VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ VY

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI ĐÁNH BẠC

TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM

HÀ NỘI - 2019

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ VY

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI ĐÁNH BẠC

TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm

Mã số: 638.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:TS. LÊ TƯỜNG VY

HÀ NỘI–2019

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂNNGƯỜI PHẠM

TỘI ĐÁNH BẠC ....................................................................................................... 8

1.1. Khái niệm, đặc điểm, các mối quan hệ, ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân

thân người phạm tội đánh bạc .............................................................................. 8

1.1.2. Các đặc điểm nhân thân người phạm tội đánh bạc ...................................... 11

1.1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội đánh bạc .............. 19

1.1.4. Các mối quan hệ của nhân thân người phạm tội đánh bạc .......................... 22

1.2. Các yếu tố tác động đến việc hình thành nhân người phạm tội đánh bạc

............................................................................................................................... 24

Tiểu kết chương 1 ................................................................................................ 31

Chương 2:THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI ĐÁNH BẠC

TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ............................... 32

2.1. Thực trạng các đặc điểm nhân thân người phạm tội đánh bạc trên địa

bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh ............................................................... 33

2.1.1. Tổng quan về tình hình nhân thân người phạm tội đánh bạc trên địa bàn

Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh .......................................................................... 33

2.1.2. Thực trạng các đặc điểm của nhân thân người phạm tội đánh bạc .............. 36

2.2. Thực trạng các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người

phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh ............... 44

Tiểu kết chương 2 ................................................................................................ 52

Chương 3: DỰ BÁO VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI

ĐÁNHBẠC TỪ KHÍA CẠNH NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI ................. 53

3.1. Dự báo tình hình nhân thân người phạm tội đánh bạc và các yếu tố tác

động đến việc hình thành nhân thân người phạm tội này ............................... 54

3.1.1 Dự báo tình hình nhân thân người phạm tội đánh bạc .............................. 54

3.1.2. Dự báo những yếu tố tác động đến việc hình thành nhân thân người phạm tội đánh bạc ........................................................................................................ 54

3.2. Các giải pháp phòng ngừa tình hình người phạm tội đánh bạc trên địa

bàn Quận 7 từ khía cạnh nhân thân người phạm tội ....................................... 58

3.2.1. Hạn chế, loại trừ các yếu tố tác động tiêu cực lên việc hình thành nhân thân người phạm tội đánh bạc ............................................................................ 59

3.2.2. Các giải pháp khắc phục những yếu tố nhân thân tiêu cực từ phía người phạm tội đánh bạc ............................................................................................... 68

Tiểu kết chương 3 ................................................................................................ 69

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những nội dung đã trình bày trong luận văn là kiến thức

của bản thân tôi có được trong quá trình học tập, tham khảo, nghiên cứu tài liệu và

thực tiễn công tác dưới sự hướng dẫn của TS. Lê Tường Vy. Những nội dung của

các tác giả khác đã được trích dẫn và ghi chú theo đúng quy định. Các số liệu, kết

quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Thị Vy

DANH MỤC CHỮ VIẾT TĂT

BLHS : Bộ luật hình sự

TA : Tòa án

TAND : Toà án nhân dân

THPT : Trung học phổ thông

HSST : Hình sự sơ thẩm

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Trang

Thống kê số vụ và số người phạm tội đánh bạc trên địa bàn 32 Bảng 2.1:

Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh so với tình hình tội phạm

chung trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh

Thống kê so sánh tình hình người phạm tội đánh bạc trên địa 34 Bảng 2.2:

bàn Quận 7 so với địa bàn toàn Thành phố Hồ Chí Minh giai

đoạn 2015 - 2019

Thực trạng theo giới tính của nhân thân người phạm tội đánh 35 Bảng 2.3:

bạc trên địa bàn Quận 7, giai đoạn 2015 – 2019

Thực trạng theo độ tuổi của nhân thân người phạm tội đánh 37 Bảng 2.4:

bạc giai đoạn 2015– 2019

Thực trạng trình độ học vấn của nhân thân người phạm tội 38 Bảng 2.5:

đánh bạc trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh

Cơ cấu theo mục đích phạm tội 42 Bảng 2.6:

33 Biểu đồ 2.1: Số vụ phạm tội và số người phạm tội trên địa bàn Quận 7,

Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 – 2019

34 Biểu đò 2.2: Diễn biến số vụ, số bị cáo phạm tội đánh bạc trên địa bàn

Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, giai đoạn 2015 - 2019

MỞĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hoàn

thiện, có nhiều đặc điểm theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập. Bên cạnh

những mặt tích cực mà nền kinh tế thị trường đem lại thì còn có những yếu tố

tác động tiêu cực đến sự phát triển của xã hội và một trong số đó là vấn đề tệ

nạn xã hội, đặc biệt là tệ nạn cờ bạc. Tệ nạn này gây ra nhiều hệ lụy cho xã hội

như đạo đức con người xuống cấp trầm trọng, gây tan vỡ gia đình. Đánh bạc là

nguồn phát sinh nhiều loại tội phạm như: tội gây rối trật tự công cộng, tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản. Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vấn đề đảm bảo trật

tự an toàn công cộng đồng thời luôn hoàn thiện việc quản lý những vấn đề liên

quan đến lĩnh vực này.

Quận 7 là một quận nội thành được thành lập theo quyết định số 03 - CP

ngày 06/01/1977 của Chính phủ Việt Nam về việc thành lập quận, phường tại

Thành phố Hồ Chí Minh. Quận 7 nằm ở vị trí được coi là nơi có vị trí chiến lược

quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh. Ở đây,

quy tụ nhiều công trình về khoa học, giáo dục, thương mại, y tế với hàng loạt các

trung tâm thương mại sầm uất. Quận 7 là nơi thu hút rất nhiều đầu tư trong và ngoài

nước điển hình như khu chế xuất Tân Thuận, đã và đang hình thành một số khu đô

thị mới như Him Lam - Kênh Tẻ, khu đô thị Phú Mỹ Hưng…

Qua nghiên cứu số liệu thống kê trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí

Minh giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019đã xảy ra 120 vụ đánh bạc với 321 bị

cáo[40]. Tuy nhiên, những số liệu trên mới chỉ phản ánh được phần nào thực trạng

của tệ nạn xã hội này. Thực tế này cho thấy tội đánh bạc đang diễn biến ngày càng

phức tạp và gây ra hậu quả nghiêm trong với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa

phương.

Mặc dù các cấp chính quyền đã quan tâm hết sức đến vấn đề này như:

Chương trình hành động số 05 – CTr/QU ngày 05/07/2016, Thông tư 02/TT/QU

ngày 30/11/2015 của Ban thường vụ Quận ủy về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 48 –

1

CT/TW ngày 22/10/2010 nhằm tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết 09/CP và

chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm của Chính phủ, Chỉ thị 48 - CT/TW

ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác

phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, Chương trình hành động số 04 – Ctr-

TU ngày 31/12/2010… Các ngành các cấp trên địa bàn Quận cũng quyết tâm thực

hiện tốt công tác này.

Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế nhất định. Vì vậy,

trong giai đoạn hiện nay, việc nghiên cứu về nhân thân người phạm tội đánh bạc để

đề ra những giải pháp phòng ngừa tình hình tội đánh bạc để đề ra những giải pháp

phòng ngừa là rất cần thiết. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài: “Nhân thân ngươì

phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn

thạc sĩ chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu lý luận cơ bản về nhân thân người

phạm tội

Các công trình nghiên cứu lý luận cơ bản về nhân thân người phạm tội gồm:

- Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công

an nhân dân, Hà Nội.

- Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân,

Hà Nội.

- Bùi Kiên Điện (2011), “Nhân thân bị can và một số khái niệm kề cận”, Tạp

chí Luật học, số 6, tr.14-18;

- Trần Thị Thủy (2018), Nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn

Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, HV KHXH;

- Nguyễn Thị Thanh Thủy (2001),“Một số vấn đề về nhân thân người phạm

tội”,Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5, tr.46-53;

- Nguyễn Thị Thanh Thủy (2001), “Nhân thân người phạm tội với việc quy

trách nhiệm hình sự”,Tạp chí Toà án, số 8, tr.2-7;

2

- Chu Thị Quỳnh (2015), Vai trò nhân thân người phạm tội – dấu hiệu quy

định trách nhiệm hình sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật đại học quốc gia

Hà Nội.

Các công trình nghiên cứu trên đã tập trung làm rõ những nội dung: khái

niệm nhân thân người phạm tội, phân biệt khái niệm nhân thân người phạm tội với

một số khái niệm khác có liên quan,vai trò của nhân thân người phạm tội trong cơ

chế hành vi phạm tội, các đặc điểm của nhân thân người phạm tội … Đây là những

cơ sở lý luận quan trọng và cơ bàn mà tác giả sẽ kế thừa làm nền tảng lý luận trong

luận văn của mình.

2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về các khía cạnh đặc thù của nhân

thân người phạm tội

Thuộc nhóm này có các công trình nghiên cứu như:

- Nguyễn Thị Thanh Thủy (2005), “Vấn đề nhân thân người phạm tội trong

thực tiễn quyết định hình phạt”,Tạp chí Toà án nhân dân, số 19; tr.3- 9;

- Nguyễn Thị Thanh Thủy (2005), “Vấn đề nhân thân người phạm tội trong

thực tiễn truy cứu trách nhiệm hình sự”,Tạp chí Tòa án nhấn dân, số 17; tr.32- 35;

- Lê Văn Định (2015), “Đặc điểm nhân thân người phạm tội và phương thức

thực hiện tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai”,Tạp chí kiểm sát, số 6,

tr.47- 53;

- Nguyễn Chí Công (2013), Phòng ngừa tội phạm cướp tài sản trên địa bàn

tỉnh Vĩnh Long từ góc độ nhân thân người phạm tội, Đại học Luật TP HCM;

- Phan Ái Nhi (2016), Nhân thân người phạm tội giết người trên địa bàn

Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Luật học – HVKHXH.

- Đỗ Tiến Dũng (2018), Nhân thân người phạm tội xâm phạm sỡ hữu từ thực

tiễn các tỉnh miền Đông Nam Bộ, Luận án tiến sĩ luật học, HVKHXH.

- Trần Thị Liên (2018), Nhân thân người phạm tội ma túy trên địa bàn quận

Phú Nhuận Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, HVKHXH.

3

- Nguyễn Thanh Hòa (2019), Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân

phẩm của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương, Luận văn thạc sĩ Luật hoc –

HVKHXH.

Các công trình nghiên cứu trên đã tập trung phân tích làm rõ vai trò của nhân

thân người phạm tội trong quyết định hình phạt, trong định tội hoặc trong việc áp

dụng các quy định có liên quan đến các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự.

Một số tác giả đã đã có những nghiên cứu có hệ thống về nhân thân người phạm tội

trên một địa bàn nhất định, như địa bàn tỉnh Gia Lai, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình

Dương…. Những tri thức, hiểu biết quan trọng của các công trình này tác giả sẽ kế

thừa có chọn lọc trong quá trình nghiên cứu luận văn thạc sĩ chuyên ngành của

mình.

Tuy nhiên, giai đoạn vừa qua chưa có một công trình nghiên cứu nào chuyên

sâu nghiên cứu về nhân thân người phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7. Vì vậy,

tác giả sẽ vận dụng đi sâu nghiên cứu về nhân thân người phạm tội đánh bạc trên

địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh là hướng nghiên cứu của luận văn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7,

Thành phố Hồ Chí Minh hướng đến mục đích đề xuất các giải pháp tăng cường

phòng ngừa tình hình người phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ

Chí Minh thông qua việc làm rõ những đặc điểm nhân thân người phạm tội và xác

định được các yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân người phạm tội

đánh bạc trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn chuyên ngành tội phạm học và phòng

ngừa tội phạm được cụ thể như sau:

Một là, những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội đánh bạc sẽ được

nghiên cứu làm rõ;

4

Hai là, nghiên cứu thực tế nhằm làm rõ thực tiễn các đặc điểm nhân thân

người phạm tội đánh bạc và các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người

phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 -

2019;

Ba là, kiến nghị việc hoàn thiện các giải pháp hạn chế, loại trừ những yếu tố

tác động tiêu cực đến nhân thân người phạm tội đánh bạc và giải pháp khắc phục

những yếu tố tiêu cực đến nhân thân người phạm tội đánh bạc.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Vấn đề nhân thân người phạm tội đánh bạc ở cả góc độ lí luận và thực tiễn là

đối tượng nghiên cứu của đề tài thuộc chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa

tội phạm. Phần thực tiễn là nhân thân người phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7,

Thành phố Hồ Chí Minh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về không gian: đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội đánh

bạc thuộc góc độ tội phạm học thuộc chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội

phạm trên địa bàn Quận 7.

- Phạm vi về thời gian: Các số liệu thống kê được tác giả thu thập trong giai

đoạn từ 2015 đến năm 2019.

- Phạm vi về tội danh: đề tài nghiên cứu về người phạm tội đánh bạc theo

quy định tại Điều 321 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa

Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, chính sách pháp

luật của Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và chính sách đối

với người phạm tội đánh bạc.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

5

Trong quá trình thực hiện đề tài, Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên

cứu cụ thể:

- Phương pháp nghiên cứu lí luận, nghiên cứu tài liệu, hệ thống hóa, khái

quát hóa và cụ thể hóa được sử dụng để làm rõ những vấn đề lý luận chung về nhân

thân người phạm tội đánh bạc.

- Phương pháp nghiên cứu lý luận, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh,

quy nạp, hệ thống, biểu đồ, diễn dịch, đối chiếu, suy luận, phương pháp lịch sử

logic, phương pháp nghiên cứu tổng hợp bản án, nghiên cứu hồ sơ vụ án... được sử

dụng để làm rõ các đặc điểm nhân thân người phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận

7 và các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội đánh bạc trên

địa bàn Quận 7 giai đoạn 2015 - 2019.

- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phân tích, suy luận logic, quy nạp, diễn

dịch... được sử dụng nhằm đưa ra kiến nghị việc hoàn thiện các giải pháp phòng

ngừa tình hình người phạm tội đánh bạc từ góc độ nhân thân người phạm tội.

- Để nghiên cứu sâu các đặc điểm nhân thân người phạm tội, tác giả sử dụng

phương pháp nghiên cứu 100 bản án, hồ sơ vụ án với 156 bị cáo là người phạm tội

đánh bạc trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ năm 2015 đến

năm 2019 đã được TA Quận 7 xét xử cũng như các số liệu thống kê của các cơ quan

tiến hành tố tụng ở Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh để phân tích, tổng hợp số liệu

thể hiện các đặc trưng về nhân thân người phạm tội đánh bạc.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Về lý luận:Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về nhân thân người phạm tội

đánh bạc, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện hơn nữa

lý luận của tội phạm học nói chung và lý luận về nhân thân người phạm tội đánh

bạc nói riêng.

Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được vận dụng vào

thực tiễn công tác phòng, chống tình hình tội phạm nói chung và tình hình người

phạm tội đánh bạc nói riêng trên địa bàn quận 7 trong thời gian tiếp theo.

7.Kết cấu của luận văn

6

Luận văn có kết cấu ba chương, cụ thể như sau:

Chương 1. Những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội đánh bạc.

Chương 2. Thực trạng nhân thân người phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận

7, Thành phố Hồ Chí Minh

Chương 3.Các giải pháp phòng ngừa tình hình tội đánh bạc từ khía cạnh

nhân thân người phạm tội

7

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN

NGƯỜI PHẠM TỘI ĐÁNH BẠC

1.1. Khái niệm, đặc điểm, các mối quan hệ, ý nghĩa của việc nghiên cứu

nhân thân người phạm tội đánh bạc

1.1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội đánh bạc

Nhân thân người phạm tội là một phạm trù thuộc về con người được đề cập

trong các ngành khoa học khác nhau như: khoa học tội phạm học, khoa học luật

hình sự, khoa học điều tra tội phạm, tâm lý học tư pháp… Trong hoạt động thực

tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các cơ quan khác có liên quan cần

nắm được những vấn đề liên quan đến nhân thân người phạm tội trong quá trình

tiến hành công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, giáo dục và cải tạo người

phạm tội. Chúng ta có thể thấy rằng, nhân thân người phạm tội là một vấn đề được

nhiều ngành khoa học nghiên cứu, có góc độ tiếp cận khác nhau.

Khoa học luật hình sự có một số quan điểm về nhân thân người phạm tội như

sau:

Theo GS.TS Võ Khánh Vinh: “Nhân thân người phạm tội tức là có lỗi trong

việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là tội phạm

được hiểu là tổng thể các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội, trong sự kết

hợp các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của

người đó” [62,tr.130].

Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa: “Nhân thân người phạm tội trong luật

hình sự được hiểu là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý

nghĩa trong việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của họ” [16].

8

Khoa học luật hình nghiên cứu nhân thân người phạm tội với tính chất là căn

cứ để định tội danh, định khung hình phạt hay ta có thể hiểu là đánh giá trách nhiệm

hình sự, hành vi phạm tội và quyết định biện pháp xử lý hình sự đối với người phạm

tội theo luật hình sự [60, tr.193]. Nhân thân người phạm tội trong Luật hình sự

không bao gồm tất cả các đặc điểm sinh học, tâm lý, xã hội của người phạm tội mà

là những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa trong việc giải quyết

đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự. Làm rõ sự ảnh hưởng đối với tính chất mức

độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, có ý nghĩa trong việc định tội, định

khung và quyết định hình phạt.

Tội phạm học nghiên cứu nhân thân người phạm tội ở khía cạnh nghiên cứu

các đặc điểm của con người phạm tội để hướng đến mục đích quan trọng nhất là

phòng ngừa tội phạm và giáo dục cải tạo người phạm tội. Đó là việc xác định và

làm sáng rõ đặc điểm, tính chất và mức độ tác động của đặc điểm nhân thân trong

cơ chế hành vi phạm tội, mối quan hệ giữa những đặc điểm xã hội và đặc điểm sinh

học của người phạm tội. Dưới góc độ tội phạm học nhân thân người phạm tội được

định nghĩa là: “tổng hợp các đặc tính, dấu hiệu bản chất xã hội, tính cá biệt, không

lặp lại của con người mà trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định và dưới tác

động của những điều kiện, hoàn cảnh đó làm động cơ phạm tội nảy sinh” [62,

tr.131].

Nhân thân người phạm tội được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau,

nhưng tựu chung lại người phạm tội vẫn là một con người cụ thể. Muốn nghiên cứu

nhân thân người phạm tội ta phải phân tích và làm rõ hai vấn đề cơ bản là người

phạm tội là gì? và như thế nào là nhân thân người phạm tội?. Luận văn nghiên cứu

nhân thân người phạm tội đánh bạc trên địa bàn quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh

chỉ nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học hướng tới mục đích phòng ngừa tội phạm.

Thứ nhất, người phạm tội là gì? Người phạm tội là người có đủ dấu hiệu chủ

thể của tội phạm và đã thực hiện hành vi được luật hình sự quy định là tội phạm

[61, tr.149]. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – lênnin: “Con người là một thực

thể tự nhiên mang đặc tính sinh học có sự thống nhất giữa hai phương diện tự nhiên

9

và xã hội”. Trong các mối quan hệ xã hội con người thể hiện bản chất của riêng

mình khi tham gia. Tuy nhiên, không phải con người nào cũng thực hiện tội phạm

và trở thành người phạm tội. Người phạm tội chính là con người của xã hội có

những đặc điểm riêng mà người không phạm tội không có đó chính là tính nguy

hiểm cho xã hội trong hành vi của họ. Con người không phải sinh ra đã trở thành

người phạm tội, những đặc điểm nhân thân của con người tồn tại trong xã hội theo

cả hai hướng: tích cực và tiêu cực. Chính vì vậy, mà có người trở thành người phạm

tội còn người khác thì không. Những đặc điểm thuộc về nhân thân con người - sinh

học, tâm lý, xã hội - nếu gặp những điều kiện, hoàn cảnh không thuận lợi của quá

trình hình thành nhân cách sẽ trở thành những đặc điểm nhân thân xấu, những đặc

điểm nhân thân xấu này khi gặp những tình huống bên ngoài thuận lợi sẽ dễ làm

phát sinh hành vi phạm tội [4, tr.10].

Thứ hai,Những đặc điểm dấu hiệu đặc trưng nhất phản ánh bản chất của

người phạm tội tác động với những tình huống và hoàn cảnh khách quan đã tạo ra

xử sự phạm tội của người đó là nhân thân người phạm tội. Những đặc điểm này đã

được tích lũy và hình thành trong suốt quá trình sống, phản ánh bản chất xã hội của

người phạm tội mang tính đặc trưng, phổ biến và có vai trò quan trọng trong cơ chế

tâm lý xã hội của hành vi phạm tội. Tội phạm học nghiên cứu ở một số khía cạnh cụ

thể như: Đặc điểm sinh học giới tính, độ tuổi; đặc điểm xã hội trình độ học vấn,

nghề nghiệp, nơi cư trú, nghề nghiệp, đặc điểm tâm lý phản ánh nhận thức xã hội

tiêu cực của người phạm tội, đặc điểm nhân thân mang tính pháp lý hình sự…

Một trong những yếu tố quan trọng tạo thành nhân thân là sự nhận thức về

mặt xã hội của con người được quyết định bởi các quan hệ xã hội tạo nên như:

chính trị, tư tưởng, pháp luật… Tất cả những quan hệ đó gắn liền với sự nhận thức

thế giới khách quan của con người.

Tội đánh bạc được quy định tại điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 như sau:

“Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào thua bằng tiền hay hiện

vật trị giá từ năm triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới năm triệu đồng, đã

bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi về tội tổ chức đánh bạc

10

hoặc gá bạc, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam

giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”[21].Ở Việt Nam, đánh bạc

còn được coi là một tệ nạn, là những sai lệch chuẩn mực xã hội, có tính phổ biến,

gây thiệt hại nghiêm trọng cho đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội . Vì vậy, nhà

nước luôn phải quan tâm phòng, chống để xã hội được ổn định và phát triển.

Trên cơ sở quan điểm nhân thân người phạm tội, tội đánh bạc được quy định

trong luật hình sự, tác giả đưa ra khái niệm nhân thân người phạm tội đánh bạc như

sau: “Nhân thân người phạm tội đánh bạc là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu

thể hiện bản chất xã hội của con người và các đặc điểm, dấu hiệu này kết hợp với

hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến người đó thực hiện hành vi phạm tội đánh bạc

được quy định tại điều 321 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017”.

1.1.2. Các đặc điểm nhân thân người phạm tội đánh bạc

Khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội, việc tìm hiểu rõ những đặc điểm

đặc trưng của người phạm tội, xác định được các yếu tố, điều kiện, môi trường hình

thành các đặc điểm đó là mục đích của tội phạm học. Nhân thân người phạm tội

đánh bạc có những đặc điểm riêng để phân biệt với những người phạm tội khác

trong BLHS và với người không phạm tội; có thể chia thành 04 nhóm như sau:

1.1.2.1. Nhóm đặc điểm sinh học (nhân chủng học)

a. Giới tính

Tìm hiểu đặc điểm giới tính thuộc nhóm đặc điểm sinh học (nhân chủng học)

giúp xác định được người phạm tội đánh bạc là nam hay nữ, qua đó cho thấy tình

hình tội đánh bạc qua giới tính. Qua công tác nghiên cứu trong tình hình tội phạm

nói chung cho thấy số lượng phạm tội giữa nam giới và nữ giới có sự khác nhau,

nam giới thường phạm tội nhiều hơn so với nữ giới. Nam giới và nữ giới có những

đặc trưng riêng của giới tính như: nữ giới thường ôn hòa, dịu dàng, khả năng chịu

đựng tốt…; Nam giới có thể chất mạnh mẽ, thích chinh phục phái đẹp, thích thể

hiện bản thân, khả năng kiềm chế sở thích không tốt và kiềm chế hành vi thấp hơn.

Ngoài ra, đây là đối tượng dễ bị ảnh hưởng và bị lôi kéo bởi những thói hư, tật xấu

trong xã hội như cờ bạc, ma túy, mại dâm, văn hóa phẩm đồi trụy… nên dễ hình

11

thành những phẩm chất cá nhân tiêu cực, trạng thái tâm lý tiêu cực hơn so với nữ

giới. Hơn nữa, ở Việt Nam hiện nay vẫn còn tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đang

tồn tại trong nhiều gia đình. Đối chiếu với các đặc điểm của tội đánh bạc cho thấy tỉ

lệ phạm tội đánh bạc do nam giới thực hiện nhiều hơn nữ giới. Tuy vậy, trong

những năm gần đây tỷ lệ nữ giới dưới 18 tuổi phạm tội có xu hướng gia tăng do sự

thay đổi vị trí, vai trò của nữ giới trong gia đình và xã hội, người phụ nữ được giải

phóng khỏi công việc gia đình, tham gia nhiều vào hoạt động xã hội nên[43, tr.48].

b. Độ tuổi

Độ tuổi gắn với vị trí, vai trò của con người trong xã hội, mối quan hệ của

người đó tham gia, sự phát triển và hình thành nhân cách. Nghiên cứu đặc điểm lứa

tuổi trong nhân thân người phạm tội đánh bạc sẽ giúp xác định được lứa tuổi nào

phạm tội này nhiều nhất, lứa tuổi nào phạm tội ít nhất, từ đó xác định được biện

pháp phòng ngừa cụ thể. Độ tuổi của người phạm tội đánh bạc được chia thành 4

nhóm:

- Nhóm từ 14 đến dưới 18 tuổi: nhóm người này dễ bị tác động bởi môi

trường bên ngoài do việc hạn khả năng điều khiển hành vi, kinh nghiệm sống còn ít,

nhận thức tâm lý chưa đầy đủ.

- Nhóm từ 18 đến dưới 30 tuổi: nhóm này so với nhóm 14 đến dưới 18 tuổi

thì sự hoàn thiện về tâm sinh lý và khả năng điều khiển hành vi cao hơn, tuy nhiên

lại dễ bị tác động bởi môi trường sống xung quanh do áp lực công việc và cuộc

sống riêng.

- Nhóm từ 30 tuổi đến dưới 45 tuổi: đây là nhóm tuổi trưởng thành và chín

chắn về mọi mặt có sự ổn định về gia đình, công việc.

- Nhóm trên 45 tuổi: nhóm tuổi này đã có thành tựu nhất định về công việc,

cuộc sống, khó bị tác động bởi môi trường bên ngoài.

Mỗi nhóm tuổi của người phạm tội đánh bạc có trình độ nhận thức về thế

giới khách quan, hiểu biết về pháp luật, khả năng kiểm soát hành vi của bản thân

khác nhau. Nghiên cứu về độ tuổi cho phép xác định “mức độ tích cực phạm tội” và

12

đặc điểm về hành vi chống đối xã hội của những người thuộc lứa tuổi khác nhau [4,

tr.144].

Nghiên cứu nhân thân người phạm tội đánh bạc ở khía cạnh độ tuổi cho thấy

độ tuổi từ 35 đến 40 tuổi phạm tội nhiều nhất. Tuy nhóm này có sự trưởng thành và

tâm sinh lý phát triển đã đầy đủtuy nhiên vẫn đang thuộc nhóm lao động trẻ của xã

hội. Một bộ phận trong nhóm này nếu chưa có nghề nghiệp ổn định thì dễ nảy sinh

tâm lý bi quan, chán nản sẽ dẫn đến những tiêu cực về tâm lý, rơi vào các tệ nạn xã

hội, dễ bị bạn bè rủ rê, lôi kéo dẫn đến thực hiện hành vi phạm tội.

Ngoài các đặc điểm như giới tính, độ tuổi thì các đặc điểm khác như quốc

tịch, dân tộc, sức khỏe… cũng có ý nghĩa trong việc nghiên cứu nhân thân người

phạm tội. Các đặc điểm này có mối quan hệ mật thiết với các thuộc tính văn hóa, vị

trí, vai trò… của con người trong xã hội.

1.1.2.2. Nhóm đặc điểm mang dấu hiệu xã hội

Những đặc điểm mang dấu hiệu xã hội của nhân thân người phạm tội đánh

bạc là những đặc điểm đặc trưng của cá nhân người phạm tội, bao gồm: Nhóm đặc

điểm này bao gồm: trình độ học vấn, địa vị xã hội - nghề nghiệp, hoàn cảnh gia

đình, nơi cư trú…

a. Trình độ học vấn

Học vấn là danh từ chỉ mức độ của việc học mà một con người đã đạt tới:

tiểu học, trung học, đại học… Ở mỗi mức như thế, ta có thể gọi là trình độ học tập

mà mỗi người đạt đến và có ảnh hưởng lớn đến nhận thức của con người, khả năng

ứng xử của con người đối với các mối quan hệ xã hội và hành vi phạm tội nói riêng.

Thực tế, cách thức ứng xử trước những vấn đề của cuộc sống và sự kiểm soát những

hành vi phạm tội của con người liên quan đến trình độ học vấn. Đa phần những

người có trình độ cao thì linh hoạt hơn và ngược lại nhận thức pháp luật của những

người có trình độ học vấn còn thấp, dẫn đến nguy cơ phạm tội rất cao. Tuy nhiên,

mức độ ảnh hưởng của học vấn đối với từng loại tội, từng nhỏm tội khác nhau, có

những nhóm tội đòi hỏi phải có trình độ nhất định như nhóm tội phạm sử dụng công

13

nghệ cao, nhóm tội trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Đối với người phạm tội

đánh bạc không cần có trình độ cao mới có thể thực hiện được hành vi phạm tội.

