VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH QUANG TRIỀU

KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỚI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS PHÙNG THẾ VẮC

HÀ NỘI, năm 2020

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Với vị trí và vai trò của mình, VKSND tiến hành các hoạt động TTHS xuyên

suốt ngay từ quá trình nhận thông tin tố giác tội phạm cho đến khi bản án, quyết

định được thi hành. Chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố của VKS thể

hiện thông qua việc VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý để truy cứu

trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét

xử. Bên cạnh đó, VKS còn thực hiện chức năng giám sát hoạt động xét xử của Tòa

án. Để đảm bảo việc pháp luật được thực hiện nghiêm minh, đúng đắn, trong trường

hợp việc xét xử của Tòa án vi phạm nghiêm trọng các quy định của BLHS hay

BLTTHS, hoặc sau phiên tòa XXST mà phát hiện thấy quá trình TTHS từ khi khởi

tố VAHS đến khi truy tố, xét xử có VPPL cả về hình thức và nội dung thì VKS

cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp sử dụng quyền KNPT để yêu cầu Tòa án cấp

trên xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm nhằm sửa chữa, khắc phục các sai lầm

của Tòa án cấp sơ thẩm khi ra các bản án, quyết định đó. Trong rất nhiều hoạt động

của ngành kiểm sát, kháng nghị là một trong những hoạt động quan trọng nhằm thể

hiện chức năng của ngành Kiểm sát nhân dân.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc KNPT của VKSND tỉnh Bình Định còn

nhiều hạn chế. Công tác kiểm sát bản án, biên bản phiên tòa, biên bản nghị án, kiểm

sát các nguồn tài liệu khác thực hiện đạt hiệu quả chưa cao, do đó chưa phát hiện

được những vi phạm của cấp sơ thẩm. Bên cạnh đó, vẫn còn tình trạng một bộ phận

cán bộ KSV có trình độ nhận thức chưa sâu, chất lượng bản KNPT chưa đạt, nên có

nhiều quyết định KNPT của VKS ban hành chưa chính xác, dẫn đến nhiều vụ án

VKS phải rút kháng nghị, tỷ lệ kháng nghị được Tòa án chấp nhận còn thấp trong

khi số lượng án sơ thẩm phải sửa, hủy án thông qua kháng cáo chiếm tỷ lệ khá lớn.

1

Công tác KNPT hình sự chưa chưa phát huy được hết vai trò, chức năng nhiệm vụ

của ngành KSND trong tiến trình giải quyết VAHS theo TTHS do chưa được quan

tâm đúng mức [37, tr.8].

Để góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác KNPT các VAHS trên địa

bàn tỉnh Bình Định trong thời gian tới, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Kháng nghị

phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Định” làm luận văn thạc sĩ Luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến

công tác KNPT của VKSND theo pháp luật TTHS Việt Nam, tiêu biểu như công

trình nêu trên, liên quan đến lý luận và thực tiễn công tác KNPT hình sự của

VKSND các cấp còn có những bài viết khá được đăng trên Tạp chí Nhà nước và

Pháp luật, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, Tạp chí Toà án nhân dân, Tạp chí

Kiểm sát nhân dân, Tạp chí Công an nhân dân. Những công trình khoa học đã nêu

ở trên là nguồn tài liệu quý giá, quan trọng không thể thiếu giúp tác giả nắm vững

phần lý luận trong việc thực hiện đề tài luận văn.

Ngoài các công trình nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về công

tác KNPT của VKSND theo pháp luật TTHS Việt Nam, có một số công trình

nghiên cứu liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu của đề tài luận văn, như:

Các đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học nêu trên đã nghiên cứu về mặt lý luận

và thực tiễn công tác KNPT hình sự của VKSND ở những phương diện khác nhau,

lý luận được trình bày rõ ràng, mạch lạc, cụ thể, đã tập trung giải quyết một số vấn

đề nhất định trong nghiên cứu và được nghiên cứu số liệu thực tiễn trên những địa

bàn, địa phương khác nhau. Có thể đánh giá rằng, những luận văn trên, luận án nào

nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về KNPT hình sự của VKSND thực tiễn trên

địa bàn tỉnh Bình Định. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Kháng nghị phúc

thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Định” làm luận văn Thạc sĩ luật học là không 2

bị trùng lắp với các công trình khoa học đã nghiên cứu từ trước, đồng thời đáp ứng

được yêu cầu, đòi hỏi của lý luận và thực tiễn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Từ những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến

đề tài, luận văn đã kế thừa một cách có chọn lọc những hạt nhân hợp lý để góp phần

làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận về KNPT hình sự; phân tích, đánh giá toàn

diện thực trạng công tác KNPT trên địa bàn tỉnh Bình Định từ giai đoạn năm 2015

đến năm 2019, nêu lên được những tồn tại, hạn chế của thực trạng đó; luận văn đưa

ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác KNPT trên địa bàn

tỉnh Bình Định trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, luận văn Cao học Luật nêu lên một số nhiệm vụ

cần phải giải quyết, cụ thể như sau:

- Một là, nghiên cứu làm rõ những cơ sở lý luận về KNPT hình sự như khái

niệm, đặc điểm, vai trò, thẩm quyền, trình tự thủ tục, hậu quả pháp lý của việc

KNPT hình sự.

- Hai là, nghiên cứu, phân tích làm rõ các quy định của pháp luật TTHS hiện

hành quy định về công tác KNPT của VKSND các cấp.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu đề tài bao gồm: nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực

trạng công tác KNPT hình sự, có sự so sánh đối chiếu giữa BLTTHS năm 2003 với

BLTTHS năm 2015; Luật tổ chức VKSND năm 2002 và 2014, liên hệ với thực tiễn

tỉnh Bình Định.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

3

- Phạm vi về nội dung: đề tài nghiên cứu nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND

trong thực hiện công tác KNPT hình sự.

- Phạm vi về không gian: đề tài nghiên cứu thực trạng công tác KNPT hình

sự của VKSND hai cấp tỉnh Bình Định dưới góc độ LHS và TTHS trên địa bàn tỉnh

Bình Định.

- Phạm vi về thời gian: Các số liệu thống kê được sử dụng trong luận văn tác

giả đã thu thập tại địa bàn tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài được nghiên cứu dựa trên nền tảng cơ sở lý luận của phép biện chứng

duy vật và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các

quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền con

người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, về cải cách tư pháp, hoàn thiện

pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu thành công đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên

cứu cụ thể gồm các phương pháp sau:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để phân tích số liệu thống

kê, tổng hợp đánh giá thực trạng công tác KNPT trên địa bàn tỉnh Bình Định tại

Chương 2 của luận văn

- Phương pháp thống kê hình sự: được sử dụng để tiến hành thống kê hình sự

trên cơ sở báo cáo số liệu của VKND tỉnh Bình Định qua đó làm rõ thực trạng công

tác KNPT trên địa bàn tỉnh Bình Định.

- Phương pháp chuyên gia: được sử dụng thông qua trực tiếp phỏng vấn, trao

đổi với các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu lý luận và các cán bộ có nhiều kinh

nghiệm thực tiễn trong công tác KNPT các VAHS nhằm làm sáng tỏ những vấn đề 4

lý luận và thực tiễn về công tác KNPT của VKSND tỉnh Bình Định.

- Phân tích nghiên cứu điển hình: được sử dụng lựa chọn một số vụ án điển

hình được VKSND tỉnh Bình Định KNPT để dùng minh hoạ một số nhiệm vụ của

đề tài luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn đã hệ thống, làm rõ được những vấn đề lý luận và thực tiễn công

tác KNPT hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Định.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung và thực tiễn công tác

KNPT hình sự ở tỉnh Bình Định, luận văn đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao

hiệu quả công tác KNPT hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Định trong thời gian tới.

Ngoài ra, các giải pháp này có thể được áp dụng ở các địa phương khác có đặc điểm

tình hình tội phạm, thực trạng công tác tư pháp tương tự. Bên cạnh đó, luận văn còn

có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho giảng viên, học viên, sinh viên trong

việc nghiên cứu về KNPT hình sự phục vụ cho công tác, giảng dạy, học tập, nghiên

cứu tại các cơ sở đào tạo về LHS.

7. Kết cấu của luận văn

Chương 1: Lý luận về kháng nghị phúc thẩm và những quy định của pháp

luật về kháng nghị phúc thẩm hình sự

Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng kháng

nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định

Chương 3: Một số yêu cầu và giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất

lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định

5

6

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH

CỦA PHÁP LUẬT VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ

1.1. Lý luận về kháng nghị phúc thẩm

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và hiệu lực của kháng nghị phúc thẩm

1.1.1.1. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm

Theo Từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý thì: “kháng nghị: là bày tỏ ý

kiến chống lại điều đã quyết nghị” [43, tr.894]; “phúc thẩm: là xét lại những vụ án

do Tòa án dưới đưa lên” [43, tr.1087]. Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học

pháp lý, Bộ Tư pháp thì: “Kháng nghị của VKS là việc VKS khi thực hành quyền

kiểm sát hoạt động tư pháp không đồng ý với toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết

định của Tòa án, gửi văn bản đến Tòa án có thẩm quyền làm ngưng hiệu lực thi

hành đối với toàn bộ hoặc một phần bản án đó để xét xử theo thủ tục phúc thẩm,

giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đảm bảo cho vụ án được xét xử chính xác, khách

quan, đúng pháp luật, KNPT chỉ có VKS cùng cấp, cùng lãnh thổ với Tòa án đã ra

bản án, quyết định sơ thẩm và VKS cấp trên trực tiếp của VKS này mới có quyền

kháng nghị những bản án, quyết định sơ thẩm [39, tr.731].

Khoa học pháp lý Việt Nam cũng hay nói đến khái niệm KNPT hình sự

nhưng hiện nay theo quy định trong BLTTHS năm 2015, trong quy định của các

văn pháp pháp lý khác và trong các công trình nghiên cứu khoa học vẫn chưa đưa

ra một định nghĩa thống nhất thế nào là KNPT hình sự. Có tác giả cho rằng KNPT

là quyền năng pháp lý được Nhà nước giao cho VKSND để kháng nghị những bản

án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng cấp và cấp

dưới trực tiếp khi phát hiện có VPPL nghiêm trọng để yêu cầu Tòa án cấp trên

trực tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp

7

luật, nghiêm minh và kịp thời [24, tr.65]. Một số khác lại định nghĩa KNPT là một

văn bản do VKS ban hành yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà Tòa

án cấp sơ thẩm đã xét xử nhưng xét thấy không đúng pháp luật [42, tr.4].

Theo chúng tôi, qua việc nghiên cứu các quy định hiện hành và các công trình,

tài liệu và tiếp thu có chọn lọc các quan điểm của các nhà nghiên cứu về TTHS,

chúng tôi đưa ra định nghĩa về công tác KNPT hình sự như sau: KNPT hình sự là

quyền năng pháp lý mà Nhà nướcViệt Nam giao cho Viện KSND thể hiện quan điểm

của VKS cùng cấp và cấp trên trực tiếp, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại bản

án, quyết định hình sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật theo trình tự phúc thẩm.

1.1.1.2. Đặc điểm của kháng nghị phúc thẩm hình sự

- Là quyền năng pháp lý mà Nhà nước giao cho VKSND trong TTHS

Cùng với xu hướng chung của công cuộc cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà

nước ta đang đặt ra là “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân

chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham

gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh

tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để

phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư

pháp”[1] thì việc tìm hiểu quy định của BLTTHS về XXPT, làm rõ một số bất cập

trong các quy định của BLTTHS về XXPT từ đó nêu lên các kiến nghị hoàn thiện sẽ

góp phần là vô cùng cần thiết, làm cho các quy định của BLTTHS sát với thực tiễn,

nâng cao công tác giải quyết các vụ án hình sự (VAHS) tại Tòa án cấp phúc thẩm

- Đối tượng của KNPT là bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.

KNPT là một trong những căn cứ để Tòa án xét xử lại vụ án theo trình tự

phúc thẩm. Từ quy định này có thể hiểu, trong quá trình giải quyết VAHS, để xuất

hiện giai đoạn XXPT thì bản án hoặc quyết định của TACST phải có kháng cáo,

kháng nghị và phạm vi bản án bị kháng cáo, kháng nghị cũng là căn cứ để xác định 8

phạm vi XXPT. Điều này cũng khẳng định không phải VAHS nào cũng trải qua hai

cấp xét xử mà chỉ những vụ án sau khi có bản án, quyết định của TACST bị kháng

cáo, kháng nghị đúng theo quy định của pháp luật. Là cấp xét xử thứ hai, khắc hẳn

với thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ là thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có

hiệu lực pháp luật. Đây cũng là một trong những quy định cụ thể hóa một trong

những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS (nguyên tắc hai cấp xét xử) được quy định

tại khoản 1 Điều 20 BLTTHS. Việc xác định XXPT là cấp xét xử thứ hai sau xét xử

sơ thẩm có ý nghĩa quan trọng để cụ thể hóa các nội dung có liên quan đến thủ tục

tố tụng như: trình tự, thủ tục tiến hành giai đoạn chuẩn bị xét xử, tiến hành phiên tòa

phúc thẩm, thẩm quyền của cấp XXPT …

- KNPT góp phần cho một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS là chế

độ hai cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm) được bảo đảm.

Theo nguyên tắc này, bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật

của Tòa án bị kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. khi có một trong

các vi phạm này thì hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại. Ngoài ra, nếu một người mà

hành vi của họ đã đáp ứng đầy đủ tất cả các yêu tố cấu thành một tội cụ thể được

quy định trong BLHS nhưng TACST lại tuyên họ không phạm tội thì TACPT

không được sửa án tuyên bố bị cáo phạm tội mà phải hủy án để xét xử sơ thẩm lại.

Quy định này đã khắc phục hạn chế quy định của BLTTHS năm 1988 nhằm đảm

bảo quyền bào chữa và quyền kháng cáo của bị cáo. Bên cạnh các căn cứ bên trên,

khi hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại, Toà án cấp phúc thẩm không quyết định trước

những chứng cứ mà Toà án cấp sơ thẩm cần phải chấp nhận hoặc cần phải bác bỏ,

cũng như không quyết định trước về điều khoản Bộ luật hình sự và hình phạt mà

Toà án cấp sơ thẩm sẽ phải áp dụng. Trong trường hợp hủy bản án sơ thẩm để điều

tra lại hoặc xét xử lại mà thời hạn tạm giam đối với bị cáo đã hết và xét thấy việc

tiếp tục tạm giam bị cáo là cần thiết, thì HĐXXPT ra quyết định tiếp tục tạm giam 9

bị cáo cho đến khi Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ án. Trong

thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày hủy bản án sơ thẩm, hồ sơ vụ án phải được

chuyển cho Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp sơ thẩm để giải quyết theo thủ tục chung

[13, tr.18].

1.1.1.3. Vai trò của kháng nghị phúc thẩm

- Việc quy định và thực hiện hiệu quả công tác KNPT hình sự có ý nghĩa, vai

trò lớn góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và bảo đảm pháp chế

XHCN được thực thi.

HĐXXPT chỉ hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại khi việc điều tra không đầy

đủ có ảnh hưởng đế việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Bên cạnh đó, cần

phải hiểu điều tra không đầy đủ bao gồm cả trường hợp đó điều tra đối với vấn đề

cần phải chứng minh nhưng việc điều tra đó có vi phạm pháp luật (thủ tục tố tụng)

làm cho tài liệu, chứng cứ thu thập không thể dùng để giải quyết vụ án. Ngoài ra,

khi có việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ, HĐXXPT cần xem xét việc thiếu

sót đó có thể khắc phục tại phiên tòa hay không. Nếu có thể làm rõ tại phiên tòa thì

cũng không hủy án để điều tra lại.

VKSND thực hiện tốt việc áp dụng các quy định của pháp luật TTHS về

công tác KNPT hình sự không những góp phần giải quyết VAHS đảm bảo đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật mà còn góp phần không nhỏ bảo vệ công lý, quyền

con người, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo đảm pháp chế XHCN.

- Việc quy định và thực hiện quyền KNPT là căn cứ quan trọng làm phát sinh

thủ tục phúc thẩm.

Ngoài thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị, chậm nhất là mười lăm ngày

trước ngày mở phiên tòa, TACPT phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát

cùng cấp và những người tham gia tố tụng về thời gian, địa điểm XXPT vụ án để họ

tham gia phiên tòa phúc thẩm. Tại phiên tòa, HĐXXPT cũng phải hỏi xem họ đã 10

được thông báo trong thời hạn luật định hay không; có yêu cầu hoãn phiên tòa nếu

chưa được giao hoặc giao không đúng thời hạn hay không. Thủ tục này phải được

bổ sung vào Điều 247 BLTTHS về thủ tục phiên tòa phúc thẩm.

Về nội dung của thông báo tham gia phiên tòa XXPT theo chúng tôi cũng

chưa đầy đủ. Để Viện kiểm sát có thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình;

bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo và người bào chữa có thể thực hiện tốt

các quyền và nghĩa vụ tố tụng tại phiên tòa, theo chúng tôi, cần phải thông báo cho

những chủ thể này đầy đủ những nội dung tương tự như nội dung quyết định đưa vụ

án ra xét xử ở cấp sơ thẩm. Trên cơ sở nội dung được thông báo đó, các chủ thể

tham gia phiên tòa có thể xem xét có cần yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng

và người tham gia tố tụng hay không; có cần yêu cầu triệu tập thêm người làm

chứng hoặc cung cấp thêm tài liệu, đồ vật có liên quan hay không [14, tr.3].

1.1.1.4. Hiệu lực của kháng nghị phúc thẩm

Hiệu lực của KNPT hình sự là sự phát sinh việc thực hiện thẩm quyền của

Tòa án cấp phúc thẩm và giới hạn việc thực hiện thẩm quyền xem xét và quyết định

của Tòa án trong giới hạn XXST, để khắc phục các vướng mắc về phạm vi XXPT,

Điều 241 BLTTHS cần được sửa đổi, bổ sung như sau: “Nếu có kháng cáo, kháng

nghị toàn bộ bản án sơ thẩm, TACPT xét xử lại toàn bộ vụ án. Nếu có kháng cáo,

kháng nghị một phần bản án sơ thẩm, TACPT chỉ xét xử lại phần vụ án có liên quan

đến kháng cáo, kháng nghị. TACPT có thể xét xử lại vụ án tại các phần khác không

bị kháng cáo, kháng nghị trong trường hợp ở phần đó có điểm cần xem xét để xét

xử theo hướng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo”.

Thứ hai, để đề cao vị trí, vai trò và trách nhiệm của các bên tham gia phiên

tòa phúc thẩm và để Tòa án thực hiện đúng chức năng xét xử của mình, cần được

sửa đổi như sau: “Trước khi xét xử hoặc trong khi xét hỏi tại phiên tòa, Viện kiểm

sát có thể bổ sung chứng cứ mới; người đã kháng cáo và người có quyền lợi, nghĩa 11

vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị, người bào chữa, người bảo vệ quyền

lợi của đương sự cũng có quyền bổ sung tài liệu, đồ vật”.

