VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN SINH

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG

ĐƯỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN,

TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN SINH

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG

ĐƯỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN,

TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số : 8 38 01 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. PHẠM VĂN TỈNH

HÀ NỘI, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự

hướng dẫn của PGS.TS Phạm Văn Tỉnh. Các số liệu, tài liệu, kết quả khảo sát

nêu trong luận văn là trung thực, phản ánh đúng đắn số liệu thực tiễn và chưa

từng được công bố một cách đầy đủ trong bất kỳ công trình nào. Tài liệu tham

khảo trong luận văn được trích dẫn từ các nguồn một cách đầy đủ và chính

xác, do đó, luận văn đảm bảo tính chân thực, khoa học, pháp lý của một công

trình nghiên cứu.

Quảng Nam, ngày tháng năm 2020

Tác giả luận văn

Trần Văn Sinh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO

THÔNG ĐƯỜNG BỘ ..................................................................................... 8

1.1. Một số vấn đề lý luận về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ ............................................................................................................ 8

1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ ......................................................................... 21

CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT

HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO

THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH

QUẢNG NAM ............................................................................................... 37

2.1. Khái quát thực tiễn xét xử tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam .................... 37

2.2. Định tội danh đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam .......................................... 38

2.3. Quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam ............................... 42

2.4. Nhận xét, đánh giá .................................................................................... 44

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT

HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO

THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH

QUẢNG NAM ............................................................................................... 59

3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ ............................................................................................... 59

3.2. Hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ .................................................................................. 61

3.3. Tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ ......................................................................... 64

3.4. Nâng cao năng lực của cán bộ áp dụng pháp luật hình sự đối với Tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ........................................... 66

3.5. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong lĩnh vực giao thông

đường bộ, an toàn công cộng, trật tự công cộng ............................................. 69

3.6. Tổ chức mạng giao thông và điều khiển hoạt động giao thông đường bộ,

quản lý các phương tiện và người tham gia giao thông đường bộ, cấp giấy

phép lái xe, đăng ký phương tiện giao thông đường bộ .................................. 70

3.7. Xây dựng và hoàn thiện quy hoạch kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ

......................................................................................................................... 72

3.8. Tăng cường kiểm tra, tuần tra, giám sát và phát hiện, xử lý kịp thời mọi

vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, xét xử nghiêm minh tội vi phạm

các quy định về tham gia giao thông đường bộ .............................................. 73

3.9. Các giải pháp khác ................................................................................... 75

KẾT LUẬN .................................................................................................... 79

TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ

1 BLHS Bộ luật Hình sự

2 BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự

3 TAND Tòa án nhân dân

4 TNHS Trách nhiệm hình sự

5 VKSND Viện kiểm sát nhân dân

6 GTĐB Giao thông đường bộ

7 CTTP Cấu thành tội phạm

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu Tên bảng Trang bảng

Thống kê số vụ án và số bị cáo xét xử sơ thẩm về Tội vi

2.1 phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã 37

Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 đến năm 2018

Tỷ lệ xét xử sơ thẩm các vụ án và bị cáo về Tội vi phạm

quy định về tham gia GTĐB so với các tội phạm về 2.2 41 GTĐB và các tội phạm khác trên địa bàn thị xã Điện

Bàn, tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 đến năm 2018

Cơ cấu xét theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm Tội

2.3 vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã 43

Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 đến năm 2018

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Vấn đề tai nạn GTĐB hiện nay đã và đang trở thành mối hiểm họa đối

với các nước trên thế giới, để lại hậu quả tổn thất không nhỏ đối với toàn xã

hội. Theo báo cáo năm 2019 của Tổ chức y tế Thế giới thì mỗi năm, trên thế

giới có khoảng 1,24 triệu người chết và 50 triệu người bị thương do tai nạn

GTĐB.[49] Ở Việt Nam, tai nạn và các vấn đề về GTĐB đã trở thành vấn nạn

kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt các vụ án giao thông gây thiệt

hại nghiêm trọng về sức khỏe, tính mạng và tài sản, đã gây nhiều bức xúc

trong cộng đồng dân cư, trở thành mối quan tâm lớn của của các cơ quan chức

năng. Đáng chú ý, tội phạm lĩnh vực GTĐB ngày càng gia tăng và diễn biến

phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường, rất khó kiểm soát.

Trước tình hình đó, Ban Bí thư khóa XI đã ra Chỉ thị 18-CT/TƯ ngày

04-9-2012 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo

TTATGTĐB, đường thủy nội địa, đường sắt và khắc phục sự ùn tắc giao

thông. Trong đó, xác định công tác bảo đảm TTATGT là một nội dung của

công tác bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Ngày 19 tháng 02

năm 2019, Chính phủ ra Nghị quyết 12/NQ-CP về tăng cường bảo đảm trật tự

an toàn giao thông và chống ùn tắc giao thông giai đoạn 2019 – 2021 đã đề ra

các nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp cho một số vấn đề giao thông ở Việt

Nam, nhấn mạnh kết hợp bảo vệ an ninh trật tự với phòng chống tội phạm.

Thị xã Điện Bàn thuộc tỉnh Quảng Nam, có vị trí ở phía bắc giáp quận

Ngũ Hành Sơn và huyện Hòa Vang (Đà Nẵng), ở phía nam giáp huyện Duy

Xuyên và ở phía tây giáp huyện Đại Lộc (Quảng Nam), ở phía đông giáp biển

Đông. Điện Bàn là thị xã có diện tích là 214,28 km², dân số là 245.013 người

1

(2019). Mật độ dân số đạt 1.143 người/km².[50]

Điện Bàn có 20 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc với rất nhiều tiềm

năng phát triển kinh tế như sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí, chế tạo thiết bị

điện, thương mại dịch vụ, du lịch… Là đầu mối giao thông giữa Quảng Nam

– Đà Nẵng và được xem là trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch và

dịch vụ khu vực Bắc Quảng Nam, thị xã Điện Bàn là nơi xảy ra khá nhiều tội

phạm trong lĩnh vực GTĐB, đặc biệt là tội phạm vi phạm quy định về tham

gia GTĐB. Chỉ tính riêng năm 2019, trên địa bàn toàn thị xã có đến 17 bị

cáo/17 vụ bị đưa ra xét xử về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB.[2]

Trong tình hình hiện nay của nước ta nói chung và của tỉnh Quảng Nam

nói riêng, trong đó có thị xã Điện Bàn, tội phạm về GTĐB, đặc biệt là tội vi

phạm quy định về tham gia GTĐB đang gây bức xúc cho toàn xã hội. Điều

này đến từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó yếu tố hệ thống pháp luật

trong lĩnh vực giao thông, đặc biệt là pháp luật về hình sự có tác động đáng

kể. Nhiều năm qua, các cơ quan tư pháp và cơ quan có chức năng bảo vệ pháp

luật đã hoạt động tích cực trong đấu tranh ngăn chặn, xử lý các tội phạm ở

lĩnh vực giao thông. Thực tiễn việc áp dụng các quy định pháp luật hình sự về

các tội vi phạm quy định trong tham gia GTĐB đã cho thấy rằng: còn nhiều

vướng mắc và bất cập, việc áp dụng giải quyết ở không ít vụ án còn gặp sự

mâu thuẫn, xét xử còn oan sai, bỏ lọt tội phạm, trong đó có thị xã Điện Bàn

(Quảng Nam). Hơn nữa, mặc dù quy định của Bộ luật Hình sự 2015 đã có sự

sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện về tội vi phạm quy định trong tham gia GTĐB,

song khi áp dụng thì vẫn còn có sự chưa thống nhất cũng như chưa hoàn toàn

phù hợp thực tiễn, nên cần tiếp tục nghiên cứu để tổng kết.

Theo đó, việc nghiên cứu làm rõ vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định

trong tham gia GTĐB và thực tiễn xét xử các tội vi phạm này chẳng những có

ý nghĩa quan trọng cả về lý luận, pháp lý và thực tiễn, mà còn là có tính cấp

2

thiết. Đây là những lý do chủ yếu mà tác giả chọn đề tài “Tội vi phạm quy

định về tham gia GTĐB theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thị xã

Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn thạc sỹ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Ở Việt Nam, có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến tội vi

phạm quy định về tham gia GTĐB nhưng ở các giác độ khác nhau. Trong đó,

phải kể đến: Bùi Kiến Quốc, Các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội vi

phạm quy định về tham gia GTĐB ở Thủ đô Hà Nội, Luận án tiến sĩ luật học,

Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001; Nguyễn Đắc Dũng, Tội vi phạm các quy

định về tham gia GTĐB trong luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử tại địa

bàn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ luật học, 2011; Tài liệu Bình luận khoa

học chuyên sâu BLHS - Phần tội phạm, Tập 6 – Những tội xâm phạm an toàn

công cộng và trật tự công cộng của ThS. Đinh Văn Quế, Nhà xuất bản Thành

phố Hồ Chí Minh, năm 2005; GS. TS. Võ Khánh Vinh (năm 2001), Giáo

trình Luật hình sự Việt Nam, Chương 10 - Những tội xâm phạm an toàn công

cộng và trật tự công cộng (Phần các tội phạm), Nhà xuất bản Công an nhân

dân, Hà Nội; GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa (năm 2010), Giáo trình Luật hình sự

Việt Nam (Tập 2), Chương 25 - Những tội xâm phạm an toàn công cộng và

trật tự công cộng, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội; TS. Phạm Văn

Beo (năm 2010), Luật hình sự Việt Nam (Quyển II - Phần tội phạm), Bài 10 -

Những tội xâm phạm an toàn công cộng và trật tự công cộng, Nhà xuất bản

Chính trị quốc gia, Hà Nội; TS. Cao Thị Oanh (chủ biên), Chương X - Các tội

xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Nxb Giáo dục, Hà Nội,

2010; v.v...

Ngoài ra, có một số bài viết nghiên cứu sâu về tội danh cụ thể, xác định

các lỗi liên quan đến tội vi phạm quy định trong tham gia GTĐB, điển hình

như: Bài viết Xác định lỗi trong vụ án tai nạn giao thông của ThS. Lê Văn

Luật, đăng Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6 năm 2005; Bài viết Một số vấn đề

3

về định tội và định khung tăng nặng trong các vụ án vi phạm quy định về

tham gia GTĐB của ThS. Huỳnh Quốc Hùng, đăng Tạp chí Tòa án nhân dân,

số 9năm 2007; v.v...

Tuy vậy, có thể thấy rằng các công trình nghiên cứu trên có phạm vi

tương đối rộng, những tội xâm phạm an toàn GTĐB hầu như còn được đề cập

khá riêng rẽ đối với từng tội thông qua bình luận các dấu hiệu pháp lý hình sự

và hình phạt; một số nghiên cứu xem xét dưới góc nhìn tội phạm học về nhóm

tội phạm xâm phạm an toàn công cộng và trật tự công cộng trong BLHS Việt

Nam 1999. Bên cạnh đó, vẫn chưa có luận văn thạc sĩ nào đi sâu nghiên cứu

một cách độc lập về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trong BLHS

2015. Hơn nữa, cũng chưa có công trình nào đánh giá thực tiễn áp dụng trên

địa bàn thị xã Điện Bàn (Quảng Nam), qua đó làm rõ những vướng mắc, tồn

tại để đề xuất giải pháp về nâng cao hiệu quả áp dụng. Tuy thế, nhiều công

trình nêu trên vẫn là các tài liệu tham khảo hữu ích để tác giả kế thừa trong

nghiên cứu thực hiện luận văn này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là góp phần hoàn thiện quy định của

pháp luật về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trong BLHS Việt Nam

hiện hành và tăng cường việc hướng dẫn áp dụng quy định này trong thực tiễn

tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Từ mục đích nghiên cứu của đề tài nêu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu

cần làm rõ là:

- Làm rõ khái niệm tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, xác định

rõ dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt của tội phạm ấy trong BLHS 2015.

- Nghiên cứu và đánh giá quá trình áp dụng quy định của BLHS 2015

về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB từ thực tiễn của thị xã Điện Bàn

4

(Quảng Nam); phân tích những vướng mắc, tồn tại và xác định nguyên nhân

của nó.

- Đưa ra giải pháp cụ thể hoàn thiện BLHS về tội vi phạm quy định về

tham gia GTĐB và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là xác định sự phù hợp giữa quy

định của pháp luật hình sự (hiện hành) và thực tế tình hình vi phạm quy định

về tham gia GTĐB thông qua thực tiễn áp dụng pháp luật tại thị xã Điện Bàn,

tỉnh Quảng Nam, tức là luận văn đi tìm bản chất pháp lý của tội vi phạm quy

định về tham gia GTĐB.

4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài

- Về nội dung, Luận văn tiến hành thực hiện ở góc nhìn khoa học luật

hình sự với chuyên ngành là Luật Hình sự và Tố tụng hình sự;

- Về tội danh, luận văn chỉ nghiên cứu tội vi phạm quy định về tham

gia GTĐB được quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015, trong đó chủ yếu đề

cập đến thực tiễn áp dụng quy định về tội này trong giai đoạn xét xử;

- Về không gian địa bàn nghiên cứu của đề tài, đó là thị xã Điện Bàn;

- Về thời gian, luận văn sử dụng các số liệu thực tiễn được thu thập

trong thời gian từ 2014 đến 2018.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-

Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các

quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tội phạm và hình phạt, về đường lối,

chính sách đấu tranh chống tội phạm bằng pháp luật hình sự.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Những phương pháp cụ thể được sử dụng trong nghiên cứu, chủ yếu là:

5

lịch sử, phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh; v.v... để luận chứng làm rõ

vấn đề nghiên cứu.

Mặt khác, để thực hiện nghiên cứu đề tài, tác giả đã tiến hành đi khảo

sát tìm hiểu thực tiễn về điều tra, truy tố và xét xử của hệ thống các Viện kiểm

sát, cơ quan điều travà TAND thị xã Điện Bàn (Quảng Nam), nghiên cứu hồ

sơ của một số vụ án nhằm làm cơ sở thực tiễn để minh họa và luận chứng cho

nghiên cứu, qua đó đã đề xuất những giải pháp khá cụ thể để bảo đảm áp

dụng.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần hệ thống hóa làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về

tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, qua đó, đề xuất một số nội dung để

đóng góp vào việc hoàn thiện các quy định của BLHS về tội vi phạm quy định

về tham gia GTĐB và các quy định khác có liên quan. Bên cạnh đó, kết quả

luận văn có thể cung cấp làm vốn tài liệu để có thể tham khảo trong hoạt động

nghiên cứu và đào tạo về khoa học pháp lý hình sự.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Một số đề xuất, kiến nghị nêu trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu

quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung cũng như tội vi phạm

quy định về tham gia GTĐB nói riêng và hoàn thiện quy định BLHS về tội vi

phạm quy định về tham gia GTĐB ở khía cạnh lập pháp, cũng như việc áp

dụng chúng trong thực tiễn.

7. Kết cấu của luận văn

Bên cạnh các kết luận, mở đầu cũng như tài liệu tham khảo, luận văn có

cơ cấu nội dung bao gồm 3 chương sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội

vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ;

Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội vi

phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng

6

Nam;

Chương 3. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với

tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh

7

Quảng Nam.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG

ĐƯỜNG BỘ

1.1. Một số vấn đề lý luận về Tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ

1.1.1. Khái niệm Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ

Tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực, “gắn liền với sự xuất hiện

của Nhà nước và pháp luật, cũng như kể từ ngay khi xã hội có sự phân chia

thành giai cấp đối kháng” [10, tr. 287]. Tội phạm mang bản chất là một hiện

tượng pháp lý. Nói rõ hơn, tội phạm là hiện tượng tiêu cực mang thuộc tính xã

hội - pháp lý với đặc tính là có sự chống đối lại đối với Nhà nước và xã hội, đi

ngược lại lợi ích và giá trị chung của cộng đồng, làm phá vỡ trật tự xã hội,

xâm phạm tới các quyền và lợi ích hợp pháp của con người.

Tội phạm là chế định quan trọng trong khoa học luật hình sự. Về bản

chất, chế định tội phạm đã thể hiện rõ nét các đặc điểm chính trị của xã hội

cũng như những đặc điểm pháp lý của luật hình sự [9, tr. 157]. Thông qua đó,

chúng ta nhận biết hành vi nào là tội phạm và không phải là tội phạm, trở

thành nguyên tắc để phân biệt tội phạm và vi phạm pháp luật khác. Pháp luật

hình sự của Việt Nam đã khái quát tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội

xâm phạm đến các khách thể được BLHS quy định và bảo vệ.

Tuy nhiên, để đánh giá được tính nguy hiểm cho xã hội là vấn đề cần

được làm sáng tỏ nếu không dễ rơi vào chủ quan, duy ý chí khi quy định tội

phạm. Các tiêu chí để xác định tính nguy hiểm cho xã hội ở mức độ tội phạm

gồm: Tính chất của các quan hệ xã hội bị xâm hại; hậu quả do hành vi phạm

8

tội gây ra; tính chất và mức độ lỗi; các yếu tố đặc trưng cho hành vi phạm tội

như thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, công cụ phạm tội. Hơn nữa, trong BLHS

nước ta còn đưa ra yếu tố nhân thân của người phạm tội, mà nhà lập pháp

thường coi đó là một trong các yếu tố làm gia tăng về mức độ nguy hiểm xã

hội của hành vi. Song, vấn đề này đang có sự không phù hợp với nguyên tắc

một người không thể bị xử phạt hình sự về nhân thân xấu của họ.

Tội phạm cũng được thể hiện qua các dấu hiệu, đó là: Năng lực trách

nhiệm hình sự của những người thực hiện hành vi nguy hiểm xã hội- đây là

đặc tính quan trọng cần làm rõ khi quy định khái niệm về tội phạm. Bởi năng

lực trách nhiệm hình sự của con người, nó được thể hiện ở khả năng của con

người thực hiện hành vi nguy hiểm xã hội (nhận thức và sự điểu khiển được

hành vi của mình). Như vậy cho thấy, dù là gây thiệt hại cho quan hệ xã hội

nào đó song nếu một khi người thực hiện hành vi nguy hiểm lại không nhận

thức được hành vi, không điều khiển được hành vi thì coi như không phải là

hành vi tội phạm.

Tính có lỗi: Tội phạm luôn là hành vi có lỗi. Dù vậy Bộ luật Hình sự có

lúc xem các hành vi không có lỗi lại là tội phạm (tức là nguyên tắc quy tội

khách quan: chỉ căn cứ vào hành vi mà buộc tội); trong khi đó tội phạm là kết

quả tổng hợp của những yếu tố khách quan và chủ quan. Yếu tố khách quan là

các hành vi, yếu tố chủ quan là lỗi. Lỗi vốn dĩ có một quá trình để hình thành

nên kể từ khi phát sinh nhu cầu, động cơ, mục đích ý đồ, nhận thức về yếu tố

khách quan và chủ quan của hành vi và sau cùng là đi đến lựa chọn và quyết

định thực hiện hành vi phạm tội.

Như vậy, tội phạm được hiểu là hành vi nguy hiểm cho xã hội được

quy định trong BLHS, có lỗi, do người có năng lực TNHS thực hiện xâm

phạm đến mối quan hệ xã hội được luận hình sự bảo vệ (Điều 8 của BLHS).

Tội phạm trong định nghĩa lập pháp được các nhà làm luật nước ta ghi

nhận mới bao gồm bốn đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản. Nhìn một cách tổng quan

9

chúng ta có thể thấy nội dung khái niệm của tội phạm trong luật hình sự

dường như đã được quy định đầy đủ, khoa học và việc nhận thức nội dung

này của khái niệm đã có sự thống nhất. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu và phân

tích một cách sâu sắc những đặc điểm cụ thể thuộc nội dung của khái niệm tội

phạm cũng như xem xét mối liên hệ giữa chúng thì thấy rằng còn có điều cần

phải bàn. Cụ thể, theo GS.TSKH Lê Văn Cảm, khái niệm này còn thiếu một

đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản là tội phạm do người đủ tuổi chịu TNHS thực

hiện. Các dấu hiệu này cùng với những dấu hiệu cơ bản của tội phạm đã được

những nhà lập pháp ghi nhận thì mới thể hiện căn bản trên 03 khía cạnh tương

ứng với 5 dấu hiệu cơ bản của tội phạm, mà cụ thể đó là: 1) Khía cạnh khách

quan với nội dung: tội phạm là hành vi nguy hiểm xã hội; 2) Khía cạnh chủ

quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực TNHS và đã có đủ tuổi chịu

TNHS thực hiện có lỗi; 3) Khía cạnh pháp lý với hình thức: tội phạm là hành

vi trái luật pháp hình sự [9, tr. 289]. Chúng tôi tán thành với quan điểm này,

và nhấn mạnh thêm đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản thứ nhất - tội phạm là hành vi

nguy hiểm cho xã hội, đồng thời phải xâm phạm đến các khách thể được luật

hình sự xác lập và bảo vệ (đó là: chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn

lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm tới chế độ kinh tế, chế độ chính trị, nền an ninh,

quốc phòng, văn hoá, TTATXH, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm

phạm đến nhân phẩm, danh dự, tự do, tính mạng, sức khoẻ, tài sản, các quyền

và lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm đến các lĩnh vực khác của

trật tự pháp luật XHCN).

