ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

PHẠM MINH CHÂU

CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM DANH DỰ,

NHÂN PHẨM, UY TÍN CỦA CÁ NHÂN THEO PHÁP

LUẬT DÂN SỰ Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự

Mã số : 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Kiên

Hà Nội – 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng

tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và

được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

i

Tác giả Phạm Minh Châu

MỤC LỤC

Trang

Lời cam đoan i

Mục lục ii

Danh mục từ viết tắt iv

1 MỞ ĐẦU

CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ TÀI ĐỐI

VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM DANH DỰ, NHÂN PHẨM, UY

9 TÍN CỦA CÁ NHÂN

1.1. Chế tài dân sự 9

1.1.1. Khái niệm chế tài dân sự 9

1.1.2. Đặc điểm và vai trò của chế tài dân sự 14

1.1.3. Cơ sở triết học của chế tài dân sự 16

1.1.4. Phân loại chế tài dân sự 18

1.2. Quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân 19

1.2.1. Quyền nhân thân 19

1.2.2. Quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân 25

1.3. Cơ sở áp đặt chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân

phẩm, uy tín của cá nhân 30

CHƢƠNG 2. QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT

NAM VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM DANH

38 DỰ, NHÂN PHẨM, UY TÍN CỦA CÁ NHÂN

2.1. Quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân theo pháp

luật dân sự Việt Nam 38

2.2. Các loại chế tài dân sự đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân

phẩm, uy tín của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam 40

ii

2.3. Cơ sở áp đặt chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân 62

phẩm, uy tín của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam

2.3.1. Cơ sở áp đặt chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân

phẩm, uy tín của cá nhân theo qui định của BLDS năm 2005 62

2.3.2. Cơ sở áp đặt chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân

phẩm, uy tín của cá nhân theo qui định của BLDS năm 2015 68

2.4. Chủ thể chịu trách nhiệm do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín

của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam 69

2.5. Các trường hợp miễn trừ trách nhiệm theo qui định của pháp luật

dân sự Việt Nam 73

CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHẾ

TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM DANH DỰ, NHÂN

PHẨM, UY TÍN CỦA CÁ NHÂN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN

82 THIỆN

3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về chế tài đối với hành vi xâm phạm

danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân 82

3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chế tài đối với hành vi

xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân 85

90 KẾT LUẬN

iii

92 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC T VIẾT TẮT

Bộ luật Dân sự BLDS

Tòa án nhân dân Tối cao TANDTC

Viện kiểm sát nhân dân Tối cao VKSNDTC

Tòa án nhân dân TAND

Viện kiểm sát nhân dân VKSND

iv

Ủy ban nhân dân UBND

MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín là một trong số những

quyền con người, quyền nhân thân cơ bản, được ghi nhận không chỉ trong

pháp luật Việt Nam mà còn được pháp luật thế giới thừa nhận. Từ nhiều năm

trước đây, các quốc gia đã nhận thức được tầm quan trọng của việc công nhận

và bảo vệ đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín. Điều này được thể hiện rất rõ

trong các văn bản pháp luật quốc tế về quyền con người. Theo đó, Tuyên

ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 đã khẳng định: “Không một ai bị xâm

phạm một cách độc đoán về đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, hay thư tín

cũng như bị xúc phạm danh dự hay tiếng tăm của mình. Mọi người đều có

quyền được luật pháp bảo vệ trước những xâm phạm và xúc phạm như vậy”

[2, Điều 12]. Bên cạnh đó, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị

năm 1966 cũng nhấn mạnh: “Không ai có thể bị xâm phạm trái phép hay độc

đoán vào đời tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xúc phạm trái phép đến

danh dự và thanh danh. Ai cũng có quyền được luật pháp bảo vệ chống lại

những xâm phạm ấy” [1, Điều 17].

Để đảm bảo quyền này được thực hiện trên thực tế, pháp luật Việt Nam cũng

đã sớm có quy định về vấn đề này. Từ Hiến pháp năm 1980 đã quy định:

“Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và

nhân phẩm” [3, Điều 70]. Đến Hiến pháp năm 1992 lại tiếp tục ghi nhận

quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của công dân tại Điều 71

“Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về

tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm” [4, Điều 71]. Tiếp đến, Điều 20

Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về

1

thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không

bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác

xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” [5, Điều 20].

Như vậy quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín là một quyền hiến

định.

Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế - xã hội

ngày càng phát triển, công nghệ thông tin cũng đã len lỏi sâu rộng vào cuộc

sống của con người, bên cạnh việc mang lại cho chúng ta một cuộc sống đầy

đủ hơn, tiếp cận thông tin tốt hơn thì danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhiều

công dân rất dễ bị bêu rếu, xúc phạm trên mạng Internet, trên báo chí với

nhiều động cơ, mục đích khác nhau, điều đó khiến cho những người bị xúc

phạm gặp không ít khó khăn trong cuộc sống.

Mặc dù sự ra đời của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã thể hiện sự tiến bộ vượt

bậc so với Bộ luật Dân sự năm 2005 trước đó khi đã quy định cụ thể, chi tiết

hơn về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín và những biện pháp để

bảo đảm quyền này được bảo vệ, thực thi trên thực tế.

Nếu BLDS năm 2005 quy định:

“Khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có quyền:

1. Tự mình cải chính;

2. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền

buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai;

3. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền

buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại.” [7, Điều 25]

Đến BLDS năm 2015, các phương thức bảo vệ quyền dân sự đã được quy

2

định cụ thể và chi tiết hơn, theo đó:

“Khi quyền dân sự của cá nhân bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo

vệ theo qui định của Bộ luật này, luật khác có liên quan hoặc yêu cầu cơ

quan, tổ chức có thẩm quyền:

1. Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo quyền dân sự của mình;

2. Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm;

3. Buộc xin lỗi, cải chính công khai;

4. Buộc thực hiện nghĩa vụ;

5. Buộc bồi thường thiệt hại;

6. Hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có

thẩm quyền;

7. Yêu cầu khác theo qui định của luật” [8, Điều 11]

Song với sự phát triển của xã hội, pháp luật cũng chưa thể dự liệu hết được

các trường hợp có thể xảy ra trên thực tế khi mà tình trạng xâm phạm danh

dự, nhân phẩm, uy tín ngày càng trở nên phổ biến, đa dạng và phức tạp hơn,

pháp luật điều chỉnh về vấn đề này cũng gặp phải những hạn chế nhất định từ

đó gây khó khăn và lúng túng cho cán bộ làm công tác xét xử.

Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, việc nghiên cứu một cách có hệ thống,

khoa học các qui định của pháp luật về chế tài đối với hành vi xâm phạm danh

dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân để hiểu đúng và thực hiện đúng cũng như

phát hiện những điểm bất cập cần hoàn thiện là việc hết sức cần thiết và cấp

bách.

Với mục đích làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu về chế tài đối

với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, tôi xin lựa

chọn đề tài “Chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín

của cá nhân theo pháp luật dân sự ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của

mình. Tác giả mong muốn góp một phần nhỏ của mình vào những tri thức cơ

3

bản về quyền nhân thân, về chế tài dân sự nói chung và chế tài đối với hành vi

xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân nói riêng để từ đó đưa ra

những giải pháp góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý về chế tài đối với hành vi

xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân.

2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Liên quan đến nội dung quyền nhân thân, nội dung chế tài dân sự nói

chung và chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá

nhân nói riêng đã có nhiều đề tài khoa học, luận văn, bài viết trên tạp chí đề

cập một cách trực tiếp hoặc lồng ghép vào những nội dung liên quan. Về nội

dung quyền nhân thân và nội dung trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp

đồng đã có sự nghiên cứu tương đối nhiều, có thể kể đến như: Bài viết của tác

giả Lê Đình Nghị (2004), Một số vấn đề về quyền nhân thân, Dân chủ và pháp

luật, số 7; Bài viết trên Tạp chí luật học của tác giả Lê Đình Nghị, Quyền

nhân thân của cá nhân trong BLDS năm 2005 – những bất cập và hướng

hoàn thiện, số 3, 2014; bài viết của tác giả Lê Hương Lan (2005), Qui định về

các quyền nhân thân cơ bản của cá nhân trong Bộ luật Dân sự năm 2005,

Dân chủ và pháp luật, số 9; Trần Thùy Dương (2012), Các điều kiện phát sinh

trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, khóa luận tốt nghiệp;

Nguyễn Thị Thúy Hằng (2013), Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt

hại ngoài hợp đồng của cá nhân, luận văn thạc sĩ luật học; Đỗ Văn Đại,

Nguyễn Trương Tín (2011), Tự do báo chí và vấn đề bảo vệ nhân phẩm, danh

dự, uy tín của cá nhân, Khoa học pháp lý, số 3; Nguyễn Tôn (2010), Bồi

thường tổn thất tinh thần do sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín

của cá nhân bị xâm phạm, Luận văn Thạc sĩ; ... trong đó các công trình này

cũng đã ít nhiều đề cập đến chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân

phẩm, uy tín của cá nhân. Tuy nhiên, các đề tài, công trình nghiên cứu triển

4

khai trực tiếp về vấn đề này hoặc đã được thực hiện từ rất lâu hoặc số lượng

đề tài nghiên cứu còn khá khiêm tốn trong khi tình hình xã hội hiện nay biến

động và thay đổi không ngừng.

Do đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn sẽ phần nào khắc phục được

những tồn tại nói trên, góp phần bổ sung kịp thời những nghiên cứu về vấn đề

này với hy vọng tăng cường nhận thức của mọi người về chế tài dân sự nói

chung và chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá

nhân nói riêng.

3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Để đảm bảo quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, Nhà nước

ta đã ban hành rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật ở nhiều lĩnh vực khác

nhau như hình sự, dân sự, hành chính,… để điều chỉnh vấn đề này. Tuy nhiên,

trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, để tập trung sâu hơn về vấn đề chế tài

đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín và phù hợp với chuyên

ngành học, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về chế tài dân sự đối với hành vi

xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân theo pháp luật Dân sự Việt

Nam từ góc độ lý thuyết lẫn thực tiễn. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân

phẩm, uy tín được quy định chủ yếu trong Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Dân

sự năm 2015, Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017.

Mục đích nghiên cứu của đề tài tập trung nghiên cứu các qui định của

pháp luật hiện hành về chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm,

uy tín của cá nhân; tìm hiểu thực tiễn áp dụng qui định này để nghiên cứu làm

sáng tỏ những vướng mắc, khó khăn khi áp dụng. Kết quả nghiên cứu của đề

tài luận văn nhằm tìm ra những phương hướng, giải pháp kịp thời góp phần

hoàn thiện pháp luật về chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân

phẩm, uy tín của cá nhân.

5

4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Để có thể đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận

văn phải giải quyết các vấn đề sau:

Một là, phân tích khái quát nội dung chế tài dân sự, quyền nhân thân, quyền

đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín và cơ sở áp đặt chế tài đối với hành vi

xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân từ góc độ lý luận.

Hai là, phân tích, đánh giá các qui định của pháp luật dân sự Việt Nam về chế

tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân.

Ba là, phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về chế tài đối với hành vi xâm

phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân và đưa ra những giải pháp, kiến

nghị hoàn thiện.

5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan

điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà

nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư

pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình

nghiên cứu, để hoàn thành đề tài luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp

nghiên cứu khoa học truyền thống như:

 Phương pháp phân tích (phương pháp phân tích qui phạm, phương

pháp phân tích vụ việc), phương pháp diễn giải: những phương pháp

này được sử dụng phổ biến trong việc làm rõ các qui định của pháp luật

và các vụ việc trên thực tế về chế tài đối với hành vi xâm phạm danh

dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân.

 Phương pháp đánh giá: phương pháp này được người viết vận dụng

để đưa ra ý kiến nhận xét qui định của pháp luật hiện hành có hợp lý

hay không, những thành tựu nào đã đạt được và những vướng mắc gì

6

còn tồn tại.

 Phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch: được vận dụng để

triển khai có hiệu quả các vấn đề liên quan đến chế tài đối với hành vi

xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, đặc biệt là các kiến

nghị hoàn thiện... Chẳng hạn, trên cơ sở những kiến nghị mang tính

khái quát, người viết dùng phương pháp diễn dịch để làm rõ nội dung

của kiến nghị đó.

 Phương pháp so sánh: phương pháp này sẽ phân tích khoa học pháp

lý của một số nền tài phán điển hình trên thế giới điều chỉnh, giải thích

về chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá

nhân....

6. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN

Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ những qui định của

pháp luật về chế tài trong việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của

cá nhân; phân tích thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với vấn đề này,

chỉ ra những bất cập của pháp luật và đưa ra phương hướng hoàn thiện.

Về mặt thực tiễn: Những giải pháp hoàn thiện pháp luật là cơ sở

quan trọng để các cơ quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của

mình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tương ứng.

Đồng thời, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích không chỉ với đội

ngũ giảng viên, sinh viên mà còn có giá trị đối với những cán bộ làm

công tác xây dựng pháp luật về chế tài do danh dự, nhân phẩm, uy tín

của cá nhân bị xâm phạm ở Việt Nam.

7

7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục

từ viết tắt, mục lục, nội dung chính của luận văn được kết cấu gồm 03

chương:

Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về chế tài đối với hành vi xâm phạm danh

dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân.

Chƣơng 2: Qui định của pháp luật dân sự Việt Nam về chế tài đối với hành vi

xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân.

Chƣơng 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về chế tài đối với hành vi xâm phạm

8

danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân và kiến nghị hoàn thiện.

CHƢƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI

HÀNH VI XÂM PHẠM DANH DỰ, NHÂN PHẨM, UY

TÍN CỦA CÁ NHÂN

1.1. CHẾ TÀI DÂN SỰ

1.1.1. Khái niệm chế tài dân sự

Chế tài dân sự với tư cách là một chế tài pháp lý có lịch sử hình thành

và phát triển một cách lâu dài.

Thời kỳ thái cổ, khi chính quyền trong xã hội còn chưa được tổ chức

một cách vững chãi, trong trường hợp nếu quyền của một cá nhân bị xâm

phạm thì người đó được phép áp dụng chế độ “tư nhân phục cừu” đối với

người đã gây thiệt hại cho mình. Theo đó, cá nhân bị thiệt hại được tự ý trả

thù đối phương để trừng phạt, bắt đối phương làm nô lệ hoặc lấy tài sản của

người có hành vi gây thiệt hại.

Giai đoạn thứ hai, để tránh sự trả thù, người gây thiệt hại có thể nộp

tiền chuộc hay thục kim cho nạn nhân.

Tiến lên một bước nữa, chính quyền nhận thấy việc áp dụng chế độ

thục kim thực sự đem lại hiệu quả, có thể chấm dứt chế độ phục cừu, do đó họ

đã ấn định cả ngạch số các khoản tiền chuộc. Số tiền này vừa được coi là hình

phạt, vừa mang tính chất như một khoản bồi thường.

Trước đây, pháp luật châu Á nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng

không có sự phân biệt giữa chế tài dân sự và chế tài hình sự. Trong cuốn Việt

Nam Dân luật lược khảo của Vũ Văn Mẫu có đoạn viết: “Theo tinh thần của

9

luật pháp Đông phương, Cổ luật Việt Nam thường không quy định những vấn

đề liên hệ đến ngành tư pháp (Droit privé), và chỉ giải quyết các vấn đề thuộc

trật tự công. Vì vậy, các điều khoản trong các bộ luật cổ như bộ Quốc triều

Hình luật của nhà Lê hay Hoàng Việt luật lệ của Gia Long đều có tính cách

các điều khoản thuộc về luật hình. Những điều khoản liên quan đến các vấn

đề trách nhiệm cũng không thoát khỏi thông lệ ấy”. [18, tr.439]

Trong khi đó, một số trường hợp, luật La Mã đã tiến tới sự phân biệt

giữa chế tài dân sự và chế tài hình sự. Mặc dù các nhà làm luật thời kỳ này

chưa quy định được hẳn một nguyên tắc trách nhiệm dân sự tổng quát nhưng

có thể thấy, người La Mã đã có công lao rất lớn trong việc phân biệt giữa hai

khái niệm này. Trong luật La Mã, đạo luật Aquilia về trách nhiệm dân sự chỉ

dự trù trường hợp một người nô lệ hay một súc vật bị thương hoặc bị chết,

hay một vài trường hợp đồ vật khác bị tổn thiệt. Tuy các pháp quan La Mã

cũng tìm cách nới rộng phạm vi áp dụng đạo luật Aquilia, song cũng không

đề lập được một nguyên tắc tổng quát về các vấn đề trách nhiệm [18, tr.438].

Đến năm 1804, Bộ Dân luật Nã – phá – Luân ra đời đã đặt ra một

nguyên tắc tổng quát về trách nhiệm dân sự. Theo đó, tại Điều 1382 có quy

định: “Phàm một tác động do người làm đã gây tổn thiệt cho người khác, thì

người có lỗi làm tác động ấy phải bồi thường sự tổn thiệt”[18, tr.441]. Khi

các nước trở thành thuộc địa của thực dân Pháp, bên cạnh việc du nhập văn

hóa thì pháp luật cũng đã phần nào bị ảnh hưởng. Từ đây, chế tài dân sự

(trách nhiệm dân sự) mới chính thức hình thành với tư cách là một chế định

biệt lập.

Có thể thấy, những quy định của pháp luật về chế tài dân sự có lịch sử

hình thành cùng với sự xuất hiện của chế độ tư hữu và nhà nước. Trong mỗi

chế độ xã hội khác nhau thì những biện pháp chế tài cũng được áp dụng rất

10

khác nhau đối với người gây ra thiệt hại.

Xoay quanh khái niệm chế tài dân sự (trách nhiệm dân sự), các học giả

trong và ngoài nước đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau. Chẳng hạn, phản

ánh quan điểm của hầu hết các luật gia Nga, O. S. Ioffe đưa ra định nghĩa:

“Trách nhiệm dân sự – đó là những chế tài đối với vi phạm nghĩa vụ mà việc

áp dụng những chế tài đó sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi cho bên vi phạm

dưới hình thức tước quyền dân sự và/hoặc bằng hình thức đặt ra cho họ những

nghĩa vụ mới hoặc nghĩa vụ bổ sung như nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nộp

phạt vi phạm hoặc trả tiền lãi đối với khoản nợ chậm trả”.

Hay các luật gia Việt Nam Cộng Hòa có quan niệm: “Trách nhiệm dân

sự là một nguồn gốc của nghĩa vụ căn cứ vào hành vi mà Dân luật coi như là

trái luật (illicite). Do đó dân luật đã bắt buộc người làm ra hành vi trái luật

phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Tóm lại, trách nhiệm dân sự phát sinh

ra nghĩa vụ bồi thường đối với người nào đã làm ra một hành vi gì trái luật mà

gây tổn thiệt cho người khác” [37]

Bên cạnh đó, Vũ Văn Mẫu cũng khẳng định: Trách nhiệm dân sự là

một nguồn gốc của nghĩa vụ không căn cứ vào ý chí của đương sự, tức là

nguồn gốc bất hợp pháp; vì vậy trách nhiệm dân sự làm phát sinh ra nghĩa vụ

bồi thường đối với người đã làm một hành vi trái luật gây tổn thiệt cho một

người khác.[18, tr.431]

Trải qua từng thời kỳ, những quy định về chế tài dân sự cũng đã dần

hoàn thiện hơn. Mặc dù vậy, cho đến nay các nhà làm luật mới chỉ theo

hướng liệt kê các biện pháp chế tài, các căn cứ phát sinh trách nhiệm, năng

lực chịu trách nhiệm,... mà vẫn chưa đưa ra một khái niệm cụ thể nào về chế

tài dân sự.

Vào thời La Mã cổ đại, đối với trường hợp xâm phạm thân thể của

11

người khác không những về sức khỏe, tính mạng mà còn về tinh thần như

hành vi lăng nhục người khác, hành vi xúc phạm phụ nữ nơi công cộng đều

phải chịu chế tài. Trong trường hợp người bị thiệt hại là nô lệ, chủ nô chỉ có

quyền kiện nếu người gây hại cố ý gây hại cho nô lệ nhằm mục đích xúc

phạm chủ nô.[17, tr.17]

Cũng về vấn đề này, vào thế kỷ thứ V và VI SCN, có một bộ luật rất

điển hình là Bộ luật Xalíc (Lox Salica) của quốc gia Frăng được ban hành vào

đầu thế kỷ thứ VI. Tại đây, có rất nhiều quy định bảo vệ quyền nhân thân của

người Frăng tự do. Theo đó, luật quy định: “cướp một cô gái tự do, mỗi một

người trong những kẻ đồng phạm bị phạt 30 xôlit. Nếu như số người tham gia

việc cướp cô gái tự do lớn hơn 3 thì mỗi người phạm pháp chịu phạt 5

xôlit”[17, tr.18]. Bên cạnh đó, luật này còn quy định cụ thể về khoản phạt đối

với các hành vi gây thiệt hại về danh dự của cá nhân như: “Hãm hiếp cô dâu

trong thời điểm rước dâu bị phạt 200 xôlit, cướp vợ của một người tự do cũng

bị phạt tương tự, giết một phụ nữ tự do đang trong thời kỳ mang thai bị phạt

600 thậm chí tới 700 xôlit. Một người cầm ngón tay của cô gái tự do ngoài ý

muốn của người đó sẽ bị phạt 15 xôlit; nếu nắm cổ bàn tay sẽ bị phạt đến 30

xôlit; nếu nắm tay cô gái tự do tới trên khuỷu tay sẽ bị phạt tới 35 xôlit; nếu

cắt đuôi sam (đoạn cuối mái tóc) của một cô gái tự do sẽ bị phạt 45 xôlit”[17,

tr.19]

Trong lịch sử pháp luật Việt Nam, có thể nói chế tài dân sự là một

trong những chế định ra đời từ rất sớm. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, những

quy định về chế tài dân sự còn khá sơ sài, tản mạn và chưa có sự phân biệt

rạch ròi giữa chế tài dân sự và chế tài hình sự. Pháp luật cổ Việt Nam mới chỉ

dừng lại ở những quy định chung chung dựa trên nguyên tắc “người gây thiệt

12

hại phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại”.

Chẳng hạn, Điều 472 Bộ luật Hồng Đức quy định về trường hợp kẻ

dưới đánh quan lại, quan lại đánh lẫn nhau thì “khi một người đánh quan

chức bị thương, ngoài việc phải chịu hình phạt, đền bù thương tổn còn phải

đền tiền tạ. Trái lại, nếu đánh người không phải quan chức, theo quy định tại

các điều luật khác thì không phải chịu khoản tiền tạ.