1.1.2. Nhiệm vụ, nội dung của kháng nghị phúc thẩm

1.1.2.1. Nhiệm vụ của kháng nghị phúc thẩm

- Bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạt động xét xử của Toà án.

Pháp chế XHCN chính phủ thực hiện quyền hành pháp cao nhất. Còn Tòa án

nhân dân được giao quyền tư pháp, xét xử. Hiến pháp có vị trí đặc biệt quan trọng và

được bảo vệ bằng một cơ chế bảo hiến. Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối với

hoạt động của Nhà nước. Việc giám sát này có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ

Hiến pháp, giống như những thiết chế bảo hiến khác trên thế giới. Ủy ban Thường vụ

Quốc hội là cơ quan được giao trách nhiệm thực hiện quyền giám sát việc thi hành

Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường

vụ Quốc hội. Ủy ban này có các thẩm quyền đình chỉ và trình Quốc hội bãi bỏ việc

thi hành văn bản trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.

Thực tế đã chỉ ra, Toà án cấp sơ thẩm có những vi phạm trong việc áp dụng

Bộ luật hình sự về định tội danh, áp dụng điều khoản bộ luật, định khung hình

phạt…Hay căn cứ kháng nghị do có những vi phạm về thủ tục tố tụng hình sự trong

giai đoạn xét xử sơ thẩm; bản án hoặc quyết định sơ thẩm không phù hợp với các tình

tiết khách quan của vụ án; việc điều tra, xét hỏi tại phiên toà phiến diện hoặc không

đầy đủ. Do đó, nội dung kháng nghị chưa xác định chính xác những vi phạm pháp

luật của bản án hoặc quyết định sơ thẩm làm căn cứ để kháng nghị, chỉ đề cập một

cách chung chung như: xét thấy án sơ thẩm chưa đánh giá đúng tính chất, mức độ,

hậu quả của hành vi phạm tội; hoặc hình phạt áp dụng đối với bị cáo là không tương

xứng với hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, mức án sơ thẩm là chưa thoả đáng, án xử

quá nặng hay quá nhẹ mà chưa phân tích rõ căn cứ, cơ sở kháng nghị. Chính vì chưa

bám sát vào các căn cứ kháng nghị hoặc đưa ra căn cứ kháng nghị thiếu chính xác, 12

không thuyết phục nên số kháng nghị của Viện kiểm sát ban hành không được Toà án

chấp nhận chiếm một tỷ lệ lớn. Ví dụ: trong ba năm (2015, 2016, 2017) số kháng

nghị không được Toà án chấp nhận do không đủ căn cứ pháp lý chiếm 27,4% tổng số

kháng nghị đã ban hành toàn ngành kiểm sát, số kháng nghị được chấp nhận.

Thực hiện tốt công tác KNPT hình sự có vai trò rất lớn trong việc thực hiện

chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai

đoạn xét xử.

1.1.2.2. Nội dung của kháng nghị phúc thẩm

- Đối tượng kháng nghị phúc thẩm

Việc đưa ra đối tượng kháng nghị do có vi phạm trong việc áp dụng Bộ luật

hình sự và kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm Quy định về quyền

sửa bản án sơ thẩm là một nội dung quan trọng, vì nhờ có quy định này, Tòa án cấp

phúc thẩm có thể khắc phục những sai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp dưới trực tiếp,

đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích

của Nhà nước. Hội đồng xét xử (HĐXX) phúc thẩm có thể sửa một phần hoặc toàn

bộ bản án sơ thẩm theo hướng có lợi hoặc bất lợi cho bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân

sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án theo quy định

của pháp luật. Tuy nhiên, trong giải quyết vụ án, áp dụng quy định này có một số

bất cập, vướng mắc.

- Thẩm quyền (chủ thể) kháng nghị phúc thẩm

Theo ý kiến của tôi, quy định mới là không hợp lý, bởi lẽ một nguyên tắc cơ

bản trong pháp luật dân sự đó là nguyên tắc tự nguyện cam kết và thỏa thuận. Khi

bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị liên quan đến vấn đề bồi thường

thiệt hại cũng được coi như giữa bị cáo, bị hại hoặc nguyên đơn dân sự và bị đơn

dân sự đã thống nhất ý chí với phán quyết về phần bồi thường thiệt hại trong bản án

sơ thẩm. Khi các bên đã cùng thống nhất ý chí thì việc HĐXX phúc thẩm tự ý giảm 13

mức bồi thường thiệt hại là không cần thiết. Thậm chí, việc làm này của HĐXX

phúc thẩm trong một số trường hợp còn vi phạm nguyên tắc tự nguyện thỏa thuận

về dân sự, đồng thời xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của người được bồi thường.

Theo tôi, nên bổ sung thêm về vấn đề bồi thường thiệt hại thì HĐXX phúc

thẩm có quyền sửa bản án chỉ khi có kháng cáo, kháng nghị liên quan đến bồi

thường thiệt hại.

- Thông báo về việc kháng nghị phúc thẩm

Theo quy định trên thì kháng nghị phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng

bất lợi cho bị cáo dựa trên kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của bị hại,

ngoài chủ thể này ra thì kháng cáo của các chủ thể khác không phải là cơ sở để

HĐXX phúc thẩm sửa bản án theo hướng bất lợi cho bị cáo. Theo đó nếu người đại

diện của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân

sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên

đơn dân sự trong phạm vi kháng cáo của mình có kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp

phúc thẩm giải quyết theo hướng không có lợi cho bị cáo thì không được chấp nhận.

Trên thực tế, không phải bị hại nào cũng có khả năng tự mình kháng cáo

(trường hợp bị hại là người dưới 18 tuổi, có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất,

bị hại đã chết…), khi đó quyền kháng cáo của họ phải được thực hiện thông qua

người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Theo quy định tại khoản thì việc tăng mức bồi thường thiệt hại chỉ được

HĐXX phúc thẩm xem xét và quyết định cơ sở có kháng nghị của Viện kiểm sát

hoặc kháng cáo bị hại. Tuy nhiên, ngoài bị hại thì người đại diện của bị hại, người

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân sự và người đại diện

của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn dân sự cũng có

quyền kháng cáo tăng mức bồi thường thiệt hại. Cụ thể, tại điểm m khoản 2 Điều 62

và khoản quy định người đại diện của bị hại có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm; tại 14

điểm quy định nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện của họ có quyền kháng cáo

phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến bồi thường thiệt hại; điểm h khoản 2

Điều 84 BLTTHS 2015 quy định người bảo vệ và lợi ích hợp pháp của bị hại,

đương sự có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi của người mà

mình bảo vệ là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

Theo đó người đại diện của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị

hại, nguyên đơn dân sự và người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của nguyên đơn dân sự cũng có quyền kháng cáo tăng mức bồi thường thiệt

hại nếu họ nhận thấy phần quyết định của bản án sơ thẩm về vấn đề bồi thường thiệt

hại đối với bị hại hoặc nguyên đơn dân sự là chưa phù hợp. Như vậy, quy định tại là

một thiếu sót về mặt kỹ thuật lập pháp cần phải khắc phục.

- Bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị

Chưa có quy định cụ thể về căn cứ để kháng nghị phúc thẩm. Mặc dù,

Điều 33 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các vụ án hình sự số

đã cã quy định các căn cứ kháng nghị phúc thẩm, nhưng đây mới chỉ là căn cứ được

áp dụng trong nội bộ ngành Kiểm sát. Do vậy, nhiều trường hợp chưa có sự thống

nhất giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong việc đánh giá những vi phạm của Tòa án

cấp sơ thẩm trong việc ra bản án, quyết định sơ thẩm để làm căn cứ kháng nghị. Vì

vậy, BLTTHS năm 2003 cần bổ sung điều luật mới quy định đầy đủ và cụ thể các

căn cứ để kháng nghị phúc thẩm như: việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa

phiến diện và không đầy đủ, kết luận của bản án hoặc quyết định sơ thẩm không

phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án, bản án hoặc quyết định sơ thẩm có

sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng BLHS… Những căn cứ kháng nghị này là

cơ sở để Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng nghị phúc

thẩm. Trên cơ sở kế thừa Điều 33 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và

kiểm sát các vụ án hình sù số, chóng tôi đề nghị bổ sung vào BLTTHS năm 2003 15

một điều luật mới về căn cứ kháng nghị phúc thẩm với nội dung như sau:

“Bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng

nghị theo thủ tục phúc thẩm, khi có một trong các căn cứ trên”.

1.2. Quy định của pháp luật về kháng nghị phúc thẩm hình sự đối với

bản án, quyết định chưa có hiệu lực của xét xử cấp sơ thẩm vụ án hình sự

1.2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm

hình sự trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988

Tòa án tự mình khởi tố một vụ án và rồi lại tự mình xét xử vụ án – điều này

sẽ dẫn đến một hệ quả như sau: Nếu có dấu hiệu tội phạm, có người phạm tội thật

thì việc Tòa án quyết định khởi tố là đúng, hướng đi đúng với việc điều tra của Cơ

quan điều tra hay Viện kiểm sát; nhưng nếu đó là bản án trắng, tức là không có tội

phạm hay người phạm tội thì Tòa án sẽ phải tuyên án trắng chính vụ án mà mình đã

khởi tố. Điều này còn dễ dàng dẫn đến hiện tượng, Tòa án muốn bảo vệ quan điểm

khởi tố ban đầu của mình, và đương nhiên nó sẽ không còn vô tư, khách quan trong

quá trình xét xử nữa. Về bản chất, thực hành quyền công tố là hoạt động của

VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với

người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,

kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình

sự3. Viện kiểm sát kiến nghị về mức bồi thường, bồi hoàn là vi phạm nguyên tắc

động cơ hành động trong việc kháng nghị vì Viện kiểm sát là chủ thể của quyền

công tố, không phải là chủ thể của tố quyền dân sự trong vụ án hình sự. Việc Viện

kiểm sát kháng nghị về mức bồi thường, bồi hoàn là vi phạm nguyên tắc tôn trọng

quyền tự định đoạt của đương sự, Viện kiểm sát không có quyền thỏa thuận với bị

cáo hoặc đương sự về mức bồi hoàn4 [9, tr.6].

1.2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm từ

năm 1988 đến trước khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực

16

Việc duy trì chức năng này không phải là không hợp lý, nó sẽ giúp cho việc

không để lọt tội phạm, ngăn chặn sự nguy hiểm cho xã hội, bảo vệ các quyền và lợi

ích cơ bản của công dân, bởi lẽ có thể trong quá trình điều tra, truy tố cơ quan điều

tra, viện kiểm sát có thể bỏ sót tội phạm. Tuy nhiên, không nên quy định thẩm

quyền khởi tố vụ án hình sự trực tiếp cho HĐXX, mà chỉ nên quy định nếu trong

quá trình có tội phạm hay người phạm tội mới cần điều tra thì HĐXX đề nghị Viện

kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án. Điều này trước hết là đảm bảo việc vô tư,

khách quan trong xét xử, vừa phù hợp hơn với chức năng cũng như các giai đoạn

tiêp theo của tố tụng hình sự

Tuy nhiên, tại Điều 331 và Điều 60 lại không trao quyền kháng cáo cho bị

can. Theo quy định của BLTTHS thì tư cách “bị cáo” xuất hiện từ khi thẩm phán ra

quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nếu như trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm,

Thẩm phán ra quyết định đình chỉ hoặc tạm dình chỉ vụ án thì bị can cũng không

được quyền kháng cáo quyết định đó. Như vậy sẽ không đảm bảo được quyền lợi

của bị can. Theo chúng tôi, nên bổ sung quyền kháng cáo cho bị can ở Điều 331 và

Điều 60 BLTTHS 2015.

Như vậy, qua các giai đoạn lịch sử, quy định về KNPT hình sự về hình thức

có những tên gọi khác nhau, từng bước đã có sự thay đổi, bổ sung, hoàn thiện hơn,

dần đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét

xử của VKS. Có thể nói, chế định KNPT hình sự đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần

cho phù hợp với tình hình thực tế của mỗi thời kỳ cách mạng Việt Nam.

17

Tiểu kết Chương 1

Trong các giai đoạn tố tụng hình sự thì xét xử là một giai đoạn quan trọng

nhất. Bởi vì, suy ra cho cùng thì việc xử lý một người phạm tội được thể hiện và tập

trung nhất ở hoạt động xét xử của Toà án. Tại phiên toà, sau khi đã nghiên cứu

khách quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết của vụ án một cách công khai, Toà án

ra một bản án khẳng định bị cáo có tội hoặc không có tội, nếu phạm tội thì phạm tội

gì, theo quy định tại điều khoản nào của Bộ luật hình sự, có áp dụng hình phạt đối

với bị cáo hay không, nếu có thì hình phạt đó là hình phạt gì.

Trong chương 1 của luận văn, tác giả đã tập trung làm rõ những vấn đề về lý

luận về KNPT VAHS như: Khái niệm, đặc điểm, vai trò và ý nghĩa KNPT; nhiệm

vụ, nội dung của KNPT. Đồng thời, luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật

về KNPT hình sự đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực của xét xử cấp sơ

thẩm VAHS giai đoạn trước khi có Bộ luật TTHS 1988 và giai đoạn từ 1988 đến

trước khi Bộ luật TTHS 2015 có hiệu lực. Đây là những nội dung, cơ sở, tiền đề

quan trọng để tác giả đi vào thực hiện các nội dung ở Chương 2 của luận văn.

18

CHƯƠNG 2

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ

THỰC TIỄN ÁP DỤNG KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ

CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH

2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về kháng nghị phúc thẩm hình sự

Quy định về KNPT là “những quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm theo

quy định của bộ luật này”. Đây là một quy định mang tính khái quát. Như vậy,

những quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm là đối tượng của kháng cáo, kháng

nghị phúc thẩm là những quyết định nào? Xét về nội dung, những quyết định của

kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là quyết định giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ

thẩm “Những quyết định hành chính tư pháp nhằm đảm bảo hoạt động đúng đắn

của trình tự phúc thẩm ,“không định đoạt việc giải quyết vụ án” thì không phải là

đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm”. Hiện nay, BLTTHS 2015 quy

định một số quyết định là đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm như sau:

Quyết định khởi tố vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm; quyết định của Tòa án về việc áp

dụng bắt buộc biện pháp chữa bệnh; quyết định chấp nhận hay không chấp nhận đề

nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện, quyết định hủy quyết định tha tù trước thời

hạn có điều kiện1. Theo chúng tôi, quyết định này không quyết định, định đoạt việc

giải quyết vụ án nên để không kéo dài thời gian tố tụng và thời gian giải quyết vụ án

không nên đưa những quyết định này là đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc

thẩm, cụ thể:

2.1.1. Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự

Thẩm quyền chi tiết: “Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND cấp huyện

kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với những bản án, quyết định sơ thẩm chưa

có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện; Tòa án tự mình khởi tố một vụ án và

19

rồi lại tự mình xét xử vụ án – điều này sẽ dẫn đến một hệ quả như sau: Nếu có dấu

hiệu tội phạm, có người phạm tội thật thì việc Tòa án quyết định khởi tố là đúng,

hướng đi đúng với việc điều tra của Cơ quan điều tra hay Viện kiểm sát; nhưng nếu

đó là bản án trắng, tức là không có tội phạm hay người phạm tội thì Tòa án sẽ phải

tuyên án trắng chính vụ án mà mình đã khởi tố. Điều này còn dễ dàng dẫn đến hiện

tượng, Tòa án muốn bảo vệ quan điểm khởi tố ban đầu của mình, và đương nhiên

nó sẽ không còn vô tư, khách quan trong quá trình xét xử nữa.

Việc duy trì chức năng này không phải là không hợp lý, nó sẽ giúp cho việc

không để lọt tội phạm, ngăn chặn sự nguy hiểm cho xã hội, bảo vệ các quyền và lợi

ích cơ bản của công dân, bởi lẽ có thể trong quá trình điều tra, truy tố cơ quan điều

tra, viện kiểm sát có thể bỏ sót tội phạm. Tuy nhiên, không nên quy định thẩm

quyền khởi tố vụ án hình sự trực tiếp cho HĐXX, mà chỉ nên quy định nếu trong

quá trình có tội phạm hay người phạm tội mới cần điều tra thì HĐXX đề nghị Viện

kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án. Điều này trước hết là đảm bảo việc vô tư,

khách quan trong xét xử, vừa phù hợp hơn với chức năng cũng như các giai đoạn

tiêp theo của tố tụng hình sự, VKS có thể kháng nghị toàn bộ hoặc một phần của

bản án, quyết định; đối với tất cả bị cáo và những người tham gia tố tụng khác hoặc

chỉ với một số người; hướng kháng nghị của VKS cũng không bị hạn chế. Do thẩm

quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm thuộc về VKS cùng cấp

và VKS cấp trên trực tiếp nên sẽ có những trường hợp xảy ra như:

- Nếu hai bản kháng nghị có tính chất bổ sung cho nhau thì tòa án cấp phúc

thẩm sẽ chấp nhận để xét xử theo cả hai bản kháng nghị đó.

- Nếu hai bản kháng nghị mâu thuẫn nhau, VKS cùng cấp không rút kháng

nghị của mình, VKS cấp trên không hủy kháng nghị của VKSND cấp dưới thì Tòa

án cấp phúc thẩm chỉ xem xét kháng nghị của VKS cấp trên trực tiếp do nguyên tắc

hoạt động của VKSND là tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành.

20

2.1.2. Phạm vi kháng nghị phúc thẩm hình sự

Điều 239 BLTTHS năm 2003 quy định về kháng cáo, kháng nghị những

quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, tuy nhiên tại Khoản 2 của điều luật chỉ liệt kê

các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo, đó là quyết định tạm

đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, còn các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm mà VKS

có quyền kháng nghị lại không được quy định cụ thể. Vì vậy, từ nội dung của điều

luật ta có thể hiểu rằng VKS có thể KNPT đối với tất cả các quyết định tố tụng của

Tòa án cấp sơ thẩm nếu phát hiện quyết định đó có VPPL nghiêm trọng.

BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể các quyết định sơ thẩm có thể bị

kháng cáo, kháng nghị tại Khoản 2 Điều 330, đó là quyết định tạm đình chỉ, quyết

định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo, quyết định

đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo và quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm

theo quy định của LTTHS 2015.