Từ cơ sở này, tiếp cận khái niệm về Tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ, xét về bản chất, là khái niệm về một tội phạm cụ thể, là

sự cụ thể hóa khái niệm tội phạm nói trong lĩnh vực cụ thể là giao thông

đường bộ và nhà làm luật đưa vào trong đó vạch giới hạn là các chủ thể tham

gia vào quan hệ giao thông đường bộ đó. Việc đặt ra vạch giới hạn này cần

10

phải nói đến quy định BLHS năm 1999 khi nó chỉ dừng lại ở việc quy định

“Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện GTĐB”. Theo đó, phạm vi

điều chỉnh của điều luật trước kia (BLHS năm 1999) bị hẹp hơn, chỉ bao gồm

các chủ thể điều khiển phương tiện, còn BLHS năm 2015 lại điều chỉnh cả

chủ thể tham gia, tất nhiên bao gồm cả người đi bộ. Đó là quá trình cấp tiến

về tư duy và cả lập pháp. Trước đây, “vi phạm quy định về tham gia GTĐB,

đó là những hành vi vi phạm các quy định về ATGTĐB gây ra thiệt hại đến

tính mạng hoặc gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, sức khỏe của người

khác” [9, tr. 13]. Quan điểm này mới chỉ nêu định nghĩa hành vi chứ chưa làm

rõ khái niệm tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, nhất là thiếu dấu hiệu

chủ thể của tội phạm. Mặt khác, BLHS năm 2015 đã mở rộng chủ thể điều

chỉnh nên cần có sự mở rộng nội hàm khái niệm loại tội phạm này. Theo góc

nhìn của khoa học luật hình sự, tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB là

khái niệm phải được thể hiện đầy đủ ở 03 khía cạnh tương ứng với 05 dấu

hiệu cơ bản như đã nêu trên. Do đó, theo tác giả, khái niệm tội phạm này

được định nghĩa như sau: Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB là hành vi

của người tham gia GTĐB mà vi phạm quy định về an toàn GTĐB do lỗi vô

ý, gây ra thiệt hại cho tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài

sản của người khác do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực

hiện.

1.1.2. Đặc điểm cơ bản của tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ

Căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn

xét xử, có thể chỉ ra các đặc điểm cơ bản của tội vi phạm quy định về tham

gia GTĐB như sau:

Một là, tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB là hành vi xâm phạm

đến sự an toàn của hoạt động giao thông vận tải đường bộ cũng như an toàn

11

về tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác; xâm phạm đến an toàn

công cộng, trật tự công cộng (thuộc nhóm tội xâm phạm trật tự công cộng) và

bị xử lý theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, đó là hành vi gây nguy

hiểm đến xã hội, trực tiếp xâm phạm TTATGTĐB và gây nên thiệt hại về sức

khoẻ, tính mạng và tài sản của người khác.

Hai là, hành vi phạm tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB được

biểu hiện một cách trực tiếp và chủ yếu thông qua người tham gia GTĐB (có

thể họ là người điều khiển, người đang sử dụng phương tiện khi tham gia

GTĐB; người đi bộ trên đường, người điều khiển dẫn dắt súc vật) tức là đang

thực hiện các chức năng điều khiển đối với sự vật và các phương tiện GTĐB

mà gây nên thiệt hại nghiêm trọng về tính mạng (dẫn đến chết người) hay gây

nên thiệt hại nghiêm trọng về sức khoẻ (gây nên thương tích) và tài sản; gây

thiệt hại nghiêm trọng cho trật tự an toàn công cộng.

Ba là, tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB do chủ thể là người có

năng lực TNHS và đã có đủ tuổi phải chịu TNHS thực hiện. Nói cách khác,

chủ thể của tội phạm vi phạm quy định về tham gia GTĐB là người từ đủ 16

tuổi trở lên, có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi mình.

1.1.3. Các yếu tố cấu thành tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ

Để nhận thức sâu sắc hơn bản chất pháp lý của tội vi phạm quy định về

tham gia GTĐB, cần đi sâu nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của CTTP tội vi

phạm quy định về tham gia GTĐB được phân thành 04 yếu tố: Khách thể,

mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan của tội phạm.

1.1.3.1. Khách thể của tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ

Khách thể của tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB là quy định của

Nhà nước về ATGTĐB, đó là các quy định để bảo đảm ATGTVT, bảo đảm

12

cho hoạt động vận tải đường bộ thông suốt, bình thường và bảo vệ an toàn sức

khỏe, tính mạng của công dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, tổ chức và công

dân.

Hành vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB đó là hành vi nguy hiểm

xã hội, trực tiếp xâm phạm TTATGTĐB và gây ra thiệt hại về sức khoẻ, tính

mạng và tài sản của người khác.

Chỉ các hành vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB có tính chất và

mức độ nguy hiểm cao, gây ra thiệt hại cho tính mạng hoặc gây ra thiệt hại

nghiêm trọng đến tài sản, sức khoẻ của người khác; và khả năng thực tế của

hành vi này dẫn tới hậu quả đặc biệt nghiêm trọng - nếu một khi không được

ngăn chặn kịp thời thì mới được xem là phạm tội hình sự. Đối với các hành vi

vi phạm quy định về tham gia GTĐB khi mà tính chất, mức độ của nó không

có nguy hiểm, không gây ra thiệt hại đến người khác thì bị xử phạt vi phạm

hành chính.

1.1.3.2. Mặt khách quan của tội phạm vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ

Hành vi khách quan: Người phạm tội có hành vi vi phạm các quy định

về tham gia GTĐB, cụ thể: đi quá tốc độ, chở quá trọng tải quy định, tránh,

vượt trái phép; đi không đúng tuyến đường, phần đường; vi phạm các quy

định khác về an toàn GTĐB như chuyên chở người, hàng không đúng số

lượng, trọng tải quy định;... Để xác định các hành vi vi phạm các quy định về

tham gia GTĐB, trước hết phải căn cứ vào quy định của Luật GTĐB cùng

những văn bản hướng dẫn của cơ quan chức năng có thẩm quyền.

Phương tiện GTĐB bao gồm các loại xe có động cơ (xe hơi, máy kéo,

tàu điện bánh hơi, xe gắn máy và các loại xe chuyên dùng khác) và các loại xe

thô xơ (xe thồ, xe đạp, xe được điều khiển bằng xúc vật: xe bò, xe ngựa,...).

Người điều khiển phương tiện vận tải GTĐB là người trực tiếp thực hiện chức

năng vận hành phương tiện để phượng tiện chuyển động và tham gia giao

13

thông.

Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB phải là tội phạm có cấu thành

vật chất. Nên căn cứ vào hậu quả chính là dấu hiệu bắt buộc của tội này. Nếu

hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện GTĐB về cơ bản mà

chưa gây ra thiệt hại tính mạng (gây ra tử vong) hoặc gây ra thiệt hại nghiêm

trọng về tài sản, sức khoẻ (có thương tích) của người khác thì chưa thể cấu

thành tội phạm. Trên thực tế, hành vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB

gây tai nạn giao thông dẫn đến chết người, thiệt hại về tài sản rất nhiều. Hậu

quả của tai nạn GTĐB là một trong số các căn cứ nhằm xác định cụ thể về

trách nhiệm đối với người gây tai nạn.

Mối quan hệ nhân quả: Hành vi vi phạm các quy định về tham gia

GTĐB là nguyên nhân dẫn đến hậu quả (tai nạn giao thông) gây thiệt hại về

tài sản, sức khỏe, tính mạng của người khác. Nếu thiệt hại không phải do hành

vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB thì không cấu thành tội vi phạm quy

định về tham gia GTĐB.

Những dấu hiệu khách quan khác, như: Địa điểm nơi vi phạm (công

trình GTĐB); phương tiện tham gia GTĐB… là rất quan trọng, bởi nó là dấu

hiệu dùng để phân biệt giữa tội này với những tội khác.

1.1.3.3. Chủ thể của tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ

Chủ thể của tội vi phạm quy định trong tham gia GTĐB phải là những

người khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình và có đủ tuổi

(thường là từ 16 tuổi trở lên). Điểm đặc biệt đối với chủ thể của tội vi phạm

quy định về tham gia GTĐB là người phạm tội có hành vi phạm tội khi đang

tham gia GTĐB.

1.1.3.4. Mặt chủ quan của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ

Lỗi của người phạm tội vi phạm các quy định về tham gia GTĐB là lỗi

14

vô ý. Hiện nay, một số quan điểm đề cập đến hình thức “lỗi hỗn hợp” trong

các vụ án tai nạn giao thông: Cố ý về hành vi, vô ý về hậu quả. Ví dụ: Một lái

xe cố ý vượt đèn đỏ và đã gây tai nạn làm chết người. Trong trường hợp này,

người lái xe đã cố ý về hành vi (vượt đến đỏ), nhưng không mong muốn cho

hậu quả xảy ra và cũng không bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.

Các trường hợp khác, khi quyết định hình phạt với những người phạm

tội, Toà án nhận định rằng người bị hại cũng mắc phần lỗi và xem trường hợp

người bị hại mắc lỗi là lỗi hỗn hợp (bởi cả hai bên cũng đều có lỗi).

Theo tác giả, người phạm tội cố ý về hành vi vượt đèn đỏ không có

nghĩa là người phạm tội đã nhận thức rõ hành vi vượt đèn đỏ là nguy hiểm

đến tính mạng của người khác, thấy trước được hậu quả chết người xảy ra

hoặc có thể xảy ra, mong muốn hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Mà trường

hợp này người phạm tội chỉ có ý thức rằng dù có vượt đèn đỏ nhưng tin tưởng

việc hậu quả chết người sẽ không xảy ra. Trường hợp này người phạm vô ý vì

quá tự tin. Cần lưu ý rằng, cố ý hoặc vô ý là thái độ tâm lý của những người

phạm tội đối với hậu quả và đối với hành vi, chứ không phải chỉ riêng đối với

hậu quả.

Trường hợp người bị hại cũng có lỗi, về khoa học pháp lý thì trường

hợp này người bị hại cũng có hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông,

nên nếu nói họ có lỗi là lỗi đối với người phạm tội chứ không phải lỗi pháp

lý, cũng không thể nói cả hai đều có lỗi mà chỉ có thể nói cả hai đều có hành

vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB và trường hợp này cũng không thể

xem là “lỗi hỗn hợp”.

Người phạm tội vi phạm các quy định về tham gia GTĐB có thể vì

động cơ khác nhau nhưng không có mục đích là điều cố nhiên.

1.1.4. Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ với một số tội phạm khác trong luật hình sự Việt Nam

1.1.4.1. Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

15

bộ với tội đua xe trái phép

Tội đua xe trái phép được quy định tại Điều 266 BLHS. Tội đua xe trái

phép, đó là hành vi đua trái phép các loại ô tô, xe máy hoặc những xe khác có

gắn động cơ làm gây ra thiệt hại đến tài sản, sức khỏe của người khác hoặc đã

bị xử phạt hành chính về những hành vi này hoặc đã bị kết án về tội đó, chưa

hết thời hạn xóa án tích mà còn vi phạm, do những người có năng lực TNHS

và có đủ tuổi chịu TNHS thực hiện.

Tội đua xe trái phép và các tội vi phạm quy định trong tham gia GTĐB

là đều xâm phạm đến khách thể chung là sự trật tự công cộng, an toàn công

cộng và đều đe dọa, xâm phạm nghiêm trọng tới sức khỏe, tính mạng và tài

sản của người khác.

Một số điểm khác nhau giữa hai loại tội phạm nêu trên đó là:

- Về khách thể trực tiếp:

Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB xâm phạm tới an toàn, trật tự

trong lĩnh vực hoạt động GTĐB và sự an toàn về sức khỏe, tính mạng, tài sản

của người khác.

Tội đua xe trái phép không chỉ xâm phạm đến đến trật tự, an toàn trong

hoạt động GTĐB và sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người

khác, mà còn xâm phạm đến trật tự công cộng.

- Hành vi khách quan:

Tội vi phạm quy định về tham gia giao GTĐB có hành vi khách quan là

không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy tắc giao thông đường bộ

(như chạy quá tốc độ, chạy không đúng làn đường, vượt xe không đảm bảo an

toàn, đỗ xe không đúng quy định…). Các hành vi này là nguyên nhân trực

tiếp gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội (thiệt hại cho tính mạng, sức

khỏe và tài sản của người khác).

Tội đua trái phép có hành vi khách quan là sự đánh cuộc, thách đố giữa

16

những người tham gia đua xe do người khác tổ chức hoặc cùng tham gia trong

một cuộc đua xe mà không được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Người phạm tội sử dụng các phương tiện phạm tội là ô tô, xe máy hoặc các

loại xe khác có gắn động cơ. Hành vi này là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu

quả nghiêm trọng cho xã hội (thiệt hại cho sức khỏe, tính mạng và tài sản của

người khác).

- Mặt chủ quan của tội phạm:

Tội phạm tại Điều 260 BLHS được thực hiện với lỗi vô ý, tùy từng

trường hợp cụ thể mà lỗi của người phạm tội có thể là lỗi vô ý vì quá tự tin

hoặc lỗi vô ý vì cẩu thả. Ở cả hai trường hợp lỗi được nêu trên, những người

phạm tội hoàn toàn không muốn có hậu quả diễn ra.

Tội phạm tại Điều 266 BLHS được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.

Động cơ phạm tội cũng như mục đích phạm tội là không phải dấu hiệu bắt

buộc ở mặt chủ quan của tội này.

- Điều kiện truy cứu TNHS:

Tội vi phạm quy định về tham gia giao GTĐB bị truy cứu TNHS khi

hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy tắc giao thông

đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức

khỏe và tài sản của người khác.

Tội đua trái phép bị truy cứu TNHS khi hành vi đua xe trái phép ngoài

hậu quả gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức

khỏe và tài sản của người khác, thì còn phải chịu TNHS khi người thực hiện

hành vi đua xe trái phép đã bị xử phạt hành chính về hành chính về hành vi

này hoặc hành vi tổ chức đua xe trái phép hoặc đã bị kết án về các tội đua xe

trái phép, tổ chức đua xe trái phép, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

1.1.4.2. Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

17

bộ với tội giết người

Theo quy định của Điều 123 BLHS, tội giết người được hiểu là hành vi

cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng người khác. Hành vi tước đoạt tính

mạng người khác là hành vi có khả năng gây nên cái chết, chấm dứt sự sống

cho con người. Khách thể của tội phạm đó chính là quyền sống của con

người; đối tượng tác động của tội đó cũng chính là thân thể của con người

đang sống bình thường. Ngoài ra, mặt chủ quan của tội phạm đó chúng được

thực hiện bởi lỗi cố ý. Đây là dấu hiệu bắt buộc để phân biệt tội giết người với

tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB.

Một số điểm khác nhau giữa hai tội phạm nêu trên, đó là:

- Về khách thể trực tiếp: Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB xâm

phạm đến sự an toàn của hoạt động GTĐB và sự an toàn về tính mạng, sức

khỏe, tài sản của người khác; tội giết người xâm phạm đến quyền sống của

con người.

- Hành vi khách quan:

Hành vi vi phạm các quy định về GTĐB là hành vi không thực hiện

hoặc thực hiện không đúng các quy tắc giao thông đường bộ của người tham

gia giao thông, đã gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội (thiệt hại về người,

tài sản tính thành tiền và làm mất trật tự an toàn GTĐB).

Hành vi giết người là hành vi tước đoạt trái luật về tính mạng của người

khác; đó là hành vi có khả năng gây ra cái chết, chấm dứt sự sống của con

người.

- Mặt chủ quan của tội phạm:

Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB được thực hiện với lỗi vô ý,

tùy từng trường hợp cụ thể mà lỗi của người phạm tội có thể là lỗi vô ý vì quá

tự tin hoặc lỗi vô ý vì cẩu thả; người phạm tội không mong muốn cho hậu quả

18

xảy ra.

Tội phạm giết người được thực hiện với lỗi cố ý. Lỗi cố ý là lỗi cố ý

gián tiếp hay cố ý trực tiếp. Trong cả hai trường hợp lỗi này, người phạm tội

đều mong muốn cho hậu quả xảy ra.

1.1.4.3. Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ với tội vô ý làm chết người

Điều 128 của BLHS quy định, tội vô ý gây chết người là hành vi của

một người mà không thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây đến

chết người - dù là có thể thấy trước và phải thấy trước hành vi của mình có

thể gây đến chết người song lại tin rằng hậu quả của hành vi đó không diễn ra.

Các tội phạm được thực hiện với hình thức lỗi vô ý, gồm có lỗi vô ý vì quá tự

tin và vô ý do cẩu thả, chúng được thực hiện bởi bất cứ là người nào mà có đủ

năng lực TNHS, đủ độ tuổi theo luật định. Khách thể của tội phạm đó chính là

quyền sống của con người; và đối tượng tác động của tội đó là thân thể của

con người đang sống bình thường.

Từ đó, các điểm giống nhau khi so sánh đối với tội vi phạm quy định về

tham gia GTĐB đó là:

- Tội phạm thực hiện với hình thức lỗi vô ý gồm có lỗi vô ý vì quá tự

tin và vô ý do cẩu thả.

- Chủ thể của tội phạm này là người có năng lực trách nhiệm hình sự và

có đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện.

Mặt khác, giữa hai tội phạm này còn một số điểm khác nhau:

- Về khách thể: Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB xâm phạm

đến trật tự an toàn giao thông, sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của

người khác; còn tội Tội vô ý làm chết người xâm phạm đến quyền được sống

của con người.

- Hành vi khách quan: Hành vi của người tham gia giao thông vi phạm

19

quy định về bảo đảm TTATGTĐB đã gây nên hậu quả nghiêm trọng xã hội

(thiệt hại tài sản tính thành tiền, tính mạng con người và làm mất

TTATGTĐB). Tội vô ý làm chết người thể hiện ở hành động do cẩu thả hoặc

do quá tự tin mà gây ra cái chết cho nạn nhân.

- Điều kiện truy cứu TNHS:

Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB gây ra thiệt hại nghiêm trọng

đến sức khỏe, tài sản của người khác hoặc gây ra thiệt hại cho tính mạng.

Tội vô ý làm chết người: Gây hậu quả chết người (đây là yếu tố bắt

buộc trong CTTP).

1.1.4.4. Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Tại Điều 138 của BLHS quy định, tội vô ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại đến sức khỏe của người khác là hành vi vô ý đã gây ra thương tích

hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác, mà thương tật có tỷ lệ từ 31%

trở lên do người có năng lực trách nhiệm hình sự và có đủ tuổi chịu trách

nhiệm hình sự được thực hiện bởi lỗi vô ý do cẩu thả hoặc tự tin mà gây ra

thương tích hay gây ra tổn hại sức khỏe cho nạn nhân. Khách thể của tội

phạm đó là quyền được bảo hộ đối với sức khỏe con người.

Do đó, những điểm giống nhau khi so sánh với tội vi phạm quy định về

tham gia GTĐB là:

- Tội phạm được thực hiện bởi lỗi vô ý gồm có lỗi vô ý vì quá tự tin và

vô ý do cẩu thả.

- Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ

tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện.

Mặt khác, điểm khác nhau giữa hai tội phạm đó là:

- Về khách thể trực tiếp:

Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB là xâm phạm đến

20

TTATGTĐB và sự an toàn sức khỏe, tính mạng, tài sản của người khác.

Tội vô ý gây ra tổn hại đến sức khỏe người khác hay gây ra thương tích

là xâm phạm đến quyền được bảo hộ đối với sức khỏe con người.

- Hành vi khách quan:

Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB có hành vi khách quan của

người tham gia giao thông vi phạm đối với quy định về bảo đảm TTATGTĐB

đã gây hậu quả nghiêm trọng xã hội (thiệt hại tài sản tính thành tiền, thiệt hại

về người và làm mất TTATGTĐB).

Tội vô ý gây tổn hại sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích có

hành vi khách quan là hành vi của một người trực tiếp tác động lên người

khác làm cho họ bị thương tích từ 31% trở tên.

- Điều kiện truy cứu TNHS:

Tội vi phạm đối với quy định về tham gia GTĐB có hậu quả gây ra

thiệt hại cho tính mạng hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với tài sản và

sức khỏe của người khác.

Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

hậu quả gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ

lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên (trường hợp ở khoản 1 Điều 138 của

BLHS phải có yêu cầu của bị hại).

