VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Đ Ặ N G T H A N H V Ũ

ĐẶNG THANH VŨ

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

N G À N H T Ộ

LUẬN VĂN THẠC SĨ

TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM

I P H Ạ M H Ọ C V À P H Ò N G N G Ừ A T Ộ

I P H Ạ M

K H Ó A

I I / 2 0 1 7

HÀ NỘI, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THANH VŨ

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm

Mã số: 8.38.01.05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS Nguyễn Thanh Dương

HÀ NỘI, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu thống kê, kết quả đề cập trong Luận văn này là trung thực, chính xác và có nguồn

gốc trích dẫn rõ ràng.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

ĐẶNG THANH VŨ

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1. LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI ........................... 6

1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội và ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân

người phạm tội ...................................................................................................... 6

1.2. Các đặc điểm nhân thân của người phạm tội ..................................................... 11

1.3. Các yếu tố tác động đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người

phạm tội .............................................................................................................. 19

Chương 2. THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .............................................. 27

2.1. Khái quát đặc điểm kinh tế, xã hội và tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ

Chi, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn năm 2014 - năm 2018 ........................ 27

2.2. Đặc điểm nhân thân người phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ

Chí Minh giai đoạn năm 2014-2018 .................................................................. 32

2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực ở

người phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh .............. 44

Chương 3. DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH

HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ

MINH TỪ GÓC ĐỘ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI .................................. 63

3.1. Dự báo về tình hình tội phạm, đặc điểm nhân thân người phạm tội và một số yếu

tố ảnh hưởng đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người

phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh ......................... 63

3.2. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm từ góc độ nhân thân

người phạm tội ................................................................................................... 69

KẾT LUẬN ............................................................................................................. 80

TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 81

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1. NPT : Người phạm tội

2. TAND : Tòa án nhân dân

3. THTP : Tình hình tội phạm

4. TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh

5. VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Diễn biến tình hình tội phạm rõ trên địa bàn huyện Củ Chi, TP.HCM (Giai

đoạn từ năm 2014 đến năm 2018);

Bảng 2.2 Cơ số tội phạm rõ trên địa bàn huyện Củ Chi (Giai đoạn từ năm 2014 đến

năm 2018);

Bảng 2.3. Thống kê tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi đã bị xét xử (Giai đoạn từ

năm 2014 đến năm 2018);

Bảng 2.4. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi xét theo tiêu chí loại

tội phạm (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018);

Bảng 2.5. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi xét theo tiêu chí địa

bàn nơi xảy ra tội phạm (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018);

Biểu 2.1. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi xét theo tiêu chí giới

tính của người phạm tội (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018);

Biểu 2.2. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi xét theo tiêu chí độ

tuổi của người phạm tội (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018);

Biểu 2.3. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi theo tiêu chí giới tính

của người phạm tội (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018);

Biểu 2.4. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi theo tiêu chí nghề

nghiệp của người phạm tội (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018);

Biểu 2.5. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi theo tiêu chí đặc điểm

tiền án, tiền sự của người phạm tội (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018)

Bảng 2.6. Thống kê về đặc điểm giới tính của người phạm tội trên địa bàn huyện Củ

Chi (Từ năm 2014 đến năm 2018);

Bảng 2.7. Thống kê về độ tuổi của người phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi (Từ

năm 2014 đến năm 2018);

Bảng 2.8. Thống kê về trình độ học vấn của người phạm tội trên địa bàn huyện Củ

Chi (Từ năm 2014 đến năm 2018);

Bảng 2.9. Thống kê về đặc điểm nghề nghiệp của người phạm tội trên địa bàn huyện

Củ Chi (Từ năm 2014 đến năm 2018);

Bảng 2.10. Thống kê về đặc điểm hoàn cảnh gia đình của người phạm tội trên địa bàn

huyện Củ Chi (Từ năm 2014 đến năm 2018);

Bảng 2.11. Thống kê về đặc điểm nơi cư trú của người phạm tội trên địa bàn huyện

Củ Chi (Từ năm 2014 đến năm 2018);

Bảng 2.12. Thống kê về đặc điểm về sở thích, thói quen của người phạm tội trên địa

bàn huyện Củ Chi (Từ năm 2014 đến năm 2018);

Bảng 2.13. Thống kê về đặc điểm động cơ của người phạm tội trên địa bàn huyện Củ

Chi (Từ năm 2014 đến năm 2018);

Bảng 2.14. Thống kê về đặc điểm tiền án, tiền sự của người phạm tội trên địa bàn

huyện Củ Chi (Từ năm 2014 đến năm 2018).

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Nhân thân NPT là một nội dung nghiên cứu quan trọng của khoa học Tội phạm

học. Theo đó, nhân thân NPT là yếu tố quan trọng trong cơ chế hành vi phạm tội và

có liên quan trực tiếp đến nguyên nhân, điều kiện của THTP, bởi “… không thể nhận

thức, hiểu biết được các nguyên nhân và điều kiện đó nếu thiếu việc cân nhắc nhân

thân người phạm tội” [44, tr. 127]. Chính vì thế, trong quá trình tiến hành các hoạt

động phòng ngừa THTP ở một địa bàn cụ thể thì không thể không nghiên cứu đến

nhân thân NPT.

Nằm ở phía Tây Bắc của Thành phố Hồ Chí Minh, Củ Chi là huyện ngoại

thành có diện tích khoảng 435 km2, dân số trên 403.000 người, với 20 đơn vị hành

chính cấp xã và 01 thị trấn, vị trí tiếp giáp với huyện Hóc Môn (TP.HCM) và nhiều

tỉnh khác như Tây Ninh, Bình Dương, Long An. Trong những năm qua, cùng với việc

đầu tư cơ sở hạ tầng và thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế với nhiều khu công nghiệp

lớn đã mọc lên trên địa bàn, Củ Chi đã vươn lên từ một huyện nghèo trở thành địa

phương có mức tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng, trên 14%/năm; đời sống vật chất,

tinh thần của nhân dân trên địa bàn ngày càng được nâng cao [16]. Tuy nhiên, bên

cạnh đó, tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội của địa phương cũng cho thấy những

tác động tiêu cực do quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa nhanh chóng mang lại mà

rõ nét nhất là diễn biến phức tạp của THTP trên địa bàn với tổng số 1095 vụ và 1682

NPT bị đưa đưa ra xét xử [Xem bảng phụ lục 2.1], nghĩa là trung bình hàng năm có

hơn 336 người thực hiện tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi với những đặc điểm

khác nhau về xã hội - nhân khẩu, đạo đức – tâm lý và pháp lý hình sự khác nhau, dẫn

đến việc thực hiện hành vi phạm tội. Việc nhận thức một cách đầy đủ và đúng đắn về

nhân thân của NPT trên địa bàn huyện Củ Chi là đòi hỏi tất yếu nhằm hoạch định kế

hoạch và triển khai các biện pháp phòng ngừa THTP một cách hiệu quả hơn.

Từ những lẽ trên, học viên cho rằng việc nghiên cứu đề tài “Nhân thân người

1

phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh” là rất cần thiết cả về

mặt lý luận và thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa THTP trên địa bàn

huyện Củ Chi trong thời gian tới, đáp ứng được những đòi hỏi của cuộc đấu tranh

phòng, chống tội phạm ở địa phương này và trên toàn quốc.

2. Tình hình nghiên cứu

Nhân thân NPT là vấn đề được quan tâm nghiên cứu ở các khía cạnh, góc độ

khác nhau trong nhiều công trình khoa học, điển hình như:

- “Tội phạm học, Luật Hình sự, Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam” Nxb. Chính

trị quốc gia, 1994;

- “Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Viện Nhà

nước và Pháp luật, Nxb. CAND, năm 2000;

- “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam” của TS. Phạm Văn

Tỉnh, Nxb.CAND, 2007;

- Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam (2013), Học viện Cảnh sát nhân dân;

- “Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe

cho người khác trên địa bàn Thành phố. Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn

Xuân Bá, Học viện khoa học xã hội (2017).

- “Nhân thân người phạm các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh

Đồng Nai”, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Ngọc Thắm, Học viện khoa học xã hội

(2016).

Ngoài những công trình kể trên, còn có khá nhiều bài viết về nhân thân NPT

được đăng tải, công bố trên các tạp chí khoa học, hội thảo khoa học về Luật học, Tội

phạm học. Tuy nhiên, hiện chưa có công trình nào nghiên cứu về nhân thân NPT trên

địa bàn huyện Củ Chi. Chính vì thế, việc nghiên cứu đề tài này không bị trùng lắp

với bất kỳ công trình khoa học nào đã được công bố trước đây..

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý

luận về nhân thân NPT và thực trạng nhân thân NPT trên địa bàn huyện Củ Chi,

TP.HCM để tìm ra được những giải pháp, kiến nghị hiệu quả góp phần nâng cao hiệu

2

quả phòng ngừa THTP trên địa bàn này từ góc độ nhân thân NPT.

- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được các mục đích trên, Luận văn giải quyết

các nhiệm vụ cụ thể sau:

Một là, nhiệm vụ nghiên cứu về lý luận, bao gồm những hoạt động cụ thể như:

Tìm, thu thập và nghiên cứu tài liệu về tội phạm học và những tài liệu khác liên quan

đến đề tài làm để thống nhất nhận thức, làm cơ sở cho việc nghiên cứu về thực trạng.

Hai là, nhiệm vụ nghiên cứu về thực tiễn, bao gồm những hoạt động cụ thể

như: Tìm kiếm, thu thập, xử lý, phân tích, so sánh số liệu thống kê hình sự, các tài

liệu, bản án, thông tin về các vụ án hình sự trong phạm vi nghiên cứu; Xử lý, phân

tích, so sánh các số liệu, thông tin theo các tiêu thức tội phạm học để làm rõ các đặc

điểm nhân thân NPT trên phạm vi không gian và thời gian nghiên cứu.

Ba là, dự báo xu hướng của THTP trên địa bàn nghiên cứu, tập trung vào xu

hướng của những yếu tố tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực

của con người.

Bốn là, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả phòng

ngừa THTP trên địa bàn nghiên cứu từ góc độ nhân thân NPT.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là nhân thân

NPT trên địa bàn huyện Củ Chi, TP.HCM.

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Về mặt nội dung, đề tài nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học, thuộc chuyên

ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm;

+ Về thời gian, đề tài sử dụng chất liệu nghiên cứu trong vòng 05 năm, từ năm

2014 đến năm 2018;

+ Về không gian, đề tài luận văn được thực hiện trong phạm vi huyện Củ Chi,

TP. HCM.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận là

quan điểm duy vật biện chứng của triết học Mác – Lê nin; quan điểm của Đảng và

3

Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm; các tri thức khoa học của Tội phạm

học và Tâm lý học.

- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu

sau đây:

+ Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng trong toàn bộ luận văn nhằm

làm rõ về nhân thân NPT;

+ Phương pháp thống kê được sử dụng trong thống kê số liệu của Luận văn

nhằm khái quát THTP và nhân thân NPT trong phạm vi nghiên cứu;

- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp được sử dụng trong Chương 2

của Luận văn để phân tích, so sánh, tổng hợp tìm các quy luật, các hạn chế, khó

khăn... đưa ra các dự báo để làm cơ sở đề xuất các giải pháp phòng ngừa THTP trên

địa bàn huyện Củ Chi từ khía cạnh nhân thân NPT.

- Phương pháp nghiên cứu điển hình được sử dụng trong Chương 2 của Luận

văn trong việc phân tích một số vụ án xảy ra trên địa bàn nghiên cứu từ đó đưa ra

những đánh giá chính xác và đề ra các giải pháp phòng ngừa THTP phù hợp từ khía

cạnh nhân thân NPT.

- Phương pháp chuyên gia được sử dụng trong Chương 2, chương 3 của Luận

văn để để lấy ý kiến, nhận xét và dự báo về THTP cũng như các yếu tố tác động đến

hình thành nhân thân tiêu cực của NPT trên địa bàn nghiên cứu.

- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm được sử dụng trong chương 2,3 của Luân

văn để nghiên cứu tổng kết, đánh giá những kết quả, tài liệu thu thập được từ thực

tiễn và đề xuất giải pháp phòng ngừa THTP trên địa bàn nghiên cứu từ khía cạnh

nhân thân NPT.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

- Ý nghĩa về mặt lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu một cách hệ thống

về nhân thân NPT trên địa bàn huyện Củ Chi từ năm 2014 đến năm 2018. Kết quả

nghiên cứu Luận văn còn góp phần bổ sung, hoàn thiện hơn nữa lý luận của tội phạm

học về nhân thân NPT.

- Ý nghĩa về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được vận

4

dụng vào thực tiễn công tác phòng, chống tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi,

TP.HCM trong thời gian tới từ góc độ nhân thân của NPT và có thể sử dụng là tài

liệu tham khảo cho các hoạt động giảng dạy, học tập, nghiên cứu.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn có kết cấu nội

dung gồm ba chương như sau:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội.

Chương 2: Thực trạng nhân thân người phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi,

Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ năm 2014 đến năm 2018.

Chương 3: Dự báo và một số giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội

phạm trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh từ góc độ nhân thân người

5

phạm tội.

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI

1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội và ý nghĩa của việc nghiên cứu

nhân thân người phạm tội

1.1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội

Trong lý luận về tội phạm học, khi phân tích về THTP, những nguyên nhân,

điều kiện của THTP và đề ra các biện pháp phòng ngừa thì không thể không nghiên

cứu về chính những chủ thể đã thực hiện tội phạm ở nhiều khía cạnh khác nhau, bao

gồm nhân thân của họ. Tội phạm học gọi những chủ thể đó là NPT.

Người phạm tội trước hết là con người cụ thể trong xã hội. Về luận điểm này,

C. Mác đã cho rằng: “Nhà nước cần phải thấy rằng kẻ vi phạm đó là một con người,

một tế bào sống của xã hội, ở con người đó cũng có quả tim đang đập và dòng máu

đang chảy… một thành viên của tập thể thực hiện các chức năng của xã hội, một

người chủ gia đình mà sự tồn tại của họ là sự thiêng liêng và cuối cùng điều quan

trọng nhất họ là công dân của nhà nước đó” [12, tr.93].

Là sản phẩm của tự nhiên nên trước hết, con người nói chung và NPT nói riêng

mang các đặc tính tự nhiên, đặc tính sinh học. Vì là một thực thể sinh học nên con

người mang các đặc tính của sinh vật. Những đặc tính sinh vật đó quyết định sự hình

thành những hiện tượng, quá trình tâm lý của con người. Mặt khác, để tồn tại được

đòi hỏi con người phải có quá trình lao động sản xuất của cải vật chât để phục vụ nhu

cầu sinh học của mình như ăn, uống, nghỉ ngơi, sinh hoạt. Đồng thời, trong bất kỳ xã

hội nào, con người không bao giờ tách rời riêng lẻ mà luôn luôn có quan hệ với nhau.

Mối quan hệ này không đơn thuần là mối quan hệ giữa ca nhân với cá nhân mà còn

là quan hệ giữa cá nhân với tập thể, với cộng đồng, giữa các thế hệ nối tiếp nhau trong

tiến trình lịch sử xã hội. Chính những mối quan hệ xã hội đa dạng đó mà toàn bộ đời

sống sinh hoạt cá nhân, kinh nghiệm sống và cách thức đối nhân xử thế của mỗi người

được định hình. Tất cả những đặc điểm tâm, sinh lý cùng với những biểu hiện các

6

quan hệ liên quan đến một con người, thể hiện bản chất riêng của họ, hợp thành nhân

thân của người đó.

Về nhân thân NPT, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau của các nhà khoa học,

điển hình như:

- Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì: “Nhân thân người phạm tội là tổng thể tất

cả các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội, trong sự kết hợp với điều kiện và

hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người đó”[43, tr.131].

- Theo GS.TS Đỗ Ngọc Quang thì:“Nhân thân người phạm tội là tổng hợp

những đặc điểm, những dấu hiệu, mối quan hệ xã hội về một con người chứa đựng

phẩm chất cá nhân tiêu cực trong nhân cách dẫn đến hành vi phạm tội”.

- Theo PGS.TS Kiều Đình Thụ thì:“Nhân thân người phạm tội là tổng hợp tất

cả những khía cạnh xã hội đặc trưng của người phạm tội tạo thành cá nhân, có ý

nghĩa giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự”.

- Theo PGS. TS Phạm Văn Tỉnh thì:“Nhân thân người phạm tội là tổng hòa

các yếu tố, các đặc điểm riêng biệt của người phạm tội ở một địa bàn hành chính –

lãnh thổ nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định về các mặt tâm-sinh lý-xã

hội, nhân khẩu-nhân chủng học, dân tộc học và pháp lý, những cái có ý nghĩa, có giá

trị thiết thực cho việc xác định nguyên nhân, điều kiện của tội phạm để có giải pháp

phòng ngừa tội phạm phù hợp” [27, Tr 212- 222].

Mặc dù còn có những cách hiểu khác nhau về nhân thân NPT nhưng qua

nghiên cứu, học viên nhận thấy rằng: Về cơ bản, các nhà nghiên cứu đã thống nhất

chỉ ra những vấn đề cốt lõi của khái niệm nhân thân NPT đó là:

- Nhân thân NPTlà tổng hợp tất cả các yếu tố, đặc điểm đặc trưng của người

phạm tội. Đó là những yếu tố, đặc điểm về mặt tâm-sinh lý-xã hội, nhân khẩu-nhân

chủng học, dân tộc học và pháp lý...

- Những đặc điểm đó trong sự kết hợp với điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài

dẫn đến hành vi phạm tội của người đó. Do đó, khi tác động vào các đặc điểm đó

trong mối quan hệ với sự kết hợp với các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài sẽ ngăn

chặn hành vi phạm tội, qua đó góp phần kéo giảm THTP trên thực tế.

7

Từ những phân tích nêu trên, có thể rút ra khái niệm nhân thân người phạm

tội như sau:

Nhân thân người phạm tội là tổng hòa tất cả các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa

về mặt xã hội, trong sự kết hợp với điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến

hành vi phạm tội của người đó, có giá trị cho việc xác định nguyên nhân, điều kiện

của tội phạm để có giải pháp phòng ngừa tội phạm phù hợp.

Như vậy, có thể thấy rằng, khi đề cập đến nhân thân của NPTlà nói đến tổng

hòa các dấu hiệu, đặc điểm của cá nhân của con người thực hiện tội phạm. Đó là

những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất của con người nói chung tham gia các

mối quan hệ xã hội, đồng thời còn chứa đựng những phẩm chất tiêu cực. Những phẩm

chất tiêu cực này được thể hiện trong một hệ thống những đặc điểm và dấu hiệu: đạo

đức, tâm lý, quan điểm, sự kích động, mục đích, động cơ, niềm tin, hy vọng, lý trí,

xúc cảm… Chính những phẩm chất tiêu cực này là tiền đề cho việc thực hiện tội phạm

của người phạm tội.

1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu các đặc điểm nhân thân người phạm tội

Nhân thân NPT là vấn đề quan trọng được nhiều ngành khoa học xã hội như

khoa học về luật hình sự, luật tố tụng hình sự, khoa học về điều tra tội phạm, tâm lý

học tư pháp, tội phạm học... Mỗi ngành khoa học đều có mục đích, nhiệm vụ và phạm

vi nghiên cứu khác nhau, cho nên khi nghiên cứu về nhân thân NPTthì mỗi ngành

khoa học có mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu, hướng tiếp và ý nghĩa khác

nhau. Trong phạm vi Luận văn này, học viên xin đề cập đến các ý nghĩa sau:

- Nghiên cứu nhân thân NPT là nền tảng xác định nguyên nhân và điều kiện

của tình hình tội phạm

GS.TS. Võ Khánh Vinh khẳng định “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình

tội phạm được hiểu là hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cưc trong hình thái kinh tế

- xã hội tương ứng quyết định sự ra đời của tình hình tội phạm như là hậu quả của

minh” và “Các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tạo thành một hệ

thống gồm nhiều bộ phận cấu thành nó” [43]. Theo đó, “không thể nhận thức, hiểu

biết được các nguyên nhân và điều kiện đó nếu thiếu việc cân nhắc nhân thân người

8

phạm tội” [44, tr. 127].

Khoa học Tội phạm học đã chỉ ra rằng: Nguyên nhân và điều kiện của THTP

có mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố chủ quan của NPT như: Các đặc điểm về

tâm, sinh lý, thói quen, sở thích... với các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài làm phát

sinh tội phạm. Trong đó, những yếu tố thuộc về mặt chủ quan bao gồm những lệch

lạc về nhu cầu và cách thức để thỏa mãn nhu cầu sẽ là động cơ thúc đẩy việc thực

hiện tội phạm. Yếu tố chủ quan khác đó là ý thức pháp luật kém, không tôn trọng

pháp luật, không thừa nhận giá trị xã hội đích thực của pháp luật, từ đó dẫn đến việc

thực hiện tội phạm. Mặt khách quan bên ngoài được hiểu là những hoàn cảnh, tình

huống thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm, có thể là hoàn cảnh kéo dài (hoàn cảnh

khó khăn của gia đình), hay một sự kiện có tính chất tạm thời, hay cử chỉ, hành vi của

chính nạn nhân gây ra. Các nguyên nhân và điều kiện đó trong sự tương tác qua lại

lẫn nhau đã tham gia vào quá trình hình thành các đặc điểm tâm lý, đạo đức của cá

nhân, quyết định động cơ và sự quyết tâm thực hiện tội phạm. Chính vì vậy nghiên

cứu nhân thân NPT sẽ cho thấy những điều kiện, hoàn cảnh tiêu cực từ môi trường

tác động như thế nào đến sự hình thành nhân cách, đạo đức, đến quá trình động cơ

hóa hành vi phạm tội đó chính là nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm.

- Nghiên cứu nhân thân NPT đảm bảo tính chính xác của hoạt động định tội,

định khung và quyết định hình phạt

Theo GS.TS. Võ Khánh Vinh, nhân thân NPT được hiểu là “tổng thể tất cả

các đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội của người thực hiện tội phạm được cân nhắc

để giải quyết các vấn đề của trách nhiệm hình sự (cá thể hóa hình phạt, miễn trách

nhiệm hình sự, miễn và giảm hình phạt” [44, Tr.194]. Những đặc điểm đó có thể là

tuổi, giới tính, nghề nghiệp, thái độ làm việc, thái độ trong mối quan hệ với người

khác, trình hộ học vấn, hoàn cảnh gia đình, đời sống kinh tế, thái độ chính trị, ý thức

pháp luật, tôn giáo, tiền án, tiền sự...

Nhân thân của NPT có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xác định trách

nhiệm hình sự của người phạm tội. Nhiều đặc điểm nhân thân NPT như phạm tội lần

đầu, có tiền án, tiền sự, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tính chất chuyên

9

nghiệp, phạm tội có tính côn đồ, hung hãn, là người chưa thành niên... có ảnh hưởng

đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong bộ luật

hình sự. Trên cơ sở phân tích, làm rõ các đặc điểm nhân thân này, cho phép xác định

tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để có thể quyết định được loại

hình phạt và mức hình phạt tương xứng. Đặc biệt khi áp dụng các chế định giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự như áp dụng hình phạt nhẹ hơn khung thấp nhất điều luật quy

định, quyết định cho hưởng án treo, miễn chấp hành hình phạt thì ngoài việc phân

tích các đặc điểm nhân thân được quy định trong bộ luật hình sự, để đảm bảo phát

huy tính hiệu quả cao của chế định này, đòi hỏi cần phải phân tích làm rõ nhiều đặc

điểm nhân thân khác của NPT như thói quen, khí chất, quan điểm sống, quan điểm

về đạo đức, những bệnh thần kinh, bệnh tâm thần, sự bất ổn về tâm lý, về tính cách,

phẩm chất... Tất cả những đặc điểm này cho phép suy đoán về khả năng tự cải tạo

của những người này để có thể áp dụng chế định vừa đảm bảo vừa phù hợp với tính

chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, vừa đảm bảo ngăn ngừa tái phạm cũng

như phù hợp với đặc điểm nhân thân của người phạm tội, với chính sách nhân đạo

của nhà nước.

- Nghiên cứu nhân thân NPT tạo cơ sở cho việc xây dựng, triển khai các biện

pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội

Quá trình giáo dục, cải tạo NPT là quá trình áp dụng các biện pháp cụ thể,

thông qua đó giúp những người đã thực hiện các hành vi phạm tội có thể loại bỏ được

những đặc điểm nhân thân xấu, những đặc điểm nhân thân có vai trò tác động thức

đẩy việc phát sinh ý định phạm tội, thúc đẩy việc thực hiện tội phạm. Đây là một quá

trình khó khăn, phức tạp, bởi nhiều đặc điểm nhân thân của con người được hình

thành trong quá trình lâu dài, trong những điều kiện, hoàn cảnh đặc thù và rất khó

thay đổi như: lòng thù hận, sự chống đối, sự bất cần, sự vô kỷ luật, tính ích kỷ, tính

côn đồ, sự hung hãn… Để làm thay đổi những đặc điểm nhân thân này đòi hỏi cần

phản phân tích kỹ các đặc điểm nhân thân của từ NPT, phải hiểu rõ quá trình hình

thành các đặc điểm nhân thân đó thì mới có thể đưa ra các biện pháp thích hợp nhằm

tác động hiệu quả đến từng cá nhân để dần làm thay đổi các đặc điểm nhân thân của

10

họ. Nghiên cứu các đặc điểm nhân thân NPT sẽ góp phần quan trọng trong việc lựa

chọn các biện pháp giáo dục, cải tạo NPT một cách hiệu quả.

- Nghiên cứu nhân thân NPT có ý nghĩa quan trọng trong dự báo về tội phạm

và phòng ngừa tội phạm

Nghiên cứu nhân thân của NPT giúp hiểu rõ mức độ phổ biến, tính đa dạng

của các loại nhân thân NPT khác nhau, các đặc điểm nhân thân của nhiều tầng lớp

dân cư, khu vực lãnh thổ khác nhau trong mối liên hệ tác động qua lại giữa các thiết

chế trong hệ thống các quan hệ xã hội phức tạp, từ đó có thể phân loại tội phạm,

NPTtheo từng nhóm, từng loại có những đặc điểm nhân thân giống nhau và xác định

nguyên nhân, điều kiện của từng nhóm, loại tội phạm, của từng người phạm tội, để

phục vụ cho công tác phòng ngừa theo từng nhóm, loại tội phạm và NPT nhằm làm

kéo giảm tình trạng tội phạm trong xã hội.

Nghiên cứu làm rõ các nguyên nhân dẫn đến sự hình thành các đặc điểm nhân

thân xấu, tiêu cực, sai lệch của NPT sẽ giúp cho việc đề ra các giải pháp, biện pháp

phù hợp nhằm tác động loại bỏ dần dần các đặc điểm nhân thân xấu, tiêu cực, góp

phần hình thành các đặc điểm nhân thân tích cực, nhân thân tốt và qua đó làm chuyển

biến NPTtrở thành người có ích cho xã hội.

Từ những phân tích nêu trên, có thể kết luận rằng: Nghiên cứu nhân thân NPT

thực chất là nghiên cứu những nguyên nhân và điều kiện trong quá trình hình thành

các đặc điểm nhân thân tiêu cực, nhân thân xấu của NPT, từ đó đưa ra các giải pháp,

kiến nghị nhằm hạn chế và tiến tới đẩy lùi tội phạm, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu

tranh phòng, chống tội phạm, góp phần giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội và phồn

vinh đất nước.

1.2. Các đặc điểm nhân thân của người phạm tội

Trong Tội phạm học, các đặc điểm nhân thân NPT thường được chia thành:

đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu; đặc điểm về đạo đức - tâm lý và đặc điểm pháp

lý hình sự. Các nhóm đặc điểm này có mối quan hệ biện chứng với nhau, có sự tác

động qua lại, ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân thân của NPT, cụ thể như sau:

1.2.1. Nhóm đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu

11

Các đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu của nhân thân NPT bao gồm: giới

tính, độ tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, nơi cư trú… của

người phạm tội. Việc làm sáng tỏ những đặc điểm đó cho phép chúng ta biết được

một số mối liên hệ và sự phụ thuộc của chúng có ý nghĩa đối với việc phòng ngừa,

biết được tình huống và hoàn cảnh ảnh hưởng đến sự hình thành định hướng giá trị

không đúng đắn của NPT.

- Đặc điểm về giới tính: Khi nghiên cứu giới tính người phạm tội, tội phạm

học tập trung làm rõ tỷ trọng và mối tương quan giữa những NPTthuộc giới tính khác

nhau trong tổng số chung. Qua đó sẽ thấy được yếu tố giới tính có ảnh hưởng như thế

nào đến việc thực hiện tội phạm cũng như việc áp dụng các biện pháp giáo dục, cải

tạo và phòng ngừa tội phạm. Những kết quả nghiên cứu của các nhà Tội phạm học

cho thấy nam giới một số loại tội phạm chủ yếu chỉ do nam giới thực hiện, hoặc chỉ

do nữ giới thực hiện; nữ giới lại có nhiều thuận lợi khi thực hiện và che dấu tội phạm

hơn nam giới. Ngoài ra, trong thời gian gần đây với sự cởi mở của xã hội làm cho

LGBT1 xuất hiện càng nhiều và thực tế đã có một số trường hợp người LGBT thực

hiện tội phạm có hành vi và thủ đoạn phạm tội mang tính đặc thù như cố ý gây thương

tích, giết người do ghen tuông tình ái, xâm hại tình dục đối với trẻ em... Đây là những

vấn đề cần được chú ý trong thời gian tới để có biện pháp phòng ngừa phù hợp.

- Đặc điểm về độ tuổi: Trình độ học vấn là một trong những đặc điểm về mặt

xã hội – nhân khẩu của NPT có ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức, đến hành vi ứng

xử của con người trong các mối quan hệ xã hội và trong quá trình thực hiện tội phạm.

