hợp không có năng

lực trách nhiệm hình sự: Điều 21 BLHS năm 2015 quy định “Người thực hiện

hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh

khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của

mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”. [3, Điều 21]

iv) Đặc điểm thứ tư là hành vi phạm tội phải có lỗi của chủ thể

11

Lỗi của chủ thể thực hiện tội phạm xâm hại đến trật tự, an toàn giao

thông đường bộ thể hiện: Lỗi cố ý và lỗi vô ý. Các lỗi được thế hiện bằng

hành vi của chủ thế như sau:

Cố ý phạm tội là thực hiện hành vi phạm tội trong những trường hợp

sau:

1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã

hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;

2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã

hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn

nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. [3, Điều 10]

Vô ý phạm tội là thực hiện hành vi phạm tội trong những trường hợp

sau:

1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu

quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có

thể ngăn ngừa được;

2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra

hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu

quả đó. [3, Điều 11]

Đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, dấu

hiệu lỗi là lỗi vô ý.

v) Đặc điếm thứ năm là xâm hại đến trật tự an toàn giao thông đường

bộ

Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là những hành

vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, xâm hại đến trật tự an

toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản

của công dân, tổ chức hoặc Nhà nước.

vi) Đặc điểm thứ sáu là tính phải chịu hình phạt của tội phạm:

12

Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước áp

dụng đối với người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước

bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó.

Mục dích của hình phạt được thể hiện: “Hình phạt không chỉ nhằm

trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức

tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội

mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng

ngừa và đấu tranh chống tội phạm”. [3, Điều 31]

Trên cơ sở xác định tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của

chủ thế và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thì hình phạt

do Tòa án quyết định đối với chủ thế thực hiện hành vi phạm tội.

1.1.3 Các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ

Nói đến dấu hiệu pháp lý của một tội phạm tức là ta nói về các dấu hiệu,

đặc điểm của loại tội phạm đó bao gồm có khách thể của tội phạm (là đối

tượng bị xâm hại), chủ thể của tội phạm (là người thực hiện hành vi nguy

hiểm cho xã hội), mặt chủ quan của tội phạm (bao gồm các dấu hiệu như lỗi,

động cơ, mục đích,…), mặt khách quan của tội phạm (bao gồm có hành vi

nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, hậu quả của tội phạm, mối quan hệ nhân

quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả, công cụ phương tiện,

phương pháp, thủ đoạn, hoàn cảnh, địa điểm phạm tội).

- Thứ nhất về khách thể của tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ: Là quy định của Nhà nước về an toàn giao thông đường bộ,

đó là những quy định nhằm đảm bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe của công

dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của các tổ chức và tài sản của công dân

trong hoạt động tham gia giao thông đường bộ. Hành vi vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ là hành vi của chủ thể tham gia giao thông

13

đường bộ, hành vi này gây nguy hiểm cho xã hội, gây thiệt hại cho tính mạng,

sức khoẻ, tài sản của người khác. Chỉ những hành vi vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại

nghiêm trọng cho sức khoẻ (ví dụ như gây tổn thương cơ thể do thương tích

gây nên của 01 người từ 61% trở lên,…), tài sản (gây thiệt hại từ 100.000.000

đồng trở lên) của người khác hoặc hành vi tham gia giao thông đường bộ có

khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn

chặn kịp thời mới bị coi là phạm tội hình sự. Đối với những hành vi vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ khác mà tính chất nguy hiểm

không đáng kể hoặc gây thiệt hại cho người khác nhỏ (ví dụ gây tổn thương

cơ thể do thương tích gây nên dưới 61%,…) thì bị xử phạt vi phạm hành

chính.

- Thứ hai về mặt khách quan của tội phạm vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ: Mặt khách quan của tội phạm bao gồm hành vi khách

quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giũa hành vi và

công cụ phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, hoàn cảnh, không gian, thời

gian, địa điểm phạm tội.

+ Hành vi khách quan: Người phạm tội có hành vi vi phạm các quy định

về tham gia giao thông đường bộ, cụ thể: Đi quá tốc độ, chở quá trọng tải quy

định, tránh, vượt trái phép; đi không đúng tuyến đường, phần đường; vi phạm

các quy định khác về an toàn giao thông đường bộ như chuyên chở người,

hàng không đúng số lượng, trọng tải quy định;....

+ Hậu quả: Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là tội

phạm có cấu thành vật chất. Do đó, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc đối với tội

này. Nếu hành vi vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ chưa

gây ra hậu quả nghiêm trọng như: Làm chết người hoặc gây gây thương tích

14

cho 01 người từ 61% trở lên, hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000

đồng trở lên,… thì không cấu thành tội phạm, trừ trường hợp quy định tại

khoản 4 Điều 260 Bộ luật Hình sự. Trên thực tế, hành vi vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ gây tai nạn giao thông dẫn đến chết người, thiệt

hại về tài sản rất nhiều.

+ Mối quan hệ nhân quả: Hành vi vi phạm các quy định về tham gia giao

thông đường bộ là nguyên nhân dẫn đến hậu quả (tai nạn giao thông) gây thiệt

hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng của người khác. Trường hợp thiệt hại về

tài sản, sức khỏe, tính mạng của người khác không phải do hành vi vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ gây ra thì không cấu thành tội này.

+ Các dấu hiệu khách quan khác: Loại phương tiện giao thông đường bộ;

địa điểm,… Do đó, việc xác định các dấu hiệu khách quan này là rất quan

trọng, để phân biệt giữa tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ với các tội khác. Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Giao thông đường

bộ thì “Đường bộ gồm đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường

bộ”. Phương tiện tham gia giao thông đường bộ bao gồm phương tiện giao

thông đường bộ và xe máy chuyên dùng [16.Điều 3]. Trong đó phương tiện

giao thông đường bộ được quy định tại gồm “phương tiện giao thông cơ giới

đường bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ” [16.Điều 3]. Phương tiện

giao thông cơ giới đường bộ (gọi là xe cơ giới) gồm xe ô tô; máy kéo; rơ

moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh;

xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự.

Phương tiện giao thông thô sơ đường bộ (sau đây gọi là xe thô sơ) gồm xe

đạp (kể cả xe đạp máy), xe xích lô, xe lăn dùng cho người khuyết tật, xe súc

vật kéo và các loại xe tương tự. Xe máy chuyên dùng quy định tại khoản 20

Điều 3 Luật giao thông đường bộ gồm xe máy thi công, xe máy nông nghiệp,

15

lâm nghiệp và các loại xe đặc chủng khác sử dụng vào mục đích quốc phòng,

an ninh có tham gia giao thông đường bộ.

- Thứ ba về chủ thể của tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ: Theo quy định tại Điều 8 BLHS năm 2015 thì chủ thể của

tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Trong các quy định của

BLHS năm 2015 không có quy định cụ thể nào về khái niệm năng lực trách

nhiệm hình sự, tuy nhiên qua các điều cụ thể của BLHS có thể hiểu “Năng

lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội

có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của

mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy, đạt độ tuổi chịu trách nhiệm

hình sự”.

Theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015 thì: “1. Người từ đủ 16 tuổi

trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà

Bộ luật này có quy định khác.

2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về

tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một

trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171,

173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và

304 của Bộ luật này.” [3, Điều 12]

Như vậy, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách

nhiệm hình sự về tội phạm này. Người từ đủ 16 tuổi trở lên là chủ thể của tội

vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Điểm đặc biệt đối với chủ thể của tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ là người phạm tội có hành vi phạm tội khi đang tham gia giao

thông đường bộ bao gồm người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham

16

gia giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên

đường bộ.

- Thứ tư về mặt chủ quan của tội phạm vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ: Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội

phạm bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội.

+ Đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ thì lỗi

của người phạm tội là lỗi vô ý. Theo quy định tại Điều 11 BLHS thì vô ý

phạm tội được hiểu như sau: “Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường

hợp sau đây: 1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra

hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra

hoặc có thể ngăn ngừa được; 2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của

mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có

thể thấy trước hậu quả đó.” [3, Điều 11]

+ Động cơ là động lực thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm

tội. Mục đích phạm tội là cái mốc mà người phạm tội đặt ra mong muốn đạt

được khi thực hiện tội phạm. Giữa mục đích phạm tội và hậu quả của tội

phạm luôn có mối liên quan chặt chẽ với nhau, hậu quả của tội phạm là sự thể

hiện, sự phản ánh mục đích phạm tội. Tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ dấu hiệu động cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu

bắt buộc xuất phát từ yếu tố lỗi của loại tội phạm này.

1.2 Quy định pháp luật hiện hành về tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ

Kể từ ngày 01/01/2018, BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có

hiệu lực thi hành, tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông

được sửa đổi thành tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

17

quy định tại Điều 260 của BLHS. Theo quy định tại Điều 260 BLHS năm

2015:

“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về

an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong

các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000

đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm

đến 05 năm:

a) Làm chết người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ

lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên

mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000

đồng.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù

từ 03 năm đến 10 năm:

a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;

b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có

nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích

thích mạnh khác;

c) Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người

bị nạn;

d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn

giao thông;

đ) Làm chết 02 người;

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên

mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;

18

g) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000

đồng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù

từ 07 năm đến 15 năm:

a) Làm chết 03 người trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên

mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;

c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

4. Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong trường

hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b

và c khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ

10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ

đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành

nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”. [3, Điều 260]

Theo như các quy định nêu trên của Điều 260 BLHS năm 2015 thì Tội

vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ được xây dựng với kết

cấu gồm 05 khung hình phạt. Trong đó khung hình phạt cơ bản thuộc khoản 1

có 04 điểm (tình tiết), khoản 2 có 07 điểm, là khung hình phạt tăng nặng và

khoản 3 có 04 điểm là khung hình phạt nặng nhất, khung hình phạt dành cho

trường hợp phạm tội chưa đạt thuộc khoản 4 và khung hình phạt quy định về

áp dụng biện pháp tư pháp ở khoản 5. Như vậy, theo quy định tại các khoản

của Điều 260 BLHS năm 2015 thì tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ vừa có cấu thành vật chất (từ khoản 1 đến khoản 3), vừa có

cấu thành hình thức (khoản 4), cụ thể như sau:

19

- Khoản 1: Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt

cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối

với các trường hợp:

+ Làm chết người;

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ

tổn thương cơ thể 61% trở lên;

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên

mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

+ Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000

đồng.

- Khoản 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm đối với các trường hợp:

+ Không có giấy phép lái xe theo quy định;

+ Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có

nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích

thích mạnh khác;

+ Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị

nạn;

+ Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn

giao thông;

+ Làm chết 02 người;

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên

mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;

+ Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000

đồng.

- Khoản 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm đối với các trường hợp:

+ Làm chết 03 người trở lên;

20

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên

mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;

+ Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

- Khoản 4: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải

tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm trong

trường hợp người vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có khả

năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản

3 Điều 260 nếu không được ngăn chặn kịp thời. Tùy vào hành vi, hậu quả của

tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để xác định mức hình phạt mà tội

phạm phải chịu.

Ngoài ra, theo quy định tại khoản 5 Điều 260 BLHS, ngoài hình phạt

chính ra người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bao gồm:

Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01

năm đến 05 năm.

Tuy nhiên, theo quy định tại điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 được

sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì người từ đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách

nhiệm hình sự về mọi tội phạm trong đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội

vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ; người từ đủ 14 tuổi đến

dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này.

1.3 Khái quát lịch sử Luật hình sự Việt Nam quy định về tội vi phạm

quy định về tham giao thông đường bộ

1.3.1 Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi

pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự năm 1985

Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời sau khi cách mạng tháng

8 năm 1945 thành công. Để bảo vệ thành quả cách mạnh, ngay sau khi giành

được chính quyền về tay nhân dân, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn

bản pháp luật hình sự quy định các tội chống chính quyền dân chủ nhân dân.

21

Tuy nhiên, các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ chưa được quy

định trong các vãn bản pháp luật hình sự trong thời kỳ này.

Ngày 03/10/1955, Bộ Giao thông Bưu điện ban hành Nghị định số

348/NĐ ban hành Luật đi đường bộ. Đây là văn bàn pháp lý đầu tiên của Nhà

nước ta quy định về an toàn giao thông đường bộ.

Luật đi đường bộ 1955 quy định:

Điều 1: Mục đích- Bản luật đi đường bộ này áp dụng cho người, súc

vật, xe cộ đi trên các đuờng công cộng và nhằm: a) Đảm bảo an toàn cho nhân

dân đi lại và vận chuyên trên các đường giao thông và trong các đường phố;

b) Đảm bảo an toàn cho nhân dân ở ven đường giao thông cũng như ở trong

những thành phố hay thị trấn; c) Giữ gìn trật tự giao thông làm cho sự đi lại

và vận chuyển được dễ dàng thuận tiện, d) Bảo vệ đường sá, cầu, cống, phà,

biển báo hiệu và các công trình giao thông khác xây dựng trên đuờng. [6,

Điều 1]

Tại Thông tư số 442/TTg ngày 19/01/1955 của Thủ tướng Chính phủ

đã ban hành một số quy định về trừng trị một số tội phạm, trong đó có quy

định tội hình sự liên quan đến giao thông đường bộ tại điểm 4 của thông tư:

“Không cẩn thận hay không theo luật đi đường mà làm người khác bị thương

sẽ bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm. Nếu gây tai nạn làm chết người thì có

thế bị phạt tù đến mười năm” [4. Điểm 4]. Tuy nhiên, qua quá trinh thực hiện,

nhiều vấn đề của Thông tư 442 không còn phù hợp, như mức hình phạt tù tối

đa khi gây tai nạn chết người chỉ là “mười năm” và không quy định trường

hợp gây tai nạn làm chết nhiều người, không quy định về thiệt hại vật chất do

hành vi phạm tội gây ra.