Dựa vào đặc điểm này có thể chia làm 04 nhóm như sau: nhóm không biết

chữ, nhóm có trình độ học vấn từ tiểu học đến trung học cơ sở, nhóm có trình độ ở

mức trung học phổ thông; nhóm có trình độ từ trung cấp, cao đẳng đại học trở lên.

Trong các nhóm này nhóm không biết chứ, nhóm có trình độ học vấn từ tiểu học

đến trung học cơ sở và nhóm có trình độ ở mức trung học phổ thông phạm tội đánh

bạc chiếm tỉ lệ khá cao do trình độ học vấn thấp dẫn đến sự ảnh hưởng đến nhu cầu

và lợi ích, đến cách sử dụng thời gian và cách xử sự của con người nói chung và

hành vi phạm tội đánh bạc nói riêng. Những người phạm tội đánh bạc có trình độ

học vấn không cao so với những người không phạm tội cùng độ tuổi vì có có ý thức

pháp luật kém, họ thiếu hiểu biết về pháp luật hoặc có thái độ tiêu cực đối với các

chuẩn mực pháp luật. Những người thực hiện hành vi đánh bạc nhận thức rõ được

việc làm của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm trật tự công cộng, hành vi nguy

hiểm cho xã hội nhằm thu được những lợi ích vật chất.

b. Đặc điểm về hoàn cảnh gia đình

Gia đình là môi trường đầu tiên, có vai trò quan trọng trong việc hình thành

và phát triển nhân cách của một con người, cũng chính trong gia đình mỗi người

học được cách cư xử với người xung quanh và xã hội. Nghiên cứu đặc điểm hoàn

cảnh gia đình trong nhân thân người phạm tội đánh bạc là nghiên cứu hoàn cảnh

kinh tế, quan hệ gia đình tác động đối với họ như thế nào.

Người phạm tội đánh bạc được chia thành: gia đình bị khiếm khuyết và gia

đình có cơ cấu hoàn thiện căn cứ vào đặc điểm hoàn cảnh gia đình. Đối với trường

hợp gia đình khuyết thiếu như không có cha, không có mẹ, hoặc không có cả cha và

mẹ, cha mẹ ly hôn hoặc cha mẹ kết hôn, chung sống như vợ chồng với người khác,

gia đình có thành viên vi phạm pháp luật, sống không hòa thuận hạnh phúc thường

thiếu sự quan tâm dạy bảo đối với con cái. Những đứa trẻ sống trong gia đình như

thế này thường thiếu sự giáo dục về pháp luật, kĩ năng sống… nên tỉ lệ phạm tội cao

và ngược lại. Đối với gia đình người Việt Nam thì mối quan hệ giữa các thành viên

14

trong gia đình có vai trò rất quan trọng. Khi gia đình bị khiếm khuyết và có cơ cấu

không hoàn thiện dẫn đến con cái rơi vào khủng hoảng, chán nản, tiêu cực. Khi

không có sự quan tâm từ gia đình những đứa trẻ sống trong gia đình này thường có

những hành động cảm tính, bản năng của lứa tuổi sẽ dẫn đến bị lôi kéo, tác động

thực hiện hành vi phạm tội đánh bạc.

Dựa vào đặc điểm hoàn cảnh kinh tế gia đình, người phạm tội đánh bạc được

chia thành 02 nhóm: Người phạm tội sống trong gia đình có hoàn cảnh kinh tế

thuận lợi, người phạm tội sống trong gia đình có hoàn cảnh kinh tế không thuận lợi.

Một số gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, đông con thì những thành viên

trong gia đình phải vất vả mưu sinh, cha mẹ ít quan tâm dạy bảo con cái… dễ dẫn

đến tâm lý tiêu cực nảy sinh hành vi phạm tội hoặc gia đình có hoàn cảnh kinh tế

khó khăn thì người phạm tội coi việc thực hiện hành vi phạm tội đánh bạc là nguồn

kinh tế nuôi sống bản thân.

Đối với những gia đình mà một số thành viên có hành vi phạm tội đánh bạc

hoặc có tiền án tiền sự, đặc biệt là bố mẹ. Khi cha mẹ là những người có sự suy

thoái đạo đức, thực hiện hành vi vi phạm pháp luật thì rất khó giáo dục con cái trở

thành những người tốt. Khi những người trong gia đình có hành vi phạm tội đánh

bạc, khẳng định hành vi chống đối xã hội sẽ khiến các em bắt chước và dần coi

thường pháp luật, nhiễm các thói hư tật xấu và dễ bị lôi kéo, đồng phạm với những

người trong gia đình phạm tội đánh bạc.

Ngoài ra, còn một số kiểu gia đình quá nuông chiều con cái, vô tình hình

thành những thói quen không tốt và thỏa mãn nhu cầu vật chất của mình, tham gia

vào các tệ nạn xã hội cờ bạc, ma túy, mại dâm. Sự nuông chiều quá mức của cha

mẹ, luôn thỏa mãn mọi đòi hỏi thậm chí là những đòi hỏi vô lí của con cái nên rất

khó răn đe, giáo dục dần hình thành tính ích kỉ, kiêu ngạo, ỷ lại, dựa dẫm, lười

biếng, không ý thức về trách nhiệm của mình đối với gia đình, xã hội mà luôn muốn

hưởng thụ. Khi gia đình không còn khả năng đáp ứng nhu cầu sẽ dẫn đến sự bất

mãn, thù ghét bố mẹ dễ bỏ nhà đi theo nhóm bạn xấu, đễ bị lôi kéo vào việc thực

hiện hành vi phạm tội trong đó có đánh bạc.

15

c.Địa vị xã hội và nghề nghiệp

Địa vị xã hội và nghề nghiệp có mối quan hệ mật thiết tới sự hình thành và

phát triển nhân cách của con người. Địa vị xã hội và nghề nghiệp ổn định giúp đảm

bảo cuộc sống, khả năng phạm tội thấp và ngược lại người có địa vị xã hội và nghề

nghiệp không ổn định thì đời sống vật chất không được đảm bảo, thu nhập bấp bênh

khi chịu sự tác động tiêu cực từ môi trường bên ngoài sẽ có nguy cơ cao thực hiện

các hành vi phạm tội. Căn cứ vào đặc điểm nghề nghiệp, người phạm tội đánh bạc

được chia thành 03 nhóm: (1) Người có nghề nghiệp ổn định, (2) Người có nghề

nghiệp nhưng không ổn định, (3) Người không nghề nghiệp. Nghiên cứu nhân thân

người phạm tội đánh bạc căn cứ vào đặc điểm nghề nghiệp cho thấy số bị cáo

không có nghề nghiệp và nghề nghiệp không ổn định chiếm tỉ lệ cao do những

người này có thu nhập thấp, bấp bênh, cuộc sống không đầy đủ… là yếu tố tác động

lớn đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội đánh

bạc. Những người phạm tội đánh bạc đều hướng tới mục đích thu lợi giá trị về vật

chất nhất định khi thực hiện hành vi phạm tội

d. Nơi cư trú

Đặc điểm về nơi cư trú có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát

triển nhân cách của con người có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động dự báo và

phòng ngừa tội phạm là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến tình trạng phạm tội.

Những người có nơi cư trú ổn định với môi trường an ninh trật tự tốt, tình làng xóm

đoàn kết, khu dân cư văn hóa… thì mục đích, động cơ phạm tội đánh bạc rất thấp.

Ngược lại, nếu người nào có nơi cư trú đa phần đều là những người phạm pháp, tệ

nạn… thì rất dễ có khả năng phạm tội. Dựa vào đặc điểm này có thể chia thành 03

nhóm: người có nơi cư trú ổn định, người có nơi cư trú không ổn định và người

không có nơi cư trú. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội đánh bạc ở khía cạnh

nơi cư trú thì cho thấu những người có nơi cư trú không ổn định chiếm tỉ lệ khá cao

đa phần là những đối tượng trốn tránh sự phát hiện của các cơ quan chức năng nên

liên tục thay đổi nơi cư trú để bảo đảm bí mật

16

1.1.2.3. Nhóm đặc điểm đạo đức – tâm lý

a. Quan niệm, quan điểm đối với các giá trị đạo đức xã hội và pháp luật

Người phạm tội đánh bạc thường là người có trình độ học vấn thấp, quan niệm

sai lầm về các giá trị cuộc sống, không hiểu biết hoặc ít hiểu biết pháp luật nên thường

có thái độ thờ ơ, coi thường pháp luật. Những sai lệch trong ý thức pháp luật cũng là

một trong những yếu tố tác động đến cơ chế phát sinh tội phạm khi gặp hoàn cảnh, tình

huống cụ thể họ sẽ không kiềm chế, kiểm soát được hành vi của mình, xử sự không

đúng đắn và có hành vi vi phạm pháp luật, hoặc cho rằng hành vi vi phạm pháp luật

trong đó có đánh bạc mình làm có thể sẽ không bị phát hiện, có bị phát hiện nhưng

không bị xử lý; cá biệt có những chủ thể có thái độ và hành động chống đối pháp luật.

Mỗi người đều có quan niệm về các giá trị đạo đức khác nhau đây là một hình

thái ý thức xã hội với toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách

nhiệm, hạnh phúc, công bằng… và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng

xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội. Khi thực hiện hành

vi ứng xử, chủ thể của đạo đức dựa vào các chuẩn mực được hình thành trong bản thân

họ (chuẩn mực này đã tiếp thu chuẩn mực đạo đức xã hội và do điều kiện sinh sống và

các quan hệ xã hội cụ thể của cá nhân chủ thể tạo thành). Nếu các chuẩn mực đó phù

hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội, nó sẽ trở thành cơ sở khách quan làm cho hành vi

đạo đức của cá nhân phù hợp với lợi ích xã hội, được dư luận đồng tình ủng hộ. Ngược

lại, mỗi khi chuẩn mực cá nhân sai lệch chuẩn mực xã hội sẽ dẫn đến hành vi cá nhân

không phù hợp với lợi ích xã hội. Hiện nay, nền kinh tế thị trường phát triển bên cạnh

những mặt tích cực thì cũng tồn tại những mặt tiêu cực trong xã hội, thúc đẩy chủ

nghĩa cá nhân phát triển, khiến cho một số người chỉ quan tâm tới lợi nhuận, lợi ích

kinh tế trên hết, họ có thể làm bất cứ điều gì để duy trì sự tồn tại và để làm giàu, bất

chấp cả việc thực hiện hành vi phạm tội sống cho bản thân, cho những ham muốn, đòi

hỏi lệch lạc ảnh hưởng đến nếp sống văn minh và nhân cách của người thực hiện hành

vi phạm tội do sự sát phạt, ham muốn đỏ đen.

b. Nhu cầu, sở thích, thói quen

17

Những người trẻ thành công thường có quan niệm rằng hạnh phúc luôn đi đôi

với một cuộc sống lành mạnh, chủ động và thời quen sử dụng thời gian thông minh để

cân bằng công việc và sở thích khi rảnh rỗi. Đối với những người phạm tội đánh bạc

thường có thói quen, sở thích tiêu cực, coi trọng vật chất, tiền bạc và bất chấp để thỏa

mãn sở thích đánh bạc. Các yếu tố thộc về chủ quan cá nhân người phạm tội đánh bạc

gồm có những sai lệch về sở thích, nhu cầu, cách thức thỏa mãn nhu cầu, lợi ích của

bản thân bất chấp hành vi đó là vi phạm pháp luật “Vì các đặc điểm nhân thân được

hình thành thông qua một quá trình lâu dài và phức tạp, hơn nữa lại phụ thuộc vào

nhận thức, hiểu biết của từng cá nhân cụ thể[42]. Đồng thời, phần lớn họ có lối sống

không lành mạnh, lười lao động, nghiện ma túy, rượu chè. Các sở thích lệch lạc, thiểu

hiểu biết coi thường pháp luật dẫn đến người đó phạm pháp.

1.1.2.4. Nhóm đặc điểm pháp lý hình sự

a. Động cơ, mục đích phạm tội

Về nhóm đặc điểm pháp lý hình sự trong nhân thân người phạm tội đánh bạc

giúp nhận thức được tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi đánh bạc. Tác giả

nghiên cứu đặc điểm pháp lý hình sự của tội đánh bạc chia thành 02 nhóm: người

phạm tội có tiền án, tiền sự và người phạm tội chưa có tiền án, tiền sự.

Những người có tiền án, tiền sự bất chấp pháp luật, coi thường sự quản lí của

các cơ quan Nhà nước, của tập thể vì lợi ích của bản thân chính vì vậy khi họ thực hiện

hành vi phạm tội có tính chất, mức độ nghiêm trọng, nguy hiểm cao hơn so với người

mới phạm tội lần đầu, bởi họ đã cơ kinh nghiệm đối phó với các cơ quan chức năng

cũng như việc thực hiện tội phạm nên họ phải chịu trách nhiệm hình sự nặng hơn

người mới phạm tội lần đầu. Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung

năm 2017) quy định khung hình phạt tăng nặng có mức phạt từ 03 năm đến 07 năm áp

dụng cho trường hợp sau:

Có tính chất chuyên nghiêp là trường hợp đánh bạc năm lần trở lên mà tổng số

tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu

(Mức tối thiểu được quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS năm 2015 là 5 triệu đồng) để

18

truy cứu trách nhiệm hình sự và lấy tiền hiện vật do đánh bạc mà có làm nguồn sống

chính; tái phạm nguy hiểm…

Trong nhóm đặc điểm này thi nhân thân người phạm tội đánh bạc đa phần là

những người có tiền án, tiền sự. Tình trạng tái phạm tội tiếp tục xảy ra do công tác giáo

dục, cải tạo người phạm tội vẫn còn hạn chế; họ chưa được trang bị những kĩ năng

sống để quay lại với đời sống cộng động. Những người này gặp khó khăn trong việc tái

hòa nhập cộng đồng, khó kiếm được công ăn, việc làm ổn định do sự soi mói, kì thị

trong xã hội. Sự thất nghiệp, nghèo đói là một trong những lí do tác động dẫn đến hành

vi phạm tội của người đánh bạc.

b. Động cơ, mục đích phạm tội

Đối với tội đánh bạc, động cơ của người phạm tội nhằm sát phạt nhau để thu lợi

ích vật chất thông qua hành vi đánh bạc hoặc dùng địa điểm do mình sở hữu, quản lý,

sử dụng người khác đánh bạc.