1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ

1.2.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định của

pháp luật hình sự Việt Nam về Tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ

1.2.1.1. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước

khi Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999

Tháng 6 năm 1985, BLHS đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ

21

nghĩa Việt Nam ra đời, được công bố bởi Lệnh của Chủ tịch nước ngày

09/7/1985 và có hiệu lực thi hành thống nhất trong toàn quốc kể từ ngày

01/01/1986. Ở luật này, tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB được quy

định chung chung trong nội dung tội vi phạm quy định về an toàn giao thông

vận tải, chứ chưa có tên riêng. Quy phạm pháp luật của BLHS năm 1985 quy

định về tội vi phạm quy định an toàn giao thông vận tải (thể hiện tại Điều 186,

Chương VIII - Các tội xâm phạm trật tự, an toàn công cộng và trật tự quản lý

hành chính) có nội dung đó là:

“1. Người nào tham gia GTVT mà vi phạm những quy định về an toàn

GTVT đường bộ, đường không, đường thủy, đường sắt gây ra thiệt hại tới tính

mạng, sức khỏe người khác hay gây ra thiệt hại nghiêm trọng tới tài sản, thì

bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm hoặc bị phạt cải tạo không giam giữ tới 2

năm khi thuộc một trong những trường hợp sau đây:

a. Đi quá tốc độ, tránh, vượt trái phép, chở quá trọng tải;

b. Đi không đúng phần đường, tuyến đường, luồng lạch, đường bay và

độ cao so với quy định;

c. Vi phạm những quy định khác về an toàn GTVT.

2. Phạm tội thì bị phạt tù từ 3 năm tới 10 năm khi thuộc một trong

những trường hợp sau đây:

a. Tham gia an toàn GTVT mà không có bằng lái xe; trong khi say

rượu hay say do dùng chất kích thích khác;

b. Gây ra tai nạn mà bỏ chạy để cố ý không cứu giúp người bị nạn

hoặc trốn tránh trách nhiệm.

3. Bị phạt tù từ 7 năm tới 20 năm khi phạm tội gây ra hậu quả đặc biệt

nghiêm trọng.

4. Bị xử phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc bị phạt tù từ 3

tháng tới 03 năm khi phạm tội trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn tới

22

gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời”.

Tội vi phạm các quy định về tham gia GTĐB được quy định ở Điều

186 của BLHS 1985 khi so với nội dung trong Điều 9 của Sắc luật 03-SL/76,

thì đã có một bước tiến bộ về cả nội dung và kỹ thuật lập pháp. Mà cụ thể đó

là:

- Tên của tội được xác định cụ thể là “Tội vi phạm quy định về an toàn

GTVT gây hậu quả nghiêm trọng”.

- Ở Điều 186 của BLHS 1985 chẳng những nêu rõ tội danh, mà còn mô

tả những dấu hiệu pháp lý đặc trưng về tội phạm cũng như đã quy định về

khung các hình phạt tương ứng với nhiều loại trường hợp phạm tội khác nhau,

qua đó khắc phục cơ bản về các hạn chế của Sắc luật số 03-SL/76.

- Đường lối xử lý tội phạm theo Điều 186 BLHS năm 1985 cũng có sự

thay đổi so với Sắc luật 03-SL/76, Thông tư 442/TTg và Thông tư 556/TTg.

Cũng như Sắc luật số 03-SL/76, tại Điều 186 của BLHS 1985 không quy định

về hình phạt tù chung thân và hình phạt tử hình. Chẳng hạn, với hình phạt tù,

tại Điều 186 của BLHS 1985 đã áp dụng nâng mức phạt tù tối đa từ 15 năm

đến 20 năm nhằm phù hợp đối với những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng

của tội danh này.

- Với những tình tiết xác định khung tăng nặng đã được quy định ở

Điều 186 của BLHS 1985 một cách đầy đủ, cụ thể và rõ hơn. Tội vi phạm các

quy định về tham gia GTĐB trên thực tế đã có không ít tình tiết chủ quan và

khách quan không giống nhau nên việc xác định mức độ nguy hiểm xã hội ở

mỗi trường hợp phạm tội là khác nhau. Vì vậy, tất yếu phải có các khung hình

phạt với các dấu hiệu để định khung khác nhau để đáp ứng các yêu cầu trong

đấu tranh để phòng chống các loại tội đó. Ở nhiều văn bản trước BLHS 1985,

những tình tiết để xác định khung tăng nặng mới dừng lại ở việc giới hạn về

mức độ hậu quả nguy hiểm xã hội của các hành vi phạm tội và chỉ có hai

khung hình phạt khác nhau. Với BLHS 1985, các tình tiết xác định khung

23

tăng nặng khác đã được bổ sung và có đến bốn khung hình phạt khác nhau.

Qua hơn 10 năm triển khai hiệu lực BLHS 1985 cũng như các quy

phạm pháp luật quy định về tội vi phạm quy định trong tham gia GTĐB (như

Điều 186 của BLHS) đã có sự phát huy tác dụng khá lớn trong đấu tranh về

phòng và chống các loại tội nêu trên. Song, dù vậy một số quy định của

BLHS 1985 về tội vi phạm các quy định trong an toàn GTVT cũng đã bộc lộ

không ít bất cập. Trong đó, điển hình là sự quy định cả 04 loại hành vi phạm

tội trong 04 lĩnh vực an toàn GTVT (đường sắt, đường bộ, đường không và

đường thủy) có đặc điểm kỹ thuật và yêu cầu đảm bảo an toàn là không giống

nhau trong cùng một điều luật. Thực tế này đã phần nào gặp nhiều hạn chế ở

việc quy định cụ thể về hành vi phạm tội và việc phân hóa TNHS của tội

phạm.

Tóm lại, qua 4 lần sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1985 vào các năm

1989, 1991, 1992 và 1997, nội dung của Điều 186 quy định về tội vi phạm

quy định về tham gia GTĐB về cơ bản nội dung không có gì thay đổi so với

chính nó, mà chỉ có sự thay đổi về tên tội (được sửa đổi bổ sung vào năm

1991), từ tội vi phạm quy định về an toàn giao thông vận tải gây hậu quả

nghiêm trọng thành tội vi phạm quy định về an toàn giao thông vận tải.

Trường hợp bỏ cụm thuật ngữ “gây hậu quả nghiêm trọng” để định tội danh

cho phù hợp với mọi trường hợp bị xem là phạm tội đó như nội dung của

khoản 4 thuộc Điều 186 quy định về trường hợp có khả năng thực tế dẫn tới

hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thuộc trường hợp phạm tội này. Đó là trường

hợp phạm tội vi phạm các quy định trong tham gia GTĐB khi mà chưa gây

nên hậu quả.

1.2.1.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến

trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015

Nhận thấy các điểm bất cập của BLHS năm 1985, BLHS năm 1999

24

được ban hành với nhiều sự thay đổi:

Khách thể của tội phạm vi phạm các quy định về tham gia GTĐB được

xác định đó là TTAT của hoạt động GTĐB và an toàn sức khoẻ, tính mạng và

tài sản của người tham gia giao thông. Những quy định về TTATGTĐB được

quy định ở Luật GTĐB năm 2001 (được bổ sung sửa đổi năm 2008) là căn cứ

nhằm xác định hành vi điều khiển phương tiện GTĐB chưa vi phạm hoặc đã

vi phạm.

Trước đây, trong BLHS năm 1985, Điều 186 đã quy định hành vi vi

phạm quy định về an toàn giao thông vận tải chung cho tất cả các lĩnh vực

giao thông: đường sắt, đường thủy, đường bộ… và đối tượng vi phạm cũng

được xác định rộng hơn, kể cả người không tham gia giao thông cũng vi

phạm. Hiện nay, theo quy định của BLHS 1999, thì hành vi vi phạm trật tự an

toàn giao thông của người tham gia giao thông trên từng lĩnh vực giao thông:

đường sắt, đường thủy, đường bộ được quy định riêng trong từng điều của Bộ

luật hình sự thành các tội khác nhau. Tội vi phạm quy định về tham gia

GTĐB (Điều 202); tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường sắt

(Điều 208); tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường thủy (Điều

212).

Để kịp thời đáp ứng tình hình xét xử các vụ tai nạn GTĐB đối với hành

vi tham gia GTĐB, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành

Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003, nhưng cũng chỉ hướng

dẫn trường hợp gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng

cho sức khỏe, tài sản của người khác; gây hậu quả nghiêm trọng; rất nghiêm

trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi tham gia GTĐB gây ra.

Thiệt hại tính mạng là gây nên người khác tử vong. Thiệt hại nghiêm

trọng đến tài sản hoặc sức khỏe người khác là tác động dẫn đến tài sản người

khác bị hư hỏng nặng, mất mát hay làm cho người khác bị thương nặng. Hiện

nay áp dụng theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày

25

17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về các tình tiết

“gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả

đặc biệt nghiêm trọng” quy định tại Điều 202 BLHS năm 1999.

Khi xác định thiệt hại tài sản của người khác cần chú ý: Chỉ tính những

tài sản do hành vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB trực tiếp gây ra, còn

những thiệt hại gián tiếp không tính là thiệt hại để xác định TNHS đối với

người phạm tội; như: do bị thương nên phải chi phí cho việc điều trị và các

khoản chi phí khác (mất thu nhập, làm chân giả, tay giả, mắt giả; v.v...). Mặc

dù các thiệt hại này người phạm tội vẫn phải có trách nhiệm bồi thường

nhưng không tính để xác định TNHS đối với hành vi phạm tội. Thiệt hại về

sức khỏe, tính mạng, tài sản mà người phạm tội gây thiệt hại cho người khác,

nên không tính đến thiệt hại mà người phạm tội gây đến cho mình. Các thiệt

hại nói trên, tùy tính chất, mức độ mà BLHS năm 1999 cũng quy định các

hình phạt tương ứng, phù hợp.

Như vậy, BLHS năm 1999 đã bổ sung, khắc phục các thiếu sót, hạn chế

của BLHS năm 1985. Tuy nhiên, định tính về hậu quả dường như vẫn là sự

chung chung trong nhận thức, việc hướng dẫn chỉ là áp một số tình huống cụ

thể vào quá trình áp dụng. Đó là vấn đề lập pháp Việt Nam phải thay đổi, phải

cấp tiến.

1.2.2. Quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về Tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ

Tại kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khóa XIII ngày 27 tháng 11 năm 2015

đã thông qua BLHS 2015. Tới kỳ họp thứ 3 của Quốc hội khóa XIV ngày 20

tháng 6 năm 2017 đã thông qua Luật bổ sung, sửa đổi một số điều của BLHS

2015 và Nghị quyết thi hành BLHS. Theo đó, BLHS mới được ban hành với

nhiều sự thay đổi sâu sắc.

Một trong những nguyên tắc trong việc xây dựng BLHS hiện hành là

giải quyết những vướng mắc, bất cập đang đặt ra trong công tác đấu tranh

26

phòng, chống tội phạm, sửa đổi hoặc loại bỏ những quy định không còn phù

hợp; đồng thời hoàn thiện kỹ thuật lập pháp nhằm bảo đảm tính thống nhất

nội tại của BLHS và tính thống nhất của toàn hệ thống pháp luật; nâng cao

tính minh bạch, khả thi và tính dự báo của BLHS; nhiều quy định có nội dung

chưa rõ ràng, các tình tiết mang tính chất định tính cần được khắc phục đưa

vào trong nội dung của các điều khoản trong các tội phạm cụ thể. Nội dung

quy định của điều 260 BLHS hiện hành đã thể hiện rõ nét nguyên tắc trên.

So sánh với Điều 202 của BLHS 1999 bổ sung, sửa đổi năm 2009; Tội

vi phạm các quy định trong tham gia GTĐB được quy định ở Điều 260 của

BLHS hiện hành đã có sự thay đổi đáng kể quan trọng về kết cấu của điều

luật, khung hình phạt và mức hình phạt có liên quan.

- Quy định về tội phạm:

Thứ nhất, khách thể của tội phạm vi phạm quy định về tham gia

GTĐB:

Khoản 1 Điều 260 BLHS hiện hành quy định:

“1. Người nào mà tham gia GTĐB vi phạm các quy định về an toàn

GTĐB gây ra thiệt hại đến người khác thì thuộc một trong những trường hợp

sau đây, thì bị…”.

Có thể thấy, khách thể của tội vi phạm các quy định trong tham gia

GTĐB, đó là: các quy định của Nhà nước về an toàn GTĐB, các quy định để

bảo đảm an toàn GTVT, bảo đảm cho sự thông suốt hoạt động vận tải đường

bộ, tiến hành bình thường và bảo vệ an toàn sức khỏe, tính mạng của công

dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tổ chức và của công dân. Nói tóm lại,

tội phạm vi phạm các quy định trong tham gia GTĐB thì trước tiên phải xâm

hại đến các quan hệ, quy tắc đã được Luật GTĐB quy định.

Mặt khác, hành vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB là hành vi

nguy hiểm cho xã hội trực tiếp xâm phạm trật tự an toàn GTĐB và phải gây ra

thiệt hại tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người khác. Cụ thể tại khoản 1 Điều

27

260 BLHS có quy định các thiệt hại như:

“…a) Làm chết một người hoặc gây nên thương tích hay gây ra tổn hại

cho sức khỏe của một người có sự tổn thương cơ thể ở tỷ lệ 61% trở lên;

b) Gây nên thương tích hay gây tổn hại tới sức khỏe cho hai người có

tổn thương cơ thể của mỗi người chiếm tỷ lệ từ 31% - 60%;

c) Gây nên thương tích hay gây tổn hại sức khỏe cho ba người trở lên

mà tổng số phần trăm về tổn thương cơ thể của nhóm người này từ 61% -

121%;

d) Gây nên thiệt hại tài sản từ 100 triệu đồng đến <500 triệu đồng…”

Do đó, chỉ các hành vi vi phạm các quy định trong tham gia GTĐB có

tính chất nguy hiểm cao, gây ra thiệt hại tính mạng hay gây nên thiệt hại

nghiêm trọng đến tài sản, sức khoẻ của người khác và hành vi có khả năng

thực tế dẫn tới hậu quả đặc biệt nghiêm trọng - nếu một khi không ngăn chặn

kịp thời thì được xem là phạm tội hình sự. Với các hành vi vi phạm các quy

định trong tham gia GTĐB mà không có tính nguy hiểm, không gây ra thiệt

hại đến người khác thì chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính.

Thứ hai, mặt khách quan của tội phạm vi phạm quy định về tham gia

GTĐB:

Hành vi khách quan: Như đã phân tích ở trên, tội phạm vi phạm quy

định về tham gia GTĐB trước hết phải là hành vi vi phạm quy định Luật

GTĐB. Người phạm tội có hành vi vi phạm các quy định về tham gia GTĐB,

cụ thể: đi quá tốc độ, chở quá trọng tải quy định, tránh, vượt trái phép; đi

không đúng tuyến đường, phần đường; vi phạm các quy định khác về an toàn

GTĐB như chuyên chở người, hàng không đúng số lượng, trọng tải quy

định;... Để có thể xác định hành vi vi phạm quy định trong tham gia GTĐB,

thì phải căn cứ từ những quy định của Luật GTĐB và những văn bản hướng

dẫn của cơ quan chức năng có thẩm quyền. Chẳng hạn, hành vi “Điều khiển

xe cơ giới không có giấy phép lái xe theo quy định” đã phạm vào khoản 9

28

thuộc Điều 23 của Luật GTĐB.

Phương tiện GTĐB bao gồm các loại xe có động cơ (xe hơi, máy kéo,

tàu điện bánh hơi, xe gắn máy và các loại xe chuyên dùng khác) và các loại xe

thô xơ (xe thồ, xe đạp, xe được điều khiển bằng xúc vật: xe bò, xe ngựa,...).

Người tham gia vận tải GTĐB là người trực tiếp thực hiện chức năng vận

hành phương tiện để phượng tiện chuyển động và tham gia giao thông.

Hậu quả: Đối với tội vi phạm các quy định trong tham gia GTĐB là tội

phạm có cấu thành vật chất. Nên hậu quả của nó là dấu hiệu bắt buộc của tội

đó. Nếu hành vi vi phạm các quy định trong tham gia GTĐB mà chưa gây nên

thiệt hại tính mạng hay gây nên thiệt hại nghiêm trọng đến sức khoẻ và tài sản

của người khác thì không CTTP, trừ trường hợp đã được quy định ở khoản 4

thuộc Điều 260 của BLHS. Trên thực tế, hành vi vi phạm quy định về tham

gia GTĐB gây tai nạn giao thông dẫn đến chết người, thiệt hại về tài sản rất

nhiều. Hậu quả của tai nạn GTĐB là một trong các căn cứ cốt lõi để quy kết

trách nhiệm đối với đối tượng gây tai nạn.

So sánh với các quy định tại Điều 202 của BLHS cũ thì tại Điều 260

của BLHS hiện hành đã có sự thay đổi về quy định mức độ hậu quả do vi

phạm các quy định trong tham gia GTĐB làm cơ sở để xác định TNHS. Mà

cụ thể đó là gây ra một trong những hậu quả dưới đây thì mới bị truy cứu

TNHS:

- Làm chết người (thiệt hại tính mạng);

- Gây ra thương tích hay gây ra tổn hại sức khỏe của một người mà có

tổn thương cơ thể ở tỷ lệ từ 61% trở lên;

- Gây ra thương tích hay gây ra tổn hại sức khỏe của hai người trở lên

mà có tổng tỷ lệ thương tổn cơ thể của các con người đó là từ 61% - 121%;

- Gây ra thiệt hại tài sản từ 100 triệu đồng - <500 triệu đồng.

Qua đó cho thấy, Điều 260 của BLHS hiện hành đã loại bỏ mức độ về

hậu quả gây ra tổn thương cơ thể: (i) của một người <61%; (ii) của 02 người

29

trở lên mà có tổng tỷ lệ thương tổn cơ thể của các người đó <61%; (iii) và loại

bỏ mức độ về thiệt hại vật chất <100 triệu đồng để làm cơ sở nhằm truy cứu

TNHS về tội phạm đó. Mặt khác, điều luật mới giúp loại bỏ quy định ở điều

luật cũ về sự cộng chung mức độ đối với thiệt hại vật chất và sức khỏe con

người. Tuy thế, cần phải lưu ý, dù là chưa có thiệt hại xảy ra song người vi

phạm có thể bị truy cứu TNHS nếu khi có đủ những điều kiện theo quy định ở

khoản 4 thuộc Điều 260 của BLHS.

Mối quan hệ nhân quả: Hành vi vi phạm các quy định về tham gia

GTĐB là nguyên nhân dẫn đến hậu quả (tai nạn giao thông) gây thiệt hại về

tài sản, sức khỏe, tính mạng của người khác. Nếu thiệt hại không phải do hành

vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB thì không cấu thành tội vi phạm quy

định về tham gia GTĐB.

Những dấu hiệu khách quan khác: Địa điểm nơi vi phạm là công trình

GTĐB; phương tiện GTĐB… Việc xác định dấu hiệu khách quan đó là hệ

trọng, đây là dấu hiệu nhằm phân biệt giữa tội phạm đó với những tội khác. Ở

khoản 1 thuộc Điều 3 của Luật GTĐB quy định: Đường bộ gồm có đường,

hầm đường bộ, cầu đường bộ và bến phà đường bộ. Với phương tiện GTĐB

gồm phương tiện giao thông thô sơ đường bộ, phương tiện giao thông cơ giới

đường bộ” (theo quy định ở khoản 17 thuộc Điều 3 của Luật GTĐB).

Thứ ba, chủ thể của tội phạm vi phạm các quy định trong tham gia

GTĐB:

Với người có đủ từ 14 tuổi - <16 tuổi thì không phải chịu TNHS về tội

phạm đó, bởi tội phạm đó là tội phạm vốn dĩ được thực hiện do lỗi vô ý và

cũng không có trường hợp nào được xác định là tội đặc biệt nghiêm trọng

(được quy định ở điều 12 của BLHS ).

Chủ thể của tội vi phạm các quy định trong tham gia GTĐB là những

người có đủ từ 16 tuổi trở lên, họ có khả năng nhận thức và điều khiển hành

30

vi.

Điểm đặc biệt đối với chủ thể của tội vi phạm quy định về tham gia

GTĐB là người phạm tội có hành vi phạm tội khi đang tham gia GTĐB.

Khoản 22 thuộc Điều 3 của Luật GTĐB 2008 quy định: Người tham

gia giao thông bao gồm người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người điều khiển,

người sử dụng phương tiện trong tham gia GTĐB; người đi bộ trên đường bộ.

Thứ tư, mặt chủ quan của tội phạm:

Lỗi của người phạm tội vi phạm các quy định về tham gia GTĐB là lỗi

vô ý.Điều 11 BLHS quy định về vô ý phạm tội như sau: “Vô ý phạm tội là

phạm tội trong những trường hợp sau đây: 1. Người phạm tội tuy nhận thấy

rằng trước hành vi của mình là có thể gây nên hậu quả nguy hại xã hội song

cứ cho rằng hậu quả đó sẽ có thể ngăn ngừa được hoặc không xảy ra; 2.

Người phạm tội không nhận thấy trước hành vi của mình là có thể gây nên

hậu quả nguy hại xã hội, dù là phải nhận thấy trước và có thể nhận thấy

trước hậu quả này.”

