VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN VĂN SINH
TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN,
TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN VĂN SINH
TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN,
TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số : 8 38 01 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. PHẠM VĂN TỈNH
HÀ NỘI, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Phạm Văn Tỉnh. Các số liệu, tài liệu, kết quả khảo sát
nêu trong luận văn là trung thực, phản ánh đúng đắn số liệu thực tiễn và chưa
từng được công bố một cách đầy đủ trong bất kỳ công trình nào. Tài liệu tham
khảo trong luận văn được trích dẫn từ các nguồn một cách đầy đủ và chính
xác, do đó, luận văn đảm bảo tính chân thực, khoa học, pháp lý của một công
trình nghiên cứu.
Quảng Nam, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận văn
Trần Văn Sinh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO
THÔNG ĐƯỜNG BỘ ..................................................................................... 8
1.1. Một số vấn đề lý luận về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ ............................................................................................................ 8
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ ......................................................................... 21
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO
THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH
QUẢNG NAM ............................................................................................... 37
2.1. Khái quát thực tiễn xét xử tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam .................... 37
2.2. Định tội danh đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam .......................................... 38
2.3. Quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam ............................... 42
2.4. Nhận xét, đánh giá .................................................................................... 44
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO
THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH
QUẢNG NAM ............................................................................................... 59
3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ ............................................................................................... 59
3.2. Hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ .................................................................................. 61
3.3. Tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ ......................................................................... 64
3.4. Nâng cao năng lực của cán bộ áp dụng pháp luật hình sự đối với Tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ........................................... 66
3.5. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong lĩnh vực giao thông
đường bộ, an toàn công cộng, trật tự công cộng ............................................. 69
3.6. Tổ chức mạng giao thông và điều khiển hoạt động giao thông đường bộ,
quản lý các phương tiện và người tham gia giao thông đường bộ, cấp giấy
phép lái xe, đăng ký phương tiện giao thông đường bộ .................................. 70
3.7. Xây dựng và hoàn thiện quy hoạch kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ
......................................................................................................................... 72
3.8. Tăng cường kiểm tra, tuần tra, giám sát và phát hiện, xử lý kịp thời mọi
vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, xét xử nghiêm minh tội vi phạm
các quy định về tham gia giao thông đường bộ .............................................. 73
3.9. Các giải pháp khác ................................................................................... 75
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1 BLHS Bộ luật Hình sự
2 BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự
3 TAND Tòa án nhân dân
4 TNHS Trách nhiệm hình sự
5 VKSND Viện kiểm sát nhân dân
6 GTĐB Giao thông đường bộ
7 CTTP Cấu thành tội phạm
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang bảng
Thống kê số vụ án và số bị cáo xét xử sơ thẩm về Tội vi
2.1 phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã 37
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 đến năm 2018
Tỷ lệ xét xử sơ thẩm các vụ án và bị cáo về Tội vi phạm
quy định về tham gia GTĐB so với các tội phạm về 2.2 41 GTĐB và các tội phạm khác trên địa bàn thị xã Điện
Bàn, tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 đến năm 2018
Cơ cấu xét theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm Tội
2.3 vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã 43
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 đến năm 2018
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề tai nạn GTĐB hiện nay đã và đang trở thành mối hiểm họa đối
với các nước trên thế giới, để lại hậu quả tổn thất không nhỏ đối với toàn xã
hội. Theo báo cáo năm 2019 của Tổ chức y tế Thế giới thì mỗi năm, trên thế
giới có khoảng 1,24 triệu người chết và 50 triệu người bị thương do tai nạn
GTĐB.[49] Ở Việt Nam, tai nạn và các vấn đề về GTĐB đã trở thành vấn nạn
kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt các vụ án giao thông gây thiệt
hại nghiêm trọng về sức khỏe, tính mạng và tài sản, đã gây nhiều bức xúc
trong cộng đồng dân cư, trở thành mối quan tâm lớn của của các cơ quan chức
năng. Đáng chú ý, tội phạm lĩnh vực GTĐB ngày càng gia tăng và diễn biến
phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường, rất khó kiểm soát.
Trước tình hình đó, Ban Bí thư khóa XI đã ra Chỉ thị 18-CT/TƯ ngày
04-9-2012 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo
TTATGTĐB, đường thủy nội địa, đường sắt và khắc phục sự ùn tắc giao
thông. Trong đó, xác định công tác bảo đảm TTATGT là một nội dung của
công tác bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Ngày 19 tháng 02
năm 2019, Chính phủ ra Nghị quyết 12/NQ-CP về tăng cường bảo đảm trật tự
an toàn giao thông và chống ùn tắc giao thông giai đoạn 2019 – 2021 đã đề ra
các nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp cho một số vấn đề giao thông ở Việt
Nam, nhấn mạnh kết hợp bảo vệ an ninh trật tự với phòng chống tội phạm.
Thị xã Điện Bàn thuộc tỉnh Quảng Nam, có vị trí ở phía bắc giáp quận
Ngũ Hành Sơn và huyện Hòa Vang (Đà Nẵng), ở phía nam giáp huyện Duy
Xuyên và ở phía tây giáp huyện Đại Lộc (Quảng Nam), ở phía đông giáp biển
Đông. Điện Bàn là thị xã có diện tích là 214,28 km², dân số là 245.013 người
1
(2019). Mật độ dân số đạt 1.143 người/km².[50]
Điện Bàn có 20 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc với rất nhiều tiềm
năng phát triển kinh tế như sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí, chế tạo thiết bị
điện, thương mại dịch vụ, du lịch… Là đầu mối giao thông giữa Quảng Nam
– Đà Nẵng và được xem là trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch và
dịch vụ khu vực Bắc Quảng Nam, thị xã Điện Bàn là nơi xảy ra khá nhiều tội
phạm trong lĩnh vực GTĐB, đặc biệt là tội phạm vi phạm quy định về tham
gia GTĐB. Chỉ tính riêng năm 2019, trên địa bàn toàn thị xã có đến 17 bị
cáo/17 vụ bị đưa ra xét xử về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB.[2]
Trong tình hình hiện nay của nước ta nói chung và của tỉnh Quảng Nam
nói riêng, trong đó có thị xã Điện Bàn, tội phạm về GTĐB, đặc biệt là tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB đang gây bức xúc cho toàn xã hội. Điều
này đến từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó yếu tố hệ thống pháp luật
trong lĩnh vực giao thông, đặc biệt là pháp luật về hình sự có tác động đáng
kể. Nhiều năm qua, các cơ quan tư pháp và cơ quan có chức năng bảo vệ pháp
luật đã hoạt động tích cực trong đấu tranh ngăn chặn, xử lý các tội phạm ở
lĩnh vực giao thông. Thực tiễn việc áp dụng các quy định pháp luật hình sự về
các tội vi phạm quy định trong tham gia GTĐB đã cho thấy rằng: còn nhiều
vướng mắc và bất cập, việc áp dụng giải quyết ở không ít vụ án còn gặp sự
mâu thuẫn, xét xử còn oan sai, bỏ lọt tội phạm, trong đó có thị xã Điện Bàn
(Quảng Nam). Hơn nữa, mặc dù quy định của Bộ luật Hình sự 2015 đã có sự
sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện về tội vi phạm quy định trong tham gia GTĐB,
song khi áp dụng thì vẫn còn có sự chưa thống nhất cũng như chưa hoàn toàn
phù hợp thực tiễn, nên cần tiếp tục nghiên cứu để tổng kết.
Theo đó, việc nghiên cứu làm rõ vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định
trong tham gia GTĐB và thực tiễn xét xử các tội vi phạm này chẳng những có
ý nghĩa quan trọng cả về lý luận, pháp lý và thực tiễn, mà còn là có tính cấp
2
thiết. Đây là những lý do chủ yếu mà tác giả chọn đề tài “Tội vi phạm quy
định về tham gia GTĐB theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB nhưng ở các giác độ khác nhau. Trong đó,
phải kể đến: Bùi Kiến Quốc, Các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB ở Thủ đô Hà Nội, Luận án tiến sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001; Nguyễn Đắc Dũng, Tội vi phạm các quy
định về tham gia GTĐB trong luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử tại địa
bàn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ luật học, 2011; Tài liệu Bình luận khoa
học chuyên sâu BLHS - Phần tội phạm, Tập 6 – Những tội xâm phạm an toàn
công cộng và trật tự công cộng của ThS. Đinh Văn Quế, Nhà xuất bản Thành
phố Hồ Chí Minh, năm 2005; GS. TS. Võ Khánh Vinh (năm 2001), Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam, Chương 10 - Những tội xâm phạm an toàn công
cộng và trật tự công cộng (Phần các tội phạm), Nhà xuất bản Công an nhân
dân, Hà Nội; GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa (năm 2010), Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam (Tập 2), Chương 25 - Những tội xâm phạm an toàn công cộng và
trật tự công cộng, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội; TS. Phạm Văn
Beo (năm 2010), Luật hình sự Việt Nam (Quyển II - Phần tội phạm), Bài 10 -
Những tội xâm phạm an toàn công cộng và trật tự công cộng, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội; TS. Cao Thị Oanh (chủ biên), Chương X - Các tội
xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
2010; v.v...
Ngoài ra, có một số bài viết nghiên cứu sâu về tội danh cụ thể, xác định
các lỗi liên quan đến tội vi phạm quy định trong tham gia GTĐB, điển hình
như: Bài viết Xác định lỗi trong vụ án tai nạn giao thông của ThS. Lê Văn
Luật, đăng Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6 năm 2005; Bài viết Một số vấn đề
3
về định tội và định khung tăng nặng trong các vụ án vi phạm quy định về
tham gia GTĐB của ThS. Huỳnh Quốc Hùng, đăng Tạp chí Tòa án nhân dân,
số 9năm 2007; v.v...
Tuy vậy, có thể thấy rằng các công trình nghiên cứu trên có phạm vi
tương đối rộng, những tội xâm phạm an toàn GTĐB hầu như còn được đề cập
khá riêng rẽ đối với từng tội thông qua bình luận các dấu hiệu pháp lý hình sự
và hình phạt; một số nghiên cứu xem xét dưới góc nhìn tội phạm học về nhóm
tội phạm xâm phạm an toàn công cộng và trật tự công cộng trong BLHS Việt
Nam 1999. Bên cạnh đó, vẫn chưa có luận văn thạc sĩ nào đi sâu nghiên cứu
một cách độc lập về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trong BLHS
2015. Hơn nữa, cũng chưa có công trình nào đánh giá thực tiễn áp dụng trên
địa bàn thị xã Điện Bàn (Quảng Nam), qua đó làm rõ những vướng mắc, tồn
tại để đề xuất giải pháp về nâng cao hiệu quả áp dụng. Tuy thế, nhiều công
trình nêu trên vẫn là các tài liệu tham khảo hữu ích để tác giả kế thừa trong
nghiên cứu thực hiện luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là góp phần hoàn thiện quy định của
pháp luật về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trong BLHS Việt Nam
hiện hành và tăng cường việc hướng dẫn áp dụng quy định này trong thực tiễn
tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu của đề tài nêu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu
cần làm rõ là:
- Làm rõ khái niệm tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, xác định
rõ dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt của tội phạm ấy trong BLHS 2015.
- Nghiên cứu và đánh giá quá trình áp dụng quy định của BLHS 2015
về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB từ thực tiễn của thị xã Điện Bàn
4
(Quảng Nam); phân tích những vướng mắc, tồn tại và xác định nguyên nhân
của nó.
- Đưa ra giải pháp cụ thể hoàn thiện BLHS về tội vi phạm quy định về
tham gia GTĐB và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là xác định sự phù hợp giữa quy
định của pháp luật hình sự (hiện hành) và thực tế tình hình vi phạm quy định
về tham gia GTĐB thông qua thực tiễn áp dụng pháp luật tại thị xã Điện Bàn,
tỉnh Quảng Nam, tức là luận văn đi tìm bản chất pháp lý của tội vi phạm quy
định về tham gia GTĐB.
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
- Về nội dung, Luận văn tiến hành thực hiện ở góc nhìn khoa học luật
hình sự với chuyên ngành là Luật Hình sự và Tố tụng hình sự;
- Về tội danh, luận văn chỉ nghiên cứu tội vi phạm quy định về tham
gia GTĐB được quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015, trong đó chủ yếu đề
cập đến thực tiễn áp dụng quy định về tội này trong giai đoạn xét xử;
- Về không gian địa bàn nghiên cứu của đề tài, đó là thị xã Điện Bàn;
- Về thời gian, luận văn sử dụng các số liệu thực tiễn được thu thập
trong thời gian từ 2014 đến 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-
Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tội phạm và hình phạt, về đường lối,
chính sách đấu tranh chống tội phạm bằng pháp luật hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Những phương pháp cụ thể được sử dụng trong nghiên cứu, chủ yếu là:
5
lịch sử, phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh; v.v... để luận chứng làm rõ
vấn đề nghiên cứu.
Mặt khác, để thực hiện nghiên cứu đề tài, tác giả đã tiến hành đi khảo
sát tìm hiểu thực tiễn về điều tra, truy tố và xét xử của hệ thống các Viện kiểm
sát, cơ quan điều travà TAND thị xã Điện Bàn (Quảng Nam), nghiên cứu hồ
sơ của một số vụ án nhằm làm cơ sở thực tiễn để minh họa và luận chứng cho
nghiên cứu, qua đó đã đề xuất những giải pháp khá cụ thể để bảo đảm áp
dụng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần hệ thống hóa làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về
tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, qua đó, đề xuất một số nội dung để
đóng góp vào việc hoàn thiện các quy định của BLHS về tội vi phạm quy định
về tham gia GTĐB và các quy định khác có liên quan. Bên cạnh đó, kết quả
luận văn có thể cung cấp làm vốn tài liệu để có thể tham khảo trong hoạt động
nghiên cứu và đào tạo về khoa học pháp lý hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Một số đề xuất, kiến nghị nêu trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu
quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung cũng như tội vi phạm
quy định về tham gia GTĐB nói riêng và hoàn thiện quy định BLHS về tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB ở khía cạnh lập pháp, cũng như việc áp
dụng chúng trong thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Bên cạnh các kết luận, mở đầu cũng như tài liệu tham khảo, luận văn có
cơ cấu nội dung bao gồm 3 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội
vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ;
Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng
6
Nam;
Chương 3. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với
tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh
7
Quảng Nam.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ
1.1. Một số vấn đề lý luận về Tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ
1.1.1. Khái niệm Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ
Tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực, “gắn liền với sự xuất hiện
của Nhà nước và pháp luật, cũng như kể từ ngay khi xã hội có sự phân chia
thành giai cấp đối kháng” [10, tr. 287]. Tội phạm mang bản chất là một hiện
tượng pháp lý. Nói rõ hơn, tội phạm là hiện tượng tiêu cực mang thuộc tính xã
hội - pháp lý với đặc tính là có sự chống đối lại đối với Nhà nước và xã hội, đi
ngược lại lợi ích và giá trị chung của cộng đồng, làm phá vỡ trật tự xã hội,
xâm phạm tới các quyền và lợi ích hợp pháp của con người.
Tội phạm là chế định quan trọng trong khoa học luật hình sự. Về bản
chất, chế định tội phạm đã thể hiện rõ nét các đặc điểm chính trị của xã hội
cũng như những đặc điểm pháp lý của luật hình sự [9, tr. 157]. Thông qua đó,
chúng ta nhận biết hành vi nào là tội phạm và không phải là tội phạm, trở
thành nguyên tắc để phân biệt tội phạm và vi phạm pháp luật khác. Pháp luật
hình sự của Việt Nam đã khái quát tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội
xâm phạm đến các khách thể được BLHS quy định và bảo vệ.
Tuy nhiên, để đánh giá được tính nguy hiểm cho xã hội là vấn đề cần
được làm sáng tỏ nếu không dễ rơi vào chủ quan, duy ý chí khi quy định tội
phạm. Các tiêu chí để xác định tính nguy hiểm cho xã hội ở mức độ tội phạm
gồm: Tính chất của các quan hệ xã hội bị xâm hại; hậu quả do hành vi phạm
8
tội gây ra; tính chất và mức độ lỗi; các yếu tố đặc trưng cho hành vi phạm tội
như thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, công cụ phạm tội. Hơn nữa, trong BLHS
nước ta còn đưa ra yếu tố nhân thân của người phạm tội, mà nhà lập pháp
thường coi đó là một trong các yếu tố làm gia tăng về mức độ nguy hiểm xã
hội của hành vi. Song, vấn đề này đang có sự không phù hợp với nguyên tắc
một người không thể bị xử phạt hình sự về nhân thân xấu của họ.
Tội phạm cũng được thể hiện qua các dấu hiệu, đó là: Năng lực trách
nhiệm hình sự của những người thực hiện hành vi nguy hiểm xã hội- đây là
đặc tính quan trọng cần làm rõ khi quy định khái niệm về tội phạm. Bởi năng
lực trách nhiệm hình sự của con người, nó được thể hiện ở khả năng của con
người thực hiện hành vi nguy hiểm xã hội (nhận thức và sự điểu khiển được
hành vi của mình). Như vậy cho thấy, dù là gây thiệt hại cho quan hệ xã hội
nào đó song nếu một khi người thực hiện hành vi nguy hiểm lại không nhận
thức được hành vi, không điều khiển được hành vi thì coi như không phải là
hành vi tội phạm.
Tính có lỗi: Tội phạm luôn là hành vi có lỗi. Dù vậy Bộ luật Hình sự có
lúc xem các hành vi không có lỗi lại là tội phạm (tức là nguyên tắc quy tội
khách quan: chỉ căn cứ vào hành vi mà buộc tội); trong khi đó tội phạm là kết
quả tổng hợp của những yếu tố khách quan và chủ quan. Yếu tố khách quan là
các hành vi, yếu tố chủ quan là lỗi. Lỗi vốn dĩ có một quá trình để hình thành
nên kể từ khi phát sinh nhu cầu, động cơ, mục đích ý đồ, nhận thức về yếu tố
khách quan và chủ quan của hành vi và sau cùng là đi đến lựa chọn và quyết
định thực hiện hành vi phạm tội.
Như vậy, tội phạm được hiểu là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong BLHS, có lỗi, do người có năng lực TNHS thực hiện xâm
phạm đến mối quan hệ xã hội được luận hình sự bảo vệ (Điều 8 của BLHS).
Tội phạm trong định nghĩa lập pháp được các nhà làm luật nước ta ghi
nhận mới bao gồm bốn đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản. Nhìn một cách tổng quan
9
chúng ta có thể thấy nội dung khái niệm của tội phạm trong luật hình sự
dường như đã được quy định đầy đủ, khoa học và việc nhận thức nội dung
này của khái niệm đã có sự thống nhất. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu và phân
tích một cách sâu sắc những đặc điểm cụ thể thuộc nội dung của khái niệm tội
phạm cũng như xem xét mối liên hệ giữa chúng thì thấy rằng còn có điều cần
phải bàn. Cụ thể, theo GS.TSKH Lê Văn Cảm, khái niệm này còn thiếu một
đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản là tội phạm do người đủ tuổi chịu TNHS thực
hiện. Các dấu hiệu này cùng với những dấu hiệu cơ bản của tội phạm đã được
những nhà lập pháp ghi nhận thì mới thể hiện căn bản trên 03 khía cạnh tương
ứng với 5 dấu hiệu cơ bản của tội phạm, mà cụ thể đó là: 1) Khía cạnh khách
quan với nội dung: tội phạm là hành vi nguy hiểm xã hội; 2) Khía cạnh chủ
quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực TNHS và đã có đủ tuổi chịu
TNHS thực hiện có lỗi; 3) Khía cạnh pháp lý với hình thức: tội phạm là hành
vi trái luật pháp hình sự [9, tr. 289]. Chúng tôi tán thành với quan điểm này,
và nhấn mạnh thêm đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản thứ nhất - tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội, đồng thời phải xâm phạm đến các khách thể được luật
hình sự xác lập và bảo vệ (đó là: chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm tới chế độ kinh tế, chế độ chính trị, nền an ninh,
quốc phòng, văn hoá, TTATXH, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm đến nhân phẩm, danh dự, tự do, tính mạng, sức khoẻ, tài sản, các quyền
và lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm đến các lĩnh vực khác của
trật tự pháp luật XHCN).
