VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HỒNG PHONG

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG

ĐƯỜNG BỘ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HỒNG PHONG

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIAGIAO THÔNG

ĐƯỜNG BỘ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số:838.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. PHẠM MINH TUYÊN

HÀ NỘI, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn

Thạc sĩ Luật học về “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí

Minh” là hoàn toàn trung thực và không trùng lắp với các đề tài nghiên cứu

khác. Các số liệu, nội dung trình bày trong luận văn có trích dẫn nguồn gốc.

Luận văn này là đề tài nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa

học của thầy giáo, TS. Phạm Minh Tuyên.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Nguyễn Hồng Phong

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

Chương 1:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH

VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRONG PHÁP LUẬT

HÌNH SỰ VIỆT NAM ................................................................................. 8

1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ theo Luật hình sự hiện hành .................................. 8

1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ ..................................................................... 18

Chương 2:THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT

HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA

GIAO THÔNGĐƯỜNG BỘ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ......... 32

2.1. Khái quát tình hình xét xử tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ tại thành phố Hồ Chí Minh .......................................................... 32

2.2. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ của Tòa án tại thành phố Hồ Chí Minh ...................................... 35

2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh .... 40

Chương 3:CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM ĐÚNG

TRONG ÁP DỤNGPHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM QUY

ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI THÀNH PHỐ

HỒ CHÍ MINH .......................................................................................... 50

3.1. Yêu cầu đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hồ

Chí Minh ...................................................................................................... 50

3.2. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự

về xử lý tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ................ 53

KẾT LUẬN................................................................................................. 62

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

An toàn giao thông ATGT

Bộ Luật Hình sự BLHS

Bộ luật Tố tụng hình sự BLTTHS

Cấu thành tội phạm CTTP

Giao thông đường bộ GTĐB

Tòa án nhân dân TAND

Tòa án nhân dân tối cao TANDTC

Trách nhiệm hình sự TNHS

Viện kiểm sát nhân dân VKSND

Xã hội chủ nghĩa XHCN

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Tình hình tai nạn GTĐB và va chạm giao thông trên địa bàn thành

phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến năm 2018 ............................................... 33

Bảng 2.2. Số vụ và số bị cáo phạm tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ từ 2014 – 2018 ...................................................................... 34

Bảng 2.3. Cơ cấu hình phạt Tòa án áp dụng khi xét xử sơ thẩm tội “vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ” trên địa bàn Thành phố giai đoạn

2014 - 2018 ...................................................................................................... 40

Bảng 2.4. Tỷ lệ bị cáo được Tòa án sơ thẩm cho hưởng án treo trên tổng số bị

cáo bị xử phạt tù không quá 3 năm trên địa bàn Thành phố giai đoạn từ năm

2014 đến năm 2018 ......................................................................................... 41

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quá trình đổi mới và phát triển đất nước, thành phố Hồ Chí Minh đã

không ngừng phấn đấu đạt được nhiều thành tựu trong quá trình phát triển về

hạ tầng và phương tiện giao thông đáp ứng ngày càng cao nhu cầu và sự phát

triển xã hội. Thành phố Hồ Chí Minh đặt mục tiêu trở thành thành phố thông

minh, hiện đại, nghĩa tình, nhưng bên cạnh những mục tiêu đó, Thành phố

cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, một trong số đó là

tình hình tội phạm nói chung và tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ nói riêng đang diễn biến phức tạp, tác động xấu đến tình hình an

ninh, trật tự và sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố Hồ Chí Minh, đầu

tàu kinh tế, văn hóa, xã hội của cả nước .

Theo số liệu của Ban an toàn giao thông thành phố Hồ Chí Minh, tình

hình trật tự ATGT trên địa bàn có những diễn biến phức tạp, tuy số vụ TNGT

có giảm nhưng chưa bền vững, các trường hợp vi phạm giao thông lại tăng, số

người chết vẫn ở mức cao. Cụ thể, trong năm 2018, trên địa bàn TP.HCM xảy

ra tổng cộng 3.643 vụ tai nạn giao thông (kể cả va chạm giao thông), làm chết

702 người, bị thương 2.517 người. So với cùng kỳ năm 2017 giảm 245 vụ

(giảm 6,3%), giảm 41 người chết (giảm 6,91%) và giảm 440 người bị thương

(giảm 17,75%). [25]

Tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa

bàn thành phố Hồ Chí Minh là do chủ thể điều khiển phương tiện giao thông

đường bộ; đã để tình trạng mình say rượu, bia hay dùng các chất kích thích

khác, rồi sau đó chạy quá tốc độ, còn đối với người đi bộ thì lại đi không đúng

làn đường, phần đường, có khi còn chuyển hướng nhưng lại không quan sát,

làm cản trở các phương tiện giao thông khác rồi dẫn đến gây ra tai nạn

1

nghiêm trọng hoặc tai nạn rất nghiêm trọng, liên quan đến sức khỏe, tài sản

của người khác.

Trong thời gian vừa qua, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh

vàcác cơ quan bảo vệ pháp luật khác đã có nhiều biện pháp tích cực trong

công tác phòng, chống tội phạm. Quá trình xét xử các vụ án vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ nhìn chung là nghiêm minh, góp phần tích

cực cho hoạt động phòng, chống tội phạm, bước đầu giảm được số vụ và số

người chết, bị thương, qua đó nâng cao hiệu lực của bộ máy Nhà nước về xử

lý vấn đề này.

Dù vậy, xét trên phương diện thực tiễn, việc xác định tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

trong hoạt động phòng và chống tội phạm này còn để xảy ra tình trạng thụ

động, thiếu cơ sở pháp lý và thiếu tính khoa học. Khi áp dụng pháp luật hình

sự, một số dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ vẫn chưa được làm rõ hoặc định tội danh xử lý trách nhiệm hình sự

chưa đúng quy định pháp luật với một số nguyên nhân khách quan và chủ

quan.

Nhằm giúp cho hoạt động phòng, chống tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ trên địa bàn Thành phố đạt hiệu quả, cần thiết các cơ

quan bảo vệ pháp luật, đặc biệt Công an,Tòa án, Viện kiểm sát phải có giải

pháp đúng đắn, phải có cơ sở khoa học, tính pháp lý về định tội danh và xác

định trách nhiệm hình sự đúng đối tượng vi phạm. Và phải có sự liên lạc, trao

đổi thông tin một cách đồng bộ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt

các cơ quan tham mưu, cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực pháp luật. Tiếp

tục bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, quan trọng là phẩm

chất của đội ngũ cán bộ công chức trong các cơ quan pháp luật.

2

Để vấn đề trên mang tính khả thi, người có thẩm quyền phải trang bị

nền tảng pháp lý vững vàng và phải có giải pháp thiết thực cho đội ngũ cán bộ

cơ quan bảo vệ pháp luật của Thành phố trong hoạt động đấu tranh với tội vi

phạm quy định tham gia giao thông trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Vì

thế, tôi chọn đề tài: “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

theo quy định của pháp luật hình sự Việt Namtừ thực tiễn thành phố Hồ Chí

Minh” để nghiên cứu làm luận văn thạc sỹ với mong muốn làm rõ hơn những

bất cập quy định trong luật hiện hành, cũng như đóng góp một số ý kiến nhỏ

xung quanh việc nâng cao hiệu quả hoạt động đấu tranh phòng, chống tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hồ

Chí Minh trong thời gian tới.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Cho đến hiện tại đã có các công trình nghiên cứu khoa học của các tác

giả đề cập đến các vấn đề liên quan đến tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ. Cụ thể như:

- Nguyễn Thế Anh (2013), Đấu tranh phòng chống tội vi phạm quy

định về điều khiển tham gia giao thông đường bộ đường bộ trên địa bàn tỉnh

Quảng Bình . Luận văn thạc sĩ luật học.

- Phạm Thị Thanh Thảo (2008), Đấu tranh phòng chống tội vi phạm

quy định về điều khiển tham gia giao thông đường bộ đường bộ tại tỉnh Long

An, Luận văn tiến sĩ luật học.

- Bùi Kiến Quốc (2001), Các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội vi

phạm quy định về điều khiển tham gia giao thông đường bộ đường bộ ở Thủ

đô Hà Nội, Luận văn tiến sĩ luật học.

- Ngô Hoàng Huy (2010), Đấu tranh phòng chống tội vi phạm quy định

về điều khiển tham gia giao thông đường bộ đường bộ trên địa bàn tỉnh Tiền

Giang và Bến Tre. Luận văn thạc sĩ.

3

Và các giáo trình giảng dạy tại các trường Đại học gồm:

- GS.TS. Võ Khánh Vinh (2013), Chương X: Các tội xâm phạm an

toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: Giáo trình Luật Hình sự Việt

Nam – Phần các tội phạm, do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

- TS. Phạm Minh Tuyên (2014), Các tội phạm xâm phạm trật tự, an

toàn giao thông đường bộ (Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử ở Việt

Nam), NXB Thanh niên.

- TS. Cao Thị Oanh (2010), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Nxb

Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

Bên cạnh đó, cũng đã có một số bài viết được đăng trên các tạp chí về

tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như:

- Tạp chí Khoa học 2011 bàn về tội vi phạm GTĐB theo Bộ luật hình

sự năm 2015 Lê Văn Luật (2011), Xác định lỗi khi định tội danh và quyết

định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về điều khiển tham gia giao thông

đường bộ đường bộ một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tòa án nhân dân, tr.

10-14.

- Lê Văn Meo (2013), Trần Thị H. Phạm tội quy định về điều khiển

tham gia giao thông đường bộ đường bộ, Tòa án nhân dân, tr.27-28.

- Mai Thế Cần (2010), Tội vi phạm quy định về điều khiển tham gia

giao thông đường bộ đường bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam.

Có thể thấy rằng các công trình khoa học trên đa số tập trung chủ yếu

nghiên cứu về hoạt động đấu tranh đối với tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông, chưa tập trung nêu lên thực trạng, phân tích hạn chế bất cập,

nguyên nhân để đưa ra giải pháp đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ có tính thực thi và hiệu quả.

4

Tôi chọn việc nghiên cứu tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành

phố Hồ Chí Minh còn là vấn đề cần phải được quan tâm hơn, từ đó đặt ra vấn

đề nghiên cứu sâu hơn, làm rõ hơn những bất cập.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu:

Bằng việc phân tích dựa trên vấn đề lý luận và pháp luật cũng như thực

trạng tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo pháp luật

hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh trong 5 năm (2014 -

2018) luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự

về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ và góp ý kiến điều

chỉnh một số bất cập trong luật hiện hành.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý cũng như các quy định

pháp luật về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Nhằm phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

và các loại tội phạm khác trong Bộ luật hình sự năm 2015.

Đánh giá tình hình thực tiễn về định tội danh và quyết định hình phạt

đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ mà Tòa án

nhân dân thành phố Hổ Chí Minh đưa ra, thấy được những bất cập, hạn chế

trong việc áp dụng pháp luật hình sự đối với tội phạm này.

Từ đó nêu lên các giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng đúng pháp luật

hình sự đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại

thành phố Hồ Chí Minh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

5

Đối tượng nghiên cứu là Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành

phố Hồ Chí Minh trong 5 năm (2014 - 2018).

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Tác giả nghiên cứu theo chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.

Không gian nghiên cứu được giới hạn tại thành phố Hồ Chí Minh. Thời gian

nghiên cứu được xác định từ năm 2014 đến năm 2018.

Về thực tiễn áp dụng thì tác giả nghiên cứu quy định của pháp luật hình

sự Việt Nam cùng với việc tìm thêm nhiều đề tài nghiên cứu, bài viết cũng

liên quan đến tội phạm này thông qua các nội dung đã được nghiên cứu trong

phạm vi thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, trong luận văn chỉ đề cập đến định

tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo pháp luật

hình sự Việt Nam.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Dựa trên phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và quan

trọng hơn đó là áp dụng thật hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh vào trong

phương pháp luận đó. Dựa vào quan điểm, chính sách của Đảng và pháp luật

của Nhà nước Việt Nam để nhìn nhận, đánh giá và giải quyết các vấn đề lý

luận chung về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, về định

tội danh và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân

tích, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học,lý luận gắn thực tiễn và các

phương pháp khác liên quan để nghiên cứu đề tài này.

6

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ bao gồm các

vấn đề chung vàcác vấn đề về định tội danh, trách nhiệm hình sự được áp

dụng. Dựa trên việc nghiên cứu lý luận các vấn đề liên quan, tác giả làm sáng

tỏ phần lý luận về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ cũng

như đề cập đến nội dung về tội vi phạm tham gia giao thông đường bộ nhằm

góp phần nâng cao hiệu quả và vai trò trong hoạt động phòng, chống xử lý tội

phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham

khảo cho các cơ quan, cá nhân tiến hành tố tụng (Thẩm phán, Hội thẩm nhân

dân, Kiểm sát viên, Luật sư) các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan quản lý

nhà nước và các các cơ quan tại các địa phương khác sử dụng làm tài liệu

tham khảo, áp dụng trong hoạt động phòng, chống tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ theo Luật hình sự hiện hành.

7. Kết cấu của luận văn

- Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ trong pháp luật hình sự Việt Nam.

- Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt

Nam về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại thành phố

Hồ Chí Minh.

- Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp nhằm đảm bảo đúng trong áp

dụng pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ tại thành phố Hồ Chí Minh.

7

Chương 1:

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM

GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘTRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM

1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộtheo Luật hình sự hiện hành

1.1.1.Khái niệm về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ

Trong các khái niệm về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ dưới góc độ Luật hình sự của các tác giả, nhà nghiên cứu khoa học.

Nhằm xác định và đưa ra các yêu cầu theo pháp luật hình sự trong công cuộc

đấu tranh phòng, chống tội phạm, đầu tiên tacần làm rõ khái niệm tội vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Trong Bộ luật hình sự năm 2015 tại Điều 260 có quy định tội phạm vi

phạm quy định về tham gia GTĐB được hiểu như sau: đó là việc một người

có hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ và người này

điều khiển hoặc sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; hoặc

người này dẫn dắt súc vật hoặc người này thực hiện hành vi đi bộ trên đường

bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ,

tài sản của người khác.

Vậy hành vi của người điều khiển phương tiện đường bộ hoặc thực

hiện hành vi như đi bộ, chăn dắt súc vật nhưng vi phạm quy định về an toàn

GTĐB, sẽ là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi

chịu trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi một cách vô ý, và người đó đã gây

thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác hoặc gây thiệt hại

cho tính mạng của người khác.

8

Theo quy định tại Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015, tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ có những đặc điểm riêng và đặc điểm

chung của tội phạm là:

Thứ nhất, đặc điểm mang tính nguy hiểm cho xã hội: Theo quy định

của BLHS thì tính nguy hiểm được hiểu là đã hoặc đe dọa gây ra hậu quả,

xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Đối với tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông thì tính nguy hiểm được hiểu là đã

hoặc sẽ xâm hại đến an toàn công cộng, trật tự công cộng, gây thiệt hại đến

tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác.

Thứ hai: Về hành vi, đây là những hành vi không tuân thủ các quy định

về tham gia giao thông đường bộ bằng cách không thực hiện hoặc không thực

hiện đúng các quy định về an toàn khi tham gia giao thông.

Thứ ba: Về ý chí chủ quan, được thể hiện dưới dạng lỗi vô ý thưởng

được thực hiện thông qua hình thức vô ý vì tự tin và vô ý do cẩu thả.

