ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
PHẠM MINH CHÂU
CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM DANH DỰ,
NHÂN PHẨM, UY TÍN CỦA CÁ NHÂN THEO PHÁP
LUẬT DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số : 8380101.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Kiên
Hà Nội – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
i
Tác giả Phạm Minh Châu
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan i
Mục lục ii
Danh mục từ viết tắt iv
1 MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ TÀI ĐỐI
VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM DANH DỰ, NHÂN PHẨM, UY
9 TÍN CỦA CÁ NHÂN
1.1. Chế tài dân sự 9
1.1.1. Khái niệm chế tài dân sự 9
1.1.2. Đặc điểm và vai trò của chế tài dân sự 14
1.1.3. Cơ sở triết học của chế tài dân sự 16
1.1.4. Phân loại chế tài dân sự 18
1.2. Quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân 19
1.2.1. Quyền nhân thân 19
1.2.2. Quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân 25
1.3. Cơ sở áp đặt chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, uy tín của cá nhân 30
CHƢƠNG 2. QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM DANH
38 DỰ, NHÂN PHẨM, UY TÍN CỦA CÁ NHÂN
2.1. Quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân theo pháp
luật dân sự Việt Nam 38
2.2. Các loại chế tài dân sự đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, uy tín của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam 40
ii
2.3. Cơ sở áp đặt chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân 62
phẩm, uy tín của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam
2.3.1. Cơ sở áp đặt chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, uy tín của cá nhân theo qui định của BLDS năm 2005 62
2.3.2. Cơ sở áp đặt chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, uy tín của cá nhân theo qui định của BLDS năm 2015 68
2.4. Chủ thể chịu trách nhiệm do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín
của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam 69
2.5. Các trường hợp miễn trừ trách nhiệm theo qui định của pháp luật
dân sự Việt Nam 73
CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHẾ
TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM DANH DỰ, NHÂN
PHẨM, UY TÍN CỦA CÁ NHÂN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
82 THIỆN
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về chế tài đối với hành vi xâm phạm
danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân 82
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chế tài đối với hành vi
xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân 85
90 KẾT LUẬN
iii
92 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC T VIẾT TẮT
Bộ luật Dân sự BLDS
Tòa án nhân dân Tối cao TANDTC
Viện kiểm sát nhân dân Tối cao VKSNDTC
Tòa án nhân dân TAND
Viện kiểm sát nhân dân VKSND
iv
Ủy ban nhân dân UBND
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín là một trong số những
quyền con người, quyền nhân thân cơ bản, được ghi nhận không chỉ trong
pháp luật Việt Nam mà còn được pháp luật thế giới thừa nhận. Từ nhiều năm
trước đây, các quốc gia đã nhận thức được tầm quan trọng của việc công nhận
và bảo vệ đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín. Điều này được thể hiện rất rõ
trong các văn bản pháp luật quốc tế về quyền con người. Theo đó, Tuyên
ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 đã khẳng định: “Không một ai bị xâm
phạm một cách độc đoán về đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, hay thư tín
cũng như bị xúc phạm danh dự hay tiếng tăm của mình. Mọi người đều có
quyền được luật pháp bảo vệ trước những xâm phạm và xúc phạm như vậy”
[2, Điều 12]. Bên cạnh đó, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
năm 1966 cũng nhấn mạnh: “Không ai có thể bị xâm phạm trái phép hay độc
đoán vào đời tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xúc phạm trái phép đến
danh dự và thanh danh. Ai cũng có quyền được luật pháp bảo vệ chống lại
những xâm phạm ấy” [1, Điều 17].
Để đảm bảo quyền này được thực hiện trên thực tế, pháp luật Việt Nam cũng
đã sớm có quy định về vấn đề này. Từ Hiến pháp năm 1980 đã quy định:
“Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và
nhân phẩm” [3, Điều 70]. Đến Hiến pháp năm 1992 lại tiếp tục ghi nhận
quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của công dân tại Điều 71
“Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về
tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm” [4, Điều 71]. Tiếp đến, Điều 20
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về
1
thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không
bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác
xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” [5, Điều 20].
Như vậy quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín là một quyền hiến
định.
Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế - xã hội
ngày càng phát triển, công nghệ thông tin cũng đã len lỏi sâu rộng vào cuộc
sống của con người, bên cạnh việc mang lại cho chúng ta một cuộc sống đầy
đủ hơn, tiếp cận thông tin tốt hơn thì danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhiều
công dân rất dễ bị bêu rếu, xúc phạm trên mạng Internet, trên báo chí với
nhiều động cơ, mục đích khác nhau, điều đó khiến cho những người bị xúc
phạm gặp không ít khó khăn trong cuộc sống.
Mặc dù sự ra đời của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã thể hiện sự tiến bộ vượt
bậc so với Bộ luật Dân sự năm 2005 trước đó khi đã quy định cụ thể, chi tiết
hơn về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín và những biện pháp để
bảo đảm quyền này được bảo vệ, thực thi trên thực tế.
Nếu BLDS năm 2005 quy định:
“Khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có quyền:
1. Tự mình cải chính;
2. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai;
3. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại.” [7, Điều 25]
Đến BLDS năm 2015, các phương thức bảo vệ quyền dân sự đã được quy
2
định cụ thể và chi tiết hơn, theo đó:
“Khi quyền dân sự của cá nhân bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo
vệ theo qui định của Bộ luật này, luật khác có liên quan hoặc yêu cầu cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền:
1. Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo quyền dân sự của mình;
2. Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm;
3. Buộc xin lỗi, cải chính công khai;
4. Buộc thực hiện nghĩa vụ;
5. Buộc bồi thường thiệt hại;
6. Hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có
thẩm quyền;
7. Yêu cầu khác theo qui định của luật” [8, Điều 11]
Song với sự phát triển của xã hội, pháp luật cũng chưa thể dự liệu hết được
các trường hợp có thể xảy ra trên thực tế khi mà tình trạng xâm phạm danh
dự, nhân phẩm, uy tín ngày càng trở nên phổ biến, đa dạng và phức tạp hơn,
pháp luật điều chỉnh về vấn đề này cũng gặp phải những hạn chế nhất định từ
đó gây khó khăn và lúng túng cho cán bộ làm công tác xét xử.
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, việc nghiên cứu một cách có hệ thống,
khoa học các qui định của pháp luật về chế tài đối với hành vi xâm phạm danh
dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân để hiểu đúng và thực hiện đúng cũng như
phát hiện những điểm bất cập cần hoàn thiện là việc hết sức cần thiết và cấp
bách.
Với mục đích làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu về chế tài đối
với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, tôi xin lựa
chọn đề tài “Chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín
của cá nhân theo pháp luật dân sự ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của
mình. Tác giả mong muốn góp một phần nhỏ của mình vào những tri thức cơ
3
bản về quyền nhân thân, về chế tài dân sự nói chung và chế tài đối với hành vi
xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân nói riêng để từ đó đưa ra
những giải pháp góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý về chế tài đối với hành vi
xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Liên quan đến nội dung quyền nhân thân, nội dung chế tài dân sự nói
chung và chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá
nhân nói riêng đã có nhiều đề tài khoa học, luận văn, bài viết trên tạp chí đề
cập một cách trực tiếp hoặc lồng ghép vào những nội dung liên quan. Về nội
dung quyền nhân thân và nội dung trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng đã có sự nghiên cứu tương đối nhiều, có thể kể đến như: Bài viết của tác
giả Lê Đình Nghị (2004), Một số vấn đề về quyền nhân thân, Dân chủ và pháp
luật, số 7; Bài viết trên Tạp chí luật học của tác giả Lê Đình Nghị, Quyền
nhân thân của cá nhân trong BLDS năm 2005 – những bất cập và hướng
hoàn thiện, số 3, 2014; bài viết của tác giả Lê Hương Lan (2005), Qui định về
các quyền nhân thân cơ bản của cá nhân trong Bộ luật Dân sự năm 2005,
Dân chủ và pháp luật, số 9; Trần Thùy Dương (2012), Các điều kiện phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, khóa luận tốt nghiệp;
Nguyễn Thị Thúy Hằng (2013), Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng của cá nhân, luận văn thạc sĩ luật học; Đỗ Văn Đại,
Nguyễn Trương Tín (2011), Tự do báo chí và vấn đề bảo vệ nhân phẩm, danh
dự, uy tín của cá nhân, Khoa học pháp lý, số 3; Nguyễn Tôn (2010), Bồi
thường tổn thất tinh thần do sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín
của cá nhân bị xâm phạm, Luận văn Thạc sĩ; ... trong đó các công trình này
cũng đã ít nhiều đề cập đến chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, uy tín của cá nhân. Tuy nhiên, các đề tài, công trình nghiên cứu triển
4
khai trực tiếp về vấn đề này hoặc đã được thực hiện từ rất lâu hoặc số lượng
đề tài nghiên cứu còn khá khiêm tốn trong khi tình hình xã hội hiện nay biến
động và thay đổi không ngừng.
Do đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn sẽ phần nào khắc phục được
những tồn tại nói trên, góp phần bổ sung kịp thời những nghiên cứu về vấn đề
này với hy vọng tăng cường nhận thức của mọi người về chế tài dân sự nói
chung và chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá
nhân nói riêng.
3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Để đảm bảo quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, Nhà nước
ta đã ban hành rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật ở nhiều lĩnh vực khác
nhau như hình sự, dân sự, hành chính,… để điều chỉnh vấn đề này. Tuy nhiên,
trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, để tập trung sâu hơn về vấn đề chế tài
đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín và phù hợp với chuyên
ngành học, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về chế tài dân sự đối với hành vi
xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân theo pháp luật Dân sự Việt
Nam từ góc độ lý thuyết lẫn thực tiễn. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân
phẩm, uy tín được quy định chủ yếu trong Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Dân
sự năm 2015, Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017.
Mục đích nghiên cứu của đề tài tập trung nghiên cứu các qui định của
pháp luật hiện hành về chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm,
uy tín của cá nhân; tìm hiểu thực tiễn áp dụng qui định này để nghiên cứu làm
sáng tỏ những vướng mắc, khó khăn khi áp dụng. Kết quả nghiên cứu của đề
tài luận văn nhằm tìm ra những phương hướng, giải pháp kịp thời góp phần
hoàn thiện pháp luật về chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, uy tín của cá nhân.
5
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Để có thể đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận
văn phải giải quyết các vấn đề sau:
Một là, phân tích khái quát nội dung chế tài dân sự, quyền nhân thân, quyền
đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín và cơ sở áp đặt chế tài đối với hành vi
xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân từ góc độ lý luận.
Hai là, phân tích, đánh giá các qui định của pháp luật dân sự Việt Nam về chế
tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân.
Ba là, phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về chế tài đối với hành vi xâm
phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân và đưa ra những giải pháp, kiến
nghị hoàn thiện.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan
điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư
pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình
nghiên cứu, để hoàn thành đề tài luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học truyền thống như:
Phương pháp phân tích (phương pháp phân tích qui phạm, phương
pháp phân tích vụ việc), phương pháp diễn giải: những phương pháp
này được sử dụng phổ biến trong việc làm rõ các qui định của pháp luật
và các vụ việc trên thực tế về chế tài đối với hành vi xâm phạm danh
dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân.
Phương pháp đánh giá: phương pháp này được người viết vận dụng
để đưa ra ý kiến nhận xét qui định của pháp luật hiện hành có hợp lý
hay không, những thành tựu nào đã đạt được và những vướng mắc gì
6
còn tồn tại.
Phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch: được vận dụng để
triển khai có hiệu quả các vấn đề liên quan đến chế tài đối với hành vi
xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, đặc biệt là các kiến
nghị hoàn thiện... Chẳng hạn, trên cơ sở những kiến nghị mang tính
khái quát, người viết dùng phương pháp diễn dịch để làm rõ nội dung
của kiến nghị đó.
Phương pháp so sánh: phương pháp này sẽ phân tích khoa học pháp
lý của một số nền tài phán điển hình trên thế giới điều chỉnh, giải thích
về chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá
nhân....
6. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN
Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ những qui định của
pháp luật về chế tài trong việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của
cá nhân; phân tích thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với vấn đề này,
chỉ ra những bất cập của pháp luật và đưa ra phương hướng hoàn thiện.
Về mặt thực tiễn: Những giải pháp hoàn thiện pháp luật là cơ sở
quan trọng để các cơ quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của
mình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tương ứng.
Đồng thời, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích không chỉ với đội
ngũ giảng viên, sinh viên mà còn có giá trị đối với những cán bộ làm
công tác xây dựng pháp luật về chế tài do danh dự, nhân phẩm, uy tín
của cá nhân bị xâm phạm ở Việt Nam.
7
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
từ viết tắt, mục lục, nội dung chính của luận văn được kết cấu gồm 03
chương:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về chế tài đối với hành vi xâm phạm danh
dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân.
Chƣơng 2: Qui định của pháp luật dân sự Việt Nam về chế tài đối với hành vi
xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân.
Chƣơng 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về chế tài đối với hành vi xâm phạm
8
danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân và kiến nghị hoàn thiện.
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI
HÀNH VI XÂM PHẠM DANH DỰ, NHÂN PHẨM, UY
TÍN CỦA CÁ NHÂN
1.1. CHẾ TÀI DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm chế tài dân sự
Chế tài dân sự với tư cách là một chế tài pháp lý có lịch sử hình thành
và phát triển một cách lâu dài.
Thời kỳ thái cổ, khi chính quyền trong xã hội còn chưa được tổ chức
một cách vững chãi, trong trường hợp nếu quyền của một cá nhân bị xâm
phạm thì người đó được phép áp dụng chế độ “tư nhân phục cừu” đối với
người đã gây thiệt hại cho mình. Theo đó, cá nhân bị thiệt hại được tự ý trả
thù đối phương để trừng phạt, bắt đối phương làm nô lệ hoặc lấy tài sản của
người có hành vi gây thiệt hại.
Giai đoạn thứ hai, để tránh sự trả thù, người gây thiệt hại có thể nộp
tiền chuộc hay thục kim cho nạn nhân.
Tiến lên một bước nữa, chính quyền nhận thấy việc áp dụng chế độ
thục kim thực sự đem lại hiệu quả, có thể chấm dứt chế độ phục cừu, do đó họ
đã ấn định cả ngạch số các khoản tiền chuộc. Số tiền này vừa được coi là hình
phạt, vừa mang tính chất như một khoản bồi thường.
Trước đây, pháp luật châu Á nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng
không có sự phân biệt giữa chế tài dân sự và chế tài hình sự. Trong cuốn Việt
Nam Dân luật lược khảo của Vũ Văn Mẫu có đoạn viết: “Theo tinh thần của
9
luật pháp Đông phương, Cổ luật Việt Nam thường không quy định những vấn
đề liên hệ đến ngành tư pháp (Droit privé), và chỉ giải quyết các vấn đề thuộc
trật tự công. Vì vậy, các điều khoản trong các bộ luật cổ như bộ Quốc triều
Hình luật của nhà Lê hay Hoàng Việt luật lệ của Gia Long đều có tính cách
các điều khoản thuộc về luật hình. Những điều khoản liên quan đến các vấn
đề trách nhiệm cũng không thoát khỏi thông lệ ấy”. [18, tr.439]
Trong khi đó, một số trường hợp, luật La Mã đã tiến tới sự phân biệt
giữa chế tài dân sự và chế tài hình sự. Mặc dù các nhà làm luật thời kỳ này
chưa quy định được hẳn một nguyên tắc trách nhiệm dân sự tổng quát nhưng
có thể thấy, người La Mã đã có công lao rất lớn trong việc phân biệt giữa hai
khái niệm này. Trong luật La Mã, đạo luật Aquilia về trách nhiệm dân sự chỉ
dự trù trường hợp một người nô lệ hay một súc vật bị thương hoặc bị chết,
hay một vài trường hợp đồ vật khác bị tổn thiệt. Tuy các pháp quan La Mã
cũng tìm cách nới rộng phạm vi áp dụng đạo luật Aquilia, song cũng không
đề lập được một nguyên tắc tổng quát về các vấn đề trách nhiệm [18, tr.438].
Đến năm 1804, Bộ Dân luật Nã – phá – Luân ra đời đã đặt ra một
nguyên tắc tổng quát về trách nhiệm dân sự. Theo đó, tại Điều 1382 có quy
định: “Phàm một tác động do người làm đã gây tổn thiệt cho người khác, thì
người có lỗi làm tác động ấy phải bồi thường sự tổn thiệt”[18, tr.441]. Khi
các nước trở thành thuộc địa của thực dân Pháp, bên cạnh việc du nhập văn
hóa thì pháp luật cũng đã phần nào bị ảnh hưởng. Từ đây, chế tài dân sự
(trách nhiệm dân sự) mới chính thức hình thành với tư cách là một chế định
biệt lập.
Có thể thấy, những quy định của pháp luật về chế tài dân sự có lịch sử
hình thành cùng với sự xuất hiện của chế độ tư hữu và nhà nước. Trong mỗi
chế độ xã hội khác nhau thì những biện pháp chế tài cũng được áp dụng rất
10
khác nhau đối với người gây ra thiệt hại.
Xoay quanh khái niệm chế tài dân sự (trách nhiệm dân sự), các học giả
trong và ngoài nước đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau. Chẳng hạn, phản
ánh quan điểm của hầu hết các luật gia Nga, O. S. Ioffe đưa ra định nghĩa:
“Trách nhiệm dân sự – đó là những chế tài đối với vi phạm nghĩa vụ mà việc
áp dụng những chế tài đó sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi cho bên vi phạm
dưới hình thức tước quyền dân sự và/hoặc bằng hình thức đặt ra cho họ những
nghĩa vụ mới hoặc nghĩa vụ bổ sung như nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nộp
phạt vi phạm hoặc trả tiền lãi đối với khoản nợ chậm trả”.
Hay các luật gia Việt Nam Cộng Hòa có quan niệm: “Trách nhiệm dân
sự là một nguồn gốc của nghĩa vụ căn cứ vào hành vi mà Dân luật coi như là
trái luật (illicite). Do đó dân luật đã bắt buộc người làm ra hành vi trái luật
phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Tóm lại, trách nhiệm dân sự phát sinh
ra nghĩa vụ bồi thường đối với người nào đã làm ra một hành vi gì trái luật mà
gây tổn thiệt cho người khác” [37]
Bên cạnh đó, Vũ Văn Mẫu cũng khẳng định: Trách nhiệm dân sự là
một nguồn gốc của nghĩa vụ không căn cứ vào ý chí của đương sự, tức là
nguồn gốc bất hợp pháp; vì vậy trách nhiệm dân sự làm phát sinh ra nghĩa vụ
bồi thường đối với người đã làm một hành vi trái luật gây tổn thiệt cho một
người khác.[18, tr.431]
Trải qua từng thời kỳ, những quy định về chế tài dân sự cũng đã dần
hoàn thiện hơn. Mặc dù vậy, cho đến nay các nhà làm luật mới chỉ theo
hướng liệt kê các biện pháp chế tài, các căn cứ phát sinh trách nhiệm, năng
lực chịu trách nhiệm,... mà vẫn chưa đưa ra một khái niệm cụ thể nào về chế
tài dân sự.
Vào thời La Mã cổ đại, đối với trường hợp xâm phạm thân thể của
11
người khác không những về sức khỏe, tính mạng mà còn về tinh thần như
hành vi lăng nhục người khác, hành vi xúc phạm phụ nữ nơi công cộng đều
phải chịu chế tài. Trong trường hợp người bị thiệt hại là nô lệ, chủ nô chỉ có
quyền kiện nếu người gây hại cố ý gây hại cho nô lệ nhằm mục đích xúc
phạm chủ nô.[17, tr.17]
Cũng về vấn đề này, vào thế kỷ thứ V và VI SCN, có một bộ luật rất
điển hình là Bộ luật Xalíc (Lox Salica) của quốc gia Frăng được ban hành vào
đầu thế kỷ thứ VI. Tại đây, có rất nhiều quy định bảo vệ quyền nhân thân của
người Frăng tự do. Theo đó, luật quy định: “cướp một cô gái tự do, mỗi một
người trong những kẻ đồng phạm bị phạt 30 xôlit. Nếu như số người tham gia
việc cướp cô gái tự do lớn hơn 3 thì mỗi người phạm pháp chịu phạt 5
xôlit”[17, tr.18]. Bên cạnh đó, luật này còn quy định cụ thể về khoản phạt đối
với các hành vi gây thiệt hại về danh dự của cá nhân như: “Hãm hiếp cô dâu
trong thời điểm rước dâu bị phạt 200 xôlit, cướp vợ của một người tự do cũng
bị phạt tương tự, giết một phụ nữ tự do đang trong thời kỳ mang thai bị phạt
600 thậm chí tới 700 xôlit. Một người cầm ngón tay của cô gái tự do ngoài ý
muốn của người đó sẽ bị phạt 15 xôlit; nếu nắm cổ bàn tay sẽ bị phạt đến 30
xôlit; nếu nắm tay cô gái tự do tới trên khuỷu tay sẽ bị phạt tới 35 xôlit; nếu
cắt đuôi sam (đoạn cuối mái tóc) của một cô gái tự do sẽ bị phạt 45 xôlit”[17,
tr.19]
Trong lịch sử pháp luật Việt Nam, có thể nói chế tài dân sự là một
trong những chế định ra đời từ rất sớm. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, những
quy định về chế tài dân sự còn khá sơ sài, tản mạn và chưa có sự phân biệt
rạch ròi giữa chế tài dân sự và chế tài hình sự. Pháp luật cổ Việt Nam mới chỉ
dừng lại ở những quy định chung chung dựa trên nguyên tắc “người gây thiệt
12
hại phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại”.
Chẳng hạn, Điều 472 Bộ luật Hồng Đức quy định về trường hợp kẻ
dưới đánh quan lại, quan lại đánh lẫn nhau thì “khi một người đánh quan
chức bị thương, ngoài việc phải chịu hình phạt, đền bù thương tổn còn phải
đền tiền tạ. Trái lại, nếu đánh người không phải quan chức, theo quy định tại
các điều luật khác thì không phải chịu khoản tiền tạ.
Điều 473 quy định khả năng kẻ dưới mắng nhiếc quan lại, quan lại mắng
nhiếc nhau. Quy định này đã không những chỉ đưa ra hình phạt mà còn quy
định phạt tiền tạ nếu phạm tội lăng mạ quan chức, các trường hợp khác
không phải chịu tiền tạ.