Từ cơ sở này, tiếp cận khái niệm về Tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ, xét về bản chất, là khái niệm về một tội phạm cụ thể, là
sự cụ thể hóa khái niệm tội phạm nói trong lĩnh vực cụ thể là giao thông
đường bộ và nhà làm luật đưa vào trong đó vạch giới hạn là các chủ thể tham
gia vào quan hệ giao thông đường bộ đó. Việc đặt ra vạch giới hạn này cần
10
phải nói đến quy định BLHS năm 1999 khi nó chỉ dừng lại ở việc quy định
“Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện GTĐB”. Theo đó, phạm vi
điều chỉnh của điều luật trước kia (BLHS năm 1999) bị hẹp hơn, chỉ bao gồm
các chủ thể điều khiển phương tiện, còn BLHS năm 2015 lại điều chỉnh cả
chủ thể tham gia, tất nhiên bao gồm cả người đi bộ. Đó là quá trình cấp tiến
về tư duy và cả lập pháp. Trước đây, “vi phạm quy định về tham gia GTĐB,
đó là những hành vi vi phạm các quy định về ATGTĐB gây ra thiệt hại đến
tính mạng hoặc gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, sức khỏe của người
khác” [9, tr. 13]. Quan điểm này mới chỉ nêu định nghĩa hành vi chứ chưa làm
rõ khái niệm tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, nhất là thiếu dấu hiệu
chủ thể của tội phạm. Mặt khác, BLHS năm 2015 đã mở rộng chủ thể điều
chỉnh nên cần có sự mở rộng nội hàm khái niệm loại tội phạm này. Theo góc
nhìn của khoa học luật hình sự, tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB là
khái niệm phải được thể hiện đầy đủ ở 03 khía cạnh tương ứng với 05 dấu
hiệu cơ bản như đã nêu trên. Do đó, theo tác giả, khái niệm tội phạm này
được định nghĩa như sau: Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB là hành vi
của người tham gia GTĐB mà vi phạm quy định về an toàn GTĐB do lỗi vô
ý, gây ra thiệt hại cho tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài
sản của người khác do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực
hiện.
1.1.2. Đặc điểm cơ bản của tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ
Căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn
xét xử, có thể chỉ ra các đặc điểm cơ bản của tội vi phạm quy định về tham
gia GTĐB như sau:
Một là, tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB là hành vi xâm phạm
đến sự an toàn của hoạt động giao thông vận tải đường bộ cũng như an toàn
11
về tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác; xâm phạm đến an toàn
công cộng, trật tự công cộng (thuộc nhóm tội xâm phạm trật tự công cộng) và
bị xử lý theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, đó là hành vi gây nguy
hiểm đến xã hội, trực tiếp xâm phạm TTATGTĐB và gây nên thiệt hại về sức
khoẻ, tính mạng và tài sản của người khác.
Hai là, hành vi phạm tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB được
biểu hiện một cách trực tiếp và chủ yếu thông qua người tham gia GTĐB (có
thể họ là người điều khiển, người đang sử dụng phương tiện khi tham gia
GTĐB; người đi bộ trên đường, người điều khiển dẫn dắt súc vật) tức là đang
thực hiện các chức năng điều khiển đối với sự vật và các phương tiện GTĐB
mà gây nên thiệt hại nghiêm trọng về tính mạng (dẫn đến chết người) hay gây
nên thiệt hại nghiêm trọng về sức khoẻ (gây nên thương tích) và tài sản; gây
thiệt hại nghiêm trọng cho trật tự an toàn công cộng.
Ba là, tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB do chủ thể là người có
năng lực TNHS và đã có đủ tuổi phải chịu TNHS thực hiện. Nói cách khác,
chủ thể của tội phạm vi phạm quy định về tham gia GTĐB là người từ đủ 16
tuổi trở lên, có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi mình.
1.1.3. Các yếu tố cấu thành tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ
Để nhận thức sâu sắc hơn bản chất pháp lý của tội vi phạm quy định về
tham gia GTĐB, cần đi sâu nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của CTTP tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB được phân thành 04 yếu tố: Khách thể,
mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan của tội phạm.
1.1.3.1. Khách thể của tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ
Khách thể của tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB là quy định của
Nhà nước về ATGTĐB, đó là các quy định để bảo đảm ATGTVT, bảo đảm
12
cho hoạt động vận tải đường bộ thông suốt, bình thường và bảo vệ an toàn sức
khỏe, tính mạng của công dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, tổ chức và công
dân.
Hành vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB đó là hành vi nguy hiểm
xã hội, trực tiếp xâm phạm TTATGTĐB và gây ra thiệt hại về sức khoẻ, tính
mạng và tài sản của người khác.
Chỉ các hành vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB có tính chất và
mức độ nguy hiểm cao, gây ra thiệt hại cho tính mạng hoặc gây ra thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản, sức khoẻ của người khác; và khả năng thực tế của
hành vi này dẫn tới hậu quả đặc biệt nghiêm trọng - nếu một khi không được
ngăn chặn kịp thời thì mới được xem là phạm tội hình sự. Đối với các hành vi
vi phạm quy định về tham gia GTĐB khi mà tính chất, mức độ của nó không
có nguy hiểm, không gây ra thiệt hại đến người khác thì bị xử phạt vi phạm
hành chính.
1.1.3.2. Mặt khách quan của tội phạm vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ
Hành vi khách quan: Người phạm tội có hành vi vi phạm các quy định
về tham gia GTĐB, cụ thể: đi quá tốc độ, chở quá trọng tải quy định, tránh,
vượt trái phép; đi không đúng tuyến đường, phần đường; vi phạm các quy
định khác về an toàn GTĐB như chuyên chở người, hàng không đúng số
lượng, trọng tải quy định;... Để xác định các hành vi vi phạm các quy định về
tham gia GTĐB, trước hết phải căn cứ vào quy định của Luật GTĐB cùng
những văn bản hướng dẫn của cơ quan chức năng có thẩm quyền.
Phương tiện GTĐB bao gồm các loại xe có động cơ (xe hơi, máy kéo,
tàu điện bánh hơi, xe gắn máy và các loại xe chuyên dùng khác) và các loại xe
thô xơ (xe thồ, xe đạp, xe được điều khiển bằng xúc vật: xe bò, xe ngựa,...).
Người điều khiển phương tiện vận tải GTĐB là người trực tiếp thực hiện chức
năng vận hành phương tiện để phượng tiện chuyển động và tham gia giao
13
thông.
Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB phải là tội phạm có cấu thành
vật chất. Nên căn cứ vào hậu quả chính là dấu hiệu bắt buộc của tội này. Nếu
hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện GTĐB về cơ bản mà
chưa gây ra thiệt hại tính mạng (gây ra tử vong) hoặc gây ra thiệt hại nghiêm
trọng về tài sản, sức khoẻ (có thương tích) của người khác thì chưa thể cấu
thành tội phạm. Trên thực tế, hành vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB
gây tai nạn giao thông dẫn đến chết người, thiệt hại về tài sản rất nhiều. Hậu
quả của tai nạn GTĐB là một trong số các căn cứ nhằm xác định cụ thể về
trách nhiệm đối với người gây tai nạn.
Mối quan hệ nhân quả: Hành vi vi phạm các quy định về tham gia
GTĐB là nguyên nhân dẫn đến hậu quả (tai nạn giao thông) gây thiệt hại về
tài sản, sức khỏe, tính mạng của người khác. Nếu thiệt hại không phải do hành
vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB thì không cấu thành tội vi phạm quy
định về tham gia GTĐB.
Những dấu hiệu khách quan khác, như: Địa điểm nơi vi phạm (công
trình GTĐB); phương tiện tham gia GTĐB… là rất quan trọng, bởi nó là dấu
hiệu dùng để phân biệt giữa tội này với những tội khác.
1.1.3.3. Chủ thể của tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ
Chủ thể của tội vi phạm quy định trong tham gia GTĐB phải là những
người khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình và có đủ tuổi
(thường là từ 16 tuổi trở lên). Điểm đặc biệt đối với chủ thể của tội vi phạm
quy định về tham gia GTĐB là người phạm tội có hành vi phạm tội khi đang
tham gia GTĐB.
1.1.3.4. Mặt chủ quan của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ
Lỗi của người phạm tội vi phạm các quy định về tham gia GTĐB là lỗi
14
vô ý. Hiện nay, một số quan điểm đề cập đến hình thức “lỗi hỗn hợp” trong
các vụ án tai nạn giao thông: Cố ý về hành vi, vô ý về hậu quả. Ví dụ: Một lái
xe cố ý vượt đèn đỏ và đã gây tai nạn làm chết người. Trong trường hợp này,
người lái xe đã cố ý về hành vi (vượt đến đỏ), nhưng không mong muốn cho
hậu quả xảy ra và cũng không bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.
Các trường hợp khác, khi quyết định hình phạt với những người phạm
tội, Toà án nhận định rằng người bị hại cũng mắc phần lỗi và xem trường hợp
người bị hại mắc lỗi là lỗi hỗn hợp (bởi cả hai bên cũng đều có lỗi).
Theo tác giả, người phạm tội cố ý về hành vi vượt đèn đỏ không có
nghĩa là người phạm tội đã nhận thức rõ hành vi vượt đèn đỏ là nguy hiểm
đến tính mạng của người khác, thấy trước được hậu quả chết người xảy ra
hoặc có thể xảy ra, mong muốn hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Mà trường
hợp này người phạm tội chỉ có ý thức rằng dù có vượt đèn đỏ nhưng tin tưởng
việc hậu quả chết người sẽ không xảy ra. Trường hợp này người phạm vô ý vì
quá tự tin. Cần lưu ý rằng, cố ý hoặc vô ý là thái độ tâm lý của những người
phạm tội đối với hậu quả và đối với hành vi, chứ không phải chỉ riêng đối với
hậu quả.
Trường hợp người bị hại cũng có lỗi, về khoa học pháp lý thì trường
hợp này người bị hại cũng có hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông,
nên nếu nói họ có lỗi là lỗi đối với người phạm tội chứ không phải lỗi pháp
lý, cũng không thể nói cả hai đều có lỗi mà chỉ có thể nói cả hai đều có hành
vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB và trường hợp này cũng không thể
xem là “lỗi hỗn hợp”.
Người phạm tội vi phạm các quy định về tham gia GTĐB có thể vì
động cơ khác nhau nhưng không có mục đích là điều cố nhiên.
1.1.4. Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ với một số tội phạm khác trong luật hình sự Việt Nam
1.1.4.1. Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
15
bộ với tội đua xe trái phép
Tội đua xe trái phép được quy định tại Điều 266 BLHS. Tội đua xe trái
phép, đó là hành vi đua trái phép các loại ô tô, xe máy hoặc những xe khác có
gắn động cơ làm gây ra thiệt hại đến tài sản, sức khỏe của người khác hoặc đã
bị xử phạt hành chính về những hành vi này hoặc đã bị kết án về tội đó, chưa
hết thời hạn xóa án tích mà còn vi phạm, do những người có năng lực TNHS
và có đủ tuổi chịu TNHS thực hiện.
Tội đua xe trái phép và các tội vi phạm quy định trong tham gia GTĐB
là đều xâm phạm đến khách thể chung là sự trật tự công cộng, an toàn công
cộng và đều đe dọa, xâm phạm nghiêm trọng tới sức khỏe, tính mạng và tài
sản của người khác.
Một số điểm khác nhau giữa hai loại tội phạm nêu trên đó là:
- Về khách thể trực tiếp:
Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB xâm phạm tới an toàn, trật tự
trong lĩnh vực hoạt động GTĐB và sự an toàn về sức khỏe, tính mạng, tài sản
của người khác.
Tội đua xe trái phép không chỉ xâm phạm đến đến trật tự, an toàn trong
hoạt động GTĐB và sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người
khác, mà còn xâm phạm đến trật tự công cộng.
- Hành vi khách quan:
Tội vi phạm quy định về tham gia giao GTĐB có hành vi khách quan là
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy tắc giao thông đường bộ
(như chạy quá tốc độ, chạy không đúng làn đường, vượt xe không đảm bảo an
toàn, đỗ xe không đúng quy định…). Các hành vi này là nguyên nhân trực
tiếp gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội (thiệt hại cho tính mạng, sức
khỏe và tài sản của người khác).
Tội đua trái phép có hành vi khách quan là sự đánh cuộc, thách đố giữa
16
những người tham gia đua xe do người khác tổ chức hoặc cùng tham gia trong
một cuộc đua xe mà không được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Người phạm tội sử dụng các phương tiện phạm tội là ô tô, xe máy hoặc các
loại xe khác có gắn động cơ. Hành vi này là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu
quả nghiêm trọng cho xã hội (thiệt hại cho sức khỏe, tính mạng và tài sản của
người khác).
- Mặt chủ quan của tội phạm:
Tội phạm tại Điều 260 BLHS được thực hiện với lỗi vô ý, tùy từng
trường hợp cụ thể mà lỗi của người phạm tội có thể là lỗi vô ý vì quá tự tin
hoặc lỗi vô ý vì cẩu thả. Ở cả hai trường hợp lỗi được nêu trên, những người
phạm tội hoàn toàn không muốn có hậu quả diễn ra.
Tội phạm tại Điều 266 BLHS được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.
Động cơ phạm tội cũng như mục đích phạm tội là không phải dấu hiệu bắt
buộc ở mặt chủ quan của tội này.
- Điều kiện truy cứu TNHS:
Tội vi phạm quy định về tham gia giao GTĐB bị truy cứu TNHS khi
hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy tắc giao thông
đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức
khỏe và tài sản của người khác.
Tội đua trái phép bị truy cứu TNHS khi hành vi đua xe trái phép ngoài
hậu quả gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức
khỏe và tài sản của người khác, thì còn phải chịu TNHS khi người thực hiện
hành vi đua xe trái phép đã bị xử phạt hành chính về hành chính về hành vi
này hoặc hành vi tổ chức đua xe trái phép hoặc đã bị kết án về các tội đua xe
trái phép, tổ chức đua xe trái phép, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
1.1.4.2. Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
17
bộ với tội giết người
Theo quy định của Điều 123 BLHS, tội giết người được hiểu là hành vi
cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng người khác. Hành vi tước đoạt tính
mạng người khác là hành vi có khả năng gây nên cái chết, chấm dứt sự sống
cho con người. Khách thể của tội phạm đó chính là quyền sống của con
người; đối tượng tác động của tội đó cũng chính là thân thể của con người
đang sống bình thường. Ngoài ra, mặt chủ quan của tội phạm đó chúng được
thực hiện bởi lỗi cố ý. Đây là dấu hiệu bắt buộc để phân biệt tội giết người với
tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB.
Một số điểm khác nhau giữa hai tội phạm nêu trên, đó là:
- Về khách thể trực tiếp: Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB xâm
phạm đến sự an toàn của hoạt động GTĐB và sự an toàn về tính mạng, sức
khỏe, tài sản của người khác; tội giết người xâm phạm đến quyền sống của
con người.
- Hành vi khách quan:
Hành vi vi phạm các quy định về GTĐB là hành vi không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng các quy tắc giao thông đường bộ của người tham
gia giao thông, đã gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội (thiệt hại về người,
tài sản tính thành tiền và làm mất trật tự an toàn GTĐB).
Hành vi giết người là hành vi tước đoạt trái luật về tính mạng của người
khác; đó là hành vi có khả năng gây ra cái chết, chấm dứt sự sống của con
người.
- Mặt chủ quan của tội phạm:
Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB được thực hiện với lỗi vô ý,
tùy từng trường hợp cụ thể mà lỗi của người phạm tội có thể là lỗi vô ý vì quá
tự tin hoặc lỗi vô ý vì cẩu thả; người phạm tội không mong muốn cho hậu quả
18
xảy ra.
Tội phạm giết người được thực hiện với lỗi cố ý. Lỗi cố ý là lỗi cố ý
gián tiếp hay cố ý trực tiếp. Trong cả hai trường hợp lỗi này, người phạm tội
đều mong muốn cho hậu quả xảy ra.
1.1.4.3. Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ với tội vô ý làm chết người
Điều 128 của BLHS quy định, tội vô ý gây chết người là hành vi của
một người mà không thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây đến
chết người - dù là có thể thấy trước và phải thấy trước hành vi của mình có
thể gây đến chết người song lại tin rằng hậu quả của hành vi đó không diễn ra.
Các tội phạm được thực hiện với hình thức lỗi vô ý, gồm có lỗi vô ý vì quá tự
tin và vô ý do cẩu thả, chúng được thực hiện bởi bất cứ là người nào mà có đủ
năng lực TNHS, đủ độ tuổi theo luật định. Khách thể của tội phạm đó chính là
quyền sống của con người; và đối tượng tác động của tội đó là thân thể của
con người đang sống bình thường.
Từ đó, các điểm giống nhau khi so sánh đối với tội vi phạm quy định về
tham gia GTĐB đó là:
- Tội phạm thực hiện với hình thức lỗi vô ý gồm có lỗi vô ý vì quá tự
tin và vô ý do cẩu thả.
- Chủ thể của tội phạm này là người có năng lực trách nhiệm hình sự và
có đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện.
Mặt khác, giữa hai tội phạm này còn một số điểm khác nhau:
- Về khách thể: Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB xâm phạm
đến trật tự an toàn giao thông, sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của
người khác; còn tội Tội vô ý làm chết người xâm phạm đến quyền được sống
của con người.
- Hành vi khách quan: Hành vi của người tham gia giao thông vi phạm
19
quy định về bảo đảm TTATGTĐB đã gây nên hậu quả nghiêm trọng xã hội
(thiệt hại tài sản tính thành tiền, tính mạng con người và làm mất
TTATGTĐB). Tội vô ý làm chết người thể hiện ở hành động do cẩu thả hoặc
do quá tự tin mà gây ra cái chết cho nạn nhân.
- Điều kiện truy cứu TNHS:
Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB gây ra thiệt hại nghiêm trọng
đến sức khỏe, tài sản của người khác hoặc gây ra thiệt hại cho tính mạng.
Tội vô ý làm chết người: Gây hậu quả chết người (đây là yếu tố bắt
buộc trong CTTP).
1.1.4.4. Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tại Điều 138 của BLHS quy định, tội vô ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại đến sức khỏe của người khác là hành vi vô ý đã gây ra thương tích
hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác, mà thương tật có tỷ lệ từ 31%
trở lên do người có năng lực trách nhiệm hình sự và có đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự được thực hiện bởi lỗi vô ý do cẩu thả hoặc tự tin mà gây ra
thương tích hay gây ra tổn hại sức khỏe cho nạn nhân. Khách thể của tội
phạm đó là quyền được bảo hộ đối với sức khỏe con người.
Do đó, những điểm giống nhau khi so sánh với tội vi phạm quy định về
tham gia GTĐB là:
- Tội phạm được thực hiện bởi lỗi vô ý gồm có lỗi vô ý vì quá tự tin và
vô ý do cẩu thả.
- Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện.
Mặt khác, điểm khác nhau giữa hai tội phạm đó là:
- Về khách thể trực tiếp:
Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB là xâm phạm đến
20
TTATGTĐB và sự an toàn sức khỏe, tính mạng, tài sản của người khác.
Tội vô ý gây ra tổn hại đến sức khỏe người khác hay gây ra thương tích
là xâm phạm đến quyền được bảo hộ đối với sức khỏe con người.
- Hành vi khách quan:
Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB có hành vi khách quan của
người tham gia giao thông vi phạm đối với quy định về bảo đảm TTATGTĐB
đã gây hậu quả nghiêm trọng xã hội (thiệt hại tài sản tính thành tiền, thiệt hại
về người và làm mất TTATGTĐB).
Tội vô ý gây tổn hại sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích có
hành vi khách quan là hành vi của một người trực tiếp tác động lên người
khác làm cho họ bị thương tích từ 31% trở tên.
- Điều kiện truy cứu TNHS:
Tội vi phạm đối với quy định về tham gia GTĐB có hậu quả gây ra
thiệt hại cho tính mạng hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với tài sản và
sức khỏe của người khác.
Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
hậu quả gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên (trường hợp ở khoản 1 Điều 138 của
BLHS phải có yêu cầu của bị hại).
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ
1.2.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam về Tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ
1.2.1.1. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước
khi Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
Tháng 6 năm 1985, BLHS đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ
21
nghĩa Việt Nam ra đời, được công bố bởi Lệnh của Chủ tịch nước ngày
09/7/1985 và có hiệu lực thi hành thống nhất trong toàn quốc kể từ ngày
01/01/1986. Ở luật này, tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB được quy
định chung chung trong nội dung tội vi phạm quy định về an toàn giao thông
vận tải, chứ chưa có tên riêng. Quy phạm pháp luật của BLHS năm 1985 quy
định về tội vi phạm quy định an toàn giao thông vận tải (thể hiện tại Điều 186,
Chương VIII - Các tội xâm phạm trật tự, an toàn công cộng và trật tự quản lý
hành chính) có nội dung đó là:
“1. Người nào tham gia GTVT mà vi phạm những quy định về an toàn
GTVT đường bộ, đường không, đường thủy, đường sắt gây ra thiệt hại tới tính
mạng, sức khỏe người khác hay gây ra thiệt hại nghiêm trọng tới tài sản, thì
bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm hoặc bị phạt cải tạo không giam giữ tới 2
năm khi thuộc một trong những trường hợp sau đây:
a. Đi quá tốc độ, tránh, vượt trái phép, chở quá trọng tải;
b. Đi không đúng phần đường, tuyến đường, luồng lạch, đường bay và
độ cao so với quy định;
c. Vi phạm những quy định khác về an toàn GTVT.