Điều 473 quy định khả năng kẻ dưới mắng nhiếc quan lại, quan lại mắng

nhiếc nhau. Quy định này đã không những chỉ đưa ra hình phạt mà còn quy

định phạt tiền tạ nếu phạm tội lăng mạ quan chức, các trường hợp khác

không phải chịu tiền tạ.

Điều 474 cũng dự liệu trường hợp đánh người thân thuộc trong hoàng tộc

cũng quy định trách nhiệm tiền tạ, nếu đánh hoặc lăng mạ người trong hoàng

tộc từ hàng cháu năm đời của vua trở lên.” [36]

Phải đến khi có sự xuất hiện của ba bộ luật: Bộ luật Nam Kỳ (ban hành

ngày 10/3/1883), bộ Dân luật Bắc Kỳ (ban hành ngày 01/4/1931), bộ Dân luật

Trung Kỳ (ban hành ngày 31/10/1936) thì các nguyên lý chung về trách

nhiệm bồi thường dân sự mới chính thức được ghi nhận, cụ thể: tại Điều 712

đến Điều 716 (Bộ Dân luật Bắc Kỳ); Điều 761 đến Điều 767 (Bộ Dân luật

Trung Kỳ); Điều 729 đến Điều 739 (Bộ Dân luật Sài Gòn).

Từ những phân tích trên đây, ta có thể khái quát về chế tài dân sự như

sau: Chế tài dân sự là những hậu quả pháp lý bất lợi khi một chủ thể vi phạm

nghĩa vụ pháp lý của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của

người khác phải gánh chịu.

Do đó, chế tài dân sự luôn được coi là một phương tiện pháp lý để bảo

vệ các quan hệ dân sự, bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ

thể trong quan hệ pháp luật dân sự khỏi bị xâm phạm bởi các hành vi trái

13

pháp luật.

1.1.2. Đặc điểm và vai trò của chế tài dân sự

1.1.2.1. Đặc điểm của chế tài dân sự

Chế tài trong pháp luật dân sự mang một số đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, chế tài dân sự mang tính đa dạng. Biểu hiện là chế tài dân sự có

nhiều hậu quả pháp lý khác nhau được áp dụng cho từng hành vi vi phạm

tương ứng. Tùy vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà áp dụng chế tài

mang tính tinh thần như xin lỗi, cải chính hay chế tài mang tính vật chất như

bồi thường thiệt hại, buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự.

Thứ hai, chế tài dân sự có thể do các bên tự thỏa thuận và tự áp dụng. Khác

với quan hệ pháp luật hành chính, trong quan hệ pháp luật dân sự khi một bên

vi phạm pháp luật thì sẽ phải chịu trách nhiệm trước bên còn lại chứ không

phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước, do đặc trưng này nên các bên có thể tự

thỏa thuận và tự áp dụng các chế tài dân sự. Ví dụ, với chế tài bồi thường thiệt

hại, các bên có thể thỏa thuận về số tiền bồi thường, hình thức hay phương

thức bồi thường,...

Thứ ba, chế tài dân sự đa phần mang tính vật chất. Lợi ích mà các bên hướng

tới đa phần mang tính chất tài sản, nên việc vi phạm của bên này sẽ ảnh

hưởng trực tiếp đến lợi ích vật chất của bên kia, do đó cần có sự bù đắp bằng

những lợi ích vật chất. Trường hợp quyền nhân thân của một chủ thể bị xâm

phạm (mang tính tinh thần) thì chế tài được áp dụng thường là buộc xin lỗi,

đăng bài cải chính. Tuy nhiên, việc áp dụng các chế tài này không thể khắc

phục hoàn toàn thiệt hại, nên kèm theo chế tài buộc xin lỗi, đăng bài cải chính

bên bị xâm phạm thường yêu cầu bồi thường thiệt hại (lợi ích vật chất). Như

vậy, dù là quan hệ nhân thân hay quan hệ tài sản thì khi có hành vi vi phạm,

14

chế tài áp dụng đa phần mang tính vật chất.

Thứ tư, khác với các chế tài khác, chế tài dân sự có chức năng khôi phục,

khắc phục các hậu quả vật chất cho bên bị thiệt hại. Trong khi với chế tài hình

sự và chế tài hành chính, dù người vi phạm đã khắc phục thiệt hại gây ra thì

họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự (hoặc trách nhiệm hành chính) trước

Nhà nước về hành vi vi phạm của mình. Hai loại chế tài này không nhằm mục

đích khắc phục hậu quả mà nhằm trừng phạt người vi phạm. Đối với chế tài

dân sự, mục đích của các bên là trả lại hiện trạng như trước khi có vi phạm,

theo đó, có thể khôi phục hoặc khắc phục hậu quả. Trường hợp hành vi xâm

phạm gây thiệt hại về tài sản, việc bồi thường có thể khôi phục hậu quả. Còn

trong trường hợp thiệt hại về tinh thần, việc áp dụng chế tài không thể khôi

phục hậu quả mà chỉ có thể khắc phục hậu quả gây ra.

1.1.2.2. Vai trò của chế tài dân sự

Đời sống xã hội hiện nay với rất nhiều mối quan hệ phức tạp, chắc chắn

sẽ không thể tránh khỏi việc cá nhân, tổ chức này gây thiệt hại cho cá nhân, tổ

chức khác. Chính vì vậy, sự xuất hiện của chế tài dân sự không những có ý

nghĩa về mặt pháp lý mà còn có ý nghĩa về mặt xã hội sâu sắc.

Trước hết, chế tài dân sự là thước đo chuẩn mực cho cách xử sự của

các chủ thể. Nó tạo ra một cơ sở pháp lý vững chắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp của cá nhân, tổ chức khi tham gia các quan hệ pháp luật dân sự, từ đó

góp phần đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.

Bên cạnh đó, bằng việc buộc người gây thiệt hại phải bù đắp những tổn

thất do hành vi trái pháp luật của mình gây ra cho người bị thiệt hại, chế tài

dân sự góp phần đảm bảo công bằng xã hội.

Đồng thời, thông qua việc áp dụng các biện pháp chế tài, sẽ giúp cho

chủ thể nhận thức được những hậu quả bất lợi mà họ phải gánh chịu khi thực

15

hiện hành vi trái pháp luật gây thiệt hại. Qua đó, có tác dụng phòng ngừa các

hành vi vi phạm pháp luật cũng như giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật, tôn

trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác.

Không chỉ vậy, khi phát sinh tranh chấp, chế tài dân sự sẽ là cơ sở và

điều kiện cho hoạt động xét xử, giúp việc giải quyết tranh chấp được nhanh

chóng, chính xác, công minh và khách quan nhất.

1.1.3. Cơ sở triết học của chế tài dân sự

Trong chiều dài lịch sử của nhân loại, công lý là khái niệm xuất hiện

khá sớm. Tuy nhiên, do có sự khác biệt về địa lý, văn hóa, lịch sử, pháp luật

mà quan niệm về công lý trong từng giai đoạn, từng quốc gia cũng khác nhau.

Thời kỳ sơ khai, khái niệm công lý thường gắn liền với hình ảnh “các

vị nữ thần xuất hiện với một tay cầm kiếm, một tay cầm cân và một dải băng

bịt mắt để chứng tỏ sự vô tư, không thiên vị, đảm bảo phán quyết được công

bằng.” [32, tr.85]

Theo quan niệm của các triết gia phương Đông cổ đại thì công lý mang

nặng tính chất là sự báo thù. “Điều này bắt nguồn từ tập quán trả thù nguyên

thủy – nguyên tắc mà chỉ căn cứ vào hậu quả xảy ra trên thực tế để áp dụng

trách nhiệm pháp lý chứ không xét trên phương diện mức độ lỗi và chủ thể

thực hiện hành vi vi phạm. Điều này được minh họa rõ nét thông qua một số

điều luật được quy định trong Bộ luật Hammurabi, cụ thể như các điều 38, 39,

196:

Điều 38: Nếu thợ xây nhà mà xây không đảm bảo, nhà đổ làm chủ nhà

chết thì người thợ xây cũng sẽ bị giết.

Điều 39: Nếu nhà đổ, con của người chủ nhà chết thì con của người thợ

xây cũng bị chết.

Điều 196: Nếu dân tự do làm hỏng mắt của con của bất cứ người dân tự

16

do nào, thì phải làm hỏng mắt của người gây ra hậu quả” [32, tr.85]

Đối với phương Tây cổ đại, tiêu biểu nhất phải kể đến Plato, người đã

gửi gắm những quan điểm và tư tưởng của mình về công lý thông qua các tác

phẩm kiệt xuất, điển hình như cuốn Cộng hòa (The Republic). Theo đó, ông

nhấn mạnh “công lý là một khái niệm thể hiện phẩm hạnh và sự hài hòa của

con người với cộng đồng” [33, tr.8]. Càng về sau này, công lý càng được nhìn

nhận rộng hơn, nhân văn hơn.

Thời kỳ hiện đại, không thể không nói đến khái niệm công lý nổi bật

của John Rawls, với tác phẩm nổi tiếng Một lý thuyết về công lý. Ông coi

công lý như là công bằng (justice as fairness), là niềm tin của pháp luật, là hạt

nhân của đạo đức, và là điều kiện tiên quyết của xã hội công dân... Do vậy,

theo ông trong một xã hội công bằng thì sự bình đẳng về các quyền công dân

và quyền tự do đối với tất cả mọi người là không thể thay đổi; những quyền

được công lý đảm bảo thì không thể đem ra mặc cả về chính trị hay những

tính toán về lợi ích xã hội.[33, tr.86]

Từ góc nhìn của Liên hợp quốc, khái niệm công lý được hiểu là “sự bảo

vệ xác đáng các quyền của con người và đồng thời chống lại những hành

động ngược đãi đến các quyền con người một cách công bằng và có trách

nhiệm. Công lý bảo vệ cho quyền của các bị cáo, lợi ích của các nạn nhân nói

riêng và hơn hết là bảo vệ cho sự ổn định của xã hội nói chung”.[34, tr.73]

Mặc dù, còn nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau về công lý nhưng tựu

chung lại, công lý có thể được hiểu là việc đảm bảo sự công bằng, bình đẳng

về quyền và lợi ích hợp pháp giữa tất cả mọi người. Nếu một người xâm

phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì người đó sẽ phải trả

giá cho những hành vi mà mình đã gây ra.

Như vậy, để “công bằng”, “bình đẳng” đến gần hơn với thực tế, khi có

17

hành vi trái pháp luật xảy ra, pháp luật phải thông qua bằng các biện pháp chế

tài. Chế tài được Nhà nước ban hành chính là muốn hướng đến công lý, sự

công bằng trong xã hội. Hay nói cách khác, công lý chính là cơ sở triết học

của chế tài.

1.1.4. Phân loại chế tài dân sự

Đến nay, pháp luật vẫn chưa có quy định cụ thể về việc phân loại chế

tài dân sự. Qua tìm hiểu tác giả thấy rằng, việc phân loại chế tài dân sự mới

chỉ dừng lại ở việc phân loại trong một số trường hợp cụ thể, chẳng hạn một

số luận văn có nghiên cứu về phân loại chế tài đối với vi phạm hợp đồng song

vụ... chứ chưa có quy định tổng quát cho tất cả mọi trường hợp.

Theo đó, chế tài dân sự có thể được phân loại dựa trên một số tiêu chí

sau đây:

 Tiêu chí nguồn phát sinh

Chế tài dân sự có thể được ghi nhận trong luật để các bên mặc nhiên áp

dụng hoặc ghi nhận trong thỏa thuận của các bên tham gia quan hệ dân sự.

Theo đó, căn cứ vào tiêu chí nguồn phát sinh, chế tài dân sự có thể chia thành

hai loại, đó là: (1) chế tài phát sinh theo luật và (2) chế tài phát sinh theo thỏa

thuận hợp pháp của các bên trong quan hệ dân sự. Việc phân loại theo tiêu chí

này có ý nghĩa trong việc xác định nguồn viện dẫn cơ sở pháp lý để áp dụng

chế tài đối với hành vi xâm phạm. [19, tr.29]

 Tiêu chí tính bắt buộc thỏa thuận

Khi có tranh chấp trong quan hệ dân sự, bên cạnh các chế tài đương

nhiên được áp dụng như chế tài bồi thường thiệt hại,... thì pháp luật nhiều

nước cũng quy định đối với một số chế tài cụ thể cần được thỏa thuận mới

được áp dụng, ví dụ chế tài phạt vi phạm hợp đồng. Do vậy, dựa vào tiêu chí

tính bắt buộc thỏa thuận, có thể chia chế tài dân sự thành: (1) chế tài buộc

18

phải thỏa thuận trong hợp đồng và (2) chế tài không buộc phải thỏa thuận

trong hợp đồng. Việc phân loại này có ý nghĩa quan trọng trong việc làm rõ

căn cứ và cơ sở viện dẫn chế tài, nhất là các chế tài buộc phải thỏa thuận

trong hợp đồng nếu không có thì sẽ không có quyền viện dẫn. [19, tr.29]

 Tiêu chí tính chất và mức độ thiệt hại

Hành vi trái pháp luật có thể gây thiệt hại về tài sản hoặc xâm phạm các

quyền nhân thân của cá nhân. Do đó, tùy thuộc vào tính chất và mức độ thiệt

hại mà bên bị thiệt hại có thể áp dụng các biện pháp như buộc bên có hành vi

xâm phạm chấm dứt hành vi trái pháp luật, xin lỗi, cải chính công khai hay

bồi thường thiệt hại,...

Như vậy, căn cứ theo tiêu chí này, chế tài dân sự được chia thành: (1)

chế tài yêu cầu công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của

mình; (2) chế tài buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; (3) chế tài buộc xin lỗi,

cải chính công khai; (4) chế tài buộc thực hiện nghĩa vụ; (5) chế tài bồi

thường thiệt hại; (6) chế tài hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan,

tổ chức, người có thẩm quyền; (7) chế tài khác theo quy định của luật.

Việc phân loại theo tiêu chí này giúp các bên tham gia quan hệ dân sự

nắm được bản chất, mục đích, nội dung của chế tài cũng như bên bị thiệt hại

biết được khả năng áp dụng các chế tài cần thiết ở mức tối ưu và tối đa mà

pháp luật cho phép để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi có tranh

chấp xảy ra.

1.2. QUYỀN ĐỐI VỚI DANH DỰ, NHÂN PHẨM, UY TÍN CỦA CÁ

NHÂN

1.2.1. Quyền nhân thân

1.2.1.1. Khái niệm quyền nhân thân

Cùng với sự phát triển mọi mặt về kinh tế - xã hội, vấn đề con người

19

ngày càng được coi trọng và đảm bảo cả về yếu tố vật chất lẫn tinh thần.

Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, tại Việt Nam, quyền con người

đã được ghi nhận trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

– văn bản có giá trị pháp lý cao nhất. Trong những quyền được pháp luật ghi

nhận và bảo vệ đó có quyền nhân thân.

Có rất nhiều cách nhìn nhận, tiếp cận khác nhau về quyền nhân thân.

Trong cuốn Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự của TS. Nguyễn Ngọc Điện có

đoạn viết: “Trong luật của các nước theo văn hóa pháp lý romano-

germanique, khái niệm quyền tài sản được dùng để đối lập với khái niệm

quyền phi tài sản. Trong các quyền phi tài sản có những quyền có tác dụng

bảo vệ cá nhân về phương diện thể chất và tinh thần, gọi là các quyền nhân

thân. Với quan niệm đó, thì quyền nhân thân không phải là đối trọng của

quyền tài sản; song, chắc chắn, quyền nhân thân, về bản chất là những quyền

không có giá trị tiền tệ.” [20, tr.124]

Ở nước ta, phải đến khi Bộ luật Dân sự năm 1995 được thông qua thì

khái niệm về quyền nhân thân mới chính thức hình thành. Theo đó, quyền

nhân thân được hiểu là “quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể

chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” [6,

Điều 26]. Tuy vậy, một số quyền nhân thân cụ thể đã được thừa nhận trước đó

trong những văn bản pháp lý như: Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, Luật

bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ

vật, thư tín năm 1957,.... Cụ thể, tại Điều 1 Luật Bảo đảm quyền tự do thân

thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân

năm 1957 đã quy định:

“Quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ

vật và thư tín của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Không ai được phép

20

xâm phạm các quyền ấy”.[9, Điều 1]

Hay trong luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 có ghi:

“Trong gia đình, vợ chồng đều bình đẳng về mọi mặt [10, Điều 12]; Vợ

chồng có nghĩa vụ thương yêu, quý trọng, săn sóc nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ,

nuôi dạy con cái, lao động sản xuất, xây dựng gia đình hoà thuận, hạnh

phúc” [10, Điều 13]

Sau này, các nhà làm luật kế thừa quy định của Bộ luật Dân sự năm

1995, khái niệm quyền nhân thân tại Bộ luật Dân sự năm 2005 và 2015 cũng

không có gì thay đổi so với khái niệm quyền nhân thân được quy định trước

đó.

Trong luận án Tiến sĩ luật học của mình, TS. Lê Đình Nghị định nghĩa

về quyền nhân thân như sau:

“Theo nghĩa khách quan, quyền nhân thân được hiểu là một phạm trù

pháp lý bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban

hành, trong đó có nội dung quy định cho các cá nhân có các quyền

nhân thân gắn liền với bản thân mình và đây là cơ sở để cá nhân thực

hiện quyền của mình.

Theo nghĩa chủ quan, quyền nhân thân là quyền dân sự chủ quan gắn

liền với cá nhân do Nhà nước quy định cho mỗi cá nhân và cá nhân

không thể chuyển giao quyền này cho người khác trừ trường hợp luật

có quy định khác” [24, tr.18].

Tuy nhiên, có vẻ như những khái niệm này còn chưa được đầy đủ bởi

một số lý do sau:

Thứ nhất, có một số quyền cũng mang đủ hai đặc điểm “là quyền dân

sự gắn liền với mỗi cá nhân” và “không thể chuyển giao” nhưng lại không

được coi là quyền nhân thân mà là quyền tài sản, ví dụ như quyền được cấp

21

dưỡng. Pháp luật quy định quyền được cấp dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng gắn

liền với những cá nhân nhất định như: giữa cha mẹ và con, giữa anh chị em

với nhau, giữa ông bà và cháu, giữa vợ và chồng; đồng thời, không thể

chuyển giao được cho chủ thể khác. Có thể thấy, quyền này có giá trị tài sản

nhưng không chuyển giao được, do gắn chặt với nhân thân của người có

quyền. Đây được coi là một quyền tài sản chứ không phải quyền nhân thân;

hay nói đúng hơn, là quyền tài sản gắn với nhân thân. Như vậy, nếu đưa ra

khái niệm quyền nhân thân chỉ với hai đặc điểm như đã nêu ở trên thực sự

chưa đủ cơ sở để phân biệt quyền nhân thân với các quyền dân sự khác.

Thứ hai, pháp luật dân sự quy định quyền nhân thân là quyền “gắn liền

với mỗi cá nhân”, vậy thì với các chủ thể khác như: pháp nhân, hộ gia đình, tổ

hợp tác, họ có quyền nhân thân không? Tại Điều 1 Nghị quyết số

03/2006/HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối

cao quy định:

“Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác

không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy

tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin…

vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất

mà tổ chức phải chịu”. [14, Điều 1]

Như vậy, một mặt, pháp luật ghi nhận quyền đối với danh dự, uy tín

của pháp nhân và các chủ thể khác. Mặt khác, khi xây dựng khái niệm quyền

nhân thân lại không hề đề cập đến đối tượng là các chủ thể này. Phải chăng có

sự mâu thuẫn? Chia sẻ về vấn đề này, PGS. TS Bùi Đăng Hiếu cho rằng khái

niệm quyền nhân thân nên được mở rộng không những gắn với cá nhân mà

với cả các chủ thể khác; đồng thời, nên bổ sung thêm một số đặc điểm như:

gắn liền với giá trị tinh thần, không định giá được,… để phân biệt quyền nhân

22

thân với các quyền dân sự khác. Theo đó, quyền nhân thân là quyền dân sự

gắn với đời sống tinh thần của mỗi chủ thể, không định giá được bằng tiền và

không thể chuyển giao cho chủ thể khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định

khác.[38]

Trên cơ sở tiếp thu và đánh giá các quan điểm khác nhau, tác giả nhận

thấy cần phải xây dựng một khái niệm quyền nhân thân chứa đựng đầy đủ nội

dung, đồng thời thể hiện rõ nét những dấu hiệu để có thể phân biệt quyền

nhân thân với các quyền khác. Qua đây, ta có thể đưa ra khái niệm quyền

nhân thân như sau:

Quyền nhân thân là quyền dân sự được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, gắn

liền với những giá trị tinh thần của các chủ thể, không định giá được thành

tiền và không thể chuyển giao, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

1.2.1.2. Đặc điểm của quyền nhân thân

Qua phân tích khái niệm quyền nhân thân, ta nhận thấy quyền nhân

thân mang một số đặc điểm cơ bản sau:

Một là, quyền nhân thân là quyền dân sự do luật định.

Quyền dân sự được hiểu là “những quyền công dân được thể hiện trong mối

quan hệ giữa các cá nhân và được bảo đảm bằng pháp luật dân sự” [31, tr.6].

Hay trong Từ điển giải thích thuật ngữ luật học có định nghĩa: “Quyền dân sự

là cách xử sự được phép của chủ thể trong quan hệ dân sự. Quyền dân sự hiểu

theo nghĩa rộng là quyền của chủ thể được pháp luật quy định như là nội dung

của năng lực pháp luật của chủ thể đó. Quyền dân sự hiểu theo nghĩa hẹp là

quyền của chủ thể trong quan hệ dân sự nhất định mà chủ thể đó đang tham

gia; quyền tự mình thực hiện những hành vi nhất định, quyền yêu cầu người

có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ, quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm

quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm” [22,

tr.104]. Khi quyền con người được pháp luật quy định thành các quyền cụ thể

23

thì nó trở thành các quyền dân sự. Mà quyền nhân thân lại là một khái niệm

được bao hàm trong nội dung quyền con người. Vì vậy, quyền nhân thân là

một quyền dân sự.

Hai là, quyền nhân thân gắn liền với giá trị tinh thần của các chủ thể.

Giá trị tinh thần được hiểu là toàn bộ hoạt động nội tâm của con người như ý

nghĩ, tình cảm,... Nói quyền nhân thân gắn liền với giá trị tinh thần của các

chủ thể bởi nó phát sinh trong hoạt động nội tâm của mỗi chủ thể.

Ba là, quyền nhân thân mang tính chất phi tài sản.