Điều 474 cũng dự liệu trường hợp đánh người thân thuộc trong hoàng tộc
cũng quy định trách nhiệm tiền tạ, nếu đánh hoặc lăng mạ người trong hoàng
tộc từ hàng cháu năm đời của vua trở lên.” [36]
Phải đến khi có sự xuất hiện của ba bộ luật: Bộ luật Nam Kỳ (ban hành
ngày 10/3/1883), bộ Dân luật Bắc Kỳ (ban hành ngày 01/4/1931), bộ Dân luật
Trung Kỳ (ban hành ngày 31/10/1936) thì các nguyên lý chung về trách
nhiệm bồi thường dân sự mới chính thức được ghi nhận, cụ thể: tại Điều 712
đến Điều 716 (Bộ Dân luật Bắc Kỳ); Điều 761 đến Điều 767 (Bộ Dân luật
Trung Kỳ); Điều 729 đến Điều 739 (Bộ Dân luật Sài Gòn).
Từ những phân tích trên đây, ta có thể khái quát về chế tài dân sự như
sau: Chế tài dân sự là những hậu quả pháp lý bất lợi khi một chủ thể vi phạm
nghĩa vụ pháp lý của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác phải gánh chịu.
Do đó, chế tài dân sự luôn được coi là một phương tiện pháp lý để bảo
vệ các quan hệ dân sự, bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
thể trong quan hệ pháp luật dân sự khỏi bị xâm phạm bởi các hành vi trái
13
pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm và vai trò của chế tài dân sự
1.1.2.1. Đặc điểm của chế tài dân sự
Chế tài trong pháp luật dân sự mang một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, chế tài dân sự mang tính đa dạng. Biểu hiện là chế tài dân sự có
nhiều hậu quả pháp lý khác nhau được áp dụng cho từng hành vi vi phạm
tương ứng. Tùy vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà áp dụng chế tài
mang tính tinh thần như xin lỗi, cải chính hay chế tài mang tính vật chất như
bồi thường thiệt hại, buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Thứ hai, chế tài dân sự có thể do các bên tự thỏa thuận và tự áp dụng. Khác
với quan hệ pháp luật hành chính, trong quan hệ pháp luật dân sự khi một bên
vi phạm pháp luật thì sẽ phải chịu trách nhiệm trước bên còn lại chứ không
phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước, do đặc trưng này nên các bên có thể tự
thỏa thuận và tự áp dụng các chế tài dân sự. Ví dụ, với chế tài bồi thường thiệt
hại, các bên có thể thỏa thuận về số tiền bồi thường, hình thức hay phương
thức bồi thường,...
Thứ ba, chế tài dân sự đa phần mang tính vật chất. Lợi ích mà các bên hướng
tới đa phần mang tính chất tài sản, nên việc vi phạm của bên này sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi ích vật chất của bên kia, do đó cần có sự bù đắp bằng
những lợi ích vật chất. Trường hợp quyền nhân thân của một chủ thể bị xâm
phạm (mang tính tinh thần) thì chế tài được áp dụng thường là buộc xin lỗi,
đăng bài cải chính. Tuy nhiên, việc áp dụng các chế tài này không thể khắc
phục hoàn toàn thiệt hại, nên kèm theo chế tài buộc xin lỗi, đăng bài cải chính
bên bị xâm phạm thường yêu cầu bồi thường thiệt hại (lợi ích vật chất). Như
vậy, dù là quan hệ nhân thân hay quan hệ tài sản thì khi có hành vi vi phạm,
14
chế tài áp dụng đa phần mang tính vật chất.
Thứ tư, khác với các chế tài khác, chế tài dân sự có chức năng khôi phục,
khắc phục các hậu quả vật chất cho bên bị thiệt hại. Trong khi với chế tài hình
sự và chế tài hành chính, dù người vi phạm đã khắc phục thiệt hại gây ra thì
họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự (hoặc trách nhiệm hành chính) trước
Nhà nước về hành vi vi phạm của mình. Hai loại chế tài này không nhằm mục
đích khắc phục hậu quả mà nhằm trừng phạt người vi phạm. Đối với chế tài
dân sự, mục đích của các bên là trả lại hiện trạng như trước khi có vi phạm,
theo đó, có thể khôi phục hoặc khắc phục hậu quả. Trường hợp hành vi xâm
phạm gây thiệt hại về tài sản, việc bồi thường có thể khôi phục hậu quả. Còn
trong trường hợp thiệt hại về tinh thần, việc áp dụng chế tài không thể khôi
phục hậu quả mà chỉ có thể khắc phục hậu quả gây ra.
1.1.2.2. Vai trò của chế tài dân sự
Đời sống xã hội hiện nay với rất nhiều mối quan hệ phức tạp, chắc chắn
sẽ không thể tránh khỏi việc cá nhân, tổ chức này gây thiệt hại cho cá nhân, tổ
chức khác. Chính vì vậy, sự xuất hiện của chế tài dân sự không những có ý
nghĩa về mặt pháp lý mà còn có ý nghĩa về mặt xã hội sâu sắc.
Trước hết, chế tài dân sự là thước đo chuẩn mực cho cách xử sự của
các chủ thể. Nó tạo ra một cơ sở pháp lý vững chắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức khi tham gia các quan hệ pháp luật dân sự, từ đó
góp phần đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.
Bên cạnh đó, bằng việc buộc người gây thiệt hại phải bù đắp những tổn
thất do hành vi trái pháp luật của mình gây ra cho người bị thiệt hại, chế tài
dân sự góp phần đảm bảo công bằng xã hội.
Đồng thời, thông qua việc áp dụng các biện pháp chế tài, sẽ giúp cho
chủ thể nhận thức được những hậu quả bất lợi mà họ phải gánh chịu khi thực
15
hiện hành vi trái pháp luật gây thiệt hại. Qua đó, có tác dụng phòng ngừa các
hành vi vi phạm pháp luật cũng như giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật, tôn
trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác.
Không chỉ vậy, khi phát sinh tranh chấp, chế tài dân sự sẽ là cơ sở và
điều kiện cho hoạt động xét xử, giúp việc giải quyết tranh chấp được nhanh
chóng, chính xác, công minh và khách quan nhất.
1.1.3. Cơ sở triết học của chế tài dân sự
Trong chiều dài lịch sử của nhân loại, công lý là khái niệm xuất hiện
khá sớm. Tuy nhiên, do có sự khác biệt về địa lý, văn hóa, lịch sử, pháp luật
mà quan niệm về công lý trong từng giai đoạn, từng quốc gia cũng khác nhau.
Thời kỳ sơ khai, khái niệm công lý thường gắn liền với hình ảnh “các
vị nữ thần xuất hiện với một tay cầm kiếm, một tay cầm cân và một dải băng
bịt mắt để chứng tỏ sự vô tư, không thiên vị, đảm bảo phán quyết được công
bằng.” [32, tr.85]
Theo quan niệm của các triết gia phương Đông cổ đại thì công lý mang
nặng tính chất là sự báo thù. “Điều này bắt nguồn từ tập quán trả thù nguyên
thủy – nguyên tắc mà chỉ căn cứ vào hậu quả xảy ra trên thực tế để áp dụng
trách nhiệm pháp lý chứ không xét trên phương diện mức độ lỗi và chủ thể
thực hiện hành vi vi phạm. Điều này được minh họa rõ nét thông qua một số
điều luật được quy định trong Bộ luật Hammurabi, cụ thể như các điều 38, 39,
196:
Điều 38: Nếu thợ xây nhà mà xây không đảm bảo, nhà đổ làm chủ nhà
chết thì người thợ xây cũng sẽ bị giết.
Điều 39: Nếu nhà đổ, con của người chủ nhà chết thì con của người thợ
xây cũng bị chết.
Điều 196: Nếu dân tự do làm hỏng mắt của con của bất cứ người dân tự
16
do nào, thì phải làm hỏng mắt của người gây ra hậu quả” [32, tr.85]
Đối với phương Tây cổ đại, tiêu biểu nhất phải kể đến Plato, người đã
gửi gắm những quan điểm và tư tưởng của mình về công lý thông qua các tác
phẩm kiệt xuất, điển hình như cuốn Cộng hòa (The Republic). Theo đó, ông
nhấn mạnh “công lý là một khái niệm thể hiện phẩm hạnh và sự hài hòa của
con người với cộng đồng” [33, tr.8]. Càng về sau này, công lý càng được nhìn
nhận rộng hơn, nhân văn hơn.
Thời kỳ hiện đại, không thể không nói đến khái niệm công lý nổi bật
của John Rawls, với tác phẩm nổi tiếng Một lý thuyết về công lý. Ông coi
công lý như là công bằng (justice as fairness), là niềm tin của pháp luật, là hạt
nhân của đạo đức, và là điều kiện tiên quyết của xã hội công dân... Do vậy,
theo ông trong một xã hội công bằng thì sự bình đẳng về các quyền công dân
và quyền tự do đối với tất cả mọi người là không thể thay đổi; những quyền
được công lý đảm bảo thì không thể đem ra mặc cả về chính trị hay những
tính toán về lợi ích xã hội.[33, tr.86]
Từ góc nhìn của Liên hợp quốc, khái niệm công lý được hiểu là “sự bảo
vệ xác đáng các quyền của con người và đồng thời chống lại những hành
động ngược đãi đến các quyền con người một cách công bằng và có trách
nhiệm. Công lý bảo vệ cho quyền của các bị cáo, lợi ích của các nạn nhân nói
riêng và hơn hết là bảo vệ cho sự ổn định của xã hội nói chung”.[34, tr.73]
Mặc dù, còn nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau về công lý nhưng tựu
chung lại, công lý có thể được hiểu là việc đảm bảo sự công bằng, bình đẳng
về quyền và lợi ích hợp pháp giữa tất cả mọi người. Nếu một người xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì người đó sẽ phải trả
giá cho những hành vi mà mình đã gây ra.
Như vậy, để “công bằng”, “bình đẳng” đến gần hơn với thực tế, khi có
17
hành vi trái pháp luật xảy ra, pháp luật phải thông qua bằng các biện pháp chế
tài. Chế tài được Nhà nước ban hành chính là muốn hướng đến công lý, sự
công bằng trong xã hội. Hay nói cách khác, công lý chính là cơ sở triết học
của chế tài.
1.1.4. Phân loại chế tài dân sự
Đến nay, pháp luật vẫn chưa có quy định cụ thể về việc phân loại chế
tài dân sự. Qua tìm hiểu tác giả thấy rằng, việc phân loại chế tài dân sự mới
chỉ dừng lại ở việc phân loại trong một số trường hợp cụ thể, chẳng hạn một
số luận văn có nghiên cứu về phân loại chế tài đối với vi phạm hợp đồng song
vụ... chứ chưa có quy định tổng quát cho tất cả mọi trường hợp.
Theo đó, chế tài dân sự có thể được phân loại dựa trên một số tiêu chí
sau đây:
Tiêu chí nguồn phát sinh
Chế tài dân sự có thể được ghi nhận trong luật để các bên mặc nhiên áp
dụng hoặc ghi nhận trong thỏa thuận của các bên tham gia quan hệ dân sự.
Theo đó, căn cứ vào tiêu chí nguồn phát sinh, chế tài dân sự có thể chia thành
hai loại, đó là: (1) chế tài phát sinh theo luật và (2) chế tài phát sinh theo thỏa
thuận hợp pháp của các bên trong quan hệ dân sự. Việc phân loại theo tiêu chí
này có ý nghĩa trong việc xác định nguồn viện dẫn cơ sở pháp lý để áp dụng
chế tài đối với hành vi xâm phạm. [19, tr.29]
Tiêu chí tính bắt buộc thỏa thuận
Khi có tranh chấp trong quan hệ dân sự, bên cạnh các chế tài đương
nhiên được áp dụng như chế tài bồi thường thiệt hại,... thì pháp luật nhiều
nước cũng quy định đối với một số chế tài cụ thể cần được thỏa thuận mới
được áp dụng, ví dụ chế tài phạt vi phạm hợp đồng. Do vậy, dựa vào tiêu chí
tính bắt buộc thỏa thuận, có thể chia chế tài dân sự thành: (1) chế tài buộc
18
phải thỏa thuận trong hợp đồng và (2) chế tài không buộc phải thỏa thuận
trong hợp đồng. Việc phân loại này có ý nghĩa quan trọng trong việc làm rõ
căn cứ và cơ sở viện dẫn chế tài, nhất là các chế tài buộc phải thỏa thuận
trong hợp đồng nếu không có thì sẽ không có quyền viện dẫn. [19, tr.29]
Tiêu chí tính chất và mức độ thiệt hại
Hành vi trái pháp luật có thể gây thiệt hại về tài sản hoặc xâm phạm các
quyền nhân thân của cá nhân. Do đó, tùy thuộc vào tính chất và mức độ thiệt
hại mà bên bị thiệt hại có thể áp dụng các biện pháp như buộc bên có hành vi
xâm phạm chấm dứt hành vi trái pháp luật, xin lỗi, cải chính công khai hay
bồi thường thiệt hại,...
Như vậy, căn cứ theo tiêu chí này, chế tài dân sự được chia thành: (1)
chế tài yêu cầu công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của
mình; (2) chế tài buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; (3) chế tài buộc xin lỗi,
cải chính công khai; (4) chế tài buộc thực hiện nghĩa vụ; (5) chế tài bồi
thường thiệt hại; (6) chế tài hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan,
tổ chức, người có thẩm quyền; (7) chế tài khác theo quy định của luật.
Việc phân loại theo tiêu chí này giúp các bên tham gia quan hệ dân sự
nắm được bản chất, mục đích, nội dung của chế tài cũng như bên bị thiệt hại
biết được khả năng áp dụng các chế tài cần thiết ở mức tối ưu và tối đa mà
pháp luật cho phép để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi có tranh
chấp xảy ra.
1.2. QUYỀN ĐỐI VỚI DANH DỰ, NHÂN PHẨM, UY TÍN CỦA CÁ
NHÂN
1.2.1. Quyền nhân thân
1.2.1.1. Khái niệm quyền nhân thân
Cùng với sự phát triển mọi mặt về kinh tế - xã hội, vấn đề con người
19
ngày càng được coi trọng và đảm bảo cả về yếu tố vật chất lẫn tinh thần.
Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, tại Việt Nam, quyền con người
đã được ghi nhận trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
– văn bản có giá trị pháp lý cao nhất. Trong những quyền được pháp luật ghi
nhận và bảo vệ đó có quyền nhân thân.
Có rất nhiều cách nhìn nhận, tiếp cận khác nhau về quyền nhân thân.
Trong cuốn Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự của TS. Nguyễn Ngọc Điện có
đoạn viết: “Trong luật của các nước theo văn hóa pháp lý romano-
germanique, khái niệm quyền tài sản được dùng để đối lập với khái niệm
quyền phi tài sản. Trong các quyền phi tài sản có những quyền có tác dụng
bảo vệ cá nhân về phương diện thể chất và tinh thần, gọi là các quyền nhân
thân. Với quan niệm đó, thì quyền nhân thân không phải là đối trọng của
quyền tài sản; song, chắc chắn, quyền nhân thân, về bản chất là những quyền
không có giá trị tiền tệ.” [20, tr.124]
Ở nước ta, phải đến khi Bộ luật Dân sự năm 1995 được thông qua thì
khái niệm về quyền nhân thân mới chính thức hình thành. Theo đó, quyền
nhân thân được hiểu là “quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể
chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” [6,
Điều 26]. Tuy vậy, một số quyền nhân thân cụ thể đã được thừa nhận trước đó
trong những văn bản pháp lý như: Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, Luật
bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ
vật, thư tín năm 1957,.... Cụ thể, tại Điều 1 Luật Bảo đảm quyền tự do thân
thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân
năm 1957 đã quy định:
“Quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ
vật và thư tín của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Không ai được phép
20
xâm phạm các quyền ấy”.[9, Điều 1]
Hay trong luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 có ghi:
“Trong gia đình, vợ chồng đều bình đẳng về mọi mặt [10, Điều 12]; Vợ
chồng có nghĩa vụ thương yêu, quý trọng, săn sóc nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ,
nuôi dạy con cái, lao động sản xuất, xây dựng gia đình hoà thuận, hạnh
phúc” [10, Điều 13]
Sau này, các nhà làm luật kế thừa quy định của Bộ luật Dân sự năm
1995, khái niệm quyền nhân thân tại Bộ luật Dân sự năm 2005 và 2015 cũng
không có gì thay đổi so với khái niệm quyền nhân thân được quy định trước
đó.
Trong luận án Tiến sĩ luật học của mình, TS. Lê Đình Nghị định nghĩa
về quyền nhân thân như sau:
“Theo nghĩa khách quan, quyền nhân thân được hiểu là một phạm trù
pháp lý bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành, trong đó có nội dung quy định cho các cá nhân có các quyền
nhân thân gắn liền với bản thân mình và đây là cơ sở để cá nhân thực
hiện quyền của mình.
Theo nghĩa chủ quan, quyền nhân thân là quyền dân sự chủ quan gắn
liền với cá nhân do Nhà nước quy định cho mỗi cá nhân và cá nhân
không thể chuyển giao quyền này cho người khác trừ trường hợp luật
có quy định khác” [24, tr.18].
Tuy nhiên, có vẻ như những khái niệm này còn chưa được đầy đủ bởi
một số lý do sau:
Thứ nhất, có một số quyền cũng mang đủ hai đặc điểm “là quyền dân
sự gắn liền với mỗi cá nhân” và “không thể chuyển giao” nhưng lại không
được coi là quyền nhân thân mà là quyền tài sản, ví dụ như quyền được cấp
21
dưỡng. Pháp luật quy định quyền được cấp dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng gắn
liền với những cá nhân nhất định như: giữa cha mẹ và con, giữa anh chị em
với nhau, giữa ông bà và cháu, giữa vợ và chồng; đồng thời, không thể
chuyển giao được cho chủ thể khác. Có thể thấy, quyền này có giá trị tài sản
nhưng không chuyển giao được, do gắn chặt với nhân thân của người có
quyền. Đây được coi là một quyền tài sản chứ không phải quyền nhân thân;
hay nói đúng hơn, là quyền tài sản gắn với nhân thân. Như vậy, nếu đưa ra
khái niệm quyền nhân thân chỉ với hai đặc điểm như đã nêu ở trên thực sự
chưa đủ cơ sở để phân biệt quyền nhân thân với các quyền dân sự khác.
Thứ hai, pháp luật dân sự quy định quyền nhân thân là quyền “gắn liền
với mỗi cá nhân”, vậy thì với các chủ thể khác như: pháp nhân, hộ gia đình, tổ
hợp tác, họ có quyền nhân thân không? Tại Điều 1 Nghị quyết số
03/2006/HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao quy định:
“Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác
không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy
tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin…
vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất
mà tổ chức phải chịu”. [14, Điều 1]
Như vậy, một mặt, pháp luật ghi nhận quyền đối với danh dự, uy tín
của pháp nhân và các chủ thể khác. Mặt khác, khi xây dựng khái niệm quyền
nhân thân lại không hề đề cập đến đối tượng là các chủ thể này. Phải chăng có
sự mâu thuẫn? Chia sẻ về vấn đề này, PGS. TS Bùi Đăng Hiếu cho rằng khái
niệm quyền nhân thân nên được mở rộng không những gắn với cá nhân mà
với cả các chủ thể khác; đồng thời, nên bổ sung thêm một số đặc điểm như:
gắn liền với giá trị tinh thần, không định giá được,… để phân biệt quyền nhân
22
thân với các quyền dân sự khác. Theo đó, quyền nhân thân là quyền dân sự
gắn với đời sống tinh thần của mỗi chủ thể, không định giá được bằng tiền và
không thể chuyển giao cho chủ thể khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác.[38]
Trên cơ sở tiếp thu và đánh giá các quan điểm khác nhau, tác giả nhận
thấy cần phải xây dựng một khái niệm quyền nhân thân chứa đựng đầy đủ nội
dung, đồng thời thể hiện rõ nét những dấu hiệu để có thể phân biệt quyền
nhân thân với các quyền khác. Qua đây, ta có thể đưa ra khái niệm quyền
nhân thân như sau:
Quyền nhân thân là quyền dân sự được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, gắn
liền với những giá trị tinh thần của các chủ thể, không định giá được thành
tiền và không thể chuyển giao, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
1.2.1.2. Đặc điểm của quyền nhân thân
Qua phân tích khái niệm quyền nhân thân, ta nhận thấy quyền nhân
thân mang một số đặc điểm cơ bản sau:
Một là, quyền nhân thân là quyền dân sự do luật định.
Quyền dân sự được hiểu là “những quyền công dân được thể hiện trong mối
quan hệ giữa các cá nhân và được bảo đảm bằng pháp luật dân sự” [31, tr.6].
Hay trong Từ điển giải thích thuật ngữ luật học có định nghĩa: “Quyền dân sự
là cách xử sự được phép của chủ thể trong quan hệ dân sự. Quyền dân sự hiểu
theo nghĩa rộng là quyền của chủ thể được pháp luật quy định như là nội dung
của năng lực pháp luật của chủ thể đó. Quyền dân sự hiểu theo nghĩa hẹp là
quyền của chủ thể trong quan hệ dân sự nhất định mà chủ thể đó đang tham
gia; quyền tự mình thực hiện những hành vi nhất định, quyền yêu cầu người
có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ, quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm” [22,
tr.104]. Khi quyền con người được pháp luật quy định thành các quyền cụ thể
23
thì nó trở thành các quyền dân sự. Mà quyền nhân thân lại là một khái niệm
được bao hàm trong nội dung quyền con người. Vì vậy, quyền nhân thân là
một quyền dân sự.
Hai là, quyền nhân thân gắn liền với giá trị tinh thần của các chủ thể.
Giá trị tinh thần được hiểu là toàn bộ hoạt động nội tâm của con người như ý
nghĩ, tình cảm,... Nói quyền nhân thân gắn liền với giá trị tinh thần của các
chủ thể bởi nó phát sinh trong hoạt động nội tâm của mỗi chủ thể.
Ba là, quyền nhân thân mang tính chất phi tài sản.