Vì vậy, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Thông tư 556/TTg, ngày

29/6/1956 về việc bổ khuyết Thông tư số 442/TTg ngày 19/01/1955. Theo đó,

sửa đổi Điều 4 cho phù hợp với thực tế đời sống: Không cẩn thận hay không

22

theo luật đi đường mà gây tai nạn làm người khác bị thương thì sẽ bị phạt tù

từ 3 tháng đến 3 năm. Nếu gây tai nạn làm chết người thì có thể bị phạt tù

đến 10 năm. Trường hợp gây ra tai nạn lớn làm chết nhiều người và thiệt hại

lớn đến tài sản của nhân dân thì có thế bị phạt đến tù chung thân hoặc từ

hình. [9, Điều 4]

Sau đó, các văn bản pháp lý khác về an toàn giao thông đã ra đời nhằm

Điều chỉnh các hoạt động giao thông vận tải như: Nghị định số 139/NĐ ngày

19/12/1956; Nghị định số 44/NĐ ngày 27/5/1958 của Bộ Giao thông Bưu

điện; Nghị định Liên bộ Giao thông Bưu điện - Công an số 09/NĐLB ngày

07/3/1956 ban hành thể lệ tạm thời về vận tải đường bộ; Nghi định số 10 ngày

11/01/1968 của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ về kỷ luật an toàn giao

thông vận tải trong thời chiến. Các văn bản được ban hành nói trên đã tạo cơ

sở pháp lý cho sự hình thành và phát triển các quy phạm pháp luật hình sự

quy định các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ.

Việc xử lý hành vi phạm tội vi phạm các quy định về điều khiển

phương tiện giao thông đường bộ được thực hiện theo quy định tại Bản sơ kết

kinh nghiệm về đường lối xử lý tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn

(Công văn số 949 -NCPL ngày 25/11/1968 của Toà án nhân dân tối cao).

Đến năm 1976, Chính phủ ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày

15/3/1976 quy định tội phạm và hình phạt đối với hành vi xâm phạm trật tự

công cộng, an toàn công cộng và sức khoẻ của nhân dân.

1.3.2 Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước

khi pháp điển hóa lần thứ ba - Bộ luật hình sự năm 2015

Năm 1985, BLHS đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam ra đời và có hiệu lực thi hành kề từ ngày 01/01/1986. Tại Điều 186

BLHS năm 1985, tội phạm được quy định với tên tội danh là: “Tội vi phạm

các quy định về an toàn giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng”. Đến

23

năm 1991, thì Điều luật này được sửa đổi bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung

một số điều của BLHS năm 1985. Tên tội danh được sửa thành “Tội vi phạm

các quy định về an toàn giao thông vận tải”, riêng nội dung của tội phạm vẫn

được giữ nguyên.

Ngày 22/12/1999, tại kỳ họp thứ 6 khóa X Quốc hội nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua BLHS (sửa đổi, bổ sung) có hiệu lực từ

ngày 01/7/2000, mà theo đó, tên tội danh và nội dung tội phạm trước đây

được quy định tại Điều 186 BLHS năm 1985 đã có sự thay đổi cơ bản và

được quy định tại Điều 202 BLHS năm 1999.

Tại Điều 202 BLHS năm 1999 có quy định:

“1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi

phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng

hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị

phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ

đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

ba năm đến mười năm:

a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;

c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không

cứu giúp người bị nạn;

d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển

hoặc hướng dẫn giao thông;

đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy

năm đến mười lăm năm.

24

4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng

thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp

thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng

đến hai năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành

nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.” [2, Điều 202]

Các dấu hiệu pháp lý của tội phạm này

- Khách thể của tội phạm là sự an toàn của hoạt động giao thông

đường bộ và sự an toàn về tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người khác.

- Mặt khách quan của tội phạm vi phạm quy định về điều khiển

phương tiện giao thông đường bộ bao gồm các yếu tố: Hành vi khách quan;

hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và

hậu quả.

Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi vi phạm quy định về

điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Bao gồm các hành vi như không

chấp hành báo hiệu đường bộ; tốc độ và khoảng cách giữa các phương tiện

tham gia giao thông; sử dụng làn đường; vượt xe, chuyển hướng xe; lùi xe;

tránh xe đi ngược chiều; dừng, đỗ xe trên đường (trong và ngoài đô thị); điều

khiển phương tiện giao thông đường bộ qua cầu, phà, trong hầm đường bộ và

tại các nơi đường giao cắt; tải trọng và khổ giới hạn của đường bộ; xe kéo xe

và xe kéo rơ moóc;

Người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy; người điều

khiển và người ngồi trên xe đạp, người điều khiển xe thô sơ khác; người đi

bộ; người điều khiển, dẫn dắt sức vật đi trên đường bộ;

Tổ chức các hoat động khác trên đường bộ như tổ chức hoạt động văn

hoá, thể thao, diễu hành, lễ hội ...

25

Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ đối với tội phạm

này phải là người trực tiếp điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường

bộ và xe máy chuyên dùng. Để truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện

hành vi vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường

bộ theo quy định tại Điều 202 BLHS cần xác định những quy định cụ thể nào

về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong Luật giao thông đường

bộ bị vi phạm.

Hậu quả của hành vi phạm tội: Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc, trong

trường hợp này hậu quả là thiệt hại về tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm

trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác. Theo hướng dẫn tại Điều 2 Thông

tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày

28/8/2013 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân

dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao (gọi tắt Thông tư liên tịch

09/2013/TTLT) hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIX của

BLHS về các tội xâm phạm trật tự, an toàn giao thông, thì:

+ Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức

khỏe, tài sản của người khác hoặc gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại

khoản 1 Điều 202 BLHS là thuộc một trong các trường hợp sau đây:

“a) Làm chết một người;

b) Gây tổn hại cho sức khỏe của một đến hai người với tỷ lệ thương tật

của mỗi người từ 31% trở lên;

c) Gây tổn hại cho sức khỏe của từ hai người trở lên với tỷ lệ thương

tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những

người này từ 41% đến 100%;

d) Gây tổn hại cho sức khỏe của một người với tỷ lệ thương tật từ 21%

đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến

dưới bảy mươi triệu đồng;

26

đ) Gây tổn hại cho sức khỏe của từ hai người trở lên với tỷ lệ thương

tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những

người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản với giá trị từ năm

mươi triệu đồng đến dưới bảy mươi triệu đồng;

e) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ bảy mươi triệu đồng đến dưới

năm trăm triệu đồng”. [2, Điều 202]

+ Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại rất nghiêm trọng cho

sức khỏe, tài sản của người khác hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng quy định

tại khoản 2 Điều 202 BLHS là thuộc một trong các trường hợp sau đây:

“a) Làm chết hai người;

b) Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường

hợp hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e khoản 1 Điều này;

c) Gây tổn hại cho sức khỏe của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật

của mỗi người từ 31% trở lên;

d) Gây tổn hại cho sức khỏe của từ hai người trở lên với tổng tỷ lệ

thương tật của tất cả những người này là từ trên 100% đến 200%;

đ) Gây tổn hại cho sức khỏe của một hoặc hai người với tỷ lệ thương

tật của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây hậu quả thuộc một trong các

trường hợp hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e khoản 1 Điều này;

e) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới

một tỷ năm trăm triệu đồng”. [2, Điều 202]

+ Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng

cho sức khỏe, tài sản của người khác hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm

trọng quy định tại khoản 3 Điều 202 BLHS là thuộc một trong các trường hợp

sau đây:

“a) Làm chết từ ba người trở lên;

27

b) Làm chết hai người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường

hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e khoản 1 Điều này;

c) Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường

hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e khoản 2 Điều này;

d) Gây tổn hại cho sức khỏe của từ năm người trở lên với tỷ lệ thương

tật của mỗi người từ 31% trở lên;

đ) Gây tổn hại cho sức khỏe của từ hai người trở lên với tổng tỷ lệ

thương tật của những người này trên 200%;

e) Gây tổn hại cho sức khỏe của ba hoặc bốn người với tỷ lệ thương tật

của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm

trăm triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng;

g) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở

lên”. [2, Điều 202]

Gữa hành vi vi phạm của người điều khiển phương tiện giao thông

đường bộ và hậu quả xảy ra phải có mối quan hệ nhân quả, nghĩa là, hành vi

vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ phải xảy ra

trước và là nguyên nhân chính dẫn đến hậu quả là thiệt hại về tính mạng hoặc

thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác.

Tội phạm hoàn thành từ thời điểm xảy ra thiệt hại về tính mạng, thiệt

hại nghiêm cho về sức khoẻ, tài sản của người khác.

- Về mặt chủ quan của tội phạm, tội vi phạm quy định về điều khiển

phương tiện giao thông đường bộ được thực hiện do lỗi vô ý do tự tin hoặc do

cẩu thả.

- Chủ thể của tội phạm. Theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 1999,

thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm;

người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình

28

sự về về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm

trọng.

Chủ thể của tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông

đường bộ là người từ đủ 16 tuổi trở lên có đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự là người có đủ khả năng

nhận thức được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình

thực hiện, có khả năng điều khiển hành vi theo hướng có lợi hay không có lợi

cho xã hội, hoặc có khả năng xử sự khác không gây nguy hiểm cho xã hội. Để

kết luận một nguời có đủ năng lực trách nhiệm hình sự phải căn cứ quy định

tại Điều 13 BLHS năm 1999, theo quy định tại Điều luật này, những người

không đủ năng lực trách nhiệm hình sự là: "Người thực hiện hành vi nguy

hiểm trong xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm

mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình" [2, Điều

13]. Như vậy, người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quy

định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là người có khả năng

nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm

và có khả năng điều khiển hành vi của mình.

Như vậy, so với Điều 186 BLHS năm 1985, thì Điều 202 BLHS năm

1999 có một số ưu điểm sau:

Một là, với sự thay đổi tên tội danh, thì đối tượng tác động của tội

phạm chỉ là người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.

Hai là, thiệt hại được quy định tại khoản 1 Điều 202 BLHS năm 1999

có sự thay đổi về cách thức và dấu hiệu cấu thành, cụ thể: “thiệt hại cho tính

mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác”

thay cho quy định “thiệt hại cho tính mạng, cho sức khoẻ của người khác

hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản” tại khoản 1 Điều 186 BLHS năm

1985.

29

Ba là, tại khoản 2 Điều 202 BLHS bổ sung thêm hai tình tiết tăng nặng

định khung hình phạt là: “không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm

nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông” và “gây hậu quả rất nghiêm

trọng.”

Bốn là, về hình phạt chính cao nhất có thể áp dụng đối với người phạm

tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ được

quy định tại khoản 3 Điều 202 BLHS năm 1999 “phạt tù từ bảy năm đến

mười lăm năm” thay cho quy định tại khoản 3 Điều 186 BLHS năm 1985

“phạt tù từ bảy năm đến hai mươi năm”. Hình phạt chính quy định tại khoản 4

Điều 202 BLHS có mức hình phạt nhẹ hơn khoản 4 Điều 186 BLHS năm

1985, cụ thể khoản 4 Điều 202 BLHS năm 1999 là “phạt cải tạo không giam

giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”, khoản 4 Điều 186

BLHS năm 1985 là “cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ

ba tháng đến ba năm”

Năm là, hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 202 BLHS

năm 1999 độc lập với các khung hình phạt chính.

Như vậy, tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông

đường bộ quy định tại Điều 202 BLHS năm 1999 là tội nhẹ hơn tội vi phạm

các quy định về an toàn giao thông vận tải quy định tại Điều 186 BLHS năm

1985. Bởi vì, mức hình phạt tại khoản 3 Điều 202 BLHS thấp hơn khoản 3

Điều 186 BLHS năm 1985.

Tuy nhiên, về tên tội danh Điều 202 BLHS năm 1999 quy định “Tội vi

phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” không khái

quát được hết các chủ thể khi tham gia giao thông đường bộ, mà trên thực tế

các chủ thể này khi tham gia giao thông đường bộ khi không tuân thủ các quy

định của Luật giao thông đường bộ, quy tắc an toàn khi tham gia giao thông

đường bộ cũng có thể dẫn đến những tình huống nguy hiểm gây thiệt hại về

30

tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác như người điều khiển phương

tiện là xe máy chuyên dụng, như: Ô tô chữa cháy; ô tô quét đường; ô tô hút

chất thải; ô tô trộn vữa; ô tô trộn bê tông; ô tô bơm bê tông; ô tô cần cẩu; ô tô

thang; ô tô khoan; ô tô cứu hộ giao thông; ô tô chuyên dùng loại khác như ô

tô truyền hình lưu động, ô tô đo sóng truyền hình lưu động, ô tô kiểm tra và

bảo dưỡng cầu, ô tô kiểm tra cáp điện ngầm, ô tô chụp X-quang, ô tô phẫu

thuật lưu động gây ra hậu quả nghiêm trọng hay là người đi bộ.

Do đó việc sửa đổi, bổ sung Điều 202 BLHS năm 1999 thành tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định tại Điều 260

BLHS năm 2015 là phù hợp với thực tiễn việc tham gia giao thông tại Việt

Nam hiện nay.

31

Tiểu kết chương 1

Chương một, tác giả đã tập trung phân tích làm rõ những vấn đề lý luận

và các dấu hiệu pháp lý của Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015 và quá trình lịch sử hình

thành tội danh, làm tiền đề cho việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật

hình sự thông qua định tội danh và quyết định hình phạt ở chương tiếp theo.

Vì vậy những vấn đề đã phân tích về mặt lý luận tại chương một sẽ là cơ sở

cho nền tảng pháp lý được tác giả đưa vào chương hai nhằm phân tích rõ việc

định tội danh và quyết định hình phạt của TAND hai cấp tỉnh bắc Ninh và

đưa ra những kiến nghị, đề xuất giúp cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật

hình sự Việt Nam và nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc về tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại chương ba.

