ĐẠI HỌC QUỐCaGIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HẢI PHƢƠNG

NGƢỜI TIẾN HÀNHaTỐ TỤNG TRONG TOÀ ÁN NHÂN DÂN THEO

BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠCaSĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TSaNguyễn Ngọc Chí

HÀ NỘI –2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các

kết quảanêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào

khác. Các số liệu, ví dụavà trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác

tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thànhatất cả các môn học và đã thanh toán

tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia

Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời camađoan này đề nghị Khoa luật xem xét để tôi có thể

bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chânathành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Hải Phƣơng

i

MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài .............................................................................. 2

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ............................................................. 4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài .......................................................... 5

a. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................................. 5

b. Phạm vi .................................................................................................................... 5

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ...................................................... 5

6. Kết cấu của luận văn ............................................................................................... 6

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI TIẾN HÀNH TỐ

TỤNG TRONG TOÀ ÁN NHÂN DÂN THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ... 1

1.1. Khái niệm ngƣời tiến hành tố tụng hình sự trong Tòa án nhân dân ............ 1

1.2. Cơ sở của việc quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, quyền và nghĩa

vụ của ngƣời tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án nhân dân ........................ 10

1.2.1. Yêu cầu giải quyết vụ án hình sự và yêu cầu xét xử ....................................... 13

1.2.2. Cách thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, thực hiện quyền tư pháp ............ 15

1.2.3. Yêu cầu phát triển đất nước, xã hội ................................................................ 17

1.2.4. Cơ cấu tổ chức tòa án ...................................................................................... 17

1.2.5. Số lượng, năng lực, trình độ của Đội ngũ thẩm phán và cán bộ của tòa án .... 18

1.3. Mối quan hệ giữa ngƣời tiến hành tố tụng hình sự trong TAND với ngƣời

tiến hành tố tụng hình sự khác và mối quan hệ giữa ngƣời tiến hành tố tụng

trong TAND với nhau ............................................................................................. 19

1.3.1. Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng hình sự trong TAND với những

người tiến hành tố tụng hình sự trong Cơ quan điều tra ........................................... 19

1.3.2. Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng hình sự trong TAND với những

người tiến hành tố tụng hình sự cơ quan Viện kiểm sát ........................................... 20

1.3.3. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Chánh án, Phó Chánh án Tòa án .............. 22

ii

1.3.4. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Thẩm

tra viên ....................................................................................................................... 23

1.4. Ngƣời tiến hành tố tụng trong toà án theo luật tố tụng hình sự của một số

nƣớc trên thế giới .................................................................................................... 24

1.4.1. Người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án của Hàn Quốc ........................ 24

1.4.2. Người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án của (CHDCND) cộng hòa

dân chủ nhân dân Trung Hoa .................................................................................. 26

1.4.3. Người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án của Cộng hoà Pháp ................ 29

1.4.4 Người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án của liên bang Hoa Kỳ ............. 31

Kết luận chương 1 ..................................................................................................... 37

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT

LƢỢNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGƢỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG TÒA

ÁN NHÂN DÂN ....................................................................................................... 38

2.1. Thực trạng ngƣời tiến hành tố tụng hình sự trong Tòa án nhân dân ......... 38

2.1.1. Thực trạng Pháp luật về người tiến hành tố tụng hình sự trong Tòa án nhân

dân ............................................................................................................................. 38

2.1.2. Thực trạng người tiến hành tố tụng trong Tòa án nhân dân trên địa bàn thành

phố Hà Nội hiện nay ................................................................................................. 55

2.2. Một số giải pháp nâng cao chất lƣợng hiệu quả hoạt động của ngƣời tiến

hành tố tụng hình sự trong Tòa án nhân dân ....................................................... 65

2.2.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật ............................................................ 65

2.2.2. Một số giải pháp khác ..................................................................................... 66

Kết luận chương 2 ..................................................................................................... 74

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 77

iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắta Tiếng Việt

BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX : Hội đồng xét xử

TAND : Toà án nhân dân

THTT : Tiến hành tố tụng

CHXHCN : Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

iv

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Số lượng Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký ................................ 56

Bảng 2.2. Chất lượng Thẩm phán Toà án ....................................................... 57

Bảng 2.3: Số lượng án giải quyết từ năm 2014-2018 ..................................... 62

Bảng 2.4: Tỷ lệ, nguyên nhân án hủy, sửa từ năm 2014-2018 ....................... 63

v

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài Toà án là trung tâm, hoạt động xét xử là trọng tâm và được xác định là

khâu đột phá trong chiến lược cải cách tư pháp mà Nghị quyết 49, năm 2005

của Bộ Chính trị đã đề ra. Trên cơ sở này, Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ

chức tòa án nhân dân năm 2014 đã quy định tổ chức, nguyên tắc hoạt động

của hệ thống Tòa án nước ta. Theo đó, Hệ thống Tòa án nhân dân bao gồm:

Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã,

thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương và hệ thống tòa án quân sự. Tòa án

có chức năng xét xử và thực hiện quyền tư pháp, đồng thời để thực hiện được

chức năng này luật quy định người tiến hành tố tụng trong tòa án với các

quyền hạn, trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ tương ứng với mỗi loại người tố

tụng trong quá trình giải quyết vụ án. So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS

năm 2015 có những sửa đổi, bổ sung theo hướng “phân định hợp lý thẩm

quyền giữa các cấp tòa án nhằm tháo gỡ khó khăn cho cấp huyện; theo đó, bổ

sung cho tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử các vụ án có yếu tố nước

ngoài, vụ án liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, vụ án mà bị cáo là thẩm

phán, điều tra viên, kiểm sát viên, cán bộ chủ chốt ở cấp huyện, người có

chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người”. Trên cơ sở

này, BLTTHS năm 2015 cũng quy định thẩm quyền cho người có thẩm quyền

THTT nói chung và người THTT trong tòa án nói riêng với định hướng

“những thẩm quyền có tính chất quyết định việc “đóng, mở” một giai đoạn tố

tụng, những thẩm quyền liên quan đến việc hạn chế quyền con người, quyền

công dân giao cho thủ trưởng cơ quan tố tụng quyết định; hầu hết những thẩm

quyền có tính chất phát hiện hoặc làm sáng tỏ sự thật vụ án giao cho điều tra

1

viên, kiểm sát viên, thẩm phán trực tiếp quyết định” [48, tr 26]. Do đó, quyền

hạn, trách nhiệm của Chánh án, phó Chánh án tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm,

Thẩm tra viên, Thư ký tòa án có những quy định riêng tương ứng với vị trí

của từng chức danh tố tụng. Quy định của BLTTHS năm 2015 và các văn bản

liên quan đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cho người THTT trong tòa án tiến hành

các hoạt động tố tụng giải quyết vụ án bảo đảm xét xử vụ án khách quan,

công bằng, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người không làm oan người vô

tội và bỏ lọt tội phạm.

Thực tiễn tố tụng hình sự nước ta cho thấy người tiến hành tố tụng trong

Tòa án nhân dân có vai trò quan trọng, trong quá trình xét xử giải quyết vụ án;

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được còn bộc lộ những hạn chế như: Có

những vi phạm pháp luật trong quá trình xét xử nhất là trong việc định tội và

quyết định hình phạt, xử lý mức bồi thường thiệt hại đối với người phạm tội;

còn chưa thực sự tạo điều kiện để bị cáo và người tham gia tố tụng khác thực

hiện quyền bào chữa, quyền tranh tụng tại phiên tòa…do đó, không những đã

vi phạm quyền con người của người bị cáo buộc phạm tội mà còn làm cho vụ

án không được giải quyết khách quan…. Hạn chế nêu trên có những nguyên

nhân khách quan, chủ quan do đó đã ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, không

đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp mà Nghị quyết 49 chỉ ra và định

hướng tôn trọng, ghi nhận, bảo đảm, bảo vệ quyền con người của Hiến pháp

năm 2013 và quy định của BLTTHS năm 2015. Vì vây, học viên lựa chọn đề

tài: “Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân theo Bộ luật tố tụng hình

sự Việt Nam năm 2015” làm luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Vấn đề cải cách tư pháp hiện nay đang được đặt lên hàng đầu đặc biệt là

Tòa án nhân dân trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay đang là một vấn đề

cấp bách và được nhiều người đề cập tới như: TS Nguyễn Ngọc Chí-Khoa

2

luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Hoàn thiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội

thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong tố tụng hình sự. T.S

Nguyễn Ngọc Chí, Đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố tụng trong tố

tụng hình sự. “Giáo trình luật tố tụng hình sự” Khoa luật- Đại học Quốc gia

Hà Nội. Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, GS.TS Võ

Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2004. Bình luận khoa

học Bộ luật tố tụng hình sự, Th.S Đinh Văn Quế, Nxb Tổng hợp thành phố

Hồ Chí Minh, 2007. Luận vănNgười tiến hành tố tụng trong Tòa án nhân dân

theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nguyễn Thị Diệu Hiền, Khoa luật, Đại

học Quốc gia Hà Nội. Bên cạnh đó cũng có những giáo trình luật tố tụng hình

sự của trường Đại học Luật Hà Nội, Đại học quốc gia Hà Nội, các sách

chuyên khảo đều có những chương riêng viết về cơ quan tiến hành tố tụng và

người tiến hành tố tụng. Trên chuyên trang của báo pháp luật hình sự, tố tụng

hình sự có rất nhiều bài viết của các tác giả liên quan đến cơ quan tiến hành tố

tụng và người tiến hành tố tụng.Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng

cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa.

Giáo trình pháp luật nước ngoài cũng có những chương viết về những

vấn đề liên quan. Trong cuốn giáo trình giới thiệu hệ thống pháp luật Hoa Kỳ

tại chương 7 là bài viết về các thẩm phán liên bang.

Qua quá trình tham khảo trên đây cho thấy ở trong nước và ngoài nước

đã có một số công trình nghiên cứu về người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến

hành tố tụng nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ chung và chưa khái quát được

người tiến hành tố tụng hình sự trong Tòa án nhân dân ở một số công trình

nghiên cứu hay một số bài viết.

Năm 2015 Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam ra đời thì hiện nay chưa có

công trình nghiên cứu nào về người tiến hành tố tụng theo quy định mới của

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Bộ luật này đã thêm người tiến tố tụng là

3

Thẩm tra viên và tăng thẩm quyền của cho một số người tiến hành tố tụng

hình sự trong Toà án. Do đó, tác giả chọn đề tài này để nghiên cứu nhằm làm

rõ các vấn đề về lý luận chung cũng như quy định của pháp luật Việt Nam

hiện hành về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng trong

Tòa án. Bên cạnh đó tác giả nghiên cứu những quy định về người tiến hành tố

tụng hình sự trong Tòa án ở một số nước trên thế giới để thấy được chúng ta

học tập và tiếp thu những kiến thức của thế giới nhằm hoàn thiện hơn Bộ luật

tố tụng hình sự của Việt Nam.

Đề tài “Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân theo Bộ luật tố

tụng hình sự Việt Nam năm 2015” theo Bộ luật hiện nay là đề tài mang tính

cấp thiết, đòi hỏi tính khách quan, vừa có lý luận, vừa có thực tiễn.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích

Đề tài được nghiên cứu hướng tới mục đích làm sáng tỏ một số vấn đề lý

luận, thực tiễn về vị trí, vai trò, quyền hạn của người tiến hành tố tụng trong

tòa án, thông qua đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất

lượng hoạt động tố tụng của những người này trong quá trình xét xử giải

quyết vụ án hình sự.

3.2. Nhiệm vụ

Từ mục đích nêu trên, luận văn đề ra những nhiệm vụ cụ thể như sau:

Khái quát được những vấn đề lý luận cơ bản về khái niệm, vị trí, vai trò,

nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng trong cơ quan Toà án.

Quy định của pháp luật Việt Nam, nhất là quy định của Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2015 về vị trí, vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến

hành tố tụng trong Toà án.

Thực trạng áp dụng các quy đinh của Bộ luật tố tụng hình sự về vị trí, vai

trò, nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng trong Toà án.

4

Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả

hoạt động của người tiến hành tố tụng trong Toà án các quy định của Bộ luật

tố tụng hình sự.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

a. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các lý thuyết và pháp luật tố

tụng hình sự Việt Nam về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của người

tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Tòa án và thực tiễn xét xử, áp dụng

pháp luật trong giải quyết vụ án hình sự của người tiến hành tố tụng trong

cơ quan Tòa án.

b. Phạm vi

Trên cơ sở mục đích, đối tượnganghiên cứu đã xác định phạm vi nghiên

cứu của đề tài chủ yếu nghiên cứu về những gì liên quan đến vị trí, vai trò,

nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng theo quy định của Bộ luật tố

tụng hình sự Việt Nam.

Luận văn còn nghiên cứu quy định của một số nước trên thế giới

về người THTT trong Toà án, trên cơ sở rút ra bài học kinh nghiệm cho

Việt Nam.

Thực tiễn hoạt động của người THTT trong TAND trong khoảng 5 năm

trở lại đây trên địa bàn thành phố Hà Nội.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Việc nghiên cứu đề tài được thựcahiện trên cơ sở phương pháp luận của

chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nghị quyết số: 49-NQ/TW

ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính

trị, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước và pháp luật về xây dựng

Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp ở nước ta.

5

Quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả kết hợp sử dụng các phương pháp

nghiên cứu khoa học như: Phương pháp phân tích và tổng hợp, phương

pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp diễn dịch, phương pháp thống kê,

điều tra xã hội học về đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và về

giải quyết vụ án hình sự nói riêng, những thành tựu của các khoa học:

Luật hình sự, luật TTHS.

6. Kết cấu của luận văn

Luận văn gồm phần mở đầu, hai chương và phần kết luận, danh mục

tài liệu tham khảo cụ thể:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về người tiến hành tố tụng trong Toà án

nhân dân theo luật tố tụng hình sự.

Chương 2: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt

động của người tiến hành tố tụng trong Tòa án nhân dân.

6

CHƢƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG

TRONG TOÀ ÁN NHÂN DÂN THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. Khái niệm ngƣời tiến hành tố tụng hình sự trong Tòa án nhân dân

Để giải quyết vụ án hình sự đòi hỏi phải có các chủ thể tố tụng, trong đó

có người tiến hành tố tụng trong các cơ quan đại diện công quyền thực hiện

các chức năng của TTHS. Người tiến hành tố tụng trong tòa án là những

người trực tiếp thực hiện chức năng xét xử và thực hiện quyền tư pháp với các

quyền hạn, trách nhiệm tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Vì lẽ đó

người THTT trong TTHS có một số đặc điểm nổi bật sau:

Thứ nhất, Người THTT trong tòa án là các chủ thể trực tiếp thực hiện

chức năng xét xử và thực hiện quyền tư pháp của tòa án

Trong bộ máy nhà nước, Toà án là một trong những chủ thể thực hiện

quyền tư pháp. Do đó, quyền tư pháp không thể thực hiện một cách độc lập

nếu hoạt động xét xử của Toà án không độc lập. Sự độc lập của Toà án được

hiểu trong các mối quan hệ theo chiều ngang với các cơ quan, tổ chức bên

ngoài hệ thống toà án, theo chiều dọc với Toà án cấp trên và Toà án cấp dưới.

Chức năng của các cơ quan nhà nước nói chung là xác định những phương

diện hoạt động chủ yếu của cơ quan nhà nước đó. Chức năng chung của Nhà

nước là quản lý xã hội. Thông qua việc sử dụng một thứ quyền lực đặc biệt để

đảm bảo cho mọi tổ chức, công dân trong xã hội phải phục tùng nhằm thực

hiện chức năng quản lý xã hội. Trong bất kỳ thể chế chính trị nào, nhà nước

đều có mục đích cuối cùng là biến ý chí giai cấp thống trị thành pháp luật và

dùng mọi biện pháp trong đó có sức mạnh cưỡng chế, bạo lực của bộ máy bảo

đảm cho pháp luật được thực hiện. Về cơ bản chức năng của nhà nước được

thực hiện dưới ba hình thức: Xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật

1

và bảo vệ pháp luật. Ba hình thức trở thành chức năng của ba bộ phận cấu

thành quyền lực nhà nước là quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quyền tư

pháp theo nghĩa được giao cho hệ thống toà án – là hệ thống cơ quan độc lập

được nhà nước tổ chức ra và giao cho chức năng xét xử, không có cơ quan

nào có thể thay thế toà án để thực hiện chức năng xét xử. Hoạt động xét xử

của toà án có vai trò, ý nghĩa to lớn, thông qua hoạt động này công lý được

thực thi, pháp luật được chấp hành, quyền công dân và quyền con người được

bảo vệ.

Bản chất hoạt động của toà án là hoạt động áp dụng pháp luật dưới hình

thức, phương thức xét xử, nó không thực hiện việc sáng tạo luật, không thực

hiện hoạt động điều hành. Qua hoạt động của mình, Toà án có chức năng

chuyển tải ý chí của giai cấp thống trị vào đời sống xã hội. Do đó, nếu hoạt

động của toà án khách quan, minh bạch, áp dụng đúng pháp luật trong xét xử

thì sẽ chuyển tải được quyền lực nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị một

cách khách quan, thể hiện đúng bản chất của pháp luật và quyền lực đích thực

của nhà nước.

Ngoài ra, Toà án còn có chức năng là động lực thúc đẩy sự hoàn thiện

của hệ thống pháp luật. Thông qua hoạt động áp dụng pháp luật của toà án,

những yếu kém, lạc hậu của pháp luật sẽ được bộc lộ.

Thông qua hoạt động xét xử Toà án còn có chức năng tuyên truyền,

giáo dục pháp luật. Việc xét xử đúng pháp luật có tác động vào ý thức con

người, giúp họ nâng cao ý thức pháp luật, góp phần tạo định hướng dư luận

lên án những hành vi tội ác, khuyến khích hành vi tôn trọng pháp luật, răn

đe các tư tưởng coi thường pháp luật. V.I. Lênin đã viết: “Toà án cần phải

đảm đương một nhiệm vụ khác còn quan trọng hơn nữa. Đó là nhiệm vụ

bảo đảm cho người lao động chấp hành một cách nghiêm chỉnh nhất kỷ

luật và kỷ luật tự giác,…”

2

Chức năng, quyền hạn, trách nhiệm nêu trên của tòa án chỉ có thể thực

hiện được thông qua những con người cụ thể, đó là người tiến hành tố tụng

trong tòa án mà trước hết là thẩm phán. Thẩm phán là người trực tiếp thực

hiện chức năng xét xử. Việc quy định Toà án là cơ quan duy nhất có quyền

xét xử các vụ án trong đó có án hình sự là nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích

hợp pháp của công dân, tránh những việc làm tuỳ tiện, bởi vì không phải bất

cứ ai hay bất cứ tổ chức nào cũng có quyền kết tội một công dân. Chỉ có Toà

án là cơ quan được pháp luật của Nhà nước quy định có quyền thay mặt nhà

nước ra phán quyết một người là có tội hay không và áp dụng hình phạt đối

với người phạm tội, để thực hiện được nhiệm vụ trên thì thẩm phán- người

trực tiếp giải quyết các vụ án và đưa ra phán quyết giữ một vị trí và vai trò

đặc biệt quan trọng. Thẩm phán được giao nhiệm vụ quyết định tối cao về

sinh mạng, tự do, các quyền, trách nhiệm và tài sản của công dân.

Như vâỵ, hoạt động xét xử là việc phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp

các hành vi của chủ thể pháp luật. Một phán quyết của Thẩm phán liên quan

trực tiếp đến sức khoẻ, tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của công dân.

Nó ảnh hưởng tới những lợi ích của nhà nước, của các tổ chức và những giá

trị được thừa nhận chung trong xã hội. Do đó, nảy sinh nhu cầu hoạt động xét

xử cần phải đảm bảo tính cẩn trọng kỹ lưỡng, tỉ mỉ. Đây chính là cơ sở của

việc Thẩm phán phải chịu trách nhiệm về những phán quyết của mình. Khi

Thẩm phán phải chịu trách nhiệm về những quyết định của mình thì những

quyết định của Thẩm phán sẽ cẩn trọng hơn, kỹ lưỡng hơn. Từ đó việc xét xử

sẽ đúng người, đúng tội, đảm bảo công lý, bất bình đẳng không xảy ra.

Ngoài thẩm phán còn có những người khác tham gia vào việc thực hiện

chức năng xét xử của tòa án, như Hội thẩm/ bồi thẩm, thư ký tòa án, và Chánh

án, phó Chánh án. Chánh án, Phó chánh án toà án bên cạnh việc thực hiện

chức năng xét xử còn thực hiện chức năng hành chính tư pháp với tư cách là

3

người đứng đầu tòa án, chịu trách nhiệm đối với toàn bộ hoạt động của tòa án

trong quá trình xét xử.

Thứ hai, Khi hoạt động xét xử chủ thể tiến hành tố tụng trong tòa án có

các quyền hạn, trách nhiệm; quyền và nghĩa vụ tố tụng do pháp luật quy định.

Để thực hiện chức năng xét xử thì cần phải có đội ngũ những người

THTT hình sự trong Tòa án nhân dân. Những người THTT hình sự trong Tòa

án là những người trực tiếp thực hiện hoạt động xét xử và Hội đồng xét xử

quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Do đó, để pháp luật được

nghiêm minh, công tác xét xử đạt hiệu quả phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động

của người THTT hình sự trong TAND. Chức năng, nhiệm vụ của họ đặc biệt

quan trọng, điều này đòi hỏi họ phải vô tư, khách quan, công bằng trong hoạt

động xét xử của mình. Bên cạnh đó thì trình độ chuyên môn, năng lực của

người THTT hình sự trong TAND này phải được bồi dưỡng, nâng cao.

Việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của người THTT đều phải tuân theo

quy định của pháp luật, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp

luật bảo vệ để thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đó. Bởi lẽ, đây là những

nhiệm vụ, quyền hạn Nhà nước trao cho người THTT, mà không trao cho bất

kỳ một chức danh nào khác trong bộ máy Nhà nước. Chỉ những người THTT

trong tòa án mới có thẩm quyền xét xử giải quyết vụ án hình sự, do đó họ có

các quyền hạn, trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ tố tụng để thực hiện chức

năng xét xử. Quyền hạn, trách nhiệm; quyền và nghĩa vụ tố tụng của những

người tiến hành tố tụng trong tòa án, tương ứng với vị trí, vai trò của họ trong

hoạt động xét xử giải quyết vụ án hình sự. Những người tiến hành TTHS có

nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau nhưng hoạt động của họ có mối liên hệ mật

thiết, thống nhất với nhau và đều có trách nhiệm là nhằm phát hiện chính xác,

nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt

tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích

4

của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. “Khi THTT giải quyết

các vụ án, người THTT không được lợi dụng quyền tiến hành giải quyết vụ án

xâm phạm đến quyền của những người bị tình nghi phạm tội, bị can, bị

cáo”[44].

