VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐOÀN THANH PHÚC
NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CƯỚP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM
HÀ NỘI - 2020
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐOÀN THANH PHÚC
NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CƯỚP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 638.01.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM VĂN TỈNH
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn: “Nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3,
Thành phố Hồ Chí Minh” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS Phạm Văn Tỉnh. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực
và chưa được công bố bởi các công trình khác.
Người viết luận văn
Đoàn Thanh Phúc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI
PHẠM TỘI CƯỚP TÀI SẢN .................................................................................. 7
1.1.Khái niệm nhân thân người phạm tội cướp tài sản ............................................ 7
1.2. Các đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp tài sản ...................................... 8
1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản ............ 13
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................... 22
Chương 2: THỰC TIỄN NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CƯỚP TÀI SẢN
VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI
CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 3 ........................................................ 24
2.1. Thực tiễn nhận thức về nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn
Quận 3 giai đoạn từ năm 2015 - 2019 ................................................................... 24
2.2. Thực tiễn các đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn
Quận 3 giai đoạn 2015 đến 2019 ........................................................................... 35
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 50
Chương 3: NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CƯỚP TÀI SẢN VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP TÀI
SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 3 ............................................................................. 52
3.1. Tăng cường nhận thức về nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn
quận vì mục đích phòng ngừa tình hình tội phạm ................................................. 52
3.2. Hoàn thiện hệ thống giải pháp phòng ngừa tội cướp tài sản trên địa bàn Quận
3 từ khía cạnh nhân thân người phạm tội …………………....................................64
Tiểu kết chương 3 .................................................................................................... 63
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng Tên bảng Trang
Tỉ lệ giữa số vụ, số bị cáo của tội cướp tài sản so với tổng 25 Bảng 2.1:
số vụ, số bị cáo phạm tội hình sự trên địa bàn Quận 3.
Tỉ lệ số vụ, số bị cáo phạm tội cướp tài sản trên địa bàn 26 Bảng 2.2:
Quận 3 so với số vụ, số bị cáo phạm tội cướp tài sản trên
địa bàn toàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 -
2019.
27 Bảng 2.3: Diễn biến của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận
3 giai đoạn 2015 - 2019. So sánh mức độ tăng, giảm của số
vụ, số bị cáo (lấy năm 2015 làm gốc 100%)
28 Bảng 2.4: Diễn biến của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận
3 giai đoạn 2015 – 2019 trong so sánh liên kế.
29 Bảng 2.5: Mức độ của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3,
xét theo yếu tố dân cư của 14 đơn vị hành chính cấp
phường (số dân cư sinh sống/bị cáo) từ năm 2015 - 2019.
30 Bảng 2.6: Mức độ của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3,
xét theo yếu tố diện tích (m2) của 14 đơn vị hành chính cấp
phường, (số bị cáo/ 1m2), từ năm 2015 - 2019.
31 Bảng 2.7: Mức độ của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3,
xét theo yếu tố dân cư và diện tích của 14 đơn vị hành
chính cấp phường, từ năm 2015 - 2019.
Cơ cấu theo chế tài đã áp dụng. 35 Bảng 2.8:
Cơ cấu theo giới tính nhân thân người phạm tội cướp tài 36 Bảng 2.9:
sản trên địa bàn Quận 3 (2015 - 2019).
37 Bảng 2.10: Cơ cấu theo độ tuổi nhân thân người phạm tội cướp tài sản
trên địa bàn Quận 3 (2015 - 2019).
38 Bảng 2.11: Cơ cấu theo dân tộc nhân thân người phạm tội cướp tài sản
trên địa bàn Quận 3 (2015 – 2019) .
38 Bảng 2.12: Cơ cấu theo trình độ học vấn của nhân thân người phạm
tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3 (2015 – 2019).
38 Bảng 2.13: Cơ cấu theo nghề nghiệp của nhân thân người phạm tội
cướp tài sản trên địa bàn Quận 3 (2015 – 2019).
26 Biểu đồ 2.1: Thông số về mức độ của tình hình tội cướp tài sản trên địa
bàn Quận 3 giai đoạn 2015 - 2019 .
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luât hình sự
TAND: Tòa án nhân dân
THTP: Tình hình tội phạm
HSST: Hình sự sơ thẩm
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là một quận nội thành của thành phố Hồ Chí Minh, Quận 3 có diện tích
4,92 km2, dân số 190.000 người [10], có phía Bắc giáp quận Phú Nhuận; phía
Đông và Đông Nam giáp Quận 1 với ranh giới là đường Hai Bà Trưng và đường
Nguyễn Thị Minh Khai; phía Nam và Tây Nam giáp quận 10 qua đường Cách
mạng tháng tám và đại lộ Lý Thái Tổ. Quận 3 được coi là nơi có vị trí chiến lược
quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh, có
nhiều trục giao thông quan trọng chạy qua điạ bàn: đường Cách mạng tháng 8
nối với quốc lộ 22 đi Tây Ninh đi Camphuchia; đường Điện Biên Phủ nối với
quốc lộ 1 xuyên Việt; đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa đi sân bay Tân Sơn Nhất. Ở
Quận này còn quy tụ nhiều công trình về khoa học, giáo dục, thương mại, y tế
với hàng loạt trung tâm thương mại sầm uất, thu hút nhiều dự án đầu tư phát
triển kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần cải thiện đời
sống vật chất, tình thần cho người dân, nâng cao thu nhập bình quân đầu người
hàng năm.
Bên cạnh những thuận lợi, cơ hội thì Quận 3 cũng có những khó khăn,
thách thức do những tác động tiêu cực như: do nhu cầu về việc làm nên số lượng
người từ nhiều nơi kéo về đã mang theo những tệ nạn xã hội và phát sinh những
tiêu cực, nảy sinh những mâu thuẫn, tranh chấp trong cộng đồng dân cư; tình
hình tội phạm các loại ngày càng gia tăng, đặc biệt là tội cướp tài sản. Theo số
liệu thống kê của Tòa án nhân dân (TAND) Quận 3, từ năm 2015 - 2019, trên địa
bàn quận đã xảy ra 1.283 vụ án với 2.269 bị cáo, trong đó, tội cướp tài sản có
163 vụ, 271 bị cáo, tức là gần 8,37% về số bị cáo, một tỉ lệ rất cao so với toàn
quốc giai đoạn 1986 - 1988 là 4,26 %, giai đoạn 2001 - 2003 là 5,77 % [4]
Mặt khác, các biện pháp phòng ngừa tội phạm trên phạm vi toàn quốc,
cũng như trên địa bàn cấp tỉnh và cấp huyện những năm qua đã được thực hiện
thống nhất và ráo riết: Đảng có Chỉ thị 48 - CT/TW ngày 22/10/2010 về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình
hình mới; Thủ tướng chính phủ có Quyết định số 282/QĐ – TTg ngày 24 tháng
1
02 năm 2011, Quyết định 623/QĐ-TTg ngày 14 tháng 4 năm 2016 về phê duyệt
chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2025 và định hướng
đến năm 2030; Đảng và chính quyền cấp tỉnh và quận, huyện đều đề ra kế hoạch
và chương trình hành động để triển khai thực hiện Chỉ thị và Quyết định của
Trung ương như đã nêu một cách ráo riết và liên tục. Tuy vậy, kết quả đạt được
còn hạn chế, tình hình tội phạm vẫn xẩy ra và có diễn biến phức tạp. Để phòng
ngừa tội phạm xảy ra trên thực tế, tiến tới đẩy lùi tội phạm trên một địa bàn cụ thể
như địa bàn Quận 3, thì tình hình tội phạm cần phải được nghiên cứu cơ bản và
chuyên sâu, tức là việc phòng ngừa tội phạm phải được nghiên cứu và thiết lập trên
cơ sở hướng dẫn của khoa học chuyên ngành, cái đã và đang hiện hữu ở nước ta. Đó
là tội phạm học.
Trong nghiên cứu tội phạm học, nhân thân người phạm tội vốn là mặt bộc
lộ ra bên ngoài bao trùm nhất và sát thực nhất về bản chất xã hội của người phạm
tội, cái giữ vai trò là cơ sở khách quan cho việc xác định nguyên nhân và điều kiện
của tội phạm với tính cách là sự kết tinh của môi trường sống vào con người.
Chính vì vậy, đề tài: “Nhân thân ngươì phạm tội cướp tài sản trên địa bàn
Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh” đã được lựa chọn để nghiên cứu trong phạm vi
chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu lý luận cơ bản về nhân thân người
phạm tội
Thuộc về nhóm này, các công trình khoa học tiêu biểu sau đây cần phải được
nghiên cứu:
- Dương Tuyết Miên (2017), Tội phạm học đương đại, Nxb Tư Pháp;
- Phạm Văn Tỉnh (2011), Phòng ngừa tội phạm và vấn để bảo vệ quyền con
người một nghiên cứu liên ngành tội phạm học và nhân quyền học, Tạp chí Cảnh
sát nhân dân, (số 29), tr 7 - 14;
- Phạm Văn Tỉnh (2011), Cơ chế hành vi phạm tội - cơ sở để xác định
nguyên nhân và điều kiện phòng ngừa tội phạm, Tạp chí kiểm sát, (số 1, số 3);
2
- Phạm Văn Tỉnh (2016), Tăng cường nhận thức về khái niệm tham nhũng và
phòng, chống tham nhũng nước ta hiện nay, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, (số
2);
- Bùi Ai Giôn (2018), Các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân
người thực hiện các tội xâm phạm tình dục, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-
luat/cac-yeu-to-tac-dong-den-su-hinh-thanh-nhan-than-nguoi-thuc-hien-cac-toi-
xam-pham-tinh-duc, truy cập ngày 28/06/2020.
Các công trình nghiên cứu trên là cơ sở để nhận thức những vấn đề lý luận
cơ bản về nhân thân người phạm tội trong tội phạm học, bao gồm khái niệm nhân
thân người phạm tội; phân biệt khái niệm nhân thân người phạm tội với một số khái
niệm khác có liên quan; các đặc điểm của nhân thân người phạm tội; vai trò của
nhân thân người phạm tội trong nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tội phạm
theo mô hình cơ chế hành vi phạm tội… Đây là những cơ sở lý luận quan trọng mà
luận văn sẽ kế thừa để giải quyết các vấn đề do đề tài luận văn đặt ra.
2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu cụ thể về nhân thân người phạm tội
ở cả khía cạnh luật hình sự và tội phạm học
Thuộc nhóm này có các công trình nghiên cứu sau đây đã được tham khảo:
- Chu Thị Quỳnh (2015), Vai trò nhân thân người phạm tội – dấu hiệu quy
trách nhiệm hình sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà
Nội.
- Phan Thị Phương Thảo (2017), Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản
trên địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Học viện khoa học xã hội;
- Trần Thị Liên (2018), Nhân thân người phạm tội về ma túy trên địa bàn
quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ, HVKHXH.
Các công trình nghiên cứu trên được xem như những tài liệu thực tế ở nhiều
vùng, miền khác nhau, ở các phạm vi nghiên cứu khác nhau và ở các tội phạm khác
nhau để nhận thức rõ về các vấn đề như:
Thứ nhất, thấy rõ sự khác biệt giữa khoa học luật hình sự và tội phạm học
trong nhận thức về cùng khái niệm nhân thân người phạm tội;
3
Thứ hai, xác định hệ thống phân loại tối ưu đối với các đặc điểm nhân thân
người phạm tội trong tội phạm học;
Thứ ba, xác định mối quan hệ giữa nhân thân người phạm tội với tình hình
nhân thân người phạm tội và nhờ mối quan hệ này mà nhận biết được đích thực
vai trò của nhân thân người phạm tội trong cơ chế hành vi phạm tội
Thứ tư, xác định đặc thù của từng địa bàn, từng môi trường sống và của từng
loại tội phạm thông qua đặc điểm, cũng như hệ thống đặc điểm nhân thân người
phạm tội.
Tóm lại, tình hình nghiên cứu như đã trình bày cho phép khẳng định, đề tài:
"Nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn quận 3, Thành phố Hồ Chí
Minh" có tính kết thừa và tính khả thi cao, lại không bị trùng lặp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Quận
3, Thành phố Hồ Chí Minh hướng đến mục đích là hoàn thiện các giải pháp phòng
ngừa tình hình người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3, Thành phố Hồ Chí
Minh thông qua việc làm rõ những đặc điểm nhân thân người phạm tội và xác định
được các yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân người phạm tội cướp
tài sản trên địa bàn Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để nghiên cứu luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
Một là, nghiên cứu lý luận và pháp luật;
Hai là, nghiên cứu thực tế;
Ba là, nghiên cứu triển khai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài đã nêu thể hiện ở việc làm rõ mối quan hệ
phụ thuộc giữa các đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp tài sản với các hiện
tượng, quá trình kinh tế - xã hội khác trên địa bàn Quận 3, tức là làm rõ quy luật của
sự hình thành tội phạm cướp tài sản trên địa bàn quận.
4
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung, đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản
dưới góc độ tội phạm học thuộc chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội
phạm;
- Về không gian, đề tài chỉ nghiên cứu đối với địa bàn Quận 3, Thành phố
Hồ Chí Minh;
- Về thời gian, đề tài sử dụng các số liệu thống kê trong giai đoạn từ 2015
đến năm 2019;
- Về tội danh, đề tài nghiên cứu đối với tội cướp tài sản được quy định tại
Điều 168 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói
chung và về từng vấn đề do đề tài luận văn đặt ra, như vấn đề Chung – Riêng – Đặc
thù; vấn đề quyết định luận; vấn đề môi trường sống và con người; vấn đề khách
quan, chủ quan; vấn đề phản ánh và được phản ánh; vấn đề bản chất và hiện
tượng…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu, cụ thể:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận, nghiên cứu tài liệu, hệ thống hóa, khái
quát hóa và cụ thể hóa được sử dụng để làm rõ những vấn đề lý luận chung về nhân
thân người phạm tội cướp tài sản.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh,
quy nạp, hệ thống, biểu đồ, diễn dịch, đối chiếu, suy luận, phương pháp lịch sử
logic, phương pháp nghiên cứu tổng hợp bản án, nghiên cứu hồ sơ vụ án...
- Phương pháp tổng kết đánh giá; phân tích luận điểm, quy định của pháp
luật, số liệu…
5
- Để nghiên cứu sâu các đặc điểm nhân thân người phạm tội, tác giả sử
dụng phương pháp nghiên cứu 100 bản án, hồ sơ vụ án với 167 bị cáo là người
phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ
năm 2015 đến năm 2019 đã được TA Quận 3 xét xử cũng như các số liệu thống kê
của các cơ quan tiến hành tố tụng ở Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh để phân tích,
tổng hợp số liệu thể hiện các đặc trưng về nhân thân người phạm tội cướp tài sản.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận, kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần bổ sung lý luận về
nhân thân người phạm tội cướp tài sản dưới góc độ Tội phạm học.
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của Luận văn là những tài liệu quan trọng
giúp các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn Quận 3 đề ra các
giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm cướp tài sản, góp phần
bảo đảm cuộc sống bình yên cho người dân trên địa bàn.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn có kết cấu ba chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về nhân thân người phạm tội cướp
tài sản
Chương 2. Thực tiễn nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn
Quận 3 và những yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân người phạm
tội cướp tài sản trên địa bàn Quận
Chương 3. Nhân thân người phạm tội cướp tài sản và những vấn đề đặt ra
đối với phòng ngừa tội phạm này trên địa bàn Quận 3.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CƯỚP TÀI SẢN
1.1.Khái niệm nhân thân người phạm tội cướp tài sản
Từ kết quả nghiên cứu những công trình tội phạm học như đã đề cập ở mục
tình hình nghiên cứu, khái niệm nhân thân người phạm tội cướp tài sản trong tội
phạm học được hiểu một cách cô đọng thông qua những nhận xét sau:
Thứ nhất, Nhân thân người phạm tội được coi là một khách thể nghiên cứu
của Tội phạm học. Sở dĩ như vậy là vì bản thân chủ thể hành vi phạm tội, các đặc
điểm về nhân chủng học, dân tộc học, về tâm lý, sinh lý, về xã hội và về tư pháp
hình sự của chủ thể đó đều tồn tại khách quan, có thể nhận thức được và chứa đựng
những thông tin cho phép nhìn nhận ra mối quan hệ nhân quả hay quy luật của sự
phạm tội, tức là cho phép thấy được đối tượng nghiên cứu của tội phạm học để dựa
vào đó mà xác định biện pháp phòng ngừa hiệu quả;
Thứ hai, nhân thân người phạm tội cướp tài sản được coi là một bộ phận
không thể tách rời của tình hình tội cướp tài sản (tội được quy định tại Điều 168
BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Thứ ba, có sự khác nhau giữa khoa học luật hình sự và tội phạm học trong
quan niệm về nhân thân người phạm tội. Khoa học Luật hình sự khai thác nhân thân
người phạm tội để tìm kiếm những đặc điểm, những yếu tố có ý nghĩa, có giá trị
thiết thực cho việc thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta, đặc biệt là để giải
quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự. Còn tội phạm học cũng khai thác những
đặc điểm, những yếu tố nhân thân người phạm tội nhưng để trả lời câu hỏi tại sao
con người đó lại phạm tội, đặc điểm nào, yếu tố nào đã dẫn dắt đến sự phạm tội của
người đó, tức là tìm nguyên nhân của tội phạm để phòng ngừa. Chính vì mục đích
của tội phạm học bao trùm như vậy, cho nên hệ thống các đặc điểm, các yếu tố
thuộc nhân thân người phạm tội ở lĩnh vực tội phạm học phải bao trùm hơn, rộng
hơn những gì mà khoa học Luật hình sự đã khai thác. Và những đặc điểm, những
7
yếu tố này không bắt buộc phải có hình thức pháp lý, tức là phải có sẵn trong Luật
hình sự, nhưng phải có mối liên hệ dẫn dắt tới sự phạm tội của chủ thể hành vi. Cps
thể nhìn nhận nhân thân người phạm tội cướp tài sản như sau:
Một là, ở mức độ chung, nhân thân của một người nào đó là cái phản ánh,
tức là hình ảnh có thể nhận thức được thông qua tổng thể các đặc điểm về mặt tự
nhiên, xã hội và hành vi xã hội của chủ thể đã thực hiện hành vi đó ở một địa bàn và
thời gian nhất định;
Hai là, ở mức độ riêng, nhân thân người phạm tội là hình ảnh có thể nhận
thức được thông qua tổng thể các đặc điểm về tự nhiên, xã hội và hành vi phạm tội
của chủ thể đã thực hiện hành vi đó trên một địa bàn và thời gian nhất định, tức là
những đặc điểm chứa đựng những thông tin về nguyên nhân và điều kiện của sự
phạm tội;
Ba là, ở mức độ cụ thể của đề tài, nhân thân người phạm tội cướp tài sản
trên địa bàn Quận 3 thành phố Hồ Chí Minh là hình ảnh ( cái phản ánh) có thể nhận
thức được thông qua tổng thể các đặc điểm về tự nhiên, xã hội và hành vi phạm tội
cướp tài sản của các chủ thể đã thực hiện hành vi cướp tài sản trên địa bàn Quận 3
trong giai đoạn 2015 - 2019, tức là những đặc điểm chứa đựng những thông tin về
nguyên nhân và điều kiện của sự phạm tội cướp tài sản.
1.2. Các đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp tài sản
Việc phân loại các đặc điểm của nhân thân người phạm tội là rất cần thiết
cho nghiên cứu tội phạm học và việc này cũng có nhiều cách khác nhau. Ở đây, để
phục vụ cho nghiên cứu thực tế đặc điểm của nhân thân người phạm tội cướp tài sản
được phân thành ba nhóm đặc điểm: Sinh học; Xã hội; Pháp lý hình sự.
1.2.1. Các đặc điểm sinh học
1.2.1.1. Về độ tuổi
Qua nghiên cứu tội cướp tài sản chủ yếu ở hai nhóm tuổi từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi và nhóm tuổi từ đủ 18 tuổi đến 30 tuổi thực hiện. Đây là cơ sở quan
trọng trong việc xây dựng các giải pháp phòng ngừa THTP cướp tài sản trong xã
hội.
1.2.1.2. Về giới tính
8
Nghiên cứu đặc điểm giới tính người phạm tội cướp tài sản, tội phạm học
tập trung xác định hai vấn đề: nam giới và nữ giới có tỷ lệ phạm tội như thế nào;
đặc trưng của giới tính có ảnh hưởng như thế nào đến cơ chế hành vi phạm tội.
Những nghiên cứu của các nhà tội phạm học cho thấy, tội cướp tài sản chủ yếu do
nam giới thực hiện. Xác định được ảnh hưởng của giới tính trong cơ chế hành vi
phạm tội sẽ có nhiều ý nghĩa trong việc phòng ngừa tội phạm cướp tài sản từ khía
cạnh nhân thân người phạm tội.