32

Chương 2

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM QUY

ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI ĐỊA BÀN TỈNH

BẮC NINH

2.1. Khái quát tình hình xét xử tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ tại tỉnh Bắc Ninh

Bắc Ninh là tỉnh có diện tích nhỏ nhất Việt Nam (tổng diện tích là

822,71km2), thuộc Đồng bằng sông Hồng và nằm trong Vùng kinh tế trọng

điểm Bắc bộ, Việt Nam. Năm 2018, Bắc Ninh là đơn vị hành chính Việt

Nam đông thứ 30 về số dân, xếp thứ sáu về Tổng sản phẩm trên địa bàn

(GRDP), xếp thứ hai về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ bảy về tốc độ

tăng trưởng GRDP. Với 1.247.500 người dân (tính đến 01/4/2019 là

1.368.840 người, mật độ 1.664 người/km2), GRDP đạt 187.200

tỉ Đồng (tương ứng với 8,1303 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 150,1

triệu đồng (tương ứng với 6.519 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 10,60%.

Bắc Ninh là tỉnh thuộc khu vực đồng bằng Sông Hồng tiếp giáp với vùng

trung du Bắc bộ và nằm trong khu vực tam giác kính tế Hà Nội - Hải Phòng -

Quảng Ninh, ngoài ra còn có những tuyến đường huyết mạch nối với các cửa

khẩu như Đồng Đăng - Lạng Sơn.

Cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội, tỉnh Bắc Ninh cũng đối diện

với sự gia tăng về tình hình tội phạm, trong đó có tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ. Những năm qua, Đảng bộ và chính quyền tỉnh

33

Bắc Ninh đã có nhiều biện pháp tích cực để làm giảm thiểu cá vụ tai nạn giao

thông do đó tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong

những năm qua đã được giảm thiểu và có nhiều chuyển biến tích cực. Theo số

liệu của Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh về tình hình tội

phạm vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ cụ thể như sau:

Bảng 2.1 Số vụ án và số bị cáo phạm tội vi phạm các quy định về điều

khiển phương tiện giao thông đường bộ, tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ và tổng số vụ án và bị cáo bị đưa ra xét xử từ năm 2014

đến năm 2018

Tội vi phạm quy định

về điều khiển phương tiện

tham gia giao thông đường Các loại tội phạm khác bộ và vi phạm quy định về Năm

tham gia giao thông đường

bộ

Bị cáo Vụ Vụ Bị cáo

40 2014 1503 2425 40

42 2015 1486 2416 42

43 2016 954 1868 43

47 2017 916 1838 47

36 2018 988 2408 36

Tổng 5847 10955 208 208

Nguồn: Văn phòng Viện kiểm sát tỉnh Bắc Ninh

Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh từ

năm 2014 đến năm 2018, TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã xét xử tổng số

208 vụ với 208 bị cáo phạm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ. Trung bình mỗi năm xét xử từ 41 đến 42 vụ với 41 đến 42 bị

34

cáo, cụ thể là:

Bảng 2.2 Thống kê các vụ án và bị cáo bị xét xử về tội vi phạm quy

định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong 05 năm (2014 -

2018) trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện Năm giao thông đường bộ (Điều 202 BLHS năm 1999)

Vụ Bị cáo

2014 40 40

2015 42 42

2016 43 43

2017 47 47

2018 15 15

Tổng 187 187

Nguồn: Văn phòng Viện kiểm sát tỉnh Bắc Ninh

Bảng 2.3 Thống kê các vụ án và bị cáo bị xét xử về tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015

trong năm 2018 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

(Điều 202 BLHS năm 1999) Năm

Vụ Bị cáo

2018 21 21

2019 45 45

Tổng 66 66

Nguồn: Văn phòng Viện kiểm sát tỉnh Bắc Ninh

Số lượng vụ án và số luợng bị cáo được Tòa án đưa ra xét xử về tội Vi

35

phạm quy định về điều khiển phưong tiện giao thông đường bộ cao nhất là

năm 2017 với 47 vụ án và 47 bị cáo bị đưa ra xét xử về hình sự. Các năm còn

lại có số luợng vụ án và bị cáo bị đưa ra xét xử là ngang nhau, trong đó năm

2018 có số vụ án và bị cáo đưa ra xét xử là thấp nhất về tội Vi phạm quy định

về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo Điều 202 BLHS năm

1999 là 15 vụ/15 bị cáo (đây là những vụ án và bị cáo bị khởi tố, điều tra về

tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trước

thời điểm BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành)

và tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ quy định tại Điều

260 BLHS năm 2015 là 21 vụ/ 21 bị cáo. Tổng số vụ án và tổng số bị cáo bị

đưa ra xét xử về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tập

trung chủ yếu ở cấp huyện với 205 vụ/205 bị cáo, chiếm 98,56% số lượng vụ

án và người phạm tội bị đưa ra xét xử. Cấp tỉnh chỉ xét xử tội Vi phạm quy

định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong năm 2016 có 01

vụ/ 01 bị cáo và năm 2017 có 02 vụ/02 bị cáo bị đưa ra xét xử chiếm 1,44%

số lượng vụ án và người phạm tội.

Để góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ, trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018,

nhìn chung TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện tương đối tốt hoạt

động áp dụng pháp luật hình sự đối với tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ.

2.2. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ của Tòa án tại tỉnh Bắc Ninh

2.2.1 Những kết quả đạt được trong định tội danh tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh

Thực tiễn việc định tội danh vi phạm quy định về tham gia giao thông

36

đường bộ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cũng như những tỉnh thành, địa phương khác

đều dựa trên cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn.

Cơ sở lý luận: Việc định tội danh tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ dựa vào khoa học định tội danh và khoa học luật hình

sự, trong đó lý luận về các yếu tố cấu thành tội phạm là cơ sở đặc biệt quan

trọng.

Cơ sở pháp lý: Việc xác định một người có phạm tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ hay không thì người này phải thực

hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi này phải được quy định trong

BLHS, Luật giao thông đường bộ, Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán

TANDTC và các văn bản khác như các Thông tư liên tịch, Thông tư của

Bộ giao thông vận tải,...

Cơ sở thực tiễn: Việc định tội danh cần dựa trên các cơ sở như: Tổng

kết công tác xét xử của ngành Tòa án nhân dân; năng lực chuyên môn, kinh

nghiệm xét xử của từng Thẩm phán, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân.

Theo số liệu thống kê của TAND tỉnh Bắc Ninh, từ năm 2014 đến

năm 2018 TAND tỉnh Bắc Ninh đã xét xử tổng số 208 vụ với 208 bị cáo

phạm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Về cơ bản

việc định tội danh tội “vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”

của TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh là đúng quy định của Luật Hình sự.

Từ thực tiễn kết quả xét xử các vụ án vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ tỉnh Bắc Ninh, tác giả thấy:

- Các hành vi vi phạm về tội vi phạm quy định về điều khiển phưong

tiện giao thông đường bộ và tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ chủ yếu như: Phóng nhanh vượt ẩu không làm chủ tốc độ, không

chú ý quan sát, chuyển hướng không đảm bảo an toàn, đi không đúng phần

đường, làn đường hay đi ngược chiều gây tai nạn giao thông cho người khác.

37

Ví dụ: Khoảng 02h20’ ngày 05/6/2017, Hoàng Văn Tụ, sinh năm 1981,

trú tại quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội có giấy phép lái xe hạng B2 điều

khiển xe ôtô taxi hãng Vạn Xuân BKS 30A-322.32 chở bà Đặng Thị Nhanh,

sinh năm 1960, HKTT tại tổ 17, phường Phú Lương, quận Hà Đông, thành phố

Hà Nội; bà Nguyễn Thị Cúc, sinh năm 1966, HKTT tại tổ 20, phường Phú

Lương, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội; bà Đoàn Thị Thim, sinh năm 1956,

HKTT tại ngõ 521, phường Trương Định, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội;

bà Phạm Thị Mai, sinh năm 1964 trú tại thôn Quỳnh Đô, xã Vĩnh Quỳnh, huyện

Thanh Trì, thành phố Hà Nội và bà Bùi Thị Huyền, sinh năm 1962, HKTT tại

khu Pháp Vân, phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội đi trên

cao tốc 3, hướng từ Bắc Giang đi Hà Nội, khi đi đến Km136, nút ra QL18 thuộc

phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh do Tụ không chú ý quan sát, đi không

đúng phần đường đã đâm vào góc chữ A hành lang tôn bảo vệ bên phải đường.

Hậu quả: Bà Nhanh tử vong tại chỗ; các bà Mai, Cúc, Huyền, Thim và Tụ bị

thương được mọi người đưa đi bệnh viện cấp cứu.

- Chủ thể thực hiện hành vi phạm tội vi phạm quy định về điều khiển

phương tiện giao thông đường bộ ở nhiều độ tuổi khác nhau, đa số là thuộc từ

độ tuổi 20 đến 45 tuổi và chủ yếu là nam giới, người phạm tội là nữ giới chỉ

có 01 vụ (chiếm 0,5%). Các bị cáo hầu hết là chưa có tiền án tiền sự trước khi

thực hiện hành vi phạm tội và chủ yếu hành nghề lái xe hoặc là công nhân

điều khiển phương tiện giao thông khi đang lưu thông, không có trường hợp

nào là cán bộ, công chức vi phạm quy định về tham gia giao thông và bị khởi

tố, điều tra, truy tố và xét xử. Các bị cáo khi bị bắt, đều thành khẩn khai báo,

tự nguyện khắc phục bồi thường cho gia đình người bị hại và gia đình bị hại

thường có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đơn xin giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự.

38

Ví dụ 1: Khoảng 16h45’ ngày 24/7/2017, Lê Văn Túy, sinh năm 1991, trú

tại huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An điều khiển xe ôtô BKS 99K-7541 đi trên

đường Bình Than theo hướng từ đường Nguyễn Đăng Đạo đi đường Kinh

Dương Vương, khi đến ngã tư giao với đường Trần Hưng Đạo thì Túy điều

khiển xe ô tô chuyển hướng rẽ phải đi vào đường Trần Hưng Đạo hướng về phía

cầu vượt Đại Phúc, khi chuyển hướng rẽ phải, Túy không chú ý quan sát nên xe

ô tô do Túy điều khiển đã đâm vào đuôi xe bên trái của xe mô tô BKS 29L3-

1465 do chị Lưu Thị Luyện, sinh năm 1967, trú tại thôn Kim Đôi, xã Kim Chân,

thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh điều khiển chở sau là bà Nguyễn Thị Thoa,

sinh năm 1940, trú tại thôn Kim Đôi, xã Kim Chân, thành phố Bắc Ninh, tỉnh

Bắc Ninh đi bên phải phía trước cùng chiều hướng từ đường Bình Than đi

đường Kinh Dương Vương. Hậu quả: Bà Nguyễn Thị Thoa tử vong và thiệt hại

tài sản là 600.000đ.

Tại bản án số 43/2017/HSST ngày 26/12/2017, Tòa án nhân dân thành

phổ phố Bắc Ninh đã áp dụng Khoản 1 Điều 202, Điều 60, điểm b, p K1, K2

Đ46 BLHS xử phạt bị cáo 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử

thách 30 tháng.

Ví dụ 2: Khoảng 03h00’ ngày 19/9/2018, Vũ Xuân Thế sinh năm 1994,

trú tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình có giấy phép lái xe hạng C điều khiển xe

ô tô BKS 17C-056.47 (trên xe ô tô có anh Trần Anh Tú, sinh năm 1979,

HKTT: tổ 29 phường Bồ Xuyên, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình nằm

ngủ tại cabin) từ Công ty Cổ phần tập đoàn Hương Sen có địa chỉ tại số 18

Trần Thái Tông, phường Bồ Xuyên, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đến

cửa hàng của anh Bùi Văn Đạo, sinh năm 1984, HKTT tại thôn Xuân Ái, xã

Hòa Long, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh để giao hàng. Đến khoảng

04h30’ cùng ngày khi đến địa phận thành phố Bắc Ninh, Thế điều khiển xe từ

hướng Cột Đồng Hồ qua ngã tư Cổng Ô thuộc địa phận phường Ninh Xá, lúc

39

này tại ngã tư Cổng ô trời đang mưa, ngập nước, chỗ sâu nhất ngập khoảng

20cm đến 30cm và đi vào đường một chiều. Khi phát hiện ra xe đi vào đường

ngược chiều, Thế điều khiển xe ô tô đi lùi lại, do không chú ý quan sát, không

đảm bảo an toàn nên phần thành xe phía bên phải phía cuối xe ô tô do Thế

điều khiển va chạm với xe mô tô BKS 31-980-Z8 do ông Diêm Công Thắng,

sinh năm 1960, HKTT: thôn Đông Yên, xã Đông Phong, huyện Yên Phong,

tỉnh Bắc Ninh điều khiển, làm ông Thắng ngã ra đường, sau đó do Thế không

biết xảy ra va chạm nên Thế tiếp tục lùi xe thì phần bánh xe bên trái phía sau

xe ô tô do Thế điều khiển chèn vào phần đầu, cổ ông Thắng, lúc này Thế cũng

không biết nên tiếp tục điều khiển xe đi giao hàng. Hậu quả ông Thắng tử

vong tại hiện trường, xe mô tô bị hư hỏng.

Tại bản án số 49/2019/HSST ngày 25/02/2019 của Tòa án nhân dân

thành phố Bắc Ninh áp dụng điểm a khoản 1, Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2

Điều 51; Điều 65 BLHS xử phạt bị cáo 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo,

thời gian thử thách 36 tháng.

- Hậu quả đa phần là làm chết 01 người hoặc bị tổn thương cơ thể do

thương tích gây nên là từ 31% trở lên đối với tội Vi phạm quy định về điều

khiển phương tiện giao thông đường bộ, và từ 61% trở lên đối với tội Vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ và thiệt hại về tài sản của

người khác.