Thứ tư: Đặc điểm về chủ thể, là bất kỳ ai từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng

lực trách nhiệm hình sự

Căn cứ vào đặc điểm trên, đã có những quan điểm khác nhau về khái

niệm của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như sau:

Theo tác giả Đinh Văn Quế thì “Vi phạm quy định về điều khiển

phương tiện giao thông đường bộ là hành vi vi phạm quy định về an toàn giao

thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng

cho sức khỏe, tài sản của người khác” [27, tr.13]. Quan điểm này mới chỉ nêu

định nghĩa hành vi chứ chưa làm rõ khái niệm tội vi phạm quy định về điều

khiển phương tiện giao thông đường bộ, hơn nữa, hành vi phạm tội khác tội

phạm, vì khái niệm tội phạm đòi hỏi phải đầy đủ như khái niệm trong Điều 8

Bộ luật hình sự năm 2015 hiện hành.

9

Còn tác giả Trần Minh Hưởng lại cho rằng “Tội vi phạm quy định về

điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là hành vi xâm phạm những quy

định của Nhà nước về an toàn giao thông đường bộ”[15, tr.434]. Chúng tôi

cho rằng, quan điểm này khá chung chung, chưa đầy đủ và chưa nêu cụ thể

hành vi phạm tội và dấu hiệu chủ thể của tội phạm này [15].

Đặc biệt tác giả Ngô Ngọc Thủy lại đưa ra quan điểm cụ thể hóa hơn

biểu hiện của hành vi phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện

giao thông đường bộ và đã nêu tương đối đầy đủ nội dung khái niệm tội này,

song vẫn thiếu dấu hiệu chủ thể của tội phạm [40], theo đó:

“Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện GTĐB( đây là cách

giải thích theo quy định tại Điều 202 BLHS năm 1999), tức là hành vi của

người điều khiển phương tiện GTĐB nhưng mà vi phạm quy định về an toàn

GTĐB sau đó gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người

khác hoặc gây thiệt hại cho tính mạng người khác”.

Tác giả cơ bản đồng ý với khái niệm trên, vì khái niệm trên đã bao quát

được tính nguy hiểm của hành vi, chỉ ra được khách thể bị xâm hại và chủ thể

vi phạm…

Tóm lại, dưới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ cần thể hiện được đầy đủ cả ba bình

diện tương ứng với năm đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản của khái niệm tội phạm

(chung) đã nêu trên. Do đó, tác giả luận văn đã tổng hợp và đưa ra khái niệm

tội phạm này theo định nghĩa như sau: Tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ tức là hành vi của người tham gia giao thông đường bộ (tác

giả đồng thuận với nghĩa của từ “tham gia” trong BLHS năm 2015) có năng

lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự mà vi phạm quy

định về an toàn giao thông đường bộ, do lỗi vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng

10

cho sức khỏe, tài sản của người khác hoặc gây thiệt hại cho tính mạng người

khác.

Do đó, tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB phải được hiểu là hành

vi của người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình

sự đã tham gia GTĐB nhưng đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng,

không đầy đủ các quy định trong pháp luật GTĐB cụ thể là vi phạm Luật giao

thông đường bộ năm Việt Nam.

Theo Luật Giao thông đường bộ Việt Nam thì: Người điều khiển

phương tiện tham gia giao thông gồm: Người điều khiển xe thô sơ, Người

điều khiển xe máy chuyên dùng, Người điều khiển xe cơ giới, tham gia giao

thông đường bộ.

Còn người đi bộ do hành vi không chấp hành các quy định, đã có hành

động đi ra lòng đường hoặc chạy qua đường một cách tự ý tùy tiện gây hậu

quả nghiêm trọng hoặc người vi phạm dẫn dắt súc vật đi không đúng quy định

hoặc mang theo các đồ vật cồng kềnh dẫn đến cản trở các phương tiện giao

thông gây ra hậu quả về tài sản, tính mạng, sức khỏe.

1.1.2 . Các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ

Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông gồm người điều

khiển xe cơ giới, xe thô sơ, xe máy chuyên dùng tham gia GTĐB. Người đi

bộ hoặc dẫn dắt súc vật đi không theo đúng quy định hoặc mang theo các đồ

vật cồng kềnh dẫn đến cản trở các phương tiện giao thông gây ra hậu quả. Do

đó cần xác định cụ thể dấu hiệu pháp lý của tội phạm này trong điều kiện

tham gia GTĐB, như sau:

* Khách thể của tội vi phạm:

Được quy định là những quan hệ xã hội mà pháp luật hình sự bảo vệ,

nhưng lại bị tội phạm xâm hại. Xác định khách thể của tội phạm có tầm quan

11

trọng đối với việc truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như định tội danh và

quyết định hình phạt đối với tội phạm này. Khách thể của tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ là An toàn công cộng, trật tự công cộng

cụ thể hơn đó là an toàn giao thông, an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản của

nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội khi tham gia giao thông đường bộ.

Như vậy, có thể xác định khách thể của tội vi phạm quy định về tham

gia GTĐB đó là vấn đề an toàn trong hoạt động giao thông vận tải đường bộ,

vấn đề an toàn về sức khỏe, tính mạng, tài sản của công dân, của Nhà nước,

của các chủ thể khác trong xã hội đã được xác lập”.

Dù vậy, phải nhìn nhận rằng trong tất cả các hành vi vi phạm quy định

về tham gia GTĐB thì không phải hành vi nào cũng đều bị coi là tội phạm.

Chỉ có hành vi vi phạm bị xử lý về hình sự khi hành vi vi phạm đó có tính

nguy hiểm đáng kể cho xã hội, mà nguy hiểm đáng kể cho xã hội tức là đã

gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, sức khỏe của người khác hoặc gây thiệt

hại về tính mạng người khác hoặc trong tình huống có khả năng thực tế dẫn

đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu hành vi đó không được ngăn chặn kịp

thời.

* Mặt khách quan của tội phạm

Được hiểu là mặt bên ngoài của tội phạm, sẽ là những biểu hiện của tội

phạm được diễn ra trong thế giới khách quan, như là: hậu quả nguy hiểm cho

xã hội do hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra và mối quan hệ nhân quả giữa

hậu quả và hành vi. Bên cạnh đó còn có những dấu hiệu khác, không bắt buộc

gắn liền với hành vi phạm tội như phương tiện, công cụ, phương pháp, địa

điểm, thủ đoạn hoặc hoàn cảnh phạm tội.

Hành vi vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ cụ thể

là:

- Không bằng lái xe hoặc không có giấy phép lái xe theo quy định.

12

- Say do dùng các chất kích thích mạnh khác hoặc trong khi say rượu.

- Cố ý không cứu giúp người bị nạn hoặc gây tai nạn rồi bỏ chạy nhằm

trốn tránh trách nhiệm.

- Đi bộ dẫn dắt súc vật đi tùy tiện không theo đúng quy định hoặc đi bộ

không đúng quy định làn đường.

- Không chấp hành hiệu lệnh của người hướng dẫn giao thông hoặc

người đang làm nhiệm vụ điều khiển giao thông.

- Hệ thống báo hiệu đường bộ bật lên nhưng người vi phạm đã không

chấp hành đúng tín hiệu.

- Không quan sát; không làm chủ tốc độ; không đi đúng làn đường;

chuyển hướng xe, vượt xe, lùi xe, dừng, đỗ xe trên đường bộ không đúng quy

định…

- Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

Dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội vi phạm quy định về tham gia

GTĐB chính là hậu quả. Như gây thiệt hại đến tính mạng tức là làm người

khác bị thương hoặc chết, cũng như gây thiệt hại nghiêm trọng cho tài sản của

người khác hoặc sức khoẻ người khác. Đây là hậu quả gây ra mà không gì bù

đắp được. Hành vi chưa cấu thành tội phạm theo quy định của BLHS nếu

hành vi đó chưa gây ra thiệt hại cho tính mạng hoặc chưa gây thiệt hại nghiêm

trọng cho tài sản của người khác hoặc sức khoẻ người khác.

Từ phân tích trên, có thể hiểu mặt khách quan của tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ là những biểu hiện của tội vi phạm quy định

tham gia giao thông đường bộ ra thế giới khách quan. Cụ thể:

- Hành vi nguy hiểm cho xã hội

Hành vi chỉ được coi là tội phạm, nếu có đầy đủ các đặc điểm đã được

quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam.

13

“Hành vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB của người tham gia

GTĐB quy định tại khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015 tức là hành vi không

thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy tắc GTĐB và hành vi này phải

là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả về tính mạng, sức khỏe và tài sản

người khác” [31, tr.4].

Nhằm làm rõ hơn hành vi khách quan của tội phạm này, tác giả sẽ đưa

ra một số khái niệm có liên quan đến tội phạm này. Quy định trong Luật

GTĐB thì một số khái niệm được định nghĩa như sau:

Đường bộ gồm đường, bến phà đường bộ, hầm đường bộ, cầu đường

bộ.

Phương tiện giao thông đường bộ gồm tham gia giao thông đường bộ

thô sơ đường bộ, cơ giới đường bộ.

Tham gia giao thông đường bộ cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ

giới) gồm xe rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xemáy kéo, xe ô tô

xe ô tô; xe gắn máy (kể cả xe máy điện), máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô

tô ba bánh và các loại xe tương tự.

Tham gia giao thông đường bộ thô sơ đường bộ (sau đây gọi là xe thô

sơ) gồm xe lăn dùng cho người khuyết tật, xe đạp (kể cả xe đạp máy), xe súc

vật kéo và các loại xe tương tự, xe xích lô.

Xe máy chuyên dùng gồm xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp, xe an ninh,

quốc phòng, đặc chủng.

Phương tiện tham gia GTĐB gồm tham gia GTĐB và xe máy chuyên

dùng.

Người tham gia giao thông gồm người điều khiển, dẫn dắt súc vật;

người đi bộ trên đường bộ; người điều khiển, người sử dụng phương tiện

tham gia GTĐB.

Người điều khiển phương tiện gồm người điều khiển xe máy chuyên

14

dùng, xe cơ giới, xe thô sơ.

Người lái xe là người điều khiển xe cơ giới.

Theo quy định tại Điều 39 Luật GTĐB đã phân loại đường bộ như sau:

Mạng lưới đường bộ được chia thành sáu hệ thống bao gồm: đường tỉnh,

đường xã, quốc lộ, đường huyện, đường chuyên dùng và đường đô thị [38,

Điều 39].

Từ đó, để xác định hành vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB của

người tham gia GTĐB đã đến mức truy cứu TNHS hay chưa cần phải căn cứ

vào các quy định của Luật GTĐB và các văn bản hướng dẫn thi hành. Hành vi

vi phạm sẽ được xem xét ở yếu tố người tham gia GTĐB là phải nhận thức

được sự an toàn về mặt kỹ thuật theo quy định, nếu người vi phạm để xảy ra

vi phạm mà xác định đó là nguyên nhân gây ra thiệt hại cho tính mạng hoặc

gây thiệt hại nghiêm trọng cho tài sản của người khác hoặc sức khỏe người

khác, và thỏa mãn đủ các dấu hiệu CTTP trong BLHS, thì theo quy định tại

Điều 260 BLHS năm 2015 phải chịu TNHS.

Dù vậy, nếu sai sót về mặt kỹ thuật mà người tham gia GTĐB đã không

thể biết được và pháp luật cũng không buộc họ phải nhận biết những lỗi kỹ

thuật đó thì nếu có gây ra thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm

trọng cho tài sản của người khác hoặc sức khỏe người khác, thì họ không phải

chịu TNHS về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB.

Để xác định hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ không chỉ căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự mà phải căn cứ vào

các quy định tại Luật GTĐB và các văn bản hướng dẫn của các cơ quan có

thẩm quyền.

Dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này chính là hậu quả. Thiệt

hại được xác định đầu tiên là làm chết người, sau đó xác định là hành vi vi

phạm gây thương tích hoặc gây tổn hại nghiêm trọng cho sức khỏe người

15

khác với tỷ lệ quy định hoặc thiệt hại nghiêm trọng tài sản người khác được

tính bằng tiền đã được quy định trong tội này.

Khi xác định thiệt hại tài sản cho người khác cần chú ý:

Chỉ những thiệt hại do hành vi vi phạm các quy định về điều khiển

tham gia giao thông đường bộ trực tiếp gây ra, còn những thiệt hại gián tiếp

không tính là thiệt hại để xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội

như: Do bị thương nên phải chi phí cho việc điều trị và các khoản chi phí

khác (mất thu nhập, làm chân giả, tay giả, mắt giả…). Cho dù người phạm tội

vẫn phải bồi thường về các thiệt hại gây ra nhưng không tính để xác định

TNHS đối với hành vi phạm tội.

Khi xác định thiệt hại thì không tính thiệt hại mà người phạm tội gây ra

cho chính mình mà chỉ tínhthiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản là thiệt hại

mà người phạm tội gây ra cho người khác. Tại khoản 2 hoặc khoản 3 của điều

luật này quy đinh là nếu người phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc

hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị truy cứu TNHS.

Bên cạnh hành vi khách quan, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, bộ

luật còn quy định một số dấu hiệu khách quan khác chính là dấu hiệu bắt buộc

của CTTP như: địa điểm (nơi vi phạm là công trình GTĐB); Phương tiện giao

thông. Có thể thấy rằng khi xác định các dấu hiệu khách quan này là rất quan

trọng, vì sẽ phân biệt được tội phạm này với các tội vi phạm khác liên quan

đến an toàn giao thông.

Mặt khác, còn có những dấu hiệu khách quan khác như: Đường bộ,

hành lang an toàn đường bộ, công trình đường bộ, phần đường xe chạy, làn

đường, đường phố, dải phân cách, khổ giới hạn của đường bộ, đường cao

tốc… Các yếu tố này cũng rất quan trọng khi xác định hành vi vi phạm các

quy định về tham gia giao thông đường bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam.

* Chủ thể của tội phạm

16

Tại Điều 12 BLHS năm 2015 thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi

không phải chịu TNHS về tội phạm này. Người có đủ năng lực trách nhiệm

hình sự là người có đủ khả năng nhận thức được tính chất, mức độ nguy hiểm

cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, có khả năng điều khiển hành vi

theo hướng có lợi hay không có lợi cho xã hội, hoặc có khả năng xử sự khác

không gây nguy hiểm cho xã hội.

Mà theo quy định tại khoản 4, 5 Điều 260 BLHS là tội phạm ít nghiêm

trọng; quy định tại khoản 1 Điều 260 BLHS là tội phạm nghiêm trọng; quy

định tại khoản 2, 3 Điều 260 BLHS là tội phạm rất nghiêm trọng.

Từ đó, chủ thể của tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB quy định

tại các khoản 1, khoản 2, khoản 3, khoản 4 và khoản 5 Điều 260 BLHS 2015

là người từ đủ 16 tuổi trở lên có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Chủ thể của

tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB không phải là chủ thể đặc biệt,

nhưng phải là người tham gia GTĐB mới là chủ thể của tội vi phạm này. Tóm

lại chủ thể của tội phạm này phải có đủ các điều kiện: Có năng lực hình sự, đủ

tuổi theo luật quy định, trực tiếp tham gia GTĐB. Việc xác định các dấu hiệu

đặc trưng của chủ thể này cho phép định tội danh và quyết định hình phạt một

cách đúng đắn và chính xác.

* Mặt chủ quan của tội phạm

Mặt chủ quan của tội phạm này là mặt bên trong của tội phạm thể hiện

thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi ngày càng nguy hiểm do họ

thực hiện hoặc đối với khả năng gây ra hậu quả đó hoặc với hậu quả do hành

vi đó gây ra. Mặt chủ quan của tội phạm này thể hiện thông qua dấu hiệu tâm

lý: Lỗi động cơ, mục đích, thể hiện trên ý nghĩa khác nhau. Động cơ và mục

đích người phạm tội hướng tới, động lực thúc đẩy người phạm tội thực hiện

hành vi nguy hiểm cho xã hội.