Như đã phân tích ở trên thì đối tượng của quyền nhân thân là những giá trị

tinh thần, do đó, không thể đo, đếm được bằng tiền. Chúng không phải là

những đại lượng tương đương và không thể trao đổi ngang giá. Mặc dù, có

một số quyền nhân thân gắn với tài sản nhưng bản chất của những quyền này

vẫn là quyền nhân thân, chỉ có điều khi những quyền này được xác lập nó sẽ

làm phát sinh quyền tài sản như: quyền cấp dưỡng, quyền tác giả, quyền sở

hữu công nghiệp,...

Bốn là, quyền nhân thân không thể chuyển giao, trừ trường hợp pháp

luật có quy định khác.

Điều này có nghĩa là, quyền nhân thân của mỗi cá nhân hay tổ chức phải do

chính cá nhân hoặc tổ chức đó thực hiện. Hay nói cách khác, quyền này

không thể là đối tượng của các giao dịch dân sự như tặng cho, mua bán, trao

đổi... Ví dụ, quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền đối với họ

tên,... Tuy nhiên, pháp luật cũng có một số trường hợp ngoại lệ như đối với

trường hợp công bố, phổ biến tác phẩm của tác giả, khi tác giả chết đi thì

quyền này có thể chuyển giao cho người thừa kế của tác giả. Mặc dù vậy,

những yếu tố luôn gắn liền với chủ thể như quyền đứng tên tác giả hay quyền

bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm thì không thể thay đổi hay chuyển giao được.

24

1.2.1.3. Hiệu lực của quyền nhân thân

Quyền nhân thân luôn gắn liền với đời sống tinh thần của mỗi chủ thể,

nó là đặc điểm nhận dạng của mỗi chủ thể. Do vậy, hiệu lực của quyền nhân

thân là tuyệt đối, nó có thể tồn tại kể cả sau cái chết của cá nhân, pháp nhân

và có thể thừa kế hoặc hiến tặng (mức độ khác nhau tùy thuộc vào thẩm

quyền và luật pháp của mỗi quốc gia). Chẳng hạn, một người bị bôi nhọ tên

tuổi sau khi chết và người thừa kế kiện yêu cầu bảo vệ danh dự, nhân phẩm

của người đó. Vậy, một câu hỏi đặt ra là trong trường hợp này người thừa kế

đó có quyền khởi kiện không khi người bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm đã

chết? Thực ra, nhân thân pháp lý của một người được xác lập khi người đó

sinh ra, nhưng không hẳn mất đi khi người đó chết. Cuộc sống xã hội mà một

người trải qua tạo ra những giá trị gắn liền với tên tuổi của người đó khi còn

sống; những giá trị ấy có thể tiếp tục tồn tại dù người đó không tồn tại nữa về

phương diện vật chất. Ta nói rằng, trong những trường hợp nhất định, nhân

thân pháp lý có thể thoát ra khỏi thân xác của người mang nhân thân đó để

tiếp tục là chỗ dựa của các quyền nhân thân của người này [20, tr.127].

1.2.2. Quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân

1.2.2.1. Khái niệm danh dự, nhân phẩm, uy tín

Theo từ điển tiếng Việt xuất bản năm 2006 của Nhà xuất bản Đà Nẵng

và Từ điển luật học xuất bản năm 2006 của Nhà xuất bản Tư pháp thì danh dự

của cá nhân được hiểu là sự coi trọng của dư luận xã hội, dựa trên giá trị tinh

thần và đạo đức tốt đẹp. Đây là một khái niệm rộng gắn liền với một cá nhân

xác định. Danh dự của con người không tự nhiên mà có, nó phải được hình

thành qua hoạt động thực tiễn. Như vậy, danh dự chính là sự suy tôn các tiêu

chuẩn đạo đức đối với con người, là một trong những yếu tố để khẳng định vị

25

trí, vai trò và uy tín của cá nhân đó trong xã hội.

Cũng theo từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 2006 của Nhà xuất bản Đà

Nẵng và Từ điển Luật học xuất bản năm 2006 của Nhà xuất bản Tư pháp thì

nhân phẩm là tổng hợp những phẩm chất mang tính đặc trưng của mỗi cá

nhân, là toàn bộ những yếu tố tạo nên giá trị của một con người.

Uy tín là sự tín nhiệm, mến phục và kính trọng của mọi người xung

quanh, của tập thể, cộng đồng đối với một cá nhân về một lĩnh vực nào đó

như phẩm chất đạo đức, nhân cách.

Từ những phân tích trên có thể thấy, danh dự, nhân phẩm và uy tín của

cá nhân là những yếu tố gắn liền với quyền nhân thân, phụ thuộc vào điều

kiện kinh tế, xã hội và quan điểm của thời đại lịch sử. Nếu như khái niệm

danh dự và uy tín có thể được dùng cho tổ chức hoặc cá nhân và được hình

thành, phát triển theo thời gian thì nhân phẩm lại là khái niệm chỉ dành cho cá

nhân và được hình thành kể từ thời điểm cá nhân đó được sinh ra và tồn tại

theo thời gian.

Đồng thời, danh dự, nhân phẩm và uy tín của mỗi cá nhân có mối quan

hệ gắn bó và tác động qua lại lẫn nhau. Danh dự có nội hàm rộng và ở một

góc độ là giá trị xã hội nó còn bao hàm cả nhân phẩm và uy tín. Nhân phẩm

của mọi người trong xã hội là ngang nhau, còn danh dự và uy tín của mỗi

người lại khác nhau tùy thuộc vào nhân cách, lối sống, thái độ ứng xử, tài

năng và đạo đức của họ. Mặc dù vậy, danh dự, nhân phẩm, uy tín của mọi

người trong xã hội đều được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng. Mọi hành

vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm và uy tín của cá nhân đều bị trừng trị

nghiêm khắc. Người có hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá

nhân phải chịu chế tài theo quy định của pháp luật.

26

1.2.2.2. Đặc điểm của danh dự, nhân phẩm, uy tín

Thứ nhất, danh dự, nhân phẩm và uy tín của cá nhân là những yếu tố

của quyền nhân thân. Do vậy, nó gắn liền với mỗi cá nhân và không thể

chuyển giao cho chủ thể khác vì bất cứ lý do gì. Đồng thời, danh dự, nhân

phẩm, uy tín của cá nhân cũng không phải là tài sản nên không thể quy đổi

thành tiền, không thể định giá hay là đối tượng để mua, bán, tặng, cho, đặt

cược, bảo lãnh trong các giao dịch dân sự. Bản thân nó không tự nhiên phát

sinh tài sản mà chỉ được bồi thường bằng tài sản khi có hành vi xâm phạm.

Thứ hai, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân nếu bị tổn thất thì

không thể khôi phục lại như tình trạng ban đầu. Khi có hành vi xâm phạm

danh dự, nhân phẩm, uy tín thì việc áp dụng các chế tài xử lý cũng chỉ nhằm

khắc phục hậu quả chứ không thể khôi phục lại như tình trạng ban đầu. Bởi lẽ,

nếu các loại tài sản thông thường khi bị thiệt hại thì hoàn toàn có thể thay thế

bằng một tài sản cùng loại khác hoặc có thể bồi thường bằng một loại tài sản

ngang giá là tiền thì riêng với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, như đã

nói ở trên, đây là yếu tố gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao, do

đó, khi có thiệt hại xảy ra không thể lấy danh dự, nhân phẩm, uy tín của người

khác ra để thay thế, bồi thường được mà chỉ có thể áp dụng các biện pháp

nhằm khắc phục phần nào thiệt hại.

Thứ ba, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân có đặc tính lịch sử. Có

thể thấy, ở mỗi hình thái kinh tế xã hội khác nhau hoặc trong một hình thái

kinh tế xã hội nhưng ở những giai đoạn lịch sử khác nhau thì quan điểm về

danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là khác nhau. Ví dụ: Nếu trước đây,

danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân không được coi trọng hoặc có rất ít

chế tài để xử lý đối với những hành vi xâm phạm thì ngày nay, vấn đề này đã

được pháp luật của các quốc gia trên thế giới chú trọng hơn rất nhiều. Đối với

27

những hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín có tính chất, mức độ

nghiêm trọng thì chủ thể gây thiệt hại ngoài việc phải bồi thường theo quy

định của pháp luật dân sự còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

1.2.2.3. Quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân vừa là quyền

con người, vừa là quyền nhân thân

Trước hết, quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là

quyền con người.

Nói như vậy bởi lẽ, từ nhiều năm trước đây, quyền này đã được pháp luật của

các quốc gia trên thế giới ghi nhận và bảo vệ. Kể cả trong Công ước quốc tế,

Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền là những văn bản có giá trị pháp lý cao nhất,

vấn đề này cũng đã được quy định rất rõ ràng. Cụ thể:

Tại Điều 17 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 có

ghi:

“1. Không ai bị can thiệp một cách độc đoán hoặc bất hợp pháp đến

đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xúc phạm bất hợp pháp

đến danh dự và uy tín.

2. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo hộ chống lại những can

thiệp hoặc xúc phạm như vậy.” [1, Điều 17]

Hay Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 cũng khẳng định:

“Không ai có thể bị xâm phạm một cách độc đoán vào đời tư, gia đình,

nhà ở, thư tín, hay bị xúc phạm đến danh dự hay thanh danh. Ai cũng có

quyền được luật pháp bảo vệ chống lại những xâm phạm ấy”. [2, Điều 12]

Cùng với đó, để đảm bảo quyền này được thực thi trên thực tế, pháp

luật Việt Nam cũng đã sớm có qui định về vấn đề này. Từ Hiến pháp năm

1980 đã quy định: “Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng,

tài sản, danh dự và nhân phẩm” [3, Điều 70]. Đến Hiến pháp năm 1992 lại

28

tiếp tục ghi nhận quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của công dân

tại Điều 71 “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp

luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm” [4, Điều 71].

Tiếp đến, Điều 20 Hiến pháp năm 2013 nhấn mạnh: “Mọi người có quyền bất

khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và

nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình

thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân

phẩm” [5, Điều 20].

Đồng thời, quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín còn là một quyền

nhân thân quan trọng của mỗi cá nhân.

Đề cập đến việc bảo vệ danh dự và phẩm cách, nguyên tắc dân pháp

của Liên - Xô và các nước Cộng hòa liên bang có ghi: “Các công dân và tổ

chức có quyền kiện trước tòa án để cải chính những tin tức bôi nhọ danh dự

và phẩm cách của mình nếu những kẻ tung ra những tin tức đó không chứng

minh được là đúng với sự thực.

Nếu những tin tức đó được truyền bá trên báo chí thì trong trường hợp không

đúng với sự thực cũng phải được cải chính trên báo chí” [28, Điều 7].

Bên cạnh đó, dưới thời pháp luật phong kiến, Nhà nước ta cũng đã phần nào

ghi nhận việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân. Tuy vậy, phải

đến khi có sự ra đời của Bộ luật Dân sự năm 1995 thì quyền được bảo vệ

danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân mới chính thức được công nhận là

một quyền nhân thân riêng biệt. Theo đó, tại Điều 33 của Bộ luật này có quy

định:

“1. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng và được

pháp luật bảo vệ.

2. Không ai được xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của

29

người khác” [6, Điều 33]

Cùng với sự phát triển của xã hội, các quy định về quyền nhân thân cũng ngày

một hoàn thiện hơn, quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân

cũng không là ngoại lệ. Có thể thấy, tại Điều 34 Bộ luật Dân sự năm 2015,

quyền này được quy định khá cụ thể và chi tiết:

“1. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và

được pháp luật bảo vệ.

2. Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng

xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.

Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi cá

nhân chết theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường hợp không

có những người này thì theo yêu cầu của cha, mẹ của người đã chết, trừ

trường hợp luật liên quan có quy định khác.

3. Thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá

nhân được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng nào thì phải được

gỡ bỏ, cải chính bằng chính phương tiện thông tin đại chúng đó. Nếu thông

tin này được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ.

4. Trường hợp không xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu

đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền yêu

cầu Tòa án tuyên bố thông tin đó là không đúng.

5. Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm,

uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu

người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại.”

[8, Điều 34]

1.3. CƠ SỞ ÁP ĐẶT CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM DANH

30

DỰ, NHÂN PHẨM, UY TÍN CỦA CÁ NHÂN

Từ khái niệm danh dự, nhân phẩm, uy tín như đã phân tích ở trên, có

thể hiểu hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là hành vi

của một chủ thể làm cho người nào đó bị xúc phạm, bị coi thường, bị khinh rẻ

trong gia đình, tập thể, trong xã hội. Tùy thuộc vào vị thế, vai trò, nhiệm vụ,

tuổi tác của người bị thiệt hại mà mức độ của hành vi xâm phạm sẽ khác

nhau.

Theo đó, chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín

của cá nhân được hiểu là hậu quả pháp lý bất lợi mà một chủ thể phải gánh

chịu khi có những hành vi xúc phạm đến một cá nhân, khiến người đó bị gia

đình, xã hội xa lánh, coi thường, khinh rẻ, mà giữa chủ thể gây thiệt hại và

người bị thiệt hại trước đó không có giao kết hợp đồng.

Pháp luật mỗi quốc gia khác nhau, ở từng thời kỳ tùy vào đặc điểm, cấu

trúc, kỹ thuật pháp lý của mình sẽ xây dựng các cơ sở, điều kiện cho việc áp

đặt chế tài đối với hành xi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân

khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu pháp luật so sánh và lịch sử pháp luật cho

thấy, tuy có nhiều quy định khác nhau nhưng các quốc gia cũng chia sẻ một

số điều kiện chung để áp đặt chế tài dân sự đối với hành vi xâm phạm danh

dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân. Các điều kiện đó thường là: (1) có hành vi

xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân; (2) có thiệt hại vật chất

hoặc tinh thần xảy ra; (3) có quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại; (4) có

lỗi; và (5) không thuộc các trường hợp miễn trừ trách nhiệm.

Đơn cử như, theo quy định của Luật Hồng Đức (Quốc triều Hình luật),

điều kiện để áp đặt chế tài đối với chủ thể có hành vi gây thiệt hại đó là: có

31

tổn thất về vật chất, tổn thất về tinh thần và người gây thiệt hại có lỗi.

Tổn thất vật chất được hiểu là sự xâm phạm đến tính mạng con người,

tài sản. Theo đó, chủ thể có hành vi gây thiệt hại vừa phải chịu chế tài hình sự

(hình phạt) vừa phải bồi thường thiệt hại cho người bị xâm hại.

Ví dụ, Điều 29 Luật Hồng Đức quy định:

“Tiền đền mạng – nhất phẩm, tòng nhất phẩm được đền 15.000 quan;

nhị phẩm, tòng nhị phẩm 9.000 quan; tam phẩm, tòng tam phẩm 2.000

quan; lục phẩm, tòng lục phẩm 1.000 quan; thất phẩm, tòng thất thẩm

500 quan; bát phẩm đến cửu phẩm 300 quan; thứ nhân trở xuống 150

quan.” [23, Điều 29]

Tổn thất tinh thần là một sự xâm phạm vào các quyền lợi ngoại sản

nghiệp, các tình cảm hoặc các giá trị tinh thần hay luân lý như sự mất danh

giá hoặc lòng đau thương đối với nạn nhân [18, tr.478]. Vào thời Lê, những

quy định về bồi thường tổn thất tinh thần được đưa ra chủ yếu nhằm bảo vệ

quyền lợi cho một bộ phận có địa vị trong xã hội lúc bấy giờ. Chẳng hạn như

Điều 473 Luật Hồng Đức có quy định:

“Đồng bực hay thua bực mà lăng mạ quan tam phẩm thì xử biếm một

tư. Thua 2, 3 bực thì xử biếm hai tư. Không có chức quan thì xử đồ làm

khao đinh, phạt tiền tạ như luật. Lăng mạ quan tứ phẩm trở xuống mà

đồng bực hay thua bực thì luận tội theo thứ thượng giả, phẩm đồng cập

ti, các dĩ thứ luận. Nhược tam phẩm quan mạ ti nhứt đẳng, nhị đẳng

giả, biếm nhứt tư. Ti tam đẳng, chỉ luận tạ tiền. Tứ phẩm dị hạ mạ ti

giả, diệc dĩ thứ luận...” [23, Điều 473].

Bên cạnh đó, Luật Hồng Đức còn có các quy định về bồi thường tổn

thất tinh thần trong quan hệ hôn nhân và một số quan hệ xã hội cụ thể khác,

quy định này được áp dụng với tất cả mọi người trong xã hội. Điều 315 Luật

32

Hồng Đức quy định: “Nếu cha mẹ cô gái đã nhận sính lễ trong việc gả con

gái, sau đó lại từ chối gả con thì phải bồi thường thiệt hại về danh dự cho gia

đình người con trai đã có sính lễ đó”. [23, Điều 315]

Bên cạnh tổn thất vật chất và tổn thất tinh thần thì lỗi cũng là một yếu

tố không thể thiếu trong việc thành lập trách nhiệm. Để áp đặt chế tài cho một

chủ thể, pháp luật nhà Lê không chỉ xem xét đến thiệt hại mà còn quan tâm

đến việc hành vi đó gây ra trong hoàn cảnh như thế nào, nhận thức chủ quan

của chủ thể khi thực hiện hành vi gây tổn thất cho người khác ra sao. Chẳng

hạn, trong trường hợp người gây thiệt hại có lỗi cố ý thì tính nghiêm trọng của

nó tăng lên nhiều lần so với hành vi gây thiệt hại có lỗi vô ý, sơ ý. Theo đó,

chế tài áp dụng và khoản tiền bù đắp tổn thất khi phạm lỗi cố ý cũng lớn hơn

rất nhiều so với khi phạm lỗi vô ý. Có thể thấy, Quốc triều Hình luật quy định

về vấn đề này khá chặt chẽ, phần nào cho thấy sự đánh giá nghiêm khắc của

các nhà làm luật ngay cả trong lĩnh vực dân sự.

Nghiên cứu pháp luật của một số quốc gia trên thế giới khi quy định về

căn cứ phát sinh chế tài thấy có sự khác nhau. Chẳng hạn: Cộng hòa Pháp khi

xem xét căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường phải có ba điều kiện là: có

thiệt hại xảy ra; có một sự kiện (sự kiện cố ý hoặc không cố ý); có mối quan

hệ nhân quả giữa thiệt hại và sự kiện. Ở Liên bang Xô Viết cũ, việc xác định

trách nhiệm bồi thường dân sự chỉ phát sinh khi có các điều kiện sau: có xử sự

bất hợp pháp của đương sự, có mối quan hệ giữa xử sự bất hợp pháp và kết

quả xảy ra; có lỗi của đương sự. Ở Nhật Bản, việc xác định trách nhiệm căn

cứ vào rất nhiều yếu tố, bao gồm: có lỗi cố ý hay vô ý khi xảy ra thiệt hại; có

năng lực trách nhiệm (có phân biệt giữa hành vi của người chưa thành niên và

người ở trạng thái không có năng lực hành vi); tính trái pháp luật của hành vi

khi xâm phạm quyền và gây thiệt hại; phải phát sinh thiệt hại; có quan hệ

nhân quả thực tế giữa hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại và người

33

bị thiệt hại phải gánh chịu. [26, tr.20-tr.21]

Ở Anh, trách nhiệm dân sự đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân

phẩm, uy tín lại chỉ được áp dụng khi nguyên đơn chứng minh được ba yếu

tố: hành vi có tính chất phỉ báng; hành vi đề cập đến nguyên đơn và hành vi

được công bố. Hành vi xâm phạm đó có thể đề cập đến người bị thiệt hại một

cách trực tiếp hay gián tiếp, miễn là bên bị thiệt hại chứng minh được với một

người bình thường, duy lý khi đọc hay nghe các tuyên bố đó sẽ cho rằng

tuyên bố đó hướng đến mình. Không nhất thiết tất cả xã hội nói chung hay bất

kì người nào trong xã hội đều phải có nhận thức như vậy, chỉ cần những

người gần gũi hay biết nguyên đơn, khi đọc hay nghe tuyên bố xúc phạm có

nhận thức rằng tuyên bố đó đề cập đến nguyên đơn là đủ. [35, tr.9]

Trong một số trường hợp lỗi vô ý cũng có thể bị áp đặt chế tài. Như

trong vụ Newstead v London Express Newspaper Ltd (1940) khi Báo tin

nhanh London đã đăng tin hoàn toàn trung thực về một người tên là Newstead

sống ở Camberwell có quan hệ đa thê. Nhưng tại khu vực đó cũng có một

người tên là Newstead sinh sống và tờ báo lại không đăng đầy đủ địa chỉ của

ông Newstead có quan hệ đa thê để giúp phân biệt giữa những người này với

nhau. Do đó, tờ báo đã bị áp đặt trách nhiệm. [35, tr.9]

Về nguyên tắc, khi có thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra thì chủ

thể gây thiệt hại phải chịu chế tài. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền và lợi ích

hợp pháp của các bên tham gia quan hệ dân sự, trong một số trường hợp đặc

biệt, pháp luật cho phép chủ thể gây thiệt hại được miễn trách nhiệm:

Một là, hành vi xâm phạm phản ánh đúng sự thật.

Điều 7 Nguyên tắc dân pháp của Liên – Xô và các nước Cộng hòa liên bang

có quy định: “Các công dân và tổ chức có quyền kiện trước tòa án để cải

chính những tin tức bôi nhọ danh dự và phẩm cách của mình nếu những kẻ

34

tung ra tin tức đó không chứng minh được là đúng với sự thực” [28, Điều 7].

Điều này có nghĩa là, trong trường hợp nếu người đưa ra tin tức đó chứng

minh được những tin tức mình đưa ra là đúng với sự thật thì sẽ không phải

chịu chế tài.

Trong một bài viết về Internet và chế định trách nhiệm dân sự đối với

hành vi xâm phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm: Kinh nghiệm của Vương quốc

Anh, TS. Trần Kiên có viết: Tuyên bố đưa ra phản ánh đúng sự thật khách

quan là sự biện hộ mạnh nhất cho một tuyên bố có khả năng xâm phạm uy tín,

danh dự của người khác. Bị đơn cần phải chứng minh rằng tuyên bố hay hành

vi của mình là đúng sự thật. Bị đơn không cần phải chứng minh từng chi tiết

trong tuyên bố của mình là đúng sự thật. Thay vào đó, bị đơn chỉ cần chứng

minh tuyên bố của mình khi nhìn nhận một cách tổng thể là phản ánh đúng sự

thật. Điều 5 Đạo luật về Hành vi xâm phạm uy tín, danh dự năm 1952 quy

định khi một tuyên bố chứa đựng nhiều hơn hai sự cáo buộc khác nhau đối

với nguyên đơn, thì bị đơn không cần phải chứng minh rằng mọi lời cáo buộc

đều là đúng sự thật, cho đến mức độ nếu lời cáo buộc không đúng sự thật

không gây ra tổn hại gì cho nguyên đơn và cáo buộc còn lại là đúng sự thật.