Lỗi của tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB cố nhiên là lỗi vô ý,

bởi lẽ nếu việc vi phạm các quy tắc, quy định GTĐB gây ra các thiệt hại về

sức khỏe, tính mạng con người với lỗi cố ý thì khách thể xâm hại không còn

đơn thuần là các quy định của Nhà nước về an toàn GTĐB nữa mà có thể đó

là xâm hại sức khỏe, tính mạng của người khác. Hành vi cố ý này sẽ đưa đến

dấu hiệu của tội phạm khác như “Cố ý gây thương tích” theo Điều 134 BLHS

hoặc “Giết người” theo Điều 123 BLHS. Ví dụ: Vì có thù hận với B, A muốn

giết B nên điều khiển xe ô tô đâm vào phía sau xe mô tô do B điều làm B tử

vong tại chỗ. Như vậy, hành vi của A đã phạm vào tội “Giết người” theo

Điều 123 BLHS.

- Quy định về hình phạt:

+ Khung 1:

Về kết cấu, khoản 1 Điều 202 BLHS năm 1999 không phân định các

31

tình tiết định khung cơ bản, chỉ xác định mức độ hậu quả để làm cơ sở truy

cứu TNHS đối với người có hành vi vi phạm luật giao thông đường bộ

là “gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ,

tài sản của người khác”, mức độ hậu quả này được hướng dẫn cụ thể tại các

văn bản dưới luật.

Khoản 1 Điều 260 BLHS hiện hành được thiết kế theo hướng xác định

cụ thể định mức thấp nhất hậu quả thiệt hại làm cơ sở để truy cứu TNHS đối

với hành vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB gồm 04 mức tương ứng tại

các điểm a, b, c, d khoản 1. Trong đó, điểm a là quy định về hậu quả xâm

phạm tính mạng con người, điểm b, c quy định về hậu quả xâm phạm sức

khỏe con người và điểm d là quy định hậu quả xâm phạm tài sản của người

khác.

Đối chiếu so sánh quy định ở 4 điểm tại khoản 1 thuộc Điều 260 của

BLHS mới với sự hướng dẫn ở các văn bản pháp quy hướng dẫn cho Điều

202 của BLHS 1999 thì có thể nhận định rằng: các điểm a và d tại điều luật

mới là sự quy định pháp điển hóa về hướng dẫn tại khoản 1 thuộc Điều 2 của

Thông tư liên tịch 09/2013/TTLT – BQP – BCA – VKSNDTC – BTP –

TANDTC. Trong nội dung này, mức độ về hậu quả ở điểm a được giữ

nguyên (làm thiệt mạng chết người), mức độ về hậu quả ở điểm d được giữ

nguyên đối với phần thiệt hại về tài sản cao nhất (<500 triệu đồng), sửa đổi

đối với phần thiệt hại về tài sản thấp nhất (từ 70 triệu đồng lên đến 100 triệu

đồng).

Hai tình tiết định khung cơ bản còn lại quy định tại điểm b, điểm c

khoản 1 Điều 260 BLHS mới cũng được phiên từ hướng dẫn tại Điều 2 Thông

tư liên tịch số 09/2013/TTLT – BCA – BQP – BTP – VKSNDTC – TANDTC

nhưng mức độ thiệt hại về sức khỏe con người có thay đổi theo hướng tỷ lệ

tổn thương cơ thể một người bị tổn hại dưới 61% thì không truy cứu TNHS

và tỷ lệ tổn thương cơ thể của hai người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ

32

thể của họ dưới 61% cũng không bị truy cứu TNHS.

Ngoài ra, còn sự thay đổi tại khoản 1 thuộc Điều 260 của BLHS mới đó

là mức hình phạt. Trong số đó, về mức khởi điểm của hình phạt tiền tăng gấp

6 lần, mức cao nhất của phạt tiền tăng 02 lần (từ 50 triệu đồng lên đến 100

triệu đồng) ; tăng mức khởi điểm của hình phạt tù có thời hạn từ sáu tháng lên

một năm; giữ nguyên về mức hình phạt cải tạo không giam giữ.

Vấn đề còn phải quan tâm đó là, những quy định ở khoản 1 thuộc Điều

260 của BLHS mới so với quy định ở khoản 1 thuộc Điều 260 của BLHS năm

2015 thì các nội dung cụ thể đều bị sửa đổi ở tại những điểm a, b, c, chỉ giữ

nguyên quy định của điểm d.

+ Khung 2:

Tại khoản 2 thuộc Điều 260 của BLHS mới là được thiết kế theo mô tip

của khoản 2 thuộc Điều 202 của BLHS cũ song có bổ sung thêm ba tình tiết

xác định về khung tăng nặng với phương pháp liệt kê cụ thể để quy định

về “gây hậu quả rất nghiêm trọng” theo điểm đ thuộc Điều 202 của BLHS cũ

trở thành ba tình tiết tại những điểm đ, e, g ở khoản 2 thuộc Điều 260 của

BLHS mới. Mức độ hậu quả về thiệt hại được ấn định tại những điểm đ, e, g

khoản 2 thuộc Điều 260 của BLHS mới - xét về bản chất đó là việc pháp điển

hóa hướng dẫn ở khoản 2 thuộc Điều 2 của Thông tư liên tịch 09/2013/TTLT

– BQP – BCA– VKSNDTC –BTP –TANDTC. Trong số đó, các điểm đ, g ở

khoản 2 thuộc Điều 260 của BLHS mới là các quy định được giữ nguyên về

nội dung của những điểm a, e tại khoản 2 thuộc Điều 2 của Thông tư liên tịch

số 09 này; còn mức độ hậu quả về xâm hại đến sức khỏe của người khác được

quy định ở điểm e tại khoản 2 thuộc Điều 260 của BLHS mới thì không giống

với bất cứ hướng dẫn nào ở những điểm còn lại trong khoản 2 thuộc Điều 2

Thông tư liên tịch 09/2013/TTLT – BQP – BCA– VKSNDTC –BTP –

TANDTC, duy chỉ giống nhau ở 01 nội dung mang tính nguyên tắc là về tổng

33

tỷ lệ thương tổn cơ thể của nhiều người (có từ 02 người trở lên) >200% thì bị

truy cứu TNHS ở mức cao hơn (mức cũ theo Thông tư là từ 100% - 200%,

mức theo điều luật mới là từ 122% - 200%).

Ngoài ra, hai tình tiết định khung tăng nặng theo quy định tại các điểm

b và c của khoản 2 Điều 202 BLHS cũ được sửa đổi một số nội dung nhỏ tại

quy định tương ứng của Điều 260 BLHS mới. Cụ thể là, về nội dung ở điểm b

trong khoản 2 thuộc Điều 260 là có thêm tình tiết “có sử dụng chất ma

túy” được đặt trước cụm từ “hoặc những chất kích thích mạnh khác”; về nội

dung quy định ở điểm c thì đã loại bỏ cụm từ “gây tai nạn rồi” ở quy định cũ.

So sánh với khoản 2 thuộc Điều 260 của BLHS 2015 thì tại khoản 2

thuộc Điều 260 của BLHS hiện hành đã có sự thay đổi ở ba nội dung thuộc

những điểm c, e, g.

+ Khung 3:

Khoản 3 thuộc Điều 260 của BLHS mới được thiết kế có ba tình tiết

xác định về khung tăng nặng. Cách diễn đạt này có khác so với khoản 3 Điều

202 BLHS cũ nhưng về bản chất thì những tình tiết định khung quy định tại

các điểm a, b, c khoản 3 Điều 260 BLHS mới là cách thức diễn giải chi tiết

yếu tố định khung của khoản 3 Điều 202 BLHS cũ là “gây hậu quả đặc biệt

nghiêm trọng”. Trong đó, điểm a và điểm c khoản 3 Điều 260 BLHS mới là

việc pháp điển hóa toàn bộ nội dung quy định tại điểm a, điểm g khoản 3 Điều

2 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT – BCA – BQP – BTP – VKSNDTC –

TANDTC. Riêng điểm b khoản 3 Điều 260 BLHS mới thì có thay đổi về mức

độ hậu quả so với các điểm còn lại b, c, d, đ, e khoản 3 Điều 2 của Thông tư

liên tịch số 09/2013/TTLT – BCA – BQP – BTP – VKSNDTC – TANDTC.

So với quy định tại khoản 3 Điều 260 BLHS năm 2015, thì quy định

mới (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã bỏ 01 tình tiết định khung tăng nặng tại

điểm b khoản 3 Điều 260 BLHS 2015 (từ 4 tình tiết định khung sửa thành 3

tình tiết định khung).

34

+ Khung 4:

Khoản 4 Điều 260 BLHS hiện hành có ba nội dung thay đổi quan trọng

so với khoản 4 Điều 202 BLHS cũ.

Thứ nhất, nếu quy định về hậu quả có thể xảy ra tại khoản 4 Điều 202

của BLHS cũ là “đặc biệt nghiêm trọng” thì khoản 4 Điều 260 BLHS mới

liệt kê rõ các hậu quả có thể xảy ra thuộc các điểm a, b, c ở khoản 3 của điều

luật này;

Thứ hai, tại khoản 4 thuộc Điều 202 của BLHS cũ là không có hình

phạt tiền, tại khoản 4 thuộc Điều 260 của BLHS mới thì quy định hình phạt

tiền là hình phạt chính ở mức từ 10 triệu đồng – 50 triệu đồng;

Thứ ba, về mức cao nhất của khung hình phạt tù có thời hạn tại khoản 4

thuộc Điều 260 của BLHS mới thì có mức 01 năm tù là thấp hơn so với khoản

4 thuộc Điều 202 của BLHS cũ (mới là từ 03 tháng - 01 năm; cũ là từ 03

tháng - 02 năm);

BLHS hiện hành bỏ khoản 4 Điều 260 BLHS năm 2015, chuyển khoản

5 Điều 260 BLHS 2015 thành khoản 4 Điều 260 BLHS mới và có sửa lại một

số cụm từ cho phù hợp. Trong đó, nội dung thay đổi là: Sửa đổi về quy định

“có khả năng thực tế dẫn tới hậu quả gây ra thiệt hại tính mạng, sức khỏe hay

tài sản của người khác” trở thành quy định “có khả năng thực tế dẫn tới hậu

quả quy định ở một trong những điểm a, b và c thuộc khoản 3 Điều này”.

Có thể thấy so với quy định của BLHS năm 1999 thì Điều 260 BLHS

hiện hành quy định hình phạt cụ thể hơn, có lợi hơn khi áp dụng cho người

phạm tội. So với BLHS năm 2015 thì các quy định về hình phạt tội vi phạm

quy định về tham gia GTĐB cũng chặt chẽ hơn, bỏ đi các quy định không cần

35

thiết.

Tiểu kết chương 1

Chương 1 của luận văn, tác giả đã khái quát lịch sử lập pháp đối với

Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, để từ đó có cách nhìn toàn diện hơn

về chính sách hình sự của Đảng, Nhà nước ta đối với tội phạm này. Theo đó,

tác giả đã khái quát lịch sử lập pháp đối với Tội vi phạm quy định về tham gia

GTĐB.

Trên cơ sở nghiên cứu quy định khái niệm chung về tội phạm trong

BLHS năm 2015, kết hợp với quy định tại Điều 260 BLHS, tác giả đã đưa ra

khái niệm về Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB và phân tích các dấu

hiệu pháp lý của Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, bao gồm: Khách

thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm,

chủ thể của tội phạm.Đồng thời, Chương 1 của luận văn cũng đã phân tích,

làm rõ hình phạt đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB.

Việc nghiên cứu, làm rõ những cơ sở lý luận và pháp lý của Tội vi

phạm quy định về tham gia GTĐB có ý nghĩa hết sức quan trọng, là căn cứ cơ

bản, tiền đề để nghiên cứu hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt

đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB nói chung và trên địa bàn thị

36

xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam nói riêng.

CHƯƠNG 2

THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG

BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

2.1. Khái quát thực tiễn xét xử tội phạm vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

Theo thống kê từ năm 2014 đến năm 2018, Tòa án nhân dân thị xã Điện

Bàn đã xét xử sơ thẩm tổng số 76 vụ án, với 76 bị cáo về tội vi phạm quy định

về tham gia GTĐB.

Bảng 2.1. Thống kê số vụ án và số bị cáo xét xử sơ thẩm về Tội vi phạm

quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng

Nam từ năm 2014 đến năm 2018

Số vụ án và bị cáo được Tòa án xét xử sơ thẩm Năm Số vụ án Số bị cáo

2014 15 15

2015 17 17

2016 13 13

2017 13 13

2018 18 18

76 76 Tổng số

Nguồn: TAND thị xã Điện Bàn

Nghiên cứu Bảng 2.1 cho thấy số vụ án, số bị cáo phạm tội vi phạm

quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam có

sự gia tăng qua từng năm và đều tăng so với với năm trước liền kề, chỉ có

năm 2017 là không tăng so với năm 2016. Trong đó, năm 2018 tăng một cách

37

rõ rệt cả về số vụ và số bị cáo, tăng 05 vụ và 05 bị cáo so với năm 2017.

Trong tổng số các vụ án vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị

xã Điện Bàn thì số lượng án năm 2018 đã chiếm đến 23,6% số án của 05 năm

giai đoạn 2014-2018. Như vậy, án vi phạm quy định về tham gia GTĐB ngày

một phổ biến và năm 2018 là năm trọng điểm.

2.2. Định tội danh đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

Quá trình áp dụng các quy phạm pháp lụât hình sự diễn ra phức tạp và

đa dạng được thể hiện qua các giai đoạn cơ bản sau: Định tội danh, định

khung hình phạt và quyết định hình phạt. Trong đó, định tội danh là một giai

đoạn quan trọng nhất và xuyên suốt toàn bộ quá trình áp dụng pháp luật hình

sự.

Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về định tội danh. Theo GS.

TSKH Lê Văn Cảm, “định tội danh có thể được hiểu là quá trình nhận thức

lý luận có tính logic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình

sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các chứng

cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác

định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được

thực hiện với các dấu hiệu của CTTP tương ứng do luật hình sự quy định

nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội

phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa

trách nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật”.

Như vậy, khái quát lại, quan niệm trên coi định tội danh là hoạt động áp

dụng pháp luật hình sự và TTHS. Khác với quan điểm này, GS. TS. Võ

Khánh Vinh cho rằng:“Định tội danh là một dạng hoạt động nhận thức, hoạt

động ADPL hình sự nhằm đi tới chân lý khách quan trên cơ sở xác định đúng

đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện, nhận

thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định CTTP tương ứng và

38

mối liên hệ tương đồng giữa các dấu hiệu của CTTP với các tình tiết cụ thể

của hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất

định”. Tức là, định tội danh chỉ nằm trong phạm vi áp dụng pháp luật hình sự.

Mặc dù được diễn đạt theo nhiều cách khác nhau, nhưng về cơ bản cho

thấy định tội danh là sự xác định sự phù hợp của hành vi nguy hiểm cho xã

hội đã được thực hiện với các dấu hiệu của một CTTP tương ứng được quy

định trong BLHS.

Nội dung của CTTP chính là sự phản ánh các dấu hiệu cụ thể như:

Quan hệ xã hội bị xâm hại, độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi

khách quan, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ,

phương tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, lỗi, động cơ, mục đích phạm

tội. Các dấu hiệu bắt buộc phải có trong mọi CTTP là: Quan hệ xã hội bị xâm

hại, độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi khách quan và lỗi. Một

CTTP của một loại tội luôn luôn phải chứa đựng đầy đủ 4 yếu tố CTTP:

Khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Song các dấu hiệu trong

mỗi một CTTP có thể nhiều ít khác nhau.

Định tội danh thực chất là sự xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp giữa

hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện trong thực tế khách quan với các

dấu hiệu trong CTTP tương ứng được quy định trong BLHS. Hay nói cách

khác, định tội danh là việc xác định một hành vi cụ thể đã thực hiện thoả mãn

đầy đủ các dấu hiệu của CTTP của tội nào trong số các tội phạm đã được quy

định trong BLHS. Từ đó mà định tội danh trở thành cơ sở, tiền đề tiên quyết

cho hoạt động quyết định hình phạt.

Với tính chất là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật

hình sự, định tội danh được tiến hành theo 04 bước sau:

Bước 1: Thiết lập, xem xét, đánh giá đúng các tình tiết của vụ án đã

39

xảy ra trên thực tế.

Đối với bước này, đòi hỏi người định tội danh phải đánh giá các tình

tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện, không suy diễn. Phải dựa vào

các chứng cứ đã thu thập và đánh giá chúng theo quy định của BLTTHS.

Mỗi một tình tiết trong vụ án bước đầu đánh giá chúng một cách độc

lập để thấy được sự thể hiện tính chất của nó là loại hành vi nào. Sau đó, lại

đặt các tình tiết đó trong mối quan hệ với các tình tiết khác trong vụ án, thì kết

luận về tính chất của tình tiết này mới là sự thể hiện về bản chất của nó trong

cả tiến trình của vụ án. Đánh giá mỗi tình tiết của vụ án, phải đặt nó trong

hoàn cảnh cụ thể, trong tổng thể, biện chứng của cả quá trình phản ánh đúng

diễn biến của vụ án đã xảy ra. Bởi lẽ, cùng một tình tiết, nhưng đặt trong mỗi

hoàn cảnh khác nhau thì khác nhau về bản chất. Kết luận về từng tình tiết độc

lập, không thể phản ánh đúng về bản chất của tình tiết đó trong toàn bộ diễn

biến vụ án.

Bước 2: Nhận thức thống nhất và chính xác nội dung các quy phạm

pháp luật hình sự phản ánh các dấu hiệu của CTTP về tội danh có hướng lựa

chọn. Các dấu hiệu trong CTTP được quy định trong BLHS mang tính trừu

tượng chỉ nêu một cách khái quát những nét đặc trưng mang tính phổ biến để

điều chỉnh hiện tượng thực tế đa dạng, chính vì vậy đòi hỏi phải có quá trình

tư duy để nhận thức sâu rộng, đúng đắn về nội dung của các dấu hiệu trong

CTTP.

Bước 3: So sánh đối chiếu hai quá trình nói trên.

Bước 4: Ra văn bản áp dụng pháp luật chính là bản án và các quyết

định có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục cả 3 bước trên để xác định tội

danh cần áp dụng đối với trường hợp phạm tội của người đó.

Như vậy, về bản chất, định tội danh là quá trình cơ quan Nhà nước có

thẩm quyền xác định sự phù hợp giữa các tình tiết cơ bản, điển hình của một

hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra với các dấu hiệu của CTTP cụ thể

40

tương ứng được quy định trong BLHS. Và định tội danh tội vi phạm quy định

về tham gia GTĐB là quá trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định sự

phù hợp giữa các tình tiết cơ bản, điển hình của một hành vi vi phạm quy

định về tham gia GTĐB đã xảy ra với các dấu hiệu của CTTP cụ thể tương

ứng với quy định tại Điều 260 BLHS.

Hoạt động định tội danh tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB tại thị

xã Điện Bàn không quá khó khăn, bởi lẽ các vụ án GTĐB được phát hiện, ghi

nhận ban đầu đúng thủ tục luật định. Từ việc bám sát các bước trong định tội

danh nêu trên nên việc nhầm từ tội danh vi phạm quy định về tham gia GTĐB

với các tội khác có dấu hiệu tương tự là không có, hoạt động xét xử đảm bảo

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Thêm nữa, việc xác định lỗi trong các

vụ án GTĐB cũng khách quan, chưa có trường hợp nào có sự chuyển hóa từ

tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB sang tội “Cố ý gây thương tích”

hoặc “Giết người”. Sau đây là thống kê liên quan đến định tội danh tội vi

phạm quy định về tham gia GTĐB địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam:

Bảng 2.2: Tỷ lệ xét xử sơ thẩm các vụ án và bị cáo về tội vi phạm quy định

về tham gia GTĐB so với các tội phạm về GTĐB và các tội phạm khác

trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

từ năm 2014 đến năm 2018

Các tội khác về GTĐB Tổng số các loại tội phạm Năm

Số vụ án Số vụ án Số vụ án

Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB Số bị cáo 15 17 13 13 18 76 15 17 13 13 18 76 2014 2015 2016 2017 2018 Tổng Số bị cáo 0 1 0 0 1 2 99 87 82 78 96 442 Số bị cáo 201 115 152 124 147 739 0 1 0 0 1 2

41

Nguồn: TAND thị xã Điện Bàn

Nghiên cứu Bảng 2.2 cho thấy trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng

Nam từ năm 2014 đến năm 2018, tội phạm vi phạm quy định về tham gia

GTĐB chiếm tỷ lệ cao so với các tội phạm về GTĐB (chiếm tỷ lệ 97,3% số

vụ án và 97,3% số bị cáo) và chiếm 17% số vụ và 10,28% số bị cáo so với

tổng số án hình sự. Như vậy, án giao thông, mà chủ yếu là án vi phạm quy

định về tham gia GTĐB là án chiếm tỷ lệ tương đối lớn so với các tội danh

khác được điều tra, truy tố, xét xử tại thị xã Điện Bàn.