Như vậy, vai trò của người THTT trong cơ quan Toà án có thể coi là

người duy nhất được Nhà nước, cụ thể là Toà án giao trách nhiệm thực hiện

các hành vi tố tụng trong hoạt động khởi tố, xét xử vụ án hình sự. Những

người tiến hành TTHS trong cơ quan Toà án là người nhân danh Toà án thực

hiện các hoạt động TTHS theo quy định của pháp luật, chịu trách nhiệm trước

pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Người tiến hành TTHS là người có vai trò

quan trọng, giữ vị trí trung tâm trong hoạt động TTHS.

Thứ ba, Những người tiến hành tố tụng hình sự trong tòa án được bầu

hoặc bổ nhiệm theo trình thủ tục pháp luật quy định

Điều kiện để bầu và bổ nhiệm người THTT ở mỗi quốc gia là khác

nhau, tuỳ theo quy định của quốc gia đó. Thông thường đều có các tiêu chuẩn

về phẩm chất chính trị, trình độ pháp luật, học vấn, năng lực chuyên môn. Ở

Việt Nam, người THTT trước hết phải là công dân Việt Nam, trung thành với

Tổ quốc và Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt,

có trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tiêu chuẩn về sức

khoẻ. Việc bầu và bổ nhiệm người THTT phải tuân thủ các tiêu chuẩn chặt

chẽ do pháp luật quy định sao cho phù hợp với nhiệm vụ mà ngành tư pháp

đặt ra đối với những cá nhân thực hiện hoạt động của cơ quan THTT.

Theo BLTTHS năm 2015 thì người tiến hành tố tụng trong TAND bao

gồm: Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thẩm tra viên

và thư ký Toà án. Họ là những người trực tiếp được tuyển dụng vào hệ thống

Toà án, được bổ nhiệm của Chủ tịch nước, được Hội đồng đồng nhân dân cấp

tỉnh, cấp huyện bầu để thực hiện nhiệm vụ theo tố tụng.

5

Theo quy định của Luật tổ chức Tòa án thì cơ cấu tổ chức của Tòa án

nhân dân bao gồm: Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,

Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên. Như vậy Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm

phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký tòa án, Thẩm tra viên là những người

THTT trong Tòa án nhân dân. Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Thư ký

tòa án, Thẩm tra viên là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm theo quy

định của pháp luật. Hội thẩm nhân dân không được biên chế trong Tòa án

nhân dân họ được Mặt trận tổ quốc hiệp thương và bầu ra đại diện cho mọi

tầng lớp nhân dân ở nhiều ngành nghề và lĩnh vực khác nhau tham gia vào

hoạt động xét xử nhằm thể hiện quyền lực làm chủ của người dân. Nhà nước

ta là của dân, do dân và vì dân [35,tr.30].

Người tiến hành tố tụng là một chức danh tư pháp thể hiện cấp bậc,

nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của một người được Nhà nước bổ nhiệm

nếu đáp ứng các tiêu chuẩn do pháp luật quy định và được giao nhiệm vụ tiến

hành các hoạt động trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình

sự và thi hành các bản án, quyết định của Tòa án theo trình tự, thủ tục do Bộ

luật tố tụng hình sự quy định [43,tr 9].

Như vậy, người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án nhân dân là

những người được tuyển dụng, bổ nhiệm, bầu theo quy định của pháp luật để

thực hiện các chức năng của Toà án nhân dân. Mỗi người có chức năng, vị trí,

vai trò khác nhau, khi tiến hành tố tụng luôn đảm bảo tính khách quan, công

bằng và bình đẳng, đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự. Người

tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân là loại chủ thể quan trọng của Tố

tụng hình sự.

Việc bổ nhiệm các chủ thể THTT trong cơ quan Toà án theo điều kiện và

cách thức do luật định. Điều kiện và cách thức bổ nhiệm người tiến hành

TTHS ở mỗi nước là khác nhau, tuỳ theo quy định pháp luật TTHS nước đó.

6

Tuy nhiên, thông thường đều quy định các điều kiện về phẩm chất, chính trị,

trình độ pháp luật, học vấn, năng lực chuyên môn.

Thứ tư, hoạt động của những người THTT trong tòa án hướng tới mục

tiêu giải quyết vụ án khách quan, dân chủ, công bằng không bỏ lọt tội phạm

không làm oan người vô tội; bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý

Trong Toà án thì người THTT giữ vị trí trung tâm trong hoạt động tố

tụng và tạo nên uy tín, sức mạnh của Toà án. Người THTT được pháp luật

quy định có nhiệm vụ quyền hạn thực hiện giải quyết các vụ án hình sự. Hoạt

động của người THTT có ý nghĩa quyết định đến tính chính xác, khách quan

của bản án, quyết định của Toà án. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án

hình sự luôn tiềm ẩn những yếu tố có thể ảnh hưởng đến sự vô tư khách quan

của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký toà án. Các biểu

hiện đó trên thực tế thường phức tạp, đa dạng và xuất phát từ nhiều nguyên

nhân, chủ thể khác nhau. Tất cả sự không vô tư, khách quan của người THTT

với bất kỳ mục đích nào đều ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện nhiệm vụ,

quyền hạn của họ. Chính vì vậy người THTT khi thực hiện nhiệm vụ, quyền

hạn luôn phải nắm vững được nhiệm vụ nặng nề của mình và phải chịu trách

nhiệm về việc thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đó. Điều này sẽ góp

phần nâng cao trách nhiệm của người THTT trong việc thực hiện nhiệm vụ,

quyền hạn theo quy định của pháp luật. Người THTT có hành vi không vô tư

khách quan giải quyết vụ án hình sự dẫn đến oan sai thì phải chịu trách nhiệm

trước pháp luật.

Bên cạnh đó thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia

cũng là một quy định thể hiện sự tham gia của nhân dân vào quá trình giải

quyết vụ án hình sự. Chế định Hội thẩm nhân dân đã đưa tiếng nói của nhân

dân vào quá trình xét xử, giúp cho việc xét xử khách quan, phù hợp với quyền

7

lợi và nguyện vọng của nhân dân cũng như bảo đảm quyền làm chủ của nhân

dân, tạo điều kiện cho nhân dân trực tiếp thực hiện quyền tư pháp.

Hoạt động xét xử của toà án có vai trò, ý nghĩa to lớn, thông qua hoạt

động này công lý được thực thi, pháp luật được chấp hành, quyền công dân và

quyền con người được bảo vệ.

Qua hoạt động của mình, Toà án có chức năng chuyển tải ý chí của giai

cấp thống trị vào đời sống xã hội. Do đó, nếu hoạt động của toà án khác quan,

minh bạch, áp dụng đúng pháp luật trong xét xử thì sẽ chuyển tải được quyền

lực nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị một cách khách quan, thể hiện đúng

bản chất của pháp luật và quyền lực đích thực của nhà nước.

Tố tụng hình sự là quá trình chứng minh tội phạm và người phạm tội, vì

vậy luôn tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp đến những quyền cơ bản nhất

của con người, của công dân. Yêu cầu đặt ra là phải quy định và kiểm soát

nghiêm ngặt quá trình này. Theo Hiến pháp năm 2013 quy định về dân chủ,

pháp quyền, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Việc áp dụng các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân chỉ

được giao cho thủ trưởng các cơ quan tiến hành tố tụng quy định chặt chẽ căn

cứ, điều kiện tiến hành các biện pháp tố tụng nhằm tránh lạm dụng. Bất kỳ

hành vi nào trong quá trình giải quyết vụ án đều không thể chấp nhận và cơ

quan tiến hành tố tụng sẽ phải đối diện với những chế tài như: Chứng cứ đã

thu thập sẽ bị tuyên vô hiệu, ngoài ra người tiến hành tố tụng vi phạm còn

phải bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều này đòi hỏi

người THTT phải thay đổi nhận thức, thói quen, cách làm để kịp thời đáp ứng

những yêu cầu mới của pháp luật. Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân

dân luôn đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội.Nguyên tắc suy đoán vô tội là

nguyên tắc quan trọng có tính chất nền tảng. Tuyên ngôn Nhân quyền của

Liên hợp quốc năm 1948 khẳng định: “Bất kỳ người nào bị buộc tội đều có

8

quyền được coi là vô tội cho đến khi một Tòa án công khai, nơi người đó đã

có được tất cả những bảo đảm cần thiết để bào chữa cho mình, chứng minh

được tội trạng của người đó dựa trên cơ sở luật pháp” (Điều 11). Hiến pháp

năm 2013 đã bổ sung và quy định đầy đủ nội dung của nguyên tắc suy đoán

vô tội: “ Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng

minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực

pháp luật” (Khoản 1, Điều 31). Như vậy trong quá trình tiến hành tố tụng nếu

đã áp dụng đầy đủ các biện pháp cần thiết mà vẫn không đủ căn cứ để chứng

minh tội phạm, thì phải giải quyết theo hướng có lợi cho người bị buộc tội,

chừng nào chưa có bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì người bị

buộc tội vẫn chưa bị coi là người phạm tội; nghiêm cấm các cơ quan tố tụng

đối xử với họ như người phạm tội. Trong quá trình tiến hành tố tụng nếu đã

áp dụng đầy đủ các biện pháp cần thiết mà không đủ căn cứ để chứng minh

tội phạm thì phải giải quyết theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Từ

những yêu cầu nêu trên, BLTTHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung

quan trọng nhằm cụ thể hóa đầy đủ yêu cầu của nguyên tắc suy đoán vô tội.

Bổ sung và quy định đầy đủ nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội: “Người

bị buội tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình

tự do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực

pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội

theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm

quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội (Điều

13), quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục tố tụng và khẳng định nguyên tắc:

“Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật

này”. Không được giải quyết nguồi tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét

xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định (Điều 7).

9

Qua những đặc điểm nêu trên tác giả có thể đưa ra định nghĩa người

THTT trong Toà án nhân dân như sau:

Người THTT hình sự trong Toà án nhân dân là người được tuyển dụng,

bổ nhiệm, bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để thực hiện nhiệm vụ,

quyền hạn và trách nhiệm tiến hành xét xử các vụ án hình sự của Toà án theo

trình tự thủ tục do BLTTHS quy định, giải quyết vụ án hình sự một cách

khánh quan, công bằng góp phần bảo vệ trật tự pháp luật, công lý, đảm bảo

quyền con người trong tố tụng hình sự và phải chịu trách nhiệm về việc thực

hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình.

1.2. Cơ sở của việc quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, quyền và

nghĩa vụ của ngƣời tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án nhân dân

Hệ thống tổ chức của Toà án được ghi nhận tại Điều 127 Hiến pháp năm

1992 và được cụ thể hoá tại Điều 3 Luật tổ chức TAND năm 2014 do đó Toà

án nhân dân được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ, bao gồm: TAND

tối cao; TAND cấp cao; TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; TAND

huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; Toà án quân sự

[20, Điều 3].

TAND để thực hiện chức năng xét xử của mình thì cần có đội ngũ những

người THTT hình sự trong TAND. Những người THTT hình sự trong TAND là

những người trực tiếp thực hiện hoạt động xét xử và quyết định hình phạt đối với

người phạm tội. Vì vậy để pháp luật được nghiêm minh, công tác xét xử đạt hiệu

quả phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của người THTT hình sự trong

TAND.Vai trò, nhiệm vụ của họ đặc biệt quan trọng, điều này đòi hỏi họ phải vô

tư, khách quan, công bằng trong hoạt động xét xử. Bên cạnh đó thì trình độ, năng

lực của những người THTT hình sự trong TAND phải được bồi dưỡng, nâng cao

vì vậy việc bổ nhiệm, tuyển chọn cũng như việc quy định quyền hạn, trách

nhiệm đều được pháp luật tố tụng hình sự quy định [43, tr11].

10

Theo quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 34 BLTTHS năm 2015 quy

định người THTT hình sự bao gồm: Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán,

Hội thẩm, Thẩm tra viên và Thư ký toà án. Chánh án, Phó chánh án Toà án,

Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Toà án là những người được bổ nhiệm,

tuyển dụng theo quy định của pháp luật.

Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân có thể hiểu là người được bổ

nhiệm có nhiệm vụ tổ chức và điều hành hoạt động của TAND trong xét xử

vụ án hình sự, đồng thời tiến hành hành tố tụng hình sự và chịu trách nhiệm

trước pháp luật về hành vi của mình. Chánh án và Phó Chánh án thì chức

năng tổ chức và điều hành hoạt động như nhau nhưng Phó Chánh án có vị trí

thấp hơn Chánh án.

Trong HĐXX thì Thẩm phán là người có vai trò quan trọng, là người

trực tiếp thực hiện chức năng xét xử của TAND đòi hỏi thẩm phán phải có

trình độ chuyên môn, phải vô tư, khách quan, công bằng trong hoạt động xét

xử của mình. Thẩm phán là người tiến hành tố tụng hình sự trực tiếp thực hiện

chức năng xét xử của TAND để hoạt động xét xử của Thẩm phán đạt hiệu quả

cao phải có sự kết hợp hoạt động với những người tiến hành tố tụng hình sự

khác. Thẩm phán là người tiến hành tố tụng hình sự được bổ nhiệm theo quy

định của pháp luật thực hiện chức năng xét xử một cách khách quan, công

bằng, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người.

Hội thẩm nhân dân là người tiến hành tố tụng hình sự được bầu hoặc cử

theo quy định của pháp luật, tham gia hoạt động xét xử khi xét xử ngang

quyền với thẩm phán.

Đối với Hội thẩm nhân dân họ không thuộc biên chế của TAND họ công

tác ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Họ được bầu bởi cơ quan quyền

lực Nhà nước để tham gia vào hoạt động xét xử. Việc cơ quan quyền lực nhà

nước bầu Hội thẩm nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử thể hiện được

11

quyền làm chủ của người dân trong hoạt động này. Hội thẩm nhân dân TAND

địa phương do Ủy ban mặt trận tổ quốc cùng cấp và hội đồng nhân dân cùng

cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án TAND cùng cấp sau

khi thống nhất với Ủy ban mặt trận tổ quốc cùng cấp. Nhiệm kỳ của Hội thẩm

nhân dân theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Bên cạnh đó quy

định của BLTTHS năm 2015 quy định hực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm

tham gia; Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật [13,

Điều 22, 23]. Chỉ Tòa án mới có thẩm quyền xét xử khi xét xử thì Hội thẩm

nhân dân sẽ là người THTT hình sự trong TAND. Khi xét xử có Hội thẩm

nhân dân tham gia đảm bảo tính khách quan, công bằng, không làm oan người

vô tội.

Thẩm tra viên là công chức chuyên môn của Tòa án đã làm Thư ký Tòa

án từ 05 năm trở lên, được đào tạo nghiệp vụ Thẩm tra viên và bổ nhiệm vào

ngạch Thẩm tra viên, giúp lãnh đạo Tòa án chủ trì, tổ chức chỉ đạo và trực

tiếp thực hiện nhiệm vụ thẩm tra các vụ án thuộc thẩm quyền. Thẩm tra viên

có các ngạch: Thẩm tra viên; Thẩm tra viên chính; Thẩm tra viên cao cấp.

Thẩm tra viên có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động của ngành Tòa

án. Đặc biệt là hoạt động giám đốc kiểm tra giúp công tác xét xử của Tòa án

nhân dân các cấp được tốt hơn và đạt chất lượng cao. Thẩm tra viên tuy

không phải Thẩm phán nhưng thực chất hoạt động chuyên môn giống Thẩm

phán. Nghiên cứu sâu về vụ án hình sự xét về góc độ nào đó họ còn có yêu

cầu sâu hơn Thẩm phán sơ cấp hoặc ở Toà án huyện.

Thư ký Tòa án là người tiến hành tố tụng hình sự được tuyển dụng theo

quy định của pháp luật thực hiện nhiệm vụ được Chánh án Tòa án phân công

ghi biên bản phiên tòa và tiến hành các hoạt động tố tụng khác, phải chịu

trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình. Thư ký Tòa án có trách

nhiệm ghi chép mọi diễn biến tại phiên tòa và thực hiện các hoạt động tố tụng

12

trước, trong và sau khi phiên tòa kết thúc.

1.2.1. Yêu cầu giải quyết vụ án hình sự và yêu cầu xét xử

Tòa án bên cạnh trách nhiệm xét xử khách quan, công bằng, đúng người,

đúng tội không làm oan người vô tội và bỏ lọt tội phạm còn có trách nhiệm

bảo vệ quyền con người, quyền lợi ích của cá nhân, pháp nhân trong quá trình

giải quyết vụ án hình sự. Người THTT khi tiến hành giải quyết vụ án hình sự

cần đảm bảo yêu cầu sau:

Thứ nhất, hoạt động của người THTT nhằm bảo vệ công lý. Trong xã

hội pháp quyền, mọi hoạt động của Toà án nói chung và người THTT nói

riêng, khi tiến hành tố tụng luôn phải đảm bảo công lý, bảo vệ công lý nó trở

thành mục tiêu.

Thứ hai, xét xử là hoạt động trung tâm của quá trình giải quyết vụ án

hình sự thể hiện bản chất của nền tư pháp quốc gia nên việc bảo vệ quyền con

người được thể hiện tập trung nhất trong hoạt động xét xử của Tòa án. Theo

BLTTHS năm 2015 thì việc bảo vệ quyền con người được thể hiện thông qua

các quy định về nhiệm vụ, nguyên tắc vànhững quy định về thủ tục tố tụng tại

phiên tòa hình sự theo hướng bảo đảm quyền con người. Theo quy định, ở

nước ta xét xử theo nguyên tắc hai cấp: Sơ thẩm và phúc thẩm; ngoài ra còn

có giám đốc thẩm và tái thẩm là những thủ tục đặc biệt để xem xét lại bản án

và quyết định có hiệu lực pháp luật. Về cơ bản, thủ tục tố tụng tại phiên toà ở

các cấp xét xử là giống nhau về hình thức. Tuy nhiên, có sự khác nhau ở Hội

đồng xét xử, những người tham gia phiên toà và một số thủ tục khác.

Do vậy, cần làm rõ đặc điểm, phạm vi quyền con người trong hoạt động

xét xử. Quyền con người trong hoạt động xét xử bao gồm tất cả các lĩnh vực

quyền con người trong tố tụng hình sự. Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí thì:

“Ở bình diện khái quát nhất, quyền con người trong tố tụng hình sự được thể

hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, trừng trị người phạm tội gây ra những thiệt

13

hại cho các quyền và lợi ích hợp pháp của con người, của các cơ quan tiến

hành tố tụng, góp phần bảo vệ quyền con người; Khi tiến hành tố tụng giải

quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm tôn trọng và bảo

đảm quyền con người của người bị tình nghi phạm tội, bị can, bị cáo.”

[47,tr.112]. Tuy nhiên, thì “phạm vi quyền con người trong tố tụng hình sự

hẹp hơn, không bao gồm cả hai khuynh hướng trên mà chỉ là sự ghi nhận và

bảo đảm quyền của những người dễ bị tổn thương bao gồm: Người bị bắt, bị

tạm giữ, tạm giam, bị tình nghi phạm tội hoặc người bị kết án tránh sự lạm

dụng của người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án” [47,tr.113].

Quyền con người trong TTHS nói chung và trong hoạt động xét xử nói riêng

có đối tượng là người bị cáo buộc phạm tội và những người tham gia tố tụng

khác, nên quyền con người trong tố tụng hình sự là bảo vệ quyền của những

người yếu thế và những người khác có liên quan. Do vậy quyền con người

trong tố tụng hình sự gồm hai nhóm quyền: Quyền an toàn thân thể, danh dự,

nhân phẩm của cá nhân trong tố tụng hình sự và quyền được xét xử công bằng

bởi một tòa án độc lập. Những quyền con người này là tập hợp các quyền

thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị được quy định trong các văn kiện quốc tế

về quyền con người nhằm mục đích khẳng định bảo vệ tính mạng, sức khỏe,

danh dự, nhân phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh, đồng thời tránh sự

tùy tiện, lạm quyền của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người

có thẩm quyền tiến hành tố tụng xâm hại quyền con người trong các hoạt

động tố tụng hình sự.

Thứ ba, Bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng và người tham gia

tố tụng trong luật tố tụng hình sự là một trong những nguyên tắc nền tảng của

hoạt động tư pháp hìnhsự. Đến nay, nguyên tắc này đã được thừa nhận trong

tuyệt đại đa số pháp luật các quốc gia, được ghi nhận trong hầu hết các văn

kiện pháp lý quốc tế về quyền con người. Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí thì

14

bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trở

thành nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự do việc “xác định sự thật

khách quan và giải quyết vụ án khách quan, đảm bảo công bằng là đòi hỏi tất

yếu của tố tụng hình sự trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tuy

nhiên, khi điều tra, truy tố, xét xử thường có sự không “cân bằng”, không

bình đẳng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng với bị

can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác do một bên là đại diện cho

công quyền với đầy đủ sức mạnh của quyền lực, pháp luật, một bên là những

người bị nghi là phạm tội không có những sức mạnh và điều kiện như

vậy”[47,tr.54]. Do vậy, cần thiết lập một cơ chế bảo đảm sự vô tư của những

người đại diện công quyền cũng như chống lại sự lạm quyền của họ khi tiến

hành giải quyết vụ án trong luật tố tụng hình sự.

Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng, người

tham gia tố tụng là những tư tưởng mang tính xuất phát điểm, có tính chủ đạo

định hướng cho toàn bộ hoạt động xây dựng, thực thi, kiểm soát pháp luật tố

tụng hình sự hướng tới mục đích giải quyết vụ án khách quan, công bằng, dân

chủ bảo đảm công lý trong giải quyết vụ án hình sự

Thứ tư, đảm bảo pháp chế là chuẩn mực đánh giá tính đúng sai trong

hoạt động tố tụng hình sự. Kết quả hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến

hành tố tụng là người THTT thể hiện ở việc có thực hiện đúng các quy định

của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết

vụ án. Giá trị đích thực của tố tụng đạt được khi đảm bảo tính pháp lý tối cao

của hoạt động tố tụng.