Như đã phân tích ở trên thì đối tượng của quyền nhân thân là những giá trị
tinh thần, do đó, không thể đo, đếm được bằng tiền. Chúng không phải là
những đại lượng tương đương và không thể trao đổi ngang giá. Mặc dù, có
một số quyền nhân thân gắn với tài sản nhưng bản chất của những quyền này
vẫn là quyền nhân thân, chỉ có điều khi những quyền này được xác lập nó sẽ
làm phát sinh quyền tài sản như: quyền cấp dưỡng, quyền tác giả, quyền sở
hữu công nghiệp,...
Bốn là, quyền nhân thân không thể chuyển giao, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác.
Điều này có nghĩa là, quyền nhân thân của mỗi cá nhân hay tổ chức phải do
chính cá nhân hoặc tổ chức đó thực hiện. Hay nói cách khác, quyền này
không thể là đối tượng của các giao dịch dân sự như tặng cho, mua bán, trao
đổi... Ví dụ, quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền đối với họ
tên,... Tuy nhiên, pháp luật cũng có một số trường hợp ngoại lệ như đối với
trường hợp công bố, phổ biến tác phẩm của tác giả, khi tác giả chết đi thì
quyền này có thể chuyển giao cho người thừa kế của tác giả. Mặc dù vậy,
những yếu tố luôn gắn liền với chủ thể như quyền đứng tên tác giả hay quyền
bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm thì không thể thay đổi hay chuyển giao được.
24
1.2.1.3. Hiệu lực của quyền nhân thân
Quyền nhân thân luôn gắn liền với đời sống tinh thần của mỗi chủ thể,
nó là đặc điểm nhận dạng của mỗi chủ thể. Do vậy, hiệu lực của quyền nhân
thân là tuyệt đối, nó có thể tồn tại kể cả sau cái chết của cá nhân, pháp nhân
và có thể thừa kế hoặc hiến tặng (mức độ khác nhau tùy thuộc vào thẩm
quyền và luật pháp của mỗi quốc gia). Chẳng hạn, một người bị bôi nhọ tên
tuổi sau khi chết và người thừa kế kiện yêu cầu bảo vệ danh dự, nhân phẩm
của người đó. Vậy, một câu hỏi đặt ra là trong trường hợp này người thừa kế
đó có quyền khởi kiện không khi người bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm đã
chết? Thực ra, nhân thân pháp lý của một người được xác lập khi người đó
sinh ra, nhưng không hẳn mất đi khi người đó chết. Cuộc sống xã hội mà một
người trải qua tạo ra những giá trị gắn liền với tên tuổi của người đó khi còn
sống; những giá trị ấy có thể tiếp tục tồn tại dù người đó không tồn tại nữa về
phương diện vật chất. Ta nói rằng, trong những trường hợp nhất định, nhân
thân pháp lý có thể thoát ra khỏi thân xác của người mang nhân thân đó để
tiếp tục là chỗ dựa của các quyền nhân thân của người này [20, tr.127].
1.2.2. Quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân
1.2.2.1. Khái niệm danh dự, nhân phẩm, uy tín
Theo từ điển tiếng Việt xuất bản năm 2006 của Nhà xuất bản Đà Nẵng
và Từ điển luật học xuất bản năm 2006 của Nhà xuất bản Tư pháp thì danh dự
của cá nhân được hiểu là sự coi trọng của dư luận xã hội, dựa trên giá trị tinh
thần và đạo đức tốt đẹp. Đây là một khái niệm rộng gắn liền với một cá nhân
xác định. Danh dự của con người không tự nhiên mà có, nó phải được hình
thành qua hoạt động thực tiễn. Như vậy, danh dự chính là sự suy tôn các tiêu
chuẩn đạo đức đối với con người, là một trong những yếu tố để khẳng định vị
25
trí, vai trò và uy tín của cá nhân đó trong xã hội.
Cũng theo từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 2006 của Nhà xuất bản Đà
Nẵng và Từ điển Luật học xuất bản năm 2006 của Nhà xuất bản Tư pháp thì
nhân phẩm là tổng hợp những phẩm chất mang tính đặc trưng của mỗi cá
nhân, là toàn bộ những yếu tố tạo nên giá trị của một con người.
Uy tín là sự tín nhiệm, mến phục và kính trọng của mọi người xung
quanh, của tập thể, cộng đồng đối với một cá nhân về một lĩnh vực nào đó
như phẩm chất đạo đức, nhân cách.
Từ những phân tích trên có thể thấy, danh dự, nhân phẩm và uy tín của
cá nhân là những yếu tố gắn liền với quyền nhân thân, phụ thuộc vào điều
kiện kinh tế, xã hội và quan điểm của thời đại lịch sử. Nếu như khái niệm
danh dự và uy tín có thể được dùng cho tổ chức hoặc cá nhân và được hình
thành, phát triển theo thời gian thì nhân phẩm lại là khái niệm chỉ dành cho cá
nhân và được hình thành kể từ thời điểm cá nhân đó được sinh ra và tồn tại
theo thời gian.
Đồng thời, danh dự, nhân phẩm và uy tín của mỗi cá nhân có mối quan
hệ gắn bó và tác động qua lại lẫn nhau. Danh dự có nội hàm rộng và ở một
góc độ là giá trị xã hội nó còn bao hàm cả nhân phẩm và uy tín. Nhân phẩm
của mọi người trong xã hội là ngang nhau, còn danh dự và uy tín của mỗi
người lại khác nhau tùy thuộc vào nhân cách, lối sống, thái độ ứng xử, tài
năng và đạo đức của họ. Mặc dù vậy, danh dự, nhân phẩm, uy tín của mọi
người trong xã hội đều được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng. Mọi hành
vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm và uy tín của cá nhân đều bị trừng trị
nghiêm khắc. Người có hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá
nhân phải chịu chế tài theo quy định của pháp luật.
26
1.2.2.2. Đặc điểm của danh dự, nhân phẩm, uy tín
Thứ nhất, danh dự, nhân phẩm và uy tín của cá nhân là những yếu tố
của quyền nhân thân. Do vậy, nó gắn liền với mỗi cá nhân và không thể
chuyển giao cho chủ thể khác vì bất cứ lý do gì. Đồng thời, danh dự, nhân
phẩm, uy tín của cá nhân cũng không phải là tài sản nên không thể quy đổi
thành tiền, không thể định giá hay là đối tượng để mua, bán, tặng, cho, đặt
cược, bảo lãnh trong các giao dịch dân sự. Bản thân nó không tự nhiên phát
sinh tài sản mà chỉ được bồi thường bằng tài sản khi có hành vi xâm phạm.
Thứ hai, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân nếu bị tổn thất thì
không thể khôi phục lại như tình trạng ban đầu. Khi có hành vi xâm phạm
danh dự, nhân phẩm, uy tín thì việc áp dụng các chế tài xử lý cũng chỉ nhằm
khắc phục hậu quả chứ không thể khôi phục lại như tình trạng ban đầu. Bởi lẽ,
nếu các loại tài sản thông thường khi bị thiệt hại thì hoàn toàn có thể thay thế
bằng một tài sản cùng loại khác hoặc có thể bồi thường bằng một loại tài sản
ngang giá là tiền thì riêng với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, như đã
nói ở trên, đây là yếu tố gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao, do
đó, khi có thiệt hại xảy ra không thể lấy danh dự, nhân phẩm, uy tín của người
khác ra để thay thế, bồi thường được mà chỉ có thể áp dụng các biện pháp
nhằm khắc phục phần nào thiệt hại.
Thứ ba, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân có đặc tính lịch sử. Có
thể thấy, ở mỗi hình thái kinh tế xã hội khác nhau hoặc trong một hình thái
kinh tế xã hội nhưng ở những giai đoạn lịch sử khác nhau thì quan điểm về
danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là khác nhau. Ví dụ: Nếu trước đây,
danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân không được coi trọng hoặc có rất ít
chế tài để xử lý đối với những hành vi xâm phạm thì ngày nay, vấn đề này đã
được pháp luật của các quốc gia trên thế giới chú trọng hơn rất nhiều. Đối với
27
những hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín có tính chất, mức độ
nghiêm trọng thì chủ thể gây thiệt hại ngoài việc phải bồi thường theo quy
định của pháp luật dân sự còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
1.2.2.3. Quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân vừa là quyền
con người, vừa là quyền nhân thân
Trước hết, quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là
quyền con người.
Nói như vậy bởi lẽ, từ nhiều năm trước đây, quyền này đã được pháp luật của
các quốc gia trên thế giới ghi nhận và bảo vệ. Kể cả trong Công ước quốc tế,
Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền là những văn bản có giá trị pháp lý cao nhất,
vấn đề này cũng đã được quy định rất rõ ràng. Cụ thể:
Tại Điều 17 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 có
ghi:
“1. Không ai bị can thiệp một cách độc đoán hoặc bất hợp pháp đến
đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xúc phạm bất hợp pháp
đến danh dự và uy tín.
2. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo hộ chống lại những can
thiệp hoặc xúc phạm như vậy.” [1, Điều 17]
Hay Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 cũng khẳng định:
“Không ai có thể bị xâm phạm một cách độc đoán vào đời tư, gia đình,
nhà ở, thư tín, hay bị xúc phạm đến danh dự hay thanh danh. Ai cũng có
quyền được luật pháp bảo vệ chống lại những xâm phạm ấy”. [2, Điều 12]
Cùng với đó, để đảm bảo quyền này được thực thi trên thực tế, pháp
luật Việt Nam cũng đã sớm có qui định về vấn đề này. Từ Hiến pháp năm
1980 đã quy định: “Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng,
tài sản, danh dự và nhân phẩm” [3, Điều 70]. Đến Hiến pháp năm 1992 lại
28
tiếp tục ghi nhận quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của công dân
tại Điều 71 “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp
luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm” [4, Điều 71].
Tiếp đến, Điều 20 Hiến pháp năm 2013 nhấn mạnh: “Mọi người có quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và
nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình
thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm” [5, Điều 20].
Đồng thời, quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín còn là một quyền
nhân thân quan trọng của mỗi cá nhân.
Đề cập đến việc bảo vệ danh dự và phẩm cách, nguyên tắc dân pháp
của Liên - Xô và các nước Cộng hòa liên bang có ghi: “Các công dân và tổ
chức có quyền kiện trước tòa án để cải chính những tin tức bôi nhọ danh dự
và phẩm cách của mình nếu những kẻ tung ra những tin tức đó không chứng
minh được là đúng với sự thực.
Nếu những tin tức đó được truyền bá trên báo chí thì trong trường hợp không
đúng với sự thực cũng phải được cải chính trên báo chí” [28, Điều 7].
Bên cạnh đó, dưới thời pháp luật phong kiến, Nhà nước ta cũng đã phần nào
ghi nhận việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân. Tuy vậy, phải
đến khi có sự ra đời của Bộ luật Dân sự năm 1995 thì quyền được bảo vệ
danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân mới chính thức được công nhận là
một quyền nhân thân riêng biệt. Theo đó, tại Điều 33 của Bộ luật này có quy
định:
“1. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng và được
pháp luật bảo vệ.
2. Không ai được xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của
29
người khác” [6, Điều 33]
Cùng với sự phát triển của xã hội, các quy định về quyền nhân thân cũng ngày
một hoàn thiện hơn, quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân
cũng không là ngoại lệ. Có thể thấy, tại Điều 34 Bộ luật Dân sự năm 2015,
quyền này được quy định khá cụ thể và chi tiết:
“1. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và
được pháp luật bảo vệ.
2. Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng
xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.
Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi cá
nhân chết theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường hợp không
có những người này thì theo yêu cầu của cha, mẹ của người đã chết, trừ
trường hợp luật liên quan có quy định khác.
3. Thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá
nhân được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng nào thì phải được
gỡ bỏ, cải chính bằng chính phương tiện thông tin đại chúng đó. Nếu thông
tin này được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ.
4. Trường hợp không xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu
đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền yêu
cầu Tòa án tuyên bố thông tin đó là không đúng.
5. Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm,
uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu
người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại.”
[8, Điều 34]
1.3. CƠ SỞ ÁP ĐẶT CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM DANH
30
DỰ, NHÂN PHẨM, UY TÍN CỦA CÁ NHÂN
Từ khái niệm danh dự, nhân phẩm, uy tín như đã phân tích ở trên, có
thể hiểu hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là hành vi
của một chủ thể làm cho người nào đó bị xúc phạm, bị coi thường, bị khinh rẻ
trong gia đình, tập thể, trong xã hội. Tùy thuộc vào vị thế, vai trò, nhiệm vụ,
tuổi tác của người bị thiệt hại mà mức độ của hành vi xâm phạm sẽ khác
nhau.
Theo đó, chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín
của cá nhân được hiểu là hậu quả pháp lý bất lợi mà một chủ thể phải gánh
chịu khi có những hành vi xúc phạm đến một cá nhân, khiến người đó bị gia
đình, xã hội xa lánh, coi thường, khinh rẻ, mà giữa chủ thể gây thiệt hại và
người bị thiệt hại trước đó không có giao kết hợp đồng.
Pháp luật mỗi quốc gia khác nhau, ở từng thời kỳ tùy vào đặc điểm, cấu
trúc, kỹ thuật pháp lý của mình sẽ xây dựng các cơ sở, điều kiện cho việc áp
đặt chế tài đối với hành xi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân
khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu pháp luật so sánh và lịch sử pháp luật cho
thấy, tuy có nhiều quy định khác nhau nhưng các quốc gia cũng chia sẻ một
số điều kiện chung để áp đặt chế tài dân sự đối với hành vi xâm phạm danh
dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân. Các điều kiện đó thường là: (1) có hành vi
xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân; (2) có thiệt hại vật chất
hoặc tinh thần xảy ra; (3) có quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại; (4) có
lỗi; và (5) không thuộc các trường hợp miễn trừ trách nhiệm.
Đơn cử như, theo quy định của Luật Hồng Đức (Quốc triều Hình luật),
điều kiện để áp đặt chế tài đối với chủ thể có hành vi gây thiệt hại đó là: có
31
tổn thất về vật chất, tổn thất về tinh thần và người gây thiệt hại có lỗi.
Tổn thất vật chất được hiểu là sự xâm phạm đến tính mạng con người,
tài sản. Theo đó, chủ thể có hành vi gây thiệt hại vừa phải chịu chế tài hình sự
(hình phạt) vừa phải bồi thường thiệt hại cho người bị xâm hại.
Ví dụ, Điều 29 Luật Hồng Đức quy định:
“Tiền đền mạng – nhất phẩm, tòng nhất phẩm được đền 15.000 quan;
nhị phẩm, tòng nhị phẩm 9.000 quan; tam phẩm, tòng tam phẩm 2.000
quan; lục phẩm, tòng lục phẩm 1.000 quan; thất phẩm, tòng thất thẩm
500 quan; bát phẩm đến cửu phẩm 300 quan; thứ nhân trở xuống 150
quan.” [23, Điều 29]
Tổn thất tinh thần là một sự xâm phạm vào các quyền lợi ngoại sản
nghiệp, các tình cảm hoặc các giá trị tinh thần hay luân lý như sự mất danh
giá hoặc lòng đau thương đối với nạn nhân [18, tr.478]. Vào thời Lê, những
quy định về bồi thường tổn thất tinh thần được đưa ra chủ yếu nhằm bảo vệ
quyền lợi cho một bộ phận có địa vị trong xã hội lúc bấy giờ. Chẳng hạn như
Điều 473 Luật Hồng Đức có quy định:
“Đồng bực hay thua bực mà lăng mạ quan tam phẩm thì xử biếm một
tư. Thua 2, 3 bực thì xử biếm hai tư. Không có chức quan thì xử đồ làm
khao đinh, phạt tiền tạ như luật. Lăng mạ quan tứ phẩm trở xuống mà
đồng bực hay thua bực thì luận tội theo thứ thượng giả, phẩm đồng cập
ti, các dĩ thứ luận. Nhược tam phẩm quan mạ ti nhứt đẳng, nhị đẳng
giả, biếm nhứt tư. Ti tam đẳng, chỉ luận tạ tiền. Tứ phẩm dị hạ mạ ti
giả, diệc dĩ thứ luận...” [23, Điều 473].
Bên cạnh đó, Luật Hồng Đức còn có các quy định về bồi thường tổn
thất tinh thần trong quan hệ hôn nhân và một số quan hệ xã hội cụ thể khác,
quy định này được áp dụng với tất cả mọi người trong xã hội. Điều 315 Luật
32
Hồng Đức quy định: “Nếu cha mẹ cô gái đã nhận sính lễ trong việc gả con
gái, sau đó lại từ chối gả con thì phải bồi thường thiệt hại về danh dự cho gia
đình người con trai đã có sính lễ đó”. [23, Điều 315]
Bên cạnh tổn thất vật chất và tổn thất tinh thần thì lỗi cũng là một yếu
tố không thể thiếu trong việc thành lập trách nhiệm. Để áp đặt chế tài cho một
chủ thể, pháp luật nhà Lê không chỉ xem xét đến thiệt hại mà còn quan tâm
đến việc hành vi đó gây ra trong hoàn cảnh như thế nào, nhận thức chủ quan
của chủ thể khi thực hiện hành vi gây tổn thất cho người khác ra sao. Chẳng
hạn, trong trường hợp người gây thiệt hại có lỗi cố ý thì tính nghiêm trọng của
nó tăng lên nhiều lần so với hành vi gây thiệt hại có lỗi vô ý, sơ ý. Theo đó,
chế tài áp dụng và khoản tiền bù đắp tổn thất khi phạm lỗi cố ý cũng lớn hơn
rất nhiều so với khi phạm lỗi vô ý. Có thể thấy, Quốc triều Hình luật quy định
về vấn đề này khá chặt chẽ, phần nào cho thấy sự đánh giá nghiêm khắc của
các nhà làm luật ngay cả trong lĩnh vực dân sự.
Nghiên cứu pháp luật của một số quốc gia trên thế giới khi quy định về
căn cứ phát sinh chế tài thấy có sự khác nhau. Chẳng hạn: Cộng hòa Pháp khi
xem xét căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường phải có ba điều kiện là: có
thiệt hại xảy ra; có một sự kiện (sự kiện cố ý hoặc không cố ý); có mối quan
hệ nhân quả giữa thiệt hại và sự kiện. Ở Liên bang Xô Viết cũ, việc xác định
trách nhiệm bồi thường dân sự chỉ phát sinh khi có các điều kiện sau: có xử sự
bất hợp pháp của đương sự, có mối quan hệ giữa xử sự bất hợp pháp và kết
quả xảy ra; có lỗi của đương sự. Ở Nhật Bản, việc xác định trách nhiệm căn
cứ vào rất nhiều yếu tố, bao gồm: có lỗi cố ý hay vô ý khi xảy ra thiệt hại; có
năng lực trách nhiệm (có phân biệt giữa hành vi của người chưa thành niên và
người ở trạng thái không có năng lực hành vi); tính trái pháp luật của hành vi
khi xâm phạm quyền và gây thiệt hại; phải phát sinh thiệt hại; có quan hệ
nhân quả thực tế giữa hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại và người
33
bị thiệt hại phải gánh chịu. [26, tr.20-tr.21]
Ở Anh, trách nhiệm dân sự đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, uy tín lại chỉ được áp dụng khi nguyên đơn chứng minh được ba yếu
tố: hành vi có tính chất phỉ báng; hành vi đề cập đến nguyên đơn và hành vi
được công bố. Hành vi xâm phạm đó có thể đề cập đến người bị thiệt hại một
cách trực tiếp hay gián tiếp, miễn là bên bị thiệt hại chứng minh được với một
người bình thường, duy lý khi đọc hay nghe các tuyên bố đó sẽ cho rằng
tuyên bố đó hướng đến mình. Không nhất thiết tất cả xã hội nói chung hay bất
kì người nào trong xã hội đều phải có nhận thức như vậy, chỉ cần những
người gần gũi hay biết nguyên đơn, khi đọc hay nghe tuyên bố xúc phạm có
nhận thức rằng tuyên bố đó đề cập đến nguyên đơn là đủ. [35, tr.9]
Trong một số trường hợp lỗi vô ý cũng có thể bị áp đặt chế tài. Như
trong vụ Newstead v London Express Newspaper Ltd (1940) khi Báo tin
nhanh London đã đăng tin hoàn toàn trung thực về một người tên là Newstead
sống ở Camberwell có quan hệ đa thê. Nhưng tại khu vực đó cũng có một
người tên là Newstead sinh sống và tờ báo lại không đăng đầy đủ địa chỉ của
ông Newstead có quan hệ đa thê để giúp phân biệt giữa những người này với
nhau. Do đó, tờ báo đã bị áp đặt trách nhiệm. [35, tr.9]
Về nguyên tắc, khi có thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra thì chủ
thể gây thiệt hại phải chịu chế tài. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên tham gia quan hệ dân sự, trong một số trường hợp đặc
biệt, pháp luật cho phép chủ thể gây thiệt hại được miễn trách nhiệm:
Một là, hành vi xâm phạm phản ánh đúng sự thật.
Điều 7 Nguyên tắc dân pháp của Liên – Xô và các nước Cộng hòa liên bang
có quy định: “Các công dân và tổ chức có quyền kiện trước tòa án để cải
chính những tin tức bôi nhọ danh dự và phẩm cách của mình nếu những kẻ
34
tung ra tin tức đó không chứng minh được là đúng với sự thực” [28, Điều 7].
Điều này có nghĩa là, trong trường hợp nếu người đưa ra tin tức đó chứng
minh được những tin tức mình đưa ra là đúng với sự thật thì sẽ không phải
chịu chế tài.
Trong một bài viết về Internet và chế định trách nhiệm dân sự đối với
hành vi xâm phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm: Kinh nghiệm của Vương quốc
Anh, TS. Trần Kiên có viết: Tuyên bố đưa ra phản ánh đúng sự thật khách
quan là sự biện hộ mạnh nhất cho một tuyên bố có khả năng xâm phạm uy tín,
danh dự của người khác. Bị đơn cần phải chứng minh rằng tuyên bố hay hành
vi của mình là đúng sự thật. Bị đơn không cần phải chứng minh từng chi tiết
trong tuyên bố của mình là đúng sự thật. Thay vào đó, bị đơn chỉ cần chứng
minh tuyên bố của mình khi nhìn nhận một cách tổng thể là phản ánh đúng sự
thật. Điều 5 Đạo luật về Hành vi xâm phạm uy tín, danh dự năm 1952 quy
định khi một tuyên bố chứa đựng nhiều hơn hai sự cáo buộc khác nhau đối
với nguyên đơn, thì bị đơn không cần phải chứng minh rằng mọi lời cáo buộc
đều là đúng sự thật, cho đến mức độ nếu lời cáo buộc không đúng sự thật
không gây ra tổn hại gì cho nguyên đơn và cáo buộc còn lại là đúng sự thật.