2.3. Quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

Quyết định hình phạt là hoạt động của Hội đồng xét xử bắt buộc dựa

trên các quy định của BLHS để đưa ra hình phạt tương thích với tính chất,

mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nhằm đạt được các mục đích của

hình phạt. Như vậy, việc quyết định hình phạt cần phải dựa các căn cứ quyết

định hình phạt. Về bản chất, căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cụ

thể, có tính khách quan, do BLHS quy định mà HĐXX bắt buộc phải tuân thủ

để không chỉ đảm bảo cho hình phạt được quyết định một cách khách quan,

đúng pháp luật mà còn nhằm đạt được các mục đích của HP khi áp dụng đối

với người bị áp dụng.

Việc quyết định hình phạt phải được thực hiện theo các căn cứ được

quy định trong BLHS, có thể chia thành 03 nhóm căn cứ sau:

Thứ nhất, căn cứ vào chế tài quy phạm pháp luật quy định về tội phạm.

Trong đó, có chế tài lựa chọn và không lựa chọn (loại hình phạt), chế tài tùy

nghi (áp dụng hay không áp dụng, mức hình phạt trong khung...).

Thứ hai, các căn cứ được quy định tại Điều 50 BLHS: Tính chất, mức

độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ

TNHS; nhân thân người phạm tội.

Thứ ba, các căn cứ đặc biệt: Đường lối xử lý (Điều 3 BLHS); miễn

42

TNHS (Điều 29 BLHS); miễn hình phạt (Điều 59 BLHS); chuẩn bị phạm tội,

phạm tội chưa đạt (Điều 57 BLHS); đồng phạm (Điều 58 BLHS); quyết định

hình phạt với người chưa thành niên (Điều 91 BLHS); quyết định hình phạt

dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (Điều 54 BLHS);...

Khi quyết định hình phạt, các căn cứ nói trên phải được cân nhắc kỹ

lưỡng một cách đầy đủ, toàn diện và biện chứng trong từng trường hợp, hoàn

cảnh cụ thể, không được bỏ sót hoặc tùy tiện, đánh giá thiếu sự khách quan.

Có như vậy việc quyết định hình phạt mới có thể tương xứng với tính chất,

mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phân hóa được TNHS

của người phạm tội đồng thời đảm bảo đạt đến được mục đích của hình phạt.

Khi người bị áp dụng cảm thấy họ xứng đáng với hình phạtbị áp dụng thì việc

chấp hành hình phạt sẽ tự giác, hiệu quả hơn. Qua đó, việc quyết định hình

phạt sẽ góp phần thay đổi, cải tạo người phạm tội hướng thiện, trở thành

người có ích cho xã hội.

Bảng 2.3. Cơ cấu xét theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội vi

phạm quy định về tham gia GTĐB tại địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh

Quảng Nam từ năm 2014 đến năm 2018

Năm Số bị cáo Khoản 1 Khoản 2 Khoản 3 Khoản 4 Khoản 5

2014 15 13 0 0 0 2

2015 17 14 0 0 0 3

2016 13 12 0 0 0 1

2017 13 9 1 0 0 3

2018 18 12 2 0 0 4

76 60 3 0 0 13 Tổng

78,9 4 0 0 17,1 Tỷ lệ %

Nguồn: TAND thị xã Điện Bàn

Nghiên cứu Bảng 2.3 cho thấy số bị cáo phạm tội vi phạm quy định về

43

tham gia GTĐB tại địa bàn thị xã Điện Bàn từ năm 2014 đến năm 2018 bị xét

xử theo khoản 1 Điều 202 của BLHS năm 1999 và khoản 1 Điều 260 của

BLHS năm 2015 chiếm tỷ lệ lớn nhất với 78,9%, tiếp theo là khoản 2 với tỷ lệ

là 17,1% và khoản 3 chiếm tỷ lệ 4%.

Trong số các bị cáo bị xét xử về Tội vi phạm quy định về tham gia

GTĐB thì đa số các bị cáo bị xét xử theo khoản 1 Điều 260 BLHS, tiếp đến là

khoản 2, khoản 3 Điều 260 BLHS; không có các bị cáo nào bị xét xử theo

khoản 4 Điều 260 BLHS. Các hình phạt đã tuyên từ năm 2014 đến năm 2018,

Tòa án không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính và không áp dụng

hình phạt cải tạo không giam giữ, áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo 18

bị cáo, tù từ 03 năm trở xuống là 39 bị cáo, tù trên 03 năm đến 07 năm là 14

bị cáo, tù trên 07 năm đến 15 năm là 05 bị cáo; đồng thời chưa từng áp dụng

hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 260 của BLHS. Điều này

cho thấy việc áp dụng hình phạt là nghiêm khắc, tính chất, mức độ nghiêm

trọng của hành vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB ở thị xã Điện Bàn là

khá cao, thiệt hại gây ra lớn.

2.4. Nhận xét, đánh giá

2.4.1. Ưu điểm, kết quả đạt được

- Việc định tội danh và quyết định hình phạt của TAND thị xã Điện

Bàn là khá chính xác, phù hợp, vừa bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật,

vừa bảo đảm tính nhân đạo trong từng trường hợp cụ thể. Vì vậy, số lượng

bản án có kháng cáo ít, kết quả phúc thẩm tỷ lệ giữ nguyên án sơ thẩm là chủ

yếu, không có vụ nào sửa về tội danh, đặc biệt không có vụ nào bị hủy.

- TAND thị xã Điện Bàn đã chủ động, nỗ lực và phối hợp tốt với cấp

ủy Đảng, chính quyền địa phương, các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ

quan bổ trợ tư pháp, hoàn thành tốt nhiệm vụ xét xử; kịp thời xét xử những vụ

án trọng điểm được dư luận quan tâm, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng,

44

chống tội phạm vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã.

- Chất lượng đội ngũ cán bộ hoạt động trong các cơ quan tố tụng từng

bước được nâng cao cả về chất lượng lẫn số lượng, chế độ chính sách, trang

thiết bị phương tiện phục vụ cho hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan

tố tụng ngày càng được quan tâm hơn.

2.4.2. Hạn chế, thiếu sót

Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự

đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã Điện

Bàn, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2014– 2018 còn bộc lộ một số hạn chế, thiếu

sót sau:

Thứ nhất, tội phạm vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn

thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2014 – 2018 vẫn còn xảy ra

nhiều, để xảy ra tình trạng này do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên

nhân thuộc về hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tiến hành

tố tụng mà trực tiếp là hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt của Cơ

quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân.

Thứ hai, việc quyết định hình phạt đối với tội phạm vi phạm quy định

về tham gia GTĐB còn chưa phù hợp, những vụ án vi phạm quy định về tham

gia GTĐB có sự khác nhau về mức độ hậu quả, song việc đánh giá hậu quả đó

theo định lượng luật định để đưa ra một hình phạt thích đáng không phải là

điều dễ dàng.

Thứ ba, Tòa án cũng đã có một số sai sót khi quyết định hình phạt: Bỏ

sót một số tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS, vận dụng không đúng tình tiết

tăng nặng, giảm nhẹ TNHS. Vẫn còn trường hợp quyết định hình phạt chưa

chính xác: Quyết định hình phạt quá nặng hoặc quyết định hình phạt quá nhẹ

so với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi gây ảnh hưởng đến quyền và

lợi ích hợp pháp hoặc không đảm bảo tính giáo giục đối với bị cáo và tính

45

phòng ngừa chung.

2.4.3. Một số vướng mắc trong thực tiễn áp dụng đối với tội vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn thị xã Điện Bàn,

tỉnh Quảng Nam

- Xác định nguyên nhân và lỗi trong các vụ tai nạn GTĐB:

Theo quy định của luật hình sự Việt Nam, thì lỗi là một trong những

yếu tố thuộc mặt chủ quan của CTTP. Lỗi là thái độ tâm lý của chủ thể đối

với hành vi nguy hiểm cho xã hội và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra thể

hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Trong tội vi phạm quy định về tham gia

GTĐB lỗi của người vi phạm luôn là lỗi vô ý. Thái độ tâm lý này là quá trình

tâm lý diễn ra trong ý thức của người vi phạm khi thực hiện hành vi vi phạm

quy định về tham gia GTĐB. Thực tiễn xét xử cho thấy trong nhiều vụ án

GTĐB các cơ quan tiến hành tố tụng đã xác định không đúng quan hệ nhân

quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả xảy ra cũng như lỗi của người vi phạm

(nhầm lẫn giữa nguyên nhân và điều kiện dẫn đến tai nạn; giữa lỗi hành chính

và lỗi hình sự) nên đã truy cứu TNHS không đúng đối với người vi phạm.

Ví dụ: Lúc 13h30 ngày 06/5/2018, Hoàng Văn T không có giấy phép

lái xe điều khiển xe môtô Dream II trên phần đường của mình lên thị xã Điện

Bàn. Khi đến ngã ba Phạm Phú Thứ - Mẹ Thứ, thấy phía trước cách khoảng

35 - 40m có một xe môtô Ware (do Nguyễn Văn B điều khiển) đi ngược

chiều, T bật tín hiệu xin đường và điều khiển xe sang bên trái đường. Do

phóng quá nhanh không kịp xử lý xe máy của B đã đâm vào xe máy của T

làm cho chiếc xe Dream II đổ nghiêng xuống đường và T bị thương nhẹ ở

chân, tay. Còn chiếc xe Ware đổ nghiêng và thia lia trên mặt đường, B bị

văng ra khỏi xe đầu đập xuống mặt đường và bị chết trên đường đưa đến bệnh

viện. Nguyên nhân của vụ tai nạn được xác định là do B (có uống rượu)

phóng xe nhanh, không xử lý kịp nên đâm vào xe của T gây ra tai nạn. Hoàng

Văn T bị truy tố và xét xử về tội “Vi phạm các quy định về tham gia GTĐB”

46

theo điểm a (không có giấy phép lái xe) khoản 2 Điều 260 BLHS.

Trong trường hợp nêu trên, tai nạn xảy ra là hoàn toàn do lỗi của B

(chạy quá tốc độ, không giảm tốc độ khi đến đường giao nhau, không xử lý

kịp nên đã gây tai nạn). Còn T khi sang đường có quan sát, ra tín hiệu xin

đường và khi thấy xe ngược chiều cách khá xa mới điều khiển xe sang bên kia

đường. Trong trường hợp này nếu B đi đúng tốc độ cho phép và giảm tốc độ

khi sắp vào đường giao nhau thì chắc chắn tai nạn không xảy ra. Mặc dù hành

vi của T có vi phạm quy định về tham gia GTĐB (điều khiển xe môtô phân

khối lớn không có giấy phép lái xe) nhưng đây chỉ là lỗi hành chính chứ

không phải lỗi hình sự. Mặt khác, trong quan hệ nhân quả giữa hành vi của B

và T với hậu quả xảy ra (B chết) thì nguyên nhân trực tiếp gây ra tai nạn là

hành vi của chính nạn nhân B. Còn hành vi của T chỉ là điều kiện (nguyên

nhân gián tiếp) dẫn đến vụ tai nạn. Vì vậy, trong hành vi của T còn thiếu một

yếu tố của mặt khách quan (quan hệ nhân quả) trong cấu thành cơ bản của tội

“Vi phạm các quy định về tham gia GTĐB” quy định tại khoản 2 Điều 260

BLHS. Trong vụ án này khi truy cứu TNHS đối với T các cơ quan tiến hành

tố tụng đã nhầm lẫn giữa lỗi hành chính với lỗi hình sự, giữa nguyên nhân và

điều kiện dẫn đến vụ tai nạn. Từ phân tích trên, thấy rằng không phải trong

mọi trường hợp khi người tham gia giao thông vi phạm các quy định về an

toàn GTĐB đều là người có lỗi trong việc gây ra tai nạn. Để có căn cứ truy

cứu TNHS đối với các hành vi vi phạm này, cần phải xác định đúng nguyên

nhân dẫn đến vụ tai nạn (mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm của họ

với hậu quả xảy ra) và lỗi của người vi phạm khi thực hiện hành vi đó là lỗi

hành chính hay lỗi hình sự. Nếu hành vi vi phạm của người tham gia GTĐB

không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tai nạn thì họ chỉ có lỗi về hành

chính và hành vi đó không CTTP.

- Vấn đề xử lý đối với các trường hợp dùng phương tiện tham gia giao

47

thông gây tai nạn ở những nơi không thuộc mạng lưới GTĐB:

Trường hợp phương tiện GTĐB hoạt động ở những nơi không thuộc

mạng lưới đường bộ như đường thôn xóm, đường làng, bản,... và gây hậu quả

nghiêm trọng cũng thường gặp nhiều trong thực tiễn tại thị xã Điện Bàn. Ví

dụ: Khi điều khiển xe ôtô trên đường thôn Nhất Giáp, xã Điện An, thị xã Điện

Bàn do tránh ổ gà, Nguyễn Hữu T đã điều khiển xe mô tô đã gây tai nạn làm

chết một người bên đường. Trong quá trình giải quyết, giữa các cơ quan

THTT của Điện Bàn cũng có nhiều quan điểm khác nhau.

Theo hướng xử lý thứ nhất thì về nguyên tắc, để truy cứu TNHS theo

Điều 260 BLHS, cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định được người tham

gia đã vi phạm vào điều khoản cụ thể nào (quy định về phần đường, tốc độ,...

hay là hành vi khác gây nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia

GTĐB) của Luật GTĐB. Nếu không xác định được điều khoản bị vi phạm thì

không có căn cứ để truy cứu TNHS đối với họ. Theo Luật GTĐB, thì đường

bộ gồm: đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ (điểm 1

Điều 3); mạng lưới đường bộ gồm: Quốc lộ, đường tỉnh, đường huyện, đường

xã, đường đô thị và đường chuyên dùng (Điều 39). Như vậy, trong trường hợp

trên, không thể xác định được điều khoản cụ thể của Luật GTĐB bị vi phạm

(vì nơi xảy ra tai nạn không thuộc mạng lưới GTĐB) nên không có căn cứ để

truy cứu TNHS về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB theo Điều 260

BLHS.

Theo hướng xử lý thứ hai thì cho rằng trường hợp trên hành vi vi phạm

của người lái xe mô tô đã CTTP theo quy định tại Điều 260 BLHS.

Tác giả cho rằng việc áp dụng Điều 260 BLHS để truy cứu TNHS đối

với trường hợp họ vi phạm và gây hậu quả nghiêm trọng là hoàn toàn phù hợp

với yêu cầu kiềm chế và đẩy lùi tai nạn GTĐB. Tuy nhiên, để tránh sự nhận

thức và áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cơ quan chức năng trong

48

xử lý đối với trường hợp gây tai nạn giao thông trong các trường hợp tương tự

nêu trên, tác giả cho rằng cần sửa đổi bổ sung một số quy định của Luật

GTĐB để phù hợp và tương thích với quy định BLHS.

- Vấn đề xác định thiệt hại để truy cứu TNHS trong các vụ tai nạn

GTĐB:

Thứ nhất, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành định khung của

tội phạm này trong trường hợp cụ thể, nhưng thực tiễn cho thấy có bất cập về

quy định, áp dụng pháp luật với trường hợp một người thực hiện hành vi

phạm tội này gây ra lớn hơn so hậu quả do hành vi của người khác cũng phạm

tội này gây ra, nhưng TNHS của người đã gây ra hậu quả lớn hơn đó lại nhẹ

hơn trách nhiệm hình sự của người cũng vi phạm quy định về tham gia GTĐB

mà hậu quả họ gây ra lại nhỏ hơn. Cụ thể như sau:

+ Trường hợp thứ nhất: Nguyễn Văn T điều khiển xe ôtô tải biển số

92A-219.49 đi sai phần đường nên đâm trực hiện vào xe môtô biển số 92F1-

03491, do chị Trần Thị Nh điều khiển, phía sau có chở chị Lâm Thị Mỹ H,

hậu quả vụ tai nạn này làm chị Nh bị tỉ lệ thương tật 71 % sức khỏe ; chị H. là

69% . Tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể của 02 người này là 140%. Do vậy, T bị

truy tố và bị Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn xét xử theo quy định tại điểm e

khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015, theo đó, điểm e khoản 2 Điều luật này

quy định: “2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù

từ 03 năm đến 10 năm:

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên

mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%”

+ Trường hợp thứ hai: Nguyễn Quang L điều khiển xe ôtô biển kiểm

soát 43H-1415, do L không làm chủ tốc độ, xử lý kém khi phát hiện có

chướng ngại vật trên đường, nên xe ô tô do L lái đâm vào xe môtô biển kiểm

soát 92B1-766.67 chạy ngược chiều do anh Trần Hiếu M điều khiển chở vợ là

49

chị Phạm Thị Minh H ngồi phía sau, hậu quả vụ tai nạn, làm chị H bị chấn

thương sọ não nặng, vỡ xương chậu và tử vong sau đó; anh M bị tổn thương

sức khỏe tỉ lệ thương tật qua giám định là 86%.

Nguyễn Quang L bị truy tố và xét xử về tội “Vi phạm quy định về tham

gia GTĐB” quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015.

Theo đó, tại điểm a, b khoản 1 Điều luật này quy định: “Người nào tham gia

GTĐB mà vi phạm quy định về an toàn GTĐB gây thiệt hại cho người khác

thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng

đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù

từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ

lệ tổn thương có thể 61% trở lên;”

Qua hai trường hợp cụ thể trên cho thấy, hậu quả xảy ra ở trường hợp

thứ nhất rõ ràng là nhẹ hơn (tỉ lệ thương tật chung của 02 người là 140%),

nhưng bị truy tố và xét xử theo khung 2 với mức hình phạt tù từ 03 năm đến

10 năm. Trong khi đó, với trường hợp thứ hai, hậu quả xảy ra là nặng hơn so

với trường hợp thứ nhất (01 người chết; 01 người bị thương tật vĩnh viễn

86%), nhưng chỉ bị truy tố và xét xử theo khung 1, có mức hình phạt tù từ 01

năm đến 05 năm.

Tương tự như vậy, nếu so sánh về mặt hậu quả do hành vi phạm tội này

gây ra, còn có thể phát hiện thêm bất cập khác tại điểm đ khoản 2 với điểm b

khoản 3 của Điều luật này. Cụ thể,

+ Trường hợp thứ ba: Nguyễn Thị D điều khiển xe ôtô từ cơ quan về

nhà, khi cách giao lộ đường Hoàng Diệu – đường Trần Nhân Tông của thị xã

Điện Bàn (tại đây có lắp tín hiệu giao thông đèn xanh đèn đỏ), do đạp nhầm

chân ga nên xe ô tô của D phóng nhanh về phía trước đâm thẳng vào 02 xe

môtô đang dừng rồi lao vào gốc cây cổ thụ ven đường cách đó chừng 15 m,

50

rồi mới dừng lại hẳn. Cơ quan chức năng tiền hành đo nồng độ cồn có trong

khí thở của chị D kết quả là 75 miligam/1 lít khí thở. Hậu quả vụ tai nạn này,

làm anh Trần Văn Th bị tổn hại sức khỏe tỉ lệ thương tật 62 %; anh Vũ Huy Đ

tổn hại sức khỏe 89% sức khỏe và ông Lâm Vĩnh Kh bị tổn hại sức khỏe

97%. Tổng tỉ lệ % sức khỏe của 03 người bị hại trong vụ tai nạn này là 248%.

Ngày 12/12/2018, Nguyễn Thị D bị TAND thị xã Điện Bàn phạt 08

năm 06 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia GTĐB” quy định tại

điểm b khoản 3 Điều 260 BLHS năm 2015.

+ Trường hợp thứ tư: Nguyễn Văn Đ điều khiển xe ôtô đi vào đường

ngược chiều xảy ra va chạm với 02 xe mô tô đang lưu thông đúng với phần

đường quy định. Hậu quả vụ tai nạn này, làm em Văn Thị T và Trần Thị Th

(học sinh Trường Phổ thông trung học Lương Thế Vinh) bị tử vong trên

đường đưa đi cấp cứu; ông Nguyễn Văn R bị tổn hại sức khỏe qua kết luật

giám định 91%.

Ngày 06/11/2018, TAND huyện Điện Bàn tuyên phạt Nguyễn Văn Đ

07 năm 06 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia GTĐB” quy định

tại điểm đ khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015.

Rõ ràng hậu quả của trường hợp thứ tư là nghiêm trọng hơn (02 người

chết, 01 người bị thương tỉ lệ thương tật 91%) so với hậu quả xảy ra ít nghiêm

trọng hơn của trường hợp thứ ba (03 người bị thương, tổng tỉ lệ thương tật

248%), nhưng khung hình phạt quy định phải áp dụng cho trường hợp thứ ba

là nặng hơn (hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm) so với khung hình phạt quy

định cho trường hợp thứ tư (hình phạt tù từ 03 năm đến 10 năm), từ đó, mức

hình phạt Tòa án áp dụng cho trường hợp thứ ba, nếu như không có nhiều tình

tiết giảm nhẹ TNHS thì cũng nặng hơn so với trường hợp thứ tư, rõ ràng đây

là một bất cập cần được các nhà làm luật nghiên cứu khắc phục.