Độ tuổi của NPT thường được chia làm nhiều nhóm với những đặc trưng riêng gắn

với tâm lý lứa tuổi. Đa số các quan điểm hiện nay chia người phạm tội theo lứa tuổi

ra làm bốn nhóm lứa tuổi sau: Nhóm từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi; nhóm từ đủ 18 đến

dưới 30 tuổi; nhóm từ đủ 30 đến dưới 45 tuổi; nhóm trên 45 tuổi với các đặc điểm

riêng như sau: Những người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi có đặc điểm tâm lý và nhận

thức chưa đầy đủ, còn thiếu kinh nghiệm trong xử lý tình huống trong cuộc sống, họ

1 LGBT hoặc là GLBT là tên viết tắt của Cộng đồng những người đồng tính luyến ái nữ (Lesbian), đồng tính luyến ái nam (Gay), song tính luyến ái (Bisexual) và Hoán tính hay còn gọi là Người chuyển giới (Transgender);

12

là những người rất dễ bị dụ dỗ, lôi kéo và chịu ảnh hưởng nặng nhất của những yếu

tố tiêu cực của môi trường sống bên ngoài. Những người trong độ tuổi từ 18 đến dưới

30 tuổi là những người đã hoàn thiện về mặt tâm sinh lý, tuy nhiên lứa tuổi này đang

trong giai đoạn định hướng nghề nghiệp, tạo lập cuộc sống riêng nên sự diễn biến

tâm lý vô cùng phức tạp và cũng dễ bị ảnh hưởng của những yếu tố, hiện tượng tiêu

cực bên ngoài môi trường sống. Những người nằm trong nhóm tuổi từ đủ 30 đến dưới

45 tuổi là lứa tuổi đã hoàn toàn chín chắn về mặt suy nghĩ cũng như tâm sinh lý, cuộc

sống đã đi vào ổn định và đa số đã lập gia đình, làm cha, làm mẹ, nghề nghiệp của họ

đã được ổn định nên cũng ít chịu ảnh hưởng của những nhân tố tiêu cực từ cuộc sống

bên ngoài so với hai nhóm tuổi trước. Lứa tuổi trên 45 là độ tuổi đã có sức ỳ trong

suy nghĩ và hành động. Những người trong độ tuổi này thường an phận, chấp nhận

cuộc sống hiện tại, ngại thay đổi nhưng vô cùng tham vọng, nhưng diễn biến tâm lý

lại biến đổi theo chiều hướng tiêu cực như bảo thủ, chậm tiến ...

Với các đặc điểm riêng của từng lứa tuổi đó, Tội phạm học nghiên cứu tác

động của từng lứa tuổi trong việc hình thành các đặc điểm nhân thân xấu, có vai trò

quan trọng trong cơ chế hành vi phạm tội; làm rõ vai trò của độ tuổi trong việc lựa

chọn phương thức, thủ đoạn thực hiện tội phạm. Bên cạnh đó, khoa học Tội phạm

học cũng tiến hành nghiên cứu để xác định được hai vấn đề quan trọng đó là lứa tuổi

nào phạm tội nhiều nhất, lứa tuổi nào phạm một số tội chủ yếu, trong cơ chế hình

thành hành vi phạm tội giữa các lứa tuổi có gì khác nhau, vai trò của từng lứa tuổi ra

làm sao. Đây là cơ sở quan trọng trong việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa

THTP cho toàn xã hội

- Đặc điểm về trình độ học vấn

Trình độ học vấn ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức, đến hành vi ứng xử của

con người trong các mối quan hệ xã hội nói chung và hành vi phạm tội nói riêng. Tội

phạm học nghiên cứu làm rõ tỷ trọng, mối tương quan giữa những NPT có trình độ

học vấn khác nhau trong tổng số NPT, qua đó làm rõ ảnh hưởng của học vấn đến việc

thực hiện tội phạm, vai trò của nó trong giáo dục, cải tạo NPT. Căn cứ vào trình độ

học vấn, NPT có thể được chia thành 05 nhóm: Người không biết chữ; Người có trình

13

độ tiểu học; Người có trình độ trung học cơ sở; người có trình độ trung học phổ thông;

người có trình độ cao đẳng trở lên.

- Đặc điểm về địa vị xã hội và nghề nghiệp: Khi nghiên cứu đặc điểm về địa

vị xã hội và nghề nghiệp của NPT sẽ cho biết được nhóm người làm việc ở những

ngành, lĩnh vực nào trong xã hội dễ thực hiện tội phạm và loại tội phạm họ thực hiện

[43, tr.145], từ đó có biện pháp phòng ngừa phù hợp. Bởi nghề nghiệp và địa vị xã

hội quan hệ mật thiết với việc hình thành và phát triển nhân cách con người. Đặc

điểm về địa vị xã hội và nghề nghiệp của những người thực hiện tội phạm cho biết

được ở những điều kiện và nhóm xã hội nào, ở những lĩnh vực nào của hoạt động

sống, loại tội phạm này hay tội phạm khác được thực hiện; biết được những nhân tố

phạm tội đặc trưng cho những nhóm NPT khác nhau, những ngành khác nhau của

nền kinh tế.

Thực tiễn nhân thân NPTcho thấy rằng: Nghề nghiệp ổn định, thu nhập cao,

địa vị xã hội cao sẽ ít tác động làm phát sinh các đặc điểm nhân thân tiêu cực của

NPT. Ngược lại, nghề nghiệp có điều kiện làm việc nặng nhọc, thu nhập thấp, bấp

bênh hoặc thậm chí là thất nghiệp... đều được coi là những yếu tố tác động lớn đến

việc hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của con người. Bên cạnh đó, người

có nghề nghiệp ổn định, thu nhập tốt nhưng công tác quản lý bị buông lỏng, thiếu

kiểm tra, giám sát cũng sẽ dễ dàng tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân

thân tiêu cực, như lòng tham, sự ích kỷ, vụ lợi, hám danh, hám lợi...

-. Đặc điểm về hoàn cảnh gia đình: Hoàn cảnh gia đình có tác động rất lớn đến

sự hình thành các đặc điểm nhân thân của NPT. Dưới tác động của các yếu tố tiêu

cực khác, các khiếm khuyết của gia đình sẽ ảnh hưởng đến quá trình hình thành các

đặc điểm nhân thân xấu của con người và trong những tình huống, điều kiện thuận

lợi sẽ dễ dàng phát sinh hành vi phạm tội. Phần lớn NPT thường rơi vào những gia

đình khiếm khuyết (thiếu cha, thiếu mẹ, hoặc thiếu cả cha lẫn mẹ), gia đình đông con,

gia đình có kinh tế khó khăn, gia đình có người vi phạm pháp luật, gia đình bạo

hành... Do đó, Tội phạm học nghiên cứu làm rõ hoàn cảnh gia đình mà NPT đã sống,

đang sống và ảnh hưởng, tác động của yếu tố gia đình đến quá trình thực hiện tội

14

phạm cũng như vai trò của gia đình đối với quá trình giáo dục, cải tạo người phạm

tội, từ đó thực hiện các biện pháp phòng ngừa THTP một cách hiệu quả hơn.

- Đặc điểm về nơi cư trú: Nơi cư trú của NPT là nơi mà người đó thường xuyên

sinh sống, đó có thể là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú. Xét về khía cạnh tội phạm

học, nơi cư trú là môi trường của sự hình thành và phát triển nhân cách cá nhân con

người, nó thể hiện quá trình xã hội hóa của cá nhân, xác định vai trò, vị trí của mỗi

cá nhân trong môi trường lớn. Vì trong môi trường nơi cư trú, con người sẽ giao lưu

với nhiều mối quan hệ đang xen lẫn nhau như bạn bè, gia đình, tình cảm, công việc

trong đời sống hàng ngày và do đó sẽ chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi những đặc điểm

riêng về kinh tế, văn hóa, giáo dục, đạo đức, thuần phong, mỹ tục, truyền thống, tác

động của hương ước, lệ làng… Nghiên cứu về nơi cư trú của NPT sẽ cho thấy sự tác

động mạnh mẽ của nơi cư trú đến quá trình hình thành hành vi tội phạm. Điều này có

ý nghĩa trong hoạt động dự báo và phòng ngừa THTP.

1.2.2. Các đặc điểm về đạo đức - tâm lý

Những đặc điểm đạo đức - tâm lý đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành

động cơ và trong sự lựa chọn phương án hành vi phạm tội trong những tình huống

nhất định [45, tr.136]. Những đặc điểm đạo đức - tâm lý của nhân thân NPT bao gồm:

- Đặc điểm về nhu cầu, hứng thú

Nhu cầu của con người được hình thành và phát triển trong những điều kiện

xã hội lịch sử nhất định, trong quá trình hoạt động của mỗi cá nhân nó vừa mang tính

cơ động lại vừa có tính bền vững, ổn định. Có những nhu cầu phong phú, lành mạnh

đồng thời cũng có những nhu cầu lệch chuẩn.

Khi nghiên cứu về đặc điểm nhu cầu của NPT thì Tội phạm học nhận thấy có

sự hạn hẹp của các nhu cầu, sự mất cân đối trong hệ thống nhu cầu, thường tập trung

vào một số nhu cầu thực dụng và cực đoan, chẳng hạn như nhu cầu sử dụng ma túy,

thỏa mãn tình dục.... dẫn đến phương thức thỏa mãn trái pháp luật hình sự.

Hứng thú có vai trò quan trọng trong cơ chế hình thành hành vi phạm tội, nó

tác động trực tiếp đến quá trình hình thành động cơ và mục đích của việc thực hiện

hành vi phạm tội, nó tạo ra sự say mê, cuốn hút cao độ đối với cá nhân trong việc

15

thực hiện những hành vi chống đối xã hội. Những người thực hiện hành vi phạm tội

thường thiên về những hứng thú thấp kém, những khoái cảm vật chất, hưởng thụ,

thậm chí có sự lệch chuẩn nghiêm trọng trong những đam mê, hấp dẫn của bản thân.

NPT thường bị lôi cuốn, bị hấp dẫn bởi những hành vi và suy nghĩ lệch chuẩn, đi

ngược lại với những chuẫn mực, đạo đức xã hội. Với những nhóm tội khác nhau thì

biểu hiện của sự hứng thú của NPT cũng khác nhau.

Từ các khía cạnh đó, Tội phạm học tập trung làm rõ sự ảnh hưởng của nhu

cầu, hứng thú đối với việc làm phát sinh động cơ, mục đích phạm tội và sự ảnh hưởng

của nhu cầu, hứng thú lên hành vi và việc xử sự của con người khi nó không được

thỏa mãn, để tạo cơ sở định hướng xây dựng các biện pháp phòng ngừa THTP một

cách chủ động và hiệu quả.

- Đặc điểm về định hướng giá trị:

Đặc điểm về định hướng giá trị thể hiện những đánh giá của cá nhân về các

nhóm giá trị trong cuộc sống. Các nhóm giá trị này được thể hiện một cách cụ thể

như giữa vật chất-tinh thần, cá nhân-tập thể, nội dung - hình thức, truyền thông - hiện

đại, dân tộc – quốc tế... Khi nghiên cứu về định hướng giá trị của người phạm tội, tội

phạm học nhận thấy NPT có sự đánh giá không đúng, có sự nhầm lẫn giữa các giá trị

xã hội. Mất cân đối trong hệ thống các giá trị, NPT thường chỉ tập trung và chú trọng

vào những giá trị trước mắt, giá trị thực dụng. Luôn đặt lợi ích cá nhân lên trên các

nhóm lợi ích khác. Giữa nhu cầu, cách thỏa mãn nhu cầu, định hướng giá trị cùng với

tình hình tội phạm có một mối liên hệ chặc chẽ với nhau, cùng với nhu cầu, hứng thú

được coi là hệ thống động lực của nhân cách.

- Đặc điểm về ý thức đạo đức, ý thức pháp luật

Đối với yếu tố đạo đức, NPT có sự hạn chế trọng việc tiếp cận các giá trị đạo

đức. NPT có những quan niệm, đánh giá riêng biệt về nội dung của những giá trị đạo

đức, quan niệm của họ về điều thiện-ác, tốt-xấu, chính-tà có sự sai lệch so với những

chuẫn mực chung của đời sống xã hội, họ thường có xu hướng phủ định những điều

thiện, cái tốt, cái lương thiện. Thực tiễn cho thấy sự hiểu biết của họ về giá trị đạo

đức là không đầy đủ, thiếu chiều sâu, vì vậy làm cho họ dễ dàng hơn trong việc lựa

16

chọn cho mình xử sự chống đối xã hội.

Trong ý thức pháp luật, NPT thường có xu hướng chống đối xã hội, chống đối

pháp luật hoặc ở mức độ thấp là sự coi thường pháp luật.

1.2.3. Đặc điểm pháp lý hình sự

Nhóm đặc điểm này là một trong những dấu hiệu thể hiện tính chất nguy hiểm

của tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự và thái độ, ý thức pháp luật của

người phạm tội, có ý nghĩa trong việc định tội và quyết định hình phạt. Điều này có

vai trò quan trọng đối với công tác phòng ngừa THTP bởi việc định tội, quyết định

hình phạt một cách đúng đắn, nghiêm minh, có tình, có lý sẽ giúp ngăn ngừa tình

trạng tái phạm cũng như tác dụng răn đe chung đối với xã hội, qua đó ngăn ngừa việc

người khác khác phạm tội.

- Động cơ và mục đích: Động cơ phạm tội là trạng thái tâm lý bên trong thúc

đẩy hoạt động, làm tăng thêm tính tích cực ở chủ thể khi thực hiện hành vi phạm tội.

Mục đích phạm tội là cái mà NPTnhằm đạt được bằng hành vi phạm tội. Việc lựa

chọn mục đích là do động cơ quyết định, động cơ hướng thái độ của chủ thể vào

những mục đích nhất định. Như vậy, mục đích của hành vi phạm tội thường không

do điều kiện khách quan mà do chủ thể định ra và được nhận thức như là yếu tố cần

thiết và có khả năng thực hiện trong điều kiện nhất định. Động cơ phạm tội thường

xuất phát từ những nhu cầu nhỏ nhen, hẹp hòi hoặc đố kị, thực dụng, suy thoái…

- Hình thức phạm tội: Nghiên cứu về hình thức phạm tội là nghiên cứu xem

tội phạm do một người hay do nhiều người cùng gây ra. Nếu tội phạm chỉ do một cá

nhân thực hiện mà không có sự giúp sức của bất kỳ người nào khác thì đó là tội phạm

riêng lẻ. Nếu có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm thì đó là đồng

phạm. Nếu tội phạm được thực hiện là đồng phạm thì đó là đồng phạm đơn giản hay

đồng phạm phức tạp? Đồng phạm có thông mưu trước hay không có thông mưu

trước? Nếu là đồng phạm thì vai trò của mỗi người trong khi thực hiện hành vi phạm

tội như thế nào để từ đó xác định tính chất, mức độ tham gia của họ trong vụ án, xác

định hình phạt chính xác với mức độ tham gia của mỗi người.

- Phạm tội lần đầu, tái phạm, tái phạm nguy hiểm: Việc nghiên cứu xem người

17

thực hiện hành vi phạm tội lần đầu hay tái phạm, tái phạm nguy hiểm có ý nghĩa quan

trọng trong việc xem xét trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt đối với người

phạm tội.

- Đặc điểm về tiền án, tiền sự:Khi nghiên cứu đặc điểm nhân thân người phạm

tội, chúng ta không thể bỏ qua vấn đề tiền án, tiền sự của người thực hiện hành vi

phạm tội. Tiền án, tiền sự là cụm từ mà không ai muốn nó xuất hiện trên nhân thân

của mình, bởi nó như một vết tích ảnh hưởng đến lý lịch của bản thân, ảnh hưởng đến

công việc sau này, cũng như là một yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc bị truy cứu hay

không truy cứu trách nhiệm hình sự của một người trong vụ việc hình sự.

- Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Nghiên cứu

về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là việc làm cần thiết

để có thể đánh giá đầy đủ, chính xác về hành vi phạm tội. Tính chất nguy hiểm cho

xã hội của hành vi nghĩa là xem xét hành vi ấy đã xâm hại hoặc đe dọa xâm hại quan

hệ xã hội nào, khách thể nào, có tính chất, tầm quan trọng ra sao? Người thực hiện

hành vi phạm tội có mang tính chất chuyên nghiệp, côn đồ hay không? Mức độ nguy

hiểm cho xã hội của hành vi nghĩa là hành vi ấy gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt

hại ở mức độ nào…

Tóm lại, đặc điểm của nhân thân NPT bao gồm 03 nhóm đặc điểm cơ bản là:

Đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu, đặc điểm về đạo đức - tâm lý và đặc điểm pháp

lý hình sự. Mỗi nhóm đặc điểm thể hiện khía cạnh khác nhau của nhân thân NPT.

Các đặc điểm này không tách rời nhau mà luôn gắn liền với từng cá nhân con người,

chúng có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành nhân cách tiêu cực của cá

nhân người phạm tội.

1.3. Các yếu tố tác động đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu

cực ở người phạm tội

Các đặc điểm về nhân thân con người được hình thành qua quá trình tương tác

lâu dài giữa thực thể đó với môi trường bên ngoài trong quá trình nhận thức thế giới

khách quan. Trong quá trình tương tác đó, những yếu tố tích cực của môi trường sống

sẽ có những tác động tốt đối với con người, hình thành những đặc điểm nhân thân tốt

18

và ngược lại. Nếu mang trong mình những đặc điểm nhân thân xấu, con người khi

gặp được điều kiện, hoàn cảnh cụ thể sẽ làm phát sinh tội phạm. Do vậy, nghiên cứu

quá trình hình thành các đặc điểm nhân thân xấu của NPTchúng ta không thể bỏ qua

vai trò quan trọng của các yếu tố khách quan từ môi trường bên ngoài và các yêu tố

chủ quan của người phạm tội.

1.3.1. Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến việc hình thành nhân thân tiêu

cực của người phạm tội

Một là, yếu tố thuộc về môi trường gia đình

Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một thiết

chế văn hóa – xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của

quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục… giữa các

thành viên. Gia đình cũng là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo

dục nhân cách của con người. nếu môi trường gia đình không an toàn, không lành

mạnh, thì chính những yếu tố tiêu cực trong môi trường sẽ tác động, làm hình thành

những đặc điểm nhân thân tiêu cưc, nhân cách lệch lạc và chính những đặc điểm tiêu

cực và lệch lạc này khi gặp tình huống, điều kiện thuận lợi sẽ làm phát sinh hành vi

phạm tội, nhất là lứa tổi thanh thiếu niên. Có thể kể đến một số kiểu gia đình sau đây:

- Gia đình quá nuông chiều con cái: Hiện nay do sự bùng nổ của khoa học

công nghệ, thời đại công nghệ 4.0 của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, cùng

với sự phát triển của kinh tế-xã hội, thì đời sống con người đã được nâng cao nhưng

lại có sự nghịch lý so với trước đây đó là nhiều gia đình có điều kiện kinh tế (gia đình

giàu có) nhưng lại sinh rất ít con và rất nuông chiều con cái. Mọi yêu cầu của con cái

thì ngay lập tức được đáp ứng và được thỏa mãn, kể cả những đòi hỏi không phù hợp

với lứa tuổi cũng như chuẩn mực của xã hội. Sự nuông chiều thái quá của cha mẹ đã

vô tình hình thành ở những đưa con thân yêu của họ tính ích kỷ, lười nhác, dựa dẫm

và vô trách nhiệm, luôn đòi hỏi được phục vụ, được hưởng thụ… Rồi đến một lúc

nào đó khi lợi ích cá nhân bị ảnh hưởng, tác động theo hướng bất lợi và nhu cầu

không được thỏa mãn thì những người trẻ này rất dễ đi vào con đường phạm tội.

- Gia đình không hạnh phúc: Ngày nay, với những biến đổi của nền kinh tế

19

hàng hóa và cơ chế thị trường văn hóa gia đình đang có biểu hiện xuống cấp vì những

tác động xấu của đời sống xã hội. Với ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường

và hội nhập quốc tế đã kích thích nhu cầu ham muốn vật chất, ít chú trọng đời sống

tình cảm tinh thần, tình trạng xung đột gia đình dẫn đến đổ vỡ và ly hôn ngày càng

gia tăng, làm cho gia đình không được bền vững. Những gia đình không hạnh phúc

thường có đặc điểm: cha, mẹ không hòa thuận, thường cãi nhau, đánh nhau; cha mẹ

ly thân hoặc đã ly hôn, con cái phải sống chung với cha dượng hay mẹ ghẻ... Bên

cạnh đó còn có nhiều trường hợp cha, mẹ mất sớm hoặc bỏ rơi con cái… Những đứa

trẻ trưởng thành trong những gia đình kiểu này thường mang tâm lý dẫn đến việc con

cái bị bỏ rơi, thiếu sự dạy dỗ và tình thương của cha mẹ, không được dạy dỗ và chăm

sóc chu đáo trẻ sẽ có tâm lý lệch lạc, tự do ngang bướng, bất cần. Chúng dễ dàng

phạm tội khi bị rủ rê, lôi kéo.

- Gia đình giáo dục con cái không đúng cách:Có những gia đình bố mẹ thiếu

hiểu biết hoặc không kiềm chế được nên khi trẻ có lỗi, cha mẹ đã buồn bực và sử

dụng đòn, roi để phạt con. Nhiều đứa trẻ nghĩ cha mẹ làm vậy vì không còn yêu

thương, che chắn và bảo vệ mình nữa. Điều đó khiến trẻ bị khủng hoảng về tâm lý,

tự ti, khó hòa nhập, trẻ trở lên hung hãn, lì lợm, xa lánh mọi người và căm ghét gia

đình. Trong hoàn cảnh đó trẻ dễ bị kẻ xấu lôi kéo, lợi dụng, khống chế thực hiện

những hành vi trái pháp luật. Ngược lại, có những gia đình nuông chiều con cái quá

mức. Sự nuông chiều,cha mẹ bao bọc mọi việc khiến trẻ hình thành tính ỷ lại, dựa

dẫm, sống ích kỷ, lười nhác, không ý thức về trách nhiệm, quen được phục vụ, hưởng

thụ. Đến một lúc nào đó, khi gia đình không thỏa mãn được hoặc không có điều kiện

phục vụ thì con cái trở nên bất mãn, thậm chí thù ghét bố mẹ, chúng thường bỏ nhà

đi bụi, tụ tập với bạn bè hư. Nhiều trẻ trộm cắp tài sản của chính bố mẹ mình hoặc

của người khác để thỏa mãn những nhu cầu không chính đáng như đua đòi ăn diện,

đánh bạc, hút chích…

- Gia đình thiếu sự quan tâm chăm sóc, giáo dục con cái: Vì hoàn cảnh gia

đình kinh tế quá khó khăn mà chỉ chú tâm vào cuộc sống mưu sinh hàng này, không

có thời gian quan tâm, dạy dỗ, uốn nắng kịp thời cho con cái. Cũng có những gia đình

20

có điều kiện kinh tế khá giả, nhưng vì mãi mê kiếm tiền, cha mẹ đi sớm về trễ, phó

mặt con cái cho nhà trường, cho người giúp việc, con cái muốn làm gì thì làm miễn

có nhiều tiền cho con là được. Mặc khác, trên thực tế cũng có nhiều trường hợp cha,

mẹ chưa có phương pháp đúng đắn trong việc giáo dục con cái hoặc ỷ lại cho nhà nhà

trường. Vì vậy, có trường hợp con cái bỏ học thời gian dài, đi chơi qua đêm, nghiện

hút, kết bè, kết phái, đánh nhau gây thương tích… thậm chí còn phạm tội mà cha, mẹ

không hay biết, chỉ khi con bị bắt tạm giam mới biết con mình đã phạm tội.

- Gia đình có thân nhân vi phạm pháp luật, phạm tội: Những ảnh hưởng từ việc

gia đình có ông bà, bố mẹ, anh chị em thường xuyên có những hành vi vi phạm pháp

luật hoặc phạm tội sẽ dẫn tới các em có nhận thức, tâm lý coi thường pháp luật, chà

đạp lên các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, côc cằn, lì lợm và coi thường tính

mạng, sức khỏe của người khác. Không có sự quản lý, giám sát của gia đình cùng với

những điều kiện, hoàn cảnh tiêu cực, họ sẽ dễ dàng thực hiện hành vi phạm tội.

Hai là, yếu tố thuộc về môi trường nhà trường

Môi trường nhà trường hay nói cách khác là môi trường giáo dục giữ vai trò

trò quan trọng trong việc phát triển và hình thành nhân cách của con người. Nếu môi

trường giáo dục tốt thì sẽ hình thành ở người học những phẩm chất, nhân cách con

người tốt. Ngược lại, quá trình phát triển và hình thành nhân cách của người học theo

chiều hướng tiêu cực nếu môi trường nhà trường có những hạn chế, bất cập như sau:

- Nhà trường chưa chú trọng giáo dục đạo đức, nhân cách, hiểu biết pháp luật

và kỹ năng sống.

Hiện nay, nhiều trường học chỉ coi trọng giáo dục kiến thức giao khoa, mà

xem nhẹ việc giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng xử lý tình huống trong cuộc sống,

cũng như văn hóa ứng xử cho các cháu học sinh. Sự xem nhẹ thậm chí coi thường

công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách, phẩm chất đạo đức cho học

sinh đã để lại nhiều hậu quả nặng nề cho việc hoàn thiện, và phát triển nhân cách của

hoc sinh như: Nhận thức sai lệch về giá trị cuộc sống, đạo đức học đường xuống cấp

nghiêm trọng, bạo lực học đường, coi trọng giá trị đồng tiền, xem thường lời dạy của

thầy cô giáo… dễ đưa các em đi vào con đường vi phạm pháp luật.

21

- Việc quản lý học sinh, sinh viên còn lỏng lẻo, chưa có sự phối hợp chặt chẽ

giữa nhà trường với gia đình.

Việc thường xuyên bỏ học, trốn học, thích đua đòi, ham mê ăn chơi, nghiện

rượu bia, thuốc lá, thậm chí nghiện ma túy… đang có chiều hướng gia tăng trong giới

học sinh, sinh viên. Tuy nhiên, thầy cô, nhà trường không kịp thời để uốn nắn, chỉnh

đốn các em, chưa thực hiện được những giải pháp hữu hiệu trong quản lý, giáo dục

và giúp đỡ những học sinh chưa ngoan, học sinh cá biệt. Điều này không chỉ tạo ra

khoảng trống trong quản lý, giáo dục của nhà trường đối với học sinh vi phạm mà

còn làm phát sinh tâm lý tiêu cực, sự chán nãn, bất cần, sự căm hận, căm ghét, thậm

chí hình thành ý định trả thù. Những đặc điểm tâm lý này dễ làm phát sinh thêm tội

phạm trong môi trường học đường nói riêng và tình hình tội phạm nói chung.

Ba là, yếu tố thuộc về môi trường sống

Môi trường sống là môi trường nơi cá nhân cư trú, sinh sống, có vai trò rất lớn

trong việc hình thành và phát triển nhận thức, lối sống cũng như những phẩm chất

đạo đức cá nhân. Cá nhân được sống trong môi trường lành mạnh, an toàn, mọi người

biết quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau, chí thú làm ăn, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật

sẽ hình thành, phát triển nhân cách một cách đúng đắn. Ngược lại, môi trường chứa

đựng nhiều nhân tố tiêu cực như có người sống bê tha, tệ nạn xã hội, phạm tội… là

môi trường xấu, tiềm ẩn nguy cơ lôi kéo, tác động đến những người thiếu bản lĩnh,

dễ sa ngã trước cái xấu, cái tiêu cực của đời sống xã hội, từ đó có thể dẫn đến việc

hình thành và phát triển nhân cách lệch lạc của cá nhân.

Ngoài ra, việc giao lưu với bạn bè ở cùng khu vực sinh sống cũng có ảnh

hưởng vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách, các đặc điểm nhân thân

tiêu cực của con người. Bởi lẽ, bạn bè đồng trang lứa thì có những suy nghĩ, cách

nhìn nhận, quan điểm, thái độ, tâm sinh lý lứa tuổi giống nhau. Nếu kết bạn với người

tốt thì trẻ sẽ hình thành các đặc điểm nhân thân tích cực như chăm học, biết quan tâm

chia sẻ, lễ phép, có đạo đức, tôn trọng người khác, tôn trọng pháp luật… Ngược lại,

trẻ dễ bị ảnh hưởng và học theo các thói hư, tật xấu từ bạn bè, dẫ đến hình thành các

đặc điểm nhân thân tiêu cực, như thói ăn chơi đua đòi, ích kỷ, vô phép, không vâng

22

lời, chống đối, hút chích, nghiện ma túy… Biểu hiện tiêu cực về lối sống, tâm lý đó

khiến những đứa trẻ chơi với nhóm bạn bè xấu dễ đi vào con đường phạm tội.

Bốn là, yếu tố thuộc về môi trường nơi làm việc

Cũng giống như môi trường nơi sinh sống, môi trường nơi làm việc, đồng

nghiệp, quan hệ giữa cấp trên, cấp dưới… cũng có ảnh hưởng rất lớn trong việc hình

thành đặc điểm nhân thân của con người. Nếu môi trường làm việc thoải mái, được

sự đãi ngộ thỏa đáng, đồng nghiệp gần gũi, quan tâm chia sẻ, giúp đỡ nhau trong công

việc, quan hệ giữa cấp lãnh đạo, cấp nhân viên hài hòa, đảm bảo quyền lợi chính trị

cho mọi người… sẽ tạo cho người lao động tâm lý thoải mái, hăng say làm việc, cống

hiến… Ngược lại môi trường làm việc căng thẳng, đố kỵ, đấu đá, tranh chức tranh

quyền, miệt thị, khinh khi… sẽ dẫn đến tâm lý chán nản, bất mãn, coi thường lợi ích

của người khác. Làm việc trong một môi trường tiêu cực này sẽ phát sinh nhiều đặc

điểm nhân thân tiêu cực như: tham lam, căm ghét, thù hận, đề cao lợi ích bản thân,

tìm mọi cách để triệt hạ đồng nghiệp thậm chí bằng phương thức vi phạm pháp luật.

Năm là, yếu tố thuộc về môi trường kinh tế - xã hội vĩ mô

Bên cạnh sự phát triển không ngừng của xa hội, những thành tựu to lớn mà

nền kinh tế thị trường mang lại như đời sống vật chất và tinh thần của người dân

không ngừng được nâng cao... thì mặt trái của nó cũng có những tác, dễ làm cho con

người trở lên sa ngã, biến chất, suy thoái về đạo đức xã hội. Những yếu tố tiêu cực

đó có thể nhận diện sau đây:

- Sự phân hóa giàu nghèo, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm

Đây là một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành

nhân cách tiêu cực ở người phạm tội. Kinh tế khó khăn, thu nhập bấp bênh, không ổn

định dễ làm cho con người rơi vào trạng thái bi quan, chán nản, bế tắt, bị thôi thúc

phải kiếm tiền nên dễ đi vào con đường phạm tội.

- Những hạn chế trong quản lí kinh tế – văn hóa - xã hội.