1.2.2. Cách thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, thực hiện quyền tư pháp

Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa của nhân dân. “Nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống

nhất có sự phân công phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong

15

việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” lần đầu tiên được ghi

nhận cụ thể tại khoản 3, Điều 2, Hiến pháp năm 2013. Trong đó quyền tư

pháp là một dạng của quyền lực Nhà nước và chỉ trở thành quyền lực thực tế

khi có các hoạt động cụ thể của các chủ thể xác định. Đây là quá trình hiện

thực hoá quyền tư pháp được ghi quyền lực nhà nước và ngược lại, có những

chủ thể phải chấp hành quyền lực nhà nước. Vì vậy, pháp luật TTHS có quy

định pháp lý cho hai nhóm chủ thể khác nhau, đó là người THTT và người

tham gia tố tụng là cá nhân, là một người cụ thể làm việc trong cơ quan tiến

hành tố tụng và thay mặt cho cơ quan thực hiện nhiệm vụ trên thực tế.

Theo từ điển tiếng việt, “tiến hành” là làm, thực hiện một cách chủ động

một công việc nào đó đã được định trước. “Người THTT trong tố tụng hình

sự” là người của cơ quan tiến hành tố tụng, chủ động thực hiện các hành vi

theo trình tự, thủ tục pháp luật đã quy định để giải quyết các vụ án hình sự.

Trong TTHS khi tiến hành giải quyết vụ án hình sự thì Toà án phải thông

qua con người cụ thể mỗi người THTT có nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau.

Tuy nhiên hoạt động của họ đều có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau

nhằm giải quyết vụ án hình sự.

Theo quy định tại khoản 1, Điều 102 Hiến pháp 2013, Toà án nhân dân

là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam thực hiện quyền tư pháp.

Trong TTHS, người THTT của Toà án là người thay mặt Toà án thực hiện

quyền xét xử, người THTT thực hiện quyền lực Nhà nước bằng cách xem xét

thụ lý giải quyết các vụ án hình sự; nhân danh Nhà nước xét xử và ra các Bản

án, Quyết định. Do đó, hoạt động tố tụng của người THTT của Toà án cần

phải được kiểm sát chặt chẽ nhằm tránh sự lạm dụng quyền lực. Sự kiểm sát

này phần lớn được thực hiện bởi kiểm sát viên thông qua quá trình điều tra,

truy tố xét xử vụ án hình sự.

16

1.2.3. Yêu cầu phát triển đất nước, xã hội

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra cho hệ thống tư pháp phải xây

dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công

lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Cải cách hệ

thống tư pháp không chỉ dựa trên căn cứ thực tiễn tổ chức và hoạt động của

các cơ quan tư pháp hiện nay, mà điều quan trọng hơn là phải xuất phát từ

chính những yêu cầu và đặc trưng của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa. Cải cách phải đảm bảo tính độc lập của Toà án, các Thẩm phán

và Hội thẩm nhân dân phải thực hiện đúng nguyên tắc hiến định “khi xét xử,

Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Để bảo đảm

nguyên tắc độc lập xét xử, cần có nhiều điều kiện, trong đó có việc tổ chức

Toà án theo cấp xét xử trên tinh thần của nguyên tắc hai cấp xét xử; mỗi Toà

án là một cấp xét xử độc lập với Toà án cấp trên. Phải có một hệ thống pháp

luật nội dung và pháp luật tố tụng hoàn chỉnh; các thiết chế tư pháp bổ trợ

phải đủ mạnh để giúp cho Toà án thực hiện tốt việc xét xử; cơ sở vật chất- kỹ

thuật cho hoạt động Toà án phải đầy đủ, hiện đại.

1.2.4. Cơ cấu tổ chức tòa án

Toà án nhân dân bao gồm: Toà án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân cấp

cao, Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Toà án nhân dân

huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh và tương đương, Toà án quân sự và

các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã

hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân, thì

hệ thống tổ chức Toà án nhân dân được lập ở ba cấp là Toà án nhân dân tối

cao, Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án nhân dân cấp huyện. Theo quy định

của Luật tổ chức Toà án nhân dân thì “Toà án nhân dân tối cao quản lý các

Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự về tổ chức theo quy định của Luật này và

các luật có liên quan, bảo đảm độc lập giữa các Tòa án. [20,Điều 20].

17

Cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân tối cao gồm có: Hội đồng Thẩm

phán Toà án nhân dân tối cao; Bộ máy giúp việc; Cơ sở đào đạo, bồi dưỡng;

Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm tra viên,

Thư ký Toà án, công chức khác, viên chức và người lao động.

Về cơ cấu tổ chức thì Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương có: Uỷ ban Thẩm phán; Toà hình sự; Toà dân sự; Toà kinh tế;

Toà lao động; Toà hành chính và bộ máy giúp việc; Chánh án; Phó Chánh án;

Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; Thẩm tra viên; Thư ký Toà án; công

chức khác; viên chức và người lao động.

Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương

đương có thể có Toà hình sự, Toà dân sự, Toà gia đình và người chưa thành

niên, Toà xử lý hành chính. Trường hợp cần thiết, Uỷ ban thường vụ Quốc

hội quyết định thành lập Toà chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án

Toà án nhân dân tối cao. Căn cứ quy định tại khoản này và yêu cầu, thực tế

xét xử ở mỗi Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh

và tương đương, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc tổ chức

Tòa chuyên trách; Bộ máy giúp việc; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã,

thành phố thuộc tỉnh và tương đương có Chánh án, Phó Chánh án, Chánh tòa,

Phó Chánh tòa, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên về thi hành án,

công chức khác và người lao động [ 20,Điều 45]

1.2.5. Số lượng, năng lực, trình độ của Đội ngũ thẩm phán và cán bộ của

tòa án

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức là bộ phận cấu thành quan trọng

trong đường lối đổi mới toàn diện của Đảng ta. Trên nền tảng của chủ nghĩa

Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn đổi mới từ Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ VI đến nay.

Việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ngành Toà án nhân dân, nhất

là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và đội ngũ Thẩm phán là phải được đào

tạo để có kiến thức, kỹ năng và trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi; chuyên

18

môn hoá phải đi đôi với trí tuệ hoá, làm cho mỗi cán bộ, công chức trong từng

lĩnh vực có trình độ cao, vừa có kiến thức, vừa có năng lực chuyên môn sâu

sắc hơn và uyên thâm hơn về lý thuyết, tinh thông thành thạo hơn về nghiệp

vụ và cao hơn về năng lực thực tiễn.

Nhà nước phải xây dựng quy chế hoạt động đặc thù phù hợp với tính chất

và tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức ngành Toà án nhân dân.

Thẩm phán là chức danh tư pháp quan trọng nhất trong đội ngũ cán bộ

Toà án nói chung và trong các chức danh tư pháp nói riêng. Đội ngũ Thẩm

phán là lực lượng chuyên giải quyết, xét xử các loại án theo thẩm quyền của

Toà án. Thẩm phán ra các quyết định hoặc cùng Hội đồng xét xử ra các bản

án, quyết định nhân danh Nhà nước, Bản án quyết định đó có thể ảnh hưởng

trực tiếp đến quyền con người, của cơ quan, tổ chức. Vì vậy, đội ngũ Thẩm

phán luôn được quan tâm, chú trọng nhất trong bộ máy của Toà án các cấp.

Việc đào tạo nguồn Thẩm phán và bồi dưỡng nghiệp vụ cho các Thẩm

phán được tiến hành thường xuyên, liên tục. Qua công tác sử dụng cán bộ,

công chức cho thấy, các trường hợp được đào tạo, bồi dưỡng đã phát huy tốt

kiến thức, kinh nghiệm nghề nghiệp; tạo không khí phấn khởi, không ngừng

học tập, rèn luyện, phấn đấu trong đội ngũ cán bộ, công chức.

1.3. Mối quan hệ giữa ngƣời tiến hành tố tụng hình sự trong TAND với

ngƣời tiến hành tố tụng hình sự khác và mối quan hệ giữa ngƣời tiến

hành tố tụng trong TAND với nhau

1.3.1. Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng hình sự trong TAND với

những người tiến hành tố tụng hình sự trong Cơ quan điều tra

Trong tố tụng hình sự thì Điều tra vụ án có vai trò rất quan trọng, giai

đoạn này rất phức tạp và mất nhiều thời gian. Người THTT trong cơ quan

điều tra gồm có Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra, Điều tra viên,

Cán bộ điều tra trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự thì điều tra viên

thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình và tuân theo pháp luật. TAND luôn

19

giữ mối quan hệ chặt chẽ với người THTT hình sự trong cơ quan điều tra đặc

biệt là điều tra viên là người trực tiếp điều tra và tiếp cận với người phạm tội

và hành vi của tội phạm. Trong quá trình xét xử thì HĐXX chỉ lấy chứng cứ

từ lời khai của bị cáo, còn những chứng cứ liên quan đến khám nghiệm hiện

trường, thu thập chứng cứ, xét hỏi lập hồ sơ vụ án chuyển sang Viện kiểm sát

sang Toà án.

Trong quá trình điều tra thì chứng cứ chính là nguồn xác thực nhất cho

hoạt động xét xử của người THTT hình sự trong TAND do vậy mà Điều tra

viên phải thu thập, điều tra, sắp xếp, ghi chép chứng cứ theo đúng trình tự

theo không gian, thời gian chứng cứ buộc tội và gỡ tội, thực hiện đúng theo

trình tự như vậy thì mới đảm bảo được sự công bằng, khách quan, không làm

oan người vô tội trong công tác xét xử của người THTT trong TAND.

Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì trong quá trình xét xử, khi

thấy cần thiết, HĐXX có thể triệu tập Điều tra viên [13, Điều 296].

Như vậy, người THTT trong TAND và người THTT trong cơ quan điều

tra có mối quan hệ khăng khít chặt chẽ. Kết quả xét xử của người THTT trong

TAND căn cứ vào các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh

tụng tại phiên toà để giải quyết vụ án hình sự đúng người đúng tội. Bên cạnh

kết quả xét xử thì có những vụ án Toà án trả điều trả bổ sung do chứng cứ

buộc tội còn yếu, chưa rõ ràng thì phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu

vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các

chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, Điều tra viên [8].

1.3.2. Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng hình sự trong TAND với

những người tiến hành tố tụng hình sự cơ quan Viện kiểm sát

Viện kiểm sát theo quy định của BLTTHS là cơ quan THTT hình sự,

người THTT trong Viện kiểm sát là Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát

20

viên, Kiểm tra viên. Chức năng là thực hiện quyền công tố và kiểm sát việc

tuân theo pháp luật của người THTT hình sự và cơ quan THTT hình sự đảm

bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh và thống nhất. Với chức năng,

nhiệm vụ như trên thì mối quan hệ giữa người THTT Viện kiểm sát có mối

quan hệ qua lại, biện chứng, mật thiết với nhau không thể xét xử nếu không

có sự buộc tội, hay nói cách khác ở đâu có buộc tội ở đó phát sinh hoạt động

xét xử và bào chữa. Người THTT trong Viện kiểm sát thực hiện chức năng

buộc tội thì hỗ trợ cho chức năng xét xử cho người THTT trong TAND và

ngược lại. Mối quan hệ giữa người THTT trong Viện kiểm sát và người

THTT trong TAND phát sinh từ giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám

đốc thẩm và tái thẩm. Nó bắt đầu từ khi Viện kiểm sát chuyển hồ sơ vụ án

sang TAND thông qua Kiểm sát viên được phân công tiến hành tố tụng của

vụ án. Thông qua bản cáo trạng của Viện kiểm sát thì TAND biết được nội

dung của vụ án xét xử bị cáo nào, bị Viện kiểm sát truy tố về tội gì, khoản

nào, điều nào theo BLTTHS. Mối quan hệ từ giai đoạn này là mối quan hệ

phối hợp và chế ước lẫn nhau. Họ cùng xem xét lại căn cứ và tính hợp pháp

của chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hai bên giải quyết theo nguyên tắc cơ bản

của BLTTHS, những trường hợp cần có cuộc họp trù bị và Viện kiểm sát và

Toà án có cuộc họp liên ngành để đưa ra quy chế chung phối hợp trong quá

trình làm việc. Tại phiên toà Viện kiểm sát chỉ đưa ra quan điểm giải quyết vụ

án, quyết định tội danh và hình phạt thuộc về Thẩm phán chủ toạ phiên toà và

Hội thẩm nhân dân. Viện kiểm sát là cơ quan có quyền truy tố một người ra

toà nhưng việc kết tội lại thuộc về thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.

Vậy, mối quan hệ giữa người THTT trong TAND và người THTT trong

Viện kiểm sát là mối quan hệ phối hợp nhưng có sự kiểm tra giám sát lẫn

nhau. Sự phối hợp giữa kiểm sát viên và Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,

Thẩm tra viên, Thư ký toà án tạo điều kiện để các bên hoàn thành nhiệm vụ

21

được giao. Sự chế ước giám sát giúp cho việc đảm bảo thực thi pháp luật một

cách nghiêm minh, đúng người, đúng tội.

1.3.3. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Chánh án, Phó Chánh án Tòa án

Chánh án là người tổ chức công tác xét xử của Tòa án, quyết định phân

công Thẩm phán, Hội thẩm giải quyết, xét xử vụ án hình sự, quyết định việc

thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm trước khi mở phiên tòa. Khi Chánh án vắng

mặt một Phó Chánh án được Chánh án ủy nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền

hạn của Chánh án. Mối quan hệ này mang tính đan xen giữa hành chính và tố

tụng. Trong hoạt động tố tụng, không có quy định nào buộc Thẩm phán hay

Hội thẩm phải chịu sự chỉ đạo của Chánh án hay Phó Chánh án khi xét xử.

Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tuy

nhiên trong thực tế lại không ít các Tòa án trước khi xét xử hoặc sau phần

tranh luận, trước khi nghị án, Thẩm phán phải báo cáo nội dung vụ án với

Chánh án hoặc Ủy ban thẩm phán để xin đường lối giải quyết vụ án.

Thẩm phán cũng là công chức nên lãnh đạo cơ quan Toà án được coi là

cấp trên của Thẩm phán. Mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới là quan hệ lệ

thuộc và nhạy cảm và điều đó không thể không làm ảnh hưởng đến sự độc lập

của Thẩm phán khi tiến hành tố tụng. Do đó, mặc dù pháp luật không quy

định Thẩm phán phải báo cáo án trước lãnh đạo Toà án, nhưng trên thực tế

đang tồn tại quy ước Thẩm phán phải báo cáo án trước khi xét xử. Nhưng bất

cập đó trước hết là xuất phát từ việc Nhà nước chưa xác định vị trí, vai trò và

địa vị pháp lý đặc thù của Toà án cũng như đặc thù của nghề Thẩm phán. Mặt

khác trong nội bộ Toà án chưa có sự nhận thức sâu sắc và xử lý các mối quan

hệ quản lý, mối quan hệ tố tụng cũng như ảnh hưởng của nó trong hoạt động

tố tụng [25,tr.66].

22

1.3.4. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa

án, Thẩm tra viên

Nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký

Tòa án, Thẩm tra viên được quy định tại Điều 45, 46, 47, 48 của BLTTHS

2015 và cũng có những quyền hạn, trách nhiệm riêng của mình có ảnh hưởng

không nhỏ đến hoạt động xét xử vụ án hình sự.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa Thẩm phán chủ tọa

phiên tòa cũng có những quyền hạn, trách nhiệm riêng của mình có ảnh

hưởng không nhỏ đến việc giải quyết vụ án hình sự. Thẩm phán được phân

công làm chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Quyết

định này là căn cứ xác lập vị trí pháp lý của những người tiến hành tố tụng.

Trên cơ sở đó, Thẩm phán, Hội thẩm mới có những quyền hạn, trách nhiệm

mà pháp luật quy định cho các thành viên HĐXX. Tại phiên tòa, Thẩm phán

chủ tọa phiên tòa là thành viên của HĐXX, phần lớn hoạt động của chủ tọa

phiên tòa là thay mặt HĐXX thực hiện các quyền hạn, trách nhiệm của

HĐXX. Chủ tọa phiên tòa thực hiện tốt các hoạt động này cũng là HĐXX

thực hiện tốt quyền hạn và trách nhiệm của mình.

Thông tư số: 01/2017/TT-TANDTC của TAND tối cao mô hình mẫu

phòng xử án mới thì vị trí dưới Quốc huy chỉ còn duy nhất HĐXX, điều này

thể hiện tinh thần thượng tôn pháp luật, nâng cao vai trò, vị thế trung tâm của

HĐXX. Đồng thời, thể hiện sự khách quan, công tâm của HĐXX khi đứng ở

vị trí “trọng tài” xem xét quyết định, phân định trên cơ sở hoạt động tranh

tụng của bên buộc tội và bên gỡ tội.

Khi xét xử thì Thẩm phán và Hội thẩm độc lập chỉ tuân theo pháp luật

nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, độc lập là điều kiện tiên quyết để

Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử và ngược lại, chỉ

tuân theo pháp luật là cơ sở cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm được độc lập

23

khi xét xử. Mối quan hệ này là mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Nếu chỉ độc

lập mà không tuân theo pháp luật thì sẽ dẫn đến sự tuỳ tiện, độc đoán, chủ

quan, duy ý chí khi xét xử, còn nếu Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo

pháp luật mà không được độc lập thì có thể dẫn tới sự can thiệp trái phép từ

các cơ quan, tổ chức, cá nhân vào hoạt động xét xử của Toà án.

Thư ký Tòa án là người làm thư ký tại phiên tòa. Tại phiên tòa Thư ký

Tòa án có trách nhiệm ghi biên bản phiên tòa, thực hiện các yêu cầu của

HĐXX. Hoạt động của Thư ký Tòa án góp phần bảo đảm cho việc giải quyết

vụ án trong việc thực hiện kế hoạch xét xử và ra bản án có căn cứ. Thư ký

Tòa án cũng có sự độc lập nhất định đối với HĐXX. Họ phải ghi biên bản

phiên tòa trung thực, chính xác, không thể phản ánh sai diễn biến phiên tòa để

"hợp pháp hóa" chứng cứ hay làm sai lệch nội dung vụ án. Theo quy định của

BLTTHS năm 2015 thì quy định phòng xét xử mới đã bố trí vị trí ngồi cho

Thư ký Tòa án phía trước HĐXX thể hiện sự bình đẳng khách quan giữa

người tiến hành tố tụng.

Thẩm tra viên thực hiện thẩm tra hồ sơ các vụ án hình sự xem xét đảm

bảo đúng quy trình, đúng luật và chịu trách nhiệm cá nhân về tính pháp lý của

toàn bộ hồ sơ vụ án được thẩm tra lại. Thẩm tra viên tuy không phải là Thẩm

phán song họ thực chất hoạt động chuyên môn giống Thẩm phán. Xét về góc

độ nào đó thì họ còn có yêu cầu chuyên môn sâu hơn Thẩm phán cấp dưới bởi

họ đề xuất xét lại bản án của Thẩm phán.

1.4. Ngƣời tiến hành tố tụng trong toà án theo luật tố tụng hình sự của

một số nƣớc trên thế giới

1.4.1. Người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án của Hàn Quốc

Hiến pháp Hàn Quốc quy định: “Quyền tư pháp thuộc các toà án bao

gồm các thẩm phán” [Điều 10, đoạn 1] và “Các toà án bao gồm có: Toà án tối

cao là toà án cao nhất của quốc gia và các toà án khác ở các cấp được định rõ”

[Điều 101, đoạn 2) và chi tiết hơn về tổ chức các toà án do luật định.

24

Luật tổ chức toà án quy định có 3 cấp toà án, bao gồm: Các toà án khu

vực, các toà án cấp cao và Toà án tối cao. Mỗi toà án đều có Chánh án, các

thẩm phán và các cán bộ, công chức toà án khác. Hệ thống Toà án Hàn Quốc

có 6 loại toà án: Toà án tối cao, toà án cấp cao, toà án khu vực, toà án sở hữu

trí tuệ, toà án gia đình và toà án hành chính. Ngoài ra, các toà án quân sự có

thể được thành lập theo Hiến pháp là những toà án đặc biệt tiến hành xét xử

tất cả những vụ án hình sự quân sự trong đó Toà án tối cao có thẩm quyền

chung thẩm.

Chánh án Toà án tối cao đại diện bộ máy tư pháp và giữ 1 trong 3 vị trí

cao nhất của chính quyền sau Tổng thống và Chủ tịch Quốc hội. Toà án tối

cao bao gồm Chánh án Toà án tối cao và 13 thẩm phán toà án tối cao. Một

thẩm phán toà án tối cao được Chánh án Toà án tối cao bổ nhiệm làm Trưởng

cơ quan hành chính toà án quốc gia để quán xuyến toàn bộ các vấn đề hành

chính tư pháp dưới sự giám sát của Chánh án Toà án tối cao. Chánh án toà án

nhân dân tối cao quản lý chung toàn bộ các công việc hành chính tư pháp, chỉ

đạo và giám sát các công chức có liên quan. Chánh án Toà án tối cao có thể

uỷ nhiệm phần quyền chỉ đạo và giám sát cho Trưởng cơ quan hành chính toà

án quốc gia, Chánh án mỗi toà án, Chủ tịch Viện nghiên cứu và đào tạo tư

pháp, Chủ tịch Viện đào tạo công chức toà án hoặc Chủ tịch Thư viện Toà án

tối cao. Hội đồng thẩm phán Toà án tối cao là cơ quan cao nhất trong hành

chính tư pháp. Hội đồng bao gồm toàn bộ các thẩm phán Toà án tối cao do

Chánh án tối cao làm Chủ tịch. Hội đồng thông qua nghị quyết về việc bổ

nhiệm các thẩm phán toà án cấp dưới….