Người phạm tội đánh bạc khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật đều hướng

đến mục đích tư lợi, để thu những giá trị về vật chất nhất định.

Tóm lại, nhân thân người phạm tội đánh bạc bao gồm 3 nhóm đặc điểm cơ bản

mỗi nhóm thể hiện những khía cạnh khác nhau của nhân thân người phạm tội đánh bạc.

Các đặc điểm điểm này có mối liên hệ, tác động qua lại hữu cơ lẫn nhau tạo thành một

nhân cách tiêu cực của cá nhân người phạm tội. Việc nghiên cứu nhân thân người

phạm tội đánh bạc quan trọng trong tội phạm học có ý nghĩa quan trọng trong tội phạm

học nhằm xác định đối tượng có nguy cơ cao trong việc thực hiện tội đánh bạc, theo đó

đề ra biện pháp phòng ngừa hướng tới đối tượng này.

1.1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội đánh bạc

Nghiên cứu nhân thân người phạm tội đánh bạc có ý nghĩa to lớn trong công

tác phòng ngừa tội phạm. Trong phạm vi luận văn, tác giả xin đề cập đến việc

nghiên cứu nhân thân người phạm tội đánh bạc với ý nghĩa chính sau:

Thứ nhất,nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội đánh bạc góp phần

làm rõ quá trình định tội, định khung và quyết định hình phạt được chính xác.

19

Theo khoa học luật hình sự: “nhân thân người phạm tội được hiểu là tổng

thể các đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội của người thực hiện tội phạm được cân

nhắc để giải quyết những vấn đề của trách nhiệm hình sự (cá thể hóa hình phạt,

miễn trách nhiệm hình sự, miễn và giảm hình phạt)”[61, tr.194]. Chính vì vậy trong

thực tế, các đặc điểm của nhân thân phải được thể hiện trong bản kết luận điều tra

của cơ quan điều tra, Cáo trạng của Viện kiểm sát và Bản án của Tòa án.

Hành vi đánh bạc tromg thực tế có thể gây ra nhiều hậu quả rất nghiêm trọng

cho xã hội như: gia đình không hạnh phúc, dẫn đến các hành vi phạm tội khác như

cố ý gây thương tích, trộm cắp, cướp giật tài sản, cho vay nặng lãi… đây là những

vấn đề rất đáng lo ngại trong xã hội hiện nay. Truy cứu trách nhiệm hình sự với tội

đánh bạc với một trong các điều kiện được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 sửa

đổi, bổ sung năm 2017 như sau:

“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kì hình thức nào được thua bằng

tiền hoặc hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới

5.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt hành chính về hành vi này

hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại điều 322 của Bộ luật này, chưa được

xóa án tích mà còn vi phạm, bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt

tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội một trong các trường hợp sau đây, thì phạt tù từ 03 đến 07 năm:

a) Có tính chất chuyên nghiệp;

b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lêm;

c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện

điện tử để phạm tội” [Điều 321, 21]

Như vậy chúng ta thấy rằng việc đưa những yếu tố thuộc về nhân thân như:

nếu số tiền, tài sản đánh bạc có giá trị dưới 5.000.000 đồng thì người có hành vi

đánh bạc đã bị xử phạt hành chính về tội này hoặc tội được quy định tại điều 322

của Bộ luật hình sự; có tính chất chuyên nghiệp… làm yếu tố để định tội, định

khung, quyết định hình phạt như hình phạt chính, hình phạt bổ sung được chính xác.

20

Đối với tội đánh bạc, những người tham gia đánh bạc nhằm mục đích sát

phạt nhau mang tính vụ lợi vì vậy đây là lỗi cố ý trực tiếp. Họ nhận thức được tính

nguy hiểm cho xã hội, thấy được hậu quả khi thực hiện hành vi của mình và mong

muốn hậu quả đó xảy ra.

Chủ thể của tội đánh bạc không phải chủ thể đặc biệt mà là bất kì người nào

có năng lực trách nhiệm hình sự. Người từ đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách

nhiệm hình sự về tội đánh bạc vì tội đánh bạc là tội phạm do cố ý và không có

trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.

Khi quyết định định khung, định tội, hình phạt để đảm bảo một cách khách

quan và chính xác nhất các Cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét nhân thân người

phải tội ở rất nhiều khía cạnh như: độ tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, mặt xấu

cũng như mặt tối của nhân thân người phạm tội… và đặc biệt hướng tới mục đích

cao cả nhất là xem xét khả năng ăn năn, hối cải về hành vi của mình, có khả năng

trở thành người có ích cho xã hội hay không thông qua việc khắc phục hậu quả, thái

độ thành khẩn trong khai báo…

Thứ hai, nghiên cứu nhân thân người phạm tội đánh bạc tạo cơ sở xác định

nguyên nhân và điều kiện của tình hình loại tội phạm (nguyên nhân từ phía người

phạm tội và nguyên nhân từ phía xã hội)

Chúng ta có thể thấy rằng nhân thân người phạm tội đánh bạc là tổng thể

những đặc điểm chi phối hành động phạm tội và là kết quả sự tác động qua lại giữa

người phạm tội và môi trường xã hội. Những yếu tố tiêu cực trong nhân thân người

phạm tội từ môi trường gia đình nhà trường, xã hội… chính là nguyên nhân và điều

kiện của tình hình tội đánh bạc

Thứ ba, nghiên cứu nhân thân người phạm tội đánh bạc chúng ta có thể xác

định những yếu tố tiêu cực từ phía người phạm tội đánh bạc

Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, do đó, môi trường xã

hội có tác động sâu sắc đến việc thực hiện hành vi hóa mỗi cá nhân con người. Qua

nghiên cứu lý luận về tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, nhân thân người phạm

tội cụ thể chính là tình hình về mọi mặt của một con người trong một giai đoạn nhất

21

định, là hình thức riêng biệt của sự tồn tại những quan hệ xã hội. Việc làm rõ những

yếu tố tiêu cực của người phạm tội được hình thành trong quá trình sống – tác nhân

làm phát sinh tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trả lời cho câu hỏi hành vi phạm

tội được hình thành do ảnh hưởng bởi cái gì, môi trường xung quanh đã tác động

vào người phạm tội đánh bạc thế nào khiến người đó thực hiện hành vi phạm tội.

Thứ tư, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội đánh bạc cũng có ý

nghĩa trong việc đề ra các biện pháp giáo dục, cải tạo, quản lý người phạm tội một

cách phù hợp và hiệu quả.

Nghiên cứu nhân thân người phạm tội đánh bạc đưa ra các hình thức, phương

pháp giáo dục, cải tạo, quản lý người phạm tội phù hợp và hiệu quả. Dựa vào các

đặc điểm nhân thân người phạm tội đánh bạc để phân loại người phạm tội, tìm ra

những yếu tố cá biệt (những đặc điểm nhân thân riêng biệt) như đặc điểm nhân

thân, lai lịch, thái độ chấp hành án của từng ngườitừ đó đề ra những biện pháp tuyên

truyền, giáo dục, cải tạo giúp họ hiểu được giá trị của lao động và khi chấp hành

hình phạt xong về địa phương, họ có thể dễ dàng tái hòa nhập cộng đồng.

1.1.4. Các mối quan hệ của nhân thân người phạm tội đánh bạc

1.1.4.1. Với nghiên cứu tình hình tội đánh bạc

Nhân thân người phạm tội đánh bạc có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua

lại với tình hình tội đánh bạc. Mối quan hệ này thể hiện ở các nội dung đó là:

Một là, thông qua tình hình tội đánh bạc là cơ sở chúng ta có thể phân tích và

rút ra được những đặc điểm của nhân thân người phạm tội. Trên cơ sở phân tích

tình hình tội phạm chúng ta sẽ nghiên cứu được những thông số của tình hình hình

tội phạm như diễn biến, thực trạng, cơ cấu, tính chất của tình hình tội phạm. Khi

nghiên cứu những nội dung này sẽ là cơ sở để nhận thức nhận thức nhân thân người

phạm tội đánh bạc một cách chính xác nhất.

Thứ hai, nghiên cứu nhân thân người phạm tội đánh bạc giúp ta có nhận thức

đúng đắn, toàn diện về tình hình các tội đánh bạc. Khi nghiên cứu vấn đề này có thể

làm rõ được trạng thái, xu thế vận động của tội phạm. Khi nghiên cứu nhân thân

người phạm tội phải đặt trong mối quan hệ với tình hình tội phạm đó.

22

1.1.4.2. Với nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội đánh bạc

Theo GS.TS Võ Khánh Vinh: “Việc phân tích các nguyên nhân và điều kiện

của tình hình tội phạm của tội phạm đã chỉ ra rằng không thể nhận thức, hiểu biết

được các nguyên nhân và điều kiện đó nếu thiếu việc cân nhắc nhân thân người

phạm tội, bản chất, các đặc điểm và quá trình hình thành nó.” [65. tr.126]

Khi nghiên cứu tội đánh bạc phải đặt trong mối quan hệ với nhân thân người

phạm tội để tìm ra nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội này. Nhân thân người

phạm tội được xác định là sự tác động qua lại giữa yếu tố môi trường tâm, sinh lý

của người phạm tội chính là một yếu tố quan trọng. Những đặc điểm nhân thân xấu

khi gặp các tình huống, môi trường nhất định sẽ thực hiện hành vi phạm tội. Những

tình huống, môi trường ấy được coi là nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội

đánh bạc. Nhân thân người phạm tội không tự nhiên sinh ra mà hình thành, phát

triển trải qua một quá trình tương tác lâu dài giữa các yếu tố khách quan thuộc môi

trường sống (bao gồm yếu tố thuận lợi và không thuận lợi); yếu tố thuận lợi sẽ tác

động hình thành nhân thân tốt; yếu tố không thuận lợi sẽ tác động hình thành nhân

thân xấu. Chính những đặc điểm nhân thân xấu này kết hợp với điều kiện, hoàn

cảnh cụ thể và thiếu sự bản lĩnh trước mọi cám dỗ tiêu cực trong xã hội dễ làm phát

sinh hành vi tiêu cực.

Khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội sẽ có cơ sở để nhận thức những

nguyên nhân làm phát sinh tội phạm, động cơ, mục đích, những vấn đề liên quan

đến người phạm tội như tiền án, tiền sự, động cơ, mục đích, trình độ học vấn, hoàn

cảnh gia đình sẽ giúp phân biệt được người đó thực hiện tội đánh bạc với các tội

khác.

1.1.4.3. Với phòng ngừa tình hình tội đánh bạc

Nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc điểm, dấu hiệu, các đặc tính

thể hiện bản chất xã hội của con người vi phạm pháp luật hình sự, mà trong sự kết

hợp với các điều kiện bên ngoài đã ảnh hưởng đến việc thực hiện hành vi phạm tội

của người đó. Trên cơ sơ nghiên cứu các đặc điểm nhân thân người phạm tội sẽ đưa

ra được những giải pháp phòng ngừa tình hình tội đánh bạc đó là sự kết hợp chặt

23

chẽ, đồng bộ của nhiều biện pháp kinh tế - xã hội với mục đích nâng cao đời sống

vật chất của nhân dân, giải quyết vấn đề việc làm, cũng với những biện pháp cải

thiện môi trường gia đình, giáo dục, văn hóa, tái hòa nhập cộng đồng, tuyên truyền,

phổ biến pháp luật nâng cao ý thức phòng ngừa cho người dân.

Việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội đánh bạc cho phép chúng ta xây

dựng và tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa tình hình tội đánh bạc từ khía

cạnh nhân thân.

Như vậy, nhân thân người phạm tội đánh bạc có mối quan hệ chặt chẽ, tác

động qua lại với tình hình tội đánh bạc, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội

đánh bạc, phòng ngừa tình hình tội đánh bạc. Khi nghiên cứu nhân thân người phạm

tội đánh bạc ta phải đặt trong mối quan hệ đó, không được tách rời nhân thân người

phạm tội đánh bạc với các yếu tố khác.

1.2. Các yếu tố tác động đến việc hình thành nhân người phạm tội đánh

bạc

Người phạm tội đánh bạc trước hết là một con người và có quá trinh phát

triển như những con người khác. Qúa trình hình thành nhân thân người phạm tội

đánh bạc diễn ra theo các giai đoạn và trong các môi trường gia đình, nhà trường,

bạn bè và sự tác động từ các yếu tố khác từ môi trường sống như các cá nhân trong

xã hội bao gồm những yếu tố tích cực và tiêu cực. Song, sự tác động của những yếu

tố này đến người phạm tội diễn ra theo hướng tiêu cực kết hợp với những điều kiện,

hoàn cảnh cụ thể và sự thiếu bản lĩnh dẫn đến việc phạm tội

1.2.1. Các yếu tố khách quan thuộc môi trường sống

1.2.1.1. Môi trường gia đình

Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn quan tâm và có nhiều chủ trương, chính sách

nhằm gìn giữ giá trị gia đình và tạo điều kiện để các ngành, các cấp và mỗi cá nhân

chăm lo xây dựng gia đình Việt Nam no ấm. Trong bối cảnh tác động của toàn cầu

hóa và kinh tế thị trường, cấu trúc và quan hệ gia đình việc nam có thay đổi, thậm

chí có những thay đổi có thể mai một truyền thống. Thế nhưng giá trị của gia đình

vẫn là điều cơ bản thiêng liêng đối với giá trị của mỗi người Việt Nam.

24

Gia đình là môi trường đầu tiên và cũng là môi trường có vai trò quan trọng

trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người, đây là chiếc nôi đầu tiên

nơi con người học ăn, học nói, học cách cư xử với những người xung quanh trong

xã hộiNgười được sinh ra trong môi trường hòa thuận, hạnh phúc, có đầy đủ cha

mẹ… thì đó là môi trường tốt để hình thành và phát triển nhân cách con người hay

nói cách khác những đặc điểm nhân thân tốt, tích cực được hình thành. Ngược lại,

sống trong một gia đình có cha mẹ quá nuông chiều con con cái, gia đình khuyết

thiếu, có hoàn cảnh khó khăn, thường xuyên mâu thuẫn, xung đột, thiếu sự quan

tâm… sẽ hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực đối với mỗi gia đình. Môi

trường gia đình có những yếu tố tác động tiêu cực đến nhân thân người phạm tội

đánh bạc như sau:

Thứ nhất, Gia đình khuyết thiếu, những con người sống trong gia đình này

thường thiếu sự quan tâm, chăm sóc, dạy bảo, thiếu tình yêu thương của cha và mẹ

dẫn đến sự mặc cảm, thiếu tự tin, chán nản, có tâm lý ngang bướng, lệch lạc, bất

cần, không chăm lo học hành, dễ bị các đối tượng xấu lôi kéo, dụ đỗ. Nếu không

được sự quan tâm, giáo dục thì sẽ dễ hình thành sự ham muốn vật chất, coi trọng

đồng tiền, khát khao đổi đời, nhanh chóng có tiền bằng mọi giá… nên khi gặp hoàn

cảnh thuận lợi với sự thiếu bản lĩnh bởi người khác lôi kéo, dụ dỗ dễ dẫn đến thực

hiện hành vi đánh bạc.