Công tác quản lý của nhà nước trên lĩnh vực văn hóa – xã hội còn rất nhiều

hạn chế. Các văn hóa phẩm đồi trụy, bạo lực… có thể tìm mua một cách dễ dàng. Các

cơ quan nhà nước chưa quản lý internet một cách chặt chẽ. Các đoạn clip, phim ảnh,

23

độc hại khác đã được sự trợ giúp của các trang mạng xã hội đang lan truyền với tốc

độ nhanh chóng trong đời sống của giới trẻ hiện nay. Một bộ phận giới trẻ đã bị ảnh

hưởng bởi các tính chất bạo lực, đồi trụy trong các sản phẩm này để rồi nhận thức và

ứng xử bị lệch lạc. Điều này đã làm cho quan hệ xã hội của nhóm người này trở nên

phức tạp hơn và từ đó dễ làm bộc phát hành vi phạm tội.

- Tệ nạn xã hội

Tệ nạn xã hội, các loại hình văn hóa đa màu sắc du nhập vào, trái với thuần

phong mỹ tục nhưng lại được giới trẻ đón nhận mà chưa được sự kiểm soát chặt chẽ

của cơ quan chức năng đã tác động xấu đến nhận thức và hành động của một bộ phận

thanh, thiếu niên. Sự nuông chiều, đáp ứng vật chất quá mức cho con cái một cách vô

điều kiện của gia đình, sự giàu lên một cách nhanh chóng của một bộ phận dân cư do

được đền bù đất đai, đất cạnh các dự án tăng giá... một bộ phận không nhỏ những

người như trên đã sử dụng đồng tiền một cách phung phí, ăn chơi đua đòi thích thể

hiện bản thân. Không ít đối tượng phạm tội do muốn thể hiện bản lĩnh với người khác.

- Sự xuống cấp, suy thoái về đạo đức, tuyệt đối hóa giá trị đồng tiền

Nền kinh tế thị trường với quá trình lưu thông, trao đổi hàng hóa đã làm nổi

lên vai trò, vị trí, tác động của tiền tệ, từ đó tạo ra những tư tưởng sai lệch giá trị đồng

tiền. Xã hội tồn tại quan niệm ai có tiền là có quyền lực và có thể dựa vào quyền lực

này để chiếm hữu những thứ người ta cần. Từ quan niệm như vậy, người ta hướng tới

việc kiếm tiền bằng mọi cách kể cả việc phải trà đạp lên những giá trị đạo đức và

khuôn khổ pháp luật. Vì đồng tiền mà một số người sẵn sàng thực hiện các hành vi

vô đạo đức như đánh chửi cả bố mẹ những giá trị truyền thống gia đình bị đảo lộn,

không ít trường hợp vì tiền mà phạm tội.

1.3.2. Yếu tố thuộc về chủ quan

Bên cạnh các yếu tố khách quan như đã phân tích nêu trên, nhân thân tiêu cực

của NPTcòn bị tác động bởi các yếu tố chủ quan. Theo đó, “quá trình hình thành các

đặc điểm nhân thân xấu phụ thuộc vào nhận thức chủ quan cũng như đặc điểm tâm

lý của từng cá nhân cụ thể” [28, tr. 43-51]. Điều này lý giải cho sự khác nhau của

việc nhiều cá nhân sống trong cùng điều kiện, hoàn cảnh nhưng có người phạm tội,

24

có người không. Các yếu tố chủ quan thuộc về NPT bao gồm:

- Sai lệch về sở thích: Sở thích là những hoạt động thường xuyên, một thói

quen đem lại cho con người niềm vui, phấn khởi trong cuộc sống. Những người có

những sở thích lành mạnh như đọc sách, chơi thể thao, tham gia các hoạt động văn

hóa, thể thao cùng với các yếu tố tích cực khác sẽ hình thành ở người đó nhân cách

đúng đắn và có được quá trình phát triển nhân cách đầy đủ. Nhưng ở những người có

thói quen, sở thích tiêu cực như ăn chơi xa đọa, tụ tập ăn nhậu, nghiện rượu, nghiện

games, nghiện chất kích thích, những sở thích có nội dung bạo lực, đồi trụy… sẽ hình

thành ở cá nhân đó nhân cách lệch lạc như: thực dụng, coi trọng vật chất, lừa lọc,

hưởng thụ, sống nhanh, sống buông thả, ích kỉ, coi thường các giá trị đạo đức, con

người, coi thường pháp luật... Những người có sở thích tiêu cực này khi gặp những

hoàn cảnh, tình huống thuận lợi cụ thể sẽ bị kích thích, hưng phấn mất kiềm chế, kiểm

soát hành vi của mình dễ dấn đến hành vi phạm tội.

- Sai lệch về nhu cầu, cách thức thỏa mãn nhu cầu: Nhu cầu là một hiện tượng

tâm lý, là những mong muốn, đòi hỏi, nguyện vọng của con người về những giá trị

vật chất lẫn tinh thần để sinh tồn. Tùy theo mức độ nhận thức, môi trường sống, những

đặc điểm tâm sinh lý mà mỗi người có những nhu cầu khác nhau và cách thức đáp

ứng nhu cầu cũng khác nhau. Nhu cầu chi phối mạnh mẽ đến đời sống tâm lý nói

chung và đến động cơ, mục đích hình thành hành vi của con người nói riêng. Vì muốn

thỏa mãn các nhu cầu sai lệch như thỏa mãn cái tôi cá nhân, thích bạo lực, nghiện bia

rượu, game, thích thể hiện bản lĩnh nên khi gặp điệu kiện, hoàn cảnh tiêu tiêu cực họ

đã không do dự thực hiện tội phạm.

- Sai lệch về ý thức đạo đức và pháp luật: Trong xã hội hiện nay, một bộ phận

người dân đã biến dạng về nhân cách, suy thoái về đạo đức. Những người này thường

có thái độ coi thường, ý thức lệch lạc, chống đối lại pháp luật, chống đối lại các giá

trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Không ít các thanh thiếu niên sống trong các gia đình

đầy đủ, được cha mẹ đáp ứng mọi nhu cầu dẫn đến hình thành một số nhân cách tiêu

cực như: ỷ lại, lười lao động, thích hưởng thụ, tham lam, ích kỷ, thiếu ý thức vươn

lên, thường có thái độ kiêu căng, coi thường người khác, phân biệt trong đối xử với

25

bạn bè. Cùng với đó, các em sống trong điều kiện gia đình gặp nhiều khó khăn, hoàn

cảnh thiếu thốn lại có những biểu hiện mặc cảm, tự ti, bi quan, chán nản, căm hận số

phận và muốn trả thù đời nên thực hiện những hành vi gây tổn hại cho sức khỏe, tính

mạng, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác.

Sai lệch trong ý thức pháp luật cũng là một trong những yếu tố tác động trong

cơ chế làm phát sinh tội phạm. Mỗi cá nhân đều có quan điểm, thái độ, nhận thức

riêng đối với pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật, đối với cơ quan bản vệ pháp

luật… NPT thường là không có kiến thức hoặc hiểu biết rất ít, hiểu biết mơ hồ về

pháp luật (đa số NPT có trình độ học vấn thấp); có thái độ thờ ơ, coi thường pháp luật

và các cơ quan bảo vệ pháp luật; có xu hướng chống đối pháp luật và các cơ quan bảo

vệ pháp luật (đặc biệt là các trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm) họ đặt nhu

cầu, sở thích cá nhân là trên hết và sẵn sàng chà đạp lên những giá trị đạo đức, coi

thường pháp luật để thỏa mãn nhu cầu của mình dù biết hành vi của mình là trái pháp

luật sẽ bị xã hội lên án và bị sự trừng trị của pháp luật.

Tiểu kết Chương 1

Trong chương 1 của Luận văn, học viên đã nghiên cứu, thống nhất nhận thức

về một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến nhân thân người phạm tội, bao gồm:

Khái niệm, đặc điểm nhân thân người phạm tội, ý nghĩa của việc nghiên cứu và quá

trình hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội. Những nhận

thức này là cơ sở để học viên nghiên cứu, làm rõ thực trạng các đặc điểm nhân thân

và nguyên nhân hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của NPT trên địa bàn

26

huyện Củ Chi, TP.HCM ở nội dung tiếp theo của Luận văn.

Chương 2

THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN

CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2014 ĐẾN

NĂM 2018

2.1. Khái quát đặc điểm kinh tế, xã hội và tình hình tội phạm trên địa bàn

huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh, giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018

2.1.1. Khái quát đặc điểm kinh tế, xã hội của huyện Củ Chi, Thành phố Hồ

Chí Minh

Củ Chi là huyện ngoại thành nằm cách trung tâm TP.HCM khoảng 60 km về

hướng Tây Bắc, tiếp giáp với nhiều địa phương khác như: huyện Bến Cát (Bình

Dương), huyện Đức Hòa (Long An), Huyện Trảng Bàng (Tây Ninh), huyện Hóc Môn

(TP.HCM). Là địa phương bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, những năm trước

đây tình hình kinh tế - xã hội huyện Củ Chi gặp rất nhiều khó khăn với đa số hộ dân

thuộc diện nghèo. Từ năm 2014 đến năm 2018, chính quyền huyện Củ Chi đã tiến

hành nhiều giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống

nhân dân và đã đem lại sự phát triển mọi mặt cho huyện Củ Chi về các mặt kinh tế,

văn hóa, xã hội, giáo dục, cụ thể như sau:

Với hệ thống cơ sở hạ tầng được quan tâm đầu tư đồng bộ, huyện Củ Chi đang

có sức hút đối với giới đầu tư trong và ngoài nước. Củ Chi hiện đã có 4 khu, 3 cụm

công nghiệp phân bố đều khắp trên địa bàn, đồng thời trở thành trung tâm phát triển

nông nghiệp chất lượng cao của thành phố, với chủ trương tăng cường sản xuất theo

tiêu chuẩn VietGAP; ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao để khắc phục những bất

lợi của thời tiết. Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp đạt khoảng 7.700 tỷ đồng.

Với việc duy trì mức tăng giá trị sản xuất, phát triển nông nghiệp bền vững,

xóa đói, giảm nghèo, tạo ra việc làm, phát triển sản xuất tại địa phương, diện mạo Củ

Chi đã có nhiều thay đổi vượt bậc. Nhiều khu đô thị, khu dân cư mới được hình thành

thu hút lượng lớn dân cư đến sinh sống và làm việc. Toàn huyện Củ Chỉ có 20 xã và

27

1 thị trấn trong đó 100% các xã đạt 19/19 tiêu chí về xây dựng nông thôn mới. Địa

phương không còn hộ đói; tiêu chí hộ nghèo dưới 16 triệu đồng/hộ/năm còn 3,75%.

Thu nhập bình quân hộ gia đình tại các xã đạt 40,5 triệu đồng/người/năm, phấn đấu

đến năm 2020 tăng lên 60 triệu đồng/người/năm. Hệ thống các cơ sở giáo dục trên

địa bàn huyện Củ Chi đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu học tập, đào tạo nghề cho học

sinh và người dân nơi đây với 99 trường và 2 đơn vị trực thuộc công lập và tư nhân

ở các cấp từ mầm non đến trung học phổ thông và giáo dục nghề nghiệp [16].

Theo Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Củ Chi lần thứ XI

(nhiệm kỳ 2015 -2020) cho thấy: Bên cạnh những kết quả nổi bật như kinh tế duy trì

tốc độ tăng trưởng ổn định, mức tăng trưởng nhanh; thu ngân sách hằng năm đều đạt

và vượt chỉ tiên Thành phố giao; đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân không

ngừng được nâng lên; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực và đúng hướng; quản lý

Nhà nước trên lĩnh vực đất đai, tài nguyên – môi trường đạt được nhiều kết quả tích

cực; quy hoạch và phát triển đô thị có nhiều chuyển biến tích cực, thúc đẩy phát triển

kinh tế - xã hội, văn hóa…, thì huyện Củ Chi cũng đang phải đối mặt với rất nhiều

khó khăn, thách thức, đó là: “…khủng hoảng kinh tế thế giới và suy giảm kinh tế trong

nước; tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường; quá trình đô thị hóa nhanh;

hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của huyện; nguồn nhân lực

có trình độ chuyên môn còn thấp; tội phạm và tệ nạn xã hội ngày càng diễn biến phức

tạp” [16]. Đánh giá này của Đảng bộ huyện Củ Chi cho thấy, mặc dù đã đạt được

những thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội nhưng THTP trên địa bàn

này vẫn diễn biến phức tạp, khó lường. Điều này sẽ gây ảnh hưởng đến tình hình an

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Vì vậy, để tìm ra những biện pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm

nói chung và phòng ngừa THTP từ góc độ nhân thân NPTđòi hỏi cần tiến hành nghiên

cứu, làm sáng tỏ thực trạng THTP trên địa bàn này.

2.1.2. Khái quát về tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi

Để làm sáng tỏ thực trạng mức độ, cơ cấu, diễn biến, tính chất của THTP xảy

ra trên địa bàn huyện Củ Chi trong thời gian qua, học viên đã tiến hành nghiên cứu,

28

khảo sát, đánh giá những số liệu báo cáo thống kê và những hồ sơ án hình sự cụ thể

được các cơ quan tiến hành tố tụng ở huyện Củ Chi và Tp. Hồ Chí Minh phát hiện,

xử lý trong thời gian từ năm 2014 đến năm 2018 và thu được kết quả như sau:

- Về diễn biến

Theo báo cáo thống kê tội phạm của VKSND huyện Củ Chi, trong 5 năm qua,

THTP xảy ra trên địa bàn huyện Củ Chi có diễn biến tương đối phức tạp. Cụ thể là:

THTP mỗi năm có biến động tăng, giảm rất khác nhau. Theo số liệu tại Bảng

phụ lục 2.1 và trên cơ sở phương pháp so sánh định gốc tính theo năm, lấy số vụ án

và bị cáo năm 2014 là 100% và đem so sánh tỉ lệ số vụ, số bị cáo của năm này với

các năm tiếp theo thì kết quả thu được như sau: Năm 2014 có 238 vụ (100%) và 449

bị cáo (100%) bị đưa ra xét xử. Theo đó, năm 2015 đã giảm về số vụ (giảm 6,72% so

với năm 2014) và giảm mạnh về bị cáo (giảm 29,62% so với năm 2014). Năm 2016

mức giảm về số vụ là 8,4% và mức giảm về số bị cáo là 30,07% so với năm 2014.

Năm 2017 có sự giảm mạnh cả về số vụ và số bị cáo, trong đó số vụ giảm 21,85% và

số bị cáo giảm 78,15% so với năm 2014. Năm 2018 có mức giảm về số vụ là 2,94%

và mức giảm về số bị cáo là 29,18% so với năm 2014.

Như vậy, có thể kết luận rằng, THTP trên địa bàn huyện Củ Chi trong 5 năm

qua có xu hướng tăng, giảm hàng năm không ổn định theo diễn biến giảm trong 4

năm đầu và tăng vào năm cuối của thời gian khảo sát. Trong đó, mức giảm hàng năm

không đều và sự tăng đột biến trở lại về số vụ và người phạm tội trong năm 2018.

Điều này cho thấy rằng các giải pháp phòng ngừa THTP trên địa bàn huyện Củ Chi

thời gian qua đã phát huy được hiệu quả trong kiểm soát, khống chế THTP tuy nhiên

chưa giữ được sự ổn định, đòi hỏi cần phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa hiệu

quả hơn mới có thể ngăn chặn tội phạm xảy ra.

- Về cơ số tội phạm, theo số liệu thống kê tại Bảng phụ lục 2.2, với đơn vị dân

cư là 10.000 người trong độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì cơ số tội phạm trên địa

bàn huyện Củ Chi trong 5 năm qua trung bình ở mức 8.64. Trong đó, khi xem xét cơ

số tội phạm hàng năm thì thấy rằng: Năm 2014 có cơ số tội phạm cao nhất ở mức

10.97, các năm tiếp theo lần lượt ở các mức là: 9.8 (năm 2015), 8.96 (năm 2016),

29

7.39 (năm 2017) và 9.29 (năm 2018). Các số liệu này phần nào cho thấy hiệu quả

phòng ngừa THTP trên địa bàn huyện Củ Chi trong 5 năm qua vẫn còn những hạn

chế nhất định khi số người trong độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự có xu hướng tăng

và cơ số tội phạm cũng có xu hướng tăng trong năm 2018.

- Về cơ cấu

Thống kê tại Bảng phụ lục 2.3 cho thấy trong thời gian từ năm 2014 đến năm

2018, đã có tổng số 1095 tội phạm được đưa ra xét xử. Trong đó, nhóm các tội phạm

xâm phạm sở hữu xảy ra nhiều nhất với 635 vụ,chiếm 58,36% trong tổng số vụ được

đưa ra xét xử với các tội danh như trộm cắp, cướp giật, cướp, lừa đảo, lạm dụng tín

nhiệm chiếm đoạt tài sản, hủy hoại tài sản. Các tội phạm về ma túy cũng chiếm số

lượng lớn với tổng số 308 vụ, chiếm 28,13%. Tiếp đến là các tội xâm phạm trật tự

công cộng với 157 vụ (chiếm 14,34%), các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe, danh

dự, nhân phẩm với 95 vụ (chiếm 8,68%), còn lại là 100 vụ (chiếm 9,13%) thuộc nhóm

các phạm xâm phạm trật tự quản lý hành chính, kinh tế và các tội phạm khác.

Về cơ cấu THTP theo các loại tội phạm, với Bảng phụ lục 2.4 có thể thấy rằng:

Trong thời gian từ năm 2014 đến năm 2018 có tổng số 730 tội phạm ít nghiêm trọng

đã được đưa ra xét xử tương ứng với tỷ lệ 66.67% tổng số tội phạm đã đưa ra xét xử,

tội phạm nghiêm trọng là 274 vụ (tỷ lệ 25,02%), tội phạm rất nghiêm trọng là 43 vụ

(4,29%), còn lại là 44 tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (4,02%). Kết quả này cho thấy:

THTP các tội phạm có tính chất, mức độ ít nghiêm trọng và nghiêm trọng xảy ra phổ

biến trên địa bàn huyện Củ Chi. Các tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm

trọng vẫn xảy ra nhưng chiếm tỷ lệ không đáng kể, tuy nhiên vẫn cần có biện pháp

phòng ngừa phù hợp để kéo giảm hoàn toàn các loại tội phạm này.

Về cơ cấu THTP theo địa giới hành chính của huyện Củ Chi, theo Bảng phụ lục

2.5 thì tội phạm xảy ra trên tất cả các địa bàn của huyện Củ Chi, trong đó địa bàn có

mức độ xảy ra tội phạm cao nhất là xã Trung An với tổng số 62 vụ, chiếm 5.6%, Tân

Thạnh Tây là địa bàn có mức độ thấp nhất là với tổng số 39 vụ, chiếm tỷ lệ 3.5%.

Đối chiếu với diện tích và vị trí địa lý của các đơn vị hành chính này cho thấy:

Các địa bàn có diện tích rộng, có các khu, cụm công nghiệp, giáp ranh với các địa

30

phương khác có mức độ THTP xảy ra phổ biến hơn. Ngược lại, các xã có diện tích

nhỏ và không giáp ranh với các địa phương khác thì có mức độ THTP thấp nhất. Điều

này chứng tỏ rằng ở các địa bàn có diện tích rộng và có vị trí giáp ranh thì sẽ có mức

độ phạm tội cao hơn.

Về cơ cấu THTP trên địa bàn huyện Củ Chi theo địa điểm, thời gian gây án,

qua khảo sát ý kiến các cán bộ công tác tại Cơ quan điều tra Công an huyện Củ Chi

cho thấy, các tội phạm xảy ra ở tất cả các xã, thị trấn thuộc địa bàn huyện Củ Chi và

địa điểm thường xảy ra theo từng nhóm tội phạm là: Nhóm tội xâm phạm sở hữu

thường xảy ra ở các nơi vắng vẻ, ít lại và thường diễn ra vào lúc trời tối. Nhóm tội

xâm phạm trật tự công cộng, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và

ma túy thường diễn ra ở nơi công cộng bất kể thời gian nào.

Về cơ cấu theo đặc điểm nhân thân người phạm tội, thì qua các Biểu phụ lục

2.1, 2.2, 2.3, 2.4, 2.5 có thể thấy rằng: NPT chủ yếu là nam giới, độ tuổi từ 18 đến

dưới 30 chiếm đa số, đa số không có việc làm ổn định, thất nghiệp, trình độ học vấn

thấp, chưa có tiền án, tiền sự.

- Về tính chất

Trên cơ sở tham khảo ý kiến của 30 cán bộ thuộc Cơ quan điều tra Công an

huyện Củ Chi về tính chất của THTP trên địa bàn huyện Củ Chi trong thời gian qua,

có thể thấy rằng: Với vị tri giáp ranh với các tỉnh, thành phố khác nên nhiều đối tượng

đã lợi dụng đặc điểm này để thực hiện hàng loạt các vụ cướp giật, cướp đối với người

đi đường ở các khu vực giáp ranh nhằm dễ dàng trốn tránh sự truy xét của các cơ

quan có thảm quyền huyện Củ Chi. Ngoài ra, theo số liệu thống kê tại Bảng phụ lục

2.1, có thể thấy rằng số lượng bị cáo luôn nhiều hơn số vụ. Như vậy, có thể kết luận,

tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi không chỉ mang tính đơn lẻ mà còn có nhiều

trường hợp đồng phạm. Trong đó, có vụ án thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn

cũng có vụ án thuộc trường hợp đồng phạm có tổ chức, tập trung ở nhóm tội phạm

xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt như trộm cắp, cướp giật, lừa đảo, tội phạm ma

túy, tội phạm về kinh tế, gây ra tâm lý lo lắng, bức xúc trong quần chúng nhân dân.

Theo các báo cáo tổng kết hằng năm của Công an huyện Củ Chi trong thời

31

gian từ năm 2014 đến năm 2018, cho thấy: Số vụ phạm pháp hình sự (trừ các vụ án

vi phạm quy định về phương tiện giao thông đường bộ) đã gây ra thiệt hại tài sản trị

giá khoảng 26,588 tỷ đồng, làm chết 46 người, bị thương 126 người. Các thiệt hại

này chủ yếu do nhóm các loại tội phạm sau gây ra, bao gồm: Tội phạm xâm phạm

quyền sở hữu; Tội phạm về kinh tế. Cá biệt hơn là các thiệt hại về danh dự, tinh thần

của các nạn nhân trong các vụ án Hiếp dâm trẻ em đã gây nhiều bức xúc trong quần

chúng nhân dân. Có thể thấy rằng, những số liệu phân tích trên đây đã phần nào đã

nói lên hậu quả thiệt hại do các tội phạm gây ra trong thời gian qua ở huyện Củ Chi

là tương đối nghiêm trọng. Không chỉ là thiệt hại về vật chất mà nhiều tội phạm trên

địa bàn còn có những thiệt hại phi vật chất, không có thể bù đắp hay khôi phục được.

Đây là những tác hại cho an ninh, trật tự, an toàn xã hội và từng cá nhân, tổ chức trên

địa bàn huyện Củ Chi.

Với những diễn biến phức tạp của THTP trên địa bàn huyện Củ Chi như đã

nêu trên phần nào cho thấy rằng: Các biện pháp phòng ngừa THTP đã tiến hành vẫn

chưa đạt được hiệu quả như mong muốn và do đó cần phải được quan tâm nghiên cứu

để tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả phòng ngừa THTP trong

thời gian tới. Theo đó, khi tiến hành xây dựng và triển khai các biện pháp tác động

vào các nguyên nhân, điều kiện của THTP thì cần có sự quan tâm đúng mức đến đặc

điểm nhân thân NPT bởi đây là yếu tố có liên quan trực tiếp đến nguyên nhân, điều

kiện của THTP trên địa bàn huyện Củ Chi trong thời gian vừa qua.

2.2. Đặc điểm nhân thân người phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi,

Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn năm 2014-2018

Để đánh giá thực trạng nhân thân NPT trên địa bàn huyện Củ Chi, TP.HCM

trong thời gian từ năm 2014 đến năm 2018, học viên đã tiến hành phân tích, tổng hợp

các thông tin có liên quan thu được từ thống kê của các cơ quan tiến hành tố tụng trên

địa bàn này kết hợp việc nghiên cứu điển hình với 200 bản án hình sự với 238 bị cáo

và thu được kết quả như sau:

2.2.1. Thực trạng đặc điểm về mặt xã hội-nhân khẩu

2.2.1.1. Giới tính của người phạm tội

32

Theo thống kê TAND huyện Củ Chi tại Bảng phụ lục 2.6 thì: Trong thời gian

từ năm 2014 đến năm 2018 cho thấy có tổng số 1554 NPT giới tính nam, tức là gấp

12,1 lần so với tỷ lệ NPT là nữ với 128 NPT. Tỷ lệ nam giới phạm tội hàng năm trên

địa bàn huyện Củ Chi luôn cao hơn hẳn so với nữ giới. Thống kê cho thấy NPT nam

giới thường phạm các tội xâm phạm sở hữu, các tội phạm về ma túy, chống người thi

hành công vụ, vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.

Trong mỗi nhóm nam giới giới khác nhau về nơi ở, nghề nghiệp cũng như địa vị xã

hội thì hình thức phạm tội cũng khác nhau và thường đóng vai trò người chủ mưu,

thực hành trong các vụ án có đồng phạm.

NPT là nữ giới trên địa bàn huyện Củ Chi thường thực hiện tội phạm đơn lẻ,

nếu có tổ chức thì chỉ là đồng phạm giữ vai trò thứ yếu. Họ thường phạm các lừa đảo,

lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, mua bán trái phép chất ma túy, cố ý gây

thương tích (do ghen tuông tình ái) hoặc trộm cắp tài sản. Điển hình như vụ án sau:

Lúc 08 giờ 20 phút ngày 19/7/2018, Trương Thị H điều khiển xe gắn máy biển

số 50Y-6007 đến chợ Sáng thuộc ấp Bến Than, xã Tân Thạnh Đông, huyện Củ Chi

để xe 2 bên ngoài rồi đi vào trong chợ phát hiện bà Dương Thị L bán hàng trầu cau

có để túi xách màu đỏ tím đựng tiền bên cạnh. Lợi dụng lúc bà L bán hàng cho khách,

H lén lấy túi xách của bà L (bên trong có số tiền 2.230.000 đồng) rồi bỏ đi thì bị người

dân phát hiện bắt giữ giao Công an xử lý. Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 163/KL-

HĐĐGTS ngày 30/7/2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Củ Chi,

kết luận: 01 (một) túi xách bằng vải màu đỏ tím kích thước 20cm x 20cm trị giá 8.000

đồng. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 2.238.000 đồng. Trương Thị H bị xử

phạt 09 tháng tù [Bản án 144/2018/HS-ST ngày 30/8/2018 của TAND huyện Củ Chi].

2.2.1.2. Độ tuổi của người phạm tội

Theo thống kê TAND huyện Củ Chi tại Bảng phụ lục 2.7 cho thấy: Trong thời

gian từ năm 2014 đến năm 2018, NPT ở nhóm từ đủ 18 tuổi đến dưới 30 tuổi chiếm

đa số với tổng số 973 người (tương đương 57,73%). Theo thực tiễn xét xử của TAND

huyện Củ Chi thì người trong lứa tuổi này có xu hướng thực hiện hành vi phạm tội ở

tất cả các loại tội phạm. Nhóm NPT trong lứa tuổi từ 30 đến dưới 60 tuổi khá cao với

33

tổng số 531 người (tương đương 31,57%). Loại tội phạm phổ biến do nhóm NPT

trong lứa tuổi từ 30 đến 60 tuổi là các tội về xâm phạm ma túy, xâm phạm sở hữu có

tính chiếm đoạt. Ví dụ như trường hợp phạm tội của Lý Minh T (sinh năm: 1968; cư

trú tại Ấp N, xã B, huyện D, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn

hóa: Không biết chữ).

Do đã lớn tuổi trong khi không có nghề nghiệp ổn định nên Lý Minh T có ý

định chiếm đoạt tài sản của người khác để lấy tiền tiêu xài. Khoảng 02 giờ ngày

14/01/2018, T phát hiện tại cửa hàng vật liệu xây dựng tại địa chỉ số 1132, tổ 10, ấp

X, xã A, huyện C do anh Hồ Thanh P làm chủ có đậu chiếc xe ôtô tải biển số 51D-

122.75 nên T leo lên cabin chiếc xe ôtô tải rồi đóng cửa lại và dùng tu vít mở công

tắc điện điều chỉnh kính trên cửa bên trái, dùng kềm cắt đứt toàn bộ dây điện. Tiếp

theo, T mở đường viền đồng hồ trên taplo rồi mở tiếp đồng hồ taplo, dùng kềm cắt

đứt toàn bộ dây điện nối với đồng hồ. Sau đó T bỏ toàn bộ tài sản vừa lấy được vào

một túi nylon màu đen đã chuẩn bị sẵn. Lúc này, anh P phát hiện có người đột nhập

vào trong cabin xe nên gọi điện thoại cho người thân và tri hô, T bỏ chạy nhưng bị

anh P cùng người dân hỗ trợ bắt quả tang giao công an xử lý [Bản án 151/2018/HS-

ST ngày 12/9/2018 của TAND huyện Củ Chi].

Đặc biệt, nhóm NPT trên địa bàn huyện Củ Chi giai đoạn năm 2014 đến năm

2018 từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi chiếm tỷ lệ 9,8% với tổng số 165 người. Hầu hết

các bị cáo trong độ tuổi này đang trong quá trình phát triển cả về sinh lí, tâm lí và ý

thức. Đây là giai đoạn diễn ra sự phát triển cơ thể mất cân bằng nên đã dẫn đến tình

trạng mất cân bằng tạm thời trong cảm xúc của người chưa thành niên. Trạng thái

thần kinh, trạng thái cảm xúc không cân bằng dễ đưa đến các hành vi lệch chuẩn cho

người chưa thành niên. Họ cảm nhận rõ rệt rằng mình đã lớn hay mình cũng gần

giống người lớn, sắp trở thành người lớn. Trong quan hệ với trẻ nhỏ tuổi hơn hay

trong quan hệ với các bạn đồng lứa, họ có xu hướng cố gắng thể hiện mình như những

người đã lớn. Họ hướng tới các giá trị của người lớn, so sánh mình với người lớn,

mong muốn được tự lập, tự chủ trong giải quyết các vấn đề của riêng họ. Tuy nhiên,

do kinh nghiệm trong cuộc sống còn quá ít ỏi, đặc biệt là khả năng nhận thức về pháp

34

luật còn nhiều hạn chế, nhiều người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội chỉ

để thỏa mãn nhu cầu, hứng thú không đúng đắn của cá nhân, không quan tâm đến hậu

quả nguy hiểm cho xã hội. Chỉ khi được giải thích, phân tích thì họ mới hiểu rằng

hành vi của mình là phạm tội. Ở lứa tuổi này, nhu cầu độc lập thái quá thường biểu

hiện ra bên ngoài dưới dạng các hành vi như ngang bướng, cố chấp, dễ tự ái, gây gổ,

phô trương. Tất cả những hành vi này của người chưa thành niên đều mang tính chất

của hành vi lệch chuẩn, dễ dẫn tới các hành vi phạm tội. Sự tò mò và khám phá cái

mới cũng có thể trở thành một trong những nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của

các em nếu thiếu sự hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của gia đình, xã hội, không tự chủ

được bản thân, không phân biệt được đúng sai. Trong lứa tuổi này, loại tội phạm phổ

biến được thực hiện là các tội phạm xâm phạm sở hữu, cố ý gây thương tích.