Quy định này đã được áp dụng trong án lệ nổi tiếng Gecas v Scottish
Television (1992) trong đó Scottish Television đã phát phóng sự đưa ra một
loạt cáo buộc khác nhau về sự tham gia của nguyên đơn Gecas vào nạn diệt
chủng người Do Thái trong Thế chiến thứ 2, một trong các cáo buộc đó là
không đúng sự thật nhưng nó không ảnh hưởng đến sự chính xác của các cáo
buộc khác và cũng không làm tăng thêm thiệt hại về uy tín, danh dự của
nguyên đơn. [35, tr.15-tr.16]
Hai là, hành vi xâm phạm là một bình luận hợp lý
Để được coi là một bình luận hợp lý, hành vi xâm phạm đó phải thỏa
35
mãn các yêu cầu sau:
+ Đối tượng bình luận là vấn đề có tính chất thuộc về lợi ích công cộng.
Ví dụ như chính quyền trung ương và địa phương, công đoàn, cảnh sát.
+ Từ ngữ trong tuyên bố phải là một sự bình luận chứ không phải là
trình bày tình tiết.
+ Tình tiết mà dựa vào đó bị đơn đưa ra bình luận phải là tình tiết phản
ánh sự thật khách quan. Nếu không phản ánh sự thật khách quan thì phải được
bảo vệ bởi sự biện hộ về Đặc quyền tuyệt đối hoặc Đặc quyền tương đối.
+ Bình luận đưa ra phải là sự thể hiện quan điểm một cách trung thực
và phù hợp của bị đơn.
+ Bình luận không được có tính ác ý. Bình luận được coi là có tính ác ý
khi người đưa ra bình luận không thật sự tin rằng bình luận là đúng sự
thật.[35, tr.16-tr.17]
Ba là, trong một số trường hợp, luật thấy rằng quyền tự do ngôn luận
quan trọng hơn sự bảo vệ về uy tín thì các hành vi xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, uy tín sẽ không phải chịu chế tài. Đó là:
+ Các tuyên bố được đưa ra bởi các thành viên Hạ viện và Thượng viện
tại Quốc hội hoặc các tuyên bố đưa ra trong các báo cáo của Quốc hội.
+ Bất kì một báo cáo nào đã được xuất bản bởi Quốc hội và sau đó
được tái bản bởi một người khác.
+ Bất kì tuyên bố nào được đưa ra bởi các bộ trưởng và các thành viên
khác của chính phủ về những thành viên chính phủ khác trong quá trình thực
hiện công vụ của mình.
+ Tuyên bố được đưa ra bởi vợ hoặc chồng về người còn lại.
+ Các tuyên bố được đưa ra bởi các nhân viên và các công chức khác
của Liên minh Châu Âu trong khi thực hiện công vụ.
+ Các tuyên bố được đưa ra trong quá trình tố tụng bởi thẩm phán, nhân
36
chứng, luật sư và các đương sự.
+ Việc đưa tin chính xác và trung thực của báo chí trong quá trình tố
tụng tại tòa.[35, tr.17]
Tuy nhiên, pháp luật chỉ bảo vệ hành vi xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, uy tín của người đưa ra tuyên bố, còn việc một người khác đăng tải lại
37
tuyên bố đó lại không được bảo vệ.
CHƢƠNG 2
QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ
CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM DANH DỰ,
NHÂN PHẨM, UY TÍN CỦA CÁ NHÂN
2.1. QUYỀN ĐỐI VỚI DANH DỰ, NHÂN PHẨM, UY TÍN CỦA CÁ
NHÂN THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là một
quyền hiến định. Tuy nhiên, BLDS năm 2005 chỉ có một điều luật quy định
rất ngắn gọn về vấn đề này:“Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được
tôn trọng và được pháp luật bảo vệ” [7, Điều 37]
Kể từ khi BLDS năm 2015 ra đời, quyền được bảo vệ danh dự, nhân
phẩm, uy tín của cá nhân đã được quy định cụ thể, chi tiết hơn rất nhiều. Theo
đó, tại Điều 34 BLDS năm 2015 chỉ rõ:
“1. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và
được pháp luật bảo vệ.
2. Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng
xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.
Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi
cá nhân chết theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường
hợp không có những người này thì theo yêu cầu của cha, mẹ của người
đã chết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
3. Thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá
nhân được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng nào thì phải
38
được gỡ bỏ, cải chính bằng chính phương tiện thông tin đại chúng đó.
Nếu thông tin này được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được
hủy bỏ.
4. Trường hợp không xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu
đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền
yêu cầu Tòa án tuyên bố thông tin đó là không đúng.
5. Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm,
uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu
cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường
thiệt hại.” [8, Điều 34]
Mặc dù BLDS năm 2015 có đưa ra nhiều quy định về xác định thiệt hại
và trách nhiệm bồi thường đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy
tín của cá nhân, tuy nhiên lại không có bất kỳ một điều khoản nào định nghĩa
cụ thể thế nào là “danh dự”, “nhân phẩm”, “uy tín”. Do đó, thực tiễn áp dụng
pháp luật hiện nay vẫn sử dụng những khái niệm này theo cách hiểu thông
thường.
Theo quy định tại Điều 34 BLDS năm 2015 thì trong trường hợp có căn
cứ chứng minh có thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy
tín của mình, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ những thông tin đó.
Thậm chí, ngay cả khi cá nhân chết quyền này vẫn được bảo vệ tuyệt đối. Vợ,
chồng hoặc con đã thành niên có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ những thông
tin gây ảnh hưởng xấu đến danh dự của người đã chết; trường hợp người đã
chết không có vợ, chồng hoặc con cái thì cha, mẹ của người này sẽ là người
có quyền yêu cầu.
Trường hợp thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín
của cá nhân được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo
39
chí, đài truyền hình, đài phát thanh,... thì chính phương tiện đăng tải những
thông tin đó sẽ phải có trách nhiệm gỡ bỏ và cải chính. Trong trường hợp
thông tin này được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ để
chấm dứt mọi sự đe dọa đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân sau này.
Đáng chú ý, BLDS năm 2015 cho phép trong trường hợp không xác
định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín
của mình thì người bị đưa tin có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thông tin đó
là không đúng. Có thể thấy, đây là một quy định khá tiến bộ của BLDS năm
2015. Bởi lẽ, trên thực tế những tin đồn thường lan truyền với tốc độ hết sức
nhanh chóng, đặc biệt trong thời đại mạng xã hội phát triển mạnh mẽ như
hiện nay, một thông tin thu hút trên facebook có thể được hàng trăm nghìn
lượt chia sẻ và để truy tìm nơi phát tán thông tin đầu tiên không phải là điều
dễ dàng. Từ quy định này có thể thấy, vấn đề mà pháp luật nước ta ưu tiên
quan tâm hàng đầu là danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân chứ không phải
là chuyện truy cứu trách nhiệm của kẻ có hành vi xâm phạm. Khi có bản án,
quyết định của Tòa án tuyên bố thông tin đó là không đúng thì danh dự, nhân
phẩm, uy tín của cá nhân sẽ được đảm bảo, cuộc sống thường ngày sẽ không
bị ảnh hưởng.
Bên cạnh đó, ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu
đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì cá nhân bị thiệt hại còn có quyền
yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải xin lỗi, cải chính công khai và bồi
thường thiệt hại.
2.2. CÁC LOẠI CHẾ TÀI DÂN SỰ ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM
DANH DỰ, NHÂN PHẨM, UY TÍN CỦA CÁ NHÂN THEO PHÁP
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
Quyền nhân thân nói chung và quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy
40
tín của cá nhân nói riêng là quyền dân sự được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Theo quy định mới sửa đổi, bổ sung tại BLDS năm 2015, mỗi khi các quyền
về nhân thân của mình bị xâm phạm, các cá nhân có thể lựa chọn những biện
pháp để bảo vệ các quyền này bằng cách yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác:
(1) Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo quyền dân sự của mình
Như đã nói ở trên, quyền dân sự là quyền của cá nhân. Theo đó, nếu cá
nhân nhận thấy có dấu hiệu vi phạm đến quyền dân sự của mình thì có quyền
yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận, tôn trọng và thực hiện
các biện pháp bảo vệ quyền dân sự của mình một cách hợp pháp nhằm đảm
bảo tối đa quyền và lợi ích của mình. Đây được coi là phương thức cơ bản
nhất bởi lẽ ngay từ khi cá nhân có quyền dân sự và quyền dân sự đó được
pháp luật công nhận thì các chủ thể có liên quan phải công nhận, tôn trọng,
bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của cá nhân đó.
(2) Buộc chấm dứt hành vi vi phạm
Nếu như ở phương thức thứ nhất, cá nhân bằng quyền của mình yêu
cầu các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ cho quyền lợi hợp pháp của
mình thì ở phương thức thứ hai này cá nhân bằng tư cách của chính mình yêu
cầu bên có hành vi trái pháp luật buộc phải chấm dứt hành vi vi phạm. Có thể
thấy, đây là biện pháp đầu tiên mà hầu hết các chủ thể bị xâm phạm quyền
đều áp dụng trước khi sử dụng đến các biện pháp khác. Tuy nhiên, việc áp
dụng biện pháp này thông thường chỉ có hiệu quả trong trường hợp người có
hành vi xâm phạm quyền nhân thân sớm nhận thức được hành vi trái pháp
luật của họ. Trường hợp nếu người có hành vi xâm phạm quyền nhân thân
không nhận thức được hành vi trái pháp luật của họ thì người có quyền nhân
thân bị xâm phạm phải áp dụng biện pháp bảo vệ khác mới bảo vệ được
41
quyền nhân thân của mình.
Ví dụ: Báo Dân trí ngày 15/6/2016 có đưa tin vụ kiện đòi bồi thường
thiệt hại do bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín trên Facebook giữa bà
NT (ngụ quận 4) và ông TGN (ngụ quận 2).
Bản án tại tòa ghi nhận phía nguyên đơn cho là ông N. đã dùng một Facebook
có nickname không trùng tên ông đăng các thông tin thô tục, mô tả quan hệ ân
ái đôi bên sau khi chia tay. Sau đó, ông N. còn tiếp tục đăng bốn ảnh cảnh ân
ái giữa hai bên. Tất cả chia sẻ trên Facebook này đều ở chế độ công cộng.
Cho là bị xúc phạm danh dự, uy tín nghiêm trọng, bà T. yêu cầu ông N. phải
xin lỗi, cải chính trên báo. Ông N. đồng ý xin lỗi trực tiếp nhưng không đăng
trên báo cũng như không cải chính. Vì nội dung đó là có thật khi hai người
quan hệ với nhau.
Theo tòa, đây là các thông tin tình cảm riêng tư cần phải được tôn trọng
và bảo vệ. Việc ông N. tự ý tung các tư liệu này không được sự đồng ý của bà
T. là có lỗi. Ngày 7-1, TAND quận 2 sau khi xử đã tuyên buộc phía bị đơn -
ông N. chấm dứt hành vi truyền đưa, lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe
dọa, xúc phạm nhân phẩm, uy tín của nguyên đơn. Bên cạnh đó, ông N. có
trách nhiệm xin lỗi trực tiếp tại chi cục thi hành án có thẩm quyền và kết quả
sẽ được thông báo, đưa tin công khai. Ngoài ra, tòa buộc ông N. phải bồi
thường chi phí cần thiết lập vi bằng làm bằng chứng của bà T. cũng như tổn
thất tinh thần tổng cộng 39,2 triệu đồng. [39]
(3) Buộc xin lỗi, cải chính công khai
Biện pháp này mặc dù không mang lại cho chủ thể bị thiệt hại một lợi
ích vật chất nào nhưng lại có ý nghĩa rất lớn trong việc bù đắp những tổn thất
về tinh thần do hành vi trái pháp luật mà chủ thể khác gây ra. Theo đó, người
gây thiệt hại có thể thực hiện bằng lời nói trước Hội đồng xét xử và người bị
thiệt hại hoặc có thể xin lỗi, cải chính công khai trên báo chí, các phương tiện
42
thông tin đại chúng nhằm đính chính lại những thông tin sai lệch, khôi phục
và đảm bảo được phần nào danh dự, uy tín cho chủ thể bị xâm phạm. Đây là
biện pháp trên thực tế chưa được áp dụng nhiều. Trong điều kiện xã hội hiện
nay, với sự phát triển của các phương tiện truyền thông ngày càng rộng rãi thì
hình thức xin lỗi, cải chính công khai thực sự phát huy được tác dụng của nó
ở nhiều khía cạnh. Biện pháp này đôi khi có thể có ý nghĩa hơn cả việc người
gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị xâm phạm.
Để bảo vệ quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, Luật
báo chí năm 2016 cũng có quy định chi tiết về việc xin lỗi, đăng tin cải chính
khi có sự vi phạm và yêu cầu từ phía chủ thể bị xâm phạm. Theo đó:
“Cơ quan báo chí thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm
danh dự, nhân phẩm của cá nhân thì phải đăng, phát lời cải chính, xin
lỗi trên báo chí và thông báo cho cá nhân đó.
Đối với báo chí điện tử, ngoài việc đăng, phát lời cải chính, xin lỗi còn
phải gỡ bỏ ngay thông tin sai sự thật đã đăng, phát nhưng phải lưu giữ
nội dung thông tin trên máy chủ để phục vụ công tác thanh tra, kiểm
tra theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 52 của Luật này.
Khi có văn bản kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về vụ
việc mà báo chí đã đăng, phát là sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc
phạm danh dự, nhân phẩm của cá nhân thì cơ quan báo chí phải đăng,
phát phần nội dung kết luận đó và nội dung cải chính, xin lỗi của cơ
quan báo chí, của tác giả tác phẩm báo chí.
Lời xin lỗi của cơ quan báo chí, tác giả tác phẩm báo chí được đăng,
phát liền sau nội dung thông tin cải chính.” [11, Điều 42]
Ví dụ: Ngày 19/6/2018, Báo điện tử VietNamNet đăng tải bài "Chủ
tịch nước: Sẽ báo cáo Quốc hội về Luật Biểu tình", trong đó có đoạn viết:
"Trước kiến nghị của cử tri về Luật Biểu tình, Chủ tịch nước Trần Ðại Quang
43
đồng ý rằng cần Luật Biểu tình và sẽ báo cáo Quốc hội về nội dung này".
Trên thực tế, tại buổi tiếp xúc cử tri ở TP. Hồ Chí Minh ngày 19/6, Chủ tịch
nước Trần Đại Quang không phát biểu như nội dung thông tin báo đã nêu. Tối
19/7, Báo điện tử VietNamNet đã phải đăng thông tin cải chính và gửi lời xin
lỗi Chủ tịch nước Trần Ðại Quang cùng bạn đọc.[40]
Bên cạnh đó, Điều 31 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm
2017 có quy định:
“Người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự, công chức bị xử lý
kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật, người bị áp dụng các biện pháp xử
lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ
sở cai nghiện bắt buộc trái pháp luật thì được phục hồi danh dự”.[13,
Điều 31]
Theo đó, tùy từng trường hợp cụ thể, việc phục hồi danh dự của người bị thiệt
hại được thực hiện dưới các hình thức như: trực tiếp xin lỗi, đăng báo xin lỗi
hoặc cải chính công khai. (Điều 56 Mục 3 Luật trách nhiệm bồi thường của
nhà nước năm 2017)
Ví dụ: Ngày 17/4/2015, báo Công lý có đưa tin về việc Tòa phúc thẩm
TANDTC tại Hà Nội đã tổ chức “Buổi công khai xin lỗi cải chính đối với
người bị kết án oan là ông Nguyễn Thanh Chấn theo Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước”.
Tại buổi công khai xin lỗi ông Nguyễn Thanh Chấn, sinh năm 1961, trú tại
thôn Me, xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang có sự tham gia
trực tiếp của ông Nguyễn Thanh Chấn; đại diện TAND, VKSND, Công an
tỉnh Bắc Giang; đại diện UBND, Mặt trận Tổ quốc xã Nghĩa Trung; đại diện
thôn Me; đại diện gia đình ông Nguyễn Thanh Chấn và nhân dân địa
44
phương…
Thay mặt Toà phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội, ông Ngô Hồng Phúc, Phó
Chánh tòa đã tóm tắt quá trình tiến hành tố tụng đối với ông Nguyễn Thanh
Chấn.
Theo đó, khoảng 22h ngày 15/8/2003, chị Nguyễn Thị Hoan bị giết hại tại nhà
ở thôn Me, xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Sau khi nhận
được tin báo, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đã tiến hành
điều tra vụ án và ngày 17/8/2003 đã khởi tố vụ án hình sự; đến ngày
28/9/2003 đã khởi tố bị can đối với ông Nguyễn Thanh Chấn. Quá trình điều
tra vụ án, Cơ quan điều tra tỉnh Bắc Giang đã kết luận và VKSND tỉnh Bắc
Giang đã có cáo trạng truy tố Nguyễn Thanh Chấn về tội Giết người theo
Điều 93 Bộ luật Hình sự.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 45/HSST ngày 26/3/2004, TAND tỉnh Bắc
Giang đã áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93; điểm o khoản 1, khoản 2 Điều 46;
Điều 34 Bộ luật Hình sự, xử phạt ông Nguyễn Thanh Chấn tù chung thân về
tội “Giết người” và buộc ông Chấn phải bồi thường cho gia đình người bị hại
số tiền là 35.000.000 đồng.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Nguyễn Thanh Chấn có đơn kháng cáo kêu oan.
Tại bản án hình sự phúc thẩm số 1241/PTHS ngày 27/7/2004, Tòa phúc thẩm
TANDTC tại Hà Nội đã bác kháng cáo kêu oan của ông Nguyễn Thanh Chấn,
hủy phần quyết định của Bản án sơ thẩm về khoản cấp dưỡng cho con của
người bị hại để điều tra, xét xử lại.
Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Nguyễn Thanh Chấn và gia đình ông tiếp tục
có nhiều đơn kêu oan gửi đến các cơ quan, ban ngành ở Trung ương và địa
phương. Quá trình xem xét Đơn kêu oan của ông Nguyễn Thanh Chấn, cơ
45
quan điều tra có căn cứ cho rằng người giết chị Nguyễn Thị Hoan không phải
Nguyễn Thanh Chấn mà là Lý Nguyễn Chung (con trai ông Lý Văn Chúc)
cùng trú tại thôn Me, xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
Ngày 04/11/2013, Viện trưởng VKSNDTC có Kháng nghị tái thẩm số
01/QĐ-VKSTC-V3, kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm số 1241/PTHS
ngày 27/7/2004 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội, đề nghị Hội đồng
Thẩm phán TANDTC xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy các quyết định
của Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên và Bản án hình sự sơ thẩm số
45/HSST ngày 26/3/2004; Bản án hình sự phúc thẩm số 166/HSPT ngày
02/3/2005 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội; Bản án hình sự sơ thẩm
số 145/HSST ngày 30/9/2004 của TAND tỉnh Bắc Giang đối với ông Nguyễn
Thanh Chấn để điều tra lại vụ án.
Tại Quyết định tái thẩm số 18/2013/HS-TT ngày 06/11/2013, Hội đồng Thẩm
phán TANDTC nhận định: Căn cứ vào đơn tố cáo của bà Nguyễn Thị Chiến
(là vợ của ông Nguyễn Thanh Chấn) cho rằng người giết chị Nguyễn Thị
Hoan là Lý Nguyễn Chung (con trai ông Lý Văn Chúc) cùng trú tại thôn Me,
xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, Cục Điều tra VKSNDTC
đã tiến hành xác minh về nguồn tin trên. Hội đồng thẩm phán TANDTC thấy
bản tự thú, lời khai của Lý Nguyễn Chung, lời khai của bà Nguyễn Thị Lành
(mẹ kế của Chung), lời khai của chị Hoàng Thị Xướng có thể làm thay đổi cơ
bản nội dung của vụ án. Vì vậy, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã quyết
định hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 1241/PTHS ngày 27/7/2004 của Tòa
phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội và Bản án hình sự sơ thẩm số 45/HSST ngày
26/3/2004 của TAND tỉnh Bắc Giang đối với ông Nguyễn Thanh Chấn;
chuyển hồ sơ vụ án cho VKSNDTC để điều tra lại theo thủ tục chung.
Sau khi nhận lại hồ sơ vụ án, cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã tiến
46
hành điều tra lại vụ án. Ngày 25/01/2014, cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công
an đã có quyết định đình chỉ điều tra bị can số 01/C44-P3 đối với ông Nguyễn
Thanh Chấn do có đủ căn cứ kết luận ông Nguyễn Thanh Chấn không thực
hiện hành vi phạm tội giết chị Nguyễn Thị Hoan.
Đến ngày 17/4/2015, tại trụ sở UBND xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh
Bắc Giang, thay mặt các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành
tố tụng trong vụ án này, Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội đã chính thức
xin lỗi, cải chính công khai đối với ông Nguyễn Thanh Chấn là người bị kết
án oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Cùng
với việc trực tiếp xin lỗi, cải chính công khai đối với ông Nguyễn Thanh
Chấn, Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội sẽ tiến hành việc đăng tin xin lỗi,
cải chính công khai trong 3 số liên tiếp trên Báo Công lý và Báo tỉnh Bắc
Giang. [41]
(4) Buộc thực hiện các nghĩa vụ
Là việc cá nhân có quyền yêu cầu bên chủ thể có nghĩa vụ phải thực
hiện đúng theo những gì mà hai bên đã giao kết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
Tuy nhiên, đối với những hành vi xâm phạm quyền nhân thân nói
chung và quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín nói riêng, do giữa hai chủ
thể trước đó không tồn tại nghĩa vụ nên chế tài này rất ít khi và khó được tòa
án áp dụng trong việc xử lý vi phạm. Ví dụ gần nhất có thể tìm thấy được là
trường hợp buộc người có hành vi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại.