1.2.1.3. Về dân tộc
Dân tộc là một hình thái đặc thù của một tập đoàn người, xuất hiện trong
quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội, được phân biệt bởi 3 đặc trưng cơ bản là
ngôn ngữ, văn hóa và ý thức tự giác của cộng đồng, mang tính bền vững qua hàng
nghìn năm lịch sử. Mỗi dân tộc có sự phân bố ở những địa bàn khác nhau dẫn đến
quá trình hình thành, nảy sinh tội phạm cướp tài sản cũng khác nhau. Do đó, việc
nghiên cứu về đặc điểm dân tộc của tội cướp tài sản có ý nghĩa trong việc đề ra các
biện pháp ngăn chặn và giáo dục
1.2.1.4. Về nơi sinh
Nơi sinh hay là địa điểm sinh chính là địa danh hành chính nơi con người
được sinh ra. Nơi sinh là diễn biến khách quan tại địa điểm người đó sinh ra, có thể
không phải nơi thường trú, có thể là bất kỳ địa danh nào. Yếu tố này có ảnh hưởng
không nhỏ đến sự hình thành nhân thân người phạm tội cướp tài sản. Vì vậy nghiên
cứu nơi sinh sẽ cho phép chúng ta nhận thức được tác động của nơi cư trú đến
THTP cướp tài sản mà Tội phạm học gọi là địa lý học tội phạm.
1.2.1.6. Về nơi cư trú
Yếu tố nơi cư trú có thể ảnh hưởng đến một số đặc điểm thuộc tâm lý cá
nhân như yếu tố văn hóa, tập quán, thói quen, tính cách đặc trưng của địa bàn cư
trú. Điều này rất có ý nghĩa trong hoạt động dự báo và phòng ngừa tội phạm cướp
tài sản. Nơi cư trú, nơi sinh sống có ảnh hưởng không nhỏ đến tình trạng phạm tội
nói chung và tội cướp tài sản nói riêng cho phép chúng ta nhận thức được tỉ lệ phạm
tội theo khu vực cư trú của tội cướp tài sản.
1.2.2. Các đặc điểm xã hội
9
1.2.2.1. Trình độ học vấn
Học vấn là danh từ chỉ mức độ của việc học mà một con người đạt tới. Tội
phạm học nghiên cứu trình độ học vấn của nhân thân người phạm tội cướp tài sản ở
04 cấp bậc học: mù chữ và tiểu học; Trung học cơ sở, Trung học phổ thông và cao
đẳng, đại học. Trình độ học vấn thấp thường đi kèm với trình độ hiểu biết thấp, nhất
là hiểu biết về pháp luật, dẫn đến vi phạm pháp luật.
1.2.2.2. Nghề nghiệp
Nghề nghiệp được coi là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ
được đào tạo, con người có được những tri thức, những kĩ năng để làm ra các loại
sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Người
không có nghề nghiệp hoặc có nghề nghiệp không ổn định thường bị tác động bởi
cơm áo gạo tiền, vật chất nên rất dễ hình thành và phát sinh các đặc điểm nhân thân
tiêu cực.
1.2.2.3. Hoạt động xã hội (Hội, đoàn, đảng viên)
Nghiên cứu của các nhà tội phạm học cho thấy, việc xác định được hoạt
động xã hội của nhân thân người phạm tội cướp tài sản giúp xác định được vai trò
xã hội của người phạm tội, đó là những chức năng xã hội của cá nhân được quyết
định bởi địa vị của nó trong hệ thống các quan hệ xã hội đang tồn tại; bởi việc
người đó thuộc nhóm xã hội nhất định nào, bởi mối quan hệ lẫn nhau và sự phụ
thuộc lẫn nhau của người đó đối với người khác. Thái độ của người đó đối với
những chức năng đó và kế hoạch đời sống…
1.2.2.4. Tôn giáo, tín ngưỡng
Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính
thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo,
nhằm lí giải những vấn đề trên trần thế cũng như thế giới bên kia. Niềm tin đó được
biểu hiện rất đa dạng, tùy thuộc vào từng thời kì lịch sử, hoàn cảnh địa lí – văn hóa
khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng những nghi
lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau.
Nghiên cứu vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng sẽ có vai trò hết sức quan trọng trong việc
nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản.
10
1.2.2.5. Sở thích (nghiện rượu, ma túy, games…)
Sở thích là những mối quan tâm khác ngoài lĩnh vực công việc. Chúng thỏa
mãn sự sáng tạo và cho phép con người thử nghiệm những điều mới mẻ. Sở thích
của con người thường rất rộng và có đối tượng không giống nhau ở mỗi người nên
nghiên cứu về sở thích người phạm tội cướp tài sản có ý nghĩa quan trọng việc hạn
chế các đặc điểm tiêu cực trong người phạm tội. Từ đó, đề ra những giải pháp
phòng ngừa có hiệu quả.
1.2.2.6. Khuynh hướng giá trị ( lối sống)
Việt Nam ngày nay đang ở trong quá trình vận động và biến đổi mạnh mẽ.
Sự phát triển theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa về thực chất sẽ là một quá
trình biến đổi mà trong đó cơ cấu xã hội cũng bị thay đổi tận gốc rễ.
Một số biểu hiện ở người phạm tội được thể hiện như sau:
+ Người phạm tội thường có sự đánh giá không đúng, có sự nhầm lẫn giữa
các giá trị trong xã hội như tình cảm gia đình, tình cảm nam nữ, quan hệ hàng xóm,
láng giềng…
+ Triết lý sống của con người đã chuyển dẫn qua xu hướng thực dụng, ích
kỉ, đề cao lối sống hưởng thụ, cổ xúy cho tư tưởng tự do phát triển cá nhân…. Một
bộ phận không nhỏ coi thực dụng là yếu tố chủ đạo, coi đồng tiền là trên hết.
+ Người phạm tội cướp tài sản có xu hướng coi lợi ích của bản thân là trên
hết.
1.2.1.7. Hoàn cảnh gia đình
Trong những năm gần đây, do sự biến đổi của nền kinh tế thị trường đã hình
thành nên sự cố kết lỏng lẻo trong lối sống gia đình tạo nên các khiếm khuyết và sự
với các yếu tố khác đã tác động đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân xấu ở
người phạm tội và trong những điều kiện, tình huống thuận lợi sẽ dễ dàng phát sinh
hành vi phạm tội. Nghiên cứu về hoàn cảnh gia đình có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc xác định các nguyên nhân hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của
người phạm tội. Mặt khác, môi trường gia đình giữ vai trò đáng kể đối với cơ chế
hình thành hành vi cướp tài sản thông qua đời sống vật chất của gia đình, cơ cấu của
gia đình, phương pháp giáo dục của gia đình.
11
1.2.1.8. Tình trạng hôn nhân
Tình trạng hôn nhân có ý nghĩa đối với việc hình thành đặc điểm nhân thân
người phạm tội cướp tài sản. Những nghiên cứu tội phạm học về nhân thân người
phạm tội cho thấy, những người đã xây dựng gia đình phạm tội cướp tài sản chiếm
tỷ lệ ít hơn so với những người sống đơn thân hoặc chưa xây dựng gia đình.
1.2.3. Các đặc điểm pháp lý hình sự
1.2.3.1. Tiền sự (Vi phạm hành chính chưa được xóa)
Tiền sự là hành vi phạm pháp nhưng chưa đến mức phải chịu trách nhiệm
hình sự đã có trước đó. Người có tiền sự là người đã chịu các biện pháp kỷ luật, xử
phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm, nhưng chưa đến
mức phải xử lý hình sự, mọi biện pháp kỉ luật và xử lý hành chính của người này
chưa được xóa đi. Xác định nhân thân người phạm tội cướp tài sản là người có tiền
sự (vi phạm hành chính chưa được xóa) là cơ sở để cho các cơ quan thi hành pháp
luật giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Việc xác định này bảo đảm
cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt trong trường hợp vi phạm lần đầu, có lời khai
trung thực, có thái độ phối hợp với cơ quan điều tra, vừa bảo đảm tòa án sẽ đưa ra
những bản án công bằng, nghiêm minh cho những trường hợp đã từng phạm tội
nhiều lần.
1.2.3.2. Tái phạm, tái phạm nguy hiểm
Vấn đề tái phạm, tái phạm nguy hiểm được căn cứ tại Điều 53 BLHS năm
2015. Nghiên cứu đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp tài sản đối với những
người tái phạm, tái phạm nguy hiểm là cơ sở để xác định được tính chất, mức độ về
hành vi chống đối pháp luật, vi phạm pháp luật của người phạm tội cướp tài sản, từ
đó có những biện pháp giáo dục, cảm hóa, cải tạo cho phù hợp với từng loại đối
tượng.
1.2.3.3. Động cơ phạm tội
Để truy cứu trách nhiệm hình sự của một người cần phải bảo đảm yếu tố
theo quy định. Trong đó khi cấu thành tội phạm cướp tài sản phải quan tâm đến
động cơ phạm tội là nhân tố tâm lý bên trong chủ thể thúc đẩy họ thực hiện hành
động là động cơ của hành động. Cơ sở tạo thành động cơ phạm tội là những nhu cầu
12
về vật chất, tinh thần, các lợi ích sai lệch của cá nhân được chủ thể nhận thức hoặc
những tư tưởng sai lệch của chủ thể, cũng có thể là nhu cầu bình thường nhưng chủ
thể đã lựa chọn cách thỏa mãn chúng trái với các lợi ích và chuẩn mực của xã hội.
1.2.3.4. Mục đích phạm tội
Tội cướp tài sản thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích của người phạm
tội cướp tài sản là nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Xác định được mục
đích phạm tội cướp tài sản là cơ sở để đề ra các biện pháp phòng ngừa tình hình tội
cướp tài sản.
1.2.3.5. Phương thức thực hiện tội phạm
Nghiên cứu về phương thức thực hiện tội phạm cướp tài sản ở khía cạnh
nhân thân người phạm tội nhằm xác định được cách thức thực hiện tội phạm diễn ra
trong thực tế, để từ đó đưa ra những thông báo nhằm phòng ngừa tội phạm này có
hiệu quả.
1.2.3.6. Địa bàn gây án
Nghiên cứu về địa bàn gây án của người phạm tội cướp tài sản là cơ sở để
xác định mức độ và diễn biến của tội phạm được thực hiện ở từng địa điểm cụ thể
như: đoạn đường vắng, ít người qua lại; những khu vực thường xuyên có hoạt động
giao nhận tài sản lớn; thông qua các dịch vụ của mạng internet, mạng xã hội, mạng
viễn thông… Từ đó, kịp thời tham mưu các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn kịp
thời tội phạm cướp tài sản xảy ra.
1.2.3.7. Chế tài đã áp dụng
Chế tài áp dụng đối với người phạm tội cướp tài sản được căn cứ tại Điều
168 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có 05 khung hình phạt đối với tội
này được quy định tại các khoản 2,3,4,5,6. Tùy thuộc vào mức độ thực hiện tội
phạm và hậu quả do người phạm tội cướp tài sản gây ra mà áp dụng chế tài đối với
họ cho phù hợp.
1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài
sản
Việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản được thể hiện qua
những ý nghĩa như sau:
13
- Về mặt lý luận (tội phạm học), nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên
địa bàn Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh có giá trị gì vô cùng quan trọng. Bởi vì,
một mặt nó khẳng định lý luận tội phạm học về nhân thân người phạm tội, xem lý
luận đó có phù hợp hay không, mặt khác, nó có thể bổ sung cho lý luận đã có. Cụ
thể như sau:
+ Tình hình tội cướp tài sản là tổng thể các hành vi phạm tội và người (chủ
thể) đã thực hiện hành vi cướp tài sản trong một đơn vị không gian và thời gian nhất
định được xem xét qua 4 thông số là mức độ, cơ cấu, động thái và tính chất của tình
hình tội phạm [3]. Nhiều đặc điểm tội phạm học về nhân thân người phạm tội đã
được phản ánh thông qua việc nghiên cứu này nhờ việc sử dụng và khai thác (hệ
thống hóa, phân tổ theo các chiêu thức khác nhau), số liệu thống kê thường xuyên
do các cơ quan chức năng cung cấp, bốn thông số về tình hình tội cướp tài sản phải
được làm rõ ở một chừng mực có thể nhất. Qua đó, một bức tranh tổng thể về người
phạm tội cướp tài sản cùng các đặc điểm nhân thân nhất định của họ được làm rõ;
+ Việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản giúp tìm ra
nguyên nhân và điều kiện của tội cướp tài sản. Nguyên nhân và điều kiện của tội
cướp tài sản bao gồm những yếu tố thuộc về nhân thân người phạm tội như đặc
điểm tâm, sinh lý, khuynh hướng giá trị… của con người với những yếu tố tác động
thuộc môi trường bên ngoài làm phát sinh tội cướp tài sản. Nghiên cứu các đặc
điểm của nhân thân người phạm tội cướp tài sản, phân tích bản chất cũng như các
đặc điểm hình thành của nó chính là nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
cướp tài sản thuộc quá trình tương tác nhập tâm và quá trình tương tác xuất tâm;
+ Thông qua việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản sẽ tìm
ra được những yếu tố tiêu cực từ phía người phạm tội và môi trường rồi tác động
vào đó để hạn chế, loại trừ những đặc điểm tiêu cực của nhân thân con người, góp
phần phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản bằng các biện pháp thiết thực, các giải
pháp cụ thể đánh giá một cách khái quát nhất các đặc điểm về mặt tự nhiên, xã hội
và hành vi phạm tội. Phân loại từng nhóm đối tượng theo độ tuổi, giới tính, trình độ,
nghề nghiệp… từ đó áp dụng các biện pháp giáo dục và cải tạo cho phù hợp.
14
- Về mặt thực tế, khi nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn
quận 3 trong giai đoạn 2015-2019 đã được làm rõ, thì đem lại tác dụng thiết thực
sau:
+ Nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản là cơ sở để các cấp
chính quyền ở Quận 3 đề ra những chính sách phát triển kinh tế, xã hội phù hợp với
địa bàn, quan trọng hơn cả là chính sách pháp luật nói chung và chính sách hình sự
nói riêng;
+ Kết quả nghiên cứu nhân thân của tội cướp tài sản là cơ sở để đề ra các
giải pháp phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản từ khía cạnh nhân thân người phạm
tội một cách toàn diện và phù hợp với tình hình cụ thể trên địa bàn.
+ Nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản, có ý nghĩa quan trọng
trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội trên địa bàn Quận.
1.4. Những yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân người
phạm tội cướp tài sản
Những yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân người phạm tội
cướp tài sản là:
1.4.1. Những yếu tố tác động đến quá trình tương tác nhập tâm
1.4.1.1. Những yếu tố khách quan
a) Môi trường gia đình
Gia đình là gì? Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi sinh sống của mọi thành viên
dưới một mái nhà. Ở gia đình có tình yêu thương, chăm sóc, nâng niu, có tiếng cười
của những đứa trẻ hay sự đồng cảm chia sẻ của mọi người. Đối với trẻ thơ, gia đình
không chỉ là nơi được sống hạnh phúc mà là nơi nuôi dưỡng tâm hồn của đứa trẻ, giúp
hoàn thiện bản thân về tư duy lẫn nhân cách. Tuy nhiên, không phải ai cũng được sống
trong gia đình hạnh phúc có những gia đình khuyết thiếu, đỗ vỡ, không an toàn, lành
mạnh… những yếu tố tiêu cực trong môi trường gia đình sẽ tác động, làm hình thành
nhân cách lệch lạc của cá nhân khi gặp tình huống cụ thể thuận lợi sẽ làm phát sinh
hành vi phạm tội, nhất là đối với lứa tuổi thanh thiếu niên. Những yếu tố này được biểu
hiện cụ thể như sau:
15
- Gia đình khuyết thiếu: là gia đình không có cha, không có mẹ hoặc không
có cả cha lẫn mẹ dẫn đến con cái bị bỏ rơi, thiếu sự dạy dỗ và tình thương của cha
mẹ. Chúng sẽ dễ phạm tội khi bị bạn bè rủ rê, lôi kéo thực hiện hành vi phạm tội
trong đó có tội cướp tài sản;
- Gia đình không hạnh phúc, thường xuyên cãi, chửi, đánh nhau: vì nhiều lý
do khác nhau, một bộ phận gia đình đã không còn thật sự là "tổ ấm" để trao truyền
yêu thương, chăm lo, dạy dỗ, giáo dục và nuôi dưỡng con trẻ. Ở đó, cấu trúc gia
đình lỏng lẻo, liên kết giữa các thành viên trong gia đình yếu, cha mẹ thiếu gương
mẫu, thường xuyên mâu thuẫn, xung đột, dẫn đến bạo lực gia đình; trong đó, bạo
lực của người chồng đối với người vợ và bạo lực của cha mẹ đối với con cái xảy ra
nghiêm trọng. Ở những nơi con trẻ phải thường xuyên chứng kiến những "hình
ảnh", "sự việc" không đẹp đó, ắt chúng hoặc bị khủng hoảng tâm lý "đòn roi", lệch
lạc trong suy nghĩ dẫn đến lệch lạc trong hành động, có xu hướng áp dụng hành vi
bạo lực đối với người khác trong tương lai. Cùng với các mâu thuẫn, xung đột và
bạo lực gia đình là vấn đề li hôn, nhất là gia đình có cha mẹ li hôn khi con còn nhỏ
tuổi, thì con trẻ dễ bị khủng hoảng tâm sinh lý hoặc thu mình, rồi sẽ dẫn đến có
những hành vi lệch chuẩn trong đó có hành vi cướp tài sản trong tương lai. Vi phạm
pháp luật của những người này đa số quậy phá, ngông nghênh, gây rối trật tự công
cộng và phát triển cao hơn là kết thành băng nhóm chuyên phá phách, sinh sự đánh
nhau, gây thương tích, thâm chí sa vào thực hiện hành vi cướp tài sản;
Thứ ba, gia đình thiếu sự quan tâm chăm sóc, giáo dục con cái: Con trẻ lúc
nào cũng cần có sự quan tâm, theo dõi sát sao của cha mẹ. Vì nếu không cảm nhận
được tình yêu của cha mẹ con cái sẽ cảm thấy thua kém bạn bè, bị bỏ rơi và dần
phát sinh những hệ lụy đáng ngại. Ngày nay, xã hội phát triển một cách nhanh
chóng, cha mẹ đôi lúc mải mê với cuộc chiến "cơm áo gạo tiền" mà quên đi mất
trách nhiệm giáo dục con cái mình. Có gia đình phó mặc con cái mình cho người
giúp việc, "khoán trắng" cho xã hội và nhà trường việc giáo dục con trẻ. Bên cạnh
đó không ít cha mẹ không dành nhiều thời gian cho con; một số khác thiếu kỹ năng
và phương pháp giáo dục khoa học… đã ảnh hưởng đến tâm sinh lý, sự hình thành
nhân cách, lối sống đúng đắn, thậm chí sự thành công của con trẻ trong tương lại;
16
Thứ tư, gia đình quá nuông chiều con cái: Bên cạnh sự nuông chiều, cha
mẹ bao bọc mọi việc khiến trẻ hình thành tính cách ỷ lại, dựa dẫm, sống ích kỉ, lười
nhác không ý thức về trách nhiệm, quen được hưởng thụ, phục vụ. Sự vi phạm pháp
luật có nguồn gốc từ sự buông lỏng, thiếu phối hợp quản lý của gia đình với nhà
trường. Điều kiện vật chất của gia đình và sự quản lý lỏng lẻo cũng thường khiến họ
nhanh chóng sa đà vào những thú vui vật chất tầm thường (games, bạo lực, đua xe
cảm giác mạnh, ăn nhậu, quậy phá, nghiện hút…) đến những hành vi phạm pháp.