Quy định này đã được áp dụng trong án lệ nổi tiếng Gecas v Scottish

Television (1992) trong đó Scottish Television đã phát phóng sự đưa ra một

loạt cáo buộc khác nhau về sự tham gia của nguyên đơn Gecas vào nạn diệt

chủng người Do Thái trong Thế chiến thứ 2, một trong các cáo buộc đó là

không đúng sự thật nhưng nó không ảnh hưởng đến sự chính xác của các cáo

buộc khác và cũng không làm tăng thêm thiệt hại về uy tín, danh dự của

nguyên đơn. [35, tr.15-tr.16]

Hai là, hành vi xâm phạm là một bình luận hợp lý

Để được coi là một bình luận hợp lý, hành vi xâm phạm đó phải thỏa

35

mãn các yêu cầu sau:

+ Đối tượng bình luận là vấn đề có tính chất thuộc về lợi ích công cộng.

Ví dụ như chính quyền trung ương và địa phương, công đoàn, cảnh sát.

+ Từ ngữ trong tuyên bố phải là một sự bình luận chứ không phải là

trình bày tình tiết.

+ Tình tiết mà dựa vào đó bị đơn đưa ra bình luận phải là tình tiết phản

ánh sự thật khách quan. Nếu không phản ánh sự thật khách quan thì phải được

bảo vệ bởi sự biện hộ về Đặc quyền tuyệt đối hoặc Đặc quyền tương đối.

+ Bình luận đưa ra phải là sự thể hiện quan điểm một cách trung thực

và phù hợp của bị đơn.

+ Bình luận không được có tính ác ý. Bình luận được coi là có tính ác ý

khi người đưa ra bình luận không thật sự tin rằng bình luận là đúng sự

thật.[35, tr.16-tr.17]

Ba là, trong một số trường hợp, luật thấy rằng quyền tự do ngôn luận

quan trọng hơn sự bảo vệ về uy tín thì các hành vi xâm phạm danh dự, nhân

phẩm, uy tín sẽ không phải chịu chế tài. Đó là:

+ Các tuyên bố được đưa ra bởi các thành viên Hạ viện và Thượng viện

tại Quốc hội hoặc các tuyên bố đưa ra trong các báo cáo của Quốc hội.

+ Bất kì một báo cáo nào đã được xuất bản bởi Quốc hội và sau đó

được tái bản bởi một người khác.

+ Bất kì tuyên bố nào được đưa ra bởi các bộ trưởng và các thành viên

khác của chính phủ về những thành viên chính phủ khác trong quá trình thực

hiện công vụ của mình.

+ Tuyên bố được đưa ra bởi vợ hoặc chồng về người còn lại.

+ Các tuyên bố được đưa ra bởi các nhân viên và các công chức khác

của Liên minh Châu Âu trong khi thực hiện công vụ.

+ Các tuyên bố được đưa ra trong quá trình tố tụng bởi thẩm phán, nhân

36

chứng, luật sư và các đương sự.

+ Việc đưa tin chính xác và trung thực của báo chí trong quá trình tố

tụng tại tòa.[35, tr.17]

Tuy nhiên, pháp luật chỉ bảo vệ hành vi xâm phạm danh dự, nhân

phẩm, uy tín của người đưa ra tuyên bố, còn việc một người khác đăng tải lại

37

tuyên bố đó lại không được bảo vệ.

CHƢƠNG 2

QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ

CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM DANH DỰ,

NHÂN PHẨM, UY TÍN CỦA CÁ NHÂN

2.1. QUYỀN ĐỐI VỚI DANH DỰ, NHÂN PHẨM, UY TÍN CỦA CÁ

NHÂN THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là một

quyền hiến định. Tuy nhiên, BLDS năm 2005 chỉ có một điều luật quy định

rất ngắn gọn về vấn đề này:“Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được

tôn trọng và được pháp luật bảo vệ” [7, Điều 37]

Kể từ khi BLDS năm 2015 ra đời, quyền được bảo vệ danh dự, nhân

phẩm, uy tín của cá nhân đã được quy định cụ thể, chi tiết hơn rất nhiều. Theo

đó, tại Điều 34 BLDS năm 2015 chỉ rõ:

“1. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và

được pháp luật bảo vệ.

2. Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng

xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.

Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi

cá nhân chết theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường

hợp không có những người này thì theo yêu cầu của cha, mẹ của người

đã chết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

3. Thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá

nhân được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng nào thì phải

38

được gỡ bỏ, cải chính bằng chính phương tiện thông tin đại chúng đó.

Nếu thông tin này được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được

hủy bỏ.

4. Trường hợp không xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu

đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền

yêu cầu Tòa án tuyên bố thông tin đó là không đúng.

5. Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm,

uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu

cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường

thiệt hại.” [8, Điều 34]

Mặc dù BLDS năm 2015 có đưa ra nhiều quy định về xác định thiệt hại

và trách nhiệm bồi thường đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy

tín của cá nhân, tuy nhiên lại không có bất kỳ một điều khoản nào định nghĩa

cụ thể thế nào là “danh dự”, “nhân phẩm”, “uy tín”. Do đó, thực tiễn áp dụng

pháp luật hiện nay vẫn sử dụng những khái niệm này theo cách hiểu thông

thường.

Theo quy định tại Điều 34 BLDS năm 2015 thì trong trường hợp có căn

cứ chứng minh có thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy

tín của mình, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ những thông tin đó.

Thậm chí, ngay cả khi cá nhân chết quyền này vẫn được bảo vệ tuyệt đối. Vợ,

chồng hoặc con đã thành niên có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ những thông

tin gây ảnh hưởng xấu đến danh dự của người đã chết; trường hợp người đã

chết không có vợ, chồng hoặc con cái thì cha, mẹ của người này sẽ là người

có quyền yêu cầu.

Trường hợp thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín

của cá nhân được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo

39

chí, đài truyền hình, đài phát thanh,... thì chính phương tiện đăng tải những

thông tin đó sẽ phải có trách nhiệm gỡ bỏ và cải chính. Trong trường hợp

thông tin này được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ để

chấm dứt mọi sự đe dọa đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân sau này.

Đáng chú ý, BLDS năm 2015 cho phép trong trường hợp không xác

định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín

của mình thì người bị đưa tin có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thông tin đó

là không đúng. Có thể thấy, đây là một quy định khá tiến bộ của BLDS năm

2015. Bởi lẽ, trên thực tế những tin đồn thường lan truyền với tốc độ hết sức

nhanh chóng, đặc biệt trong thời đại mạng xã hội phát triển mạnh mẽ như

hiện nay, một thông tin thu hút trên facebook có thể được hàng trăm nghìn

lượt chia sẻ và để truy tìm nơi phát tán thông tin đầu tiên không phải là điều

dễ dàng. Từ quy định này có thể thấy, vấn đề mà pháp luật nước ta ưu tiên

quan tâm hàng đầu là danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân chứ không phải

là chuyện truy cứu trách nhiệm của kẻ có hành vi xâm phạm. Khi có bản án,

quyết định của Tòa án tuyên bố thông tin đó là không đúng thì danh dự, nhân

phẩm, uy tín của cá nhân sẽ được đảm bảo, cuộc sống thường ngày sẽ không

bị ảnh hưởng.

Bên cạnh đó, ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu

đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì cá nhân bị thiệt hại còn có quyền

yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải xin lỗi, cải chính công khai và bồi

thường thiệt hại.

2.2. CÁC LOẠI CHẾ TÀI DÂN SỰ ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM

DANH DỰ, NHÂN PHẨM, UY TÍN CỦA CÁ NHÂN THEO PHÁP

LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Quyền nhân thân nói chung và quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy

40

tín của cá nhân nói riêng là quyền dân sự được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Theo quy định mới sửa đổi, bổ sung tại BLDS năm 2015, mỗi khi các quyền

về nhân thân của mình bị xâm phạm, các cá nhân có thể lựa chọn những biện

pháp để bảo vệ các quyền này bằng cách yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà

nước có thẩm quyền khác:

(1) Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo quyền dân sự của mình

Như đã nói ở trên, quyền dân sự là quyền của cá nhân. Theo đó, nếu cá

nhân nhận thấy có dấu hiệu vi phạm đến quyền dân sự của mình thì có quyền

yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận, tôn trọng và thực hiện

các biện pháp bảo vệ quyền dân sự của mình một cách hợp pháp nhằm đảm

bảo tối đa quyền và lợi ích của mình. Đây được coi là phương thức cơ bản

nhất bởi lẽ ngay từ khi cá nhân có quyền dân sự và quyền dân sự đó được

pháp luật công nhận thì các chủ thể có liên quan phải công nhận, tôn trọng,

bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của cá nhân đó.

(2) Buộc chấm dứt hành vi vi phạm

Nếu như ở phương thức thứ nhất, cá nhân bằng quyền của mình yêu

cầu các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ cho quyền lợi hợp pháp của

mình thì ở phương thức thứ hai này cá nhân bằng tư cách của chính mình yêu

cầu bên có hành vi trái pháp luật buộc phải chấm dứt hành vi vi phạm. Có thể

thấy, đây là biện pháp đầu tiên mà hầu hết các chủ thể bị xâm phạm quyền

đều áp dụng trước khi sử dụng đến các biện pháp khác. Tuy nhiên, việc áp

dụng biện pháp này thông thường chỉ có hiệu quả trong trường hợp người có

hành vi xâm phạm quyền nhân thân sớm nhận thức được hành vi trái pháp

luật của họ. Trường hợp nếu người có hành vi xâm phạm quyền nhân thân

không nhận thức được hành vi trái pháp luật của họ thì người có quyền nhân

thân bị xâm phạm phải áp dụng biện pháp bảo vệ khác mới bảo vệ được

41

quyền nhân thân của mình.

Ví dụ: Báo Dân trí ngày 15/6/2016 có đưa tin vụ kiện đòi bồi thường

thiệt hại do bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín trên Facebook giữa bà

NT (ngụ quận 4) và ông TGN (ngụ quận 2).

Bản án tại tòa ghi nhận phía nguyên đơn cho là ông N. đã dùng một Facebook

có nickname không trùng tên ông đăng các thông tin thô tục, mô tả quan hệ ân

ái đôi bên sau khi chia tay. Sau đó, ông N. còn tiếp tục đăng bốn ảnh cảnh ân

ái giữa hai bên. Tất cả chia sẻ trên Facebook này đều ở chế độ công cộng.

Cho là bị xúc phạm danh dự, uy tín nghiêm trọng, bà T. yêu cầu ông N. phải

xin lỗi, cải chính trên báo. Ông N. đồng ý xin lỗi trực tiếp nhưng không đăng

trên báo cũng như không cải chính. Vì nội dung đó là có thật khi hai người

quan hệ với nhau.

Theo tòa, đây là các thông tin tình cảm riêng tư cần phải được tôn trọng

và bảo vệ. Việc ông N. tự ý tung các tư liệu này không được sự đồng ý của bà

T. là có lỗi. Ngày 7-1, TAND quận 2 sau khi xử đã tuyên buộc phía bị đơn -

ông N. chấm dứt hành vi truyền đưa, lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe

dọa, xúc phạm nhân phẩm, uy tín của nguyên đơn. Bên cạnh đó, ông N. có

trách nhiệm xin lỗi trực tiếp tại chi cục thi hành án có thẩm quyền và kết quả

sẽ được thông báo, đưa tin công khai. Ngoài ra, tòa buộc ông N. phải bồi

thường chi phí cần thiết lập vi bằng làm bằng chứng của bà T. cũng như tổn

thất tinh thần tổng cộng 39,2 triệu đồng. [39]

(3) Buộc xin lỗi, cải chính công khai

Biện pháp này mặc dù không mang lại cho chủ thể bị thiệt hại một lợi

ích vật chất nào nhưng lại có ý nghĩa rất lớn trong việc bù đắp những tổn thất

về tinh thần do hành vi trái pháp luật mà chủ thể khác gây ra. Theo đó, người

gây thiệt hại có thể thực hiện bằng lời nói trước Hội đồng xét xử và người bị

thiệt hại hoặc có thể xin lỗi, cải chính công khai trên báo chí, các phương tiện

42

thông tin đại chúng nhằm đính chính lại những thông tin sai lệch, khôi phục

và đảm bảo được phần nào danh dự, uy tín cho chủ thể bị xâm phạm. Đây là

biện pháp trên thực tế chưa được áp dụng nhiều. Trong điều kiện xã hội hiện

nay, với sự phát triển của các phương tiện truyền thông ngày càng rộng rãi thì

hình thức xin lỗi, cải chính công khai thực sự phát huy được tác dụng của nó

ở nhiều khía cạnh. Biện pháp này đôi khi có thể có ý nghĩa hơn cả việc người

gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị xâm phạm.

Để bảo vệ quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, Luật

báo chí năm 2016 cũng có quy định chi tiết về việc xin lỗi, đăng tin cải chính

khi có sự vi phạm và yêu cầu từ phía chủ thể bị xâm phạm. Theo đó:

“Cơ quan báo chí thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm

danh dự, nhân phẩm của cá nhân thì phải đăng, phát lời cải chính, xin

lỗi trên báo chí và thông báo cho cá nhân đó.

Đối với báo chí điện tử, ngoài việc đăng, phát lời cải chính, xin lỗi còn

phải gỡ bỏ ngay thông tin sai sự thật đã đăng, phát nhưng phải lưu giữ

nội dung thông tin trên máy chủ để phục vụ công tác thanh tra, kiểm

tra theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 52 của Luật này.

Khi có văn bản kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về vụ

việc mà báo chí đã đăng, phát là sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc

phạm danh dự, nhân phẩm của cá nhân thì cơ quan báo chí phải đăng,

phát phần nội dung kết luận đó và nội dung cải chính, xin lỗi của cơ

quan báo chí, của tác giả tác phẩm báo chí.

Lời xin lỗi của cơ quan báo chí, tác giả tác phẩm báo chí được đăng,

phát liền sau nội dung thông tin cải chính.” [11, Điều 42]

Ví dụ: Ngày 19/6/2018, Báo điện tử VietNamNet đăng tải bài "Chủ

tịch nước: Sẽ báo cáo Quốc hội về Luật Biểu tình", trong đó có đoạn viết:

"Trước kiến nghị của cử tri về Luật Biểu tình, Chủ tịch nước Trần Ðại Quang

43

đồng ý rằng cần Luật Biểu tình và sẽ báo cáo Quốc hội về nội dung này".

Trên thực tế, tại buổi tiếp xúc cử tri ở TP. Hồ Chí Minh ngày 19/6, Chủ tịch

nước Trần Đại Quang không phát biểu như nội dung thông tin báo đã nêu. Tối

19/7, Báo điện tử VietNamNet đã phải đăng thông tin cải chính và gửi lời xin

lỗi Chủ tịch nước Trần Ðại Quang cùng bạn đọc.[40]

Bên cạnh đó, Điều 31 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm

2017 có quy định:

“Người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự, công chức bị xử lý

kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật, người bị áp dụng các biện pháp xử

lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ

sở cai nghiện bắt buộc trái pháp luật thì được phục hồi danh dự”.[13,

Điều 31]

Theo đó, tùy từng trường hợp cụ thể, việc phục hồi danh dự của người bị thiệt

hại được thực hiện dưới các hình thức như: trực tiếp xin lỗi, đăng báo xin lỗi

hoặc cải chính công khai. (Điều 56 Mục 3 Luật trách nhiệm bồi thường của

nhà nước năm 2017)

Ví dụ: Ngày 17/4/2015, báo Công lý có đưa tin về việc Tòa phúc thẩm

TANDTC tại Hà Nội đã tổ chức “Buổi công khai xin lỗi cải chính đối với

người bị kết án oan là ông Nguyễn Thanh Chấn theo Luật Trách nhiệm bồi

thường của Nhà nước”.

Tại buổi công khai xin lỗi ông Nguyễn Thanh Chấn, sinh năm 1961, trú tại

thôn Me, xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang có sự tham gia

trực tiếp của ông Nguyễn Thanh Chấn; đại diện TAND, VKSND, Công an

tỉnh Bắc Giang; đại diện UBND, Mặt trận Tổ quốc xã Nghĩa Trung; đại diện

thôn Me; đại diện gia đình ông Nguyễn Thanh Chấn và nhân dân địa

44

phương…

Thay mặt Toà phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội, ông Ngô Hồng Phúc, Phó

Chánh tòa đã tóm tắt quá trình tiến hành tố tụng đối với ông Nguyễn Thanh

Chấn.

Theo đó, khoảng 22h ngày 15/8/2003, chị Nguyễn Thị Hoan bị giết hại tại nhà

ở thôn Me, xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Sau khi nhận

được tin báo, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đã tiến hành

điều tra vụ án và ngày 17/8/2003 đã khởi tố vụ án hình sự; đến ngày

28/9/2003 đã khởi tố bị can đối với ông Nguyễn Thanh Chấn. Quá trình điều

tra vụ án, Cơ quan điều tra tỉnh Bắc Giang đã kết luận và VKSND tỉnh Bắc

Giang đã có cáo trạng truy tố Nguyễn Thanh Chấn về tội Giết người theo

Điều 93 Bộ luật Hình sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 45/HSST ngày 26/3/2004, TAND tỉnh Bắc

Giang đã áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93; điểm o khoản 1, khoản 2 Điều 46;

Điều 34 Bộ luật Hình sự, xử phạt ông Nguyễn Thanh Chấn tù chung thân về

tội “Giết người” và buộc ông Chấn phải bồi thường cho gia đình người bị hại

số tiền là 35.000.000 đồng.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Nguyễn Thanh Chấn có đơn kháng cáo kêu oan.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 1241/PTHS ngày 27/7/2004, Tòa phúc thẩm

TANDTC tại Hà Nội đã bác kháng cáo kêu oan của ông Nguyễn Thanh Chấn,

hủy phần quyết định của Bản án sơ thẩm về khoản cấp dưỡng cho con của

người bị hại để điều tra, xét xử lại.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Nguyễn Thanh Chấn và gia đình ông tiếp tục

có nhiều đơn kêu oan gửi đến các cơ quan, ban ngành ở Trung ương và địa

phương. Quá trình xem xét Đơn kêu oan của ông Nguyễn Thanh Chấn, cơ

45

quan điều tra có căn cứ cho rằng người giết chị Nguyễn Thị Hoan không phải

Nguyễn Thanh Chấn mà là Lý Nguyễn Chung (con trai ông Lý Văn Chúc)

cùng trú tại thôn Me, xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.

Ngày 04/11/2013, Viện trưởng VKSNDTC có Kháng nghị tái thẩm số

01/QĐ-VKSTC-V3, kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm số 1241/PTHS

ngày 27/7/2004 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội, đề nghị Hội đồng

Thẩm phán TANDTC xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy các quyết định

của Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên và Bản án hình sự sơ thẩm số

45/HSST ngày 26/3/2004; Bản án hình sự phúc thẩm số 166/HSPT ngày

02/3/2005 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội; Bản án hình sự sơ thẩm

số 145/HSST ngày 30/9/2004 của TAND tỉnh Bắc Giang đối với ông Nguyễn

Thanh Chấn để điều tra lại vụ án.

Tại Quyết định tái thẩm số 18/2013/HS-TT ngày 06/11/2013, Hội đồng Thẩm

phán TANDTC nhận định: Căn cứ vào đơn tố cáo của bà Nguyễn Thị Chiến

(là vợ của ông Nguyễn Thanh Chấn) cho rằng người giết chị Nguyễn Thị

Hoan là Lý Nguyễn Chung (con trai ông Lý Văn Chúc) cùng trú tại thôn Me,

xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, Cục Điều tra VKSNDTC

đã tiến hành xác minh về nguồn tin trên. Hội đồng thẩm phán TANDTC thấy

bản tự thú, lời khai của Lý Nguyễn Chung, lời khai của bà Nguyễn Thị Lành

(mẹ kế của Chung), lời khai của chị Hoàng Thị Xướng có thể làm thay đổi cơ

bản nội dung của vụ án. Vì vậy, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã quyết

định hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 1241/PTHS ngày 27/7/2004 của Tòa

phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội và Bản án hình sự sơ thẩm số 45/HSST ngày

26/3/2004 của TAND tỉnh Bắc Giang đối với ông Nguyễn Thanh Chấn;

chuyển hồ sơ vụ án cho VKSNDTC để điều tra lại theo thủ tục chung.

Sau khi nhận lại hồ sơ vụ án, cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã tiến

46

hành điều tra lại vụ án. Ngày 25/01/2014, cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công

an đã có quyết định đình chỉ điều tra bị can số 01/C44-P3 đối với ông Nguyễn

Thanh Chấn do có đủ căn cứ kết luận ông Nguyễn Thanh Chấn không thực

hiện hành vi phạm tội giết chị Nguyễn Thị Hoan.

Đến ngày 17/4/2015, tại trụ sở UBND xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh

Bắc Giang, thay mặt các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành

tố tụng trong vụ án này, Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội đã chính thức

xin lỗi, cải chính công khai đối với ông Nguyễn Thanh Chấn là người bị kết

án oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Cùng

với việc trực tiếp xin lỗi, cải chính công khai đối với ông Nguyễn Thanh

Chấn, Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội sẽ tiến hành việc đăng tin xin lỗi,

cải chính công khai trong 3 số liên tiếp trên Báo Công lý và Báo tỉnh Bắc

Giang. [41]

(4) Buộc thực hiện các nghĩa vụ

Là việc cá nhân có quyền yêu cầu bên chủ thể có nghĩa vụ phải thực

hiện đúng theo những gì mà hai bên đã giao kết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của mình.

Tuy nhiên, đối với những hành vi xâm phạm quyền nhân thân nói

chung và quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín nói riêng, do giữa hai chủ

thể trước đó không tồn tại nghĩa vụ nên chế tài này rất ít khi và khó được tòa

án áp dụng trong việc xử lý vi phạm. Ví dụ gần nhất có thể tìm thấy được là

trường hợp buộc người có hành vi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại.