17

Người phạm tội không những thực hiện hành vi vi phạm quy định về

tham gia giao thông giao thông đường bộ mà còn có ý thức vô ý (dẫn đến gây

tai nạn giao thông, vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả) hoặc ý thức vô ý,

tùy tiện.

Dấu hiệu lỗi vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ

của người phạm tội được thể hiện thông qua hành vi thái độ, sự nhận thức

thiếu tính logic, nhằm lẫn giữa hành vi vô ý và hành vi coi thường xã hội, mọi

người, đặc biệt là coi thường pháp luật.

Theo phân tích về lỗi vô ý thì người phạm tội mặc dù biết trước hậu

quả là có thể xảy ra nhưng nghĩ rằng có thể không xảy ra hoặc có thể ngăn

ngừa được bằng khả năng của mình, nhưng cuối cùng vì quá tự tin hoặc quá

cẩu thả dẫn đến hậu quả đã xảy ra. Cũng cần nói thêm về hậu quả xảy ra đối

với tội phạm này đôi khi cũng sẽ rất phức tạp, dẫn đến nhận định của một số

cơ quan chuyên môn hoặc các cơ quan tuyên truyền về lỗi vi phạm, mà ở đây

có thể có cả lỗi của người vi phạm lẫn người bị vi phạm, tức hỗn hợp các lỗi

dẫn đến hậu quả xảy ra, ví dụ như: người điều khiển xe mô tô đi đúng phần

đường nhưng lại chạy quá tốc độ không làm chủ được tay lái đụng vào 1 mô

tô khác đi đúng tốc độ nhưng lại đi sai làn đường của mình, tức đi ngược

chiều, tai nạn làm cả 2 đều bị thương tích trên 61%, toàn bộ xe cộ bị hư hỏng

nặng, đây là trường hợp mà hỗn hợp cả 2 lỗi của 2 người điều khiển xe mô tô

đều có lỗi của mình.

Và tại Toà cũng nhận định rằng trường hợp khi quyết định hình phạt

đối với người phạm tội thì người bị hại cũng có lỗi và coi trường hợp người bị

hại cũng có lỗi (cả hai bên đều có lỗi).

18

1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ

1.2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1945

đến 1999

Từ sau những năm 1945, Nhà nước ta đã xây dựng hệ thống pháp luật

mới, nhưng tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong thời

gian này chưa được quy định cụ thể trong pháp luật hình sự. Ngày

03/10/1955, văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước ta về an toàn GTĐB là

Luật đường bộ được ban hành kèm theo Nghị định 384/NĐ của Bộ Giao

thông Bưu điện.

Tiếp theo vào ngày 19/01/1955, Thủ tướng Chính phủ đã cho ban hành

Thông tư số 442/TTg, quy định về tội phạm trên lĩnh vực GTĐB có quy định:

“Không theo luật đi đường hoặc không cẩn thận mà làm người khác bị thương

thì người vi phạm có thể sẽ bị phạt tù từ 03 tháng đến 3 năm. Nếu gây tai nạn

làm chết người thì người vi phạm có thể bị phạt tù đến 10 năm” [7, tr.135]

Sau năm 1975, Chính phủ ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày

15/3/1976 quy định tội phạm và hình phạt đối với hành vi xâm phạm trật tự

công cộng, an toàn công cộng và sức khỏe của nhân dân. Tại Điều 9 Sắc luật

này quy định: “Tội vi phạm luật lệ giao thông trường hợp nghiêm trọng thì bị

phạt tù đến 15 năm và có thể bị phạt tiền đến 1000 đồng thời đó, gây tai nạn

nghiêm trọng với các khung hình phạt tù từ 03 tháng đến 05 năm,”.

Tội phạm trong lĩnh vực GTĐB trong sắc luật số 03-SL/76 có hai

khung hình phạt; Khung 2: có mức phạt tù đến 15 năm; Khung 1: có mức phạt

tù từ 03 tháng đến 03 năm tù giam.

Trường hợp có thể bị hình phạt tử hình hoặc tù chung thân mà do gây

ra thiệt hại lớn đến tài sản của nhân dân hoặc thiệt hại lớn làm chết nhiều

người.

19

Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ đều được điều

tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội này là “trừng trị thích đáng đối với

những vi phạm nghiêm trọng, nghiêm trị đúng mức đối với những vi phạm

đặc biệt nghiêm trọng, đồng thời kết hợp thận trọng để xem xét đầy đủ mọi

tình tiết một cách toàn diện” [7, tr.373].

Tại Điều 186, Chương VIII BLHS năm 1985 quy định Tội vi phạm quy

định về tham gia GTĐB chưa có tên riêng, mà được quy định chung trong tội

“vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm

trọng”:

“1. Người nào điều khiển tham gia GTĐB vận tải mà vi phạm các quy

định về an toàn giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường

không gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe người khác hoặc gây thiệt hại

nghiêm trọng đến tài sản, thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt

cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm:

a. Đi quá tốc độ, chở quá trọng tải, tránh, vượt trái phép;

b. Không đi đúng tuyến đường, phần đường, luồng lạch, đường bay và

độ cao quy định;

c. Vi phạm các quy định khác về an toàn giao thông vận tải.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 3

năm đến 10 năm:

a. Điều khiển phương tiện an toàn giao thông vận tải mà không có

bằng lái; trong khi say rượu hoặc say do dùng chất kích thích khác;

b. Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không

cứu giúp người bị nạn.

3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 7 năm

đến 20 năm.

20

4. Phạm tội trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc

biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn ngừa kịp thời, thì bị xử phạt cải tạo

không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm” [29, Điều

186 Chương VIII].

Qua đó thấy rằngĐiều 186 BLHS năm 1985 và Điều 9 của Sắc luật 03-

SL/76, đã có một bước tiến bộ rất lớn cả về kỹ thuật lập pháp và nội dung.

1.2.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1999

đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015

Quốc hội ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 vào ngày 21/12/1999.

Trong BLHS năm 1999 tại Điều 202, tội vi phạm quy định về điều khiển

phương tiện GTĐB có quy định:

“1. Người nào điều khiển phương tiện tham gia GTĐB mà vi phạm quy

định ……. phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

2. …….phạt tù từ ba năm đến mười năm;

3. ……phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

4. Vi phạm quy định về an toàn GTĐB ….. phạt tù từ ba tháng đến hai

năm.

5. Người phạm tội còn có thể …..từ một đến năm năm” [30, Điều 202].

Trong các quy định về An toàn giao thông vận tải trong BLHS 1985 và

quy phạm pháp luật quy định tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB tại

Điều 202 BLHS 1999, tác giả có sự so sánh:

Thứ nhất: tội này đã chính thức có tên gọi riêng, giúp cho việc tránh sự

nhầm lẫn giữa tội này với tội khác, bảo đảm tính chính xác cao, được quy

định tại một điều độc lập, làm cho tên của tội phù hợp với nội dung của hành

vi phạm tội.

Thứ hai: trong cả hai BLHS nói trên, tuy chủ đề của tội phạm của tội

này không thay đổi, đó vẫn là người điều khiển phương tiện GTĐB nhưng

21

cách thể hiện hành vi khách quan của BLHS 1999 chính xác và ngắn gọn hơn,

theo đó đã giới hạn hành vi khách quan của tội này chỉ là những vi phạm quy

định về điều khiển phương tiện GTĐB. Trong khi đó Điều 186 BLHS 1985

xác định hành vi khách quan của tội này là hành vi vi phạm mà người phạm

tội đã liên quan đến các quy định về ATGT vận tải. Mà phạm vi khái niệm vi

phạm các quy định về ATGT vận tải thì rộng hơn, bao gồm hành vi điều

khiển tham gia GTĐB và các hành vi vi phạm khác (đào đường trái phép, sử

dụng vỉa hè,lấn chiếm,lòng đường…), điều này dẫn đến người phạm tội,

người dân, người áp dụng pháp luật dễ nhầm lẫn.

Bộ luật hình sự năm 1999 được hiểu: chỉ người nào điều khiển phương

tiện tham gia GTĐB mà vi phạm thì mới là chủ thể của tội này. Việc Điều

luật quy định chưa rõ ràng, chặt chẽ, chưa hàm chứa hết nội dung hành vi

khách quan và chủ thể của tội phạm, do đó trong thực tiễn cũng đã có việc

hiểu và vận dụng không chính xác, đôi khi còn có cách áp dụng pháp luật

khác nhau.

1.2.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ quy định tại

Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 so với Điều

202 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì có nhiều thay

đổi quan trọng về kết cấu điều luật, khung hình phạt, mức hình phạt liên quan.

Theo quy định tại Bộ luật hình sự 2015, người nào tham gia giao thông

đường bộ, tức là nhấn mạnh việc người nào tham gia, còn điều luật cũ trước

đây chỉ nói đến người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, vô

hình chung chỉ nói đến trường hợp điều khiển, sử dụng phương tiện rồi vi

phạm, còn nếu không sử dụng, điều khiển phương tiện thì cho dù có gây tai

nạn cho người khác cũng không bị TNHS. Điều 260 BLHS năm 2015 đã giải

22

quyết được vấn đề này, đối tượng được mở rộng và bao quát hơn, không bị

giới hạn như các điều luật cũ trước đây.

Theo Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999: Tội vi phạm quy định về

điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là người nào điều khiển phương

tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường

bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ,

tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu

đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm

năm. Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

ba năm đến mười năm (Không có giấy phép, sử dụng rượu, bia…) Còn khoản

3 thì tăng nặng lên từ bảy năm đến mười lăm năm. Khoản 4 thì bị phạt cải tạo

không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm nếu thấy

được hậu quả có thể xảy ra nghiêm trọng. Khoản 5 thì người phạm tội còn có

thể bị hạn chế nghề nghiệp.

Còn tại Điều 260 Bộ luật hình 2015 quy định:

1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an

toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các

trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000

đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm

đến 05 năm

a) Làm chết người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ

lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên

mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000

đồng.

23

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù

từ 03 năm đến 10 năm:

a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;

b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có

nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích

thích mạnh khác;

c) Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người

bị nạn;

d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn

giao thông;

đ) Làm chết 02 người;

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên

mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;

g) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000

đồng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù

từ 07 năm đến 15 năm:

a) Làm chết 03 người trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên

mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;

c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

4. Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong trường hợp

có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c

khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ

10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ

đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.

24

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành

nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.[31]

So với Điều 202 BLHS năm 1999 thì số khung hình phạt của Điều 260

BLHS năm 2015 không thay đổi, nhưng so với BLHS năm 1999 thì số khung

hình phạt ở BLHS năm 2015 giảm hơn 01 khung hình phạt. Ở Bộ luật hình sự

1999, tình tiết định khung tăng nặng được chia thành các điểm ở khoản 2, các

khoản còn lại chỉ quy định điều kiện để áp dụng khung hình phạt nặng hơn.

Điều 260 BLHS năm 2015 có 03 khung hình phạt, trong đó khoản 2 Điều 260

là có số tình tiết định khung nhiều nhất, khoản 1 và khoản 3 có tình tiết định

khung ít hơn.

Bên cạnh đó, Điều 260 BLHS năm 2015 đã thay đổi từ điều khiển giao

thông thành từ tham gia giao thông. Sự thay đổi này phù hợp với quy định của

Luật giao thông đường bộ, đồng thời bao quát được các đối tượng vi phạm

quy định do Luật giao thông đường bộ điều chỉnh, vì không riêng gì người

điều khiển phương tiện mà còn có người tham gia giao thông (như đi trên

đường, chăn dắt súc vật…)

Xét mức hậu quả cấu thành tội phạm vi phạm tham gia giao thông

đường bộ:

Điều 260 BLHS năm 2015 cho thấy các mức độ về hậu quả làm cơ sở

để quy kết trách nhiệm hình sự. Cụ thể nguồi vi phạm bị truy cứu trách nhiệm

hình sự nếu gây ra hậu quả:

- Làm chết người;

- Gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người 61% trở lên;

- Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người từ 61% đến 121%;

- Đã gây thiệt hại về tài sản từ một trăm triệu đồng đến dưới năm trăm

triệu đồng.

25

Như vậy, Điều 260 BLHS năm 2015 đã không có mức độ hậu quả gây

tổn thương cơ thể của 01 người mà dưới 61%, không có mức độ hậu quả tổn

thương cơ thể của 02 người trở lên với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 61%

và không có mức độ thiệt hại vật chất dưới một trăm triệu đồng. Và cũng loại

bỏ quy định cộng chung mức độ thiệt hại vềvật chất và sức khỏe con người

như quy định ở điều 202 BLHS năm 2015. Dù vậy, cũng cần lưu ý là, mặc dù

chưa có thiệt hại xảy ra thì người vi phạm vẫn có thể bị truy cứu TNHS nếu

đủ các điều kiện quy định tại khoản 4 của Điều 260 BLHS năm 2015 như:

+ Về hình phạt:

Hình phạt thấp nhất mà tội phạm đã hoàn thành, hậu quả đã xảy ra thì

phạt tiền ba mươi triệu đồng, hình phạt cao nhất là phạt tù đến 15 năm. So với

quy định của Điều 202 BLHS năm 2015 thì mức hình phạt cao nhất về hình

phạt tù có thời hạn không thay đổi nhưng mức hình phạt thấp nhất về phạt

tiền tăng lên gấp 6 lần (ba mươi triệu đồng). Nhìn một cách tổng quát về

phần hình phạt thì quy định của Điều 260 BLHS năm 2015 không có lợi cho

người phạm tội, như vậy thời điểm có hiệu lực của BLHS năm 2015 là 0h00p

ngày 01/01/2018 sẽ là thời điểm mà tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ có hiệu lực, người vi phạm bị áp dụng theo quy định BLHS

năm 2015 bất lợi hơn BLHS năm 1999. Nhưng xét về yếu tố cấu thành tội

phạm thì Điều 260 BLHS năm 2015 quy định có lợi hơn cho người phạm

tội (kể cả trường hợp tội phạm chưa đạt – khoản 4). Do đó, nếu xem xét để

quyết định hình phạt của bị cáo thì áp dụng Điều 202 BLHS năm 1999, còn

nếu xem xét mức độ hậu quả do hành vi phạm tội gây ra liên quan đến tội

phạm này ở việc đánh giá có tội hay không có tội thì căn cứ vào Điều 260

BLHS năm 2015.

Cũng tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 thì “Người thực hiện tội

phạm nghiêm trọng do vô ý … thì có thể được miễn trách nhiệm hình

26

sự”. Quy định này là quy định có lợi cho người phạm tội mà khi áp dụng pháp

luật cần phải được lưu ý đối với những hành vi phạm tội liên quan đến tội

phạm này.Vì nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 1 Điều 260 BLHS năm

2015 thì có thể họ được miễn trách nhiệm hình sự nếu người vi phạm có các

yếu tố thỏa mãn các điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015.

Một thay đổi trong khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015 là mức hình

phạt. Theo đó, mức khởi điểm của hình phạt tiền tăng lên gấp 6 lần, mức cao

nhất của phạt tiền tăng gấp 02(Một trăm triệu đồng); mức khởi điểm của hình

phạt tù tăng từ 06 tháng lên 01 năm; mức hình phạt cải tạo không giam giữ

được giữ nguyên.