2. Phạm tội thì bị phạt tù từ 3 năm tới 10 năm khi thuộc một trong
những trường hợp sau đây:
a. Tham gia an toàn GTVT mà không có bằng lái xe; trong khi say
rượu hay say do dùng chất kích thích khác;
b. Gây ra tai nạn mà bỏ chạy để cố ý không cứu giúp người bị nạn
hoặc trốn tránh trách nhiệm.
3. Bị phạt tù từ 7 năm tới 20 năm khi phạm tội gây ra hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng.
4. Bị xử phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc bị phạt tù từ 3
tháng tới 03 năm khi phạm tội trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn tới
22
gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời”.
Tội vi phạm các quy định về tham gia GTĐB được quy định ở Điều
186 của BLHS 1985 khi so với nội dung trong Điều 9 của Sắc luật 03-SL/76,
thì đã có một bước tiến bộ về cả nội dung và kỹ thuật lập pháp. Mà cụ thể đó
là:
- Tên của tội được xác định cụ thể là “Tội vi phạm quy định về an toàn
GTVT gây hậu quả nghiêm trọng”.
- Ở Điều 186 của BLHS 1985 chẳng những nêu rõ tội danh, mà còn mô
tả những dấu hiệu pháp lý đặc trưng về tội phạm cũng như đã quy định về
khung các hình phạt tương ứng với nhiều loại trường hợp phạm tội khác nhau,
qua đó khắc phục cơ bản về các hạn chế của Sắc luật số 03-SL/76.
- Đường lối xử lý tội phạm theo Điều 186 BLHS năm 1985 cũng có sự
thay đổi so với Sắc luật 03-SL/76, Thông tư 442/TTg và Thông tư 556/TTg.
Cũng như Sắc luật số 03-SL/76, tại Điều 186 của BLHS 1985 không quy định
về hình phạt tù chung thân và hình phạt tử hình. Chẳng hạn, với hình phạt tù,
tại Điều 186 của BLHS 1985 đã áp dụng nâng mức phạt tù tối đa từ 15 năm
đến 20 năm nhằm phù hợp đối với những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng
của tội danh này.
- Với những tình tiết xác định khung tăng nặng đã được quy định ở
Điều 186 của BLHS 1985 một cách đầy đủ, cụ thể và rõ hơn. Tội vi phạm các
quy định về tham gia GTĐB trên thực tế đã có không ít tình tiết chủ quan và
khách quan không giống nhau nên việc xác định mức độ nguy hiểm xã hội ở
mỗi trường hợp phạm tội là khác nhau. Vì vậy, tất yếu phải có các khung hình
phạt với các dấu hiệu để định khung khác nhau để đáp ứng các yêu cầu trong
đấu tranh để phòng chống các loại tội đó. Ở nhiều văn bản trước BLHS 1985,
những tình tiết để xác định khung tăng nặng mới dừng lại ở việc giới hạn về
mức độ hậu quả nguy hiểm xã hội của các hành vi phạm tội và chỉ có hai
khung hình phạt khác nhau. Với BLHS 1985, các tình tiết xác định khung
23
tăng nặng khác đã được bổ sung và có đến bốn khung hình phạt khác nhau.
Qua hơn 10 năm triển khai hiệu lực BLHS 1985 cũng như các quy
phạm pháp luật quy định về tội vi phạm quy định trong tham gia GTĐB (như
Điều 186 của BLHS) đã có sự phát huy tác dụng khá lớn trong đấu tranh về
phòng và chống các loại tội nêu trên. Song, dù vậy một số quy định của
BLHS 1985 về tội vi phạm các quy định trong an toàn GTVT cũng đã bộc lộ
không ít bất cập. Trong đó, điển hình là sự quy định cả 04 loại hành vi phạm
tội trong 04 lĩnh vực an toàn GTVT (đường sắt, đường bộ, đường không và
đường thủy) có đặc điểm kỹ thuật và yêu cầu đảm bảo an toàn là không giống
nhau trong cùng một điều luật. Thực tế này đã phần nào gặp nhiều hạn chế ở
việc quy định cụ thể về hành vi phạm tội và việc phân hóa TNHS của tội
phạm.
Tóm lại, qua 4 lần sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1985 vào các năm
1989, 1991, 1992 và 1997, nội dung của Điều 186 quy định về tội vi phạm
quy định về tham gia GTĐB về cơ bản nội dung không có gì thay đổi so với
chính nó, mà chỉ có sự thay đổi về tên tội (được sửa đổi bổ sung vào năm
1991), từ tội vi phạm quy định về an toàn giao thông vận tải gây hậu quả
nghiêm trọng thành tội vi phạm quy định về an toàn giao thông vận tải.
Trường hợp bỏ cụm thuật ngữ “gây hậu quả nghiêm trọng” để định tội danh
cho phù hợp với mọi trường hợp bị xem là phạm tội đó như nội dung của
khoản 4 thuộc Điều 186 quy định về trường hợp có khả năng thực tế dẫn tới
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thuộc trường hợp phạm tội này. Đó là trường
hợp phạm tội vi phạm các quy định trong tham gia GTĐB khi mà chưa gây
nên hậu quả.
1.2.1.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015
Nhận thấy các điểm bất cập của BLHS năm 1985, BLHS năm 1999
24
được ban hành với nhiều sự thay đổi:
Khách thể của tội phạm vi phạm các quy định về tham gia GTĐB được
xác định đó là TTAT của hoạt động GTĐB và an toàn sức khoẻ, tính mạng và
tài sản của người tham gia giao thông. Những quy định về TTATGTĐB được
quy định ở Luật GTĐB năm 2001 (được bổ sung sửa đổi năm 2008) là căn cứ
nhằm xác định hành vi điều khiển phương tiện GTĐB chưa vi phạm hoặc đã
vi phạm.
Trước đây, trong BLHS năm 1985, Điều 186 đã quy định hành vi vi
phạm quy định về an toàn giao thông vận tải chung cho tất cả các lĩnh vực
giao thông: đường sắt, đường thủy, đường bộ… và đối tượng vi phạm cũng
được xác định rộng hơn, kể cả người không tham gia giao thông cũng vi
phạm. Hiện nay, theo quy định của BLHS 1999, thì hành vi vi phạm trật tự an
toàn giao thông của người tham gia giao thông trên từng lĩnh vực giao thông:
đường sắt, đường thủy, đường bộ được quy định riêng trong từng điều của Bộ
luật hình sự thành các tội khác nhau. Tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB (Điều 202); tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường sắt
(Điều 208); tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường thủy (Điều
212).
Để kịp thời đáp ứng tình hình xét xử các vụ tai nạn GTĐB đối với hành
vi tham gia GTĐB, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003, nhưng cũng chỉ hướng
dẫn trường hợp gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng
cho sức khỏe, tài sản của người khác; gây hậu quả nghiêm trọng; rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi tham gia GTĐB gây ra.
Thiệt hại tính mạng là gây nên người khác tử vong. Thiệt hại nghiêm
trọng đến tài sản hoặc sức khỏe người khác là tác động dẫn đến tài sản người
khác bị hư hỏng nặng, mất mát hay làm cho người khác bị thương nặng. Hiện
nay áp dụng theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày
25
17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về các tình tiết
“gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng” quy định tại Điều 202 BLHS năm 1999.
Khi xác định thiệt hại tài sản của người khác cần chú ý: Chỉ tính những
tài sản do hành vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB trực tiếp gây ra, còn
những thiệt hại gián tiếp không tính là thiệt hại để xác định TNHS đối với
người phạm tội; như: do bị thương nên phải chi phí cho việc điều trị và các
khoản chi phí khác (mất thu nhập, làm chân giả, tay giả, mắt giả; v.v...). Mặc
dù các thiệt hại này người phạm tội vẫn phải có trách nhiệm bồi thường
nhưng không tính để xác định TNHS đối với hành vi phạm tội. Thiệt hại về
sức khỏe, tính mạng, tài sản mà người phạm tội gây thiệt hại cho người khác,
nên không tính đến thiệt hại mà người phạm tội gây đến cho mình. Các thiệt
hại nói trên, tùy tính chất, mức độ mà BLHS năm 1999 cũng quy định các
hình phạt tương ứng, phù hợp.
Như vậy, BLHS năm 1999 đã bổ sung, khắc phục các thiếu sót, hạn chế
của BLHS năm 1985. Tuy nhiên, định tính về hậu quả dường như vẫn là sự
chung chung trong nhận thức, việc hướng dẫn chỉ là áp một số tình huống cụ
thể vào quá trình áp dụng. Đó là vấn đề lập pháp Việt Nam phải thay đổi, phải
cấp tiến.
1.2.2. Quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về Tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ
Tại kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khóa XIII ngày 27 tháng 11 năm 2015
đã thông qua BLHS 2015. Tới kỳ họp thứ 3 của Quốc hội khóa XIV ngày 20
tháng 6 năm 2017 đã thông qua Luật bổ sung, sửa đổi một số điều của BLHS
2015 và Nghị quyết thi hành BLHS. Theo đó, BLHS mới được ban hành với
nhiều sự thay đổi sâu sắc.
Một trong những nguyên tắc trong việc xây dựng BLHS hiện hành là
giải quyết những vướng mắc, bất cập đang đặt ra trong công tác đấu tranh
26
phòng, chống tội phạm, sửa đổi hoặc loại bỏ những quy định không còn phù
hợp; đồng thời hoàn thiện kỹ thuật lập pháp nhằm bảo đảm tính thống nhất
nội tại của BLHS và tính thống nhất của toàn hệ thống pháp luật; nâng cao
tính minh bạch, khả thi và tính dự báo của BLHS; nhiều quy định có nội dung
chưa rõ ràng, các tình tiết mang tính chất định tính cần được khắc phục đưa
vào trong nội dung của các điều khoản trong các tội phạm cụ thể. Nội dung
quy định của điều 260 BLHS hiện hành đã thể hiện rõ nét nguyên tắc trên.
So sánh với Điều 202 của BLHS 1999 bổ sung, sửa đổi năm 2009; Tội
vi phạm các quy định trong tham gia GTĐB được quy định ở Điều 260 của
BLHS hiện hành đã có sự thay đổi đáng kể quan trọng về kết cấu của điều
luật, khung hình phạt và mức hình phạt có liên quan.
- Quy định về tội phạm:
Thứ nhất, khách thể của tội phạm vi phạm quy định về tham gia
GTĐB:
Khoản 1 Điều 260 BLHS hiện hành quy định:
“1. Người nào mà tham gia GTĐB vi phạm các quy định về an toàn
GTĐB gây ra thiệt hại đến người khác thì thuộc một trong những trường hợp
sau đây, thì bị…”.
Có thể thấy, khách thể của tội vi phạm các quy định trong tham gia
GTĐB, đó là: các quy định của Nhà nước về an toàn GTĐB, các quy định để
bảo đảm an toàn GTVT, bảo đảm cho sự thông suốt hoạt động vận tải đường
bộ, tiến hành bình thường và bảo vệ an toàn sức khỏe, tính mạng của công
dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tổ chức và của công dân. Nói tóm lại,
tội phạm vi phạm các quy định trong tham gia GTĐB thì trước tiên phải xâm
hại đến các quan hệ, quy tắc đã được Luật GTĐB quy định.
Mặt khác, hành vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB là hành vi
nguy hiểm cho xã hội trực tiếp xâm phạm trật tự an toàn GTĐB và phải gây ra
thiệt hại tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người khác. Cụ thể tại khoản 1 Điều
27
260 BLHS có quy định các thiệt hại như:
“…a) Làm chết một người hoặc gây nên thương tích hay gây ra tổn hại
cho sức khỏe của một người có sự tổn thương cơ thể ở tỷ lệ 61% trở lên;
b) Gây nên thương tích hay gây tổn hại tới sức khỏe cho hai người có
tổn thương cơ thể của mỗi người chiếm tỷ lệ từ 31% - 60%;
c) Gây nên thương tích hay gây tổn hại sức khỏe cho ba người trở lên
mà tổng số phần trăm về tổn thương cơ thể của nhóm người này từ 61% -
121%;
d) Gây nên thiệt hại tài sản từ 100 triệu đồng đến <500 triệu đồng…”
Do đó, chỉ các hành vi vi phạm các quy định trong tham gia GTĐB có
tính chất nguy hiểm cao, gây ra thiệt hại tính mạng hay gây nên thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản, sức khoẻ của người khác và hành vi có khả năng
thực tế dẫn tới hậu quả đặc biệt nghiêm trọng - nếu một khi không ngăn chặn
kịp thời thì được xem là phạm tội hình sự. Với các hành vi vi phạm các quy
định trong tham gia GTĐB mà không có tính nguy hiểm, không gây ra thiệt
hại đến người khác thì chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính.
Thứ hai, mặt khách quan của tội phạm vi phạm quy định về tham gia
GTĐB:
Hành vi khách quan: Như đã phân tích ở trên, tội phạm vi phạm quy
định về tham gia GTĐB trước hết phải là hành vi vi phạm quy định Luật
GTĐB. Người phạm tội có hành vi vi phạm các quy định về tham gia GTĐB,
cụ thể: đi quá tốc độ, chở quá trọng tải quy định, tránh, vượt trái phép; đi
không đúng tuyến đường, phần đường; vi phạm các quy định khác về an toàn
GTĐB như chuyên chở người, hàng không đúng số lượng, trọng tải quy
định;... Để có thể xác định hành vi vi phạm quy định trong tham gia GTĐB,
thì phải căn cứ từ những quy định của Luật GTĐB và những văn bản hướng
dẫn của cơ quan chức năng có thẩm quyền. Chẳng hạn, hành vi “Điều khiển
xe cơ giới không có giấy phép lái xe theo quy định” đã phạm vào khoản 9
28
thuộc Điều 23 của Luật GTĐB.
Phương tiện GTĐB bao gồm các loại xe có động cơ (xe hơi, máy kéo,
tàu điện bánh hơi, xe gắn máy và các loại xe chuyên dùng khác) và các loại xe
thô xơ (xe thồ, xe đạp, xe được điều khiển bằng xúc vật: xe bò, xe ngựa,...).
Người tham gia vận tải GTĐB là người trực tiếp thực hiện chức năng vận
hành phương tiện để phượng tiện chuyển động và tham gia giao thông.
Hậu quả: Đối với tội vi phạm các quy định trong tham gia GTĐB là tội
phạm có cấu thành vật chất. Nên hậu quả của nó là dấu hiệu bắt buộc của tội
đó. Nếu hành vi vi phạm các quy định trong tham gia GTĐB mà chưa gây nên
thiệt hại tính mạng hay gây nên thiệt hại nghiêm trọng đến sức khoẻ và tài sản
của người khác thì không CTTP, trừ trường hợp đã được quy định ở khoản 4
thuộc Điều 260 của BLHS. Trên thực tế, hành vi vi phạm quy định về tham
gia GTĐB gây tai nạn giao thông dẫn đến chết người, thiệt hại về tài sản rất
nhiều. Hậu quả của tai nạn GTĐB là một trong các căn cứ cốt lõi để quy kết
trách nhiệm đối với đối tượng gây tai nạn.
So sánh với các quy định tại Điều 202 của BLHS cũ thì tại Điều 260
của BLHS hiện hành đã có sự thay đổi về quy định mức độ hậu quả do vi
phạm các quy định trong tham gia GTĐB làm cơ sở để xác định TNHS. Mà
cụ thể đó là gây ra một trong những hậu quả dưới đây thì mới bị truy cứu
TNHS:
- Làm chết người (thiệt hại tính mạng);
- Gây ra thương tích hay gây ra tổn hại sức khỏe của một người mà có
tổn thương cơ thể ở tỷ lệ từ 61% trở lên;
- Gây ra thương tích hay gây ra tổn hại sức khỏe của hai người trở lên
mà có tổng tỷ lệ thương tổn cơ thể của các con người đó là từ 61% - 121%;
- Gây ra thiệt hại tài sản từ 100 triệu đồng - <500 triệu đồng.
Qua đó cho thấy, Điều 260 của BLHS hiện hành đã loại bỏ mức độ về
hậu quả gây ra tổn thương cơ thể: (i) của một người <61%; (ii) của 02 người
29
trở lên mà có tổng tỷ lệ thương tổn cơ thể của các người đó <61%; (iii) và loại
bỏ mức độ về thiệt hại vật chất <100 triệu đồng để làm cơ sở nhằm truy cứu
TNHS về tội phạm đó. Mặt khác, điều luật mới giúp loại bỏ quy định ở điều
luật cũ về sự cộng chung mức độ đối với thiệt hại vật chất và sức khỏe con
người. Tuy thế, cần phải lưu ý, dù là chưa có thiệt hại xảy ra song người vi
phạm có thể bị truy cứu TNHS nếu khi có đủ những điều kiện theo quy định ở
khoản 4 thuộc Điều 260 của BLHS.
Mối quan hệ nhân quả: Hành vi vi phạm các quy định về tham gia
GTĐB là nguyên nhân dẫn đến hậu quả (tai nạn giao thông) gây thiệt hại về
tài sản, sức khỏe, tính mạng của người khác. Nếu thiệt hại không phải do hành
vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB thì không cấu thành tội vi phạm quy
định về tham gia GTĐB.
Những dấu hiệu khách quan khác: Địa điểm nơi vi phạm là công trình
GTĐB; phương tiện GTĐB… Việc xác định dấu hiệu khách quan đó là hệ
trọng, đây là dấu hiệu nhằm phân biệt giữa tội phạm đó với những tội khác. Ở
khoản 1 thuộc Điều 3 của Luật GTĐB quy định: Đường bộ gồm có đường,
hầm đường bộ, cầu đường bộ và bến phà đường bộ. Với phương tiện GTĐB
gồm phương tiện giao thông thô sơ đường bộ, phương tiện giao thông cơ giới
đường bộ” (theo quy định ở khoản 17 thuộc Điều 3 của Luật GTĐB).
Thứ ba, chủ thể của tội phạm vi phạm các quy định trong tham gia
GTĐB:
Với người có đủ từ 14 tuổi - <16 tuổi thì không phải chịu TNHS về tội
phạm đó, bởi tội phạm đó là tội phạm vốn dĩ được thực hiện do lỗi vô ý và
cũng không có trường hợp nào được xác định là tội đặc biệt nghiêm trọng
(được quy định ở điều 12 của BLHS ).
Chủ thể của tội vi phạm các quy định trong tham gia GTĐB là những
người có đủ từ 16 tuổi trở lên, họ có khả năng nhận thức và điều khiển hành
30
vi.
Điểm đặc biệt đối với chủ thể của tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB là người phạm tội có hành vi phạm tội khi đang tham gia GTĐB.
Khoản 22 thuộc Điều 3 của Luật GTĐB 2008 quy định: Người tham
gia giao thông bao gồm người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người điều khiển,
người sử dụng phương tiện trong tham gia GTĐB; người đi bộ trên đường bộ.
Thứ tư, mặt chủ quan của tội phạm:
Lỗi của người phạm tội vi phạm các quy định về tham gia GTĐB là lỗi
vô ý.Điều 11 BLHS quy định về vô ý phạm tội như sau: “Vô ý phạm tội là
phạm tội trong những trường hợp sau đây: 1. Người phạm tội tuy nhận thấy
rằng trước hành vi của mình là có thể gây nên hậu quả nguy hại xã hội song
cứ cho rằng hậu quả đó sẽ có thể ngăn ngừa được hoặc không xảy ra; 2.
Người phạm tội không nhận thấy trước hành vi của mình là có thể gây nên
hậu quả nguy hại xã hội, dù là phải nhận thấy trước và có thể nhận thấy
trước hậu quả này.”
Lỗi của tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB cố nhiên là lỗi vô ý,
bởi lẽ nếu việc vi phạm các quy tắc, quy định GTĐB gây ra các thiệt hại về
sức khỏe, tính mạng con người với lỗi cố ý thì khách thể xâm hại không còn
đơn thuần là các quy định của Nhà nước về an toàn GTĐB nữa mà có thể đó
là xâm hại sức khỏe, tính mạng của người khác. Hành vi cố ý này sẽ đưa đến
dấu hiệu của tội phạm khác như “Cố ý gây thương tích” theo Điều 134 BLHS
hoặc “Giết người” theo Điều 123 BLHS. Ví dụ: Vì có thù hận với B, A muốn
giết B nên điều khiển xe ô tô đâm vào phía sau xe mô tô do B điều làm B tử
vong tại chỗ. Như vậy, hành vi của A đã phạm vào tội “Giết người” theo
Điều 123 BLHS.