Thứ hai,Gia đình quá nuông chiều con cái là gia đình có phụ huynh bảo vệ,

bảo bọc con cái quá mức. Những gia đình này có xu hướng làm thay con tất cả mọi

việc ngay cả khi con chưa có nhu cầu, đáp ứng bất cứ thứ gì con đòi hỏi, thường

xuyên nhượng bộ con, chu cấp vật chất cho con quá nhiều… Sai lầm này đã tước đi

việc rèn luyện tính tự lập, ngoài ra còn khiến trẻ nảy sinh những đặc điểm nhân thân

xấu như: ỷ lại, sống phụ thuộc, dựa dẫm vào cha mẹ, ích kỷ, hẹp hòi, đề cao cái tôi

cá nhân mà coi thường lợi ích của người khác, đòi hỏi, coi thường giá trị mà lao

động đem lại… Khi đến lúc, gia đình không thể thỏa mãn được hay không có điều

kiện đáp ứng thì trẻ thù ghét cha mẹ, bất mãn, bỏ nhà đi, tụ tập với bạn bè xấu.

25

Nhiều trẻ phạm tội để thỏa mãn những nhu cầu không chính đáng như cờ bạc, ma

túy, đua xe…

Thứ ba, Gia đình quá nghiêm khắc hoặc gia đình không quan tâm giáo dục

con. Nhiều bậc phụ huynh cho rằng nghiêm khắc với trẻ là một trong những điều

cần thiết để giáo dục trẻ. Nhưng có những gia đình quá nghiêm khắc khiến con cái

dần trở nên xa cách lo âu, sợ hãi, tránh xa bố mẹ. Lâu dần sẽ hình thành sự nói dối,

đối phó với bố mẹ, sự bất mãn, căm hận, mong muốn trả thù… Sự nghiêm khắc này

làm cho trẻ không dám đòi hỏi vật chất, từ đó hình thành những khát khao như có

điện thoại mới, xe mới… Nếu gặp tình huống thuận lợi sẽ rất dễ nảy sinh hành vi

phạm tội để thỏa mãn nhu cầu vật chất của mình trong đó có hành vi phạm tội đánh

bạc.

Trong những gia đình thiếu sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục con cái mặc dù

cha mẹ có đủ điều kiện, đủ kiến thức sẽ dẫn đến việc trẻ có tâm lý cô đơn, chán nản

tìm đến bạn bè hoặc nguồn vui khác trong đó có những điều không tốt trong đó có

hành vi đánh bạc.

Thứ tư, Gia đình không hòa thuận hạnh phúc là gia đình không có ai yêu

thương bảo vệ trẻ, bạo hành lẫn nhau thậm chí bạo hành trẻ. Sự hòa hợp của các cặp

vợ chồng quyết định đến hạnh phúc của gia đình và bảo đảm sự phát triển ổn định

cho con cái họ. Nếu những bất hòa, mâu thuẫn, cãi vã liên tục xảy ra, không những

tâm lý của vợ chồng bị ảnh hưởng mà con cái họ cũng phải chịu áp lực rất lớn. Sống

trong môi trường này thường gây cho trẻ những nỗi buồn, lo âu, dễ có những suy

nghĩ lệch lạc, tiêu cực dễ sa vào hành vi phạm tội, dễ bị sự rủ rê, lôi kéo của bạn bè

xấu thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật trong đó có đánh bạc.

Thứ năm, Những người sống trong gia đình có người thân vi phạm pháp luật

hay phạm tội. Nhiều gia đình có thành viên có sự không gương mẫu trong lối sống,

sa đà vào tệ nạn xã hội, có hành vi phạm tội, coi nhẹ các giá trị đạo đức, pháp luật,

thực dụng đặc biệt là những gia đình có người phạm tội đánh bạc. Những người

sống trong gia đình này dễ bị lôi kéo cùng thực hiện hành vi phạm tội, hay tác động

những yếu tố tiêu cực như tham lam, vụ lợi, coi trọng giá trị vật chất, tiền bạc…

26

Khi gặp tình huống thuận lợi và để thỏa mãn những nhu cầu của mình, người phạm

tội sẽ bất chấp đó là vi phạm pháp luật và sẵn sàng thực hiện hành vi. Những người

sống trong gia đình này sẽ có sự định hướng giá trị cuộc sống của mỗi cá nhân lệch

lạc. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhận thức và hành vi của trẻ. Trẻ sẽ học

cách phản ứng của các thành viên trong gia đình để ứng xử với mọi người bên ngoài

xã hội và sẽ dẫn đến những hành vi lệch chuẩn trong đó có đánh bạc. Bản thân cha

mẹ trong những gia đình này thiếu hiểu biết về xã hội, kĩ năng sống, thiếu sự trang

bị những kiến thức về pháp luật sẽ không có phương pháp giáo dục đúng đắn đối

với trẻ. Từ đó, bản thân sẽ không nhận thức được các giá trị, chuẩn mực xã hội từ

trong gia đình, chán nản, thất vọng, không có niềm tin vào bản thân, những người

xung quanh và dẫn đến bước vào con đường xấu, dẫn đến phạm pháp.

Ngày nay, những tác động xấu của đời sống xã hội cùng với những biến đổi

của nền kinh tế thị trường làm cho văn hóa gia đình có dấu hiệu xuống cấp.Với

những ảnh hưởng đó đã kích thích nhu cầu ham muốn vật chất, ít chú trọng đời

sống tình cảm tinh thần, tình trạng xung đột dẫn đến gia đình đỗ vỡ và ly hôn ngày

càng tăng, làm cho gia đình không được bền vững. Do đó, cần phải chú ý đến vấn

đề gốc rễ là giáo dục trong gia đình.

1.2.1.2. Môi trường giáo dục

Bên cạnh môi trường gia đình thì môi trường nhà trường cũng góp phần quan

trọng giúp con người phát triển toàn diện. Giáo dục của nhà trường cung cấp cho

học sinh những kiến thức quan trọng trong cuộc sống. Môi trường giáo dục chứa

đựng tất cả những điều kiện vật chất và tinh thần ảnh hưởng đến mọi hoạt động giáo

dục, học tập, rèn luyện, vui chơi và phát triển nhân cách của các em học sinh. Môi

trường giáo dục lành mạnh là môi trường mà người học được bảo vệ, tôn trọng, đối

xử công bằng, dân chủ và nhân ái, được tạo điều kiện phát triển phẩm chất và năng

lực, không bị tổn hại về thể chất và tinh thần, không có tệ nạn xã hội, không bạo

lực. Ngoài ra, yếu tố tinh thần còn thể hiện qua phương pháp dạy học, giáo dục học

sinh của giáo viên, các chuẩn mực nền nếp truyền thống trong nhà trường, giữa giáo

viên với học sinh, học sinh với học sinh, giáo viên với giáo viên.

27

Nhưng môi trường giáo dục hiện nay quá tập trung vào kiến thức sách vở,

nặng nề về lí thuyết mà thiếu sự giáo dục về kĩ năng sống, đạo đức nhân cách dẫn

đến học sinh thiếu hiểu biết về đạo đức, pháp luật, vấn đề tình dục, bạo lực học

đường… Do sự tác động của mặt trái của nền kinh tế thị trường, những mối quan

hệ thực dụng đang len lỏi vào môi trường giáo dục làm biến tướng quan hệ thầy

trò. Một bộ phận xã hội, gia đình, học sinh và giáo viên coi trọng giá trị vật chất

hơn giá trị tinh thần, lấy giá trị vật chất làm giá trị thước đo tinh thần. Sự thiếu

quan tâm của gia đình và xã hội, phó mặc cho nhà trường trong công tác giáo

dục học sinh cũng trở thành rào cản rất lớn dẫn đến việc giáo dục không đạt hiệu

quả như kì vọng. Không được giáo dục tốt những bài học về nhân cách dễ hình

thành nhân thân xấu như coi thường pháp luật, đạo đức, coi thường nhân phẩm,

thân thể của người khác… và từ sự coi thường đó sẽ dẫn đến nhận thức về pháp

luật, các giá trị xã hội không đúng đắn dễ dẫn đến thực hiện hành vi vi phạm

pháp luật trong đó có đánh bạc.

1.2.1.3.Môi trường bạn bè

Cùng với cha mẹ, thầy cô thì bạn bè chính là người trẻ thường xuyên gần

gũi, tiếp xúc, có cùng quan điểm suy nghĩ với lứa tuổi đây chính là môi trường có

ảnh hưởng tới quan điểm, suy nghĩ, nhận thức, lối sống, thói quen, cách cư xử.

Nếu trẻ tiếp xúc với nhóm bạn bè tốt thì trẻ hình thành các đặc điểm nhân thân tích

cực như biết quan tâm, lo lắng, có kĩ năng sống, lễ phép, chăm học… Ngược lại

khi chơi với bạn bè xấu chơi bời, lêu lổng thì dễ nhiềm những thói hư tật xấu như

nghiện games, cờ bạc, ma tuý, bạo lực học đường, rượu bia… Ông bà ta có câu

“lựa bạn mà chơi” việc tiếp xúc với bạn bè có ý nghĩa quan trọng vì đối với những

người có bạn bè phạm tội đánh bạc, bạn bè xấu có ảnh hưởng tới nhận thức, lối

sống và cách cư xử; dễ nhiễm thói hư, tật xấu của các bạn và khi không có tiền để

thỏa mãn thói hư tật xấu ấy thì chúng rất dễ phạm tội đánh bạc để có tiền phục vụ

nhu cầu của bản thân.

1.2.1.4. Môi trường kinh tế, xã hội vĩ mô

28

Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì cũng bộc lộ một số vấn

đề như tỉ lệ thất nghiệp còn cao nên dễ làm con người rơi vào trạng thái bất lực,

chán nản, bi quan… nên sa đà vào tệ nạn xã hội. Nhiều người bị đồng tiền chi phối

mà sẵn sàng thực hiện các hành vi trái luân thường đạo lý, sẵn sàng vi phạm pháp

luật trong đó có đánh bạc. Bên cạnh đó, sự phát triển không đồng đều giữa thành

thị và nông thôn, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt hình thành một bộ phận

con người có lối sống hưởng thụ, thích chơi bời không lo làm ăn, có ý thức chiếm

đoạt tài sản của người khác, làm giàu bất chính…

Bên cạnh đó, những chính sách pháp luật hiện nay vẫn chưa thực hiện triệt

để nhất là chính sách xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, hỗ trợ vay vốn...

vẫn còn nhiều điểm bất cập, chưa hoàn chình thiếu đồng bộ, hiệu quả… đã làm gia

tăng tình trạng thiếu công ăn việc làm, thu nhập bếp bênh. Kinh tế khó khăn dẫn

đến con đường phạm tội đánh bạc để kiếm lợi bất chính nuôi sống bản thân, gia

đình.

1.2.1.5. Môi trường văn hóa, tư tưởng, đạo đức

Cơ chế kinh tế - thị trường dễ làm con người sa ngã bởi những mặt trái của

nó. Việc hình thành tâm lí coi trọng đồng tiên, suy thoái về đạo đức, vì đồng tiền

mà con người rơi vào con đường làm giàu bất chình như buôn bán ma tuý, trộm

cắp, cướp giật tài sản, cờ bạc… Chính vì lối sống thực dụng, chuộng vật chất, suy

thoái về đạo đức … đã thúc đẩy con người sẵn sàng thực hiện hành vi phạm tội

đánh bạc.

Hiện nay, công tác quản lí Nhà nước trên lĩnh vực văn hoá còn hạn chế. Các

văn hoá phẩm đồi truỵ, bạo lực, các ấn phẩm độc hại… Một bộ phận giới trẻ bị ản

hưởng bởi những tư tưởng lệch lạc nên dễ phát sinh hành vi phạm tội.

1.2.1.6. Môi trường nơi cá nhân làm việc hoặc cư trú

Mỗi cá nhân có một nơi làm việc hoặc nơi cư trú riêng, chính môi trường này

có ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành nhân thân người phạm tội. Đối với

những người có nơi cư trú, nơi làm việc không ổn định, có nhiều người nghiện hút,

đánh bạc thì thường dễ phát sinh hành vi phạm tội đánh bạc.

29

Ở các thành phố lớn tập trung nhiều các khu công nghiệp, khu nhà trọ, các

địa bàn vùng ven có tỉ lệ người tạm trú đồng, thu nhập bấp bênh thì tỉ lệ người

phạm tội vẫn chiếm đa số với tính chất mức độ hành vi phạm tội ngày càng tăng, cả

về số lượng lẫn tính chất mức độ của hành vi phạm tội, đồng phạm.

1.2.2. Các yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội đánh bạc

1.2.2.1. Sai lệch về sở thích, nhu cầu và cách thức thoả mãn nhu cẩu

Mỗi con người là những thực thể riêng biệt có những nhu cầu, sở thích khác

nhau để đem lại cho con người niềm vui trong cuộc sống. Đa số những người phạm

tội là những người có ý thức sai lệch, nhu cầu không đúng chuẩn mực, đi ngược lại

với những giá trị đạo đức xã hội. Bên cạnh đó, họ có các sở thích không lành mạnh

như hoạt động ăn chơi tập thể, trác táng… Đối với những người phạm tội đánh bạc

thường là những người có “ máu đỏ đen”, sát phạt, ham muốn vật chất, quá đề cao

đồng tiền…

1.2.2.2. Hạn chế về ý thức pháp luật và khả năng kiểm soát hành vi

Hiện nay, mỗi con người có một trình độ nhận thức về pháp luật khác nhau,

không phải ai cũng am hiểu về pháp luật và biết được hành vi của mình là vi phạm

pháp luật. Chính sự thiếu hiểu biết đã dẫn đến sự coi thường pháp luật, ý thức tuân

thủ pháp luật kém, chống đối pháp luật. Có những người mặc dù biết hành vi của

mình là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện, luôn đặt nhu cầu, sở thích và mục đích

cá nhân cao hơn pháp luật. Đa phần các đối tượng thực hiện hành vi phạm tội đánh

bạc, cờ bạc được xem là chất gây nghiện khiến người chơi mê đắm, phụ thuộc. Hiện

nay các loại hình cờ bạc ngày càng mở rộng về hình thức và cách thức tham gia như

tú lơ khơ, xóc đĩa, cá độ bóng đá, lô đề…Từ việc sử dụng tiền mặt trực tiếp đến

chơi cá độ qua mạng internet thì việc nhận thức pháp luật của mỗi con người là vô

cùng quan trọng.