So với quy định trong khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015 với hướng

dẫn tại các văn bản dưới luật thì, điểm a và điểm d của điều 260 BLHS năm

2015 là quy định pháp điển hóa hướng dẫn tại khoản 1 Điều 2 Thông tư liên

tịch số 09/2013/TTLT – Bộ Công an, tòa án nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ

quốc phòng,Viện kiểm sát tối cao. Trong đó giữ nguyên mức độ hậu quả tại

điểm a, mức độ hậu quả tại điểm d về phần thiệt hại tài sản cao nhất được giữ

nguyên, sửa đổi phần thiệt hại tài sản thấp nhất (một trăm triệu đồng).

Như vậy, quy định tại khoản 1 Điều 202 BLHS năm 1999 so với khoản

1 Điều 260 BLHS năm 2015 thìchỉ giữ nguyên quy định tại điểm d, còn lại

những nội dung tại các điểm a, b, c đều bị sửa đổi.

Điều 260 Bộ luật hình sự 2015 bổ sung thêm 03 tình tiết định khung

tăng nặng với phương pháp liệt kê cụ thể quy định “gây hậu quả rất nghiêm

trọng” theo điểm đ Điều 202 BLHS năm 1999 thành 03 tình tiết tại các điểm

đ, e, g khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015.

Bên cạnh đó, Điều 260 BLHS năm 2015 khoản 2 điểm b có tình

tiết “có sử dụng chất ma túy” vào trước cụm từ “hoặc các chất kích thích

mạnh khác”; đặc biệt tại điểm c đã không còn cụm từ “gây tại nạn rồi” trong

27

Điều 202 BLHS năm 1999 – theo đó cụm từ này không có ý nghĩa thực tiễn

nữa vì bản chất điều luật này đang điều chỉnh hành vi vi phạm luật GTĐB gây

tai nạn hoặc có nguy cơ rõ ràng gây tai nạn và xác định được mức độ hậu quả.

Khoản 4 Điều 260 BLHS năm 2015 có 03 nội dung thay đổi quan trọng

cụ thể:

- Điều 202 BLHS năm 1999 không có hình phạt tiền, khoản 4 Điều 260

BLHS năm 2015 quy định hình phạt tiền là hình phạt chính với mức từ

10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng;

- Điều 202 BLHS năm 1999 là “đặc biệt nghiêm trọng” thì khoản 4

Điều 260 BLHS năm 2015 liệt kê rõ các hậu quả có thể xảy ra thuộc các điểm

a, b, c ở khoản 3;

Mức cao nhất tại khung hình phạt tù có thời hạn ở khoản 4 Điều 260

BLHS năm 2015 thấp hơn khoản 4 Điều 202 BLHS năm 1999 là 01 năm

tù (cũ là từ 03 tháng đến 02 năm;mới là từ 03 tháng đến 01 năm)

Điều 260 BLHS năm 2015 chuyển khoản 5 thành khoản 4 và có sửa lại

một số cụm từ cho phù hợp. Trong đó, nội dung thay đổi là “có khả năng thực

tế dẫn đến hậu quả” thay cho cụm từ “có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả

gây thiệt hại”.

Để giải quyết các bất cập thì BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung đã quy

định tổng thể hơn về chủ thể, cụ thể tại Khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015

trong cấu thành cơ bản của tội phạm quy định: “người nào tham gia giao

thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn GTĐB thuộc một trong các

trường hợp sau...”, theo quy định này thì bất cứ người nào tham gia giao

thông đường bộ mà vi phạm an toàn giao thông cũng có thể là chủ thể của tội

phạm này.

Đồng thời Khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015 trong quy định cấu

thành cơ bản của tội phạm cũng đã có sửa đổi, bổ sung và lượng hóa, tăng

28

định lượng của cấu thành cơ bản cụ thể hơn như: Điều 202 BLHS năm 1999

quy định “Người nào điều khiển tham gia giao thông đường bộ ….sức khỏe,

tài sản của người khác…”, điều luật quy định mang tính khát quát nên Tòa án

nhân dân tối cao phải ban hành Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP ngày

17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi

hành. Và trong khi quy định tại điểm b tiểu mục 4.1 mục 4 NQ 02/2003 quy

định về tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm

trọng quy định.[31]

Đây là một số điểm mới được sửa đổi, bổ sung cần phải được nghiên

cứu và vận dụng chính xác trong việc xử lý đối với hành vi vi phạm quy định

về an toàn GTĐB xảy ra từ 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018, theo quy định của

Bộ luật hình sự năm 2015.

Tiểu kết chương 1

Trong chương một, tác giả đã tập trung phân tích làm rõ những vấn đề

lý luận và nội dung cơ bản của Điều 202 BLHS năm 1999 và Điều 260 BLHS

năm 2015 về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, làm tiền

đề cho việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự

về tội này thông qua định tội danh và quyết định hình phạt ở chương tiếp

theo.Tại chương hai tác giả sẽ đưa ra các vấn đề thực tiễn để định tội danh và

xác định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ. Vì vậy những vấn đề đã phân tích về mặt lý luận tại chương một sẽ là

những vấn đề được đề cập thật chi tiết và có tính hệ thống, logic, qua đó sẽ

làm cơ sở cho nền tảng pháp lý được tác giả đưa vào chương hai và ba, và áp

dụng làm đề xuất, kiến nghị giúp cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hình

sự Việt Nam.

29

Chương 2:

THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA

GIAO THÔNGĐƯỜNG BỘ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1. Khái quát tình hình xét xử tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ tại thành phố Hồ Chí Minh

Vị trí địa lý của Thành phố Hồ Chí Minh nằm ở phía nam Việt Nam,

bao gồm 19 quận và 5 huyện, tổng diện tích 2.095,06 km². Theo kết quả tổng

hợp từ công tác lập bảng kê: dân số của thành phố đến thời điểm 23/01/2019

là 8.859.688 người, tăng 64.823 người so với thời điểm 30/6/2018 (số liệu

dân số của thành phố đến thời điểm 30/6/2018 là 8.794.865 người). Thành

phố Hồ Chí Minh những năm qua vẫntiếp tục duy trì đà tăng trưởng khá, giữ

vững vị trí đầu tàu kinh tế của cả nước. Trong đó, tổng sản phẩm nội địa trên

địa bàn TP (GRDP) đạt hơn 1,33 triệu tỷ đồng, ước tăng 8,3% (cùng kỳ các

năm tăng 8,25%). Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, Thành phố Hồ Chí Minh

trở thành một đầu mối giao thông quan trọng của của khu vực nói chung và

tại Việt Nam nói riêng, không chỉ phát triển đường không, mà còn đường

thủy, đường sắt và đặc biệt là đường bộ.

Do đó, Thành phố Hồ Chí Minh là nơi thu hút nguồn nhân lực từ khắp

nơi trên cả nước, tạo áp lực lớn lên giao thông đô thị mà thành phố còn chưa

có những quyết sách đầu tư phù hợp theo kịp sự phát triển này. Trong nội ô

thành phố, hệ thống cầu đường trở nên cũ kỹ, xuống cấp, các tuyến đường

thường xuyên xảy ra tình trạng kẹt xe và ngập úng. Hệ thống giao thông công

cộng kém hiệu quả. Môi trường thành phố cũng đang bị ô nhiễm do phương

tiện giao thông, các công trường xây dựng và công nghiệp sản xuất, bên cạnh

đó, triều cường gây ngập sâu ở một vài quận cũng là vấn đề nan giải của

30

thành phố. Hiện Thành phố Hồ Chí Minh có mật độ dân số trung bình 4097

người/km2, mật độ giao thông trung bình 117,3 xe/km2 mặt đường. [25]

Những năm qua, Đảng bộ và chính quyền thành phố Hồ Chí Minh đã

có những biện pháp tích cực để làm giảm thiểu TNGT nói chung, TNGT

đường bộ nói riêng. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

có chiều hướng giảm trong những năm qua. Số vụ tai nạn giao thông theo

thống kê là giảm nhưng tính chất và diễn biến vụ việc vẫn còn phức tạp. Theo

số liệu của Ban an toàn giao thông, Công an thành phố Hồ Chí Minh trong 5

năm từ năm 2014 đến năm 2018 toàn thành phố xảy ra 19430 vụ tai nạn và va

chạm giao thông, làm chết 3626 người, bị thương 15903 người, thiệt hại về

kinh tế hơn 10 tỷ đồng. Số liệu cụ thể:

Bảng 2.1. Tình hình tai nạn GTĐB và va chạm giao thông trên địa

bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến năm 2018

TNGT đường bộ

Năm Số vụ Số người Số người bị Thiệt hại tài

chết thương sản/triệu đồng

727 2014 4027 2084 4338

703 2015 3300 1973 3712

789 2016 3102 2003 3849

705 2017 2957 2110 3888

702 2018 2517 2525 3643

Tổng 3626 15903 10695 19430

Nguồn Công an thành phố Hồ Chí Minh cung cấp

Tại Hội nghị tổng kết công tác chuyên môn năm 2018 và phương

hướng công tác năm 2019. Báo cáo của Trung tá Huỳnh Trung Phong

(Trưởng phòng PC08) cho biết, trong năm 2018, trên địa bàn TP.HCM xảy ra

31

3.643 vụ tai nạn giao thông, làm 702 người chết, 2.517 người bị thương. Mặc

dù so với năm 2017 giảm 245 vụ (giảm 6,3%), giảm 3 người chết, giảm 440

người bị thương nhưng trường hợp vi phạm giao thông lại tăng. Tóm lại thì,

tình hình TNGT đường bộ và va chạm giao thông từ năm 2014 đến năm 2018

trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã có xu hướng giảm trên cả ba tiêu chí:

số người bị thương, số người chết và số vụ.

Theo số liệu thống kê từ năm 2014 đến năm 2018, TAND thành phố

Hồ Chí Minh đã xét xử tổng số 599 vụ với 643 bị cáo phạm tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ. Trung bình mỗi năm xét xử 119 vụ với

128 bị cáo, cụ thể là:

Bảng 2.2. Số vụ và số bị cáo phạm tội vi phạm quy định về tham

giagiao thông đường bộ từ 2014 – 2018

Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ Năm Số vụ Số bị cáo

2014 120 130

2015 99 105

2016 155 168

2017 110 115

2018 115 125

Tổng 599 643

Nguồn: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Số liệu trên cho thấy để góp phần kéo giảm tai nạn giao thông thì đòi

hỏi trong việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ của Tòa án nhân dân Thành phố phải thật sự

chính xác và nghiêm minh.

Nhằm góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm vi phạm quy định về

tham gia GTĐB, trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018, nhìn chung

32

TAND Thành phố đã thực hiện tương đối tốt hoạt động áp dụng pháp luật

hình sự đối với loại tội phạm này. Việc định tội danh và quyết định hình phạt

phù hợp đối với tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB đã góp phần đấu

tranh phòng, chống tội này trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

2.2. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ của Tòa án tại thành phố Hồ Chí Minh

2.2.1. Những kết quả đạt được trong định tội danh tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí

Minh

Thực tiễn định tội danh tộivi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ trên địa bànthành phố Hồ Chí Minh phải dựa trên cáccơ sở pháp lý,

cơ sở lý luận, và cơ sở thực tiễn.

Cơ sở pháp lý: dựa trên quy định của BLHS, Luật GTĐB, Nghị quyết

của Hội đồng Thẩm phán TANDTC và các văn bản dưới luật khác như Thông

tư của Bộ giao thông vận tải,các thông tư liên tịch.

Cơ sở lý luận: đó làkhoa học luật hình sự và khoa học định tội danh,

trong đó lý luận về các yếu tố CTTP là cơ sở đặc biệt quan trọng để định tội

danh về tội phạm này.

Cơ sở thực tiễn: trên cơ sở tổng kết rút kinh nghiệm trong công tác xét

xử hàng năm, kinh nghiệm xét xử của từng Thẩm phán, Hội thẩm, Viện kiểm

sát.

Theo số liệu thống kê của TAND thành phố Hồ Chí Minh, từ năm 2014

đến năm 2018 TAND thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử tổng số 599 vụ với

643 bị cáo phạm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Theo

đánh giá tổng quan thì việc định tội danh tội vi phạm quy định về tham gia

GTĐB là đúng quy định của Luật Hình sự. Qua đó, góp phần đấu tranh, ngăn

chặn có hiệu quả đối với loại tội phạm này[42].

33

Hầu hết các vụ án “vi phạm quy định về tham gia GTĐB” được khởi tố,

điều tra, truy tố, xét xử đúng quy định, xác định đúng tội danh và thuyết phục

được người phạm tội. Theo số liệu thống kê hàng năm thì qua xét xử sơ thẩm,

phúc thẩm, đa số các vụ án được xét xử đúng tội danh. Có nhiều vụ rấtkhó

khăn, phức tạp, nhưng Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra đã tích cực thu

thập chứng cứ một cách đầy đủ để định tội danh đúng với quy định, có những

vụ án quá phức tạp (như không tìm được người phạm tội) dẫn đến việc tạm

dừng để tiếp tục điều tra xét xử đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Qua

đó thấy được chất lượng xét xử và định tội danh ngày càng mang tính pháp

chế hơn.

Có thể nói thực tiễn định tội danh đối với tội vi phạm quy định về tham

gia GTĐB trong thời gian qua trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh cho thấy

có sự phù hợp giữa các tình tiết của hành vi vi phạm an toàn giao thông đã

xảy ra với các dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội này.Các cơ quan tiến hành

Tố tụng đã rất nỗ lực làm cho số vụ án bị hủy, bị sửa theo thủ tục phúc thẩm

xu hướng giảm xuống rất nhiều. Thẩm phán, viện kiểm sát cũng đã nghiên

cứu đến những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, để xác định tội danh phù hợp

với yêu cầu thực tiễn.

2.2.2. Những vi phạm, sai lầm trong định tội danh tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ tại Toà án nhân dân Thành phố

Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB thời

gian gần đây cho thấy việc định tội danh tội phạm này vẫn còn có hiện tượng

đánh giá chưa thật chính xác. Theo đánh giá,phân tích về định tội danh căn cứ

vào cấu thành tội phạm cho thấy một số hành vi phạm tội được định tội danh

chưa thật chính xác đã ảnh hưởng đến niềm tin của người dân cũng như chưa

thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật hình sự đã quy định tại Điều 260

BLHS năm 2015 và Điều 202 BLHS năm 1999.

34

Những con số thống kê chưa phản ánh được chính xác thực trạng về

việc xác định tội danh đối với vi phạm quy định về tham gia GTĐB thời gian

qua trên địa bàn thành phố Hồ Chí Min, qua đó thấy được còn một số hạn chế

trong vấn đề này. Có không ít trường hợp người gây ra tai nạn, với nhiều lý

do khác nhau đã bỏ trốn khỏi hiện trường hoặc bỏ trốn khỏi địa phương một

thời gian dài, nhằm trốn tránh trách nhiệm của mình tức là trốn tránh việc xử

lý của pháp luật (trong đó ít nhất người vi phạm có thể bị xử phạt hành chính,

cao hơn làtrách nhiệm dân sự, trách nhiệm hình sự).Vì thế có những vụ

TNGT nghiêm trọng xảy ra, vụ án đã được khởi tố để điều tra, nhưng sau đó

phải tạm đình chỉ vì không xác định được người gây ra tai nạn để xác định tội

phạm, do họ đã bỏ trốn mà không thể điều tra, tìm ra các tài liệu chứng cứ,

chứng minh.