(5) Buộc bồi thường thiệt hại
Khoản 5 Điều 34 BLDS năm 2015 khi quy định về quyền được bảo vệ
danh dự, nhân phẩm, uy tín có ghi:
“Cá nhân bị thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín... còn
47
có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin bồi thường thiệt hại” [8, Điều 34]
Như vậy, trong trường hợp người có hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm,
uy tín gây ra thiệt hại cho cá nhân thì cá nhân đó có quyền yêu cầu người gây
thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường. Hai bên sẽ căn cứ vào những thiệt
hại thực tế xảy ra để yêu cầu bồi thường một cách hợp pháp và hợp lý. Theo
đó:
“1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm được
xác định bao gồm:
a, Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
b, Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
c, Thiệt hại khác do luật quy định”
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm,
uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại
khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà
người đó gánh chịu” [8, Điều 592]
Từ quy định trên, có thể thấy thiệt hại do bị xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, uy tín của cá nhân được xác định gồm: thiệt hại về vật chất và thiệt hại
về tinh thần. Cho đến nay, vẫn chưa có hướng dẫn từ Tòa án nhân dân tối cao
về việc xác định thiệt hại trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá
nhân bị xâm phạm, do vậy, thực tiễn hiện nay khi xét xử Tòa án vẫn dựa vào
những căn cứ trong Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy
định của BLDS năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Theo khoản 2 Điều 361 BLDS năm 2015 thì thiệt hại về vật chất được
hiểu là “tổn thất vật chất thực tế xác định được”, bao gồm:
Các chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại
Thực tế cho thấy, các hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm và uy tín
48
được thể hiện bằng việc dùng lời lẽ có tính chất miệt thị, thiếu văn hóa hay có
những hành động có tính chất thóa mạ để lăng nhục, hạ thấp nhân cách làm
giảm sự tôn trọng, tín nhiệm của những người xung quanh; hoặc cũng có thể
là những trường hợp loan truyền tin bịa đặt sai sự thật dù vô tình hay hữu ý
làm cho người đó phải xấu hổ với những người xung quanh, xúc phạm đến
danh dự, nhân phẩm, uy tín của các chủ thể [27, tr.42-tr.43]. Nhằm khắc phục
phần nào những thiệt hại xảy ra, pháp luật cho phép cá nhân bị thiệt hại có
quyền yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu tòa án buộc người vi phạm chấm
dứt hành vi vi phạm như xin lỗi, cải chính công khai hoặc tự mình cải chính
trên các phương tiện thông tin đại chúng. Do đó, chi phí hợp lý để hạn chế,
khắc phục thiệt hại được hiểu là: “chi phí cần thiết cho việc thu hồi ấn phẩm
có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị thiệt hại; chi
phí cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh danh dự, nhân phẩm, uy
tín bị xâm phạm; tiền tàu, xe đi lại, thuê nhà trọ (nếu có) theo giá trung bình
ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí để yêu cầu cơ quan chức năng xác
minh sự việc, cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng; chi phí tổ
chức xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người bị
thiệt hại và các chi phí thực tế, cần thiết khác để hạn chế, khắc phục thiệt hại
(nếu có)”. [14, Tiểu mục 3.1 mục 3 Phần II]
Cần lưu ý rằng, theo hướng dẫn tại Nghị quyết thì các chi phí ở đây phải là
những “chi phí cần thiết”, tức là các chi phí chỉ ở mức trung bình, không quá
tốn kém so với bình thường, phải liên quan trực tiếp đến hành vi gây thiệt hại.
Ví dụ, sau thời gian diễn ra hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín,
người bị thiệt hại đi đường gặp tai nạn phải nằm viện thì những chi phí khi
người đó phải nằm viện do tai nạn này gây ra không được coi là chi phí hợp
lý để buộc người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín phải bồi thường.
49
Việc quy định như vậy góp phần đảm bảo cho việc xác định thiệt hại được
khách quan, hợp lý, tránh tình trạng phía người bị thiệt hại lợi dụng việc bồi
thường mà gây khó khăn cho người phải bồi thường.
Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút
Nếu trước khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, người bị thiệt
hại có thu nhập thực tế, nhưng do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
mà người bị xâm phạm phải thực hiện những công việc để hạn chế, khắc phục
thiệt hại, nên khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ sẽ
được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP thì thu nhập thực tế
của người bị thiệt hại được xác định như sau:
- Nếu trước khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, người bị thiệt
hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng
lao động, thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định bằng tiền
lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó bị xâm phạm danh dự,
nhân phẩm, uy tín nhân với thời gian phải thực hiện những công việc để hạn
chế khắc phục thiệt hại.
- Nếu trước khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, người bị
thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập
của các tháng khác nhau, thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác
định bằng mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng
thì của tất cả các tháng) trước khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
nhân với thời gian phải thực hiện những công việc để hạn chế khắc phục thiệt
hại.
- Nếu trước khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, người bị thiệt
hại có thu nhập thực tế, nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì
50
thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định bằng mức thu nhập
trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian phải thực hiện những
công việc để hạn chế khắc phục thiệt hại.
- Nếu trước khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, người bị thiệt
hại chưa làm việc và chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường.
Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại được
thực hiện như sau:
Bước một: Xác định thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trong thời gian
phải thực hiện những công việc để hạn chế khắc phục thiệt hại có hay không.
Nếu có thì tổng số thu nhập là bao nhiêu?
Bước hai: Lấy tổng số thu nhập thực tế mà người bị thiệt hại có được trong
thời gian phải thực hiện những công việc để hạn chế khắc phục thiệt hại so
sánh với thu nhập thực tế tương ứng. Nếu trong thời gian phải thực hiện
những công việc để hạn chế khắc phục thiệt hại mà người bị thiệt hại không
có khoản thu nhập thực tế nào thì thu nhập thực tế của người đó bị mất; nếu
thấp hơn thì khoản chênh lệch đó là thu nhập thực tế bị giảm sút; nếu bằng thì
thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không bị mất. [14, tiểu mục 1.2 Mục 1
phần II]
Ví dụ 1: A làm nghề kinh doanh tự do. Thu nhập thực tế của A trước khi danh
dự bị xâm phạm ổn định, trung bình mỗi tháng là 10 triệu đồng. Do danh dự
bị xâm phạm, A phải thực hiện những công việc để hạn chế, khắc phục thiệt
hại nên không có khoản thu nhập nào. Trong trường hợp này thu nhập thực tế
của A bị mất.
Ví dụ 2: B làm công cho một công ty trách nhiệm hữu hạn. Thu nhập thực tế
của B trước khi danh dự bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là 8
triệu đồng. Do danh dự bị xâm phạm, B phải thực hiện những công việc để
51
hạn chế, khắc phục thiệt hại và trong thời gian đó công ty trả cho B 50% tiền
lương là 4 triệu đồng. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của B mỗi tháng
bị giảm sút 4 triệu đồng.
Ví dụ 3: C là công chức của một UBND phường có thu nhập hàng tháng ổn
định là 5 triệu đồng. Do danh dự bị xâm phạm, C phải thực hiện những công
việc để hạn chế, khắc phục thiệt hại và trong thời gian đó cơ quan vẫn trả đủ
các khoản thu nhập cho C. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của C
không bị mất.
Thiệt hại khác do pháp luật quy định
BLDS năm 2015 đã bổ sung quy định “thiệt hại khác do luật quy định”.
Thực tế cho thấy có rất nhiều thiệt hại phát sinh mà pháp luật hiện hành chưa
thể dự liệu hết được. Do đó, BLDS năm 2015 đưa ra qui định này là hoàn
toàn hợp lý. Đây có thể xem là một quy định mang tính dự phòng và mang
tính hướng dẫn tới văn bản khác.
Bên cạnh việc bồi thường những tổn thất vật chất, người có hành vi
xâm phạm còn phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh
thần mà người bị thiệt hại phải gánh chịu. Về thực chất, khoản tiền bồi thường
này không chỉ mang ý nghĩa vật chất thuần túy mà còn mang ý nghĩa an ủi,
động viên người bị tổn thất, làm dịu bớt nỗi đau và những thiệt hại về tinh
thần mà họ phải gánh chịu, đồng thời cũng có tác dụng giáo dục, phòng ngừa
người có hành vi vi phạm.
“Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại phải chịu buồn phiền, bị
giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm” [14, điểm b,
tiểu mục 1.1, mục 1, phần I]
Cũng theo quy định tại Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP thì khoản tiền bù
đắp tổn thất về tinh thần này được bồi thường cho chính người bị xâm phạm.
52
Pháp luật dân sự nói chung và pháp luật bồi thường thiệt hại do xâm phạm
danh dự, nhân phẩm, uy tín nói riêng đều tôn trọng việc thỏa thuận giữa các
bên. Do đó, trong trường hợp các bên có thể thỏa thuận được về mức bồi
thường thì tòa án sẽ tôn trọng thỏa thuận đó. Luật không giới hạn mức bồi
thường tổn thất tinh thần cho trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín là bao
nhiêu, có thể là vài trăm nghìn, vài triệu đồng hay đơn giản chỉ là một lời nói
xin lỗi mà không cần phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường bằng tiền. Tuy
nhiên, trên thực tế không phải lúc nào người gây thiệt hại và người bị thiệt hại
cũng có thể thỏa thuận được với nhau về mức bồi thường vì quyền và lợi ích
của họ là đối lập nhau. Do đó, trong trường hợp này, pháp luật đã ấn định một
mức trần cao nhất cho trường hợp xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của
cá nhân là “không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định” [8,
khoản 2 Điều 592]. Đây là điểm mới đáng lưu ý của BLDS năm 2015, thay vì
quy định “mức tối đa không quá mười tháng lương tối thiểu” như trước đây,
nay đã được sửa đổi thành “mức tối đa không quá mười lần mức lương cơ
sở”. Có thể thấy, quy định này là hợp lý, bởi lẽ trước thời điểm ngày
01/7/2013 chưa có khái niệm “mức lương cơ sở” mà chỉ tồn tại khái niệm
“mức lương tối thiểu chung” và “mức lương tối thiểu vùng”. Do đó, tại thời
điểm này, mức lương tối thiểu chung được dùng làm căn cứ để xác định mức
bù đắp tổn thất về tinh thần. Tuy nhiên, từ ngày 01/7/2013, khái niệm “mức
lương cơ sở” được dùng thay thế khái niệm “mức lương tối thiểu chung” quy
định tại các văn bản về chế độ tiền lương và các chế độ khác có liên quan đến
tiền lương của cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, quy định này vẫn chưa
thực sự rõ ràng bởi vì chưa đưa ra được căn cứ áp dụng với từng trường hợp
cụ thể (ví dụ: mức tối thiểu là bao nhiêu,...) [29, tr.47]
Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào nhiều yếu tố như:
vị trí, vai trò của người bị thiệt hại trong mối quan hệ với người thân và với
53
xã hội; hình thức xâm phạm bằng lời nói hay đăng trên báo viết, báo hình;
tính chất, mức độ của hành vi xâm phạm; mức độ lan truyền thông tin xúc
phạm; số lượng người xâm phạm; thời gian chịu thiệt hại diễn ra dài hay
ngắn; ....
Điều 585 BLDS năm 2015 chỉ rõ: “Thiệt hại thực tế phải được bồi thường
toàn bộ và kịp thời” [8, Điều 585]. Bồi thường “toàn bộ” được hiểu là bồi
thường tất cả các thiệt hại vật chất đã xảy ra, “kịp thời” là bồi thường đúng
lúc người bị thiệt hại đang cần dùng vào việc hạn chế khắc phục thiệt hại.
BLDS năm 2015 đưa ra quy định: “Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và
thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình” [8, khoản 2 Điều 585].
Như vậy, so với BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 đã mở rộng chủ thể có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi quy định “người chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại” thay cho “người gây thiệt hại” như trước đây. Bởi trong một
số trường hợp, người gây thiệt hại và người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại có thể là hai chủ thể khác nhau như cha, mẹ bồi thường thiệt hại cho con
chưa thành niên; người sử dụng người làm công bồi thường cho người làm
công.
Thêm vào đó, BLDS năm 2015 cũng bổ sung hai nguyên tắc bồi thường thiệt
hại đó là:
“Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường
phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra”
Đồng thời, người bị thiệt hại sẽ “không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra
do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt
hại cho chính mình” [8, khoản 4, khoản 5 Điều 585]. Điểm mới này là sự tiến
bộ so với BLDS năm 2005 khi đã cụ thể hóa nguyên tắc thiện chí, trung thực
54
của pháp luật dân sự được quy định tại khoản 3 Điều 3 BLDS năm 2015.
Người bị thiệt hại không thể để thiệt hại trầm trọng hơn khi họ có thể hạn chế
được, người bị xâm phạm có khả năng hạn chế thiệt hại mà không hạn chế
thiệt hại là “không thiện chí” . Thực tiễn xét xử ở Việt Nam và nhiều hệ thống
pháp luật nước ngoài cũng như luật thương mại của chúng ta hiện nay đã theo
hướng, buộc người bị thiệt hại có trách nhiệm hạn chế thiệt hại khi có thể; khi
có thể hạn chế thiệt hại mà người bị thiệt hại không hạn chế thì họ không
xứng đáng được bồi thường đối với khoản thiệt hại đáng ra được hạn chế. [29,
tr.18-tr.19]
Ví dụ: Ngày 06/11/2017, Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ
Chí Minh tổ chức xét xử vụ tranh chấp dân sự về bồi thường thiệt hại cho
người bị kết án oan trong hoạt động tố tụng hình sự giữa nguyên đơn là bà
Phan Thị Tuyết L và bị đơn là Tòa án nhân dân huyện TM, tỉnh Đồng Tháp.
Theo nội dung bản án, bà Phan Thị Tuyết L có trình bày:
Ngày 27/7/1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 652/QĐ-TTg
về việc giao đất để xây dựng cơ sở hạ tầng khu dân cư và chợ mới thị tứ TX (xã TX, huyện TM, tỉnh Đồng Tháp) với diện tích thu hồi là 98.536m2.
UBND tỉnh Đồng Tháp ban hành Quyết định số 478/QĐ-UB-CH phê duyệt
chi tiết khu Trung tâm thương mại xã TX, huyện TM. Căn cứ vào hồ sơ kỹ
thuật thì mặc dù ranh giới quy hoạch còn cách đất của gia đình bà khoảng 55m, nhưng UBND huyện TM vẫn cưỡng chế thu hồi diện tích 11.200m2 ,
thửa số 18, tờ bản đồ số 11, tại xã TL (xã TX) thuộc quyền sử dụng của cha
bà là ông Phan Văn B. Bà đã khiếu nại, phản đối thì bị Công an, Viện Kiểm
sát và Tòa án nhân dân huyện TM khởi tố, bắt giam và xét xử về tội “Chống
người thi hành công vụ”, xử phạt 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Cho
rằng mình bị oan nên bà đã khiếu nại. Ngày 19/01/2013, Công an huyện TM
55
ban hành Quyết định đình chỉ điều tra bị can số 02. Vì vậy, bà L yêu cầu Tòa
án nhân dân huyện TM bồi thường oan sai tổng cộng là 899.548.584 đồng,
gồm các khoản:
- Tổn thất về tinh thần: 9.252.270 đồng (đối với thời gian bị tạm giữ,
tạm giam là 59 ngày) và 48.822.727 đồng (đối với thời gian bị truy tố không
bị tạm giữ, tạm giam là 934 ngày), theo mức lương cơ sở là 1.150.000
đồng/tháng.
- Tổn thất về sức khỏe: 42.155.000 đồng.
- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút là 12 năm 07 tháng 17 ngày,
mỗi ngày 150.000 đồng, tổng cộng 613.845.000 đồng.
- Chi phí đi lại và chi phí khác là 100.000.000 đồng.
- Tiền cấp dưỡng trong thời gian 12 năm 07 tháng 17 ngày, mỗi tháng
500.000 đồng đối với cha là 45.127.500 đồng và đối với mẹ là 45.127.500
đồng.
Về phía bị đơn cũng trình bày: Do Tòa án nhân dân huyện TM đã xét xử oan
đối với bà L, thời gian tạm giữ, tạm giam là 59 ngày và thời gian không bị
tạm giữ, tạm giam là 934 ngày nên đồng ý bồi thường theo mức lương cơ sở
là 1.210.000 đồng/tháng, tổng cộng là 68.185.000 đồng, bao gồm: Tổn thất về
tinh thần 61.105.000 đồng và thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút là
7.080.000 đồng. Tuy nhiên, không đồng ý bồi thường 42.155.000 đồng chi
phí tổn thất về phục hồi sức khỏe, 613.845.000 đồng thu nhập thực tế bị mất
hoặc bị giảm sút và tiền cấp dưỡng cho cha, mẹ mỗi người 45.127.500 đồng.
Tại bản án dân sự sơ thẩm, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã ra quyết định
buộc Tòa án nhân dân huyện TM có trách nhiệm phải bồi thường cho bà L
tổng số tiền là 68.185.000 đồng, bao gồm tổn thất về tinh thần, thu nhập thực
tế bị mất, bị giảm sút; không chấp nhận yêu cầu bồi thường tổn thất về phục
hồi sức khỏe, chi phí đi lại và khoản tiền cấp dưỡng cho cha, mẹ của bà L.
56
Ngày 24/3/2017, bà Phan Thị Tuyết L kháng cáo bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, sau khi xem xét tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy đối với phần
kháng cáo yêu cầu bồi thường chi phí đi lại và thiệt hại về vật chất do sức
khỏe bị tổn hại là chưa có căn cứ, do đó không xem xét bồi thường.
Đối với kháng cáo yêu cầu bồi thường thiệt hại về thu nhập bị mất hoặc bị
giảm sút, thấy rằng: Khoản 1 Điều 7 Thông tư liên tịch số 05/2012/TTLT-
VKSNDTCTANDTC-BCA-BTP-BQP-BTC-BNN&PTNT có quy định:
“Người bị thiệt hại (kể cả trường hợp đã chết) chỉ được bồi thường khoản thu
nhập thực tế bị mất trong thời gian họ bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình
phạt tù”. Theo hồ sơ vụ án và sự thừa nhận của các đương sự, có căn cứ xác
định thời gian bà L bị tạm giữ, tạm giam là 59 ngày. Như vậy, bà L được bồi
thường khoản thu nhập thực tế bị mất trong thời gian 59 ngày.
Đồng thời, điểm d khoản 1 Điều 7 của Thông tư liên tịch số
05/2012/TTLTVKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BQP-BTC-BNN&PTNT có
nêu: “Trường hợp trước khi bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù mà
người bị thiệt hại là nông dân, ngư dân, người làm muối, người trồng rừng,
người làm thuê, người buôn bán nhỏ, thợ thủ công, lao động khác, thực tế có
thu nhập, nhưng theo mùa vụ hoặc không liên tục, thì lấy mức thu nhập trung
bình của lao động cùng loại tại địa phương. Mức thu nhập trung bình do chính
quyền địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú xác định”.
Tại phiên tòa, bà L cho rằng trước khi bị khởi tố, bà L có bán vé số, thu nhập
là 150.000 đồng/ngày. Tuy nhiên, bà L không cung cấp được chứng cứ, tài
liệu chứng minh. Trong khi đó, lời khai của người làm chứng có nội dung:
Cha mẹ bà L là ông, bà B1 trồng rẫy, bà L có phụ gia đình làm rẫy, trồng rau;
bà B1 bán rau cải ở chợ, bà L bán rau cải phụ bà B1; có thời gian bà L phụ
giao vé số cho đại lý vé số của chị Dương Thị N và đi bán vé số. Như vậy,
57
công việc của bà L là không ổn định và không có căn cứ xác định bà L có thu
nhập 150.000 đồng/ngày từ việc bán vé số. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ
Công văn số 50/UBND ngày 27/4/2016 của UBND xã TX, huyện TM (bút lục
395) để xác định giá trị ngày công lao động nữ làm nông nghiệp tại địa
phương là 120.000 đồng/ngày là có cơ sở. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác
định thu nhập bị mất của bà L là 7.080.000 đồng (= 59 ngày bị tạm giữ, tạm
giam x 120.000 đồng/ngày) là đúng.
Vì những lẽ đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã ra quyết định giữ nguyên bản
án dân sự sơ thẩm số 03/2017/DS-ST ngày 13/3/2017 của Tòa án nhân dân
tỉnh Đồng Tháp.[42]
(6) Hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người
có thẩm quyền
Việc hủy quyết định của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền phải
do một cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện, chứ không phải bất cứ bản
thân cá nhân nào có thể hủy được. Do vậy, cá nhân bị xâm phạm về quyền có
thể yêu cầu đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hủy quyết định trái pháp luật
này. Trước khi hủy quyết định cá biệt đó, các chủ thể phải tiến hành xem xét,
phân tích để xác định được chỗ nào sai, sai như thế nào và cần sửa lại sao cho
đúng với quy định của pháp luật. Trường hợp quyết định cá biệt bị hủy thì
quyền dân sự bị xâm phạm được khôi phục.
Ví dụ: Ngày 22/01/2018, TAND tỉnh Bắc Giang đã mở phiên tòa phúc
thẩm giải quyết về tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm giữa nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T; anh Hà
Ngọc H (cùng trú tại thôn QT, xã NH, huyện LN, Bắc Giang) và bị đơn là ông
Lý Minh B; Lý Minh A; anh Đỗ Ngọc C (Phó Chủ tịch UBND xã NH, huyện
LN, tỉnh Bắc Giang).
58
Theo bản án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ thì nội dung vụ án như sau:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 05/11/2016, và các lời khai tiếp theo chị Nguyễn
Thị T và anh Hà Ngọc H trình bày: Ngày 19/8/2014, ông Đỗ Ngọc C là Phó
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã NH và ông Lý Minh A là Phó Trưởng công an
xã NH đã xác nhận trong lý lịch của em trai chị T là Nguyễn Văn V với nội
dung “Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1981 có hộ khẩu thường trú, trong thời
gian cư trú bản thân và gia đình chưa chấp hành chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương
(Một số khoản đóng góp)”. Từ nội dung xác nhận này dẫn đến hậu quả em
trai chị T là Nguyễn Văn V không có đủ điều kiện để tiếp tục tham gia dự
tuyển vào lực lượng công an. Trong các năm 2014 và năm 2015, ông Lý Minh
B trú tại thôn CC, xã NH đã nhiều lần gửi đơn đến Huyện ủy LN, Phòng giáo
dục huyện LN, Đảng ủy xã PM, Đảng ủy xã TH..., đề nghị các cơ quan này
xem xét xử lý kỷ luật đối với Đảng viên Nguyễn Thị T và Hà Ngọc H. Những
hành vi và việc làm của các ông Lý Minh B, Lý Minh A, Đỗ Ngọc C đã xâm
phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm uy tín của hai vợ chồng anh chị.