2.1.3. Thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự

Thời hạn KNPT hình sự là khoảng thời gian tối đa mà BLTTHS quy định

cho phép VKS kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án. Thời hạn KNPT

hình sự được tính kể từ thời điểm bắt đầu đến thời điểm kết thúc thời hạn kháng

nghị. điều luật quy định về đối tượng kháng cáo là “những quyết định khác của Tòa

án cấp sơ thẩm theo quy định của bộ luật này”. Đây là một quy định mang tính khái

quát. Như vậy, những quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm là đối tượng của

kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là những quyết định nào? Xét về nội dung, những

quyết định của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là quyết định giải quyết vụ án của

Tòa án cấp sơ thẩm “Những quyết định hành chính tư pháp nhằm đảm bảo hoạt

động đúng đắn của trình tự phúc thẩm ,“không định đoạt việc giải quyết vụ án” thì

không phải là đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm”.

Hiện nay, BLTTHS 2015 quy định một số quyết định kháng cáo, kháng nghị

21

phúc thẩm như sau: Quyết định khởi tố vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm; quyết định

của Tòa án về việc áp dụng bắt buộc biện pháp chữa bệnh; quyết định chấp nhận

hay không chấp nhận đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện, quyết định hủy

quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện1. Theo chúng tôi, quyết định này

không quyết định, định đoạt việc giải quyết vụ án nên để không kéo dài thời gian tố

tụng và thời gian giải quyết vụ án không nên đưa những quyết định này là đối tượng

của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

2.1.4. Căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự

Điều 357 BLTTHS năm 2015 khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã

tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị

cáo hoặc có tình tiết mới; hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại tại Điều

358 BLTTHS năm 2015, hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án quy định tại Điều

359 BLTTHS năm 2015.

2.1.4.1. Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm không đầy đủ dẫn đến

đánh giá không đúng tính chất của vụ án.

Tòa án tự mình khởi tố một vụ án và rồi lại tự mình xét xử vụ án – điều này

sẽ dẫn đến một hệ quả như sau: Nếu có dấu hiệu tội phạm, có người phạm tội thật

thì việc Tòa án quyết định khởi tố là đúng, hướng đi đúng với việc điều tra của Cơ

quan điều tra hay Viện kiểm sát; nhưng nếu đó là bản án trắng, tức là không có tội

phạm hay người phạm tội thì Tòa án sẽ phải tuyên án trắng chính vụ án mà mình đã

khởi tố. Điều này còn dễ dàng dẫn đến hiện tượng, Tòa án muốn bảo vệ quan điểm

khởi tố ban đầu của mình, và đương nhiên nó sẽ không còn vô tư, khách quan trong

quá trình xét xử nữa.

Việc duy trì chức năng này không phải là không hợp lý, nó sẽ giúp cho việc

không để lọt tội phạm, ngăn chặn sự nguy hiểm cho xã hội, bảo vệ các quyền và lợi

ích cơ bản của công dân, bởi lẽ có thể trong quá trình điều tra, truy tố cơ quan điều

22

tra, viện kiểm sát có thể bỏ sót tội phạm. Tuy nhiên, không nên quy định thẩm

quyền khởi tố vụ án hình sự trực tiếp cho HĐXX, mà chỉ nên quy định nếu trong

quá trình có tội phạm hay người phạm tội mới cần điều tra thì HĐXX đề nghị Viện

kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án. Điều này trước hết là đảm bảo việc vô tư,

khách quan trong xét xử, vừa phù hợp hơn với chức năng cũng như các giai đoạn

tiêp theo của tố tụng hình sự [22, tr.34].

2.1.4.2. Kết luận, quyết định trong bản án, quyết định sơ thẩm không phù

hợp với các tình tiết khách quan của vụ án.

Kết luận, quyết định trong bản án, quyết định sơ thẩm không phù hợp với các

tình tiết khách quan của vụ án điều này có nghĩa là, trong phần xét thấy, phần quyết

định của bản án hoặc quyết định sơ thẩm có những vấn đề không phù hợp với các

tình tiết khách quan đã được điều tra, xác minh, thu thập trong hồ sơ vụ án và đã

được xem xét tại phiên tòa hoặc những tình tiết khách quan của vụ án được làm rõ

tại phiên tòa qua phần xét hỏi, tranh luận. Kết luận trong bản án hoặc quyết định sơ

thẩm của Tòa án bị coi là không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án.

2.1.4.3. Có sai lầm trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ

luật Tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác

Theo như tác giả đã phân tích ở trên, quy định của BLTTHS hiện nay đã khá

rõ ràng, và theo đó, chúng tôi cho rằng, quan điểm thứ hai là chính xác. Tuy nhiên,

chúng tôi cũng cho rằng, điều này là thiếu hợp lý so với hướng dẫn của Nghị quyết

số 05/2005/NQ-HĐTP. Bởi việc quy định như quan điểm thứ hai trong nhiều

trường hợp sẽ bất lợi cho các chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị do phiên tòa

kết thúc muộn và việc tuyên án diễn ra gần như cuối ngày. Do đó, để bảo đảm

quyền lợi cho các chủ thể đó, chúng tôi cho rằng, nên có hướng dẫn hoặc quy định

về thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị như Nghị quyết số

05/2005/NQ-HĐTP. Về thời hạn được quy định: Về vấn đề này, chúng tôi cho rằng,

23

thời hạn được quy định là quá ngắn, trong nhiều trường hợp không đảm bảo thời

gian cho việc xem xét tiến hành kháng cáo, kháng nghị.

2.1.4.4. Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng thành phần theo luật định hoặc

có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng

Theo quy định tại Điều 254 BLTTHS năm 2015 thì thành phần Hội đồng xét

xử gồm:

“1. Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trường

hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể

gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm.

Đối với vụ án có bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của

khung hình phạt là tù chung thân, tử hình thì Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm hai

Thẩm phán và ba Hội thẩm.

2. Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán“ [22, tr.122].

Theo quy định tại khoản 1 Điều 262 BLTTHS 2015, trong thời hạn 10 ngày

kể từ ngày tuyên án, Tòa án cấp sơ thẩm phải giao, gửi bản án cho các chủ thể, đối

tượng theo quy định. Như vậy, pháp luật cho phép Tòa án gửi bản án trong thời hạn

10 ngày nhưng chỉ cho thực hiện việc kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn 15 ngày

(30 ngày đối với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp) là không hợp lý. Nếu như bản án

được Tòa án giao gửi đúng trong thời hạn 10 ngày, đồng nghĩa với việc chỉ còn 5

ngày để thực hiện việc kháng cáo, kháng nghị và thời gian này là không đủ để xem

xét bản án, quyết định có kháng cáo, kháng nghị hay không. Đồng thời, Viện kiểm

sát cấp trên trực tiếp cũng có khó thể nghiên cứu hồ sơ để phát hiện căn cứ kháng

nghị trong thời gian 20 ngày.

2.1.5. Trình tự, thủ tục kháng nghị phúc thẩm hình sự

VKS thực hiện việc ban hành Quyết định kháng nghị khi có đủ căn cứ để tiến

hành việc KNPT hình sự theo luật định. Quyết định kháng nghị phải thể hiện được

24

các nội dung sau: tên của VKS ra quyết định; ngày, tháng, năm ban hành quyết

định; số của quyết định; phạm vi kháng nghị là toàn bộ hay một phần bản án, quyết

định sơ thẩm; lý do, căn cứ kháng nghị và yêu cầu của VKS; về việc xem xét kháng

cáo quá hạn: Theo quy định tại Điều 335 BLTTHS 2015 về kháng cáo quá hạn,

trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp

phúc thẩm thành lập Hội đồng gồm ba Thẩm phán xem xét kháng cáo quá hạn.

Đồng thời, điều này cũng quy định phiên họp xét kháng cáo quá hạn phải có sự

tham gia của Kiểm sát viên và trong thời hạn 03 ngày trước ngày xét đơn, Tòa án

cấp phúc thẩm phải gửi đơn kháng cáo kèm theo tài liệu, đồ vật cho Viện kiểm sát

cùng cấp. Điều này có nghĩa, việc thành lập Hội đồng xem xét kháng cáo quá hạn

và việc tổ chức phiên họp xét kháng cáo quá hạn là hai hoạt động khác nhau và

pháp luật chỉ đặt ra thời hạn đối với việc thành lập Hội đồng mà không ghi nhận

thời hạn giải quyết kháng cáo quá hạn.

Theo Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP, việc xét kháng cáo quá hạn được

thực hiện trước khi mở phiên tòa phúc thẩm. Chúng tôi cho rằng, cần đặt ra thời hạn

đối với vấn đề này bởi quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng cáo quá

hạn có ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ thể kháng cáo.Đồng thời, trong trường hợp

kháng cáo quá hạn được chấp nhận, các chủ thể có liên quan cũng cần có thời gian

để xem xét, chuẩn bị cho việc mở phiên tòa phúc thẩm. Do đó, cần đặt ra vấn đề về

thời hạn giải quyết kháng cáo quá hạn. Theo đó, chúng tôi cho rằng có thể quy định

thời hạn này là 15 ngày kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo kèm các chứng cứ, tài

liệu liên quan, bởi so với việc xem xét bản án để quyết định kháng cáo, kháng nghị,

việc xem xét kháng cáo quá hạn có thể hoàn thành trong thời gian đó.

Hiện nay, pháp luật không ghi nhận trường hợp kháng nghị quá hạn của Viện

kiểm sát. Có quan điểm cho rằng, bởi nếu quá thời hạn kháng nghị phúc thẩm Viện

kiểm sát có quyền kháng nghị giám đốc thẩm.Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng vẫn

25

nên ghi nhận trường hợp kháng nghị quá hạn. Bởi tính chất của xét xử phúc thẩm và

giám đốc thẩm là hoàn toàn khác nhau.

2.1.6. Thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị phúc thẩm

Khi VKS đã gửi kháng nghị, Tòa án đã thụ lý ở cấp phúc thẩm. Bên cạnh đó,

VKS có thẩm quyền sẽ thực hiện nhiệm vụ thay đổi, bổ sung, rút KNPT hình sự nếu

thuộc một trong các trường hợp như: VKS nhận thấy quyết định kháng nghị chưa

đầy đủ, cần bổ sung kháng nghị, VKS nhận thấy việc kháng nghị là không đúng quy

định, không cần thiết nên cần rút kháng nghị hay nội dung kháng nghị cần phải thay

đổi cho phù hợp, lúc đó VKS sẽ thực hiện việc thay đổi, rút hoặc bổ sung KNPT.

Về nội dung biên bản kháng cáo: Điều 332 BLTTHS chỉ ghi nhận nội dung

cần có trong đơn kháng cáo mà không quy định biên bản kháng cáo trong trường

hợp kháng cáo trực tiếp tại Tòa án phải có những nội dung gì. Mặc dù vấn đề này

nhìn chung thuộc về nghiệp vụ của Tòa án, tuy nhiên, để thống nhất cũng như đảm

bảo nội dung của biên bản, chúng tôi cho rằng cần quy định thêm vấn đề này.

Trong hệ thống pháp luật nước ta nói chung, có không ít các thủ tục có thể

thực hiện bằng đơn hoặc trình bày trực tiếp, hầu hết các vấn đề đó đều ghi nhận nội

dung của biên bản khi trình bày trực tiếp phải có các nội dung như đối với đơn. Do

đó, chúng tôi đề xuất bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 332 như sau: “2. Đơn

kháng cáo, biên bản về việc kháng cáo có các nội dung chính:….”

Thứ hai, kháng cáo trực tiếp tại Tòa án là một hình thức kháng cáo được

pháp luật ghi nhận, do đó, về nguyên tắc, hình thức này cũng được thực hiện khi

kháng cáo quá hạn. Tuy nhiên, Điều 335 BLTTHS 2015 về kháng cáo quá hạn lại

không hề nhắc đến trường hợp này. Đây là một thiếu sót trong quy định của

BLTTHS 2015 về việc kháng cáo quá hạn. Do đó, chúng tôi đề xuất sửa đổi quy

định này bằng cách thay thế cụm từ “đơn kháng cáo quá hạn” bằng cụm từ “đơn

kháng cáo quá hạn, biên bản về việc kháng cáo quá hạn” trong toàn bộ quy định của

26

Điều 335.

2.1.7. Hậu quả pháp lý của kháng nghị phúc thẩm hình sự

Theo khoản 1 Điều 237 BLTTHS năm 2003 thì hậu quả của việc kháng nghị

là những phần của bản án bị kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành; đối với bản

án hoặc quyết sơ thẩm bị kháng cáo toàn bộ thì toàn bộ bản án hoặc quyết đó chưa

có hiệu lực pháp luật và không được đưa ra thi hành, trừ các trường hợp quy định

Quy định này nhằm bảo đảm trên thực tiễn khi xét xử vụ án theo trình tự giám đốc

thẩm có nhiều trường hợp đã rõ ràng về chứng cứ, không cần phải xét xử lại như có đủ căn

cứ để giảm nhẹ hình phạt hoặc giảm mức bồi thường cho bị cáo nhưng do quy định hiện

hành Hội đồng giám đốc thẩm không có quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật, chỉ được hủy án để xét xử lại làm việc giải quyết vụ án kéo dài, ảnh hưởng đến quyền,

lợi ích của người dân, gây tốn kém, lãng phí ngân sách Nhà nước.

tại khoản 2 Điều 255 Bộ luật này.

Việc cho phép Hội đồng giám đốc thẩm sửa án không vi phạm nguyên tắc

Hiến định “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” mà lại đáp ứng được

yêu cầu thực tiễn. Để đảm bảo tranh tụng, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định

trường hợp có căn cứ sửa một phần bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, Tòa

án phải triệu tập người bị kết án, người bào chữa và những người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên tòa giám đốc thẩm. Tuy

nhiên, nếu họ vắng mặt thì phiên tòa giám đốc thẩm vẫn được tiến hành.

2.2. Thực trạng áp dụng kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm

sát nhân dân tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019

2.2.1. Tình hình đặc điểm của việc chấp hành pháp luật và tội phạm có

liên quan đến áp dụng kháng nghị phúc thẩm hình sự trên địa bàn tỉnh Bình

Định từ năm 2015 đến năm 2019

Qua các báo cáo công tác ngành Kiểm sát và số liệu thống kê tổng hợp của

27

VKSND tỉnh Bình Định qua các năm từ 2015 đến năm 2019 đều có đề cập đến kết

quả áp dụng KNPT hình sự, qua đó cho thấy:

Số vụ án và bị cáo đưa ra xét xử sơ thẩm là 2.993 vụ/5.588 bị cáo; số vụ án

và bị cáo được thụ lý phúc thẩm là 1.091 vụ/1.857 bị cáo, trong đó số vụ án và bị

cáo bị VKSND hai cấp tỉnh Bình Định KNPT là 107 vụ/191 bị cáo. Như vậy, trung

bình mỗi năm đã xét xử sơ thẩm 559 vụ/1.118 bị cáo; thụ lý phúc thẩm là 218

vụ/371 bị cáo; ban hành 21 KNPT; tỷ lệ giữa bị cáo có kháng nghị so với tổng số bị

cáo thụ lý phúc thẩm là 10,64% (trong đó năm 2015 là 3,33%; năm 2016 là 2,84%;

năm 2017 là 12,07%; năm 2018 là 14,08%; năm 2019 là 20,87%). Kháng nghị trên

một cấp vẫn còn ít, trung bình trong 05 năm là 11 vụ/17 bị cáo được VKS cấp trên

KNPT. Từ năm 2015 đến năm 2019, VKSND tỉnh Bình Định KNPT đối với 84 bị

cáo của 57 vụ, chiếm tỷ lệ 43,98% trên tổng số bị cáo do hai cấp kháng nghị.

Qua phân tích cho thấy số lượng án và bị cáo có kháng nghị của VKSND

tỉnh Bình Định tăng qua hằng năm: Năm 2015 là 10 vụ/15 bị cáo; năm 2016 là 10

vụ/11 bị cáo; năm 2017 là 16 vụ/39 bị cáo; năm 2018 là 24 vụ/40 bị cáo; năm 2019

là 47 vụ/87 bị cáo có KNPT [Xem phụ lục 2.1 và 2.2].

Về thực trạng số vụ án, số bị cáo bị xét xử phúc thẩm và số vụ án, số bị cáo

có KNPT được đưa ra xét xử từ năm 2015 đến năm 2019 trên địa bàn tỉnh Bình

Định cụ thể như sau:

Tổng số vụ án được đưa ra xét xử phúc thẩm là 781 vụ/1.340 bị cáo, trung

bình mỗi năm có 156 vụ/268 bị cáo được đưa ra xét xử phúc thẩm, trong đó tổng số

vụ có kháng nghị đưa ra xét xử phúc thẩm là 77 vụ/142 bị cáo, trung bình mỗi năm

có 15 vụ/28 bị cáo có kháng nghị được đưa ra xét xử phúc thẩm. Như vậy, đối với

các vụ án đã đưa ra xét xử phúc thẩm thì tỷ lệ giữa số bị cáo có kháng nghị đưa ra

XXPT chiếm tỷ lệ thấp, chỉ 10,6% so với số bị cáo đã đưa ra xét xử phúc thẩm (cụ

thể: năm 2015 chiếm tỷ lệ 4,09%; năm 2016 chiếm tỷ lệ 2,07%; năm 2017 chiếm tỷ

28

lệ 16,03%; năm 2018 chiếm tỷ lệ 13,11%; năm 2019 chiếm tỷ lệ 22,75%). Tuy

nhiên, qua phân tích số liệu có thể thấy mặc dù tỷ lệ giữa số bị cáo có kháng nghị

đưa ra XXPT chiếm tỷ lệ thấp so với tổng số bị cáo được đưa ra XXPT nhưng trong

05 năm tỷ lệ này vẫn có xu hướng tăng, duy chỉ có năm 2016 tỷ lệ giảm thấp (đạt

2,7%) [Xem phụ lục 2.3].

Kết quả giải quyết các vụ án có KNPT hình sự của VKSND tỉnh Bình Định

trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 như sau:

Số vụ án và bị cáo bị VKSND tỉnh Bình Định KNPT hình sự là 107 vụ/191

bị cáo; số vụ VKS rút kháng nghị: 11 vụ/43 bị cáo (chiếm tỷ lệ 10,28% số vụ và

22,51% số bị cáo); số vụ VKS cấp tỉnh bảo vệ kháng nghị là 66 vụ/99 bị cáo, trong

đó Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận kháng nghị đối với 60 vụ/86 bị cáo (chiếm

tỷ lệ 90,9% số vụ, 86,87% số bị cáo), không chấp nhận kháng nghị đối với 06 vụ/10

bị cáo (chiếm tỷ lệ 9,1% số vụ, 13,13% số bị cáo). Phần lớn các KNPT của VKS

được cấp phúc thẩm được chấp nhận đều là kháng nghị các yêu cầu khắc phục

những sai sót của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm như: đề nghị tăng hình phạt; chuyển

hình phạt từ cho hưởng án treo sang hình khác về áp dụng các tình tiết tăng nặng,

giảm nhẹ TNHS; về tổng hợp các loại hình phạt;… [Xem phụ lục 2.4].