Nhiều người thực hiện hành vi cướp tài sản thậm chí là tài sản của những người
thân trong gia đình hoặc của người khác để thỏa mãn những nhu cầu không chính
đáng như đua đòi, ăn diện, đánh bạc, hút chích…
b) Môi trường nhà trường
Môi trường giáo dục chứa đựng tất cả những điều kiện vật chất và tinh thần
ảnh hưởng đến mọi hoạt động giáo dục, học tập, rèn luyện, vui chơi và phát triển
nhân cách của các em học sinh. Môi trường giáo dục lành mạnh là môi trường mà
người học được bảo vệ, tôn trọng, đối xử công bằng, dân chủ và nhân ái, được tạo
điều kiện phát triển phẩm chất và năng lực. Môi trường nhà trường không những
rèn luyện nhân cách cho con người mà còn có giá trị duy trì, củng cố những phẩm
chất tốt đẹp hay còn gọi là nơi rèn đức, luyện tài. Tuy nhiên hiện nay dưới tác động
của mặt trái của nền kinh tế thị trường môi trường nhà trường có ảnh hưởng đến
việc hình thành những đặc điểm nhân thân tiêu cực như sau:
- Hiện nay văn hóa ứng xử học đường ở Việt Nam đang bị xuống cấp
nghiêm trọng một phần là do bị xem nhẹ. Nhà trường chỉ tập trung vào việc dạy
kiến thức tự nhiên xã hội mà quên đi giáo dục nhân cách sống cho học sinh. Vấn đề
dạy "nhân" và "nghĩa" bị buông lỏng giảm sút nhất là các mặt đạo đức, lối sống
Theo thống kê của Bộ giáo dục đào tạo, trong giai đoạn 2015 – 2019 cả nước đã xảy
ra 1600 vụ đánh nhau ngoài trường học, trong đó có các vụ án hình sự ngày càng
gia tăng có cả những đối tượng ở lứa tuổi học sinh, sinh viên thực hiện hành vi cướp
tài sản. Tình trạng bạo lực học đường gia tăng là vấn đề hết sức quan ngại trong giai
đoạn hiện nay;
17
- Tình trạng kết bè, kết phái tạo thành băng hội cũng làm ảnh hưởng đến
môi trường giáo dục làm cho cả xã hội quan tâm, lo lắng. Hiện tượng lập băng
nhóm trong lứa tuổi học sinh, sinh viên để đi cướp tài sản, trấn lột, dằn mặt lẫn
nhau, thanh toán ân oán cá nhân làm gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh đối với không
những chỉ ngành giáo dục mà còn toàn xã hội;
- Hiện nay mối quan hệ giữa thầy – trò không còn đúng chuẩn mực như
trước học sinh không có sự tôn trọng đối với thầy cô, nhiều trường hợp vì bị giáo
viên phạt mà có những cư xử không chuẩn mực, thậm chí trả thù. Những hiện tượng
tiêu cực trong giáo dục không phải là ít, quá trình thương mại hóa trong giáo dục đã
làm biến tướng và thương mại hóa quan hệ thầy trò, làm cho thầy không được là
thầy không được tôn trọng, không uy nghiêm, được học trò coi là tấm gương để noi
theo học tập, trò cũng không phải là trò, không lễ phép, kính trọng thầy và chăm chỉ
học hành tu dưỡng những điều này sẽ tạo nên tâm lý bất cần, không tôn trọng người
khác, tôn trọng xã hội, coi thường pháp luật dễ dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật;
- Hệ thống giáo dục các cấp bậc từ đại học đến phổ thông còn thiếu đồng
bộ, chưa có sự cân đối. Ở phổ thông, các học sinh được học các môn học khoa học
mang tính lý thuyết rất nhiều, nhưng khi lên cấp bậc đại học thì những lý thuyết ở
phổ thông không thể áp dụng được, khiến các học viên phải học lại từ đầu, như thế
phải mất thêm một khoảng thời gian nữa. Tư duy của nền giáo dục còn chậm đổi
mới, chưa theo kịp tốc độ phát triển, đổi mới của đất nước trong bối cảnh nền kinh
tế thị trường, phát triển và hội nhập thế giới. Việc thiếu kĩ năng cuộc sống khiến các
em trở nên lúng túng dễ phạm phải sai lầm không đáng có.
c) Môi trường nhóm
Đối với con người môi trường bạn bè có vai trò hết sức quan trọng. Môi
trường bạn bè giúp con người thể hiện cá tính, thấu hiểu và chấp nhận mình. Tuy
nhiên, môi trường bạn bè có sự ảnh hưởng hai chiều cả tích cực lẫn tiêu cực, bởi
ông bà ta đã có câu: "Lựa bạn mà chơi". Đối với người phạm tội cướp tài sản
thường có sự tụ tập bạn bè xấu và nghe theo bạn bè tham gia vào các tệ nạn xã hội
như ma túy, cờ bạc, mại dâm… Hoặc có những trường hợp tham gia vào các băng
nhóm cướp tài sản để có tiền thỏa mãn, tiêu xài cá nhân.
18
Nơi cư trú, nơi làm việc của người phạm tội cướp tài sản là nơi người đó
sinh sống có những đặc điểm riêng về kinh tế, văn hóa, xã hội, đạo đức, thuần
phong mỹ tục có tác động không nhỏ đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân
người phạm tội. Những người có nơi cư trú ổn định, rõ ràng, môi trường sống văn
hóa thì ít có khả năng hình thành những thói hư, tật xấu. Đối với người phạm tội
cướp tài sản thường có nói cư trú không rõ ràng, ổn định, phức tạp, tập trung dân cư
đông đúc.
d) Yếu tố thuộc môi trường xã hội vĩ mô
Mỗi con người đều có kiến thức về tự nhiên, xã hội và cách nhận thức về
đạo đức ứng xử. Điều đó cho thấy rằng người phạm tội trong đó có người phạm tội
cướp tài sản dù cho tác động trực tiếp bởi gia đình hay bị tác động trực tiếp từ
trường học thì họ đều có chung sự ảnh hưởng của môi trường xã hội. Điều này giải
thích vì sao cùng một hoàn cảnh gia đình, cùng một môi trường học và cùng một độ
tuổi tương tự, nhưng cách thức, tính chất, mức độ và tần suất thực hiện hành vi
cướp tài sản ở Thành thị cụ thể là Thành phố Hồ Chí Minh khác với những thành
phố khác, khác với vùng nông thôn. Những yếu tố tác động thuộc môi trường kinh
tế xã hội vĩ mô với nhà nước là chủ thể bao gồm:
- Sự phân hóa giàu nghèo đang là vấn đề quan ngại hiện nay. Những người
nghèo rất ít có cơ hội tiếp cận và được bảo đảm những điều kiện sống cơ bản. Phân
hóa giàu nghèo góp phần tạo ra sự đa dạng trong các hình mẫu lối sống như lối sống
xa hoa, lãng phí, bất chấp các giá trị đạo đức chuẩn mực xã hội, không quan tâm
đến con cái dẫn đến con cái thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong đó có cướp
tài sản mà không biết. Những người thu nhập thấp chịu ảnh hưởng của lối sống này
dẫn đến việc hành động bất chấp kể cả hành vi vi phạm pháp luật để làm giàu trong
đó có hành vi cướp tài sản. Phân hóa giàu nghèo gây ra tình trạng thiếu hụt văn hóa
trong phát triển. Những thanh niên được sinh ra trong những gia đình khá giả, có
quyền lực thường có tư tưởng "con ông cháu cha" coi thường luân lý, đạo đức,
không chịu củng cố kiến thức. Còn những gia đình nghèo không đủ điều kiện cho
con ăn học gây ra tình trạng thiếu hụt văn hóa trong xã hội. Nếu không có những
biện pháp khắc phục thì xã hội không thể đạt tới sự phát triển bền vững;
19
- Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm đang có xu hướng gia tăng. Không
có việc làm là hạn chế việc giao tiếp với người khác trong môi trường làm việc,
không có khả năng chi trả đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống. Người
thất nghiệp, thiếu việc làm dễ nảy sinh tâm lý, tự ti chán nản tìm đến games, ma túy,
cờ bạc, rượu bia… để quên đi buồn phiền. Yếu tố này gặp điều kiện, hoàn cảnh
thuận lợi dễ nảy sinh hành vi cướp tài sản do bí bách việc trang trải nhu cầu cá
nhân;
- Mặt trái của nền kinh tế thị trường đã hình thành nên chủ nghĩa cá nhân,
ích kỷ, thói vô cảm, tâm lý tiêu dùng vật chất đang thâm nhập vào mọi ngõ ngách
của đời sống xã hội. Bên cạnh đó sự phát triển của công nghệ thông tin, internet
đang cuốn hút một bộ phận không nhỏ đặc biệt là giới trẻ sa vào thế giới ảo. Những
sản phẩm văn hóa trái thuần phong mỹ tục gây ảnh hưởng không nhỏ tới lớp trẻ,
băng hoại đạo đức xã hội;
- Công tác quản lý nhà nước còn nhiều tồn tại, hạn chế chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chưa
phát huy đầy đủ những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực. Một số chính
sách của Nhà nước chưa được thực hiện triệt để nhất là chính sách xóa đói, giảm
nghèo, an sinh xã hội, hỗ trợ doanh nghiệp, hỗ trợ thất nghiệp, định hướng nghề
nghiệp cho tầng lớp thanh thiếu niên. Tình trạng thừa cử nhân, những cử nhân tốt
nghiệp không có việc làm hoặc làm trái ngành nghề đang trở nên ngày càng phổ
biến, cuộc sống không được bảo đảm, làm giàu bằng mọi thủ đoạn, lối sống tham
lam, ích kỉ và hẹp hòi là một trong những nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội cướp tài sản. Công tác quản lý nhà nước về mua bán, tàng trữ, sử dụng các loại
công cụ, vũ khí thô sơ như: Súng, dao găm, mã tấu, roi điện... ở hầu khắp các địa
bàn, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên rất thuận lợi cho những đối tượng thực
hiện hành vi cướp tài sản mua bán và sử dụng làm công cụ, phương tiện phạm tội;
- Thành phố Hồ Chí Minh là nơi tập trung nhiều nhân khẩu di cư đến để
làm việc, học tập, lao động… Tuy nhiên, công tác quản lý vấn đề này hiện nay vẫn
còn chưa được làm tốt là một trong những cơ chế hình thành đặc điềm nhân thân
tiêu cực của tội cướp tài sản.
20
1.4.1.2. Những yếu tố chủ quan
Các yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội như sở thích, nhu cầu, ý thức
pháp luật cá nhân… là mặt bên trong của nhân thân người phạm tội cướp tài sản được
coi là điều kiện và tiền đề đề để hình thành các đặc điểm tiêu cực.
- Sai lệch về sở thích
Sở thích là những mối quan tâm ngoài công việc là điều khiến con người thư
giãn, thoải mái, vui vẻ. Nếu trong cuộc sống con người có những sở thích lành mạnh thì
nhân cách đúng đắn sẽ được hình thành bởi con người đó. Ngược lại, nếu có sở thích
không lành mạnh sẽ hình thành những nhân cách lệch lạc nếu gặp những hoàn cảnh,
tình huống cụ thể sẽ không kiềm chế, kiểm soát được hành vi và thậm chí vi phạm pháp
luật.
- Nhu cầu và cách thức thỏa mãn nhu cầu có sự sai lệch với chuẩn mực
Nhu cầu với tư cách là một hiện tượng tâm lí của con người, nó chi phối một
cách mãnh liệt tới đời sống tâm lí nói chung, đến hành vi của con người nói riêng. Bất
cứ một hoạt động nào của con người là cũng nhằm thỏa mãn nhu cầu của cá nhân.
Nguồn gốc của hành vi phạm tội cướp tài sản không phải ở bản thân nhu cầu mà đó là
sự sai lệch về nhu cầu và cách thức thỏa mãn nhu cầu thường nghiêng về vật chất,
mang tính vụ lợi theo khuynh hướng lệch chuẩn xã hội. Phần lớn những người này có
nhu cầu vật chất quá lớn, vượt quá sự đáp ứng của bản thân, gia đình họ lựa chọn hành
vi cướp tài sản để thỏa mãn điều này.
- Những hạn chế về ý thức pháp luật cá nhân
Ý thức pháp luật là toàn bộ các quan điểm, quan điểm của con người và thái
độ của họ đối với pháp luật cá nhân từ các quan hệ kinh tế, đặc biệt là quan hệ sản
xuất nhất định. Mỗi con người có quan điểm, quan niệm, nhận thức riêng với pháp
luật, đối với cơ quan bảo vệ pháp luật. Những người phạm tội cướp tài sản thường
có hiểu biết hạn chế về pháp luật, có thái độ thờ, coi thường pháp luật; có xu hướng
chống đối pháp luật và các cơ quan bảo vệ pháp luật nhất là các trường hợp tái
phạm, tái phạm nguy hiểm.
1.4.2. Những yếu tố tác động đến quá trình tương tác xuất tâm
Đối với tội cướp tài sản đều được thể hiện rõ ở hai khâu như sau:
21
Khâu kế hoạch hóa hành vi. Tội này thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Người
phạm tội nhận thức rõ được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước
hậu quả của hành vi đó là tài sản của người khác bị chiếm đoạt và mong muốn
chiếm đoạt tài sản đó. Người phạm tội cướp tài sản có phương thức thực hiện tội
phạm nhất định có sự nghiên cứu về thời gian, địa điểm, nạn nhân mà đối tượng sẽ
thực hiện hành vi cướp tài sản, có sự chuẩn bị về công cụ, phương tiện phạm tội và
nghiên cứu việc trốn tránh cơ quan chức năng, sự chống trả của bị hại…
Khâu hiện thực hóa hành vi, chủ thể trực tiếp thực hiện hành vi bằng các
hành động cụ thể như: Dùng vũ lực; đe dọa dung vũ lực ngay tức khắc; hoặc các
hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được
nhằm chiếm đoạt tài sản với mong muốn chuyển dịch tài sản của người khác thành
tài sản của mình trái pháp luật và trái ý chí của chủ sỡ hữu hoặc người quản lý tài
sản. Tuy nhiên có nhiều trường hợp lúc đầu người phạm tội không có ý định chiếm
đoạt tài sản, nhưng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội đã
nảy sinh ý định chiếm đoạt và sau đó tiếp tục có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc để chiếm đoạt tài sản thì hành vi chiếm đoạt tài sản vẫn
bị coi là hành vi phạm tội cướp tài sản.
Tiểu kết chương 1
Từ những điều đã trình bày ở trên, ở chương một, cho phép rút ra kết luận
về những vấn đề sau:
Thứ nhất, về nhân thân người phạm tội cướp tài sản, Luận văn đúc kết và
chia sẻ những luận điểm sau:
Một là, dưới góc độ tội phạm học, nhân thân người phạm tội cướp tài sản có
cùng bản chất với nhân thân người phạm tội nói chung, tức là nó không phải là
người phạm tội, mà chỉ là cái phản ánh, là hình ảnh có thể nhận thức được về người
phạm tội cướp tài sản. Hình ảnh có thể nhận thức được này chính là khách thể
nghiên cứu của đề tài;
Hai là, có sự khác nhau giữa khoa học luật hình sự và tội phạm học trong
nhận thức về cùng khái niệm nhân thân người phạm tội cướp tài sản. Nếu như khoa
22
học luật hình sự xem nhân thân người phạm tội cướp tài sản là căn cứ để quyết định
hình phạt, thì tội phạm học xem nó là căn cứ để xác định vấn đề nguyên nhân và
điều kiện của tội cướp tài sản;
Thứ hai, nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản chính là làm rõ
những đặc điểm mà tội phạm học đã khái quát thành ba nhóm: tự nhiên; xã hội;
pháp lý hình sự. Hệ thống hóa các đặc điểm này đối với tội cướp tài sản trong một
đơn vị thời gian và địa bàn nhất định chính là nghiên cứu tình hình nhân thân người
phạm tội cướp tài sản. Và các đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp tài sản hoàn
toàn có thể sử dụng để phân loại nhân thân người phạm tội này;
Thứ ba, những yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân người
phạm tội cướp tài sản được nghiên cứu theo quá trình nhập tâm và xuất tâm của
hành vi phạm tội. Cách làm này vừa khả thi, vừa có tính khái quát cao.
23
Chương 2
THỰC TIỄN NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CƯỚP TÀI SẢN VÀ
NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI
CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 3
2.1. Thực tiễn nhận thức về nhân thân người phạm tội cướp tài sản
trên địa bàn Quận 3 giai đoạn từ năm 2015 - 2019
2.1.1. Tổng quan về tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3
Bảng 2.1. Tỉ lệ giữa số vụ, số bị cáo của tội cướp tài sản với tổng số vụ, số
bị cáo phạm tội hình sự trên địa bàn quận 3
Năm Tình hình tội phạm trên Tội cướp tài sản Tỉ lệ (%)
địa bàn Quận 7
Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ/số Số bị cáo/số
vụ bị cáo
2015 279 512 43 79 15,41 15,4
2016 267 423 37 69 13,86 16,03
2017 283 536 31 54 10,95 10,07
2018 253 411 28 38 11,07 9,25
2019 201 387 24 31 11,94 8,2
Tổng 1.283 2.269 163 271 12,70 11,94
(Nguồn: Số liệu thống kê của TAND Quận 3 giai đoạn 2015 - 2019)
Biểu đồ 2.1. Thông số về mức độ của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn
Quận 3 giai đoạn 2015 - 2019.
24
Thông qua số liệu thống kê trong bảng 2.1 cho thấy, trong thời gian từ ngày
01/01/2015 đến ngày 31/12/2019, trên địa bàn Quận 3 đã xảy ra 1.283 vụ phạm
pháp hình sự với 2.269 bị cáo. Riêng số vụ cướp tài sản đã xảy ra 163 vụ với 271 bị
cáo chiếm tỉ lệ 12,70 % tổng số vụ án hình sự và 11,94 % số bị cáo đã đưa ra xét
xử. Trong đó xảy ra nhiều nhất là năm 2015 với 43 vụ và 79 bị cáo, thấp nhất là
năm 2019 với 24 vụ và 31 bị cáo, trung bình mỗi năm xét xử 32,6 vụ và 54,2 bị cáo.
Để thấy tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3, ta so sánh tình hình
tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3 so với toàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn
2015 - 2019.
Bảng 2.2. Tỉ lệ số vụ, số bị cáo phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3
so với số vụ, số bị cáo phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
giai đoạn 2015 – 2019.
Năm Toàn TP.HCM Quận 3 Tỉ lệ (%)
Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo
410 678 43 79 10,48 11,65 2015
25
385 512 37 69 9,6 13,47 2016
425 621 31 54 7,29 8,7 2017
478 612 28 38 5,85 6,2 2018
433 597 24 31 5,5 5,19 2019
Tổng 2.131 3.020 163 271 7,64 8,97
(Nguồn: Số liệu thống kê của TAND các cấp giai đoạn 2015 – 2019)
Qua bảng 2.2 chúng ta thấy được tỉ lệ số vụ cướp tài sản xảy ra trên địa bàn
Quận 3 chiểm tỉ lệ không nhỏ với 7,64 % số vụ và 8,97% số bị cáo so với toàn
Thành phố (tổng số 24 Quận, huyện trên toàn Thành phố).
Bảng 2.2 cũng cho thấy số vụ phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3 có
xu hướng giảm dần qua các năm: cụ thể Năm 2016 thấp hơn năm 2015 là 6 vụ, năm
2017 thấp hơn năm 2016 là 06 vụ, năm 2018 thấp hơn năm 2017 là 3 vụ và năm
2019 thấp hơn năm 2018 là 4 vụ. Điều này cho thấy công tác phòng ngừa tình hình
tội này đã có hiệu quả.
2.1.2. Nhận thức thông qua diễn biến của tình hình tội cướp tài sản trên
địa bàn Quận 3 giai đoạn 2015 - 2019
2.1.2.1. So sánh định gốc
Phương pháp so sánh định gốc mà tác giả sử dụng được tiến hành trên cơ sở
của đơn vị thời gian, theo năm và theo giai đoạn được thể hiện thông qua bảng sau:
Bảng 2.3. Diễn biến của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3 giai
đoạn 2015 – 2019. So sánh mức độ tăng, giảm của số vụ, số bị cáo (lấy năm 2015
làm gốc 100%)
Năm Số vụ Mức độ tăng, giảm Số bị cáo Mức độ tăng giảm
hàng năm % hàng năm tỉ lệ %
43 100% 79 100% 2015
37 86,06% 69 87,34% 2016
31 72,09% 54 68,35% 2017
28 65,12% 38 48,1% 2018
24 55,81% 31 39,24% 2019
26
111 100% 202 100% 2015 – 2017
83 74,77% 123 60,89% 2017 - 2019
(Nguồn: Số liệu thống kê của TAND Quận 3 giai đoạn 2015 – 2019)
Bảng trên cho phép khẳng định xu hướng gia tăng của tội cướp tài sản được
thực hiện trên địa bàn Quận trong 05 năm qua. Cụ thể nếu lấy giai đoạn 2015 –
2019 làm định gốc thì giai đoạn 2017 – 2019 giảm về số vụ là 25,23% và 39,11% số
bị cáo. Điều này cho thấy được công tác phòng, chống tình hình tội phạm đặc biệt là
tội cướp tài sản trên địa bàn đã có hiệu quả. Tuy nhiên phương thức thủ đoạn hoạt
động của tội phạm ngày càng tinh vi, táo tợn hơn, có sử dụng vũ khí nóng xảy ra
nhiều. Tính xã hội của tội phạm ngày càng thể hiện rõ nét, thể hiện những đặc trưng
của nền kinh tế thị trường.