Bản thân người phạm tội đánh bạc thiếu các kĩ năng kiểm soát hành vi giải

toả những bức xúc tích tụ trong cuộc sống, không quản lí được cuộc sống của mình

cộng với những nhân tố chủ quan và khách quan nên thực hiện hành vi phạm tội

đánh bạc. Có rất nhiều lí do để người phạm tội tham gia đánh bạc như bị sự lôi kéo,

30

rủ rê của bạn bè; áp lực từ cuộc sống tìm đến cờ bạc như thú vui, sự thiếu thốn về

vật chất…

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1 của luận văn tác giả đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận

chung về nhân thân người phạm tội đánh bạc sẽ được khái quát qua những nội dung

sau:

Thứ nhất, Khái niệm nhân thân người phạm tội đánh bạc: Nhân thân người

phạm tội đánh bạc là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội

của con người và các đặc điểm, dấu hiệu này kết hợp với hoàn cảnh nhất định đã

dẫn đến người đó thực hiện hành vi phạm tội đánh bạc được quy định tại điều 321

BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

Thứ hai, các đặc điểm của nhân thân người phạm tội đánh bạc được thể hiện

qua những nội dung: nhóm đặ điểm sinh học (nhân chủng học), nhóm đặc điểm

mang dấu hiệu xã hội, nhóm đặc điểm pháp lý hình sự.

Thứ ba, ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội đánh bạc: góp

phần làm rõ quá trình định tội, định khung và quyết định hình phạt được chính xác;

nghiên cứu nhân thân người phạm tội đánh bạc tạo cơ sở xác định nguyên nhân và

điều kiện của tình hình tội phạm; nghiên cứu nhân thân người phạm tội đánh bạc

nhằm xác định những yếu tố tiêu cực từ phía người phạm tội; nghiên cứu nhân thân

người phạm tội đánh bạc cũng có ý nghĩa trong việc đề ra các biện pháp giáo dục,

quản lý người phạm tội một cách phù hợp và hiệu quả.

Thứ tư, mối quan hệ giữa nhân thân người phạm tội đánh bạc với tình hình

tội phạm đánh bạc; nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội đánh bạc; phòng

ngừa tình hình tội đánh bạc.

Thứ năm, Những yếu tố tác động đến nhân thân người phạm tội đánh bạc:

các yếu tố khách quan thuộc môi trường sống và các yếu tố chủ quan thuộc vềngười

phạm tội.

31

Trên cơ sở phân tích, nghiên cứu những nền tảng lí luận ở chương 1 sẽ là tiền

đề để tác giả tiếp tục nghiên cứu nhân thân người phạm tội đánh bạc trên địa bàn

Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay

Chương 2

THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI ĐÁNH BẠC

TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

32

2.1. Thực trạng các đặc điểm nhân thân người phạm tội đánh bạc trên

địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh

2.1.1. Tổng quan về tình hình nhân thân người phạm tội đánh bạc trên địa

bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh

Tội phạm học là một môn khoa học nghiên cứu về tình hình tội phạm như

một hiện tượng xã hội tiêu cực gắn liền với các nhân tố xã hội và con người trong

xã hội có Nhà nước [66].Để nghiên cứu tình hình phạm tội đánh bạc trên địa bàn

Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh từ 2015 đến 2019, tác giả nghiên cứu qua các vụ

án đã xảy ra, số đối tượng phạm tội được phát hiện, điều tra và xử lý; diến biến, cơ

cấu, mức độ của tình hình tội phạm.

Thực trạng (mức độ) của tình hình người phạm tội đánh bạc trên địa bàn

Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ năm 2015 đến 2019 được nhận

thức thông qua tổng số các tội đã xảy ra trên địa bàn và trong thời gian nói trên. Để

đánh giá được chính xác mức độ của tình hình người phạm tội đánh bạc, cần phải

xem xét ở cả hai phần sau: Số lượng vụ án và người phạm tội đánh bạc đã bị xét xử

bằng một bản án kết tội của TA thể hiện trong thống kê hình sự (được gọi là tội

phạm rõ). Số lượng người phạm tội đánh bạc đã xảy ra mà chưa bị phát hiện, chưa

bị xử lý về hình sự, chưa có trong thống kê hình sự (được gọi là tội phạm ẩn).Do

điều kiện về thời gian và phạm vi nghiên cứu có hạn, tác giả chỉ tiếp cận phần hiện

của thực trạng thông qua số liệu thống kê của các Cơ quan tiến hành tố tụng quận 7.

Bảng 2.1. Thống kê số vụ và số người phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận

7, Thành phố Hồ Chí Minh so với tình hình tội phạm chung trên địa bàn Quận 7,

Thành phố Hồ Chí Minh

Năm Tình hình tội phạm Tình hình người phạm tội Tỉ lệ %

đánh bạc

Số vụ (1) Số bị cáo (2) Số vụ (3) Số bị cáo (4) (3)/(1) (4)/(2)

502 716 70 4,78 13,94 24 2015

449 699 68 4,68 9,73 21 2016

33

332 556 20 66 6,02 11,87 2017

278 501 18 53 6,47 10,58 2018

281 543 20 64 7,12 11,79 2019

103 Tổng 1.842 3.015 321 5,59 10,65

(Nguồn: Số liệu Thống kê của TAND Quận 7, giai đoạn từ năm 2015 –

2019).[40]

Biểu đồ 2.1: Số vụ phạm tội và số người phạm tội đánh bạc trên địa bàn

80

70

60

50

Số vụ

40

Số người

30

20

10

0

2015

2016

2017

2018

2019

Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015– 2019.

(Nguồn: Số liệu thống kê của TAND Quận 7, giai đoạn từ năm 2015 – 2019)

[40]

Theo dõi bảng 2.1 cho thấy, trong giai đoạn từ năm 2015 – 2019, trên địa bàn

Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử tổng cộng 1.842 vụ án hình sự với 3.015

bị cáo. Riêng tội đánh bạc đã xảy ra 103 vụ, chiếm tỉ lệ 5.59% so với số vụ án hình

sự và 321 bị cáo, chiếm tỉ lệ 11.65% so với số bị cáo phạm pháp hình sự. Trong đó,

số vụ án đánh bạc xảy ra nhiều nhất là năm 2015 (24 vụ, 70 bị cáo) và năm 2018

thấp nhất (18 vụ, 53 bị cáo).

34

Bảng 2.2. Thống kê so sánh tình hình người phạm tội đánh bạc trên địa bàn

Quận 7 so với địa bàn toàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015– 2019.

Năm Toàn thành phố HCM Quận 7 Tỉ lệ (%)

Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo

377 413 24 70 6,36 16,94 2015

231 315 21 68 9,09 21,59 2016

260 345 20 66 7,69 19,13 2017

193 270 18 53 9,32 19,63 2018

181 257 20 64 11,05 24,90 2019

Tổng 1.242 1.600 103 321 8,29 20,06

(Nguồn: Số liệu thống kê của TAND Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015

– 2019) [40]

Xét tỉ lệ số vụ phạm tội đánh bạc xảy ra trên địa bàn toàn Thành phố Hồ Chí

Minh thì tỉ lệ số vụ và số người phạm tội đánh bạc chiêm tỉ lệ cao chiếm 8,29% số

vụ và 20.06 % số bị cáo (tổng số 24 quận, huyện trên toàn Thành phố).

Biểu đồ 2.2.Diễn biến số vụ, số bị cáo phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận

80

70

60

50

Số vụ

40

Số bị cáo

30

20

10

0

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

7, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015– 2019

35

Bảng 2.2, cũng cho thấy tình hình tội đánh bạc trên địa bàn Thành phố Hồ

Chí Minh có những diễn biến phức tạp, cụ thể năm 2016 giảm so với năm 2015 là:

3 vụ, năm 2017 giảm so với năm 2016 là: 1 vụ; năm 2018 giảm so với năm 2017 là

2 vụ, năm 2019 tăng so với năm 2018 là 2 vụ.

2.1.2. Thực trạng các đặc điểm của nhân thân người phạm tội đánh bạc

Qua nghiên cứu 100 bản án HSST của TAND với 302 bị cáo phạm tội đánh

bạc trên địa bàn Quận 7, giai đoạn 2015 - 2019, về đặc điểm nhân thân người phạm

tội đánh bạc như sau:

2.1.2.1. Thực trạng các đặc điểm sinh học

a. Giới tính

Bảng 2.3. Thực trạng theo giới tính của nhân thân người phạm tội đánh bạc

trên địa bàn Quận 7, giai đoạn 2015– 2019.

Năm Số bị cáo Giới tính

Nam Nữ

66 49 17 2015

64 58 06 2016

62 52 10 2017

50 45 5 2018

60 55 5 2019

Tổng 302 259 43

Tỷ lệ (%) 100 85,76 14,24

(Nguồn: 100 bản án xét xử sơ thẩm của TAND Quận 7, Thành phố Hồ Chí

Minh) [41].

Qua bảng 2.3 cho thấy đa số các đối tượng phạm tội đánh bạc là nam giới với

259 bị cáo chiếm tỉ lệ 85,76%; có 43 đối tượng phạm tội đánh bạc là nữ giới chiếm

tỉ lệ 14,24%. Qua thực tiễn cho thấy, việc chênh lệch tỉ lệ này xuất phát từ sự khác

biệt về đặc điểm tâm – sinh lý – xã hội giữa hai giới. So với nữ giới, nam giới dễ bị

ảnh hưởng bởi môi trường sống, nhiễm thói hư, tật xấu, ăn chơi, đua đòi, dễ bị lôi

kéo vào tệ nạn xã hội như cờ bạc… nên họ dễ phạm tội hơn nữ giới. Đây là đối

36

tượng mà chúng ta cần nghiên cứu hướng tới để áp dụng các biện pháp tuyên

truyền, giáo dục phòng ngừa tình hình tội đánh bạc. Nữ giới chiếm tỉ lệ 14,24%

trong số các đối tượng đánh bạc trong đó cao nhất là năm 2015 với 17 đối tượng là

nữ giới, năm 2017 là 10 đối tượng, cá biệt có một số đối tượng là chủ mưu trong vụ

đánh bạc. Điển hình như vụ án thứ nhất:

“Lưu Mỹ Liên làm công nhân trong Khu chế xuất Tân Thuận. Khoảng tháng

02/2016, Liên thực hiện hành vi đánh bạc bằng hình thức ghi bán số đề qua tin nhắn

điện thoại với những người hay mua số đề là công nhân, rồi giao cho chủ đề tên Tú

để hương hoa hồng. Hàng ngày, Liên bán số đề qua tin nhắn điện thoại, người mua

nhắn tin cho Liên; khi nhận được tin nhắn số đề, Liên nhắn tin xác nhận (OK) rồi

tổng hợp tin nhắn và và nhắn tin chuyển cho Tú qua số điện thoại 093675341 để

hưởng hoa hồng.

Việc tính thắng thua với các con bạc được căn cứ kết quả sổ số kiến thiết của

các đài Miền Nam và Miền Bắc. Liên quy định tỉ lệ trúng như sau: mua ô số đề 2

chữ số thì 1.000 đồng trúng 74.000 đồng, mua ô số 4 chữ số thì 1.000 đồng trúng

được 5.200.000 đồng.

Ngày hôm sau, dựa trên kết quả xổ số tính thắng thua, hẹn địa điểm giao

nhận tiền với Tú. Đối với người mua số đề của Liên cũng vậy, sau khi có kết quả

Liên sẽ nhắn tin cho con bạc hẹn đến thu tiền hoặc thanh toán tiền thắng thua.

Những người mua số đề của Liên ngày 21/12/2016 có bà Oanh, bà Hương, ông

Long và những người Cơ quan điều tra chưa xác định được lai lịch.

Vào khoảng 17 giờ 15 phút ngày 21/12/2016, Đội cảnh sát hình sự Công an

Quận 7 phát hiện nghi vấn mời Liên về công an phường Tân Thuận Đông làm việc,

qua kiểm tra phát hiện trong điện thoại của Lưu Mỹ Liên có các tin nhắn mua bán

số đề với số tiền đánh bạc phơi đề ngày 21/12/2016 là 8.419.000 đồng. Cơ quan

Công an đã lập biên bản vụ việc làm rõ xử lý.

Người mua số đề của Liên ngày 21/12/2016 xác định được Phạm Thị Thu

Hương mua số đề với số tiền là 1.640.000 đồng; Lê Minh Long mua với số tiền

20.000 đồng; Nguyễn Thị Hoàng Oanh mua số đề với số tiền 232.500 đồng, các đối

37

tượng khác nhắn tin mua số đề từ các số điện thoại 0904021328, 01626280953,

01293263373 và đối tượng tên Tú; đối chiếu với kết quả sổ số các đài miền Nam

(hai đài Đồng Nai và Cần Thơ) lúc 16 giờ 30 phút thì có Oanh mua số 53 – 1000

đồng thắng được 72.000 đồng và mua số 34, 53 – đá 500 đồng thắng được 260.000

đồng.” (Trích bản án số 148/2018/HS – ST ngày 19/11/2018 của TAND Quận 7,

Thành phố Hồ Chí Minh). [41]

b. Độ tuổi

Bảng 2.4. Thực trạng theo độ tuổi của nhân thân người phạm tội đánh bạc

giai đoạn 2015 – 2019.

Năm Số bị Độ tuổi

cáo Dưới 30 Từ 30 đến 45 Trên 45 tuổi

10 66 36 20 2015

14 64 35 15 2016

13 62 32 17 2017

10 50 30 10 2018

17 60 30 13 2019

64 302 163 75 Tổng

Tỉ lệ % 100 53,97% 21,19% 24,84%

(Nguồn: 100 bản án xét xử sơ thẩm của TAND Quận 7, Thành phố Hồ Chí

Minh) [41]

Theo kết quả Bảng 2.3 cho thấy nhóm bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi

phạm tội đánh bạc chiếm tỉ lệ thấp nhất với 64 bị cáo và 21,19% và nhóm độ tuổi

chiếm ti lệ cao nhất với 163 bị cáo và 53,97% đây là những đối tượng đa phần có

việc làm, có thu nhập dễ bị lôi kéo vào con đường phạm tội đánh bạc.