Ví dụ 1: Ngày 25/6/2019, Công an quận Tân Phú cho biết, ông Đặng

Tấn Phú (48 tuổi) chạy taxi Vinasun trên đường Tân Hương lúc hơn 3h

khuya. Khi rẽ trái qua đường Võ Công Tồn (phường Tân Quý), tài xế có lỗi là

không bật đèn tín hiệu. Còn Nguyễn Hoàng Long (16 tuổi) và chị Nguyễn Thị

Mỹ Tiên (25 tuổi, quê Bến Tre) chở nhau trên xe máy cùng chiều, không làm

chủ tốc độ, không kịp tránh nên xảy ra va chạm với taxi, lao qua vỉa hè bên

kia đường. Chị Tiên bất tỉnh, Long bị thương nặng, co giật. Tài xế taxi xuống

xe đứng nhìn các nạn nhân trong 15 giây rồi lên xe chạy đi. Công an quận Tân

Phú đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can liên quan đến tài xế taxi nêu

trên; nhưng cũng phải trải qua 03 ngày sau đó mới tìm ra được tài xế taxi

thông qua việc điều tra, trích xuất camera khu vực quanh hiện trường. Qua đó,

thấy rằng vụ án này là một trong số ít các vụ án liên quan đến việc người gây

tai nạn, người phạm tội đã vì lý do gì đó mà nhanh chóng đi khỏi hiện trường,

làm cho công tác điều tra, truy tố rất khó khăn. (Trích nguồn Báo Pháp luật

ngày 28/6/2019 – Quốc Thắng)

35

Ví dụ 2: Vào lúc 4giờ 30 phút, ngày 11/10/2015, tại ngã tư đường

Quang Trung - Lê Trọng Tấn (TP Hồ Chí Minh) xảy ra vụ tai nạn giao thông

giữa xe tải ben của Cty CP Xây dựng A do lái xe Ngô Văn Hiếu điều khiển

với xe máy do bà Bùi Thị Chung (SN 1952) điều khiển.

Theo Kết luận điều tra vụ án số 154/KLĐT ngày 25/7/2016 của Công

an quận Z và Cáo trạng số 152/CT/VKS ngày 18/8/2016 của VKSND quận Z,

vụ tai nạn làm bà Chung bị thương nặng. Ngay lúc xảy ra tai nạn, anh Ngô

Văn Hiếu đã thuê xe taxi đưa bà Chung đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Z.

Do vết thương quá nặng, bà Chung đã chết ngày 12/10/2015.

Sau khi lo chu toàn đám tang bà Chung, đại diện Cty CP Xây dựng A

kết hợp cùng anh Hiếu và gia đình bà Chung đã thống nhất hòa giải vì gia

đình nạn nhân được cho là cũng hiểu lỗi do nạn nhân đi vượt đèn đỏ, sử dụng

phương tiện không đảm bảo điều kiện lưu hành, chở hàng cồng kềnh...

Hai bên đã ký biên bản hòa giải ngày 28/10/2015, anh Hiếu đã bồi

thường cho gia đình bà Chung 150 triệu đồng, và gia đình bà Chung đã có

giấy đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự anh Hiếu gửi cơ quan pháp

luật.Tuy nhiên, sau đó Công an quận Z khởi tố vụ án và ra Kết luận điều tra,

chuyển hồ sơ vụ án cho VKSND quận Z truy tố bị can Nguyễn Văn Hiếu về

tội “Vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”

theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự.

Cơ quan công an xác định anh Hiếu vượt quá tốc độ, thiếu quan sát.

Tuy nhiên, cũng ngay tại bản kết luận điều tra này, công an xác định rõ anh

Hiếu điều khiển phương tiện với tốc độ khoảng 40km/h (quy định pháp luật

đường nội đô được phép di chuyển từ 40 – 50km/h, khu vực hiện trường xảy

ra tai nạn không có biển báo tốc độ). Anh Hiếu cũng đang điều khiển xe theo

tín hiệu đèn xanh. Cơ quan công an cũng xác định anh Hiếu “ra đầu thú”, trên

thực tế anh Hiếu đã đến cơ quan công an làm việc ngay sau tai nạn và chưa có

36

hành vi bỏ trốn. Nhưng do thời điểm đó cơ quan công an lại xác định anh

Hiếu không có mặt tại nơi xảy ra tai nạn (do chở bà Chung đi cấp cứu) nên đã

xác định anh Hiếu bỏ trốn khỏi hiện trường. Đây là tình tiết bất lợi cho anh

Hiếu và sau này khi Kết luận điều tra 154 và Cáo trạng 152 đã ghi rõ hơn lý

do đi khỏi hiện trường của anh Hiếu mới giúp Tòa xác định hành vi đi khỏi

hiện trường của anh Hiếu là chính đáng.

(Trích nguồn Vụ án hình sự liên quan đến Tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ trong Tạp chí Pháp luật ngày 25/11/2016 – Đỗ

Hoàng)

Thực tế, các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí

Minh đều căn cứ vào các văn bản hướng dẫn thi hành xử lý vi phạm, trong đó

có Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA- BQP-BTP-VKSNDTC-TA để

xác định TNHS đối với người vi phạm và chủ yếu vẫn căn cứ trong quy định

của Luật GTĐB. Trong thực tế có nhiều trường hợp hồ sơ vụ án hình sự trong

tài liệu có ghi nhận về việc bị cáo uống nhiềurượu, bia trước khi tham gia giao

thông gây tai nạn nhưng các cơ quan chức năng trên địa bàn Thành phố chưa

được trang bị đầy đủ các thiết bị chuyên dụng để đo nồng độ hoặc các chất

kích thích có trong máu của người vi phạm nên thiếu cơ sở để kết luận về vi

phạm này.

Điều 260 BLHS năm 2015 đã quy định cụ thể: “Trong tình trạng có sử

dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy

định hoặc có sử dụng chất ma túy hoặc các chất kích thích mạnh khác mà

pháp luật cấm sử dụng;...”. Đây được xem là việc bổ sung, sửa đổi thể hiện

tính pháp lý một cách kịp thời, nghiêm minh,từ đó xác định đúng tội danh,

đúng người đúng tội, khi tham gia giao thông đường bộ, uống rượu bia, hoặc

sử dụng các chất kích thích khác gây tai nạn.

Quá trình tố tụng của các cơ quan có thẩm quyền thời gian qua cho

37

thấy, do khách quan, chủ quan hoặc do đánh giá không đúng lỗi vi phạm, như

lỗi thuộc về ai (bị cáo hay người bị hại) mức độ lỗi như thế nào (trong vụ án

có lỗi hỗn hợp của nhiều bên), hoặc việclập biên bản khám nghiệm hiện

trường, quá trình tiếp cận hồ sơ tai nạn ban đầu,việc phối hợp giữa các cơ

quan pháp luật xác định một cách chặt chẽ.Hoặc việc lấy lời khai người làm

chứng không kịp thời, dẫn đến có những trường hợpViện kiểm sátvà Tòa án

không có cơ sở để xác định tội danh, gây khó khăn trong hoạt động xét xử.

2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí

Minh

2.3.1. Khái quát tình hình quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ của Tòa án nhân dân thành phố Hồ

Chí Minh

Nhằm góp phần cho công tác đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy

định về tham gia GTĐB, trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018, TAND

Thành phố đã thực hiện tương đối tốt việc áp dụng quy định pháp luật về

TNHS cũng như quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về tham

gia GTĐB. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về cơ bản đảm bảo đúng

các quy định của pháp luật trong việc áp dụng pháp luật để xét xử tội phạm,

đã góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội vi phạm quy

định về tham gia GTĐB nói riêng.

Bảng 2.3. Cơ cấu hình phạt Tòa án áp dụng khi xét xử sơ thẩm tội

“vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”trên địa bàn Thành

phố giai đoạn 2014 - 2018

Hình phạt chính Tổng Hình Năm số bị phạt Phạt Cải tạo Hình phạt tù có thời hạn

38

cáo tiền không Tù trên 3 Tù từ 7 bổ Tù đến năm đến 7 năm đến sung đã xét giam 3 năm năm 15 năm xử giữ

2014 130 0 50 68 10 2 0

2015 105 0 45 51 8 1 0

2016 168 0 78 70 15 5 0

2017 115 0 69 36 8 2 0

2018 125 0 65 50 7 3 0

Nguồn: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Qua số liệu cho thấy, trong 643 bị cáo được đưa ra xét xử thì có 275 bị

cáo bị xét xử hình phạt tù đến 3 năm, chiếm tỷ lệ 42,7%; tù trên ba năm đến 7

năm có trường hợp chiếm tỷ lệ 7,4%; cải tạo không giam giữ có 307 trường

hợp, chiếm tỷ lệ 47,7%.

Chất lượng xét xử sơ thẩm liên quan đến trách nhiệm hình sự, hội thẩm

đưa ra mức hình phạt đối với tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa

bàn thành phố Hồ Chí Minh đa phần là đảm bảo đúng pháp luật hình sự quy

định, đúng tội và đúng người vi phạm.

Bảng 2.4. Tỷ lệ bị cáo được Tòa án sơ thẩm cho hưởng án treo trên

tổng số bị cáo bị xử phạt tù không quá 3 năm trên địa bàn Thành phố

giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018

Số người bị phạt Số người được Năm tù không quá 3 Tỷ lệ % hưởng án treo năm

39

2014 30 68 44,1%

2015 25 51 49%

2016 55 70 78,5%

2017 18 36 50%

2018 36 50 72%

Nguồn: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

2.3.2. Những vi phạm, sai lầm trong quyết định hình phạt đối với tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ của Tòa án nhân dân quận

thành phố Hồ Chí Minh

Thực tiễn xét xử cho thấy vẫn còn tình trạng nhiều bản án bị điều

chỉnh, sửa lại chủ yếu tập trung vào phần hìnhphạt, dẫn đến tính nghiêm minh

của pháp luật còn bị ảnh hưởng, chất lượng của xét xử sơ thẩm về tội vi phạm

quy định về tham gia GTĐB vẫn còn một số trường hợp vi phạm thể hiện ở

mức hình phạt được quyết định quá nặng hoặc quá nhẹ, không tương xứng

với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm.

Những sai lầm,vi phạm trong quyết định hình phạt của Tòa án nhân

dânthành phố Hồ Chí Minh trong hoạt động xét xử vụ án hình sự sơ thẩm như

đã nêu còn thể hiện không công bằng ở chỗ đối với những trường hợp có tính

chất và mức độ phạm tội tương tự nhau nhưng việc quyết định hình phạt khác

nhau.

Ví dụ: Vụ án Nguyễn Tuấn Anh phạm tội vi phạm quy định về điều

khiển phương tiện giao thông đường bộ

Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 29/7/2005 Nguyễn Tuấn Anh có giấy

phép lái xe ô tô tải chở đất chạy trên đường quốc lộ khi đến ngã tư phường

Đồng Tâm là điểm giao nhau giữa thì có tín hiệu đèn đỏ. Sự dừng xe sau vạch

sơn ở phần đường của mình và bật đèn xi nhan xin rẽ phải sang đường. Lúc

dừng xe Sự quan sát thấy ở đầu xe phía bên phải có hai cháu gái đi xe đạp chở

40

nhau là cháu Lê Thị Huyền Trang (sinh năm 1988) chở cháu Lê Thị Khánh

Linh (sinh năm 1997) đang dừng xe đạp ở cạnh ô tô. Đến khi đèn tín hiệu

chuyển màu xanh thì hai cháu điều khiển xe đạp thẳng, Nguyễn Tuấn Anh

điều khiển xe ô tô đi sau rẽ phải sang đường. Do mải quan sát phía bên phải

để điều khiển xe chuyển hướng, không quan sát phía trước và phía bên trái

nên bên trái xe ô tô cán vào xe đạp làm cho hai cháu bị ngã ra đường và bị lọt

vào trong gầm xe ô tô. Do không phát hiện được va chạm, Nguyễn Tuấn Anh

vẫn tiếp tục cho xe chuyển hướng rẽ phải nên bánh sau bên trái xe ô tô chèn

qua người cháu Linh làm cho cháu bị chết ngay tại chỗ, sau đó chèn tiếp lên

người cháu Trang làm cho cháu bị thương nặng. Thấy bánh xe ô tô bị kênh

Nguyễn Tuấn Anh mới biết được xảy ra tai nạn nên đã dừng xe ô tô và đến

đồn công an trình báo. Cháu Trang được đưa đi cấp cứu nhưng do bị thương

quá nặng nên cũng bị tử vong. Ngày 19/8/2005 gia đình Nguyễn Tuấn Anh đã

tự nguyện bồi thường tiền mai táng phí và tổn thất tinh thần cho đại diện

người bị hại 90.000.000 đồng và gia đình người bị hại có đơn đề nghị miễn

truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo Nguyễn Tuấn Anh.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2006/HSST ngày 20/01/2006 Tòa án

nhân dân quận X áp dụng điểm đ khoản 2 và khoản 5 Điều 202; các điểm b, p

khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47 BLHS xử phạt Nguyễn Tuấn Anh hai năm

tù về tội “vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”,

áp dụng khoản 2 Điều 41, khoản 1 Điều 42 BLHS xác nhận bị cáo đã bồi

thường cho đại diện người bị hại 90 triệu đồng.

Ngày 22/01/2006 chị Nguyễn Thị T đại diện cho người bị hại kháng

cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo. Ngày 24/01/2006 Nguyễn Tuấn

Anh kháng cáo xin được hưởng án treo. Tại Bản án hình sự phúc thẩm số

21/2006/HSPT ngày 29/3/2006 Tòa án nhân dân TPHCM áp dụng điểm d

khoản 2 Điều 248 BLTTHS giữ nguyên quyết định về tội danh và hình phạt

41

của Tòa án cấp sơ thẩm đối với Nguyễn Tuấn Anh.

Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 31/QĐ-VKSTC-V3 ngày

28/02/2006, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Tòa Hình sự

Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án hình sự phúc thẩm

số 21/2006/HSPT ngày 29/3/2006 của Tòa án nhân dân TPHCM để xét xử

phúc thẩm lại theo hướng tăng hình phạt đối với Nguyễn Tuấn Anh. Kháng

nghị này đã được Hội đồng giám đốc thẩm Tòa Hình sự tòa án nhân dân tối

cao chấp nhận tại Quyết định giám đốc thẩm số 06/HS-GĐT ngày 01/4/2007.

Nguyễn Tuấn Anh đã gây ra tai nạn khi điều khiển xe ô tô, lỗi là hoàn

toàn thuộc về Nguyễn Tuấn Anh, hậu quả xảy ra rất nghiêm trọng làm chết

hai cháu Lê Thị Huyền Trang và Lê Thị Khánh Linh là con của một gia đình,

tại điểm đ khoản 2 Điều 202 BLHS có khung hình phạt từ 03 năm đến 10 năm

tù Nguyễn Tuấn Anh phải chịu hình phạt này. Mặc dù bị cáo có các tình tiết

giảm nhẹ nhưng Tòa án địa phương quá nhấn mạnh đến các tình tiết này (như

bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại 90 triệu đồng, bị cáo thành khẩn

khai báo nhận tội, có thời gian tham gia quân đội và có anh trai là liệt sĩ và

đang có trách nhiệm nuôi dưỡng mẹ liệt sĩ) để xử phạt Nguyễn Tuấn Anh hai

năm tù là quá nhẹ. [48, tr.256]

Chất lượng xét xử sơ thẩm để xác định hình phạt đối với tội vi phạm

quy định về tham gia GTĐB là khá thuyết phục, việc xét xử đúng với tính

chất vụ việc, đúng tội danh, đúng người vi phạm.

Đối với việc áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo, các trường hợp

cho hưởng án treo cũng đảm bảo đúng các quy định của pháp luật, theo đó thể

hiện tính đúng đắng của Tòa án, Viện kiểm sát, đây cũng là một trong nhưng

nguyên tắc xử lý đối với tội phạm hình sự cũng như đảm bảo trách nhiệm của

các cơ quan pháp luật về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh

vực này.