2.1.2.2. So sánh liên kế
Phương pháp so sánh liên kế này lấy năm sau so với năm trước liền kề để
làm rõ tỉ lệ tăng, giảm hàng năm của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3
xét về mặt lượng. Kết quả của phương pháp so sánh này được thể hiện qua bảng
2.4.
Bảng 2.4. Diễn biến của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3 giai
đoạn 2015 – 2019 trong so sánh liên kế
Năm Số vụ Mức độ tăng giảm Số bị cáo Mức độ tăng giảm
hàng năm % hàng năm %
2015 43 100% 100% 79
2016 37 86,06% (-13,94%) 87,34% (-12,66%) 69
2017 31 72,09% (-27,91%) 68,35% (-31,65%) 54
2018 28 65,12% (-37,49%) 48,1% (-51,9%) 38
2019 34 55,81% (-44,19%) 39,24% (-60,07) 31
(Nguồn: Số liệu thống kê của TAND Quận 3 giai đoạn 2015 – 2019)
Từ kết quả phương pháp so sánh liên kế năm cho thấy rõ xu hướng của tình
hình tội cướp tài sản được thực hiện trên địa bàn Quận 3 giai đoạn 2015 – 2019
giảm qua các năm. Nếu lấy số liệu năm 2015 làm con số so sánh thì năm 2015 xét
xử 43 vụ cướp tài sản; năm 2016 là 37 vụ giảm 13,94% tương tự năm 2017 là 31 vụ
27
giảm 27,91%; năm 2018 là 37,94 vụ giảm 37,49%, năm 2019 là 34 vụ giảm
44,19%.
So sánh số bị cáo cũng giảm qua các năm nếu so với năm liền kề trước đó là
năm 2015 có 79 bị cáo, thì năm 2016 giảm 12,66%; năm 2017 giảm 31,65%; năm
2018 giảm 51,9% và năm 2019 giảm 60,07%. Sự liên kết giữa các đối tượng qua
các năm được thể hiện như sau năm 2015 là 1,84%, năm 2016 là 1,86%, năm 2017
là 1,74%, năm 2018 là 1,36%; năm 2019 0,91%. Kết hợp hai phương pháp so sánh
định gốc và liên kế, cho phép rút ra nhận xét về diễn biến của tình hình tội cướp tài
sản trên địa bàn Quận 3 có xu hướng giảm qua các năm.
2.1.3. Nhận thức thông qua cơ cấu của tình hình tội cướp tài sản trên địa
bàn Quận 3
2.1.3.1. Cơ cấu theo đơn vị hành chính cấp phường
Cơ cấu theo đơn vị hành chính theo số thứ tự từ 1 đến của bảng 2.5 đồng
thời cũng là số thứ tự từ cao xuống thấp của mức độ tình hình tội cướp tài sản trên
địa bàn Quận 3 giai đoạn 2015 – 2019.
Bảng 2.5. Mức độ của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3, xét
theo yếu tố dân cư của 14 đơn vị hành chính cấp phường (số dân cư sinh sống/ bị
cáo) từ năm 2015 - 2019.
STT Đơn vị hành chính Số dân Số bị cáo Số dân/bị cáo
1 Phường 2 13.114 41 319,85
2 Phường 3 12.628 30 420,93
3 Phường 8 19.611 45 435,8
4 Phường 13 10.934,4 15 555,2
5 Phường 5 16.610 29 572,6
6 Phường 11 26.870 37 726,22
7 Phường 7 15.703 17 923,71
8 Phường 9 21.516 21 1.024,6
9 Phường 10 10.404 01 1.040,4
10 Phường 14 19.828 19 1043,6
28
11 Phường 4 23.062 5 4.612,4
12 Phường 1 13.114 2 7.208
255.470 271 942,69 Tổng cộng
(Nguồn: Số liệu thống kê của TAND Quận 3)
Qua bảng số liệu có thể thấy, tội cướp tài sản xảy ra chủ yếu ở Phường 2,
Phường 3, Phường 8, Phường 13, Phường 5. Theo số liệu thống kê của TAND Quận
3 từ năm 2015 đến 2019, số bị cáo phạm tội cướp tài sản đứng đầu quận là Phường
08 chiếm tỉ lệ 16,6%; đứng thứ 2 là Phường 2 chiếm tỉ lệ 15,12%; tiếp theo là
Phường 11 chiếm tỉ lệ 13,65%.
Bảng 2.6. Mức độ của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3, xét
theo yếu tố diện tích (m2) của 14 đơn vị hành chính cấp phường, (số bị cáo/ 1 m2),
từ năm 2015 – 2019.
STT Địa danh Tổng số bị cáo Diện tích m2 Số bị cáo/1 m2-
(1) (2) (4) (5) (3)
152.701 3.724,4 Phường 2 1 41
154.792 5.159,7 Phường 3 2 30
248.460 8.567,5 Phường 5 3 29
396.490 8.810,9 Phường 8 4 45
164.091 10.939,4 Phường 13 5 15
476.849 12.887,8 Phường 11 6 37
158.526 15.852,6 Phường 10 7 10
396.490 16.114,2 Phường 14 8 19
443.030 21.096,7 Phường 9 9 21
918.068 54.004 Phường 7 10 17
476.849 61.515,8 Phường 4 11 5
162.001 73.864,5 Phường 1 12 2
69,295 Tổng cộng 271 4.920.000
(Nguồn: Số liệu thống kê của TAND Quận 3)
29
Kết quả bảng 2.6 cho thấy mật độ tội cướp tài sản thực hiện trên địa bàn
Quận 3 cao nhất là ở Phường 2, tiếp đến là Phường 3, Phường 5, Phường 8, Phường
13, Phường 11.
Để đánh giá cấp độ nguy hiểm của tình hình tội cướp tài sản được thực hiện
trên địa bàn cần phải dùng phương pháp kết hợp hai chỉ số đã nêu. Kết quả đạt được
thể hiện ở bảng sau.
Bảng 2.7. Mức độ của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3, xét
theo yếu tố dân cư và diện tích của 14 đơn vị hành chính cấp phường, từ năm 2015
– 2019.
STT Địa danh Thứ bậc đã xét theo số Hệ số tiêu cực Cấp độ nguy
dân và diện tích hiểm
(3) (4) (5) (1) (2)
1 + 1 2 1 1 Phường 2
2 + 2 4 2 2 Phường 3
4 + 3 7 3 3 Phường 8
3 +5 8 4 4 Phường 5
5 + 4 9 5 5 Phường 13
6 + 6 12 6 6 Phường 16
7 + 9 16 7 7 Phường 10
9 + 8 17 8 8 Phường 9
10 + 7 17 8 9 Phường 7
8 + 10 18 9 10 Phường 14
11 + 11 22 10 11 Phường 4
12 + 12 24 11 12 Phường 1
(Nguồn: Số liệu thống kê của TAND Quận 3)
Bảng 2.7 cho thấy cột dọc số (4) biểu thị hệ số tiêu cực trêm cơ sở tổng số
của hai số thứ tự đã dùng để xác định ngôi thứ tự từng địa danh trên cơ sở của hai
bảng là 2.5 và 2.6. Con số ở cột dọc số (5) thể hiện cấp độ nguy hiểm được hình
thành trên cơ sở hệ số tiêu cực ở cột dọc số (4). Hệ số càng nhỏ thỉ cấp độ nguy
hiểm ngày càng lớn, căn cứ vào bảng số liệu có thể thấy được Phường 2 và Phường
30
3 có hệ số tiêu cực thấp nhất, tiếp theo là Phường 8, Phường 5, Phường 13, Phường
16… Các huyện có mức độ nguy hiểm thấp nhất là Phường 1, Phường 4, Phường
14, Phường 7.
Tình hình tội cướp tài sản ở các Phường 8, Phường 5, Phường 13, Phường
6… sỡ dĩ có cấp độ nguy hiểm cao hơn vì:
- Những Phường này tập trung một lượng lớn các cơ sở kinh tế , văn hóa,
bệnh viện, khu chợ, các tuyến đường lớn… dẫn người dân tới đây sinh hoạt, khám
chữa bệnh nhiều. Mật độ dân cư đông đúc, do đó thuận lợi cho việc thực hiện hành
vi cướp tài sản và tẩu thoát.
- Quận 3 bao gồm 14 phường với tổng số dân là 255.470 người với 46.155
hộ (số lượng dân số đứng thứ 12 trong 24 quận, huyện). Mật độ dân số 46.830
người/km2 (là quận có mật độ dân số đứng hàng thứ 4 trong 24 quận, huyện). Tỉ lệ
số dân ở diện KT2, KT3, KT4 chiến tỉ lệ 29% số hộ và 30% số nhân khẩu trong
tổng số 46.155 hộ [10]. Sự khác nhau về dân cư và mật độ dân số trên địa bàn Quận
đã tác động đến cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn.
2.1.3.2. Cơ cấu theo phương thức thực hiện tội phạm
Trong 163 bản án với 271 bị cáo phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3
giai đoan 2015 – 2019 cho thấy phương thức thực hiện của tộ cướp tài sản. Trong
163 vụ thì có 67/163 vụ đồng phạm (chiếm tỉ lệ 41,1%) và có 96/163 vụ đơn lẻ
(chiếm tỉ lệ 58,9%). Tuy nhiên xu thế phạm tội có tổ chức của tội cướp tài sản có
chiều hướng gia tăng.
Qua nghiên cứu 163 bản án của TAND Quận 3 thì có đến 119/163 vụ là có
sử dụng vũ khí (là sử dụng một trong những loại vũ khí được quy định tại khoản 1
Điều 3 Luật quản lý, sử dụng vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017) chiếm tỉ lệ
73%.
Tội cướp tài sản thường diễn ra qua 3 giai đoạn: Giai đoạn chuẩn bị, giai
đoạn gây án và giai đoạn sau khi gây án. Qua nghiên cứu 163 bản án cho thấy phần
lớn các đối tượng gây án đều có sự chuẩn bị kĩ lưỡng (có thời gian thăm dò, theo
dõi, lựa chọn thời điểm, mục tiêu thuận lợi; chuẩn bị các công cụ, phương tiện; có
sự bàn bạc, lên kế hoạch, phân công rõ trách nhiệm giữa các đối tượng trong quá
31
trình thực hiện tội phạm…, lợi dụng triệt để những sơ hở, mất cảnh giác của người
dân để tiếp cận và thực hiện hành vi phạm tội.
Phương thức, thủ đoạn của các đối tượng cướp tài sản thường sử dụng và
đang diễn ra phổ biến biến gồm:
- Các đối tượng phạm tội thường lợi dụng cửa sổ không có khung sắt hoặc
nhà mở cửa sẵn, rồi bất ngờ đột nhập công khai, dùng vũ lực, đe dọa khống chế,
chiếm đoạt tài sản.
- Đột nhập vào nhà bằng cách phá khóa, phá cửa, trèo tường sau đó
khống chế chủ nhà, người có trách nhiệm quản lý tài sản để chiếm đoạt tài sản;
- Chủ động tạo ra những lí do hợp lý để đột nhập vào nhà, như: Giả danh,
hóa trang thành nhân viên kiểm tra điện nước, truyền hình cáp… để chủ nhà, người
quản lý tài sản mất cảnh giác cho các đối tượng vào nhà rồi sau đó dùng vũ lực, đe
dọa để khống chế, chiếm đoạt tài sản.
- Do quen biết với chủ nhà rồi xin lưu trú lại, đến thời điểm thuận lợi dùng
vũ lực khống chế, chiếm đoạt tài sản.
- Vào ban đêm các đối tượng thường phục sẵn tại các đoạn đường vắng, ít
người qua lại… Khi phát hiện người dân đi qua thì chặn hoặc đuổi theo khống chế,
sau đó chiếm đoạt tài sản. Hoặc phục sẵn ở khu vực gần những nơi thường xuyên có
hoạt động giao, nhận tài sản lớn (như: ngân hàng, cửa hàng vàng bạc, đá quý… ) để
quan sát, khi phát hiện người dân mang theo nhiều tài sản đi ra từ những nơi này thì
bám theo đến địa điểm thuận lợi và thực hiện hành vi cướp tài sản.
- Đặc biệt thời gian gần đây còn xuất hiện những thủ đoạn tạo ra các tình
huống khiến người tham gia giao thông mất cảnh giác, buộc phải dừng phương tiện
như: đặt các chướng ngại vật, dây chăng vào buổi tối; dàn cảnh các vụ đánh ghen,
tai nạn giao thông… khi người điều khiển phương tiện giao thông đến gần nơi có
tình huống mà các đối tượng dàn sẵn, các đối tượng sẽ khống chế hoặc dùng thủ
đoạn khiến người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được để thực
hiện hành vi cướp tài sản. Điển hình như vụ án sau: "Khoảng 20 giờ ngày
20/01/2016, Nguyễn Thị Thảo điện thoại liên lạc với Trương Khắc Bảo, Kiều Ngọc
Lịch, Phạm Nguyễn Thanh Nhật, Đỗ Phương Minh, Chuẩn (chưa rõ lai lịch) và hai
32
đối tượng là bạn Chuẩn (chưa rõ lai lịch hẹn gặp nhau vào ngày 21/01/2016 tại khu
vực gần cầu Him Lam, Quận 7 để bàn việc dàn cảnh đụng xe nhằm chiếm đoạt tài
sản của người đi đường.
Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 21/01/2016, khi cả nhóm đến gặp Thảo và
được Thảo phân công như sau: Chuẩn đi xe máy hiệu Mio (không rõ biển số) chạy
phía trước để dàn cảnh đụng xe vào xe của người có tài sản. Nhật chạy xe máy hiệu
Luviass, biển số 59C1 – 390.42 chở Đỗ Phương Minh ngồi sau. Kiều Ngọc Lịch
chạy xe Wave biển só 66N8 – 3146 chở Thảo ngồi sau và Trương Khắc Bảo chạy
xe Max biển số 52H7 – 5292 cùng hai đối tượng (bạn Chuẩn chưa rõ lai lịch) chạy
xe phía sau để cản địa và giữ tài sản lấy được, nhắm đánh lạc hướng của bị hại và
người đia đường.
Khi cả nhóm đi đến trước số 38 đường Bàn Cờ, Phường 3, Quận 3 thì
Chuẩn phát hiện thấy ông Đỗ Đức Hải đang điều khiển xe gắn máy biển số 59X2 –
860.97 chạy phía trước, lưu thông cùng chiều. Trong túi quần có để cọc tiền nên
Chuẩn quay đầu lại nói "có hàng kìa" và điều khiển xe vượt lên, ép sát bên phải xe
của ông Hải tạo sự cố va chạm để dừng xe. Khi ông Hải đang cự cãi với Chuẩn thì
Minh lợi dụng sơ hở dùng tay móc vào túi quần bên phải lấy cọc tiền của nạn nhân.
Nhưng do phản xạ ông Hải dùng tai tay chụp giữ được tay móc tiền của Minh và
giằng lại được cọc tiền. Lúc này, Nhật tăng ga chở Minh nên ông Hải để xe của
mình ngã xuống đường và chạy theo kéo Minh ngã xuống đường gần hẻm số 114
đường Bàn Cờ, Quận 3. Còn Nhật lái xe chạy lên lề đường trước số 116 đường Bàn
Cờ, Phường 3, Quận 3. Ông Hải bị Chuẩn chạy xe đến đụng vào ông Hải và dùng
chân đạp khiến nạn nhân té ngã rồi cả nhóm bỏ chạy trốn thoát về phía Quận 1.
Ông Hải kiểm tra cọc tiền giữ lại được 26.000.000 đồng và phát hiện bị
mất số tiền 13.700.000 đồng liền đến công an phường 3, Quận 3 trình báo vụ
việc trên đã được Cơ quan điều tra điều tra, xử lí theo quy định của pháp luật"
[22] (Trích bản án HSST số 115/2017/ HS – ST ngày 19/09/2017 của TAND
Quận 3).
33
- Đóng giả là khác thuê xe công nghệ, xe ôm truyền thống, xe taxi truyền
thống… để dẫn nạn nhân đến những địa điểm vắng vẻ, ít người qua lại hoặc có
đồng bọn đợi sẵn… sau đó thực hiện hành vi cướp tài sản.
Mục đích phạm tội: Phần lớn người phạm tội cướp tài sản vì mong muốn có
tiền một cách nhanh chóng nhưng lại lười lao động để thỏa mãn nhu cầu của bản
thân như cờ bạc, games, ma túy…
2.1.3.3. Cơ cấu theo chế tài đã áp dụng
Qua nghiên cứu 163 bản án và 271 bị cáo phạm tội cướp tài sản trên địa bàn
Quận 3 giai đoạn 2015 – 2019, chế tài đã áp dụng đối với tội cướp tài sản được thể
hiện qua Bảng 2.8 như sau:
Bảng 2.8. Cơ cấu theo chế tài đã áp dụng.
STT Chế tài Số bị cáo Tỉ lệ
1 Cải tạo không giam giữ 40 14,76%
2 Án treo 31 11,44%
3 Từ 5 năm trở xuống 121 44,65%
4 Từ 5 đến 12 năm 59 21,77%
5 Từ 12 đến 20 năm 20 7,38%
Tổng 271 100%
(Nguồn: Số liệu thống kê của TAND Quận 3)
Qua bảng trên cho thấy tính phức tạp của tình hình tội cướp tài sản trên địa
bàn Quận 3 trong thời gian qua là rất nguy hiểm cho xã hội và được thể hiện bằng
những hình phạt nghiêm minh mà pháp luật đã quy định đối với hành vi phạm tội
cướp tài sản trong BLHS hiện hành.
2.1.3.4. Cơ cấu theo tình huống - điều kiện phạm tội
Qua nghiên cứu 163 vụ án với 271 bị cáo phạm tội cướp tài sản trên địa bàn
Quận 3 giai đoạn 2015 - 2019 cho thấy số vụ mà tài sản có biện pháp bảo vệ và
trông giữ chiếm 63/163 vụ với tỉ lệ 38,65% và số vụ mà tài sản không có biện pháp
bảo vệ trông giữ là 100/163 vụ với tỉ lệ 61,35%.
Thống kê những vụ cướp tài sản trên địa bàn Quận 3 giai đoạn 2015 – 2019,
phần lớn các tội phạm xảy ra xuất phát từ phía bị hại lơ là, mất cảnh giác trong việc
34
quản lí, bảo vệ tài sản, có thái độ thờ ơ, chủ quan; sau khi hành vi phạm tội xảy ra
thì lo sợ, e ngại, chậm thông báo cho các cơ quan chức năng.
2.1.4. Nhận thức thông qua tính chất của tình hình tội cướp tài sản tại
Quận 3 giai đoạn 2015 – 2019
Tính chất của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3 giai đoạn 2015
- 2019 được thể hiện thông qua mức độ nguy hiểm, mức độ nghiêm trọng khác nhau
của tình hình tội cướp tài sản ở từng giai đoạn và không gian khác nhau thông qua tỉ
lệ của các thành phần và thông qua tương quan tạo nên cơ cấu của tình hình tội
cướp tài sản.
Tính chất của tình hình tội cướp tài sản được thể hiện thông qua tính chất
phức tạp, nguy hiểm, phương thức thực hiện tội phạm. Đối tượng thực hiện hành vi
cướp tài sản dựa trên sơ hở của người quản lí tài sản, công tác Quản lí nhà nước,
những điều kiện, tình huống thuận lợi do người khác đem lại…
Trong những năm qua tình hình tội phạm cướp tài sản trên địa bàn Quận 3
có xu hướng giảm nhưng với tính chất, mức độ nguy hiểm hơn gây tâm lí hoang
mang lo sợ cho người dân.
2.2. Thực tiễn các đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên
địa bàn Quận 3 giai đoạn 2015 đến 2019
Để làm rõ các đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn
Quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 - 2019 tác giả nghiên cứu 100 bản
án với 167 bị cáo phạm tội cướp tài sản trên địa bàn.
2.2.1. Các đặc điểm sinh học
2.2.1.1 Cơ cấu theo giới tính nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên
địa bàn quận 3 (2015 - 2019)
Bảng 2.9. Cơ cấu theo giới tính của nhân thân người phạm tội cướp tài sản
trên địa bàn Quận 3 giai đoạn 2015 - 2019
Giới tính Số người Tỉ lệ (%)
Nam 37 22,16
Nữ 130 77,84%
Tổng cộng 167 100%
35
(Nguồn: 100 bản án HSTT về tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3)
Qua nghiên cứu 100 ản án HSTT về tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3
cho thấy nam giới phạm tội cướp tài sản chiếm tỉ lệ khá cao với 130/167 bị cáo
chiếm tỉ lệ 77,84% và nữ giới chiếm tỉ lệ thấp với 37/167 bị cáo chiếm tỉ lệ 22,16%.