Hiến pháp Hàn Quốc quy định tiêu chuẩn thẩm phán do luật định. Theo

Luật tổ chức toà án, các thẩm phán là những người đã thi đỗ Kỳ thi tư pháp

quốc gia và hoàn thành chương trình đào tạo 2 năm ở Viện nghiên cứu và đào

tạo tư pháp hoặc đã có đủ các điều kiện làm luật sư. Chánh án và các thẩm

25

phán Toà án tối cao được bổ nhiệm trong số các thẩm phán, công tố viên, luật

sư. Ứng viên Chánh án và thẩm phánaToà án tối cao phải trên 40 tuổi, có kinh

nghiệm công tác 15 năm trở lên ở các cơ quan nêu trên. Chánh án Toà án tối

cao do Tổng thống bổ nhiệm với sự nhất trí của Quốc hội. Các thẩm phán

khác của Toà án tối cao cũng do Tổng thống bổ nhiệm theo giới thiệu của

Chánh án Toà án tối cao do Tổng thống bổ nhiệm với sự nhất trí của Quốc

hội. Các thẩm phán của các toà án cấp dưới do Chánh án Toà án tối cao bổ

nhiệm với sự nhất trí của Hội đồng thẩm phán Toà án tối cao. Nhiệm kỳ của

Chánh án Toà án tối cao là 6 năm không bổ nhiệm lại. Nhiệm kỳ của thẩm

phán Toà án tối cao là 6 năm và có thể làm nhiều nhiệm kỳ. Nhiệm kỳ của các

thẩm phán khác là 10 năm và có thể bổ nhiệm lại. Chánh án Toà án tối cao

nghỉ hưu ở tuổi 70. Các thẩm phán Toà án tối cao nghỉ hưu ở tuổi 65 và các

thẩm phán toà án cấp dưới nghỉ hưu ở tuổi. Việc đào tạo, bồi dưỡng cho các

thẩm phán, do Viện nghiên cứu và đào tạo tư pháp của Toà án tối cao thực

hiện. Đây là một công cụ của Toà án tối cao giáo dục cả lý thuyết và thực

hành cho những người đã thi đỗ kỳ thi tư pháp quốc gia để vào nghề pháp lý,

tương lai trở thành thẩm phán, công tố viên, luật sư và cung cấp cho các thẩm

phán cơ hội được giáo dục tiếp tục cao cấp, được giúp đỡ việc nghiên cứu các

vấn đề pháp lý. Học viên của Viện là những người đã thi đỗ Kỳ thi tư pháp

quốc gia. Các thí sinh thi đỗ kỳ thi này bắt buộc phải được đào tạo tại Viện 2

năm trước khi được bổ nhiệm làm thẩm phán, công tố viên hoặc luật sư. Học

viên của Viện còn bao gồm các thẩm phán toà án các cấp và cán bộ của các

toà án quân sự hải quân, không quân [22, tr 34,35].

1.4.2. Người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án của (CHDCND)

cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa

Hiến pháp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Trung Hoa quy định:

“Toàn bộ quyền lực ở nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Trung Hoa thuộc về

26

nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua cơ quan đại diện

là Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc và Đại hội đại biểu nhân dân các cấp

địa phương”. Toà án nhân dân nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Trung Hoa là

cơ quan xét xử của Nhà nước: Toà án nhân dân độc lập xét xử theo quy định

của pháp luật, không bị can thiệp bởi cơ quan hành chính đoàn thể xã hội và

cá nhân. Hệ thống Toà án nhân dân bao gồm Toà án nhân dân tối cao, toà án

nhân dân các cấp địa phương và toà án nhân dân chuyên ngành. Toà án nhân

dân các cấp địa phương được phân thành: Toà án nhân dân cao cấp, toà án

nhân dân trung cấp, toà án nhân dân sơ cấp.

Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất quốc gia, có thẩm

quyền sơ thẩm các vụ án theo quy định của pháp luật và các vụ án mà nó thấy

cần thiết; sơ thẩm các vụ án mà bản án và quyết định của toà án nhân dân cao

cấp, toà án nhân dân chuyên ngành bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm. Toà án nhân dân tối cao giám đốc công tác xét xử của toà án

nhân dân các cấp địa phương và toà án nhân dân chuyên ngành. Toà án nhân

dân tối cao giải thích các vấn đề về áp dụng pháp luật trong quá trình xét xử.

Toà án nhân dân cao cấp bao gồm toà án nhân dân cao cấp các tỉnh, khu

tự trị và thành phố trực thuộc trung ương. Toà án nhân dân cao cấp có thẩm

quyền sơ thẩm các vụ án theo quy định của pháp luật; sơ thẩm các vụ án mà

toà án nhân dân cấp dưới trình lên theo luật định; sơ thẩm các vụ án mà Toà

án nhân dân tối cao giao theo quy định của pháp luật; phúc thẩm các vụ án mà

bản án và quyết định của toà án nhân dân cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị;

giám đốc thẩm các vụ án mà viện kiểm sát nhân dân kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm. Toà án nhân dân cao cấp giám đốc công tác xét xử của toà án

nhân dân cấp dưới.

Toà án nhân dân trung cấp bao gồm Toà án nhân dân trung cấp được

thiết lập ở khu vực thuộc các tỉnh, khu tự trị; ở các châu tự trị và các toà án

27

nhân dân trung cấp khác được thành lập khi cần thiết. Toà án nhân dân trung

cấp có thẩm quyền sơ thẩm do Toà án nhân dân tối cao xác định; sơ thẩm các

vụ án mà toà án nhân dân sơ cấp trình lên theo quy định của pháp luật; sơ

thẩm các vụ án mà toà án nhân dân cấp trên giao theo quy định của pháp luật;

phúc thẩm các vụ án mà bản án và quyết định của toà án nhân dân sơ cấp bị

kháng cáo, kháng nghị; giám đốc thẩm các vụ án mà viện kiểm sát nhân dân

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Toà án nhân dân trung cấp giám đốc

công tác xét xử của toà án nhân dân sơ cấp trong khu vực trực thuộc.

Toà án nhân dân sơ cấp bao gồm toà án nhân dân huyện, thành phố cấp

huyện, huyện tự trị và các toà án nhân dân sơ cấp khác được thành lập khi cần

thiết. Toà án nhân dân sơ cấp có thể thành lập một số toà án nhân dân tuỳ theo

tình hình nhân khẩu và án kiện trong khu vực. Các toà án có Chánh án, phó

Chánh án, uỷ viên ban thẩm phán, chánh toà, phó chánh toà, thẩm phán, trợ lý

thẩm phán và các công chức toà án khác. Theo quy định thẩm phán được chia

thành 4 ngạch, 12 bậc. Ngoài đại thẩm phán cấp cao nhất là Chánh án toà án

nhân dân tối cao ra, thẩm phán từ bậc 2 đến bậc 12 chia thành đại thẩm phán,

thẩm phán cao cấp, thẩm phán.

Chánh án toà án nhân dân tối cao do Đại hội đại biểu toàn quốc bầu và

miễn nhiệm; Phó Chánh án, uỷ viên Uỷ ban thẩm phán, Chánh toà, Phó

Chánh toà, thẩm phán ở Toà án nhân dân tối cao do Chánh án Toà án nhân

dân tối cao đề nghị Uỷ ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc bổ

nhiệm và miễn nhiệm. Chánh án Toà án nhân dân các cấp địa phương do đại

hội đại biểu nhân dân các cấp địa phương bầu và miễn nhiệm; Phó Chánh án,

uỷ viên Uỷ ban thẩm phán, Chánh toà, Phó Chánh toà, Thẩm phán ở Toà án

nhân dân các cấp địa phương do Chánh án Toà án nhân dân cùng cấp đề nghị

Uỷ ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân cùng cấp bổ nhiệm và miễn

nhiệm. Trợ lý thẩm phán toà án nhân dân do Chánh án Toà án nhân dân cùng

cấp bổ nhiệm và miễn nhiệm.

28

Để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức toà án, các toà án nhân dân

thành lập các Uỷ ban kiểm tra và đánh giá thẩm phán. Các uỷ ban này có

nhiệm vụ bồi dưỡng, kiểm tra và đánh giá các thẩm phán. Uỷ ban kiểm tra và

đánh giá thẩm phán của Toà án nhân dân tối cao tổ chức các kỳ thi thống nhất

trong cả nước để sơ tuyển Thẩm phán, trợ lý Thẩm phán [22, tr 39, 40].

1.4.3. Người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án của Cộng hoà Pháp

Toà án của Cộng hoà Pháp được chia làm hai hệ thống hoàn toàn tách

biệt nhau, đó là hệ thống toà án hành chính có chức năng xét xử hành vi hành

chính, văn bản hành chính, tranh chấp giữa cơ quan hành chính và tổ chức, cá

nhân; và hệ thống toà án tư pháp có chức năng xét xử các vụ án hình sự, các

tranh chấp trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh tế, thương

mại…. Thẩm phán toà án tư pháp được tuyển dụng, đào tạo, bổ nhiệm theo

quy định riêng.

Thẩm phán được tuyển dụng, đào tạo thông qua thi cử và được bổ nhiệm

theo quyết định của Tổng thống sau khi có ý kiến của Hội đồng thẩm phán tối

cao. Việc áp dụng cơ chế thi tuyển thẩm phán là một bước tiến rất lớn trong

quá trình cải cách tư pháp của Cộng hoà Pháp. Cơ chế này đảm bảo sự công

bằng, bình đẳng cho mọi công dân có nguyện vọng trở thành thẩm phán. Kỳ

thi thứ nhất dành cho các đối tượng là các sinh viên mới tốt nghiệp ra trường,

tuổi đời không quá 27 tuổi, có bằng đại học luật. Kỳ thi thứ hai dành cho các

công chức có nguyện vọng trở thành thẩm phán, có thời gian công tác ít nhất

4 năm và tuổi đời không quá 46 năm 5 tháng tính đến ngày dự thi. Nội dung

thi cũng giống như trong kỳ thi tuyển thứ nhất. Trước khi dự thi, các công

chức này sẽ phải tham gia một khoá dự bị kéo dài khảng 1 năm đến 2 năm,

tuỳ theo người đó có bằng đại học luật hay không. Để tham gia khoá học dự

bị này, thí sinh cũng phải tham gia thi tuyển. Trong thời gian tham gia khoá

học dự bị công chức vẫn tiếp tục được hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

29

Kỳ thi tuyển thứ ba được tổ chức lần đầu tiên từ năm 1996 dành cho tất cả các

đối tượng có nguyện vọng trở thành thẩm phán nếu thoả mãn các điều kiện

sau đây: Không quá 40 tuổi; có 8 năm công tác trong một ngành chuyên môn

thuộc khu vực tư nhân hoặc đã từng giữ chức vụ đại biểu dân cử ở địa phương

hoặc đã từng được bầu làm thẩm phán không chuyên toà thương mại sơ thẩm

hoặc Toà lao động sơ thẩm. Trường thẩm phán quốc gia còn tổ chức các kỳ

thi bổ sung, chủ yếu dành cho những người đã có kinh nghiệm và có trình độ

chuyên môn cao có nguyện vọng trở thành thẩm phán. Việc tổ chức kỳ thi bổ

sung được thực hiện theo quyết định của Bộ trưởng tư pháp. Bên cạnh hình

thức thi tuyển nêu trên, còn có hình thức cử tuyển đối với một số đối tượng.

Hằng năm, khi khai giảng khoá mới, Trưởng thẩm phán quốc gia tổ chức buổi

lễ tuyên thệ cho các học viên mới được tuyển vào trường. Sau khi tuyên thệ,

học viên có quyền tham gia vào các hoạt động điều tra, xét xử tại toà án như một

thẩm phán thực thụ, có quyền tiếp cận đến mọi hồ sơ tài liệu liên quan đến vụ án.

Trong quá trình tham gia hoạt động tại toà án, học viên thẩm phán phải tuân thủ

đầy đủ các quy định về đạo đức nghề nghiệp thẩm phán, nghĩa vụ giữ bí mật hồ

sơ nội dung vụ việc mà mình được tiếp cận. Trong quá trình học tại trường, học

viên thẩm phán được hưởng lương từ ngân sách nhà nước và một số chế độ khác

dành cho cán bộ, công chức.

Ngoài việc tuyển dụng, bổ nhiệm thẩm phán thông qua thi cử, đào tạo tại

trường Thẩm phán quốc gia còn có một hình thức tuyển dụng, bổ nhiệm

Thẩm phán khác, đó là tuyển dụng và bổ nhiệm Thẩm phán trực tiếp, không

qua đào tạo tại trường. Đối tượng tuyển dụng phải thoả mãn các điều kiện sau

đây: Từ 35 tuổi trở lên; có bằng đại học; có kinh nghiệm chuyên môn đặc biệt

để có thể trở thành Thẩm phán mà không qua đào tạo. Trong trường hợp tham

gia dự tuyển Thẩm phán bậc hai (thẩm phán sơ thẩm), thì phải có tối thiểu 7

năm hoạt động chuyên môn. Trong trường hợp tham gia dự tuyển Thẩm phán

30

bậc một (Chánh án toà sơ thẩm, thẩm phán và chánh án toà phúc thẩm), thì tối

thiểu phải có 17 năm hoạt động chuyên môn. Trong trường hợp này, sẽ thành

lập Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán do Chánh án toà án làm Chủ tịch Hội

đồng và thành phần bao gồm các Thẩm phán và đại diện một số cơ quan có

liên quan. Hồ sơ dự tuyển được nộp cho Bộ tư pháp, sau đó sẽ được chuyển

cho Hội đồng xem xét, quyết định. Trong một số trường hợp trước khi ra

quyết định tuyển dụng chính thức, Hội đồng tuyển chọn thẩm phán có thể yêu

cầu đối tượng dự tuyển phải qua một kỳ thực tập kiểm tra năng lực chuyên

môn tại toà án. Thời gian thực tập tối đa 6 tháng kết thúc đợt thực tập, thí sinh

sẽ có một buổi sát hạch. Trên cơ sở kết quả thực tập và sát hạch khả năng

chuyên môn, Hội đồng sẽ ra quyết định tuyển dụng chính thức. Người được

tuyển dụng sẽ được bổ nhiệm làm thẩm phán mà không qua thời gian đào tạo

tại trường thẩm phán quốc gia.

Thẩm phán điều tra thì không được Thẩm phán điều tra không thể tham

gia xét xử các vụ án hình sự mà mình đã điều tra với tư cách Thẩm phán điều

tra; nếu tham gia, Bản án sẽ vô hiệu. Thẩm phán điều tra có thể là Thẩm phán

tại nơi xảy ra sự việc Thẩm phán điều tra được chỉ định trong số các Thẩm

phán của Tòa án, theo các thể thức phân công thẩm phán xét xử. Tại quyết

định phân công Thẩm phán, Chánh án thứ nhất cũng có thể quyết định giao

cho Thẩm phán ấy tạm thời làm Thẩm phán điều tra theo đúng các quy định

trên đây.

Nếu Thẩm phán điều tra vắng mặt, bị ốm hoặc vì lý do khác không đảm

đương được công việc Thẩm phán điều tra, Tòa sơ thẩm theo thẩm quyền

rộng cử một trong số các Thẩm phán của Tòa án thay thế [22, tr.42, 44].

1.4.4 Người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án của liên bang Hoa Kỳ

Hệ thống tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống toà án Hoa Kỳ

do Hiến pháp quy định. Hệ thống tư pháp liên bang tổ chức theo cơ chế: “Một

31

Toà án tối cao và các Toà án cấp dưới mà Quốc hội đôi khi có thể định ra và

thành lập”. Theo đó, Toà án phúc thẩm trung gian được phân chia theo 11 khu

vực lãnh thổ và 1 khu vực thủ đô. Các toà án liên bang hay các toà án quận đều

được tổ chức ở mỗi tiểu bang và vùng lãnh thổ. Hoa Kỳ có 94 toà án quận và

mỗi tiểu bang có ít nhất 1 toà án. Các tiểu bang đông dân cư có thể có 2 toà án

trở lên. Hiện nay, Hoa Kỳ có khoảng 180 thẩm phán toà án phúc thẩm và trên

630 thẩm phán toà án quận, các thẩm phán của tiêu bang được bầu ra hoặc bổ

nhiệm theo Hiến pháp hay pháp luật của tiểu bang. Tất cả các Thẩm phán Hoa

Kỳ, tiểu bang cũng như liên bang cùng tất cả các nhà lập pháp của tiểu bang và

liên bang đều phải tuyên thệ ủng hộ Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.

Hệ thống toà án của tiểu bang và tiểu liên bang đều được xây dựng theo

mô hình kim tự tháp. Toà án cấp thấp nhất là các Toà án sơ thẩm, tiếp theo là

các Toà án phúc thẩm và cấp cao nhất là Toà án tối cao. Khác với một số

nước Châu Âu, ở Mỹ không tổ chức Toà án Hiến pháp mà bất kỳ Toà án nào

cũng có quyền phán quyết hoặc tuyên bố một Bộ luật hay hành động của cơ

quan hành pháp không hợp hiến. Thủ tục phúc thẩm đối với loại việc này do

một Toà án cấp cao hơn tiến hành.

Các thẩm phán Toà án tối cao Hoa Kỳ do Tổng thống bổ nhiệm có sự

đồng ý của Quốc hội. Các thẩm phán toà án bang có thể được bầu hoặc bổ

nhiệm tuỳ theo từng bang.

Để đào tạo, bồi dưỡng cho các thẩm phán, Hoa Kỳ có Trung tâm tư pháp

liên bang. Trung tâm tư pháp liên bang có chức năng giáo dục định hướng và

giáo dục tiếp tục cho các Thẩm phán liên bang. Các thẩm phán toà án khu vực

được mời lần đầu dự chương trình định hướng 5 ngày, thường cho 10-15 thẩm

phán vừa mới được bổ nhiệm hoặc sắp sửa được bổ nhiệm. Chương trình này

được tổ chức vài lần trong năm tuỳ theo nhịp độ bổ nhiệm Thẩm phán ở các

khu vực [29,tr.48].

32

Các Toà án có chức năng xét xử khi một người bị cáo buộc vi phạm luật

hình sự và buộc họ phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều này do các Bồi thẩm

đoàn hay thẩm phán quyết định. Mục đích của các Toà án là tìm kiếm công lý

và phát hiện sự thật. Những vai chính tại Toà án là các Công tố viên, luật sư

biện hộ và các thẩm phán[ 26].

Một Thẩm phán hoặc Bồi thẩm đoàn tiến hành với sự tham dự của công

tố viên và luật sư biện hộ để xem xét tội trạng. Tiêu chuẩn về chứng cứ đối

với việc kết án hình sự là vượt quá những lý do nghi ngờ hợp lý, nếu có bất

kỳ lý do nghi ngờ nào về tội trạng của bị cáo thì bị cáo sẽ được tha bổng.

Thông qua nguyên tắc mặc cả thú tội, luật sư biện hộ và công tố viên có thể

thảo luận giảm buộc tội hoặc giảm mức án cho bị cáo.

Nếu bị cáo bị coi là có tội, thẩm phán sẽ đưa ra mức án. Hình phạt có thể

là phạt tiền, quản chế, tống giam trong một đơn vị cải tạo như nhà giam hoặc

nhà tù hoặc kết hợp với một số biện pháp giám sát trong cộng đồng giam giữ.

Quyết định chống án do cả luật sư đệ trình lên các Toà án cấp phúc thẩm và

sau đó được các thẩm phán Toà phúc thẩm phán quyết. Nếu một Toà phúc

thẩm đảo ngược phán quyết sơ thẩm, vụ án sẽ được trả lại cho Toà án cấp

dưới để xét xử lại. Theo sự phán quyết đảo ngược bản án của Toà án phúc

thẩm. Công tố viên sẽ quyết định việc có tiếp tục đệ trình hay bỏ qua lời buộc

tội. Ngay cả khi công tố viên bỏ qua lời buộc tội thì bị cáo vẫn có thể bị truy

tố chừng nào mà đạo luật quy định về tội phạm mà bị cáo phạm phải vẫn còn

hiệu lực.

Vai trò của thẩm phán trong quá trình xét xử, mặc dù rất quan trọng,

nhưng lại là một vai trò tương đối thụ động. Thẩm phán không đưa ra bất kỳ

bằng chứng nào hay chủ động tham gia vào việc thẩm vấn nhân chứng. Thẩm

phán được nhờ tới để giám sát trên cơ sở kiến nghị của công tố và luật sư bào

chữ về loại bằng chứng được đưa ra và loại câu hỏi được dùng để hỏi nhân

33

chứng. Trong một số khu vực tài phán, thẩm phán được phép đặt những câu

hỏi thực chất cho nhân chứng và cũng bình luận trước bồi thẩm đoàn về mức

độ tin cậy của bằng chứng đưa ra; ở những bang khác, thẩm phán bị hạn chế

khỏi những hoạt động đó. Mặc dù vậy, truyền thống pháp lý của Mỹ cũng

dành chỗ cho rất nhiều phong cách xét xử tư pháp tùy theo tư cách cá nhân,

trình độ đào tạo và sự khôn ngoan của từng cá nhân Thẩm phán.

Thẩm phán được kỳ vọng sẽ đóng vai trò một bên tham gia không vụ lợi

mà công việc chủ yếu là bảo đảm rằng cả hai bên được phép trình bày vụ án

của mình càng đầy đủ càng tốt trong phạm vi luật định. Nếu các thẩm phán

không còn dáng vẻ thực hiện nhiệm vụ một cách công bằng và trung lập thì

họ sẽ đi ngược lại với những nguyên lý căn bản của pháp luật Mỹ và phán

quyết của họ có nguy cơ bị tòa phúc thẩm bác bỏ. Thẩm phán phải chỉ dẫn

cho các thành viên bồi thẩm đoàn về ý nghĩa của pháp luật và luật pháp được

áp dụng như thế nào. Thẩm phán nhắc nhở bồi thẩm đoàn: Gánh nặng bằng

chứng là dành cho bang và bị cáo được giả định là vô tội. Nếu sau khi xem

xét tất cả bằng chứng mà bồi thẩm đoàn vẫn có sự nghi ngờ hợp lý đối với tội

danh của bị cáo thì bồi thẩm đoàn phải đưa ra một phán quyết không vô tội.

Thẩm phán giúp các thành viên bồi thẩm đoàn hiểu về thủ tục, làm thế nào để

liên lạc với thẩm phán khi họ có câu hỏi, trật tự mà theo đó họ phải xem xét

lời buộc tội nếu có nhiều hơn một lời buộc tội, ai phải ký những giấy tờ chính

thức thể hiện phán quyết của bồi thẩm đoàn. Sau phiên toà Thẩm phán đưa ra

quyết định hình phạt. Hầu hết ở các bang quyết định hình phạt do Thẩm phán

đưa ra, một số bang thì Thẩm phán cùng Bồi thẩm đoàn quyết định hình phạt.

Sau khi thẩm phán công bố bản án, theo tập quán sẽ có một vài tuần tính từ

lúc bị đơn bị xác minh và tuyên bố là có tội đến khi hình phạt được đưa ra.

Khoảng thời gian này cho phép thẩm phán nghe và xem xét những kiến nghị

sau phiên toà mà luật sư bào chữa có thể nêu ra và cho phép một người quản

chế tiến hành điều tra trước khi kết án.