Kể từ khi những hành vi này xảy ra cho đến khi Ủy ban kiểm tra huyện ủy LN
và Đảng ủy xã NH ban hành văn bản trả lời, thì vợ chồng anh chị đã bị tổn
thất rất lớn về danh dự, nhân phẩm, uy tín. Vợ chồng chị đã phải bỏ ra rất
nhiều thời gian, công sức, tiền bạc để khắc phục thiệt hại (Làm đơn khiếu nại,
tố cáo gửi và liên lạc với các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu giải quyết sự
việc) do các ông Lý Minh B, Lý Minh A và Đỗ Ngọc C đã gây ra. Đồng thời,
trong thời gian này một số khoản thu nhập của vợ chồng cũng bị giảm sút đi
nhiều. Chị Nguyễn Thị T và anh Hà Ngọc H đề nghị Tòa án giải quyết buộc
ông Lý Minh B, ông Lý Minh A, ông Đỗ Ngọc C bồi thường thiệt hại do đã
xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của hai vợ chồng số tiền
42.100.000đ (Bốn mươi hai triệu một trăm nghìn đồng). Buộc ông Lý Minh
59
B, Lý Minh A, Đỗ Ngọc C phải: Tổ chức buổi công khai xin lỗi tại trụ sở Ủy
ban nhân dân xã NH và đăng lời xin lỗi công khai trên B Bắc Giang trong 03
số B liên tiếp.
Tại bản tự khai ngày 26/12/2016, anh Đỗ Ngọc C, ông Lý Minh A và ông Lý
Minh B đều khẳng định việc làm của mình là có cơ sở và hoàn toàn đúng quy
định pháp luật (bản tự khai có kèm căn cứ pháp lý cụ thể).
Tại phiên tòa sơ thẩm, anh Hà Ngọc H và chị Nguyễn Thị T cùng nhất trí xin
rút một phần yêu cầu khởi kiện, phần yêu cầu đòi bồi thường khắc phục
thiệt hại số tiền 30.000.000 đồng, vì hiện tại anh chưa cung cấp được chứng
cứ chứng minh cho nội dung yêu cầu này, anh chỉ yêu cầu anh Đỗ Ngọc C,
ông Lý Minh A, ông Lý Minh B phải liên đới bồi thường số tiền tổn thất về
tinh thần 10 tháng lương tối thiểu tại thời điểm xét xử sơ thẩm, buộc ông Lý
Minh B, Lý Minh A, Đỗ Ngọc C phải tổ chức xin lỗi công khai tại trụ sở Ủy
ban nhân dân xã NH và đăng lời xin lỗi công khai trên B Bắc Giang trong 03
số B liên tiếp.
Với nội dung nêu trên, bản án dân sự sơ thẩm số 11/2017/DS-ST ngày
29/9/2017 của Toà án nhân dân huyện LN đã quyết định: Đình chỉ một phần
yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T và anh Hà Ngọc H đối với yêu cầu
anh Đỗ Ngọc C và ông Lý Minh A phải bồi thường thiệt hại và xin lỗi công
khai. Đồng thời, bác yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T và anh Hà Ngọc
H đối với yêu cầu ông Lý Minh B phải bồi thường thiệt hại và xin lỗi công
khai.
Ngày 10/10/2017, chị Nguyễn Thị T và anh Hà Ngọc H là nguyên đơn nộp
đơn kháng cáo. Nội dung kháng cáo đề nghị Toà phúc thẩm xét xử huỷ toàn
bộ bản án dân sự của Toà án nhân dân huyện LN, giao hồ sơ vụ án cho Toà sơ
60
thẩm thụ lý, xét xử lại theo quy định của pháp luật.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên Tòa, ý kiến tranh luận tại phiên toà, sau khi nghe ý kiến phát biểu
của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang, Hội đồng xét xử nhận
định Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2017/DS-ST ngày 29/9/2017 của Toà án
nhân dân huyện LN có một số vi phạm sau:
- Về việc xác định thời hiệu khởi kiện: Chị T, anh H xác định ông A và
anh C đã có hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm và uy
tín của vợ chồng anh chị, nên yêu cầu phải bồi thường thiệt hại và xin lỗi
công khai. Trong khi đó, pháp luật dân sự quy định đối với yêu cầu bảo vệ
quyền nhân thân bị xâm phạm thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện vụ án
dân sự.
Do vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định thời điểm anh A và anh C xác nhận
vào lý lịch của gia đình chị T, anh H ngày 19/8/2014, đến ngày 7/11/2016 chị
T, anh H mới làm đơn khởi kiện là quá thời hạn khởi kiện, để đình chỉ yêu
cầu khởi kiện của chị T, anh H đối với việc yêu cầu anh C, anh A phải bồi
thường thiệt hại và xin lỗi công khai là không đúng quy định của pháp luật;
không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chị T, anh H.
- Về việc không đưa đầy đủ người vào tham gia tố tụng: Anh A và anh
C phê duyệt vào lý lịch của gia đình chị T, anh H với tư cách là những người
thay mặt Uỷ ban nhân dân xã NH chứ không mang danh nghĩa cá nhân. Bản
thân anh C là người ký thay Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã NH. Chị T, anh H
ngoài yêu cầu bồi thường thiệt hại, còn yêu cầu anh A và anh C phải tổ chức
công khai xin lỗi, thuộc trách nhiệm của UBND xã NH. Tòa án cấp sơ thẩm
không đưa UBND xã NH tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan là không đúng quy định tại khoản 4 Điều 68, Điều 73 Bộ
61
luật tố tụng dân sự.
Tại phiên toà sơ thẩm, anh H, chị T rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với
anh C, anh A, ông B đòi bồi thường khắc phục thiệt hại số tiền 30.000.000
đồng vì chưa cung cấp được chứng cứ chứng minh nhưng toà sơ thẩm không
quyết định đình chỉ yêu cầu này của anh H chị T là không đúng quy định của
pháp luật.
Với những vi phạm thiếu sót trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy Bản
án dân sự sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng mà cấp phúc thẩm
không thể khắc phục được. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã quyết định
hủy bản án dân sự sơ thẩm số: 11/2017/DS-ST ngày 29/9/2017 của Toà án
nhân dân huyện LN về việc: "Tranh chấp kiện đòi bồi thường thiệt hại do
danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm phạm" và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án
nhân dân huyện LN, tỉnh Bắc Giang giải quyết lại theo đúng quy định của
pháp luật. [43]
Trên đây là những phương thức bảo vệ mà mỗi cá nhân có thể lựa chọn
áp dụng khi danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình bị xâm phạm. Có không ít
các phương thức bảo vệ khác nhau nhưng để đảm bảo mang lại hiệu quả tối
ưu nhất, các cá nhân nên căn cứ vào tình hình thực tiễn của mình để từ đó lựa
chọn và áp dụng phương thức cho phù hợp.
2.3. CƠ SỞ ÁP ĐẶT CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM DANH
DỰ, NHÂN PHẨM, UY TÍN CỦA CÁ NHÂN THEO PHÁP LUẬT
DÂN SỰ VIỆT NAM
2.3.1. Cơ sở áp đặt chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy
tín của cá nhân theo qui định của BLDS năm 2005
2.3.1.1. Có hành vi trái pháp luật
Ngay từ những bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta đã khẳng định
62
quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là quyền bất khả
xâm phạm, được pháp luật bảo hộ. Do vậy, tất cả những hành vi xâm phạm
đến quyền này đều phải chịu chế tài. Việc xâm phạm này có thể là hành vi vi
phạm pháp luật hình sự, hành chính, dân sự,... được quy định trong Nghị
quyết 03/2006/NQ-HĐTP thì sẽ bị coi là hành vi trái pháp luật. Theo đó, hành
vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua
hành động hoặc không hành động, trái với các quy định của pháp luật, xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, vi phạm đường lối chính sách
pháp luật và các quy tắc chung của xã hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy những
hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân theo dạng hành
động là chủ yếu.
2.3.1.2. Có thiệt hại thực tế xảy ra
Chế tài chỉ có thể phát sinh khi có thiệt hại xảy ra. Nói cách khác, nếu
không có thiệt hại thì người có hành vi xâm phạm sẽ không phải chịu chế tài.
Vậy, trước tiên phải xác định thế nào là “thiệt hại” trong trường hợp danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm?
Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm được hiểu là sự
giảm bớt những lợi ích mà một người được hưởng hoặc lẽ ra họ được hưởng.
Căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 307 BLDS năm 2005 thì thiệt hại
được xác định bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.
Theo đó, thiệt hại về vật chất là những thiệt hại được quy định tại khoản 1
điều 611 BLDS năm 2005, là những tổn thất vật chất thực tế, tính được thành
tiền; thiệt hại về tinh thần “được hiểu là do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị
xâm phạm mà người bị thiệt hại phải chịu buồn phiền, bị giảm sút hoặc mất
uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm...” [14, điểm b tiểu mục 1.1 mục 1
63
phần I]
Việc áp dụng chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm,
uy tín chỉ có thể được thực hiện khi những thiệt hại đáp ứng các điều kiện sau:
Một là, sự thiệt hại phải chắc chắn có và được xác định. Thiệt hại này phải là
thiệt hại thực tế, đã xảy ra hoặc chưa xảy ra nhưng nhất định sẽ phải xảy ra và
có thể ước lượng được, theo quy định của pháp luật về các loại thiệt hại và
những trường hợp được áp dụng chế tài.
Hai là, thiệt hại phải được xác định rõ trong quan hệ bồi thường giữa người
gây thiệt hại và người bị thiệt hại
Ba là, có người gánh chịu thiệt hại.
Thông thường, trong các vụ án có tranh chấp liên quan đến khoản tiền bồi
thường thì người bị thiệt hại có xu hướng làm phức tạp thêm vấn đề và khai
tăng mức độ thiệt hại. Ngược lại, đối với người gây ra thiệt hại lại có xu
hướng đơn giản hóa vấn đề và làm giảm mức độ thiệt hại. Vì vậy, yêu cầu đặt
ra đối với những người làm công tác giám định chuyên môn và những người
làm công tác áp dụng pháp luật phải thực sự công tâm, khách quan đánh giá
đúng mức độ thiệt hại xảy ra và áp dụng đúng các quy phạm pháp luật để giải
quyết vào các vụ án cụ thể.
2.3.1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại do
xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân
Sau khi đã xác định được hành vi trái pháp luật và thiệt hại thì việc làm
tiếp theo đó là phải xét xem giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật đó
có mối quan hệ nhân quả với nhau không? Một thiệt hại có thể do nhiều
nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, bên gây thiệt hại chỉ phải chịu trách
nhiệm khi thiệt hại là hậu quả trực tiếp của hành vi vi phạm mà không phải là
hậu quả của nguyên nhân khác. Điều này có nghĩa là, thiệt hại xảy ra phải là
kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật
64
phải là nguyên nhân trực tiếp hoặc có ý nghĩa quyết định đối với thiệt hại.
Việc xác định đúng mối quan hệ nhân quả có ý nghĩa rất lớn trong việc xác
định đúng trách nhiệm của cá nhân, tổ chức vi phạm, bảo vệ quyền lợi chính
đáng của người bị thiệt hại, góp phần đảm bảo công bằng xã hội.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra trong nhiều trường hợp là rất khó
khăn. Chính vì vậy, cần phải xem xét, phân tích, đánh giá tất cả các sự kiện
liên quan một cách thận trọng, khách quan, toàn diện. Từ đó mới rút ra được
đúng nguyên nhân và xác định đúng trách nhiệm của người gây thiệt hại.
2.3.1.4. Có lỗi
Tại khoản 1 Điều 604 BLDS năm 2005 có quy định:
“Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín
của cá nhân mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.[7, khoản 1 Điều 604]
Như vậy, căn cứ tiếp theo làm phát sinh chế tài đó là người gây thiệt
hại có lỗi. Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi trái pháp luật
của mình và đối với thiệt hại do hành vi gây nên [25, tr.23]. Mặc dù khái niệm
về lỗi cố ý và lỗi vô ý không được BLDS năm 2005 định nghĩa một cách trực
tiếp nhưng tại khoản 2 Điều 308 BLDS năm 2005 và tại Nghị quyết
03/2006/NQ-HĐTP cũng đã chỉ rõ:
“a) Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của
mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc
không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
b) Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của
mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt
hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại,
65
nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được”.
Tóm lại, chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín
của cá nhân được đặt ra khi có hành vi trái pháp luật xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, uy tín của cá nhân gây ra thiệt hại, người thực hiện hành vi gây ra thiệt
hại có lỗi và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi xâm phạm với thiệt hại
xảy ra. Nếu thiếu một trong các điều kiện này, trách nhiệm dân sự sẽ không
phát sinh.
Ví dụ: Ngày 26 tháng 02 năm 2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu tổ
chức xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 02/2019/TLPT-DS ngày 02
tháng 01 năm 2019 về tranh chấp bồi thường thiệt hại về danh dự, uy tín giữa
nguyên đơn là ông Trần Văn K và bị đơn là bà Huỳnh Thị C.
Tại phiên tòa, ông Trần Văn K và bà Huỳnh Thị C thống nhất xác định vào
khoảng tháng 8 năm 2017, bà C có mua một bao gạo loại RVT có trọng lượng
25kg tại cửa hàng bán gạo cám KD do ông K, bà D làm chủ về sử dụng. Bà C
xác định sau khi sử dụng được 02 ngày, đến ngày thứ ba thì con dâu bà là chị
Lê Thị Tuyết K vo gạo nấu cơm thấy nước vo gạo trắng bất thường nên gia
đình bà lấy gạo đi rang thì gạo có hiện tượng khét đen và dính cục. Sau đó, bà
đem cục khét đen này cùng số gạo chưa sử dụng đến trình báo Công an xã
CT, huyện VL, tỉnh Bạc Liêu.
Ông K xác định ông không bán gạo giả (đã có kết quả giám định của cơ quan
công an) nhưng việc bà C tố giác, tung tin ông bán gạo giả với cơ quan chức
năng và người dân đã làm ảnh hưởng đến việc kinh doanh của ông nên ông
yêu cầu bà C bồi thường thiệt hại cho ông các khoản tiền gồm: Tiền mất thu
nhập với số tiền 40.500.000 đồng/tháng, kể từ ngày 06 tháng 8 năm 2017 đến
ngày xét xử sơ thẩm là 634.500.000 đồng; tiền tổn thất tinh thần bằng 30
tháng lương với số tiền là 40.500.000 đồng và chi phí công khai xin lỗi, đăng
tin trên báo, đài phát thanh địa phương với số tiền 3.600.000 đồng. Bà C cho
66
rằng mục đích bà đến trình báo Công an xã CT, huyện VL, tỉnh Bạc Liêu là
do bà nghi ngờ gạo bà mua của ông K là gạo giả chứ không kết luận ông K
bán gạo giả nên không đồng ý bồi thường theo yêu cầu của ông K.
Hội đồng xét xử xét thấy, việc bà C trình báo với cơ quan chức năng về sự
nghi ngờ gạo giả của bà là đúng quy định pháp luật, bởi lẽ đó là quyền và
trách nhiệm của người tiêu dùng nhằm bảo vệ sức khỏe của bản thân, gia đình
và người khác nên bà C không có lỗi. Mặt khác, những hóa đơn bán hàng do
ông K cung cấp chỉ chứng minh được số lượng gạo, tấm, cám và số tiền mua
gạo, tấm, cám của cửa hàng ông mua lại các nhà máy xây xát, lau bóng lúa
gạo, đối với tập phô tô do ông K cung cấp tại cấp phúc thẩm là sổ mua bán
gạo, tấm, cám do ông K tự theo dõi chứ không chứng minh được thu nhập của
cửa hàng bán gạo, tấm cám của ông bị thiệt hại mỗi tháng 40.500.000 đồng
như ông K trình bày. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông K không có chứng cứ nào
để chứng minh việc bà C kết luận và tung tin ông bán gạo giả làm ảnh hưởng
đến việc mua bán, làm giảm thu nhập của cửa hàng và gây tổn thất tinh thần
cho gia đình ông K.
Theo quy định của BLDS và tinh thần của Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố sau: Phải có
thiệt hại (thiệt hại về vật chất hoặc thiệt hại do tổn thất về tinh thần) xảy ra,
phải có hành vi trái pháp luật, phải có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy
ra và hành vi trái pháp luật; phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt
hại.
Như vậy, trong tình huống này không có căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại nên Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của ông K đối với bà C là đúng quy định pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử
67
cấp phúc thẩm đã bác kháng cáo của ông Trần Văn K và giữ nguyên Bản án
dân sự sơ thẩm 65/2018/DS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân
dân huyện VL, tỉnh Bạc Liêu. [44]
2.3.2. Cơ sở áp đặt chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy
tín của cá nhân theo qui định của BLDS năm 2015
Nếu như BLDS năm 2005 khi quy định về điều kiện áp đặt chế tài đối
với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bao gồm 4 yếu
tố: (1) có hành vi trái pháp luật; (2) có thiệt hại xảy ra; (3) có mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại thực tế; (4) có lỗi thì đến
BLDS năm 2015, yếu tố lỗi đã không được đề cập. Cụ thể, tại khoản 1 Điều
584 BLDS năm 2015 có quy định:
“Người nào có hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người
khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường” [8, khoản 1 Điều 584]
Như vậy, theo BLDS năm 2015, chủ thể gây thiệt hại sẽ phải chịu chế
tài khi đáp ứng đủ 3 điều kiện sau: (1) có hành vi trái pháp luật; (2) có thiệt
hại thực tế; (3) có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt
hại thực tế. Có thể thấy, BLDS năm 2015 chú trọng hơn đến hành vi gây thiệt
hại. Theo quy định này thì lỗi không phải là một trong những căn cứ làm phát
sinh chế tài; nói cách khác, chế tài vẫn phát sinh ngay cả khi không có lỗi của
người gây thiệt hại. Quy định này được thể hiện tại khoản 2 Điều 585 BLDS
năm 2015 như sau: “Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được
giảm mức bồi thường nếu không có lỗi....” [8, khoản 2 Điều 585]. Theo đó,
việc người gây thiệt hại “không có lỗi” chỉ là một trong những căn cứ để xem
xét giảm mức bồi thường chứ không phải là điều kiện để miễn trách nhiệm
dân sự.
Một số ý kiến cho rằng Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định như vậy là
68
hợp lý, bởi lẽ lỗi luôn gắn với hành vi trái pháp luật và không thể có lỗi tồn tại
ngoài hành vi trái pháp luật của một chủ thể. Hơn nữa, lỗi trong trách nhiệm
dân sự là lỗi suy đoán. Tức là không cần phải chứng minh lỗi, mà chỉ cần
chứng minh hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật là đủ [29, tr.40].
Trên thực tế có những trường hợp người gây thiệt hại là người bị tuyên bố
mất năng lực hành vi dân sự. Nếu áp dụng theo quy định tại Khoản 1 Điều
604 BLDS năm 2005 thì mặc nhiên người gây thiệt hại trong trường hợp này
sẽ không phải chịu chế tài vì “không có lỗi”, điều này dẫn đến bất lợi cho
người bị thiệt hại. Trong khi đó, nếu áp dụng theo quy định của BLDS năm
2015, quyền nhân thân của người bị xâm phạm sẽ được đảm bảo hơn.
Bên cạnh đó, một số quan điểm khác lại cho rằng yếu tố lỗi là cần thiết
trong việc xây dựng điều kiện áp đặt chế tài. Lỗi vẫn tồn tại và được quy định
trong chế định trách nhiệm dân sự về lỗi cố ý và lỗi vô ý tại Điều 364 BLDS,
chỉ là thay đổi nghĩa vụ chứng minh. Theo đó, nghĩa vụ chứng minh có lỗi
hay không có lỗi sẽ thuộc về người gây thiệt hại thay vì quy định việc chứng
minh là trách nhiệm của bên bị thiệt hại như trước đây. Bởi trên thực tế, việc
chứng minh lỗi là vấn đề vô cùng phức tạp, không phải lúc nào cũng thực
hiện được một cách dễ dàng, nhất là trong trường hợp nhiều người cùng gây
ra thiệt hại. Đặc biệt, trong nhiều trường hợp, người bị thiệt hại không thể
chứng minh được, nếu buộc họ phải chứng minh sẽ gây bất lợi cho họ.
2.4. CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH NHIỆM DO XÂM PHẠM DANH DỰ,
NHÂN PHẨM, UY TÍN CỦA CÁ NHÂN THEO PHÁP LUẬT DÂN
SỰ VIỆT NAM
Khi quy định về chủ thể chịu trách nhiệm do xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, uy tín của cá nhân, BLDS năm 2005 có nêu: “Người xâm phạm danh
dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phải bồi thường” [7, khoản 2 Điều
69
611]
Đến BLDS năm 2015, quy định về chủ thể chịu trách nhiệm đã có sự
thay đổi. Tại khoản 2 Điều 592 chỉ rõ: “Người chịu trách nhiệm bồi thường
trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm
phải bồi thường”. [8, khoản 2 Điều 592]
Như vậy, chủ thể phải bồi thường đã được thay đổi từ “người xâm phạm”
thành “người chịu trách nhiệm”. Có thể thấy, sự thay đổi này là hoàn toàn hợp
lý. Bởi lẽ, đối với những trường hợp xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín
của cá nhân thì người chịu trách nhiệm đôi khi không phải là người trực tiếp
gây thiệt hại mà là một người khác như trường hợp cha, mẹ bồi thường thiệt
hại do con chưa thành niên gây ra.
Qua đó, có thể thấy, chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, uy tín của cá nhân ngoài việc áp dụng cho người có hành vi trái pháp
luật, còn áp dụng đối với những người khác như cha, mẹ của người chưa
thành niên, người giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân đối với người
của pháp nhân gây thiệt hại, trường học, bệnh viện, cơ sở dạy nghề,...
Đối với chủ thể là pháp nhân
Chủ thể là pháp nhân phải chịu chế tài do người của mình gây ra thiệt
hại trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; “nếu pháp nhân đã
bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại
phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.” [8, Điều 597].