Tuy nhiên, trong thời gian qua tỉ lệ nữ giới phạm tội cướp tài sản có xu hướng gia
tăng nguyên nhân chủ yếu do mặt trái của nền kinh tế thị trường, lao động nữ ở các
tỉnh khác đến làm ăn, học tập lao động sinh sống dễ tiếp xúc với các tệ nạn xã hội
và dẫn đến con đường phạm tội.
2.2.1.2. Cơ cấu theo độ tuổi
Xét theo cơ cấu độ tuổi qua nghiên cứu 100 bản HSST về tội cướp tài sản
trên địa bàn Quận 3 cho thấy mối quan hệ giữa độ tuổi và tỉ lệ tội phạm cướp tài sản
trên địa bàn Quận giai đoạn 2015 - 2019 theo từng độ tuổi nhất định.
Bảng 2.10. Cơ cấu theo độ tuổi nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên
địa bàn Quận 3 (2015 - 2019)
Tuổi của bị cáo Số bị cáo Tỉ lệ (%)
Từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi 33 19,76%
Từ đủ 18 đến dưới 30 tuổi 90 53,89%
Từ đủ 30 đến dưới 45 tuổi 17 10,18%
Nhóm trên 45 tuổi 27 16,17%
Tổng cộng 167 100%
(Nguồn: 100 bản án HSST của TAND Quận 3)
Qua bảng thống kê cho thấy độ tuổi từ đủ 18 tuổi đến dưới 30 tuổi phạm tội
cướp tài sản chiếm tỉ lệ cao chất 53,89% (90/167), tiếp theo là nhóm từ đủ 14 tuổi
đến dưới 18 tuổi chiếm tỉ lệ 19,76% (33/167) cho thấy tình hình tội cướp tài sản
đang có xu hướng trẻ hóa. Tỉ lệ phạm tội ở hai nhóm này cao vì đây là nhóm người
chưa tích lũy được kinh nghiệm sống, công ăn việc làm còn bị bấp bênh dễ bị lôi
kéo, dễ chán nản, khả năng kiềm chế thấp nên dễ thực hiện hành vi phạm tội.
2.2.1.3. Cơ cấu theo dân tộc
Bảng 2.11. Cơ cấu theo dân tộc nhân thân người phạm tội cướp tài sản
trên địa bàn Quận 3 (giai đoạn 2015 - 2019)
36
Dân tộc Số bị cáo Tỉ lệ (%)
Kinh 139 83,23%
Hoa 11 6,59%
Chăm 05 2,9%
Khơ me 03 1,8%
Khác 9 5,48
Tổng 167 100%
(Nguồn: 100 bản án HSST của TAND Quận 3)
Qua nghiên cứu các bản án, số bị cáo phạm tội cướp tài sản chiếm tỉ lệ cao
nhất là dân tộc Kinh với 139/167 bị cáo chiểm tỉ lê 83,23% điều này phù hợp với
quá trình phát triển của tội pham, vì địa bàn Quận 3 tập trung chủ yếu là người Kinh
với 95.43% dân số trên địa bàn Quận [10]. Tuy nhiên, qua bảng cũng cho thấy số
người phạm tội cướp tài sản là dân tộc ít người khác cho thấy ảnh hưởng của quá
trình đô thị hóa đến việc hình thành nhân thân người phạm tội.
2.2.1.4. Cơ cấu theo nơi cư trú
Qua nghiên cứu nhân thân của 167 bị cáo phạm tội cướp tài sản trên địa
bàm Quận 3 cho thấy đa phần các bị cáo có nơi cư trú không ổn định với 127/167 bị
cáo chiếm tỉ lệ 76,04% sinh sống tại các khu vực nhà trọ, khu có tình hình an ninh
trật tự phức tạp, khu vực đông dân cư... Cho thấy yếu tố nơi cư trú cũng tác động
đến việc phát sinh hành vi phạm tội.
2.2.2. Các đặc điểm xã hội
2.2.2.1. Cơ cấu theo trình độ học vấn
Bảng 2.12. Cơ cấu theo trình độ học vấn của nhân thân người phạm tội
cướp tài sản trên địa bàn Quận 3 (2015 – 2019)
STT Trình độ học vấn Số bị cáo Tỉ lệ (%)
Mù chữ và tiều học 1 59,28 99
THCS 2 22,75 38
THPT 3 10,79 18
Cao đẳng và đại học 4 7,18 12
37
Tổng 167 100
(Nguồn: 100 bản án HSST của TAND Quận 3)
Qua số liệu thống kê cho thấy số người phạm tội cướp tài sản có trình độ
học vấn mù chữ và tiểu học chiếm tỉ lệ cao 59,28%, tiếp đến là Trung học cơ sở với
22,75%. Trình độ học vấn thấp nên nhận thức và hiểu biết xã hội, kiến thức pháp
luật hạn chế, dẫn đến việc coi thường, bất chấp. Do vậy, có thể kết luận trình độ học
vấn ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức và hành vi phạm tội.
2.2.2.2. Cơ cấu theo nghề nghiệp
Bảng 2.13. Cơ cấu theo nghề nghiệp của nhân thân người phạm tội cướp
tài sản trên địa bàn Quận 3 (2015 - 2019)
STT Nghề nghiệp Số bị cáo Tỉ lệ (%)
1 Học sinh, sinh viên 16 9,58
2 Không nghề nghiệp 98 58,68
3 Nghề nghiệp không ổn định 47 28,14
4 Nghề nghiệp ổn định 6 13,18
Tổng cộng 167 100
(Nguồn: 100 bản án HSST của TAND Quận 3)
Theo thống kê số bị cáo không nghề nghiệp với 98/167 bị cáo chiếm tỉ lệ
58,68%, số bị cáo có nghề nghiệp không ổn định với 47/167 bị cáo chiếm tỉ lệ
28,14% . Đa số người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Quận chủ yếu không có
nghề nghiệp và lao động tự do cho thấy sự phát triển của kinh tế, xã hội tác động
đến thành phần xã hội do tâm lí ham chơi, thích hưởng thụ, lười lao động, chán nản
do không có việc lamg, thu nhập bấp bênh... Các đối tượng đã bất chấp vẫn phạm
tội cướp tài sản với hình thức hoạt động đa dạng, manh động và liều lĩnh.
2.2.2.3. Cơ cấu theo tôn giáo, tín ngưỡng
Nghiên cứu nhân thân của 167 bị cáo phạm tội cướp tài sản trên địa bàn
Quận cho thấy số bị cáo phạm tội không theo tôn giáo là 123/167 bị cáo chiếm ti lệ
73,65%, còn lại là số bị cáo theo các tôn giáo khác như Công giáo, Đạo Phật, Cao
Đài...
2.2.2.4. Cơ cấu theo hoạt động xã hội
38
Qua thống kê 167 bị cáo phạm tội cướp tài sản số bị cáo phạm tội cướp tài
sản là Đảng viên 0 có bị cáo nào, số bị cáo phạm tội là đoàn viên với 28/167 bị cáo
chiếm tỉ lệ 16,77%; số bị cáo là hội viên với 11/167 bị cáo chiếm tỉ lệ 6,59%.
2.2.2.5. Cơ cấu theo sở thích
Qua nghiên cứu 100 bản án HSST với 167 bị cáo phạm tội cướp tài sản trên
địa bàn quận, phân loại theo sở thích của các bị cáo như sau:
- Nghiện games với 74/176 bị cáo chiếm tỉ lệ 42,04%;
- Nghiện ma túy với 35/176 bị cáo chiếm tỉ lệ 19,89%;
- Nghiện rượu 28/176 bị cáo chiếm tỉ lệ 15,9%;
- Tham gia cờ bạc, cá độ 17/176 bị cáo chiếm tỉ lệ 9,65%;
- Có sở thích khác 10/176 chiếm ti lệ 5,68%
2.2.2.6 . Cơ cấu theo khuynh hướng giá trị (lối sống)
Qua nghiên cứu 100 bản án với 167 bị cáo phạm tội cướp tài sản trên địa
bàn Quận 3, thấy được:
- Số bị cáo ăn chơi, thích hưởng thụ, có lối sống gấp với 89/176 bị cáo
chiếm tỉ lệ 50,57%;
- Số bị cáo thích sử dụng bạo lực với 65/176 bị cáo chiếm tỉ lệ 36,93%;
- Số bị cáo coi trọng giá trị đồng tiền 13/176 bị cáo chiếm tỉ lệ 12,37%
2.2.2.7. Cơ cấu theo hoàn cảnh gia đình
Theo nghiên cứu hoàn cảnh gia đình của 163 vụ cướp tài sản trên địa bàn
Quận với 271 bị cáo trên địa bàn Quận giai đoạn 2015 - 2019 có: 59% số bị cáo
sống trong gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, 57% số bị cáo sống trong gia
đình đông con (3 anh chị em trở lên).
Ta có thể thấy rằng những bị cáo sống trong gia đình đông con, gia đình có
hoàn cảnh kinh tế khó khăn cha mẹ vì mải mê kiếm tiền gồng gánh gia đình nên ít
được quan tâm, chăm sóc là một trong những nhân tố tiêu cực góp phần đẩy họ sa
vào con đường phạm tội.
Nghiên cứu 100 bản án HSST với 167 bị cáo phạm tội cướp tài sản cho thấy
có: 43 bị cáo sống trong gia đình không hoàn thiện chiếm tỉ lệ 25,74%; 39 bị cáo
sống trong gia đình có người thân vi phạm pháp luật chiếm tỉ lệ 23,35%; 15 bị cáo
39
sống trong gia đình không hòa thuận chiếm tỉ lệ 8,89%; 22 bị cáo sống trong gia
đình quá nuông chiều con cái chiếm tỉ lệ 13,17%.
2.2.2.8. Cơ cấu theo tình trạng hôn nhân
Qua nghiên cứu nhân thân của 167 bị cáo trong 100 bản án HSST về tội
cướp tài sản trên địa bàn Quận 3 số bị cáo chưa có gia đình phạm tội là 145/167 bị
cáo chiếm tỉ lệ 86,82%. Số người chưa lập gia đình phạm tội chiếm tỉ lệ cao như
vậy vì họ chưa phải gắn với trách nhiệm gia đình nên dễ sa ngã.
2.2.3. Các đặc điểm của hành vi phạm tội cướp tài sản
2.2.3.1. Số có tiền sự (vi phạm hành chính chưa được xóa án tích)
Qua nghiên cứu 100 bản án với 167 bị cáo phạm tội cướp tài sản giai đoạn
2015 - 2019 cho thấy số bị cáo có tiền sự chiếm tỉ lệ 21,34%. Số bị cáo có tiền sự
chiếm tỉ lệ cao như vậy đặt ra vấn đề đối với công tác giáo, dục cải tạo người phạm
tội còn nhiều thiếu sót.
2.2.3.2. Số phạm tội lần đầu và tái phạm
Trong số 167 bị cáo phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3 giai đoạn
2015 – 2019 có số bị cáo phạm tội lần đầu là 47,24%; số tái phạm, tái phạm nguy
hiểm là 52,76%. Điển hình như trong bản án 115/2017/HSST ngày 19/09/2017: 05
bị cáo là Nguyễn Thị Thảo, Kiều Ngọc Lịch, Đỗ Phương Minh, Phạm Nguyễn
Thanh Nhật, Trương Khắc Bảo thì có các đối tượng Thảo có 01 tiền án về tội
“Cướp tài sản”, Kiều Ngọc Lịch có 1 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma
túy”, Trương Khắc Bảo có 03 tiền án (02 về tội “trộm cắp tài sản” và 01 về tội
“Tàng trữ trái phép chất ma túy” [22]. Như vậy, việc xác định số bị cáo phạm tội lần
đầu và số bị cáo tái phạm, tái phạm nguy hiểm là hết sức quan trọng giúp cơ quan
chức năng có thể đề ra biện pháp cải tạo, giáo dục phù hợp.
2.2.3.2. Động cơ phạm tội
Qua nghiên cứu 100 bản án với 167 bị cáo phạm tội cướp tài sản trên địa
bàn Quận 3 giai đoạn 2015 – 2019 được phân loại theo động cơ như sau: 112/167 bị
cáo phạm tội nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân chiếm tỉ lệ 67,07%; 5/167 bị cáo
phạm tội vì nợ nần chiếm tỉ lệ 2,99%; 10/167 bị cáo phạm tội vì gia đình khó khăn
chiếm tỉ lệ 5,98%; 9/167 bị cáo phạm tội vì động cơ trả thù chiếm tỉ lệ 5,38%;
40
17/167 bị cáo phạm tội vì ng cơ đê hèn chiếm tỉ lệ 10,17%; 14/167 bị cáo phạm tội
vì thích thể hiện bàn thân chiếm tỉ lệ 8,41%.
2.2.3.3. Phương thức thực hiện tội phạm
- Có 63% số bị cáo phạm tội chuẩn bị trước và 37% không chuẩn bị.
- Có 69,03% số bị cáo phạm tội có hành vi che giấu phạm tội chiếm tỉ lệ
30,97%.
- Số bị cáo có chuẩn bị công cụ, phương tiện gây án chiếm tỉ lệ 93%.
- 59% số bị cáo phạm tội ở các địa điểm vắng người.
2.2.3.5. Cơ cấu theo địa bàn phạm tội
Qua nghiên cứu 100 bản án trên địa bàn Quận 3 cho thấy các đối tượng
phạm tội ở những đoạn đường vắng ít người qua lại chiếm tỉ lệ 34% số vụ; ở những
khu vực thường xuyên có giao nhận tài sản lớn chiếm tỉ lệ 43% số vụ, và những khu
vực khác chiếm tỉ lệ 33% số vụ.
2.3. Thực tiễn các yếu tố tác động đến nhân thân người phạm tội cướp
tài sản trên địa bàn Quận 3
2.3.1. Những yếu tố tác động đến quá trình tương tác nhập tâm
2.3.1.1. Những yếu tố khách quan
a) Môi trường gia đình
- Gia đình không hoàn thiện
Như đã nghiên cứu ở mục 2.2.2.7, trong 100 bản án HSST với 167 bị cáo
phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Quận giai đoạn 2015 - 2019 có 43/167 bị cáo
sống trong gia đình không hoàn thiện chiếm tỉ lệ 25,74%. Sống trong một cuộc sống
có gia đình không hoàn thiện cha mẹ sẽ không theo sát, uốn nắn và kiểm soát được
sự phát triển của con cái. Những đứa trẻ sống trong gia đình này sẽ dễ mất cân đối
trong quá trình phát triển tâm lý. Hệ quả thường thấy là tính cách con người trở nên
hung hăng, hiếu chiến hoặc rụt rè thiếu tự tin trong cuộc sống.
- Gia đình quá nuông chiều con cái
Qua nghiên cứu 100 bản án HSST với 167 bị cáo phạm tội cướp tài sản trên
địa bàn Quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 - 2019 có 22/176 sống
trong gia đình mà cha mẹ quá nuông chiều con cái. Điển hình như trong bản án
41
HSST số 74/2017/HS – ST ngày 16/06/2017 của TAND Quận 3 có các bị cáo Đinh
Nguyễn Thiên Ân (SN: 1998), Đinh Tất Thắng (SN: 1991), Phạm Minh Chiến (SN:
1997) phạm tội “Cướp tài sản”. Trong đó bị cáo Thắng và Ân là hai anh em trong
cùng một gia đình khá giả. Chính vì cha mẹ của các bị cáo quá nuông chiều nên con
cái hình thành tính ích kỉ, dựa dẫm, lười nhác thậm chí chu cấp tiền để con nhậu
nhẹt, cờ bạc, cá độ bóng dá dẫn đến nợ nần một số tiền rất lớn. Đến khi gia đình
không chu cấp nổi cho lối sống ấy thì các bị cáo đã thực hiện hành vi cướp tài sản là
chiếc xe gắn máy của Lê Điền Cẩm là chủ tiệm cầm đồ. [22]
- Gia đình có cuộc sống không hòa thuận, xuất hiện những hành vi bạo lực
gia đình
Nghiên cứu 100 bản án với 167 bị cáo phạm tội cướp tài sản trên địa bàn
Quận 3 có 15/167 bị cáo sống trong gia đình không hòa thuận, thường xuyên cãi
chửi đánh nhau. Như bản án số 56/2018/HSST ngày 15/05/2018 có bị cáo Hồ
Hoàng Nam (SN:1990) bị cáo sống trong một gia đình có cha nghiện rượu thường
xuyên đánh đập mẹ, bị cáo và các em. Mẹ bị cáo lại phải thường xuyên bán hàng
ngoài chợ nên không có thời gian quan tâm chăm sóc các con. Chán nản nên bị cáo
bỏ nhà đi lang thang, tụ tập và bị lôi kéo bởi Nguyễn Hữu Phúc (SN: 1993), Nguyễn
Hải Châu (SN: 1990) cướp tài sản là chiếc xe gắn máy của chị Nguyễn Thị Mỹ
Châu và bán chiếc xe trên để lấy tiền tiêu xài cá nhân. [22]
- Gia đình có người vi phạm pháp luật
Theo cơ cấu trong tình hình tội cướp tài sản qua nghiên cứu 100 bản án
HSST với 167 bị cáo phạm tội cướp tài sản. Có 23/167 bị cáo sống trong gia đình
có người vi phạm pháp luật chiếm tỉ lệ 13,77%. Ví dụ: Vụ cướp tài sản do Ngô Hữu
Minh (SN: 1996) và Nguyễn Minh Nhật (SN: 1992) thực hiện. Trong vụ án này bị
cáo Ngô Hữu Minh có cha có tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, Bị cáo
Nhựt có mẹ có tiền án về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bản thân các đối tượng
này không có sự quan tâm, chăm sóc từ gia đình bị ảnh hưởng bởi lối sống coi
thường pháp luật của các thành viên trong gia đình nên sa vào nghiện ma túy,
nghiện games...Vì không có tiền để sử dụng ma túy nên các đối tượng sử dụng dao
42
khống chế cướp tài sản của những người đi đường ở nơi vắng vẻ [22]. (Trích bản án
số 74/2018/ HSST ngày 12/03/2018 của TAND Quận 3)
b) Môi trường nhà trường
Hiện nay những sự việc đáng tiếc liên quan tới đạo đức học đường liên tục
xảy ra trong môi trường nhà trường thực sự đang là điểm nóng gây bức xúc trong
dư luận xã hội. Khi truyền thống “tôn sư trọng đạo” có dấu hiệu bị xem nhẹ, môi
trường giáo dục, kỷ cương Nhà trường bị xâm phạm.. có ảnh hưởng không nhỏ đến
việc hình thành những đặc điểm nhân thân tiêu cực Qua khảo sát có thể thấy một số
tiêu cực nổi lên trên địa bàn Quận giai đoạn này cụ thể như sau:
- Gia đình quá nuông chiều con cái, mù quáng, luôn tin vào con không có
sự hợp tác với nhà trường khiến học sinh thiếu sự tôn trọng thầy cô. Ở gia đình một
số phụ huynh không quan tâm giáo dục con em mình, mải mê tập trung kiếm tiền,
phát triển kinh tế, bỏ mặc, khoán trắng việc giáo dục con trẻ cho Nhà trường. Về
phía nhà trường, giáo viên chỉ gặp gỡ phụ huynh học sinh trong các buổi họp phụ
huynh, thậm chí phụ huynh còn không trao đổi nhiều với cô giáo về vấn đề của con
mình, giáo viên đến thăm tìm hiểu về học sinh rất ít... Chính do sự phối kết hợp
không chặt chẽ này mà đẫn dến nhiều học sinh, sinh viên bỏ học, trốn học, tụ tập
bạn bè xấu... nhưng không được giáo dục uốn nắn kịp thời dẫn đến dễ phát sinh
hành vi phạm tội trong đó có cướp tài sản.
- Nhà trường chỉ chú trọng dạy lí thuyết mà chưa thực sự quan tâm đến vẫn
đề giáo dục kĩ nắng sống và kiến thức pháp luật, đạo đức cho học sinh, sinh viên.
Trong thực tế khi xây dựng chương trình dạy học, nội dung dạy học trên lớp, giáo
viên đều phải xây dựng 3 mục tiêu: cung cấp kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình
thành thái độ. Tuy nhiên, có thể nói rằng do dạy học chạy theo thời gian, phải
chuyển tải nhiều nội dung trong khi thời gian có hạn, giáo viên có khuynh hướng
tập trung kiến thức mà ít quan tâm đến rèn luyện kĩ năng cho học sinh, nhất là kĩ
năng ứng xử xã hội, ứng phó và hòa nhập với cuộc sống. Điều này dẫn tới việc học
sinh ứng xử không phù hợp trong xã hội, sự ứng phó hạn chế với các tình huống
trong cuộc sống: ứng xử thiếu văn hóa trong giao tiếp công cộng; thiếu lễ độ với
43
thầy cô giáo, cha mẹ và người lớn tuổi, coi thường pháp luật... và dẫn đến hành vi
phạm tội.