Ví dụ: Khoảng 10h ngày 15/01/2018, Quách Đăng Trung, sinh năm 1974,

có hộ khẩu thường trú tại thôn Ba Mô, xã Ngọc Lý, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc

Giang điều khiển xe ôtô BKS 98C-111.11 trên đường Nguyễn Văn Cừ theo

hướng từ Hà Nội đi Bắc Ninh, khi đi đến ngã tư Cổng Ô giao giữa đường

Nguyễn Văn Cừ và đường Nguyễn Trãi thuộc phường Ninh Xá, thành phố Bắc

Ninh, tỉnh Bắc Ninh thì chuyển hướng rẽ phải để đi vào đường Nguyễn Trãi

không chú ý quan sát, không đảm bảo an toàn va chạm với phần đầu tay lái bên

40

trái xe mô tô BKS 99H5-5871 do ông Đỗ Quảng Trường điều khiển theo hướng

từ Hà Nôi đi Bắc Giang làm ông Trường ngã ra đường và bị bánh xe phía trước

bên phải xe ô tô đã chèn qua ngực làm ông Trường tử vong tại chỗ.

Các vụ tai nạn giao thông bị khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử tập

trung là những người điều khiển phương tiện tham gia giao thông chủ yếu

là điều khiển xe ô tô và xe mô tô gây tai nạn cho những người tham gia

giao thông khác, chỉ một số người điều khiển xe chuyên dùng bị truy cứu

trách nhiệm hình sự tập trung vào các phương tiện như xe nâng, xe máy

xúc hay xe bồn trộn bê tông,…; không có trường hợp người đi bộ nào bị

truy cứu về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

và vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tập trung chủ yếu ở địa

bàn thành phố Bắc Ninh, huyện Yên Phong, Quế Võ và thị xã Từ Sơn nơi có

nhiều khu công nghiệp, cụm làng nghề và tập trung đông dân cư, lao động và

nhiều tuyến đường huyết mạch nối với các tỉnh khác.

Bảng 2.4 Số bị cáo bị xét xử về tội vi phạm quy định về điều khiển

phương tiện giao thông đường bộ và tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ tại các huyện của tỉnh Bắc Ninh từ năm 2014 đến năm 2018

Huyện\ Năm 2014 2015 2016 2017 2018 Tổng

TP Bắc Ninh 8/8 10/10 11/11 11/11 6/6 46/46

4/4 4/4 5/5 32/32 TX Từ Sơn 11/11 8/8

8/8 11/11 6/6 37/37 H. Yên Phong 9/9 4/4

4/4 3/3 6/6 22/22 H. Tiên Du 4/4 5/5

4/4 12/12 7/7 34/34 H. Quế Võ 5/5 5/5

2/2 1/1 0/0 4/4 H. Gia Bình 0/0 1/1

4/4 2/2 0/0 9/9 H. Lương Tài 1/1 2/2

41

H. Thuận Thành 2/2 7/7 4/4 1/1 6/6 20/20

Nguồn: Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh

Qua kết quả xét xử sơ thẩm, phúc thẩm của Tòa án nhân dân hai cấp

tỉnh Bắc Ninh cho thấy, đa số các vụ án “vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ” được điều tra, truy tố và xét xử đúng tội danh. Trong

quá trình giải quyết các vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ, các Tòa án đã tăng cường phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng, đối

với những vụ án mà hồ sơ còn thiếu chặt chẽ, chưa đủ cơ sở vừng chắc đế xác

định tội phạm, người phạm tội thì Tòa án kiên quyết trả hồ sơ để điều tra bổ

sung, nhằm đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Như vậy, có thể nói việc định tội danh đối với tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn

tỉnh Bắc Ninh của TAND hai cấp cho thấy sự phù hợp giữa hành vi vi

phạm an toàn giao thông đường bộ đã xảy ra với các dấu hiệu cấu thành tội

phạm của tội phạm này. Không có vụ án nào Tòa án tuyên bị cáo không

phạm tội hoặc xử bị cáo về tội danh khác. Điều này cho thấy sự nỗ lực rất

lớn của các cơ quan tiến hành Tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vỉệc

xác định tội danh phù hợp với yêu cầu thực tiễn.

2.2.2 Những tồn tại, sai lầm trong định tội danh tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ tại tỉnh Bắc Ninh

- Có thể nói việc thống kê nêu trên chưa phản ánh được hết thực

trạng của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ thời gian

qua trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và về việc xác định tội danh này. Trên thực

tế việc xác định tội danh đối với tội phạm này vẫn còn một số hạn chế,

thiếu sót nhất định. Bởi vì đặc trưng của các vụ tai nạn giao thông xảy ra

thường rất nhanh, vào thời gian đêm khuya, địa điểm vắng người và thường

không có nhân chứng. Việc đánh giá hành vi và lỗi của người tham gia giao

42

thông chủ yếu dựa vào biên bản khám nghiệm hiện trường, khám phương

tiện liên quan đến tai nạn giao thông, thông qua lời khai của những người

liên quan do đó việc xem xét đánh giá chứng cứ của các cơ quan tiến hành

tố tụng, người tiến hành tố tụng còn có nhiều quan điểm khác nhau, nhất là

đối với những vụ tai nạn giao thông có lỗi hỗn hợp (Cả bị hại và đối tượng

đều có lỗi); có không ít trường hợp sau khi gây ra tai nạn, với nhiều lý do

khác nhau, người gây tai nạn đã bỏ trốn nhằm trốn tránh trách nhiệm của

mình tức là trốn tránh việc xử lý của pháp luật (trách nhiệm hình sự, trách

nhiệm dân sự hoặc bị xử phạt hành chính). Vì vậy có nhiều vụ TNGT

nghiêm trọng xảy ra mà không xác định được người gây ra tai nạn, phương

tiện gây ra tai nạn để xác định vụ việc có dấu hiệu tội phạm hay không để

có thể khởi tố vụ án, khởi tố bị can.

- Qua công tác điều tra, truy tố và xét xử của các cơ quan tiến hành

tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án đối với các vụ tai nạn

giao thông đường bộ, do việc đánh giá sai tính chất, mức độ nguy hiểm của

hành vi, hay quá trình lập hồ sơ tai nạn ban đầu, lập biên bản khám nghiệm

hiện trường, vẽ sơ đồ còn chưa được các cơ quan pháp luật xác định một

cách chặt chẽ (nhất là trong những vụ việc mà có nạn nhân bị thương tích,

ban đầu chỉ bị thương tích nhẹ, nhưng sau một thời gian điều trị nạn nhân

có thể tử vong) nên việc lấy lời khai còn qua loa, việc thu thập nhân chứng

chứng kiến vụ việc còn lơ là, dẫn đến nhiều khó khăn trong việc điều tra

xác minh sau này của các cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn đến vụ việc phải

kéo dài thời gian giải quyết hoặc/và khó xác định người, phương tiện liên

quan đến tai nạn giao thông đường bộ để đánh giá hành vi nguy hiểm và

mối quan hệ nhân quả, từ đó xác định vụ việc có dấu hiệu tội phạm hay

không để khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử theo quy định của pháp luật.

- Ngoài ra, với địa bàn tỉnh Bắc Ninh tập trung nhiều khu công

43

nghiệp và nhà máy lớn, do đó cũng tập trung nhiều nhà đầu tư, doanh

nghiệp và người lao động nước ngoài sinh sống, tham gia giao thông đường

bộ, trên thực tế có nhiều vụ tai nạn giao thông đường bộ có người liên quan

là người nước ngoài (có trường hợp là người vi phạm, có trường hợp là bị

hại) nhưng sau khi vụ việc xảy ra những người này không điều trị tại Việt

Nam mà trở về nước hoặc không xác định được danh tính nên dẫn đến việc

thu thập chứng cứ, xác định tội danh là vô cùng khó khăn, thậm chí nhiều

vụ việc phải tạm đình chỉ giải quyết và không có căn cứ để tiếp tục giải

quyết.

- Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015 quy

định tình tiết “có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác” là

tình tiết định khung tăng nặng. Tuy nhiên, thực tiễn cuộc sống hiện nay cho

thấy có rất nhiều loại ma túy, các chất tương tự như ma túy được sử dung

tràn lan trong xã hội như: MDMA, Methammethamine, Herroin, Ketamine,

nước biển, ma túy tổng hợp khác,….Trong khi đó, khi các vụ tai nạn giao

thông xảy ra, đối với trường hợp người gây tai nạn giao thông, người bị tai

nạn giao thông được đưa đến cơ sở y tế để cấp cứu thì việc xét nghiệm ma

túy của người được đưa vào cấp cứu chưa được cơ sở y tế nào thực hiện,

mặt khác việc đo nồng độ cồn trong máu hoặc trong hơi thở cũng chỉ thực

hiện được với một số trường hợp nhất định. Trường hợp người gây tai nạn

đến trình diện tại cơ quan công an có thẩm quyền thì việc kiểm tra

nhanh có sử dụng ma túy hay không chưa được văn bản pháp luật hướng

dẫn trong trường hợp đối với các vụ tai nạn giao thông nên dẫn đến khi cơ

quan điều tra vào cuộc thì việc xác định người phạm tội có sử dụng chất ma

túy hoặc chất kích thích mạnh khác là khó khăn.

- Tại khoản 4 Điều 260 BLHS năm 2015 quy định về việc hành vi vi

phạm của người tham gia giao thông đường bộ có khả năng thực tế dẫn đến

44

hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 Điều này nếu

không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến

50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù

từ 03 tháng đến 01 năm. Tuy nhiên để đánh giá được đâu là hành vi vi

phạm và hậu quả thực tế của hành vi vi phạm có mối quan hệ với nhau là

cực kỳ khó chứng minh, do đó việc định tội danh theo khoản 4 Điều 260

BLHS năm 2015 là rất khó khăn và có thể định danh sai tội danh, dẫn đến

có thể làm oan người vô tội. Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ khi BLHS năm

2015 có hiệu lực pháp luật chưa có ai bị khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử

về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo khoản 4

Điều 260 BLHS năm 2015.

2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt về tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ của TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh

2.3.1. Khái quát tình hình quyết định hình phạt đối với tội vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc

Ninh

Để góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ, trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018,

nhìn chung TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện tương đối tốt việc áp

dụng quy định pháp luật về truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như quyết

định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ. Hoạt động áp dụng quy định pháp luật về quyết định hình phạt của

TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh về cơ bản đảm bảo đúng các quy định của

pháp luật, đã góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ,ổn định trật tự xã hội và tạo điều kiện

thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội, đặc biệt là đảm bảo an toàn giao

45

thông đường bộ trên toàn tỉnh Bắc Ninh.

Bảng 2.5 Cơ cấu hình phạt Tòa án áp dụng khi xét xử sơ thẩm tội “vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

giai đoạn 2014 - 2018

Năm Tổng Hình phạt chính Hình

số bị phạt bổ Phạt Án treo Hình phạt tù có thời hạn

cáo đã sung tiền Tù đến 3 Tù trên 3 Tù từ 7

xét xử năm năm đến 7 năm đến

năm 15 năm

2014 40 01 35 0 04 0 0

2015 42 0 30 04 08 0 0

2016 43 01 30 06 06 0 0

2017 47 0 30 05 12 0 0

2018 36 0 26 01 09 0 0

(Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh)

Qua số liệu cho thấy, trong 208 bị cáo được đưa ra xét xử thì có 39

bị cáo bị xét xử hình phạt tù đến 3 năm, chiếm tỷ lệ 18,6%; tù trên ba năm

đến 7 năm có 16 bị cáo chiếm tỷ lệ 7,7%; Phạt tù nhưng cho hưởng án treo

có 151 bị cáo, chiếm tỷ lệ 72,6% và có 02 bị cáo bị xử phạt bằng hình phạt

tiền, chiếm 01%.

Chất lượng xét xử sơ thẩm về trách nhiệm hình sự, mức hình phạt

đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn

tỉnh Bắc Ninh phần lớn đảm bảo đúng người, đúng tội và đúng pháp luật

hình sự quy định.

46

2.3.2. Những vi phạm, sai lầm trong quyết định hình phạt đối với tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ của Tòa án nhân dân hai

cấp tỉnh Bắc Ninh

Thực tiễn xét xử cho thấy vẫn còn tình trạng nhiều bản án có các tình

tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là như nhau nhưng hình phạt

áp dụng đối với các bị can còn khác nhau, dẫn đến tính nghiêm minh của

pháp luật còn bị ảnh hưởng, và chưa thống nhất. Chất lượng của xét xử sơ

thẩm về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ vẫn còn

một số trường hợp vi phạm thể hiện ở mức hình phạt được quyết định quá

nặng hoặc quá nhẹ, không tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm

của tội phạm.

Một số quyết định hình phạt của TAND các huyện còn chưa có sự

thống nhất với nhau.

Ví dụ 1: Khoảng 13 giờ ngày 30/5/2017, tại đường tỉnh lộ 295 thuộc

địa phận thôn Thượng Thôn – xã Đông Tiến – huyện Yên Phong – tỉnh Bắc

Ninh, Nguyễn Văn Khải điều khiển xe ô tô tải nhãn hiệu QINGQI, biển kiểm

soát 98C-032.35 (Khải có giấy phép lái xe theo quy định) theo hướng Đông

Tiến – thị trấn Chờ đã lấn sang phần đường ngược chiều nên đã đâm vào xe ô

tô Honda Civic, biển kiểm soát 89A-066.45 do anh Nguyễn Đăng Hải điều

khiển đi theo hướng thị trấn Chờ đi Đông Tiến (đi đúng phần đường). Hậu

quả: hai xe ô tô bị hư hỏng, Khải và anh Hải không bị thương tích gì. Giá trị

thiệt hại đối với tài sản của chiếc xe ô tô nhãn hiệu Honda Civic, biển kiểm

soát 89A-066.45 là 234.416.000 đồng.

Tại bản án ngày 22/11/2017, TAND huyện Yên Phong áp dụng

Khoản 1, Điều 202; điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46; Điều 60 BLHS xử

phạt bị cáo 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30

tháng.