Thứ hai, nội dung tại Điều 260 BLHS hiện hành đang thiếu quy định

chuyển từ khung hình phạt này sang khung hình phạt khác trong cùng điều

51

luật áp dụng.

Phần lớn mọi người đều biết, nếu hậu quả vụ tai nạn GTĐB mà người

điều khiển xe mô tô gây ra làm chết một người mà trong tình trạng say rượu

bia (nồng độ cồn trong máu hoặc hơi thở vượt mức quy định), lỗi hoàn toàn

thuộc về người tham gia, thì có thể bị xét xử về tội “Vi phạm quy định về

tham gia GTĐB”, theo khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung

năm 2017), mức hình phạt tù mà người gây ra tai nạn phải đối mặt từ 03 năm

đến 10 năm.

Tuy nhiên, nếu hỏi dựa trên căn cứ pháp lý nào để khẳng định như vậy,

thì thực tế hiện nay vẫn có không ít người không thể chỉ ra được quy phạm

nào điều chỉnh vấn đề này, hay nói cách khác, nội dung quy phạm tại Điều

260 BLHS hiện hành đang thiếu tính minh bạch với trường hợp chuyển khung

(từ khung 1 sang khung 2; từ khung 2 sang khung 3). Trường hợp vừa nêu

trên thực chất là việc các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền chuyển

khung (chuyển từ khoản 1 sang khoản 2) của Điều luật đang áp dụng, dù hậu

quả xảy ra chỉ ở khoản 1 (làm chết một người) nhưng do có tình tiết định

khung phạm tội “Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc

hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định” tại điểm b khoản 2 Điều 260

BLHS hiện hành, do vậy, việc điều tra, truy tố, xét xử trường hợp trên là hoàn

toàn chính xác.

Tương tự như vậy, các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt quy

định tại các điểm a, b, c, d của khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015 (sửa đổi,

bổ sung năm 2017), cụ thể: “a) Không có giấy phép lái xe theo quy định; b)

Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ

cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích

mạnh khác; c) Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp

người bị nạn; d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng

dẫn giao thông.” chưa được quy định là tình tiết tăng nặng định khung tại

52

khoản 3 của Điều luật này, từ đó, tạo ra sự lúng túng và không đảm bảo sự

công bằng của pháp luật khi áp dụng nhằm đấu tranh phòng ngừa, xử lý

nghiêm minh loại tội phạm này. Chẳng hạn, Nguyễn Văn A điều khiển xe mô

tô tham gia giao thông gây tai nạn cho phương tiện khác trong tình trạng có sử

dụng rượu mà nồng độ cồn đo được 85 miligam/100 mililít máu , hậu quả làm

chết 01 người, lỗi hoàn toàn thuộc về A. Trong trường hợp này, mặc dù hậu

quả xảy ra thuộc điểm a khoản 1, nhưng do khi A thực hiện hành vi phạm tội

trong tình trạng nồng độ cồn có trong máu vượt mức quy định tại khoản 3

Điều 8 Luật GTĐB năm 2008, do đó, A bị điều tra, truy tố, xét xử theo điểm b

khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015, có khung hình phạt tù từ 03 năm đến 10

năm.

Nhưng với trường hợp trên, nếu hậu quả xảy ra làm chết 02 người thì A

cũng chỉ bị truy tố, xét xử theo điểm b, điểm đ khoản 2 Điều 260 Bộ luật này

mà thôi. Đây rõ là một bất cập, dù biết rằng khung hình phạt tại khoản 2 Điều

260 BLHS năm 2015 thấp nhất là 03 năm tù và cao nhất là 10 năm tù, với

khoảng cách giữa mức thấp nhất và cao nhất khung hình phạt đã được ấn

định, Hội đồng xét xử tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm

tội và hậu quả xảy ra từng trường hợp cụ thể để quyết định mức hình phạt

tương xứng. Nhưng qua nghiên cứu từ thực tiễn xét xử loại tội phạm này từ

khi BLHS năm 2015 có hiệu lực thi hành đến nay cho thấy, do nhà làm luật

chưa có quy định các tình tiết từ điểm a đến điểm d tại khoản 2 là tình tiết

định khung tăng nặng tại khoản 3 của Điều luật này, nên hiệu quả trong công

tác đấu tranh phòng ngừa, răn đe tình trạng vi phạm pháp luật hình sự đối với

lọai tội phạm này mặt nào đó còn rất hạn chế, nhất là trong tình hình hiện nay,

tình trạng lái xe say rượu bia, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích

thần kinh mạnh khác mà gây tai nạn giao thông với hậu quả làm chết từ 03

người trở lên; làm bị thương cũng từ 03 người trở lên đang gây bức xúc trong

dư luận, điển hình như: Khoảng 12h ngày 11/04/2018, tài xế Nguyễn Đức H

53

điều khiển xe ô tô biển số kiểm soát 92X-23566 trong tình trạng nồng độ cồn

đo được vượt quá mức quy định đã lao vào đám tang, hậu quả làm 5 người

chết, 7 người khác bị thương.

Thứ ba, theo khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015: “Người thực hiện tội

phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về

tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và

được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và

đề nghị miễn TNHS, thì có thể được miễn TNHS.”

Có thể nói đây là nguyên tắc hoà giải trong luật hình sự nhằm giữ gìn

sự đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Tuy nhiên, việc hòa giải giữa người phạm

tội với người bị hại chỉ đối với hai loại tội phạm, đó là, tội phạm nghiêm trọng

do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng (không phân biệt tội phạm do cố ý hay

vô ý) gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản

của người khác, còn đối với các tội phạm khác thì không được hòa giải để

người bị hại đề nghị miễn truy cứu TNHS đối với người phạm tội.

Tuy nhiên thực tiễn áp dụng đã gặp phải vướng mắc với một số trường

hợp sau đây:

Trường hợp thứ nhất: Ngày 20/01/2017, anh Nguyễn Văn H điều khiển

xe ô tô vào đoạn đường khu đông dân cư của thị xã Điện Bàn nhưng thiếu chú

ý quan sát, không làm chủ được tốc độ, nên gây tai nạn với 02 xe mô tô đi

cùng chiều, hậu quả làm chết 01 người và gây thương tích cho 02 người khác

với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể qua giám định là 115%. H bị điều tra, truy tố

và xét xử theo điểm a, điểm c khoản 1 Điều 260 BLHS. Trường hợp này, nếu

đủ điều kiện theo quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ

sung năm 2017) thì có thể H được xem xét miễn TNHS.

Trường hợp thứ hai: Nguyễn Văn L điều khiển xe mô tô đi vào làn

đường ngược chiều, đâm vào xe mô tô do Nguyễn Thị Q điều khiển chở phía

sau là Lê Thị T, hậu quả làm Q và T bị thương, kết quả giám định tỉ lệ thương

54

tật lần lượt là 72%, 69% (tổng tỉ lệ thương tật của 02 người là 141%). Trường

hợp này, L bị truy tố, xét xử theo điểm c khoản 2 Điều 260 BLHS, và tất

nhiên, L không được các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét miễn TNHS theo

quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015.

Thực tiễn trên cho thấy, nếu so sánh về mức độ hậu quả, rõ ràng với

trường hợp thứ nhất là nghiêm trọng hơn so với trường hợp thứ hai, nhưng

việc cá thể hóa hình phạt thì L lại nặng hơn. Và hơn thế, L không thuộc diện

để có thể được miễn TNHS nhưng trường hợp của H thì có. Đó là sự bất công

bằng thể hiện tại Điều 260 và khoản 3 Điều 29 BLHS.

Trên đây là một số điểm mới và vướng mắc, bất cập từ thực tiễn áp

dụng Điều 260 BLHS 2015, để việc áp dụng điều luật thật sự chính xác và

hiệu quả thì rất cần sự quan tâm của các cơ quan liên ngành Trung ương, để

sớm ban hành hướng dẫn thống nhất trong áp dụng. Có như vậy, công tác đấu

tranh phòng, chống loại tội phạm này trong thực tiễn mới đạt hiệu quả, góp

phần bảo đảm ngày càng tốt hơn trật tự xã hội, an toàn giao thông.

2.4.4. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót

Những hạn chế, thiếu sót trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan

và khách quan, trong đó những nguyên nhân chủ yếu đó là:

- Quy định của pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia

GTĐB còn bất cập, chưa hợp lý gây khó khăn cho các cơ quan áp dụng pháp

luật.

- Hoạt động hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự nói chung, áp dụng

pháp luật hình sự đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB nói riêng

chưa được chú trọng, các văn bản hướng dẫn áp dụng đối với Tội vi phạm

quy định về tham gia GTĐB còn thiếu, chồng chéo, chưa cụ thể, rõ ràng gây

khó khăn cho các cơ quan áp dụng pháp luật.

- Các vụ án về GTĐB ngày càng gia tăng và phức tạp.

- Một số vụ án giao thông có cơ chế hình thành dấu vết, thương tích rất

55

đặc biệt; không có nhân chứng; việc khám nghiệm hiện trường diễn ra muộn

do yếu tố thời tiết,... gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó

có hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án.

- Việc giám định bị gia đình, đại diện bị hại từ chối, ngăn cản dẫn đến

không thể truy cứu TNHS của người phạm tội dù hành vi đã rất rõ.

- Chưa chú trọng công tác tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự

đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, do đó việc đánh giá thực

trạng áp dụng, những ưu điểm, hạn chế, bất cập trong hoạt động áp dụng để từ

đó có biện pháp giải quyết, điều chỉnh kịp thời chưa được tiến hành thường

xuyên.

- Hiện nay ở nước ta chưa xây dựng được hệ thống án lệ hoàn chỉnh

trong việc xét xử các vụ án vi phạm quy định về tham gia GTĐB, dẫn đến

tình trạng quyết định hình phạt không thống nhất.

- Năng lực, trình độ chuyên môn, bản lĩnh chính trị, nghề nghiệp của

đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có

Thẩm phán, Thư ký Tòa án còn hạn chế, một số còn yếu, chưa đáp ứng được

yêu cầu công tác. Một số Thẩm phán chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm

trong công tác, không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án và các quy định của pháp

luật có liên quan nên xét xử còn sai sót.

- Công tác tổ chức và cán bộ chưa được quan tâm đúng mức, số lượng

và chất lượng Thẩm phán, Thư ký Tòa án chưa đồng đều, ảnh hưởng đến chất

lượng xét xử; công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chưa được thường xuyên,

chưa có chuyên đề chuyên sâu. Điều kiện phương tiện, cơ sở vật chất, kỹ

56

thuật còn hạn chế, lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác.

Tiểu kết chương 2

Từ những nghiên cứu trên có thể thấy rằng, vấn đề định tội danh và

quyết định hình phạt đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB có ý

nghĩa hết sức to lớn cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Để có được những quyết

định chính xác và đúng pháp luật khi tiến hành định tội danh và quyết định

hình phạt đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB đòi hỏi người áp

dụng pháp luật phải nhận thức đúng đắn về mặt lý luận của việc định tội danh

và quyết định hình phạt.

Trong Chương 2 của luận văn tác giả đã làm rõ một số vấn đề lý luận

về định tội danh và quyết định hình phạt từ đó làm cơ sở cho việc áp dụng

đúng pháp luật hình sự đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên

địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Đồng thời, Chương 2 của luận văn đã phân tích, làm rõ thực tiễn áp

dụng pháp luật hình sự đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên

địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, cụ thể:

Đã phân tích làm rõ thực tiễn vấn đề định tội danh đối với Tội vi phạm

quy định về tham gia GTĐB theo CTTP cơ bản, theo CTTP tăng nặng và đưa

ra những số liệu và vụ án điển hình dẫn chứng để làm rõ.

Phân tích làm rõ thực tiễn vấn đề quyết định hình phạt đối với Tội vi

phạm quy định về tham gia GTĐB theo CTTP cơ bản, theo CTTP tăng nặng,

và đưa ra vụ án điển hình dẫn chứng.

Trên cơ sở phân tích thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với Tội

vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh

Quảng Nam có thể thấy rằng, thực tiễn hoạt động xét xử các vụ án vi phạm

quy định về tham gia GTĐB của TAND thị xã Điện Bàn đã đạt được nhiều

thành quả đáng khích lệ, góp phần quan trọng giữ vững an ninh chính trị, trật

57

tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của công

dân. Tuy nhiên, hoạt động xét xử các vụ án vi phạm quy định về tham gia

GTĐB trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam vẫn còn bộc lộ những

sai sót, hạn chế nhất định. Chính vì vậy, cần phải kịp thời khắc phục những

sai sót, hạn chế đó nhằm giải quyết các vụ án một cách có hiệu quả cao nhất

đáp ứng được yêu cầu của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói

chung và tội phạm vi phạm quy định về tham gia GTĐB nói riêng.

Những phân tích, nhận xét, đánh giá này là cơ sở quan trọng để đề ra

các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy

định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam trong

58

thời gian tới.

CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI

VỚI TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG

ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN,

TỈNH QUẢNG NAM

3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ

Để giảm thiểu các tai nạn giao thông nói chung và tội phạm trong lĩnh

vực GTĐB nói riêng thì sự hoàn thiện về hệ thống pháp luật giữ vai trò chính

yếu và then chốt. Đó là hành lang pháp lý để đảm bảo trật tự, văn hóa giao

thông. Sự tác động đến đời sống xã hội, văn hóa của người dân là rất lớn. Đơn

cử như ý thức giao thông trong thời gian qua được nâng tầm rõ rệt khi Luật

phòng chống tác hại của rượu, bia năm 2019 và Nghị định 100/2019/NĐ-CP

ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt được ban hành. Song song với đó,

sự hoàn thiện của BLHS mang một vị trí vô cùng quan trọng. Bởi lẽ, đó là

“chốt chặn” sau cùng cho những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong lĩnh

vực GTĐB. Pháp luật hình sự phải “đủ mạnh”, “đủ chặt” để nâng cao ý thức

giao thông cũng như xử lý thỏa đáng các hành vi xâm phạm sức khỏe, tính

mạng và tài sản của công dân, qua đó phòng ngừa, giáo dục tội phạm.

BLHS năm 1999 chưa đánh giá được hết sự khác nhau về tính chất và

mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm quy định về tham gia

GTĐB, nhất là về mặt hậu quả. Do đó, điều luật còn mang tính định tính, dẫn

đến việc áp dụng gặp nhiều khó khăn. BLHS năm 2015 đã quy định mở rộng

đối tượng điều chỉnh của tội phạm và định lượng các hậu quả giúp các cơ

quan tiến hành tố tụng thuận tiện hơn trong việc định tội danh và quyết định

59

hình phạt. Tuy nhiên, cần phải hoàn thiện một số vấn đề sau:

Thứ nhất, việc định lượng thiếu một số trường cụ thể:

- Trường hợp thứ nhất: Người tham gia GTĐB vi phạm quy định về an

toàn GTĐB làm chết 01 người và gây các hậu quả khác từ điểm b đến điểm d

khoản 1 Điều 260.

- Trường hợp thứ hai: Người tham gia giao thông vi phạm quy định về

an toàn giao thông làm chết 02 người và gây các hậu quả khác từ điểm a đến

điểm d, từ điểm e đến điểm g khoản 2 Điều 260.

Như vậy, cần bổ sung hai trường hợp nói trên vào Điều 260 BLHS.

Thứ hai, cần xem xét sửa đổi, bổ sung BLHS hiện hành lần tới theo

hướng quy định các tình tiết từ điểm a đến điểm d khoản 2 với một trong các

tình tiết định khung quy định tại khoản 3 thành khoản mới. Theo đó, khoản

mới của Điều 260 BLHS (sau khi được sửa đổi, bổ sung) được viết, như sau:

“Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm c

khoản 3 Điều này mà còn có thêm một trong những tình tiết quy định từ điểm

a đến điểm d khoản 2, thì bị phạt tù từ … năm đến … năm.”

Thứ ba, đề nghị bỏ khoản 4 Điều 260 BLHS. Bởi lẽ, điều luật quy định

CTTP vật chất tức là đòi hỏi phải có hậu quả do hành vi phạm tội gây ra.

Hình phạt được áp dụng phải căn cứ vào mức độ hậu quả xảy ra. Tuy nhiên,

khoản 4 của điều luật lại quy định theo CTTP hình thức, tức hậu quả của tội

phạm chưa xảy ra. Tác giả cho rằng quy định này không phù hợp với kết cấu

của điều luật và thiếu tính khả thi trên thực tế.

Thực tế tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam cho thấy mặc dù khoản 4

Điều 202 BLHS 1999 cũng có quy định hành vi này nhưng chưa có trường

hợp nào bị truy tố, xét xử theo quy định. Nguyên nhân là do thiếu căn cứ để

xác định mức độ nguy hiểm của hành vi đã đủ yếu tố CTTP này hay chưa và

giả sử xác định một hành vi nào đó đã phạm tội vi phạm quy định về an toàn

giao thông đường bộ theo quy định tại khoản 4 Điều 260 của BLHS năm 2015

60

thì dựa vào căn cứ nào để đưa ra mức hình phạt cho hành vi phạm tội đó. Tác

giả cho rằng không nên quy định loại hành vi này là một hành vi phạm tội

trong BLHS.

Như vậy, như đã phân tích, kiến nghị ở trên, các mô tả trong CTTP của

Điều 260 BLHS cần được bỏ đi một số quy định không cần thiết, không có

trên thực tiễn và không phù hợp về mặt lý luận. Tuy nhiện, với tình hình tội

phạm về GTĐB có xu hướng gia tăng về số lượng và mức độ nguy hiểm như

hiện nay đòi hỏi phải bổ sung một số trường hợp để có căn cứ xử lý hành vi

nguy hại cho xã hội của hành vi này, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống

tội phạm GTĐB, phát huy hiệu lực, vai trò của BLHS, bảo vệ lợi ích của cộng

đồng, công dân.

3.2. Hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ

Hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động rất quan trọng, bởi

vì trong quá trình xây dựng pháp luật các quy định pháp luật thường được mô

tả một cách ngắn gọn, do đó cần thiết phải làm rõ về tinh thần, nội dung,

phạm vi, ý nghĩa, mục đích các quy định pháp luật so với nội dung ban đầu

của nó, từ đó giúp mọi người hiểu, thực thi các quy định pháp luật một cách

chính xác và thống nhất.

Thứ nhất, đối với trường hợp vi phạm quy định về tham gia GTĐB mà

có sự phù hợp với quy định miễn TNHS theo khoản 3 Điều 29 BLHS năm

2015: “Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng

do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản

của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự

nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS”, thì có thể được miễn TNHS thì cần

có hướng dẫn áp dụng kịp thời, đảm bảo tính nhân văn của BLHS.

Chẳng hạn, người phạm tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB quy

61

định tại khoản 1 Điều 260 của BLHS năm 2015, được đại diện của người bị

hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS là thuộc trường hợp xem xét

miễn TNHS theo khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015.

Thứ hai, cũng liên quan đến hành vi vi phạm quy định về tham gia

GTĐB quy định tại khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015, trong giai đoạn giải

quyết tin báo, tố giác tội phạm, người phạm tội đã tự nguyện bồi thường toàn

bộ thiệt hại cho gia đình người bị hại và được người bị hại hoặc người đại

diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS. Như vậy,

người phạm tội có đủ các điều kiện để được xem xét miễn TNHS theo khoản

3 Điều 29 BLHS năm 2015, nhưng vì không có căn cứ để ra Quyết định

không khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại Điều 157 BLTTHS năm 2015

nên Cơ quan điều tra phải tiến hành ra các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị

can, áp dụng biện pháp ngăn chặn, sau đó, mới ra Quyết định đình chỉ điều tra

vụ án, bị can theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 230 BLTTHS năm 2015.

Đây là điều bất hợp lý và không cần thiết.

Theo quy định tại Điều 18 BLTTHS năm 2015: “Khi phát hiện hành vi

có dấu hiệu tội phạm, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan

có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm khởi tố vụ án…”. Do đó, khi

hành vi của người thực hiện hành vi vi phạm quy định tham gia GTĐB đã đủ

yếu tố CTTP thì phải khởi tố, nếu không khởi tố thì sẽ trái với quy định của

BLTTHS năm 2015 về căn cứ không khởi tố hình sự. Hơn nữa, tại Điều 157

BLTTHS năm 2015, theo đó quy định các căn cứ không khởi tố hình sự lại

không có căn cứ nào thuộc Điều 29 BLHS năm 2015. Sau khi khởi tố, chiếu

theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 230 BLTTHS năm 2015 quy định về

đình chỉ điều tra “Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra khi thuộc

một trong các trường hợp: a) Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2

Điều 155 và Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16

hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự”.Hoặc theo khoản 1

62

Điều 248 BLTTHS năm 2015 thì “Viện kiểm sát quyết định không truy tố và

ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2

Điều 155 và Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16

hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của BLHS”.