Kết quả xét xử theo thủ tục phúc thẩm cho thấy: tổng số bị cáo bị Tòa án cấp

phúc thẩm tuyên hủy, sửa án là 98 bị cáo trên tổng số bị cáo Tòa án đưa ra xét xử

1340 bị cáo (chiếm tỷ lệ 7,31%). Tổng số bị cáo bị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên

hủy, sửa án thông qua kháng nghị là 98 bị cáo trên tổng số bị cáo bị Tòa án cấp

phúc thẩm tuyên hủy, sửa 98bị cáo (chiếm tỷ lệ 100%). Như vậy, số bị cáo bị Tòa

án phúc thẩm hủy, sửa án vẫn hoàn toàn là thông qua kháng nghị [Xem phụ lục 2.5].

2.2.2. Những kết quả đạt được qua công tác áp dụng kháng nghị phúc

thẩm hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định

2.2.2.1. Kháng nghị phúc thẩm hình sự đã khắc phục những sai sót cơ bản

29

của Toà cấp sơ thẩm về áp dụng quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại

Phần lớn các kháng nghị được cấp phúc thẩm chấp nhận đều là những kháng

nghị yêu cầu khắc phục những sai sót của Toà án cấp sơ thẩm như vấn đề áp dụng

điểm, khoản, điều luật áp dụng, về mức hình phạt, về việc cho hưởng án treo, về

định tội danh, về tuyên bị cáo không phạm tội cũng như những vấn đề khác về mức

bồi thường, hình phạt bổ sung…

Về áp dụng mức hình phạt, chỉ tính riêng trong 05 năm từ 2015 đến năm

2019 đối với cấp phúc thẩm, thông qua kháng nghị, đã tăng hình phạt đối với 110 bị

cáo; giảm hình phạt đối với 95 bị cáo. Phần lớn các bị cáo bị kháng nghị tăng hoặc

giảm hình phạt do toà án cấp sơ thẩm chưa đánh giá đúng tính chất, mức độ và hậu

quả của hành vi phạm tội cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự, nhân thân người phạm tội nên xử quá nhẹ hoặc quá nặng. Có 17 bị cáo bị

tăng từ chung thân lên tử hình, 25 bị cáo tăng hình phạt từ tù có thời hạn lên tù

chung thân; giảm hình phạt từ tử hình xuống chung thân cho 04 bị cáo, từ chung

thân xuống tù có thời hạn 04 bị cáo.

Thông qua kháng nghị cấp phúc thẩm trung ương đã cải tội danh với 50 bị

cáo; không cho hưởng án treo 63 bị cáo; cho hưởng án treo đối với 18 bị cáo; huỷ

án sơ thẩm về việc tuyên không phạm tội đối với 19 bị cáo. KNPT hình sự đã khắc

phục những vi phạm trong thực hiện quá trình TTHS của TAND cấp sơ thẩm, như

bỏ lọt hành vi phạm tội của bị cáo đã được điều tra, truy tố; nghị án kéo dài (như

trường hợp nghị án kéo dài 20 ngày đối với vụ án Trần Văn Lâm - thành phố Quy

Nhơn phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”); việc xét hỏi sơ sài, phiến diện,

không xét hỏi đối với từng bị cáo để làm rõ nội dung vụ án (như vụ án Lưu Đức

Huy - thị xã Hoài Nhơn, hội đồng xét hỏi chỉ xét hỏi 3/4 bị cáo còn lại 1/4 bị cáo

không được xét hỏi). Ngoài ra, công tác KNPT hình sự của VKSND hai cấp tỉnh

Bình Định trong thời gian 05 năm qua đã khắc phục được những sai sót của bản án

30

sơ thẩm về vấn đề bồi thường thiệt hại, các biện pháp tư pháp khác...

2.2.2.2. Kháng nghị phúc thẩm hình sự đã có nhiều chuyển biến theo tinh

thần Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/02/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ

trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới

Sau khi Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/02/2002 của Bộ Chính trị về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới được ban hành, công tác

KNPT trên địa bàn tỉnh Bình Định đã có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng

kháng nghị đã được nâng cao hơn. Các VKS cấp huyện trên địa bàn tỉnh Bình Định

đã chú trọng từ hình thức đến nội dung của kháng nghị nhằm bảo đảm tình có căn

cứ và chặt chẽ về mặt pháp luật [36, tr.7]. Các VKS cấp phúc thẩm đã tăng cường

rút kinh nghiệm về công tác này đối với các VKS cấp sơ thẩm do đó chất lượng

kháng nghị đã tăng lên rõ rệt. Các VKS cả hai cấp đã chú trọng tới những vụ án

được dư luận quan tâm, nhất là các vụ án về đấu tranh chống tham nhũng, bảo đảm

sự phán xét nghiêm minh hơn. Thông qua việc kháng nghị đã giải toả được những

bức xúc trong dư luận báo chí và được người dân đồng tình ủng hộ. Điển hình là vụ

án 4 bị can liên quan đến vụ sai phạm trong quản lý, sử dụng đất xảy ra tại thị trấn

Phù Mỹ, huyện Phù Mỹ, đây là vụ án sau khi XXST đã gây bức xúc trong dư luận

xã hội. VKSND tỉnh Bình Định đã ban hành KNPT hình sự, việc này đã tạo ra dư

luận tốt trong xã hội, lấy lại niềm tin trong quần chúng nhân dân. Kết quả XXPT đã

huỷ bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại theo hướng tăng hình phạt đối với các bị

cáo và mở rộng việc điều tra đối với một số đối tượng khác và đã được TAND tỉnh

Bình Định chấp nhận.

Vấn đề bảo đảm việc truy tố không để xảy ra oan sai và cũng như không bỏ

lọt tội phạm theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW luôn được VKSND tỉnh Bình

Định coi là nhiệm vụ hàng đầu. 11 đơn vị VKSND huyện, thị xã, thành phố trực

thuộc VKSND tỉnh Bình Định đã đặc biệt chú trọng tới các trường hợp Toà án

31

tuyên không phạm tội. BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018

đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng về thẩm quyền TTHS của các cơ quan tố

tụng cấp phúc thẩm, theo đó cấp phúc thẩm có thẩm quyền huỷ án sơ thẩm để xét

xử lại trong trường hợp toà án cấp sơ thẩm tuyên không phạm tội nhưng có căn cứ

cho rằng người đó phạm tội. Đây là quy định mới tăng thẩm quyền cho cấp phúc

thẩm nhằm bảo đảm cho việc xử lý vụ án nhanh chóng hơn. Sau khi BLTTHS năm

2015 có hiệu lực thi hành, chỉ riêng VKSND tỉnh Bình Định đã KNPT hình sự, yêu

cầu cấp phúc thẩm huỷ án sơ thẩm đối với 23 bị cáo. Toà án cấp phúc thẩm đã chấp

nhận kháng nghị của VKS, huỷ án sơ thẩm để xét xử lại theo hướng các bị cáo có

phạm tội đối với 16/98 bị cáo (chiếm 16,33%).

Ngoài ra, KNPT hình sự cũng đã tập trung đấu tranh đối với một số loại tội

phạm phục vụ yêu cầu phòng ngừa, răn đe, giáo dục pháp luật chung cho quần

chúng Nhân dân như việc xử lý nghiêm đối với loại tội vi phạm quy định tham gia

giao thông đường bộ, khi mà xu hướng của loại tội phạm này ngày càng gia tăng về

số vụ, số người chết và số người bị thương, gây thiệt hại nghiêm trọng về người và

tài sản, gây bức xúc trong dư luận quần chúng Nhân dân. Nhìn chúng, những năm

vừa qua, tình hình tai nạn giao thông ở nước ta ngày càng gia tăng cả về số vụ tai

nạn, số người chết và bị thương, tính chất vi phạm nghiêm trọng với các lỗi phóng

nhanh, vượt ẩu, sử dụng ma túy, chất kích thích khi điều khiển phương tiện, lái xe

không đáp ưng tiêu chuẩn theo quy định. Thông qua KNPT hình sự đã tăng hình

phạt hoặc không cho hưởng án treo đối với nhiều bị cáo phạm loại tội này góp phần

tích cực vào chương trình “An toàn giao thông quốc gia”, kéo giảm tai nạn giao

thông, vì bình yên và hạnh phúc của Nhân dân.

2.2.2.3. Kháng nghị phúc thẩm hình sự góp phần tích cực trong công tác đấu

tranh chống và phòng chống tội phạm

Thực hiện Chỉ thị 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị khóa X về

32

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTP trong tình hình mới, cấp

ủy, chính quyền các cấp đã có nhiều nỗ lực trong lãnh, chỉ đạo; nhận thức của cán

bộ, Đảng viên và Nhân dân về công tác này đã được nâng lên. Nhân dân đã cung

cấp hàng chục nghìn nguồn tin cho lực lượng chức năng về hoạt động của tội phạm.

Công tác phòng, chống tội phạm đạt và vượt các chỉ tiêu do Quốc hội, Chính phủ đề

ra (khám phá án hình sự đạt trung bình 75%, các vụ trọng án đạt 95%); kiềm chế gia

tăng tội phạm, triệt xóa nhiều băng, nhóm tội phạm nguy hiểm; tội phạm nghiêm

trọng, đặc biệt nghiêm trọng đều giảm; đấu tranh hiệu quả với tội phạm sử dụng

công nghệ cao, tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường; phát hiện và triệt xóa

nhiều đường dây mua bán, vận chuyển ma túy lớn xuyên quốc gia, nhiều tụ điểm

ma túy phức tạp.... đã tiến hành quyết liệt, góp phần đảm bảo an ninh quốc gia và

giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

Trên địa bàn tỉnh Bình Định, mặc dù tình hình tội phạm trong thời gian qua

diễn biến còn nhiều phức tạp, nhiều vấn đề mới nảy sinh nhưng so với yêu cầu,

nhiệm vụ đặt ra của việc triển khai thực hiện Chỉ thị 48 về cơ bản Bình Định đã

hoàn thành. Cụ thể, Bình Định đã huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ

thống chính trị từ tỉnh đến cấp cơ sở cùng vào cuộc trong công tác đấu tranh, phòng

chống tội phạm; sự vào cuộc quyết liệt của các cấp ủy đảng, sự tham gia tích cực,

có trách nhiệm của các ban, ngành, địa phương đã góp phần kiềm chế hoạt động,

ngăn chặn được sự phát triển của các loại tội phạm trong thời gian qua. Để đạt được

những thành tựu nói trên trong công tác đấu tranh chống và phòng chống tội phạm,

cấp ủy, chính quyền địa phương đã phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các

ngành, lĩnh vực, của tất cả mọi người, mọi tầng lớp dân chúng trong xã hội.

Trong đó, hoạt động của các cơ quan tư pháp tỉnh Bình Định nói chung và

của VKSND tỉnh Bình Định nói riêng đã góp phần không nhỏ trong công cuộc xây

dựng và phát triển địa phương, đặc biệt là trong công cuộc đấu tranh và phòng

33

chống tội phạm để giữ vững an ninh trật tự, bình yên và hạnh phúc của Nhân dân.

Thông qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử nói chung và đặc

biệt là công tác KNPT hình sự nói riêng, ngành kiểm sát tỉnh Bình Định đã góp

phần tích cực trong công cuộc đấu tranh và phòng chống tội phạm bảo đảm trật tự

an toàn xã hội, góp phần tích cực xây dựng quê hương Bình Bình tự hào là đất võ

trờ văn, ngày càng giàu đẹp và phát triển.

Thông qua công tác KNPT hình sự, VKS đã góp phần trong việc thực hiện

đấu tranh kiên quyết và có hiệu quả đối với các loại tội phạm nhất là đối với các

loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm như tội phạm về ma túy, các tội phạm tham nhũng,

kinh tế, chức vụ, các tội xâm phạm trật tự xã hội như tội phạm xâm phạm tính

mạng, sức khỏe, tội phạm xâm hại trẻ em, phụ nữ… Bằng việc thực hiện quyền

kháng nghị của mình VKS đã yêu cầu toà án cấp trên phải xem xét lại phán quyết

của Toà án cấp dưới để đưa ra những phán quyết nghiêm minh hơn, trừng phạt đích

đáng hơn những kẻ cầm đầu, lưu manh côn đồ, những băng nhóm hoạt động theo

kiểu ”xã hội đen” phạm những tội đặc biệt nghiêm trọng. Thông quá công tác

KNPT hình sự nhằm thực hiện hiệu quả việc răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội

phạm. Qua thực tiễn nghiên cứu 05 năm thực hiện quyền KNPT hình sự thấy rằng

VKSND tỉnh Bình Định đã kiên quyết yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xử phạt mức

án tử hình đối với nhiều bị cáo phạm tội nguy hiểm và đã được Toà án chấp nhận.

Điển hình là vụ án Trương Thanh Sang phạm tội “Giết người” xảy ra tại thành

phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Hội đồng thi hành án tử hình tỉnh Bình Định đã

quyết định tổ chức thi hành bản án tử hình vào ngày 7/5 đối với tên Trương Thanh

Sang, 20 tuổi, trú tại TP Quy Nhơn, kẻ chủ mưu, cùng đồng bọn đã sử dụng hung khí

chém chết em Nguyễn Vĩnh Phú, học sinh lớp 11A8 - Trường Trung học phổ thông

Trưng Vương, TP Quy Nhơn. Đầu tháng 4/2016, sau 2 cấp xét xử sơ thẩm, phúc

thẩm, TAND tỉnh Bình Định và TAND cấp cao tại Đà Nẵng đều đã tuyên phạt tên

34

Trương Thanh Sang mức án cao nhất - tử hình - về "tội giết người". Thời gian sau,

Sang đã có đơn xin ân giảm án tử hình, tuy nhiên ngày 20/3, Chủ tịch nước đã bác

đơn xin giảm án tử hình của Sang. TAND tỉnh Bình Định vừa tổ chức cuộc họp với

các đại diện: VKSND tỉnh, Công an tỉnh, Công an TP Quy Nhơn, lãnh đạo UBND TP

Quy Nhơn để triển khai việc thi hành bản án tử hình đối với Sang.

Bên cạnh đó trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO đặt ra

những thách thức đối với nền kinh tế đất nước, thực tiễn diễn biến tình hình tội

phạm của nước ta trong những năm gần đây và thực tiễn tình hình tội phạm ở một

số nước trên thế giới, có thể nhận thấy trong thời gian tới sẽ phải đối mặt với những

khó khăn, thách thức. Tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm rửa tiền, tội phạm

buôn lậu, tham nhũng, buôn ma túy, vũ khí, các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ,

tội phạm về môi trường, tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm buôn bán

phụ nữ, trẻ em sẽ diễn ra phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi (môi giới nhận con

nuôi, kết hôn lấy chồng nước ngoài, xuất khẩu lao động, thậm chí cưỡng ép, bắt cóc

phụ nữ, trẻ em…), tội phạm buôn bán ma tuý vẫn tiếp tục gia tăng và diễn biến khó

lường... Do đó, việc trừng trị nghiêm khắc những loại tội phạm này là sự răn đe cần

thiết đối với những kẻ tội phạm định coi Việt Nam là “vùng đất phạm tội mới”.

Thông qua việc KNPT hình sự VKS đã thể hiện rõ quan điểm của mình trong đấu

tranh phòng chống những loại tội phạm này.

Tiêu biểu như vụ án Hồ Long Thoại và đồng bọn phạm tội “Lừa đảo chiếm

đoạt tài sản” ở thị xã Hoài Nhơn bị tuyên phạt 20 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm

đoạt tài sản”. Hành vi phạm tội của các bị cáo là có tổ chức, phạm tội với trình độ

cao, phạm tội nhiều lần, chiếm đoạt số tiền đặc biệt lớn và không khắc phục được

hậu quả. Bản thân Hồ Long Thoại là người giữ vai trò chỉ đạo, giám sát toàn bộ

hoạt động của nhóm nên mức án 20 năm tù là quá nhẹ không tương xứng với tính

chất, mức độ phạm tội của bị cáo, không đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống.

35

Cấp phúc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của Viện KSND tỉnh Bình Định phạt tù

chung thân đối với bị cáo.

2.2.2.4. Kháng nghị phúc thẩm hình sự góp phần nâng cao trình độ của cán

bộ kiểm sát, kiểm sát viên

Lãnh đạo VKS nhân dân hai cấp tỉnh Bình Định đã từng bước nâng cao nhận

thức về tầm quan trọng của công tác KNPT vì đây không những là biện pháp để

thực hiện tốt chức năng luật định của Ngành mà còn đảm bảo pháp luật được thực

thi thống nhất, đồng thời phục vụ có hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội

phạm. VKSND tỉnh Bình Định đã có những chỉ đạo sâu sát, nâng cao hiệu quả công

tác KNPT, xem công tác KNPT hình sự là một trong những công việc trọng tâm

của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp theo chức năng

của ngành. Đưa ra những chỉ tiêu và nhiệm vụ cụ thể trong kế hoạch, chương trình

công tác hàng năm nhằm tăng cường hơn nữa việc phát hiện những bản án, quyết

định sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng về áp dụng pháp luật, về đường lối xét xử,

thủ tục tố tụng để KNPT hình sự. Sự chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo các VKS các địa

phương là nhân tố đảm bảo cho kháng nghị chặt chẽ về thủ tục, nội dung có căn cứ

và có tính thuyết phục. Thực tế cho thấy khi các vụ án được lãnh đạo các đơn vị

quan tâm đúng mức, sát sao thì các bản kháng nghị luôn được bảo vệ và chấp nhận.

Do đó, trình độ của KSV đã từng bước được nâng lên. Những bản kháng

nghị có chất lượng cao thường là những kháng nghị đã phát hiện đúng những vi

phạm của toà án cấp sơ thẩm trong việc áp dụng luật và các văn bản hướng dẫn thi

hành hoặc có những vi phạm nghiêm trọng thủ tục TTHS . Sự sắc bén về nghiệp vụ

và nắm vững căn cứ pháp luật của KSV là yếu tố hết sức cần thiết góp phần quan

trọng cho bản kháng nghị có chất lượng cao.