47

Ví dụ 2: Nguyễn Hữu Phúc có giấy phép lái xe hạng C do Sở giao

thông vận tải tỉnh Bắc Ninh cấp ngày 12/4/2012, có giá trị đến ngày

12/4/2017. Ngày 01/7/2016, Phúc ký hợp đồng lao động với Công ty trách

nhiệm hữu hạn xây dựng sản xuất và thương mại Phú Lâm có trụ sở tại cụm

Công nghiệp Phú Lâm - Tiên Du - Bắc Ninh. Sau khi ký hợp đồng lao động,

Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng sản xuất và thương mại Phú Lâm đó

giao cho Phúc chiếc xe ô tô tải BKS: 99C - 092.70 để nhận hàng, vận chuyển,

giao hàng cho Công ty.

Khoảng 10 giờ ngày 01/9/2016, anh Quách Đăng Hải là Quản đốc của

công ty giao cho Phúc điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát (BKS) 99C-

092.70 có 03 dàn bánh lốp chở bìa cattong từ Phú Lâm đến giao hàng tại Yên

Viên, Gia Lâm, Hà Nội. Khoảng 13 giờ cùng ngày, giao hàng xong, Phúc điều

khiển xe ô tô BKS 99C-092.70 đi từ Yên Viên, Gia Lâm, Hà Nội theo đường

TL295B để về công ty. Khi đi đến gần Siêu thị Từ Sơn, Phúc nhận được điện

thoại của Hải hỏi “đã giao hàng xong chưa”, Phúc trả lời “giao hàng xong rồi

đang trên đường về”, Hải nói “ điều khiển xe ô tô đến Văn Lâm, Hưng Yên để

chở hàng”, Phúc đồng ý và điều khiển xe ô tô rẽ phải tại ngã tư Siêu thị Từ

Sơn vào đường TL287 để đi Hưng Yên. Vì hàng ít không đủ một chuyến xe

nên Hải gọi điện lại bảo Phúc “không phải đi Hưng Yên chở hàng nữa, điều

khiển xe về công ty”. Do vậy, Phúc điều khiển xe ô tô theo đường TL287

hướng tỉnh lộ 295B đi Cầu Đồng Xép, quan sát thấy phía trước bên trái cách

khoảng 30m có một điểm mở trước cửa siêu thị điện máy Anh Đức ở dải phân

cách cứng có biển báo có thể quay đầu. Phúc giảm tốc độ xuống còn khoảng

30km/h đi ở phần giữa đường (cách dải phân cách cứng bên trái xe ô tô là 03-

04m). Phúc bật đèn xi nhan bên trái với mục đích để báo hiệu xin đường và

quan sát qua gương chiếu hậu bên trái để nhìn về phía sau xe thì không thấy

người và phương tiện nào đi bên trái xe ô tô nên Phúc không quan sát phía

48

sau nữa. Do chủ quan nên khi đến điểm quay đầu Phúc không quan sat gương

chiếu hậu mà cứ thế điều khiển xe chuyển hướng rẽ trái sang hướng đường

ngược chiều để quay đầu xe và chỉ quan sát hướng đường ngược chiều không

thấy có người và phương tiện nào đi tới. Cùng thời điểm này anh Đào Quốc

Đạt, sinh năm 1990 trú tại thôn Chè, xã Liên Bão, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc

Ninh điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD, màu sơn trắng đen,

BKS 99G1-052.24 điều khiển đi cùng chiều phía sau bên trái xe ô tô sát dải

phân cách cứng giữa đường. Do không quan sát nên khi Phúc điều khiển xe ô

tô quay đầu xe đã làm phần phía trước bên trái của thùng xe ô tô tải va chạm

vào xe mô tô BKS 99G1-052.24 khiến xe mô tô bị đổ, anh Đạt bị ngã xuống

đường, bánh xe ô tô bên trái của dàn lốp thứ 2 từ trước ra sau lăn qua đầu

khiến anh Đạt chết tại chỗ. Xe ô tô di chuyển thêm 10m thì dừng lại sát vỉa hè

gần đó.

Tại bản án ngày 26/12/2017 của TAND thị xã Từ Sơn áp dụng Khoản 1

Điều 202, điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 và Điều 60 BLHS. Xử phạt:

Phúc 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 36 tháng tính

từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Qua hai ví dụ nêu trên ta thấy về căn cứ áp dụng pháp luật và các tình

tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là tương đồng nhau nhưng việc

quyết định hình phạt của hai TAND hai huyện lại có mức án khác nhau.

Về chất lượng xét xử sơ thẩm, phúc thẩm của TAND hai cấp tỉnh

Bắc Ninh cơ bản xác định mức hình phạt đối với tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng quy

định của pháp luật.

Đối với việc áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, qua

kiểm tra cho thấy việc áp dụng pháp luật đảm bảo đúng các quy định,

nguyên tắc xét xử tội phạm hình sự, thể hiện trách nhiệm của Tòa án, Viện

49

kiểm sát cũng như đảm bảo trách nhiệm của các cơ quan pháp luật nói

chung về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực tham gia

giao thông đường bộ.

Từ thực tiễn xét xử hình sự tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh, trong một tổng

thể có thể đánh giá rằng, đa số các vụ án “vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ” được định tội danh và quyết định hình phạt đúng với

người phạm tội, tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội.

Tuy nhiên, cũng cần đề cập đến những khó khăn mà TAND hai cấp

tỉnh Bắc Ninh gặp phải trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với

tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Vấn đề là ở chỗ

một số vụ tai nạn giao thông gây chết người hoặc thiệt hại về tài sản lớn,

đồng thời có những trường hợp có người bị thương tích, tuy nhiên quá trình

điều tra Cơ quan điều tra đã có nhiều biện pháp thuyết phục người bị hại

thực hiện giám định nhưng người bị hại đã kiên quyết từ chối việc đi giám

định tỷ lệ thương tích nên dễ dẫn đến khó định tội danh, thậm chí bỏ lọt tội

phạm hoặc xử lý không đúng khung hình phạt. Trong đó, có không ít

trường hợp khi gây ra tội phạm, người điều khiển phương tiện giao thông

có sử dụng rượu, bia nhưng quá trình điều tra ban đầu không áp dụng các

biện pháp xác định nồng độ cồn dẫn đến việc Tòa án không áp dụng đúng

khung hình phạt theo điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015.

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế

Những tồn tại, hạn chế nêu trên xảy ra do nhiều nguyên nhân khác

nhau đó là:

Về nguyên nhân khách quan:

Thứ nhất: Hệ thống pháp luật hình sự về xử lý các hành vi vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ còn chưa đồng bộ.

50

Hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là hành vi

nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự trước đây

và Điều 260 hiện hành. Nhưng qua quá trình áp dụng BLHS năm 2015 đã bộc

lộ một số hạn chế về kỹ thuật lập pháp trong việc quy định tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ như:

- Thứ nhất về tính chất hậu quả trong từ các khoản của điều luật quy

định chưa thể hiện hết được tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội.

Tại các Điều 2 và Điều 3 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT – BCA –

BQP – BTP – VKSNDTC – TANDTC quy định rất chi tiết các mức hậu quả

đển xác định trường hợp nào là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt

nghiêm trọng. Trong đó có sự tổng hợp giữa hậu quả tính mạng, sức khỏe con

người với hậu quả về vật chất; và cũng có sự tổng hợp giữa hậu quả vừa liên

quan đến tính mạng con người, vừa liên quan đến sức khỏe con người. Hướng

dẫn này phần nào đã tháo gỡ các khó khăn trong thực tiễn áp dụng, đảm vảo

các vụ việc với từng mức độ hậu quả gây ra khác nhau được xét xử công bằng

hơn. Thế nhưng, Điều 260 Bộ luật hình sự mới đã không sử dụng hết các nội

dung được hướng dẫn theo cách tính thiệt hại của Thông tư liên tịch số

09/2013/TTLT – BCA – BQP – BTP – VKSNDTC – TANDTC, dẫn đến trên

thực tiễn sẽ có nhiều trường hợp chênh nhau về mức độ chịu trách nhiệm hình

sự, làm ảnh hưởng đến yếu tố công bằng khi xét xử.

Ví dụ: A lái xe vi phạm Luật giao thông đường bộ, gây tai nạn làm chết

người và gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của 02 người, với tổng tỷ

lệ tổn thương cơ thể là 120%, gây thiệt hại về tài sản 450.000.000 đồng. Theo

đó, A bị xét xử theo các điểm a, c, d khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự mới.

Trong trường hợp vụ án đủ điều kiện theo quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ

luật hình sự mới thì có thể A được xem xét miễn trách nhiệm hình sự.

51

Trong khi đó B cũng lái xe vi phạm Luật giao thông đường bộ, gây hậu

quả tổn hại sức khỏe cho 02 người với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 130%

thì nhất định B bị xét xử theo điểm c khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự mới

và không được phép miễn trách nhiệm hình sự đối với B theo khoản 3 Điều

29 Bộ luật hình sự mới. Nhu vậy, so sánh hai mức độ hậu quả của A và B gây

ra và hai mức độ trách nhiệm hình sự A và B có thể bị áp dụng sẽ thấy rất rõ

sự không công bằng, thiếu sức thuyết phục khi áp dụng quy định của Điều

260 vào thực tiễn.

Ngoài ra, các tình tiết định khung tăng nặng quy định tại các điểm a, b,

c, d khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015 không được quy định ở khoản 3 của

Điều luật này (kèm theo điều kiện gây ra hậu quả thuộc các điểm đ, e, g

khoản 2 Điều 260). Điều đó sẽ tạo ra sự mất công bằng khi một người tham

gia giao thông vi phạm quy định của Luật giao thông đường bộ, gây ra hậu

quả thuộc khoản 1 nhưng vì thuộc một trong các trường hợp theo quy định tại

điểm a, b, c, d khoản 2 nên bị xét xử theo khoản 2 Điều 260. Tương tự như

vậy, một người tham gia giao thông vi phạm Luật giao thông đường bộ, gây

ra mức hậu quả ở khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự mới (ví dụ chết 2

người), và họ thuộc một trong các trường hợp theo quy định tại các điểm a, b,

c, d khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự mới thì cũng chỉ xét xử họ ở khoản 2

Điều 260 Bộ luật hình sự mới (mặc dù biết rằng khi xét xử, hình phạt của

người bị áp dụng nhiều tình tiết định khung tăng nặng bao giờ cũng cao hơn,

nhưng điều này chỉ nhìn thấy rõ và thực hiện được nếu các bị cáo cùng xét xử

trong một vụ án hoặc tại cùng một Tòa án).

Ví dụ: A không có giấy phép lái xe hợp lệ, lái xe vi phạm Luật giao

thông đường bộ, gây hậu quả chết 01 người. A bị xét xử theo điểm a khoản 2

Điều 260 Bộ luật hình sự mới với khung hình phạt tù tư 03 năm đến 10 năm.

52

B cũng không có giấy phép lái xe, lái xe trong tình trạng hơi thở có

nồng độ cồn vượt mức quy định, vi phạm luật giao thông đường bộ, gây hậu

quả chết 02 người. B cũng chỉ bị xét xử theo các điểm a, b, đ khoản 2 Điều

260 Bộ luật hình sự mới với khung hình phạt từ 03 năm tù đến 10 năm tù.

- Thứ hai: Khó khăn trong việc xác định người phạm tội có sử dụng

chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác:

Tại điểm b khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015 quy định tình tiết “có sử

dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác” là tình tiết định khung

tăng nặng. Tuy nhiên, thực tiễn cuộc sống hiện nay cho thấy có rất nhiều loại

ma túy, các chất tương tự như ma túy được sử dung tràn lan trong xã hội như:

Methammethamine, Herroin, Ketamine, cần sa, cỏ Mỹ,….Trong khi đó, khi

các vụ tai nạn giao thông xảy ra, đối với trường hợp người gây tai nạn giao

thông, người bị tai nạn giao thông được đưa đến cơ sở y tế để cấp cứu thì

chưa có cơ sở y tế nào được giao nhiệm vụ tổ chức xét nghiệm ma túy của

người được đưa vào cấp cứu, hiện chỉ làm được việc đo nồng độ cồn trong

máu hoặc trong hơi thở. Trường hợp người gây tai nạn đến trình diện tại cơ

quan công an có thẩm quyền thì việc kiểm tra nhanh có sử dụng ma túy hay

không chưa được văn bản pháp luật hướng dẫn trong trường hợp đối với các

vụ tai nạn giao thông nên dẫn đến khi cơ quan điều tra vào cuộc thì việc xác

định người phạm tội có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác

là khó khăn.

- Thứ ba: Khó khăn trong việc xác định hậu quả thực tế theo quy định

tại khoản 4 Điều 260 BLHS năm 2015.

Đây là một quy định mới thể hiện sự tiến bộ của nhà làm luật nhằm xử

lý những hành vi mà trên thực tế chưa gây ra hậu quả nhưng có nguy cơ xảy

ra hậu quả rất nguy hiểm nếu không được ngăn chặn kịp thời. Tuy nhiên, để

53

chứng minh giữa hành vi khách quan và hậu quả trên thực tế là vô cùng khó

khăn, phức tạp.

- Thứ tư: Việc áp dụng hình phạt bổ sung còn chưa được triệt để:

Tại khoản 5 Điều 260 BLHS có quy định “Người phạm tội còn có thể

bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ

01 năm đến 05 năm”. Như vậy việc cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất

định này cũng chỉ nhằm vào các đối tượng liên quan đến yếu tố điều khiển

phương tiện giao thông đường bộ là nghề nghiệp mà không đề cập đến việc

hạn chế quyền điều khiển phương tiện của người phạm tội. Quyết định như

vậy vô hình chung xử lý trách nhiệm của người lái xe vi phạm pháp luật hình

sự không nghiêm khi so sánh với người lái xe vi phạm pháp luật hành chính

trong lĩnh vực giao thông đường bộ bị tước bằng lái có thời hạn.

- Thứ năm: Việc xem xét thời hạn xóa án tích:

Tại khoản 2 Điều 69 Bộ luật hình sự có quy định:

“2. Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm

nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích”.