(5) Buộc bồi thường thiệt hại

Khoản 5 Điều 34 BLDS năm 2015 khi quy định về quyền được bảo vệ

danh dự, nhân phẩm, uy tín có ghi:

“Cá nhân bị thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín... còn

47

có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin bồi thường thiệt hại” [8, Điều 34]

Như vậy, trong trường hợp người có hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm,

uy tín gây ra thiệt hại cho cá nhân thì cá nhân đó có quyền yêu cầu người gây

thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường. Hai bên sẽ căn cứ vào những thiệt

hại thực tế xảy ra để yêu cầu bồi thường một cách hợp pháp và hợp lý. Theo

đó:

“1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm được

xác định bao gồm:

a, Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;

b, Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;

c, Thiệt hại khác do luật quy định”

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm,

uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại

khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà

người đó gánh chịu” [8, Điều 592]

Từ quy định trên, có thể thấy thiệt hại do bị xâm phạm danh dự, nhân

phẩm, uy tín của cá nhân được xác định gồm: thiệt hại về vật chất và thiệt hại

về tinh thần. Cho đến nay, vẫn chưa có hướng dẫn từ Tòa án nhân dân tối cao

về việc xác định thiệt hại trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá

nhân bị xâm phạm, do vậy, thực tiễn hiện nay khi xét xử Tòa án vẫn dựa vào

những căn cứ trong Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của

Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy

định của BLDS năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Theo khoản 2 Điều 361 BLDS năm 2015 thì thiệt hại về vật chất được

hiểu là “tổn thất vật chất thực tế xác định được”, bao gồm:

 Các chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại

Thực tế cho thấy, các hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm và uy tín

48

được thể hiện bằng việc dùng lời lẽ có tính chất miệt thị, thiếu văn hóa hay có

những hành động có tính chất thóa mạ để lăng nhục, hạ thấp nhân cách làm

giảm sự tôn trọng, tín nhiệm của những người xung quanh; hoặc cũng có thể

là những trường hợp loan truyền tin bịa đặt sai sự thật dù vô tình hay hữu ý

làm cho người đó phải xấu hổ với những người xung quanh, xúc phạm đến

danh dự, nhân phẩm, uy tín của các chủ thể [27, tr.42-tr.43]. Nhằm khắc phục

phần nào những thiệt hại xảy ra, pháp luật cho phép cá nhân bị thiệt hại có

quyền yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu tòa án buộc người vi phạm chấm

dứt hành vi vi phạm như xin lỗi, cải chính công khai hoặc tự mình cải chính

trên các phương tiện thông tin đại chúng. Do đó, chi phí hợp lý để hạn chế,

khắc phục thiệt hại được hiểu là: “chi phí cần thiết cho việc thu hồi ấn phẩm

có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị thiệt hại; chi

phí cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh danh dự, nhân phẩm, uy

tín bị xâm phạm; tiền tàu, xe đi lại, thuê nhà trọ (nếu có) theo giá trung bình

ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí để yêu cầu cơ quan chức năng xác

minh sự việc, cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng; chi phí tổ

chức xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người bị

thiệt hại và các chi phí thực tế, cần thiết khác để hạn chế, khắc phục thiệt hại

(nếu có)”. [14, Tiểu mục 3.1 mục 3 Phần II]

Cần lưu ý rằng, theo hướng dẫn tại Nghị quyết thì các chi phí ở đây phải là

những “chi phí cần thiết”, tức là các chi phí chỉ ở mức trung bình, không quá

tốn kém so với bình thường, phải liên quan trực tiếp đến hành vi gây thiệt hại.

Ví dụ, sau thời gian diễn ra hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín,

người bị thiệt hại đi đường gặp tai nạn phải nằm viện thì những chi phí khi

người đó phải nằm viện do tai nạn này gây ra không được coi là chi phí hợp

lý để buộc người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín phải bồi thường.

49

Việc quy định như vậy góp phần đảm bảo cho việc xác định thiệt hại được

khách quan, hợp lý, tránh tình trạng phía người bị thiệt hại lợi dụng việc bồi

thường mà gây khó khăn cho người phải bồi thường.

 Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút

Nếu trước khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, người bị thiệt

hại có thu nhập thực tế, nhưng do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm

mà người bị xâm phạm phải thực hiện những công việc để hạn chế, khắc phục

thiệt hại, nên khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ sẽ

được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.

Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP thì thu nhập thực tế

của người bị thiệt hại được xác định như sau:

- Nếu trước khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, người bị thiệt

hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng

lao động, thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định bằng tiền

lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó bị xâm phạm danh dự,

nhân phẩm, uy tín nhân với thời gian phải thực hiện những công việc để hạn

chế khắc phục thiệt hại.

- Nếu trước khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, người bị

thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập

của các tháng khác nhau, thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác

định bằng mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng

thì của tất cả các tháng) trước khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm

nhân với thời gian phải thực hiện những công việc để hạn chế khắc phục thiệt

hại.

- Nếu trước khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, người bị thiệt

hại có thu nhập thực tế, nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì

50

thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định bằng mức thu nhập

trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian phải thực hiện những

công việc để hạn chế khắc phục thiệt hại.

- Nếu trước khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, người bị thiệt

hại chưa làm việc và chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường.

Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại được

thực hiện như sau:

Bước một: Xác định thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trong thời gian

phải thực hiện những công việc để hạn chế khắc phục thiệt hại có hay không.

Nếu có thì tổng số thu nhập là bao nhiêu?

Bước hai: Lấy tổng số thu nhập thực tế mà người bị thiệt hại có được trong

thời gian phải thực hiện những công việc để hạn chế khắc phục thiệt hại so

sánh với thu nhập thực tế tương ứng. Nếu trong thời gian phải thực hiện

những công việc để hạn chế khắc phục thiệt hại mà người bị thiệt hại không

có khoản thu nhập thực tế nào thì thu nhập thực tế của người đó bị mất; nếu

thấp hơn thì khoản chênh lệch đó là thu nhập thực tế bị giảm sút; nếu bằng thì

thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không bị mất. [14, tiểu mục 1.2 Mục 1

phần II]

Ví dụ 1: A làm nghề kinh doanh tự do. Thu nhập thực tế của A trước khi danh

dự bị xâm phạm ổn định, trung bình mỗi tháng là 10 triệu đồng. Do danh dự

bị xâm phạm, A phải thực hiện những công việc để hạn chế, khắc phục thiệt

hại nên không có khoản thu nhập nào. Trong trường hợp này thu nhập thực tế

của A bị mất.

Ví dụ 2: B làm công cho một công ty trách nhiệm hữu hạn. Thu nhập thực tế

của B trước khi danh dự bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là 8

triệu đồng. Do danh dự bị xâm phạm, B phải thực hiện những công việc để

51

hạn chế, khắc phục thiệt hại và trong thời gian đó công ty trả cho B 50% tiền

lương là 4 triệu đồng. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của B mỗi tháng

bị giảm sút 4 triệu đồng.

Ví dụ 3: C là công chức của một UBND phường có thu nhập hàng tháng ổn

định là 5 triệu đồng. Do danh dự bị xâm phạm, C phải thực hiện những công

việc để hạn chế, khắc phục thiệt hại và trong thời gian đó cơ quan vẫn trả đủ

các khoản thu nhập cho C. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của C

không bị mất.

 Thiệt hại khác do pháp luật quy định

BLDS năm 2015 đã bổ sung quy định “thiệt hại khác do luật quy định”.

Thực tế cho thấy có rất nhiều thiệt hại phát sinh mà pháp luật hiện hành chưa

thể dự liệu hết được. Do đó, BLDS năm 2015 đưa ra qui định này là hoàn

toàn hợp lý. Đây có thể xem là một quy định mang tính dự phòng và mang

tính hướng dẫn tới văn bản khác.

Bên cạnh việc bồi thường những tổn thất vật chất, người có hành vi

xâm phạm còn phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh

thần mà người bị thiệt hại phải gánh chịu. Về thực chất, khoản tiền bồi thường

này không chỉ mang ý nghĩa vật chất thuần túy mà còn mang ý nghĩa an ủi,

động viên người bị tổn thất, làm dịu bớt nỗi đau và những thiệt hại về tinh

thần mà họ phải gánh chịu, đồng thời cũng có tác dụng giáo dục, phòng ngừa

người có hành vi vi phạm.

“Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do danh dự,

nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại phải chịu buồn phiền, bị

giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm” [14, điểm b,

tiểu mục 1.1, mục 1, phần I]

Cũng theo quy định tại Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP thì khoản tiền bù

đắp tổn thất về tinh thần này được bồi thường cho chính người bị xâm phạm.

52

Pháp luật dân sự nói chung và pháp luật bồi thường thiệt hại do xâm phạm

danh dự, nhân phẩm, uy tín nói riêng đều tôn trọng việc thỏa thuận giữa các

bên. Do đó, trong trường hợp các bên có thể thỏa thuận được về mức bồi

thường thì tòa án sẽ tôn trọng thỏa thuận đó. Luật không giới hạn mức bồi

thường tổn thất tinh thần cho trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín là bao

nhiêu, có thể là vài trăm nghìn, vài triệu đồng hay đơn giản chỉ là một lời nói

xin lỗi mà không cần phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường bằng tiền. Tuy

nhiên, trên thực tế không phải lúc nào người gây thiệt hại và người bị thiệt hại

cũng có thể thỏa thuận được với nhau về mức bồi thường vì quyền và lợi ích

của họ là đối lập nhau. Do đó, trong trường hợp này, pháp luật đã ấn định một

mức trần cao nhất cho trường hợp xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của

cá nhân là “không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định” [8,

khoản 2 Điều 592]. Đây là điểm mới đáng lưu ý của BLDS năm 2015, thay vì

quy định “mức tối đa không quá mười tháng lương tối thiểu” như trước đây,

nay đã được sửa đổi thành “mức tối đa không quá mười lần mức lương cơ

sở”. Có thể thấy, quy định này là hợp lý, bởi lẽ trước thời điểm ngày

01/7/2013 chưa có khái niệm “mức lương cơ sở” mà chỉ tồn tại khái niệm

“mức lương tối thiểu chung” và “mức lương tối thiểu vùng”. Do đó, tại thời

điểm này, mức lương tối thiểu chung được dùng làm căn cứ để xác định mức

bù đắp tổn thất về tinh thần. Tuy nhiên, từ ngày 01/7/2013, khái niệm “mức

lương cơ sở” được dùng thay thế khái niệm “mức lương tối thiểu chung” quy

định tại các văn bản về chế độ tiền lương và các chế độ khác có liên quan đến

tiền lương của cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, quy định này vẫn chưa

thực sự rõ ràng bởi vì chưa đưa ra được căn cứ áp dụng với từng trường hợp

cụ thể (ví dụ: mức tối thiểu là bao nhiêu,...) [29, tr.47]

Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào nhiều yếu tố như:

vị trí, vai trò của người bị thiệt hại trong mối quan hệ với người thân và với

53

xã hội; hình thức xâm phạm bằng lời nói hay đăng trên báo viết, báo hình;

tính chất, mức độ của hành vi xâm phạm; mức độ lan truyền thông tin xúc

phạm; số lượng người xâm phạm; thời gian chịu thiệt hại diễn ra dài hay

ngắn; ....

Điều 585 BLDS năm 2015 chỉ rõ: “Thiệt hại thực tế phải được bồi thường

toàn bộ và kịp thời” [8, Điều 585]. Bồi thường “toàn bộ” được hiểu là bồi

thường tất cả các thiệt hại vật chất đã xảy ra, “kịp thời” là bồi thường đúng

lúc người bị thiệt hại đang cần dùng vào việc hạn chế khắc phục thiệt hại.

BLDS năm 2015 đưa ra quy định: “Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt

hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và

thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình” [8, khoản 2 Điều 585].

Như vậy, so với BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 đã mở rộng chủ thể có

trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi quy định “người chịu trách nhiệm bồi

thường thiệt hại” thay cho “người gây thiệt hại” như trước đây. Bởi trong một

số trường hợp, người gây thiệt hại và người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt

hại có thể là hai chủ thể khác nhau như cha, mẹ bồi thường thiệt hại cho con

chưa thành niên; người sử dụng người làm công bồi thường cho người làm

công.

Thêm vào đó, BLDS năm 2015 cũng bổ sung hai nguyên tắc bồi thường thiệt

hại đó là:

“Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường

phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra”

Đồng thời, người bị thiệt hại sẽ “không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra

do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt

hại cho chính mình” [8, khoản 4, khoản 5 Điều 585]. Điểm mới này là sự tiến

bộ so với BLDS năm 2005 khi đã cụ thể hóa nguyên tắc thiện chí, trung thực

54

của pháp luật dân sự được quy định tại khoản 3 Điều 3 BLDS năm 2015.

Người bị thiệt hại không thể để thiệt hại trầm trọng hơn khi họ có thể hạn chế

được, người bị xâm phạm có khả năng hạn chế thiệt hại mà không hạn chế

thiệt hại là “không thiện chí” . Thực tiễn xét xử ở Việt Nam và nhiều hệ thống

pháp luật nước ngoài cũng như luật thương mại của chúng ta hiện nay đã theo

hướng, buộc người bị thiệt hại có trách nhiệm hạn chế thiệt hại khi có thể; khi

có thể hạn chế thiệt hại mà người bị thiệt hại không hạn chế thì họ không

xứng đáng được bồi thường đối với khoản thiệt hại đáng ra được hạn chế. [29,

tr.18-tr.19]

Ví dụ: Ngày 06/11/2017, Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ

Chí Minh tổ chức xét xử vụ tranh chấp dân sự về bồi thường thiệt hại cho

người bị kết án oan trong hoạt động tố tụng hình sự giữa nguyên đơn là bà

Phan Thị Tuyết L và bị đơn là Tòa án nhân dân huyện TM, tỉnh Đồng Tháp.

Theo nội dung bản án, bà Phan Thị Tuyết L có trình bày:

Ngày 27/7/1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 652/QĐ-TTg

về việc giao đất để xây dựng cơ sở hạ tầng khu dân cư và chợ mới thị tứ TX (xã TX, huyện TM, tỉnh Đồng Tháp) với diện tích thu hồi là 98.536m2.

UBND tỉnh Đồng Tháp ban hành Quyết định số 478/QĐ-UB-CH phê duyệt

chi tiết khu Trung tâm thương mại xã TX, huyện TM. Căn cứ vào hồ sơ kỹ

thuật thì mặc dù ranh giới quy hoạch còn cách đất của gia đình bà khoảng 55m, nhưng UBND huyện TM vẫn cưỡng chế thu hồi diện tích 11.200m2 ,

thửa số 18, tờ bản đồ số 11, tại xã TL (xã TX) thuộc quyền sử dụng của cha

bà là ông Phan Văn B. Bà đã khiếu nại, phản đối thì bị Công an, Viện Kiểm

sát và Tòa án nhân dân huyện TM khởi tố, bắt giam và xét xử về tội “Chống

người thi hành công vụ”, xử phạt 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Cho

rằng mình bị oan nên bà đã khiếu nại. Ngày 19/01/2013, Công an huyện TM

55

ban hành Quyết định đình chỉ điều tra bị can số 02. Vì vậy, bà L yêu cầu Tòa

án nhân dân huyện TM bồi thường oan sai tổng cộng là 899.548.584 đồng,

gồm các khoản:

- Tổn thất về tinh thần: 9.252.270 đồng (đối với thời gian bị tạm giữ,

tạm giam là 59 ngày) và 48.822.727 đồng (đối với thời gian bị truy tố không

bị tạm giữ, tạm giam là 934 ngày), theo mức lương cơ sở là 1.150.000

đồng/tháng.

- Tổn thất về sức khỏe: 42.155.000 đồng.

- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút là 12 năm 07 tháng 17 ngày,

mỗi ngày 150.000 đồng, tổng cộng 613.845.000 đồng.

- Chi phí đi lại và chi phí khác là 100.000.000 đồng.

- Tiền cấp dưỡng trong thời gian 12 năm 07 tháng 17 ngày, mỗi tháng

500.000 đồng đối với cha là 45.127.500 đồng và đối với mẹ là 45.127.500

đồng.

Về phía bị đơn cũng trình bày: Do Tòa án nhân dân huyện TM đã xét xử oan

đối với bà L, thời gian tạm giữ, tạm giam là 59 ngày và thời gian không bị

tạm giữ, tạm giam là 934 ngày nên đồng ý bồi thường theo mức lương cơ sở

là 1.210.000 đồng/tháng, tổng cộng là 68.185.000 đồng, bao gồm: Tổn thất về

tinh thần 61.105.000 đồng và thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút là

7.080.000 đồng. Tuy nhiên, không đồng ý bồi thường 42.155.000 đồng chi

phí tổn thất về phục hồi sức khỏe, 613.845.000 đồng thu nhập thực tế bị mất

hoặc bị giảm sút và tiền cấp dưỡng cho cha, mẹ mỗi người 45.127.500 đồng.

Tại bản án dân sự sơ thẩm, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã ra quyết định

buộc Tòa án nhân dân huyện TM có trách nhiệm phải bồi thường cho bà L

tổng số tiền là 68.185.000 đồng, bao gồm tổn thất về tinh thần, thu nhập thực

tế bị mất, bị giảm sút; không chấp nhận yêu cầu bồi thường tổn thất về phục

hồi sức khỏe, chi phí đi lại và khoản tiền cấp dưỡng cho cha, mẹ của bà L.

56

Ngày 24/3/2017, bà Phan Thị Tuyết L kháng cáo bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, sau khi xem xét tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ

án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy đối với phần

kháng cáo yêu cầu bồi thường chi phí đi lại và thiệt hại về vật chất do sức

khỏe bị tổn hại là chưa có căn cứ, do đó không xem xét bồi thường.

Đối với kháng cáo yêu cầu bồi thường thiệt hại về thu nhập bị mất hoặc bị

giảm sút, thấy rằng: Khoản 1 Điều 7 Thông tư liên tịch số 05/2012/TTLT-

VKSNDTCTANDTC-BCA-BTP-BQP-BTC-BNN&PTNT có quy định:

“Người bị thiệt hại (kể cả trường hợp đã chết) chỉ được bồi thường khoản thu

nhập thực tế bị mất trong thời gian họ bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình

phạt tù”. Theo hồ sơ vụ án và sự thừa nhận của các đương sự, có căn cứ xác

định thời gian bà L bị tạm giữ, tạm giam là 59 ngày. Như vậy, bà L được bồi

thường khoản thu nhập thực tế bị mất trong thời gian 59 ngày.

Đồng thời, điểm d khoản 1 Điều 7 của Thông tư liên tịch số

05/2012/TTLTVKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BQP-BTC-BNN&PTNT có

nêu: “Trường hợp trước khi bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù mà

người bị thiệt hại là nông dân, ngư dân, người làm muối, người trồng rừng,

người làm thuê, người buôn bán nhỏ, thợ thủ công, lao động khác, thực tế có

thu nhập, nhưng theo mùa vụ hoặc không liên tục, thì lấy mức thu nhập trung

bình của lao động cùng loại tại địa phương. Mức thu nhập trung bình do chính

quyền địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú xác định”.

Tại phiên tòa, bà L cho rằng trước khi bị khởi tố, bà L có bán vé số, thu nhập

là 150.000 đồng/ngày. Tuy nhiên, bà L không cung cấp được chứng cứ, tài

liệu chứng minh. Trong khi đó, lời khai của người làm chứng có nội dung:

Cha mẹ bà L là ông, bà B1 trồng rẫy, bà L có phụ gia đình làm rẫy, trồng rau;

bà B1 bán rau cải ở chợ, bà L bán rau cải phụ bà B1; có thời gian bà L phụ

giao vé số cho đại lý vé số của chị Dương Thị N và đi bán vé số. Như vậy,

57

công việc của bà L là không ổn định và không có căn cứ xác định bà L có thu

nhập 150.000 đồng/ngày từ việc bán vé số. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ

Công văn số 50/UBND ngày 27/4/2016 của UBND xã TX, huyện TM (bút lục

395) để xác định giá trị ngày công lao động nữ làm nông nghiệp tại địa

phương là 120.000 đồng/ngày là có cơ sở. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác

định thu nhập bị mất của bà L là 7.080.000 đồng (= 59 ngày bị tạm giữ, tạm

giam x 120.000 đồng/ngày) là đúng.

Vì những lẽ đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã ra quyết định giữ nguyên bản

án dân sự sơ thẩm số 03/2017/DS-ST ngày 13/3/2017 của Tòa án nhân dân

tỉnh Đồng Tháp.[42]

(6) Hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người

có thẩm quyền

Việc hủy quyết định của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền phải

do một cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện, chứ không phải bất cứ bản

thân cá nhân nào có thể hủy được. Do vậy, cá nhân bị xâm phạm về quyền có

thể yêu cầu đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hủy quyết định trái pháp luật

này. Trước khi hủy quyết định cá biệt đó, các chủ thể phải tiến hành xem xét,

phân tích để xác định được chỗ nào sai, sai như thế nào và cần sửa lại sao cho

đúng với quy định của pháp luật. Trường hợp quyết định cá biệt bị hủy thì

quyền dân sự bị xâm phạm được khôi phục.

Ví dụ: Ngày 22/01/2018, TAND tỉnh Bắc Giang đã mở phiên tòa phúc

thẩm giải quyết về tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân

phẩm, uy tín bị xâm phạm giữa nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T; anh Hà

Ngọc H (cùng trú tại thôn QT, xã NH, huyện LN, Bắc Giang) và bị đơn là ông

Lý Minh B; Lý Minh A; anh Đỗ Ngọc C (Phó Chủ tịch UBND xã NH, huyện

LN, tỉnh Bắc Giang).

58

Theo bản án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ thì nội dung vụ án như sau:

Tại đơn khởi kiện đề ngày 05/11/2016, và các lời khai tiếp theo chị Nguyễn

Thị T và anh Hà Ngọc H trình bày: Ngày 19/8/2014, ông Đỗ Ngọc C là Phó

Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã NH và ông Lý Minh A là Phó Trưởng công an

xã NH đã xác nhận trong lý lịch của em trai chị T là Nguyễn Văn V với nội

dung “Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1981 có hộ khẩu thường trú, trong thời

gian cư trú bản thân và gia đình chưa chấp hành chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương

(Một số khoản đóng góp)”. Từ nội dung xác nhận này dẫn đến hậu quả em

trai chị T là Nguyễn Văn V không có đủ điều kiện để tiếp tục tham gia dự

tuyển vào lực lượng công an. Trong các năm 2014 và năm 2015, ông Lý Minh

B trú tại thôn CC, xã NH đã nhiều lần gửi đơn đến Huyện ủy LN, Phòng giáo

dục huyện LN, Đảng ủy xã PM, Đảng ủy xã TH..., đề nghị các cơ quan này

xem xét xử lý kỷ luật đối với Đảng viên Nguyễn Thị T và Hà Ngọc H. Những

hành vi và việc làm của các ông Lý Minh B, Lý Minh A, Đỗ Ngọc C đã xâm

phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm uy tín của hai vợ chồng anh chị.