2.2.2.5. Viện kiểm sát cấp phúc thẩm đã chú trọng hơn trong công tác rút

kinh nghiệm đối với Viện kiểm sát cấp sơ thẩm trong công tác kháng nghị phúc

36

thẩm hình sự

Các VKS cấp phúc thẩm đã chú trọng hơn trong công tác rút kinh nghiệm đối

với VKS cấp sơ thẩm trong công tác KNPT. Trước và sau mỗi đợt xét xử ở địa

phương các VKS cấp phúc thẩm đều có thông báo kết quả xét xử và trao đổi với

VKS cấp sơ thẩm những sai sót trong KNPT. Ngoài ra định kỳ đã tổng hợp về công

tác KNPT trong 6 tháng hoặc 1 năm để thông báo rút kinh nghiệm với VKS địa

phương. Bên cạnh đó các viện phúc thẩm thuộc viện KSND tối cao trong kế hoạch

công tác hàng năm vẫn thường xuyên tổ chức hội thảo về chất lượng công tác

KNPT hình sự trên toàn quốc để học tập, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau về công tác

này. Việc thực hiện Chỉ thị số 03 của Viện trưởng VKSND tối cao ngày 19/6/2008

về tăng cường công tác KNPT hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Bình Định sau hơn

10 năm thực hiện đã đạt được những bước tiến đáng khích lệ trong công tác KNPT

hình sự, khắc phục khó khăn, nỗ lực triển khai nhiều biện pháp thực hiện có hiệu

quả nhiệm vụ được giao, kiềm chế sự gia tăng của tội phạm, VPPL cơ bản đạt và

vượt chỉ tiêu, yêu cầu của các nghị quyết của Quốc hội, góp phần giữ vững an ninh

chính trị, trật tự, an toàn xã hội và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

2.2.3. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của các tồn tại hạn chế

2.2.3.1. Những tồn tại, hạn chế

Số bị cáo bị kháng nghị trong giai đoạn 5 năm thường chiếm trung bình

khoảng 10,64% số bị cáo cấp phúc thẩm thụ lý (năm 2015 là 3,33%; năm 2016 là

2,82%; năm 2017 là 12,07%; năm 2018 là 14,08%; năm 2019 là 20,87%). Trong

các năm từ 2015 đến 2016 số bị cáo bị kháng nghị so với tổng số bị cáo cấp phúc

thẩm thụ lý và giải quyết có chiều hướng giảm, đến năm 2017 tỷ lệ này có tăng lên

đôi chút nhưng không đáng kể. Tỷ lệ số bị cáo bị kháng nghị so với số bị cáo được

cấp phúc thẩm đưa ra xét xử có tăng hơn, tỷ lệ trung bình đó là 10,6%/ năm (năm

2015 là 4,09%; năm 2016 là 2,7%; năm 2017 là 16,03%; năm 2018 là 13,11%; năm

37

2019 là 22,75%). Qua số liệu thống kê cho thấy có những “điểm trống” về công tác

KNPT. Trong 05 năm qua, thực tế XXPT một số VAHS phải cải sửa ở cấp phúc

thẩm, điều này cho thấy rằng không thể kết luận như một số quan điểm vẫn cho

rằng do chất lượng án sơ thẩm đã nâng lên nên không có KNPT, mà chúng ta phải

thẳng thắn nhìn nhận rằng công tác KNPT hình sự thời gian vẫn chưa được chú

trọng và quan tâm thực hành đúng mức, vì vậy dẫn đến hiệu quả TTHS vẫn còn

những hạn chế và bấn cập nhất định.

Mặc dù số bị cáo bị kháng nghị giảm nhưng thực tế cho thấy nhiều vụ án cấp

phúc thẩm phải cải sửa tội danh, tăng hoặc giảm mức hình phạt khá lớn theo kháng

cáo của bị cáo hoặc người bị hại. Số bị cáo bị cải sửa chủ yếu vẫn thông qua kháng

cáo, trong đó có việc cải sửa do có tình tiết mới ở cấp phúc thẩm nhưng không

nhiều mà chủ yếu vẫn do sai sót trong việc đánh giá chứng cứ, việc áp dụng pháp

luật của cấp sơ thẩm nhưng chưa được phát hiện để kháng nghị hoặc do VKS cấp sơ

thẩm cũng thống nhất với nhận định, đánh giá của Toà án cấp sơ thẩm nên không

kháng nghị. Một số vụ án cấp sơ thẩm đã có vi phạm nghiêm trọng thủ tục TTHS ,

cấp phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm phải huỷ án nhưng VKS cấp sơ thẩm không

kháng nghị. Đáng chú ý, trong một số trường hợp, Toà án sơ thẩm nhận định thiếu

căn cứ, quyết định áp dụng tội danh và mức hình phạt khác với quan điểm của VKS

truy tố và bảo vệ tại phiên toà nhưng VKS lại không KNPT. Ngoài ra, một số vụ án

được báo chí và dư luận quan tâm, toà sơ thẩm xét xử còn nhẹ nhưng VKS không

kháng nghị. Từ những vấn đề nêu trên cho thấy bản án sơ thẩm có vi phạm còn khá

nhiều nhưng chưa bị KNPT hình sự. Đây là vấn đề nghiêm túc cần xem xét trách

nhiệm của VKS đối với công tác kháng nghị.

- Số bị cáo cấp phúc thẩm xin rút kháng nghị và Toà án cấp phúc thẩm bác

kháng nghị chiếm tỷ lệ cao. Số kháng nghị bị bác chiếm tỷ lệ lớn, một số trường

hợp bác kháng nghị chưa chính xác nhưng không đề nghị giám đốc thẩm hoặc có đề

38

nghị nhưng cấp giám đốc chưa kiên quyết để giải quyết

Trong tổng số 191 bị cáo bị VKS cấp huyện và VKSND cấp tỉnh kháng nghị

đã giải quyết, số bị cáo bị rút kháng nghị là 43 bị cáo, số bị cáo được chấp nhận

kháng nghị là 86 bị cáo. Tuy một số trường hợp rút và bác kháng nghị chưa chính

xác nhưng ít nhiều cũng cho chúng ta thấy chất lượng kháng nghị chưa cao. Đáng

lưu ý là tỷ lệ rút và bác kháng nghị là không đồng đều ở các địa phương và các cấp

có kháng nghị. Bên cạnh một số VKSND cấp huyện KNPT hình sự có chất lượng

tốt và có tỷ lệ chấp nhận kháng nghị cao như thành phố Quy Nhơn, huyện Hoài Ân,

huyện An Lão…Còn một số địa phương khác chất lượng kháng nghị còn chưa cao,

tỷ lệ bị rút, bác còn nhiều như Tây Sơn, Phù Cát, Phù Mỹ…

Trong số các trường hợp bác kháng nghị cho thấy phần lớn các trường hợp

bác kháng nghị do kháng nghị yêu cầu toà án cấp phúc thẩm tăng hoặc giảm mức

hình phạt đối với bị cáo nhưng đó là mức hình phạt chênh lệch không lớn so với đề

nghị của VKS tại phiên toà sơ thẩm hoặc yêu cầu chuyển biện pháp chấp hành hình

phạt tù cho bị cáo hưởng án treo sang tù giam là không cần thiết. Trong đó nhiều

trường hợp VKS cấp phúc thẩm phải rút kháng nghị mới đúng nhưng khi trao đổi

VKS địa phương đề nghị bảo vệ kháng nghị. Một số trường hợp khác VKS cấp

phúc thẩm tuy không rút kháng nghị nhưng cũng không bảo vệ kháng nghị mà lại

đề nghị Toà án cấp phúc thẩm bác kháng nghị. Đây là việc làm không đúng Quy

chế nghiệp vụ của ngành cần rút kinh nghiệm.

Bên cạnh đó có không ít trường hợp Toà án cấp phúc thẩm bác kháng nghị

không có căn cứ, trái pháp luật nhưng VKS cấp phúc thẩm không kiến nghị giám

đốc thẩm hoặc có kiến nghị nhưng cấp giám đốc thẩm lại chưa kiên quyết bảo vệ

quan điểm của ngành thông qua kháng nghị giám đốc thẩm. Tiêu biểu như vụ án

Nguyễn Văn Hải phạm tội Cố ý gây thương tích; vụ Nguyễn Đoàn Tiến phạm tội

Hiếp dâm.

39

- Kháng nghị trên một cấp vẫn còn ít, sự phối kết hợp giữa hai cấp sơ thẩm,

phúc thẩm trong công tác kháng nghị còn hạn chế

Trong 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019, VKSND tỉnh Bình việc KNPT

hình sự trên một cấp trực tiếp chiếm 22% tổng số bị cáo có kháng nghị. Một số địa

phương cấp huyện làm khá tốt nhưng ngược lại có nhiều địa phương chưa thật sự

quan tâm, trong khi đó án sơ thẩm sai sót không ít. Việc thực hiện KNPT trên cấp

thực hiện mang tính sự vụ và mới chỉ đặt ra khi có dư luận thông tin, báo chí hoặc

có đề nghị của VKS cấp dưới.

Công tác phối hợp giữa VKSND hai cấp tỉnh Bình Định thông qua công tác

gửi bản án và phiếu kiểm sát bản án, quyết định sơ thẩm cho VKS cấp trên đôi lúc

chưa đảm bảo đúng quy định; VKSND cấp huyện chưa thường xuyên có sự trao

đổi, tham khảo ý kiến của các phòng nghiệp vụ về việc KNPT hay đề nghị VKSND

cấp tỉnh KNPT trên cấp.

- Sự phối hợp giữa VKS cấp trên và VKS cấp dưới trong việc bảo vệ hoặc rút

kháng nghị chưa được quan tâm trong những năm qua

Qua số liệu thống kê cho thấy: Số bị cáo bị kháng nghị đưa ra XXPT bị VKS

cấp trên rút kháng nghị chiếm một tỷ lệ không nhỏ, khoảng 22,51% tổng số bị cáo

bị KNPT đã được Toà án cấp phúc thẩm xét xử. Số bị cáo bị KNPT nhưng Toà án

cấp phúc thẩm bác kháng nghị cũng chiếm tỷ lệ 27% đến 28%, như vậy, nếu tính

chung thì số bị cáo bị KNPT nhưng VKS cấp trên rút kháng nghị và Toà án cấp

phúc thẩm bác kháng nghị chiếm hơn 50% so với bị cáo bị kháng nghị đã được Toà

cấp phúc thẩm xét xử. Đây là một trong những hạn chế của công tác KNPT. Hạn

chế này có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về sự phối hợp giữa VKS

cấp trên và cấp dưới trong công tác KNPT hình sự.

Khi có KNPT hình sự của VKS là có sự khác biệt giữa cách đánh giá và nhận

định của Hội đồng xét xử và VKS về toàn bộ hay một phần cáo trạng của VKS.

40

VKS KNPT là thể hiện quan điểm của VKS đối với các quyết định, bản án của Toà

cấp sơ thẩm. Như vậy, vấn đề đặt ra là VKS cấp dưới kháng nghị, nhưng bảo vệ

kháng nghị tại phiên toà phúc thẩm lại là VKS cấp trên trực tiếp. Vì vậy, để có được

quyết định đúng pháp luật, có căn cứ trước và trong phiên toà phúc thẩm thì VKS

cấp trên và cấp dưới phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau. Sau khi đã ra quyết

định KNPT, VKS cấp dưới phải báo cáo cho VKS cấp trên trực tiếp một cách cụ

thể, đầy đủ, tỷ mỷ về quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm, đặc biệt nêu rõ căn

cứ, lý do KNPT. VKS cấp trên phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, các căn cứ và lý do kháng

nghị, cần thiết có thể thực hiện các biện pháp khác nhau để củng cố hồ sơ, thu thập

thêm chứng cứ phục vụ cho việc bảo vệ quan điểm trong kháng nghị.

Muốn cho kháng nghị có chất lượng thì VKS cấp dưới và cấp trên phải phối

hợp chặt chẽ. Hết sức tránh tình trạng cả hai cấp cùng KNPT. Nếu VKS cấp trên

thấy kháng nghị của VKS cấp dưới chưa chính xác thì trao đổi với với VKS ra

kháng nghị có quyết định kháng nghị bổ sung (nếu còn thời hạn) hoặc rút kháng

nghị (nếu không có căn cứ kháng nghị), hoặc VKS cấp trên ra quyết định kháng

nghị bổ sung (nếu còn thời hạn kháng nghị).

* Một số hạn chế về hình thức

KNPT hình sự ở một số nơi còn chưa thực hiện theo đúng quy định. KNPT

hình sự là văn bản áp dụng pháp luật trong TTHS tuy mang tính cá biệt chỉ áp dụng

một lần nhưng nó cũng đòi hỏi phải tuân theo trình tự, thủ tục, quy định chặt chẽ.

Về hình thức KNPT hình sự về cơ bản đã theo mẫu nhưng vẫn còn một số tồn tại:

Một số kháng nghị không bảo đảm đúng theo mẫu quy định của Viện KSND tối

cao.Việc thay đổi, bổ sung KNPT hình sự đã có mẫu ban hành, theo đó khi bổ sung,

thay đổi KNPT hình sự của VKS phải ra Quyết định bổ sung, thay đổi kháng nghị

nhưng có VKS lại ban hành một kháng nghị mới thay thế KNPT trước đó là không

đúng thủ tục quy định. Việc kiểm tra bản thảo KNPT hình sự trước khi ban hành

41

chính thức còn những sơ xuất không đáng có như nhầm tên địa phương nơi XXST,

ngày ban hành kháng nghị trước ngày ra bản án sơ thẩm, số liệu sai sót, có nhiều lỗi

chính tả…Về từ ngữ sử dụng trong KNPT hình sự có một số trường hợp còn thiếu

chặt chẽ hoặc không đúng về mặt pháp lý. Một số kháng nghị lại quá thời hạn

BLTTHS quy định nên phải rút kháng nghị.

- Những sai lầm, hạn chế của công tác KNPT

Số lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự còn chiếm tỷ lệ khiêm tốn trong

tổng số vụ án có quyết định truy tố của Viện Kiểm sát các cấp chuyển Toà án nhân

dân xét xử. Trung bình số lượng kháng nghị phúc thẩm của Viện Kiểm sát chỉ

chiếm 9,4% tổng số vụ án Viện kiểm sát có quyết định truy tố chuyển Toà án nhân

dân xét xử, mặc dù số lượng án Viện kiểm sát có quyết định truy tố chuyển Toà án

nhân dân xét xử tăng nhưng số kháng nghị của Viện kiểm sát lại giảm đáng kể.

Điển hình là trong năm 2019, tổng số vụ án Viện kiểm sát nhân dân có quyết định

truy tố chuyển Toà án nhân dân xét xử là 11.030 vụ, song kháng nghị của Viện

kiểm sát nhân dân các cấp ban hành chỉ có 1021 kháng nghị, chiếm 3,2%, trong khi

đó số án sơ thẩm có vi phạm pháp luật bị cấp phúc thẩm huỷ để điều tra lại hoặc xét

xử lại còn nhiều. Ví dụ: trong năm 2018, Toà phúc thẩm thụ lý 2130 vụ án, qua xét

xử đã huỷ và sửa án 4321 vụ, song số kháng nghị của Viện kiểm sát chỉ có 508 vụ

(kể cả kháng nghị trên một cấp của ba Viện phúc thẩm), chiếm 22% so với số án xử

sai ở cấp sơ thẩm phải sửa và huỷ án. Số lượng kháng nghị phúc thẩm trên một cấp

còn quá ít. Trong số 321 kháng nghị của ba Viện phúc thẩm Viện kiểm sát nhân dân

tối cao thì chỉ có 24 vụ kháng nghị trên một cấp [31, tr 40]. Hoặc trong năm 2017,

toàn ngành kiểm sát có 905 kháng nghị phúc thẩm thì có 17 kháng nghị bị rút ở cấp

phúc thẩm (chiếm 14%); trong số 543vụ có kháng nghị đưa ra xét xử phúc thẩm thì

có 203 vụ Toà phúc thẩm không chấp nhận kháng nghị (chiếm 23%) [29, tr. 3].

Một số Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có rất ít kháng nghị, thậm chí có đơn vị

42

trong 03 năm không có kháng nghị phúc thẩm như Viện kiểm sát nhân dân. Nhiều

bản kháng nghị chưa đúng trọng tâm, chưa phù hợp với các quy định của pháp luật

nên số kháng nghị bị rút, bị bác vẫn còn ở tỷ lệ cao.

Việc đưa ra căn cứ kháng nghị do có vi phạm trong việc áp dụng Bộ luật

hình sự và kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp với

các tình tiết khách quan của vụ án cũng không chính xác, do chưa nghiên cứu kỹ

các quy định của Bộ luật hình sự như: về đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm

tội, nhân thân bị cáo, việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự, chính sách xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội…Do đó, nội dung

kháng nghị nhận định bản án sơ thẩm áp dụng luật sai, không có căn cứ, nhưng qua

nghiên cứu lại cho thấy án sơ thẩm áp dụng đúng pháp luật. Hoặc có không ít

trường hợp tuy bản án sơ thẩm áp dụng sai các quy định của Bộ luật hình sự nhưng

kháng nghị nhận định cũng thiếu chính xác về sai sót của bản án sơ thẩm.

Tuy nhiên, thực tiễn việc bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị của Viện kiểm sát

nhân dân còn có những tồn tại nhất định. Tình trạng Viện kiểm sát nhân dân đã ban

hành kháng nghị không phát hiện được sai sót của kháng nghị, dẫn đến Viện kiểm

sát cấp trên phải rút kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới. Hoặc tình

trạng Viện kiểm sát đã ban hành kháng nghị không phát hiện được sai sót của kháng

nghị nhưng cũng không được Viện kiểm sát cấp trên phát hiện để bổ sung, thay đổi,

rút kháng nghị, dẫn đến tình trạng Toà án không chấp nhận kháng nghị.

Ngoài ra, những kháng nghị không được Viện kiểm sát cấp trên chấp nhận

do ở phần nội dung kháng nghị viết quá dài, ghi cả nội dung của cáo trạng, bản án

sơ thẩm…mà không đi sâu phân tích các vi phạm cần kháng nghị. Nguyên nhân của

tình trạng này là các Viện kiểm sát cấp dưới chưa phân biệt được rõ ràng hai khái

niệm “nội dung vụ án” và “nội dung bản án”. Ngược lại là tình trạng viết kháng

nghị quá ngắn gọn, không thể hiện được tính thuyết phục lý do đưa ra kháng nghị.

43

2.2.3.2. Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế

- Có nhiều nguyên nhân chủ quan dẫn đến sai sót trong đó, nguyên nhân từ

con người của cán bộ kiểm sát, KSV.

Thông qua việc nghiên cứu những tồn tại, thiếu sót trong kháng nghị phúc

thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong những năm qua, có thể rút ra một số

những nguyên nhân như sau:

Thứ nhất, số lượng án phải giải quyết nhiều nhưng số lượng Kiểm sát viên

còn thiếu; năng lực, trình độ của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân còn những

hạn chế nhất định, công tác tập huấn, đào tạo cán bộ kiểm sát, bồi dưỡng rút kinh

nghiệm chưa được thực hiện thường xuyên.

Viện kiểm sát có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo cho vụ

án được điều tra, truy tố và xét xử đúng người, đúng tội. Kiểm sát viên là người

kiểm sát vụ án từ khi vụ án được khởi tố, điều tra, truy tố đồng thời là người đại

diện cho Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại các phiên toà hình sự. Kiểm sát viên là

người có mặt ngay từ khi phiên toà được khai mạc và chứng kiến mọi diễn biến tại

phiên toà; Kiểm sát viên cũng là người có quyền tham gia việc xét hỏi và kết thúc

việc xét hỏi; Kiểm sát viên là người sẽ luận tội đối với bị cáo. Do vậy, Kiểm sát

viên là người có điều kiện nhất để xem xét tính có căn cứ và hợp pháp của bản án.