Như vậy, rõ ràng có sự nhanh chóng kịp thời trong công tác đấu tranh

phòng chống tội phạm nếu áp dụng miễn TNHS đối với hành vi vi phạm quy

định về tham gia GTĐB tại khoản 1 Điều 260 của BLHS ngay từ giai đoạn

ban đầu của tố tụng (giai đoạn giải quyết tin báo, tố giác). Nhưng sẽ bị coi là

“vượt rào” vì chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể từ phía cơ quan nhà nước có

thẩm quyền. Hơn nữa, các dấu hiệu pháp lý CTTP quy định tại khoản 1 Điều

260 BLHS năm 2015 đều thỏa mãn, cơ quan tiến hành tố tụng có đủ căn cứ để

truy cứu TNHS, chứ không phải thuộc trường hợp hành vi không CTTP. Nếu

không chặt chẽ về mặt thủ tục tố tụng ở trường hợp này rất dễ phát sinh

những khiếu nại, tố cáo sau này. Nhưng nếu cứ cứng nhắc khởi tố để rồi đình

chỉ, việc tuân thủ pháp luật tố tụng hình sự trong hoạt động điều tra của Cơ

quan điều tra được bảo đảm, nhưng phải kéo dài thời gian, tạo ra tâm lý căng

thẳng đối với người phạm tội khi phải chịu những hậu quả pháp lý do bị khởi

tố, áp dụng biện pháp ngăn chặn và trong chừng mực nào đó có thể ảnh

hưởng sâu sắc đến hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.

Do đó, kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn áp dụng

vấn đề này để tạo cơ chế cho việc áp dụng miễn TNHS có căn cứ, đảm bảo

tính nhân đạo của chính sách hình sự Việt Nam.

Thứ ba, điểm b khoản 2 Điều 260 BLHS mới bổ sung nội dung “có sử

dụng chất ma túy” là tình tiết định khung tăng nặng. Quy định này có lẽ là sự

điều chỉnh với một số vụ tai nạn giao thông gây bức xúc cho xã hội giai đoạn

gần đây. Điển hình là vụ tài xế điều khiển xe container dương tínhvới ma túy

đã đâm phải 21 xe máy và làm 04 người chết ở tỉnh Long An [39].Tuy nhiên,

thực tiễn cuộc sống hiện nay có rất nhiều loại ma túy, các chất tương tự như

63

ma túy được sử dung tràn lan trong xã hội như: Methammethamine, herroin,

cần sa, cỏ Mỹ,…Trong khi đó, khi các vụ tai nạn giao thông xảy ra, đối với

trường hợp người gây tai nạn giao thông, người bị tai nạn giao thông được

đưa đến cơ sở y tế để cấp cứu, điều trị thì chưa có cơ sở y tế nào được giao

nhiệm vụ tổ chức xét nghiệm ma túy, hiện chỉ làm được việc đo nồng độ cồn

trong máu hoặc trong hơi thở. Trường hợp người gây tai nạn đến trình diện tại

cơ quan công an việc kiểm tra nhanh có sử dụng ma túy hay không chưa được

văn bản pháp luật hướng dẫn.

Chính vì vậy, việc áp dụng BLHS 2015 đối với Tội vi phạm quy định

về tham gia GTĐB cần thiết phải được hướng dẫn áp dụng một cách cụ thể,

đảm bảo khách quan, thống nhất.

Hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động rất quan trọng, bởi

vì trong quá trình xây dựng pháp luật các quy định pháp luật thường được mô

tả một cách ngắn gọn, do đó cần thiết phải làm rõ về tinh thần, nội dung,

phạm vi, ý nghĩa, mục đích các quy định pháp luật so với nội dung ban đầu

của nó, từ đó giúp mọi người hiểu, thực thi các quy định pháp luật một cách

chính xác và thống nhất.

3.3. Tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ

Tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động của các cơ

quan pháp luật (trong đó chủ yếu là các cơ quan tiến hành tố tụng) tổng hợp

kinh nghiệm giải quyết vụ án hình sự, tổng hợp việc áp dụng pháp luật hình

sự trong hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng theo những chủ đề nhất định

và trong một khoảng thời gian nhất định.

Trong hoạt động tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, các chủ

thể tham gia tổng kết tiến hành nêu lên các kết quả và thành tựu đạt được

trong quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật vào giải quyết vụ án hình sự

64

trong thực tiễn như: Nêu lên các vụ án tiêu biểu; các đường lối xử lý vụ án

hình sự đúng đắn và nhanh chóng; các bản án, quyết định có tính mẫu mực và

chính xác cao nhằm tuyên dương đồng thời làm tấm gương, tiêu chí để các

chủ thể khác học tập và noi theo; các kết quả cụ thể trong công tác phối hợp

liên ngành giữa các cơ quan hoặc phối hợp giữa các quốc gia trong quá trình

đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung hoặc đối với một tội (một nhóm

tội) cụ thể… Bên cạnh việc nêu lên các kết quả và thành tựu đạt được, các chủ

thể tham gia hoạt động tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự còn nêu

lên những sai lầm, vướng mắc trong hoạt động áp dụng các quy phạm pháp

luật vào thực tiễn giải quyết vụ án hình sự như: Nêu lên các vụ án oan sai

hoặc các vụ án có đường lối giải quyết sai lầm, chưa đúng đắn; các văn bản áp

dụng pháp luật hình sự được ban hành không đúng thẩm quyền hoặc lựa chọn

sai quy định của pháp luật để áp dụng trong giải quyết vụ án hình sự hoặc áp

dụng không đúng đối tượng; hoặc các vụ án hình sự quá thời hạn giải quyết

theo quy định của pháp luật… từ đó rút kinh nghiệm, có những điều chỉnh

phù hợp, kịp thời.

Hoàn thiện pháp luật hình sự nói chung luôn là hoạt động cần thiết do

các quy phạm pháp luật hình sự không phải lúc nào cũng phù hợp với thực tế

xã hội, khi xã hội ngày càng có nhiều biến đổi thì các quy phạm pháp luật

hình sự cũng cần sửa đổi để phù hợp với sự biến đổi đó. Trong công tác hoàn

thiện pháp luật hình sự đó, hoạt động tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật

hình sự có ý nghĩa rất lớn. Việc tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự

giúp phản ánh được những vấn đề chưa phù hợp của các quy phạm pháp luật

hình sự khi áp dụng vào thực tiễn, qua đó nhà làm luật sẽ phân tích và đánh

giá nguyên nhân dẫn đến sự chưa phù hợp đó để đưa ra các giải pháp sửa đổi

các quy phạm pháp luật hình sự sao cho tính phù hợp của các quy phạm pháp

luật này đối với thực tế được nâng cao hơn, đảm bảo tính khả thi cao của các

quy phạm pháp luật hình sự khi được đưa vào vận dụng để giải quyết vụ án

65

hình sự.

Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham

gia GTĐB trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam nhìn chung là đúng

người đúng tội, đúng pháp luật, không xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm, đảm

bảo các lợi ích hợp pháp của người phạm tội khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên,

bên cạnh đó trong công tác xét xử vẫn còn vẫn còn nhiều vấn đề cần phải sửa

đổi để rút kinh nghiệm từ đó có những hướng dẫn cụ thể trong việc giải quyết

các vụ án. Thông qua việc tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật nhằm phát

hiện kịp thời những thiếu sót, hạn chế và vướng mắc của các quy định của

pháp luật trong quá trình áp dụng trên thực tiễn để từ đó có những đề xuất,

kiến nghị kịp thời để sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn các quy định của pháp

luật chính xác, phù hợp hơn và đạt kết quả điều chỉnh cao hơn nhằm tạo căn

cứ pháp lý vững chắc cho việc giải quyết các vụ án được chính xác và có tính

thuyết phục cao hơn.

3.4. Nâng cao năng lực của cán bộ áp dụng pháp luật hình sự đối

với Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

- Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, nâng cao ý thức chính trị, đạo đức

nghề nghiệp, trình độ năng lực chuyên môn, thực hiện tốt chế độ chính sách

cho đội ngũ Thẩm phán và Thư ký Tòa án.

Để bảo đảm chất lượng của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của

Tòa án, việc đổi mới công tác tổ chức cán bộ có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Bởi suy cho cùng công tác cán bộ là yếu tố con người - chủ thể trực tiếp áp

dụng pháp luật.

Tập trung xây dựng đội ngũ Thẩm phán xét xử vụ án hình sự có chuyên

môn hóa cao, là những chuyên gia giỏi cả về lý luận và thực tiễn (có thể

chuyên môn hóa theo nhóm tội danh của BLHS). Quá trình tuyển chọn này

phải được sàng lọc và chứng minh từ thực tế xét xử, từ chất lượng các bản án

hình sự đã xét xử, được sự đánh giá cao của đồng nghiệp, cấp trên, của các cơ

66

quan tố tụng khác, Luật sư, Hội thẩm..., kịp thời phát hiện những công chức,

thẩm phán có năng khiếu, năng lực sở trường về xét xử án hình sự để đào tạo,

bồi dưỡng chuyên sâu.

TAND Tối cao cần tăng cường hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng,

tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng xét xử cho đội ngũ Thẩm

phán, Thư ký Tòa án các cấp. Cần đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về công tác

xét xử các vụ án phạm tội về GTĐB.

Tăng cường công tác kiểm tra, kịp thời phát hiện sai sót đồng thời tổ

chức rút kinh nghiệm chung. Định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm

công tác xét xử các vụ án về GTĐB.

Nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học cho

đội ngũ Thẩm phán, Thư ký Tòa án các cấp. Các Thẩm phán, thư ký Tòa án

nêu cao tinh thần trách nhiệm, tự rèn luyện, học tập trau rồi kiến thức chuyên

môn, kỹ năng nghề nghiệp. Có chính sách khuyến khích Thẩm phán, Thư ký

Tòa án các cấp tích cực học tập để nâng cao trình độ, đáp ứng nhiệm vụ được

giao. Thường xuyên tổ chức tập huấn, hội thảo các chuyên đề về luật hình sự,

luật tố tụng hình sự, kỹ năng nghiệp vụ xét xử án hình sự. Tổ chức các phiên

tòa mẫu, phiên tòa rút kinh nghiệm, yêu cầu các Thẩm phán khác dự và đóng

góp ý kiến.

Thường xuyên phát động các phong trào, đặc biệt là thực hiện tốt

phong trào học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, thực hiện tốt

lời Bác Hồ dạy: “Phụng công thủ pháp, chí công vô tư”. Không chỉ có đủ

năng lực trình độ mà mỗi Thẩm phán, Thư ký Tòa án cần phải tự ý thức được

rằng: Quyền lực Nhà nước là của nhân dân, nhân dân trao cho mình là để

phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân. Không được sử dụng tùy tiện quyền lực

ấy hoặc để tư lợi, phải biết vượt qua các cám dỗ, để tận tụy phục vụ nhân dân,

trung thành với Tổ quốc, với chế độ, dũng cảm bảo vệ công lý, công bằng xã

67

hội, quyền và lợi ích chính đáng hợp pháp của công dân.

Lao động của Thẩm phán, Thư ký Tòa án là lao động đặc thù, chịu

nhiều áp lực, đòi hỏi phải có trí tuệ, bản lĩnh, chuyên môn nghiệp vụ cao, cần

phải có chế độ chính sách tương xứng. Bên cạnh đó, phải kịp thời khen

thưởng, động viên những Thẩm phán, Thư ký Tòa án có nhiều thành tích. Xây

dựng các danh hiệu như Thẩm phán nhân dân, Thẩm phán ưu tú… để xã hội

tôn vinh những Thẩm phán mẫu mực.

- Nâng cao chất lượng hoạt động, chế độ chính sách của Hội thẩm nhân

dân.

Hội thẩm nhân dân là những thành viên của Hội đồng xét xử, là những

người có uy tín trong nhân dân được Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra để

thay mặt nhân dân trực tiếp tham gia xét xử các vụ án, là chủ thể quan trọng

trong việc áp dụng pháp luật hình sự tại Tòa án.

Tòa án cần tổ chức tập huấn nghiệp vụ xét xử, bồi dưỡng kiến thức

pháp lý cho các Hội thẩm nhân dân. Hội thẩm nhân dân cần chủ động tìm

hiểu pháp luật, nâng cao trách nhiệm của mình đối với công tác xét xử, để có

đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ Hội thẩm của mình. Đoàn Hội thẩm

nhân dân cần độc lập về tài chính và việc bố trí Hội thẩm tham gia phiên tòa.

Để khuyến khích Hội thẩm nhân dân nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích cực

nghiên cứu hồ sơ, tham gia xét xử có hiệu quả cần có chế độ đãi ngộ tương

xứng. Kinh phí hoạt động của Đoàn Hội thẩm nhân dân cần phải độc lập

không phụ thuộc vào Tòa án như hiện nay, để Đoàn Hội thẩm chủ động chi

trực tiếp cho các Hội thẩm tham gia nghiên cứu hồ sơ và xét xử.

- Nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan điều tra và công tố cũng

như các cơ quan bổ trợ tư pháp khác. Trong chiến lược cải cách tư pháp, Tòa

án được xác định là trung tâm, xét xử là trọng tâm. Xét xử là một giai đoạn tố

tụng độc lập, nhưng chất lượng xét xử phụ thuộc rất lớn vào chất lượng hoạt

động của cơ quan điều tra, cơ quan công tố và chất lượng hoạt động của các

68

cơ quan bổ trợ tư pháp. Lực lượng Công an nhân dân mà trực tiếp là lực

lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về GTĐB cần nâng cao hiệu quả hoạt động

thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ, tuân thủ các quy định của Bộ luật

TTHS trong quá trình điều tra vụ án, đảm bảo quá trình điều tra được tiến

hành một cách khách quan, toàn diện, kịp thời, chính xác. Đối với Kiểm sát

viên phải bám sát tiến độ điều tra, kiểm sát hoạt động điều tra, kịp thời phát

hiện những sơ hở, thiếu sót, đảm bảo hoạt động tố tụng được tiến hành đúng

theo quy định pháp luật.

3.5. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong lĩnh vực giao

thông đường bộ, an toàn công cộng, trật tự công cộng

Vấn đề tuyên truyền giáo dục cho mọi công dân hiểu pháp luật và có ý

thức chấp hành pháp luật trong đó có pháp luật trật tự an toàn giao thông là

vấn đề có tính chất tiền đề để xây dựng một trật tự xã hội mới. Bởi vì, đối

tượng chủ yếu cơ bản nhất của hoạt động giao thông quốc gia chính là quần

chúng nhân dân.

Cần phải xây dựng một chiến lược tuyên truyền pháp luật trật tự an

toàn giao thông ở tầm quốc gia trong đó có sự tham gia của các ngành văn

hóa thông tin, công an, giáo dục đào tạo, tư pháp... trang bị tri thức pháp luật

nói chung và pháp luật hình sự nói riêng, hướng dẫn các thói quen ứng xử tích

cực và chỉ tuân theo pháp luật. Bên cạnh đó, thông qua các hình thức như:

tuyên truyền miệng qua các buổi nói chuyện về trật tự an toàn giao thông tại

các cơ quan nhà nước, tổ chức quần chúng, địa bàn dân cư; tổ chức hội nghị,

hội thảo về chuyên đề an toàn giao thông; tuyên truyền, phổ biến các văn bản

liên quan đến quy chế dân chủ ở cơ sở, quy định dân chủ trong các văn bản

pháp luật, phường xã; phổ biến các quyền công dân, quyền con người, quyền

tự do, dân chủ của công dân trong Hiến pháp và pháp luật, nội dung cụ thể

của các quyền này; bồi dưỡng tình cảm, tâm lý pháp luật về việc tôn trọng

pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống, giữ gìn và bảo vệ an ninh trật

69

tự, an toàn xã hội; tổ chức các câu lạc bộ pháp luật về an toàn giao thông;

thành lập đội thông tin cổ động; mở các cuộc thi tìm hiểu về an toàn giao

thông; phát động thi đua, tổ chức các buổi ra quân, các chiến dịch bảo đảm an

toàn giao thông như tháng an toàn giao thông; phổ biến luật GTĐB qua các lễ

hội truyền thống, sinh hoạt văn hóa, phim, tranh ảnh, tờ rơi, pa nô, áp phích,

thông báo trên các bảng tin của Ủy ban nhân dân phường, xã, thôn, xóm.

Vấn đề pháp luật trật tự an toàn giao thông cần được đưa vào giảng dạy

ở các nhà trường và bắt đầu từ các nhà trẻ, trường mẫu giáo. Tăng cường giáo

dục và nâng cao chất lượng đào tạo lái xe, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục

pháp luật trật tự an toàn giao thông cho người đi bộ, học sinh, sinh viên... phù

hợp với điều kiện giao thông hiện đại, nâng cao trình độ và ý thức pháp luật,

tổ chức và tính giác ngộ của những người đi bộ, những người tham gia giao

thông. Cần đề ra các biện pháp giáo dục những thói quen bền vững của trẻ

em, học sinh, sinh viên về pháp luật an toàn giao thông.

3.6. Tổ chức mạng giao thông và điều khiển hoạt động giao thông

đường bộ, quản lý các phương tiện và người tham gia giao thông đường

bộ, cấp giấy phép lái xe, đăng ký phương tiện giao thông đường bộ

Tổ chức điều khiển thông đường bộ là một biện pháp công tác rất cơ

bản của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm đảm bảo trật tự an toàn

GTĐB và phòng ngừa tai nạn giao thông, chống ùn tắc giao thông. Chủ thể

chính tiến hành công tác này thuộc về lực lượng của hai ngành là Giao thông

vận tải và Công an.

Tổ chức điều khiển thông đường bộ bao gồm tổ chức mạng giao thông

đảm bảo trật tự an toàn và thông suốt; tổ chức hệ thống thông tin, tín hiệu

điều khiển hoạt động giao thông; chỉ huy điều khiển GTĐB và đô thị.

Nội dung cơ bản của biện pháp này là:

+ Phân làn, phân luồng, phân tuyến và thời gian đi lại cho người và

70

phương tiện tham gia giao thông trên đường bộ;

+ Quy định các đoạn đường cấm, đường một chiều, nơi cấm dừng, cấm

đỗ, cấm quay đầu, lắp đặt hệ thống báo hiệu đường bộ;

+ Thông báo khi có sự thay đổi về phân luồng, phân tuyến, thời gian đi

lại tạm thời hoặc lâu dài; thực hiện các biện pháp ứng cứu khi có sự cố bất

thường xảy ra và các biện pháp khác về đi lại trên đường bộ để đảm bảo giao

thông được thông suốt, an toàn;

+ Bố trí, sắp xếp hợp lý quá trình lưu thông để nâng cao hiệu quả sử

dụng phương tiện giao thông, khai thác tối đa năng lực vận tải và khả năng

thông xe tại các nút giao thông; giảm thời gian đình trệ, ô nhiễm môi trường,

hạn chế tối đa ùn tắc giao thông, tai nạn giao thông trên đường bộ.

Quản lý các phương tiện và người tham gia GTĐB, cấp giấy phép lái

xe, đăng ký phương tiện GTĐB. Đây là biện pháp quản lý hành chính nhà

nước công khai, do các cơ quan chức năng tiến hành trên cơ sở các quy định

của pháp luật, thể lệ hành chính của nhà nước để đăng ký, kiểm tra, kiểm soát

đối với phương tiện và người tham gia giao thông cũng như chấp hành luật

GTĐB nhằm nắm vững thực trạng phương tiện và người tham gia; góp phần

đắc lực cho công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đất nước.

Trong đó, đăng ký phương tiện giao thông cơ giới đường bộ là một nội dung

quan trọng được tiến hành qua nhiều bước như: cấp phát hồ sơ, hướng dẫn kê

khai biểu mẫu, tiếp nhận và kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ đăng ký, đối chiếu

kiểm tra thực tế phương tiện, cấp biển số và giấy chứng nhận đăng ký cho chủ

phương tiện... Việc đăng ký, quản lý phương tiện giao thông cơ giới đường bộ

không những xác định tư cách pháp lý cho chủ phương tiện đăng ký mà còn

xác định chính xác thực trạng kỹ thuật an toàn của phương tiện góp phần bảo

đảm trật tự an toàn giao thông, ngăn ngừa tội phạm lợi dụng phương tiện giao

thông để hoạt động, giúp nhà nước có định hướng đúng đắn trong chính sách

sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu phương tiện giao thông cho phù hợp với tình hình

71

hoạt động giao thông vận tải của đất nước trong từng thời kỳ.

3.7. Xây dựng và hoàn thiện quy hoạch kết cấu hạ tầng giao thông

đường bộ

Kết cấu hạ tầng giao thông là yếu tố cơ bản nhất tạo nên kết cấu hạ tầng

của một quốc gia. Do vậy, kết cấu hạ tầng giao thông cần được phát triển đi

trước một bước nhằm đáp ứng mọi nhu cầu giao thông của sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng và hoàn thiện quy hoạch kết cấu

hạ tầng giao thông tại địa bàn tỉnh Bắc ninh nói riêng và trên toàn quốc nói

chung còn là tiền đề kỹ thuật để hạn chế các tai nạn giao thông cũng như tội

vi phạm quy định về tham gia GTĐB.