42

Thực tiễn xét xử vụ án hình sự tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh,

trong đó các vụ án “vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” được

định tội danh và quyết định hình phạt tương đối đúng người, đúng tội.

Một số khó khăn cũng cần phải nêu ra mà Tòa án nhân dân Thành phố

gặp phải trong việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm

quy định về tham gia GTĐB, như một số vụ tai nạn giao thông theo đánh giá

mức thiệt hại về tài sản là lớn nhưng lại không được tiến hành định giá tài

sản, hoặc người bị hại khi bị ảnh hưởng đến sức khỏe nhưng lại từ chối giám

định thương tích, trong khi đó Cơ quan điều tra không có biện pháp thuyết

phục người bị hại đi giám định dễ dẫn đến việc định tội danh mang tính chủ

quan, xử lý không đúng khung hình phạt, thậm chí bỏ lọt tội phạm. Thêm

trường hợp nữa đó là không ít trường hợp quá trình điều tra ban đầu cơ quan

điều tra đã không áp dụng các biện pháp theo quy đinh để xác định nồng độ

cồn hoặc xác định người phạm tội đã sử dụng chất kích thích trước khi gây ra

tội phạm, dẫn đến việc Tòa án không áp dụng đúng khung hình phạt theo điều

260 BLHS năm 2015.

Còn một trường hợp mà trong khá nhiều vụ án vi phạm quy định về

tham gia GTĐB mà người vi phạm đã không có giấy phép lái xe. Cơ quan

điều tra cũng chưa làm rõ việc người vi phạm có được cấp giấy phép lái xe

theo luật định hay chưa, hoặc có giấy phép lái xe nhưng đã mất, để quên

không mang theo hoặc hành vi vi phạm của chủ sở hữu phương tiện khi giao

xe cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện GTĐB.

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế

Những hạn chế, vi phạm, sai lầm nêu trên xảy ra do nhiều nguyên nhân

khác nhau đó là:

Về nguyên nhân khách quan:

43

Thứ nhất: Hệ thống pháp luật về xử lý các hành vi vi phạm các quy

định tham gia giao thông đường bộ chưa đồng bộ.

Điều 260 BLHS năm 2015 mặc dù còn rất mới so với Điều 202 BLHS

năm 1999. Nhưng qua quá trình áp dụng điều luật trong BLHS đã bộc lộ một

số hạn chế về soạn thảo các điều luật, đặc biệt là tội phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ, cụ thể như:

Về quy định “không có giấy phép lái xe hoặc bằng lái theo quy

định” trong Điều 260 BLHS năm 2015. Cần xác định thế nào là không có

giấy phép lái xe hoặc bằng lái xe, vì đây là điểm mà các nhà làm luật đã

không giải thích rõ dẫn đến việc áp dụng pháp luật còn chưa thống nhất, quan

điểm mỗi người cũng khác nhau: ví dụ khi lái xe, người điều khiển phương

tiện không mang theo bằng lái rồi gây tai nạn, có người hiểu là tại thời điểm

gây tai nạn người lái xe chưa được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép lái

xe, có người hiểu là tại thời điểm đó người vi phạm có bằng lái xe nhưng

không mang theo bên mình. Theo thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 07

tháng 01 năm 1995 của Tòa án nhân dân tối cao, Bộ nội vụ, Viện kiểm sát

nhân dân tối cao có hướng dẫn áp dụng điều 186, 188 BLHS năm 1985 hướng

dẫn về tình tiết định khung hình phạt: “Điều khiển phương tiện giao thông

vận tải mà không có bằng lái” tức là người phạm tội điều khiển phương tiện

giao thông vận tải trong trường hợp: Không có bằng lái xe do cơ quan có

thẩm quyền cấp đối với loại phương tiện đó, đã bị cơ quan có thẩm quyền thu

hồi bằng lái hoặc điều khiển phương tiện trong thời gian bị cơ quan có thẩm

quyền cấm. Do đó việc chưa pháp điển hóa các quy định trên đã gây khó khăn

trong quá trình giải quyết vụ án mà các cơ quan áp dụng pháp luật gặp phải.

Tại Điều 260 BLHS năm 2015 khoản 2 điểm b quy định: “trong tình

trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt

quá mức quy định, có sử dụng ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác”. Bên

44

cạnh đó căn cứ vào quy định tại Điều 8 khoản 8 Luật giao thông đường bộ để

xác định tình trạng say là “người lái xe đang điều khiển xe …có nồng độ cồn

vượt quá tám mươi miligam/một trăm mililít máu hoặc bốn trăm mililít/một lít

khí thở hoặc có chất kích thích khác mà pháp luật cấm sử dụng”. Còn “các

chất kích thích mạnh khác” là những chất nào thì chưa có hướng dẫn cụ thể và

việc Tòa án áp dụng tình tiết này vẫn chưa có thống nhất với nhau.

Hiện thực tiễn có trường hợp gây tai nạn làm chết một người và bị

thương một người tỷ lệ tổn thương cơ thể tới 61%, nhưng không biết áp dụng

xử ở khung hình phạt nào vì điều luật không có chỗ nào quy định, nên các Cơ

quan tố tụng rất lúng túng khi gặp trường hợp này.

Thứ hai, công tác giải thích và hướng dẫn áp dụng pháp luật chưa đầy

đủ, kịp thời và còn nhiều bất cập là một nguyên nhân đưa đến sự hạn chế về

xét xử đối với loại tội này. Có thể thấy rằng, công tác giải thích pháp luật

trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói chung và tội phạm về tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ nói riêng rất cần cho hoạt động điều tra, truy

tố, xét xử đối với loại tội này bởi lẽ, những quy pháp pháp luật có mâu thuẫn

hoặc cách diễn đạt trong văn bản quy phạm pháp luật không rõ ràng dẫn đến

nhiều cách hiểu khác nhau hoặc sử dụng những từ ngữ khác nhau, nhưng

không được giải thích kịp thời, gây ra nhiều khó khăn cho người tiến hành tố

tụng. Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ chính trị đã nêu: “Công tác xây dựng,

giải thích hướng dẫn, phổ biến và tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong đó có

pháp luật về lĩnh vực tư pháp còn nhiều hạn chế và bất cập”. Theo quy định

tại khoản 3 Điều 91 Hiến pháp năm 1992 thì ủy ban Thường vụ Quốc hội có

nhiệm vụ và quyền hạn giải thích Hiến pháp, Luật pháp lệnh, tổng kết kinh

nghiệm xét xử của Toà án, nhiệm vụ này được giao cho Hội đồng Thẩm phán

Toà án nhân dân tối cao.

45

Mặc dù việc hướng dẫn áp dụng pháp luật của Toà án nhân dân tối cao

đã được quan tâm, như Nghị quyết cảu Hội đồng thẩm phán hoặc bằng công

văn, báo cáo tổng kết... Nhưng việc giải thích hướng dẫn còn nhiều bất cập,

chưa đầy đủ. Ví dụ như còn một số văn bản hướng dẫn liên quan đến BLHS

năm 1999 dù không còn hiệu lực nhưng chưa được một văn bản thay thế nào

hoặc có văn bản hướng dẫn nào phủ nhận hiệu lực của nó. Các quy định về

thủ tục tố tụng được áp dụng còn thiếu cụ thể đối với người phạm tội, nhưng

vẫn chưa được hướng dẫn rõ ràng, đầy đủ, dẫn đến việc áp dụng pháp luật còn

chưa thống nhất.

* Nguyên nhân chủ quan

Đây là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những hạn chế, thiếu sót

trong hoạt động xét xử án hình sự nói chung và xét xử sơ thẩm các vụ án hình

sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ:

Thứ nhất, trình độ, năng lực của đội ngũ Thẩm phán chưa thực sự đáp

ứng được yêu cầu mới. Đảng, Nhà nước vẫn đang quan tâm đến vấn đề trình

độ, năng lực của đội ngũ Thẩm phán trong điều kiện hiện tại, trước xu thế hội

nhập mạnh mẽ. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị,

đã nêu lên được còn rất nhiều hạn chế về nhiều mặt trong đó đã chỉ rõ ra thực

trạng cán bộ tư pháp.

Sự yếu kém về trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán thường đi kéo theo

tác phong làm việc thiếu chuyên nghiệp, chủ quan, duy ý chí, cẩu thả, thiếu

trách nhiệm. Ví dụ như Thẩm phán điều khiển phiên toà không đảm bảo tính

dân chủ, chưa khách quan và nghiêm minh cần thiết, dẫn đến không đạt hiệu

quả theo yêu cầu. Điều này thể hiện qua việc nghiên cứu các tài liệu, chứng

cứ mà thẩm phán có được từ hồ sơ vụ án đã không xác định được đâu là vấn

đề trọng tâm, đâu sẽ mang ý nghĩa mấu chốt của vụ án và có giá trị nhất. Khi

Thẩm phán đọc các tài liệu, nghiên cứu hồ sơ, đọc lời khai, đọc chứng cứ

46

trong hồ sơ của vụ án, nếu trình độ nghiệp vụ yếu kém thì chắc chắn sẽ không

hệ thống được một cách logic, khách quan và sẽ không thống nhất được

những tình tiết vụ án mà trong các tài liệu thường rất dễ dẫn đến các điểm

mâu thuẫn, việc đánh giá chứng cứ, đối chiếu, so sánh và thẩm tra theo quy

định của pháp luật cũng trở nên thiếu chặt chẽ. Và cũng chính vì yếu kém về

chuyên môn nghiệp vụ nên cũng sẽ bỏ qua chứng cứ có giá trị, mà các chứng

cứ đó có ý nghĩa chứng minh vụ án một cách khách quan theo quy định của

pháp luật. Còn có một số ít Thẩm phán đã bỏ qua những thủ tục tố tụng bắt

buộc theo luật định dẫn đến bản án, quyết định bị huỷ vì vi phạm nghiêm

trọng thủ tục tố tụng. Ví dụ: Thẩm phán đã cố tình hoặc quên giới thiệu quyền

và nghĩa vụ của bị cáo ngay tại phiên tòa làm cho bị cáo mất đi các quyền cơ

bản như quyền kháng cáo...

Thứ hai, số ít Thẩm phán chưa tích cực học tập, rèn luyện để nâng cao

trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, việc nghiên cứu hồ sơ chưa kỹ

nên không phát hiện được những điểm còn mâu thuẫn, thiếu sót trong quá

trình điều tra, truy tố. Một số ít Thẩm phán tinh thần trách nhiệm chưa cao,

ngại va chạm, thiên vị do thân quen, sự tác động của cơ chế thị trường đã

phần nào dẫn đến những bản án, quyết định của Toà án được ban hành thiếu

dân chủ và khách quan.

Tiểu kết chương 2

Đây là chương được tác giả tập trung phân tích thực trạng về áp dụng

pháp luật hình sự về tội vi pham quy định về tham gia giao thông đường bộ

trong 5 năm 2014 – 2018 trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Các số liệu

được thu thập từ Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Tòa án

nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Các số liệu lấy từ nguồn của các cơ quan

trong hệ thống chính trị, cơ quan tư pháp, theo đó đảm bảo làm cơ sở cho việc

phân tích đánh giá thực trạng trong xác định trách nhiệm hình sự và xác định

47

tội danh của Tòa án, Viện kiểm sát. Quá trình phân tích, tác giả cũng đã đưa

ra một số thực trạng, tồn tại trong hoạt động xét xử và việc định tội danh áp

dụng Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có giá trị thực

hiện từ ngày 01/01/2018 đến nay.

48

Chương 3:

CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐÚNG TRONG ÁP DỤNG

PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA

GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

3.1. Yêu cầu đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật hình

sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn

thành phố Hồ Chí Minh

Việc yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về

tội phạm này được hiểu là:

Thứ nhất, áp dụng pháp luật đúng quy định của pháp luật hình sự về

tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn thành phố

Hồ Chí Minh phải quán triệt quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật hình

sự của Nhà nước.

Theo đó, Nhà nước ta kiên quyết đấu tranh phòng, chống tội phạm nói

chung và tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB nói riêng đó là lấy giáo dục

phòng ngừa là chính, kết hợp răn đe, giữ nghiêm kỷ cương, cảm hoá con

người, mang tính nhân đạo của chế độ xã hội chủ nghĩa, phát huy sức mạnh

của các tổ chức đoàn thể xã hội và sức mạnh của các cơ quan bảo vệ pháp

luật, đặc biệt là huy động toàn bộ người dân trong cuộc đấu tranh phòng

chống tội phạm.

Phải xác định việc xử lý người phạm tội bằng việc áp dụng pháp luật

hình sự nhằm giáo dục và phòng ngừa chung. Theo đó phải coi việc giáo dục

người phạm tội là một công việc lâu dài áp dụng nhiều biện pháp khác nhau

để cảm biến họ, giúp họ có điều kiện sửa chữa khuyết điểm sai lầm, sớm lấy

lại niềm tin trong cuộc sống.

Thứ hai, tiếp tục đưa vào cuộc sống nội dung quá trình cải cách tư

pháp.

49

Trong hoàn cảnh và điều kiện xã hội nào cũng đòi hỏi Nhà nước phải

đổi mới hệ thống tư pháp nhất là trong quá trình tố tụng, việc định tội danh,

quá trình xét xử, tuyên hình phạt trách nhiệm hình sự đối với tội phạm mà đội

ngũ thẩm phán áp dụng sẽ thể hiện trách nhiệm trước người dân và nhà nước.

Theo đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ tư pháp phải nâng cao trình độ, chuyên môn

cũng phải phù hợp với quá trình cải cách tư pháp.

Trong áp dụng pháp luật để giải quyết tội phạm này thì việc đảm bảo là

giải pháp công bằng, dân chủ, bình đẳng, rõ nét tính nhân đạo, cá thể hóa

được hình phạt, phân hóa được trách nhiệm hình sự … Đặc biệt trong Bộ luật

mới năm 2015 đã mở rộng phạm vi chủ thể tham gia giao thông đó là chủ thể

mang tính bao quát hơn của tội phạm, do đó đòi hỏi việc áp dụng pháp luật

hình sự phải được phân hóa một cách sâu sắc giúp cho người phạm tội hoàn

toàn chấp nhận. Yêu cầu của cải cách tư pháp là tiếp tục tăng cường hiệu lực

và hiệu quả của việc xử lý tội phạm và người phạm tội, giảm hình phạt tù,

tăng cường tính hướng thiện, hạn chế hình phạt tử hình. Do đó khi xét xử

những người này sẽ không để sự mâu thuẫn giữa các bản án hoặc các phiên

tòa với các tội phạm cùng một tội danh. Ngoài việc trao dồi chuyên môn, đội

ngũ thẩm phán cũng phải trao dồi phẩm chất đạo đức trong quá trình thực thi

công vụ, từ giai đoạn điều tra đến giai đoạn định tội danh, đến giai đoạn xét

xử, xác định trách nhiệm hình sự, ra bản án.

Thứ ba, quyền con người trong quá trình Tố tụng hình sự cần phải

được đảm bảo.