Nhóm NPT từ 60 tuổi trở lên phạm tội ít nhất chiếm tỷ lệ 1,4%, với tổng số 23

người. Trải qua nhiều biến động của cuộc sống, những người trong độ tuổi này thường

có suy nghĩ chín chắn hơn, điềm đạm hơn, khả năng kiểm soát và kiềm chế hành vi

cao hơn nên ít rơi vào các tình huống tiêu cực. Người trong lứa tuổi này thường có

xu hướng thích hưởng thụ, thích được thỏa mãn sở thích của bản thân. Thực tiễn tại

huyện Củ Chi cho thấy, phần lớn người trong độ tuổi này thường phạm các tội đánh

bạc, tổ chức đánh bạc, dâm ô với trẻ em.

2.2.1.3. Trình độ học vấn của người phạm tội

Qua phân tích số liệu tại Bảng phụ lục số 2.8 cho thấy: Số NPT có trình độ

học vấn trung học cơ sở và trung học phổ thông chiếm đa số với tổng số 1477 bị cáo

(bị cáo có trình độ học vấn từ lớp 6 đến lớp 9 là 881 người, từ lớp 10 đến lớp 12 là:

596 người). Với trình độ học vấn cấp 2, cấp 3 trong bối cảnh hiện nay thì việc kiếm

được công việc nhẹ nhàng, có thu nhập ổn định là khá khó khăn. Bên cạnh đó, khả

năng nhận thức về pháp luật, thể hiện hành vi ứng xử trong cuộc sống của những

người này cũng không cao, dễ bị lôi kéo, dụ dỗ vào con đường phạm tội.

Số NPT có trình độ học vấn thấp (không biết chữ hoặc tiểu học) chiếm tỷ lệ

tương đối với tổng số 273 bị cáo (72 bị cáo không biết chữ và 201 bị cáo có trình độ

tiểu học). Với trình độ học vấn quá thấp, các bị cáo ít có khả năng đọc và hiểu được

35

các văn bản, tài liệu tuyên truyền pháp luật, văn bản pháp luật nên không ý thức được

hành vi của mình là phạm tội cũng như hậu quả do tội phạm gây ra. Các tội phạm phổ

biến do nhóm này thực hiện là các tội xâm phạm sở hữu, cố ý gây thương tích, ma

túy, chống người thi hành công vụ.

Thực tiễn xét xử trên địa bàn huyện Củ Chi cho thấy, nhiều bị cáo, dù có trình

độ học vấn cao, có sự hiểu biết pháp luật nhất định nhưng vẫn phạm tội, tuy nhiên tỷ

lệ NPT này không cao (chỉ chiếm 1,3% với tổng số 22 người). Những người có trình

độ cao đẳng, đại học thường có ý thức pháp luật đúng đắn dẫn đến thực hiện các hành

vi phù hợp với các giá trị đạo đức, giá trị pháp luật. Ngoài ra, họ có khả năng kiềm

chế và kiểm soát hành vi cao hơn so với những người khác, nên họ ít bị kích động,

dụ dỗ, lôi kéo vào con đường phạm tội. Thông thường tội phạm họ thực hiện là những

tội phạm vô ý như vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.

Ngoài ra, nhóm người này cũng thực hiện một số tội phạm khác với lỗi cố ý nhằm để

thỏa mãn sở thích (phạm tội đánh bạc) hoặc để giàu có nhanh chóng (phạm tội về

kinh tế).

2.2.1.4. Nghề nghiệp của người phạm tội

Theo số liệu thống kê ở Bảng phụ lục 2.9, số NPT không có nghề nghiệp, hoặc

nghề nghiệp có thu nhập không ổn định chiếm tỷ lệ cao với tổng số 587 người không

nghề nghiệp và 788 người có nghề nghiệp không ổn định. Những NPT thất nghiệp,

lao động phổ thông, công việc nặng nhọc nhưng không mang lại thu nhập ổn định,

đảm bảo cho cuộc sống như chạy xe ôm, buôn bán, phụ hồ… thường phạm các tội

cướp giật, trộm cắp, cướp và các tội phạm về ma túy để có thể kiếm tiền dễ dàng hơn

phục vụ cho bản thân, gia đình. Số NPT có công việc đem đến thu nhập ổn định,

tương đối đảm bảo cho cuộc sống như công chức nhà nước, nhân viên văn phòng...

chiếm tỷ lệ không cao với 18.25% trên tổng số 307 người, tập trung ở các tội về vi

phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, lừa đảo, lạm dụng

tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tội phạm về kinh tế. Thông thường những người này

phạm tội do lỗi vô ý hoặc cố ý phạm tội do quá tham lam, mong muốn được giàu có

một cách nhanh chóng mà không phải vất vả lao động. Như vậy, chúng ta có thể nhận

36

định rằng: Tình trạng phạm tội tỷ lệ nghịch với mức độ ổn định về thu nhập do nghề

nghiệp mang lại cho người phạm tội.

2.2.1.5. Hoàn cảnh gia đình của người phạm tội

Hoàn cảnh gia đình và sự thay đổi của hoàn cảnh gia đình có tác động mạnh

mẽ đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của người phạm tội. Qua nghiên

cứu 200 bản án hình sự sơ thẩm với 238 bị cáo trên địa bàn huyện Củ Chi cho thấy,

có 45 bị cáo sống trong gia đình khuyết thiếu (chiếm tỷ lệ 18,91%); 67 bị cáo sống

trong gia đình không hạnh phúc, thường xuyên mắng chửi nhau (chiếm tỷ lê 28,15%),

38 bị cáo sống trong gia đình không quan tâm, chăm sóc, giáo dục con cái (chiếm tỷ

lệ 15.97%), 36 bị cáo sống trong gia đình có người thân vi phạm pháp luật (chiếm tỷ

lệ 15.13%) và 52 bị cáo được gia đình giáo dục bằng phương pháp không đúng cách

(chiếm tỷ lệ 21.85%) [Xem Bảng phụ lục 2.10]. Như vậy, có thể thấy rằng sự hạnh

phúc cũng như phương pháp giáo dục của gia đình có tác động to lớn đến sự hình

thành nhân cách tiêu cực của người phạm tội. Tất cả các trường hợp được khảo sát

cho thấy không bị cáo nào cảm thấy hạnh phúc với cuộc sống gia đình mình, trong

đó tỷ lệ các bị cáo gia đình không hòa thuận, quan tâm lẫn nhau, thường đánh, chửi

nhau chiếm tỷ lệ cao nhất.

2.2.1.6. Nơi cư trú của người phạm tội

Trong Bảng phụ lục số 2.11 thể hiện, trong tổng số 238 bị cáo được nghiên

cứu về đặc điểm nơi cư trú thì số lượng bị cáo là người sinh sống ổn định trên địa bàn

huyện Củ Chi là 99 người, trong đó có 45 người có hộ khẩu thường trú (chiếm tỷ lệ

18,91%), và 54 người có đăng ký tạm trú (chiếm tỷ lệ 22,69%). 09 bị cáo không có

nơi ở ổn định, chiếm tỷ lệ 3,78%. Phần lớn các bị cáo là người có nơi cư trú tại các

địa phương khác thuộc TP.HCM và các tỉnh thành lân cận như Bình Dương, Tây

Ninh, Long An với tổng số 130 người, trong đó số người cư trú tại các quận, huyện

khác thuộc TP.HCM là 111 người (chiếm tỷ lệ 46,64%), và ở các tỉnh, thành khác là

19 người (chiếm tỷ lệ 7,98%). Nơi sinh sống của những bị cáo này trước khi phạm

tội hầu hết những địa phương có đặc thù chung là điều kiện kinh tế, xã hội còn hạn

chế, tình hình tội phạm phức tạp, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn (huyện Hóc

37

Môn, TP.HCM và những huyện thuộc Bình Dương, Long An, Củ Chi), do đó ảnh

hưởng không ít đến sự hình thành nhân thân tiêu cực của các bị cáo. Hơn nữa, do các

địa phương đều có vị trí giáp ranh với huyện Củ Chi nên các bị cáo cho rằng việc

thực hiện tội phạm ở huyện Củ Chi sau đó bỏ trốn về lại nơi cư trú sẽ giúp các bị cáo

thuận lợi hơn trong việc trốn tránh việc điều tra và xử lý của cơ quan có thẩm quyền.

Như vậy, nghiên cứu thực trạng về đặc điểm nhân thân NPT trên địa bàn huyện

Củ Chi trong thời gian từ năm 2014 đến năm 2018, học viên nhận thấy những đặc

trưng cơ bản sau đây: NPT chủ yếu là nam giới, trong lứa tuổi từ 18 đến dưới 60 tuổi;

có trình độ học vấn thấp; có nơi cư trú ở TP.HCM, không có nghề nghiệp và thu nhập

ổn định; không được giáo dục đúng cách hoặc gia đình không hạnh phúc, có sở thích

không lành mạnh.

2.2.2. Thực trạng các đặc điểm về đạo đức - tâm lý

2.2.2.1. Thực trạng nhu cầu, hứng thú của người phạm tội

Qua nghiên cứu đặc điểm nhu cầu, sở thích của 238 bị cáo đã xét xử tại 200

bản án hình sự sơ thẩm của TAND huyện Củ Chi trong giai đoạn năm 2014 đến năm

2018, cho thấy: Động cơ phạm tội của 238 NPT trên địa bàn huyện Củ Chi trong thời

gian qua tập tập trung ở các động cơ sau: Vụ lợi về kinh tế, thỏa mãn nhu cầu, giải

quyết mâu thuẫn [Xem bảng phụ lục 2.12].

Thông qua phỏng vấn 30 Điều tra viên của Công an huyện Củ Chi, học viên

nhận thấy mối quan hệ giữa việc thực hiện hành vi phạm tội của NPT trên địa bàn

huyện Củ Chi với những nhu cầu, sở thích sau đây:

- Nhu cầu về vật chất, tiền bạc, chiếm hữu tài sản, sở thích hưởng thụ tài sản

là nhu cầu điển hình của những NPT xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, tội phạm

về kinh tế, tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức, tội phạm mua bán trái

phép chất ma túy… Những người phạm các tội này thường có sở thích hưởng thụ tài

sản người khác mà không phải thông qua lao động hay thói quen tụ tập, chơi bời,

quậy phá.

- Nhu cầu thỏa mãn cơn nghiện sản là nhu cầu điển hình của những NPT tàng

trữ trái phép chất ma túy. Những NPT này thường có thói quen sử dụng các chất kích

38

thích như ma túy, rượu bia.

- Nhu cầu thỏa mãn tình dục là nhu cầu điển hình của NPT dâm ô, giao cấu

với người từ đủ 13 đến chưa 16 tuổi, tội hiếp dâm trẻ em. Những người phạm các tội

này xâm thường có những sở thích bệnh hoạn, lệch lạc; thói quen quan hệ tình dục,

xem phim khiêu dâm.

- Nhu cầu được quý trọng, kính mến là nhu cầu điển hình của những người

phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác. Những NPT

này thường có sở thích xem phim, chơi game bạo lực.

- Nhu cầu thể hiện bản thân cường độ cao là nhu cầu điển hình của những NPT

vi phạm quy định về phương tiện giao thông đường bộ, tội chống người thi hành công

vụ, tội cố ý gây thương thích. Những người này thường có sở thích sử dụng các chất

kích thích như bia rươu, ma túy.

2.2.2.2. Thực trạng định hướng giá trị của người phạm tội

Qua chọn lọc, khảo sát, đánh giá đặc điểm của 238 bị cáo trong 200 vụ án đã

xét xử trong thời gian qua trên địa bàn huyện Củ Chi [Xem bảng phụ lục 2.12], học

viên nhận thấy các đặc điểm nhân thân tiêu cực về định hướng giá trị của NPT có

những đặc trưng rõ nét như sau:

- Có sự đánh giá không đúng, có sự nhầm lẫn giữa các giá trị trong xã hội, tập

trung vào các giá trị thứ yếu, giá trị thực dụng, mang tính cực đoan. Đặc điểm này có

ở những bị cáo là là người ăn chơi, đua đòi, thường mắc các tệ nạn xã hội như nghiện

ma túy, đánh bạc, mại dâm...;

- Đặt giá trị cá nhân lên trên các giá trị xã hội, tập thể.

Đặc điểm này có ở những bị cáo tham lam, hám lợi, đề cao giá trị đồng tiền,

xem thường lợi ích của người khác, điển hình như trường hợp Lê Nhật T, sinh năm

1985 đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác mặc dù nạn nhân là

người bị khuyết tật, cụt cả hai chân, cụ thể như sau:

Vào lúc 11 giờ 00 phút ngày 28/4/2018, bị cáo Lê Nhật T do cần tiền để tiêu

xài cá nhân, bị cáo một mình từ nhà điều khiển xe mô tô gắn máy màu đỏ hiệu Lead

biển số 54Y9 – 25xx đi đến địa phận huyện Củ Chi tìm những người bán vé số dạo

39

để giật vé số về bán lấy tiền tiêu xài Khi đi đến đường Võ Thị Lợi thuộc ấp 1, xã

Phước Vĩnh An, huyện Củ Chi,, bị cáo nhìn thấy ông Phạm Văn T là người tàn tật, bị

cụt cả hai chân, đang ngồi xe lắc tay đi bán vé số dạo trên đường. Bị cáo dừng xe (xe

còn nổ máy) giả vờ mua vé số của bị hại. Khi bị hại vừa đưa cho bị cáo cọc vé số có

92 tờ để bị cáo lựa chọn, bị cáo nhanh chóng giật lấy 92 tờ vé số nêu trên và tăng ga

tẩu thoát nhưng ngay sau đó bị quần chúng bắt giữ. Tại Bản kết luận định giá tài sản

số 92/KL – HĐĐGTS ngày 04/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng

hình sự huyện Củ Chi kết luận: 92 tờ vé số có giá trị tổng cộng 920.000đ [Bản án

166/2018/HSST ngày 19/10/2018 của TAND huyện Củ Chi].

Trong vụ án này có thể thấy rằng tài sản mà T chiếm đoạt có giá trị không cao.

Tuy nhiên, đối với người bán vé số đó là “cần câu cơm” để nuôi sống bản thân, gia

đình. Do đó, có thể nói rằng, hành vi chiếm đoạt vé số của những người vừa nghèo

khổ, vừa bị tàn tật như ông Phạm Văn T chỉ vì muốn có tiền để tiêu xài là do bị cáo

T quá coi trọng đồng tiền mà quên đi giá trị về đạo đức con người.

- Có thái độ bị quan, chán nản.

Đặc điểm này có ở những bị cáo có cuộc sống không như mong muốn, không

biết cách hoặc không cố gắng khắc phục khó khăn. Thống kê cho thấy số bị cáo có

quan điểm sống tiêu cực và lệch lạc là đa số với 188 bị cáo chiếm tỷ lệ khá cao khoảng

79%. Số bị cáo có thái độ, quan điểm sống tích cực do lầm lỡ, nhất thời phạm tội, chỉ

có 50 người, chiếm tỷ lệ thấp 21% và chủ yếu phạm tội với lỗi vô ý.

2.2.2.3. Thực trạng ý thức đạo đức, ý thức pháp luật của người phạm tội

Về ý thức đạo đức của người phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi trong thời

gian từ năm 2014 đến năm 2018, qua trao đổi với 30 Điều tra viên của Công an huyện

Củ Chi về các trường hợp phạm tội thuộc những loại tội phạm khác nhau cho thấy:

Đa số NPT có quan điểm về cái tốt đẹp, cái xấu… trong cuộc sống không đầy đủ. Họ

chỉ chú trọng vào lợi ích cá nhân dẫn đến việc thực hiện những hành vi có thể đem

lại lợi ích cho bản thân, cho dù hành vi đó có thể xâm phạm đến lợi ích của người

khác, của cộng đồng xã hội, của quốc gia. Lợi ích mà NPT thường hướng đến là lợi

ích kinh tế, tập trung ở nhóm những NPT xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, các

40

tội phạm xâm phạm trật tự quản lý hành chính, kinh tế, ma túy. Nhiều trường hợp

NPT thực hiện hành vi nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh lý của mình, bất chấp luân thường

đạo lý, chủ yếu xảy ra trong các vụ án hiếp dâm, dâm ô đối với trẻ em mặc dù giữa

bị cáo và bị hại có mối quan hệ ruột thịt, quen biết với nhau, điển hình như vụ án

Nguyễn Minh Dũng (sinh năm 1974; tạm trú ấp 1A, xã Tân Thạnh Tây, huyện Củ

Chi) phạm tội hiếp dâm trẻ em mà nạn nhân chính là con ruột của thủ phạm.

Vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 28-11-2015, sau khi uống rượu xong, Dũng nảy

sinh ý định giao cấu với cháu N.T.T.T (SN 2006, con ruột của Dũng) nên điều khiển

xe máy đến nhà mẹ vợ là bà N.T.H (SN 1958, ngụ ấp 2A, xã Tân Thạnh Tây) nói dối

là đưa cháu T đi ăn. Tuy nhiên, sau đó Dũng lại đưa cháu bé về phòng trọ tại ấp 1A,

xã Tân Thạnh Tây để thực hiện hành vi giao cấu. Trong khi Dũng đang thực hiện

hành vi hiếp dâm con ruột thì bị người dân phát hiện quả tang.Tại cơ quan công an,

Dũng còn khai nhận trước đó đã 1 lần thực hiện hành vi hiếp dâm cháu T vào ngày

21-11-2015 cũng tại phòng trọ trên.

Trong vụ án này, mặc dù giữa bị cáo và nạn nhân có mối quan hệ ruột rà, máu

mủ. Đáng lẽ với vai trò là người cha, bị cáo phải quan tâm, bảo vệ, chăm sóc con

nhưng chỉ vì dục vọng thấp hèn mà bị cáo Dũng đã bất chấp luân thường, đạo lý để

thực hiện hành vi hiếp dâm con mình chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh lý bản thân.

Điều này cho thấy ở bị cáo chỉ quan tâm đến lợi ích của cá nhân mà quên đi những

quy tắc đạo đức đời thường nhất để rồi thực hiện hành vi phạm tội.

Về ý thức pháp luật, thực tiễn cho thấy đa số NPT có hiểu biết hạn chế về pháp

luật nên không nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật hình sự. Một

số bị cáo có thái độ coi thường pháp luật, trong khi bản thân đã từng bị xử lý hình sự

nhưng vẫn tiếp tục thực hiện các tội phạm khác, thậm chí có hành vi tấn công, chống

trả người thi hành công vụ trong các vụ án mà bị cáo có đặc điểm nhân thân là tái

phạm, phạm tội nhiều lần hoặc trong các vụ phạm tội chống người thi hành công vụ.

Ngoài ra, còn có bị cáo cho rằng hành vi phạm tội của mình là không thể bị phát hiện

do trước đó bị cáo và bị hại không quen biết nhau, hành vi phạm tội không có người

chứng kiến. Điển hình như vụ án do đối tượng Nguyễn Hùng Minh (sinh năm 1990,

41

thường trú tại xã Tân Thạnh Đông, huyện Củ Chi) thực hiện, cụ thể như sau:

Sáng 22/8/2014, NTPL (tạm trú xã Tân Thạnh Đông, huyện Củ Chi) đạp xe

chở theo bạn gái tên N. lưu thông trên đường 457, ấp Hội Thạnh (xã Trung An, huyện

Củ Chi) thì bị Nguyễn Hùng Minh chạy xe máy đuổi theo và đạp mạnh vào chân trái

L. khiến L phải dừng xe. Minh đánh mạnh vào mặt L. rồi lớn tiếng quát tháo khiến

L. và N. không dám kêu lên. Minh yêu cầu N. đạp xe về nhà còn L. ở lại. Minh cầm

roi điện gí vào người buộc L. lên xe máy của mình chở đi và dọa N. không được kể

cho ai nghe. Sau đó, Minh chở L đến bãi đất trống trong cụm KCN Samco (xã Hòa

Phú, huyện Củ Chi). Tại đây, Minh nhặt một ống kim tiêm để buộc L. im lặng, cởi

hết quần áo và thực hiện những tư thế khác nhau trong tình trạng khỏa thân để dùng

điện thoại chụp ảnh. Tiếp theo, Minh yêu cầu nạn nhân đến hạn chót là ngày 15/9

phải đưa 1,2 triệu đồng, nếu không giao nộp đủ tiền sẽ tung ảnh “nóng” của L. lên

Facebook. L. hốt hoảng buộc lòng phải đồng ý để được thoát thân.... Sau khi tiếp

nhận thông tin tố giác cùng với mô tả đặc điểm nhận dạng từ nạn nhân, công an huyện

Củ Chi đã khoanh vùng đối tượng và tiến hành bắt giữ Minh.

Kết quả điều tra cho thấy, Minh từng làm công nhân một công ty gần nhà

nhưng đã nghỉ việc, chưa có tiền án, tiền sự và không có quen biết với nạn nhân. Để

có tiền tiêu xài, Minh đã chủ động lên kế hoạch phạm tội một cách kín kẽ bằng thủ

đoạn phạm tội ở những nơi vắng vẻ, nhằm vào những nạn nhân không quen biết để

chiếm đoạt tài sản. Minh cho rằng với cách thức phạm tội như vậy thì cơ quan chức

năng sẽ không thể điều tra ra hành vi phạm tội của mình.

2.2.3. Thực trạng về đặc điểm pháp lý hình sự

- Động cơ, mục đích

Qua nghiên cứu hồ sơ các vụ án hình sự xảy ra trên địa bàn huyện Củ Chi

trong thời gian qua và trao đổi với các điều tra viên trực tiếp thụ lý các vụ án cho

thấy: NPT trên địa bàn tỉnh thường vì nhiều động cơ và mục đích khác nhau như vì

muốn giải quyết những mâu thuẫn xảy ra trong cuộc sống, vì muốn “sĩ diện” giúp đỡ

bạn bè, giải quyết mâu thuẫn nhóm, vì muốn thỏa mãn nhu cầu tình dục, thỏa mãn

cơn nghiện hoặc vì muốn trả thù người bị hại, vì ghen tuông hay cảm thấy bất công,

42

vì mục đích vụ lợi... Điển hình như vụ án sau: Vào lúc 14 giờ ngày 04/7/2018 tại

đường Quốc lộ 22 thuộc xã Tân Thông Hội, Công an huyện Củ Chi bắt quả tang bị

cáo Cao Văn T đang tàng trữ trái phép chất ma túy gồm 02 gói ni lông chứa tinh thể

màu trắng. Quá trình điều tra T khai nhận: Khoảng tháng 1/2018, bị cáo đến nhà Phạm

HT, sin năm 1983; thường trú xã Tân Thống Hội, huyện Củ Chi để học nghề sửa xe

máy. Bị cáo T thướng được HT cho sử dụng ma túy chung. Đén tháng 5/2018, HT

nhờ bị cáo phụ giúp bán ma túy. HT là người trực tiếp giao dịch, thỏa thuận và hẹn

đại điểm giao nhận với người mua. Còn bị cáo T có nhiệm vụ đi giao ma túy và nhận

tiền. HT trả công cho bị cáo bằng tiền và ma túy. Khoảng 23h ngày 23/7/2018, HT

cho bị cáo 5gói ni lông chứa chất ma túy để sử dụng. Đến khoảng13h45 ngày

04/7/2018, có người tên Q ( chưa rõ lai lịch) gọi điện cho bị cáo để hỏi mua 500.000đ

ma túy để sử dụng. Do cần tiền tiêu xài nên bị cáo đồng ý bán cho Q 01 gói với giá

500.000đ và hẹn giao ma túy tại địa điểm trên đường Quốc lộ 22. Khi đến chỗ hẹn,

bị cáo mang theo trong người 2 gói ny lông chứa ma túy. Trong lúc đợi Q đến nhận

hàng thì bị cáo bị bắt quả tang. Tại kết quả giám định số 1158/KLGĐ-HĐ ngày

09/7/2018 phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP.HCM kết luận: Tinh thể màu trắng

chứa trong 02 gói ni lông được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay của người có

tên Cao V.T. và hình dấu của Công an huyện Củ Chi đến giám định là ma túy thể rắn

cho khối lượng 0,3660g loại Methamphetamine. Tại bản cáo trạng số 142/CTr/VKS-

HS ngày 10/10/2018 của VKSND huyện Củ Chi đã truy tố Cao Văn T về tội “Mua

bán trái phép chất ma túy [Bản án số 182/2018/HSST ngày 06/11/2018]. Qua vụ án

có thể thấy rằng, chỉ vì mong muốn có tiền tiêu xài và thỏa mãn cơn nghiện mà bị cáo

Cao Văn T đã lựa chọn việc thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy mặc dù

biết rằng hành vi này là sai trái và bị pháp luật nghiêm cấm.

- Hình thức, tính chất phạm tội, đặc điểm tiền án, tiền sự

Qua trao đổi với các Thẩm phán TAND huyện Củ Chi cho thấy: Hình thức

phạm tội của các bị cáo thường là phạm tội đơn lẻ. Tuy số vụ án mà các bị cáo thực

hiện dưới hình thức đồng phạm ít hơn so với tội phạm thực hiện đơn lẻ nhưng xét về

tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội lại cao hơn. Trong đó các trường hợp đồng

43

phạm có tổ chức xảy ra chủ yếu ở các tội phạm Trộm cắp, Cướp tài sản trong đó các

bị cáo có sự phân công vai trò, chuẩn bị kế hoạch để thực hiện hành vi phạm tội và

có sự câu kết chặt chẽ với nhau. Ngoài ra, đối với các trường hợp đồng phạm giản

đơn thì giữa các đối tượng khi thực hiện hành vi phạm tội không chặt chẽ, chỉ là rủ

rê, lôi kéo nhau để thực hiện hành vi phạm tội chứ không có kế hoạch gây án và tẩu

thoát, che giấu, trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật và thường tập trung ở nhóm tội

Cướp giật, Cố ý gây thương tích.

- Về mức hình phạt với NPT thì qua phỏng vấn các Thấm phán của TAND

huyện Củ Chi cho thấy, có trên 60% bị cáo bị xử phạt dưới 3 năm tù, trong đó số bị

cáo được hưởng án treo chiếm hơn 50%; số bị cáo bị xử phạt từ 3 năm đến 5 năm tù

20%; số bị cáo bị xử phạt trên 5 năm tù là 12 % và khoảng 8% bị cáo nào bị xử phạt

từ năm 7 năm trở lên. Ngoài ra, theo thống kê tại Bảng phụ lục 2.12 thì trong tổng số

1682 bị cáo được đưa ra xét xử có 223 bị cáo có tiền án, tiền sự, tương ứng với tỷ lệ

13.26%. Như vậy có thể nhận định rằng: Do không được xử lý nghiêm minh, hình

phạt không tương xứng, không đủ sức răn đe đối với người phạm tội, dẫn đến tỉ lệ

tái phạm tội cao, từ đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả phòng ngừa tội

phạm.Điều này đòi hỏi chính quyền và các cơ quan chức năng trên địa bàn huyện Củ

Chi cần có các biện pháp phòng ngừa THTP hữu hiệu hơn trong thời gian tới.

2.3. Các yếu tố tác động đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu

cực ở người phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh

2.3.1. Các yếu tố khách quan

2.3.1.1. Yếu tố tác động từ môi trường gia đình

Qua trao đổi với 10 thẩm phán của TAND huyện Củ Chi về hoàn cảnh gia

đình của các bị cáo trên địa bàn huyện Củ Chi trong thời gian qua cho thấy hầu hết

các bị cáo đều sống trong gia đình không có hạnh phúc, thiếu khuyết hoặc không

nhận được sự quan tâm, giáo dục đúng cách từ gia đình. Mỗi đặc điểm khác nhau từ

môi trường gia đình trên đây đều có ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển

nhân cách tiêu cực của các bị cáo ở nhiều góc độ khác nhau, cụ thể như sau:

- Gia đình không hoàn thiện, không hạnh phúc

44

Qua nghiên cứu 45/238 bị cáo trên địa bàn huyện Củ Chi có xuất thân trong

gia đình có cơ cấu không hoàn thiện trong thời gian qua, học viên nhận thấy: Sống

trong gia đình thiếu cha, thiếu mẹ hoặc thiếu cả cha lẫn mẹ, đứa trẻ thường thiếu sự

quan tâm, dạy dỗ và thiếu tình thương của người thân, thậm chí bị bạn bè xa lánh và

miệt kinh nên dễ phát sinh tâm lý lệch lạc, tự do ngang bướng, bất cần. Những đứa

trẻ khi rơi vào hoàn cảnh này thì dễ bị tổn thương về tâm lý nên thường có biểu hiện

tự ti, mặc cảm, có khi bị tự kỷ. Vì thiếu thốn tình cảm, thiếu sự quản lý, giáo dục nên

những đứa trẻ này dễ bị rủ rê, lôi kéo vào việc vi phạm pháp luật, phạm tội. Điển hình

như vụ án Trần Hà Quang Luân (sinh năm 1993, ngụ ấp Gót Chàng, xã An Nhơn

Tây, huyện Củ Chi) và Nguyễn Lê Minh Quân (sinh năm 1992, ngụ ấp Gót Chàng,

xã An Nhơn Tây, huyện Củ Chi) phạm tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d, khoản 2

Bộ luật hình sự.