Kể từ khi những hành vi này xảy ra cho đến khi Ủy ban kiểm tra huyện ủy LN

và Đảng ủy xã NH ban hành văn bản trả lời, thì vợ chồng anh chị đã bị tổn

thất rất lớn về danh dự, nhân phẩm, uy tín. Vợ chồng chị đã phải bỏ ra rất

nhiều thời gian, công sức, tiền bạc để khắc phục thiệt hại (Làm đơn khiếu nại,

tố cáo gửi và liên lạc với các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu giải quyết sự

việc) do các ông Lý Minh B, Lý Minh A và Đỗ Ngọc C đã gây ra. Đồng thời,

trong thời gian này một số khoản thu nhập của vợ chồng cũng bị giảm sút đi

nhiều. Chị Nguyễn Thị T và anh Hà Ngọc H đề nghị Tòa án giải quyết buộc

ông Lý Minh B, ông Lý Minh A, ông Đỗ Ngọc C bồi thường thiệt hại do đã

xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của hai vợ chồng số tiền

42.100.000đ (Bốn mươi hai triệu một trăm nghìn đồng). Buộc ông Lý Minh

59

B, Lý Minh A, Đỗ Ngọc C phải: Tổ chức buổi công khai xin lỗi tại trụ sở Ủy

ban nhân dân xã NH và đăng lời xin lỗi công khai trên B Bắc Giang trong 03

số B liên tiếp.

Tại bản tự khai ngày 26/12/2016, anh Đỗ Ngọc C, ông Lý Minh A và ông Lý

Minh B đều khẳng định việc làm của mình là có cơ sở và hoàn toàn đúng quy

định pháp luật (bản tự khai có kèm căn cứ pháp lý cụ thể).

Tại phiên tòa sơ thẩm, anh Hà Ngọc H và chị Nguyễn Thị T cùng nhất trí xin

rút một phần yêu cầu khởi kiện, phần yêu cầu đòi bồi thường khắc phục

thiệt hại số tiền 30.000.000 đồng, vì hiện tại anh chưa cung cấp được chứng

cứ chứng minh cho nội dung yêu cầu này, anh chỉ yêu cầu anh Đỗ Ngọc C,

ông Lý Minh A, ông Lý Minh B phải liên đới bồi thường số tiền tổn thất về

tinh thần 10 tháng lương tối thiểu tại thời điểm xét xử sơ thẩm, buộc ông Lý

Minh B, Lý Minh A, Đỗ Ngọc C phải tổ chức xin lỗi công khai tại trụ sở Ủy

ban nhân dân xã NH và đăng lời xin lỗi công khai trên B Bắc Giang trong 03

số B liên tiếp.

Với nội dung nêu trên, bản án dân sự sơ thẩm số 11/2017/DS-ST ngày

29/9/2017 của Toà án nhân dân huyện LN đã quyết định: Đình chỉ một phần

yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T và anh Hà Ngọc H đối với yêu cầu

anh Đỗ Ngọc C và ông Lý Minh A phải bồi thường thiệt hại và xin lỗi công

khai. Đồng thời, bác yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T và anh Hà Ngọc

H đối với yêu cầu ông Lý Minh B phải bồi thường thiệt hại và xin lỗi công

khai.

Ngày 10/10/2017, chị Nguyễn Thị T và anh Hà Ngọc H là nguyên đơn nộp

đơn kháng cáo. Nội dung kháng cáo đề nghị Toà phúc thẩm xét xử huỷ toàn

bộ bản án dân sự của Toà án nhân dân huyện LN, giao hồ sơ vụ án cho Toà sơ

60

thẩm thụ lý, xét xử lại theo quy định của pháp luật.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra

tại phiên Tòa, ý kiến tranh luận tại phiên toà, sau khi nghe ý kiến phát biểu

của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang, Hội đồng xét xử nhận

định Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2017/DS-ST ngày 29/9/2017 của Toà án

nhân dân huyện LN có một số vi phạm sau:

- Về việc xác định thời hiệu khởi kiện: Chị T, anh H xác định ông A và

anh C đã có hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm và uy

tín của vợ chồng anh chị, nên yêu cầu phải bồi thường thiệt hại và xin lỗi

công khai. Trong khi đó, pháp luật dân sự quy định đối với yêu cầu bảo vệ

quyền nhân thân bị xâm phạm thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện vụ án

dân sự.

Do vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định thời điểm anh A và anh C xác nhận

vào lý lịch của gia đình chị T, anh H ngày 19/8/2014, đến ngày 7/11/2016 chị

T, anh H mới làm đơn khởi kiện là quá thời hạn khởi kiện, để đình chỉ yêu

cầu khởi kiện của chị T, anh H đối với việc yêu cầu anh C, anh A phải bồi

thường thiệt hại và xin lỗi công khai là không đúng quy định của pháp luật;

không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chị T, anh H.

- Về việc không đưa đầy đủ người vào tham gia tố tụng: Anh A và anh

C phê duyệt vào lý lịch của gia đình chị T, anh H với tư cách là những người

thay mặt Uỷ ban nhân dân xã NH chứ không mang danh nghĩa cá nhân. Bản

thân anh C là người ký thay Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã NH. Chị T, anh H

ngoài yêu cầu bồi thường thiệt hại, còn yêu cầu anh A và anh C phải tổ chức

công khai xin lỗi, thuộc trách nhiệm của UBND xã NH. Tòa án cấp sơ thẩm

không đưa UBND xã NH tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan là không đúng quy định tại khoản 4 Điều 68, Điều 73 Bộ

61

luật tố tụng dân sự.

Tại phiên toà sơ thẩm, anh H, chị T rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với

anh C, anh A, ông B đòi bồi thường khắc phục thiệt hại số tiền 30.000.000

đồng vì chưa cung cấp được chứng cứ chứng minh nhưng toà sơ thẩm không

quyết định đình chỉ yêu cầu này của anh H chị T là không đúng quy định của

pháp luật.

Với những vi phạm thiếu sót trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy Bản

án dân sự sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng mà cấp phúc thẩm

không thể khắc phục được. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã quyết định

hủy bản án dân sự sơ thẩm số: 11/2017/DS-ST ngày 29/9/2017 của Toà án

nhân dân huyện LN về việc: "Tranh chấp kiện đòi bồi thường thiệt hại do

danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm phạm" và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án

nhân dân huyện LN, tỉnh Bắc Giang giải quyết lại theo đúng quy định của

pháp luật. [43]

Trên đây là những phương thức bảo vệ mà mỗi cá nhân có thể lựa chọn

áp dụng khi danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình bị xâm phạm. Có không ít

các phương thức bảo vệ khác nhau nhưng để đảm bảo mang lại hiệu quả tối

ưu nhất, các cá nhân nên căn cứ vào tình hình thực tiễn của mình để từ đó lựa

chọn và áp dụng phương thức cho phù hợp.

2.3. CƠ SỞ ÁP ĐẶT CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM DANH

DỰ, NHÂN PHẨM, UY TÍN CỦA CÁ NHÂN THEO PHÁP LUẬT

DÂN SỰ VIỆT NAM

2.3.1. Cơ sở áp đặt chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy

tín của cá nhân theo qui định của BLDS năm 2005

2.3.1.1. Có hành vi trái pháp luật

Ngay từ những bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta đã khẳng định

62

quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là quyền bất khả

xâm phạm, được pháp luật bảo hộ. Do vậy, tất cả những hành vi xâm phạm

đến quyền này đều phải chịu chế tài. Việc xâm phạm này có thể là hành vi vi

phạm pháp luật hình sự, hành chính, dân sự,... được quy định trong Nghị

quyết 03/2006/NQ-HĐTP thì sẽ bị coi là hành vi trái pháp luật. Theo đó, hành

vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua

hành động hoặc không hành động, trái với các quy định của pháp luật, xâm

phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, vi phạm đường lối chính sách

pháp luật và các quy tắc chung của xã hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy những

hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân theo dạng hành

động là chủ yếu.

2.3.1.2. Có thiệt hại thực tế xảy ra

Chế tài chỉ có thể phát sinh khi có thiệt hại xảy ra. Nói cách khác, nếu

không có thiệt hại thì người có hành vi xâm phạm sẽ không phải chịu chế tài.

Vậy, trước tiên phải xác định thế nào là “thiệt hại” trong trường hợp danh dự,

nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm?

Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm được hiểu là sự

giảm bớt những lợi ích mà một người được hưởng hoặc lẽ ra họ được hưởng.

Căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 307 BLDS năm 2005 thì thiệt hại

được xác định bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.

Theo đó, thiệt hại về vật chất là những thiệt hại được quy định tại khoản 1

điều 611 BLDS năm 2005, là những tổn thất vật chất thực tế, tính được thành

tiền; thiệt hại về tinh thần “được hiểu là do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị

xâm phạm mà người bị thiệt hại phải chịu buồn phiền, bị giảm sút hoặc mất

uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm...” [14, điểm b tiểu mục 1.1 mục 1

63

phần I]

Việc áp dụng chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm,

uy tín chỉ có thể được thực hiện khi những thiệt hại đáp ứng các điều kiện sau:

Một là, sự thiệt hại phải chắc chắn có và được xác định. Thiệt hại này phải là

thiệt hại thực tế, đã xảy ra hoặc chưa xảy ra nhưng nhất định sẽ phải xảy ra và

có thể ước lượng được, theo quy định của pháp luật về các loại thiệt hại và

những trường hợp được áp dụng chế tài.

Hai là, thiệt hại phải được xác định rõ trong quan hệ bồi thường giữa người

gây thiệt hại và người bị thiệt hại

Ba là, có người gánh chịu thiệt hại.

Thông thường, trong các vụ án có tranh chấp liên quan đến khoản tiền bồi

thường thì người bị thiệt hại có xu hướng làm phức tạp thêm vấn đề và khai

tăng mức độ thiệt hại. Ngược lại, đối với người gây ra thiệt hại lại có xu

hướng đơn giản hóa vấn đề và làm giảm mức độ thiệt hại. Vì vậy, yêu cầu đặt

ra đối với những người làm công tác giám định chuyên môn và những người

làm công tác áp dụng pháp luật phải thực sự công tâm, khách quan đánh giá

đúng mức độ thiệt hại xảy ra và áp dụng đúng các quy phạm pháp luật để giải

quyết vào các vụ án cụ thể.

2.3.1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại do

xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân

Sau khi đã xác định được hành vi trái pháp luật và thiệt hại thì việc làm

tiếp theo đó là phải xét xem giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật đó

có mối quan hệ nhân quả với nhau không? Một thiệt hại có thể do nhiều

nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, bên gây thiệt hại chỉ phải chịu trách

nhiệm khi thiệt hại là hậu quả trực tiếp của hành vi vi phạm mà không phải là

hậu quả của nguyên nhân khác. Điều này có nghĩa là, thiệt hại xảy ra phải là

kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật

64

phải là nguyên nhân trực tiếp hoặc có ý nghĩa quyết định đối với thiệt hại.

Việc xác định đúng mối quan hệ nhân quả có ý nghĩa rất lớn trong việc xác

định đúng trách nhiệm của cá nhân, tổ chức vi phạm, bảo vệ quyền lợi chính

đáng của người bị thiệt hại, góp phần đảm bảo công bằng xã hội.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa

hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra trong nhiều trường hợp là rất khó

khăn. Chính vì vậy, cần phải xem xét, phân tích, đánh giá tất cả các sự kiện

liên quan một cách thận trọng, khách quan, toàn diện. Từ đó mới rút ra được

đúng nguyên nhân và xác định đúng trách nhiệm của người gây thiệt hại.

2.3.1.4. Có lỗi

Tại khoản 1 Điều 604 BLDS năm 2005 có quy định:

“Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín

của cá nhân mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.[7, khoản 1 Điều 604]

Như vậy, căn cứ tiếp theo làm phát sinh chế tài đó là người gây thiệt

hại có lỗi. Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi trái pháp luật

của mình và đối với thiệt hại do hành vi gây nên [25, tr.23]. Mặc dù khái niệm

về lỗi cố ý và lỗi vô ý không được BLDS năm 2005 định nghĩa một cách trực

tiếp nhưng tại khoản 2 Điều 308 BLDS năm 2005 và tại Nghị quyết

03/2006/NQ-HĐTP cũng đã chỉ rõ:

“a) Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của

mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc

không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.

b) Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của

mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt

hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại,

65

nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được”.

Tóm lại, chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín

của cá nhân được đặt ra khi có hành vi trái pháp luật xâm phạm danh dự, nhân

phẩm, uy tín của cá nhân gây ra thiệt hại, người thực hiện hành vi gây ra thiệt

hại có lỗi và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi xâm phạm với thiệt hại

xảy ra. Nếu thiếu một trong các điều kiện này, trách nhiệm dân sự sẽ không

phát sinh.

Ví dụ: Ngày 26 tháng 02 năm 2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu tổ

chức xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 02/2019/TLPT-DS ngày 02

tháng 01 năm 2019 về tranh chấp bồi thường thiệt hại về danh dự, uy tín giữa

nguyên đơn là ông Trần Văn K và bị đơn là bà Huỳnh Thị C.

Tại phiên tòa, ông Trần Văn K và bà Huỳnh Thị C thống nhất xác định vào

khoảng tháng 8 năm 2017, bà C có mua một bao gạo loại RVT có trọng lượng

25kg tại cửa hàng bán gạo cám KD do ông K, bà D làm chủ về sử dụng. Bà C

xác định sau khi sử dụng được 02 ngày, đến ngày thứ ba thì con dâu bà là chị

Lê Thị Tuyết K vo gạo nấu cơm thấy nước vo gạo trắng bất thường nên gia

đình bà lấy gạo đi rang thì gạo có hiện tượng khét đen và dính cục. Sau đó, bà

đem cục khét đen này cùng số gạo chưa sử dụng đến trình báo Công an xã

CT, huyện VL, tỉnh Bạc Liêu.

Ông K xác định ông không bán gạo giả (đã có kết quả giám định của cơ quan

công an) nhưng việc bà C tố giác, tung tin ông bán gạo giả với cơ quan chức

năng và người dân đã làm ảnh hưởng đến việc kinh doanh của ông nên ông

yêu cầu bà C bồi thường thiệt hại cho ông các khoản tiền gồm: Tiền mất thu

nhập với số tiền 40.500.000 đồng/tháng, kể từ ngày 06 tháng 8 năm 2017 đến

ngày xét xử sơ thẩm là 634.500.000 đồng; tiền tổn thất tinh thần bằng 30

tháng lương với số tiền là 40.500.000 đồng và chi phí công khai xin lỗi, đăng

tin trên báo, đài phát thanh địa phương với số tiền 3.600.000 đồng. Bà C cho

66

rằng mục đích bà đến trình báo Công an xã CT, huyện VL, tỉnh Bạc Liêu là

do bà nghi ngờ gạo bà mua của ông K là gạo giả chứ không kết luận ông K

bán gạo giả nên không đồng ý bồi thường theo yêu cầu của ông K.

Hội đồng xét xử xét thấy, việc bà C trình báo với cơ quan chức năng về sự

nghi ngờ gạo giả của bà là đúng quy định pháp luật, bởi lẽ đó là quyền và

trách nhiệm của người tiêu dùng nhằm bảo vệ sức khỏe của bản thân, gia đình

và người khác nên bà C không có lỗi. Mặt khác, những hóa đơn bán hàng do

ông K cung cấp chỉ chứng minh được số lượng gạo, tấm, cám và số tiền mua

gạo, tấm, cám của cửa hàng ông mua lại các nhà máy xây xát, lau bóng lúa

gạo, đối với tập phô tô do ông K cung cấp tại cấp phúc thẩm là sổ mua bán

gạo, tấm, cám do ông K tự theo dõi chứ không chứng minh được thu nhập của

cửa hàng bán gạo, tấm cám của ông bị thiệt hại mỗi tháng 40.500.000 đồng

như ông K trình bày. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông K không có chứng cứ nào

để chứng minh việc bà C kết luận và tung tin ông bán gạo giả làm ảnh hưởng

đến việc mua bán, làm giảm thu nhập của cửa hàng và gây tổn thất tinh thần

cho gia đình ông K.

Theo quy định của BLDS và tinh thần của Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP

của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì trách nhiệm bồi thường

thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố sau: Phải có

thiệt hại (thiệt hại về vật chất hoặc thiệt hại do tổn thất về tinh thần) xảy ra,

phải có hành vi trái pháp luật, phải có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy

ra và hành vi trái pháp luật; phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt

hại.

Như vậy, trong tình huống này không có căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi

thường thiệt hại nên Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện

của ông K đối với bà C là đúng quy định pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử

67

cấp phúc thẩm đã bác kháng cáo của ông Trần Văn K và giữ nguyên Bản án

dân sự sơ thẩm 65/2018/DS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân

dân huyện VL, tỉnh Bạc Liêu. [44]

2.3.2. Cơ sở áp đặt chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy

tín của cá nhân theo qui định của BLDS năm 2015

Nếu như BLDS năm 2005 khi quy định về điều kiện áp đặt chế tài đối

với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bao gồm 4 yếu

tố: (1) có hành vi trái pháp luật; (2) có thiệt hại xảy ra; (3) có mối quan hệ

nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại thực tế; (4) có lỗi thì đến

BLDS năm 2015, yếu tố lỗi đã không được đề cập. Cụ thể, tại khoản 1 Điều

584 BLDS năm 2015 có quy định:

“Người nào có hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người

khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường” [8, khoản 1 Điều 584]

Như vậy, theo BLDS năm 2015, chủ thể gây thiệt hại sẽ phải chịu chế

tài khi đáp ứng đủ 3 điều kiện sau: (1) có hành vi trái pháp luật; (2) có thiệt

hại thực tế; (3) có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt

hại thực tế. Có thể thấy, BLDS năm 2015 chú trọng hơn đến hành vi gây thiệt

hại. Theo quy định này thì lỗi không phải là một trong những căn cứ làm phát

sinh chế tài; nói cách khác, chế tài vẫn phát sinh ngay cả khi không có lỗi của

người gây thiệt hại. Quy định này được thể hiện tại khoản 2 Điều 585 BLDS

năm 2015 như sau: “Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được

giảm mức bồi thường nếu không có lỗi....” [8, khoản 2 Điều 585]. Theo đó,

việc người gây thiệt hại “không có lỗi” chỉ là một trong những căn cứ để xem

xét giảm mức bồi thường chứ không phải là điều kiện để miễn trách nhiệm

dân sự.

Một số ý kiến cho rằng Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định như vậy là

68

hợp lý, bởi lẽ lỗi luôn gắn với hành vi trái pháp luật và không thể có lỗi tồn tại

ngoài hành vi trái pháp luật của một chủ thể. Hơn nữa, lỗi trong trách nhiệm

dân sự là lỗi suy đoán. Tức là không cần phải chứng minh lỗi, mà chỉ cần

chứng minh hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật là đủ [29, tr.40].

Trên thực tế có những trường hợp người gây thiệt hại là người bị tuyên bố

mất năng lực hành vi dân sự. Nếu áp dụng theo quy định tại Khoản 1 Điều

604 BLDS năm 2005 thì mặc nhiên người gây thiệt hại trong trường hợp này

sẽ không phải chịu chế tài vì “không có lỗi”, điều này dẫn đến bất lợi cho

người bị thiệt hại. Trong khi đó, nếu áp dụng theo quy định của BLDS năm

2015, quyền nhân thân của người bị xâm phạm sẽ được đảm bảo hơn.

Bên cạnh đó, một số quan điểm khác lại cho rằng yếu tố lỗi là cần thiết

trong việc xây dựng điều kiện áp đặt chế tài. Lỗi vẫn tồn tại và được quy định

trong chế định trách nhiệm dân sự về lỗi cố ý và lỗi vô ý tại Điều 364 BLDS,

chỉ là thay đổi nghĩa vụ chứng minh. Theo đó, nghĩa vụ chứng minh có lỗi

hay không có lỗi sẽ thuộc về người gây thiệt hại thay vì quy định việc chứng

minh là trách nhiệm của bên bị thiệt hại như trước đây. Bởi trên thực tế, việc

chứng minh lỗi là vấn đề vô cùng phức tạp, không phải lúc nào cũng thực

hiện được một cách dễ dàng, nhất là trong trường hợp nhiều người cùng gây

ra thiệt hại. Đặc biệt, trong nhiều trường hợp, người bị thiệt hại không thể

chứng minh được, nếu buộc họ phải chứng minh sẽ gây bất lợi cho họ.

2.4. CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH NHIỆM DO XÂM PHẠM DANH DỰ,

NHÂN PHẨM, UY TÍN CỦA CÁ NHÂN THEO PHÁP LUẬT DÂN

SỰ VIỆT NAM

Khi quy định về chủ thể chịu trách nhiệm do xâm phạm danh dự, nhân

phẩm, uy tín của cá nhân, BLDS năm 2005 có nêu: “Người xâm phạm danh

dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phải bồi thường” [7, khoản 2 Điều

69

611]

Đến BLDS năm 2015, quy định về chủ thể chịu trách nhiệm đã có sự

thay đổi. Tại khoản 2 Điều 592 chỉ rõ: “Người chịu trách nhiệm bồi thường

trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm

phải bồi thường”. [8, khoản 2 Điều 592]

Như vậy, chủ thể phải bồi thường đã được thay đổi từ “người xâm phạm”

thành “người chịu trách nhiệm”. Có thể thấy, sự thay đổi này là hoàn toàn hợp

lý. Bởi lẽ, đối với những trường hợp xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín

của cá nhân thì người chịu trách nhiệm đôi khi không phải là người trực tiếp

gây thiệt hại mà là một người khác như trường hợp cha, mẹ bồi thường thiệt

hại do con chưa thành niên gây ra.

Qua đó, có thể thấy, chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân

phẩm, uy tín của cá nhân ngoài việc áp dụng cho người có hành vi trái pháp

luật, còn áp dụng đối với những người khác như cha, mẹ của người chưa

thành niên, người giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân đối với người

của pháp nhân gây thiệt hại, trường học, bệnh viện, cơ sở dạy nghề,...

 Đối với chủ thể là pháp nhân

Chủ thể là pháp nhân phải chịu chế tài do người của mình gây ra thiệt

hại trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; “nếu pháp nhân đã

bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại

phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.” [8, Điều 597].

Trong trường hợp người của pháp nhân lợi dụng nhiệm vụ được giao làm một

việc vì mục đích cá nhân mà gây thiệt hại thì người đó phải chịu chế tài đối

với những thiệt hại do mình gây ra.