2.1.2.2. Thực trạng các đặc điểm xã hội

a. Trình độ học vấn

Bảng 2.5. Thực trạng trình độ học vấn của nhân thân người phạm tội đánh

bạc trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh

Năm Số bị Trình độ học vấn

38

cáo Không Tiểu học đến THPT Trung cấp, cao

biết chữ THCS đẳng đại học trở

lên

66 10 27 25 4 2015

64 8 29 23 4 2016

62 6 28 26 2 2017

50 5 19 21 5 2018

60 7 30 20 3 2019

302 36 133 115 18 Tổng

Tỉ lệ (%) 100 11,92 44,04 38,07 5,97

(Nguồn: 100 bán án xét xử sơ thẩm của TAND Quận 7, Thành phố Hồ Chí

Minh về tội đánh bạc)[41]

Qua bảng số liệu trên chúng ta có thể thấy đa phần người phạm tội đánh bạc

có trình độ từ tiểu học đến trung học cơ sở và THPT chiếm tỉ lệ khá cao với 44,04

% và 38, 07% còn những người phạm tội đánh bạc có trình độ trung cấp, cao đẳng

đại học trở lên chiếm tỉ lệ thấp [41]. Với đặc thù là một quận có tốc độ đô thị hoá

nhanh, kinh tế phát triển mạnh mẽ, quận 7 thu hút một lượng lớn dân nhập cư từ các

nơi về cư trú, làm ăn sinh sống trên địa bàn, dẫn đế sự phát triển không đồng đều về

trình độ học vấn, độ tuổi… Chính vì các bị cáo có trình độ học vấn thấp, khả năng

nhận thức về các vấn đề xã hội và pháp luật thấp nên họ dễ bị tác động bởi những

yếu tố tiêu cực trong môi trường sống và dễ dẫn đến hành vi phạm tội.

b. Hoàn cảnh gia đình

Nghiên cứu đặc điểm hoàn cảnh gia đình trong nhân thân người phạm tội

đánh bạc là nghiên cứu ở khía cạnh quan hệ gia đình và hoàn cảnh kinh tế gia đình

với những tác động của chúng đến người phạm tội đánh bạc.

- Gia đình khuyết thiếu

Thống kê 100 bản án với 302 bị cáo phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7,

Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015– 2019 cho thấy số bị cáo có hoàn cảnh gia

đình thuận lợi có 102/302 bị cáo, chiếm tỉ lệ là 33.77%; số bị cáo có hoàn cảnh gia

39

đình không thuận lợi như mồ côi cha, mồ côi mẹ, mất cả cha lẫn mẹ là 200/302 bị

cáo, chiếm tỉ lệ 66.23% [41]. Với kết quả nghiên cứu trên, cho thấy rằng những

người có hoàn cảnh gia đình không thuận lợi khi gặp sự ảnh hưởng của môi trường

xấu và tác động của nhân thân xấu thì dễ phạm tội hơn so với những người có hoàn

cảnh gia đình thuận lợi.Vụ án thứ hai:

“Vào lúc 16h30 ngày 31/12/2016, Công an phường Bình Thuận kiểm tra

hành chính phòng trọ của Lê Thị Thanh Xuân (tại phòng trọ số 3B nhà số 12/4

Nguyễn Thị Thập, khu phố 4A, phường Bình Thuận, Quận 7) phát hiện Xuân đang

tổng hợp phơi đề trên tin nhắn điện thoại nên đưa về Công an phường làm rõ xử lý.

Tổng số tiền phơi Lê Thị Thanh Xuân ghi bán đề ngày 31/12/2016 là 36.444.000

đồng. Qua truy xét xác định người mua ô số đề của Lê Thị Thanh Xuân ngày

31/12/2016 có Bùi Thị Liên. Tổng số tiền Bùi Thị Liên mua ô số đề ngày

31/12/2016 là 16.140.000 đồng.

Kết quả điều tra xác định: Vào khoảng giữa tháng 11/2016, bị cáo Lê Thanh

Xuân thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức tổ chức ghi số đề, trực tiếp thắng

thua với người chơi, nhằm thu lợi bất chính tại phòng trọ của mình. Hàng ngày, Lê

Thị Thanh Xuân ghi bán số đề qua tin nhắn điện thoại bằng cách người mua nhắn

tin mua số đề cho Xuân, khi nhận được tin nhắn thì Xuân lại xác nhận. Việc tính

thắng thua căn cứ vào kết quả sổ số kiến thiết các đài tỉnh trong ngày. Tỷ lệ cá

cược, thua do bị cáo Xuân quy định. Từ ngày ghi bán số đề đến khi bị bắt bị cáo

Xuân thu lợi được 10.000.000 đồng. Người mua số đề của Xuân là những người

quen biết không rõ nhân thân lai lịch”.(Trích bản án số 100/2017/HSST ngày

21/06/2017 của TAND Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh) [41]

Trong vụ án trên có hai bị cáo là Lê Thị Thanh Xuân và Bùi Thị Liên. Chính

vì cả hai có hoàn cảnh gia đình không thuận lợi đều mất cả cha lẫn mẹ nên khi gặp

môi trường xấu và tác động thân nhân xấu đã phạm tội “đánh bạc”.

- Gia đình kinh tế khó khăn

40

Qua nghiên cứu 100 bản án về nhân thân người phạm tội đánh bạc cho thấy

số bị cáo có hoàn cảnh gia đình kinh tế khó khăn là 195 bị cáo, chiếm tỉ lệ 64,56%.

Như vụ án thứ ba:

“Vào lúc khoảng 16giờ 10 phút ngày 03/08/2014, tại khu nhà tạm sân Golf

Phú Mỹ Hưng thuộc khu phố 1, phường Tân Phú, Quận 7, Công an phường Tân

Phú, Quận 7 lập biên bản bắt quả tang hai sòng bạc đang đánh bài tiến lên ăn tiền.

Sòng thứ nhất gồm có: Lê Hoàng Tú, Lê Văn Hương, Nguyễn Viết Thắng, Dương

Hồng Hiệp đánh bạc thoả thuận với mức thắng thua như sau: thắng nhất ăn 100.000

đồng, thắng nhì ăn 50.000 đồng. Thu giữ tiền tang vật trên chiếu bạc 3.300.000

đồng, thắng nhì ăn 50.000 đồng. Thu giữ tiền tang vật trên chiếu bạc 3.300.000

đồng và thu giữ tiền trong người dùng để đánh bạc của Thắng 1.000.000 đồng, của

Tú 1.700.000 đồng.

Sòng thứ hai gồm có: Trịnh Hoàng Minh, Trần Anh Dũng, Phạm Minh Hiếu,

Lê Hoàng Xuân đánh bạc với nhau, thoả thuận mức thắng thua như sau: thắng nhất

ăn 40.000 đồng, thắng nhì ăn 20.000 đồng. Thu giữ tiền tang vật trên chiếu bạc

580.000 đồng và thu giữ tiền trong người dùng để đánh bạc của Minh 3.900.000

đồng, Dũng 1.230.000 đồng” (Trích bản án số 17/2015/HSST ngày 05/12/2015 của

TAND Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh). [41]

Trong vụ án trên có 8 bị cáo Tú, Hương, Thắng, Hiệp, Minh, Dũng, Hiếu,

Xuân thì có 4 bị cáo: Hiếu, Dũng, Minh, Hiệp là có hoàn cảnh gia đình kinh tế khó

khăn cha mẹ, vợ con không có nghề nghiệp ổn định phần lớn trông vào nguồn thu

nhập của bị cáo. Chính từ những gia đình có sự khó khăn về kinh tế, cha mẹ mải mê

kiếm tiền, nên bố mẹ thiếu sự quan tâm, giáo dục con cái, không có sự điều chỉnh

kịp thời dễ sa vào con đường cờ bạc

- Gia đình quá nuông chiều con cái

Theo thống kê 100 bản án, có 205 /302 bị cáo chiểm tỉ lệ 67, 89% [41]được

gia đình quá nuông chiều, bao bọc thoả mãn mọi nhu cầu của con cái sẽ hình thành

đặc điểm nhân thân xấu như ích kỉ, hẹp hòi, dựa dẫm, ỷ lại, coi thường giá trị lao

41

động, chạy theo đồng tiền, đặt lợi ích cá nhân lên trên hết… Đến một lúc nào đó khi

gia đình không thoả mãn được thì họ sẽ dễ dàng phạm tội.

c. Cơ cấu theo địa vị xã hội và nghề nghiệp

Qua nghiên cứu đặc điểm nghề nghiệp của người phạm tội đánh bạc trên địa

bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, đa số người phạm tội là người không có nghề

nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn định. Qua nghiên cứu 100 bản án với 302 bị cáo

phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy: số bị cáo

không nghề nghiệp là: 130/302 chiếm 43,7%; , có nghề nghiêp là 172/302 chiếm tỉ

lệ 65,3% [41]. Các bị cáo có nghề nghiệp chủ yếu có nghề nghiệp không ổn định

như: lái xe, phụ hồ, buôn bán…

2.1.2.3. Thực trạng các đặc điểm đạo đức, tâm lý

a. Quan niệm, quan điểm với các giá trị đạo đức, xã hội và pháp luật

Qua nghiên cứu bảng 2.5 ở mục 2.2.2 như đã nêu thì chúng ta có thể thấy đa

phần người phạm tội đánh bạc có trình độ từ tiểu học đến trung học cơ sở và THPT

chiếm tỉ lệ khá cao với 44,04 % và 38, 07% còn những người phạm tội đánh bạc có

trình độ trung cấp, cao đẳng đại học trở lên chiếm tỉ lệ thấp [41]. Người phạm tội

đánh bạc trên địa bàn quận 7 đa phần là người có trình độ học vấn thấp nên không

hiểu biết hoặc hiểu biết ít về pháp luật nên thường có thái độ thờ ơ, coi thường pháp

luật. Tội đánh bạc là một trong số các tội phạm nằm trong nhóm tội xâm phạm trật

tự công cộng, đây là tiêu chí đánh giá sự văn minh của một quốc gia. Chính vì sự

thiếu ý thức xây dựng, thực hiện và bảo vệ các quy tắc trật tự sinh hoạt chung trên

lĩnh vực công cộng nên dẫn đến thực hiện hành vi vi phạm pháp luật và bị xử lý

theo quy định của pháp luật hình sự.

b. Nhu cầu, sở thích thói quen

Đánh bạc nói chung chỉ đến các hình thức chơi bài, cờ, mua vé số, ghi đề,

hoặc ghi cá cược… Khi đánh bạc người chơi sẵn sàng mạo hiểm số tài sản đặt cược

với hi vọng nhận lại được những vật chất có giá trị cao hơn. Đánh bạc có thể kích

thích hệ thống thưởng của não tương tự như ma túy hoặc rượu dẫn đến nghiện.

Người nghiện đánh bạc không thể kiểm soát được, bất chấp số tiền phải trả cho trò

42

chơi và những ảnh hưởng đến cuộc sống. Những người phạm tội đánh bạc có những

người có sở thích lệch lạc, có thói quen hơn thua… xem đánh bạc là nguồn vui

chính của mình, giải quyết những căng thẳng trong cuộc sống.

2.1.2.4. Thực trạng các đặc điểm pháp lý hình sự

Bảng 2.6. Cơ cấu theo mục đích phạm tội

Tổng số bị cáo Hám lợi Thoả mãn nhu cầu cá nhân Mục đích khác

302 165 100 37

100 54,64% 33,11% 12,25

(Nguồn: 100 bản án xét xử sơ thẩm của TAND Quận 7) [41]

Qua bảng 2.5 chúng ta thấy trong 302 bị cáo thì có 165/302 bị cáo có mục

đích hám lợi chiếm tỉ lệ 54.64%, 100/302 bị cáo nhằm thoả mãn nhu cầu cá nhân

chiếm tỉ lệ 33.11% và 37/302 có mục đích khác chiếm tỉ lệ 12.25%.

Theo thống kê 100 bản án xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân Quận 7,

Thành phố Hồ Chí Minh có 165/302 bị cáo có tiền án, tiền sự chiếm tỉ lệ khá cao là

54.63% [41]. Điển hình như vụ án thứ tư

“Vào lúc 16giờ ngày 26/06/2018, Đội cảnh sát hình sự, Công an Quận 7 phát

hiện Nguyễn Văn Que có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra

phát hiện trong người Que 01 điện thoại Samsung J7 Prime số thuê bao

086.808.707 có tin nhắn phơi cá độ bóng đá, số tiền phơi cá cược của trận bóng

giữa đội Uruguay – Nga, Ả rập Saudi – Ai cập, Iran – Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha –

Marocco vào ngày 25/06/20178 với tổng số tiền đánh bạc là 33.700.000 đồng. Tại

Công an Quận 7, Que khai nhận: Que tổ chức cá độ bóng đá qua tin nhắn điện thoại

từ đầu mùa giải Wordcup đến nay (từ 14/06/2018), hàng ngày trước các trận đấu

diễn ra Que lên mạng Internet để kiểm tra tỉ lệ cá cược của các nhà mạng đưa ra,

sau đó Que lấy tỉ lệ cá cược đó nhắn tin cho các con bạc nào muốn chơi. Khi các

con bạc xem tỉ lệ cá cược, muốn bắt đội nào thì nhăn tin vào máy điện thoại của

Que để đặt cược rồi Que nhắn “Ok” lại cho các con bạc là chấp nhận cá cược. Qua

ngày hôm sau, khi có kết quả thắng thua của các trận đấu thì Que tính tiền thắng

thua với các con bạc, sau đó Que nhắn tin thông báo cho các con bạc số tiền thắng

43

thua của các trận đã bắt Que hẹn các con bạc ở ngoài đường và hẹn nhiều địa điểm

để chung chi tiền. Bình quân mỗi đêm Que cá cược cho khoảng 04 đến 05 con bạc

với số tiền con bạc cược từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng. Ngày

25/06/2018, có nhiều con bạc cược nhiều nên số tiền cá cược phơi nhiều. Mỗi ngày

Que thu lợi khoảng 500.000 đồng. (Trích bản án số 172/2018/HSST ngày

30/11/2018 của TAND Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh). [41]

Trong vụ án trên Nguyễn Văn Que có 02 tiền sự về tội trộm cắp tài sản vào

năm 1992, 01 tiền án về tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

vào năm 1995. Từ vấn đề trong số 302 bị cáo trong 100 vụ án đánh bạc tại Quận 7,

Thành phố Hồ Chí Minh thì số bị cáo có tiền án, tiền sự chiếm tỉ lệ khá cao nên cần

quan tâm đến việc giáo dục, cải tạo người phạm tội và công tác tái hoà nhập cộng

đồng cho những người này để tránh phạm tội trở lại.

2.2. Thực trạng những yếu tố tác động tiêu cực hình thành nhân thân

người phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh

2.2.1. Các yếu tố khách quan thuộc môi trường sống

2.2.1.1. Môi trường gia đình

- Tác động của hoàn cảnh gia đình thiếu sự quan tâm đến con cái, gia đình

khuyết thiều.