Trong trường hợp người của pháp nhân lợi dụng nhiệm vụ được giao làm một
việc vì mục đích cá nhân mà gây thiệt hại thì người đó phải chịu chế tài đối
với những thiệt hại do mình gây ra.
70
Đối với chủ thể là Nhà nước
Theo Điều 598 BLDS năm 2015 thì “Nhà nước có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra
theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước”. [8, Điều 598]
Mặc dù hành vi trái pháp luật không phải là hành vi của Nhà nước mà của
người thi hành công vụ gây ra nhưng Nhà nước vẫn phải chịu trách nhiệm bởi
hành vi gây thiệt hại của người thi hành công vụ gắn liền với công việc mà
Nhà nước phải làm và xuất phát từ người được Nhà nước giao thi hành công
vụ.
Điểm c khoản 2 Điều 14 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước
năm 2017 quy định người thi hành công vụ gây thiệt hại có nghĩa vụ:“Hoàn
trả cho ngân sách nhà nước một khoản tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho
người bị thiệt hại theo quyết định của cơ quan trực tiếp quản lý người thi
hành công vụ gây thiệt hại” [13, điểm c khoản 2 Điều 14]
Có thể nói, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thực chất là trách
nhiệm thay thế. Ở đây, Nhà nước phải gánh chịu trách nhiệm bồi thường do
người thi hành công vụ làm phát sinh. Hơn nữa, tiền bồi thường được lấy từ
ngân sách nhà nước mà ngân sách nhà nước là do người dân đóng góp (nếu
Nhà nước lấy tiền của người dân để bồi thường cho người dân thì trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước không còn ý nghĩa gì). Do đó, vấn đề người thi
hành công vụ hoàn trả cho Nhà nước được đặt ra. [21, tr.23]
Đối với chủ thể là cá nhân
Khác với những chủ thể khác, khi xác định chế tài đối với chủ thể là cá
nhân, cần xác định năng lực chịu trách nhiệm của cá nhân đó. Căn cứ độ tuổi,
tình trạng tài sản và khả năng chịu trách nhiệm của cá nhân, Điều 586 BLDS
71
năm 2015 có quy định về năng lực chịu trách nhiệm của cá nhân như sau:
Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
Mặc dù pháp luật quy định đối với những trường hợp người gây thiệt
hại là cá nhân từ đủ mười tám tuổi phải tự chịu trách nhiệm đối với
thiệt hại mà mình gây ra. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, có nhiều trường
hợp đủ mười tám tuổi nhưng vẫn đang đi học, chưa có tài sản riêng,
phải sống nhờ cha, mẹ, hàng tháng gia đình vẫn phải chu cấp tiền ăn
học. Do đó, đối với những trường hợp này, để bảo vệ quyền và lợi ích
của người bị thiệt hại, khi xét xử Tòa án nước ta vẫn cho phép và
khuyến khích cha, mẹ của người gây thiệt hại dùng tài sản của mình để
bồi thường thay con.
Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ
phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để
bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy
tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì
phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi
thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của
mình.
Theo quy định của pháp luật lao động thì người từ đủ mười lăm tuổi có thể
tham gia vào các quan hệ lao động để có thu nhập và tài sản riêng. Do đó, nếu
những chủ thể này gây thiệt hại, họ phải chịu trách nhiệm bằng tài sản của
mình. Tuy nhiên, những người ở độ tuổi này chưa có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ nên vẫn cần phải có người đại diện cho mình trong việc xác lập và
thực hiện các giao dịch dân sự. Chính vì vậy, trong trường hợp những cá nhân
này gây thiệt hại mà không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ của họ có
72
trách nhiệm bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của chính mình.
Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người
giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám
hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không
đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản
của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi
trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
Người chưa đủ mười lăm tuổi trong thời gian trường học trực tiếp quản
lý mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong
thời gian bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý thì bệnh viện,
pháp nhân đó phải bồi thường thiệt hại xảy ra. Trong trường hợp trường
học, bệnh viện, tổ chức khác chứng minh được mình không có lỗi trong
quản lý thì cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười lăm tuổi,
người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường.
2.5. CÁC TRƢỜNG HỢP MIỄN TR TRÁCH NHIỆM THEO QUI
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
BLDS năm 2005 liệt kê các trường hợp miễn trách nhiệm bao gồm: gây
thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng (Điều 613), gây thiệt hại trong
tình thế cấp thiết (Điều 614) và lỗi hoàn toàn của người bị thiệt hại (Điều
617).
Trong khi đó, điểm c khoản 3 Điều 6 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước năm 2009 lại quy định không buộc phải chịu trách nhiệm do sự kiện bất
khả kháng:
“Nhà nước không bồi thường đối với thiệt hại xảy ra trong các trường hợp
sau đây:
73
c, Do sự kiện bất khả kháng” [12, điểm c khoản 3 Điều 6]
Mặt khác, nhìn chung các hệ thống luật theo hướng người gây thiệt hại trong
trường hợp bất khả kháng không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Bộ nguyên tắc Châu Âu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại (ngoài hợp đồng)
có các quy định về “nguyên nhân miễn, giảm trách nhiệm bồi thường” và
trong phần này có nêu trường hợp thiệt hại “do sự kiện bất khả kháng” (Điều
7:102, khoản 1 điểm a) [30, tr.16]
Khắc phục thiếu sót này của BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 đưa ra
các trường hợp loại trừ trách nhiệm của người gây thiệt hại được áp dụng nếu
“thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của
bên bị thiệt hại” [8, khoản 2 Điều 584]
Thứ nhất, thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng
Sự kiện bất khả kháng là một thuật ngữ có nguồn gốc tiếng Pháp “force
majeure” có nghĩa là “sức mạnh tối cao” hoặc “sức người không thể kháng cự
nổi”. Sự kiện này xảy ra không phải do lỗi của bất kỳ bên nào, mà hoàn toàn
ngoài ý muốn và các bên không thể dự đoán trước, cũng như không thể tránh
và khắc phục được. [45]
Hay tại khoản 1 Điều 156 BLDS năm 2015 cũng có định nghĩa:
“Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể
lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện
pháp cần thiết và khả năng cho phép” [8, Điều 156]
Như vậy, sự kiện bất khả kháng có thể được hiểu là những hiện tượng
do thiên nhiên gây ra như: lũ lụt, hỏa hoạn, bão, động đất, sóng thần,... Việc
coi các hiện tượng thiên tai là sự kiện bất khả kháng được áp dụng khá thống
nhất trong luật pháp và thực tiễn của nhiều nước trên thế giới. Bên cạnh đó,
cũng có quan điểm cho rằng, sự kiện bất khả kháng cũng có thể là những hiện
74
tượng xã hội như chiến tranh, bạo loạn, đảo chính, đình công, cấm vận, thay
đổi chính sách của chính phủ… Tuy nhiên, cách hiểu và thừa nhận các hiện
tượng xã hội có phải là “sự kiện bất khả kháng” hay không là rất đa dạng và
nhiều điểm chưa có sự thống nhất. [45]
Thứ hai, thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại
Trong trường hợp này thiệt hại xảy ra rõ ràng do những hành vi của bản thân
người bị thiệt hại gây ra. Xét về mặt chủ quan thì thiệt hại xảy ra là do lỗi cố ý
của người bị thiệt hại, có thể là họ mong muốn cho thiệt hại xảy ra hoặc cũng
có thể họ không mong muốn thiệt hại xảy ra nhưng cố ý thực hiện hành vi gây
ra thiệt hại.
Bên cạnh đó, ở một số trường hợp khác, pháp luật cũng cho phép các chủ thể
gây thiệt hại nhưng không phải chịu chế tài, đó là:
Thiệt hại xảy ra do có hành vi phòng vệ chính đáng
Nhằm đảm bảo cho mọi công dân có điều kiện tự bảo vệ những quyền,
lợi ích chính đáng của mình và xã hội; đồng thời, ngăn chặn, hạn chế những
hậu quả xấu khi các quyền về nhân thân của mỗi công dân bị xâm phạm, pháp
luật đã dự liệu trường hợp khi các chủ thể gây thiệt hại trong trường hợp
phòng vệ chính đáng sẽ không phải chịu trách nhiệm.
Theo đó, phòng vệ chính đáng được hiểu là hành vi của người vì bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà chống trả một
cách cần thiết gây thiệt hại cho người đang có hành vi xâm phạm các quyền
và lợi ích nói trên.
Đây được coi là hành vi thực hiện quyền tự vệ hợp pháp của mỗi công
dân trong xã hội. Xét về hình thức, hành vi phòng vệ chính đáng cũng gây cho
người khác thiệt hại song lại không bị coi là trái pháp luật. Ngược lại, nó còn
được coi là hành vi tích cực, cũng có khi còn là hành vi có ích được xã hội
75
khuyến khích hành động.
Thiệt hại xảy ra do phải hành động trong tình thế cấp thiết
Tình thế cấp thiết là tình thế của người đứng trước nguy cơ đe dọa lợi
ích trực tiếp của Nhà nước, của mình hoặc của người khác mà không còn cách
nào khác là phải có hành động gây thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Như vậy, để tránh một nguy cơ đang trực tiếp đe dọa lợi ích của Nhà nước,
của tập thể, của mình hoặc của người khác nên người gây thiệt hại không còn
cách nào đã phải lựa chọn một hành động khác ít gây thiệt hại hơn so với thiệt
hại cần ngăn ngừa. Hay nói cách khác thì người gây thiệt hại đã hành động
trong tình thế cấp thiết khi người đó biết hi sinh một cách hợp lý lợi ích nhỏ
để bảo vệ lợi ích khác lớn hơn, cần thiết hơn.
Mặc dù theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành, đây là các
trường hợp miễn trừ trách nhiệm được áp dụng chung. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy, việc áp dụng ba trường hợp miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng,
do phải hành động trong tình thế cấp thiết hay phòng vệ chính đáng đối với
hành vi xâm phạm quyền nhân thân nói chung và xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, uy tín của cá nhân nói riêng là rất hạn chế.
Ngoài các trường hợp miễn trừ trách nhiệm được áp dụng chung như đã
trình bày ở trên, thực tiễn xét xử cho thấy một số trường hợp tuy luật không
quy định nhưng Tòa án vẫn biết và thừa nhận, ví dụ như việc tố giác tội phạm.
Ví dụ 1: Vụ việc tranh chấp bồi thường thiệt hại về danh dự, uy tín
giữa nguyên đơn là ông Trần Văn K và bị đơn là bà Huỳnh Thị C (đã trình
bày tại Mục 2.3.1.4) là một ví dụ điển hình.
Khoảng tháng 8 năm 2017, bà C có mua một bao gạo loại RVT có trọng
lượng 25kg tại cửa hàng bán gạo cám KD do ông K, bà D làm chủ về sử
dụng. Bà C xác định sau khi sử dụng được 02 ngày, đến ngày thứ ba thì con
76
dâu bà là chị Lê Thị Tuyết K vo gạo nấu cơm thấy nước vo gạo trắng bất
thường nên gia đình bà lấy gạo đi rang thì gạo có hiện tượng khét đen và dính
cục. Sau đó, bà đem cục khét đen này cùng số gạo chưa sử dụng đến trình báo
Công an xã CT, huyện VL, tỉnh Bạc Liêu.
Tuy nhiên, kết quả giám định của cơ quan công an cho thấy ông K không bán
gạo giả. Ông K cho rằng việc bà C tố giác, tung tin ông bán gạo giả với cơ
quan chức năng và người dân đã làm ảnh hưởng đến việc kinh doanh của ông
nên ông yêu cầu bà C bồi thường thiệt hại cho ông các khoản tiền gồm: Tiền
mất thu nhập, tiền tổn thất tinh thần và chi phí công khai xin lỗi, đăng tin trên
báo, đài phát thanh địa phương.
Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy, việc bà C trình báo với cơ quan chức
năng về sự nghi ngờ gạo giả của bà là đúng quy định pháp luật, bởi lẽ đó là
quyền và trách nhiệm của người tiêu dùng nhằm bảo vệ sức khỏe của bản
thân, gia đình và người khác nên bà C không có lỗi.
Việc Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông K đối
với bà C là đúng quy định pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm
đã bác kháng cáo của ông Trần Văn K và giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm
65/2018/DS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện VL,
tỉnh Bạc Liêu.
Ví dụ 2: Bản án số 66/2018/DS-PT ngày 22/5/2018 về việc yêu cầu
bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín, sức khỏe, kinh tế, thời
gian bị xâm phạm giữa nguyên đơn là ông Lại Sỹ T và bị đơn là Sở lao động
thương binh và xã hội tỉnh Quảng Bình, UBND tỉnh Quảng Bình, Bộ Chỉ huy
quân sự tỉnh Quảng Bình.
Theo nội dung bản án, ngày 26/01/2007, UBND xã S, huyện L do ông Võ
Văn Đ1, Phó Chủ tịch UBND xã và ông Vương Công T cán bộ chính sách tổ
77
chức họp nhân dân thôn HV, xã S để rà soát, phát giác thương binh và người
hưởng chính sách như thương binh, người hưởng, phơi nhiễm chất độc hóa
học không đúng sự thật từ sau 31/12/1998. Căn cứ ý kiến phát giác của nhân
dân trong thôn, ngày 29/01/2007 ông Lại Sỹ T cùng 5 người khác ký đơn phát
giác bà Lê Thị H và ông Trương Thế T1, là hai đối tượng cố tình khai man hồ
sơ để hưởng chế độ thương binh và người hưởng chính sách như thương binh
gửi đến Phòng Nội vụ - Lao động TBXH huyện L.
Do không nhất trí với trả lời của Phòng Nội vụ - Lao động TBXH huyện L,
ông T đã nhiều lần gửi đơn tố cáo đến các cơ quan có thẩm quyền, trong đó
có Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình, Sở Lao động Thương binh và Xã hội
tỉnh Quảng Bình, Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình. Tuy nhiên các cơ
quan này đã có hành vi bao che, giải quyết chế độ cho bà Lê Thị H được
hưởng chính sách như thương binh và ông Trương Thế T1 được hưởng chế độ
thương binh không đúng quy định của pháp luật (đã có văn bản của cơ quan
có thẩm quyền kết luận những người này hoàn toàn không phải là đối tượng
được hưởng chế độ thương binh).
Quá trình giải quyết sự việc kéo dài 6 năm. Trong khoảng thời gian đó, ông T
đã phải chịu thiệt hại không nhỏ về kinh tế, thời gian, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín.
Chính vì vậy, tại phiên tòa sơ thẩm, ông T yêu cầu tòa án giải quyết buộc Uỷ
ban nhân dân, Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh
Quảng Bình phải bồi thường cho ông số tiền 680.000.000 đồng do thiệt hại về
kinh tế, mất thời gian, sức khỏe và danh dự nhân phẩm bị xâm hại; đồng thời,
yêu cầu các cơ quan nói trên viết bài cải chính và công khai xin lỗi trên báo,
đài và tổ chức xin lỗi tại nơi ông Lại Sỹ T đang sinh sống.
Tuy nhiên, căn cứ lời khai và chứng cứ tại phiên tòa, HĐXX sơ thẩm đã quyết
78
định:
- Chấp nhận một phần đơn khởi kiện của ông Lại Sỹ T về việc yêu Bộ Chỉ
huy Quân sự tỉnh Quảng Bình, Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh
Quảng Bình, Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Bình và Uỷ ban nhân dân xã S phải
bồi thường cho ông Lại Sỹ T các khoản về tổn thất tinh thần, thiệt hại về kinh
tế, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, thời gian số tiền: 46.730.000đ.
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lại Sỹ T về yêu cầu Bộ Chỉ
huy Quân sự tỉnh Quảng Bình viết bài cải chính và xin lỗi công khai về hành
vi viết bài đã đăng, phát sai sự thật trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Sau phiên sơ thẩm, ngày 07/9/2017, nguyên đơn ông Lại Sỹ T kháng cáo toàn
bộ Bản án dân sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử xét thấy:
Việc cho các đối tượng nói trên được hưởng chính sách thương binh là không
đúng nên hành vi của ông Lại Sỹ T được xác định là hành vi thực hiện quyền
tố cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 2 và các điểm a, d khoản 1 Điều 9 Luật
tố cáo năm 2011.
Hành vi thực hiện quyền tố cáo của Ông Lại Sỹ T đối với việc cho bà Lê Thị
H được hưởng chính sách như thương binh là không đúng của các cơ quan có
thẩm quyền bắt đầu từ ngày 29/01/2007 và kéo dài đến ngày 28/4/2009 thì có
kết luận cuối cùng (ngày UBND huyện L ban hành Quyết định số 1976/QĐ-
UBND thu hồi Giấy chứng nhận bị thương số 31/GCNBT ngày 25/9/2005 của
UBND huyện L cấp cho bà Lê Thị H); việc tố cáo đối với ông Trương Thế T1
kéo dài đến ngày 20/8/2012 thì có kết luận cuối cùng (kết luận số 535/KL-
BQP ngày 20/8/2012 của Bộ quốc phòng “ông Trương Thế T1 không đủ điều
kiện để hưởng chế độ thương binh”). Ông T cho rằng: Do việc giải quyết tố
cáo của các cơ quan chức năng không khách quan, không đúng nên ông T
79
phải chi phí tiền, thời gian để đi nhiều cơ quan có liên quan thu thập tài liệu,
chứng cứ để chứng minh cho việc tố cáo của mình; trong thời gian dài thực
hiện quyền tố cáo của công dân, ông và gia đình còn bị tổn thất về tinh thần
và sức khỏe nên ông yêu cầu các cơ quan nói trên phải có trách nhiệm bồi
thường cho ông số tiền 680.000.000 đồng.
Tòa án cho rằng, việc công dân thực hiện quyền tố cáo được quy định trong
Luật tố cáo là mang tính tự giác của công dân. Trong vụ án này, ông Lại Sỹ T
đã thực hiện quyền tố cáo và đã bỏ thời gian, chi phí tự đi thu thập các tài
liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc tố cáo của mình là có căn cứ. Các cơ
quan có thẩm quyền đã kết luận nội dung tố cáo của ông Lại Sỹ T là đúng và
đã thu hồi các chế độ thương binh đối với bà Lê Thị H và ông Trương Thế
T1.
Tại điểm e khoản 1 Điều 9 Luật Tố cáo khi quy định về “Quyền và nghĩa vụ
của người tố cáo” có nêu: “Được khen thưởng theo quy định của pháp luật”;
Theo đó, Luật tố cáo không quy định người thực hiện quyền tố cáo được đền
bù chi phí cho việc đi tố cáo mà chỉ quy định là người tố cáo “được khen
thưởng”.
Trong quá trình giải quyết tố cáo của ông T, các cơ quan tham gia hoặc trực
tiếp giải quyết tố cáo đã ban hành các công văn (trong đó có công văn cho
rằng việc tố cáo của ông T là không có căn cứ) nhưng những văn bản này
không trực tiếp gây thiệt hại cho ông T. Để chứng minh cho việc khiếu nại
của mình là đúng nên ông T đã tự bỏ thời gian và một số chi phí để thu thập
tài liệu, hành vi của ông T theo quy định của Luật tố cáo sẽ được khen
thưởng. Để bù đắp một số công sức, thời gian và chi phí do ông T tự bỏ ra nên
Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2017/DS-ST ngày 29/8/2017 của Tòa án nhân
dân tỉnh Quảng Bình đã áp dụng khoản 2 Điều 6 Bộ luật dân sự năm 2015 “...
80
lẽ công bằng” làm căn cứ để áp dụng các quy định tại: Điều 585, khoản 2
Điều 592 và Điều 598 Bộ luật dân sự năm 2015 buộc các cơ quan: Ủy ban
nhân dân tỉnh Quảng Bình, Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng
Bình, Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình phải bồi thường cho ông Lại Sỹ T
một số tiền là: 46.730.000 đồng là có căn cứ.
Đồng thời, do các cơ quan này không có hành vi xúc phạm đến danh dự, nhân
phẩm và uy tín của ông Lại Sỹ T và cũng không có công văn hay yêu cầu các
cơ quan báo chí viết, đăng bài, đưa tin về việc thực hiện quyền tố cáo của ông
T nên việc ông T yêu cầu các cơ quan này phải viết bài cải chính và công khai
xin lỗi trên báo, đài, nơi ông sinh sống không được chấp nhận. [46]
Như vậy, qua vụ việc này có thể thấy trong trường hợp có tranh chấp,
việc đòi bồi thường chi phí tố cáo sai phạm sẽ không được Tòa án chấp nhận
81
vì họ không coi đây là thiệt hại để bồi thường.
CHƢƠNG 3
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI
ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM DANH DỰ, NHÂN
PHẨM, UY TÍN CỦA CÁ NHÂN VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN
3.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI
HÀNH VI XÂM PHẠM DANH DỰ, NHÂN PHẨM, UY TÍN CỦA
CÁ NHÂN
Kể từ khi BLDS năm 2015 có hiệu lực thi hành, các quy định về chế tài
dân sự được áp dụng đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín
của cá nhân đã thực sự đem lại hiệu quả, trở thành cẩm nang pháp lý vững
vàng, tạo điều kiện thuận lợi cho các cấp Tòa án trong quá trình áp dụng pháp
luật giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy
tín bị xâm phạm, qua đó giúp người bị thiệt hại khắc phục được phần lớn
những tổn thất mà họ phải gánh chịu.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử tại
Tòa án thấy rằng, bên cạnh những thành tựu đạt được, pháp luật dân sự quy
định về vấn đề này cũng bộc lộ không ít những hạn chế, còn nhiều điểm quy
định chưa được cụ thể, rõ ràng và chưa thống nhất, gây lúng túng cho cán bộ
làm công tác xét xử trong quá trình nhận thức và áp dụng pháp luật. Có thể
liệt kê một số điểm sau đây:
Thứ nhất, khoa học pháp lý Việt Nam thiếu vắng các kiến giải về khái
niệm danh dự, nhân phẩm, uy tín.
Liên quan đến việc bảo vệ quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá
82
nhân, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đưa ra rất nhiều quy định về xác định thiệt
hại trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, về căn cứ phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại,... nhưng lại không nêu rõ khái niệm thế
nào là danh dự, nhân phẩm, uy tín. Điều này có thể dẫn đến nhiều cách hiểu
khác nhau trong thực tế, khiến việc áp dụng pháp luật không được chính xác,
gây lúng túng trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, việc bỏ yếu tố lỗi ra khỏi các điều kiện làm phát sinh chế tài
dân sự là chưa hợp lý.