70

 Đối với chủ thể là Nhà nước

Theo Điều 598 BLDS năm 2015 thì “Nhà nước có trách nhiệm bồi

thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra

theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước”. [8, Điều 598]

Mặc dù hành vi trái pháp luật không phải là hành vi của Nhà nước mà của

người thi hành công vụ gây ra nhưng Nhà nước vẫn phải chịu trách nhiệm bởi

hành vi gây thiệt hại của người thi hành công vụ gắn liền với công việc mà

Nhà nước phải làm và xuất phát từ người được Nhà nước giao thi hành công

vụ.

Điểm c khoản 2 Điều 14 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước

năm 2017 quy định người thi hành công vụ gây thiệt hại có nghĩa vụ:“Hoàn

trả cho ngân sách nhà nước một khoản tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho

người bị thiệt hại theo quyết định của cơ quan trực tiếp quản lý người thi

hành công vụ gây thiệt hại” [13, điểm c khoản 2 Điều 14]

Có thể nói, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thực chất là trách

nhiệm thay thế. Ở đây, Nhà nước phải gánh chịu trách nhiệm bồi thường do

người thi hành công vụ làm phát sinh. Hơn nữa, tiền bồi thường được lấy từ

ngân sách nhà nước mà ngân sách nhà nước là do người dân đóng góp (nếu

Nhà nước lấy tiền của người dân để bồi thường cho người dân thì trách nhiệm

bồi thường của Nhà nước không còn ý nghĩa gì). Do đó, vấn đề người thi

hành công vụ hoàn trả cho Nhà nước được đặt ra. [21, tr.23]

 Đối với chủ thể là cá nhân

Khác với những chủ thể khác, khi xác định chế tài đối với chủ thể là cá

nhân, cần xác định năng lực chịu trách nhiệm của cá nhân đó. Căn cứ độ tuổi,

tình trạng tài sản và khả năng chịu trách nhiệm của cá nhân, Điều 586 BLDS

71

năm 2015 có quy định về năng lực chịu trách nhiệm của cá nhân như sau:

 Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.

Mặc dù pháp luật quy định đối với những trường hợp người gây thiệt

hại là cá nhân từ đủ mười tám tuổi phải tự chịu trách nhiệm đối với

thiệt hại mà mình gây ra. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, có nhiều trường

hợp đủ mười tám tuổi nhưng vẫn đang đi học, chưa có tài sản riêng,

phải sống nhờ cha, mẹ, hàng tháng gia đình vẫn phải chu cấp tiền ăn

học. Do đó, đối với những trường hợp này, để bảo vệ quyền và lợi ích

của người bị thiệt hại, khi xét xử Tòa án nước ta vẫn cho phép và

khuyến khích cha, mẹ của người gây thiệt hại dùng tài sản của mình để

bồi thường thay con.

 Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ

phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để

bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy

tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu.

 Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì

phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi

thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của

mình.

Theo quy định của pháp luật lao động thì người từ đủ mười lăm tuổi có thể

tham gia vào các quan hệ lao động để có thu nhập và tài sản riêng. Do đó, nếu

những chủ thể này gây thiệt hại, họ phải chịu trách nhiệm bằng tài sản của

mình. Tuy nhiên, những người ở độ tuổi này chưa có năng lực hành vi dân sự

đầy đủ nên vẫn cần phải có người đại diện cho mình trong việc xác lập và

thực hiện các giao dịch dân sự. Chính vì vậy, trong trường hợp những cá nhân

này gây thiệt hại mà không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ của họ có

72

trách nhiệm bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của chính mình.

 Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có

khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người

giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám

hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không

đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản

của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi

trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.

 Người chưa đủ mười lăm tuổi trong thời gian trường học trực tiếp quản

lý mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.

Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong

thời gian bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý thì bệnh viện,

pháp nhân đó phải bồi thường thiệt hại xảy ra. Trong trường hợp trường

học, bệnh viện, tổ chức khác chứng minh được mình không có lỗi trong

quản lý thì cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười lăm tuổi,

người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường.

2.5. CÁC TRƢỜNG HỢP MIỄN TR TRÁCH NHIỆM THEO QUI

ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

BLDS năm 2005 liệt kê các trường hợp miễn trách nhiệm bao gồm: gây

thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng (Điều 613), gây thiệt hại trong

tình thế cấp thiết (Điều 614) và lỗi hoàn toàn của người bị thiệt hại (Điều

617).

Trong khi đó, điểm c khoản 3 Điều 6 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà

nước năm 2009 lại quy định không buộc phải chịu trách nhiệm do sự kiện bất

khả kháng:

“Nhà nước không bồi thường đối với thiệt hại xảy ra trong các trường hợp

sau đây:

73

c, Do sự kiện bất khả kháng” [12, điểm c khoản 3 Điều 6]

Mặt khác, nhìn chung các hệ thống luật theo hướng người gây thiệt hại trong

trường hợp bất khả kháng không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Bộ nguyên tắc Châu Âu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại (ngoài hợp đồng)

có các quy định về “nguyên nhân miễn, giảm trách nhiệm bồi thường” và

trong phần này có nêu trường hợp thiệt hại “do sự kiện bất khả kháng” (Điều

7:102, khoản 1 điểm a) [30, tr.16]

Khắc phục thiếu sót này của BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 đưa ra

các trường hợp loại trừ trách nhiệm của người gây thiệt hại được áp dụng nếu

“thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của

bên bị thiệt hại” [8, khoản 2 Điều 584]

 Thứ nhất, thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng

Sự kiện bất khả kháng là một thuật ngữ có nguồn gốc tiếng Pháp “force

majeure” có nghĩa là “sức mạnh tối cao” hoặc “sức người không thể kháng cự

nổi”. Sự kiện này xảy ra không phải do lỗi của bất kỳ bên nào, mà hoàn toàn

ngoài ý muốn và các bên không thể dự đoán trước, cũng như không thể tránh

và khắc phục được. [45]

Hay tại khoản 1 Điều 156 BLDS năm 2015 cũng có định nghĩa:

“Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể

lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện

pháp cần thiết và khả năng cho phép” [8, Điều 156]

Như vậy, sự kiện bất khả kháng có thể được hiểu là những hiện tượng

do thiên nhiên gây ra như: lũ lụt, hỏa hoạn, bão, động đất, sóng thần,... Việc

coi các hiện tượng thiên tai là sự kiện bất khả kháng được áp dụng khá thống

nhất trong luật pháp và thực tiễn của nhiều nước trên thế giới. Bên cạnh đó,

cũng có quan điểm cho rằng, sự kiện bất khả kháng cũng có thể là những hiện

74

tượng xã hội như chiến tranh, bạo loạn, đảo chính, đình công, cấm vận, thay

đổi chính sách của chính phủ… Tuy nhiên, cách hiểu và thừa nhận các hiện

tượng xã hội có phải là “sự kiện bất khả kháng” hay không là rất đa dạng và

nhiều điểm chưa có sự thống nhất. [45]

 Thứ hai, thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại

Trong trường hợp này thiệt hại xảy ra rõ ràng do những hành vi của bản thân

người bị thiệt hại gây ra. Xét về mặt chủ quan thì thiệt hại xảy ra là do lỗi cố ý

của người bị thiệt hại, có thể là họ mong muốn cho thiệt hại xảy ra hoặc cũng

có thể họ không mong muốn thiệt hại xảy ra nhưng cố ý thực hiện hành vi gây

ra thiệt hại.

Bên cạnh đó, ở một số trường hợp khác, pháp luật cũng cho phép các chủ thể

gây thiệt hại nhưng không phải chịu chế tài, đó là:

 Thiệt hại xảy ra do có hành vi phòng vệ chính đáng

Nhằm đảm bảo cho mọi công dân có điều kiện tự bảo vệ những quyền,

lợi ích chính đáng của mình và xã hội; đồng thời, ngăn chặn, hạn chế những

hậu quả xấu khi các quyền về nhân thân của mỗi công dân bị xâm phạm, pháp

luật đã dự liệu trường hợp khi các chủ thể gây thiệt hại trong trường hợp

phòng vệ chính đáng sẽ không phải chịu trách nhiệm.

Theo đó, phòng vệ chính đáng được hiểu là hành vi của người vì bảo vệ

quyền và lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà chống trả một

cách cần thiết gây thiệt hại cho người đang có hành vi xâm phạm các quyền

và lợi ích nói trên.

Đây được coi là hành vi thực hiện quyền tự vệ hợp pháp của mỗi công

dân trong xã hội. Xét về hình thức, hành vi phòng vệ chính đáng cũng gây cho

người khác thiệt hại song lại không bị coi là trái pháp luật. Ngược lại, nó còn

được coi là hành vi tích cực, cũng có khi còn là hành vi có ích được xã hội

75

khuyến khích hành động.

 Thiệt hại xảy ra do phải hành động trong tình thế cấp thiết

Tình thế cấp thiết là tình thế của người đứng trước nguy cơ đe dọa lợi

ích trực tiếp của Nhà nước, của mình hoặc của người khác mà không còn cách

nào khác là phải có hành động gây thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.

Như vậy, để tránh một nguy cơ đang trực tiếp đe dọa lợi ích của Nhà nước,

của tập thể, của mình hoặc của người khác nên người gây thiệt hại không còn

cách nào đã phải lựa chọn một hành động khác ít gây thiệt hại hơn so với thiệt

hại cần ngăn ngừa. Hay nói cách khác thì người gây thiệt hại đã hành động

trong tình thế cấp thiết khi người đó biết hi sinh một cách hợp lý lợi ích nhỏ

để bảo vệ lợi ích khác lớn hơn, cần thiết hơn.

Mặc dù theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành, đây là các

trường hợp miễn trừ trách nhiệm được áp dụng chung. Tuy nhiên, thực tế cho

thấy, việc áp dụng ba trường hợp miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng,

do phải hành động trong tình thế cấp thiết hay phòng vệ chính đáng đối với

hành vi xâm phạm quyền nhân thân nói chung và xâm phạm danh dự, nhân

phẩm, uy tín của cá nhân nói riêng là rất hạn chế.

Ngoài các trường hợp miễn trừ trách nhiệm được áp dụng chung như đã

trình bày ở trên, thực tiễn xét xử cho thấy một số trường hợp tuy luật không

quy định nhưng Tòa án vẫn biết và thừa nhận, ví dụ như việc tố giác tội phạm.

Ví dụ 1: Vụ việc tranh chấp bồi thường thiệt hại về danh dự, uy tín

giữa nguyên đơn là ông Trần Văn K và bị đơn là bà Huỳnh Thị C (đã trình

bày tại Mục 2.3.1.4) là một ví dụ điển hình.

Khoảng tháng 8 năm 2017, bà C có mua một bao gạo loại RVT có trọng

lượng 25kg tại cửa hàng bán gạo cám KD do ông K, bà D làm chủ về sử

dụng. Bà C xác định sau khi sử dụng được 02 ngày, đến ngày thứ ba thì con

76

dâu bà là chị Lê Thị Tuyết K vo gạo nấu cơm thấy nước vo gạo trắng bất

thường nên gia đình bà lấy gạo đi rang thì gạo có hiện tượng khét đen và dính

cục. Sau đó, bà đem cục khét đen này cùng số gạo chưa sử dụng đến trình báo

Công an xã CT, huyện VL, tỉnh Bạc Liêu.

Tuy nhiên, kết quả giám định của cơ quan công an cho thấy ông K không bán

gạo giả. Ông K cho rằng việc bà C tố giác, tung tin ông bán gạo giả với cơ

quan chức năng và người dân đã làm ảnh hưởng đến việc kinh doanh của ông

nên ông yêu cầu bà C bồi thường thiệt hại cho ông các khoản tiền gồm: Tiền

mất thu nhập, tiền tổn thất tinh thần và chi phí công khai xin lỗi, đăng tin trên

báo, đài phát thanh địa phương.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy, việc bà C trình báo với cơ quan chức

năng về sự nghi ngờ gạo giả của bà là đúng quy định pháp luật, bởi lẽ đó là

quyền và trách nhiệm của người tiêu dùng nhằm bảo vệ sức khỏe của bản

thân, gia đình và người khác nên bà C không có lỗi.

Việc Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông K đối

với bà C là đúng quy định pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm

đã bác kháng cáo của ông Trần Văn K và giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm

65/2018/DS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện VL,

tỉnh Bạc Liêu.

Ví dụ 2: Bản án số 66/2018/DS-PT ngày 22/5/2018 về việc yêu cầu

bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín, sức khỏe, kinh tế, thời

gian bị xâm phạm giữa nguyên đơn là ông Lại Sỹ T và bị đơn là Sở lao động

thương binh và xã hội tỉnh Quảng Bình, UBND tỉnh Quảng Bình, Bộ Chỉ huy

quân sự tỉnh Quảng Bình.

Theo nội dung bản án, ngày 26/01/2007, UBND xã S, huyện L do ông Võ

Văn Đ1, Phó Chủ tịch UBND xã và ông Vương Công T cán bộ chính sách tổ

77

chức họp nhân dân thôn HV, xã S để rà soát, phát giác thương binh và người

hưởng chính sách như thương binh, người hưởng, phơi nhiễm chất độc hóa

học không đúng sự thật từ sau 31/12/1998. Căn cứ ý kiến phát giác của nhân

dân trong thôn, ngày 29/01/2007 ông Lại Sỹ T cùng 5 người khác ký đơn phát

giác bà Lê Thị H và ông Trương Thế T1, là hai đối tượng cố tình khai man hồ

sơ để hưởng chế độ thương binh và người hưởng chính sách như thương binh

gửi đến Phòng Nội vụ - Lao động TBXH huyện L.

Do không nhất trí với trả lời của Phòng Nội vụ - Lao động TBXH huyện L,

ông T đã nhiều lần gửi đơn tố cáo đến các cơ quan có thẩm quyền, trong đó

có Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình, Sở Lao động Thương binh và Xã hội

tỉnh Quảng Bình, Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình. Tuy nhiên các cơ

quan này đã có hành vi bao che, giải quyết chế độ cho bà Lê Thị H được

hưởng chính sách như thương binh và ông Trương Thế T1 được hưởng chế độ

thương binh không đúng quy định của pháp luật (đã có văn bản của cơ quan

có thẩm quyền kết luận những người này hoàn toàn không phải là đối tượng

được hưởng chế độ thương binh).

Quá trình giải quyết sự việc kéo dài 6 năm. Trong khoảng thời gian đó, ông T

đã phải chịu thiệt hại không nhỏ về kinh tế, thời gian, sức khỏe, danh dự, nhân

phẩm, uy tín.

Chính vì vậy, tại phiên tòa sơ thẩm, ông T yêu cầu tòa án giải quyết buộc Uỷ

ban nhân dân, Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh

Quảng Bình phải bồi thường cho ông số tiền 680.000.000 đồng do thiệt hại về

kinh tế, mất thời gian, sức khỏe và danh dự nhân phẩm bị xâm hại; đồng thời,

yêu cầu các cơ quan nói trên viết bài cải chính và công khai xin lỗi trên báo,

đài và tổ chức xin lỗi tại nơi ông Lại Sỹ T đang sinh sống.

Tuy nhiên, căn cứ lời khai và chứng cứ tại phiên tòa, HĐXX sơ thẩm đã quyết

78

định:

- Chấp nhận một phần đơn khởi kiện của ông Lại Sỹ T về việc yêu Bộ Chỉ

huy Quân sự tỉnh Quảng Bình, Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh

Quảng Bình, Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Bình và Uỷ ban nhân dân xã S phải

bồi thường cho ông Lại Sỹ T các khoản về tổn thất tinh thần, thiệt hại về kinh

tế, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, thời gian số tiền: 46.730.000đ.

- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lại Sỹ T về yêu cầu Bộ Chỉ

huy Quân sự tỉnh Quảng Bình viết bài cải chính và xin lỗi công khai về hành

vi viết bài đã đăng, phát sai sự thật trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Sau phiên sơ thẩm, ngày 07/9/2017, nguyên đơn ông Lại Sỹ T kháng cáo toàn

bộ Bản án dân sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử xét thấy:

Việc cho các đối tượng nói trên được hưởng chính sách thương binh là không

đúng nên hành vi của ông Lại Sỹ T được xác định là hành vi thực hiện quyền

tố cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 2 và các điểm a, d khoản 1 Điều 9 Luật

tố cáo năm 2011.

Hành vi thực hiện quyền tố cáo của Ông Lại Sỹ T đối với việc cho bà Lê Thị

H được hưởng chính sách như thương binh là không đúng của các cơ quan có

thẩm quyền bắt đầu từ ngày 29/01/2007 và kéo dài đến ngày 28/4/2009 thì có

kết luận cuối cùng (ngày UBND huyện L ban hành Quyết định số 1976/QĐ-

UBND thu hồi Giấy chứng nhận bị thương số 31/GCNBT ngày 25/9/2005 của

UBND huyện L cấp cho bà Lê Thị H); việc tố cáo đối với ông Trương Thế T1

kéo dài đến ngày 20/8/2012 thì có kết luận cuối cùng (kết luận số 535/KL-

BQP ngày 20/8/2012 của Bộ quốc phòng “ông Trương Thế T1 không đủ điều

kiện để hưởng chế độ thương binh”). Ông T cho rằng: Do việc giải quyết tố

cáo của các cơ quan chức năng không khách quan, không đúng nên ông T

79

phải chi phí tiền, thời gian để đi nhiều cơ quan có liên quan thu thập tài liệu,

chứng cứ để chứng minh cho việc tố cáo của mình; trong thời gian dài thực

hiện quyền tố cáo của công dân, ông và gia đình còn bị tổn thất về tinh thần

và sức khỏe nên ông yêu cầu các cơ quan nói trên phải có trách nhiệm bồi

thường cho ông số tiền 680.000.000 đồng.

Tòa án cho rằng, việc công dân thực hiện quyền tố cáo được quy định trong

Luật tố cáo là mang tính tự giác của công dân. Trong vụ án này, ông Lại Sỹ T

đã thực hiện quyền tố cáo và đã bỏ thời gian, chi phí tự đi thu thập các tài

liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc tố cáo của mình là có căn cứ. Các cơ

quan có thẩm quyền đã kết luận nội dung tố cáo của ông Lại Sỹ T là đúng và

đã thu hồi các chế độ thương binh đối với bà Lê Thị H và ông Trương Thế

T1.

Tại điểm e khoản 1 Điều 9 Luật Tố cáo khi quy định về “Quyền và nghĩa vụ

của người tố cáo” có nêu: “Được khen thưởng theo quy định của pháp luật”;

Theo đó, Luật tố cáo không quy định người thực hiện quyền tố cáo được đền

bù chi phí cho việc đi tố cáo mà chỉ quy định là người tố cáo “được khen

thưởng”.

Trong quá trình giải quyết tố cáo của ông T, các cơ quan tham gia hoặc trực

tiếp giải quyết tố cáo đã ban hành các công văn (trong đó có công văn cho

rằng việc tố cáo của ông T là không có căn cứ) nhưng những văn bản này

không trực tiếp gây thiệt hại cho ông T. Để chứng minh cho việc khiếu nại

của mình là đúng nên ông T đã tự bỏ thời gian và một số chi phí để thu thập

tài liệu, hành vi của ông T theo quy định của Luật tố cáo sẽ được khen

thưởng. Để bù đắp một số công sức, thời gian và chi phí do ông T tự bỏ ra nên

Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2017/DS-ST ngày 29/8/2017 của Tòa án nhân

dân tỉnh Quảng Bình đã áp dụng khoản 2 Điều 6 Bộ luật dân sự năm 2015 “...

80

lẽ công bằng” làm căn cứ để áp dụng các quy định tại: Điều 585, khoản 2

Điều 592 và Điều 598 Bộ luật dân sự năm 2015 buộc các cơ quan: Ủy ban

nhân dân tỉnh Quảng Bình, Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng

Bình, Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình phải bồi thường cho ông Lại Sỹ T

một số tiền là: 46.730.000 đồng là có căn cứ.

Đồng thời, do các cơ quan này không có hành vi xúc phạm đến danh dự, nhân

phẩm và uy tín của ông Lại Sỹ T và cũng không có công văn hay yêu cầu các

cơ quan báo chí viết, đăng bài, đưa tin về việc thực hiện quyền tố cáo của ông

T nên việc ông T yêu cầu các cơ quan này phải viết bài cải chính và công khai

xin lỗi trên báo, đài, nơi ông sinh sống không được chấp nhận. [46]

Như vậy, qua vụ việc này có thể thấy trong trường hợp có tranh chấp,

việc đòi bồi thường chi phí tố cáo sai phạm sẽ không được Tòa án chấp nhận

81

vì họ không coi đây là thiệt hại để bồi thường.

CHƢƠNG 3

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI

ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM DANH DỰ, NHÂN

PHẨM, UY TÍN CỦA CÁ NHÂN VÀ KIẾN NGHỊ

HOÀN THIỆN

3.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI

HÀNH VI XÂM PHẠM DANH DỰ, NHÂN PHẨM, UY TÍN CỦA

CÁ NHÂN

Kể từ khi BLDS năm 2015 có hiệu lực thi hành, các quy định về chế tài

dân sự được áp dụng đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín

của cá nhân đã thực sự đem lại hiệu quả, trở thành cẩm nang pháp lý vững

vàng, tạo điều kiện thuận lợi cho các cấp Tòa án trong quá trình áp dụng pháp

luật giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy

tín bị xâm phạm, qua đó giúp người bị thiệt hại khắc phục được phần lớn

những tổn thất mà họ phải gánh chịu.

Tuy nhiên, qua nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử tại

Tòa án thấy rằng, bên cạnh những thành tựu đạt được, pháp luật dân sự quy

định về vấn đề này cũng bộc lộ không ít những hạn chế, còn nhiều điểm quy

định chưa được cụ thể, rõ ràng và chưa thống nhất, gây lúng túng cho cán bộ

làm công tác xét xử trong quá trình nhận thức và áp dụng pháp luật. Có thể

liệt kê một số điểm sau đây:

Thứ nhất, khoa học pháp lý Việt Nam thiếu vắng các kiến giải về khái

niệm danh dự, nhân phẩm, uy tín.

Liên quan đến việc bảo vệ quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá

82

nhân, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đưa ra rất nhiều quy định về xác định thiệt

hại trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, về căn cứ phát

sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại,... nhưng lại không nêu rõ khái niệm thế

nào là danh dự, nhân phẩm, uy tín. Điều này có thể dẫn đến nhiều cách hiểu

khác nhau trong thực tế, khiến việc áp dụng pháp luật không được chính xác,

gây lúng túng trong quá trình giải quyết tranh chấp.

Thứ hai, việc bỏ yếu tố lỗi ra khỏi các điều kiện làm phát sinh chế tài

dân sự là chưa hợp lý.