- Đạo đức nhà giáo xuống cấp, thầy cô giáo chưa thực sự là tấm gương để
các em học sinh noi theo. Dưới tác động của mặt trái của nền kinh tế thị trường biểu
hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức của nhà giáo là muôn hình vạn trạng có nhiều
vụ việc nhà giáo vi phạm đạo đức tạo nên bức xúc trong xã hội. Hình ảnh nhà giáo
bị xấu đi một phần không nhỏ làm phai dần truyền thống “Tôn sư trọng đạo” điều
này sẽ dẫn tới học sinh có tâm lý chán nản, bỏ học.
c) Môi trường nhóm (bạn bè, nơi làm việc, cư trú)
Qua nghiên cứu 100 bản án HSST với 167 bị cáo phạm tội cướp tài sản trên
địa bàn Quận 3 cho thấy phần lớn những đối tượng thường xuyên tụ tập chơi bời
lêu lổng, bỏ nhà đi lang thang, sống buông thả, bầy đàn, quan hệ nam nữ phức tạp...
Con đường phạm tội bắt đầu từ việc thiếu tiền ăn chơi đua đòi, cờ bạc nên đã có
hành vi cướp tài sản. Điển hình như vụ án sau: Nguyễn Hoàng Huy (SN: 2001);
Nguyễn Hữu Lai (SN: 2002); Phạm Thế Anh (SN: 2002) là học sinh lớp 10, 11 ở
một trường THPT trên địa bàn Quận. Các đối tượng này do thiếu tiền chơi games
nên vào ngày 16/04/2018 bàn bạc và đã chặn đường, dùng dao uy hiếp và đánh 2
em học sinh cùng trường để lấy số tiền là 300.000 đồng và 01 chiếc xe đạp mi ni
nhật [22]. (Trích bản án HSST số 18/2018 ngày 21/12/2018 của TAND Quận 3).
d) Yếu tố thuộc môi trường xã hội vĩ mô
- Do tồn tại xã hội
Hiện nay, nền kinh thế thị trường đã tạo nên những vấn đề tâm lý – xã hội
có tác động lớn đến con người nói chung và tâm lý xã hội nói riêng. Tâm lý tư hữu,
thói tham lam, ích kỉ, vô tổ chức, coi thường pháp luật vốn là bạn đồng hành của
nền sản xuất nhỏ, khi bước vào nền kinh tế thị trường chúng lại có điều kiện để phát
triển. Bản chất của nền kinh tế thị trường là cạnh tranh và tìm kiếm lợi nhuận. Cùng
với sức kích thích của lợi nhuận, tâm lý coi trọng vật chất đề cao hóa đồng tiền càng
ngự trị trong đời sống xã hội. Có nhiều người làm giàu bằng mọi giá, bất chấp pháp
luật dẫn đến phạm tội là tất yếu. Tác động của nền kinh tế thị trường đã làm xuống
cấp nhiều mặt về đạo đức, văn hóa, lối sống làm mất đi giá trị truyền thống của dân
44
tộc. Mặt trái của nền kinh tế thị trường khiến thiết chế xã hội quá chú trọng dùng
yếu tố pháp luật (bao trùm những cái chung mang tính cưỡng chế) để điều chỉnh
những hành vi, các hiện tượng tiêu cực mà ít quan tâm sử dụng những quy phạm xã
hội như quy phạm về đạo đức, phong tục tập quán, tôn giáo. Nhiều minh chứng
những vụ cướp tài sản xảy ra do ý thức đạo đức kém, thái độ xử sự không đúng,
thiếu chuẩn mực trong xã hội.
Hậu quả của chế độ thực dân, đế quốc cùng với chiến tranh kéo dài nhiều
năm đã phá hoại cơ sở vật chất, hình thành lối sống hưởng thụ, tư tưởng tham lam,
ích kỉ, sa đọa, trụy lạc trong một bộ phận nhân dân. Tư tưởng trọng nam khinh nữ
vẫn còn tồn tại tác động vào đời sống xã hội làm nảy sinh các hiện tượng tiêu cực
trong đó có tội phạm.
- Hạn chế trong công tác quản lí nhà nước
Bước vào thời kì đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tạo mọi điều
kiện để phát triển trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, dân sự... Tuy nhiên trong thực
tế công tác này vẫn còn những hạn chế, thiếu sót như sau:
Đối với lĩnh vực chính trị: Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương
giải pháp về phòng, chống tội phạm như Nghị quyết số 09/NQ – CP của Chính Phủ
và Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm (1988 – 2010) của Ban chỉ đạo
138/CP, Nghị quyết số 49 – NQ – TW ngày 02/06/2005 "Về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020" (sau đây gọi tắt là Chiến lược cải cách tư pháp) là một nội
dung quan trọng trong đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng.
Ở các địa phương trong đó có Quận 3, của Thành phố Hồ Chí Minh đã triển
khai và giám sát thực hiện các Nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban chấp hành
Trung ương, Quốc hội, Chính phủ về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Việc xây dựng và nhân rộng mô hình phòng, chống tội phạm trong phong trào
“Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” được phát huy và có hiệu quả mạnh mẽ. Nhiều
mô hình về an ninh trật tự, phòng chống tội phạm ở địa bàn dân cư đươc xây dựng
như “Khu dân cư an toàn lành mạnh”, “Tiếng kẻng an ninh”, “Câu lạc bộ phòng,
chống tội phạm”... Thông qua mô hình đã phát huy vai trò tự quản của nhân dân
trên địa bàn Quận. Mô hình “Cảm hóa, giáo dục người lầm lỗi tại gia đình và cộng
45
đồng dân cư” được triển khai và huy động sức mạnh của toàn dân trong công tác
phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, công tác quản lí Nhà nước trên địa bàn Quận
vẫn còn những tồn tại, hạn chế chưa theo kịp với sự phát triển của nền kinh tế. Công
tác quản lí nhân hộ khẩu, quản lí cư trú vẫn còn sơ hở tạp điều kiện để các đối tượng
lợi dụng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Sự phối hợp của các Cơ quan Điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án còn thiếu chặt chẽ, các ngành các cấp trên địa bàn Quận
chưa nhận thức đúng đắn và làm hết trách nhiệm của bản thân trong công tác phòng,
chống tội phạm mà coi đó là trách nhiệm chủ yếu của ngành Công an. Hoạt động
giáo dục tại phường của Quận vẫn còn buông lỏng quản lí, giám sát đối tượng.
Đối với lĩnh vực kinh tế: Theo báo cáo thống kê của UBND Quận 3 trong
năm 2018, tổng doanh thu bán hàng hóa và dịch vụ ước thực hiện năm 2018 đạt
227.591, tăng 15,84% so với cùng kỳ năm trước. Quận đã thực hiện nhiều giải pháp
như chủ trương chuyển đổi mô hình quản lý chợ trên địa bàn Quận; thành lập mới
3.675 doanh nghiệp; triển khai; Quận tiếp tục duy trì hiệu quả Chương trình kết nối
ngân hàng và doanh nghiệp; sắp xếp kiểm tra việc buôn bán hàng rong; tập trung
nguồn lực tăng cường công tác kiểm tra thuế, chống thất thu, chống buôn lậu, gian
lận thương mại, hàng giả, thu hồi kịp thời số tiền phát hiện qua thanh tra, kiểm tra
vào ngân sách; đôn đốc, xử lý các doanh nghiệp nợ đọng thuế [47].
Tuy nhiên, trên lĩnh vực kinh tế còn một số tồn tại, hạn chế: Quản lí nhà
nước chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, vừa chưa phát huy
đúng mặt tích cực, vừa chưa hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Một mặt do
cơ chế quản lý, việc phân công phân cấp và các chính sách quản lý đối với các
thành phần kinh tế chưa cụ thể, rõ ràng, nhưng mặt khác do năng lực và nhận thức
sai lệch trong phương pháp, biện pháp quản lý, vai trò của nhà nước trong quản lý
doanh nghiệp dẫn đến sự phá sản của một số doanh nghiệp. Hiện nay, phát triển
kinh tế của Quận vẫn còn mang tính tự phát, kinh tế quốc doanh đang trong giai
đoạn củng cố, sắp xếp lại nên chưa phát huy hiệu quả, kinh tế. Việc chấp hành các
quy định quản lí của nhà nước ở các hộ kinh doanh vẫn chưa nghiêm, chưa triệt để.
Tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế… vẫn chưa có biện pháp quản
lý chặt chẽ
46
Thực tế cho thấy những năm qua, địa bàn Quận 3 chưa thực hiện tốt một số
chính sách, giải pháp trong quá trình phát triển kinh tế, nhất là chính sách xóa đói
giảm nghèo, chưa giãn được khoảng cách giàu nghèo, tỉ lệ sinh viên ra trường có
việc làm vẫn chưa cao, số cử nhân ra trường làm trái ngành trái nghề vẫn còn nhiều,
chính sách hỗ trợ vay vốn cho người có hoàn cảnh khó khăn vẫn chưa có hiệu quả.
Nghiên cứu cơ cấu nghề nghiệp qua 100 bản án HSST với 167 bị cáo phạm tội cướp
tài sản trên địa bàn Quận 3 ở mục 2.2.2.2 có 98/167 bị cáo không nghề nghiệp
chiếm tỉ lệ 58,68%, 47/167 chiếm tỉ lệ 28,14% bị cáo phạm tội có nghề nghiệp
không ổn định đây là nguyên nhân dẫn đến con đường phạm tội cướp tài sản.
Đối với lĩnh vực văn hóa, công tác quản lý nhà nước về văn hóa được chú
trọng, bên cạnh công tác thông tin tuyên truyền, giáo dục nhận thức thẩm mỹ, phê
phán các hiện tượng tiêu cực, công tác kiểm tra xử lý các vụ việc vi phạm, bài trừ
văn hóa phẩm đồi trụy, phản động, tệ nạn xã hội… được tiến hành thường xuyên.
Tuy nhiên tình trạng bày bán, cho thuê sách báo, băng hình, đĩa nhạc, đĩa hình…
ngoài luồng, nhảm nhí vẫn tiếp tục tái hiện, chưa có biện pháp xử lý triệt để, tận
gốc. Các tệ nạn xã hội vẫn lén lút diễn ra trong các hoạt động kinh doanh ăn uống,
khách sạn, nhà hàng... Từ đó, tác động tiêu cực đến lối sống của người dân. Mặt trái
của nền kinh tế thị trường đã tác động tiêu cực tới lĩnh vực văn hóa, làm xuất hiện
trong xã hội xu hướng thương mại hóa, tư nhân hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích trong
hoạt động văn hóa, văn nghệ. Xuất hiện một số tác phẩm văn hóa, các bài báo,
những ấn phẩm văn hóa có nội dung nhạy cảm về chính trị, thậm chí trái với quan
điểm, chủ trương của Đảng; nhiều tác phẩm có nội dung khiêu dâm, đồi trụy, kích
động bạo lực, trái với thuần phong mỹ tục dân tộc làm tha hóa lớp trẻ, băng hoại
đạo đức xã hội. Những tác động tiêu cực trong lĩnh vực văn hóa làm một bộ phận
con người xa rời truyền thống, lịch sử, văn hóa của dân tộc. Không ít giới trẻ đang
ngày đêm bị cuốn vào các trò chơi điện tử, oline mang nặng tính bạo lực, ảnh hưởng
lớn tới sức khỏe, thời gian học tập.
Đối với lĩnh vực xã hội, trong những năm qua công tác đăng ký quản lý cư
trú chưa thực hiện, hỗ trợ đắc lực cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Công tác nắm tình hình, nắm di biến động của nhân khẩu tạm trú của lực lượng
47
công an Phường còn thiếu nhạy biến, chưa đi vào chiều sâu, thu thập thông tin ít,
chất lượng còn hạn chế. Lực lượng làm công tác này mới chỉ nắm được những vấn
đề nổi, chưa đi sâu để nắm nội dung về hoạt động, quan hệ, nghề nghiệp… của từng
nhân khẩu đến tạm trú trên địa bàn dẫn đến tội phạm và tệ nạn xã hội đã tìm cách
lợi dụng những sơ hở trong công tác quản lí cư trú và công tác quản lí tạm trú để
phạm tội. Sự hình thành nhiều khu công nghiệp, các trung tâm dịch vụ, nhu cầu về
phòng trọ trong các khu ký túc xá của các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề và các
trường trung học phổ thông ở các hộ dân; các đối tượng hình sự, tệ nạn xã hội trà
trộn… làm cho tình hình phức tạp hơn.
Đối với địa bàn Quận, cần chú trọng tới công tác giáo dục, cảm hóa đối
tượng trong diện quản lý tại địa phương. Công tác quản lý đối tượng chưa thật sự
quyết liệt, nhiệm vụ này dường như phó mặc cho lực lượng Công an. Một bộ phận
người dân vẫn còn sự kì thị, ngại tiếp xúc đối với những người lầm lỡ. Công tác bảo
đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với những người lầm lỡ hiện nay vẫn chưa có kinh
phí hỗ trợ, điều này làm giảm hiệu quả công tác giáo dục, cảm hóa đối tượng trong
diện quản lý tại địa phương… Một số đối tượng rời khỏi nơi cư trú đi đâu, làm gì, tổ
chức, cá nhân được phân công không hề hay biết, do đó, các đối tượng này dễ dàng
thực hiện các hành vi vi vi phạm pháp luật. Hiện nay hoạt động của các hội, các
đoàn thể khác rất mờ nhạt. Lực lượng công an làm công tác này còn mỏng, đôi khi
chỉ quản lí được về mặt hồ sơ, còn việc nắm bắt tâm tư nguyện vọng, cảm hóa, giúp
đỡ đối tượng lầm lỡ tại cộng đồng đòi hỏi sự vào cuộc tích cực hơn của các ban
ngành, đoàn thể cơ sở.
Công tác điều tra, khám phá các vụ cướp tài sản còn chưa kịp thời, vẫn còn
nhiều vụ án kéo dài, bế tắc, nhất là những vụ án do các đối tượng chuyên nghiệp
Đối với lĩnh vực dân sự, công tác bảo đảm quyền con người hiện nay vẫn
chưa được quan tâm đúng mức; việc tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân về
phương thức, thủ đoạn của những đối tượng cướp tài sản vẫn chưa sâu rộng; hình
thức tuyên truyền vẫn chưa đa dạng, mang tính hình thức. Việc áp dụng chế bảo vệ
người làm chứng, bị hại, người tố giác tin báo tội phạm vẫn chưa đầy đủ, thống nhất
48
dẫn đến người dân chưa yên tâm khi báo tin cho các cơ quan chức năng, sợ bị các
đối tượng trả thù...
2.3.1.2. Các yếu tố chủ quan
Qua nghiên cứu 100 bản án với 167 bị cáo phạm tội cướp tài sản trên địa
bàn Quận 3 giai đoạn 2015 – 2019, phần lớn các bị cáo có sự sai lệch về sở thích,
nhu cầu và cách thức thỏa mãn nhu cầu. Ở người phạm tội có sự thiếu thốn về vật
chất, có sở thích hưởng thụ tài sản của người khác không phải thông qua lao động
hay thói quen chiếm đoạt tài sản của người khác là đặc trưng điển hình của tội cướp
tài sản.
Những sai lệch về ý thức pháp luật là một trong những yếu tố tác động
trong cơ chế làm phát sinh tội phạm khi gặp những hoàn cảnh, tình huống cụ thể họ
sẽ không kiềm chế, kiểm soát được hành vi của mình, sử sự không đúng đắn và có
hành vi vi phạm pháp luật. Mặt khác, do nhận thức và trình độ học vấn thấp nên khả
năng kiểm soát và hạn chế hành vi đối với người phạm tội cướp tài sản ở mức độ
thấp, nhiều trường hợp cướp tài sản cả chính người thân trong gia đình.
2.3.2. Những yếu tố tác động đến quá trình tương tác xuất tâm
Như đã phân tích ở Chương 1 mục 1.4.2 đối với cướp tài sản được thể hiện
ở hai khâu khâu kế hoạch hóa hành vi và khâu thực hiện hành vi. Tội cướp tài sản
chỉ được thực hiện khi những yếu tố tiêu cực bên trong người phạm tội được hoàn
cảnh và điều kiện xã hội tác động. Điển hình như vụ án sau: Bị cáo Nguyễn Trần
Nhật Anh đã dùng thủ đoạn lên mạng xã hội tìm gái bán dâm để cướp tài sản cụ thể:
Khoảng 12 giờ ngày 10/10/2016, bị cáo hẹn gặp chị B.T.K.N để thực hiện
việc mua bán dâm tại nhà nghỉ 681, sau khi gặp bị cáo dùng con dao Thái Lan đã
chuẩn bị trước đe dọa sẽ giết nếu kêu la. Sau đó dùng dây rút trói tây chân của chị N
lại và cướp 480.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Oppa Neo 5 và lấy 01 xe máy
Suzuki của nạn nhân.
Tiếp tục đến khoảng 21 giờ 50 phút ngày 19/10/2016 bị cáo và chị N.T.D.M
hẹn gặp nhau tại nhà nghỉ Thùy Dương Em để thực hiện việc mua bán dâm, sau đó
bị cáo dùng thanh sắt chống cửa thông gió kể vào cổ khống chế dọa giết chị M để
49
cướp 700.000 đồng, 01 điện thoại di động và 01 xe máy hiệu Honda Vision của Chị
My rồi bỏ trốn.
Đến khoảng 13 giờ 30 phút ngày 27/10/2016 bị cáo tiếp tục cùng một thủ
đoạn như trên hẹn chị V.T.B.T tại nhà nghỉ A25 Hai Bà Trưng để mua bán dâm, sau
khi quan hệ tình dục xong, trong lúc thỏa thuận giá tiền mua dâm, bị cáo dùng vũ
lực đè sấp chị T xuống giường và dùng dao bấm màu đen hăm dọa chị T rồi dùng
dây rút và băng keo mang theo trói chân và nhét khăn của khách sạn vào miệng chị
T. Sau đó bị cáo đã lấy 5.700.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia X1 của
chị T rồi bỏ đi xuống. Chị T nhổ được khăn tắm ra khỏi miệng nên đã truy hô nên bị
cáo bị lực lượng bảo vệ khách sạn bắt giữ giao cho Công an Quận 3 xử lý [22].
(Trích bản án số 106/2017/HSST ngày 06/09/2017 của TAND Quận 3 Thành phố
Hồ Chí Minh).
Qua vụ án trên bị cáo Nam nhiều lần dùng dao nhọn và thanh sắt đe dọa giết
và dùng dây rút, băng keo trói chân, nhét khăn vào miệng làm cho các bị hại mất
khả năng chống cự của bị hại để cướp tài sản. Đối tượng này đã có sự chuẩn bị công
cụ, phương tiện và nhắm tới những nạn nhân là gái bán dâm để thực hiện hành vi
cướp tài sản của các bị hại với tổng trị giá là 70.620.000 đồng. Bị cáo Nam là người
đã trưởng thành, do vậy biết được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là sai
trái, dễ bị xã hội lên án, pháp luật trừng trị, nhưng với động cơ ham muốn có nhiều
tiền tiêu xài, xem thường pháp luật nên cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo
trong một thời gian ngắn liên tiếp thực hiện hành vi cướp tài sản nên đã chứng tỏ ý
thức xem thường pháp luật của bị cáo.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2 của luận văn, tác giả đã đi sâu phân tích và làm rõ những
nội dung như sau:
Thứ nhất, tác giả đã làm rõ thực tiễn nhận thức về nhân thân người phạm tội
cướp tài sản trên địa bàn Quận 3 giai đoạn 2015 – 2019 thông qua: thực tiễn nhận
thức về nhân thân người phạm tội cướp tài sản từ những số liệu tổng quan về tình
hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3; Nhận thức thông qua diễn biến của tình
50
hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận; Nhận thức thông qua cơ cấu của tình tình
tội cướp tài sản trên địa bàn Quận cho thấy công tác phòng, chống tội cướp tài sản
đã có hiệu quả.
Thứ hai, làm rõ những đặc điểm nhân thân của người phạm tội cướp tài sản
trên địa bàn Quận 3, các đặc điểm tự nhiên, các đặc điểm xã hội, các đặc điểm pháp
lý hình sự của tình hình tội cướp tài sản đây là những đặc điểm đặc trưng của tình
hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận.