Quy hoạch kết cấu hạ tầng giao thông phải căn cứ vào chiến lược, quy

hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh và phục vụ nhu cầu đi

lại của nhân dân. Phải lấy chiến lược phát triển lâu dài, toàn cục làm trung

tâm, mang tính ổn định cao. Đối với các đô thị cần quan tâm đồng bộ với quy

hoạch các công trình ngần và công trình hạ tầng khác. Quỹ đất dành cho xây

dựng kết cấu hạ tầng giao thông phải đảm bảo tỷ lệ thích hợp, đáp ứng yêu

cầu giao thông lâu dài. Quy hoạch phải công khai cho dân biết. Phát triển hệ

thống giao thông phải gắn với quy hoạch tổng thể các khu dân cư, các khu

công nghiệp, các khu du lịch vui chơi, giải trí một cách hợp lý. Phải kiểm toán

an toàn giao thông vận tải đối với các đường cải tạo, nâng cấp, làm mới và

phải coi kiểm toán an toàn giao thông vận tải đường bộ là thủ tục bắt buộc.

Làm tốt công tác kiểm toán sẽ loại trừ những yếu tố bất lợi, những sai lầm để

người tham gia có những yếu tố lợi nhất khi xử lý các tình huống giao thông.

Về phương tiện giao thông, phải nghiên cứu tổng thể xác định phương

tiện giao thông chủ lực ở từng vùng, miền, các đô thị theo hướng tăng phương

tiện công cộng, đặc biệt là xe buýt, hạn chế các phương tiện cá nhân, nhất là

mô tô. Đây là một trong những biện pháp có thể làm giảm tải lưu lượng xe để

tránh bớt hiện tượng ùn tắc và tai nạn giao thông nhất là ở các thành phố lớn.

72

Mạng lưới phương tiện vận tải công cộng cần phải được tăng cường mật độ,

tuyến phục vụ và số lượng phương tiện hoạt động trong ngày, đảm bảo đưa

hành khách đi từ nơi ở đến nơi làm việc và ngược lại một cách thuận lợi. Cơ

cấu phương tiện vận tải hành khách công cộng ngoài xe buýt phải gồm nhiều

loại khác với sức chở khác nhau như taxi, tàu điện... Thực hiện nghiêm quy

định về việc nhập phương tiện giao thông.

Để tăng cường xây dựng và hoàn thiện quy hoạch kết cấu hạ tầng giao

thông, theo chúng tôi cần tiến hành một số công việc sau đây:

- Xây dựng các tuyến đường tránh đi qua thành phố, thị xã;

- Xác lập mốc giới, hành lang an toàn GTĐB đi qua khu dân cư như vỉa

hè của thành phố;

- Quy định phần đường dành cho người đi bộ qua đường bằng các dải

phân cách cứng mềm;

- Phòng ngừa tai nạn giao thông ở các đoạn đường đèo, dốc;

- Phòng ngừa tai nạn giao thông ở nơi đường ngang qua đường sắt;

- Hạn chế tốc độ chạy xe ở những đoạn đường qua thành phố, thị trấn,

thị xã, khu dân cư, nơi thường xảy ra tai nạn.

3.8. Tăng cường kiểm tra, tuần tra, giám sát và phát hiện, xử lý kịp

thời mọi vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, xét xử nghiêm

minh tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ

Trong điều kiện nước ta hiện nay việc xử lý vi phạm pháp luật là biện

pháp rất quan trọng, mang lại hiệu quả pháp luật nhanh chóng đồng thời có

tác dụng giáo dục cao. Tuy vậy, cần lưu ý làm sao cho người vi phạm “tâm

phục, khẩu phục” nâng cao được ý thức của mình. Đặc biệt cần quan tâm, xử

lý nghiêm những cơ quan, cá nhân đại diện Nhà nước mà vi phạm pháp luật,

tiêu cực, gây mất lòng tin trong nhân dân.

Kiên quyết thiết lập ngay trật tự, kỷ cương an toàn giao thông trong

phạm vi cả nước. Tăng cường kiểm tra và xử lý nghiêm những hành vi vi

73

phạm, coi đây là những biện pháp quan trọng và hữu hiệu nhất để tạo thói

quen chấp hành pháp luật về an toàn giao thông của người tham gia giao

thông. Đồng thời nghiêm khắc xử lý đối với những cán bộ, chiến sĩ công an

có hành vi tiêu cực trong công tác thanh tra, kiểm soát, xử lý vi phạm và giải

quyết tai nạn giao thông.

Cùng với việc tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành nghiêm

chỉnh pháp luật an toàn giao thông, lực lượng cảnh sát giao thông cần tăng

cường công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý thật nghiêm khắc đối với các trường

hợp vi phạm an toàn giao thông. Đồng thời với việc sử dụng các phương tiện,

kỹ thuật để điều khiển giao thông, tuần tra và kiểm soát trật tự an toàn giao

thông, cần tăng cường lực lượng cảnh sát giao thông để kịp thời giải tỏa các

ùn tắc giao thông, xử lý nghiêm các vi phạm an toàn giao thông, nhất là vi

phạm của người đi bộ, người đi xe máy...

Hoạt động tuần tra là hoạt động công khai của lực lượng Cảnh sát giao

thông, Cảnh sát trật tự. Hoạt động này cần phải được tiến hành thường xuyên

trên các tuyến đường. Hoạt động tuần tra, kiểm soát có tác dụng nhiều mặt;

đặc biệt ở nước ta, mặt bằng dân trí chưa cao, ý thức tự giác chấp hành luật

lệgiao thông còn thấp thì việc có mặt của lực lượng này sẽ có tác dụng phòng

ngừa, hạn chế vi phạm; việc xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm sẽ tạo tâm

lý yên tâm cho những người tham gia hoạt động giao thông. Mặt khác, tuần

tra, kiểm soát giao thông còn có tác dụng răn đe, phòng ngừa các hành vi vi

phạm cũng như tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB. Thực tiễn đã chỉ ra

rằng, sự có mặt của Cảnh sát giao thông có tác động tâm lý rất lớn... làm giảm

đáng kể tình trạng vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải. Giải

pháp tăng cường các biện pháp tuần tra, kiểm soát trên các tuyến đường giao

thông vận tải cũng được nhiều nước trên thế giới thực hiện có hiệu quả.

Tổ chức sự phối kết hợp chặt chẽ, thường xuyên việc tuần tra, kiểm

soát và xử lý vi phạm của các lực lượng: Cảnh sát giao thông, Cảnh sát trật tự,

74

Thanh tra giao thông, Kiểm soát quân sự, tạo thành sức mạnh tổng hợp, để

phát hiện kịp thời cũng như xử lý kiên quyết mọi hành vi vi phạm các quy

định về an toàn giao thông vận tải. Để tránh chồng chéo hoặc bỏ trống trong

kiểm tra, xử lý, trước hết cần xem xét lại chức năng, nhiệm vụ của các cơ

quan này, phân rõ nhiệm vụ của từng cơ quan. Định kỳ hàng tháng, quý có sự

giao ban giữa các ngành dưới sự chủ trì của Ủy ban nhân dân các cấp để giải

quyết các vướng mắc nảy sinh.

Các vụ án về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB cần được điều

tra truy tố, xét xử nghiêm minh, nhất là các vụ tai nạn giao thông nghiêm

trọng. Cần chống khuynh hướng hòa giải dân sự để giải quyết các vụ tai nạn

giao thông gây chết người hoặc gây thương tích của những người tham gia

giao thông. Cơ quan Tòa án có thể đưa một số vụ án điểm về loại tội này đi

xét xử lưu động công khai và công bố kết quả xét xử trên các phương tiện

truyền thông đại chúng để tác động răn đe giáo dục cũng như hỗ trợ cho nhân

dân tham gia đấu tranh phòng, chống các vi phạm các quy định về an toàn

giao thông vận tải. Đối với những trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm

trọng, thái độ khai báo ngoan cố, không chịu tự nguyện khắc phục hậu quả do

hành vi phạm tội gây ra, tái phạm hoặc phạm tội nhiều lần thì Tòa án cần phải

áp dụng mức án cao trong khung hình phạt và không cho hưởng án treo. Cùng

với việc xét xử đúng, Tòa án còn cần phải phát hiện thiếu sót hoặc những

hành vi khác trong công tác quản lý người tham gia giao thông, quản lý

phương tiện giao thông, công tác tổ chức điều hành hoạt động giao thông vận

tải... là nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm. Trên cơ sở đó, Tòa án yêu

cầu các cơ quan, tổ chức liên quan đến an toàn giao thông vận tải áp dụng các

biện pháp cần thiết để khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tội phạm.

3.9. Các giải pháp khác

Chú trọng đầu tư các trang thiết bị tại các phòng hỏi cung bị can theo

75

quy định của BLTTHS 2015 đảm bảo tính khách quan, chính xác trong hoạt

động thu thập chứng cứ, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của bị can. Đầu tư

các trang thiết bị tại các phòng xử án theo quy định tại Thông tư số

01/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017, tạo sự trang nghiêm, chất lượng, hiệu

quả, bảo đảm an ninh, trật tự phiên tòa.

Đổi mới xét hỏi, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa theo yêu

cầu cải cách tư pháp. Kết quả tranh tụng tốt sẽ là tiền đề, là cơ sở cho việc

nâng cao chất lượng các phán quyết của Tòa án. Muốn vậy, trước tiên phải

nâng cao năng lực của Kiểm sát viên thông qua đào tạo, bồi dưỡng, về lâu dài

phải quan tâm đầu tư chocác các cơ quan bổ trợ tư pháp và cán bộ của các cơ

quan đó, đặc biệt là đối với luật sư.

Tăng cường sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố

tụng và các cơ quan hữu quan trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ

án vi phạm quy định về tham gia GTĐB.

Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính - tư pháp, bảo đảm công khai,

minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân, các phương tiện thông tin

đại chúng thực hiện quyền giám sát các hoạt động của cơ quan điều tra, VKS,

Tòa án, từ đó góp phần nâng cao hoạt động áp dụng pháp luật hình sự về Tội

vi phạm quy định về tham gia GTĐB.

Xây dựng án lệ trong xét xử các vụ án vi phạm quy định về tham gia

GTĐB: Khoản 3 Điều 104 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân

tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất

pháp luật trong xét xử”. Quy định về nhiệm vụ của Hội đồng Thẩm phán Tòa

án nhân dân tối cao, tại Điểm c khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức TAND năm

2014 ghi rõ: “Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán

Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính

chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để

các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”. Việc áp dụng án lệ trong xét

76

xử các vụ án vi phạm quy định về tham gia GTĐB ngoài ý nghĩa giải quyết

một vụ án cụ thể còn thiết lập ra một tiền lệ để xử những vụ án tương tự sau

này, do đó, sẽ tạo bình đẳng trong việc xét xử các vụ án giống nhau, tiết kiệm

công sức của các Thẩm phán, Người tham gia tố tụng, Cơ quan tiến hành tố

tụng, tạo ra sự công bằng trong xã hội.

Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương cần tăng cường công tác

lãnh đạo, chỉ đạo, giám sát đối với các lực lượng được giao nhiệm vụ đấu

77

tranh phòng chống tội phạm.

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở khái quát lý luận về Tội vi phạm quy định về tham gia

GTĐB và từ thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt về Tội vi phạm

quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

giai đoạn 2014-2018, tác giả đã đưa ra các biện pháp bảo đảm áp dụng đúng

pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị

xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Các biện pháp được đưa ra bao gồm 05 nhóm

giải pháp chính: Hoàn thiện pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về

tham gia GTĐB; hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy

định về tham gia GTĐB; tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội

vi phạm quy định về tham gia GTĐB; nâng cao năng lực của cán bộ áp dụng

pháp luật hình sự đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB; các giải

pháp khác.

Trên đây là những nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu

quả việc áp dụng pháp luật hình sự trong việc giải quyết các vụ án vi phạm

quy định về tham gia GTĐB. Các cơ quan tiến hành tố tụng cần tổ chức thực

hiện một cách đồng bộ, chính xác và hiệu quả các giải pháp nhằm nâng cao

hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố và xét xử để giải quyết kịp thời, chính

xác, phù hợp và đúng pháp luật các vụ án nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác

đấu tranh phòng chống các tội phạm về GTĐB nói chung và Tội vi phạm quy

78

định về tham gia GTĐB nói riêng.

KẾT LUẬN

Trong những năm gần đây, tội phạm về GTĐB nói chung và tội phạm

vi phạm quy định về tham gia GTĐB nói riêng trở thành vấn đề toàn cầu.

GTĐB đang là mối hiểm họa đối với từng gia đình, cộng đồng và xã hội, hậu

quả do GTĐB gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế, trật tự an toàn xã

hội. Phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm về GTĐB là một vấn đề quan trọng,

phức tạp và mang tính lâu dài. Đó không chỉ là vấn đề của một tổ chức, đoàn

thể hay cá nhân mà của toàn xã hội. Liên quan đến nhiều chính sách của

Đảng, pháp luật của Nhà nước, tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân.

Phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh với tội phạm về GTĐB là yêu cầu cấp

bách đối với mỗi cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức và toàn xã hội.

Thực tiễn giải quyết các vụ án về Tội vi phạm quy định về tham gia

GTĐB những năm gần đây cho thấy việc áp dụng Điều 260 BLHS 1999 và

các văn bản hướng dẫn áp dụng còn một số vướng mắc cần tiếp tục được

nghiên cứu, hoàn thiện.

Trước tình hình đó, việc nghiên cứu làm rõ lý luận và thực trạng áp

dụng Điều 260 BLHS 2015 về Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên

địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam để từ đó đưa ra các giải pháp nâng

cao hiệu quả hoạt động áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với Tội vi phạm

quy định về tham gia GTĐB là một yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và

thực tiễn sâu sắc. Luận văn đặt ra yêu cầu nghiên cứu và giải quyết những nội

dung cơ bản sau:

Thứ nhất, luận văn đã tiếp cận, khái quát, đưa ra có hệ thống những vấn

đề lý luận và pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB

quy định tại Điều 260 BLHS 2015, khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt

79

Nam về Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, phân tích khái niệm và các

dấu hiệu pháp lý hình sự, hình phạt của Tội vi phạm quy định về tham gia

GTĐB.

Thứ hai, luận văn đã phân tích những vấn đề lý luận về định tội danh và

quyết định hình phạt đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB. Đồng

thời khảo sát, đánh giá thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với

Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB tại trên bàn thị xã Điện Bàn giai

đoạn 2014-2018; qua đó đã tiến hành đánh giá những ưu điểm, rút ra những

hạn chế thiếu sót và nghiên cứu, chỉ rõ các nguyên nhân căn bản của những

hạn chế, thiếu sót đó, làm cơ sở đề ra các giải pháp.

Thứ ba, trên cơ sở khảo sát, đánh giá thực tiễn định tội danh và quyết

định hình phạt đối với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn

thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, luận văn đã đưa ra các biện pháp bảo đảm

áp dụng đúng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB

trên địa bàn cả nước nói chung và thị xã Điện Bàn nói riêng. Những giải pháp

được đề cập tương đối cụ thể, tuy chưa toàn diện nhưng là những vấn đề cơ

bản và cần thiết để giúp cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc đấu tranh,

phòng ngừa tội phạm vi phạm quy định về tham gia GTĐB đặc biệt là vấn đề

định tội danh và quyết định hình phạt một cách kịp thời, đúng người, đúng tội,

đúng hình phạt cũng như trên cơ sở nguyên tắc nhân đạo của pháp luật Hình

80

sự.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII (2012), Chỉ thị số 18-CT/TW

ngày 04/09/2012 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

bảo đảm TTATGT đường bộ đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục

ùn tắc giao thông.

2. Báo cáo thống kê tình hình tội phạm năm 2019 ngày 27/12/2019 của Tòa

án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

3. Bộ Công an (2010), Những giải pháp tăng cường công tác đảm bảo trật

tự an toàn GTĐB của lực lượng Cảnh sát giao thông giai đoạn 2001 -

2010, Đề tài cấp bộ, Hà Nội.

4. Bộ Công An (2011), Thông tư số 76/2011/TT-BCA ngày 22/11/2011 về

quy định phân công trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong công tác

điều tra, giải quyết tai nạn giao thông của lực lượng cảnh sát nhân dân.

5. Phạm Văn Beo (2010), Luật Hình sự Việt Nam (quyển 2 - Phần các tội

phạm), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Chính phủ (2007), Nghị quyết số 32/2007/NQ-CP ngày 29/6/2007 của

Chính phủ về các giải pháp kiềm chế gia tăng và tiến tới giảm dần tai

nạn giao thông và ùn tắc giao thông.

7. Chính phủ (2019), Nghị định số 100/NĐ-CP ngày 30/12/2019 quy định

quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường

bộ và đường sắt, Hà Nội.

8. Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (1976),

Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/03/1976 quy định các tội phạm và hình

phạt.

9. Lê Cảm (2001), Giáo trình luật hình sự (Phần chung), Nxb. Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nôi.

10. Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự

(Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

11. Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

12. Lê Văn Cảm, Trịnh Quốc Toản (2004), Định tội danh: Lý luận, hướng

dẫn mẫu và hệ thống 350 bài tập thực hành, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội, Hà Nội.

13. Hoàng Minh Tiến Dũng (2016), Tội vi phạm quy định về TGGTĐB trên

địa bàn tỉnh Lai Châu, Luận văn thạc sỹ, Học viện khoa học xã hội Việt

Nam, Hà Nội.

14. Nguyễn Đắc Dũng (2011), Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB

trong Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn xét xử tại địa bàn tỉnh

Bắc Ninh), Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà

Nội, tr.88.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày

02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư

pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020, Hà Nội.

17. Đinh Bích Hà (2007), BLHS nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Nxb

Tư pháp, Hà Nội, tr.83-93.

18. Đỗ Đức Hồng Hà, (2014), Hỏi - Đáp pháp luật hình sự Việt Nam, NXB

Tư pháp.

19. Hà Mạnh Hà (2015), Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện

giao thông đường bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận

Đống Đa, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa

học xã hội.

20. Nguyễn Ngọc Hòa (2010), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Chương

XXV - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (Tập II),

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

21. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2004), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr.33.

22. Huỳnh Quốc Hùng (2007), Một số vấn đề về định tội và định khung tăng

nặng trong các vụ án vi phạm quy định về tham gia GTĐB, Tạp chí Tòa

án nhân dân, số 9/2007, tr.35.

23. Khoa Luật - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (1999), Giáo

trình Tội phạm học, Hà Nội.

24. Nguyễn Đình Lộc (2000), Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam năm 1999 và nhiệm vụ thể chế hóa về mặt nhà nước

chính sách hình sự của Đảng trong thời kỳ đổi mới, Tài liệu Hội nghị

Tập huấn chuyên sâu Bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội.

25. Uông Chu Lưu (Chủ biên) (2008), Bình luận khoa học BLHS Việt Nam

năm 1999 (tái bản có sửa chữa, bổ sung), Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

26. Một số văn bản pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an

ninh trật tự (1997), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

27. Một số văn bản pháp quy về quản lý phương tiện và người tham gia cơ

giới đường bộ (1996), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

28. Đinh Văn Quế (2005), Bình luận khoa học chuyên sâu BLHS - Phần các

tội phạm, Tập VII - Các tội xâm phạm quy định về an toàn giao thông,

Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2005.

29. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận chuyên sâu Bộ luật hình sự, tập VI:

Các tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

30. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.

31. 38. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Quốc hội (2008), Luật giao thông đường bộ, Nxb Chính trị quốc gia Hà

Nội.

33. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.

34. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.

35. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia Hà

Nội.

36. Quốc hội (2019), Luật Phòng chống tác hại của bia, rượu, Hà Nội.

37. Hồ Sỹ Sơn (2009), Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam,

Hà Nội.

38. Hồ Sỹ Sơn (2018), Luật Hình sự so sánh, Học viện khoa học xã hội Việt

Nam, Nxb Chính trị quốc gia sự thật.

39. Trịnh Quốc Toản (2011), Hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt

Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

41. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Bộ luật hình sự Thụy Điển, Nxb

CAND, Hà Nội.

42. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

43. Phùng Thế Vắc, Trần Văn Luyện, Phạm Thanh Bình, Nguyễn Đức Mai,

Nguyễn Sĩ Đại, Nguyễn Mai Bộ (2001), Bình luận khoa học Bộ luật hình

sự 1999 (Phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

44. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp Hà Nội.

45. Võ Khánh Vinh (2006), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

46. Võ Khánh Vinh (2014), Luật Hình sự Việt Nam phần các tội phạm, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

47. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2002), Giáo trình luật hình sự Việt Nam -

Phần chung, Đại học Huế - Trung tâm đào tạo từ xa, Nxb Công an nhân

dân.

48. Võ Khánh Vinh, “Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần chung”

(2014), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

49. Võ Khánh Vinh, “Lý luận chung về định tội danh” (2013), Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

50. 49.http://www2.hvcsnd.edu.vn/vn/Acedemy/Tin-An-toan-giao-

thong/207/4357/Tinh-hinh-tai-nan-giao-thong-tren-the-gioi-trong-

nhung-nam-gan-day.aspx

51. https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%87n_B%C3%A0n