34

Bồi thẩm đoàn bàn bạc hoàn toàn kín đáo, không một người ngoài nào

được quan sát hay tham gia vào việc bàn bạc này. Trong quá trình bàn bạc,

các thành viên bồi thẩm đoàn có thể yêu cầu làm rõ những câu hỏi pháp lý từ

thẩm phán và họ có thể xem từng bằng chứng hay những phần chọn lọc trong

bản ghi vụ án. Khi đã đạt được một quyết định bằng việc bỏ phiếu của các

thành viên, bồi thẩm đoàn quay lại phòng xử án để công bố phán quyết đó.

Nếu đến chập tối mà không đạt được quyết định thì các thành viên bồi thẩm

đoàn được đưa về nhà với những chỉ dẫn kiên quyết không được trao đổi vụ

án với người khác hay đọc về vụ án trên báo. Trong những vụ án cực kỳ quan

trọng hoặc tai tiếng, bồi thẩm đoàn có thể bị thẩm phán tách riêng ra, nghĩa là

các thành viên của bồi thẩm đoàn sẽ ở một khách sạn địa phương suốt đêm để

tránh sự soi mói của công chúng. Nếu bồi thẩm đoàn bị bế tắc và không thể đi

đến một phán quyết thì có thể báo cáo sự việc lên thẩm phán. Trong trường

hợp như vậy, Thẩm phán có thể yêu cầu Bồi thẩm đoàn vẫn tiếp tục nỗ lực để

đạt được phán quyết. Hoặc nếu bị thuyết phục rằng Bồi thẩm đoàn trên thực tế

bị bế tắc một cách vô vọng, thì Thẩm phán có thể giải tán bồi thẩm đoàn và

triệu tập một phiên toà xét xử mới. Khi những thành viên của Bồi thẩm đoàn

cuối cùng cũng đi đến quyết định, họ quay trở lại phòng xử án và phán quyết

của họ được công bố, công khai thường là do Chủ tịch bồi thẩm đoàn công

bố. Nếu phán quyết của Bồi thẩm đoàn là vô tội thì bị cáo được tuyên bố tha

tại chỗ và được tự do rời khỏi phòng xử án.

Phương thức bầu Thẩm phán: Thẩm phán liên bang do Tổng thống bổ

nhiệm và được Thượng viện bỏ phiếu phê chuẩn, còn lại hầu hết Thẩm phán

các bang đều được bầu. Hệ thống bổ nhiệm này dựa trên niềm tin rằng công

dân có quyền lực chọn Thẩm phán của mình và có thể lựa chọn người khác

trong lần bầu tiếp theo nếu không hài lòng với hiệu quả công tác của những

người này trong nhiệm kỳ của họ. Những người phê phán cơ chế tuyển dụng

35

này cho rằng Thẩm phán được lựa chọn theo hệ thống này khó bảo đảm được

sự độc lập trong xét xử. Việc đứng ra tranh cử và huy động tiền để tranh cử sẽ

biến thẩm phán mang màu sắc chính trị hơn là người giữ cán cân công lý. Một

số bang thường thành lập các Hội đồng, bao gồm đại diện của các nhóm đối

tượng khác nhau như luật sư, luật gia và thường dân và họ sẽ là người trình

Thống độc bang danh sách các luật sư đủ điều kiện. Thống đốc sau đó bổ

nhiệm một người trong số đó làm Thẩm phán và sau một nhiệm kỳ vài năm,

vị thẩm phán này sẽ phải ra “tái cử” không ai có quyền tranh cãi[43].

36

Kết luận chƣơng 1

Trên cơ sở phân tích các thuật ngữ, đặc điểm của người THTT trong Toà

án nhân dân luận văn đã xây dựng khái niệm người THTT trong Toà án nhân

dân.

Từ khái niệm đó luận văn chỉ ra được vị trí, vai trò, quyền hạn nhiệm vụ,

trách nhiệm của người THTT trong Toà án nhân dân. Những yếu tố khách

quan đảm bảo công bằng, công khai minh bạch, không làm oan người vô tội

trong giải quyết vụ án hình sự, thể hiện đúng bản chất của pháp luật và quyền

lực đích thực của Nhà nước.

Bên cạnh những hoạt động tiến hành tố tụng của mình thì người THTT

hình sự trong Toà án nhân dân có mối quan hệ chặt chẽ với cơ quan tiến hành

tố tụng khác và người tiến hành tố tụng khác để đảm bảo việc giải quyết vụ án

được chính xác, kịp thời, nhanh chóng, xử lý công minh mọi hành vi phạm tội

không để lọt tội phạm.

Ngoài ra, nghiên cứu và tham khảo thêm về tố tụng hình sự ở một số

nước trên thế giới với mô hình tố tụng hình sự khác nhau như mô hình thẩm

vấn, mô hình tranh tụng, mô hình pha trộn nhằm tiếp thu, học hỏi về quy định

về người tiến hành tố tụng hình sư khác nhau ở một số nước nhằm hoàn thiện

quy định về người THTT ở Việt Nam.

Như vậy vai trò của người THTT trong Toà án nhân dân có thể được

coi là duy nhất được Nhà nước giao trách nhiệm thực hiện các hành vi tố

tụng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự. Người THTT hình sự trong Toà

án nhân dân nhân danh nhà nước thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy

định của pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Do đó, người

THTT hình sự đóng vai trò quan trọng và giữ vị trí trung tâm trong hoạt

động tố tụng hình sự.

37

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG

HOẠT ĐỘNG CỦA NGƢỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG

TRONG TÒA ÁN NHÂN DÂN

2.1. Thực trạng ngƣời tiến hành tố tụng hình sự trong Tòa án nhân dân

2.1.1. Thực trạng Pháp luật về người tiến hành tố tụng hình sự trong Tòa

án nhân dân

+ Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988

Ra đời chính thức vào ngày 13/09/1946, hệ thống Toà án của nước ta đã

lần lượt trải qua những cải cách về tổ chức và hoạt động. Giai đoạn này chưa

có BLTTHS nhưng có các văn bản như Hiến pháp năm 1946, Sắc lệnh: 33/C

ngày 13/09/1946 của Chủ tịch nước về tổ chức các ngạch thẩm phán, Sắc lệnh

số: 85/SL ngày 22/05/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà,

hiến pháp năm 1959 và luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960; năm 1981.

Quy định về người THTT thực hiện hoạt động xét xử. Pháp luật thời kỳ này

chưa quy định rõ về địa vị pháp lý của những người tiến hành tố tụng trong

Tòa án nhân dân mà thông qua các sắc lệnh được ban hành trên cơ sở Hiến

pháp năm 1946. Người tiến hành tố tụng trong giai đoạn này gồm có: Chánh

án, các viên Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và thư ký giúp việc tại Điều 3

của Sắc lệnh số: 85 ngày 22/05/1950 ghi rõ: “Để xử việc hình và việc hộ, Toà

án nhân dân huyện và Toà án nhân dân tỉnh gồm một Thẩm phán và hai Hội

thẩm nhân dân; Toà phúc thẩm gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân

dân.Hội thẩm nhân dân có quyền xem hồ sơ và biểu quyết”[11](3), (2)Sắc

lệnh số: 51 ngày 24 tháng 01 năm 1946 quy định quyền và nghĩa vụ của

Chánh án “Ông Chánh án chủ toạ những phiên toà công khai và xử những vụ

kiện mà ông đã thụ lý theo luật hiện hành. Ông có nhiệm vụ điều khiển cuộc

38

thẩm vấn và bảo vệ trật tự phiên toà. Ông Chánh án điều khiển và kiểm soát

công việc các thẩm phán xử án và dự thẩm trong toà án. Ông có thể uỷ thác

các ông Thẩm phán xử án một phần những vụ kiện mà ông đã thụ lý. Tuy thế,

các Thẩm phán và dự thẩm được tự do định đoạt trong các việc xét xử thuộc

phạm vi của mình. Ông Chánh án có quyền điều khiển và kiểm soát tất cả

nhân viên khác trong toà án trừ các Thẩm phán buộc tội”, “Ông Chánh án,

nếu cần, có thể mở phiên toà ngoài trụ sở của Toà án, ở các nơi xa cách

toà”[10].

Chánh án TAND tối cao với tư cách là người THTT hình sự có nhiệm vụ

và quyền hạn là: Tổ chức hoạt động xét xử của Toà án nhân dân tối cao; chủ

toạ các cuộc họp của Hội đồng thẩm phán và của Uỷ ban thẩm phán Toà án

nhân dân tối cao; Chủ toạ phiên toà của các Toà chuyên trách và Toà phúc

thẩm Toà án nhân dân tối cao, khi xét thấy cần thiết; kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà

án nhân dân các cấp; Tạm đình chỉ việc thi hành án, nếu xét thấy cần thiết...

Khi xử phải tuyên án tử hình, Chánh án buộc phải báo cho tội nhân biết

rằng hắn có quyền xin ân giảm và hỏi hắn có muốn đệ đơn xin không. Theo

luật Tổ chức Tòa án năm 1981 quy định “Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm

phán của mỗi Toà án nhân dân do cơ quan quyền lực Nhà nước cùng cấp

bầu ra và có thể bị cơ quan này bãi miễn”[17] và quy định về Hội thẩm

nhân dân như sau: “Việc xét xử ở Toà án nhân dân có hội thẩm nhân dân

tham gia, theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang

quyền với thẩm phán.Hội thẩm nhân dân của mỗi Toà án nhân dân do cơ

quan quyền lực Nhà nước cùng cấp bầu ra và có thể bị cơ quan này bãi

miễn”[17]. Chế định về thư ký được quy định mờ nhạt “Ở các Toà án nhân

dân có các thư ký Toà án, và tuỳ theo yêu cầu công tác, có các chuyên viên

pháp lý giúp việc”[17].

39

Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 là bộ luật đầu tiên pháp điển hóa các

quy định của pháp luật trước đó về trình tự, thủ tục tố tụng đối với việc giải

quyết vụ án hình sự, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến

hành tố tụng. Nguyên tắc hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân được quy

định như: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật, Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật”[24]. Bộ luật này không quy định cụ thể nhiệm vụ quyền

hạn của người tiến hành tố tụng trong TAND nhưng qua những quy định

chung cũng có thể thấy được nhiệm vụ của họ trong hoạt động tiến hành tố

tụng hình sự. Chánh án có quyền quyết định cử thành viên mới của Hội đồng

xét xử; có quyền quyết định cử thư ký khác tham gia Hội đồng xét xử.

Đối với Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, thư ký tòa án bộ luật cũng quy

định về hoạt động của họ từ quá trình chuẩn bị xét xử và khi xét xử vụ án hình

sự. Trong toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự thì người THTT luôn đóng vai trò

trung tâm. Việc đảm bảo được sự công bằng, khách quan, sự thật cho một vụ án

hình sự phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng hoạt động tố tụng của họ. Giai đoạn

chuẩn bị xét xử, Thẩm phán có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ để xem xét các vấn

đề cần chứng minh trong vụ án, định tội danh đối với bị cáo. Thẩm phán ra quyết

định đưa vụ án ra xét xử, trích xuất bị cáo. Giai đoạn này có thể trả hồ sơ điều tra

bổ sung hoặc thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo. Thẩm phán, Hội thẩm

nhân dân, Thư ký phiên toà cần bảo đảm sự khách quan của phiên toà, họ phải từ

chối nếu thuộc Điều 28, Điều 30 của BLTTHS năm 1988. Việc xét xử phải đảm

bảo sự tham gia của Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm nhân dân ngang quyền với

Thẩm phán khi xét xử. Chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi đến các Hội thẩm nhân

dân, sau đó đến kiểm sát viên, người bào chữa [12, Điều 21, khoản 2]. BLTTHS

chưa quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm của người THTT hình

sự trong TAND. Bộ luật này không quy định rõ người THTT là Chánh án, Phó

40

chánh án. Nhiệm vụ của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký không quy

định cụ thể trong bộ luật TTHS năm 1988. Tuy nhiên vai trò của người

THTThình sự trong TAND rất quan trọng, trong toàn bộ hoạt động tố tụng luôn

giữ vai trò trung tâm trong hoạt động xét xử.

+ Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2003

Hiến pháp năm 1980 và BLTTHS năm 1988 đều ghi nhận các nguyên

tắc: Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, khi xét xử Hội

thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán; Thẩm phán và Hội thẩm nhân

dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. BLTTHS năm 2003 trên cơ sở kế thừa

BLTTHS năm 1988, đồng thời cũng có một số thay đổi, xác định rõ chức

năng nhiệm vụ của những người tiến hành tố tụng, quy định chặt chẽ, cụ thể

hơn về quyền hạn, trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng. Sửa đổi

các trình tự, thủ tục tố tụng cụ thể, rõ ràng, có tính khả thi hơn, đề cao tính

tranh tụng hơn. Thành phần HĐXX và các nguyên tắc hoạt động của HĐXX

cơ bản được giữ nguyên theo quy định của BLTTHS năm 1988.

Chánh án, Phó chánh án là người tiến hành tố tụng hình sự theo quy định

của BLTTHS năm 2003. Quy định của bộ luật tố tụng hình sự thì Chánh án:

Tổ chức công tác xét xử của Toà án; Quyết định phân công Phó Chánh án,

Thẩm phán, Hội thẩm giải quyết, xét xử vụ án hình sự; quyết định phân công

Thư ký toà án tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự; Quyết định thay đổi

Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án trước khi mở phiên toà [12, Điều 38,

khoản 1].

Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ án hình sự có nhiệm vụ

nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên toà và quyết định một loạt các

công việc về thủ tục cũng như nội dung để chuẩn bị mở phiên toà, định hướng

xét hỏi điều tra thêm hoặc định hướng giải quyết vụ án đúng pháp luật.

41

Hội thẩm nhân dân được phân công xét xử vụ án hình sự có những

nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên

toà.....[12, Điều 40, khoản 1] và việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm

nhân dân [12, Điều 15]. Việc nghiên cứu trước hồ sơ vụ án sẽ giúp cho việc

xét xử phiên toà được diễn ra thuận lợi, đúng quy định của pháp luật.

Thư ký Toà án giúp việc cho Chánh án, Phó chánh án, Thẩm phán trong

hoạt động tố tụng hình sự. Thư ký được phân công tiến hành tố tụng vụ án

hình sự thì phải chuẩn bị cho việc xét xử vụ án hình sự và chuẩn bị các nghiệp

vụ cần thiết trước khi mở phiên toà như tống đạt văn bản tố tụng, nhận, sắp

xếp, chuyển hồ sơ vụ án. Tại phiên toà thì kiểm tra sự có mặt, vắng mặt của

danh sách những người được triệu tập tới phiên toà, ghi chép toàn bộ diễn

biến của phiên toà. Công việc sau phiên toà của thư ký toà án là thực hiện

việc giao, niêm yết bản án theo quy định của pháp luật, sắp xếp lại hồ sơ của

vụ án, nếu có kháng cáo chuyển hồ sơ lên toà án cấp phúc thẩm, nếu không có

kháng cáo thì chuyển vào bộ phận lưu trữ hồ sơ.

+ Giai đoạn từ năm 2003 đến trước năm 2015

Ngoài các nội dung nêu trên, trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm

2014 còn có các quy định cụ thể về các chức danh Thư ký Tòa án, Thẩm tra

viên; quy định về bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân và hiệu lực thi

hành của Luật tổ chức Tòa án nhân dân. Tại khoản 1, Điều 92 Luật tổ chức

Tòa án nhân dân năm 2014. Bên cạnh đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

cũng đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cụ thể của những

người tiến hành tố tụng nói chung và trong cơ quan Tòa án rất chi tiết tại Điều

38, 39, 40, 41 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 Bộ luật ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu

xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và thực hiện

chủ trương cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác điều tra,

42

truy tố, xét xử và bảo đảm quyền con người. Tăng thẩm quyền cho Thẩm phán:

Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện biện pháp cưỡng chế; Quyết

định trưng cầu giám định, giám định bổ sung hoặc giám định lại, thực nghiệm

điều tra; thay đổi hoặc yêu cầu thay đổi người giám định; yêu cầu định giá tài

sản, yêu cầu thay đổi người định giá tài sản; Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi

người bào chữa; thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; Yêu cầu

cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; Quyết định việc thu thập, bổ

sung chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử (Điều 45).

Mở rộng diện người tiến hành tố tụng (các điều 43 và 48): Bổ sung diện

người tiến hành tố tụng gồm: Kiểm tra viên, Thẩm tra viên.. và quy định rõ

nhiệm vụ của họ khi được phân công giúp việc cho Chánh án Tòa án.

+ Giai đoạn từ năm 2015 cho đến nay

Ngoài những quyền hạn kế thừa của BLTTHS năm 2003 thì BLTTHS

năm 2015 có những điểm mới về người tiến hành tố tụng trong Tòa án nhân

dân như sau:

Theo quy định tại Điều 44, BLTTHS năm 2015 thì Chánh án, Phó Chánh

án Tòa án có những nhiệm vụ và quyền hạn được bổ sung như sau: Trực tiếp

tổ chức việc xét xử vụ án hình sự; quyết định giải quyết tranh chấp về thẩm

quyền xét xử; Quyết định phân công Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội

thẩm giải quyết, xét xử vụ án hình sự; quyết định phân công Thư ký Tòa án

tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự; quyết định phân công Thẩm tra viên

thẩm tra hồ sơ vụ án hình sự;

Khi vắng mặt, Chánh án Tòa án ủy quyền cho một Phó Chánh án Tòa án

thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án. Phó Chánh án Tòa án phải chịu

trách nhiệm trước Chánh án Tòa án về nhiệm vụ được ủy quyền.

Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam, xử lý vật

chứng; Quyết định áp dụng, đình chỉ biện pháp bắt buộc chữa bệnh; Quyết

43

định áp dụng thủ tục rút gọn hoặc hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn;

Kiến nghị, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Bản án, Quyết định đã có

hiệu lực pháp luật của Tòa án; Tiến hành hoạt động tố tụng khác theo quy

định của Bộ luật này.

Phó Chánh án Tòa án không được giải quyết khiếu nại, tố cáo về hành

vi, quyết định của mình. Chánh án, Phó Chánh án Tòa án phải chịu trách

nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình. Chánh án, Phó Chánh

án Tòa án không được ủy quyền cho Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ, quyền

hạn của mình.

Tại Điều 45 quy định Thẩm phán là người tiến hành xét xử vụ án. Quyết

định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trừ

biện pháp tạm giam. Điều hành việc xét xử vụ án, tranh tụng tại phiên tòa;

Quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung hoặc giám định lại, thực

nghiệm điều tra; thay đổi hoặc yêu cầu thay đổi người giám định; yêu cầu

định giá tài sản, yêu cầu thay đổi người định giá tài sản; Yêu cầu hoặc đề nghị

cử, thay đổi người bào chữa; thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi

phạm tội; yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; Thực hiện

nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự phân

công của Chánh án Tòa án theo quy định của Bộ luật này.

Hội thẩm nhân dân được quy định tại Điều 46 có ghi Hội thẩm được

phân công xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

Thư ký Tòa án được quy định tại Điều 47: Thư ký Tòa án được phân

công tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự có nhiệm vụ, quyền hạn sau:

Kiểm tra sự có mặt của những người được Tòa án triệu tập; nếu có người

vắng mặt thì phải nêu lý do. Báo cáo Hội đồng xét xử danh sách những người

được triệu tập đến phiên tòa và những người vắng mặt; Trường hợp Thư ký

Toà án bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên toà thì Toà án vẫn

44

có thể xét xử vụ án nếu có Thư ký Toà án dự khuyết; Nếu không có người

thay thế thì tạm ngừng phiên toà.

Tại phiên toà, nếu có trường hợp phải hoãn phiên toà theo quy định của

Điều 194 BLTTHS thì Thư ký giúp HĐXX soạn thảo Quyết định hoãn phiên

toà. Trường hợp HĐXX ra một trong các Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ

sung, tạm đình chỉ vụ án, đình chỉ vụ án thì Thư ký cần chuẩn bị giúp HĐXX

soạn thảo quyết định. Sau khi nghị án, khi HĐXX tuyên án, Thư ký yêu cầu

mọi người trong phòng xử án đứng dậy.

Công việc sau phiên toà của Thư ký Toà án: Đánh máy các bản án theo

mẫu, thực hiện việc giao, gửi hoặc niêm yết bản án theo quy định. Giúp Thẩm

phán cấp trích lục bản án hoặc bản sao bản án, cấp tống đạt bản án, sắp xếp lại

hồ sơ vụ án, nếu hồ sơ vụ án có kháng cáo, kháng nghị thì chuyển lên cho Toà

án nhân dân cấp phúc thẩm; nếu hồ sơ vụ án không có kháng cáo, kháng nghị

hoặc kháng cáo quá hạn không được chấp nhận thì chuyển cho bộ phận lưu trữ.

Tại phiên toà cấp phúc thẩm Thư ký phải có mặt tại phiên toà từ khi bắt

đầu đến khi kết thúc. Trường hợp Thư ký Toà án bị thay đổi hoặc không thể

tiếp tục tham gia phiên toà thì Toà án vẫn có thể xét xử vụ án nếu có Thư ký

Toà án dự khuyết; Nếu không có người thay thế thì phải tạm ngừng phiên toà.

Thẩm tra viên có nhiệm vụ và quyền hạn sau: Thẩm tra hồ sơ vụ án mà

bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo sự phân công của

Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án; Kết luận việc thẩm tra và báo cáo kết

quả thẩm tra với Chánh án Tòa án hoặc Phó Chánh án Tòa án; Thẩm tra viên

giúp Chánh án Tòa án thực hiện nhiệm vụ về công tác thi hành án thuộc thẩm

quyền của Tòa án và nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án

hoặc Phó Chánh án Tòa án. Thẩm tra viên phải chịu trách nhiệm trước pháp

luật và trước Chánh án, Phó Chánh án Tòa án về hành vi của mình theo Điều

48 BLTTHS năm 2015.

45

Khi Viện kiểm sát giao bản cáo trạng, hồ sơ vụ án và vật chứng kèm

theo. Tòa án phải kiểm tra và xử lý: Trường hợp tài liệu trong hồ sơ vụ án, vật

chứng kèm theo đã đầy đủ so với bảng kê tài liệu, vật chứng và bản cáo trạng

đã được giao cho bị cáo hoặc người đại diện của bị can thì nhận hồ sơ vụ án;

Trường hợp tài liệu trong hồ sơ vụ án, vật chứng kèm theo không đủ so với

bảng kê tài liệu, vật chứng hoặc bản cáo trạng chưa được giao cho bị can hoặc

người đại diện của bị can thì chưa nhận hồ sơ vụ án và yêu cầu Viện kiểm sát

bổ sung tài liệu, vật chứng; yêu cầu giao bản cáo trạng cho bị can hoặc người

đại diện của bị can. Việc giao hồ sơ vụ án và bản cáo trạng được lập biên bản

theo quy định của Điều 133 của BLTTHS và được đưa vào hồ sơ vụ án. Ngay

sau khi nhận hồ sơ vụ án kèm theo bản cáo trạng thì Tòa án phải thụ lý vụ án.

Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án phải phân

công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa giải quyết vụ án. Trong thời hạn theo quy

định tại Điều 277 BLTTHS thì Thẩm phán chủ toạ phiên toà phải ra một trong

các quyết định sau: a) Đưa vụ án ra xét xử; b) Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ

sung; c) Tạm đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ vụ án. Đối với vụ án phức tạp thì

Chánh án toà án có thể gia hạn thời gian chuẩn bị xét xử theo quy định tại

điểm c, khoản 1, Điều 277 BLTTHS. Đối với vụ án được trả lại để yêu cầu

điều tra bổ sung thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ, Thẩm

phán chủ toạ phiên toà phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trường hợp

phục hồi vụ án thì thời gian chuẩn bị xét xử theo thủ tục chung quy định tại

Bộ luật này kể từ ngày Toà án ra quyết định phục hồi vụ án. Trong thời gian

15 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên

họp; trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Toà

án có thể mở phiên toà trong thời hạn 30 ngày. Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm

phán chủ toạ phiên toà quyết định việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp

ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trừ việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp

46

tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Toà án quyết định. Thời hạn tạm giam

để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại

khoản 1, Điều 277 BLTTHS. Đối với bị cáo bị tạm giam mà đến ngày mở

phiên toà thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để

hoàn thành việc xét xử thì Hội đồng xét xử ra lệnh tạm giam cho đến khi kết

thúc phiên toà.

Trước khi mở phiên toà, Thẩm phán chủ toạ phiên toà phải giải quyết

các yêu cầu, đề nghị: a) Yêu cầu của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng về

việc cung cấp, bổ sung chứng cứ; triệu tập người làm chứng, người có thẩm

quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác đến phiên toà; về việc

thay đổi thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án; b) Đề nghị của bị cáo

hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa về việc thay đổi, huỷ bỏ biện

pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; c) Đề nghị của Kiểm sát viên, người

tham gia tố tụng về việc xét xử theo thủ tục rút gọn, xét xử công khai hoặc xét

xử kín; d) Đề nghị của người tham gia tố tụng về việc vắng mặt tại phiên toà.

Nếu xét thấy yêu cầu, đề nghị có căn cứ thì Thẩm phán chủ toạ phiên toà giải

quyết theo thẩm quyền hoặc thông báo cho người có thẩm quyền giải quyết

theo quy định của Bộ luật này và thông báo cho người đã yêu cầu, đề nghị

biết; nếu không chấp nhận thì thông báo cho họ bằng văn bản nêu rõ lý do.

Thẩm phán chủ toạ phiên toà ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát

để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp: a) Khi thiếu chứng cứ

để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này

mà không thể bổ sung tại phiên toà được; b) Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi

mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật

hình sự quy định là tội phạm; c) Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác

hoặc có người khác thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm liên

quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can; d) Việc khởi

47

tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng. Trường hợp Viện

kiểm sát phát hiện có căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát có

văn bản đề nghị Toà án trả hồ sơ. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung

phải ghi rõ những vấn đề cần điều tra bổ sung và gửi cho Viện kiểm sát kèm

theo hồ sơ vụ án trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định. Nếu kết quả

điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án và thông báo cho Toà án biết

trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định. Nếu kết quả điều tra bổ sung

dẫn tới phải thay đổi quyết định truy tố thì Viện kiểm sát ban hành bản cáo

trạng mới thay thế bản cáo trạng trước đó. Trường hợp Viện kiểm sát không

bổ sung được những vấn đề mà Toà án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định

truy tố thì Toà án tiến hành xét xử vụ án.

Thẩm phán chủ toạ phiên toà ra quyết định tạm đình chỉ vụ án khi thuộc

một trong các trường hợp sau: a) Có căn cứ quy định tại điểm b và điểm c,

khoản 1, Điều 229 của BLTTHS; b) Không biết rõ bị can, bị cáo đang ở đâu

mà đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử; trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan

điều tra ra quyết định truy nã bị can, bị cáo trước khi tạm đình chỉ vụ án. Việc

truy nã bị can, bị cáo được thực hiện theo quy định tại Điều 231 của

BLTTHS; c) Chờ kết quả xử lý văn bản pháp luật mà Toà án kiến nghị. Quyết

định tạm đình chỉ vụ án phải ghi rõ lý do tạm đình chỉ và các nội dung quy

định tại khoản 2, Điều 132 của BLTTHS.

Thẩm phán chủ toạ phiên toà ra quyết định đình chỉ vụ án thuộc các

trường hợp sau: a) Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2, Điều 155

hoặc các điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 157 của BLTTHS. Quyết định đình chỉ

phải ghi rõ lý do đình chỉ và các nội dung quy định tại khoản 2, Điều 132 của

BLTTHS.

Khi có lý do để huỷ bỏ quyết định tạm đình chỉ vụ án hoặc có lý do để

huỷ bỏ quyết định đình chỉ vụ án nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm

48

hình sự thì Thẩm phán đã ra quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ

án ra quyết định phục hồi vụ án. Trường hợp Thẩm phán đã ra quyết định tạm

đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án không thể thực hiện được thì Chánh án ra

quyết định phục hồi. Trường hợp tạm đình chỉ, đình chỉ đối với từng bị can, bị

cáo thì ra quyết định phục hồi vụ án đối với từng bị can, bị cáo thì ra quyết

định phục hồi vụ án đối với từng bị can, bị cáo. Quyết định phục hồi vụ án

phải ghi rõ lý do phục hồi vụ án và các nội dung quy định tại khoản 2, Điều

132 của BLTTHS. Khi phục hồi vụ án, Toà án có quyền áp dụng, thay đổi,

huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của

BLTTHS. Thời hạn tạm giam để phục hồi vụ án không được quá thời hạn

chuẩn bị xét xử.

Khi xét thấy cần bổ sung tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết

vụ án mà không phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Thẩm phán chủ toạ

phiên toà yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung. Việc yêu cầu trên phải được thực

hiện bằng văn bản, nêu rõ tài liệu, chứng cứ cần bổ sung và gửi cho Viện

kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra văn bản yêu cầu.

Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của Toà án, Viện

kiểm sát gửi cho Toà án tài liệu, chứng cứ được yêu cầu bổ sung. Trường

hợp Viện kiểm sát không bổ sung được tài liệu, chứng cứ thì Toà án tiến hành

xét xử vụ án.

Phiên toà chỉ được tiến hành khi có đủ thành viên Hội đồng xét xử và

Thư ký Toà án. Các thành viên Hội đồng xét xử phải xét xử vụ án từ khi bắt

đầu cho đến khi kết thúc. Trường hợp có Thẩm phán, Hội thẩm không tiếp tục

tham gia xét xử vụ án những có Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết tham gia

phiên toà từ đầu thì những người này được thay thế làm thành viên Hội đồng

xét xử. Trường hợp Hội đồng xét xử có hai Thẩm phán mà Thẩm phán chủ

toạ phiên toà không tiếp tục tham gia xét xử được thì Thẩm phán là thành viên

49

Hội đồng xét xử làm chủ toạ phiên toà và Thẩm phán dự khuyết được bổ sung

làm thành viên Hội đồng xét xử. Trường hợp không có Thẩm phán, Hội thẩm

dự khuyết để thay thế hoặc phải thay đổi chủ toạ phiên toà mà không có thẩm

phán để thay đổi thì phải hoãn phiên toà.

Quyết định hoãn phiên toà phải được chủ toạ phiên toà thay mặt Hội

đồng xét xử ký tên. Trường hợp chủ toạ phiên toà vắng mặt hoặc bị thay đổi

thì Chánh án Toà án ra quyết định hoãn phiên toà và phải được gửi ngay cho

Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên

toà trong thời gian 2 ngày.

Chủ toạ phiên toà khai mạc phiên toà và đọc quyết định đưa vụ án ra xét

xử. Thư ký báo cáo sự có mặt, vắng mặt của những người được Toà án triệu

tập và lý do vắng mặt. Chủ toạ phiên toà kiểm tra lại sự có mặt của những

người có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án và kiểm tra lý lịch,

phổ biến quyền và nghĩa vụ của họ.

Tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ những

tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người. Chủ toạ phiên toà

điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý.

Khi xét hỏi từng người thì chủ toạ phiên toà là người hỏi trước sau đó quyết

định để Thẩm phán, Hội thẩm và Kiểm sát viên…..Chủ toạ phiên toà phải

quyết định hỏi riêng từng bị cáo. Nếu lời khai của bị cáo này có ảnh hưởng

đến lời khai của bị cáo khác thì chủ toạ phiên toà phải cách ly họ. Sau khi hỏi

bị cáo thì chủ toạ phiên toà hỏi lần lượt các bị cáo khác và những người tham

gia tố tụng khác. Khi được chủ toạ phiên toà đồng ý, bị cáo có thể hỏi người

làm chứng về các vấn đề liên quan đến bị cáo. Hội đồng xét xử quyết định

việc cho nghe, xem nội dung được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh liên

quan đến việc cần kiểm tra chứng cứ, đồ vật liên quan đến vụ án hoặc bị cáo

tố cáo bị bức cung, dùng nhục hình.

50

Nếu không có yêu cầu xét hỏi thì Chủ toạ phiên toà tuyên bố kết thúc

việc xét hỏi. Nếu có người yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là cần thiết thì chủ

toạ phiên toà quyết định tiếp tục việc xét hỏi chuyển sang phần tranh luận.

Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát công bố bản luận tội thì Chủ toạ phiên

toà không được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện để Kiểm sát

viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tranh luận trình bày hết ý

kiến nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án và ý kiến

lặp lại. Chủ toạ yêu cầu Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến của người

bào chữa, người tham gia tố tụng khác. Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi

nhận đầy đủ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia

tranh luận khác tại phiên toà để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ

án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia phiên toà

thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án. Nếu qua tranh

luận mà thấy còn có tình tiết vụ án chưa được hỏi, chưa được làm sáng tỏ thì

Hội đồng xét xử phải quyết định trở lại việc xét hỏi. Xét hỏi xong phải tiếp

tục tranh luận.

Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án. Việc nghị án phải

được tiến hành tại phòng nghị án. Chủ toạ phiên toà chủ trì việc nghị án có

trách nhiệm đưa ra từng vấn đề của vụ án phải được giải quyết để Hội đồng

xét xử thảo luận, quyết định. Chủ toạ phiên toà tự mình hoặc phân công một

thành viên Hội đồng xét xử ghi biên bản nghị án. Các thành viên phải giải

quyết các vấn đề theo đa số về từng vấn đề. Hội thẩm biểu quyết trước, Thẩm

phán biểu quyết sau cùng. Nếu không có ý kiến nào chiếm đa số thì phải thảo

luận và biểu quyết lại từng ý kiến của các thành viên Hội đồng xét xử đã đưa

ra để xác định ý kiến chiếm đa số. Việc nghị án chỉ được căn cứ vào những

chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ,

toàn diện chứng cứ của vụ án, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, và người tham

51

gia tố tụng khác. Nghị án từng trường hợp một, nếu vụ án có nhiều tình tiết

phức tạp thì Hội đồng xét xử có thể quyết định kéo dài thời gian nghị án

nhưng không quá 7 ngày kể từ ngày kết thúc tranh luận tại phiên toà. Hội

đồng xét xử phải thông báo cho những người có mặt tại phiên toà và người

tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên toà biết giờ, ngày, tháng, năm và địa điểm

tuyên án. Hội đồng xét xử phải quyết định một trong các vấn đề sau: a) Ra

bản án và tuyên án; b) Trở lại việc xét hỏi và tranh luận nếu có tình tiết vụ án

chưa được xét hỏi, chưa được làm sáng tỏ; c) Trả lại hồ sơ vụ án để Viện

kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ;

d) Tạm đình chỉ vụ án; Hội đồng xét xử phải thông báo cho những người có

mặt tại phiên toà và người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên toà về các

quyết định tại điểm c, d Điều 326 BLTTHS.

Chủ toạ phiên toà hoặc một thành viên khác của Hội đồng xét xử đọc

bản án. Trường hợp xét xử kín thì chỉ đọc phần quyết định trong bản án. Bản

án, quyết định bị kháng cáo, sau khi kiểm tra tính hợp lệ của bản án kháng cáo

quá hạn trong thời hạn 3 ngày Toà án cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo,

bản tường trình của người kháng cáo kèm theo chứng cứ, tài liệu cho Toà án

cấp phúc thẩm. Trong thời hạn 10 ngày nhận đơn kháng cáo quá hạn và chứng

cứ đồ vật. Toà án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng gồm ba Thẩm phán để

xem xét kháng cáo quá hạn. Hội đồng xét kháng cáo quá hạn có quyền ra

quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng cáo quá hạn và phải ghi rõ

lý do của việc chấp nhận hoặc không chấp nhận quyết định. Việc xét trên phải

có sự tham gia của Kiểm sát viên và Quyết định của Hội đồng xét kháng cáo

quá hạn được gửi cho người kháng cáo quá hạn, Toà án cấp sơ thẩm và Viện

kiểm sát cùng cấp với Toà án cấp phúc thẩm. Trường hợp Toà án cấp phúc

thẩm chấp nhận kháng cáo quá hạn thì Toà án cấp sơ thẩm phải tiến hành các

thủ tục gửi hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm.

52

Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết

định của Toà án nhân dân cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị. Toà án cấp

cao có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Toà án nhân dân

cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng cáo, kháng nghị.

Toà án cấp phúc thẩm xem xét phần nội dung của bản án, quyết định bị kháng

cáo, kháng nghị.

Phiên toà chỉ được tiến hành khi có đủ thành viên Hội đồng xét xử và

thư ký Toà án. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải xét xử vụ án từ khi

bắt đầu cho đến khi kết thúc phiên toà. Trường hợp Thẩm phán không tiếp tục

tham gia xét xử vụ án nhưng có Thẩm phán dự khuyết tham gia phiên toà từ

đầu thì những người này được thay thế làm thành viên Hội đồng xét xử.

Trường hợp Thẩm phán chủ toạ phiên toà không tiếp tục tham gia xét xử

được thì Thẩm phán là thành viên Hội đồng xét xử làm chủ toạ phiên toà và

Thẩm phán dự khuyết được bổ sung làm thành viên Hội đồng xét xử. Trường

hợp không có Thẩm phán dự khuyết hoặc phải thay đổi chủ toạ phiên toà mà

không có Thẩm phán để thay thế thì phải hoãn phiên toà. Hoãn phiên toà khi

cần xác minh thu thập bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực

hiện ngay tại phiên toà. Trường hợp hoãn phiên toà thì vụ án phải được xét xử

lại từ đầu.

Thủ tục bắt đầu phiên toà và thủ tục tranh tụng tại phiên toà phúc thẩm

được tiến hành như phiên toà sơ thẩm nhưng trước khi xét hỏi, một thành

viên của Hội đồng xét xử trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của

bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo, kháng nghị. Chủ toạ phiên toà hỏi

người kháng cáo có thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo hay không; nếu có thì

chủ toạ phiên toà yêu cầu Kiểm sát viên trình bày ý kiến về việc thay đổi, bổ

sung, rút kháng cáo. Chủ toạ phiên toà hỏi Kiểm sát viên có thay đổi, bổ

sung, rút kháng nghị hay không; nếu có thì chủ toạ phiên toà yêu cầu bị cáo

53

và những người liên quan đến kháng nghị trình bày ý kiến về việc thay đổi,

bổ sung, rút kháng nghị. Khi tranh tụng tại phiên toà, Kiểm sát viên, người

khác liên quan đến kháng cáo, kháng nghị phát biểu ý kiến về nội dung

kháng cáo, kháng nghị.

Hội đồng xét xử có quyền: Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và

giữ nguyên bản án sơ thẩm khi xét thấy các quyết định của bản án sơ thẩm

có căn cứ và đúng pháp luật; Khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã

tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân

thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền

sửa bản án sơ thẩm như không áp dụng hình phạt bổ sung; không áp dụng

biện pháp tư pháp; giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án

treo. Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc bị hại kháng cáo yêu cầu

thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể áp dụng hình phạt bổ sung; áp dụng

biện pháp tư pháp, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nặng hơn; Không

cho bị cáo hưởng án treo. Nếu có căn cứ thì Hội đồng xét xử vẫn có thể giảm

hình phạt, có thể sửa bản án sơ thẩm theo khoản 1, Điều 357 cho bị cáo

không bị kháng cáo, kháng nghị.

Hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại trong các

trường hợp: a) Có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm

tội hoặc để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm;

b) Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ

sung được; c) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều

tra, truy tố.

Hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ

thẩm với thành phần Hội đồng xét xử mới trong các trường hợp: a) Hội đồng

xét xử sơ thẩm không đúng thành phần mà Bộ luật ngày quy định; b) Có vi

phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm; c) Người

54

được Toà án cấp sơ thẩm tuyên không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người

đó đã phạm tội; d) Miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc áp dụng

biện pháp tư pháp đối với bị cáo không có căn cứ; đ) Bản án sơ thẩm có sai

lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nhưng không thuộc trường

hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án theo quy định tại Điều 357 của

BLTTHS. Khi huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại, Hội đồng

xét xử phúc thẩm phải ghi rõ lý do của việc huỷ bản án sơ thẩm. Hội đồng xét

xử phúc thẩm không quyết định trước những chứng cứ mà Toà án cấp sơ

thẩm cần phải chấp nhận hoặc cần phải bác bỏ, không quyết định trước về

điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự cần áp dụng và hình phạt đối với bị

cáo. Sau khi bị huỷ bản án sơ thẩm để xét xử lại thì Toà án cấp sơ thẩm có

thẩm quyền tiến hành xét xử lại vụ án theo thủ tục chung.

Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền không chấp nhận kháng cáo, kháng

nghị và giữ nguyên quyết định của Toà án cấp sơ thẩm khi xét thấy các quyết

định của Toà án cấp sơ thẩm có căn cứ và đúng pháp luật; sửa quyết định của

Toà án cấp sơ thẩm; Huỷ quyết định của Toà án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ

vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm để tiếp tục giải quyết vụ án.

2.1.2. Thực trạng ngƣời tiến hành tố tụng trong Tòa án nhân dân trên địa

bàn thành phố Hà Nội hiện nay

2.1.2.1. Số lượng, chất lượng của đội ngũ người tiến hành tố tụng trong

Toà án nhân dân

a, Số lượng Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Toà án

Tổng số cán bộ, công chức Toà án nhân dân thành phố Hà Nội hiện nay

(thống kê đến ngày 30/03/2019) có 738 người. Trong đó:

+ Về chức danh: Thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hà Nội có: 67

Thẩm phán, 316 Thẩm phán các quận, huyện (chiếm 51,8%).

55

Thư ký toà án, Thẩm tra viên Toà án nhân dân thành phố Hà Nội 80

người, huyện: 275 Thẩm tra viên, Thư ký toà án (chiếm 48,1%).

+ Về giới tính: Nam là: 347 người, nữ là: 391 người (chiếm 52,9%).

Bảng 2.1. Số lượng Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký

Đơn vị tính: Người

Thẩm phán Thƣ ký, Thẩm tra viên Ghi STT Giới tính Giới tính Số Số chú Đơn vị Đơn vị lƣợng lƣợng Nam Nữ Nam Nữ

Toà án Toà án 1 67 32 35 80 37 53 cấp tỉnh cấp tỉnh

Toà án Toà án

2 cấp cấp 316 157 169 275 121 134 huyện huyện

Tổng 383 189 204 355 158 187

(Nguồn: Toà án nhân dân thành phố Hà Nội)

b, Chất lượng Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Toà án

Toà án nhân dân thành phố Hà Nội có 4 người có trình độ tiến sỹ.

Trong đó Toà án nhân dân thành phố Hà Nội là 01 người, Toà án cấp quận,

huyện là: 03 người (chiếm 0,54%).

Trình độ thạc sỹ có: 110 người. Trong đó Toà án nhân dân thành phố

Hà Nội có 47 người, Toà án cấp quận, huyện: 63 người (chiếm 14,9%).

Trình độ cử nhân: 619 người (chiếm 83,8 %), 5 người có trình độ cao

đẳng (chiếm 0,67%).

56

Bảng 2.2. Chất lượng Thẩm phán Toà án

Đơn vị tính: Người

STT Đơn vị Cao đẳng Cử nhân Thạc sỹ Tiến sỹ

1 Thẩm phán cấp 5 552 63 3 huyện

2 0 67 47 1 Thẩm phán cấp tỉnh

Tổng 5 619 110 4

(Nguồn: Toà án nhân dân thành phố Hà Nội)

Thực hiện Quyết định số: 46/2003/QĐ-TCCB ngày 02/04/2003 của

Chánh án Toà án nhân dân tối cao về việc ban hành Quy chế làm việc của Hội

đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, Thẩm phán toà án

nhân dân cấp huyện, Thẩm phán Toà án quân sự cấp quân khu và khu vực,

các Hội đồng tuyển chọn đã làm việc nghiêm túc để tuyển chọn bổ nhiệm mới

hoặc tái bổ nhiệm Thẩm phán đối với Toà án địa phương, Toà án quân sự cấp

quân khu và khu vực. Quy trình bổ nhiệm tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân

dân các cấp nhìn chung quá chặt chẽ nhất là đối với các trường hợp tái bổ

nhiệm. Do đó việc bổ nhiệm mới hoặc tái nhiệm Thẩm phán còn chậm chạp,

nhiều Toà án thiếu Thẩm phán do phải chờ tái bổ nhiệm hoặc bổ nhiệm mới

và thời gian chờ đợi kéo dài nhiều tháng, thậm chí một số trường hợp có vấn

đề về chất lượng xét xử phải chờ đợi hàng năm không tái bổ nhiệm.

Trong những năm qua đã có 85% số Thẩm phán được tái bổ nhiệm làm

Thẩm phán nhiệm kỳ tiếp theo, nhiều trường hợp được tái bổ nhiệm đến

nhiệm kỳ thứ 3. Đây là những Thẩm phán có bề dày kinh nghiệm công tác và

có phẩm chất đạo đức tốt.