Theo quy định nêu trên thì một người phạm tội nghiêm trọng do lỗi vô

ý, ví dụ A phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” bị

Tòa án nhân dân huyện B xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời

gian thử thách là 48 tháng. Trong trường hợp này A được coi là không có án

tích. Tuy nhiên, khi A chấp hành thời gian thử thách khi được 30 tháng thì

phạm tội “Cố ý gây thương tích quy định tại điểm đ, khoản 2 Điều 134 Bộ

luật hình sự và bị Tòa án nhân dân huyện B xử phạt 48 tháng tù và tổng hợp

hình phạt theo quy định của khoản 5 Điều 65 và Điều 56 thì A phải chấp hành

hình phạt chung cho cả 2 bản án là 72 tháng tù (06 năm). Như vậy,

Theo quy định tại khoản 2 Điều 70 Bộ luật hình sự:

54

“2. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp

hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã

chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không

thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:

a) 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không

giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;

b) 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;

c) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;

d) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm,tù chung thân

hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.

Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản

chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc

nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn

thời hạn quy định tại các điểm a, b và c khoản này thì thời hạn đương nhiên

được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ

sung.”

Và quy định tại Điều 73 Bộ luật hình sự:

“1. Thời hạn để xóa án tích quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ

luật này căn cứ vào hình phạt chính đã tuyên.

2. Người bị kết án chưa được xóa án tích mà thực hiện hành vi phạm

tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để

xóa án tích cũ được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc

thời gian thử thách án treo của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời

hiệu thi hành.

3. Người bị kết án trong trường hợp phạm nhiều tội mà có tội thuộc

trường hợp đương nhiên được xóa án tích, có tội thuộc trường hợp xóa án

55

tích theo quyết định của Tòa án thì căn cứ vào thời hạn quy định tại Điều 71

của Bộ luật này Tòa án quyết định việc xóa án tích đối với người đó.

4. Người được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại cũng được coi

như đã chấp hành xong hình phạt.”

Trong trường hợp này có hai quan điểm như sau:

Quan điểm thứ nhất: Cách tính thời gian xóa án tích của A là sau khi A

chấp hành xong hình phạt chính là 06 năm và trong thời gian 03 năm sau khi

chấp hành xong hình phạt tù A không phạm tội mới thì đương nhiên được xóa

án tích. Tuy nhiên, ở đây lại xuất hiện mâu thuẫn đó là bản án về tội “Vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” không bị coi là có án tích.

Do đó không thể tính thời gian chấp hành của bản án này để tính án tích và

xác định thời gian xóa án tích theo quy định tại Điều 70 và Điều 73 Bộ luật

hình sự. Như vậy, đây là quy định gây bất lợi cho người phạm tội.

Quan điểm thứ hai: Thời gian xóa án tích của A chỉ là 02 năm. Lí do

bản án về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” của A

không được coi là có án tích, do đó khi A chấp hành xong hình phạt của bản

án thứ hai về tội “Cố ý gây thương tích” là 04 năm và trong thời gian 02 năm

nếu A không phạm tội mới thì đương nhiên được xóa án tích. Vấn đề đặt ra

là: Trong 06 năm chấp hành hình phạt của bản án đã tổng hợp thì xác định

thời gian nào tính thời gian chấp hành hình phạt của bản án về tội “Vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ” và thời gian nào tính thời gian

chấp hành hình phạt của bản án về tội “Cố ý gây thương tích” để xác định

thời gian xóa án tích của A. Như vậy, trong trường hợp này sẽ gây khó khăn

cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội đồng xét xử xác định

hành vi của A là nhân thân, tái phạm, tái phạm nguy hiểm khi A phạm một tội

thứ 3 sau khi chấp hành xong hình phạt.

56

Theo quan điểm của tác giả, trong trường hợp này, cách tính xóa án tích

được xác định theo quan điểm thứ hai để đảm bảo sự công bằng cho những

người phạm tội vì với bản án về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ” thì A được xác định không có án tích, có nghĩa là trong thời

gian chấp hành bản án về tội này, trường hợp A có phạm tội mới cũng không

căn cứ để xác định A là tái phạm, mà chỉ là nhân thân. Như vậy, thời gian để

tính xóa án tích của A được xác định là bản án thứ hai về tội “Cố ý gây

thương tích”, như vậy sẽ đảm bảo tính công bằng cho A với những người

phạm tội khác về thời gian xóa án tích.

Thứ hai, công tác giải thích, hướng dẫn việc áp dụng pháp luật còn

chưa đầy đủ, kịp thời.

Có thể thấy rằng, công tác hướng dẫn, giải thích pháp luật trong lĩnh

vực tư pháp hình sự nói chung và tội phạm cụ thể như tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ nói riêng rất cần cho hoạt động điều tra, truy

tố, xét xử đối với loại tội này. Bởi lẽ, trong các quy định của BLHS, nhà làm

luật chỉ đưa ra những đặc điểm, dấu hiệu chung nhất chứ không liệt kê đầy đủ

những hành vi cụ thể, do đó việc áp dụng các quy định này trên thực tế sẽ có

những mâu thuẫn hoặc cách hiểu, diễn đạt khác nhau hoặc sử dụng những từ

ngữ khác nhau, nhưng không được giải thích kịp thời, gây ra nhiều khó khăn

cho người tiến hành tố tụng. Theo Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ chính trị

chỉ rõ “Công tác xây dựng, giải thích hướng dẫn và tuyên truyền, phổ biến,

giáo dục pháp luật trong đó có pháp luật về lĩnh vực tư pháp còn nhiều bất cập

và hạn chế” và theo quy định tại khoản 3 Điều 91 Hiến pháp năm 1992 của

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì ủy ban Thường vụ Quốc hội có

nhiệm vụ và quyền hạn giải thích Hiến pháp, Luật, pháp lệnh; việc tổng kinh

nghiệm xét xử của Toà án được giao cho Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân

dân tối cao. Mặc dù công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật của Toà án nhân

57

dân tối cao đã được chú trọng bằng nhiều Nghị quyết của Hội đồng Thẩm

phán, thậm chí dưới cả hình thức công văn, báo cáo tổng kết... Nhưng việc

giải thích hướng dẫn chưa đầy đủ, còn nhiều bất cập. Một số hướng dẫn từ khi

BLHS năm 1999 còn hiệu lực, đến nay không còn phù hợp nhưng chưa được

một văn bản thay thế hoặc phủ nhận hiệu lực của nó. Các quy định của BLHS

và BLTTHS quy định về xử lý tội phạm cũng như thủ tục tố tụng được áp

dụng đối với người phạm tội, trong các trường hợp luật quy định này còn

thiếu cụ thể như đã nêu ở trên, lại chưa được hướng dẫn đầy đủ, rõ ràng dẫn

đến lúng túng trong công tác áp dụng pháp luật.

* Nguyên nhân chủ quan

Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những hạn chế, thiếu sót trong

hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt của Hội đồng xét xử khi tiến

hành xét xử các vụ án hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ:

Thứ nhất, Về năng lực, trình độ chuyên môn của Thẩm phán.

Vấn đề trình độ, năng lực của đội ngũ Thẩm phán đang được Đảng,

Nhà nước và xã hội đặc biệt quan tâm. Sự yếu kém về trình độ nghề nghiệp

của Thẩm phán thường đi kèm theo phong cách làm việc cẩu thả, thiếu trách

nhiệm, qua loa, hời hợt. Nên khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được

thu thập trong hồ sơ vụ án thường không xác định được đâu là vấn đề cốt lõi,

có giá trị và ý nghĩa mấu chốt của vụ án. Nếu Thẩm phán được phân công giải

quyết vụ án yếu kém về trình độ nghề nghiệp, nhận thức pháp luật thì sẽ

không hệ thống được một cách logic diễn biến khách quan của vụ án, không

kịp thời phát hiện các điểm mâu thuẫn hoặc tổng hợp các tài liệu, chứng cứ để

tiến hành đối chiếu, so sánh, đánh giá và thẩm tra theo quy định của pháp luật.

Cũng chính vì sự non kém về chuyên môn nghiệp vụ nên rất dễ bỏ qua những

tài liệu, chứng cứ có giá trị, có ý nghĩa buộc tội, gỡ tội, trên cơ sở đó đưa ra

58

những phán quyết để giải quyết vụ án một cách đúng đắn theo quy định của

pháp luật. Hoặc/và có những Thẩm phán coi thường hoặc bỏ qua những thủ

tục tố tụng bắt buộc dẫn đến bản án, quyết định bị huỷ vì vi phạm nghiêm

trọng thủ tục tố tụng. Ví dụ: Thành phần Hội đồng xét xử người chưa thành

niên phạm tội không đảm bảo đúng quy định về việc có Hội thẩm là cán bộ

đoàn hoặc giáo viên...

Trình độ, năng lực yếu kém của người Thẩm phán còn biểu hiện ở việc

tổ chức, điều hành phiên toà không đạt hiệu quả, không tuân thủ theo nguyên

tắc tố tụng, không đảm bảo tính dân chủ, khách quan và nghiêm minh cần

thiết.

Thứ hai, năng lực, chuyên môn, trình độ của Hội thẩm nhân dân.

Tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1.Việc xét xử sơ thẩm

của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ

tục rút gọn. 2. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của

Thẩm phán, Hội thẩm…4. Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo

đa số…”. Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia, Điều 8 Luật Tổ

chức Tòa án nhân dân năm 2014 (viết tắc Luật TCTAND), quy định: “Việc

xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm tham gia theo quy định của luật tố

tụng, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.” Và khoản 1 Điều 9 của Luật

này quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của

Thẩm phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào.”. Tại Điều 22 BLTTHS năm

2015 quy định việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm tham gia, trừ

trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn do Bộ luật này quy định.

Trong thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm, số lượng Hội thẩm bao

giờ cũng chiếm tỷ lệ cao hơn so với Thẩm phán. Đây là một lợi thế để các Hội

59

thẩm thể hiện “ngang quyền” với Thẩm phán khi xét xử trên tinh thần dân

chủ.Tuy nhiên, thực tế phải thẳng thắn nhìn nhận, khi trình độ kiến thức pháp

luật, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ giữa Hội thẩm và Thẩm phán có một

khoảng cách quá xa thì việc thực hiện nguyên tắc “ngang quyền” của Hội

thẩm khi tham gia xét xử cũng chỉ mang tính hình thức và nhiều trường hợp là

sự “gượng ép”.

Theo quy định tại Điều 64 Luật tổ chức Tòa án nhân dân, để được bổ

nhiệm làm Thẩm phán, thì nhiều tiêu chuẩn Thẩm phán phải có, đó là: Trình

độ từ cử nhân luật trở lên; được đào tạo nghiệp vụ xét xử; có thời gian làm

công tác thực tiễn pháp luật;…Trong khi đó đối với Hội thẩm, nếu thỏa các

tiêu chuẩn quy định tại Điều 85 Luật tổ chức Tòa án nhân dân thì có thể được

bầu hoặc cử làm Hội thẩm, mà các tiêu chuẩn đề ra hoàn toàn mang tính định

lượng không rõ ràng, không cụ thể nên rất dễ tùy nghi vận dụng, đa số Hội

thẩm được bầu hoặc cử trong các nhiệm kỳ vừa qua chưa trải qua lớp đào tạo

chuyên ngành Luật cho dù là trung cấp, mà chỉ được trang bị kiến thức rất cơ

bản về pháp luật và nghiệp vụ công tác xét xử sau khi được bầu làm Hội thẩm

thông qua đợt tập huấn hàng năm thời gian từ 02 đến 03 ngày là xong! Nên

khi tham gia xét xử, bản thân Hội thẩm đó xem xét các vấn đề đặt ra đối với

họ chủ yếu bằng kinh nghiệm sống là chính, chứ không hoàn toàn dựa trên cơ

sở pháp luật thực định, thậm chí họ cũng không thể biết quan hệ pháp luật đó

phải áp luật luật nội dung nào cho phù hợp, chứ chưa nói đến rất nhiều các

Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp

dụng trong từng lĩnh vực riêng biệt, Hội thẩm chưa một lần đọc hay nghe đến,

trong khi đó pháp luật lại trao cho họ quyền quá lớn “ngang quyền” với Thẩm

phán khi thảo luật quyết định những vấn đề tội danh, hình phạt, biện pháp tư

pháp,…Rõ là sự khập khiễng của quy định pháp luật hiện nay, dù rằng việc

tham gia xét xử của Hội thẩm là cần thiết. Như đã phân tích, do tác động của

60

những hạn chế nêu trên nên khi tham gia Hội đồng xét xử, vai trò của không ít

Hội thẩm chưa được thể hiện rõ nét và đúng nghĩa là người đại diện của các

giới, các ngành, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, họ có thể phản ánh một cách

khách quan suy nghĩ, tâm tư của quần chúng Nhân dân, chứ không phải từ

góc độ của một luật gia thuần túy. Dù biết rằng Hội thẩm chỉ tham gia Hội

đồng xét xử tại Tòa án cấp Sơ thẩm, nhưng một bản án, quyết định được

tuyên nếu như không rõ ràng, thiếu khách quan thì chắc chắn rằng sẽ ảnh

hưởng lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, họ vừa phải mất thời

gian đeo đuổi vụ án theo vòng quay tố tụng, đó là chưa kể khi bản án đó bị

hủy giao lại cấp sơ thẩm xét xử lại từ đầu vừa phải bỏ ra những khoản chi phí

cũng không nhỏ, nhưng quan trọng hơn đó là niềm tin của người dân vào

công lý chắc chắn sẽ bị giảm sút đáng kể.

61

Tiểu kết chương 2

Đây là chương được tác giả tập trung phân tích thực trạng về áp dụng

pháp luật hình sự về tội vi pham quy định về tham gia giao thông đường bộ

trong 5 năm 2014 – 2018 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Các số liệu được thu

thập từ Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh cũng như các cơ

quan liên quan. Các số liệu đảm bảo độ tin cậy làm cơ sở cho việc phân tích

đánh giá thực trạng xác định tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án.