- Quy định về hình phạt:
+ Khung 1:
Về kết cấu, khoản 1 Điều 202 BLHS năm 1999 không phân định các
31
tình tiết định khung cơ bản, chỉ xác định mức độ hậu quả để làm cơ sở truy
cứu TNHS đối với người có hành vi vi phạm luật giao thông đường bộ
là “gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ,
tài sản của người khác”, mức độ hậu quả này được hướng dẫn cụ thể tại các
văn bản dưới luật.
Khoản 1 Điều 260 BLHS hiện hành được thiết kế theo hướng xác định
cụ thể định mức thấp nhất hậu quả thiệt hại làm cơ sở để truy cứu TNHS đối
với hành vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB gồm 04 mức tương ứng tại
các điểm a, b, c, d khoản 1. Trong đó, điểm a là quy định về hậu quả xâm
phạm tính mạng con người, điểm b, c quy định về hậu quả xâm phạm sức
khỏe con người và điểm d là quy định hậu quả xâm phạm tài sản của người
khác.
Đối chiếu so sánh quy định ở 4 điểm tại khoản 1 thuộc Điều 260 của
BLHS mới với sự hướng dẫn ở các văn bản pháp quy hướng dẫn cho Điều
202 của BLHS 1999 thì có thể nhận định rằng: các điểm a và d tại điều luật
mới là sự quy định pháp điển hóa về hướng dẫn tại khoản 1 thuộc Điều 2 của
Thông tư liên tịch 09/2013/TTLT – BQP – BCA – VKSNDTC – BTP –
TANDTC. Trong nội dung này, mức độ về hậu quả ở điểm a được giữ
nguyên (làm thiệt mạng chết người), mức độ về hậu quả ở điểm d được giữ
nguyên đối với phần thiệt hại về tài sản cao nhất (<500 triệu đồng), sửa đổi
đối với phần thiệt hại về tài sản thấp nhất (từ 70 triệu đồng lên đến 100 triệu
đồng).
Hai tình tiết định khung cơ bản còn lại quy định tại điểm b, điểm c
khoản 1 Điều 260 BLHS mới cũng được phiên từ hướng dẫn tại Điều 2 Thông
tư liên tịch số 09/2013/TTLT – BCA – BQP – BTP – VKSNDTC – TANDTC
nhưng mức độ thiệt hại về sức khỏe con người có thay đổi theo hướng tỷ lệ
tổn thương cơ thể một người bị tổn hại dưới 61% thì không truy cứu TNHS
và tỷ lệ tổn thương cơ thể của hai người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ
32
thể của họ dưới 61% cũng không bị truy cứu TNHS.
Ngoài ra, còn sự thay đổi tại khoản 1 thuộc Điều 260 của BLHS mới đó
là mức hình phạt. Trong số đó, về mức khởi điểm của hình phạt tiền tăng gấp
6 lần, mức cao nhất của phạt tiền tăng 02 lần (từ 50 triệu đồng lên đến 100
triệu đồng) ; tăng mức khởi điểm của hình phạt tù có thời hạn từ sáu tháng lên
một năm; giữ nguyên về mức hình phạt cải tạo không giam giữ.
Vấn đề còn phải quan tâm đó là, những quy định ở khoản 1 thuộc Điều
260 của BLHS mới so với quy định ở khoản 1 thuộc Điều 260 của BLHS năm
2015 thì các nội dung cụ thể đều bị sửa đổi ở tại những điểm a, b, c, chỉ giữ
nguyên quy định của điểm d.
+ Khung 2:
Tại khoản 2 thuộc Điều 260 của BLHS mới là được thiết kế theo mô tip
của khoản 2 thuộc Điều 202 của BLHS cũ song có bổ sung thêm ba tình tiết
xác định về khung tăng nặng với phương pháp liệt kê cụ thể để quy định
về “gây hậu quả rất nghiêm trọng” theo điểm đ thuộc Điều 202 của BLHS cũ
trở thành ba tình tiết tại những điểm đ, e, g ở khoản 2 thuộc Điều 260 của
BLHS mới. Mức độ hậu quả về thiệt hại được ấn định tại những điểm đ, e, g
khoản 2 thuộc Điều 260 của BLHS mới - xét về bản chất đó là việc pháp điển
hóa hướng dẫn ở khoản 2 thuộc Điều 2 của Thông tư liên tịch 09/2013/TTLT
– BQP – BCA– VKSNDTC –BTP –TANDTC. Trong số đó, các điểm đ, g ở
khoản 2 thuộc Điều 260 của BLHS mới là các quy định được giữ nguyên về
nội dung của những điểm a, e tại khoản 2 thuộc Điều 2 của Thông tư liên tịch
số 09 này; còn mức độ hậu quả về xâm hại đến sức khỏe của người khác được
quy định ở điểm e tại khoản 2 thuộc Điều 260 của BLHS mới thì không giống
với bất cứ hướng dẫn nào ở những điểm còn lại trong khoản 2 thuộc Điều 2
Thông tư liên tịch 09/2013/TTLT – BQP – BCA– VKSNDTC –BTP –
TANDTC, duy chỉ giống nhau ở 01 nội dung mang tính nguyên tắc là về tổng
33
tỷ lệ thương tổn cơ thể của nhiều người (có từ 02 người trở lên) >200% thì bị
truy cứu TNHS ở mức cao hơn (mức cũ theo Thông tư là từ 100% - 200%,
mức theo điều luật mới là từ 122% - 200%).
Ngoài ra, hai tình tiết định khung tăng nặng theo quy định tại các điểm
b và c của khoản 2 Điều 202 BLHS cũ được sửa đổi một số nội dung nhỏ tại
quy định tương ứng của Điều 260 BLHS mới. Cụ thể là, về nội dung ở điểm b
trong khoản 2 thuộc Điều 260 là có thêm tình tiết “có sử dụng chất ma
túy” được đặt trước cụm từ “hoặc những chất kích thích mạnh khác”; về nội
dung quy định ở điểm c thì đã loại bỏ cụm từ “gây tai nạn rồi” ở quy định cũ.
So sánh với khoản 2 thuộc Điều 260 của BLHS 2015 thì tại khoản 2
thuộc Điều 260 của BLHS hiện hành đã có sự thay đổi ở ba nội dung thuộc
những điểm c, e, g.
+ Khung 3:
Khoản 3 thuộc Điều 260 của BLHS mới được thiết kế có ba tình tiết
xác định về khung tăng nặng. Cách diễn đạt này có khác so với khoản 3 Điều
202 BLHS cũ nhưng về bản chất thì những tình tiết định khung quy định tại
các điểm a, b, c khoản 3 Điều 260 BLHS mới là cách thức diễn giải chi tiết
yếu tố định khung của khoản 3 Điều 202 BLHS cũ là “gây hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng”. Trong đó, điểm a và điểm c khoản 3 Điều 260 BLHS mới là
việc pháp điển hóa toàn bộ nội dung quy định tại điểm a, điểm g khoản 3 Điều
2 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT – BCA – BQP – BTP – VKSNDTC –
TANDTC. Riêng điểm b khoản 3 Điều 260 BLHS mới thì có thay đổi về mức
độ hậu quả so với các điểm còn lại b, c, d, đ, e khoản 3 Điều 2 của Thông tư
liên tịch số 09/2013/TTLT – BCA – BQP – BTP – VKSNDTC – TANDTC.
So với quy định tại khoản 3 Điều 260 BLHS năm 2015, thì quy định
mới (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã bỏ 01 tình tiết định khung tăng nặng tại
điểm b khoản 3 Điều 260 BLHS 2015 (từ 4 tình tiết định khung sửa thành 3
tình tiết định khung).
34
+ Khung 4:
Khoản 4 Điều 260 BLHS hiện hành có ba nội dung thay đổi quan trọng
so với khoản 4 Điều 202 BLHS cũ.
Thứ nhất, nếu quy định về hậu quả có thể xảy ra tại khoản 4 Điều 202
của BLHS cũ là “đặc biệt nghiêm trọng” thì khoản 4 Điều 260 BLHS mới
liệt kê rõ các hậu quả có thể xảy ra thuộc các điểm a, b, c ở khoản 3 của điều
luật này;
Thứ hai, tại khoản 4 thuộc Điều 202 của BLHS cũ là không có hình
phạt tiền, tại khoản 4 thuộc Điều 260 của BLHS mới thì quy định hình phạt
tiền là hình phạt chính ở mức từ 10 triệu đồng – 50 triệu đồng;
Thứ ba, về mức cao nhất của khung hình phạt tù có thời hạn tại khoản 4
thuộc Điều 260 của BLHS mới thì có mức 01 năm tù là thấp hơn so với khoản
4 thuộc Điều 202 của BLHS cũ (mới là từ 03 tháng - 01 năm; cũ là từ 03
tháng - 02 năm);
BLHS hiện hành bỏ khoản 4 Điều 260 BLHS năm 2015, chuyển khoản
5 Điều 260 BLHS 2015 thành khoản 4 Điều 260 BLHS mới và có sửa lại một
số cụm từ cho phù hợp. Trong đó, nội dung thay đổi là: Sửa đổi về quy định
“có khả năng thực tế dẫn tới hậu quả gây ra thiệt hại tính mạng, sức khỏe hay
tài sản của người khác” trở thành quy định “có khả năng thực tế dẫn tới hậu
quả quy định ở một trong những điểm a, b và c thuộc khoản 3 Điều này”.
Có thể thấy so với quy định của BLHS năm 1999 thì Điều 260 BLHS
hiện hành quy định hình phạt cụ thể hơn, có lợi hơn khi áp dụng cho người
phạm tội. So với BLHS năm 2015 thì các quy định về hình phạt tội vi phạm
quy định về tham gia GTĐB cũng chặt chẽ hơn, bỏ đi các quy định không cần
35
thiết.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 của luận văn, tác giả đã khái quát lịch sử lập pháp đối với
Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, để từ đó có cách nhìn toàn diện hơn
về chính sách hình sự của Đảng, Nhà nước ta đối với tội phạm này. Theo đó,
tác giả đã khái quát lịch sử lập pháp đối với Tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB.
Trên cơ sở nghiên cứu quy định khái niệm chung về tội phạm trong
BLHS năm 2015, kết hợp với quy định tại Điều 260 BLHS, tác giả đã đưa ra
khái niệm về Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB và phân tích các dấu
hiệu pháp lý của Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, bao gồm: Khách
thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm,
chủ thể của tội phạm.Đồng thời, Chương 1 của luận văn cũng đã phân tích,
làm rõ hình phạt đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB.
Việc nghiên cứu, làm rõ những cơ sở lý luận và pháp lý của Tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB có ý nghĩa hết sức quan trọng, là căn cứ cơ
bản, tiền đề để nghiên cứu hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt
đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB nói chung và trên địa bàn thị
36
xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam nói riêng.
CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ
TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG
BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Khái quát thực tiễn xét xử tội phạm vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
Theo thống kê từ năm 2014 đến năm 2018, Tòa án nhân dân thị xã Điện
Bàn đã xét xử sơ thẩm tổng số 76 vụ án, với 76 bị cáo về tội vi phạm quy định
về tham gia GTĐB.
Bảng 2.1. Thống kê số vụ án và số bị cáo xét xử sơ thẩm về Tội vi phạm
quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng
Nam từ năm 2014 đến năm 2018
Số vụ án và bị cáo được Tòa án xét xử sơ thẩm Năm Số vụ án Số bị cáo
2014 15 15
2015 17 17
2016 13 13
2017 13 13
2018 18 18
76 76 Tổng số
Nguồn: TAND thị xã Điện Bàn
Nghiên cứu Bảng 2.1 cho thấy số vụ án, số bị cáo phạm tội vi phạm
quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam có
sự gia tăng qua từng năm và đều tăng so với với năm trước liền kề, chỉ có
năm 2017 là không tăng so với năm 2016. Trong đó, năm 2018 tăng một cách
37
rõ rệt cả về số vụ và số bị cáo, tăng 05 vụ và 05 bị cáo so với năm 2017.
Trong tổng số các vụ án vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị
xã Điện Bàn thì số lượng án năm 2018 đã chiếm đến 23,6% số án của 05 năm
giai đoạn 2014-2018. Như vậy, án vi phạm quy định về tham gia GTĐB ngày
một phổ biến và năm 2018 là năm trọng điểm.
2.2. Định tội danh đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
Quá trình áp dụng các quy phạm pháp lụât hình sự diễn ra phức tạp và
đa dạng được thể hiện qua các giai đoạn cơ bản sau: Định tội danh, định
khung hình phạt và quyết định hình phạt. Trong đó, định tội danh là một giai
đoạn quan trọng nhất và xuyên suốt toàn bộ quá trình áp dụng pháp luật hình
sự.
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về định tội danh. Theo GS.
TSKH Lê Văn Cảm, “định tội danh có thể được hiểu là quá trình nhận thức
lý luận có tính logic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các chứng
cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác
định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được
thực hiện với các dấu hiệu của CTTP tương ứng do luật hình sự quy định
nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội
phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa
trách nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật”.
Như vậy, khái quát lại, quan niệm trên coi định tội danh là hoạt động áp
dụng pháp luật hình sự và TTHS. Khác với quan điểm này, GS. TS. Võ
Khánh Vinh cho rằng:“Định tội danh là một dạng hoạt động nhận thức, hoạt
động ADPL hình sự nhằm đi tới chân lý khách quan trên cơ sở xác định đúng
đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện, nhận
thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định CTTP tương ứng và
38
mối liên hệ tương đồng giữa các dấu hiệu của CTTP với các tình tiết cụ thể
của hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất
định”. Tức là, định tội danh chỉ nằm trong phạm vi áp dụng pháp luật hình sự.
Mặc dù được diễn đạt theo nhiều cách khác nhau, nhưng về cơ bản cho
thấy định tội danh là sự xác định sự phù hợp của hành vi nguy hiểm cho xã
hội đã được thực hiện với các dấu hiệu của một CTTP tương ứng được quy
định trong BLHS.
Nội dung của CTTP chính là sự phản ánh các dấu hiệu cụ thể như:
Quan hệ xã hội bị xâm hại, độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi
khách quan, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ,
phương tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, lỗi, động cơ, mục đích phạm
tội. Các dấu hiệu bắt buộc phải có trong mọi CTTP là: Quan hệ xã hội bị xâm
hại, độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi khách quan và lỗi. Một
CTTP của một loại tội luôn luôn phải chứa đựng đầy đủ 4 yếu tố CTTP:
Khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Song các dấu hiệu trong
mỗi một CTTP có thể nhiều ít khác nhau.
Định tội danh thực chất là sự xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp giữa
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện trong thực tế khách quan với các
dấu hiệu trong CTTP tương ứng được quy định trong BLHS. Hay nói cách
khác, định tội danh là việc xác định một hành vi cụ thể đã thực hiện thoả mãn
đầy đủ các dấu hiệu của CTTP của tội nào trong số các tội phạm đã được quy
định trong BLHS. Từ đó mà định tội danh trở thành cơ sở, tiền đề tiên quyết
cho hoạt động quyết định hình phạt.
Với tính chất là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự, định tội danh được tiến hành theo 04 bước sau:
Bước 1: Thiết lập, xem xét, đánh giá đúng các tình tiết của vụ án đã
39
xảy ra trên thực tế.
Đối với bước này, đòi hỏi người định tội danh phải đánh giá các tình
tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện, không suy diễn. Phải dựa vào
các chứng cứ đã thu thập và đánh giá chúng theo quy định của BLTTHS.
Mỗi một tình tiết trong vụ án bước đầu đánh giá chúng một cách độc
lập để thấy được sự thể hiện tính chất của nó là loại hành vi nào. Sau đó, lại
đặt các tình tiết đó trong mối quan hệ với các tình tiết khác trong vụ án, thì kết
luận về tính chất của tình tiết này mới là sự thể hiện về bản chất của nó trong
cả tiến trình của vụ án. Đánh giá mỗi tình tiết của vụ án, phải đặt nó trong
hoàn cảnh cụ thể, trong tổng thể, biện chứng của cả quá trình phản ánh đúng
diễn biến của vụ án đã xảy ra. Bởi lẽ, cùng một tình tiết, nhưng đặt trong mỗi
hoàn cảnh khác nhau thì khác nhau về bản chất. Kết luận về từng tình tiết độc
lập, không thể phản ánh đúng về bản chất của tình tiết đó trong toàn bộ diễn
biến vụ án.
Bước 2: Nhận thức thống nhất và chính xác nội dung các quy phạm
pháp luật hình sự phản ánh các dấu hiệu của CTTP về tội danh có hướng lựa
chọn. Các dấu hiệu trong CTTP được quy định trong BLHS mang tính trừu
tượng chỉ nêu một cách khái quát những nét đặc trưng mang tính phổ biến để
điều chỉnh hiện tượng thực tế đa dạng, chính vì vậy đòi hỏi phải có quá trình
tư duy để nhận thức sâu rộng, đúng đắn về nội dung của các dấu hiệu trong
CTTP.
Bước 3: So sánh đối chiếu hai quá trình nói trên.
Bước 4: Ra văn bản áp dụng pháp luật chính là bản án và các quyết
định có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục cả 3 bước trên để xác định tội
danh cần áp dụng đối với trường hợp phạm tội của người đó.
Như vậy, về bản chất, định tội danh là quá trình cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền xác định sự phù hợp giữa các tình tiết cơ bản, điển hình của một
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra với các dấu hiệu của CTTP cụ thể
40
tương ứng được quy định trong BLHS. Và định tội danh tội vi phạm quy định
về tham gia GTĐB là quá trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định sự
phù hợp giữa các tình tiết cơ bản, điển hình của một hành vi vi phạm quy
định về tham gia GTĐB đã xảy ra với các dấu hiệu của CTTP cụ thể tương
ứng với quy định tại Điều 260 BLHS.
Hoạt động định tội danh tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB tại thị
xã Điện Bàn không quá khó khăn, bởi lẽ các vụ án GTĐB được phát hiện, ghi
nhận ban đầu đúng thủ tục luật định. Từ việc bám sát các bước trong định tội
danh nêu trên nên việc nhầm từ tội danh vi phạm quy định về tham gia GTĐB
với các tội khác có dấu hiệu tương tự là không có, hoạt động xét xử đảm bảo
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Thêm nữa, việc xác định lỗi trong các
vụ án GTĐB cũng khách quan, chưa có trường hợp nào có sự chuyển hóa từ
tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB sang tội “Cố ý gây thương tích”
hoặc “Giết người”. Sau đây là thống kê liên quan đến định tội danh tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam:
Bảng 2.2: Tỷ lệ xét xử sơ thẩm các vụ án và bị cáo về tội vi phạm quy định
về tham gia GTĐB so với các tội phạm về GTĐB và các tội phạm khác
trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
từ năm 2014 đến năm 2018
Các tội khác về GTĐB Tổng số các loại tội phạm Năm
Số vụ án Số vụ án Số vụ án
Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB Số bị cáo 15 17 13 13 18 76 15 17 13 13 18 76 2014 2015 2016 2017 2018 Tổng Số bị cáo 0 1 0 0 1 2 99 87 82 78 96 442 Số bị cáo 201 115 152 124 147 739 0 1 0 0 1 2
41
Nguồn: TAND thị xã Điện Bàn
Nghiên cứu Bảng 2.2 cho thấy trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng
Nam từ năm 2014 đến năm 2018, tội phạm vi phạm quy định về tham gia
GTĐB chiếm tỷ lệ cao so với các tội phạm về GTĐB (chiếm tỷ lệ 97,3% số
vụ án và 97,3% số bị cáo) và chiếm 17% số vụ và 10,28% số bị cáo so với
tổng số án hình sự. Như vậy, án giao thông, mà chủ yếu là án vi phạm quy
định về tham gia GTĐB là án chiếm tỷ lệ tương đối lớn so với các tội danh
khác được điều tra, truy tố, xét xử tại thị xã Điện Bàn.
2.3. Quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
Quyết định hình phạt là hoạt động của Hội đồng xét xử bắt buộc dựa
trên các quy định của BLHS để đưa ra hình phạt tương thích với tính chất,
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nhằm đạt được các mục đích của
hình phạt. Như vậy, việc quyết định hình phạt cần phải dựa các căn cứ quyết
định hình phạt. Về bản chất, căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cụ
thể, có tính khách quan, do BLHS quy định mà HĐXX bắt buộc phải tuân thủ
để không chỉ đảm bảo cho hình phạt được quyết định một cách khách quan,
đúng pháp luật mà còn nhằm đạt được các mục đích của HP khi áp dụng đối
với người bị áp dụng.