Thế giới ngày càng tiếp cận với xu hướng nhân đạo, nhân văn nhiều

hơn, và trong đời sống xã hội, pháp luật cũng ngày càng hướng vào bảo vệ

đầy đủ hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Theo

đó việc áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự với tội vi phạm quy định

về tham gia GTĐB góp phần nâng cao nhận thức về quyền và nghĩa vụ của

50

con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nếu việc xét xử của các

cơ quan pháp luật phải xử là đúng người, đúng tội, bên cạnh việc áp dụng

đúng chính sách xét xử tội phạm này thì việc áp dụng đúng pháp luật hình sự

trên thực tế sẽ đảm bảo quyền con người, quyền công dân cũng được đảm

bảo. Ví dụ như không được áp đặt chủ quan duy ý chí, không được dùng hình

thức ép cung, nhục hình, đảm bảo tính khách quan trung thực. Tạo điều kiện

để người phạm tội được trình bày, giải thích cũng như mong muốn được giảm

tội. Cũng như phải tôn trọng các luật sư bào chữa, xem xét đầy đủ các yếu tố

đặc biệt là ý kiến của luật sư bảo chữ, vì chính luật sư là người sẽ bảo vệ cho

quyền con người mạnh mẽ nhất. Một yếu tố mà Tòa án phải thực hiện theo

quy đinh của pháp luật đó là đảm bảo tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,

có như vậy mới đảm bảo quyền con người.

Thứ tư, yêu cầu xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân theo

Hiến pháp và Nghị quyết của Đảng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân, vì

dân tất cả quyền lực thuộc về người dân, các quyết định chỉ thị, chủ trương

chính sách, các quy định của nhà nước đều được phổ biến và tuyên truyền đến

người dân để người dân “được biết, được bàn, được kiểm tra”. Đồng thời, nhà

nước phải coi trọng đúng mức những ý kiến phản hồi của người dân, qua đó

đánh giá chất lượng quản lý của nhà nước. Lắng nghe ý kiến của người dân,

coi các ý kiến của người dân như sự phản biện tích cực để từ đó thu thập và

xử lý thông tin làm cơ sở đối chiếu, cũng như phân tích thực tiễn của từng vấn

đề. Nếu làm tốt những vấn đề đó thì trong việc định tội và xác định tội danh,

trách nhiệm pháp lý, mức hình phạt sẽ đúng với quy định của pháp luật hình

sự.

Thứ năm, yêu cầu của hội nhập quốc tế

51

Nước ta vẫn đang trong quá trình hội nhập quốc tế thông qua hợp tác,

liên kết, mở rộng quan hệ ngày càng sâu và rộng, trong đó việc thực hiện các

hiệp định với các nước liên quan về xét xử các tội vi phạm về quy định tham

gia GTĐB. Đòi hỏi ngành Tòa án không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia

mà còn phù hợp với luật pháp quốc tế. Toàn cầu hóa đã tạo điều kiện giao lưu

văn hóa, chính trị, luật pháp giữa các nước là rất lớn, do vậy việc áp dụng

pháp luật hình sự về tội phạm này của mà các cơ quan tư pháp phải mang tính

khách quan và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong quá trình hội nhập.

3.2. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật

hình sự về xử lý tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện và ban hành các văn bản hướng dẫn các quy

định của pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ

Theo chiều dài lịch sử từ BLHS năm 1985, đến BLHS năm 1999, đến

BLHS năm 2015, thấy rằng để để mang tính đồng bộ và thống nhất trên cả

nước, một số giải pháp như sau:

Cần bổ sung hoặc khi chưa bổ sung được cần có hướng dẫn thống nhất

việc áp dụng pháp luật trong trường hợp gây tai nạn làm chết một người và bị

thương một người với tỷ lệ tổn thương cơ thể tới 61%.

Điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự mới bổ sung nội dung “có sử

dụng chất ma túy” là tình tiết định khung tăng nặng. Với các số liệu thống kê

hiện tại thì có rất nhiều loại ma túy, các chất tương tự như ma túy như:

Methammethamine, bồ đà, cần sa, herroin, cỏ Mỹ, hiện tại còn có “hàng đá”,

“bóng cười”, Thực tế cho thấy khi tai nan giao thông xảy ra, việc cấp cứu cho

người bị tai nạn là ưu tiên hàng đầu, do vậy khi người bị tai nạn giao thông

được đưa vào bệnh viện hoặc cơ sở y tế thì việc xét nghiệm ma túy của người

được đua vào là không có, nếu xét thấy cần thiết thì việc đo nồng độ cồn

52

trong máu hoặc trong hơi thở là có thể có. Còn trường hợp người gây tai nạn

đến trình diện tại cơ quan công an có thẩm quyền thì việc kiểm nhanh có sử

dụng ma túy, chất kích thích, rượu, bia là khó và cũng chưa có văn bản pháp

luật cụ thể nào hướng dẫn. Đòi hỏi tính chặt chẽ hơn vấn đề này để đảm bảo

pháp lý trong quá trình tiến hành tố tụng, đặc biệt tình trạng việc sử dụng ma

túy, chất kích thích ngày càng được giới trẻ sử dụng nhiều như hiện nay sau

đó điều khiển phương tiện thực hiện hành vi đua xe, lạng lách, đánh võng,

biểu diễn trên đường phố gây mất an ninh trật tự, nguy hiểm cho người tham

gia giao thông, Cụm từ “chất kích thích mạnh khác” cũng cần thiết có văn bản

hướng dẫn cụ thể hơn về hàm lượng, liều lượng, số lượng...cũng như chế tài

nghiêm khác như thế nào.

- Về quy định “không có giấy phép lái xe”

Trong thực tiễn xét xử tội phạm này, việc áp dụng tình tiết “không có

giấy phép lái xe” hiện nay còn chưa thống nhất, đặc biệt việc hiểu như thế nào

là “không có” giấy phép lái xe theo quy định. Trường hợp tại thời điểm gây ra

tai nạn nguòi đó không xuất trình được giấy phép lái xe theo quy định thì xử

lý như thế nào, có chấp nhận hay không việc họ xuất trình những giấy tờ này

sau đó? Họ có bị áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm a khoản 2 Điều

260 Bộ luật hình sự hay không? Thực tế trong quá trình giải quyết các vụ án

tai nạn GTĐB mà xảy ra những trường hợp nêu trên thì có Toà không áp dụng

tình tiết tăng nặng theo điểm a khoản 2 Điều 260 vì họ cho rằng Bộ luật hình

sự chỉ quy định là không có giấy phép lái xe theo quy định chứ không quy

định là phải có khi tham gia giao thông đường bộ. Bên cạnh đó, có Toà lại áp

dụng tính tiết tăng nặng tại điểm a khoản 2 Điều 260 với cùng trường hợp nêu

trên vì họ cho rằng việc mang theo bằng lái xe hoặc giấy phép lái xe theo quy

định là bắt buộc đối với người điều khiển phương tiện tham gia giao thông

đường bộ.

53

Do đó, cần ghi rõ ra hơn trong quy định “Điều khiển phương tiện tham

gia giao thông đường bộ không có giấy phép lái xe theo quy định” thay vì chỉ

quy định: “Không có giấy phép lái xe theo quy định”. Khi đó, các Tòa án sẽ

có cách hiểu thống nhất rằng việc mang bằng lái xe theo quy định là bắt buộc

đối với người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, đồng thời quy

định như vậy sẽ nhắc nhở lái xe phải đảm bảo an toàn giao thông ngay trước

khi khởi hành, buộc người người lái xe trước khi điều khiển xe phải kiểm tra

và mang đầy đủ các loại giấy tờ đặc biệt bằng lái xe theo quy định và giấy

phép lái xe đã được cơ quan có thẩm quyền cấp.

- Về quy định có tình tiết: “Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm ……….

bị nạn”

Xác định thế nào là: “để trốn tránh trách nhiệm” trong trường hợp này

không phải dễ dàng, bởi sau khi gây tai nạn người gây tai nạn bỏ chạy khỏi

hiện trường cũng vì nhiều lý do khác nhau có thể do tâm lý sợ hãi sau khi gây

tai nạn, lo sợ người nhà nạn nhân trả thù… nhưng sau một thời gian trấn an

tâm lý người gây tai nạn đã tới cơ quan có thẩm quyền để đầu thú có bị coi là

chạy để trốn tránh trách nhiệm không? Theo tác giả thì có thể coi đây là

trường hợp đặc biệt mà người phạm tội không bị áp dụng tình tiết quy định tại

điểm c khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015. Còn việc, “cố ý không cứu giúp

người bị nạn” được hiẻu như thế nào cho đúng? Người gây tai nạn không có

điều kiện cứu giúp, không thể cứu giúp thì có bị coi là “cố ý không cứu giúp

người bị nạn” không? Do đó cần quy định rõ hơn như: “Gây tai nạn rồi bỏ

chạy để trốn tránh trách nhiệm trừ một số trường hợp đặc biệt; gây tai nạn cố

ý không cứu giúp nạn nhân, mặc dù có điều kiện để cứu giúp”.

Tại khoản 4 Điều 260 BLHS năm 2015 quy định:

“Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong trường hợp

có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b, c

54

khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời…” Đây là quy định

mang tính định tính, suy đoán, cần phải có văn bản hướng dẫn cụ thể trong

trường hợp nào tại điểm a Khoản 4 là trường hợp có khả năng dẫn đến hậu

quả làm chết 3 người; trường hợp nào sẽ áp dụng điểm b và c.

3.2.2. Tăng cường hướng dẫn, tuyên truyền pháp luật hình sự mới được

bổ sung, sửa đổi

Bên cạnh việc vận động, tuyên truyền cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện

hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông,

cần tiến hành hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, đặc biệt là

pháp luật hình sự. Giáo dục, phổ biến pháp luật là một trong những nhiệm vụ

ưu tiên nhằm từng bước nâng cao nhận thức của người dân về quy định pháp

luật, ý thức pháp luật, hiểu biết pháp luật, từ đó thực hiện đúng, nghiêm chỉnh

pháp luật, góp phần làm tình hình an ninh, chính trị được ổn định. Đặc biệt là

làm thế nào để mọi đối tượng tham gia giao thông đều hiểu được các quy định

pháp luật hình sự, cũng như pháp luật về GTĐB để khi tham gia GTĐB thì

thực hiện đúng theo các quy định không để xảy ra tai nạn giao thông, qua đó

giúp cho đội ngũ xử lý vụ án hình sự liên quan tội phạm này dễ dàng giải

quyết và đưa ra bản án đúng theo pháp luật quy định.

Các cơ quan nhà nước, các đoàn thể, các tổ chức, các doanh nghiệp

cũng phải có trách nhiệm trong việc nhận thức cho cán bộ, công chức, viên

chức, người lao động, người dân. Công tác phổ biến pháp luật hình sự, tuyên

truyền pháp luật hình sự trên các phương tiện thông tin đại chúng như: báo

hình, đài phát thanh, báo in, chuyên mục, các chương trình về an toàn giao

thông, các buổi tọa đàm, mở rộng đối tượng tham gia nhằm tuyên truyền sâu

và rộng hơn đến mọi tầng lớp nhân dân, kể cả những khách tham quan du lịch

đặc biệt địa bàn thành phố Hồ Chí Minh có rất nhiều khách tham quan, du

lịch cần phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật hình sự về tham gia GTĐB.

55

Bên cạnh xử lý nghiêm đối với những người vi phạm pháp luật hình sự về

tham gia GTĐB cũng cần có chế độ khen thưởng, biểu dương những người đã

thực hiện tốt quy định khi tham gia GTĐB.

Các nhà nghiên cứu khoa học cần phải nghiên cứu sao cho phù hợp với

từng đối tượng khi tham gia GTĐB vì có nhiều độ tuổi khi tham gia giao

thông từ lớn đến nhỏ; nhiều loại phương tiện. Hình thức tuyên truyền, phổ

biến pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông cũng cần nghiên cứu sao

cho dễ tiếp cận người dân hơn có thể thông qua mạng xã hội, Internet để biết

được các quy định của pháp luật mà thực hiện cho đúng.

3.2.3. Tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng đúng pháp luật hình sự

trong việc xử lý tộivi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

Để áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia

GTĐB các cơ quan bảo vệ pháp luật và cơ quan liên quan đến đảm bảo an

toàn giao thông trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh cần thực hiện các nội

dung sau:

Cơ quan điều tra ,Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cần thường

xuyên tổ chức hội nghị chuyên đề về định tội danh và quyết định hình phạt

đối với tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB. Mục đích rút ra từ thực tiễn

áp dụng pháp luật nhằm thống nhất việc áp dụng pháp luật hình sự trong công

tác xét xử về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thành phố

Hồ Chí Minh.

Đặc biệt Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phải thường xuyên

áp dụng pháp luật hình sự như thế nào cho đồng bộ đối với các tòa ở các quận

trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Từ thực tiễn xét xử của mình, Tòa án

nhân dân thành phố Hồ Chí Minh cũng phải thường xuyên đưa ra được nhưng

khiếm khuyết của mình trong quá trình xét xử, nhưng điểm còn xót, còn chưa

đúng với quy định do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng sau đó phải bổ

56

sung và sửa đổi sao cho không để xảy ra sai sót nữa, giúp cho việc xét xử

đúng người, đúng tội. Cần tổ chức các hội nghị sơ kết, tổng kết trong công tác

xét xử, đánh giá hiệu quả, áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội phạm vi

phạm tham gia GTĐB và công khai các nội dung cho người dân cùng nắm,

thể hiện tính nghiêm minh, minh bạch, phổ biến đến mọi đối tượng đặc biệt là

đối tượng tham gia GTĐB. Qua đó, Tòa án sẽ hạn chế đến mức thấp nhất

những sai sót trong việc định tội danh và áp dụng TNHS, khắc phục tình trạng

vụ án có tính chất tương tự nhau nhưng Tòa án áp dụng mức hình phạt khác

nhau, chưa đúng người, đúng tội do có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến

tính đúng đắn trong xét xử bị mất đi.

Quá trình xét xử phải công khai cho mọi người dân cùng biết nhằm

mục đích răn đe, giáo dục những người tham gia GTĐB biết và thực hiện

đúng theo quy định pháp luật. Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân Thành phố cần

tổng kết và phổ biến rộng rãi các tài liệu liên quan đến xét xử các vụ án về tội

vi phạm tham gia GTĐB đến tòa quận, huyện, địa phương để làm tài liệu

tham khảo để đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên có thể nghiên

cứu, học hỏi kinh nghiệm trong việc điều tra, truy tố, xét xử.

3.2.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong

việc áp dụng pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ

Sự phối hợp giữa Viện kiểm sát, Cơ quan Công an và Tòa án trong đấu

tranh phòng, chống tội phạm nói chung và giải quyết các vụ án về vi phạm

các quy định về tham gia GTĐB nói riêng. Việc phối hợp phải kịp thời về nội

dung và phạm vi, kể từ phát hiện vụ án cho đến các giai đoạn tố tụng như điều

tra, truy tố và xét xử, Tòa án tổng hợp đến giai đoạn cuối cùng sao cho đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật. Thực cho thấy, sự phối hợp tốt giữa các Cơ

quan tiến hành tố tụng ở địa phương, quận, huyện nào đó được chú trọng thì

57

việc điều tra, truy tố xét xử các vụ án vi phạm các quy định về tham gia

GTĐB được nhanh chóng, kịp thời, chính xác, người dân đồng thuận cao,

giúp hạn chế tới mức thấp nhất việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, cũng như

không để lọt kẻ phạm tội, làm oan người vô tội, qua đó cần phải:

Các tổ chức, cá nhân cần nâng cao hơn nữa trong công tác phối hợp

chặt chẽ với nhau. Tăng cường hơn nữa trong các đợt cao điểm phòng, chống

tội phạm vi phạm tham gia GTĐB, từ lúc điều tra, cho đến truy tố, xét xử phải

đồng bộ, thống nhất trên cơ sở xử lý nghiêm minh, tuân theo pháp luật.

Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cần nâng cao chất lượng thực

hành quyền công tố, kiểm tra, giam sát nhằm bảo đảm trình tự tố tụng phải

xác định tội danh, xác định trách nhiệm hình sự được đảm bảo, hạn chế đến

mức thấp nhất việc xét xử kéo dài, không để oan, sai, bỏ lọt tội phạm, giúp

cho người dân địa bàn thành phố hiểu và tuân theo quy định pháp luật về

tham gia giao thông đường bộ.