Quá trình phân tích, tác giả cũng đã đưa ra một số thực trạng, tồn tại trong

hoạt động xét xử và việc áp dụng Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung

năm 2017 trong việc định tội danh và quyết định hình phạt của hai cấp TAND

tỉnh Bắc Ninh.

62

Chương 3

CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH

VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI BẮC NINH

3.1 Yêu cầu đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự

về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn

tỉnh Bắc Ninh

Việc bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự trong quá

trình giải quyết các vụ án hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, trong số những yêu cầu

đó, tác giả đưa ra:

Thứ nhất, áp dụng pháp luật đúng quy định của pháp luật hình sự về tội

vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh

phải quán triệt quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật hình sự của Nhà

nước.

Quan điểm, đường lối chính sách pháp luật hình sự của Đảng và Nhà

nước ta là kiên quyết đấu tranh phòng, chống tội phạm. Với phương châm

giáo dục phòng ngừa, cảm hoá con người là chính, kết hợp răn đe, bên cạnh

đó đề cao bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, phát huy sức mạnh của các cơ

quan bảo vệ pháp luật, các tổ chức, đoàn thể trong xã hội và mọi công dân

trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.

Việc xử lý người phạm tội bằng việc áp dụng các chế tài của pháp luật

hình sự nhằm giáo dục, cải tạo người phạm tội và phòng ngừa chung. Trong

đó, phải xác định việc giáo dục người phạm tội là nhiệm vụ chính, để giáo

dục, cải tạo và tạo điều kiện cho người phạm tội sửa chữa sai lầm khuyết

63

điểm, giúp đỡ họ cải tạo tốt trở thành công dân có ích cho xã hội sau khi chấp

hành xong hình phạt.

Thứ hai, tiếp tục quá trình cải cách tư pháp và đưa vào cuộc sống.

Cải cách tư pháp là vấn đề có tính khách quan thể hiện tính quy luật

phát triển của cuộc sống cũng như sự phát triển của các quan hệ xã hội, dẫn

đến đòi hỏi những sự thay đổi, bổ sung cho phù hợp. Dù trong điều kiện,

hoàn cảnh, xã hội nào cũng đòi hỏi Nhà nước phải đổi mới hệ thống tư pháp,

trong đó việc sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật là cần thiết, bên cạnh

đó cũng yêu cầu đội ngũ thực thi pháp luật trong quá trình tố tụng, định tội,

xét xử, tuyên hình phạt trách nhiệm hình sự đối với tội phạm thể hiện trách

nhiệm trước Đảng, Nhà nước và trước người dân; đảm bảo việc xử lý đúng

tội danh, đúng trách nhiệm hình sự, đúng mức hình phạt, bảo đảm sự thống

nhất, tính đồng bộ, tính hệ thống của quá trình cải cách tư pháp đối với các

cơ quan pháp luật. Đồng thời, quá trình cải cách tư pháp cũng đòi hỏi đội

ngũ cán bộ tư pháp trong các cơ quan tố tụng phải nâng cao năng lực, trình

độ phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp. Một trong yêu cầu của cải cách tư

pháp là tiếp tục tăng cường công tác xử lý tội phạm và người phạm tội, tăng

cường tính hướng thiện, hạn chế hình phạt tử hình, giảm hình phạt tù, chuyển

sang những hình phạt khác nhưng vẫn đảm bảo tính chất giáo dục, răn đe

người phạm tội và những người có ý định phạm tội. Trên tinh thần đó, việc áp

dụng quy định của pháp luật hình sự về tội phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ phải đảm bảo tính công bằng, bình đẳng, dân chủ, phân hóa

trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt,… Đặc biệt trong điều kiện mở

chủ thể tham gia giao thông là chủ thể của tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ cũng đòi hỏi việc áp dụng pháp luật hình sự phải được

chính xác, kịp thời nhằm xử lý người phạm tội đúng pháp luật. Trong quá xét

xử, cần xem xét, đánh giá kỹ lưỡng tính chất nguy hiểm của từng hành vi

64

phạm tội, nguyên nhân, điều kiện phạm tội, mối quan hệ nhân quả trong

từng vụ việc, không để sự mâu thuẫn giữa các bản án, các phiên tòa với các

tội phạm cùng một tội danh. Do vậy yêu cầu đòi hỏi đối với đội ngũ thực thi

pháp luật phải nâng cao năng lực chuyên môn, trình độ am hiểu pháp luật,

phẩm chất đạo đức trong quá trình tiến hành tố tụng từ khâu khởi tố, điều tra

đến khâu định tội danh và xác định trách nhiệm hình sự, ra bản án.

Thứ ba, yêu cầu bảo đảm đầy đủ hơn quyền con người trong quá trình

Tố tụng hình sự.

Cùng với sự vận động và phát triển của xã hội hiện đại, vấn đề quyền

con người ngày càng được mở rộng và bảo đảm. Do đó, việc áp dụng đúng

đắn các quy định của pháp luật hình sự khi xử lý tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đồng bộ sẽ mang tính chất phòng ngừa ngay ở quyền và

nghĩa vụ của con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, không cho

tội phạm xâm hại các quyền con người (như quyền về bảo đảm tính mạng, sức

khỏe, tài sản,…), áp dụng chế tài pháp lý hình sự để ngăn ngừa tái phạm và

phòng ngừa người khác phạm tội. Mục đích đó chỉ có thể đạt được khi các cơ

quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng áp dụng đúng các quy định

pháp luật hình sự trên thực tế. Do vậy yêu cầu đặt ra là các cơ quan pháp luật

phải xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; Tuyệt đối không ép cung

hoặc áp đặt ý chí chủ quan, tôn trọng và đảm bảo tính khách quan trung

thực. Luôn tôn trọng quyền con người, đảm bảo người phạm tội được trình

bày lời khai, cũng như mong muốn được giảm hình phạt. Đồng thời phải tôn

trọng những người bào chữa cho bị can, bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp cho người bị hại, tuyệt đối không được coi nhẹ ý kiến của

người bảo chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đây

là một yêu cầu đòi hỏi các cơ quan pháp luật, đặc biệt đối với Hội đồng xét

65

xử phải tuân thủ bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải đảm bảo độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật.

Thứ tư, yêu cầu xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân theo

Hiến pháp và Nghị quyết của Đảng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước trong đó tất cả

quyền lực thuộc về người dân; các chủ trương, chính sách, quyết định, chỉ

thị, cũng như các quy định của nhà nước đều nhằm mục đích đảm bảo quyền

con người, quyền công dân và được phổ biến, tuyên truyền rộng rãi đến toàn

thể người dân để người dân “được biết, được bàn, được kiểm tra”. Đồng

thời, Nhà nước phải coi trọng những ý kiến phản hồi của người dân, thông

qua đó đánh giá chất lượng quản lý, vận hành của các cơ qua nhà nước. Xuất

phát từ yêu cầu đó, đòi hỏi các cơ quan như Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan

điều tra, những người tiến hành tố tụng hình sự như Thẩm phán, Kiểm sát

viên, Điều tra viên phải lắng nghe ý kiến của người dân, coi các ý kiến như

sự phản biện tích cực để từ đó thu thập chứng cứ, xử lý thông tin làm cơ sở

đối chiếu, phân tích đánh giá tính chất, hành vi, hậu quả khi được phân công

giải quyết các vụ án hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ. Từ đó, làm cơ sở bổ sung các căn cứ trong việc xác định tội danh,

trách nhiệm pháp lý, mức hình phạt đúng với pháp luật hình sự quy định,

tránh tình trạng chủ quan, duy ý chí.

Thứ năm, yêu cầu của hội nhập quốc tế

Quá trình hội nhập quốc tế ngày càng phát triển, thông qua việc hợp

tác, liên kết, mở rộng quan hệ, thực hiện các hiệp định, tương trợ tư pháp

liên quan về xét xử các tội vi phạm, trong đó có tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ. Do đó, việc xét xử các tội vi phạm nói trên

không chỉ bó hẹp trong phạm vi pháp luật của quốc gia mà còn phù hợp với

pháp luật quốc tế. Ngày nay, Việt Nam ta đang ngày càng mở rộng nền kinh

66

tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, qua đó tạo điều kiện thúc

đẩy sự giao lưu giữa các nước, giữa công dân các nước, trong đó có du

khách quốc tế tham quan du lịch và làm việc ở nước ta. Do vậy, việc áp

dụng pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ của các cơ quan pháp luật đáp ứng yêu cầu ngày càng cao, đòi hỏi

có tính khách quan, phù hợp với luật pháp quốc tế.

3.2. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các quy định của pháp

luật hình sự về xử lý tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện và ban hành các văn bản hướng dẫn các

quy định của pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ

BLHS năm 2015 đã quy định khá đầy đủ về tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ, nhưng xét thấy để tạo cơ sở pháp lý cho quá

trình áp dụng đúng pháp luật khi xử lý tội phạm vi phạm quy định về tham

gia đường bộ đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

ở trong nước và các địa phương đòi hỏi cần tiếp tục bổ sung hoàn thiện pháp

luật, cụ thể là:

- Cần bổ sung hoặc khi chưa bổ sung được thì có những hướng dẫn cụ

thể để áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật hình sự khi xem xét xử

lý tội phạm người phạm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ, nhất là trong những vụ việc vừa có thiệt hại về người, vừa có thiệt hại về

tài sản hoặc trong những vụ việc có lỗi của cả hai bên.

- Về tình tiết “có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh

khác” [4.Điều 260]. Thực tiễn cuộc sống hiện nay cho thấy có rất nhiều loại

ma túy, các chất tương tự như ma túy được sử dung tràn lan trong xã hội

như: Methammethamine, ketamine, herroin, cần sa, cỏ Mỹ, bóng cười, nước

67

biển, ma túy tổng hợp,... tuy nhiên trong danh mục các chất được coi là ma

túy còn chưa kịp thời cập nhật nên có trường hợp sẽ khó khăn trong việc

xem xét xử lý đối với những người này. Mặt khác, cần có hướng dẫn cụ thể

đâu là chất kích thích mạnh khác.

- Về tình tiết: “Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu

giúp người bị nạn”. Việc sau khi gây tai nạn giao thông, người tham gia giao

thông có thể bỏ chạy vì nhiều lý do khác nhau, có thể do tâm lý sợ hãi sau khi

gây tai nạn, lo sợ người nhà nạn nhân trả thù, có thể cùng người dân đưa nạn

nhân đi cấp cứu nhưng không vào bệnh viện mà chỉ ở bên ngoài,… nhưng sau

một thời gian trấn an tâm lý họ tới cơ quan có thẩm quyền để đầu thú. Theo

tôi trường hợp này người phạm tội không bị áp dụng tình tiết quy định tại

điểm c khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự. Mặt khác, “cố ý không cứu giúp

người bị nạn” là như thế nào? Trong trường hợp này cần xác định điều kiện

cứu giúp của người gây tai nạn là như thế nào, họ có khả năng hoặc không có

khả năng cứu giúp; trong trường hợp này chỉ xem xét trách nhiệm khi người

này có khả năng cứu giúp nhưng cố ý không thực hiện việc cứu giúp người bị

nạn.

- Tại khoản 4 Điều 260 BLHS 2015 có quy định “Vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến

hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b, c khoản 3 Điều này nếu không

được ngăn chặn kịp thời…” [4. Điều 260]. Đây là quy định mang tính định

tính, suy đoán, do đó cần phải có văn bản hướng dẫn cụ thể trong các trường

hợp này, nếu chỉ quy định chung chung như vậy sẽ rất khó xác định và áp

dụng.

68

3.2.2 Tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật hình sự mới được

bổ sung, sửa đổi

Cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp

luật hình sự nói chung, các quy định hình sự về bảo đảm trật tự, an toàn giao

thông. Bên cạnh đó cần tiến hành hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật, đặc biệt là những quy định pháp luật hình sự mới trên nhiều

phương diện, đa dạng dưới nhiều hình thức khác nhau. Việc tuyên truyền,

phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, hàng

đầu nhằm từng bước nâng cao trình độ dân trí về pháp lý, hiểu biết pháp

luật, ý thức pháp luật, thực hiện đúng, nghiêm chỉnh pháp luật, xác lập kỷ

cương, ổn định chính trị xã hội.

Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật hình sự cần thực hiện rộng

rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng như: báo viết, báo điện tử, đài

phát thanh, đài truyền hình, các chương trình, chuyên mục về tìm hiểu luật

giao thông đường bộ, tổ chức các buổi tọa đàm ở các cơ quan nhà nước, tổ

chức quần chúng trên địa bàn là cần thiết, do vậy phải được tiến hành

thường xuyên, có kế hoạch và hệ thống.

Các cơ quan nhà nước, các tổ chức, các đoàn thể, các trường học cũng

phải có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cho cán bộ và người

lao động, học sinh nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật khi tham gia giao

thông đường bộ. Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo đảm

trật tự, an toàn giao thông cần phải nghiên cứu sao cho phù hợp với từng loại

đối tượng, cần tập trung vào các đối tượng học sinh, thiếu niên, thanh niên;

người sử dụng môtô, xe máy; người điều khiển xe thô sơ; người lái ôtô; cán

bộ công nhân viên chức ở các quan xí nghiệp, người dân nghèo sống trên các

khu vực hành lang giao thông; nội dung, hình thức tuyên truyền cần đa dạng,

phong phú, thiết thực. Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm khi tham gia

69

giao thông đường bộ, đồng thời tiến hành khen thưởng, biểu dương gương

người tốt, việc tốt trong lĩnh vực bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường

bộ.

3.2.3. Tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng đúng pháp luật hình

sự trong việc xử lý tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

Để áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ các cơ quan TAND, VKSND, Cơ quan điều tra cần

thường xuyên tổ chức những hội nghị chuyên đề về việc áp dụng quy định

pháp luật hình sự đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ để thống nhất việc áp dụng pháp luật hình sự trong công tác giải quyết về

tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn

tỉnh Bắc Ninh.