Việc quyết định hình phạt phải được thực hiện theo các căn cứ được
quy định trong BLHS, có thể chia thành 03 nhóm căn cứ sau:
Thứ nhất, căn cứ vào chế tài quy phạm pháp luật quy định về tội phạm.
Trong đó, có chế tài lựa chọn và không lựa chọn (loại hình phạt), chế tài tùy
nghi (áp dụng hay không áp dụng, mức hình phạt trong khung...).
Thứ hai, các căn cứ được quy định tại Điều 50 BLHS: Tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
TNHS; nhân thân người phạm tội.
Thứ ba, các căn cứ đặc biệt: Đường lối xử lý (Điều 3 BLHS); miễn
42
TNHS (Điều 29 BLHS); miễn hình phạt (Điều 59 BLHS); chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt (Điều 57 BLHS); đồng phạm (Điều 58 BLHS); quyết định
hình phạt với người chưa thành niên (Điều 91 BLHS); quyết định hình phạt
dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (Điều 54 BLHS);...
Khi quyết định hình phạt, các căn cứ nói trên phải được cân nhắc kỹ
lưỡng một cách đầy đủ, toàn diện và biện chứng trong từng trường hợp, hoàn
cảnh cụ thể, không được bỏ sót hoặc tùy tiện, đánh giá thiếu sự khách quan.
Có như vậy việc quyết định hình phạt mới có thể tương xứng với tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phân hóa được TNHS
của người phạm tội đồng thời đảm bảo đạt đến được mục đích của hình phạt.
Khi người bị áp dụng cảm thấy họ xứng đáng với hình phạtbị áp dụng thì việc
chấp hành hình phạt sẽ tự giác, hiệu quả hơn. Qua đó, việc quyết định hình
phạt sẽ góp phần thay đổi, cải tạo người phạm tội hướng thiện, trở thành
người có ích cho xã hội.
Bảng 2.3. Cơ cấu xét theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB tại địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam từ năm 2014 đến năm 2018
Năm Số bị cáo Khoản 1 Khoản 2 Khoản 3 Khoản 4 Khoản 5
2014 15 13 0 0 0 2
2015 17 14 0 0 0 3
2016 13 12 0 0 0 1
2017 13 9 1 0 0 3
2018 18 12 2 0 0 4
76 60 3 0 0 13 Tổng
78,9 4 0 0 17,1 Tỷ lệ %
Nguồn: TAND thị xã Điện Bàn
Nghiên cứu Bảng 2.3 cho thấy số bị cáo phạm tội vi phạm quy định về
43
tham gia GTĐB tại địa bàn thị xã Điện Bàn từ năm 2014 đến năm 2018 bị xét
xử theo khoản 1 Điều 202 của BLHS năm 1999 và khoản 1 Điều 260 của
BLHS năm 2015 chiếm tỷ lệ lớn nhất với 78,9%, tiếp theo là khoản 2 với tỷ lệ
là 17,1% và khoản 3 chiếm tỷ lệ 4%.
Trong số các bị cáo bị xét xử về Tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB thì đa số các bị cáo bị xét xử theo khoản 1 Điều 260 BLHS, tiếp đến là
khoản 2, khoản 3 Điều 260 BLHS; không có các bị cáo nào bị xét xử theo
khoản 4 Điều 260 BLHS. Các hình phạt đã tuyên từ năm 2014 đến năm 2018,
Tòa án không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính và không áp dụng
hình phạt cải tạo không giam giữ, áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo 18
bị cáo, tù từ 03 năm trở xuống là 39 bị cáo, tù trên 03 năm đến 07 năm là 14
bị cáo, tù trên 07 năm đến 15 năm là 05 bị cáo; đồng thời chưa từng áp dụng
hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 260 của BLHS. Điều này
cho thấy việc áp dụng hình phạt là nghiêm khắc, tính chất, mức độ nghiêm
trọng của hành vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB ở thị xã Điện Bàn là
khá cao, thiệt hại gây ra lớn.
2.4. Nhận xét, đánh giá
2.4.1. Ưu điểm, kết quả đạt được
- Việc định tội danh và quyết định hình phạt của TAND thị xã Điện
Bàn là khá chính xác, phù hợp, vừa bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật,
vừa bảo đảm tính nhân đạo trong từng trường hợp cụ thể. Vì vậy, số lượng
bản án có kháng cáo ít, kết quả phúc thẩm tỷ lệ giữ nguyên án sơ thẩm là chủ
yếu, không có vụ nào sửa về tội danh, đặc biệt không có vụ nào bị hủy.
- TAND thị xã Điện Bàn đã chủ động, nỗ lực và phối hợp tốt với cấp
ủy Đảng, chính quyền địa phương, các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ
quan bổ trợ tư pháp, hoàn thành tốt nhiệm vụ xét xử; kịp thời xét xử những vụ
án trọng điểm được dư luận quan tâm, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng,
44
chống tội phạm vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ hoạt động trong các cơ quan tố tụng từng
bước được nâng cao cả về chất lượng lẫn số lượng, chế độ chính sách, trang
thiết bị phương tiện phục vụ cho hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan
tố tụng ngày càng được quan tâm hơn.
2.4.2. Hạn chế, thiếu sót
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự
đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã Điện
Bàn, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2014– 2018 còn bộc lộ một số hạn chế, thiếu
sót sau:
Thứ nhất, tội phạm vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn
thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2014 – 2018 vẫn còn xảy ra
nhiều, để xảy ra tình trạng này do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên
nhân thuộc về hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tiến hành
tố tụng mà trực tiếp là hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt của Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân.
Thứ hai, việc quyết định hình phạt đối với tội phạm vi phạm quy định
về tham gia GTĐB còn chưa phù hợp, những vụ án vi phạm quy định về tham
gia GTĐB có sự khác nhau về mức độ hậu quả, song việc đánh giá hậu quả đó
theo định lượng luật định để đưa ra một hình phạt thích đáng không phải là
điều dễ dàng.
Thứ ba, Tòa án cũng đã có một số sai sót khi quyết định hình phạt: Bỏ
sót một số tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS, vận dụng không đúng tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ TNHS. Vẫn còn trường hợp quyết định hình phạt chưa
chính xác: Quyết định hình phạt quá nặng hoặc quyết định hình phạt quá nhẹ
so với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi gây ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp hoặc không đảm bảo tính giáo giục đối với bị cáo và tính
45
phòng ngừa chung.
2.4.3. Một số vướng mắc trong thực tiễn áp dụng đối với tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn thị xã Điện Bàn,
tỉnh Quảng Nam
- Xác định nguyên nhân và lỗi trong các vụ tai nạn GTĐB:
Theo quy định của luật hình sự Việt Nam, thì lỗi là một trong những
yếu tố thuộc mặt chủ quan của CTTP. Lỗi là thái độ tâm lý của chủ thể đối
với hành vi nguy hiểm cho xã hội và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra thể
hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Trong tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB lỗi của người vi phạm luôn là lỗi vô ý. Thái độ tâm lý này là quá trình
tâm lý diễn ra trong ý thức của người vi phạm khi thực hiện hành vi vi phạm
quy định về tham gia GTĐB. Thực tiễn xét xử cho thấy trong nhiều vụ án
GTĐB các cơ quan tiến hành tố tụng đã xác định không đúng quan hệ nhân
quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả xảy ra cũng như lỗi của người vi phạm
(nhầm lẫn giữa nguyên nhân và điều kiện dẫn đến tai nạn; giữa lỗi hành chính
và lỗi hình sự) nên đã truy cứu TNHS không đúng đối với người vi phạm.
Ví dụ: Lúc 13h30 ngày 06/5/2018, Hoàng Văn T không có giấy phép
lái xe điều khiển xe môtô Dream II trên phần đường của mình lên thị xã Điện
Bàn. Khi đến ngã ba Phạm Phú Thứ - Mẹ Thứ, thấy phía trước cách khoảng
35 - 40m có một xe môtô Ware (do Nguyễn Văn B điều khiển) đi ngược
chiều, T bật tín hiệu xin đường và điều khiển xe sang bên trái đường. Do
phóng quá nhanh không kịp xử lý xe máy của B đã đâm vào xe máy của T
làm cho chiếc xe Dream II đổ nghiêng xuống đường và T bị thương nhẹ ở
chân, tay. Còn chiếc xe Ware đổ nghiêng và thia lia trên mặt đường, B bị
văng ra khỏi xe đầu đập xuống mặt đường và bị chết trên đường đưa đến bệnh
viện. Nguyên nhân của vụ tai nạn được xác định là do B (có uống rượu)
phóng xe nhanh, không xử lý kịp nên đâm vào xe của T gây ra tai nạn. Hoàng
Văn T bị truy tố và xét xử về tội “Vi phạm các quy định về tham gia GTĐB”
46
theo điểm a (không có giấy phép lái xe) khoản 2 Điều 260 BLHS.
Trong trường hợp nêu trên, tai nạn xảy ra là hoàn toàn do lỗi của B
(chạy quá tốc độ, không giảm tốc độ khi đến đường giao nhau, không xử lý
kịp nên đã gây tai nạn). Còn T khi sang đường có quan sát, ra tín hiệu xin
đường và khi thấy xe ngược chiều cách khá xa mới điều khiển xe sang bên kia
đường. Trong trường hợp này nếu B đi đúng tốc độ cho phép và giảm tốc độ
khi sắp vào đường giao nhau thì chắc chắn tai nạn không xảy ra. Mặc dù hành
vi của T có vi phạm quy định về tham gia GTĐB (điều khiển xe môtô phân
khối lớn không có giấy phép lái xe) nhưng đây chỉ là lỗi hành chính chứ
không phải lỗi hình sự. Mặt khác, trong quan hệ nhân quả giữa hành vi của B
và T với hậu quả xảy ra (B chết) thì nguyên nhân trực tiếp gây ra tai nạn là
hành vi của chính nạn nhân B. Còn hành vi của T chỉ là điều kiện (nguyên
nhân gián tiếp) dẫn đến vụ tai nạn. Vì vậy, trong hành vi của T còn thiếu một
yếu tố của mặt khách quan (quan hệ nhân quả) trong cấu thành cơ bản của tội
“Vi phạm các quy định về tham gia GTĐB” quy định tại khoản 2 Điều 260
BLHS. Trong vụ án này khi truy cứu TNHS đối với T các cơ quan tiến hành
tố tụng đã nhầm lẫn giữa lỗi hành chính với lỗi hình sự, giữa nguyên nhân và
điều kiện dẫn đến vụ tai nạn. Từ phân tích trên, thấy rằng không phải trong
mọi trường hợp khi người tham gia giao thông vi phạm các quy định về an
toàn GTĐB đều là người có lỗi trong việc gây ra tai nạn. Để có căn cứ truy
cứu TNHS đối với các hành vi vi phạm này, cần phải xác định đúng nguyên
nhân dẫn đến vụ tai nạn (mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm của họ
với hậu quả xảy ra) và lỗi của người vi phạm khi thực hiện hành vi đó là lỗi
hành chính hay lỗi hình sự. Nếu hành vi vi phạm của người tham gia GTĐB
không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tai nạn thì họ chỉ có lỗi về hành
chính và hành vi đó không CTTP.
- Vấn đề xử lý đối với các trường hợp dùng phương tiện tham gia giao
47
thông gây tai nạn ở những nơi không thuộc mạng lưới GTĐB:
Trường hợp phương tiện GTĐB hoạt động ở những nơi không thuộc
mạng lưới đường bộ như đường thôn xóm, đường làng, bản,... và gây hậu quả
nghiêm trọng cũng thường gặp nhiều trong thực tiễn tại thị xã Điện Bàn. Ví
dụ: Khi điều khiển xe ôtô trên đường thôn Nhất Giáp, xã Điện An, thị xã Điện
Bàn do tránh ổ gà, Nguyễn Hữu T đã điều khiển xe mô tô đã gây tai nạn làm
chết một người bên đường. Trong quá trình giải quyết, giữa các cơ quan
THTT của Điện Bàn cũng có nhiều quan điểm khác nhau.
Theo hướng xử lý thứ nhất thì về nguyên tắc, để truy cứu TNHS theo
Điều 260 BLHS, cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định được người tham
gia đã vi phạm vào điều khoản cụ thể nào (quy định về phần đường, tốc độ,...
hay là hành vi khác gây nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia
GTĐB) của Luật GTĐB. Nếu không xác định được điều khoản bị vi phạm thì
không có căn cứ để truy cứu TNHS đối với họ. Theo Luật GTĐB, thì đường
bộ gồm: đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ (điểm 1
Điều 3); mạng lưới đường bộ gồm: Quốc lộ, đường tỉnh, đường huyện, đường
xã, đường đô thị và đường chuyên dùng (Điều 39). Như vậy, trong trường hợp
trên, không thể xác định được điều khoản cụ thể của Luật GTĐB bị vi phạm
(vì nơi xảy ra tai nạn không thuộc mạng lưới GTĐB) nên không có căn cứ để
truy cứu TNHS về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB theo Điều 260
BLHS.
Theo hướng xử lý thứ hai thì cho rằng trường hợp trên hành vi vi phạm
của người lái xe mô tô đã CTTP theo quy định tại Điều 260 BLHS.
Tác giả cho rằng việc áp dụng Điều 260 BLHS để truy cứu TNHS đối
với trường hợp họ vi phạm và gây hậu quả nghiêm trọng là hoàn toàn phù hợp
với yêu cầu kiềm chế và đẩy lùi tai nạn GTĐB. Tuy nhiên, để tránh sự nhận
thức và áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cơ quan chức năng trong
48
xử lý đối với trường hợp gây tai nạn giao thông trong các trường hợp tương tự
nêu trên, tác giả cho rằng cần sửa đổi bổ sung một số quy định của Luật
GTĐB để phù hợp và tương thích với quy định BLHS.
- Vấn đề xác định thiệt hại để truy cứu TNHS trong các vụ tai nạn
GTĐB:
Thứ nhất, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành định khung của
tội phạm này trong trường hợp cụ thể, nhưng thực tiễn cho thấy có bất cập về
quy định, áp dụng pháp luật với trường hợp một người thực hiện hành vi
phạm tội này gây ra lớn hơn so hậu quả do hành vi của người khác cũng phạm
tội này gây ra, nhưng TNHS của người đã gây ra hậu quả lớn hơn đó lại nhẹ
hơn trách nhiệm hình sự của người cũng vi phạm quy định về tham gia GTĐB
mà hậu quả họ gây ra lại nhỏ hơn. Cụ thể như sau:
+ Trường hợp thứ nhất: Nguyễn Văn T điều khiển xe ôtô tải biển số
92A-219.49 đi sai phần đường nên đâm trực hiện vào xe môtô biển số 92F1-
03491, do chị Trần Thị Nh điều khiển, phía sau có chở chị Lâm Thị Mỹ H,
hậu quả vụ tai nạn này làm chị Nh bị tỉ lệ thương tật 71 % sức khỏe ; chị H. là
69% . Tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể của 02 người này là 140%. Do vậy, T bị
truy tố và bị Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn xét xử theo quy định tại điểm e
khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015, theo đó, điểm e khoản 2 Điều luật này
quy định: “2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ 03 năm đến 10 năm:
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên
mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%”
+ Trường hợp thứ hai: Nguyễn Quang L điều khiển xe ôtô biển kiểm
soát 43H-1415, do L không làm chủ tốc độ, xử lý kém khi phát hiện có
chướng ngại vật trên đường, nên xe ô tô do L lái đâm vào xe môtô biển kiểm
soát 92B1-766.67 chạy ngược chiều do anh Trần Hiếu M điều khiển chở vợ là
49
chị Phạm Thị Minh H ngồi phía sau, hậu quả vụ tai nạn, làm chị H bị chấn
thương sọ não nặng, vỡ xương chậu và tử vong sau đó; anh M bị tổn thương
sức khỏe tỉ lệ thương tật qua giám định là 86%.
Nguyễn Quang L bị truy tố và xét xử về tội “Vi phạm quy định về tham
gia GTĐB” quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015.
Theo đó, tại điểm a, b khoản 1 Điều luật này quy định: “Người nào tham gia
GTĐB mà vi phạm quy định về an toàn GTĐB gây thiệt hại cho người khác
thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng
đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù
từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ
lệ tổn thương có thể 61% trở lên;”
Qua hai trường hợp cụ thể trên cho thấy, hậu quả xảy ra ở trường hợp
thứ nhất rõ ràng là nhẹ hơn (tỉ lệ thương tật chung của 02 người là 140%),
nhưng bị truy tố và xét xử theo khung 2 với mức hình phạt tù từ 03 năm đến
10 năm. Trong khi đó, với trường hợp thứ hai, hậu quả xảy ra là nặng hơn so
với trường hợp thứ nhất (01 người chết; 01 người bị thương tật vĩnh viễn
86%), nhưng chỉ bị truy tố và xét xử theo khung 1, có mức hình phạt tù từ 01
năm đến 05 năm.
Tương tự như vậy, nếu so sánh về mặt hậu quả do hành vi phạm tội này
gây ra, còn có thể phát hiện thêm bất cập khác tại điểm đ khoản 2 với điểm b
khoản 3 của Điều luật này. Cụ thể,
+ Trường hợp thứ ba: Nguyễn Thị D điều khiển xe ôtô từ cơ quan về
nhà, khi cách giao lộ đường Hoàng Diệu – đường Trần Nhân Tông của thị xã
Điện Bàn (tại đây có lắp tín hiệu giao thông đèn xanh đèn đỏ), do đạp nhầm
chân ga nên xe ô tô của D phóng nhanh về phía trước đâm thẳng vào 02 xe
môtô đang dừng rồi lao vào gốc cây cổ thụ ven đường cách đó chừng 15 m,
50
rồi mới dừng lại hẳn. Cơ quan chức năng tiền hành đo nồng độ cồn có trong
khí thở của chị D kết quả là 75 miligam/1 lít khí thở. Hậu quả vụ tai nạn này,
làm anh Trần Văn Th bị tổn hại sức khỏe tỉ lệ thương tật 62 %; anh Vũ Huy Đ
tổn hại sức khỏe 89% sức khỏe và ông Lâm Vĩnh Kh bị tổn hại sức khỏe
97%. Tổng tỉ lệ % sức khỏe của 03 người bị hại trong vụ tai nạn này là 248%.
Ngày 12/12/2018, Nguyễn Thị D bị TAND thị xã Điện Bàn phạt 08
năm 06 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia GTĐB” quy định tại
điểm b khoản 3 Điều 260 BLHS năm 2015.
+ Trường hợp thứ tư: Nguyễn Văn Đ điều khiển xe ôtô đi vào đường
ngược chiều xảy ra va chạm với 02 xe mô tô đang lưu thông đúng với phần
đường quy định. Hậu quả vụ tai nạn này, làm em Văn Thị T và Trần Thị Th
(học sinh Trường Phổ thông trung học Lương Thế Vinh) bị tử vong trên
đường đưa đi cấp cứu; ông Nguyễn Văn R bị tổn hại sức khỏe qua kết luật
giám định 91%.
Ngày 06/11/2018, TAND huyện Điện Bàn tuyên phạt Nguyễn Văn Đ
07 năm 06 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia GTĐB” quy định
tại điểm đ khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015.
Rõ ràng hậu quả của trường hợp thứ tư là nghiêm trọng hơn (02 người
chết, 01 người bị thương tỉ lệ thương tật 91%) so với hậu quả xảy ra ít nghiêm
trọng hơn của trường hợp thứ ba (03 người bị thương, tổng tỉ lệ thương tật
248%), nhưng khung hình phạt quy định phải áp dụng cho trường hợp thứ ba
là nặng hơn (hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm) so với khung hình phạt quy
định cho trường hợp thứ tư (hình phạt tù từ 03 năm đến 10 năm), từ đó, mức
hình phạt Tòa án áp dụng cho trường hợp thứ ba, nếu như không có nhiều tình
tiết giảm nhẹ TNHS thì cũng nặng hơn so với trường hợp thứ tư, rõ ràng đây
là một bất cập cần được các nhà làm luật nghiên cứu khắc phục.
Thứ hai, nội dung tại Điều 260 BLHS hiện hành đang thiếu quy định
chuyển từ khung hình phạt này sang khung hình phạt khác trong cùng điều
51
luật áp dụng.