Theo quy định của BLDS năm 2015, cơ sở để áp đặt trách nhiệm đối với một

chủ thể có hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác đó

là: (1) Có hành vi trái pháp luật; (2) Có thiệt hại xảy ra; (3) Có mối quan hệ

nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại. Theo đó, trách nhiệm vẫn

phát sinh ngay cả khi không có lỗi của người gây thiệt hại.

Tuy nhiên, khi nghiên cứu về những căn cứ làm phát sinh chế tài thấy rằng lỗi

là điều kiện không thể thiếu trong việc hình thành trách nhiệm, bởi pháp luật

dân sự đã dành hẳn một điều luật quy định rất rõ về hình thức lỗi (Điều 364

BLDS năm 2015). Như vậy có thể khẳng định, lỗi trong trách nhiệm dân sự là

do pháp luật quy định trước, không phải là do suy đoán. Khi muốn áp đặt chế

tài cho một chủ thể nào đó, cần phải xác định yếu tố lỗi để từ đó có căn cứ

quy trách nhiệm cho người đã có hành vi vi phạm. Theo đó, người có hành vi

gây thiệt hại (có lỗi) sẽ phải chịu chế tài.

Thứ ba, quy định các trường hợp miễn trừ trách nhiệm còn chung

chung, chưa cụ thể.

BLDS năm 2015 chỉ ra các trường hợp miễn trừ trách nhiệm bao gồm: gây

thiệt hại do sự kiện bất khả kháng, thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của bên bị

thiệt hại, gây thiệt hại do phải hành động trong tình thế cấp thiết và phòng vệ

83

chính đáng. Tuy nhiên trên thực tế, việc áp dụng ba trường hợp miễn trừ trách

nhiệm do sự kiện bất khả kháng, do phải hành động trong tình thế cấp thiết và

phòng vệ chính đáng đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín là

rất hạn chế.

Bên cạnh đó, trong một số trường hợp khi xét xử Tòa án thừa nhận người gây

thiệt hại danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác nhưng không phải chịu

trách nhiệm như việc tố giác tội phạm. Mặc dù vậy, pháp luật dân sự vẫn chưa

đưa trường hợp này vào bộ luật với tư cách là một trường hợp miễn trách cụ

thể.

Thực tế cho thấy, có những hành vi xảy ra trên thực tế xâm phạm danh dự,

nhân phẩm, uy tín của cá nhân nhưng theo pháp luật quốc tế lại không phải

chịu trách nhiệm, tuy nhiên pháp luật nước ta lại chưa có quy định về những

trường hợp này, chẳng hạn như việc đưa tin chính xác và trung thực của báo

chí trong quá trình tố tụng tại tòa hay việc đưa ra những tuyên bố phản ánh

đúng sự thật khách quan,... Trong những trường hợp đó, nếu bắt người gây

thiệt hại phải chịu trách nhiệm sẽ là không hợp lý.

Thứ tư, đối với các chế tài như buộc chấm dứt hành vi xâm phạm, hủy

quyết định cá biệt trái pháp luật, buộc thực hiện nghĩa vụ… pháp luật chưa

có quy định cụ thể về điều kiện làm phát sinh chế tài.

BLDS năm 2015 đã dành hẳn một chương quy định về trách nhiệm bồi

thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong đó có các quy định về cơ sở áp đặt

trách nhiệm và các trường hợp miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Tuy nhiên, trên thực tế không phải lúc nào người bị thiệt hại cũng yêu cầu áp

dụng biện pháp này, có những trường hợp bên bị thiệt hại chỉ yêu cầu cá nhân

có hành vi xâm phạm xin lỗi, cải chính công khai. Vậy, trong những trường

hợp đó, điều kiện để áp đặt trách nhiệm cho chủ thể gây thiệt hại có giống

84

điều kiện áp đặt chế tài bồi thường thiệt hại không?

Cùng với đó, nếu căn cứ theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành, có thể

hiểu các trường hợp miễn trừ trách nhiệm sẽ chỉ được áp dụng khi bên bị thiệt

hại yêu cầu chủ thể có hành vi xâm phạm bồi thường thiệt hại. Vậy, đối với

những trường hợp khác như cá nhân bị thiệt hại chỉ muốn áp dụng biện pháp

buộc chủ thể gây thiệt hại xin lỗi, cải chính công khai hay chỉ đơn giản là

buộc chấm dứt hành vi xâm phạm thì có được áp dụng không?

3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI

ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM DANH DỰ, NHÂN PHẨM, UY

TÍN CỦA CÁ NHÂN

Qua việc tìm hiểu và phân tích những quy định pháp luật về chế tài đối

với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân của các quốc

gia trên thế giới cũng như của Việt Nam qua từng thời kỳ, tác giả xin đưa ra

một số kiến nghị sau:

Thứ nhất, Bộ luật Dân sự cần có một định nghĩa cụ thể, rõ ràng về

danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân.

Như đã phân tích ở trên, mặc dù BLDS năm 2015 đưa ra rất nhiều quy định

về trách nhiệm bồi thường hay việc xác định thiệt hại trong trường hợp danh

dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm nhưng lại chưa có bất kỳ một quy định

nào định nghĩa về danh dự, nhân phẩm, uy tín. Chính vì vậy, thiết nghĩ pháp

luật dân sự cần sớm có quy định về vấn đề này để đi đến cách hiểu thống nhất

trong việc áp dụng pháp luật giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân

sự cũng như việc giải quyết tranh chấp khi có hành vi xâm phạm được chính

xác và đạt hiệu quả cao.

Tác giả cho rằng, khi xây dựng khái niệm “danh dự”, “nhân phẩm”, “uy tín”

trong Bộ luật Dân sự, các nhà làm luật có thể tham khảo khái niệm danh dự,

nhân phẩm, uy tín được định nghĩa trong Từ điển luật học và Từ điển Tiếng

85

Việt. Theo đó:

+ Danh dự là sự coi trọng của dư luận xã hội, dựa trên giá trị tinh thần

và đạo đức tốt đẹp; là sự suy tôn các tiêu chuẩn đạo đức đối với con

người, là một trong những yếu tố để khẳng định vị trí, vai trò và uy tín

của cá nhân đó trong xã hội.

+ Nhân phẩm là tổng hợp những phẩm chất mang tính đặc trưng của

mỗi cá nhân, là toàn bộ những yếu tố tạo nên giá trị của một con người.

+ Uy tín là sự tín nhiệm, mến phục và kính trọng của mọi người xung

quanh, của tập thể, cộng đồng đối với một cá nhân về một lĩnh vực nào

đó như phẩm chất đạo đức, nhân cách.

Thứ hai, bổ sung yếu tố “lỗi” là một trong những căn cứ làm phát sinh

chế tài dân sự.

Có thể thấy, pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành chỉ chú trọng đến yếu tố

thiệt hại mà không quan tâm đến thái độ tâm lý của người gây thiệt hại. Theo

đó, lỗi trong trách nhiệm dân sự được hiểu là lỗi suy đoán, tức là chỉ cần xác

định được hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật thì đương nhiên sẽ

xác định được lỗi của chủ thể có liên quan.

Xét về phương diện công bằng cá nhân, trong trường hợp người bị thiệt hại

không dẫn chứng được lỗi của chủ thể có hành vi xâm phạm, họ sẽ phải gánh

chịu thiệt hại, như vậy là một sự bất công. Tuy nhiên, nếu bắt người gây thiệt

hại phải bồi thường trong khi họ không có lỗi thì giải pháp ấy cũng không hợp

lẽ công bằng.

Vẫn biết rằng đòi hỏi điều kiện lỗi, trong một số trường hợp sẽ đem đến kết

quả không như ý muốn. Tuy nhiên, trong những hoàn cảnh nan giải như vậy,

chúng ta phải chấp nhận qui tắc nào được coi là tiện lợi hơn cả. Về phương

diện này, có thể thấy việc áp đặt trách nhiệm dựa trên cơ sở lỗi vừa thỏa mãn

86

đạo lý, vừa hợp với lợi ích công cộng.

Năm 1958, giáo sư B. Starck đã đưa ra lý thuyết về căn bản của trách nhiệm

dân sự - lý thuyết bảo đảm. Trước ông, các luật gia đều đi tìm căn bản của

trách nhiệm dân sự trong thái độ hoặc trong tình trạng tâm lý của người đã

gây ra tổn thất. Do đó, những lý thuyết này đều nhuộm sắc thái chủ quan.

Giáo sư B. Starck lại đề nghị rằng phải tìm kiếm căn bản trách nhiệm trong

những quyền lợi của nạn nhân. Sở dĩ nạn nhân được quyền bồi thường là vì có

những quyền lợi được bảo đảm. Như vậy, lý thuyết đảm bảo không xét tâm

trạng và thái độ của người gây ra tai nạn mà chỉ xét tới quyền lợi của nạn

nhân; do đó, thuyết này có một sắc thái khách quan. [18, tr.495]

Theo đó, đối với loại tổn hại xâm phạm đến thân thể và tài sản, vì tất cả mọi

chủ thể trong xã hội đều được Nhà nước bảo đảm về tính mạng và tài sản của

mình, cho nên mỗi khi có sự tổn hại xảy ra, người gây thiệt hại phải đương

nhiên bồi thường mà bên bị thiệt hại không cần phải dẫn chứng điều kiện lỗi.

Còn đối với những tổn hại về tinh thần, các cá nhân không được hưởng sự

đảm bảo vì lẽ mỗi người đều có những tự do cá nhân mà luật pháp đã công

nhận. Điều này có thể gây thiệt hại cho một cá nhân nào đó nhưng không vì

thế mà cá nhân đó được hưởng bồi thường.

Mặt khác, trong trách nhiệm dân sự nói chung, điều kiện lỗi không thể thiếu

được trong việc xác định trách nhiệm. Hơn nữa, Điều 364 BLDS đã quy định

rất rõ về hình thức lỗi. Như vậy, đã quá rõ ràng rằng lỗi trong trách nhiệm dân

sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do pháp luật quy định cả về cơ sở xác

định lỗi, cả về hình thức lỗi. Từ những cơ sở pháp lý trên, có thể nhận định lỗi

trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không phải là

do suy đoán, mà do pháp luật quy định trước. Khi xác định trách nhiệm bồi

87

thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải xác định yếu tố lỗi để có căn cứ

quy trách nhiệm cho người có hành vi trái pháp luật – người có hành vi có lỗi

phải bồi thường thiệt hại [17, tr.79]

Thứ ba, quy định các trường hợp miễn trách nhiệm cụ thể cho hành vi

xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân.

Qua việc phân tích các trường hợp miễn trách nhiệm của một số quốc

gia trên thế giới tại Mục 1.3 Chương 1 có thể thấy những quy định của Vương

quốc Anh về vấn đề này khá tiến bộ, chi tiết. Do đó, các nhà làm luật Việt

Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của quốc gia này trong việc xây dựng quy

định pháp luật về các trường hợp miễn trừ trách nhiệm. Pháp luật cần quy

định một cách chi tiết, liệt kê cụ thể các trường hợp, từ đó sẽ giúp việc áp

dụng pháp luật được dễ dàng và thuận tiện hơn. Tác giả xin đề xuất một số

trường hợp sau:

 Hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là tuyên bố

phản ánh đúng sự thật khách quan.

 Hành vi xâm phạm là một bình luận hợp lý. Theo đó, để được coi là

một bình luận hợp lý, hành vi xâm phạm phải thỏa mãn các yêu cầu

sau: (1) Đối tượng bình luận là vấn đề có tính chất thuộc về lợi ích

công cộng, ví dụ như: chính quyền, công đoàn, cảnh sát,...; (2) Từ ngữ

trong tuyên bố phải là một sự bình luận chứ không phải là trình bày

tình tiết; (3) Tình tiết mà dựa vào đó người có hành vi xâm phạm đưa

ra bình luận phải là tình tiết phản ánh sự thật khách quan; (4) Bình luận

không được có tính ác ý. Bình luận được coi là có tính ác ý khi người

đưa ra bình luận không thật sự tin rằng bình luận là đúng sự thật.

 Tuyên bố được đưa ra bởi các đại biểu trong kỳ họp Quốc hội hoặc các

88

tuyên bố trong báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

 Tuyên bố được đưa ra bởi các Bộ trưởng và các thành viên khác của

Chính phủ về những thành viên Chính phủ khác trong quá trình thực

hiện công vụ của mình.

 Các tuyên bố được đưa ra trong quá trình tố tụng bởi thẩm phán, nhân

chứng, luật sư và các đương sự.

 Việc đưa tin chính xác và trung thực của báo chí trong quá trình tố tụng

tại tòa.

Tuy nhiên, việc miễn trừ trách nhiệm sẽ chỉ được áp dụng đối với hành

vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đưa ra tuyên bố, còn việc

một người khác đăng tải lại tuyên bố đó sẽ phải chịu chế tài.

Thứ tư, bổ sung quy định cụ thể về điều kiện làm phát sinh các loại chế

tài khác như: buộc chấm dứt hành vi; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc

thực hiện nghĩa vụ; hủy quyết định cá biệt trái pháp luật; công nhận, tôn

trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự.

Hiện nay pháp luật dân sự Việt Nam mới chỉ quy định về điều kiện làm

phát sinh cũng như các trường hợp miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Tuy nhiên, trên thực tế, khi có hành vi xâm phạm xảy ra, cá nhân bị thiệt hại

có thể lựa chọn áp dụng nhiều biện pháp chế tài khác nhau như: buộc chấm

dứt hành vi xâm phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện

nghĩa vụ; hủy quyết định cá biệt trái pháp luật; công nhận, tôn trọng, bảo vệ

và bảo đảm quyền dân sự. Mặc dù vậy, đối với những loại chế tài này lại chưa

có quy định cụ thể về điều kiện áp đặt trách nhiệm. Do đó, để giúp việc áp

dụng pháp luật được dễ dàng, đạt hiệu quả, tác giả xin đề xuất quy định về

điều kiện áp đặt trách nhiệm, mà trong đó bao gồm căn cứ miễn trừ trách

89

nhiệm sẽ được áp dụng chung cho tất cả mọi biện pháp chế tài.

KẾT LUẬN

Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín là một quyền nhân

thân quan trọng của mỗi cá nhân, không chỉ được ghi nhận trong các văn bản

pháp luật của Việt Nam mà còn được pháp luật thế giới thừa nhận. Tuy nhiên

thực tế cho thấy, trong những năm gần đây số lượng các vụ việc xâm phạm

danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân ngày càng gia tăng với tính chất và

mức độ cũng ngày một nghiêm trọng, phức tạp.

BLDS năm 2015 được ban hành với những quy định chi tiết, cụ thể đã

thực sự đem lại hiệu quả, góp phần không nhỏ vào quá trình xét xử của các cơ

quan tư pháp được dễ dàng và chính xác hơn. Mặc dù vậy, bên cạnh những

thành tựu đạt được, trong quá trình áp dụng pháp luật về bảo vệ danh dự, nhân

phẩm, uy tín của cá nhân đã cho thấy còn nhiều điểm hạn chế, bất cập như:

khoa học pháp lý hiện nay còn thiếu vắng các kiến giải về khái niệm danh dự,

nhân phẩm, uy tín; việc quy định các trường hợp miễn trừ trách nhiệm còn

chung chung, chưa cụ thể,... dẫn đến cách hiểu và áp dụng pháp luật về chế tài

đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân còn chưa

thống nhất, gặp nhiều lúng túng.

Đề tài “Chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín

của cá nhân theo pháp luật dân sự ở Việt Nam” ngoài việc phân tích những

vấn đề lý luận chung về chế tài dân sự; quyền nhân thân; quyền đối với danh

dự, nhân phẩm, uy tín; cơ sở áp đặt chế tài đối với hành vi xâm phạm danh

dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân cùng các trường hợp miễn trừ trách nhiệm

của một số quốc gia trên thế giới, luận văn còn tập trung phân tích những quy

định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chế tài đối với hành vi xâm phạm

danh dự, nhân phẩm, uy tín; đồng thời, chỉ ra những điểm còn hạn chế, bất

90

cập của pháp luật thực định về vấn đề này. Qua đó, tác giả cũng mạnh dạn đề

xuất những giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế tài đối với hành vi

xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân.

Tuy rằng, những phương hướng, giải pháp mà tác giả đưa ra còn chưa

thật sự đầy đủ nhưng thông qua luận văn, tác giả mong muốn đóng góp một

phần tri thức nhỏ bé của mình vào quá trình hoàn thiện các quy định pháp luật

về chế tài dân sự nói chung và chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự,

nhân phẩm, uy tín của cá nhân nói riêng, từ đó, giúp việc áp dụng pháp luật và

giải quyết tranh chấp của các cơ quan tư pháp được dễ dàng, chính xác hơn,

đảm bảo tính nghiêm minh và công bằng của pháp luật xã hội chủ nghĩa ở

91

nước ta./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

***

VĂN BẢN PHÁP LUẬT

[1] Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966

[2] Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948

[3] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980

[4] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992

[5] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

[6] Bộ luật Dân sự năm 1995

[7] Bộ luật Dân sự năm 2005

[8] Bộ luật Dân sự năm 2015

[9] Luật Bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với

nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân năm 1957

[10] Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959

[11] Luật Báo chí năm 2016

[12] Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009

[13] Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017

[14] Nghị quyết số 03/2006/HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán

Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ

92

luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

SÁCH, LUẬN ÁN, LUẬN VĂN

[15] Từ điển tiếng Việt (2006), NXB. Đà Nẵng, Đà Nẵng

[16] Từ điển luật học (2006), NXB. Tư pháp, Hà Nội

[17] PGS.TS. Phùng Trung Tập (2017), Luật Dân sự Việt Nam (Bình giải và

áp dụng) – Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, NXB.

Công an nhân dân

[18] Vũ Văn Mẫu (1963), Việt Nam dân luật lược khảo – Quyển II: Nghĩa vụ

và khế ước), Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn

[19] Nguyễn Hải Long (2017), Luận văn thạc sĩ luật học, Các chế tài đối với

vi phạm hợp đồng song vụ theo pháp luật Việt Nam, Hà Nội.

[20] TS. Nguyễn Ngọc Điện (2010), Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự

(Sách tham khảo), NXB. Chính trị quốc gia

[21] Đỗ Văn Đại – Nguyễn Trương Tín (2014), Pháp luật Việt Nam về trách

nhiệm bồi thường của Nhà nước, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội

[22] Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật

học, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội

[23] Quốc triều Hình luật (2003), NXB. Thành phố Hồ Chí Minh.

[24] TS. Lê Đình Nghị (2008), Luận án tiến sĩ luật học, Quyền bí mật đời tư

theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam, Trường ĐH Luật Hà Nội,

93

Hà Nội

[25] Trần Minh Châu (2006), Luận văn Thạc sĩ luật học, Bồi thường thiệt

hại trong trường hợp sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm – Một số vấn đề

lý luận và thực tiễn, Hà Nội

[26] Nguyễn Tôn (2010), Luận văn Thạc sĩ luật học, Bồi thường tổn thất tinh

thần do sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân

bị xâm phạm, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội

[27] Lê Thị Bích Lan (1999), Luận án Thạc sĩ luật học, Một số vấn đề về

trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe,

danh dự, nhân phẩm và uy tín, Hà Nội.

TẠP CHÍ, ĐỀ TÀI KHOA HỌC, TÀI LIỆU HỘI THẢO

[28] Tòa án nhân dân tối cao (1962), Nguyên tắc dân pháp và trình tự tố

tụng dân sự của Liên – Xô và các nước Cộng hòa Liên bang, Phòng

tuyên truyền – Tập san

[29] Nguyễn Văn Hợi (2017), Những điểm mới trong quy định của Bộ luật

Dân sự năm 2015 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,

Tạp chí luật học, số 3, 2017

[30] Đỗ Văn Đại – Lê Hà Huy Phát (2016), Những điểm mới về bồi thường

thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2015, Tạp chí Tòa

94

án nhân dân, số 7, 2016

[31] Nhà pháp luật Việt - Pháp (1997), Kỷ yếu “Hội thảo quyền nhân thân

và bảo vệ quyền nhân thân bằng pháp luật dân sự”, Hà Nội.

[32] Ths. Hoàng Thị Bích Ngọc (2018), Mối quan hệ giữa công lý và quyền

con người – Kỷ yếu Hội thảo “Công lý và quyền tiếp cận công lý: Một

số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội

[33] GS.TS. Nguyễn Đăng Dung – NCS. Nguyễn Đăng Duy, Lịch sử tư

tưởng về Công lý – Kỷ yếu Hội thảo “Công lý và quyền tiếp cận công

lý: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội

[34] Ths. Hoàng Thị Bích Ngọc – PGS.TS. Vũ Công Giao, Tiếp cận công lý

theo quan điểm của Liên hợp quốc – Kỷ yếu Hội thảo “Công lý và

quyền tiếp cận công lý: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội

[35] Trần Kiên, Internet và chế định trách nhiệm dân sự đối với hành vi xâm

phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, nhân phẩm: Kinh nghiệm của Vương

quốc Anh (Bài viết được thực hiện trong khuôn khổ đề tài cấp Đại học

Quốc gia Hà Nội mã số QG.17.01)

TRANG WEB

[36] 20/11/2016, Trách nhiệm dân sự trong luật Hồng Đức,

https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2016/11/20/01-2/

95

[37] 07/3/2009, TS. Ngô Huy Cương, Trách nhiệm dân sự - So sánh và phê

phán, https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2009/03/07/2420-2/

[38] 18/11/2009, TS. Bùi Đăng Hiếu, Khái niệm và phân loại quyền nhân

thân, https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2009/11/18/4086/

[39] 15/06/2016-06:50,https://dantri.com.vn/phap-luat/bi-buoc-phai-xin-loi-

vi-xuc-pham-tinh-cu-tren-facebook-20160615080709242.htm

[40] 20/7/2018 16:19 http://kinhtedothi.vn/bao-dien-tu-vietnamnet-bi-xu-

phat-vi-thong-tin-sai-su-that-321254.html

[41] 17/4/2015 12:02 UTC+7 http://congly.vn/phap-dinh/toa-tuyen-an/cong-

khai-xin-loi-ong-nguyen-thanh-chan-bi-ket-an-oan-93004.html

[42] https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta43440t1cvn/chi-tiet-ban-an

[43] https://banan.thuvienphapluat.vn/ban-an/ban-an-102018dspt-ngay-

22012018-ve-tranh-chap-doi-boi-thuong-thiet-hai-do-danh-du-nhan-

pham-uy-tin-bi-xam-pham-17429

[44] https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta251753t1cvn/chi-tiet-ban-an

[45] 16/3/2010, https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2010/03/16/4664/

96

[46] https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta115449t1cvn/chi-tiet-ban-an