Nhằm bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác xét xử các

vụ án hình sự nói chung và các vụ án về vi phạm các quy định về tham gia

GTĐB nói riêng các cơ quan, địa phương cần tăng cường phối hợp, bảo đảm

việc điều tra, truy tố, xét xử được công khai, minh bạch, khách quan, từ đó tạo

được lòng tin của người dân đối với các cơ quan tiến hành tố tụng.

3.2.5. Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ áp dụng pháp luật

Đội ngũ Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên trên địa bàn thành

phố Hồ Chí Minh cần được quan tâm và đào tạo đúng mức, ngoài ra cũng cần

phải xây dựng đội ngũ luật sư có trình độ, công tâm, trung thực không vì một

lý do nào khác mà bào chữa sai sự thật, làm cho công tác điều tra, truy tố, xét

xử khó khăn, không còn khách quan.

Đòi hỏi quá trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên

chức là đội ngũ Thẩm phán, điều tra viên, kiểm sát viên, luật sư cần phải được

58

các cơ quan nhà nước quan tâm nhiều hơn nữa. Bên cạnh đó, không ngừng

nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của đội ngũ này trong quá trình thực

hiện các quy định của Bộ luật. Để nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ

cho đội ngũ này thì cũng cần sự quan tâm của lãnh đạo các địa phương, cơ

quan tố tụng, tạo điều kiện để các đối tượng này được tham gia các khóa đào

tạo dài hạn hoặc ngắn hạn liên quan đến từng lĩnh vực của mình.

Ngoài ra việc nâng cao phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, công

chức, viên chức ở các cơ quan thực thi pháp luật cũng cần được chú ý. Tăng

cường bồi dưỡng cập nhật kiến thức liên quan chủ trương chính sách mới của

pháp luật, những quan điểm của Đảng, pháp luật Nhà nước về các vấn đề

chung, cũng như về an toàn, an ninh trong tham gia GTĐB. Đặc biệt trong

quá trình xét xử đội ngũ thẩm phán phải thể hiện được tính dân chủ, tạo môi

trường thân thiện, thể hiện tính nhân văn, chú trọng nâng cao năng lực phẩm

chất của đội ngũ này.

Ngoài ra cũng cần có chính sách về mặt vật chất cũng như tinh thần để

động viên đội ngũ này, qua đó nâng cao tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề

nghiệp, kỷ luật, kỷ cương của đội ngũ cán bộ công chức, viên chức, đặc biệt

đội ngũ Tòa án, Thẩm phán, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, và các luật sư.

Việc chuyên nghiệp hóa đội ngũ Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra

viên trên cơ sở tiêu chuẩn và nguồn dự bị, bảo đảm tính kế thừa và kết hợp

các độ tuổi mà phát triển đội ngũ. Quan trọng nhất là nâng cao chất lượng đối

với tiêu chuẩn tuyển chọn thẩm phán họ phải là những người giỏi chuyên

môn, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ hiểu biết xã hội và chỉ thực hiện

nhiệm vụ của mình theo quy định pháp luật.

Tiểu kết chương 3

Trong chương 3 này, tác giả chủ yếu nêu lên các yêu cầu cần thiết đó là

yêu cầu về cải cách tư pháp, yêu cầu về cải cách bộ máy, yêu cầu về cải cách

59

hệ thống pháp luật Việt Nam. Trong đó cũng có nêu một số giải pháp có tính

khả thi cao có thể áp dụng vào điều kiện thực tế tại thành phố Hồ Chí Minh

trong việc xử lý tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB. Các giải pháp này

phần nào sẽ giúp cho các cơ quan tư pháp, cơ quan ban hành pháp luật của

Việt Nam xem xét đưa vào Bộ luật mới khi điều chỉnh cho phù hợp điều kiện

hiện tại, nhất là trong bối cảnh xã hội đang phát triển quá nhanh, một số tình

huống xảy ra phức tạp nhưng luật vẫn chưa điều chỉnh tốt, dẫn đến việc áp

dụng pháp luật còn lúng túng, chưa đồng bộ và thống nhất cao. Nếu các giải

pháp này được quan tâm và áp dụng sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật hình sự

năm 2015 thì sẽ giúp cho đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, luật

sư có chung một hướng nhìn về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ, không phải nhiều quan điểm như hiện nay.

60

KẾT LUẬN

Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn

thành phố Hồ Chí Minh là đề tài không mới nhưng trong quá trình phát triển

thành phố thì nó lại mang tính cấp bách cả về lý luận và thực tiễn.

Luận văn đã nêu khái quát về mặt lý luận khoa học đồng thời cũng đã

làm rõ cơ sở pháp lý trong việc xác định tội danh và trách nhiệm hình sự của

các tội phạm tham gia GTĐB. Luận văn đã đưa ra được tính cơ bản nhất về lý

luận và đã phân tích một số thực trạng trong công tác áp dụng pháp luật hình

sự của Tòa án, cũng như các cơ quan tư pháp khác về tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong 5 năm

2014-2018, bên cạnh đó luận văn cũng tập trung nghiên cứu những hạn chế

bất cập đối việc xác định tội danh và xác định trách nhiệm hình sự nhằm đưa

ra các giải pháp phù hợp trong việc điều chỉnh điều luật trong thời tới. Đặc

biệt luận văn đã đưa ra các nhóm giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng đúng pháp

luật hình sự về tham gia GTĐB giúp góp thêm ý kiến giải quyết vấn đề mà xã

hội quan tâm.

Theo đó các giải pháp tập trung vào con người là chính, chủ yếu vào

việc nâng cao trình độ nhận thức, kỷ năng xét xử của Tòa án đối với các bị

cáo về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB. Một số giải pháp mang tính

đồng bộ và tính khả thi có thể áp dụng vào điều kiện thực tế của thành phố Hồ

Chí Minh cũng như các địa phương trên cả nước. Việc giải quyết về vấn đề

giao thông và tai nạn giao thông ngày càng diễn ra phức tạp, đòi hỏi phải có

số liệu một cách cụ thể và chính xác để luận văn mang tính thuyết phục cao.

Bản thân là người nghiên cứu nhưng không làm trong nghề tòa án, cũng như

viện kiểm sát hay luật sư, nhưng đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên

cứu và tìm hiểu các số liệu thực tế nói trên do các cơ quan chức năng như Tòa

án, cơ quan công an cung cấp mặc dù thời gian và khả năng còn hạn chế, vì

61

thế luận văn còn một số khiếm khuyết cần bổ sung một cách đầy đủ hơn các

một số vấn đề đang đặt ra. Vì vậy kính mong sự quan tâm, hướng dẫn của các

thầy, cô trong hội đồng, cùng những đồng nghiệp đi trước tham gia đóng góp

ý kiến để bản thân tiếp thu và hoàn thiện nhằm đạt kết quả tốt nhất.

62

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân

tối cao và Tòa án nhân dân tối cao (2013) Thông tư liên tịch số

09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn áp dụng một

số quy định tại chương xix của bộ luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự, an

toàn giao thông, ban hành ngày 28/8/2013, Hà Nội.

2. Bộ Giao thông vận tải (2012) Thông tư Số: 17/2012/TT-BGTVT của

Bộ GTVT ban hành "Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về báo hiệu đường bộ", ban

hành ngày 29 tháng 5 năm 2012,Hà Nội.

3. Bộ Tư pháp (1957) Tập luật lệ tư pháp, Hà Nội.

4. Lê Cảm (2000) Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung Luật

Hình sự, Tập III, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

5. Lê Cảm (2005) Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật Hình sự

(Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

6. Chính phủ (2016) Nghị số 46/2016/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, ban hành ngày

26/5/2016, Hà Nội.

7. Chính phủ (1955) Thông tư số 442/TTg về việc trừng trị một số tội

phạm,ban hành ngày 19/01/1955, Hà Nội.

8. Công an thành phố Hồ Chí Minh, Tình hình tại nạn giao thông

đường bộ và va chạm giao thông trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong 5

năm.

9. Cục CSGT Đường bộ đường sắt (2017) Báo cáo tình hình tai nạn

giao thông trên địa bàn toàn quốc năm 2016 – 2017, Hà Nội.

10. Nguyễn Đắc Dũng (2011) Tội vi phạm quy định về điều khiển

phương tiện giao thông đường bộ trong Luật Hình sự Việt Nam – Trên cơ sở

nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa

Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

11. Trần Thị Thu Hằng (2012) “Xử lý Nguyễn Văn Đ. về tội “Vi phạm

quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” có phù hợp?”, Tạp

chí Tòa án nhân dân, số 18, tr.35-37.

12. Hội đồng Thẩm phán TANDTC (2013) Nghị quyết Số: 01/2013/NQ-

HĐTP hướng dẫn áp dụng điều 60 của bộ luật hình sự về án treo , ban hành

ngày 06 tháng 11 năm 2013, Hà Nội.

13. Hội đồng Thẩm phán TANDTC (2003) Nghị quyết số: 02/2003/NQ-

HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, ban hành

ngày 17 tháng 4 năm 2003, Hà Nội.

14. Hội đồng Thẩm phán TANDTC (2015) Nghị quyết Số: 03/2015/NQ-

HĐTPvề quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ, ban hànhngày 28

tháng 10 năm 2015, Hà Nội.

15. Trần Minh Hưởng (2010) "Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn

công cộng, trật tự công cộng", Trong sách: Tìm hiểu Bộ luật hình sự nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những văn bản hướng dẫn thi hành,

Nxb Lao động, Hà Nội, 2010.

16. Trần Minh Hưởng (2002) Tìm hiểu các tội xâm phạm an toàn công

cộng, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà

Nội.

17. Vũ Thành Long – Chánh tòa phúc thẩm, Tòa án quân sự Trung ương,

(2012), “Điều 202 Bộ luật hình sự - Một số nội dung cần được hướng dẫn áp

dụng trong điều tra, truy tố, xét xử”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 01, tr.11-

14.

18. Lê Văn Luật – Thẩm phán, TAND huyện Hướng Hóa, Quảng Trị

(2011) “Xác định lỗi khi định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội “Vi

phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” một số vấn

đề lý luận và thực tiễn áp dụng”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16, tr.10-14.

19. Nguyễn Đức Mai (2001) Chương XIX – Các tội xâm phạm an toàn

công cộng, trật tự công cộng (trong sách Bình luận khoa học Bộ luật hình sự

năm 1999),Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

20. Nguyễn Đức Mai – Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương, (2009)

“Một số vướng mắc trong thực tiễn giải quyết các vụ án về trật tự an toàn giao

thông đường bộ”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 22, tr 22-28.

21. Lê Văn Meo (2013) “Trần Thị H. Phạm tội quy định về điều khiển

phương tiện giao thông đường bộ”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7, tr.27-28.

22. Nguyễn Trọng Nghĩa – VKS Quân sự khu vực 22 – Quân khu 2

(2010) “Cần thống nhất nhận thức trong việc áp dụng luật giao thông đường

bộ khi giải quyết các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao

thông đường bộ”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16, tr.42-44.

23. Cao Thị Oanh (chủ biên) (2010) Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam –

Phần chung, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

24. Cao Thị Oanh (chủ biên) (2010) Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam –

Phần các tội phạm, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

25. Huỳnh Trung Phong(2018) Báo cáo tình hình tai nạn giao thông trên

địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, tại Hội nghị Tổng kết đảm bảo an toàn giao

thông trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm 2018.

26. Đinh Văn Quế (2004) Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999

(phần chung), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

27. Đinh Văn Quế (2005) Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật hình

sự - Phần các tội phạm, Tập VII-Các tội xâm phạm quy định về an toàn giao

thông, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

28. Đinh Văn Quế (2000) Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Quốc Hội (1985)Bộ luật hình sự năm 1985, Nxb Chính trị quốc gia –

Sự thật, Hà Nội.

30. Quốc hội (1999) Bộ luật Hình sự năm 1999, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

31. Quốc Hội (2015) Bộ luật hình sự năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

32. Quốc Hội (2003) Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

33. Quốc Hội (2015) Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

34. Quốc Hội (1946) Hiến pháp 1946, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật,

Hà Nội.

35. Quốc Hội (1959) Hiến pháp 1959, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật,

Hà Nội.

36. Quốc Hội (1982) Hiến pháp 1982, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật,

Hà Nội.

37. Quốc Hội (2013) Hiến pháp 2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Quốc Hội (2008), Luật giao thông đường bộ năm 2008, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

39. Lê Xuân Sinh – Thẩm phán Tòa án Quân sự Trung ương (2011)

“Một số vấn đề vướng mắc từ thực tiễn áp dụng Điều 202 Bộ Luật Hình sự”,

Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16, tr.15-19.

40. Ngô Ngọc Thủy (2005) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, do

Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

41. Tòa án thành phố Hồ Chí Minh (2018) Báo cáo về tổng số bị cáo xét

xử trong 5 năm 2014 – 2018.

42. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2014-2018) Số liệu thống

kê từ năm 2014 đến năm 2018

43. Tòa án nhân dân tối cao (1990) Các văn bản về hình sự, dân sự và tố

tụng, Hà Nội.

44. Tòa án phúc thẩm (2018) Báo cáo tòa án phúc thẩm tại thành phố

Hồ Chí Minh năm 2014 – 2018.

45. Trần Hữu Tráng – Giảng viên chính Viện Đại học mở Hà Nội (2012)

“Cần hình sự hóa hành vi đã sử dụng rượu, bia hoặc các chất kích thích khác

mà vẫn điều khiển các phương tiện giao thông để phòng ngừa tai nạn”, Tạp

chí Tòa án nhân dân, số 16, tr.18-22.

46. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000) Giáo trình Luật Hình sự Việt

Nam – Phần các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

47. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005) Giáo trình Luật Hình sự Việt

Nam, tập I (Phần chung), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

48. Phạm Minh Tuyên (2014) Các tội phạm xâm phạm trật tự, an toàn

giao thông đường bộ (Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử ở Việt Nam),

Nxb Thanh niên.

49. UBND thành phố Hồ Chí Minh, Giáo dục và phổ biến pháp luật đến

người dân trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

50. Viện Khoa học pháp lý (2006) Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách

khoa và Nxb Tư pháp, Hà Nội.

51. Viện Luật học (1983) Sơ khảo lịch sử Nhà nước và Pháp luật Việt

Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

52. Võ Khánh Vinh (2004) Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự,

Nxb Công an nhân dân.

53. Võ Khánh Vinh (2013) Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Phần

các tội phạm, Nxb Công an nhân dân. Hà Nội.

54. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2002) Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam

– Phần chung, Đại học Huế - Trung tâm đào tạo từ xa. Nxb Công an nhân

dân.

55. Võ Khánh Vinh (2011) Giáo trình Lý luận chung về định tội danh,

Nxb Công an nhân dân. Hà Nội.

56. Võ Khánh Vinh (1990) “Nghiên cứu tính chất, mức độ nguy hiểm

cho xã hội của tội phạm khi quyết định hình phạt”, Tạp chí Tòa án nhân dân,

số 12.

57. Võ Khánh Vinh (1990) “Nguyên tắc cá thể hóa việc quyết định hình

phạt”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8.

58. Võ Khánh Vinh (1988) “Quyết định hình phạt: Một số vấn đề

chung”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 63, tr.11-18.

59. Võ Khánh Vinh (1996) Tội phạm học, Luật Hình sự, Luật Tố tụng

hình sự, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.

60. Võ Khánh Vinh (2012) Xã hội học pháp luật, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.