Vào lúc 16h ngày 31/12/2013 Trần Hà Quang Luân điều khiển xe mô tô biển

số 54S2 – 0705 chở Nguyễn Lê Minh Quân lưu thông trên đường Nguyễn Văn Ni,

khi đến đường Lê Vĩnh Huy, khu phố 7 thị trấn Củ Chi thì phát hiện bà Đ.T.H.G (cư

ngụ tại huyện Củ Chi) điều khiển xe đạp điện chở bạn là N.T.X.H (cư ngụ tại huyện

Củ Chi) phía trước xe đạp có ba lô học sinh nên Luân điều khiển xe mô tô áp sát bên

trái xe của Đ.T.H.G để Quân ngồi sau giật lấy chiếc ba lô tẩu thoát theo hướng tỉnh

lộ 8 đến bờ kênh N31A thuộc ấp 3, xã Phước Vĩnh An, huyện Củ Chi thì dừng xe lại

lục soát chiếc ba lô chiếm đoạt 01 điện thoại di động Iphone 3G trị giá 1.800.000đ và

170.000đ, riêng chiếc ba lô cùng máy tính FX Plus 500, mắt kính, vở, sách viết trị giá

1.001.500đ bỏ lại trên bờ kênh. Luân chở Quân đem điện thoại cướp giật được bán

lại cho cửa hàng điện thoại “Sông Tiền” do bà Phạm Thị Sông Tiền (sinh năm 1982,

ngụ ấp Chợ Cũ, xã An Nhơn Tây, huyện Củ Chi) làm chủ được 900.000đ chia nhau

tiêu xài. Ngoài ra vào ngày 03, 04, 05 tháng 01 năm 2014, Luân và Quân còn thực

hiện 03 vụ cướp giật tài sản của người đi đường để bán lấy tiền chia nhau tiêu xài.

Giá trị tài sản mà các bị cáo đã chiếm đoạt là 6.395.000đ.

Hai bị cáo này có chung đặc là xuất thân trong hoàn cảnh gia đình mà cha mẹ

mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau, cha mẹ sống ly thân, tuy sống chung một nhà,

45

nhưng không quan tâm đến nhau. Chứng kiến cảnh gia đình như vậy, Luân và Quân

thường tụ tập cùng nhau để chơi bời, quậy phá. Do thiếu tiền tiêu xài nên cả hai nảy

sinh ý định cướp giật tài sản.

- Gia đình có người vi phạm pháp luật; không quan tâm, giáo dục con cái hoặc

có phương pháp giáo dục không đúng cách

Kết quả nghiên cứu hoàn cảnh gia đình của 238 bị cáo bị đưa ra xét xử trên

địa bàn huyện Củ Chi trong 5 năm qua cho thấy, có 36 bị cáo có người thân từng vi

phạm pháp luật hoặc phạm tội, trong đó đa phần là thân nhân nghiện ma túy, đánh

bạc, cố ý gây thương tích, trộm cắp. Do không được thân nhân trong gia đình nêu

gương về đạo đức và chấp hành pháp luật để noi theo nên các bị cáo này bị nhiễm

các thói hư tật xấu, sau đó bị lôi kéo rồi dẫn tới đồng lõa hoặc thực hiện hành vi phạm

pháp. Thực tiễn tại huyện Củ Chi cho thấy: Tội phạm được thực hiện bởi các bị cáo

có thân nhân vi phạm pháp luật thực hiện tập trung nhiều trong nhóm tội về ma túy,

đánh bạc, xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt.

Số liệu thống kê tại Bảng phụ lục 2.10 cho thấy, trong tổng số 238 bị cáo được

khảo sát có 15,97% bị cáo không nhận được sự quan tâm, giáo dục của gia đình và

21,85% bị cáo xuất thân từ gia đình có phương pháp giáo dục con cái không đúng

cách. Thưc tiễn cho thấy nhiều trường hợp bố mẹ của bị cáo là người tốt, có đủ kiến

thức và trình độ hiểu biết nhưng không chú ý đúng mức đến việc giáo dục con cái, ỷ

lại việc giáo dục cho nhà trường. Một số trường hợp khác lại do bố mẹ của bị cáo mải

lo làm ăn, kiếm sống hoặc phải đi công tác trong một thời gian dài nên thiếu sự dạy

dỗ con cái, không hiểu con, không kịp thời phát hiện và chấn chỉnh những biểu hiện

lệch lạc trong xử sự của con mình từ đó dần hình thành những đặc điểm xấu trong

nhân cách người phạm tội. Chỉ khi con mình bị xử lý hình sự thì lúc đó các bậc cha

mẹ mới hay biết và ngỡ ngàng vì họ vẫn nghĩ con mình rất ngoan hiền.

Ngoài ra, nhiều trường hợp do được gia đình nuông chiều từ nhỏ nên bị cáo

phát sinh tâm lý ỷ lại, lười lao động, khi gia đình không chu cấp hoặc chu cấp không

đầy đủ thì đi trộm cắp, cướp giật, hoặc làm những chuyện phi pháp để kiếm tiền tiêu

xài. Điển hình như trường hợp vụ án do Trần Nhựt T (sinh năm: 1998, nơi cư trú: Ấp

46

R, xã B, huyện T, tỉnh Tây Ninh), phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản [Bản án số:

59/2018/HS-ST ngày 17/4/2018 của TAND huyện Củ Chi.

Vào khoảng tháng 5/2017, Trần Nhựt T sử dụng số điện thoại 0925.042.846

lên mạng xã hội Zalo đăng ký với nickname “Bi Láo”, T nhắn tin kết bạn và nói

chuyện với Phan Thị Hồng P. Sau nhiều lần T trò chuyện với Phan Thị Hồng P, Trần

Nhựt T hẹn Phúc vào khoảng 09 giờ ngày 06/6/2017 gặp nhau cùng đi ăn tại huyện

Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Sau khi ăn xong, Trần Nhựt T chở P về quán nước trước

phòng trọ số 07 của Trần Nhựt T tại đường Nguyễn Văn H, thuộc ấp T, xã H, huyện

C. Trần Nhựt T nói dối với Phan Thị Hồng P cho mượn xe máy biển số 62P1-308.58

để đi rước bạn nhằm chiếm đoạt chiếc xe máy biển số 62P1-308.58, Phan Thị Hồng

P đồng ý đưa xe cho Trần Nhựt T, P ngồi ở hành lang phòng trọ số 07 chờ. Trần Nhựt

T sau khi mượn được xe trên liền điều khiển xe sang Campuchia cầm số tiền

4.500.000 đồng và tiêu xài hết. Kết quả điều tra về nhân thân của bị cáo T cho thấy,

trước đó, bị cáo đã bị bị Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Tây Ninh đưa vào cơ sở giáo

dục trường giáo dưỡng thời hạn 24 tháng có hành vi trộm cắp tài sản vào ngày

15/10/2012. Sau đó, T tiếp tục bị xử lý hình sự về hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản

với cùng mục đích nêu trên, cụ thể: Ngày 27/11/2015, bị TAND thành phố N, tỉnh

Tây Ninh xử phạt 15 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ngày 24/11/2017,

bị TAND thành phố N, tỉnh Tây Ninh xử phạt 04 năm tù về hành vi Lừa đảo chiếm

đoạt tài sản.

Về hoàn cảnh gia đình, bị cáo xuất thân trong gia đình kinh tế khá giả. Tuy

nhiên vì lo làm ăn nên cha mẹ bị cáo không dành thời gian quan tâm, dạy bảo những

điều hay, lẽ phải mà chủ yếu cung cấp tiền bạc cho bị cáo chơi bời, không kịp thời

khuyên răn, uốn nắn nên bị cáo không ý thức sửa đổi bản thân mà tiếp tục phạm tội.

2.3.1.2. Yếu tố tác động thuộc về môi trường nhà trường

Một là, thiếu sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong quản lý học sinh,

học viên.

Sự phối hợp quản lý của nhà trường và gia đình có vai trò vô cùng quan trọng

trong việc hình thành nhân cách của mỗi con người. Nếu sự phối hợp này không

47

thường xuyên, chặt chẽ sẽ trở thành yếu tố làm ảnh hưởng đến quá trình hình thành

những đặc điểm tiêu cực trong nhân cách của học sinh và là một trong những nguyên

nhân, điều kiện của THTP ở địa bàn cụ thể. Thực tiễn đặc điểm nhân thân NPT trên

địa bàn huyện Củ Chi trong những năm vừa qua cùng với mối liên hệ với những hạn

chế trong mối quan hệ phối hợp nhà trường - gia đình của NPT là một minh chứng

cụ thể cho điều đó.

Số liệu về trình độ học vấn của NPT tại Bảng phụ lục 2.6 cho thấy, đa phần

các bị cáo trên địa bàn huyện Củ Chi không được học hành đến nơi đến chốn, thậm

chí không biết chữ hoặc chỉ có trình độ tiểu học, trung học cơ sở. Con số thực tế này

phản ánh một thực trạng hiện nay đó là giữa nhà trường và gia đình của NPTchưa có

sự phối hợp quản lý người học một cách chặt chẽ dẫn đến tình trạng học sinh bỏ học,

không được thu nhận những kiến thức phổ thông cơ bản để có hành trang vào đời nên

dễ đi vào con đường phạm tội. Một số cơ sở đào tạo chưa quan tâm đúng mức đến

công tác quản lý học sinh, sinh viên, không kịp thời phát hiện, phối hợp với gia đình

chấn chỉnh những biểu hiện tiêu cực, lệch chuẩn của học sinh như: thường xuyên bỏ

học, ăn chơi đua đòi, bạo lực học đường, nghiện game, văn hóa phẩm đồi trụy, uống

rượu bia, hút thuốc lá, quan hệ tình dục bừa bãi dẫn đến tình trạng mang thai và phá

thai ngoài ý muốn. Bên cạnh đó, sự gia tăng tình trạng bạo lực, quấy rối tình dục học

đường cũng đang là thực trạng đáng lo ngại hiện nay ở môi trường nhà trường. Nạn

nhân của bạo lực học đường, quấy rối tình dục thường mang tâm lý sợ hãi, căm giận

nhưng không được nhà trường, thầy cô quan tâm, bảo vệ dẫn đến sự thù hận, mất

niềm tin vào cuộc sống, thậm chí bùng phát thành các hành vi phạm tội cố ý gây

thương tích, thậm chí giết người. Bên cạnh đó, nhiều em cho rằng sử dụng bạo lực

nhằm bảo vệ thể diện và danh dự, giải quyết mâu thuẫn với nhau bằng bạo lực là

chuyện bình thường, thể hiện mình là người lớn.

Có lúc, có nơi giữa nhà trường và gia đình chưa có sự phối hợp thực hiện

những giải pháp hữu hiệu trong quản lý giáo dục và giúp đỡ những học sinh, sinh

viên chưa ngoan, học sinh cá biệt để động viên các em tiến bộ hơn. Một số trường

còn áp dụng hình thức kỷ luật đuổi học những học sinh có những biểu hiện lệch chuẩn

48

trong khi các em đã hối hận, mong muốn được tiếp tục đi học và sửa đổi bản thân.

Điều này khiến các em nảy sinh tâm lý chán nản, bất cần từ đó dễ bị kẻ xấu lôi kéo

vào con đường phạm tội. Ví dụ như trường hợp phạm tội của bị cáo Trần N.T (sinh

năm: 1998) [Bản án 166/2018/HSST ngày 19/10/2018 của TAND huyện Củ Chi]. Khi

đang học lớp 7, T đã bị đuổi học vì hành vi trộm cắp tài sản. Sau đó vì chán nản, lại

không nhận được sự quan tâm, giáo dục phù hợp từ gia đình nên T không có ý thức

tiến bộ mà tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm pháp luật và bị truy cứu trách nhiệm

hình sự về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản vào các năm 2015, 2017.

Hai là, nhà trường chú trọng giáo dục văn hóa, kiến thức mà chưa chú trọng

giáo dục đạo đức, kiến thức pháp luật, kỹ năng sống.

Có lúc, có nơi, nhà trường chỉ tập trung hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn là

giáo dục kiến thức, văn hóa cho các em mà chưa quan tâm đúng mức đến việc giáo

dục nhân cách, đạo đức, lối sống và kỹ năng xử lý tình huống trong cuộc sống. Hoạt

động giáo dục đạo đức và kỹ năng sống của các trường hiện nay chủ yếu thông qua

nội dung môn học Giáo dục công dân nên chưa tác động mạnh mẽ đến nhận thức của

các em. Đối với các em các nội dung học tập đó chỉ đơn thuần là học thuộc lòng để

trả bài và lấy điểm trung bình mà không “thấm” được vào nhận thức và cách thức xử

sự của các em. Hoạt động giáo dục, tuyên truyền kiến thức pháp luật được thực hiện

ở tất cả các cấp học với nhiều hình mức độ, hình thức khác nhau. Tuy nhiên, nhìn

chung các hoạt động này không diễn ra thường xuyên và phong phú về hình thức nên

không thu hút được sự quan tâm của các em do đó các em không nhận biết được sự

nguy hiểm của tội phạm, tính nghiêm minh của pháp luật cũng như những thủ đoạn

phạm tội để từ đó phòng ngừa tội phạm trong thực tế. Điều này đã để lại nhiều hệ lụy

cho xã hội về mặt trái của nó. Đó là sự hình thành ở học sinh, sinh viên tâm lý coi

trọng đồng tiền, sự xuống cấp, suy thoái về đạo đức, sự lệch lạc trong định hướng giá

trị và sở thích.

Thực tiễn cho thấy các cơ sở giáo dục trên địa bàn huyện Củ Chi trong thời

gian qua cho thấy nhiều trường đã chủ động phối hợp với các cơ quan, tổ chức tiến

hành các hoạt động tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật và kỹ năng sống cho

49

học sinh ở nhiều cấp. Tuy nhiên, kết quả thu được từ các hoạt động này đối với nhận

thức của các em còn khá hạn chế. Để kiểm chứng, học viên đã tiến hành phòng vấn

một số em học sinh hai cấp trên địa bàn huyện Củ Chi thì hầu hết các em đều có

chung tâm lý là thích hưởng thụ, thích ăn chơi, đua đòi, không thích học tập, lao động

và đề cao lợi ích cá nhân. Có lẽ vì tâm lý này mà nhiều người đã đi vào con đường

phạm tội, điển hình như trường hợp Trần Nhựt T phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài

sản đã được đề cập ở trên. Nhằm thỏa mãn sở thích đánh bjac của mình mà Trần Nhựt

T đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chiếc xe máy của chị P. Với số

tiền bất chính 4.500.000đ thu được từ việc bán chiếc xe máy của chị P, Trần Nhựt T

đã dùng hết vào việc đánh bài [Bản án 166/2018/HSST ngày 19/10/2018 của TAND

huyện Củ Chi].

2.3.1.3. Yếu tố tác động thuộc về môi trường sống

Qua nghiên cứu nhân thân của một số NPT trên địa bàn huyện Củ Chi thời

gian qua cho thấy: Môi trường sống không lành mạnh, chứa đựng nhiều nhân tố tiêu

cực như có người sống bê tha, tệ nạn xã hội, phạm tội… tiềm ẩn nguy cơ lôi kéo, tác

động đến những người thiếu bản lĩnh, dễ sa ngã trước cái xấu, tiêu cực của đời sống

xã hội. Ngoài ra, việc giao lưu với bạn bè không tốt cùng dễ dẫn đến hình thành các

đặc điểm nhân thân tiêu cực, như thói ăn chơi đua đòi, coi trọng giá trị đồng tiền, ích

kỷ, sa vào tệ nạn xã hội… từ đó dễ đi vào con đường phạm tội, ví dụ như vụ án sau:

Trần Quang Diệu biết vườn hoa kiểng Minh Tân thuộc ấp Cây Da, xã Tân Phú

Trung của ông Trịnh Minh Tân có nhiều cây mai vàng quý nên nảy sinh ý định xúi

người khác đi trộm để Diệu mua lại giá rẻ. Lúc 13h, ngày 4/1/2014, Diệu gặp Nguyễn

Mạnh Quang (là hàng xóm của Diệu) rủ Quang đến vườn hoa kiểng này để trộm mai

vàng về bán cho Diệu. Nghe xong, Quang liền đồng ý. Lúc 23h cùng ngày, Quang

trèo rào vào vườn kiểng nhổ lấy 2 cây mai, trị giá 63 triệu đồng mang giấu vào bụi

cây tầm vông gần đó. Sau đó Quang gọi điện thoại báo cho Diệu biết là Quang đã

trộm được 2 cây mai vàng và kêu Diệu đến mua. Diệu điều khiển xe máy đến gặp

Quang thỏa thuận mua 2 cây mai với giá 4 triệu đồng. Sau đó, Diệu chở hai cây mai

trên về nhà cất giấu. Đến sáng hôm sau, Diệu đem trồng 2 cây mai phía sau nhà. Đến

50

ngày 8/1/2014, Nguyễn Hữu Toàn đến nhà Diệu chơi thì Diệu nhờ Toàn tìm mối để

bán 2 cây mai trên. Đến ngày 12/1/2014, Toàn đưa tên Ngọc (chưa rõ lai lịch) đến

nhà Diệu thỏa thuận mua 2 cây mai trên với giá 18 triệu đồng và Ngọc hẹn nhận hàng

vào lúc 12h trưa ngày 12/1/2014 tại Khu công nghiệp Tân Phú Trung, huyện Củ Chi.

Sau đó, Diệu thuê Toàn đào 2 cây mai lên để đem giao hàng. Diệu còn gọi thêm bạn

mình là Nguyễn Đức Cang đến nhà phụ khiêng 2 cây mai lên xe tải để đem đi giao

hàng và được Cang sẵn sàng giúp. Đến khoảng 22h cùng ngày, Diệu điều khiển xe ô

tô tải chở Toàn, Cang và 2 cây mai đến khu công nghiệp Tân Phú Trung để giao hàng

thì bị công an huyện Củ Chi phát hiện truy đuổi. TAND huyện Củ Chi xét xử các bị

cáo về các tội danh: Trần Quang Diệu; Nguyễn Mạnh Quang cùng về tội về tội “trộm

cắp tài sản”. Nguyễn Hữu Toàn và Nguyễn Đức Cang cùng về tội “tiêu thụ tài sản do

người khác phạm tội mà có”.

2.3.1.4. Các yếu tố tác động thuộc môi trường làm việc

Thực tiễn các vụ phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi trong thời gian qua cho

thấy, một số trường hợp phạm tội xảy ra xuất phát từ tâm lý bực bội, bất mãn do

những đố kỵ, đấu đá, miệt thị, khinh khi trong quá trình làm việc, điển hình như vụ

án sau đây: Nguyễn Hữu Phước (30 tuổi) và anh Trịnh Hữu Hiếu (24 tuổi) đều là công

nhân của Công ty Nam Đô Vina đóng ở ấp 4, xã Phước Vĩnh An, huyện Củ Chi.

Trong quá trình làm việc, cả 2 nhiều lần xảy ra mâu thuẫn. Khoảng 8 giờ sáng ngày

16-12-2016, trong lúc làm việc, Hiếu và Phước mâu thuẫn dẫn đến ẩu đả. Phước dùng

tay đánh vào mặt Hiếu và được mọi người can ngăn. Tuy nhiên Hiếu vẫn bực đe dọa

sẽ đánh Phước lúc tan ca về. Sau đó, Hiếu gọi điện thoại cho anh là Trịnh Hữu Chung

kể lại sự việc. Chung mang dao và kêu thêm một số người đến trước cổng công ty

đợi Phước. Phần Phước cũng thủ sẵn 1 con dao trước khi ra lấy xe về. Khi thấy Phước

dắt xe ra cổng, Hiếu liền chỉ cho anh trai biết để chặn đầu xe. Phước thấy nhóm Chung

nên bỏ xe máy định chạy vào công ty thì bị Chung cầm dao lao đến nhưng chém

hụt.Phước rút dao đâm 1 phát trúng ngực Chung. Sau đó Phước ra công an đầu thú.

2.3.1.4. Các yếu tố tác động thuộc về môi trường kinh tế - xã hội vĩ mô

Trong thời gian qua, kinh tế, xã hội của cả nước nói chung và nhiều địa phương

51

cũng như huyện Củ Chi nói riêng đã đạt được những thành tưu to lớn, góp phần nâng

cao đời sống nhân dân về mọi mặt. Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường và

những yếu kém trong quản lý, sự thiếu hiệu quả của những giải pháp, chính sách an

sinh, xã hội của cơ quan có thẩm quyền ở nhiều tầng nấc, mức độ khác nhau đã tác

động không nhỏ đến hoàn cảnh nhiều gia đình, nhiều cá nhân trong xã hội. Đó là tình

trạng các công ty, xí nghiệp bị phá sản do môi trường kinh doanh cạnh tranh khốc

liệt; sự bùng nổ của cách mạng công nghệ 4.0 với những trò chơi, phim ảnh đồi trụy,

bạo lực trong khi khả năng quản lý của các cơ quan chức năng không đảm bảo; sự

phát triển mạnh mẽ các loại hình dịch vụ, giải trí tiềm ẩn nguy cơ tội phạm và tệ nạn

xã hội ở nhiều địa phương. Dưới tác động của điều kiện kinh tế, xã hội vĩ mô đó,

nhiều người bị thất nghiệp, vướng vào tệ nạn xã hội, hình thành những thói quen, sở

thích không lành mạnh, ảnh hưởng đến cách sống, cách nghĩ, đạo đức xuống cấp,

thiếu ý thức chấp hành pháp luật, từ đó dễ đi vào con đường phạm tội. Thực tiễn cho

thấy, nhân thân NPTtrên địa bàn huyện Củ Chi trong giai đoạn 5 năm qua cũng chịu

những tác động tương tự từ môi trường kinh tế - xã hội vĩ mô đó, cụ thể như sau:

Một là, tác động của sự phân hóa giàu nghèo, tình trạng thất nghiệp

Trong những năm qua, việc hình thành, phát triển mạnh mẽ các khu công

nghiệp, các mô hình kinh doanh mới và tình trạng “sốt đất” diễn ra trên địa bàn huyện

Củ Chi đã đem đến diện mạo mới cho Củ Chi, nhiều hộ gia đình giàu lên nhanh

chóng. Bên cạnh đó lại tồn tại một bộ phận không nhỏ người mất đất lao động, trong

khi trình độ học vấn thấp, không có tay nghề nên không xin được vào các công ty, xí

nghiệp làm việc. Ngoài ra, một lượng lớn công ty do không có sức cạnh tranh với các

công ty khác đã thua lỗ và dẫn đến phá sản, nhiều công nhân rơi vào tình trạng thất

nghiệp nhiều gia đình không có nguồn thu nhập chính đáng để sinh sống. Tình trạng

này dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư ngày càng cách biệt rõ

rệt. Từ đó, nhiều người đã nảy sinh tâm lý tiêu cực, bi quan, chán nản. Một số người

thường xuyên tụ tập ăn nhậu, quậy phá và do ảnh hưởng của việc sử dụng rượu, bia

và các chất kích thích khác nên đã không làm chủ được mình dẫn đến phạm tội về

xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác. Nhiều trường hợp

52

vì túng thiếu nên tìm cách kiếm tiềm bằng mọi giá, coi việc phạm tội là nguồn thu

nhập chính của bản thân. Điển hình như trường hợp phạm tội của Hồ Hữu H (sinh

năm 1997; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12). Do cần tiền

tiêu xài, Hồ Hữu H rủ Lê Văn C đi trộm cắp tài sản. Khoảng 00 giờ ngày 20/8/2017,

Lê Văn C điều khiển xe máy hiệu Honda Wave Alpha biển số 59Y2-562.05 đến chòi

thuốc của gia đình bị cáo H thuộc ấp 3, xã T, huyện Củ Chi để chở H đi trộm cắp tài

sản, khi đi ngang qua dãy nhà trọ của bà Nguyễn Thị S tại ấp T, xã T, huyện Củ Chi

thì H phát hiện có 01 xe máy hiệu Yamaha Sirius biển số 68E1-190.51 dựng trước

phòng trọ số 5 không có người trông giữ, H kêu C dừng xe lại đứng ở ngoài chờ, H

vào dãy - 2 - nhà trọ lén lút đẩy xe máy mang biển số 68E1-190.51 ra cửa rào, sau đó

H ngồi lên xe máy vừa trộm được để C điều khiển xe máy hiệu Honda Wave Alpha

biển số 59Y2- 562.05 dùng chân đẩy về nhà của H ở ấp M, xã T, huyện Củ Chi. Sau

đó H tháo biển số 68E1-190.51 vứt đi và lấy biển số 59Y2-562.05 gắn vào xe máy

vừa trộm được, H tiếp tục gỡ dây điện ở ổ khóa xe Yamaha Sirius, nổ máy chạy về

chòi thuốc ở ấp 3, xã T, huyện C. Khoảng 09 giờ 00 phút cùng ngày, H tiếp tục điều

khiển xe máy trộm được về nhà tại ấp M, xã T, huyện Củ Chi, H tháo 02 vè chắn bùn

ra cất trên đầu tủ. H thương lượng với C để H dùng xe vừa trộm được làm phương

tiện đi lại, khi nào có tiền H sẽ đưa cho C 2.000.000đ (Hai triệu đồng) thì C đồng ý.

Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 22/8/2017, H điều khiển xe máy hiệu Yamaha Sirius

gắn biển số 59Y2-562.05 chở theo Nguyễn Minh H đi chơi, khi đến trạm xăng B

thuộc ấp M, xã P, huyện C để mua xăng thì bị Công an xã P đang tuần tra đến kiểm

tra, do cả hai không mang theo giấy tờ tùy thân nên bị mời về Công an xã P làm việc,

qua xét nghiệm ma túy phát hiện H có kết quả dương tính. Công an xã P bàn giao H

cùng chiếc xe máy hiệu Yamaha Sirius gắn biển số 59Y2-562.05 H khai nhận chiếc

xe máy hiệu Yamaha Sirius do H trộm cắp mà có [Bản án 203/2017/HSST ngày

30/11/2017 của TAND huyện Củ Chi].

Ngoài trường hợp cụ thể nêu trên, số liệu thống kê tại bảng 2.9 cho thấy: Trong

số 1.638 bị cáo trên địa bàn huyện Củ Chi thì có đến 1.380 bị cáo không có việc làm

ổn định, gấp hơn 10 lần số bị cáo có nghề nghiệp ổn định. Điều này cho thấy tình

53

trạng thất nghiệp, thiếu việc làm tác động rất lớn được sự hình thành những đặc điểm

tiêu cực trong nhân thân người phạm tội.

Hai là, các chính sách an sinh xã hội, chính sách giải quyết việc làm, hỗ trợ

doanh nghiệp, chính sách cho vay vốn, chính sách phát triển nông thôn... của địa

phương còn nhiều bất cập, thiếu hiệu quả.

Trong thời gian qua, huyện Củ Chi đã tập trung thực hiện nhiều giải pháp khác

nhau nhằm giảm nghèo nhanh và bền vững như: thành lập tổ tự quản giảm nghèo;

khảo sát, điều tra, hỗ trợ thoát nghèo; gắn việc vay vốn, tín dụng với việc hướng dẫn

cách sản xuất và chuyển giao khoa học kỹ thuật, công nghệ; cho hộ nghèo vay vốn

để phát triển kinh tế; hỗ trợ chi phí học tập; cấp 76.948 thẻ bảo hiểm y tế cho hộ

nghèo, hộ cận nghèo, xây dựng nhà tình thương cho hộ nghèo. Tuy nhiên, những giải

pháp này vẫn chưa thực sự hiệu quả khi sau nhiều năm triển khai, đến cuối năm 2018,

trên toàn huyện Củ Chi vẫn còn 374 hộ nghèo và 2.955 hộ cận nghèo. Từ hoàn cảnh

kinh tế khó khăn đó mà nhiều người này sinh tâm lý chán nản, vướng vào tệ nạn xã

hội hoặc tìm cách kiếm tiền bằng mọi giá thậm chí là phạm tội để trang trải cho đời

sống gia đình và bản thân. Thực tiễn cho thấy, 99 bị cáo có hộ khẩu và tạm trú trên

địa bàn huyện Củ Chi trong 200 vụ án được đưa ra xét xử trong 5 năm qua trên địa

bàn này đều xuất thân từ gia đình hộ nghèo và hộ cận nghèo.

Ba là, tình hình tệ nạn xã hội trên địa bàn Củ Chi còn diễn biến phức tạp

Theo số liệu thống kê của công an huyện Củ Chi, đến cuối năm 2018, huyện

Củ Chi có 337 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, số người nghiện mới có xu

hướng trẻ hóa trong khi thủ tục xử lý hành chính buộc cai nghiện còn rườm rà, chi

phí tự nguyện cai nghiện cao dẫn đến tình trạng số đối tượng được đưa đi cai nghiện

còn hạn chế. Nhóm đối tượng nghiện ma túy không được quản lý thường sẵn sàng

làm tất cả để có được tài sản nhằm thỏa mãn cơn nghiện, kể cả việc thực hiện các

hành vi phạm tội.

Bên cạnh đó, tình trạng ăn chơi, sử dụng rượu bia ở huyện Củ Chi ngày càng

phổ biến và gia tăng theo quá trình phát triển của huyện. Trình trạng này gắn liền với

sự phát triển mạnh mẽ của các cơ sở kinh doanh tiềm ẩn nguy cơ về tệ nạn xã hội mại

54

dâm, ma túy, đánh bạc như các quán ăn uống, nhà hàng, khách sạn, quán internet,

cầm đồ… trên địa bàn huyện. Tính đến cuối năm 2018, huyện Củ Chi hiện đang quản

lý 260 cơ sở kinh doanh dịch vụ có điều kiện về an ninh, trật tự. Hàng năm, công an

huyện Củ Chi phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra các cơ sở này

và đã phát hiện 587 trường hợp vi phạm.

Bốn là, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong xã

hội có chiều hướng gia tăng.