Theo quy định tại Điều 74, Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014, thì

nhiệm kỳ đầu của các Thẩm phán là 5 năm, trường hợp được bổ nhiệm lại

hoặc được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10

57

năm. Đây là một quy định mới, tiến bộ và giảm áp lực, giảm các chi phí về

thời gian, nhân lực, vật lực đối với việc bổ nhiệm Thẩm phán 5 năm/nhiệm kỳ

như trước đây.

Đội ngũ Thư ký Toà án và Thẩm tra viên trong những năm gần đây ngày

càng trưởng thành, gắn bó với nghề nghiệp, trung thành với Đảng, tận tâm,

tận tuỵ phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Hầu hết các Thẩm tra viên là

các cán bộ, Thư ký Toà án đã công tác trong Toà án nhiều năm, có bề dày

kinh nghiệm và hầu hết đều là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.

Đội ngũ Thư ký trong khoảng 5 năm trở lại đây đều là những người đã

được đào tạo qua đại học chính quy, đủ tiêu chuẩn tuyển chọn vào làm việc

tại các Toà án và được đào tạo về nghiệp vụ Thư ký Toà án. Đây là đội ngũ

cán bộ trẻ, đều là đoàn viên Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, là quần

chúng ưu tú của Đảng, lớp cán bộ trẻ này có hoài bão, có chí tiến thủ, ham

học hỏi, có thế mạnh trong việc áp dụng khoa học công nghệ thông tin và

ngoại ngữ. Tuy nhiên chưa có kinh nghiệm và bề dày công tác.

Một số cán bộ được tuyển dụng vào Toà án làm Thư ký Toà án, nhưng

trước áp lực công việc quá căng thẳng, chế độ đãi ngộ và tiền lương quá thấp

nên đã xin thôi việc. Một số Thư ký không chịu rèn luyện, tu dưỡng đã sa ngã,

vi phạm kỷ luật, thậm chí có một số phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và đã

bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Trước khi có Luật tổ chức Toà án năm 2014, việc tuyển chọn sinh viên

tốt nghiệp vào Toà án làm việc họ đương nhiên được giao làm Thư ký Toà án,

nếu không phát triển được thì đến khi nghỉ hưu cũng vẫn là Thư ký Toà án, do

không có ngạch Thư ký Toà án. Thẩm tra viên thường phát triển từ các Thư

ký Toà án. Các Thẩm tra viên được các Toà án giao nhiệm vụ làm công tác

giám đốc thẩm, kiểm tra. Nếu không phát triển được thì khi nghỉ hưu họ vẫn

là Thẩm tra viên vì về mặt pháp lý thì không có chức danh Thẩm tra viên.

58

Luật tổ chức Toà án năm 2014 đã quy định rõ ngạch Thư ký Toà án và Thẩm

tra viên, giúp cho đội ngũ này có cơ sở pháp lý, yên tâm công tác hơn. Tuy

nhiên, đội ngũ Thẩm tra viên, Thư ký Toà án hiện nay đã và đang là nguồn

chính để bổ sung cho đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương, vì vậy

việc chăm lo, tạo điều kiện cho đội ngũ này phát triển “vừa hồng, vừa

chuyên” là yêu cầu của thực tiễn công tác và cũng phù hợp với quy định của

pháp luật.

Thực tiễn cho thấy, Thẩm phán được đào tạo từ Thẩm tra viên, Thư ký

Toà án và trưởng thành từ Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án nhân dân cấp

tỉnh thường có bề dày kinh nghiệm, có bản lĩnh nghề nghiệp và vững vàng về

nghiệp vụ hơn.

Tuy có chuyển biến, tiến bộ về trình độ của Thẩm phán Toà án nhân dân

thành phố Hà Nội nhưng thực tế mặt bằng đào tạo lại không đồng đều, số

lượng Thẩm phán được đào tạo chính quy về luật là 293 người chiếm khoảng

76,5%. Trong đó số còn lại có nhiều trường hợp được đào tạo theo chương

trình tại chức, không tập trung, vừa học vừa làm hoặc theo chương trình đào

tạo từ xa. Vì vậy kiến thức pháp luật có phần lớn bị hạn chế. Thực tế cho

thấy, Thẩm phán có trình độ đào tạo “tại chức” có tỷ lệ các Bản án, Quyết

định mà họ đã tuyên bị Toà án cấp trên huỷ hoặc cải sửa thường cao hơn

nhiều so với Thẩm phán được đào tạo chính quy.

c, Trình độ lý luận chính trị

Toà án nhân dân thành phố Hà Nội có 259 người có trình độ cao cấp

chính trị, hoặc cử nhân chính trị (chiếm 35%), 365 người có trình độ trung

cấp chính trị (chiếm 49,4%), 114 người đã qua sơ cấp lý luận chính trị

(chiếm 15%).

59

d, Phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp và kinh nghiệm công tác

Về phẩm chất đạo đức, nhìn chung cán bộ công chức Toà án nhân dân

thành phố Hà Nội có phẩm chất đạo đức tốt, trung thành với Đảng, tận tâm, tận

tuỵ phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Kiên định, lập trường cách mạng là

mục tiêu và con đường đi lên của Chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã

chọn. Đội ngũ Thẩm phán được rèn luyện trong công tác, được giáo dục về

chính trị, đạo đức nghề nghiệp, có tinh thần trách nhiệm cao với công việc

được giao. Rất nhiều thẩm phán đã trưởng thành từ thực tiễn, từ thử thách trong

công tác, bảo đảm được “vừa hồng, vừa chuyên”. 100% Thẩm phán Toà án

nhân dân thành phố Hà Nội là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.

Bản lĩnh chính trị còn được thể hiện ở tinh thần gương mẫu, ý thức trách

nhiệm cao đối với công việc, tận tâm, tận tuỵ phụng sự nhân dân, phụng sự

Tổ quốc.

Đạo đức của Thẩm phán được thể hiện ở hai mặt:

Thứ nhất, đạo đức cá nhân: Đạo đức của Thẩm phán ở tinh thần và ý thức

tôn trọng kỷ luật, kỷ cương, thực hiện tốt nội quy, quy chế của cơ quan, có lối

sống giản dị, trong sáng, lành mạnh, kiên quyết đấu tranh với việc hối lộ, lãng

phí, có thái độ ứng xử đúng mực trong quan hệ xã hội, quan hệ gia đình.

Thứ hai, đạo đức nghề nghiệp: Ý thức và trách nhiệm đối với chức

danh pháp lý của bản thân được thể hiện thông qua sự ngay thẳng, công

bằng, tận tâm, tận tuỵ với công việc được giao, dũng cảm bảo vệ công lý hay

đó là bản lĩnh nghề nghiệp. Thẩm phán là công chức Nhà nước. Đạo đức

công chức, đạo đức nghề nghiệp tuy là hai khái niệm không đồng nhất,

nhưng luôn có quan hệ mật thiết, bổ trợ cho nhau. Người cán bộ không có

đạo đức nghề nghiệp thì cũng không thể có đạo đức công chức tốt được. Do

đó họ cần phải được đào tạo về trình độ lý luận chính trị, phải bảo đảm về

điều kiện này [26, tr.127].

60

Yêu cầu về kiến thức văn hoá: Ứng xử văn minh, khoa học, nhân ái, dân

chủ của Thẩm phán Toà án trong mối quan hệ công tác, quan hệ xã hội. Đó là

cơ sở để hình thành tác phong, phong cách làm việc, ứng xử và lối sống, nó

tạo nên tư chất, cốt cách của người cán bộ, người Thẩm phán tại Toà án phải

có văn hoá. Nghề Thẩm phán phải có kiến thức rộng về các lĩnh vực đời sống

xã hội, thậm chí cả trong các lĩnh vực chuyên sâu. Các kiến thức đó giúp họ

thuận lợi, đúng đắn và thấu tình đạt lý trong giải quyết công việc.

Thẩm phán phải có trí tuệ cao. Trí tuệ không tự có mà phải thông qua

quá trình học hỏi không ngừng để nâng cao trình độ, tích luỹ kinh nghiệm,

khả năng tư duy khoa học, vận dụng thực tiễn sáng tạo, nhạy cảm và giải

quyết công việc độc lập. Người có trí tuệ cao còn phải có đầu tổng hợp kiến

thức, lựa chọn kiến thức, trí thức của loài người nói chung và của nghề nghiệp

nói riêng. Trí lực sức khoẻ cũng là một vấn đề quan trọng, không thể thiếu bởi

lao động này rất nặng nề và áp lực công việc lớn.

Tuy nhiên, cũng còn không ít Thẩm phán sa sút về phẩm chất đạo đức,

lương tâm nghề nghiệp hoặc vì tiêu cực, nể nang hoặc không có bản lĩnh

nghề nghiệp nên đã bị sa ngã, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức, lối sống

và đã bị xử lý kỷ luật, thậm chí có một số thẩm phán bị truy cứu trách nhiệm

hình sự.

* Những hạn chế:

Năm 2014 Toà án nhân dân thành phố Hà Nội thụ lý: 9.150 vụ án hình sự.

Năm 2015 số vụ án Hình sự thụ lý là 8.887 vụ án. Giảm 263 vụ, đạt tỷ lệ 2,87%.

Năm 2017 Toà án nhân dân thành phố Hà Nội thụ lý: 7.761 vụ án hình sự,

so với năm 2018 thụ lý: 8.442 vụ án, tăng 681 vụ so với năm 2017, tỷ lệ: 8,77%.

Trong những năm gần đây Toà án nhân dân thành phố Hà Nội thụ lý

ngày càng tăng vụ án hình sự. Trong khi đó số lượng biên chế thẩm phán thì

không tăng, chính việc chậm tăng biên chế Thẩm phán để đáp ứng nhu cầu

61

giải quyết án ngày càng tăng. Công việc ngày càng áp lực, thẩm quyền được

pháp luật giao nhiều hơn nhưng chế độ tiền lương, chế độ đãi ngộ, đặc biệt

chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán, Thư ký Toà án, Thẩm tra viên không có gì

thay đổi.

Bảng 2.3: Số lượng án giải quyết từ năm 2014-2018

Số án thụ lý Số giải quyết Số vụ án Số lƣợng Năm còn lại thẩm phán Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo

9.150 15.452 9.063 15.231 87 382 2014

8.887 14.921 8.716 14.516 171 376 2015

7.753 13.156 7.686 12.852 67 381 2016

7.761 13.041 7.671 12.827 90 381 2017

8.442 14.945 7.671 13.014 771 383 2018

(Nguồn: Toà án nhân dân thành phố Hà Nội)

Trong những năm gần đây số lượng án phải giải quyết số lượng lớn so

với các năm trước, trong khi đó số lượng thẩm phán trong toàn thành phố thì

không tăng do hiện nay đang tinh giảm biên chế và có những thẩm phán nghỉ

hưu nên số lượng thẩm phán phải giải quyết một lượng án rất lớn trong năm

công tác. Theo bảng số liệu thì mỗi thẩm phán hằng năm phải giải quyết

khoảng 22 vụ án hình sự và phải giải quyết thêm các vụ án dân sự, Hôn nhân

gia đình và vụ án khác nữa. Số lượng án hình sự tồn hàng năm còn nhiều,

riêng năm 2018 tồn 771 vụ án. Trong đó có án tạm đình chỉ tồn 6 vụ, án quá

hạn 1 vụ, còn lại 764 vụ án trong hạn.

62

Bảng 2.4: Tỷ lệ, nguyên nhân án hủy, sửa từ năm 2014-2018

Năm

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

Nguyên nhân khác

Nguyên nhân khác

Vụ án bị hủy 40

0,44

Nguyên nhân chủ quan 26

Nguyên nhân khách quan 10

Vụ án bị sửa 543

Nguyên nhân chủ quan 0

Nguyên nhân khách quan 543

5,9

4

0

2014

18

0,2

18

0

0

26

0,29

0

26

0

2015

5

0,05

5

0

0

7

0,07

0

7

0

2016

43

0,56

43

0

0

454 5,91

0

454

0

2017

36

0,46

0

7

0

547

29

547

7,1

0

2018

(Nguồn: Toà án nhân dân thành phố Hà Nội)

Theo bảng số liệu trên thì tỷ lệ án huỷ trong năm 2017 chiếm 0,29 % so

với tỷ lệ án giải quyết và 2018 tỷ lệ án huỷ chiếm 0,46% so với tỷ lệ án giải

quyết trong năm. Giảm 5 vụ so với năm 2017, trong đó có 7 vụ án huỷ do lỗi

khách quan của thẩm phán, 03 vụ án huỷ được xác định có lỗi của thẩm phán

và 26 vụ chưa tiến hành kiểm điểm án huỷ; án sửa 547 vụ tăng 93 vụ so với

năm 2017 việc sửa án là do đánh giá chứng cứ khác nhau giữa cấp phúc thẩm

và cấp sơ thẩm. Tỷ lệ án huỷ, sửa trong hai năm gần đây ngày càng tăng

nguyên nhân có thể từ việc điều tra thu thập chứng cứ chưa đầy đủ để làm căn

cứ kết tội, vi phạm trong việc khám nghiệm hiện trường, thu giữ vật chứng,

thực nghiệm điều tra, giám định, vi phạm trong việc áp dụng các tình tiết định

khung tăng nặng, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vi phạm

trong việc cho bị cáo hưởng án treo…

Theo quy chế thi đua khen thưởng của ngành Toà án thì mỗi thẩm phán

bị huỷ án do lỗi chủ quan từ 1,16% đến dưới 2% thì bị kiểm điểm trước cơ

quan theo bảng số liệu thì tỷ lệ án huỷ chung của thành phố Hà Nội dưới 1%

chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số án giải quyết. Trong khi đó số án phải sửa

chiếm tỷ lệ khá cao 7% năm 2018 đa phần do lỗi khách quan của thẩm phán.

63

* Nguyên nhân:

Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng xét xử các vụ

án hình sự là công tác xây dựng pháp luật mà đặc biệt là việc giải thích, hướng

dẫn thi hành pháp luật chưa đầy đủ và kịp thời. Bộ luật TTHS trải qua nhiều lần

sửa đổi nhưng còn nhiều quy định chưa phù hợp, chứa đựng nhiều mâu thuẫn

đến khi Bộ luật TTHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì đã kế thừa và

phát huy khắc phục được những bất cập của bộ luật cũ. Trong khi đó từ năm

2014 cho đến năm 2017 chúng ta vẫn áp dụng những quy định của Bộ luật

TTHS năm 2003 về người THTT hình sự trong Toà án nhân dân nó chưa đáp

ứng được công cuộc cải cách tư pháp của nước ta trong giai đoạn đó.

Tại phiên toà vai trò của HĐXX là người trọng tài giữa bên buộc tội và

bên gỡ tội để ra phán quyết về vụ án, còn việc xét hỏi theo hướng buộc tội là

trách nhiệm của Kiểm sát viên việc xét theo hướng gỡ tội cho bị cáo là trách

nhiệm của người bào chữa.

Việc phân định nhiệm vụ quyền hạn của Chánh án với Thẩm phán trong

hoạt động tố tụng đối với việc giải quyết vụ án hình sự cụ thể còn thiếu hợp lý

làm hạn chế hiệu quả, chất lượng, tính kịp thời của các hoạt động tố tụng,

không nâng cao được trách nhiệm của người THTT trong việc giải quyết vụ

án hình sự.

Việc tổ chức hệ thống Toà án ở nước ta theo đơn vị hành chính cũng làm

ảnh hưởng đến nhiệm vụ, quyền hạn của người THTT hình sự trong Toà án

thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử phải đảm bảo cấp sơ thẩm và cấp phúc

thẩm độc lập với nhau chứ không phải là cấp trên và cấp dưới.

Bên cạnh đó thì sự hạn chế về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, về phẩm

chất đạo đức của người THTT hình sự trong Toà án nhân dân cũng là nguyên

nhân ảnh hưởng đến nhiệm vụ, quyền hạn của người THTT. Thẩm phán là

người có trình độ cử nhân luật được đào tạo về nghiệp vụ xét xử nhưng vẫn

64

còn thẩm phán có trình độ tại chức hoặc vừa học vừa làm nên có hạn chế về

kiến thức pháp luật nên có thẩm phán có nhiều án huỷ sửa dẫn đến chưa được

tái bổ nhiệm.

2.2. Một số giải pháp nâng cao chất lƣợng hiệu quả hoạt động của ngƣời

tiến hành tố tụng hình sự trong Tòa án nhân dân

2.2.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật

Cải cách tư pháp hình sự là một trong những nội dung quan trọng của cải

cách tư pháp nhằm mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Chính

vì vậy, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác cải cách tư pháp trong

lĩnh vực hình sự. Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số: 49 ngày 02/6/2005 về

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đã nêu: Xây dựng nền tư pháp

trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước

hiện đại, phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt

động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và

hiệu lực cao.

Việc sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện những quy định của luật tố tụng hình

sự mà đặc biệt là Bộ luật TTHS về người tiến hành tố tụng trong TAND phải

trên cơ sở tổng kết thực tiễn nhằm khắc phục cơ bản các vướng mắc; nâng cao

hiệu quả, hiệu quả của hoạt động xét xử trong TAND; ngăn ngừa và xử lý kịp

thời, nghiêm minh các loại tội phạm; bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con

người trong hoạt động tố tụng hình sự; tạo ra cơ chế để nâng cao trình độ,

năng lực của người tiến hành tố tụng trong TAND, bảo đảm sự độc lập của họ

trong quá trình thực thi nhiệm vụ.

Thứ nhất, quy định tại Điều 46 về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm

của Hội thẩm nhân dân. Hội thẩm nhân dân đóng vai trò rất quan trọng nhưng

thường là kiêm nhiệm nên chất lượng chuyên môn không cao. Bên cạnh đó

thì điều luật còn quy định Hội thẩm nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở

65

phiên toà nhưng không quy định cụ thể nên dẫn đến trách nhiệm và chất

lượng của của phiên toà đều phụ thuộc vào quyết định của thẩm phán.

Thứ hai, tại Điều 47 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm

của thư ký trong đó có quy định Thư ký được tiến hành hoạt động tố tụng

khác thuộc thẩm quyền của Toà án theo sự phân công của Chánh án Toà án.

Đây là quy định mở. Tuy nhiên thực tiễn thì thư ký phải làm rất nhiều hoạt

động. Quy định về hoạt động tố tụng khác không rõ nên dẫn đến hậu quả thư

ký có thể tiến hành các hoạt động không phù hợp hoặc dẫn đến tiêu cực.

Thứ ba, Về việc nhận hồ sơ vụ án, bản cáo trạng và thụ lý vụ án tại

khoản 1, Điều 278 lại quy định: “Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán chủ toạ

phiên tòa quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện

pháp cưỡng chế, trừ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam do

Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quyết định”. Tuy nhiên, tại Đoạn 2, Điều 276

quy định “Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án kèm theo bản cáo trạng thì

Tòa án phải thụ lý vụ án. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án,

Chánh án Tòa án phải phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa giải quyết vụ

án.” Như vậy, giữa 2 quy định có độ lệch về thời gian. Cụ thể, là sau khi thụ

lý vụ án có tối đa 03 ngày chưa có Thẩm phán chủ tọa thì không thực hiện

quy định tại khoản 1 Điều 278. Do vậy, đề nghị Sửa khoản 1 Điều 278 theo

hướng thay cụm từ “Thẩm phán chủ tọa phiên tòa” bằng cụm từ “Tòa án”.

2.2.2. Một số giải pháp khác

2.2.2.1. Tăng cường công tác rà soát việc bố trí, sắp xếp, sử dụng cán bộ,

công chức

Tổ chức rà soát việc bố trí, sắp xếp, sử dụng công chức nhằm bảo đảm

sự công tâm, khách quan, phù hợp với năng lực, sở trường của công chức vì

mục đích của ngành. Trên cơ sở thực hiện cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công

chức theo yêu cầu tăng cường chất lượng, bảo đảm cơ cấu hợp lý giữa các

66

chức danh lãnh đạo, quản lý và các ngạch công chức; giữa các độ tuổi, địa

bàn, lĩnh vực công tác; tăng cường cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc

thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân, con gia đình có công với cách mạng;

khắc phục tình trạng vừa thừa vừa thiếu cán bộ.

Chủ động bố trí, sắp xếp công chức có năng lực, triển vọng đảm nhiệm

các công việc để có điều kiện học tập, thử thách, rèn luyện, phấn đấu và tự

khẳng định, nhất là đối với diện quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ

có chức danh tư pháp; bảo đảm kết hợp kế tiếp các thế hệ, độ tuổi. Kiên quyết

thay thế những công chức lãnh đạo, nhất là đội ngũ Chánh án, Phó Chánh án

trì trệ, yếu kém, thường xuyên để xảy ra tham nhũng, tiêu cực, mất đoàn kết

nội bộ cơ quan.

2.2.2.2 Tăng cường công tác giáo dục, chính trị tư tưởng cho đội ngũ Thẩm

phán, Thẩm tra viên, Thư ký toà án

Giải pháp này bao gồm các vấn đề tăng cường công tác giáo dục chính

trị tư tưởng, gắn với việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán, Thư ký Toà án, Thẩm

tra viên và đổi mới công tác trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo

đức Hồ Chí Minh, với phòng chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, tiêu cực;

tăng cường kiểm tra, giám sát của cấp uỷ cấp trên đối với cấp dưới trong việc

giáo dục, quản lý và thực hiện công tác cán bộ; xây dựng thực hiện tốt công

tác và thực hiện tốt các quy chế về công tác cán bộ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đạo đức của người cán bộ công chức

trong ngành Toà án không phải tự nhiên mà có được, nó được hình thành và

phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng trước hết phụ thuộc vào quá trình

tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức, năng lực và khả năng thu phục nhân tâm, xây

dựng lòng tin với quần chúng nhân dân của cán bộ công chức ngành Toà án.

Trong hoạt động, Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Toà án phải có đủ

“đức”, đủ “tài”, phải vừa “hồng” vừa “chuyên”. Người cán bộ công chức

67

ngành Toà án có “đức” thì chưa đủ, muốn hoàn thành nhiệm vụ, có uy tín cao

với quần chúng ngoài phẩm chất đạo đức người cán bộ phải có “tài” nữa. Tài

của người cán bộ công chức ngành Toà án được biểu hiện ở trình độ lý luận,

năng lực hoạt động thực tiễn, gắn với chuyên môn nghề nghiệp mà người cán

bộ công chức đang đảm nhiệm. Trình độ lý luận ở ngoài cán bộ cách mạng

thể hiện ở trình độ nhận thức và hiểu biết sâu sắc những tri thức khoa học tự

nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, những kinh nghiệm đã được đúc rút, khái

quát trong hoạt động thực tiễn. Lý luận phải đi đôi với thực tiễn, nói phải đi

đôi với làm. Nếu coi thường lý luận người cán bộ sẽ rơi vào chủ nghĩa kinh

nghiệm, còn nếu coi thường thực tiễn thì lại là lý luận suông. “Tài” của người

cán bộ không những biểu hiện ở trình độ lý luận, mà còn biểu hiện ở năng lực

hoạt động thực tiễn gắn với chuyên môn nghiệp vụ mà họ đang đảm nhiệm.