Phần lớn mọi người đều biết, nếu hậu quả vụ tai nạn GTĐB mà người
điều khiển xe mô tô gây ra làm chết một người mà trong tình trạng say rượu
bia (nồng độ cồn trong máu hoặc hơi thở vượt mức quy định), lỗi hoàn toàn
thuộc về người tham gia, thì có thể bị xét xử về tội “Vi phạm quy định về
tham gia GTĐB”, theo khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017), mức hình phạt tù mà người gây ra tai nạn phải đối mặt từ 03 năm
đến 10 năm.
Tuy nhiên, nếu hỏi dựa trên căn cứ pháp lý nào để khẳng định như vậy,
thì thực tế hiện nay vẫn có không ít người không thể chỉ ra được quy phạm
nào điều chỉnh vấn đề này, hay nói cách khác, nội dung quy phạm tại Điều
260 BLHS hiện hành đang thiếu tính minh bạch với trường hợp chuyển khung
(từ khung 1 sang khung 2; từ khung 2 sang khung 3). Trường hợp vừa nêu
trên thực chất là việc các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền chuyển
khung (chuyển từ khoản 1 sang khoản 2) của Điều luật đang áp dụng, dù hậu
quả xảy ra chỉ ở khoản 1 (làm chết một người) nhưng do có tình tiết định
khung phạm tội “Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc
hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định” tại điểm b khoản 2 Điều 260
BLHS hiện hành, do vậy, việc điều tra, truy tố, xét xử trường hợp trên là hoàn
toàn chính xác.
Tương tự như vậy, các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt quy
định tại các điểm a, b, c, d của khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017), cụ thể: “a) Không có giấy phép lái xe theo quy định; b)
Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ
cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích
mạnh khác; c) Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp
người bị nạn; d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng
dẫn giao thông.” chưa được quy định là tình tiết tăng nặng định khung tại
52
khoản 3 của Điều luật này, từ đó, tạo ra sự lúng túng và không đảm bảo sự
công bằng của pháp luật khi áp dụng nhằm đấu tranh phòng ngừa, xử lý
nghiêm minh loại tội phạm này. Chẳng hạn, Nguyễn Văn A điều khiển xe mô
tô tham gia giao thông gây tai nạn cho phương tiện khác trong tình trạng có sử
dụng rượu mà nồng độ cồn đo được 85 miligam/100 mililít máu , hậu quả làm
chết 01 người, lỗi hoàn toàn thuộc về A. Trong trường hợp này, mặc dù hậu
quả xảy ra thuộc điểm a khoản 1, nhưng do khi A thực hiện hành vi phạm tội
trong tình trạng nồng độ cồn có trong máu vượt mức quy định tại khoản 3
Điều 8 Luật GTĐB năm 2008, do đó, A bị điều tra, truy tố, xét xử theo điểm b
khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015, có khung hình phạt tù từ 03 năm đến 10
năm.
Nhưng với trường hợp trên, nếu hậu quả xảy ra làm chết 02 người thì A
cũng chỉ bị truy tố, xét xử theo điểm b, điểm đ khoản 2 Điều 260 Bộ luật này
mà thôi. Đây rõ là một bất cập, dù biết rằng khung hình phạt tại khoản 2 Điều
260 BLHS năm 2015 thấp nhất là 03 năm tù và cao nhất là 10 năm tù, với
khoảng cách giữa mức thấp nhất và cao nhất khung hình phạt đã được ấn
định, Hội đồng xét xử tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội và hậu quả xảy ra từng trường hợp cụ thể để quyết định mức hình phạt
tương xứng. Nhưng qua nghiên cứu từ thực tiễn xét xử loại tội phạm này từ
khi BLHS năm 2015 có hiệu lực thi hành đến nay cho thấy, do nhà làm luật
chưa có quy định các tình tiết từ điểm a đến điểm d tại khoản 2 là tình tiết
định khung tăng nặng tại khoản 3 của Điều luật này, nên hiệu quả trong công
tác đấu tranh phòng ngừa, răn đe tình trạng vi phạm pháp luật hình sự đối với
lọai tội phạm này mặt nào đó còn rất hạn chế, nhất là trong tình hình hiện nay,
tình trạng lái xe say rượu bia, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích
thần kinh mạnh khác mà gây tai nạn giao thông với hậu quả làm chết từ 03
người trở lên; làm bị thương cũng từ 03 người trở lên đang gây bức xúc trong
dư luận, điển hình như: Khoảng 12h ngày 11/04/2018, tài xế Nguyễn Đức H
53
điều khiển xe ô tô biển số kiểm soát 92X-23566 trong tình trạng nồng độ cồn
đo được vượt quá mức quy định đã lao vào đám tang, hậu quả làm 5 người
chết, 7 người khác bị thương.
Thứ ba, theo khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015: “Người thực hiện tội
phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và
được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và
đề nghị miễn TNHS, thì có thể được miễn TNHS.”
Có thể nói đây là nguyên tắc hoà giải trong luật hình sự nhằm giữ gìn
sự đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Tuy nhiên, việc hòa giải giữa người phạm
tội với người bị hại chỉ đối với hai loại tội phạm, đó là, tội phạm nghiêm trọng
do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng (không phân biệt tội phạm do cố ý hay
vô ý) gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản
của người khác, còn đối với các tội phạm khác thì không được hòa giải để
người bị hại đề nghị miễn truy cứu TNHS đối với người phạm tội.
Tuy nhiên thực tiễn áp dụng đã gặp phải vướng mắc với một số trường
hợp sau đây:
Trường hợp thứ nhất: Ngày 20/01/2017, anh Nguyễn Văn H điều khiển
xe ô tô vào đoạn đường khu đông dân cư của thị xã Điện Bàn nhưng thiếu chú
ý quan sát, không làm chủ được tốc độ, nên gây tai nạn với 02 xe mô tô đi
cùng chiều, hậu quả làm chết 01 người và gây thương tích cho 02 người khác
với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể qua giám định là 115%. H bị điều tra, truy tố
và xét xử theo điểm a, điểm c khoản 1 Điều 260 BLHS. Trường hợp này, nếu
đủ điều kiện theo quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) thì có thể H được xem xét miễn TNHS.
Trường hợp thứ hai: Nguyễn Văn L điều khiển xe mô tô đi vào làn
đường ngược chiều, đâm vào xe mô tô do Nguyễn Thị Q điều khiển chở phía
sau là Lê Thị T, hậu quả làm Q và T bị thương, kết quả giám định tỉ lệ thương
54
tật lần lượt là 72%, 69% (tổng tỉ lệ thương tật của 02 người là 141%). Trường
hợp này, L bị truy tố, xét xử theo điểm c khoản 2 Điều 260 BLHS, và tất
nhiên, L không được các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét miễn TNHS theo
quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015.
Thực tiễn trên cho thấy, nếu so sánh về mức độ hậu quả, rõ ràng với
trường hợp thứ nhất là nghiêm trọng hơn so với trường hợp thứ hai, nhưng
việc cá thể hóa hình phạt thì L lại nặng hơn. Và hơn thế, L không thuộc diện
để có thể được miễn TNHS nhưng trường hợp của H thì có. Đó là sự bất công
bằng thể hiện tại Điều 260 và khoản 3 Điều 29 BLHS.
Trên đây là một số điểm mới và vướng mắc, bất cập từ thực tiễn áp
dụng Điều 260 BLHS 2015, để việc áp dụng điều luật thật sự chính xác và
hiệu quả thì rất cần sự quan tâm của các cơ quan liên ngành Trung ương, để
sớm ban hành hướng dẫn thống nhất trong áp dụng. Có như vậy, công tác đấu
tranh phòng, chống loại tội phạm này trong thực tiễn mới đạt hiệu quả, góp
phần bảo đảm ngày càng tốt hơn trật tự xã hội, an toàn giao thông.
2.4.4. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót
Những hạn chế, thiếu sót trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan
và khách quan, trong đó những nguyên nhân chủ yếu đó là:
- Quy định của pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB còn bất cập, chưa hợp lý gây khó khăn cho các cơ quan áp dụng pháp
luật.
- Hoạt động hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự nói chung, áp dụng
pháp luật hình sự đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB nói riêng
chưa được chú trọng, các văn bản hướng dẫn áp dụng đối với Tội vi phạm
quy định về tham gia GTĐB còn thiếu, chồng chéo, chưa cụ thể, rõ ràng gây
khó khăn cho các cơ quan áp dụng pháp luật.
- Các vụ án về GTĐB ngày càng gia tăng và phức tạp.
- Một số vụ án giao thông có cơ chế hình thành dấu vết, thương tích rất
55
đặc biệt; không có nhân chứng; việc khám nghiệm hiện trường diễn ra muộn
do yếu tố thời tiết,... gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó
có hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án.
- Việc giám định bị gia đình, đại diện bị hại từ chối, ngăn cản dẫn đến
không thể truy cứu TNHS của người phạm tội dù hành vi đã rất rõ.
- Chưa chú trọng công tác tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự
đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, do đó việc đánh giá thực
trạng áp dụng, những ưu điểm, hạn chế, bất cập trong hoạt động áp dụng để từ
đó có biện pháp giải quyết, điều chỉnh kịp thời chưa được tiến hành thường
xuyên.
- Hiện nay ở nước ta chưa xây dựng được hệ thống án lệ hoàn chỉnh
trong việc xét xử các vụ án vi phạm quy định về tham gia GTĐB, dẫn đến
tình trạng quyết định hình phạt không thống nhất.
- Năng lực, trình độ chuyên môn, bản lĩnh chính trị, nghề nghiệp của
đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có
Thẩm phán, Thư ký Tòa án còn hạn chế, một số còn yếu, chưa đáp ứng được
yêu cầu công tác. Một số Thẩm phán chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm
trong công tác, không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án và các quy định của pháp
luật có liên quan nên xét xử còn sai sót.
- Công tác tổ chức và cán bộ chưa được quan tâm đúng mức, số lượng
và chất lượng Thẩm phán, Thư ký Tòa án chưa đồng đều, ảnh hưởng đến chất
lượng xét xử; công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chưa được thường xuyên,
chưa có chuyên đề chuyên sâu. Điều kiện phương tiện, cơ sở vật chất, kỹ
56
thuật còn hạn chế, lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác.
Tiểu kết chương 2
Từ những nghiên cứu trên có thể thấy rằng, vấn đề định tội danh và
quyết định hình phạt đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB có ý
nghĩa hết sức to lớn cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Để có được những quyết
định chính xác và đúng pháp luật khi tiến hành định tội danh và quyết định
hình phạt đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB đòi hỏi người áp
dụng pháp luật phải nhận thức đúng đắn về mặt lý luận của việc định tội danh
và quyết định hình phạt.
Trong Chương 2 của luận văn tác giả đã làm rõ một số vấn đề lý luận
về định tội danh và quyết định hình phạt từ đó làm cơ sở cho việc áp dụng
đúng pháp luật hình sự đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên
địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Đồng thời, Chương 2 của luận văn đã phân tích, làm rõ thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên
địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, cụ thể:
Đã phân tích làm rõ thực tiễn vấn đề định tội danh đối với Tội vi phạm
quy định về tham gia GTĐB theo CTTP cơ bản, theo CTTP tăng nặng và đưa
ra những số liệu và vụ án điển hình dẫn chứng để làm rõ.
Phân tích làm rõ thực tiễn vấn đề quyết định hình phạt đối với Tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB theo CTTP cơ bản, theo CTTP tăng nặng,
và đưa ra vụ án điển hình dẫn chứng.
Trên cơ sở phân tích thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với Tội
vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam có thể thấy rằng, thực tiễn hoạt động xét xử các vụ án vi phạm
quy định về tham gia GTĐB của TAND thị xã Điện Bàn đã đạt được nhiều
thành quả đáng khích lệ, góp phần quan trọng giữ vững an ninh chính trị, trật
57
tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của công
dân. Tuy nhiên, hoạt động xét xử các vụ án vi phạm quy định về tham gia
GTĐB trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam vẫn còn bộc lộ những
sai sót, hạn chế nhất định. Chính vì vậy, cần phải kịp thời khắc phục những
sai sót, hạn chế đó nhằm giải quyết các vụ án một cách có hiệu quả cao nhất
đáp ứng được yêu cầu của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói
chung và tội phạm vi phạm quy định về tham gia GTĐB nói riêng.
Những phân tích, nhận xét, đánh giá này là cơ sở quan trọng để đề ra
các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy
định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam trong
58
thời gian tới.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI
VỚI TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN,
TỈNH QUẢNG NAM
3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ
Để giảm thiểu các tai nạn giao thông nói chung và tội phạm trong lĩnh
vực GTĐB nói riêng thì sự hoàn thiện về hệ thống pháp luật giữ vai trò chính
yếu và then chốt. Đó là hành lang pháp lý để đảm bảo trật tự, văn hóa giao
thông. Sự tác động đến đời sống xã hội, văn hóa của người dân là rất lớn. Đơn
cử như ý thức giao thông trong thời gian qua được nâng tầm rõ rệt khi Luật
phòng chống tác hại của rượu, bia năm 2019 và Nghị định 100/2019/NĐ-CP
ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt được ban hành. Song song với đó,
sự hoàn thiện của BLHS mang một vị trí vô cùng quan trọng. Bởi lẽ, đó là
“chốt chặn” sau cùng cho những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong lĩnh
vực GTĐB. Pháp luật hình sự phải “đủ mạnh”, “đủ chặt” để nâng cao ý thức
giao thông cũng như xử lý thỏa đáng các hành vi xâm phạm sức khỏe, tính
mạng và tài sản của công dân, qua đó phòng ngừa, giáo dục tội phạm.
BLHS năm 1999 chưa đánh giá được hết sự khác nhau về tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm quy định về tham gia
GTĐB, nhất là về mặt hậu quả. Do đó, điều luật còn mang tính định tính, dẫn
đến việc áp dụng gặp nhiều khó khăn. BLHS năm 2015 đã quy định mở rộng
đối tượng điều chỉnh của tội phạm và định lượng các hậu quả giúp các cơ
quan tiến hành tố tụng thuận tiện hơn trong việc định tội danh và quyết định
59
hình phạt. Tuy nhiên, cần phải hoàn thiện một số vấn đề sau:
Thứ nhất, việc định lượng thiếu một số trường cụ thể:
- Trường hợp thứ nhất: Người tham gia GTĐB vi phạm quy định về an
toàn GTĐB làm chết 01 người và gây các hậu quả khác từ điểm b đến điểm d
khoản 1 Điều 260.
- Trường hợp thứ hai: Người tham gia giao thông vi phạm quy định về
an toàn giao thông làm chết 02 người và gây các hậu quả khác từ điểm a đến
điểm d, từ điểm e đến điểm g khoản 2 Điều 260.
Như vậy, cần bổ sung hai trường hợp nói trên vào Điều 260 BLHS.
Thứ hai, cần xem xét sửa đổi, bổ sung BLHS hiện hành lần tới theo
hướng quy định các tình tiết từ điểm a đến điểm d khoản 2 với một trong các
tình tiết định khung quy định tại khoản 3 thành khoản mới. Theo đó, khoản
mới của Điều 260 BLHS (sau khi được sửa đổi, bổ sung) được viết, như sau:
“Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm c
khoản 3 Điều này mà còn có thêm một trong những tình tiết quy định từ điểm
a đến điểm d khoản 2, thì bị phạt tù từ … năm đến … năm.”
Thứ ba, đề nghị bỏ khoản 4 Điều 260 BLHS. Bởi lẽ, điều luật quy định
CTTP vật chất tức là đòi hỏi phải có hậu quả do hành vi phạm tội gây ra.
Hình phạt được áp dụng phải căn cứ vào mức độ hậu quả xảy ra. Tuy nhiên,
khoản 4 của điều luật lại quy định theo CTTP hình thức, tức hậu quả của tội
phạm chưa xảy ra. Tác giả cho rằng quy định này không phù hợp với kết cấu
của điều luật và thiếu tính khả thi trên thực tế.
Thực tế tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam cho thấy mặc dù khoản 4
Điều 202 BLHS 1999 cũng có quy định hành vi này nhưng chưa có trường
hợp nào bị truy tố, xét xử theo quy định. Nguyên nhân là do thiếu căn cứ để
xác định mức độ nguy hiểm của hành vi đã đủ yếu tố CTTP này hay chưa và
giả sử xác định một hành vi nào đó đã phạm tội vi phạm quy định về an toàn
giao thông đường bộ theo quy định tại khoản 4 Điều 260 của BLHS năm 2015
60
thì dựa vào căn cứ nào để đưa ra mức hình phạt cho hành vi phạm tội đó. Tác
giả cho rằng không nên quy định loại hành vi này là một hành vi phạm tội
trong BLHS.
Như vậy, như đã phân tích, kiến nghị ở trên, các mô tả trong CTTP của
Điều 260 BLHS cần được bỏ đi một số quy định không cần thiết, không có
trên thực tiễn và không phù hợp về mặt lý luận. Tuy nhiện, với tình hình tội
phạm về GTĐB có xu hướng gia tăng về số lượng và mức độ nguy hiểm như
hiện nay đòi hỏi phải bổ sung một số trường hợp để có căn cứ xử lý hành vi
nguy hại cho xã hội của hành vi này, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống
tội phạm GTĐB, phát huy hiệu lực, vai trò của BLHS, bảo vệ lợi ích của cộng
đồng, công dân.
3.2. Hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ
Hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động rất quan trọng, bởi
vì trong quá trình xây dựng pháp luật các quy định pháp luật thường được mô
tả một cách ngắn gọn, do đó cần thiết phải làm rõ về tinh thần, nội dung,
phạm vi, ý nghĩa, mục đích các quy định pháp luật so với nội dung ban đầu
của nó, từ đó giúp mọi người hiểu, thực thi các quy định pháp luật một cách
chính xác và thống nhất.
Thứ nhất, đối với trường hợp vi phạm quy định về tham gia GTĐB mà
có sự phù hợp với quy định miễn TNHS theo khoản 3 Điều 29 BLHS năm
2015: “Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng
do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản
của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự
nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS”, thì có thể được miễn TNHS thì cần
có hướng dẫn áp dụng kịp thời, đảm bảo tính nhân văn của BLHS.
Chẳng hạn, người phạm tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB quy
61
định tại khoản 1 Điều 260 của BLHS năm 2015, được đại diện của người bị
hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS là thuộc trường hợp xem xét
miễn TNHS theo khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015.
Thứ hai, cũng liên quan đến hành vi vi phạm quy định về tham gia
GTĐB quy định tại khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015, trong giai đoạn giải
quyết tin báo, tố giác tội phạm, người phạm tội đã tự nguyện bồi thường toàn
bộ thiệt hại cho gia đình người bị hại và được người bị hại hoặc người đại
diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS. Như vậy,
người phạm tội có đủ các điều kiện để được xem xét miễn TNHS theo khoản
3 Điều 29 BLHS năm 2015, nhưng vì không có căn cứ để ra Quyết định
không khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại Điều 157 BLTTHS năm 2015
nên Cơ quan điều tra phải tiến hành ra các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị
can, áp dụng biện pháp ngăn chặn, sau đó, mới ra Quyết định đình chỉ điều tra
vụ án, bị can theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 230 BLTTHS năm 2015.
Đây là điều bất hợp lý và không cần thiết.
Theo quy định tại Điều 18 BLTTHS năm 2015: “Khi phát hiện hành vi
có dấu hiệu tội phạm, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm khởi tố vụ án…”. Do đó, khi
hành vi của người thực hiện hành vi vi phạm quy định tham gia GTĐB đã đủ
yếu tố CTTP thì phải khởi tố, nếu không khởi tố thì sẽ trái với quy định của
BLTTHS năm 2015 về căn cứ không khởi tố hình sự. Hơn nữa, tại Điều 157
BLTTHS năm 2015, theo đó quy định các căn cứ không khởi tố hình sự lại
không có căn cứ nào thuộc Điều 29 BLHS năm 2015. Sau khi khởi tố, chiếu
theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 230 BLTTHS năm 2015 quy định về
đình chỉ điều tra “Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra khi thuộc
một trong các trường hợp: a) Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2
Điều 155 và Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16
hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự”.Hoặc theo khoản 1
62
Điều 248 BLTTHS năm 2015 thì “Viện kiểm sát quyết định không truy tố và
ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2
Điều 155 và Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16
hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của BLHS”.