Tuy nhiên, hiện nay, toàn ngành kiểm sát có 9804 người. Trong đó, biên chế hiện có

của Viện kiểm sát nhân dân tối cao là 701 người: có 531 công chức chuyên môn

nghiệp vụ kiểm sát, bao gồm: 178 Kiểm sát viên, 20 Điều tra viên cao cấp, 131

Kiểm tra viên, Chuyên viên, cán bộ làm nghiệp vụ Kiểm sát và 163 công chức

chuyên môn nghiệp vụ khác. Biên chế hiện có của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh

là 2.034 người, trong đó có 3007 công chức chuyên môn nghiệp vụ kiểm sát, bao

gồm: 2.908 Kiểm sát viên, 1.202 Kiểm tra viên, Chuyên viên, cán bộ làm nghiệp vụ

kiểm sát và 433 công chức chuyên môn nghiệp vụ khác. Số lượng Kiểm sát viên

44

Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh được giao là 3090 người, hiện có 3012 người.

Năng lực trình độ Kiểm sát viên ngành kiểm sát nhân dân còn những hạn chế

nhất định nên chất lượng kháng nghị phúc thẩm trong thời gian qua còn nhiều thiếu

sót, tồn tại. Hiện nay, tổng số cán bộ, công chức toàn ngành hiện có là 11.762

người, trong đó có 10.357 cán bộ, công chức làm chuyên môn nghiệp vụ kiểm sát,

bao gồm: 165 Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 08 Điều tra viên cao

cấp, 2.266 Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, 3.898 Kiểm sát viên

Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện và 4.202 cán bộ, công chức làm nghiệp vụ kiểm

sát (không phải là Kiểm sát viên, Điều tra viên) và 1.405 công chức chuyên môn

nghiệp vụ khác. Trong số 10.357 công chức chuyên môn nghiệp vụ kiểm sát có

8.754 người có trình độ Cử nhân luật trở lên (trong đó có 21 Tiến sỹ, 109 Thạc sỹ)

đạt 84,5%; 892 người có trình độ Cao đẳng kiểm sát, đạt 8,6%; số còn lại (711

người = 6,8%) đang theo học các khoá học tại chức Đại học luật và Cao đẳng kiểm

sát. Về trình độ lý luận chính trị: có 1.608 người có trình độ cử nhân; cao cấp chính

trị đạt 15,5%; 7.146 người có trình độ trung cấp chính trị, đạt 68,5%. Nhìn chung,

Kiểm sát viên có trình độ cử nhân trở lên chiếm một tỷ lệ lớn (84,5%). Vẫn có 8,6%

Kiểm sát viên có trình độ cao đẳng kiểm sát và 6,8% Kiểm sát viên đang theo học

các khoá tại chức Đại học luật và Cao đẳng kiểm sát. Nhưng do những yếu tố khác

nhau, trình độ, kỹ năng nghề nghiệp của nhiều Kiểm sát viên còn hạn chế nhất định.

Qua số liệu trên cho thấy, số Kiểm sát viên chưa được đào tạo về chính trị chiếm

một tỷ lệ lớn, nên nhận thức về chức năng, nhiệm vụ của ngành chưa đầy đủ, đặc

biệt là trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự. Nhiều Kiểm sát viên cho rằng

Viện kiểm sát chỉ là người đề nghị mức án còn Toà án mới là người ra quyết định

và là người có trách nhiệm chính trong việc ra bản án. Do đó, mặc dù bản án có sự

chênh lệch về mức án hoặc khác nhau về quan điểm đánh giá chứng cứ nhưng

không được Kiểm sát viên đề xuất kháng nghị.

45

Số Kiểm sát viên có trình độ cử nhân luật đa số là do mới tuyển dụng vào

ngành. Đây là lớp Kiểm sát viên được đào tạo bài bản, có trình độ. Tuy nhiên, do

thiếu kinh nghiệm nghề nghiệp nên thường đề xuất mức án không chính xác dẫn

đến sự chênh lệch về mức án giữa Viện kiểm sát và Hội đồng xét xử, nên sau đó

kháng nghị theo kiểu “cay cú” hoặc kháng nghị mang tính chủ quan, thể hiện sự

“nóng vội” khi đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên toà khác với quan điểm của Hội

đồng xét xử. Vì vậy, kháng nghị không được chấp nhận. Nhiều Kiểm sát viên chưa

có cái nhìn bao quát, tổng thể, toàn diện đối với từng vụ án cụ thể; nghiên cứu hồ sơ

không kỹ, bỏ lọt các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các tình tiết

thuộc về nhân thân bị cáo cũng nhận định không đúng. Vì vậy, nhiều bản kháng

nghị không đạt được những yêu cầu về chất lượng do không phát hiện đúng các vi

phạm của bản án sơ thẩm, kháng nghị chưa bám sát vào các căn cứ để kháng nghị

như Toà án cấp sơ thẩm có những vi phạm trong việc áp dụng Bộ luật hình sự về

định tội danh, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự, về định khung hình phạt, về

áp dụng các biện pháp tư pháp, về án phí…; vi phạm về thủ tục tố tụng hình sự

trong giai đoạn xét xử sơ thẩm; bản án hoặc quyết định sơ thẩm không phù hợp với

tình tiết khách quan của vụ án; việc điều tra, xét hỏi tại phiên toà không đầy đủ,

chưa rõ ràng. Nội dung của kháng nghị chưa xác định chính xác những vi phạm

pháp luật của bản án hoặc quyết định làm căn cứ để kháng nghị, chỉ đề cập một

cách chung chung như: xét thấy án sơ thẩm chưa đánh giá đúng tính chất, mức độ

hậu quả của hành vi phạm tội; hoặc hình phạt áp dụng đối với bị cáo là không tương

xứng với hành vi phạm tội do bị cáo gây ra; hoặc mức án sơ thẩm là chưa thoả

đáng, án xử quá nặng hay quá nhẹ vân vân mà chưa phân tích rõ căn cứ, cơ sở của

kháng nghị, không đưa ra được những căn cứ có tính thuyết phục.

Việc đào tạo kỹ năng cho Kiểm sát viên nói chung và kỹ năng kháng nghị

phúc thẩm nói riêng còn nhiều hạn chế, chưa có bài bản và không chuyên sâu. Thực

46

tế hiện nay, các Kiểm sát viên chủ yếu làm theo lối mòn và kinh nghiệm là chính. Do

đó, Kiểm sát viên thiếu sâu sắc trong phát hiện các vi phạm của hoạt động xét xử

hoặc chỉ chú ý phát hiện một số vấn đề liên quan đến việc chênh lệch về mức án, mà

ít chú ý đến các vấn đề khác. Điều này lý giải vì sao có sự mất cân đối trong cơ cấu

các bản kháng nghị (chủ yếu là kháng nghị về mức án đối với bị cáo, không có nhiều

bản kháng nghị về các vi phạm tố tụng hoặc kháng nghị quyết định của Tòa án).

Việc quan tâm của lãnh đạo Viện ở một số tỉnh trong cả nước đối với công tác

này còn ở mức độ nên chất lượng kháng nghị còn thấp. Việc nắm bắt quan điểm,

đường lối xử lý đối với một số loại án còn chưa kịp thời, chưa bám sát yêu cầu nhiệm

vụ chính trị nói chung và ở mỗi tỉnh, huyện nói riêng nên có những trường hợp Toà

án cấp sơ thẩm xử quá nhẹ nhưng Viện kiểm sát không kháng nghị. Bên cạnh đó, việc

sử dụng quyền kháng nghị phúc thẩm để bảo vệ quan điểm truy tố ở cấp tỉnh, cấp

huyện còn thiếu kiên quyết. Thực tế cho thấy, có những trường hợp Toà án cấp sơ

thẩm xử không đúng tội danh và mức hình phạt mà Viện kiểm sát đã truy tố và đề

nghị nhưng Viện kiểm sát không kháng nghị. Thông qua kháng cáo của người bị hại,

cấp phúc thẩm đã cải sửa theo đúng tội danh Viện kiểm sát đã truy tố.

47

Tiểu kết Chương 2

Trong chương 2, tác giả đã chú trọng làm rõ được các quy định của pháp luật

hiện hành (BLLTHS năm 2015) về KNPT hình sự: về thẩm quyền, phạm vi, thời

hạn, căn cứ, trình tự, thủ tục KNPT hình sự, thay đổi, bổ sung, rút KNPT, hậu quả

pháp lý của KNPT hình sự để làm nền tảng nghiên cứu thực tiễn hoạt động KNPT

hình sự từ thực tiễn địa phương Bình Định. Luận văn đã đi sâu nghiên cứu đánh giá

thực trạng áp dụng KNPT hình sự của Viện KSND tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến

năm 2019. Phân tích tình hình đặc điểm của việc chấp hành pháp luật và tội phạm

có liên quan đến áp dụng KNPT hình sự từ thực tiễn của tỉnh Bình Định. Những kết

quả đạt được qua công tác áp dụng KNPT hình sự của VKSND tỉnh Bình Định.

Đồng thời, luận văn cũng đánh giá những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của các

tồn tại hạn chế trong hoạt động áp dụng KNPT hình sự từ thực tiễn của tỉnh Bình

Định. Từ kết quả nghiên cứu trên, có thể nói thời gian qua công tác KNPT đã được

VKSND tỉnh Bình Định quan tâm và ban hành nhiều kháng nghị có chất lượng. Tuy

nhiên, số lượng KNPT không còn nhiều, nhiều kháng nghị còn hạn chế nên đem lại

hiệu quả chưa cao đối với chính hoạt động KNPT và để thúc đẩy nâng cao chất

lượng của quá trình TTHS mà VKS là một chủ thể tiến hành.

48

CHƯƠNG 3

MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN GÓP PHẦN

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ

TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH

3.1. Một số yêu cầu cơ bản góp phần nâng cao chất lượng kháng nghị

phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định

Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Đây là lần đầu tiên Bộ

Chính trị có Nghị quyết về cải cách tư pháp. Để tiếp tục đẩy mạnh tiến trình cải

cách tư pháp, ngày 2/6/2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về

“Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” với mục tiêu nhằm xây dựng một Nhà

nước pháp quyền Việt Nam XHCN, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công

bằng và văn minh.

Chương một của đề tài đã phân tích những quy định của pháp luật tố tụng

hình sự về kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án

hình sự cho thấy có nhiều quy định cần được sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn. Hoàn

thiện pháp luật tố tụng hình sự được coi là một giải pháp đầu tiên, quan trọng góp

phần nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự của ngành kiểm sát. Cụ thể

như sau:

Trước hết, về đối tượng của kháng nghị phúc thẩm hình sự: Bộ luật tố tụng

hình sự hiện hành quy định trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, Toà án ban hành rất

nhiều loại quyết định nhưng chưa quy định cụ thể những quyết định nào là đối

tượng của kháng nghị phúc thẩm. Bộ luật tố tụng hình sự thì những quyết định sơ

thẩm là đối tượng của kháng nghị phúc thẩm bao gồm: quyết định tạm đình chỉ vụ

án; quyết định đình chỉ vụ án; quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh và 49

các quyết định khác. Với đối tượng là các quyết định khác, Nghị quyết không đề

cập cụ thể là những quyết định nào mà chỉ hướng dẫn chung chung: trường hợp

kháng nghị đối với các quyết định khác, thì Toà án cấp sơ thẩm phải căn cứ vào quy

định của Bộ luật tố tụng hình sự và văn bản pháp luật có liên quan quy định về thẩm

quyền và năm đầu là một chặng đường còn rất ngắn và có nhiều thách thức đối với

việc thực hiện công cuộc cải cách tư pháp mang tầm chiến lược này, nhất là trong

bối cảnh từ tư duy, nhận thức, nghiên cứu lý luận, thể chế, tổ chức bộ máy, cán bộ

đến cơ chế hoạt động tư pháp còn nhiều bất cập, bất hợp lý nhưng lại chậm được

đổi mới, kiện toàn, công tác tư pháp chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của

nhân dân khi bước vào thiên niên kỷ mới, như nhận định của Bộ Chính trị(3). Tuy

nhiên, dưới sự chỉ đạo sát sao, có trọng tâm, trọng điểm của Ban Chỉ đạo cải cách tư

pháp Trung ương, các ban cán sự đảng, đảng đoàn các cơ quan tư pháp Trung ương

và ban chỉ đạo cải cách tư pháp của các tỉnh ủy, thành ủy, cải cách tư pháp đã đạt

được những kết quả ban đầu quan trọng, trong đó, cái được đầu tiên là đã có sự

chuyển biến tích cực hơn trong nhận thức của xã hội, của các cấp ủy và chính quyền

về vị trí, vai trò của các cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp đối với sự phát triển

kinh tế - xã hội bền vững, trật tự, an toàn của đất nước và của mỗi địa phương.

Một kết quả nổi bật, có ý nghĩa tạo cơ sở, khuôn khổ pháp lý để triển khai

Chiến lược là việc các cơ quan tư pháp đã tham mưu và trình Quốc hội thông qua

các đạo luật về hình sự, về tố tụng, về tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi

hành án, các tổ chức bổ trợ tư pháp, nhằm thể chế hóa đúng đắn các quan điểm, chủ

trương cải cách trong các nghị quyết của Đảng. Cụ thể: Bộ luật Hình sự được sửa

đổi, bổ sung theo hướng thể chế hóa chính sách hình sự nhân đạo hơn, bãi bỏ hình

phạt tử hình đối với một số tội phạm, hạn chế áp dụng hình phạt tù, mở rộng phạm

vi áp dụng hình phạt tiền; Luật Tố tụng hành chính được xây dựng theo hướng mở

rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các khiếu kiện hành chính, bảo đảm sự 50

bình đẳng giữa người dân và cơ quan công quyền trước tòa án; Luật Thi hành án

dân sự và Luật Thi hành án hình sự đều hướng tới bảo đảm các bản án, quyết định

của tòa án được thi hành nghiêm minh theo các nguyên tắc, trình tự, thủ tục minh

bạch, dân chủ, công khai, phù hợp với tính chất của từng loại án, quy định rõ tổ

chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thi hành án, cơ quan quản lý thi hành

án, thể chế hóa những chủ trương mới trong thi hành án, như thay đổi hình thức thi

hành án tử hình, xã hội hóa một số khâu thi hành án dân sự… Đặc biệt, các đạo luật

về luật sư, trợ giúp pháp lý, công chứng, trọng tài thương mại… đã thể chế hóa

quan điểm của Đảng về phát triển các nghề luật phù hợp với yêu cầu và trình độ của

nền kinh tế thị trường trong điều kiện văn hóa - xã hội cụ thể của Việt Nam, tạo

khuôn khổ pháp lý cho việc thực hiện chủ trương xã hội hóa mạnh mẽ các hoạt

động bổ trợ tư pháp. Có thể nói, sự ra đời và hoạt động của gần 3 nghìn tổ chức luật

sư, công chứng, trợ giúp pháp lý, trọng tài và thừa phát lại (dù mới đang trong giai

đoạn thí điểm) đã thúc đẩy việc mở rộng mạng lưới và nâng cao chất lượng các dịch

vụ pháp luật, đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu thiết thân của cá nhân, tổ chức

trong lĩnh vực pháp luật, tư pháp, đồng thời góp phần hỗ trợ các cơ quan tư pháp

tăng cường tính dân chủ, nghiêm minh, công khai và minh bạch trong hoạt động,

giảm tải dần công việc, biên chế và chi phí hành chính của các cơ quan nhà nước

liên quan, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành chính.

Mặc dù các đề án về cải cách tổ chức của các cơ quan tư pháp theo định

hướng của Chiến lược còn đang trong quá trình nghiên cứu xây dựng, nhưng trong

5 năm qua, quá trình tăng thẩm quyền cho các tòa án cấp huyện đã được hoàn thành

theo nghị quyết của Quốc hội; các cơ quan điều tra, kiểm sát cũng được sắp xếp lại

một bước, cùng với việc tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho

các cơ quan tư pháp đã tạo nên những tiền đề quan trọng để triển khai đồng bộ các

nội dung cải cách tổ chức ở giai đoạn sau. Chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, 51

xét xử, thi hành án đều có bước tiến bộ đáng ghi nhận: giảm đáng kể số vụ phải trả

hồ sơ điều tra bổ sung, hạn chế việc tạm giữ, tạm giam quá hạn; số bị can bị khởi tố,

truy tố oan giảm nhiều; việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng việc, đúng thời hạn

tăng lên, tỷ lệ các bản án, quyết định bị sửa, bị hủy đều giảm, hạn chế những vụ án

có sai lầm nghiêm trọng; tổ chức thi hành nghiêm, kịp thời các bản án, quyết định

hình sự của tòa án; hoạt động thi hành án dân sự có bước chuyển biến mạnh mẽ, kết

quả thi hành án năm sau liên tục cao hơn năm trước, giải quyết dứt điểm một số vụ

việc thi hành án phức tạp, kéo dài; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động

tư pháp, bổ trợ tư pháp được quan tâm thúc đẩy; cơ quan điều tra của Viện Kiểm sát

nhân dân tối cao đã khởi tố điều tra nhiều vụ án về các tội xâm phạm hoạt động tư

pháp, đưa ra nhiều kiến nghị yêu cầu cơ quan tư pháp, cơ quan quản lý nhà nước

thực hiện các biện pháp phòng ngừa vi phạm, tội phạm.

Hiện nay, giữa những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và hướng dẫn của

các cơ quan có thẩm quyền về diện các quyết định sơ thẩm là đối tượng của kháng

nghị phúc thẩm với việc nhận thức, giải thích và vận dụng trong thực tiễn của các

cơ quan tiến hành tố tụng còn có những “xung đột”. Do vậy, để loại bỏ những

“xung đột” này cần có giải pháp là, trong Bộ luật tố tụng hình sự (hoặc Thông tư

liên ngành) phải xác định rõ những quyết định nào là đối tượng của công tác kháng

nghị phúc thẩm hình sự. Tại các phần trên đã phân tích và tác giả đã đưa ra quan

điểm của mình về các điều kiện để một quyết định sơ thẩm là đối tượng của kháng

nghị phúc thẩm. Theo tác giả, Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi, bổ sung mới hoặc

trong Thông tư liên ngành Toà án - Viện kiểm sát cần quy định rõ các quyết định

sau đây là đối tượng của kháng nghị phúc thẩm hình sự. Đồng thời, cũng phải xác

định những quyết định trên phải được Toà án gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp

trong thời hạn hai ngày kể từ ngày ra quyết định, để có căn cứ tính thời hạn kháng

nghị phúc thẩm. Đó là các quyết định: quyết định đình chỉ vụ án hình sự; quyết định 52

tạm đình chỉ vụ án hình sự; quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn

chặn; quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; quyết định khởi tố vụ án

của Hội đồng xét xử.

Đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, đã có sự trưởng

thành về số lượng và chất lượng. Công tác quy hoạch, rà soát, đánh giá, luân

chuyển, đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức tư pháp được thực hiện đồng bộ, khá bài

bản; kết hợp cải thiện từng bước chế độ, chính sách đãi ngộ với việc xử lý kỷ luật

nghiêm minh đối với các sai phạm của cán bộ, công chức tư pháp. Việc đào tạo

nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ

Chính trị được đẩy mạnh, góp phần tích cực vào quá trình chuẩn hóa từng bước đội

ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên cũng như những người

hành nghề luật sư, công chứng cả về trình độ chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ.

Sau nhiều năm đầu thực hiện Chiến lược, tuy hoạt động cải cách chưa thật sự

đi sâu vào khâu trung tâm của hệ thống tư pháp với các giải pháp đột phá, cơ bản,

nhưng những kết quả đạt được về mặt thể chế, về tổ chức và hoạt động của các khâu

bổ trợ tư pháp, thi hành án, về tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ và cơ sở vật

chất, cũng đã tạo nên một số tiền đề và điều kiện cần thiết cho những cải cách cơ

bản, sâu rộng hơn trong thời gian tới. Tuy nhiên, như Báo cáo chính trị tại Đại hội

XI của Đảng đã nhận định: Cải cách tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ, đặt trong yếu

kém chung của 10 năm qua là việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý nhà nước, năng lực xây

dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật đều còn yếu. Nguyên

nhân của sự chậm trễ, thiếu đồng bộ trong cải cách tư pháp đã được Ban Chỉ đạo cải

cách tư pháp Trung ương phân tích sâu sắc, trong đó, nguyên nhân đầu tiên chính là

sự nhận thức chưa thực sự đúng mức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một

số cơ quan ở Trung ương, cấp ủy và chính quyền địa phương về vị trí, tầm quan 53

trọng của công tác tư pháp và cải cách tư pháp; việc nghiên cứu lý luận cơ bản về vị

trí, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tư pháp và cải cách tư pháp trong cơ chế tổ

chức quyền lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa được quan tâm

đúng mức, tiến hành chưa bài bản, kết quả chưa thấu đáo; việc tổng kết thực tiễn tổ

chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp và cải cách tư pháp chưa thực hiện thường

xuyên, chưa có những đánh giá đầy đủ, khách quan về tác động kinh tế - xã hội của

hoạt động tư pháp và cải cách tư pháp...

Chính vì vậy, yêu cầu đầu tiên, là hạt nhân trung tâm nhất để thực hiện chủ

trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, xây dựng hoàn thiện pháp luật là

vấn đề con người, vấn đề cán bộ với đầy đủ các tiêu chuẩn về trình độ pháp lý, trình

độ chuyên môn, các kiến thức về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, các lĩnh vực

chuyên môn có liên quan và đặc biệt là có năng lực và sở trường, có phẩm chất

chính trị tốt và đạo đức cách mạng trong sáng để đảm bảo thực hiện chức năng

nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, cần có sự tác động qua lại cũng như kiểm soát

lẫn nhau giữa các cơ quan tố tụng, người có thẩm quyền THTT để cơ bản thống

nhất trong áp dụng pháp luật khi giải quyết các VAHS.

3.2. Một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng kháng nghị

phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định

3.2.1. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về kháng nghị phúc thẩm

hình sự theo hướng ổn định và đồng bộ

KNPT nói chung trong các lĩnh vực tố tụng, trong đó có lĩnh vực hình sự là

quyền năng pháp lý mà pháp luật chỉ giao cho VKS. Để tăng cường công tác kháng

nghị phúc thẩm trên một cấp thì điều căn bản là Viện kiểm sát cấp trên phải nghiên

cứu đầy đủ được các bản án hình sự sơ thẩm để phát hiện vi phạm và kháng nghị,

tức là phải có “nguồn” để kháng nghị. Muốn làm được điều đó thì Viện kiểm sát

cấp dưới phải đôn đốc Toà án cùng cấp gửi bản án đúng quy định. Đồng thời, Bộ 54

luật tố tụng hình sự cũng cần quy định bổ sung, Toà án cấp sơ thẩm ngoài việc gửi

bản án cho Viện kiểm sát cùng cấp phải gửi bản án cho Viện kiểm sát cấp trên trực

tiếp. Quy định như vậy làm cho Viện kiểm sát cấp phúc thẩm không bị mất một

khoảng thời gian đợi bản án sơ thẩm được gửi từ Viện kiểm sát cấp dưới mà trực

tiếp nhận được bản án của Toà án cấp sơ thẩm gửi lên. Ví dụ: ngày 10/01/2007 Toà

án gửi bản án sơ thẩm cho Viện kiểm sát cùng cấp. Viện kiểm sát cùng cấp xem bản

án và làm thủ tục chuyển cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp, thì ít nhất ngày

11/01/2007, Viện kiểm sát cấp dưới mới gửi bản án cho Viện kiểm sát cấp trên. Nếu

quy định Toà án cấp sơ thẩm gửi bản án cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp thì

ngày gửi bản án cho Viện kiểm sát cấp trên là ngày 10/01/2007. Mặt khác, thực tế

hiện nay các Viện kiểm sát cấp dưới gửi bản án cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp

không thực hiện ngay khi nhận được bản án của Toà án mà một tuần gửi một lần

thông qua cán bộ văn thư; đối với các tỉnh có địa bàn rộng, việc gửi bản án của Viện

kiểm sát cấp dưới cho Viện kiểm sát cấp trên thường thực hiện thông qua con

đường bưu điện. Bởi lẽ, việc Viện kiểm sát cấp dưới gửi bản án Viện kiểm sát cấp

trên trực tiếp ngay khi nhận được bản án sơ thẩm của Toà án gửi sang là rất khó

khăn và mất thời gian cũng như công sức. Mặt khác, hầu như ngày nào Viện kiểm

sát cùng cấp cũng nhận được bản án sơ thẩm của Toà án cùng cấp. Đặc biệt là việc

gửi bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân cấp tỉnh cho Viện kiểm sát nhân dân tối

cao chủ yếu thông qua con đường bưu điện. Do đó sẽ rất mất thời gian, không đảm

bảo đúng thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày.

Để tránh được tình trạng Viện kiểm sát cấp phúc thẩm muốn kháng nghị nhưng lại

hết thời hạn kháng nghị phúc thẩm trên một cấp và tạo điều kiện cho Viện kiểm sát

cấp trên trực tiếp thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động kháng nghị của Viện

kiểm sát cấp dưới một cách kịp thời, cần quy định Toà án cấp sơ thẩm cùng với việc

gửi bản án cho Viện kiểm sát cùng cấp phải gửi bản án cho Viện kiểm sát cấp trên 55

trực tiếp.

Về cách tính thời điểm bắt đầu và kết thúc đối với trường hợp kháng nghị các

quyết định của Toà án cấp sơ thẩm hiện nay trong Bộ luật tố tụng hình sự chưa quy

định một cách cụ thể. Tại Nghị quyết số 05 ngày 08/12/2005 của Hội đồng thẩm

phán Toà án nhân dân tối cao mới hướng dẫn về cách tính thời điểm bắt đầu và kết

thúc của thời hạn kháng nghị đối với bản án mà chưa hướng dẫn đối với trường hợp

kháng nghị đối với các quyết định sơ thẩm. Do vậy, trong Bộ luật tố tụng hình sự

sửa đổi bổ sung cần quy định rõ cách tính thời điểm bắt đầu cũng như kết thúc của

thời hạn kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm. Hoặc trong hướng dẫn của

Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cần bổ sung cách tính thời điểm bắt

đầu và kết thúc của thời hạn kháng nghị đối với quyết định sơ thẩm. Tránh tình

trạng tính thời hạn kháng nghị đối với quyết định sơ thẩm không thống nhất như

hiện nay. Cụ thể là, thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng nghị đối với quyết định

sơ thẩm của Toà án là ngày tiếp theo của ngày được xác định.

3.2.2. Tổ chức triển khai thực hiện đồng bộ, đầy đủ, toàn diện Luật tổ

chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ

sung năm 2017), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, các đạo luật về tư pháp

khác, các Nghị quyết của Quốc hội và Chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát

nhân dân tối cao về công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự.

Để nâng cao chất lượng công tác KNPT hình sự, cần phải nắm vững cơ sở

pháp lý được quy định trong Luật Tổ chức VKSND năm 2014, BLHS năm 2015

(sửa đổi, bổ sung năm 2017), BLTTHS năm 2015, các đạo luật về tư pháp khác, các

Nghị quyết của Quốc hội và Chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối cao về công tác

KNPT hình sự.

BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 12/2017/QH14 ngày

20/6/2017, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. BLHS năm 2015 được xây 56

dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển ở mức cao hơn những nguyên tắc, chế định

pháp luật hình sự của nước ta từ năm 1945 đến nay, nhất là của BLHS năm 1999

(sửa đổi, bổ sung năm 2009) cũng như những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn đấu

tranh phòng, chống tội phạm trong nhiều thập kỷ qua của quá trình xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc. BLHS 2015 gồm có 03 phần, 26 chương, 426 điều(tăng 02 chương và

72 Điều so với BLHS năm 1999) trong đó có nhiều điểm mới quan trọng như: Bổ

sung quy định, hạn chế áp dụng hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt ngoài tù;

bổ sung quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại; thay đổi chính

sách hình sự đối với người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi; thay đổi chính

sách hình sự đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội; bổ sung chế định tha tù trước

thời hạn có điều kiện; bổ sung các tội phạm mới, bãi bỏ một số tội phạm; cụ thể hóa

các tình tiết có tính chất định tính...

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung) tiếp tục thể hiện tinh thần chủ động

phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm, thông qua hình phạt để răn đe,

giáo dục, phòng ngừa, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình hoàn

thiện pháp luật hình sự nước ta, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho cuộc đấu tranh

phòng, chống tội phạm có hiệu quả; góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất

nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà

nước và tổ chức, bảo vệ và thúc đẩy kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa phát triển

đúng hướng, tạo môi trường xã hội và môi trường sinh thái an toàn, lành mạnh cho

mọi người dân.

BLTTHS năm 2015 có kết cấu gồm 09 phần, 36 chương, 510 điều. Trong đó

có nhiều nội dung mới cơ bản như: Hoàn thiện các nguyên tắc cơ bản của tố tụng

hình sự; quy định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của từng cơ quan tố tụng, tạo điều

kiện để các cơ quan thực hiện tốt trách nhiệm luật định; phân định thẩm quyền hành

chính với thẩm quyền tư pháp; tăng quyền, tăng trách nhiệm cho Điều tra viên, 57

KSV, Thẩm phán; quy định cụ thể trình tự, thủ tục trong từng giai đoạn tố tụng; đổi

mới chế định chứng minh và chứng cứ; quy định chặt chẽ các biện pháp hạn chế

quyền con người, quyền công dân; bảo đảm quyền bào chữa của người bị bắt, bị

tạm giữ, bị can, bị cáo...

Trước yêu cầu phát triển và bảo vệ đất nước trong tình hình mới, xây dựng

Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, để thực hiện mục tiêu cải cách tư pháp là

“Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công

lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN”.

Thực tiễn thi hành Luật Tổ chức VKSND năm 2002, Pháp lệnh KSV VKSND,

Pháp lệnh tổ chức VKS quân sự năm 2002 cho thấy còn có một số vướng mắc, bất

cập, như cơ chế bảo đảm cho VKSND thực hiện quyền hạn, trách nhiệm chưa đầy

đủ và hiệu quả; chế độ pháp lý của KSV chưa thực sự phù hợp với trách nhiệm,

quyền hạn; chế độ, chính sách bảo đảm hoạt động của VKSND chưa đáp ứng yêu

cầu thực hiện chức năng; không đảm bảo đáp ứng đầy đủ yêu cầu tăng cường hợp

tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, nâng cao vai trò, vị trí của

VKSND tương đồng với Viện công tố/VKS các nước trên thế giới...

Do đó, cần thiết phải sửa đổi Luật tổ chức VKSND để tạo cơ sở pháp lý đổi

mới toàn diện về hệ thống tổ chức; các nguyên tắc thực hiện chức năng, nhiệm vụ;

chuẩn hóa các chức danh tư pháp và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường sự

giám sát bên trong và bên ngoài hệ thống, nhất là sự giám sát của cơ quan dân cử.

Luật tổ chức VKSND năm 2014 được Quốc hội thông qua ngày 24/11/2014 là sự

kiện chính trị đặc biệt quan trọng của Ngành KSND. Luật này có nhiều điều chỉnh

quan trọng, thể chế hóa đầy đủ các yêu cầu cải cách tư pháp; cụ thể hóa chế định

VKSND đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013; Về nhiệm vụ của VKSND

được quy định đầy đủ hơn, rộng hơn; kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, bất cập

trong Luật tổ chức VKSND và các Pháp lệnh hiện hành; thể hiện đúng vị trí, vai trò 58

của VKSND trong việc thực hiện quyền lực nhà nước và trách nhiệm đối với xã hội,

công dân; tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của VKSND đáp ứng yêu cầu

hội nhập quốc tế và cải cách tư pháp; nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội

phạm và VPPL trong tình hình mới. Quán triệt Chỉ thị số 03/2008/CT-VKSTC-

VPT1 ngày 19/6/2008 của Viện trưởng Viện KSND tối cao về tăng cường công tác

KNPT hình sự, Nghị quyết 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội về công

tác phòng, chống VPPL và tội phạm, VKSND tỉnh Bình Định xác định công tác

KNPT án hình sự là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác thực hành quyền công tố

và kiểm sát các hoạt động tư pháp, từ đó đề ra các chỉ tiêu, giải pháp cụ thể để tổ

chức thực hiện trong kế hoạch, chương trình công tác hàng năm của mỗi đơn vị.

Việc triển khai thực hiện các luật này là rất cần thiết và quan trọng nhằm đưa

các luật đi vào cuộc sống, phát huy giá trị thực tiễn, nhất là những điểm mới, tiến

bộ. Qua đó, góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân về nội dung và ý nghĩa của

các luật, từ đó nâng cao ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, tổ chức tốt việc

thực thi pháp luật. Đồng thời, nâng cao nhận thức về công tác KNPT hình sự trong

TTHS có ý nghĩa quan trọng trong việc đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp

quyền, nhằm góp phần quan trọng vào thực thi pháp luật XHCN, đảm bảo tính

thống nhất của pháp luật, tính pháp chế XHCN, đảm bảo quyền lợi của nhà nước,

của các tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

3.2.3. Tăng cường hơn nữa công tác quản lý, chỉ đạo của lãnh đạo Viện

kiểm sát nhân dân trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự

Cùng với việc nâng cao năng lực, trình độ, ý thức trách nhiệm của mỗi Kiểm

sát viên trong công tác kháng nghị phúc thẩm thì tăng cường lãnh đạo, hướng dẫn,

kiểm tra, giám sát của lãnh đạo Viện kiểm sát cấp trên với Viện kiểm sát cấp dưới là

một giải pháp cần tiến hành một cách thường xuyên, có định hướng. Tăng cường 59

lãnh đạo, hướng dẫn của lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với các Viện

kiểm sát cấp tỉnh, cấp huyện. Tức là Viện kiểm sát cấp trên vạch ra đường lối, chỉ

đạo về công tác kháng nghị đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới. Hàng năm

đưa ra các chỉ tiêu phấn đấu, phương hướng cụ thể đối với các Viện kiểm sát nhân

dân cấp tỉnh, huyện trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự. Đối với Viện

kiểm sát nhân dân thành phố mà trực tiếp là Phòng thực hành quyền công tố và

kiểm sát xét xử phúc thẩm hình sự phải thường xuyên quan tâm đến công tác hướng

dẫn, thông báo rút kinh nghiệm cho Viện kiểm sát nhân dân cấp quận, huyện những

trường hợp kháng nghị bị rút, kháng nghị mà Toà án cấp phúc thẩm không chấp

nhận, trong đó cần phải thống nhất một quan điểm là: kháng nghị của Viện kiểm sát

cấp dưới đã được Viện kiểm sát cấp trên chấp nhận thì đó là kháng nghị đạt yêu

cầu, còn việc Viện kiểm sát cấp trên không bảo vệ được kháng nghị là trách nhiệm

của Viện kiểm sát cấp trên. Hiện nay, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao

đã ban hành Quy chế tạm thời về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét

xử hình sự mới. Do đó, lãnh đạo của Viện kiểm sát cấp tỉnh cần tổ chức quán triệt

tới từng cán bộ, Kiểm sát viên toàn bộ nội dung của Quy chế và đặc biệt nhấn mạnh

đến một số điểm mới để toàn bộ cán bộ, Kiểm sát viên kịp thời nắm bắt, thực hiện

hiệu quả.

Đối với những vướng mắc của Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới trong công

tác kháng nghị phúc thẩm phải xin ý kiến chỉ đạo của Viện kiểm sát nhân dân cấp

trên, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên cần có sự hướng dẫn kịp thời. Hàng năm,

Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần có sự tổng kết đánh giá về công tác kháng nghị

trong toàn ngành kiếm sát, từ đó rút ra những ưu nhược điểm của công tác kháng

nghị phúc thẩm để cùng rút kinh nghiệm. Đồng thời, cần xây dựng những mô hình

tổ chức rút kinh nghiệm thường xuyên bằng cách tập huấn, hội thảo, trao đổi thông

tin, mở rộng quan hệ nội bộ Viện kiểm sát nhân dân trong cả nước là điều kiện tốt 60

nhất cho việc trau dồi kinh nghiệm. Kinh nghiệm được rút ra từ cấp trên, từ các

khâu công tác, thậm chí từ cấp dưới được thông tin lên đều phải được trân trọng và

phổ cập đến mọi cán bộ. Kinh nghiệm công tác phải là sản phẩm chung của mọi

người. Từ những đường lối chỉ đạo chung của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện

kiểm sát nhân dân cấp tỉnh cần quán triệt cho các Viện kiểm sát cấp quận, huyện

thuộc tỉnh mình.

Ngược lại, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên không chỉ tăng cường công tác

lãnh đạo, chỉ đạo mà còn phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với các

Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương,

đường lối của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên có được quán triệt tới từng đơn vị và

thực hiện một cách nghiêm túc không. Đôn đốc các Viện kiểm sát cấp cấp dưới thực

hiện tốt công tác thông kê, báo cáo định kỳ qua đó để Viện kiểm sát cấp trên nắm

bắt nhanh chóng tình hình đề ra phương hướng kịp thời.

Thông qua công tác kiểm tra, giám sát thường xuyên, Viện kiểm sát nhân dân

cấp trên sẽ nắm bắt được các vướng mắc của Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới trong

việc quyết định có kháng nghị hay không để có hướng dẫn kịp thời. Ngược lại, việc

kiểm tra giám sát của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên sẽ giúp cho việc phát hiện vi

phạm của bản án hoặc quyết định trong trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị cùng

cấp thì thực hiện kháng nghị trên một cấp, hạn chế việc không kháng nghị do hết

thời hạn. Ngược lại, thực hiện việc báo cáo thường xuyên của Viện kiểm sát cấp

dưới sẽ giúp cho việc kháng nghị trên một cấp có hiệu quả. Cần coi việc báo cáo

Viện kiểm sát cấp trên để kháng nghị phúc thẩm cũng là hoàn thành tốt chức năng

kiểm sát hoạt động xét xử của Viện kiểm sát cấp dưới.