Thứ ba, thực trạng những yếu tố tác động đến nhân thân người phạm tội
cướp tài sản thông qua các yếu tố thuộc quá trình nhập tâm và xuất tâm cho thấy sự
tác động của những yếu tố này.
Tuy tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận có xu hướng giảm nhưng
phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi xảo quyệt hơn và do điều kiện môi trường
sống thay đổi kéo theo những tác động tiêu cực của môi trường xã hội, những hạn
chê thiếu sót trong công tác quản lí nhà nước, do đó, việc xây dựng các giải pháp
phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận từ khí cạnh nhân thân là rất
cần thiết.
51
Chương 3
NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CƯỚP TÀI SẢN
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI
CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 3
3.1. Tăng cường nhận thức về nhân thân người phạm tội cướp tài sản
trên địa bàn quận vì mục đích phòng ngừa tình hình tội phạm
3.1.1. Tăng cường nhận thức về dự báo tình hình nhân thân người phạm
tội cướp tài sản trên địa bàn quận
Trong quá trình mở cửa hội nhập, Quận đã có nhiều chuyển biến về sự đô thị
hóa của các phường; việc nâng cấp các cơ sở hạ tầng phát triển nhanh, các dịch vụ
kinh doanh trên những địa bàn này phát triển, kéo theo vấn đề dân cư ở những nơi
khác tập trung về các địa bàn này làm thay đổi cơ cấu, thành phần dân cư. Tuy
nhiên, với chính sách mở của hiện nay, sẽ ảnh hưởng xấu đến nền văn hóa dân tộc,
đó là các luồng văn hóa độc hại như: các loại sách báo, tranh ảnh, phim, tài liệu có
nội dung xấu, kích động bạo lực. Đồng thời số sinh viên mới ra trường, số người
đến tuổi lao động tăng nhanh, kèm theo đó là tình trạng thiếu việc làm hoặc có việc
làm nhưng không ổn định dẫn đến tình trạng thất nghiệp ở số này tương đối lớn; sự
phân hóa giàu nghèo rõ rệt giữa nông thôn và thành thị, giữa miền núi và đồng
bằng; những hạn chế trong công tác quản lí nhà nước đó là những điều kiện có thể
dẫn đến làm tội phạm gia tăng. Từ kết quả nghiên cứu THTP cướp tài sản trên địa
bàn Quận 3 giai đoạn từ năm 2015-2019, căn cứ vào các dữ kiện phát triển kinh tế -
xã hội của quận trong những năm tới. Tác giả cho rằng, tình hình tội cướp tài sản
trên địa bàn Quận 3 vẫn sẽ là vấn đề mà các cơ quan chức năng của tỉnh và toàn thể
xã hội cần phải hết sức lưu ý.
Trong những năm tới, những yếu tố tiêu cực làm phát sinh tội phạm cướp tài
sản vẫn sẽ chưa được giải quyết triệt để. Vì vậy, để giải quyết các điều kiện đó
không chỉ cần có những giải pháp tương ứng mà đòi hỏi phải có thời gian tìm ra quy
luật phạm tội xảy ra trên địa bàn Quận 3, từ đó hướng tới phòng ngừa và hạn chế tội
phạm cướp tài sản trong đời sống xã hội. Cần phải khẳng định rằng, sự phân hóa
52
giàu nghèo, thất nghiệp, bất bình đẳng xã hội trong những năm tới sẽ sâu sắc hơn, tệ
nạn xã hội theo đó cũng gia tăng… Do vậy, tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn
tỉnh Quận 3 trong thời gian tới sẽ diễn biến phức tạp hơn, bởi những lý do sau:
- Các tiêu cực trong đời sống kinh tế - xã hội do cơ chế thị trường tạo ra trong
những năm qua chưa thể khắc phục ngay một sớm, một chiều. Đặc biệt là tình trạng
thất nghiệp, thiếu việc làm, tình trạng gia tăng tệ nạn xã hội, sự lưu hành văn hóa
phẩm độc hại, tệ nạn nghiệm hút, ma túy vẫn tiếp tục tồn tại ở mức đáng lo ngại.
- Địa bàn hoạt động của tội phạm cướp tài sản chủ yếu là ở các địa bàn có điều
kiện phát triển kinh tế, nơi tập trung đông dân cư, nhiều thành phần xã hội khác
nhau.
- Xu hướng “trẻ hóa” tội phạm ngày càng phát triển và được lan rộng ra các
đối tượng, nhất là trong lứa tuổi người chưa thành niên và tội phạm nữ có xu hướng
gia tăng, vì số đối tượng nữ đặc biệt là những người thất nghiệp, ly hôn, độc thân,...
3.1.2. Tăng cường nhận thức về những yếu tố tác động đến quá trình hình
thành nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn quận
Thực tế cho thấy, nếu không kịp thời khắc phục các yếu tố tác động đến quá
trình hình thành nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn quận thông qua
nhữn yếu tố tác động đến quá trình tương tác nhập tập và xuất tâm như đã nêu ở
mục 2.3 chương 2 thì tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh tiếp tục diễn biến
phức tạp và tăng nhanh qua các năm, gây nên vấn nạn cho xã hội. Như vậy, cần
phải:
- Cần tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực phối hợp
tham gia công tác phòng, chống tội phạm nói chung và đấu tranh phòng, chống tội
phạm cướp tài sản nói riêng. Điển hình như: Phối hợp với các cơ quan thông tấn,
báo chí trên địa bàn xây dựng, đăng tải các phóng sự, tin bài phản ánh về công tác
phòng, chống tội phạm cướp tài sản; tổ chức tốt công tác phát động phong trào toàn
dân bảo vệ an ninh tổ quốc tại cơ sở. Tổ chức các buổi tuyên truyền pháp luật cam
kết thực hiện tốt các nội dung về an ninh trật tự, tổ chức các diễn đàn lắng nghe các
ý kiến của nhân dân để tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia phòng, chống tội
phạm cướp tài sản, có lồng ghép nội dung về phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội
53
phạm trộm cắp tài sản đề huy động đông đảo quần chúng nhân dân tham gia…
Đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật để người dân hiểu
về các chính sách pháp luật, nhất là BLHS; nâng cao ý thức cảnh giác để không tạo
cơ sở cho kẻ xấu thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
- Chủ động xây dựng và gửi văn bản đến các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và
thông báo cho nhân dân trên địa bàn, đề nghị nâng cao cảnh giác, tăng cường các
biện pháp phòng ngừa phát hiện, tố giác tội phạm cướp tài sản. Đồng thời tiếp tục
duy trì, củng cố các mô hình, điển hình mới trong phong trào toàn dân bảo vệ an
ninh tổ quốc nói chung và công tác phòng, chống tội phạm cướp tài sản nói riêng,
điển hình như mô hình "Camera cộng đồng"…
- Các cơ quan chức năng, các tổ chức đoàn thể cần phối hợp với Nhà trường
và các gia đình quan tâm hơn nữa đến công tác giáo dục ý thức cho các thế hệ trẻ,
đặc biệt là các em học sinh đang độ tuổi mới lớn; có biện pháp quản lí, giáo dục để
các cháu tránh đi vào con đường phạm tội.
- Nội dung giáo dục, tuyên truyền phải gắn với đặc điểm riêng của từng địa
bàn, đối tượng cụ thể, cung cấp các thông tin, chính sách tại địa phương cũng như
trong nước để người dân không bị các đối tượng lợi dụng để thực hiện hành vi cướp
tài sản. Hơn ai hết để phòng ngừa hoạt động của loại tội phạm này, mọi người cần
nâng cao ý thức cảnh giác, chủ động đề phòng, tự bảo vệ tài sản của mình. Không
nên đeo, treo túi xách bên người hoặc để trên giỏ xe, không đeo trang sức quý khi
điều khiển mô tô, xe máy, cầm hoặc nghe điện thoại di động khi điều khiển phương
tiện để tránh bị kẻ xấu phạm tội, vừa mất tài sản vừa nguy hiểm đến tính mạng, sức
khỏe; đồng thời, khi có sự việc xảy ra cần kịp thời báo cho cơ quan công an hoặc
chính quyền để xử lý.
- Ngoài ra, Quận cần quan tâm đến công tác phổ cập giáo dục, nâng cao dân trí
ở các khu vực nhà trọ, nơi có trình độ dân trí chưa cao, nâng cao hiểu biết và nhận
thức đối với học sinh các cấp, sinh viên, học viên các trường về các chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước đối với công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
cướp tài sản.
54
3.2. Hoàn thiện hệ thống giải pháp phòng ngừa tội cướp tài sản trên địa
bàn Quận 3 từ khía cạnh nhân thân người phạm tội
Phòng ngừa tội phạm có hai bộ phận (tạo phần): một bộ phận gồm các biện
pháp tác động vào Nhân, được gọi là những biên pháp đẩy lùi tội phạm; một bộ
phận khác gồm các biện pháp tác động vào Qủa, tức là tác động trực diện vào hiện
trạng của tình hình tội phạm, được gọi là những biện pháp ngăn chặn tội phạm
(ngăn chặn không cho tội phạm xảy ra; ngăn chặn không cho tội phạm thực hiện
được đến cùng và ngăn chặn không cho tái phạm [36, tr.74-78]. Như vậy việc hoàn
thiện hệ thống giải pháp phòng ngừa tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3 được thể
hiện thông qua những nội dung:
3.2.1. Giải pháp tổ chức triển khai các giải pháp ngăn chặn tội cướp tài sản
trên địa bàn Quận
Ngăn chặn tội phạm dưới góc độ tội phạm học được hiểu là một chỉnh thể hoạt
động kiểm soát và quản lí xã hội vì mục đích ngăn ngừa các tội phạm hiện đang tiềm
tàng (potentielle Kriminalitaet) trong xã hội, không để chúng xảy ra, không cho
chúng thực hiện đến cùng và không xảy ra tái phạm [36, tr. 74 - 87].
Để làm tốt công tác phòng ngừa, không để tội phạm cướp tài sản xảy ra trên
thực tế, Quận 3 cần tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả những giải pháp sau:
3.2.1.1. Đối với trạng thái tội cướp tài sản chưa xảy ra và các biện pháp ngăn
chặn tội phạm.
Tội phạm tiềm tàng là tội phạm ở trạng thái chưa xảy ra, nhưng nó có khả năng
xảy ra, tức là trên thực tế có những dấu hiệu (điều kiện thuận lợi, hoàn cảnh thuận
lợi, tình huống thuận lợi) nó sẽ xảy ra. Mục đích ngăn chặn ở đây là không để cho
tội cướp tài sản xảy ra bằng những biên pháp thích ứng [36, tr. 74 – 84]. Việc ngăn
chặn tội cướp tài sản xảy ra bao hàm 3 nhóm biện pháp:
- Nhóm làm tê liệt quá trình chuẩn bị và thực hiện hành vi phạm tội cướp tài
sản;
- Nhóm biện pháp quản lí người phạm tội tiềm tàng;
- Nhóm các biện pháp tác động vào nạn nhân tiềm tàng của tội phạm.
55
Cả ba nhóm biện pháp này được căn cứ vào tình hình cụ thể của Quận 3 và
trên cơ sở một hành vi phạm tội cụ thể như sau:
- Cấp ủy, chính quyền địa phương chỉ đạo, tăng cường công tác phát động
phong trào và vận động các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia phòng ngừa và lên
án tố giác tội phạm, tệ nạn xã hội, thông qua đó, tổ chức cho nhân dân phát hiện các
biểu hiện nghi vấn của những đối tượng có khả năng, điều kiện phạm tội cướp tài
sản đang tụ tập bàn bạc, chuẩn bị công cụ, phương tiện gây án...chủ động cùng cơ
quan chức năng ngăn chặn kịp thời không để chúng gây án.
- Lực lượng Công an cần phải sử dụng đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ để đấu
tranh có hiệu quả đối với tội phạm cướp tài sản để kìm giữ và kéo giảm tình hình
hoạt động của loại tội phạm này.
Chỉ đạo ngành Công an tập trung rà soát kỹ số đối tượng đã có tiền án, tiền sự
về tội cướp tài sản; đồng thời lập danh sách theo dõi, nắm chắc tình hình, phối hợp
thông báo hoạt động, di biến động, phương thức thủ đoạn, đặc điểm thủ phạm của
các vụ cướp tài sản xảy ra trên địa bàn để kịp thời phát hiện, phòng ngừa có hiệu
quả. Đối với những người tuy chưa có tiền án, tiền sự nhưng có biểu hiện vi phạm
pháp luật và hoạt động tội phạm cần tập trung giám sát đối với số đối tượng ở độ
tuổi thanh niên thường sử dụng hung khí, số đối tượng chưa có việc làm ổn định, số
có mối quan hệ với những đối tượng đã có tiền án, tiền sự... Thành lập các tổ tuần
tra, kiểm soát vào các khung giờ cao điểm, trên các tuyến, địa bàn trọng điểm.
Ba là, thường xuyên nghiên cứu, đề nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật làm cho nội dung của hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật đó phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành và thực tiễn
phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản.
Bốn là, trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 các đối tượng triệt
để lợi dụng tài nguyên, không gian mạng để phạm tội. Do vậy, khoa học công nghệ
phải theo kịp sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 để đấu tranh ngăn
chặn tội phạm lợi dụng hoạt động. Có thể khẳng định việc ứng dụng những thành
tựu khoa học, công nghệ có vai trò quan trọng, then chốt trong quá trình đấu tranh
khám phá thành công nhiều vụ án cướp tài sản.
56
3.2.1.2. Trạng thái tội phạm cướp tài sản đang xảy ra và các biện pháp ngăn
chặn không để cho tội phạm cướp tài sản thực hiện đến cùng
Ngăn chặn là chặn đứng hành vi cướp tài sản đang diễn ra, không để cho nó
gây thêm thiệt hại về người và tài sản. Để làm được điều này đòi hỏi các cơ quan
chức năng phải tăng cường hơn nữa việc phối hợp với nhân dân trong ngăn chặn
những hành vi cướp tài sản.
Hiện nay công tác phối kết hợp, trao đổi thông tin tội phạm giữa các đơn vị,
phường trên địa bàn Quận chưa được duy trì thường xuyên và thiếu chặt chẽ. Điều
đó đã gây nhiều khó khăn trong công tác quản lý đối tượng, trao đổi thông tin trong
phòng ngừa và điều tra khám phá đối tội cướp tài sản. Để nâng cao hiệu quả công
tác đấu tranh chống tội phạm cướp tài sản trong giai đoạn tới, Quận 3 cần tập trung
thực hiện tốt những giải pháp sau:
- Để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân khi trình báo ngoài bằng công
văn, giấy tờ mất nhiều thời gian thì công an Quận, phường cần phát huy hơn nữa
đường dây nóng và lực lượng ứng trực 24/24 để kịp thời xử lí những vụ cướp tài
sản.
- Quan tâm bố trí cán bộ có uy tín, năng lực và kinh nghiệm trong công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm tham gia truy bắt đối tượng thực hiện hành vi
cướp tài sản, cảm hóa đối tượng gây án.
Qua thực tế công tác cho thấy, không ít vụ án phạm tội cướp tài sản xảy ra
trên địa bàn quận, đối tượng gây án bị kích động hoặc tâm lý lo sợ trước sự truy bắt
ráo riết của quần chúng nhân dân, thì việc tiếp xúc, thuyết phục đối tượng gây án ra
đầu thú trong trường hợp này là rất cần thiết, bởi lẽ điều đó thể hiện chính sách
nhân đạo của Đảng và Nhà nước đối với người phạm tội, đồng thời chặn đứng quá
trình lặp lại hành vi phạm tội, không để gây thêm thiệt hại về người, tài sản.
- Tăng cường mối quan hệ phối kết hợp giữa các lực lượng nghiệp vụ trong
công tác phát hiện, điều tra khám phá tội phạm cướp tài sản
Đấu tranh phòng, chống tội phạm cướp tài sản là hoạt động đòi hỏi phải có
hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân. Trong
phạm vi chức năng của mình, dựa vào các quy định của Hiến pháp và các văn bản
57
pháp luật, các chủ thể này trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa
tội phạm.
Phối hợp với các lực lượng Cảnh sát trật tự, Công an xã, phường, lực lượng
dân phòng, bảo vệ dân phố, thường xuyên nắm tình hình, tổ chức tuần tra khép kín
địa bàn, nhằm kịp thời phát hiện đối tượng nghi vấn để giám sát, thu thập tài liệu
xác minh làm rõ, áp dụng biện pháp tác động ngăn chặn không để chúng có điều
kiện gây án, hoặc bố trí, lắp đặt các phương tiện kỹ thuật như camera để giám sát,
theo dõi, phục bắt quả tang khi chúng đang thực hiện hành vi phạm tội hoặc đang
bỏ trốn.
- Tăng cường phối hợp chặt chẽ với Công an địa phương các Quận, tỉnh có địa
bàn giáp ranh tổ chức thực hiện có hiệu quả kế hoạch liên tịch trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm đã được ký kết, kịp thời phối hợp quản lý, tổ chức tuần tra,
truy bắt đối tượng gây án bỏ trốn.
- Ngay sau khi bắt được đối tượng gây án, cần khẩn trương lấy lời khai ngay
để mở rộng điều tra, thu giữ tang vật. Thực tế khi lấy lời khai đối tượng phạm tội
cướp tài sản, hầu hết các đối tượng đều quanh co chối tội, che giấu hành vi phạm tội
và đồng bọn, Vì vậy, cán bộ điều tra phải làm tốt công tác chuẩn bị lấy lời khai ban
đầu, phải dự kiến trước những tình huống đối tượng sẽ sử dụng để đối phó với cơ
quan Công an.
- Thường xuyên kiểm tra, giám sát hành chính, góp phần cho việc phòng ngừa tội
phạm tái phạm, nhất là những đối tượng có tiền án về tội cướp tài sản, cụ thể: Người
lang thang, người thường xuyên thay đổi chỗ ở một cách không cần thiết, người không
có nghề nghiệp nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn được tội phạm tái phạm.
3.2.1.3. Các giải pháp và tổ chức triển khai các giải pháp ngăn chặn tái phạm
Không cho tái phạm là việc ngăn chặn không cho người đã bị xử lý hình sự về
hành vi vi phạm pháp luật nói chung và hành vi cướp tài sản nói riêng để cho những
người này không tái phạm, tái phạm nguy hiểm, hay thực hiện hành vi phạm tội thêm
một lần nào nữa. Để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa không cho tội phạm diễn
ra nhiều lần hoặc tái phạm cần phải thực hiện đồng bộ, hiệu quả, thống nhất những biện
pháp quản lí việc tái hòa nhập cộng đồng của những người này hiệu quả. Trong đó, bản
58
thân người phạm tội phải có sự nhận thức một cách đúng đắn. Nâng cao vai trò của Nhà
nước, các cơ quan bảo vệ pháp luật, các tổ chức xã hội…
3.2.2. Các giải pháp và tổ chức triển khai các giải pháp đẩy lùi tội cướp tài
sản từ khía cạnh nhân thân
3.2.2.1. Các giải pháp và tổ chức triển khai các giải pháp về mặt chính trị
Đây là giải pháp bảo đảm và thúc đẩy quyền con người trên phạm vi cả nước
nói chung và tội phạm cướp tài sản thực hiện trên địa bàn Quận 3 nói riêng, cụ thể:
- Đảm bảo những quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp
và pháp luật. Cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở cần tập trung chỉ đạo các cấp,
các ngành, đoàn thể tiếp tục thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 48/CT-TW ngày
22/10/2010 của Bộ Chính trị về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tội phạm trong tình hình mới; Chỉ thị số 49/CT/TW ngày 21/02/2005
về “Xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; Nghị quyết số
11/NQ-CP ngày 24/12/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội; tập trung phát
triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
nhân dân để phục vụ công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trên địa bàn Quận đạt
hiệu quả.
- Kịp thời ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước đối với công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm nói chung
và tội phạm cướp tài sản nói riêng để thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức
triển khai thực hiện, xem đây là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, bắt buộc của mỗi
cơ quan, đơn vị địa phương. Trên cơ sở đó, các cơ quan, ban ngành, đoàn thể xây
dựng chương trình hành động, kế hoạch triển khai thực hiện phù hợp với thực tiễn
THTP cướp tài sản trên địa bàn mình quản lý; định kỳ hàng năm tổ chức sơ, tổng
kết, rút kinh nghiệm, phát huy những kết quả đạt được và khắc phục những tồn tại
hạn chế trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện; nâng cao vai trò, trách nhiệm
trong phòng ngừa tội phạm.