Đặc biệt TAND tỉnh Bắc Ninh cần thường xuyên kiểm tra, đánh giá

chất lượng, xét xử các phiên tòa trong thời gian qua như thế nào, để từ đó

làm điển hình cho các huyện, thị xã, thành phố áp dụng theo. Sáu tháng đến

một năm tổ chức các hội nghị sơ kết, tổng kết công tác xét xử tội phạm này

để đánh giá nguyên nhân, điều kiện, kết quả áp dụng pháp luật hình sự đối

với tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, bên cạnh

đó chỉ ra những hạn chế, những sai sót trong việc định tội danh và áp dụng

hình phạt để đưa ra những biện pháp bảo đảm nhằm áp dụng pháp luật một

cách phù hợp nhất với thực tiễn, tính chất và mức độ phạm tội, cần áp dụng

thống nhất trong những trường hợp tương tự nhau đối với những vụ án tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nhưng Tòa án áp dụng mức

hình phạt khác nhau trong quá trình xét xử, tuyên phạt các bị cáo.

70

3.2.4. Tăng cường sự phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát

và Tòa án trong việc áp dụng pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ

Đây chính là nhiệm vụ trọng tâm của ba Cơ quan điều tra, Viện kiểm

sát và Tòa án trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và giải quyết

các vụ án về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng.

Việc phối hợp phải kịp thời, kể từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về

các vụ giao thông đường bộ cho đến khi khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử,

bảo đảm cho Tòa án tuyên một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Thực tiễn cho thấy, địa phương nào có sự phối hợp tốt giữa các Cơ

quan tiến hành tố tụng thì ở địa phương đó việc điều tra, truy tố xét xử các vụ

án “vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ” được nhanh

chóng, kịp thời, chính xác phục vụ được nhiệm vụ chính trị địa phương, bảo

vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, hạn chế tới mức thấp nhất

việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, bảo đảm nguyên tắc không làm oan người

vô tội và không để lọt kẻ phạm tội, được dư luận đồng tình ủng hộ do vậy đòi

hỏi:

Để bảo đảm nâng cao hiệu quả của công tác xét xử các vụ án hình sự

nói chung và các vụ án về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ nói riêng, giữa các cơ quan tiến hành tố tụng cần xây dựng quy chế phối

hợp trong công tác giải quyết án hình sự nhằm tạo mối liên hệ cần thiết, bổ

sung cho nhau, kịp thời khắc phục những sai sót trong hoạt động tố tụng hình

sự, bảo đảm việc điều tra, truy tố, xét xử được khách quan, chính xác, đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật và nâng cao vị thế, uy tín của các cơ quan tiến

hành tố tụng.

71

3.2.5. Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ áp dụng pháp luật

Cần phải nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng có ý nghĩa quyết định

trong việc áp dụng pháp luật hình sự của đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát

viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, trong đó tập trung đến nâng cao năng

lực nhận thức, áp dụng các quy định pháp luật hình sự khi được phân công

nhiệm vụ giải quyết các vụ án hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ; Bên cạnh đó, cần phải xây dựng đội ngũ luật sư có tâm

và có tầm, có trình độ tổng hợp, công tâm, trung thực không vì một lý do

nào khác mà bào chữa sai sự thật, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp

của thân chủ khi tham gia với tư các là người bào chữa hoặc người bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự. Ngoài ra, tăng cường sự tham gia của

các Trợ giúp viên pháp lý đối với những vụ án có người đủ điều kiện được

trợ giúp pháp lý theo quy định tại Luật trợ giúp pháp lý. Để nâng cao năng

lực, trình độ chuyên môn của những người áp dụng pháp luật, tác giả đưa ra

một số giải pháp như sau:

- Việc đào tạo Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Luật sư, trợ

giúp viên pháp lý tại các trường như Học viện tòa án, trường Đại học kiểm

sát, Học viện cảnh sát, Học viện an ninh, Học viện tư pháp vừa đi đôi giữa

lý thuyết và đào tạo thực tiễn. Bổ sung tiêu chuẩn tuyển chọn thẩm phán như

là những người giỏi chuyên môn, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ hiểu

biết xã hội nhất định theo tinh thần của Luật tổ chức TAND năm 2014.

- Tăng cường công tác đào tạo thông qua các phiên tòa rút kinh

nghiệm có sự tham gia của đông đảo cán bộ, thẩm phán, kiểm sát viên, qua

đó nâng cao năng lực chuyên môn, tăng cường sự hiểu biết, trao đổi, học tập

kinh nghiệm, tích lũy của bản thân.

- Định kỳ hàng năm tổ chức các cuộc họp, tổng kết đúc rút kinh

nghiệm công tác xét xử các vụ án về tội vi phạm quy định về tham gia giao

72

thông đường bộ, qua đó giải đáp những thắc mắc, khó khăn khi áp dụng

pháp luật trong công tác định tội danh và quyết định hình phạt.

- Bổ sung thêm các tiêu chí khi bổ nhiệm Hội thẩm nhân dân như tiêu

chí là người đã từng công tác trong lĩnh vực pháp luật hoặc đào tạo chuyên

ngành luật để khi tha gia xét xử Hội thẩm nhân dân là người có thể đánh giá

được tính chất, mức độ nguy hiểm cũng như am hiểu các quy định của pháp

luật hình sự về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

- Tiến đến xây dựng hệ thống Tòa án chuyên môn xét xử đối với các

tội phạm về trật tự an toàn giao thông đường bộ nói chung và tội vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ nói riêng.

- Nhìn chung chế độ chính sách đối với Thẩm phán, Kiểm sát viên,

Điều tra viên hiện nay còn nhiều bất cập, đời sống của đội ngũ này còn

nhiều khó khăn. Do đó, cần xây dựng chế độ chính sách đãi ngộ, có chính

sách đồng bộ khuyến khích về mặt lợi ích vật chất, gắn với động viên tinh

thần của đội ngũ này, nhằm đề cao tinh thần trách nhiệm, kỷ luật, đạo đức

nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên,

Điều tra viên và các luật sư, tạo sự yên tâm công tác, giữ vững được phẩm

chất, và tránh những tiêu cực của đội ngũ này khi thực hiện công tác giải

quyết các vụ án hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ.

73

Tiểu kết chương 3

Trong chương này tác giả đã đề cập một số yêu cầu về việc áp dụng

đúng pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ, đồng thời đã đưa ra 05 nhóm giải pháp nhằm áp dụng đúng pháp

luật hình sự trong công tác giải quyết các vụ án hình sự về tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ. Đây là những giải pháp có tính khả

thi có thể áp dụng vào điều kiện thực tế tại tỉnh Bắc Ninh nói riêng và toàn

quốc nói chung.

74

KẾT LUẬN

Bảo đảm việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về tội

vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ở nước ta nói chung và

tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng là vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận và thực

tiễn.

Luận văn đã trình bày một cách khái quát về cơ sở pháp lý liên quan

đến các hệ thống pháp luật, đặc biệt các quy định của pháp luật hình sự về

tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Đồng thời cũng đã

làm rõ cơ sở pháp lý của việc xác định tội danh và trách nhiệm hình sự của

tội phạm khi tham gia giao thông gây hậu quả như làm chết người, bị thương

hoặc/và thiệt hại về tài sản lớn. Luận văn cũng đã phân tích thực trạng áp

dụng pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ tại tỉnh Bắc Ninh trong 5 năm từ năm 2014 đến năm 2018 về

những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế bất cập trong công tác

định tội danh và xác định trách nhiệm hình sự của các bị cáo. Đặc biệt luận

văn đã đề ra 05 yêu cầu và 05 nhóm giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng đúng

pháp luật hình sự khi giải quyết các vụ án hình sự về tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ giúp góp thêm ý kiến giải quyết vấn đề

đang “nóng” của xã hội hiện nay.

Trong đó tập trung chủ yếu vào việc nâng cao trình độ nhận thức, kỹ

năng xét xử của Tòa án, Viện kiểm sát nói chung và Thẩm phán, Hội thẩm

nhân dân, Kiểm sát viên nói riêng khi tham gia giải quyết các vụ án về tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, đề cập các giải pháp nhằm

nâng cao đến đội ngũ làm công tác pháp luật. Các giải pháp có tính đồng bộ

và tính khả thi có thể áp dụng vào điều kiện thực tế của tỉnh Bắc Ninh trong

hiện tại và thời gian tới.

75

Mặc dù bản thân đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu và

thực tế để hoàn thành luận văn, tuy nhiên do thời gian và năng lực có hạn,

bên cạnh đó việc giải quyết về vấn đề về giao thông và tai nạn giao thông

ngày càng diễn ra phức tạp, khó khăn đòi hỏi phải tập trung nghiên cứu một

cách sâu sắc để có nhiều giải pháp thiết thực hơn. Do vậy, luận văn sẽ còn

có những hạn chế, khiếm khuyết nhất định. Vì vậy tác giả kính mong sự

quan tâm, trao đổi, hướng dẫn của các nhà khoa học trong hội đồng, cùng

những nhà khoa học đi trước tham gia đóng góp ý kiến để bản thân lĩnh hội,

tiếp thu và hoàn thiện bài khóa luận nhằm đạt được kết quả tốt nhất.

76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ luật hình sự năm 1985 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam.

2. Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 của nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

3. Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 của nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

4. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam.

5. Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 04-09-2012 của Ban Bí thư Trung

ương Đảng;

6. Luật đi đường bộ năm 1955 của Nước Việt Nam dân chủ cộng

hòa.

7. Nghị định số 348 ngày 03/12/1955 của nước Việt Nam dân chủ

cộng hòa.

8. Thông tư số 442/TTg ngày 19/01/1955 của Thủ tướng chính phủ

nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

9. Thông tư 556/TTg, ngày 29/6/1956 của Thủ tướng chính phủ

nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

10. Nghị định số 139/NĐ ngày 19/12/1956 của Bộ Giao thông Bưu

điện;

11. Nghị định số 44/NĐ ngày 27/5/1958 của Bộ Giao thông Bưu

điện;

12. Nghị định Liên bộ Giao thông Bưu điện - Công an số 09/NĐLB

ngày 07/3/1956 ban hành thể lệ tạm thời về vận tải đường bộ;

13. Nghi định số 10 ngày 11/01/1968 của Hội đồng Chính phủ ban

hành Điều lệ về kỷ luật an toàn giao thông vận tải trong thời chiến.

77

14. Công văn số 949 -NCPL ngày 25/11/1968 của Toà án nhân dân

tối cao.

15. Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 của Chính phủ.

16. Luật giao thông đường bộ năm 2008 của nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam.

17. Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-

VKSNDTC-TANDTC ngày 28/8/2013 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ

Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao.

18. Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ

quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và

đường sắt.

19. Thông tư số 38/2019 ngày 08/10/2019 sửa đổi, bổ sung một số

điều Thông tư số 12/2017/TT-BGTVT ngày 15/4/2017 của Bộ trưởng Bộ giao

thông vận tải quy định về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới

đường bộ.

20. Bộ luật dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam.

21. Nghị Quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội

đồng Thẩm phán.

22. Bùi Kiến Quốc (2001), “Các biện pháp đấu tranh phòng, chống

tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ ở Thủ đô

Hà Nội”, Luận án tiến sỹ luật học;

23. Nguyễn Văn Tuyên (2018), “Kiểm sát điều tra tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn”, Luận văn

thạc sĩ;

78

24. Nguyễn Hồng Phong (2019) “Tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực

tiễn thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ;

25. Nguyễn Quang Tuấn (2016), “Kiểm sát điều tra vụ án vi phạm

quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ từ thực tiễn tại tỉnh

Bắc Ninh”, Luận văn thạc sỹ luật học;

26. Nguyễn Đắc Dũng (2011), “Tội vi phạm quy định về điều khiển

phương tiện giao thông đường bộ trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở

nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Ninh)”, Luận văn thạc sĩ;

27. GS.TS Võ Khánh Vinh (2013), Chương X: Các tội xâm

phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: Giáo trình Luật

Hình sự Việt Nam – Phần các tội phạm, do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

28. GS.TS Võ Khánh Vinh (2013) Giáo trình Lý luận chung về định

tội danh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

29. GS.TS Võ Khánh Vinh (2014) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam

- Phần chung, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

30. GS.TS Võ Khánh Vinh (2014) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam

- Phần các tội phạm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

31. Dương Tuyết Miên (2003), Quyết định hình phạt trong luật hình

sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, Hà Nội.

32. Dương Tuyết Miên (2007), Định tội danh và quyết định hình

phạt, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

33. TS. Phạm Minh Tuyên (2014), Các tội phạm xâm phạm

trật tự, an toàn giao thông đường bộ (Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xét

xử ở Việt Nam), NXB Thanh niên.

79

34. TS. Cao Thị Oanh (2010), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam,

Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

35. GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa (2018), Giáo trình Luật Hình sự Việt

Nam, Nxb Công an nhân dân.

36. GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa (2005), Giáo trình Luật hình sự

Việt Nam, Nxb Công an nhân dân.

37. GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa (2018), Bình luận khoa học Bộ luật

Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nxb Tư pháp.

38. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần

các tội phạm, tập VII, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.

39. Trần Minh Hưởng (2010) "Chương XIX - Các tội xâm phạm an

toàn công cộng, trật tự công cộng", Trong sách: Tìm hiểu Bộ luật hình

sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những văn bản hướng dẫn

thi hành, Nxb Lao động.

40. Lê Văn Luật (2011), Xác định lỗi khi định tội danh và

quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về điều khiển tham gia giao

thông đường bộ đường bộ một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Khoa

học 2011 bàn về tội vi phạm giao thông đường bộ theo Bộ luật hình sự năm

2015 - Tòa án nhân dân, tr. 10-14.

41. Nguyễn Duy Nam (2017), Bàn về tội vi phạm quy định tham gia

giao thông đường bộ tại Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015, website:

http://moj.gov.vn.

42. Tổng kết năm công tác của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc

Ninh các năm 2014, 2015, 2016, 2017 và 2018.

43. 187 bản án về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện

giao thông đường bộ và 21 bản án tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ.

80