Trong xu thế phát triển xã hội ngày nay, với chính sách mở cửa toàn diện, hội

nhập quốc tế tạo điều kiện cho sự xuất hiện và phát triển của các sản phẩm văn hóa

giải trí độc hại, cổ súy cho lối sống thực dụng, trụy lạc, bạo lực như phim ảnh, sách

truyện, trò chơi trực tuyến. Những sản phẩm văn hóa này đã gây ảnh hưởng không

nhỏ đến đạo đức, nhân cách của một bộ phận nhân dân nhất là lớp trẻ. Một bộ phận

không nhỏ người trẻ đã hình thành những thói quen, sở thích không lành mạnh, đạo

đức ngày càng xuống cấp, sai lệch về định hướng giá trị, tôn sùng, cổ vũ cho những

cá nhân, những hành vi tiêu cực trong xã hội. Đây là một trong những nguyên nhân

và điều kiện dẫn đến việc thực hiện hành vi phạm tội của một bộ phận dân cư, đặc

biệt là độ tuổi thanh thiếu niên trên địa bàn huyện Củ Chi trong thời gian qua, điển

hình như trường hợp phạm tội của

2.3.2. Các yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội

2.3.2.1. Sai lệch về sở thích

Qua nghiên cứu đặc điểm của 238 bị cáo bị TAND huyện Củ Chi xét xử trong

giai đoạn từ 2014-2018, học viên nhận thây: Nhiều bị cáo chỉ vì để thỏa mãn sở thích

sai lệch của mình mà thực hiện tội phạm bất chấp quy định pháp luật. Thực tiễn xét

xử cho thấy, trong nhiều vụ án có sự tham gia của nhiều NPTcó cùng sở thích như

nhau, tập trung nhiều ở các tội đánh bạc, ví dụ như trường hợp phạm tội cụ thể sau

đây của các đối tượng: Trần Thị Anh (Sinh năm 1960 tại TP. Hồ Chí Minh; nghề

nghiệp: Buôn bán), Trần Văn Dón (sinh năm 1977; nghề nghiệp: Thợ cắt tóc), Trần

Thị Thu Thủy (sinh năm 1989 tại TP. Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không); Lê Văn

Bộn (sinh năm 1979 tại TP. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Buôn bán); Trần Hoàng

55

Phong (sinh năm 1982; nghề nghiệp: buôn bán); Nguyễn Thị Nga (sinh năm 1968;

nghề nghiệp: Bán vé số); Nguyễn Ngọc Tài (sinh năm 1985; nghề nghiệp: Buôn bán);

Phạm Đặng Út Hâu (sinh năm 1988; nghề nghiệp: Làm mướn).

Vào lúc 15h00’ ngày 08/4/2015, Công an huyện Củ Chi bắt quả tang vụ đánh bạc

dưới hình thức lắc tài xỉu thắng thua bằng tiền xảy ra tại quán cà phê do Trần Thị Anh

làm chủ. Trần Thị Anh để cho Trần Văn Dón làm nhà cái lắc tài xỉu để thu tiền xâu,

Trần Thị Thu Thủy theo nhà cái để cho Phạm Đặng Út Hâu, Nguyễn Ngọc Tài, Lê

Văn Bộn, Trần Hoàng Phong, NguyễnThị Nga tham gia đánh bạc. Cách thức đánh

bạc là tính điểm 3 hột xí ngầu từ 3 đến 10 là xỉu, từ 11 đến 18 là tài, nhà cái sẽ lắc 3

hột xí ngầu, các nhà con sẽ đặt tiền, sau đó nhà cái mở rồi dựa vào số điểm của 3 hột

xí ngầu để tính thắng thua.Tang vật thu giữ tại chiếu bạc gồm: 2.250.000 đồng, 03

hột xí ngầu, một nắp nhựa màu đỏ đen, 01 dĩa sành, 01 tấm bạc màu trắng xanh. ồng

thời, số tiền mà các bị cáo xác định sẽ dùng để đánh bạc cụ thể là: bị cáo Dón

2.100.000 đồng, bị cáo Thủy 508.000 đồng, bị cáo Thu là 1.400.000 đồng và bị cáo

Bộn 450.000 đồng, bị cáo Nga 300.000 đồng [Bản án hình sự số 283/2015/HSST

ngày 30/9/2015 của TAND huyện Củ Chi].

Trong vụ án này, hầu hết các bị cáo đều là người không có việc làm ổn định,

thu nhập thấp. Thay vì chí thú làm ăn và tham gia các hoạt động giải trí lành mạnh

thì các bị cáo lại sử dụng tiền bạc của mình để tham gia đánh bạc nhằm thỏa mãn sở

thích cá nhân, trong khi pháp luật hình sự nước ta đã có những quy định cụ thể về

hành vi này.

2.3.2.2. Sai lệch về nhu cầu và cách thức thỏa mãn nhu cầu

Bởi có sở thích lệch lạc và nhu cầu bị biến dạng so với chuẩn mực đạo đức xã

hội, khi đó, vì là nhu cầu sai trái, bị cấm đoán và không thể đáp ứng được, nên NPT

thường dễ dẫn đến con đường phạm tội để thỏa mãn các nhu cầu của mình, mà đó chỉ

có con đường thực hiện các hành vi trái pháp luật. Điển hình như trường hợp Văn

Hoài Dũng (sinh năm 1984, thường trú tại 113H Nguyễn Duy, phường 14, quận 8,

TP.HCM) hiếp dâm vợ bạn xảy ra tại xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi vào ngày

04/7/2015. Văn Hoài Dũng cùng với vợ thuê nhà trọ ở xã Tân Thông Hội, huyện

56

Củ Chi và quen biết thân thiết với vợ chồng chị Z, cùng cư trú tại đây. Ngày 4-7-

2015, Dũng uống rượu say rồi cãi nhau với vợ nên vợ Dũng dắt theo con bỏ đi.

Khoảng 20h cùng ngày, Dũng đến nhà chị Z. tìm vợ nhưng không thấy. Dũng liền hỏi

mượn điện thoại của chị Z. để gọi cho vợ nhưng điện thoại không liên lạc được. Lúc

này, lợi dụng chồng chị Z. đi vắng, Dũng nắm tay chị Z. nhưng bị chị Z. phản ứng,

cắn vào tay. Tức giận, Dũng liền nắm đầu chị Z. đập nhiều cái xuống nền nhà, cắn

vào bắp tay nạn nhân gây thương tích đến 14% rồi giở trò đồi bại. Sáng sớm hôm sau,

lợi dụng lúc Dũng đang mặc đồ, chị Z. nói dối bị đau bụng cần ra ngoài mua thuốc

rồi bỏ chạy. Ra đến đường Quốc lộ, chị Z. nhờ người dân giúp đỡ và gọi điện báo

Công an. Tại Cơ quan CSĐT, Dũng đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

2.3.2.3. Sai lệch về ý thức, thái độ

Một là, sự xuống cấp về đạo đức

Thực tế hiện nay cho thấy đạo đức con người đangcó xu hướng xuống cấp

nghiêm trọng, nhất là giới trẻ hiện nay. Số NPTngày một trẻ hóa và gia tăng. Đặc

điểm nhân thân của đa số NPTlà học vấn thấp, lười lao động nhưng lại thích hưởng

thụ, coi trọng giá trị vật chất (giá trị đồng tiền), xem nhẹ đạo đức, truyền thống của

xã hội,… cộng với sự thiếu quan tâm, chăm sóc của gia đình và quản lý giáo dục của

nhà trường, đã đẩy họ đi vào con đường tội lỗi, trở thành người phạm tội. Điển hình

là trường hợp bị cáo Trần Nhựt T (sinh năm: 1998) phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài

sản, có trình độ học vấn 7/12, không được cha mẹ quan tâm đúng cách, bị đuổi học

từ năm 2012, sau đó nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu [Bản án

số: 59/2018/HS-ST ngày 17/4/2018 của TAND huyện Củ Chi].

Hai là, tâm lý ăn chơi, đua đòi, nghiện bia rượu, cờ bạc và nghiện ma túy.

Qua nghiên cứu, khảo sát, phân tích đặc điểm nhân thân của 238 bị cáo đã bị

xét xử các năm từ 2014 đến 2018 tại Bảng phụ lục 2.12 cho thấy: Đa số các bị cáo

đều có sở thích không lành mạnh như: tụ tập ăn chơi, quậy phá, nghiệm ma túy, uống

rượu bia, nghiệm phim ảnh, trò chơi bạo lực, đồi trụy. Chính tâm lý này là yếu tố tác

động đến nhân thân tiêu cực của NPT bởi hầu hết các sở thích này đều không nhận

được sự đồng thuận của gia đình, nhà trường, xã hội và cần phải được từ bỏ. Tuy

57

nhiên, ở những người này khi bị ảnh hưởng quá nhiều từ những sở thích, thói quen

trụy lạc đó, đến mức không kiểm soát được nhu cầu của bản thân sẽ thôi thúc họ bằng

mọi cách để thỏa mãn nhu cầu của mình kể cả phạm tội, điển hình như vụ án sau đây:

Do cần tiền mua ma túy để sử dụng, Hồ Hữu H rủ Lê Văn C đi trộm cắp tài

sản để bán lấy tiền mua ma túy sử dụng thì C đồng ý. Khoảng 00 giờ ngày 20/8/2017,

Lê Văn C điều khiển xe máy hiệu Honda Wave Alpha biển số 59Y2-562.05 đến chòi

thuốc của gia đình bị cáo H thuộc ấp 3, xã T, huyện C để chở H đi trộm cắp tài sản,

khi đi ngang qua dãy nhà trọ của bà Nguyễn Thị S tại ấp T, xã T, huyện C thì H phát

hiện có 01 xe máy hiệu Yamaha Sirius biển số 68E1-190.51 dựng trước phòng trọ số

5 không có người trông giữ, H kêu C dừng xe lại đứng ở ngoài chờ, H vào dãy nhà

trọ lén lút đẩy xe máy mang biển số 68E1-190.51 ra cửa rào, sau đó H ngồi lên xe

máy vừa trộm được để C điều khiển xe máy hiệu Honda Wave Alpha biển số 59Y2-

562.05 dùng chân đẩy về nhà của H ở ấp M, xã T, huyện C. Sau đó H tháo biển số

68E1-190.51 vứt đi và lấy biển số 59Y2-562.05 gắn vào xe máy vừa trộm được, H

tiếp tục gỡ dây điện ở ổ khóa xe Yamaha Sirius, nổ máy chạy về chòi thuốc ở ấp 3,

xã T, huyện C. Khoảng 09 giờ 00 phút cùng ngày, H tiếp tục điều khiển xe máy trộm

được về nhà tại ấp M, xã T, huyện C, H tháo 02 vè chắn bùn ra cất trên đầu tủ. H

thương lượng với C để H dùng xe vừa trộm được làm phương tiện đi lại, khi nào có

tiền H sẽ đưa cho C 2.000.000đ (Hai triệu đồng) thì C đồng ý. Khoảng 01 giờ 30 phút

ngày 22/8/2017, H điều khiển xe máy hiệu Yamaha Sirius gắn biển số 59Y2-562.05

chở theo Nguyễn Minh H đi chơi, khi đến trạm xăng B thuộc ấp M, xã P, huyện C để

mua xăng thì bị Công an xã P đang tuần tra đến kiểm tra, do cả hai không mang theo

giấy tờ tùy thân nên bị mời về Công an xã P làm việc, qua xét nghiệm ma túy phát

hiện H có kết quả dương tính. Công an xã P bàn giao H cùng chiếc xe máy hiệu

Yamaha Sirius gắn biển số 59Y2-562.05 cho Công an xã T, huyện C xử lý theo thẩm

quyền. Tại Công an xã T, H khai nhận chiếc xe máy hiệu Yamaha Sirius do H trộm

cắp mà có [Bản án 203/2017/HSST ngày 30/11/2017 của TAND huyện Củ Chi].

Ba là, tâm lý thích sử dụng bạo lực, dục vọng thấp hèn.

Do ảnh hưởng của các sản phẩm văn hóa độc hại, các trò chơi điện tử, các loại

58

games online có nội dung bạo lực, các văn hóa phẩm đồi trụy, phim, ảnh khiêu dâm,

trò chơi online khiêu dâm, kích dục tràn lan trên mạng internet… đã làm ảnh hưởng

xấu đến sự phát triển tâm sinh lý, gây ra sự lệch lạc về đạo đức lối sống, nhất là bộ

phận thanh thiếu niên. Có những vụ án thương tâm trên địa bàn huyện đã để lại hậu

quả vô cùng nghiêm trọng nhất là sự phát triển bình thường về tâm lý, sức khỏe sinh

sản cho nạn nhân, chẳng hạn như vụ án sau: Vào ngày 14.5.2017, Đ.T.T.N. (sinh ngày

10-8-2003, học sinh lớp 9 tại Kiên Giang) lên nhà dì ruột chơi tại xã Trung An, huyện

Củ thì bị Danh Minh Thành (sinh năm 1989, ngụ tỉnh Kiên Giang), dùng dao khống

chế và thực hiện hành vi xâm hại. Trong đơn tố cáo, bà C. cũng cho biết con bà bị đe

dọa nếu nói với ai sẽ bị giết. Thời gian sau, bé N. có biểu hiện bất thường, mặt xanh

xao, thường nôn ói. Giữa tháng 9-2017, bé N. đi học bị xỉu nên được đưa đến bệnh viện

thì phát hiện cháu có thai 17 tuần tuổi. Mẹ của N là bà C gửi đơn tố cáo đến công an xã

Trung An. Ngày 16-9-2017, Cơ quan CSĐT Công an huyện Củ Chi đã tiếp nhận thông

tin báo cáo từ Công an xã Trung An, huyện Củ Chi. Dương Minh Thành đã thừa nhận

toàn bộ hành vi phạm tội. Tuy nhiên, đến ngày 25-9-2017, gia đình bà C. rút đơn tố

cáo. Công an huyện Củ Chi quyết định trưng cầu giám định và yêu cầu gia đình cung

cấp hình ảnh cho việc trưng cầu giám định nhưng gia đình chưa hợp tác. Sau đó, đại

diện Công an huyện Củ Chi cho biết để có cơ sở xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp

luật, cơ quan điều tra tiếp tục trưng cầu giám định, tiếp tục làm rõ để có căn cứ khởi tố

vụ án. Đến nay, sau 7 tháng bà C. làm đơn tố cáo. Sau đó, Dương Minh Thành bị TAND

huyện Củ Chi kết án về tội giao cấu với trẻ em với mức án 6 năm tù.

- Bốn là, hạn chế về ý thức pháp luật

Thực tiễn xét xử hình sự trên địa bàn huyện Củ Chi thời gian qua cho thấy,

nhiều bị cáo mặc dù có hiểu biết nhất định về pháp luật tuy nhiên vẫn cố tình thực

hiện tội phạm hoặc thậm chí chống trả người thi hành công vụ với ý thức coi thường

tính nghiêm minh của pháp luật. Điển hình như trường hợp phạm tội chống người thi

hành công vụ của bị cáo Nguyễn Văn C (sinh năm 1979).

Nguyễn Văn C là bạn trai của Nguyễn Thị Hồng H. Ngày 04/6/2018, bị cáo

đang ngủ tại nhà trọ của H thuộc ấp X, xã A, huyện Củ Chi. Đến khoảng hơn 09 giờ

59

30 phút, bị cáo giật mình thức dậy vì phía trước phòng trọ của H có nhiều tiếng nói

lớn, lúc này cửa phòng trọ đóng kín, bị cáo chỉ nghe tiếng H ở bên ngoài phòng trọ

nên bị cáo nghĩ H bị các khách nam đến gây rối, vì vậy bị cáo từ trên gác chạy xuống

đã làm đổ tô xăng đang để dưới nền gạch. Khi H mở cửa thì công an xịt bình chữa

cháy vào phòng trọ, lúc đó bị cáo chạy lên gác lấy con dao bằng kim loại cầm trên

tay phải và tay trái cầm trên tay một tô bằng nhựa màu trắng có đựng chất lỏng (nghi

là xăng) tạt về phía lực lượng công an nhưng không trúng ai rồi bị cáo lùi sâu vào bên

trong, trên tay cầm hộp quẹt và bình xịt côn trùng có ý định đốt. Thấy vậy, công an

dùng chữa cháy xịt thẳng vào trong phòng nên không xảy ra cháy. Tiếp đó, bị cáo

dùng dao cầm trên tay bước ra thì lực lượng Công an tiến lại gần yêu cầu bị cáo bỏ

dao xuống, bị cáo không chấp hành mà giơ dao chém về phía lực lượng Công an

nhưng không trúng ai và bị cáo lùi dần ra hướng đường T rồi bỏ chạy tới nhà của

Trần Thị Y tại ấp L, xã A, đóng cửa cố thủ bên trong, sau đó bị lực lượng Cảnh sát

cơ động Công an huyện C đến khống chế yêu cầu bị cáo về trụ sở làm việc) [Bản án

số 178/2018/HSST ngày 06/11/2018 của TAND huyện Củ Chi].

Trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Văn C là người có đầy đủ năng lực hành vi

và nhận biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã từng bị xử lý hình sự, nhưng

vẫn thực hiện hành vi dùng vũ lực, cầm dao đe dọa chém công an nhằm để chống trả

lại người thực thi công vụ, cho thấy rất rõ ý thức coi thường pháp luật của bị cáo.

Bên cạnh đó, nhiều trường hợp bị cáo phạm tội do ấu trĩ pháp luật, ngộ nhận

về nhận thức, kém hiểu biết về tri thức pháp luật dẫn đến thực hiện hành vi vi phạm

những điều cấm của pháp luật hình sự quy định, mà mình không biết hành vi đó là

tội phạm, điển hình như trong vụ án do Lý Thanh T, (sinh ngày 20/01/1996) phạm

tội Giao cấu với trẻ em

Vào khoảng tháng 3/2013, bị cáo Lý Thanh T quen biết và nảy sinh tình cảm

với bị hại em Lê Thị Bình Ng, sinh ngày 18/9/1998 (Sau đây gọi tắt là bị hại). Sau

khi quen nhau, cả hai đã quan hệ tình dục tại nhà của bị cáo, hậu quả bị hại có thai,

bà Lê Phước B mẹ của bị hại phát hiện nên dẫn bị hại đi phá thai và làm đơn tố cáo

hành vi của bị cáo đến các cơ quan chức năng tại địa 2 phương. Tại thời điểm này, bị

60

cáo chưa đủ 18 tuổi nên không bị xử lý trách nhiệm hình sự. Sau sự việc trên, bị cáo

vẫn tiếp tục duy trì mối quan hệ tình cảm và qua lại với bị hại. Ngày 15/02/2014 đến

ngày 25/02/2014, bị hại đã bỏ nhà cha mẹ ruột đến chung sống với bị cáo tại nhà của

bị cáo. Trong thời gian này, bị cáo đã quan hệ tình dục 7 lầm với bị hại và đều chấp

thuận, hậu quả bị hại có thai. Ngày 03/4/2014, bà Lê Phước B mẹ của bị hại làm đơn

tố cáo hành vi của bị cáo đến các cơ quan chức năng tại địa phương, bị cáo và bị hại

bỏ trốn khỏi địa phương đến Thị xã B, Tỉnh BP chung sống với nhau như vợ chồng.

Đến ngày 15/11/2014, bị hại đã sinh con và đặt tên là Lê Tống G. Sau khi sinh con,

bị hại và bị cáo không còn sống chung như vợ chồng, bị hại đã trở về sinh sống với

gia đình tại ấp 6A, xã T, huyện C, Thành phố H. Ngày 10/7/2017, Công an huyện Củ

Chi, TP.HCM ra Quyết định trưng cầu giám định số 133/QĐ/TCGĐ(TTXH) trưng

cầu giám định ADN đối với trẻ Lê Tống G. Tại Bản kết luận giám định số 2422/C54B

ngày 14/9/2017 của Tổng cục Cảnh sát – Phân viện Khoa học hình sự tại TP.HCM

kết luận: Lý Thanh T là cha ruột của Lê Tống G với xác suất 99,999992% [Bản án

85/2018/HSST ngày 28/5/2018 của TAND huyện Củ Chi].

Trong vụ án này, cả bị cáo và bị hại cùng thừa nhận có quan hệ tình cảm, và

cùng cho rằng “yêu là phải hết mình” dẫn đến quan hệ tình dục với nhau. Bản thân bị

cáo không biết rằng hành vi nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sự phát

triển bình thường về thể chất và tâm sinh lý của người chưa thành niên, xâm phạm

đến sức khỏe, tinh thần, danh dự, nhân phẩm của bị hại. Chỉ vì thỏa mãn dục vọng cá

nhân, thiếu hiểu biết pháp luật mà bị cáo đã thực hiện hành vi giao cấu người dưới

16 tuổi – là tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự và phải chịu hình phạt.

Như vậy, thực trạng nhân thân NPTtrên địa bàn huyện Củ Chi trong thời gian

qua cho thấy: Những yếu tố tiêu cực thuộc về nhân thân người phạm tội, đóng vai trò

là một trong những nguyên nhân gây ra tình hình tội phạm ở địa bàn này. Chúng là

hệ quả của sự tác động qua lại giữa con người của nhiều yếu tố tiêu cực mang tính

khách quan từ phía môi trường xã hội. Sự tác động đó ở mức độ nhất định chịu sự

61

ảnh hưởng của những đặc điểm sinh học của con người cụ thể.

Tiểu kêt chương 2

Trong Chương 2 của Luận văn, học viên đã tập trung nghiên cứu thực trạng

nhân thân tiêu cực của NPTtrên địa bàn huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh trong giai

đoạn từ năm 2014 đến năm 2018. Kết quả nghiên cứu của Chương 2 Luận văn đã làm

rõ đặc điểm nhân thân và các yếu tố tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân

thân tiêu cực của NPT trên địa bàn huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh trong mối liên

hệ với tình hình kinh tế, xã hội và THTP trên địa bàn này trong giai đoạn từ năm 2014

đến năm 2018.

Cùng với đó, kết quả nghiên cứu trong Chương này cũng đã làm rõ được mối

quan hệ mật thiết giữa nhân thân của NPT trên địa bàn huyện Củ Chi thời gian qua

với các yếu tố như: môi trường gia đình, nhà trường, môi trường sống, làm việc, môi

trường kinh tế - xã hội vĩ mô và các yếu tố tâm, sinh lý, ý thức tiêu cực xuất phát từ

chính cá nhân NPT. Theo đó, nhân thân NPT là kết quả của sự tác động qua lại giữa

các yếu tố thuộc môi trường khách quan vói các yếu tố chủ quan của chính bản thân

NPT. Đây chính là cơ sở cho việc đưa ra dự báo cũng như giải pháp phòng ngừa

62

THTP trên địa bàn huyện Củ Chi trong thời gian tới từ góc độ nhân thân NPT.

Chương 3

DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI

PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ

GÓC ĐỘ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI

3.1. Dự báo về tình hình tội phạm, đặc điểm nhân thân người phạm tội và

một số yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực

của người phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh

3.1.1. Căn cứ dự báo

Để dự báo về biến động của môi trường sống và ảnh hưởng của nó đến việc

hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của NPTtrên địa bàn huyện Củ Chi,

TP.HCM trong thời gian tới, học viên dựa trên những căn cứ sau:

- Những tài liệu phản ánh tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện Củ Chi

trong hiện tại và tương lai.

Có thể thấy rằng, tình hình kinh tế - xã hội gắn bó mật thiết với toàn bộ các

môi trường khách quan khác có tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân

tiêu cực của người phạm tội. Do đó, để dự báo được những biến động của môi trường

sống và ảnh hưởng của nó đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của

NPTtrên địa bàn huyện Củ Chi cần phải biết được xu hướng của tình hình chính trị,

kinh tế, xã hội ở địa bàn này. Xu hướng phát triển đó được Đảng, Nhà nước và các

cấp chính quyền của TP.HCM nói chung và huyện Củ Chi nói riêng nhận định trong

các văn bản chỉ đạo, tổ chức, triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách, phương

hướng phát triển kinh tế trong hiện tại và tương lai. Theo các văn bản đó, tình hình

kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện Củ Chi được đang gặt hái những thành tựu nhất

định và đã được đề cập tại mục 2.1.1. của Luận văn này.

Trong những năm tiếp theo, với các chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước

ta, huyện Củ Chi tiếp tục có những bước chuyển đổi vượt bậc kinh tế, văn hóa, xã

hội... đặc biệt là khi TP.HCM đang xúc tiến các chính sách đặc thù về kinh tế. Các

63

dự án hạ tầng giao thông quy mô lớn sẽ được khởi động như: Dự án cao tốc TPHCM

- Mộc Bài, dự án hầm chui tại nút giao thông An Sương… Đây cũng là nền tảng tạo

cú hích phát triển cho khu đô thị Tây Bắc của TPHCM nói chung và huyện Củ Chi

nói riêng. Với việc TP.HCM tái khởi động kế hoạch xây dựng đô thị Tây Bắc bao

gồm Củ Chi và Hóc Môn, dự báo trong thời gian tới các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa

trên địa bàn huyện Củ Chi tiếp tục được đầu tư và hoàn thiện. Điều này sẽ thu hút

lượng lớn người dân từ các khu vực lân cận và các tỉnh thành miền Trung và phía Bắc

đến sinh sống và làm việc trên địa bàn này. Sự bùng nổ dân số sẽ kéo theo hàng loạt

các cơ sở kinh doanh dịch vụ đáp ứng mọi nhu cầu sinh hoạt, hưởng thụ của người

dân ở Củ Chi.

Với xu hướng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đó, hoạt động quản lý của ác

cơ quan chức năng sẽ gặp nhiều khó khăn trong bối cảnh cả nước thực hiện chủ trương

tinh giản biên chế. Nhiều chính sách, biện pháp mới được thực hiện phần nào sẽ đem

đến hiệu quả trong quản lý và thực hiện các chính sách an sinh xã hội trên địa bàn

huyện Củ Chi. Ngoài ra, sự phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội trong tương lai sẽ

kéo theo những hệ lụy mà giai đoạn lịch sử trước đó đã ghi nhận, đó là: Sự phân hóa

giàu nghèo rõ rệt hơn, tình trạng thất nghiệp, quá tải dân số, tệ nạn xã hội, sự xuống

cấp trong đạo đức, lối sống, thói hưởng thụ, trụy lạc của một bộ phận dân cư vẫn tiếp

tục diễn ra và có xu hướng gia tăng…

- Những tài liệu phản ánh về THTP và công tác phòng, chống tội phạm trên

địa bàn huyện Củ Chi

Để có thể đưa ra dự đoán về ảnh hưởng môi trường sống đến việc hình thành

các đặc điểm nhân thân tiêu cực của NPTtrên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ

Chí Minh trong thời gian tới, học viên cho rằng cần phải nắm bắt được thực trạng

THTP và công tác phòng ngừa THTP đã và đang diễn ra ở địa bàn này. Những thông

tin đó giúp học viên nắm được quy luật vận động, xu hướng thực hiện tội phạm của

NPT theo đặc điểm nhân thân trong thời gian tới, góp phần củng cố độ chính xác của

các nội dung dự báo. Những tài liệu này bao gồm các báo cáo tổng kết hàng năm,

hàng quý và các báo cáo chuyên đề của Công an huyện Củ Chi về tình hình ANTT,

64

trị an trên địa bàn.

Bên cạnh đó, học viên cũng nghiên cứu những tài liệu liên quan đến công tác

phòng, chống tội phạm của các cơ quan chức năng trên địa bàn huyện Củ Chi, bao

gồm: Nghị quyết, Chỉ thị về công tác phòng ngừa tội phạm của Đảng ủy các cấp từ

Trung ương đến địa phương, Chương trình, Kế hoạch phòng ngừa tội phạm của Chính

phủ, Ủy ban nhân dân các cấp trên địa bàn TP.HCM và huyện Củ Chi. Nội dung của

các văn bản này là cơ sở, phương hướng cho các hoạt động đấu tranh phòng chống

tội phạm nói chung và phòng ngừa THTP từ góc độ nhân thân NPTtại huyện Củ Chi

nói riêng trong thời gian tới. Việc nghiên cứu các văn bản này không những có giá trị

trong việc đưa ra dự báo một cách toàn diện, chính xác hơn mà còn giúp học viên có

thể đánh giá được những ưu điểm, hạn chế trong công tác phòng ngừa THTP trên địa

bàn này để đề xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa THTP một cách hiệu quả.

3.1.2. Nội dung dự báo

3.1.2.1. Dự báo về tình hình tội phạm

Trên cơ sở phân tích, đánh giá những yếu tố ảnh hưởng đến sự biến động của

THTP ở huyện Củ Chi nêu trên, có thể nhận định rằng: Trong thời gian tới, THTP

trên địa bàn huyện Củ Chi sẽ có những diễn biến hết sức phức tạp. Cụ thể là:

- Về mức độ phạm tội: Số vụ phạm tội có thể gia tăng cả về số lượng và số

người phạm tội. Trong những năm tới có khả năng sẽ xảy ra nhiều vụ án có tổ chức,

quy mô liên tỉnh hay xuyên quốc gia.

- Về phương thức và thủ đoạn phạm tội: Thủ đoạn của tội phạm sẽ có nhiều

thay đổi theo hướng tinh vi hơn, chuyên nghiệp hơn với các phương thức đa dạng.

Các đối tượng phạm tội sẽ có sự câu kết chặt chẽ, có sự phân chia địa bàn hoạt động

nhằm đạt được mục đích phạm tội.

- Về cơ cấu tội phạm:

Loại tội phạm, tội phạm ít nghiêm trọng và nghiêm trọng vẫn chiếm đa số

trong toàn bộ THTP với các tội về xâm phạm sở hữu, tội phạm xâm phạm trật tự công

cộng và trật tự quản lý hành chính. Số tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm

trọng vẫn xảy ra với tỷ lệ thấp tập trung ở các tội giết người, hiếp dâm trẻ em, mua

65

bán trái phép chất ma túy.

Số vụ phạm tội xâm phạm quyền sở hữu có chiều hướng giảm nhưng tính chất,

mức độ nguy hiểm cho xu hướng tăng với việc sử dụng vũ khí nóng với nhiều thủ

đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt như dùng thuốc mê, dao, gậy hoặc sử dụng công nghệ

cao để chiếm đoạt tài sản. Tội phạm về kinh tế ở địa bàn huyện Củ Chi tiếp tục nổi

lên là sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng, trốn thuế. Các tội phạm

chức vụ trong thời gian tới sẽ mất tính “ẩn” bởi sự kiên quyết trong đấu tranh phòng

chống tội phạm, đặc biệt là trong xu thế chính trị hiện nay. Tội phạm về ma túy vẫn

ở mức cao; phần lớn là các tội vận chuyển, mua bán trái phép các chất ma tuý…

Nguồn ma tuý từ nước ngoài vào địa bàn này còn rất lớn, khó kiểm soát; thủ đoạn

hoạt động của bọn tội phạm hết sức tinh vi, xảo quyệt, liều lĩnh, manh động, sẵn sàng

chống trả quyết liệt, kể cả tự sát để bịt đầu mối… sẽ gây rất nhiều khó khăn cho quá

trình điều tra, khám phá.Tội phạm xâm phạm trật tự công cộng, trật tự quản lý hành

chính vẫn chiếm tỷ lệ tương đối cao trong tổng số tội phạm, trong đó tập trung ở các

tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, gây rối trật tự

công cộng, làm giả giấy tờ, tài liệu con dấu của cơ quan, tổ chức.