Theo quy định của BLDS năm 2015, cơ sở để áp đặt trách nhiệm đối với một
chủ thể có hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác đó
là: (1) Có hành vi trái pháp luật; (2) Có thiệt hại xảy ra; (3) Có mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại. Theo đó, trách nhiệm vẫn
phát sinh ngay cả khi không có lỗi của người gây thiệt hại.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu về những căn cứ làm phát sinh chế tài thấy rằng lỗi
là điều kiện không thể thiếu trong việc hình thành trách nhiệm, bởi pháp luật
dân sự đã dành hẳn một điều luật quy định rất rõ về hình thức lỗi (Điều 364
BLDS năm 2015). Như vậy có thể khẳng định, lỗi trong trách nhiệm dân sự là
do pháp luật quy định trước, không phải là do suy đoán. Khi muốn áp đặt chế
tài cho một chủ thể nào đó, cần phải xác định yếu tố lỗi để từ đó có căn cứ
quy trách nhiệm cho người đã có hành vi vi phạm. Theo đó, người có hành vi
gây thiệt hại (có lỗi) sẽ phải chịu chế tài.
Thứ ba, quy định các trường hợp miễn trừ trách nhiệm còn chung
chung, chưa cụ thể.
BLDS năm 2015 chỉ ra các trường hợp miễn trừ trách nhiệm bao gồm: gây
thiệt hại do sự kiện bất khả kháng, thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của bên bị
thiệt hại, gây thiệt hại do phải hành động trong tình thế cấp thiết và phòng vệ
83
chính đáng. Tuy nhiên trên thực tế, việc áp dụng ba trường hợp miễn trừ trách
nhiệm do sự kiện bất khả kháng, do phải hành động trong tình thế cấp thiết và
phòng vệ chính đáng đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín là
rất hạn chế.
Bên cạnh đó, trong một số trường hợp khi xét xử Tòa án thừa nhận người gây
thiệt hại danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác nhưng không phải chịu
trách nhiệm như việc tố giác tội phạm. Mặc dù vậy, pháp luật dân sự vẫn chưa
đưa trường hợp này vào bộ luật với tư cách là một trường hợp miễn trách cụ
thể.
Thực tế cho thấy, có những hành vi xảy ra trên thực tế xâm phạm danh dự,
nhân phẩm, uy tín của cá nhân nhưng theo pháp luật quốc tế lại không phải
chịu trách nhiệm, tuy nhiên pháp luật nước ta lại chưa có quy định về những
trường hợp này, chẳng hạn như việc đưa tin chính xác và trung thực của báo
chí trong quá trình tố tụng tại tòa hay việc đưa ra những tuyên bố phản ánh
đúng sự thật khách quan,... Trong những trường hợp đó, nếu bắt người gây
thiệt hại phải chịu trách nhiệm sẽ là không hợp lý.
Thứ tư, đối với các chế tài như buộc chấm dứt hành vi xâm phạm, hủy
quyết định cá biệt trái pháp luật, buộc thực hiện nghĩa vụ… pháp luật chưa
có quy định cụ thể về điều kiện làm phát sinh chế tài.
BLDS năm 2015 đã dành hẳn một chương quy định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong đó có các quy định về cơ sở áp đặt
trách nhiệm và các trường hợp miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên, trên thực tế không phải lúc nào người bị thiệt hại cũng yêu cầu áp
dụng biện pháp này, có những trường hợp bên bị thiệt hại chỉ yêu cầu cá nhân
có hành vi xâm phạm xin lỗi, cải chính công khai. Vậy, trong những trường
hợp đó, điều kiện để áp đặt trách nhiệm cho chủ thể gây thiệt hại có giống
84
điều kiện áp đặt chế tài bồi thường thiệt hại không?
Cùng với đó, nếu căn cứ theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành, có thể
hiểu các trường hợp miễn trừ trách nhiệm sẽ chỉ được áp dụng khi bên bị thiệt
hại yêu cầu chủ thể có hành vi xâm phạm bồi thường thiệt hại. Vậy, đối với
những trường hợp khác như cá nhân bị thiệt hại chỉ muốn áp dụng biện pháp
buộc chủ thể gây thiệt hại xin lỗi, cải chính công khai hay chỉ đơn giản là
buộc chấm dứt hành vi xâm phạm thì có được áp dụng không?
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI
ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM DANH DỰ, NHÂN PHẨM, UY
TÍN CỦA CÁ NHÂN
Qua việc tìm hiểu và phân tích những quy định pháp luật về chế tài đối
với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân của các quốc
gia trên thế giới cũng như của Việt Nam qua từng thời kỳ, tác giả xin đưa ra
một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, Bộ luật Dân sự cần có một định nghĩa cụ thể, rõ ràng về
danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân.
Như đã phân tích ở trên, mặc dù BLDS năm 2015 đưa ra rất nhiều quy định
về trách nhiệm bồi thường hay việc xác định thiệt hại trong trường hợp danh
dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm nhưng lại chưa có bất kỳ một quy định
nào định nghĩa về danh dự, nhân phẩm, uy tín. Chính vì vậy, thiết nghĩ pháp
luật dân sự cần sớm có quy định về vấn đề này để đi đến cách hiểu thống nhất
trong việc áp dụng pháp luật giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân
sự cũng như việc giải quyết tranh chấp khi có hành vi xâm phạm được chính
xác và đạt hiệu quả cao.
Tác giả cho rằng, khi xây dựng khái niệm “danh dự”, “nhân phẩm”, “uy tín”
trong Bộ luật Dân sự, các nhà làm luật có thể tham khảo khái niệm danh dự,
nhân phẩm, uy tín được định nghĩa trong Từ điển luật học và Từ điển Tiếng
85
Việt. Theo đó:
+ Danh dự là sự coi trọng của dư luận xã hội, dựa trên giá trị tinh thần
và đạo đức tốt đẹp; là sự suy tôn các tiêu chuẩn đạo đức đối với con
người, là một trong những yếu tố để khẳng định vị trí, vai trò và uy tín
của cá nhân đó trong xã hội.
+ Nhân phẩm là tổng hợp những phẩm chất mang tính đặc trưng của
mỗi cá nhân, là toàn bộ những yếu tố tạo nên giá trị của một con người.
+ Uy tín là sự tín nhiệm, mến phục và kính trọng của mọi người xung
quanh, của tập thể, cộng đồng đối với một cá nhân về một lĩnh vực nào
đó như phẩm chất đạo đức, nhân cách.
Thứ hai, bổ sung yếu tố “lỗi” là một trong những căn cứ làm phát sinh
chế tài dân sự.
Có thể thấy, pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành chỉ chú trọng đến yếu tố
thiệt hại mà không quan tâm đến thái độ tâm lý của người gây thiệt hại. Theo
đó, lỗi trong trách nhiệm dân sự được hiểu là lỗi suy đoán, tức là chỉ cần xác
định được hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật thì đương nhiên sẽ
xác định được lỗi của chủ thể có liên quan.
Xét về phương diện công bằng cá nhân, trong trường hợp người bị thiệt hại
không dẫn chứng được lỗi của chủ thể có hành vi xâm phạm, họ sẽ phải gánh
chịu thiệt hại, như vậy là một sự bất công. Tuy nhiên, nếu bắt người gây thiệt
hại phải bồi thường trong khi họ không có lỗi thì giải pháp ấy cũng không hợp
lẽ công bằng.
Vẫn biết rằng đòi hỏi điều kiện lỗi, trong một số trường hợp sẽ đem đến kết
quả không như ý muốn. Tuy nhiên, trong những hoàn cảnh nan giải như vậy,
chúng ta phải chấp nhận qui tắc nào được coi là tiện lợi hơn cả. Về phương
diện này, có thể thấy việc áp đặt trách nhiệm dựa trên cơ sở lỗi vừa thỏa mãn
86
đạo lý, vừa hợp với lợi ích công cộng.
Năm 1958, giáo sư B. Starck đã đưa ra lý thuyết về căn bản của trách nhiệm
dân sự - lý thuyết bảo đảm. Trước ông, các luật gia đều đi tìm căn bản của
trách nhiệm dân sự trong thái độ hoặc trong tình trạng tâm lý của người đã
gây ra tổn thất. Do đó, những lý thuyết này đều nhuộm sắc thái chủ quan.
Giáo sư B. Starck lại đề nghị rằng phải tìm kiếm căn bản trách nhiệm trong
những quyền lợi của nạn nhân. Sở dĩ nạn nhân được quyền bồi thường là vì có
những quyền lợi được bảo đảm. Như vậy, lý thuyết đảm bảo không xét tâm
trạng và thái độ của người gây ra tai nạn mà chỉ xét tới quyền lợi của nạn
nhân; do đó, thuyết này có một sắc thái khách quan. [18, tr.495]
Theo đó, đối với loại tổn hại xâm phạm đến thân thể và tài sản, vì tất cả mọi
chủ thể trong xã hội đều được Nhà nước bảo đảm về tính mạng và tài sản của
mình, cho nên mỗi khi có sự tổn hại xảy ra, người gây thiệt hại phải đương
nhiên bồi thường mà bên bị thiệt hại không cần phải dẫn chứng điều kiện lỗi.
Còn đối với những tổn hại về tinh thần, các cá nhân không được hưởng sự
đảm bảo vì lẽ mỗi người đều có những tự do cá nhân mà luật pháp đã công
nhận. Điều này có thể gây thiệt hại cho một cá nhân nào đó nhưng không vì
thế mà cá nhân đó được hưởng bồi thường.
Mặt khác, trong trách nhiệm dân sự nói chung, điều kiện lỗi không thể thiếu
được trong việc xác định trách nhiệm. Hơn nữa, Điều 364 BLDS đã quy định
rất rõ về hình thức lỗi. Như vậy, đã quá rõ ràng rằng lỗi trong trách nhiệm dân
sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do pháp luật quy định cả về cơ sở xác
định lỗi, cả về hình thức lỗi. Từ những cơ sở pháp lý trên, có thể nhận định lỗi
trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không phải là
do suy đoán, mà do pháp luật quy định trước. Khi xác định trách nhiệm bồi
87
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải xác định yếu tố lỗi để có căn cứ
quy trách nhiệm cho người có hành vi trái pháp luật – người có hành vi có lỗi
phải bồi thường thiệt hại [17, tr.79]
Thứ ba, quy định các trường hợp miễn trách nhiệm cụ thể cho hành vi
xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân.
Qua việc phân tích các trường hợp miễn trách nhiệm của một số quốc
gia trên thế giới tại Mục 1.3 Chương 1 có thể thấy những quy định của Vương
quốc Anh về vấn đề này khá tiến bộ, chi tiết. Do đó, các nhà làm luật Việt
Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của quốc gia này trong việc xây dựng quy
định pháp luật về các trường hợp miễn trừ trách nhiệm. Pháp luật cần quy
định một cách chi tiết, liệt kê cụ thể các trường hợp, từ đó sẽ giúp việc áp
dụng pháp luật được dễ dàng và thuận tiện hơn. Tác giả xin đề xuất một số
trường hợp sau:
Hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là tuyên bố
phản ánh đúng sự thật khách quan.
Hành vi xâm phạm là một bình luận hợp lý. Theo đó, để được coi là
một bình luận hợp lý, hành vi xâm phạm phải thỏa mãn các yêu cầu
sau: (1) Đối tượng bình luận là vấn đề có tính chất thuộc về lợi ích
công cộng, ví dụ như: chính quyền, công đoàn, cảnh sát,...; (2) Từ ngữ
trong tuyên bố phải là một sự bình luận chứ không phải là trình bày
tình tiết; (3) Tình tiết mà dựa vào đó người có hành vi xâm phạm đưa
ra bình luận phải là tình tiết phản ánh sự thật khách quan; (4) Bình luận
không được có tính ác ý. Bình luận được coi là có tính ác ý khi người
đưa ra bình luận không thật sự tin rằng bình luận là đúng sự thật.
Tuyên bố được đưa ra bởi các đại biểu trong kỳ họp Quốc hội hoặc các
88
tuyên bố trong báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên bố được đưa ra bởi các Bộ trưởng và các thành viên khác của
Chính phủ về những thành viên Chính phủ khác trong quá trình thực
hiện công vụ của mình.
Các tuyên bố được đưa ra trong quá trình tố tụng bởi thẩm phán, nhân
chứng, luật sư và các đương sự.
Việc đưa tin chính xác và trung thực của báo chí trong quá trình tố tụng
tại tòa.
Tuy nhiên, việc miễn trừ trách nhiệm sẽ chỉ được áp dụng đối với hành
vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đưa ra tuyên bố, còn việc
một người khác đăng tải lại tuyên bố đó sẽ phải chịu chế tài.
Thứ tư, bổ sung quy định cụ thể về điều kiện làm phát sinh các loại chế
tài khác như: buộc chấm dứt hành vi; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc
thực hiện nghĩa vụ; hủy quyết định cá biệt trái pháp luật; công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự.
Hiện nay pháp luật dân sự Việt Nam mới chỉ quy định về điều kiện làm
phát sinh cũng như các trường hợp miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên, trên thực tế, khi có hành vi xâm phạm xảy ra, cá nhân bị thiệt hại
có thể lựa chọn áp dụng nhiều biện pháp chế tài khác nhau như: buộc chấm
dứt hành vi xâm phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện
nghĩa vụ; hủy quyết định cá biệt trái pháp luật; công nhận, tôn trọng, bảo vệ
và bảo đảm quyền dân sự. Mặc dù vậy, đối với những loại chế tài này lại chưa
có quy định cụ thể về điều kiện áp đặt trách nhiệm. Do đó, để giúp việc áp
dụng pháp luật được dễ dàng, đạt hiệu quả, tác giả xin đề xuất quy định về
điều kiện áp đặt trách nhiệm, mà trong đó bao gồm căn cứ miễn trừ trách
89
nhiệm sẽ được áp dụng chung cho tất cả mọi biện pháp chế tài.
KẾT LUẬN
Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín là một quyền nhân
thân quan trọng của mỗi cá nhân, không chỉ được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật của Việt Nam mà còn được pháp luật thế giới thừa nhận. Tuy nhiên
thực tế cho thấy, trong những năm gần đây số lượng các vụ việc xâm phạm
danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân ngày càng gia tăng với tính chất và
mức độ cũng ngày một nghiêm trọng, phức tạp.
BLDS năm 2015 được ban hành với những quy định chi tiết, cụ thể đã
thực sự đem lại hiệu quả, góp phần không nhỏ vào quá trình xét xử của các cơ
quan tư pháp được dễ dàng và chính xác hơn. Mặc dù vậy, bên cạnh những
thành tựu đạt được, trong quá trình áp dụng pháp luật về bảo vệ danh dự, nhân
phẩm, uy tín của cá nhân đã cho thấy còn nhiều điểm hạn chế, bất cập như:
khoa học pháp lý hiện nay còn thiếu vắng các kiến giải về khái niệm danh dự,
nhân phẩm, uy tín; việc quy định các trường hợp miễn trừ trách nhiệm còn
chung chung, chưa cụ thể,... dẫn đến cách hiểu và áp dụng pháp luật về chế tài
đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân còn chưa
thống nhất, gặp nhiều lúng túng.
Đề tài “Chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín
của cá nhân theo pháp luật dân sự ở Việt Nam” ngoài việc phân tích những
vấn đề lý luận chung về chế tài dân sự; quyền nhân thân; quyền đối với danh
dự, nhân phẩm, uy tín; cơ sở áp đặt chế tài đối với hành vi xâm phạm danh
dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân cùng các trường hợp miễn trừ trách nhiệm
của một số quốc gia trên thế giới, luận văn còn tập trung phân tích những quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chế tài đối với hành vi xâm phạm
danh dự, nhân phẩm, uy tín; đồng thời, chỉ ra những điểm còn hạn chế, bất
90
cập của pháp luật thực định về vấn đề này. Qua đó, tác giả cũng mạnh dạn đề
xuất những giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế tài đối với hành vi
xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân.
Tuy rằng, những phương hướng, giải pháp mà tác giả đưa ra còn chưa
thật sự đầy đủ nhưng thông qua luận văn, tác giả mong muốn đóng góp một
phần tri thức nhỏ bé của mình vào quá trình hoàn thiện các quy định pháp luật
về chế tài dân sự nói chung và chế tài đối với hành vi xâm phạm danh dự,
nhân phẩm, uy tín của cá nhân nói riêng, từ đó, giúp việc áp dụng pháp luật và
giải quyết tranh chấp của các cơ quan tư pháp được dễ dàng, chính xác hơn,
đảm bảo tính nghiêm minh và công bằng của pháp luật xã hội chủ nghĩa ở
91
nước ta./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
***
VĂN BẢN PHÁP LUẬT
[1] Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966
[2] Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948
[3] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980
[4] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
[5] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
[6] Bộ luật Dân sự năm 1995
[7] Bộ luật Dân sự năm 2005
[8] Bộ luật Dân sự năm 2015
[9] Luật Bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với
nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân năm 1957
[10] Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959
[11] Luật Báo chí năm 2016
[12] Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009
[13] Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017
[14] Nghị quyết số 03/2006/HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ
92
luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
SÁCH, LUẬN ÁN, LUẬN VĂN
[15] Từ điển tiếng Việt (2006), NXB. Đà Nẵng, Đà Nẵng
[16] Từ điển luật học (2006), NXB. Tư pháp, Hà Nội
[17] PGS.TS. Phùng Trung Tập (2017), Luật Dân sự Việt Nam (Bình giải và
áp dụng) – Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, NXB.
Công an nhân dân
[18] Vũ Văn Mẫu (1963), Việt Nam dân luật lược khảo – Quyển II: Nghĩa vụ
và khế ước), Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn
[19] Nguyễn Hải Long (2017), Luận văn thạc sĩ luật học, Các chế tài đối với
vi phạm hợp đồng song vụ theo pháp luật Việt Nam, Hà Nội.
[20] TS. Nguyễn Ngọc Điện (2010), Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự
(Sách tham khảo), NXB. Chính trị quốc gia
[21] Đỗ Văn Đại – Nguyễn Trương Tín (2014), Pháp luật Việt Nam về trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội
[22] Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật
học, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội
[23] Quốc triều Hình luật (2003), NXB. Thành phố Hồ Chí Minh.
[24] TS. Lê Đình Nghị (2008), Luận án tiến sĩ luật học, Quyền bí mật đời tư
theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam, Trường ĐH Luật Hà Nội,
93
Hà Nội
[25] Trần Minh Châu (2006), Luận văn Thạc sĩ luật học, Bồi thường thiệt
hại trong trường hợp sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm – Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn, Hà Nội
[26] Nguyễn Tôn (2010), Luận văn Thạc sĩ luật học, Bồi thường tổn thất tinh
thần do sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân
bị xâm phạm, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội
[27] Lê Thị Bích Lan (1999), Luận án Thạc sĩ luật học, Một số vấn đề về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm và uy tín, Hà Nội.
TẠP CHÍ, ĐỀ TÀI KHOA HỌC, TÀI LIỆU HỘI THẢO
[28] Tòa án nhân dân tối cao (1962), Nguyên tắc dân pháp và trình tự tố
tụng dân sự của Liên – Xô và các nước Cộng hòa Liên bang, Phòng
tuyên truyền – Tập san
[29] Nguyễn Văn Hợi (2017), Những điểm mới trong quy định của Bộ luật
Dân sự năm 2015 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
Tạp chí luật học, số 3, 2017
[30] Đỗ Văn Đại – Lê Hà Huy Phát (2016), Những điểm mới về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2015, Tạp chí Tòa
94
án nhân dân, số 7, 2016
[31] Nhà pháp luật Việt - Pháp (1997), Kỷ yếu “Hội thảo quyền nhân thân
và bảo vệ quyền nhân thân bằng pháp luật dân sự”, Hà Nội.
[32] Ths. Hoàng Thị Bích Ngọc (2018), Mối quan hệ giữa công lý và quyền
con người – Kỷ yếu Hội thảo “Công lý và quyền tiếp cận công lý: Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội
[33] GS.TS. Nguyễn Đăng Dung – NCS. Nguyễn Đăng Duy, Lịch sử tư
tưởng về Công lý – Kỷ yếu Hội thảo “Công lý và quyền tiếp cận công
lý: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội
[34] Ths. Hoàng Thị Bích Ngọc – PGS.TS. Vũ Công Giao, Tiếp cận công lý
theo quan điểm của Liên hợp quốc – Kỷ yếu Hội thảo “Công lý và
quyền tiếp cận công lý: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội
[35] Trần Kiên, Internet và chế định trách nhiệm dân sự đối với hành vi xâm
phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, nhân phẩm: Kinh nghiệm của Vương
quốc Anh (Bài viết được thực hiện trong khuôn khổ đề tài cấp Đại học
Quốc gia Hà Nội mã số QG.17.01)
TRANG WEB
[36] 20/11/2016, Trách nhiệm dân sự trong luật Hồng Đức,
https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2016/11/20/01-2/
95
[37] 07/3/2009, TS. Ngô Huy Cương, Trách nhiệm dân sự - So sánh và phê
phán, https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2009/03/07/2420-2/
[38] 18/11/2009, TS. Bùi Đăng Hiếu, Khái niệm và phân loại quyền nhân
thân, https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2009/11/18/4086/
[39] 15/06/2016-06:50,https://dantri.com.vn/phap-luat/bi-buoc-phai-xin-loi-
vi-xuc-pham-tinh-cu-tren-facebook-20160615080709242.htm
[40] 20/7/2018 16:19 http://kinhtedothi.vn/bao-dien-tu-vietnamnet-bi-xu-
phat-vi-thong-tin-sai-su-that-321254.html
[41] 17/4/2015 12:02 UTC+7 http://congly.vn/phap-dinh/toa-tuyen-an/cong-
khai-xin-loi-ong-nguyen-thanh-chan-bi-ket-an-oan-93004.html
[42] https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta43440t1cvn/chi-tiet-ban-an
[43] https://banan.thuvienphapluat.vn/ban-an/ban-an-102018dspt-ngay-
22012018-ve-tranh-chap-doi-boi-thuong-thiet-hai-do-danh-du-nhan-
pham-uy-tin-bi-xam-pham-17429
[44] https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta251753t1cvn/chi-tiet-ban-an
[45] 16/3/2010, https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2010/03/16/4664/
96
[46] https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta115449t1cvn/chi-tiet-ban-an