- Chỉ đạo các ngành chức năng đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học về
tội phạm học; tổ chức các cuộc hội thảo bàn về những giải pháp phòng ngừa THTP
59
cướp tài sản, đồng thời kiến nghị bổ sung và hoàn thiện hệ thống lý luận về tội
phạm học cũng như những hạn chế, bất cập trong công tác đấu tranh, phòng ngừa
tội phạm cướp tài sản xảy ra; chủ động tham mưu cho Thành ủy, Hội đồng nhân
dân, Uỷ ban nhân dân Thành phố có những chính sách phù hợp với công tác đấu
tranh, phòng ngừa tội phạm cướp tài sản trong tình hình mới.
- Các cấp, các ngành, hội, đoàn thể đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư
tưởng; thường xuyên tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, những nét văn hóa,
lối sống lành mạnh tốt đẹp của dân tộc ta cho các tầng lớp nhân dân, nhất là trong
thế hệ trẻ, nhằm nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật, nhận thức được
những hệ lụy do vi phạm pháp luật để lại, từ đó giúp họ tránh xa những tệ nạn xã
hội, tạo lập cho bản thân lối sống lành mạnh, có hành vi ứng xử chuẩn mực, đúng
đắn, không vi phạm pháp luật và tái phạm tội.
- Kiến nghị các cơ quan Nhà nước phải thường xuyên rà soát các luật, Bộ luật
quan trọng để bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế, kịp thời phát hiện
những nguyên nhân phát sinh tội phạm cướp tài sản, bịt kín những lỗ hổng.
3.2.2.2. Các giải pháp và tổ chức triển khai các giải pháp về mặt dân sự
- Chỉ đạo hệ thống chính trị trên địa bàn Quận 3 trong quá trình thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình luôn tôn trọng và đảm bảo cho các quyền hợp pháp
của con người, như: danh dự, uy tín, nhân phẩm, đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở,
thư tín, điện tín, điện thoại, tài sản, được hỗ trợ vốn…
- Các cơ quan tư pháp cần tạo điều kiện thuận lợi để đảm bảo quyền bình đẳng
của mọi người dân trước pháp luật, như: quyền được tư vấn về pháp luật, đăng ký
kết hôn, đăng ký hộ tịch, hộ khẩu, quyền bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa,
được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp luật khi bị xét xử, quyền
được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khỏe…
3.2.2.3. Các giải pháp và tổ chức triển khai các giải pháp về mặt kinh tế
Đây là biện pháp tác động bằng kinh tế nhưng có ảnh hưởng về mặt xã hội
nhằm hạn chế và tiến tới loại trừ dần những điều kiện hình thành tội phạm cướp tài
sản, thời gian tới Quận 3 cần tập trung thực hiện tốt những giải pháp sau:
60
- Chủ động nắm chắc thời cơ, tận dụng thật tốt các cơ hội, quyết tâm vượt qua
mọi thử thách, thực hiện thắng lợi mục tiêu, phương hướng: Nâng cao năng lực lãnh
đạo, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, phát huy sức mạnh của cả hệ
thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc; huy động mọi nguồn lực để đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế thực hiện các giải pháp giảm
nhanh, bền vững; khuyến khích làm giàu hợp pháp, phát triển văn hóa xã hội, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; kết hợp với quá trình phát triển kinh
tế với bảo vệ môi trường, tăng cường quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính
trị-xã hội.
- Vấn đề việc làm cho người lao động hiện nay đang là vấn đề thách thức, là
bài toán phức tạp và đầy khó khăn không những ở nước ta mà còn ở tất cả các nước
trên thế giới. Vì vậy giải quyết việc làm là một trong những mục tiêu quan trọng của
nước ta hiện nay. Cần quan tâm đến vấn đề này hơn nữa để không những tạo điều
kiện cho người lao động tăng thu nhập, nâng cao đời sống đồng thời giảm tệ nạn xã
hội, làm cho xã hội ngày càng văn minh hơn.
- Tổ chức tốt thông tin nhu cầu lao động - việc làm. Xã hội hóa nguồn lực đầu
tư cho mục tiêu giảm nghèo. Tập trung giáo dục, làm chuyển biến tư tưởng ỷ lại;
đồng thời với việc thực hiện tốt chính sách xã hội, chú trọng hướng dẫn hộ nghèo
các mô hình làm ăn tạo thu nhập ổn định. Tổ chức quản lý tốt nguồn quỹ cho vay,
cho đẩy nhanh tiến độ thẩm định dự án, kịp thời giải ngân các nhu cầu vay vốn của
nhân dân. Nhân rộng mô hình về hỗ trợ hộ nghèo và mô hình làm ăn khá giỏi vươn
lên hộ nghèo.
3.2.2.4. Các giải pháp và tổ chức triển khai các giải pháp về mặt văn hóa
Tác giả đưa ra một số giải pháp như sau:
- Các cấp, các ngành các đoàn thể, gia đình và Nhà trường cần chú trọng,
thường xuyên tuyên truyền giáo dục bản sắc, truyền thống văn hóa đặc sắc, tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam cho thanh, thiếu niên. Giúp họ có nhận thức đúng đắn, sâu
sắc về giá trị văn hóa của dân tộc, bồi đắp lòng tự hào dân tộc, xây dựng phẩm chất
đạo đức và nhân cách con người Việt Nam sống có lý tưởng, có hoài bão cống hiến
61
công sức, trí tuệ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Tiếp biến những giá trị văn hóa phương Tây phù hợp với truyền
thống và đạo lý Việt Nam, đồng thời tích cực đấu tranh bài trừ những tiêu cực, xấu
độc. Các cơ quan quản lý văn hóa, các tổ chức quần chúng (Đoàn thanh niên, Hội
phụ nữ, Công đoàn...), các nhà khoa học, nhà giáo dục cần tích cực, chủ động phát
hiện, thường xuyên tuyên truyền, giáo dục giúp thanh thiếu niên nhận rõ mặt trái và
tác động tiêu cực của văn hóa phương Tây; kiên quyết đấu tranh phê phán, bài trừ
những tiêu cực, xấu độc đi ngược với bản sắc, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân
tộc.
- Tiếp tục tập trung thực hiện tốt phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa", coi đó là nhiệm vụ trọng tâm, lâu dài, đưa phong trào đi vào chiều
sâu, có kết quả thiết thực, trở thành phong trào của toàn xã hội. Xây dựng nếp sống
văn hóa ở địa bàn dân cư, thực hiện nếp sống văn hóa văn minh trong việc chống
mê tín, dị đoan và các tệ nạn xã hội khác. Xây dựng và tổ chức thực hiện các
chương trinh giáo dục văn hoá thẩm mỹ, nếp sống và ứng xử văn hóa.
3.2.2.5. Các giải pháp và tổ chức triển khai các giải pháp về mặt xã hội
Để phòng ngừa THTP cướp tài sản có hiệu quả, Quận 3 cần thực hiện một số
giải pháp sau:
- Tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy và Uỷ ban nhân dân
Quận.
- Tập trung làm tốt sử dụng đa dạng các hình thức tuyên truyền, giáo dục để
mỗi người dân hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình trong hoạt động phòng, chống
tội cướp tài sản góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội trên địa bàn toàn Quận.
- Chỉ đạo các ngành, cơ quan, đơn vị chức năng tổ chức nhiều hình thức sinh
hoạt, vui chơi giải trí, thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia, nâng cao trình độ
dân trí, ý thức tự giác chấp hành pháp luật, đạo đức, lối sống lành mạnh cho người
dân.
- Cần vận động, kiểm tra, giám sát những chủ cơ sở kinh doanh tuân thủ các
quy định của Nhà nước về cư trú, dịch vụ nhà trọ, cầm đồ, internet, game trực
tuyến, quản lí vũ khí thô sơ, vũ khí nguy hiểm.
62
- Các cơ quan ban ngành trên địa bàn Quận phải tiến hành hoạt động tuyên
truyền, giáo dục pháp luật; tuyên truyền về phương thức, thủ đoạn của tội phạm cướp
tài sản liên tục, nội dung phong phú, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ bằng trực quan sinh
động, “vào từng ngõ, gõ từng cửa nhà”, tập trung vào những đối tượng có nguy cơ cao.
Thông qua các buổi tọa đàm cuộc thi tìm hiểu, diễn đàn trao đổi, website, bản tin của
Đoàn, hội sự kiện truyền thông của câu lạc bộ thu hút đông đảo học sinh, sinh viên
tham gia. Xét xử lưu động những vụ án cướp tài sản có tác dụng răn đe đồng thời giáo
dục ý thức tôn trọng pháp luật cho những người tham gia phiên tòa.
- Giao trách nhiệm cho lực lượng Công an đặc biệt là Công an phường, lực lượng
Cảnh sát Quản lí hành chính thông qua các biện pháp nghiệp vụ thu thập đầy đủ những
thông tin liên quan đến người phạm tội, để khi họ chấp hành xong bản án về địa
phương sinh sống, thu thập những thông tin đối với những đối tượng này để có kế
hoạch phòng ngừa cá biệt đối với số đối tượng này sát với tình hình thực tế.
Tiểu kết chương 3
Trong chương 3 của luận văn dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn của tình
hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh tác giả đã đưa ra
những dự báo về tình hình tội cướp tài sản trong thời gian tới. Đồng thời đưa ra
những giải pháp tổ chức phòng ngừa và hạn chế tình hình tội cướp tài sản xảy ra
trên địa bàn Quận như sau:
Thứ nhất, giải pháp tổ chức triển khai các giải pháp ngăn chặn tội cướp tài
sản xảy ra trên địa bàn Quận đối với trạng thái tội cướp tài sản xảy ra và ngăn chặn
tái phạm, trạng thái tội cướp tài sản đang xảy ra và các biện pháp ngăn chặn không
để cho tội phạm cướp tài sản thực hiện đến cùng, các giải pháp tổ chức và triển khai
các giải pháp ngăn chặn tái phạm đây là những hệ thống giải pháp được triển khai
phù hợp với tình hình tội cướp tài sản diễn ra trên địa bàn Quận.
Thứ hai, các giải pháp và tổ chức triển khai các giải pháp đẩy lùi tội cướp
tài sản từ khía cạnh nhân thân về các mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được xây dựng phù hợp với đặc trưng riêng của nhân thân người phạm tội cướp tài
sản trên địa bàn Quận 3.
63
KẾT LUẬN
Luận văn là công trình đi sâu nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học về nhân
thân người phạm tội cướp tài sản từ thực tiễn Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh giai
đoạn 2015 - 2019 để làm rõ các đặc điểm nhân thân và các yếu tố tác động đến sự
hình thành nhân thân người phạm tội cướp tài sản phù hợp với đặc điểm về địa lý,
dân cư, điều kiện kinh tế, xã hội trên địa bàn Quận 3 từ đó đưa ra một số giải pháp
có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa
bàn Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
Luận văn có kết quả nghiên cứu được vắn tắt như sau:
Thứ nhất, Dưới góc độ lý luận, về nhân thân người phạm tội cướp tài sản có
cùng bản chất với nhân thân người phạm tội nói chung, tức là nó không phải là
người phạm tội, mà chỉ là cái phản ảnh, là hình ảnh có thể nhận thức được về người
phạm tội cướp tài sản. Hình ảnh có thể nhận thức được này chính là khách thể
nghiên cứu của đề tài. Xác định nhân thân người phạm tội cướp tài sản là căn cứ để
xác định vấn đề nguyên nhân và điều kiện của tội cướp tài sản. Nghiên cứu đặc
điểm nhân thân người phạm tội cướp tài sản chính là làm rõ những đặc điểm mà tội
phạm học đã khái quát thành ba nhóm: tự nhiên; xã hội; pháp lý hình sự. Hệ thống
hóa các đặc điểm này đối với tội cướp tài sản trong một đơn vị thời gian và địa bàn
nhất định chính là nghiên cứu tình hình nhân thân người phạm tội cướp tài sản. Và
các đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp tài sản hoàn toàn có thể sử dụng phân
loại nhân thân người phạm tội này; những yếu tố tác động đến quá trình hình thành
nhân thân người phạm tội cướp tài sản hoàn toàn có thể sử dụng để phân loại nhân
thân người phạm tội này.
Thứ hai, Luận văn đã xác định và phân tích những đặc điểm nhân thân liên
quan đến người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
trong giai đoạn 2015 đến năm 2019 cho thấy công tác phòng, chống tội phạm cướp
tài sản trên địa bàn đã có hiệu quả.
Thứ ba, luận văn đã dự báo xu thế vận động của các yếu tố tác động đến sự
hình thành nhân thân người phạm tội cướp tài sản, qua đó đề xuất các giải pháp
64
phòng ngừa tình hình người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3, Thành phố
Hồ Chí Minh dựa trên tình hình tội cướp tài sản và nhân thân người phạm tội cướp
tài sản trên địa bàn Quận.
Tác giả xin chân thành cảm ơn người hướng dẫn PGS. TS Phạm Văn Tỉnh
các cơ quan như TAND quận 3, Công an quận 3, Viện kiểm sát nhân dân quận 3…
truyền đạt kinh nghiệm, tạo điều kiện giúp đỡ, cung cấp số liệu, tài liệu để tác giả
thực hiện hoàn thành Luận văn:"Nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa
bàn quận 3"./.
65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2010), Chỉ thị số 48/CT-TW ngày 22/10/2010 về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới;
2. Lê Cảm (2001), Nhân thân người phạm tội - Một số vấn đề lý luận cơ bản,
Tạp chí Tòa án, (số 10), tr. 7-11, (số 11), tr. 5-8;
3. Nguyễn Văn Cảnh cùng tập thể tác giả (2010), Tội phạm học, Nxb Tổng
cục xây dựng lực lượng Công an nhân dân, Hà Nội;
4. Nguyễn Văn Cảnh và Phạm Văn Tỉnh (2013), Một số vấn đề tội phạm học
Việt Nam, Học viện cảnh sát nhân dân, Hà Nội;
5. Chính phủ (2011), Nghị định số 80/2011/NĐ-CP Quy định các biện pháp
bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù;
6. Chính phủ (1998), Nghị quyết số 09/CP ngày 31/7/1998 về tăng cường
công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới;
7. Nguyễn Chí Công (2013), Phòng ngừa tội phạm cướp tài sản trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Long từ góc độ nhân thân người phạm tội, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh;
8. Công an Quận 3 (2015 - 2019), Báo cáo tổng kết công tác năm 2015,
2016, 2017, 2018, 2019;
9. Công an Quận 3 (Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội)
(2015 - 2019), Thống kê nhân hộ khẩu năm 2012, 2013, 2014, 2015, 2016;
10. Cục Thống kê Quận 3 (2015 - 2019), Niêm giám thống kê năm 2015,
2016, 2017, 2018, 2019;
11. Bùi Kiên Điện (2001), Nhân thân bị can và một số khái niệm kề cận, Tạp
chí Luật học, (số 6), tr.14-18;
12. Lê Văn Định (2015), Đặc điểm nhân thân người phạm tội và phương thức
thực hiện tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai, Tạp chí Kiểm sát, (số 06),
tr. 47-53;
13. Nguyễn Quang Hạnh (2013), Một số vấn đề nhân thân người phạm tội,
Tạp chí Nghề luật, (số 1), tr.52-57;
1
14. Nguyễn Tuyết Mai (2006), Một số đặc điểm chú ý về nhân thân của người
phạm tội về ma tuý ở Việt Nam, Tạp chí Luật học, (số 11), tr. 32-37;
15. Phạm Thị Triều Mến (2016), Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu
từ thực tiễn tỉnh Bình Dương, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa Học Xã
Hội;
16. Đinh Văn Quế (2009), Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự liên
quan đến nhân thân người phạm tội, Tạp chí Toà án, (số 13), tr. 23-27, (số 14), tr.
19-28;
17. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
18. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
19. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
20. Trần Văn Sơn (1997), Nhân thân người phạm tội một căn cứ để quyết định
hình phạt, Tạp chí Luật học, (số 1), tr. 41-43;
21. TAND quận 3 (2015 – 2019), Báo cáo tổng kết các năm 2015, 2016,
2017, 2018, 2019.
22. TAND Quận 3 (2015 - 2019), Bản án của các vụ án cướp tài sản trên địa
bàn Quận 3 năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019;
23. Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg ngày
31/7/1998 về phê duyệt Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm;
24. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2001), Một số vấn đề về nhân thân người phạm
tội, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số 5), tr.46-53;
25. Nguyễn Thị Thanh Thủy (1996), Nhân thân người phạm tội trong tội
phạm học, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội;
26. Nguyễn Thị Thanh Thủy (2005), Nhân thân người phạm tội trong luật
hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội;
27. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2001), Nhân thân người phạm tội với việc quy
trách nhiệm hình sự, Tạp chí Toà án, (số 8), tr. 2-7;
2
28. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2005), Vấn đề nhân thân người phạm tội trong
thực tiễn quyết định hình phạt, Tạp chí Toà án nhân dân, (số 19), tr. 3-9;
29. Nguyễn Tấn Thương (2006), Đấu tranh phòng chống tội phạm cướp giật
tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện
Cảnh sát nhân dân;
30. Phạm Uyên Thy (2015), Nhân thân người phạm tội trên địa bàn Quận 7,
Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội;
31. Phạm Văn Tỉnh (2005), Đặc điểm định lượng của tình hình tội phạm nước
ta hiện nay, Tạp chí nhà nước và pháp luật, (số 204), tr. 73 – 83.
32. Phạm Văn Tỉnh (2005), Đặc điểm định tính của tình hình tội phạm nước
ta hiện nay, Tạp chí nhà nước và pháp luật, (số 210), tr. 65 – 76.
33. Phạm Văn Tỉnh (2007), Khái niệm tội phạm và tình hình tội phạm dưới
góc độ của Tội phạm học, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 6), tr. 73-79;
34. Phạm Văn Tỉnh (2007), Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt
Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
35. Phạm Văn Tỉnh (2014), Phòng ngừa tội phạm và chiến lược phòng ngừa
tội phạm, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số 3), tr. 74 -84.
36. Phạm Văn Tỉnh (2016), Tăng cường nhận thức khái niệm về tham nhũng
và phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, Tạp chí nhân lực Khoa học xã hội,
(số 2).
37. Phạm Văn Tỉnh (2019), Tích hợp mô hình tương tác xuyên thời gian với
đồng thời gian của cơ chế hành vi phạm tội – phương pháp phát triển lý luận và
nghiên cứu tội phạm học về nguyên nhân, điều kiện và phòng ngừa tội phạm, Tạp
chí nhân lực Khoa học xã hội, (số 10), tr. 3 – 13.
38. Phạm Văn Tỉnh (2020), Một số giải thích và yêu cầu nghiên cứu nhân
thân người phạm tội trong chuyên ngành tội phạm học, Bài giảng Tội phạm học.
39. Trần Hữu Tráng (2010), Bàn về nguyên nhân tội phạm học, Tạp chí Luật
học, (số 11), tr. 43-51;
40. Trần Hữu Tráng (2014), Dự báo nguy cơ tội phạm, Tạp chí Luật học, (số
4), tr. 46-53;
3
41. Trần Hữu Tráng (2000), Một số vấn đề về tình hình tội phạm ẩn ở Việt
Nam, Tạp chí Luật học, (số 3), tr. 51-55;
42. Trần Hữu Tráng (2010), Tác động của kinh tế thị trường đến tình hình tội
phạm và phòng ngừa tội phạm ở nước ta, Tạp chí Luật học, (số 1), tr. 42-50;
43. Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (1998), Giáo trình tổ chức hoạt động
phòng ngừa, phát hiện và điều tra tội phạm cụ thể;
44. Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội;
45. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Tội
phạm học, Nxb Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam;
46. Đào Trí Úc (1993), Hệ thống các biện pháp phòng ngừa xã hội đối với tội
phạm, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Bộ Nội vụ, tr. 18-22;
47. Ủy ban nhân dân Quận 3 (2015 - 2019), Báo cáo tình hình Kinh tế - Xã
hội Quận 7 năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019;
48. Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 (2015 - 2019), Thống kê tội phạm hình sự
năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019;
49. Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 (2015 - 2019), Báo cáo tổng kết công tác
năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019;
50. Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật (2000), Tội phạm học Việt Nam -
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
51. Trịnh Tiến Việt (2003), Nhân thân người phạm tội một căn cứ cần cân
nhắc khi quyết định hình phạt, Tạp chí Kiểm sát, (số 1), tr.21-23;
52. Võ Khánh Vinh (2002), Dự báo tình hình tội phạm, một số vấn đề lý luận
- thực tiễn, Nxb Công an nhân dân;
53. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình Tội Phạm Học, Trường Đại học Huế,
Trung tâm đào tạo từ xa, Nxb giáo dục Hà Nội.
54. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội;
55. Võ Khánh Vinh (2012), Xã hội học pháp luật, những vấn đề cơ bản, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội;
4
56. Nguyễn Xuân Yêm (2003), Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
5