Người phạm tội vẫn chủ yếu trong nhóm tuổi từ 18 đến dưới 60 tuổi, trong đó

tình trạng trẻ hóa tội phạm với số người chưa thành niên phạm tội có xu hướng tăng.

Người phạm tội chủ yếu là những người thất nghiệp hoặc có công việc không ổn định,

trình độ học vấn thấp, đa số có nơi cư trú trên địa bàn huyện và các khu vực lân cận.

Về địa bàn hoạt động: Tội phạm vẫn sẽ tập trung nhiều tại các khu vực vực có

mật độ dân cư đông, địa bàn rộng, có các khu, cụm công nghiệp, giáp ranh với các

địa phương khác như thị trấn Củ Chi, xã Hòa Phú, Bình Mỹ, Trung An, Tân An Hội,

Tân Phú Trung…

3.1.2.2. Dự báo về xu hướng vận động của môi trường khách quan tác động

đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội

Trong 5 năm tiếp theo, các yếu tố tác động đến sự hình thành các đặc điểm

nhân thân tiêu cực ở NPT sẽ có xu hướng như sau:

- Về môi trường nhà trường: Trong thời gian tới hầu hết các cơ sở đào tạo sẽ

66

tăng cường công tác quản lý học sinh, sinh viên và duy trì mối quan hệ phối hợp với

gia đình bằng nhiều hình thức khác nhau. Các hoạt động giáo dục đạo đức, tuyên

truyền, phổ biến pháp luật sẽ được tăng cường thực hiện ở tất cả các cấp học với nhiều

hình thức phong phú, hấp dẫn hơn, thu hút đưuọc sự tham gia và tác động tíc cực đến

nhận thức pháp luật của học sinh, sinh viên.

- Về môi trường gia đình: Tình trạng gia đình thiếu khuyết, không hạnh phúc

sẽ rất phổ biến với lệ ly hôn của các cặp vợ chồng tăng cao, tình trạng mâu thuẫn

trong gia đình thường xuyên diễn ra. Điều này dẫn đến tâm lý căng thăng, bi quan

cho con cái, nhiều trường hợp có xu hướng tự kỷ hoặc tìm đến các chất gây nghiện

để giải tỏa stress.

- Về môi trường sống, làm việc: Sự đầu tư phát triển văn hóa kinh tế xã hội là

xu thế chung do đó hầu hết các địa phương đều có môi trường sống lành mạnh hơn.

Văn hóa công sở, nơi làm việc được các chủ doanh nghiệp, người đứng đầu cơ quan,

đơn vị quan tâm duy trì nên không còn xảy ra tình trạng mâu thuẫn sâu sắc giữa các

đồng nghiệp nên không tạo ra tâm lý tiêu cực dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật hình

sự nhằm giải tỏa những mâu thuẫn đó.

3.1.2.3. Dự báo đặc điểm nhân thân của người phạm tội

- Về đặc điểm xã hội – nhân khẩu

+ Đặc điểm về độ tuổi: NPT có xu hướng trẻ hóa, kéo theo tỷ lệ NPTdưới 18

tuổi có chiều hướng gia tăng với cách thức phạm tội manh động và tính chất nguy

hiểm hơn. Tỷ lệ NPTtrong độ tuổi từ đủ 18 đến dưới 30 tuổi vẫn ở mức cao nhất do

sức khỏe sung mãn, thích thể hiện bản thân trong khi khả năng kiểm soát hành vi còn

hạn chế và phạm tội ở tất cá các loại tội phạm. Trong thời gian tới nhóm người trong

độ tuổi này sẽ được xã hội quan tâm nhiều hơn, đặc biệt là những người cao tuổi có

hoàn cảnh khó khăn do đó tỷ lệ NPT từ 60 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ rất thấp và chỉ

phạm tội với lỗi vô ý.

+ Đặc đểm về giới tính: NPT có giới tính nam chiếm ưu thế và thực hiện hành

vi phạm tội ở tất cả các nhóm tội. Tỷ lệ NPT nữ giới và giới tính khác ở mức thấp và

thường phạm các tội xâm phạm sở hữu, ma túy, tội phạm xâm phạm tính mạng, sức

67

khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác do ghen tuông, mâu thuẫn tình ái.

+ Đặc đểm về hoàn cảnh gia đình: NPT chủ yếu xuất thân trong gia đình

không hạnh phúc, gia đình có người vi phạm pháp luật, không quan tâm giáo dục con

cái hoặc có phương pháp giáo dục không đúng cách. Số ít NPT có hoàn cảnh gia đình

hạnh phúc nhưng do nhất thời, không kiểm soát được hành vi của mình mà phạm tội.

+ Đặc đểm về trình độ học vấn: NPT chủ yếu có trình độ học vấn thấp và

thường phạm các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, tội phạm ma túy, tội phạm

xâm phạm trật tự công cộng. Số ít NPT được học hành đến nơi đến chốn thường phạm

các tội phạm kinh tế, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp

do đặc trưng các tội phạm này đòi hỏi chủ thể phải có trình độ học vấn nhất định.

- Về đặc điểm đạo đức - tâm lý

+ Đặc đểm về thói quen, sở thích: Với xu hướng chính quyền có nhiều biện

pháp tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo thì dự báo trong tương lai NPT hầu

hết có nhu cầu hưởng thụ ở mức cao, thích được thể hiện bản thân và mong muốn

khẳng đinh bản lĩnh, vị trí của mình trong xã hội. Đa số là người có thói quen, sở

thích không lành mạnh như ăn chơi, quậy phá, nghiệm game, sex, bạo lực do ảnh

hưởng từ các sản phẩm văn hóa độc hại. Với nhu cầu, sở thích đó, NPT chủ yếu thực

hiện hành vi phạm tội về ma túy, kinh tế, tội phạm xâm hại tình dục.

+ Đặc điểm về định hướng giá trị, ý thức đạo đức, pháp luật: Đa số NPT lệch

lạc trong định hướng giá trị. Họ đề cao lợi ích của bản thân và giá trị đồng tiền. Hầu

hết họ có tâm lý tiêu cực do chán nản cuộc sống gia đình không hạnh phúc, không

được quan tâm, giáo dục đúng cách nên họ tìm đến những cách thức giải trí không

lành mạnh như chơi game, xem phim ảnh đồi trụy, bạo lực hoặc thậm chí sử dụng các

chất gây nghiện từ đó bị ảnh hưởng đến tâm lý và tìm mọi cách để thỏa mãn nhu cầu

không chính đáng của mình. Ngoài ra, nhiều người do thích thể hiện mình nên cố tình

thực hiện hành vi gây sốc để tạo ấn tượng với chúng bạn hoặc chỉ để mục đích “câu

like, câu view” trên mạng xã hội cho dù biết rằng đó là hành vi vi phạm pháp luật.,

thậm chí là tội phạm.

Những dự báo trên có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng các biện pháp

68

nhằm tăng cường phòng ngừa THTP trên địa bàn huyện Củ Chi từ góc độ nhân thân

người phạm tội.

3.2. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm từ góc độ

nhân thân người phạm tội

Việc tác động nhằm làm thay đổi NPTlà biện pháp mang tính chiến lược; còn

làm thay đổi những yếu tố tiêu cực của môi trường xã hội, làm mất đi cơ hội, tình

huống, điều kiện thuận lợi cho việc phát sinh hành vi phạm tội mới là biện pháp cấp

thiết cần thực hiện ngay trong thời gian tới.

3.2.1. Tăng cường khai thác các đặc điểm nhân thân của người phạm tội trong

phòng ngừa tội phạm

Từ những kết quả phân tích ở Chương 2 của Luận văn, có thể thấy rằng những

đặc điểm nhân thân tiêu cực có ảnh hưởng sâu sắc đến việc thực hiện hành vi phạm

tội của con người. Do đó, để phòng ngừa có hiệu quả tội phạm nhất thiết cần phải

tăng cường khai thác các đặc điểm nhân thân đó vào quá trình tổ chức thực hiện các

biện pháp phòng ngừa ở các mức độ khác nhau:

Một là, trong tổ chức, triển khai thực hiện các biện pháp phòng ngừa chung

Các biện pháp phòng ngừa chung là những biện pháp phòng ngừa gắn liền với

việc giải quyết các nhiệm vụ chung của xã hội, được thực hiện trong quá trình xây

dựng và phát triển mọi mặt của đời sống xã hội nhằm thủ tiêu nguyên nhân và điều

kiện phát sinh tội phạm. Những biện pháp này gắn liền với các hoạt động của Nhà

nước, của xã hội như hoạt động phát triển kinh tế - xã hội; hoạt động tổ chức quản lý

xã hội; hoạt động chính trị, tư tưởng, văn hóa, giáo dục, hoạt động xây dựng và hoàn

thiện hệ thống pháp luật… nên được gọi tên theo lĩnh vực hoạt động đó của xã hội

như: Biện pháp kinh tế - xã hội; biện pháp chính trị - tư tưởng; biện pháp tổ chức,

quản lý xã hội; biện pháp văn hóa - giáo dục; biện pháp pháp luật...

Để khai thác triệt để các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội trong

quá trình tổ chức, thực hiện các biện pháp phòng ngừa chung, các chủ thể phòng ngừa

cần nhận thức một cách toàn diện về từng đặc điểm nhân thân của NPT từ đó lựa chọn

cách thức hình thức tổ chức, xây dựng các nội dung để tác động vào từng nhóm đối

69

tượng để phòng ngừa tội phạm một cách hiệu quả nhất ví dụ như sau:

- Đối với đặc điểm giới tính của người phạm tội, thực tiễn cho thấy tỷ lệ phạm

tội do nam giới thực hiện luôn cao hơn nữ giới, trong đó khi thực hiện nam giới

thường sử dụng vũ lực và thường phạm các tội phạm về xâm phạm tính mạng, sức

khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác cũng như các tội phạm xâm phạm sở hữu,

tội vi pahjm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, tội chống

người thi hành công vụ... Đây là các loại tội phạm phổ biến xảy ra trên địa bàn huyện

Củ Chi trong thời gian qua. Do đó, chính quyền và các cơ quan chức năng cần tăng

cường các biện pháp phòng ngừa chung như tuyên truyền, phổ biến, giáo dục kiến

thức pháp luật cho những người dân là nam giới gây ra giới tính có ảnh hưởng như

thế nào đối với cơ chế hình thành hành vi phạm tội. Để thu hút sự tham gia của người

dân là nam giới vào các hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật thì cần

lựa chọn các cán bộ tuyên truyền là nữ, trẻ và có kiến thức sâu, rộng về các nội dung

cần tuyên truyền. Nội dung cần tuyên truyền để tác động đến người dân là các kiến

thức pháp luật về các lĩnh vực quen thuộc mà người phạm tội có giới tính nam thường

thực hiện trên địa bàn huyện.

- Đối với đặc điểm lứa tuổi của những NPT thường thể hiện được mức độ tích

cực phạm tội và các đặc điểm về hành vi chống đối xã hội của những người thuộc lứa

tuổi khác nhau, đặc điểm của thành phần lứa tuổi khác nhau. Do đó, khi tổ chức, thực

hiện các biện pháp phòng ngừa chung như cần căn cứ vào các đặc điểm tâm sinh lý,

lứa tuổi của từng nhóm đối tượng để tiến hành các hình thức, nội dung thực hiện để

đạt hiệu quả cao nhất. Ví dụ như: Khi tiến hành các cuộc tuyên truyền, phổ biến kiến

thức pháp luật ở các trường học cần thiết kế các trò chơi vui nhộn, nội dung tuyên

truyền không cần quá rộng mà tập trung vào việc giáo dục đạo đức, kỹ năng sống và

kỹ năng xử lý các tình huống thường gặp ở lứa tuổi của các em như: Bạo lực học

đường; Tình yêu học đường; Xâm hại tình dục trẻ em; Tác hại của ma túy và các chất

kích thích... Với những thông tin nội dung tuyên truyền thiết thực và gần gũi với lứa

tuổi học sinh sẽ thu hút sự tham gia của các em vào các buổi tuyên truyền và từ đó

các em được trang bị những thông tin cần thiết để không bị rơi vào các hoàn cảnh

70

tiêu cực trong xã hội để không trở thành nạn nhân cũng như không bị lôi kéo, rủ rê

vào việc thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Đối với nhóm đối tượng ở lứa tuổi

trưởng thành, các biện pháp phòng ngừa cần tập trung vào các biện pháp kinh tế như

tổ chức dạy nghễ, tạo nhiều cơ hội việc làm, phổ biến những cách thức làm ăn kinh

tế chính đáng, hiệu quả cao, trợ vốn... Khi tiến hành các hoạt động tuyên truyền với

lứa tuổi thanh niên, người cao tuổi – là những bậc phụ huynh trong gia đình, ngoài

việc tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật còn nhấn mạnh vai trò của gia đình

trong quản lý, giáo dục con em với các nội dung thiết thực như: Cách thức xử trí khi

con em giao du với bạn xấu; Hình mẫu của cha mẹ với con cái...

Hai là, trong tổ chức, triển khai thực hiện các biện pháp phòng ngừa riêng

Các biện pháp phòng ngừa riêng (còn gọi là các biện pháp phòng ngừa nghiệp

vụ) là những biện pháp mang tính đặc trưng chuyên môn của từng ngành, từng lực

lượng để tập trung PNTH nói chung, phòng ngừa từng nhóm tội phạm cũng như

phòng ngừa tội phạm cụ thể. Đây là những biện pháp có tính chuyên môn, nghiệp vụ

rõ rệt tác động vào con người cụ thể có nguy cơ thực hiện tội phạm nhằm ngăn chặn

hoạt động phạm tội của họ như: Điều tra, khám phá tội phạm, truy tố, xét xử và thi

hành án hình sự... Ví dụ như: Trong quá trình điều tra, khám phá các vụ án hình sự

chưa rõ người phạm tội, Cơ quan điều tra cần tiến hành khoanh vùng, sàng lọc các

đối tượng nghi vấn theo các đặc điểm nhân thân có người phạm tội gắn với những

nhóm tội, loại tội, tội phạm cụ thể: Ví dụ, đối với các vụ án kinh tế, người phạm tội

phải là người trưởng thành, có kiến thức nhất định về lĩnh vực kinh doanh các ngành

nghề; các vụ án ma túy thì đối tượng thường là người nghiện, thất nghiệp, có quan hệ

thường xuyên với những đối tượng bất hảo; đối với các vụ án giết người, cố ý gây

thương tích, hiếp dâm trẻ em, người phạm tội thường là nam giới, có trình độ học vấn

thấp, gia đình không hạnh phúc; đối với các vụ án cướp, cướp giật, trộm cắp tài sản,

NPT chủ yếu là thất nghiệp, nghiện ma túy, không có điều kiện kinh tế; đối các vụ án

giết người có tính chất man rợ thì cần cân nhắc đến động cơ phạm tội vì mâu thuẫn

trong cuộc sống, thù ghét, ghen tuông, tình ái... Việc căn cứ vào các đặc điểm nhân

thân của NPT tương ứng với từng nhóm, loại tội phạm và từng tội phạm cụ thể sẽ

71

giúp cho việc truy xét các đối tượng phạm tội một cách nhanh chóng và chính xác.

Khi khai thác đặc điểm về độ tuổi của người phạm tội, đặc biệt là người chưa

thành niên phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng cần nhận thức đầy đủ và áp dụng

một cách đúng đắn các quy định pháp luật hình sự và tố tụng hình sự trong quá trình

xử lý trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội. Bởi xét cho cùng,

người chưa thành niên phạm tội đều là những người chưa phát triển hoàn thiện về

tâm, sinh lý nên cần có chính sách riêng biệt trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử

đối với họ. Theo đó, các hoạt động cần hướng đến mục đích giáo dục, phòng ngừa họ

không tiếp tục phạm tội là chủ yếu.

Khi khai thác đặc điểm về pháp lý hình sự, đặc biệt là đặc điểm tiền án, tiền

sự thì các chính quyền địa phương phối hợp với gia đình và các tổ chức xã hội cần

phối hợp chặt chẽ để giáo dục, giúp đỡ, tạo điều kiện cho họ hòa nhập cộng đồng.

Biện pháp này giúp hạn chế tình trạng tái phạm ở người phạm tội.

Giữa hai nhóm biện pháp phòng ngừa tội phạm trên luôn có mối quan hệ tương

hỗ lẫn nhau, trong đó các biện pháp phòng ngừa xã hội tạo nền tảng thực tiễn cho

hoạt động phòng ngừa riêng, đồng thời tiến hành các biện pháp phòng ngừa riêng để

giải quyết tốt những vấn đề cụ thể sẽ nâng cao hiệu quả công tác PNTHTP nói chung.

3.2.2. Hạn chế các tác động tiêu cực từ môi trường gia đình và nhà trường

Một là, môi trường gia đình là yếu tố quan trọng tác động đến quá trình hình

thành và phát nhân cách con người nói chung và NPT nói riêng. Những tác động tích

cực từ môi trường này sẽ định hướng cho sự phát triển đúng đắn và toàn diện về nhân

cách con người. Ngược lại, những tác động tiêu cực sẽ dẫn đến việc hình thành các

đặc điểm tiêu cực ở con người để rồi trước những hoàn cảnh thuận lợi sẽ phát sinh

hành vi phạm tội. Để hạn chế các tác động tiêu cực đó, các gia đình, các bậc phụ

huynh nói chung và trên địa bàn huyện Củ Chi, TP.HCM cần thực hiện các biện pháp

gần gũi, thiết thực sau đây:

- Cha mẹ trước hết cần là tấm gương về đạo đức và văn hóa cho con, là người

đồng hành, là người bạn để con trẻ chia sẻ những tâm tư, tình cảm và nguyện vọng

72

của mình.

- Tạo điều kiện cho con tham gia các hoạt động văn hóa, xã hội, rèn luyện thể

chất, sức khỏe; dạy trẻ nhận thức được giá trị của sức lao động, tự rèn luyện ý thức

mình vì mọi người, sống có ích cho xã hội, tập thói quen tự giác lao động vừa với sức

khỏe của từng độ tuổi, tránh thói lười nhác, ỷ lại, dựa dẫm vào người khác

- Dạy trẻ những kỹ năng sống cần thiết, đặc biệt là kỹ năng xử lý tình huống

cuộc sống và hiểu biết về sức khỏe tình dục, nhất là lứa tuổi thanh thiếu niên đang rất

tò mò về giới tính và thích khám phá.

- Không cho trẻ tự do sử dụng các thiết bị kết nối wifi khi không được sự cho

phép; thường xuyên kiểm tra, việc sử dụng điện thoại, máy tính của các em bằng

những biện pháp khác nhau. Trường hợp khi phát hiện các em đã tiếp xúc với các sản

phẩm văn hóa độc hại, gia đình cần giải thích cho các em về những tác hại do việc đó

mạng lại, đồng thời đề ra biện pháp phạt thật nghiêm khắc nếu các em còn tiếp diễn

những hành động tương tự.

Hai là, sự thiếu chặt chẽ trong quan hệ phối hợp giữa nhà trường và gia đình,

phương pháp, nội dung dạy và học chưa hợp lý, sự quan tâm chưa thỏa đáng của giáo

viên đến học trò… là những yếu tố tác động đến nhân thân tiêu cực ở NPT. Do đó,

để hạn chế các tác động này, trong thời gian tới, các cơ sở giáo dục, đào tạo, chính

quyền và gia đình cần phối hợp thực hiện các biện pháp sau:

- Cần sử dụng phương pháp dạy và học tích cực, lấy người học làm trung tâm

để kích thích khả năng tư duy, sáng tạo như: Giáo viên, giảng viên đưa ra bài tập tình

huống, học sinh phân nhóm thảo luận và rút ra kết luận, tạo cho học sinh sự hứng thú

với môn học, tránh tình trạng chán học, bỏ học để chơi game, xem phim ảnh đồi

trụy…; đồng thời tăng cường sự đoàn kết giữa các học sinh, sinh viên.

- Chú trọng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, bằng cách lồng ghép vào các

môn học và các hoạt động ngoại khóa, giúp các em biết cách ứng phó, xử lý với

những tình huống bất lợi xảy ra giúp tăng cường giáo dục kỹ năng sống cho học sinh,

sinh viên mà còn giúp gắn kết mối quan hệ tích cực giữa học sinh và giáo viên.

- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật của học sinh, sinh viên

73

bằng cách: Lựa chọn kiến thức pháp luật phù hợp, những vấn đề thường gặp của học

sinh để tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh; phối hợp với

các cơ quan tư pháp tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật dưới hình

thức phiên tòa giả định, có sự tham gia của chuyên gia ngành tư pháp đến chia sẻ kiến

thức về pháp luật, kinh nghiệm đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội…

- Nhà trường và gia đình và chính quyền địa phương cần duy trì quan hệ phối

hợp để quản lý học sinh, hạn chế các em đến những nơi có tính chất nhạy cảm xung

quanh khu vực trường học: quán internet, karaoke và kiểm soát băng nhóm thường

xuyên tụ tập ăn chơi, vi phạm pháp luật nơi cư trú, tránh tình trạng lôi kéo học sinh

tham gia. Phương thức duy trì quan hệ phối hợp giữa nhà trường với gia đình cần duy

trì thường xuyên, nhanh chóng bằng cách sử dụng các ứng dụng quản lý học sinh

bằng phần mềm cài đặt trên điện thoại di động qua đó nhà trường - thầy cô giáo - phụ

huynh dễ dàng trao đổi thông tin về tình hình học tập, về đạo đức, ứng xử của con em

mình qua đó kịp thời phát hiện, uốn nắn khi các em có những biểu hiện lệch chuẩn về

lối sống, suy nghĩ và hành động.

3.2.3. Hạn chế tác động tiêu cực từ môi trường nơi sinh sống, môi trường bạn

bè, nơi công tác

Một là, để hạn chế tác động tiêu cực từ nơi sinh sống, Chính quyền huyện Củ

Chi nói riêng và các địa phương nói chung cần tăng cường công tác tuyên truyền, vận

động từng người dân, hộ gia đình để họ nắm bắt và hiểu được các quy định của pháp

luật, từ đó giúp hình thành ý thức sống và làm việc theo pháp luật, khắc phục các thói

quen, sở thích xấu, lệch chuẩn. Muốn làm được điều đó, Ủy ban nhân dân cấp xã cần

duy trì hoạt động tuyên truyền, thường xuyên cử người tuyên truyền xuống từng hộ

gia đình để vận động. Các thôn xóm, tổ dân phố cần thực hiện giải pháp tổ dân phố

tự quản, trích ngân sách từ địa phương trả lương cao cho các tổ trưởng tổ dân phố,

trưởng ban điều hành khu phố để họ an tâm công tác, hết lòng vì công việc, vì những

người này nắm rất rõ tình hình an ninh trật tự tại khu phố họ sinh sống sẽ mang lại

hiệu quả cao nhất. Ngoài ra, trong quá trình triển khai thực hiện, các cơ quan, cá nhân

cần nghiên cứu đổi mới, đa dạng hoá hình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật cụ

74

thể như: Đưa các tình huống thực tế thường xảy ra trong đời sống hàng ngày để các

đối tượng được tuyên truyền tìm cách giải quyết trên cơ sở quy định pháp luật; Tổ

chức các chương trình văn nghệ dưới hình thức sân khấu hóa để truyền tải các quy

định của pháp luật đến với người dân một cách dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện; Phát

động các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, lồng ghép tuyên truyền, phổ biến, tư vấn pháp

luật; trợ giúp pháp lý miễn phí cho đối tượng chính sách, người nghèo.

Hai là, hạn chế tác động tiêu cực từ môi trường bạn bè, nơi làm việc là biện

pháp cần thiết phải được thực hiện trong quá trình thực hiện các hoạt động phòng

ngừa từ góc độ nhân thân NPT bởi các yếu tố tiêu cực từ môi trường này cũng ảnh

hưởng không nhỏ đến quá trình hình thành các đặc điểm nhân thân ở NPT. Để ngăn

chặn các yếu tố tiêu cực từ các môi trường này cần thực hiện các biện pháp sau:

- Gia đình phải tăng cường hơn nữa sự quan tâm đối với các mối quan hệ của

con. Theo đó, các bậc cha mẹ cần giữ mối liên hệ với con qua nhiều kênh, luôn sâu

sát, quan tâm con mọi lúc mọi nơi; tạo mọi điều kiện để trẻ không thoái thác, trốn

tránh việc báo cáo cho cha mẹ. Khi phát hiện con kết giao với nhóm bạn xấu, cha mẹ

cần khuyên khích con gia nhập các nhóm bạn khác nhau, hạn chế giao lưu với các

bạn “chưa ngoan” bằng việc hướng con tham gia vào nhiều nhóm xã hội khác nhau

như: câu lạc bộ võ thuật, bơi lội, bóng chuyền, cầu lông... Cha mẹ cần gần gũi và trao

đổi để mạnh dạn chỉ ra những thay đổi theo chiều hướng xấu của con mà bạn thấy

khi bắt đầu chơi với nhóm bạn này sẽ khiến con thấy “chột dạ” mà tự chấn chỉnh

mình; Thể hiện thái độ thân thiện với bạn bè của con; đưa ra những câu hỏi giả định

đưa con vào những tình huống cụ thể để xem trẻ có cách xử lý ra sao. Từ đó, có cách

uốn nắn, điều chỉnh và kiểm soát cho phù hợp; Nếu thấy bạn xấu đang đẩy con bạn

vướng vào những thái độ sống nghiêm trọng, như dùng chất gây nghiện, uống rượu,

hút thuốc, ăn cắp, đua xe..., cần lập tức can thiệp và ngăn chặn mối quan hệ ấy.

- Trong môi trường làm việc, các cơ quan, đơn vị, tổ chức lao động cần tiếp

duy trì và tăng cường thực hiện văn hóa công sở, đảm bảo chính sách, ưu đãi cho

nhân viên một cách công bằng, dân chủ, đồng nghiệp cởi mở, chia sẻ, giúp đỡ nhau,

chống tình trạng cục bộ, địa phương, bè phái để loại bỏ ức chế, thù tức, ghen ghét,

75

chán nản, bi quan.

3.2.4. Hạn chế các tác động tiêu cực môi trường kinh tế - xã hội

Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành các đặc điểm nhân

thân của NPT trên địa bàn huyện Củ Chi chính các yếu tố tiêu cực thuộc về kinh tế -

xã hội. Nếu vẫn còn những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế và sự phân hóa giàu nghèo

trong xã hội thì chắc chắn sẽ nảy sinh những tư tưởng muốn thoát nghèo hoặc làm

giàu bằng mọi giá. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa THTP trên địa

bàn từ góc độ nhân thân NPTthì trong thời gian tới, huyện Củ Chi cần phải thực hiện

đồng bộ một số biện pháp về kinh tế - xã hội như sau:

- Khắc phục tình trạng bất bình đẳng, sự phân hóa giàu nghèo, tình trạng thất

nghiệp, nghèo đói, thất nghiệp hoặc tình trạng “nhàn cư vi bất thiện” của một bộ phận

dân chúng… bằng một số biện pháp như:

+ Ưu tiên đầu tư phát triển các địa bàn vùng sâu, vùng xa của huyện để thu

hẹp khoảng cách giàu – nghèo giữa các khu vực.

+ Cần có chính sách lao động và việc làm hợp lý, tạo công ăn việc làm cho

người thất nghiệp. Đầu tư phát triển các ngành nghề phù hợp với điều kiện của địa

phương như các nghề truyền thống, du lịch, dịch vụ… để có thể vừa phát triển kinh

tế nhanh, hạn chế việc một bộ phận người lao động nhàn rỗi, không có nghề nghiệp

ổn định dẫn đến phạm tội.

+ Cần xây dựng, ban hành chính sách, chủ trương về liên kết đầu tư giữa cơ

sở đào tạo nghề và doanh nghiệp để cung ứng lực lượng lao động có tay nghề vào

làm việc tại các khu chế xuất, khu công nghiệp; mở rộng và nâng cao chất lượng của

các trung tâm đào tạo, dạy nghề, tạo điều kiện thuận lợi để cho những người có trình

độ lao động thấp, có điều kiện và hoàn cảnh khó khăn tiếp cận với công việc có tay

nghề và trình độ chuyên môn cao.

- Kiểm soát và ngăn ngừa tệ nạn xã hội trên địa bàn. Theo đó, chính quyền

huyện Củ Chi cần thực hiện các biện pháp sau:

+ Quy hoạch, phát triển các khu thương mại, các khu du lịch, vui chơi công

cộng để đáp ứng như cầu về văn hóa, giải trí của người dân, nâng cao chất lượng đời

76

sống tinh thần cho nhân dân; đồng thời, phải tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám

sát đối với các cơ sở kinh doanh dịch vụ tiềm ẩn nguy cơ về tệ nạn xã hội và tội phạm.

+ Tổ chức nhiều hình thức sinh hoạt, vui chơi giải trí thường xuyên ở các khu

chế xuất, khu công nghiệp, những khu tập thể công nhân, khu dân cư, tích cực vận

động, tuyên truyền tầng lớp thanh thiếu niên tham gia và tạo lối sống lành mạnh.

- Tăng cường chăm lo phúc lợi xã hội cho người dân địa phương, đặc biệt là

những người có hoàn cảnh khó khăn để động viên họ vượt khó tích cực, hạn chế tình

trạng phạm tội, với các biện pháp cụ thể như:

+ Cần mở rộng và quản lý tốt các cơ sở hoạt động xã hội để tập trung nuôi

dưỡng, giáo dục trẻ em lang thang, cơ nhỡ, chăm sóc người già có hoàn cảnh khó

khăn… hạn chế tình trạng vì túng thiếu mà phạm pháp.

+ Cần thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, nhất là các hộ gia đình chính

sách, hộ nghèo và cận nghèo như cấp sổ bảo hiểm y tế, tổ chức khám chữa bệnh miễn

phí, miễn giảm học phí cho trẻ em nghèo…

- Tăng cường quản lý văn hóa, ngăn chặn sự xâm nhập của các luồng văn hóa

phẩm độc hại, tác động rất xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm lý hành vi của

một số bộ phận dân cư, nhất là thanh thiếu niên. Các cấp ủy Đảng, chính quyền huyện

Củ Chi cần thực hiện các biện pháp cụ thể như:

+ Ban hành nhiều kế hoạch, văn bản chỉ đạo hướng dẫn các cơ quan, ban

ngành, đơn vị hành chính-sự nghiệp, doanh nghiệp về công tác tuyên truyền và quản

lý các loại hình dịch vụ văn hóa, văn hóa phẩm, ấn phẩm, xuất bản phẩm

+ Phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng tại địa phương tiến hành tiếp nhận,

xử lý, kiểm tra các loại văn hóa phẩm độc hại xâm nhập trên địa bàn; rà soát, bổ sung

hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý văn hóa trên địa bàn huyện.