Như vậy, rõ ràng có sự nhanh chóng kịp thời trong công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm nếu áp dụng miễn TNHS đối với hành vi vi phạm quy
định về tham gia GTĐB tại khoản 1 Điều 260 của BLHS ngay từ giai đoạn
ban đầu của tố tụng (giai đoạn giải quyết tin báo, tố giác). Nhưng sẽ bị coi là
“vượt rào” vì chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể từ phía cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Hơn nữa, các dấu hiệu pháp lý CTTP quy định tại khoản 1 Điều
260 BLHS năm 2015 đều thỏa mãn, cơ quan tiến hành tố tụng có đủ căn cứ để
truy cứu TNHS, chứ không phải thuộc trường hợp hành vi không CTTP. Nếu
không chặt chẽ về mặt thủ tục tố tụng ở trường hợp này rất dễ phát sinh
những khiếu nại, tố cáo sau này. Nhưng nếu cứ cứng nhắc khởi tố để rồi đình
chỉ, việc tuân thủ pháp luật tố tụng hình sự trong hoạt động điều tra của Cơ
quan điều tra được bảo đảm, nhưng phải kéo dài thời gian, tạo ra tâm lý căng
thẳng đối với người phạm tội khi phải chịu những hậu quả pháp lý do bị khởi
tố, áp dụng biện pháp ngăn chặn và trong chừng mực nào đó có thể ảnh
hưởng sâu sắc đến hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.
Do đó, kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn áp dụng
vấn đề này để tạo cơ chế cho việc áp dụng miễn TNHS có căn cứ, đảm bảo
tính nhân đạo của chính sách hình sự Việt Nam.
Thứ ba, điểm b khoản 2 Điều 260 BLHS mới bổ sung nội dung “có sử
dụng chất ma túy” là tình tiết định khung tăng nặng. Quy định này có lẽ là sự
điều chỉnh với một số vụ tai nạn giao thông gây bức xúc cho xã hội giai đoạn
gần đây. Điển hình là vụ tài xế điều khiển xe container dương tínhvới ma túy
đã đâm phải 21 xe máy và làm 04 người chết ở tỉnh Long An [39].Tuy nhiên,
thực tiễn cuộc sống hiện nay có rất nhiều loại ma túy, các chất tương tự như
63
ma túy được sử dung tràn lan trong xã hội như: Methammethamine, herroin,
cần sa, cỏ Mỹ,…Trong khi đó, khi các vụ tai nạn giao thông xảy ra, đối với
trường hợp người gây tai nạn giao thông, người bị tai nạn giao thông được
đưa đến cơ sở y tế để cấp cứu, điều trị thì chưa có cơ sở y tế nào được giao
nhiệm vụ tổ chức xét nghiệm ma túy, hiện chỉ làm được việc đo nồng độ cồn
trong máu hoặc trong hơi thở. Trường hợp người gây tai nạn đến trình diện tại
cơ quan công an việc kiểm tra nhanh có sử dụng ma túy hay không chưa được
văn bản pháp luật hướng dẫn.
Chính vì vậy, việc áp dụng BLHS 2015 đối với Tội vi phạm quy định
về tham gia GTĐB cần thiết phải được hướng dẫn áp dụng một cách cụ thể,
đảm bảo khách quan, thống nhất.
Hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động rất quan trọng, bởi
vì trong quá trình xây dựng pháp luật các quy định pháp luật thường được mô
tả một cách ngắn gọn, do đó cần thiết phải làm rõ về tinh thần, nội dung,
phạm vi, ý nghĩa, mục đích các quy định pháp luật so với nội dung ban đầu
của nó, từ đó giúp mọi người hiểu, thực thi các quy định pháp luật một cách
chính xác và thống nhất.
3.3. Tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ
Tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động của các cơ
quan pháp luật (trong đó chủ yếu là các cơ quan tiến hành tố tụng) tổng hợp
kinh nghiệm giải quyết vụ án hình sự, tổng hợp việc áp dụng pháp luật hình
sự trong hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng theo những chủ đề nhất định
và trong một khoảng thời gian nhất định.
Trong hoạt động tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, các chủ
thể tham gia tổng kết tiến hành nêu lên các kết quả và thành tựu đạt được
trong quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật vào giải quyết vụ án hình sự
64
trong thực tiễn như: Nêu lên các vụ án tiêu biểu; các đường lối xử lý vụ án
hình sự đúng đắn và nhanh chóng; các bản án, quyết định có tính mẫu mực và
chính xác cao nhằm tuyên dương đồng thời làm tấm gương, tiêu chí để các
chủ thể khác học tập và noi theo; các kết quả cụ thể trong công tác phối hợp
liên ngành giữa các cơ quan hoặc phối hợp giữa các quốc gia trong quá trình
đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung hoặc đối với một tội (một nhóm
tội) cụ thể… Bên cạnh việc nêu lên các kết quả và thành tựu đạt được, các chủ
thể tham gia hoạt động tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự còn nêu
lên những sai lầm, vướng mắc trong hoạt động áp dụng các quy phạm pháp
luật vào thực tiễn giải quyết vụ án hình sự như: Nêu lên các vụ án oan sai
hoặc các vụ án có đường lối giải quyết sai lầm, chưa đúng đắn; các văn bản áp
dụng pháp luật hình sự được ban hành không đúng thẩm quyền hoặc lựa chọn
sai quy định của pháp luật để áp dụng trong giải quyết vụ án hình sự hoặc áp
dụng không đúng đối tượng; hoặc các vụ án hình sự quá thời hạn giải quyết
theo quy định của pháp luật… từ đó rút kinh nghiệm, có những điều chỉnh
phù hợp, kịp thời.
Hoàn thiện pháp luật hình sự nói chung luôn là hoạt động cần thiết do
các quy phạm pháp luật hình sự không phải lúc nào cũng phù hợp với thực tế
xã hội, khi xã hội ngày càng có nhiều biến đổi thì các quy phạm pháp luật
hình sự cũng cần sửa đổi để phù hợp với sự biến đổi đó. Trong công tác hoàn
thiện pháp luật hình sự đó, hoạt động tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự có ý nghĩa rất lớn. Việc tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự
giúp phản ánh được những vấn đề chưa phù hợp của các quy phạm pháp luật
hình sự khi áp dụng vào thực tiễn, qua đó nhà làm luật sẽ phân tích và đánh
giá nguyên nhân dẫn đến sự chưa phù hợp đó để đưa ra các giải pháp sửa đổi
các quy phạm pháp luật hình sự sao cho tính phù hợp của các quy phạm pháp
luật này đối với thực tế được nâng cao hơn, đảm bảo tính khả thi cao của các
quy phạm pháp luật hình sự khi được đưa vào vận dụng để giải quyết vụ án
65
hình sự.
Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham
gia GTĐB trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam nhìn chung là đúng
người đúng tội, đúng pháp luật, không xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm, đảm
bảo các lợi ích hợp pháp của người phạm tội khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên,
bên cạnh đó trong công tác xét xử vẫn còn vẫn còn nhiều vấn đề cần phải sửa
đổi để rút kinh nghiệm từ đó có những hướng dẫn cụ thể trong việc giải quyết
các vụ án. Thông qua việc tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật nhằm phát
hiện kịp thời những thiếu sót, hạn chế và vướng mắc của các quy định của
pháp luật trong quá trình áp dụng trên thực tiễn để từ đó có những đề xuất,
kiến nghị kịp thời để sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn các quy định của pháp
luật chính xác, phù hợp hơn và đạt kết quả điều chỉnh cao hơn nhằm tạo căn
cứ pháp lý vững chắc cho việc giải quyết các vụ án được chính xác và có tính
thuyết phục cao hơn.
3.4. Nâng cao năng lực của cán bộ áp dụng pháp luật hình sự đối
với Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
- Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, nâng cao ý thức chính trị, đạo đức
nghề nghiệp, trình độ năng lực chuyên môn, thực hiện tốt chế độ chính sách
cho đội ngũ Thẩm phán và Thư ký Tòa án.
Để bảo đảm chất lượng của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của
Tòa án, việc đổi mới công tác tổ chức cán bộ có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Bởi suy cho cùng công tác cán bộ là yếu tố con người - chủ thể trực tiếp áp
dụng pháp luật.
Tập trung xây dựng đội ngũ Thẩm phán xét xử vụ án hình sự có chuyên
môn hóa cao, là những chuyên gia giỏi cả về lý luận và thực tiễn (có thể
chuyên môn hóa theo nhóm tội danh của BLHS). Quá trình tuyển chọn này
phải được sàng lọc và chứng minh từ thực tế xét xử, từ chất lượng các bản án
hình sự đã xét xử, được sự đánh giá cao của đồng nghiệp, cấp trên, của các cơ
66
quan tố tụng khác, Luật sư, Hội thẩm..., kịp thời phát hiện những công chức,
thẩm phán có năng khiếu, năng lực sở trường về xét xử án hình sự để đào tạo,
bồi dưỡng chuyên sâu.
TAND Tối cao cần tăng cường hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng,
tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng xét xử cho đội ngũ Thẩm
phán, Thư ký Tòa án các cấp. Cần đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về công tác
xét xử các vụ án phạm tội về GTĐB.
Tăng cường công tác kiểm tra, kịp thời phát hiện sai sót đồng thời tổ
chức rút kinh nghiệm chung. Định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm
công tác xét xử các vụ án về GTĐB.
Nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học cho
đội ngũ Thẩm phán, Thư ký Tòa án các cấp. Các Thẩm phán, thư ký Tòa án
nêu cao tinh thần trách nhiệm, tự rèn luyện, học tập trau rồi kiến thức chuyên
môn, kỹ năng nghề nghiệp. Có chính sách khuyến khích Thẩm phán, Thư ký
Tòa án các cấp tích cực học tập để nâng cao trình độ, đáp ứng nhiệm vụ được
giao. Thường xuyên tổ chức tập huấn, hội thảo các chuyên đề về luật hình sự,
luật tố tụng hình sự, kỹ năng nghiệp vụ xét xử án hình sự. Tổ chức các phiên
tòa mẫu, phiên tòa rút kinh nghiệm, yêu cầu các Thẩm phán khác dự và đóng
góp ý kiến.
Thường xuyên phát động các phong trào, đặc biệt là thực hiện tốt
phong trào học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, thực hiện tốt
lời Bác Hồ dạy: “Phụng công thủ pháp, chí công vô tư”. Không chỉ có đủ
năng lực trình độ mà mỗi Thẩm phán, Thư ký Tòa án cần phải tự ý thức được
rằng: Quyền lực Nhà nước là của nhân dân, nhân dân trao cho mình là để
phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân. Không được sử dụng tùy tiện quyền lực
ấy hoặc để tư lợi, phải biết vượt qua các cám dỗ, để tận tụy phục vụ nhân dân,
trung thành với Tổ quốc, với chế độ, dũng cảm bảo vệ công lý, công bằng xã
67
hội, quyền và lợi ích chính đáng hợp pháp của công dân.
Lao động của Thẩm phán, Thư ký Tòa án là lao động đặc thù, chịu
nhiều áp lực, đòi hỏi phải có trí tuệ, bản lĩnh, chuyên môn nghiệp vụ cao, cần
phải có chế độ chính sách tương xứng. Bên cạnh đó, phải kịp thời khen
thưởng, động viên những Thẩm phán, Thư ký Tòa án có nhiều thành tích. Xây
dựng các danh hiệu như Thẩm phán nhân dân, Thẩm phán ưu tú… để xã hội
tôn vinh những Thẩm phán mẫu mực.
- Nâng cao chất lượng hoạt động, chế độ chính sách của Hội thẩm nhân
dân.
Hội thẩm nhân dân là những thành viên của Hội đồng xét xử, là những
người có uy tín trong nhân dân được Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra để
thay mặt nhân dân trực tiếp tham gia xét xử các vụ án, là chủ thể quan trọng
trong việc áp dụng pháp luật hình sự tại Tòa án.
Tòa án cần tổ chức tập huấn nghiệp vụ xét xử, bồi dưỡng kiến thức
pháp lý cho các Hội thẩm nhân dân. Hội thẩm nhân dân cần chủ động tìm
hiểu pháp luật, nâng cao trách nhiệm của mình đối với công tác xét xử, để có
đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ Hội thẩm của mình. Đoàn Hội thẩm
nhân dân cần độc lập về tài chính và việc bố trí Hội thẩm tham gia phiên tòa.
Để khuyến khích Hội thẩm nhân dân nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích cực
nghiên cứu hồ sơ, tham gia xét xử có hiệu quả cần có chế độ đãi ngộ tương
xứng. Kinh phí hoạt động của Đoàn Hội thẩm nhân dân cần phải độc lập
không phụ thuộc vào Tòa án như hiện nay, để Đoàn Hội thẩm chủ động chi
trực tiếp cho các Hội thẩm tham gia nghiên cứu hồ sơ và xét xử.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan điều tra và công tố cũng
như các cơ quan bổ trợ tư pháp khác. Trong chiến lược cải cách tư pháp, Tòa
án được xác định là trung tâm, xét xử là trọng tâm. Xét xử là một giai đoạn tố
tụng độc lập, nhưng chất lượng xét xử phụ thuộc rất lớn vào chất lượng hoạt
động của cơ quan điều tra, cơ quan công tố và chất lượng hoạt động của các
68
cơ quan bổ trợ tư pháp. Lực lượng Công an nhân dân mà trực tiếp là lực
lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về GTĐB cần nâng cao hiệu quả hoạt động
thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ, tuân thủ các quy định của Bộ luật
TTHS trong quá trình điều tra vụ án, đảm bảo quá trình điều tra được tiến
hành một cách khách quan, toàn diện, kịp thời, chính xác. Đối với Kiểm sát
viên phải bám sát tiến độ điều tra, kiểm sát hoạt động điều tra, kịp thời phát
hiện những sơ hở, thiếu sót, đảm bảo hoạt động tố tụng được tiến hành đúng
theo quy định pháp luật.
3.5. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong lĩnh vực giao
thông đường bộ, an toàn công cộng, trật tự công cộng
Vấn đề tuyên truyền giáo dục cho mọi công dân hiểu pháp luật và có ý
thức chấp hành pháp luật trong đó có pháp luật trật tự an toàn giao thông là
vấn đề có tính chất tiền đề để xây dựng một trật tự xã hội mới. Bởi vì, đối
tượng chủ yếu cơ bản nhất của hoạt động giao thông quốc gia chính là quần
chúng nhân dân.
Cần phải xây dựng một chiến lược tuyên truyền pháp luật trật tự an
toàn giao thông ở tầm quốc gia trong đó có sự tham gia của các ngành văn
hóa thông tin, công an, giáo dục đào tạo, tư pháp... trang bị tri thức pháp luật
nói chung và pháp luật hình sự nói riêng, hướng dẫn các thói quen ứng xử tích
cực và chỉ tuân theo pháp luật. Bên cạnh đó, thông qua các hình thức như:
tuyên truyền miệng qua các buổi nói chuyện về trật tự an toàn giao thông tại
các cơ quan nhà nước, tổ chức quần chúng, địa bàn dân cư; tổ chức hội nghị,
hội thảo về chuyên đề an toàn giao thông; tuyên truyền, phổ biến các văn bản
liên quan đến quy chế dân chủ ở cơ sở, quy định dân chủ trong các văn bản
pháp luật, phường xã; phổ biến các quyền công dân, quyền con người, quyền
tự do, dân chủ của công dân trong Hiến pháp và pháp luật, nội dung cụ thể
của các quyền này; bồi dưỡng tình cảm, tâm lý pháp luật về việc tôn trọng
pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống, giữ gìn và bảo vệ an ninh trật
69
tự, an toàn xã hội; tổ chức các câu lạc bộ pháp luật về an toàn giao thông;
thành lập đội thông tin cổ động; mở các cuộc thi tìm hiểu về an toàn giao
thông; phát động thi đua, tổ chức các buổi ra quân, các chiến dịch bảo đảm an
toàn giao thông như tháng an toàn giao thông; phổ biến luật GTĐB qua các lễ
hội truyền thống, sinh hoạt văn hóa, phim, tranh ảnh, tờ rơi, pa nô, áp phích,
thông báo trên các bảng tin của Ủy ban nhân dân phường, xã, thôn, xóm.
Vấn đề pháp luật trật tự an toàn giao thông cần được đưa vào giảng dạy
ở các nhà trường và bắt đầu từ các nhà trẻ, trường mẫu giáo. Tăng cường giáo
dục và nâng cao chất lượng đào tạo lái xe, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục
pháp luật trật tự an toàn giao thông cho người đi bộ, học sinh, sinh viên... phù
hợp với điều kiện giao thông hiện đại, nâng cao trình độ và ý thức pháp luật,
tổ chức và tính giác ngộ của những người đi bộ, những người tham gia giao
thông. Cần đề ra các biện pháp giáo dục những thói quen bền vững của trẻ
em, học sinh, sinh viên về pháp luật an toàn giao thông.
3.6. Tổ chức mạng giao thông và điều khiển hoạt động giao thông
đường bộ, quản lý các phương tiện và người tham gia giao thông đường
bộ, cấp giấy phép lái xe, đăng ký phương tiện giao thông đường bộ
Tổ chức điều khiển thông đường bộ là một biện pháp công tác rất cơ
bản của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm đảm bảo trật tự an toàn
GTĐB và phòng ngừa tai nạn giao thông, chống ùn tắc giao thông. Chủ thể
chính tiến hành công tác này thuộc về lực lượng của hai ngành là Giao thông
vận tải và Công an.
Tổ chức điều khiển thông đường bộ bao gồm tổ chức mạng giao thông
đảm bảo trật tự an toàn và thông suốt; tổ chức hệ thống thông tin, tín hiệu
điều khiển hoạt động giao thông; chỉ huy điều khiển GTĐB và đô thị.
Nội dung cơ bản của biện pháp này là:
+ Phân làn, phân luồng, phân tuyến và thời gian đi lại cho người và
70
phương tiện tham gia giao thông trên đường bộ;
+ Quy định các đoạn đường cấm, đường một chiều, nơi cấm dừng, cấm
đỗ, cấm quay đầu, lắp đặt hệ thống báo hiệu đường bộ;
+ Thông báo khi có sự thay đổi về phân luồng, phân tuyến, thời gian đi
lại tạm thời hoặc lâu dài; thực hiện các biện pháp ứng cứu khi có sự cố bất
thường xảy ra và các biện pháp khác về đi lại trên đường bộ để đảm bảo giao
thông được thông suốt, an toàn;
+ Bố trí, sắp xếp hợp lý quá trình lưu thông để nâng cao hiệu quả sử
dụng phương tiện giao thông, khai thác tối đa năng lực vận tải và khả năng
thông xe tại các nút giao thông; giảm thời gian đình trệ, ô nhiễm môi trường,
hạn chế tối đa ùn tắc giao thông, tai nạn giao thông trên đường bộ.
Quản lý các phương tiện và người tham gia GTĐB, cấp giấy phép lái
xe, đăng ký phương tiện GTĐB. Đây là biện pháp quản lý hành chính nhà
nước công khai, do các cơ quan chức năng tiến hành trên cơ sở các quy định
của pháp luật, thể lệ hành chính của nhà nước để đăng ký, kiểm tra, kiểm soát
đối với phương tiện và người tham gia giao thông cũng như chấp hành luật
GTĐB nhằm nắm vững thực trạng phương tiện và người tham gia; góp phần
đắc lực cho công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đất nước.
Trong đó, đăng ký phương tiện giao thông cơ giới đường bộ là một nội dung
quan trọng được tiến hành qua nhiều bước như: cấp phát hồ sơ, hướng dẫn kê
khai biểu mẫu, tiếp nhận và kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ đăng ký, đối chiếu
kiểm tra thực tế phương tiện, cấp biển số và giấy chứng nhận đăng ký cho chủ
phương tiện... Việc đăng ký, quản lý phương tiện giao thông cơ giới đường bộ
không những xác định tư cách pháp lý cho chủ phương tiện đăng ký mà còn
xác định chính xác thực trạng kỹ thuật an toàn của phương tiện góp phần bảo
đảm trật tự an toàn giao thông, ngăn ngừa tội phạm lợi dụng phương tiện giao
thông để hoạt động, giúp nhà nước có định hướng đúng đắn trong chính sách
sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu phương tiện giao thông cho phù hợp với tình hình
71
hoạt động giao thông vận tải của đất nước trong từng thời kỳ.
3.7. Xây dựng và hoàn thiện quy hoạch kết cấu hạ tầng giao thông
đường bộ
Kết cấu hạ tầng giao thông là yếu tố cơ bản nhất tạo nên kết cấu hạ tầng
của một quốc gia. Do vậy, kết cấu hạ tầng giao thông cần được phát triển đi
trước một bước nhằm đáp ứng mọi nhu cầu giao thông của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng và hoàn thiện quy hoạch kết cấu
hạ tầng giao thông tại địa bàn tỉnh Bắc ninh nói riêng và trên toàn quốc nói
chung còn là tiền đề kỹ thuật để hạn chế các tai nạn giao thông cũng như tội
vi phạm quy định về tham gia GTĐB.