Thể hiện ở trình độ kiến thức, kinh nghiệm, kỹ xảo chuyên môn nghiệp vụ, kỹ

năng suy nghĩ độc lập, sáng tạo trong các quá trình xử lý, giải quyết các tình

huống thực tế. Những luận điểm của Hồ Chí Minh về việc giáo dục đạo đức

cho đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Toà án có giá trị rất to lớn

trong việc giáo dục cán bộ như hiện nay, bản thân Hồ Chí Minh là hiện thân

của tấm gương đạo đức sáng ngời cho những thế hệ cán hộ noi theo [22].

2.2.2.3. Đổi mới phương thức thi nâng ngạch đối với các ngạch Thẩm tra

viên và Thư ký Toà án

Việc tổ chức thi nâng ngạch từ Thẩm tra viên lên Thẩm tra viên chính

trong thời gian vừa qua được Toà án nhân dân tối cao thực hiện và phụ thuộc

chủ yếu vào nhu cầu của các đơn vị trong hệ thống Toà án. Từ trước đến nay

Toà án tối cao mới tổ chức 3 kỳ thi nâng ngạch từ Thẩm tra viên lên Thẩm tra

viên chính vào năm 2006, 2013 và năm 2018. Hiện tại, ở Toà án nhân dân tối

cao vẫn còn rất nhiều Thẩm tra viên chưa được nâng ngạch lên Thẩm tra viên

chính, có Thẩm tra viên vẫn giữ mức lương 4,65 hoặc 4,98 nhưng vẫn chưa

68

được thi nâng ngạch. Do vậy, chưa bảo đảm quyền lợi, tiền lương gây thiệt

thòicho các Thẩm tra viên này.

Đối với Thư ký Toà án, theo quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân

năm 2014 thì Thư ký Toà án có các ngạch là Thư ký viên, Thư ký viên chính,

Thư ký viên cao cấp; tiêu chuẩn, điều kiện và việc thi nâng ngạch Thư ký Toà

án do Chánh án Toà án nhân dân tối cao quy định. Thẩm tra viên có các ngạch

là Thẩm tra viên, Thẩm tra viên chính và Thẩm tra viên cao cấp; tiêu chuẩn,

điều kiện và việc thi nâng ngạch Thẩm tra viên do Chánh án Toà án nhân dân

tối cao quy định.

Để triển khai thi hành Luật tổ chức Toà án nhân dân về việc triển khai

thi nâng ngạch Thẩm tra viên, Thư ký Toà án, trên cơ sở tham khảo các quy

định của Bộ Nội vụ về thi nâng ngạch công chức, Toà án nhân dân tối cao cần

ban hành Quy định về tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục, hồ sơ thi nâng ngạch

Thẩm tra viên, Thư ký Toà án để thực hiện thống nhất trong toàn bộ hệ thống

Toà án, trong đó quy định cụ thể: Tiêu chuẩn phẩm chất, chức trách, nhiệm

vụ, tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ chuyên môn của từng

ngạch Thư ký Toà án và của từng ngạch Thẩm tra viên; căn cứ, nguyên tắc,

điều kiện, hình thức thi, thủ tục, hồ sơ nâng ngạch; việc tổ chức kỳ thi nâng

ngạch; Hội đồng thi, các bộ phận giúp việc cho Hội đồng.

Phương thức tổ chức thi nâng ngạch Thư ký Toà án, Thẩm tra viên nên

làm theo hướng thường xuyên, định kỳ không phụ thuộc vào số lượng người

dự thi, có như vậy mới khuyến khích được đội ngũ Thư ký Toà án, Thẩm tra

viên tích cực công tác, trau dồi kiến thức nghề nghiệp để tham gia kỳ thi nâng

ngạch nhằm đảm bảo quyền lợi, tiền lương và các quyền lợi khác có liên quan

đến chức danh Thư ký Toà án, Thẩm tra viên.

Đối với đơn vị tổ chức thi nâng ngạch: Vừa qua Toà án nhân dân tối cao

giao cho Học viện Toà án thực hiện. Đây cũng là bất cập, vì Học viện Toà án

69

không phải là đơn vị có chức năng giúp Chánh án Toà án nhân dân tối cao

quản lý Toà án các địa phương về tổ chức mà nhiệm vụ này thuộc về Vụ Tổ

chức- Cán bộ. Do vậy, phương hướng đổi mới tổ chức thi nâng ngạch là phải

giao cho Vụ Tổ chức- Cán bộ thực hiện. Học viện Toà án có thể là địa điểm

để tổ chức các kỳ thi nâng ngạch, còn các nội dung, cách thức tổ chức, Hội

đồng thi tuyển… phải do Vụ Tổ chức- Cán bộ giúp cho lãnh đạo Toà án nhân

dân tối cao thực hiện công việc này [26].

2.2.2.4. Tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng trong hệ thống

Toà án nhân dân

Đây là công việc trọng đại của hệ thống Toà án nhân dân, vì thực hiện tất

cả công tác này vừa đảm bảo uy tín của Toà án và cũng là những điều kiện

đảm bảo cho công tác tuyển chọn công chức, thi nâng ngạch, bổ nhiệm cán bộ

lãnh đạo Toà án nhân dân đúng với phương hướng đổi mới. Do vậy, tôi đề

xuất, kiến nghị như sau:

Thường xuyên thực hiện chế độ luân chuyển Thẩm phán, lãnh đạo Toà

án nhân dân địa phương, theo hướng không để các đối tượng này công tác tại

một địa phương quá 2 nhiệm kỳ (10 năm). Quy định này có ý nghĩa phòng,

chống tham nhũng, vì nếu để thời gian công tác của Thẩm phán tại một Toà

án quá lâu sẽ phát sinh các mối quan hệ và những điều kiện không lành mạnh

khác để có những việc làm hoặc điều kiện phát sinh tham nhũng.

Thường xuyên giám sát, kiểm tra việc quản lý, phân công công tác giải

quyết xét xử của Chánh án Toà án nhân dân địa phương cho các Thẩm phán.

Hiện nay, việc phân công cho các Thẩm phán giải quyết, xét xử các loại vụ án

cụ thể thuộc thẩm quyền của Chánh án, Phó Chánh án các Toà án địa phương.

Đây là điều kiện dễ nảy sinh việc phân công đó phụ thuộc vào ý chí chủ quan

của người có thẩm quyền phân công, rất dễ nảy sinh tiêu cực trong việc phân

công này. Vì vậy, cần phân công công tác cho Thẩm phán theo hướng khách

70

quan, công tâm, ngẫu nhiên, không phụ thuộc vào ý chí của người có thẩm

quyền phân công, và cũng nhằm thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của

Thẩm phán, Hội thẩm.

Chế độ đãi ngộ đối với Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán và các

chức danh tư pháp khác trong Toà án. Kiến nghị với Toà án nhân dân tối

cao cần thiết có những đề xuất cụ thể với Chính Phủ, Quốc hội để các quy

định của Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 về chính sách, chế độ đãi

ngộ đối với các chức danh tư pháp thuộc Toà án nhân dân trở thành hiện

thực. Đây là nguồn động lực để công chức, viên chức ngành Toà án nhân

dân yên tâm, tận tuỵ với công việc mà họ được giao, gắn bó với ngành, yêu

nghề hơn [26, tr 92].

2.2.2.5. Xây dựng cơ chế thu hút, bồi dưỡng nhân tài cho ngành TAND

Hiện nay, trong bối cảnh cải cách tư pháp, khi nền kinh tế thị trường

ngày càng phát triển, tính cạnh tranh ngày càng khốc liệt thì việc thu hút, bồi

dưỡng nhân tài càng trở nên quyết liệt. Trong ngành Toà án chế độ, chính

sách đãi ngộ nhất là chế độ tiền lương đối với Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư

ký Toà án và người lao động khác trong TAND còn thấp và có nhiều bất cập,

trong khi đó điều kiện sinh hoạt và làm việc khó khăn nên dẫn đến khó tuyển

dụng cán bộ công chức vào làm việc tại toà án. Do đó, vấn đề thu hút, bồi

dưỡng nhân tài cho ngành TAND càng trở nên cấp thiết hơn. Chúng ta cần

phải đổi mới tư duy, phải đổi mới tư duy theo hướng “trọng dụng nhân tài”

thay vì tư duy “ ban ơn, tạo chỗ làm việc” mới có sức hút nhân tài. Nếu là tiến

sỹ, thạc sỹ hoặc cử nhân giỏi có nguyện vọng làm việc trong ngành TAND thì

xét nhận vào biên chế được ưu tiên đi học, được trợ cấp một khoản kinh phí

ban đầu. Trường hợp họ chấp nhận làm việc tại vùng khó khăn có thể phối

hợp với địa phương ưu tiên cấp đất, cấp nhà ở [22, tr.303].

71

Xây dựng cơ chế làm việc văn minh, khoa học có tiềm năng phát

triển cá nhân trong ngành TAND làm được như vậy mới thu hút được

nhân tài thực sự.

Lãnh đạo TAND các cấp là những người sử dụng nhân tài phải thay đổi

tư duy trong cách quản lý và sử dụng người trong quản lý công việc.

Cần định hướng quy hoạch, tuyển dụng người tài về để thực hiện công

việc gì có thể là: Dự trữ nguồn thẩm phán, nghiên cứu xây dựng phát triển

pháp luật, phát triển công nghệ thông tin của ngành, tuyên truyền và báo chí.

Do đó chúng ta cần tạo ra môi trường thu hút nhân tài. Nhân tài thường họ

mong muốn được làm việc và cống hiến. Vì vậy, việc tạo môi trường thu hút,

hấp dẫn là rất quan trọng đối với nhân tài, nằm trong chính sách lâu dài của

ngành TAND.

2.2.2.6. Giải pháp chế độ tiền lương, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ

công chức ngành Toà án nhân dân

Hiện nay, cán bộ công chức ngành Toà án hưởng lương theo ngạch, bậc

lương tương đương các cán bộ, công chức khác. Trong đó lương của Thẩm

phán được xếp cùng nhóm lương của ngạch chuyên viên. Ngoài ra, Thẩm

phán, Thẩm tra viên, Thư ký tòa án còn được hưởng thêm phụ cấp thâm niên

và phụ cấp trách nhiệm theo nghề. Điều này đã thể hiện sự bất hợp lý rất lớn:

Thứ nhất, lương của cán bộ, công chức ngành Toà án chưa tính đến đặc thù

của hoạt động xét xử và còn thấp so với mặt bằng chung; thứ hai, đang tồn tại

mâu thuẫn về thu nhập trong Toà án, khi trong một cơ quan, một số người thì

được hưởng phụ cấp thâm niên nghề và phụ cấp trách nhiệm theo nghề, số

còn lại không được hưởng các loại phụ cấp này. Họ không có bất cứ thu nhập

nào khác ngoài lương và phụ cấp. Khó khăn trong cuộc sống của cán bộ, công

chức là một trong những nguyên nhân tiêu cực, hạn chế sự độc lập của Toà án

và có thể dẫn đến những vi phạm trong hoạt động xét xử. Hoạt động xét xử là

72

một loại hình lao động trí óc đặc thù, đặc biệt là trong những ngày diễn ra

phiên toà, đòi hỏi những người tiến hành tố tụng tại phiên toà phải hao tổn

nhiều công sức và trí tuệ. Để khắc phục tình trạng này, cần phải nghiên cứu

xây dựng bảng lương riêng đối với thẩm phán và Thẩm tra viên, thư ký theo

hướng tăng hơn mức hiện nay từ 2 đến 3 lần, nhằm đảm bảo cuộc sống bình

thường và phần nào bù đắp cho họ những hao tổn sức lực, trí tuệ trong quá

trình giải quyết vụ án. Thẩm phán, Thẩm tra viên, thư ký và cán bộ công chức

khác trong ngành Toà án cũng phải được hưởng phụ cấp thâm niên nghề và

phụ cấp trách nhiệm theo nghề [22, tr.299].

73

Kết luận chƣơng 2

Sau khi thống nhất đất nước, trên cơ sở Hiến pháp năm 1980 và Hiến

pháp năm 1992, BLTTHS năm 1998 và BLTTHS năm 2003 và Bộ luật TTHS

năm 2015 đã kế thừa phát huy đồng thời đưa ra những khái niệm, vị trí, vai

trò, nhiệm vụ, quyền hạn của người THTT trong Toà án nhân dân. Vị trí, vai

trò của người THTT hình sự trong Toà án được quy định một cách chặt chẽ,

thể hiện nền tảng tố tụng dân chủ, khách quan và tiến bộ sau nhiều lần pháp

điển hoá thì vị trí, vai trò của người THTT về cơ bản không có thay đổi gì

lớn. Bộ luật TTHS năm 2015 bổ sung thêm người THTT là Thẩm tra viên và

tăng thẩm quyền cho các chức danh tư pháp như Chánh án, Thẩm phán, bổ

sung thêm một số nhiệm vụ, quyền hạn, cho Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà

án. Trên cơ sở pháp luật thực định, chương 2 nghiên cứu thực trạng việc áp

dụng các quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của

người THTT hình sự trong Toà án nhân dân. Bên cạnh những thành tựu đạt

được thì có những hạn chế tồn tại về chất lượng đội ngũ thẩm phán và số

lượng án tồn hàng năm. Toà án nhân dân cần phải thay đổi để nâng cao chất

lượng xét xử các vụ án hình sự.

Cải cách tư pháp theo tinh thần và nội dung của chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020 của Đảng ta, cần phải có sự nhận thức đúng về vị trí, vai

trò của Toà án trong bộ máy Nhà nước. Toà án là ngành đặc thù khác so với

các cơ quan khác và giữ vị trí trung tâm trong hệ thống tư pháp của nước ta.

Toà án nhân dân Nhà nước, thể hiện bản chất và hiệu lực của Nhà nước. Với

vị trí như vậy, công cuộc cải cách tư pháp đòi hỏi ngành Toà án phải đáp ứng

được những yêu cầu như sau: Cải cách phải mang tính đồng bộ, đảm bảo tính

độc lập, đảm bảo xét xử phải công khai, nghiêm minh và công bằng, đảm bảo

quyền cơ bản của công dân, cũng như việc giám sát của nhân dân trong hoạt

74

động xét xử. Chương 3 đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn

thiện hơn về vị trí, vai trò cũng như việc bố trí sắp xếp cán bộ công chức, việc

đổi mới phương thức thi nâng ngạch đối với thẩm tra viên và thư ký toà án,

thay đổi chế độ đãi ngộ đối với các chức danh tư pháp trong Toà án nhân dân

nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp của nước đáp ứng mọi yêu cầu đòi hỏi

của xã hội, của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người.

75

KẾT LUẬN

Nghị quyết Trung ương số: 49- NQ/TW của Bộ chính trị ngày 2/6/2005

về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” nhấn mạnh: Cải cách tư pháp

lấy Toà án làm trung tâm và xét xử làm trọng tâm là hoàn thiện pháp luật về

tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân, bảo đảm Toà án xét xử độc lập.

Trước tình hình tội phạm ngày càng phức tạp và tinh vi nên đòi hỏi trình

độ chuyên môn của người THTT ngày càng được nâng cao về kiến thức

chuyên môn cũng như nghiệp vụ kỹ thuật. Mọi quy định về nhiệm vụ, quyền

hạn của người THTT trong Toà án được quy định cụ thể trong Bộ luật TTHS

năm 2015, tác giả tập trung làm rõ vị trí, vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của

Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư

ký toà án, từ đó chỉ ra điểm mới như tăng thẩm quyền cho Chánh án, Thẩm

phán, thêm người THTT là thẩm tra viên được quy định trong bộ luật TTHS

năm 2015, đồng thời chỉ ra mặt hạn chế và đưa ra kiến nghị để hoàn thiện hơn

vị trí pháp lý của người THTT trong Toà án nhân dân là yêu cầu khách quan,

là giải pháp quan trong để thực hiện chủ trương cải cách tư pháp và nâng cao

chất lượng xét xử trong Toà án nhân dân.

Formatted: Indent: First line: 0.39"

Đây là đề tài mang tính lý luận và thực tiễn cao, do kiến thức của tác giả

còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định rất

mong được sự đóng góp ý kiến phản biện, đóng góp của các chuyên gia, thầy

cô giáo để đề tài được hoàn thiện hơn.

76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Quốc hội (1946), Hiến pháp 1946, Hà Nội.

2. Quốc hội (1959), Hiến pháp 1959, Hà Nội.

3. Quốcahội (1980), Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Hà Nội.

4. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.

5. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.

6. Bộachính trị, Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ

trọng tâm công tác cải cách tư pháp trong thời gian tới.

7. Bộachính trị, Nghị quyết số 04/NQ/TW ngày 30/10/2016 về tăng cường

xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng

chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, tự chuyển

hóa trong nội bộ”.

8. BộaChính trị (2005), Nghị quyết: 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính

trị về chiến lược cảiacách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

9. Chínhaphủ (1946), Sắc lệnh số: 13-SL ngày 24/01 của Chủ tịch Chính

phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa về tổ chức các Tòa án và các

ngạch Thẩm phán.

10. Chínhaphủ (1946), Sắc lệnh số: 51-SL ngày 17/4 của Chủ tịch Chính

phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa về ấn định thẩm quyền của các Tòa án

và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án.

11. Chínhaphủ (1985), Sắc lệnh số: 85-SL ngày 22/05/1950 của Chủ tịch phủ

nước Việt nam dân chủ cộng hòa.

12. Quốcahội (1988, 2003), Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Quốcahội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

77

Nam năm 2015, Hà Nội.

14. Sắcalệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân ngày 04/10/2002.

15. Phápalệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội

thẩm nhân dân ngày 19/02/2011.

16. Sắc lệnhacủa Chủ tịch nước số: 13 ngày 24/01/1946 về tổ chức Toà án.

17. Quốcahội (1981), Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1981, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

18. Quốcahội (1994), Luật tổ chức toà án nhân dân năm 1992, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

19. Quốcahội (2003), Luật tổ chức toà án nhân dân năm 2002, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

20. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

21. Toà án nhân dân tối cao, Công trình nghiên cứu cấp bộ về Chế định thẩm phán.

22. Toà án nhân dân tối cao, Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức ngành Toà

án nhân dân giai đoạn 2011-2020.

23. Toà án nhân dân tối cao, Sổ tay Thư ký Toà án.

24. PhạmaHữu Thư (chủ biên) (2002), Sổ tay Thẩm phán, Nxb Công an nhân

dân, Hà Nội.

25. Toà án nhân dân tối cao, Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật, cơ sở lý luận và thực tiễn.

26. Toà án nhân dân tối cao, Thi tuyển các chức danh tư pháp, chức vụ quản

lý trong các Toà án nhân dân những vấn đề lý luận và thực tiễn.

27. Trường cán bộ toà án (2013), Tập bài giảng Chương trình đào tại Thẩm

tra viên.

28. Trường cán bộ toà án (2012), Tập bài giảng Đào tạo nghiệp vụ Thư ký toà án.

29. Toà án nhânadân tối cao (2016), Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ

78

về Chế định Thẩm phán.

30. Toà án nhân dân tối cao (2013), Công trình nghiên cứu khoa học cấpsbộ

về Nhiệm vụ và quyền hạn của Chánh án Toà án nhân dân địa phương

trong công tác quản lý hành chính nhà nước và trong tố tụng.

31. Hội đồngatrung ương chỉ đạo biên soạn (1999), Giáo trình Triết học Mác-

Lê nin, NXbaChính trị quốc gia Hà Nội.

32. Khoa luật Đại họcaQuốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình luật tố tụng hình

sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

33. Trường Đại họcaLuật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt

Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

34. Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên) (2014), Giáo trìnhaLuật tố tụng hình sự

Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia.

35. Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên), Quyềnacon người trong lĩnh vực tư pháp

hình sự.

36. Toà án nhân dân tối cao, Tạp chí Toà án nhân dân số 02 năm 2018.

37. Toà án nhân dân thành phố Hà Nội (2014), Báoacáo kết quả công tác năm

2014 và phương hướng nhiệm vụ năm 2015 của Toà án nhân dân hai cấp

thành phố Hà Nội.

38. Toà án nhân dân thành phố Hà Nội (2015), Báoacáoakết quả công tác

năm 2015 và phương hướng nhiệm vụ năm 2016 của Toà án nhân dân hai

cấp thành phố Hà Nội.

39. Toà án nhân dân thành phố Hà Nội (2016), Báoacáo kết quả công tác năm

2016 và phương hướng nhiệm vụ năm 2017 của Toà án nhân dân hai cấp

thành phố Hà Nội.

40. Toà án nhân dân thành phố Hà Nội (2017), Báo cáoakết quả công tác năm

2017 và phương hướng nhiệm vụ năm 2018 của Toà án nhân dân hai cấp

thành phố Hà Nội.

79

41. Toà án nhân dân thành phố Hà Nội (2018), Báo cáoakết quả công tác năm

2018 và phương hướng nhiệm vụ năm 2019 của Toà án nhân dân hai cấp

thành phố Hà Nội.

42. Hiến chương Châu âu về quy chế Thẩm phán.

43. Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Luận văn người tiến hành tố tụng trong

Toà án nhân dân theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nguyễn Thị Diệu Hiền.

44. Lê Cảm, Nguyễn Ngọc Chí (2006), Bảo vệ conangười bằng pháp luật

hình sự, tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền

Việt Nam, Đề tài cấp Đại học Quốc gia.

45. Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Luận văn người tiến hành tố tụng

trong cơ quan Toà án, Tạ Thị Ngọc Điệp.

46. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên), Quyềnacon người trong lĩnh vực Tư pháp

hình sự, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội, năm 2015.

47. Nguyễn Ngọc Chí, Đảm bảoasự vô tư của người tiến hành tố tụng, người

phiên dịch, người giám định trong tố tụng hình sự, tạp chí Nhà nước và

Pháp luật, số 8/2008.

48. PGS.TS Nguyễn Hòa Bình, Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2015, Sách chuyên khảo, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2016.

80