Thực hiện được điều đó sẽ tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh góp phần hình

thành nhân cách tốt, loại bỏ các đặc điểm nhân thân xấu, góp phần làm giảm tội phạm

trong xã hội nhất là tội phạm có tính chất bạo lực và tội phạm tình dục.

3.2.5. Tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm của

các cơ quan bảo vệ pháp luật

77

Việc kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội cùng với việc phát hiện, xử lý nhanh

chóng, nghiêm minh tội phạm và NPT là yêu cầu tất yếu của hoạt động phòng ngừa

THTP. Do đó, để nâng cao hiệu quả phòng ngừa THTP, bên cạnh việc hạn chế các

yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành nhân thân tiêu cực ở người phạm tội, đòi hỏi

các chủ thể phòng ngừa, đặc biệt là các cơ quan bảo vệ pháp luật cần thực hiện các

biện pháp cụ thể như sau:

Đối với lực lượng Công an, cần tiếp tục tham mưu cho cấp ủy, chính quyền

triển khai thực hiện có hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; tăng cường

phối hợp với các ban ngành, đoàn thể ở địa phương đổi mới về nội dung, cải tiến về

hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của

người dân về phòng, chống tội phạm; đẩy mạnh công tác xây dựng mô hình, các câu

lạc bộ, nhân điển hình tiên tiến; chú trọng phát triển và nâng cao chất lượng các mô

hình quần chúng tự quản, tự phòng về an ninh trật tự ngay từ gia đình, cộng đồng dân

cư; thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, nhân rộng mô hình có

hiệu quả cao, nghiên cứu xây dựng những mô hình mới phù hợp với tình hình đặc

điểm từng địa bàn; đồng thời nâng cao hiệu quả biện pháp quản lý hành chính nhà

nước về an ninh trật tự, chủ động làm tốt công tác quản lý cư trú; tổ chức kiểm tra,

thu hồi vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ; quản lý chặt chẽ các ngành nghề đầu tư

kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự, không để tội phạm lợi dụng hoạt động.

Ngoài ra, lực lượng Công an địa phương cần tăng cường lực lượng tuần tra kiểm soát,

khép kín địa bàn để chủ động phòng ngừa, kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý tội

phạm; âng cao hiệu quả công tác quản lý, giáo dục, cảm hóa, giúp đỡ đối tượng có

nguy cơ phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư; đồng thời cần làm tốt công tác

nắm tình hình, hỗ trợ thành viên của các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể tiếp cận

đối tượng được giao quản lý, giám sát; cần thành lập các câu lạc bộ giúp đỡ người

lầm lỗi tại cơ sở, đây là nơi để giáo dục, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của họ, sớm

phát hiện những biểu hiện nghi vấn, bất thường để kịp thời có biện pháp phòng ngừa

đối tượng tái phạm tội.

Đối với cơ quan VKSND và TAND cần nâng cao chất lượng công tác điều tra,

78

truy tố, xét xử tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; đảm bảo

điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, kịp thời những vụ án dư luận xã hội quan tâm.

Để đảm bảo hiệu quả công tác đáu tranh phòng, chống tội phạm, các cơ quan

có thẩm quyền cần quan tâm hơn nữa đến công tác đào tạo để bảo đảm cho đội ngũ

cán bộ thực thi pháp luật có phẩm chất đạo đức trong sạch, bản lĩnh chính trị vững

vàng, có kỹ năng chuyên môn cao, đáp ứng đòi hỏi thực tiễn công tác điều tra trong

tình hình mới và đáp ứng được tiêu chuẩn của chức danh tư pháp đã được xác định

trong Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách

tư pháp đến năm 2020; trong đó chú trọng về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, bản

lĩnh chính trị vững vàng để bảo vệ công lý, bảo vệ lẽ phải, đủ sức “đứng vững” trước

những thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ, đe doạ về vật chất và tinh thần của tội phạm.

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở dự báo về các yếu tố tiêu cực tác động hình thành nhân thân xấu

của người phạm tội, học viên đề xuất một số biện pháp như: Tăng cường khai thác

đặc điểm nhân thân tiêu cực của NPT; hạn chế những tác động tiêu cực từ môi trường

gia đình, môi trường giáo dục, nơi cư trú, nơi làm việc và cả điều kiện kinh tế xã hội

vĩ mô, đồng thời tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm của

các cơ quan bảo vệ pháp luật. Các giải pháp này là phù hợp với đặc điểm kinh tế, văn

hóa xã hội của huyện Củ Chi và có thể góp phần làm tăng cường công tác phòng ngừa

79

THTP trên địa bàn huyện Củ Chi trong thời gian tới.

KẾT LUẬN

Với mong muốn tìm ra những giải pháp phù hợp nhằm loại bỏ và triệt tiêu

nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi trong

thời gian tới, Luận văn đã nghiên cứu một cách toàn diện về nhân thân NPTtrên địa

bàn này trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018.

Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của Luận văn đã thống nhất được nhận

thức về một số vấn đề lý luận về nhân thân NPTnhư khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của

việc nghiên cứu về nhân thân người phạm tội, các yếu tố tác động đến sự hình thành

các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội.

Về mặt thực tiễn, Luận văn đã làm rõ các đặc điểm nhân thân và các yếu tố tác

động lên sự hình thành nhân thân NPTtrên địa bàn huyện Củ Chi trong thời gian từ

năm 2014 đến năm 2018, qua đó xác định được mối liên hệ chặt chẽ giữa nhân thân

NPTvới các yếu tố khách quan và chủ quan thuộc về bản thân người phạm tội. Ngoài

ra Luận văn cũng đã đưa ra dự báo về biến động của các yếu tố thuộc về môi trường

đến sự hình thành nhân thân NPTtrên địa bàn huyện Củ Chi và các nội dung có liên

quan từ đó đề xuất các giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình

hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi trong thời gian tới.

Có thể nói rằng, với kết quả nghiên cứu nêu trên, Luận văn đã đạt được mục

tiêu nghiên cứu đề ra ban đầu.

Luận văn được nghiên cứu một cách nghiêm túc, có sự giúp đỡ của các cơ

quan chức năng của huyện Củ Chi, Lãnh đạo, giảng viên Học viện khoa học xã hội,

và thầy hướng dẫn khoa học. Tuy nhiên, năng lực nghiên cứu của học viên còn hạn

chế nên luận văn không tránh khỏi những khiếm khuyết, hạn chế nhất định, học viên

rất mong được sự chân thành đóng góp ý kiến của các nhà khoa học để luận văn được

80

hoàn thiện hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 49/NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến

năm 2020, ban hành ngày 02/6/2005, Hà Nội.

2. Bộ Chính trị (2008) Chỉ thị số 21/CT-TW về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ

đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới, ban hành

ngày 26/3/2008, Hà Nội;

3. Bộ chính trị (2010) Chỉ thị số 48 CT/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”, ban hành ngày

22/10/2010, Hà Nội;

4. Bộ chính trị (2014) Kết luận số 92-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết

49/NQ/TW, ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ban

hành ngày 12/3/2014, Hà Nội;

5. Ban thường vụ thành ủy TP. Hồ Chí Minh (2007) Chỉ thị số 05- CT/TU về tăng

cường lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn TP. Hồ

Chí Minh, ban hành ngày 12/7/2007, TP.HCM;

6. Nguyễn Xuân Bá (2017) Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại sức khỏe cho người khác trên địa bàn TP.HCM, Luận văn thạc sĩ,

Học viện khoa học xã hội.

7. Nguyễn Văn Cảnh và Phạm Văn Tỉnh (2013), Một số vấn đề tội phạm học Việt

Nam, do Học viện Cảnh sát nhân dân, bộ Công an ấn hành năm 2013.

8. Nguyễn Thị Cẩm (2017) Nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội xâm phạm sở

hữu trên địa bàn quận Bình Tân, TP.HCM, Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học

xã hội.

9. Công an huyện Củ Chi (2014-2018), Báo cáo tổng kết năm, ban hành vào các

năm từ 2014 – 2018, Củ Chi;

10. Công an huyện Củ Chi - Phòng Giáo dục, Đào tạo huyện Củ Chi (2015) Quy chế

81

phối hợp giữa Phòng Giáo dục và Đào tạo với Công an huyện trong việc đảm

bảo an ninh trật tự, an toàn trường học từ năm 2010 đến tháng 8 năm 2015, ban

hành ngày 30/8/2015, TP.HCM;

11. Công an huyện Củ Chi (2015) Kế hoạch 778/KH-CACC-TH về thực hiện Chỉ thị

số 39/CT-TTg ngày 24/10/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công

tác phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm và vi phạm pháp luật về chống người thi

hành công vụ trên địa bàn huyện Củ Chi, ban hành ngày 17/10/2018, TP.HCM;

12. Đại học Cảnh sát (2010), Đề cương bài giảng Tội phạm tội, Bộ môn Nghiệp vụ

cơ sở, TP.HCM;

13. Tô Minh Hải (2016) Nhân thân người phạm tội cờ bạc trên địa bàn TP.HCM,

Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.

14. Học viện Cảnh sát nhân dân (2002, 2013) Giáo trình Tội phạm học, Nxb CAND,

Hà Nội.

15. Hội đồng nhân dân huyện Củ Chi (2014,2015,2016,2017, 2018) Nghị quyết về kế

hoạch phát triển kinh tế văn hóa xã hội huyện Củ Chi, ban hành vào các năm từ

2014 – 2018, Củ Chi;

16. Huyện ủy Củ Chi (2015) Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện

Củ Chi lần thứ XI (nhiệm kỳ 2015 -2020), ban hành năm 2015;

17. Phạm Thị Triều Mến (2016) Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu từ thực

tiễn tỉnh Bình Dương, Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội;

18. Nguyễn Tuyết Mai (2006) “Một số đặc điểm chú ý về nhân thân của người phạm

tội về ma túy ở Việt Nam”, Tập chí Luật học, số 11, tr. 32-37;

19. Quốc hội (2009) Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự nước cộng hoà

xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999, ban hành ngày 19/6/2009, Hà Nội;

20. Quốc hội (2013) Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm

2013, ban hành ngày 28/11/2013, Hà Nội;

21. Quốc hội (2015) Bộ luật hình sự nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm

2015, ban hành ngày 27/11/2015, Hà Nội;

22. Quốc hội (2017) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự nước

82

cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, ban hành ngày 20/6/2017, Hà

Nội;

23. TAND huyện Củ Chi (2014-2018) Một số bản án hình sự xét xử từ năm 2014 –

2018, ban hành vào các năm từ 2014 đến 2018, Củ Chi;

24. TAND huyện Củ Chi (2014-2018) Báo cáo tổng kết các năm 2014, 2015, 2016,

2017, 2018; Toàn bộ số liệu thống kê được in ra từ phần mềm thống kê án hình

sự, ban hành trong các năm từ 2014 đến 2018, TP.HCM

25. TAND TP.HCM (2014-2018), Một số bản án hình sự xét xử từ năm 2014 – 2018,

ban hành trong các năm từ 2014-2018, TP.HCM;

26. Nguyễn Ngọc Thắm (2016) Nhân thân người phạm các tội xâm phạm tình dục

trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.

27. Phạm Văn Tỉnh (2007) Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam,

Bxb CAND, Hà Nội;

28. Phạm Văn Tỉnh (2013) Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam, Nxb Công an nhân

dân, Hà Nội

29. Phạm Văn Tỉnh (2014) “Phòng ngừa tội phạm và chiến lược phòng ngừa tội

phạm”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6, tr. 28 – 33.

30. Trần Hữu Tráng (2010) “Tác động của kinh tế thị trường đến tình hình tội phạm

và phòng ngừa tội phạm ở nước ta”, Tạp chí Luật học, số 01, tr. 42-50.

31. Trần Hữu Tráng (2012) “Bàn về nguyên nhân tội phạm học”, Tạp chí Luật học,

số 11, tr. 37-51.

32. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007) Giáo trình Tâm lí học đại cương, Nxb

CAND, Hà Nội.

33. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2013) Giáo trình Tội phạm học, Nxb

Hồng Đức, TP.Hồ Chí Minh.

34. Đào Trí Úc và tập thể tác giả (1994) Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng

hình sự, Nxb. Chình trị quốc gia, Hà Nội;

35. Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi (2015) Kế hoạch số 2329/KH-UBND về phòng

chống tội phạm, ma túy, mại dâm và phòng chống mua bán người trên địa bàn

83

huyện năm 2015, ban hành ngày ngày 06/4/2015, TP.HCM;

36. Ủy ban nhân dân TP. HCM (2012) Chỉ thị số 13/2012/CT-UBND về tăng cường

công tác quản lý nhà nước đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ phát sinh tệ nạn xã

hội trên địa bàn Thành phố, ban hành ngày 25/4/2012, TP.HCM;

37. Nguyễn Thanh Tuấn (2017) Nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa

bàn tỉnh Bình Phước, Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.

38. Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi (2014-2018) Báo cáo tổng kết năm, ban

hành năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018;

39. Viện kiểm sát nhân dân TP.HCM (2014-2018) Báo cáo tổng kết năm, ban hành

năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018, TP.HCM;

40. Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (2000) Tội phạm học Việt Nam một số

vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb CAND, Hà Nội.

41. Trịnh Tiến Việt (2003) “Nhân thân người phạm tội một căn cứ cần cân nhắc khi

quyết định hình phạt”, Tạp chí Kiểm sát, số 01, tr. 21-23.

42. Võ Khánh Vinh (1999) Giáo trình Tội phạm học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

43. Võ Khánh Vinh (2008) Giáo trình tội phạm học, Nxb CAND, Hà Nội;

44. Võ Khánh Vinh (2011) Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;

45. Võ Khánh Vinh (2013) Giáo trình Tội phạm học, Nxb CAND, Hà Nội, 2013.

46. Nguyễn Xuân Yêm (2001) Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Nxb

CAND, Hà Nội.

47. Nguyễn Xuân Yêm (2003), Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, Nxb CAND,

Hà Nội.

48. Nguyễn Xuân Yêm chủ biên (2015), Tội phạm học Việt Nam – Tập 1: Tội phạm

học đại cương, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.

49. Nguyễn Xuân Yêm chủ biên (2015), Tội phạm học Việt Nam – Tập 2: Tội phạm

học chuyên ngành, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.

50. Nguyễn Xuân Yêm chủ biên (2015), Tội phạm học Việt Nam – Tập 3: Các

chương trình quốc gia phòng chống tội phạm của Chính phủ, Học viện Cảnh sát

84

nhân dân, Hà Nội.

PHỤ LỤC

Bảng 2.1. Diễn biến tình hình tội phạm rõ trên địa bàn huyện Củ Chi,

TP.HCM (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018)

Thống kê số vụ và người phạm tội đã xét xử

TỶ LỆ Năm Cấp huyện Cấp tỉnh Hai cấp

Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo

227 438 11 11 238 449 100% 100% 2014

214 308 8 8 222 316 93.28% 70.38% 2015

209 305 9 9 218 314 91.60% 69.93% 2016

179 278 7 7 186 285 78.15% 63.47% 2017

222 309 9 9 231 318 97.06% 70.82% 2018

Tổng 1051 1638 44 44 1095 1682

(Nguồn: TAND huyện Củ Chi, TAND TP.HCM)

Bảng 2.2. Cơ số tội phạm rõ trên địa bàn huyện Củ Chi (Giai đoạn từ

năm 2014 đến năm 2018)*

*Đơn vị dân cư là 10.000 dân

Năm Số tội phạm Số dân ở độ tuổi chịu Cơ số tội phạm

đã xét xử trách nhiệm hình sự

2014 238 216.882 10.97

2015 222 226.521 9.80

2016 218 243.132 8.96

2017 186 252.427 7.39

2018 231 248.747 9.29

Trung bình 219 237.542 8.64

1

(Nguồn: TAND huyện Củ Chi, TAND TP.HCM)

Bảng 2.3. Thống kê tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi đã bị xét xử (Giai

đoạn từ năm 2014 đến năm 2018)

Năm 5

Tội phạm Năm

2014 2015 2016 2017 2018

Tội cướp giật tài sản 28 15 12 25 225 26

Tội trộm cắp tài sản 52 55 57 72 281 45

Tội cưỡng đoạt tài sản 8 5 2 3 27 9

Tội cướp tài sản 6 5 5 8 34 10

Tội lừa đảo… 7 4 0 3 24 10

Tội lạm dụng tín nhiệm .. 6 8 2 7 32 9

Tội hủy hoại … tài sản 1 2 1 1 12 7

Tội tàng trữ, mua bán, vận chuyển…ma 51 54 73 64 66 308

túy

Tội cố ý gây thương tích… 5 6 9 11 34 3

Tội giết người 6 7 5 8 34 8

Tội hiếp dâm trẻ em 2 2 2 1 10 3

Tội dâm ô đối với trẻ em 1 0 2 2 5 0

Tội giao cấu với trẻ em 1 1 2 2 8 2

Tôị vô ý làm chết người 1 0 0 0 1 0

Bắt giữ người trái pháp luật 1 0 1 0 3 1

Tội sản xuất, buôn bán hàng giả 0 2 0 1 4 1

Tội sản xuất, tàng trữ, vận 2 1 0 3 9 3

chuyển…hàng cấm

Tội trốn thuế 2 0 0 1 3 0

2

Tội tàng trữ, sử dụng vũ khí quân dụng 0 0 0 1 0 1

Tội vi phạm QĐ về điều khiển PT giao 22 13 14 10 8 67

thông

Tôi đánh bạc 12 14 11 5 4 46

Tội tổ chức đánh bạc 6 3 2 1 1 13

Tội môi giới mại dâm 1 1 0 0 0 2

Tội chứa mại dâm 3 2 1 4 2 12

Tội chống người thi hành công vụ 1 1 1 1 2 6

Tội sửa chữa giấy chứng nhận của cơ 2 3 1 0 0 6

quan...

Tội làm giả con dấu tài liệu 2 1 1 0 0 4

Tội chứa chấp tài sản do người khác 1 1 1 0 0 3

phạm tội

Tổng cộng 238 222 218 186 231 1095

3

(Nguồn: VKSND huyện Củ Chi và VKSND TP.HCM)

Bảng 2.4. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi, TP.HCM

xét theo tiêu chí loại tội phạm (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018)

Năm 2014 2015 2016 2017 2018 5 năm

Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ

lượng % lượng % lượng % lượng % lượng % lượng %

Loại tội (vụ) (vụ) (vụ) (vụ) (vụ) (vụ)

164 68.91 151 68.02 65.14 126 67.74 147 63.64 730 66.67 142 Ít nghiêm

trọng

54 22.69 55 24.77 62 28.44 41 22.04 62 26.84 274 25.02 Nghiêm

trọng

9 3.78 2.29 12 6.45 13 5.63 47 4.29 8 3.60 5 Rất nghiêm

trọng

11 4.62 4.13 7 3.76 9 3.90 44 4.02 8 3.60 9 Đặc biệt

nghiêm trọng

238 100 222 100 218 100 186 100 231 100 1095 100 Tổng

4

(Nguồn: VKSND huyện Củ Chi và VKSND TP.HCM)

Bảng 2.5: Cơ cấu tình hình tội phạm rõ trên địa bàn huyện Củ Chi xét theo tiêu chí địa bàn nơi xảy ra tội phạm (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018) Stt Địa bàn 5 năm Năm Năm Năm Năm Năm

2014 2015 2016 2017 2018 Số vụ Tỷ lệ

An Nhơn Tây 13 10 1 9 11 13 56 5.1%

Nhuận Đức 12 2 13 12 50 4.5% 7 6

3 Tân Thạnh Tây 8 9 8 39 3.5% 7 7

4 Phước Vĩnh An 7 10 12 52 4.7% 11 12

5 Trung Lập Hạ 8 12 11 49 4.5% 7 11

6 TT. Củ Chi 6 10 15 49 4.5% 7 11

7 Phước Thạnh 13 12 11 53 4.8% 8 9

8 Hòa Phú 14 11 11 55 5.0% 9 10

9 Tân An Hội 18 13 7 57 5.2% 8 11

10 Thái Mỹ 16 11 11 60 5.5% 10 12

11 Tân Thông Hội 13 10 14 58 5.3% 10 11

12 Tân Phú Trung 15 11 13 59 5.4% 8 12

13 Phú Hòa Đông 13 12 10 48 4.4% 5 8

14 Trung An 16 10 11 62 5.6% 14 11

15 Phú Mỹ Hưng 9 11 14 58 5.3% 11 13

16 Phạm Văn Cội 9 10 12 50 4.5% 9 10

17 Phước Hiệp 11 10 9 47 4.3% 8 9

18 Trung L.Thượng 9 8 8 41 3.7% 5 11

19 Bình Mỹ 10 10 11 54 4.9% 12 11

20 An Phú 12 10 8 50 4.5% 9 11

21 Tân Thạnh Đông 10 13 10 53 4.8% 11 9

238 227 218 186 231 1095 100% Tổng

5

(Nguồn: TAND huyện Củ Chi, TAND TP.HCM)

Biểu 2.1. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi theo tiêu chí

100%

6.3%

7.0%

7.6%

8.4%

8.8%

90%

80%

70%

60%

50%

93.7%

93.0%

92.4%

91.6%

91.2%

40%

30%

20%

10%

0%

2014

2015

2016

2018

2017

Nam

Nữ

giới tính của người phạm tội (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018)

6

(Nguồn: Theo số liệu thống kê của TAND huyện Củ Chi và TAND.TP.HCM)

Biểu 2.2. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi theo tiêu chí

0.9%

1.1%

1.3%

1.6%

2.1%

100.0%

90.0%

25.5%

26.0%

30.4%

33.3%

37.2%

80.0%

70.0%

60.0%

50.0%

60.5%

60.4%

57.6%

40.0%

54.1%

56.8%

30.0%

20.0%

10.0%

12.4%

11.6%

11.6%

10.8%

4.9%

0.0%

Năm 2014

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

<18 tuổi

18 tuổi đến <30 tuổi

30 tuổi đến <60 tuổi

>=60 tuổi

độ tuổi người phạm tội (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018)

7

(Nguồn: Theo số liệu thống kê của TAND huyện Củ Chi và TAND.TP.HCM)

Biểu 2.3. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi theo tiêu chí

100.0%

0.6%

0.7%

1.0%

1.8%

2.5%

90.0%

20.0%

24.7%

30.9%

28.3%

80.0%

41.0%

70.0%

60.0%

50.0%

51.6%

61.1%

49.4%

57.2%

40.0%

46.3%

30.0%

20.0%

17.1%

14.3%

12.6%

10.0%

8.2%

8.9%

6.0%

4.6%

4.5%

3.8%

3.1%

0.0%

2014

2015

2016

2017

2018

Không biết chữ

Lớp 1->5

Lớp 6->9

Lớp 9->12

>=Cao đẳng

trình độ học vấn của người phạm tội (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018)

8

(Nguồn: Theo số liệu thống kê của TAND huyện Củ Chi và TAND.TP.HCM)

Biểu 2.4. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi

theo tiêu chí nghề nghiệp của người phạm tội

100.0%

7.8%

17.9%

90.0%

19.9%

23.6%

26.4%

80.0%

70.0%

54.3%

38.0%

60.0%

50.9%

44.6%

43.7%

50.0%

40.0%

30.0%

42.1%

20.0%

37.9%

31.8%

31.2%

29.9%

10.0%

0.0%

2014

2015

2016

2017

2018

Không nghề nghiệp

Lao động phổ thông

Nghệ nghiệp ổn định

(Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018)

9

(Nguồn: Theo số liệu thống kê của TAND huyện Củ Chi và TAND.TP.HCM)

Biểu 2.5. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi

theo tiêu chí đặc điểm tiền án, tiền sự của người phạm tội

100.0%

90.0%

80.0%

70.0%

60.0%

81.3%

86.7%

87.3%

87.7%

89.5%

50.0%

40.0%

30.0%

20.0%

10.0%

18.7%

13.3%

12.7%

12.3%

10.5%

0.0%

Năm 2014

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Có tiền án, tiền sự

Không ó tiền án, tiền sự

(Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018)

10

(Nguồn: Theo số liệu thống kê của TAND huyện Củ Chi và TAND.TP.HCM)

Bảng 2.6. Thống kê về đặc điểm giới tính của người phạm tội trên địa bàn

huyện Củ Chi (Từ năm 2014 đến năm 2018)

Năm Số người phạm tội Giới tính

Nam Nữ

415 34 2014 449

296 20 2015 316

292 22 2016 314

261 24 2017 285

290 28 2018 318

1554 128 Tổng 1682

(Nguồn: TAND huyện Củ Chi và TAND.TP.HCM )

Bảng 2.7. Thống kê về đặc điểm độ tuổi của người phạm tội trên địa bàn

huyện Củ Chi (từ năm 2014 đến năm 2015)

Năm Số người Đặc điểm độ tuổi của người phạm tội

phạm tội Từ 14 đến Từ 18 đến Từ 30 đến Trên 60 dưới 18 dưới 30 dưới 60

5 2014 449 22 167 255

4 2015 316 34 96 182

5 2016 314 39 80 190

6 2017 285 33 74 172

3 2018 318 37 106 172

23 Tổng 1682 165 531 971

11

(Nguồn: TAND huyện Củ Chi và TAND.TP.HCM )

Bảng 2.8. Thống kê về đặc điểm trình độ học vấn của người phạm tội trên

địa bàn huyện Củ Chi (Từ năm 2014 đến năm 2018)

Trình độ học vấn

Số người Tiểu Trung học Từ cao Năm Không Trung học phạm tội học cơ sở đẳng trở biết chữ phổ thông lên

449 14 184 3 208 40 2014

316 19 78 2 163 54 2015

314 14 97 3 155 45 2016

285 13 57 5 174 36 2017

318 12 90 8 182 26 2018

72 882 1682 506 21 201 Tổng

(Nguồn: TAND huyện Củ Chi và TAND.TP.HCM )

Bảng 2.9. Thống kê về đặc điểm nghề nghiệp của người phạm tội trên địa

bàn huyện Củ Chi (Từ năm 2014 đến năm 2018)

Năm Số người Đặc điểm nghề nghiệp của người phạm tội

phạm tội Không nghề Lao động phổ Nghệ nghiệp

244

35

170

nghiệp thông ổn định

120

63

133

2014 449

140

74

100

2015 316

145

51

89

2016 314

139

84

95

2017 285

2018 318

788

307

587

Tổng 1682

12

(Nguồn: TAND huyện Củ Chi và TAND.TP.HCM )

Bảng 2.10. Thống kê về đặc điểm hoàn cảnh gia đình của người phạm tội trên

địa bàn huyện Củ Chi (Từ năm 2014 đến năm 2018)

Tổng Số bị Tỷ lệ

số bị Hoàn cảnh gia đình cáo (%)

cáo

Gia đình khuyết thiếu 45 18.91%

Gia đình không hạnh phúc, thường xuyên đánh, chửi 67 28.15%

nhau

Gia đình không quan tâm, chăm sóc, giáo dục con cái 38 15.97% 238

Gia đình có người thân vi phạm pháp luật 36 15.13%

Gia đình giáo dục con cái bằng phương pháp không 52 21.85%

đúng cách

Nguồn: 200 bản án hình sự sơ thẩm về nhiều loại tội khác nhau của

TAND huyện Củ Chi, TAND TP.HCM

Bảng 2.11. Thống kê về đặc điểm nơi cư trú của người phạm tôi trên địa bàn

huyện Củ Chi (Từ năm 2014 đến năm 2018)

Số bị cáo Địa bàn Các quận huyện Tỉnh, Không có

huyện Củ Chi khác trong địa thành khác nơi ở ổn

bàn TP.HCM định Có đăng ký Có đăng ký

thường trú tạm trú

238 45 54 111 19 9

18.91% 22.69% 46.64% 7.98% 3.78% Tỷ lệ %

Nguồn: 200 bản án hình sự sơ thẩm về nhiều loại tội khác nhau của

13

TAND huyện Củ Chi, TAND TP.HCM

Bảng 2.12. Đặc điểm về sở thích, thói quen của người phạm tội trên địa bàn

huyện Củ Chi thành phố Hồ Chí Minh

Tổng số Sở thích, thói quen Số bị cáo Tỷ lệ (%)

(Lưu ý: Một bị cáo có thể có nhiều sở thích bị cáo

khác nhau)

Uống rượu bia 96 40.34%

Nghiện ma túy 93 39,08%

Thích xem phim bạo lực 34 14.29%

Nghiện games 53 22.27% 238

Nghiện xem văn hóa phẩm đồi trụy 17 7.14%

Tụ tập chơi bời, quậy phá 58 24.37%

Khác 10 3.88%

Nguồn: 200 bản án hình sự sơ thẩm về nhiều loại tội khác nhau của TAND huyện

Củ Chi, TAND TP.HCM

Bảng 2.13. Đặc điểm về động cơ của người phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi

thành phố Hồ Chí Minh

Tổng số bị cáo Số bị cáo Tỷ lệ (%) Động cơ

Vụ lợi về kinh tế 178 74.79%

Thỏa mãn nhu cầu (tình duc, nghiện 109 45,8%

ma túy) 238

Giải quyết mâu thuẫn 21 8.82%

Động cơ khác 10 4.20%

Nguồn: 200 bản án hình sự sơ thẩm về nhiều loại tội khác nhau của

14

TAND huyện Củ Chi, TAND TP.HCM

Bảng 2.14. Thống kê về đặc điểm tiền án, tiền sự của người phạm tội trên địa

bàn huyện Củ Chi (Từ năm 2014 đến năm 2018)

Năm Số người Có tiền án, Không có Tỷ lệ Tỷ lệ

phạm tội tiền sự tiền án, người có người không có

tiền sự tiền án, tiền tiền án, tiền

sự/tổng số sự/tổng số

2014 449 47 402

2015 316 59 10.47% 18.67% 89.53% 81.33% 257

2016 314 40 12.74% 87.26% 274

2017 285 38 13.33% 86.67% 247

2018 318 39 12.26% 87.74% 279

Tổng 1682 223 1459 13.26% 86.74%

15

(Nguồn: TAND huyện Củ Chi, TAND TP. Hồ Chí Minh)