Tuy nhiên, để thực hiện tốt những nội dung trên, giữa Viện kiểm sát nhân

dân cấp trên và Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới cần có sự phối hợp với nhau trên

cơ sở quy chế của ngành và các nguyên tắc của tố tụng hình sự. Việc phối hợp giữa 61

Viện kiểm sát cấp trên đối với Viện kiểm sát cấp dưới trong hoạt động kháng nghị

phúc thẩm hình sự là rất cần thiết, nhằm kịp thời phát hiện các vi phạm của bản án,

quyết định sơ thẩm của Toà án để có kháng nghị đúng thời hạn. Để nâng cao chất

lượng công tác kháng nghị phúc thẩm thì hàng năm Phòng kiểm sát xét xử phúc

thẩm cấp tỉnh cần có tổng kết đánh giá kết quả xét xử phúc thẩm, để thông báo kịp

thời cho Viện kiểm sát đã xét xử sơ thẩm. Trong đó cần chú ý tổng kết các trường

hợp cải sửa của cấp phúc thẩm đối với các bản án sơ thẩm về mức án, việc cho bị

cáo được hưởng án treo hoặc việc huỷ án sơ thẩm vì có những vi phạm về thủ tục tố

tụng hình sự, về việc đánh giá chứng cứ, vai trò đồng phạm…Từng tháng có thông

báo kết quả xét xử phúc thẩm cho các Viện kiểm sát sơ thẩm biết.

Khi Viện kiểm sát cấp huyện đã kháng nghị phúc thẩm thì có quyền đề nghị

Phòng kiểm sát xét xử phúc thẩm thông báo cho biết kết quả xét xử để có ngay tư

liệu làm cơ sở cho việc rút kinh nghiệm. Công tác kháng nghị phúc thẩm cần được

Viện kiểm sát các cấp tổ chức kiểm điểm, học tập một cách nghiêm túc. Việc Viện

kiểm sát cấp trên rút kháng nghị của Viện kiểm sát cấp dưới phải có căn cứ và làm

theo đúng quy chế, tránh việc rút kháng nghị một cách tuỳ tiện.

3.2.4. Thực hiện đầy đủ, đảm báo đúng quy định của pháp luật về các yêu

cầu, quy trình nghiệp vụ theo quy chế đảm bảo kiểm sát bản án để xem xét việc

kháng nghị phúc thẩm và bảo vệ kháng nghị ban hành

Thời gian tới, VKSND tỉnh Bình Định cần thực hiện nghiêm quy trình kiểm

sát bản án để xem xét việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm và bảo vệ kháng nghị

ban hành. Thứ nhất, về việc tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho các Kiểm sát

viên.Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần chỉ đạo Trường cao đẳng kiểm sát tổ chức

các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu ở từng khâu công tác, trong đó có tập trung

đào tạo kỹ năng về kháng nghị phúc thẩm cho các Kiểm sát viên. Vì trong công tác

kháng nghị phúc thẩm Kiểm sát viên đóng vai trò vô cùng quan trọng. Hiện nay kỹ 62

năng, cách thức tiến hành kháng nghị là một điểm yếu của đội ngũ các Kiểm sát

viên. Các Kiểm sát viên chưa được đạo tạo chuyên sâu về lĩnh vực này mà chủ yếu

là theo “lối mòn nghiệp vụ” mà chưa theo bài bản nhất định. Các lớp bồi dưỡng

nghiệp vụ này sẽ tập trung đào tạo cho Kiểm sát viên kỹ năng và trình tự thực hiện

kháng nghị phúc thẩm hình sự. Đặc biệt là công tác đào tạo và tái đào tạo lại đối với

đội ngũ Kiểm sát viên.

Thứ hai, về tổ chức và biên chế cán bộ cho ngành kiểm sát cũng như phương

tiện làm việc. Hiện nay ở các Phòng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử

phúc thẩm các vụ án hình sự Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong cả nước chỉ đủ

bố trí các Kiểm sát viên chủ yếu tập trung vào việc kiểm sát xét xử các vụ án theo

thủ tục phúc thẩm (trung bình biên chế của các phòng là từ 5 đến 7 cán bộ). Chưa có

bộ phận chuyên trách kiểm sát các bản án đã xét xử sơ thẩm để phát hiện có vi

phạm thì kháng nghị kịp thời. Do đó, cần xem xét tăng cường số lượng cán bộ phù

hợp cho Phòng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm Viện kiểm

sát nhân dân cấp tỉnh, để ngoài làm tốt việc kiểm sát xét xử các vụ án theo thủ tục

phúc thẩm còn phải nghiên cứu tất cả các bản án sơ thẩm để qua đó phát hiện những

vi phạm phải kháng nghị thì ban hành kháng nghị kịp thời. Mặt khác, số lượng

Kiểm sát viên Viện kiểm sát các cấp còn trong tình trạng thiếu. Do vậy, Viện kiểm

sát nhân dân tối cao cần bổ sung kịp thời cho các đơn vị của ngành kiểm sát còn

chưa đủ số lượng Kiểm sát viên theo biên chế của ngành. Cụ thể, Viện kiểm sát

nhân dân cấp huyện cần bổ sung là 1.117 người; cấp tỉnh cần bổ sung là 161 người,

đặc biệt là đối với các tỉnh miền Tây Nam Bộ đang trong tình trạng thiếu trầm

trọng. Về nguồn tuyển dụng có thể là các sinh viên đã tốt nghiệp các trường đại học

luật hoặc các khoa luật của các trường đại học trên cả nước; những cán bộ đã đủ

thời gian công tác và các điều kiện khác để xem xét bổ nhiệm Kiểm sát viên. Hoặc

trước mắt, có thể thực hiện việc luân chuyển cán bộ, những cán bộ ở tỉnh, thành phố 63

thừa Kiểm sát viên theo biên chế về công tác tại những tỉnh còn thiếu... Hiện nay,

đời sống cán bộ ngành kiểm sát còn nhiều khó khăn. Trụ sở của đa số Viện kiểm sát

nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện đều cũ kỹ, trật chội. Trang thiết bị phục vụ cho công

việc còn nhiều thiếu thốn, lạc hậu. Có những Viện kiểm sát cấp huyện phải chung

phòng làm việc của cán bộ với hội trường nên rất bất tiện, hoặc không có phòng tiếp

dân riêng nên phải tiếp dân chung phòng với các cán bộ khác gây khó khăn trong

giải quyết công việc; có những trụ sở mùa hè thì nóng, mùa mưa bị dột ướt...Đối với

các trụ sở làm việc của viện kiểm sát này Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần có sự

quan tâm chỉ đạo trong việc cho xây mới.…

3.2.5. Chú trọng hơn nữa công tác quy hoạch, đánh giá, bố trí, bổ nhiệm

và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, kiểm sát viên

Kiểm sát viên còn là người trực tiếp xây dựng nội dung kháng nghị để trình

lãnh đạo viện ký. Do đó, vai trò của Kiểm sát viên trong hoạt động kháng nghị phúc

thẩm hình sự là hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công tác

kháng nghị phúc thẩm. Chính vì vậy, một trong những giải pháp hàng đầu là phải

xây dựng được một đội ngũ Kiểm sát viên đủ mạnh; có trình độ năng lực pháp luật

và kiến thức xã hội; có nhận thức về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm

sát trong tình hình mới; có trách nhiệm cao trong công việc.

Đặc biệt là đối với công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, mỗi Kiểm sát

viên cần có nhận thức đó là một trong những quyền năng đặc thù của Viện kiểm sát

nhằm đảm bảo cho việc xét xử của Toà án được đúng người, đúng tội, đúng pháp

luật. Đồng thời, phải hiểu đó còn là nghĩa vụ của mỗi Kiểm sát viên, nghĩa vụ của

ngành kiểm sát. Có như vậy mới khắc phục được tư tưởng cho rằng việc ra bản án

đúng hay sai là trách nhiệm của Hội đồng xét xử, còn Viện kiểm sát chỉ là người đề

nghị. Từ nhận thức như vậy Kiểm sát viên mới thấy rõ vai trò, trách nhiệm của

mình trong việc phát hiện và đề xuất kháng nghị phúc thẩm.

64

Tuy nhiên, để thực hiện được trách nhiệm của mình một cách đầy đủ và có

chất lượng đòi hỏi Kiểm sát viên phải được đào tạo bồi dưỡng về trình độ nghiệp vụ

và kỹ năng nghề nghiệp, cụ thể là Kiểm sát viên phải nắm vững các cơ sở lý luận,

cơ sở pháp lý của hoạt động kháng nghị phúc thẩm hình sự. Trong đó phải nắm

vững và hiểu chính xác các căn cứ của việc kháng nghị theo quy định của Điều 33

quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự (được ban hành kèm

theo quyết định 122 ngày 14/09/2004 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối

cao). Ngoài ra, Kiểm sát viên phải nhận thức đầy đủ về các chế định của Bộ luật

hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn có liên quan, có như vậy

thì các đề xuất kháng nghị mới bảo đảm tính có căn cứ và tính hợp pháp, tránh tình

trạng kháng nghị tràn lan hoặc ban hành kháng nghị với chất lượng thấp. Kiểm sát

viên cần có những kỹ năng nghề nghiệp từ việc phát hiện các vi phạm của Toà án

trong quá trình xét xử, đến việc tổng hợp đánh giá và đề xuất để lãnh đạo viện

kháng nghị. Muốn vậy thì Kiểm sát viên trước hết phải làm tốt công tác thực hành

quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên toà từ trình tự khai mạc

phiên toà đến khi tuyên án, lưu ý các định hướng của Hội đồng xét xử khi thẩm vấn;

lý lẽ của Hội đồng xét xử khi quy kết các vấn đề của vụ án như : tội danh, tính chất

mức độ nguy hiểm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; việc làm rõ các chứng cứ tài

liệu của Hội đồng xét xử tại phiên toà...Kiểm sát viên phải đặc biệt chú ý ghi chép

nhanh các nhận định khi chủ toạ phiên toà công bố bản án, ghi chính xác các điểm,

khoản, điều luật mà bản án áp dụng và mức hình phạt mà Hội đồng xét xử áp dụng

(cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung), các vấn đề khác như bồi thường dân sự,

xử lý vật chứng...trong trường hợp cần thiết phải đối chiếu ngay với thư ký sau khi

kết thúc phiên toà. Sau khi kết thúc phiên toà, nếu thấy có vấn đề cần phải kháng

nghị thì Kiểm sát viên trước tiên phải tự kiểm tra lại các tài liệu có trong hồ sơ vụ

án, đánh giá lại toàn bộ chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến của 65

phiên toà, đối chiếu với các cơ sở pháp lý mà Hội đồng xét xử đã áp dụng trong bản

án…Xét thấy có cơ sở để tiến hành kháng nghị thì báo cáo bằng văn bản với lãnh

đạo, đề xuất với lãnh đạo việc kháng nghị hay không. Trước khi đề xuất việc kháng

nghị cần phải xem xét lại toàn bộ diễn biến tại phiên toà; căn cứ vào kết quả điều tra

công khai tại phiên toà. Chỉ kháng nghị khi đã có cơ sở pháp lý cho thấy: việc quyết

định của án sơ thẩm là chưa áp dụng đầy đủ các quy định của pháp luật. Tránh tình

trạng kháng nghị theo cảm tính, khi Toà án xử khác quan điểm đề nghị của Kiểm

sát viên là kháng nghị.

3.2.7. Tăng cường, đẩy mạnh và có hiệu quả công tác kiểm tra của kiểm

sát viên, tổng kết thực tiễn, thông báo rút kinh nghiệm, trả lời thỉnh thị

Cần đưa công tác KNPT là một nội dung trong các cuộc kiểm tra định kỳ

hàng năm của hai cấp VKS tỉnh Bình Định, Kiểm sát viên muốn làm tốt công tác

kháng nghị thì không chỉ cần có nhận thức và trình độ nghiệp vụ mà còn phải có ý

thức trách nhiệm cao với công việc, đảm bảo đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp

của bị cáo, cũng như những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trách nhiệm

của Kiểm sát viên phải được thể hiện từ việc nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện

các chứng cứ buộc tội, gỡ tội, tính chất mức độ của hành vi phạm tội, đặc điểm về

nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, để đề xuất mức án

cho phù hợp. Tránh tình trạng nghiên cứu, đề xuất mức án với Hội đồng xét xử

nhưng không có cơ sở để kháng nghị hoặc kháng nghị không chính xác, không được

cấp phúc thẩm chấp nhận. Khi Kiểm sát viên phát hiện thấy có vi phạm trong bản

án, quyết định hình sự sơ thẩm phải có trách nhiệm báo cáo với lãnh đạo viện và đề

xuất kháng nghị, tránh tình trạng chờ cấp trên kháng nghị hoặc cho rằng: “đằng nào

bị cáo cũng kháng cáo”. Khi đề xuất phải nêu rõ những vi phạm trong bản án, quyết

định và cần phải kháng nghị toàn bộ hay chỉ kháng nghị một phần bản án hoặc

quyết định. Nếu kháng nghị một phần thì phải nêu rõ kháng nghị phần nào của bản 66

án hoặc quyết định. Đồng thời phải nêu rõ cơ sở của việc kháng nghị, không đề xuất

chung chung hoặc theo kiểu “tuỳ lãnh đạo quyết định”. Thực tế cho thấy khi Kiểm

sát viên có ý thức trách nhiệm nghề nghiệp thì thường phát hiện chính xác những vi

phạm của bản án sơ thẩm và đề xuất kháng nghị có căn cứ và ngược lại. Kiểm sát

viên còn phải nâng cao trách nhiệm trong việc thiết lập, rà soát bản kháng nghị

trước khi trình lãnh đạo ký và ban hành, tránh những thiếu sót không đáng có. Từ

phân tích trên, biện pháp cụ thể để nâng cao trình độ năng lực của Kiểm sát viên thì

trước tiên, bản thân mỗi Kiểm sát viên phải tự nghiên cứu học hỏi, đúc rút kinh

nghiệm, nắm vững hệ thống văn bản pháp luật có liên quan, để xây dựng cho mình

một bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng. Từ đó có đủ tự tin trong giải quyết công việc

nói chung và đề xuất kháng nghị phúc thẩm nói riêng. Ngoài ra Viện kiểm sát nhân

dân tối cao cũng như Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh cần tổ chức các lớp tập huấn

cho Kiểm sát viên ít nhất một lần một năm. Tại các lớp tập huấn cần tổng kết, đánh

giá toàn bộ công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, những ưu điểm cũng như những

tồn tại, thiếu sót của công tác này; những trường hợp cần rút kinh nghiệm; lựa chọn

những kháng nghị có chất lượng tốt làm kháng nghị mẫu cho các Kiểm sát viên học

tập. Các lớp tập huấn chuyên đề về kháng nghị cũng là một cơ hội cho mỗi Kiểm

sát viên đề xuất những kiến nghị để công tác kháng nghị phúc thẩm đạt hiệu quả,

nêu những khó khăn vướng mắc trong thực tế công tác để cùng thảo luận tìm ra

phương hướng khắc phục, hoàn thiện. Đồng thời, đây cũng là dịp để các Kiểm sát

viên trao đổi cho nhau những kinh nghiệm trong thực tế công tác.

67

Tiểu kết Chương 3

Trên cơ sở thực trạng công tác áp dụng kháng nghị phúc thẩm hình sự của

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019, tác giả đã phân

tích những yêu cầu cơ bản để nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự

của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định. Để góp phần thiết thực trong thực hiện

chiến lược cải cách tư pháp của Đảng đề ra, nhằm hiện thực hóa các quy định trong

Hiến pháp và pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự, tác giả luận văn đề xuất một

số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự

của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định trong thời gian tới.

Các giải pháp từ việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị

phúc thẩm đến công tác tổ chức cán bộ ngành kiểm sát nhân dân như: giải pháp

nâng cao về trình độ, phẩm chất, năng lực, trình độ và kỹ năng nghề nghiệp; tăng

cường sự lãnh đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của lãnh đạo Viện kiểm sát nhân

dân cấp dưới; tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong giải quyết

kháng nghị phúc thẩm hình sự... Ngoài ra, tác giả đưa ra một số đề xuất của tác giả

nêu ra để công tác kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát thực sự là một công cụ

hữu hiệu góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động tư pháp hiện nay.

68

KẾT LUẬN

Để đảm bảo an ninh trật tự, lực lượng chức năng tỉnh Bình Định đã tiến hành

nhiều công tác, biện pháp nghiệp vụ trong đó có công tác. Công tác này luôn được

xem là nền tảng, có tính chiến lược trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an

toàn xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực và kết quả đạt được, do những nguyên

nhân khách quan và chủ quan khác nhau, công tác bảo vệ an ninh trật tự trong vùng

đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế, chưa được quan tâm đúng mức, còn tồn tại

nhiều bất cập như nội dung chưa phong phú, chưa gắn với lợi ích thiết thực của đồng

bào dân tộc, các phương pháp chưa được sử dụng linh hoạt...

Trong những năm qua, VKSND tỉnh Bình Định đã luôn chú trọng công tác

KNPT hình sự và đạt được những kết quả đáng khích lệ. Nhận thức rõ rằng KNPT

hình sự là một quyền năng pháp lý quan trọng mà nhà nước chỉ giao cho VKSND

và chỉ duy nhất VKS mới có quyền thực hiện quyền năng này, là công cụ hữu hiệu

để VKS thực hiện và hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành nhằm đảm bảo

cho pháp luật nói chung và pháp luật về hình sự nói riêng được tuân thủ nghiêm

chỉnh và triệt để, đồng thời để bảo đảm pháp chế XHCN và là phương tiện để đấu

tranh phòng và chống tội phạm.

Luận văn đã làm rõ những vấn đề lý luận về KNPT và những quy định của

pháp luật về KNPT hình sự tại Chương 1. Đồng thời, tại Chương 2 của luận văn, tác

giả đã trình bày cụ thể các quy định của pháp luật hiện hành về KNPT hình sự và

nêu bật thực tiễn áp dụng KNPT hình sự của VKSND tỉnh Bình Định trong 05 năm.

Thông qua nghiên cứu thực tiễn công tác KNPT của VKSND tỉnh Bình Đinh từ

năm 2015 đến năm 2019, luận văn đã đánh giá đúng thực trạng hoạt động KNPT

hình sự của ngành KSND Bình Định với những mặt đã làm được cũng như những

tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó. Trên cơ sở đó, luận

69

văn đã đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng công tác KNPT

hình sự của VKSND tỉnh Bình Định trong thời gian tới nhằm đáp ứng yêu cầu công

cuộc cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra.

70