Quy hoạch kết cấu hạ tầng giao thông phải căn cứ vào chiến lược, quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh và phục vụ nhu cầu đi
lại của nhân dân. Phải lấy chiến lược phát triển lâu dài, toàn cục làm trung
tâm, mang tính ổn định cao. Đối với các đô thị cần quan tâm đồng bộ với quy
hoạch các công trình ngần và công trình hạ tầng khác. Quỹ đất dành cho xây
dựng kết cấu hạ tầng giao thông phải đảm bảo tỷ lệ thích hợp, đáp ứng yêu
cầu giao thông lâu dài. Quy hoạch phải công khai cho dân biết. Phát triển hệ
thống giao thông phải gắn với quy hoạch tổng thể các khu dân cư, các khu
công nghiệp, các khu du lịch vui chơi, giải trí một cách hợp lý. Phải kiểm toán
an toàn giao thông vận tải đối với các đường cải tạo, nâng cấp, làm mới và
phải coi kiểm toán an toàn giao thông vận tải đường bộ là thủ tục bắt buộc.
Làm tốt công tác kiểm toán sẽ loại trừ những yếu tố bất lợi, những sai lầm để
người tham gia có những yếu tố lợi nhất khi xử lý các tình huống giao thông.
Về phương tiện giao thông, phải nghiên cứu tổng thể xác định phương
tiện giao thông chủ lực ở từng vùng, miền, các đô thị theo hướng tăng phương
tiện công cộng, đặc biệt là xe buýt, hạn chế các phương tiện cá nhân, nhất là
mô tô. Đây là một trong những biện pháp có thể làm giảm tải lưu lượng xe để
tránh bớt hiện tượng ùn tắc và tai nạn giao thông nhất là ở các thành phố lớn.
72
Mạng lưới phương tiện vận tải công cộng cần phải được tăng cường mật độ,
tuyến phục vụ và số lượng phương tiện hoạt động trong ngày, đảm bảo đưa
hành khách đi từ nơi ở đến nơi làm việc và ngược lại một cách thuận lợi. Cơ
cấu phương tiện vận tải hành khách công cộng ngoài xe buýt phải gồm nhiều
loại khác với sức chở khác nhau như taxi, tàu điện... Thực hiện nghiêm quy
định về việc nhập phương tiện giao thông.
Để tăng cường xây dựng và hoàn thiện quy hoạch kết cấu hạ tầng giao
thông, theo chúng tôi cần tiến hành một số công việc sau đây:
- Xây dựng các tuyến đường tránh đi qua thành phố, thị xã;
- Xác lập mốc giới, hành lang an toàn GTĐB đi qua khu dân cư như vỉa
hè của thành phố;
- Quy định phần đường dành cho người đi bộ qua đường bằng các dải
phân cách cứng mềm;
- Phòng ngừa tai nạn giao thông ở các đoạn đường đèo, dốc;
- Phòng ngừa tai nạn giao thông ở nơi đường ngang qua đường sắt;
- Hạn chế tốc độ chạy xe ở những đoạn đường qua thành phố, thị trấn,
thị xã, khu dân cư, nơi thường xảy ra tai nạn.
3.8. Tăng cường kiểm tra, tuần tra, giám sát và phát hiện, xử lý kịp
thời mọi vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, xét xử nghiêm
minh tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ
Trong điều kiện nước ta hiện nay việc xử lý vi phạm pháp luật là biện
pháp rất quan trọng, mang lại hiệu quả pháp luật nhanh chóng đồng thời có
tác dụng giáo dục cao. Tuy vậy, cần lưu ý làm sao cho người vi phạm “tâm
phục, khẩu phục” nâng cao được ý thức của mình. Đặc biệt cần quan tâm, xử
lý nghiêm những cơ quan, cá nhân đại diện Nhà nước mà vi phạm pháp luật,
tiêu cực, gây mất lòng tin trong nhân dân.
Kiên quyết thiết lập ngay trật tự, kỷ cương an toàn giao thông trong
phạm vi cả nước. Tăng cường kiểm tra và xử lý nghiêm những hành vi vi
73
phạm, coi đây là những biện pháp quan trọng và hữu hiệu nhất để tạo thói
quen chấp hành pháp luật về an toàn giao thông của người tham gia giao
thông. Đồng thời nghiêm khắc xử lý đối với những cán bộ, chiến sĩ công an
có hành vi tiêu cực trong công tác thanh tra, kiểm soát, xử lý vi phạm và giải
quyết tai nạn giao thông.
Cùng với việc tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành nghiêm
chỉnh pháp luật an toàn giao thông, lực lượng cảnh sát giao thông cần tăng
cường công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý thật nghiêm khắc đối với các trường
hợp vi phạm an toàn giao thông. Đồng thời với việc sử dụng các phương tiện,
kỹ thuật để điều khiển giao thông, tuần tra và kiểm soát trật tự an toàn giao
thông, cần tăng cường lực lượng cảnh sát giao thông để kịp thời giải tỏa các
ùn tắc giao thông, xử lý nghiêm các vi phạm an toàn giao thông, nhất là vi
phạm của người đi bộ, người đi xe máy...
Hoạt động tuần tra là hoạt động công khai của lực lượng Cảnh sát giao
thông, Cảnh sát trật tự. Hoạt động này cần phải được tiến hành thường xuyên
trên các tuyến đường. Hoạt động tuần tra, kiểm soát có tác dụng nhiều mặt;
đặc biệt ở nước ta, mặt bằng dân trí chưa cao, ý thức tự giác chấp hành luật
lệgiao thông còn thấp thì việc có mặt của lực lượng này sẽ có tác dụng phòng
ngừa, hạn chế vi phạm; việc xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm sẽ tạo tâm
lý yên tâm cho những người tham gia hoạt động giao thông. Mặt khác, tuần
tra, kiểm soát giao thông còn có tác dụng răn đe, phòng ngừa các hành vi vi
phạm cũng như tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB. Thực tiễn đã chỉ ra
rằng, sự có mặt của Cảnh sát giao thông có tác động tâm lý rất lớn... làm giảm
đáng kể tình trạng vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải. Giải
pháp tăng cường các biện pháp tuần tra, kiểm soát trên các tuyến đường giao
thông vận tải cũng được nhiều nước trên thế giới thực hiện có hiệu quả.
Tổ chức sự phối kết hợp chặt chẽ, thường xuyên việc tuần tra, kiểm
soát và xử lý vi phạm của các lực lượng: Cảnh sát giao thông, Cảnh sát trật tự,
74
Thanh tra giao thông, Kiểm soát quân sự, tạo thành sức mạnh tổng hợp, để
phát hiện kịp thời cũng như xử lý kiên quyết mọi hành vi vi phạm các quy
định về an toàn giao thông vận tải. Để tránh chồng chéo hoặc bỏ trống trong
kiểm tra, xử lý, trước hết cần xem xét lại chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan này, phân rõ nhiệm vụ của từng cơ quan. Định kỳ hàng tháng, quý có sự
giao ban giữa các ngành dưới sự chủ trì của Ủy ban nhân dân các cấp để giải
quyết các vướng mắc nảy sinh.
Các vụ án về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB cần được điều
tra truy tố, xét xử nghiêm minh, nhất là các vụ tai nạn giao thông nghiêm
trọng. Cần chống khuynh hướng hòa giải dân sự để giải quyết các vụ tai nạn
giao thông gây chết người hoặc gây thương tích của những người tham gia
giao thông. Cơ quan Tòa án có thể đưa một số vụ án điểm về loại tội này đi
xét xử lưu động công khai và công bố kết quả xét xử trên các phương tiện
truyền thông đại chúng để tác động răn đe giáo dục cũng như hỗ trợ cho nhân
dân tham gia đấu tranh phòng, chống các vi phạm các quy định về an toàn
giao thông vận tải. Đối với những trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng, thái độ khai báo ngoan cố, không chịu tự nguyện khắc phục hậu quả do
hành vi phạm tội gây ra, tái phạm hoặc phạm tội nhiều lần thì Tòa án cần phải
áp dụng mức án cao trong khung hình phạt và không cho hưởng án treo. Cùng
với việc xét xử đúng, Tòa án còn cần phải phát hiện thiếu sót hoặc những
hành vi khác trong công tác quản lý người tham gia giao thông, quản lý
phương tiện giao thông, công tác tổ chức điều hành hoạt động giao thông vận
tải... là nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm. Trên cơ sở đó, Tòa án yêu
cầu các cơ quan, tổ chức liên quan đến an toàn giao thông vận tải áp dụng các
biện pháp cần thiết để khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tội phạm.
3.9. Các giải pháp khác
Chú trọng đầu tư các trang thiết bị tại các phòng hỏi cung bị can theo
75
quy định của BLTTHS 2015 đảm bảo tính khách quan, chính xác trong hoạt
động thu thập chứng cứ, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của bị can. Đầu tư
các trang thiết bị tại các phòng xử án theo quy định tại Thông tư số
01/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017, tạo sự trang nghiêm, chất lượng, hiệu
quả, bảo đảm an ninh, trật tự phiên tòa.
Đổi mới xét hỏi, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa theo yêu
cầu cải cách tư pháp. Kết quả tranh tụng tốt sẽ là tiền đề, là cơ sở cho việc
nâng cao chất lượng các phán quyết của Tòa án. Muốn vậy, trước tiên phải
nâng cao năng lực của Kiểm sát viên thông qua đào tạo, bồi dưỡng, về lâu dài
phải quan tâm đầu tư chocác các cơ quan bổ trợ tư pháp và cán bộ của các cơ
quan đó, đặc biệt là đối với luật sư.
Tăng cường sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng và các cơ quan hữu quan trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ
án vi phạm quy định về tham gia GTĐB.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính - tư pháp, bảo đảm công khai,
minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân, các phương tiện thông tin
đại chúng thực hiện quyền giám sát các hoạt động của cơ quan điều tra, VKS,
Tòa án, từ đó góp phần nâng cao hoạt động áp dụng pháp luật hình sự về Tội
vi phạm quy định về tham gia GTĐB.
Xây dựng án lệ trong xét xử các vụ án vi phạm quy định về tham gia
GTĐB: Khoản 3 Điều 104 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân
tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất
pháp luật trong xét xử”. Quy định về nhiệm vụ của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao, tại Điểm c khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức TAND năm
2014 ghi rõ: “Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính
chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để
các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”. Việc áp dụng án lệ trong xét
76
xử các vụ án vi phạm quy định về tham gia GTĐB ngoài ý nghĩa giải quyết
một vụ án cụ thể còn thiết lập ra một tiền lệ để xử những vụ án tương tự sau
này, do đó, sẽ tạo bình đẳng trong việc xét xử các vụ án giống nhau, tiết kiệm
công sức của các Thẩm phán, Người tham gia tố tụng, Cơ quan tiến hành tố
tụng, tạo ra sự công bằng trong xã hội.
Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương cần tăng cường công tác
lãnh đạo, chỉ đạo, giám sát đối với các lực lượng được giao nhiệm vụ đấu
77
tranh phòng chống tội phạm.
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở khái quát lý luận về Tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB và từ thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt về Tội vi phạm
quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
giai đoạn 2014-2018, tác giả đã đưa ra các biện pháp bảo đảm áp dụng đúng
pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị
xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Các biện pháp được đưa ra bao gồm 05 nhóm
giải pháp chính: Hoàn thiện pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về
tham gia GTĐB; hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy
định về tham gia GTĐB; tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội
vi phạm quy định về tham gia GTĐB; nâng cao năng lực của cán bộ áp dụng
pháp luật hình sự đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB; các giải
pháp khác.
Trên đây là những nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu
quả việc áp dụng pháp luật hình sự trong việc giải quyết các vụ án vi phạm
quy định về tham gia GTĐB. Các cơ quan tiến hành tố tụng cần tổ chức thực
hiện một cách đồng bộ, chính xác và hiệu quả các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố và xét xử để giải quyết kịp thời, chính
xác, phù hợp và đúng pháp luật các vụ án nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác
đấu tranh phòng chống các tội phạm về GTĐB nói chung và Tội vi phạm quy
78
định về tham gia GTĐB nói riêng.
KẾT LUẬN
Trong những năm gần đây, tội phạm về GTĐB nói chung và tội phạm
vi phạm quy định về tham gia GTĐB nói riêng trở thành vấn đề toàn cầu.
GTĐB đang là mối hiểm họa đối với từng gia đình, cộng đồng và xã hội, hậu
quả do GTĐB gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế, trật tự an toàn xã
hội. Phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm về GTĐB là một vấn đề quan trọng,
phức tạp và mang tính lâu dài. Đó không chỉ là vấn đề của một tổ chức, đoàn
thể hay cá nhân mà của toàn xã hội. Liên quan đến nhiều chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân.
Phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh với tội phạm về GTĐB là yêu cầu cấp
bách đối với mỗi cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức và toàn xã hội.
Thực tiễn giải quyết các vụ án về Tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB những năm gần đây cho thấy việc áp dụng Điều 260 BLHS 1999 và
các văn bản hướng dẫn áp dụng còn một số vướng mắc cần tiếp tục được
nghiên cứu, hoàn thiện.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu làm rõ lý luận và thực trạng áp
dụng Điều 260 BLHS 2015 về Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên
địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam để từ đó đưa ra các giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với Tội vi phạm
quy định về tham gia GTĐB là một yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sâu sắc. Luận văn đặt ra yêu cầu nghiên cứu và giải quyết những nội
dung cơ bản sau:
Thứ nhất, luận văn đã tiếp cận, khái quát, đưa ra có hệ thống những vấn
đề lý luận và pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB
quy định tại Điều 260 BLHS 2015, khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt
79
Nam về Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, phân tích khái niệm và các
dấu hiệu pháp lý hình sự, hình phạt của Tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB.
Thứ hai, luận văn đã phân tích những vấn đề lý luận về định tội danh và
quyết định hình phạt đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB. Đồng
thời khảo sát, đánh giá thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với
Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB tại trên bàn thị xã Điện Bàn giai
đoạn 2014-2018; qua đó đã tiến hành đánh giá những ưu điểm, rút ra những
hạn chế thiếu sót và nghiên cứu, chỉ rõ các nguyên nhân căn bản của những
hạn chế, thiếu sót đó, làm cơ sở đề ra các giải pháp.
Thứ ba, trên cơ sở khảo sát, đánh giá thực tiễn định tội danh và quyết
định hình phạt đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn
thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, luận văn đã đưa ra các biện pháp bảo đảm
áp dụng đúng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB
trên địa bàn cả nước nói chung và thị xã Điện Bàn nói riêng. Những giải pháp
được đề cập tương đối cụ thể, tuy chưa toàn diện nhưng là những vấn đề cơ
bản và cần thiết để giúp cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc đấu tranh,
phòng ngừa tội phạm vi phạm quy định về tham gia GTĐB đặc biệt là vấn đề
định tội danh và quyết định hình phạt một cách kịp thời, đúng người, đúng tội,
đúng hình phạt cũng như trên cơ sở nguyên tắc nhân đạo của pháp luật Hình
80
sự.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII (2012), Chỉ thị số 18-CT/TW
ngày 04/09/2012 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
bảo đảm TTATGT đường bộ đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục
ùn tắc giao thông.
2. Báo cáo thống kê tình hình tội phạm năm 2019 ngày 27/12/2019 của Tòa
án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
3. Bộ Công an (2010), Những giải pháp tăng cường công tác đảm bảo trật
tự an toàn GTĐB của lực lượng Cảnh sát giao thông giai đoạn 2001 -
2010, Đề tài cấp bộ, Hà Nội.
4. Bộ Công An (2011), Thông tư số 76/2011/TT-BCA ngày 22/11/2011 về
quy định phân công trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong công tác
điều tra, giải quyết tai nạn giao thông của lực lượng cảnh sát nhân dân.
5. Phạm Văn Beo (2010), Luật Hình sự Việt Nam (quyển 2 - Phần các tội
phạm), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Chính phủ (2007), Nghị quyết số 32/2007/NQ-CP ngày 29/6/2007 của
Chính phủ về các giải pháp kiềm chế gia tăng và tiến tới giảm dần tai
nạn giao thông và ùn tắc giao thông.
7. Chính phủ (2019), Nghị định số 100/NĐ-CP ngày 30/12/2019 quy định
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường
bộ và đường sắt, Hà Nội.
8. Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (1976),
Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/03/1976 quy định các tội phạm và hình
phạt.
9. Lê Cảm (2001), Giáo trình luật hình sự (Phần chung), Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nôi.
10. Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự
(Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
11. Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
12. Lê Văn Cảm, Trịnh Quốc Toản (2004), Định tội danh: Lý luận, hướng
dẫn mẫu và hệ thống 350 bài tập thực hành, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
13. Hoàng Minh Tiến Dũng (2016), Tội vi phạm quy định về TGGTĐB trên
địa bàn tỉnh Lai Châu, Luận văn thạc sỹ, Học viện khoa học xã hội Việt
Nam, Hà Nội.
14. Nguyễn Đắc Dũng (2011), Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB
trong Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn xét xử tại địa bàn tỉnh
Bắc Ninh), Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội, tr.88.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, Hà Nội.
17. Đinh Bích Hà (2007), BLHS nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Nxb
Tư pháp, Hà Nội, tr.83-93.
18. Đỗ Đức Hồng Hà, (2014), Hỏi - Đáp pháp luật hình sự Việt Nam, NXB
Tư pháp.
19. Hà Mạnh Hà (2015), Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận
Đống Đa, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa
học xã hội.
20. Nguyễn Ngọc Hòa (2010), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Chương
XXV - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (Tập II),
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
21. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2004), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr.33.
22. Huỳnh Quốc Hùng (2007), Một số vấn đề về định tội và định khung tăng
nặng trong các vụ án vi phạm quy định về tham gia GTĐB, Tạp chí Tòa
án nhân dân, số 9/2007, tr.35.
23. Khoa Luật - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (1999), Giáo
trình Tội phạm học, Hà Nội.
24. Nguyễn Đình Lộc (2000), Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1999 và nhiệm vụ thể chế hóa về mặt nhà nước
chính sách hình sự của Đảng trong thời kỳ đổi mới, Tài liệu Hội nghị
Tập huấn chuyên sâu Bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội.
25. Uông Chu Lưu (Chủ biên) (2008), Bình luận khoa học BLHS Việt Nam
năm 1999 (tái bản có sửa chữa, bổ sung), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
26. Một số văn bản pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an
ninh trật tự (1997), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
27. Một số văn bản pháp quy về quản lý phương tiện và người tham gia cơ
giới đường bộ (1996), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
28. Đinh Văn Quế (2005), Bình luận khoa học chuyên sâu BLHS - Phần các
tội phạm, Tập VII - Các tội xâm phạm quy định về an toàn giao thông,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2005.
29. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận chuyên sâu Bộ luật hình sự, tập VI:
Các tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
30. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
31. 38. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Quốc hội (2008), Luật giao thông đường bộ, Nxb Chính trị quốc gia Hà
Nội.
33. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
34. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
35. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia Hà
Nội.
36. Quốc hội (2019), Luật Phòng chống tác hại của bia, rượu, Hà Nội.
37. Hồ Sỹ Sơn (2009), Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam,
Hà Nội.
38. Hồ Sỹ Sơn (2018), Luật Hình sự so sánh, Học viện khoa học xã hội Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia sự thật.
39. Trịnh Quốc Toản (2011), Hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
41. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Bộ luật hình sự Thụy Điển, Nxb
CAND, Hà Nội.
42. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
43. Phùng Thế Vắc, Trần Văn Luyện, Phạm Thanh Bình, Nguyễn Đức Mai,
Nguyễn Sĩ Đại, Nguyễn Mai Bộ (2001), Bình luận khoa học Bộ luật hình
sự 1999 (Phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
44. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp Hà Nội.
45. Võ Khánh Vinh (2006), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
46. Võ Khánh Vinh (2014), Luật Hình sự Việt Nam phần các tội phạm, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
47. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2002), Giáo trình luật hình sự Việt Nam -
Phần chung, Đại học Huế - Trung tâm đào tạo từ xa, Nxb Công an nhân
dân.
48. Võ Khánh Vinh, “Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần chung”
(2014), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
49. Võ Khánh Vinh, “Lý luận chung về định tội danh” (2013), Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
50. 49.http://www2.hvcsnd.edu.vn/vn/Acedemy/Tin-An-toan-giao-
thong/207/4357/Tinh-hinh-tai-nan-giao-thong-tren-the-gioi-trong-
nhung-nam-gan-day.aspx
51. https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%87n_B%C3%A0n