Nghiên cứu tác động của hoàn cảnh gia đình khuyết thiếu đến sự hình thành

nhân thân người phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh

giai đoạn 2015 – 2019 cho thấy, số người phạm tội chưa có gia đình là 103/302 bị

cáo; chiếm tỉ lệ 34,1% [41]. Điều này cũng phù hợp với độ tuổi người phạm tội

đánh bạc trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn mà tác giả

nghiên cứu. Số bị cáo có hoàn cảnh gia đình không thuận lợi như mồ côi cha, mồ

côi mẹ, mất cả cha lẫn mẹ là 200/302 bị cáo, chiếm tỉ lệ 66.23%. Những bị cáo chưa

lập gia đình đa phần tuổi còn trẻ, sống chung với cha mẹ mà cha mẹ mà cha mẹ

thiếu sự quan tâm đến con cái. Hơn nữa, mặt trái do sự tác động của nền kinh tế thị

trường đã tạo nên những đặc điểm nhân thân tiêu cực ở những bị cáo này: sự coi

thường pháp luật, ham chơi, lười lao động, thích hưởng thụ, không nghe lời cha

44

mẹ… Những đặc điểm nhân thân xấu sẽ dẫn đến hành vi phạm tội khi vào những

điều kiện, hoàn cảnh nhất định.

- Hoàn cảnh gia đình kinh tế khó khăn tác động đến việc hình thành nhân

thân người phạm tội đánh bạc.

Qua nghiên cứu 100 bản án xét xử sơ thẩm, trong tổng số 302 bị cáo phạm

tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh có đến 172/302 bị cáo có

hoàn cảnh kinh tế khó khăn, chiếm tỉ lệ 56.95% [41]. Do tác động hoàn cảnh gia

đình kinh tế khó khăn nên các bị cáo dễ nảy sinh nhiều đặc điểm nhân thân xấu, đặc

biệt là mong muốn thoả mãn nhu cầu cá nhân mong muốn làm giàu bằng mọi cách

kể cả bất chính đã thôi thúc những người này thực hiện hành vi đánh bạc. Như vụ

án Lưu Mỹ Liên sinh năm 1974 bị xét xử về tội “Đánh bạc” tại Bản án số 148/2018/

HSST của TAND Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu hồ sơ vụ án cho

thấy Liên có nghề nghiệp là công nhân, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn từ nhỏ, hiện

tại đã li hôn chồng và đang nuôi con sinh năm 1998. Cuộc sống của bị cáo khá khó

khăn do chồng không chu cấp nuôi con, cha mẹ đã già và đau ốm thường xuyên nên

Liên chán nản tìm mọi cách để có tiền nhanh chóng.

Vụ án thứ năm Nguyễn Thị Thái Dương sinh năm 1978 bị xét xử về tội

“Đánh bạc” tại bản án số 73/2015/HSST ngày 19/06/2015 của TAND Quận 7,

Thành phố Hồ Chí Minh. Cúc có nghề nghiệp không ổn định là bán Coffe, gia đình

có hoàn cảnh kinh tế khó khăn do chồng bị tai nạn lao động nên bị cụt 01 chân, nuôi

02 con còn nhỏ. Mọi sinh hoạt của gia đình đều phải trông chờ vào bị cáo nên đã

thực hiện ghi đề rồi giao phơi đề để hưởng hoa hồng. [41]

Thông qua các vụ án đánh bạc, nếu con người trong hoàn cảnh khó khăn mà

không có động lực vươn lên, chí thú làm ăn thì con người dễ rơi vào tình trạng bi

quan, chán nản, không có động cơ sống hoặc khao khát có tiền, có tài sản một cách

nhanh chóng để thoả mãn nhu cầu của mình, họ sẵn sàng coi thường pháp luật, các

giá trị đạo đức để thực hiện hành vi phạm tội trong đó có đánh bạc.

- Tác động của gia đình quá nuông chiều con cái

45

Trong các vụ án đánh bạc mà tác giả nghiên cứu có 97/302 chiếm tỉ lệ

32.11% các bị cáo sống trong gia đình quá nuông chiều con cái [41]. Chính vì sống

trong những gia đình như vậy mà những đứa trẻ mất đi cơ hội trưởng thành và tạo

nên những con người ích kỉ, chỉ biết hưởng thụ, khó kiểm soát được cảm xúc của

mình, không có tính độc lập, dễ ỷ lại vào người lớn… Chính vì quá cưng chiều con

cái dễ dẫn đến những đứa trẻ đó hư hỏng, đến khi gia đình không đáp ứng được

những nhu cầu vô lý thì sẽ dễ dẫn đến hành vi phạm tội.

2.2.1.2. Môi trường giáo dục (nhà trường)

Những nhân tố không lành mạnh trong môi trường giáo dục hiện nay như

quá tập trung vào sách vở mà thiếu kiến thức về giáo dục pháp luật dẫn đến việc

nhiều học sinh không nhận thức hoặc thiếu hiểu biết về vấn đề tội phạm đánh bạc.

Hiện nay, chương trình học tập đối với người học vẫn quá tải, dẫn đến nhiều học

sinh có tâm lý chán nản, muốn bỏ học. Trong ngành giáo dục vẫn còn bệnh chạy

theo thành tích, điểm số nên tạo ra áp lực không nhỏ cho học sinh. Mặt khác, việc

thiếu sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình; gia đình không quan tâm, ỷ lại, giao

phó việc quản lí, giáo dục con em mình hoàn toàn cho nhà trường còn nhà trường

chỉ thực hiện nhiệm vụ truyền đạt kiến thức mà không quan tâm giáo dục pháp luật

cho học sinh dẫn đến việc nhiều học sinh vi phạm pháp luật khi độ tuổi còn trẻ nhất

là dễ bị lôi kéo, sa ngã từ bạn bè xấu. Như vậy, hiện nay vấn đề đổi mới giáo dục

cần phải được quan tâm hàng đầu không chỉ cung cấp kiến thức mà còn phải rèn

luyện kĩ năng sống cho học sinh để có hành trang bước vào đời.

2.2.1.3. Môi trường bạn bè

Nghiên cứu mối quan hệ của 302 bị cáo trong 100 bản án đánh bạc trên địa

bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 – 2019 có đến 75 vụ với 265

người là đồng phạm chiếm 75% số vụ phạm tội. Trong đó có 43 vụ có 2 người tham

gia, 9 vụ có 3 người tham gia và 23 vụ có từ 4 người trở lên tham gia [41]. Nghiên

cứu những vụ đồng phạm cho thấy, phần lớn những người tham gia đánh bạc là

những người có quan hệ bạn bè trong nhóm bạn có cùng thói quen, sở thích và phần

46

lớn là công nhân làm trong các khu công nghiệp tại địa bàn Quận 7. Điển hình như

vụ án thứ sáu sau:

“Nguyễn Thanh Tuấn, Nguyễn Sơn Tùng, Võ Hùng Vân, Lê Hữu Phước,

Phạm Anh, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Văn Thắng, Bùi Vĩnh Phúc cùng làm

công nhân tại khu chế xuất Tân Thuận rủ nhau đánh bài tại bãi đất trống tại công ty

Pronie và công ty Quốc Miên (đường 12 khu chế xuất Tân Thuận, phường Tân

Thuận Đông, Quận 7) dưới hình thức chơi bài cào ăn tiền với sự tham gia của Lê

Văn Bích và Nguyễn Thị Kim Hồng; Nguyễn Chí Trung là nhân viên bảo vệ của

công ty Pronie ra xem đánh bài sau đó có sự tham gia của Lý Đức Nguyên (đi đón

vợ làm công nhân). Do những người làm cái hết tiền nên giải tán sòng bài. Thấy vậy

Nguyên rủ Trung hùn mỗi người 1.000.000 đ để làm cái và ăn thua với những người

đánh bạc. Khi cả nhóm đang tham gia đánh bạc thì bị đội Cảnh sát hình sự Công an

Quận 7 bắt quả tang”. (Trích bản án số 127/2018/HSST ngày 09/10/2018 của TAND

Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh).[41]

Dân gian có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, những đặc điểm nhân

thân xấu của bạn bè sẽ tác động và làm phát sinh những đặc điểm nhân thân xấu ở

những người bạn từ đó làm phát sinh hành vi phạm tội. Tuấn, Tùng, Vân, Phước,

Anh, Long, Thắng và Phúc là bạn bè cùng trang lứa, cùng vào thành phố làm thuê,

rồi tụ tập rủ rê lôi kéo nhau thực hiện hành vi đánh bạc.

2.2.1.4. Môi trường kinh tế xã hội, vĩ mô

Ngày nay cuộc sống ngày càng phát triển, đời sống xã hội ngày càng nâng

cao sự tác động của nền kinh tế thị trường đem lại sự phát triển kinh tế cho đất nước

tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập của người dân… tuy nhiên, bên cạnh đó

cũng tồn tại những mặt trái như sự chênh lệch giàu nghèo, tỉ lệ thất nghiệp ngày

càng tăng, thu nhập bấp bênh.. đây cũng là những yếu tố tác động rất lớn đến sự

hình thành nhân thân người phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ

Chí Minh. Những tác động của môi trường kinh tế xã hội, vĩ mô có ảnh hưởng đến

nhân thân người phạm tội đánh bạc là:

- Mức trả công quá thấp, không đủ sống

47

Vấn đề bất bình đẳng thu nhập dẫn đến bất bình đẳng trong xã hội là mối

quan tâm lớn của nhiều nước phát triển. Bất bình đẳng thu nhập sẽ dẫn đến nhiều

vấn đề của xã hội như tỷ lệ thất nghiệp tăng, tỷ lệ tội phạm tăng, năng suất lao động

bình quân giảm vì vậy người thu nhập thấp thấy được họ chỉ được hưởng môt phần

rất ít trong thành quả chung, thậm chí không bù đắp được với chi phí ngày càng

tăng của cuộc sống.

- Sự chênh lệch giàu nghèo

Sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng gia tăng sẽ tạo nhiều tác động tiêu cực

trong xã hội, mà hệ quả trực tiếp là gia tăng bất bình đẳng, nhất là bất bình đẳng cơ

hội, từ đó ảnh hưởng đến khả năng chuyển dịch xã hội của người dân lên các bậc

thang kinh tế cao hơn, tạo nên vòng luẩn quẩn của đói nghèo, cũng như gây tác

động không tốt tới sự phát triển chung của toàn xã hội. Thống kê cho thấy trong 302

bị cáo trong 100 bản án được nghiên cứu thì chỉ có 45 người có hộ khẩu ở địa bàn

Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh , chiếm tỉ lệ 14,9% còn lại 257 người tại những

quận, huyện khác và các tỉnh khác đến Quận 7 làm ăn, sinh sống ( chiếm 85,1%)

[41] đa phần là những người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không kiếm được việc

làm, thu nhập bấp bênh không đủ sống, từ đó làm phát sinh hành vi phạm tội.

- Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm

Nghiên cứu trong tổng số 302 bị cáo phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7,

Thành phố Hồ Chí Minh: số bị cáo không nghề nghiệp là: 130/302 chiếm 43.7%; ,

có nghề nghiêp là 172/302 chiếm tỉ lệ 65.3% [41]. Các bị cáo có nghề nghiệp chủ

yếu có nghề nghiệp không ổn định như: lái xe, phụ hồ, buôn bán… Nhiều bị cáo

không đáp ứng đủ nhu cầu cuộc sống hàng ngày thậm chí là nhu cầu tối thiểu cần có

trong cuộc sống cộng với một số người có sở thích lệch lạc như nghiện ma tuý, cờ

bạc, chơi games… họ sẽ thực hiện hành vi đánh bạc với mong muốn thoả mãn nhu

cầu của mình

2.2.1.5. Môi trường văn hoá, tư tưởng, đạo đức

Hiện nay, trong xã hội vẫn còn tồn tại những giá trị truyền thống lạc hậu, bảo

thủ, không phù hợp với bối cảnh, tình hình hiện tại như tư tưởng cục bộ tiểu nông,

48

bình quân chủ nghĩa. Đời sống văn hoá tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn

điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hoá giữa các tầng lớp nhân dân còn chậm được rút

ngắn. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng

phí nguồn lực và dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hoá nước ngoài đã tác động tiêu

cực đến đời sống văn hoá của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ. Ngoài gia đình

và nhà trường thì môi trường văn hoá, tư tưởng, đạo đức cũng là môi trường mà con

người phụ thuộc và chịu tác động, sự tiêp xúc với các loại hình văn hoá phẩm đồi

truỵ, bạo lực gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự hình thành nhân cách của con người.

2.2.1.6. Môi trường nơi cá nhân làm việc hoặc cư trú

Yếu tố môi trường nơi cá nhân làm việc hoặc cư trú có thể ảnh hưởng đến

một số đặc điểm thuộc tâm lý cá nhân như yếu tố văn hoá, tập quán, thói quen, nét

tính cách của địa bàn cư trú. Nơi cư trú, nơi sinh sống có ảnh hưởng không nhỏ đến

tình trạng phạm tội nói chung và tội đánh bạc nói riêng có vai trò rất lớn trong việc

hình thành và phát triển nhận thức, năng lực chuyên môn. Nếu sống trong môi nơi

cá nhân làm việc hoặc cư trú lành mạnh, an toàn, mọi người biết quan tâm giúp đỡ

lẫn nhau, không có tệ nạn xã hội và tội phạm hoành hành, mọi người biết chí thú

làm ăn, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật thì có thể nói đây là môi trường thuận lợi

có tác động tích cực đến việc hình thành nhân cách đúng đắn của cá nhân và hạn

chế sự lệch lạc của cá nhân. Ngược lại, nếu sống trong môi trường có nhiều cá nhân

bê tha, cờ bạc, rượu chè, đánh chửi lẫn nhau, sa đà vào tệ nạn xã hội ma tuý, mại

dâm thậm chí vi phạm pháp luật thì đây là môi trường xấu tiềm ẩn nguy cơ lôi kéo,

tác động đến người thiếu bản lĩnh, không vững dễ sa ngã trước cái xấu, cái tiêu cực

của đời sống xã hội từ đó có thể ảnh hưởng, dẫn đến việc hình thành và phát triển

nhân cách lệch lạc của cá nhân. Quận 7 là nơi có nền kinh tế phát triển với nhiều

khu đô thị như Phú Mỹ Hưng, Cityland Riverside, Nam phú Villas, khu đô thị Him

Lam – kênh Tẻ… đây là những nơi lí tưởng để sinh sống và làm việc. Tuy nhiên,

kinh tế phát triển hình thành nhiều khu nhà trọ tiềm ẩn những vấn đề phức tạp về an

ninh trật tự. Có nhiều khu trọ công nhân giá rẻ thường không được quản lý chặt chẽ

nên vấn đề an ninh thường bị xem nhẹ. Những khu nhà trọ, các khu công nghiệp

49

khá phức tạp bởi sự khác biệt về lối sống, vùng miền của nhiều người đến sin hoạt

và làm việc tại địa bàn Quận 7.

2.2.3. Các yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội

2.2.3.1. Sai lệch về sở thích

Nghiên cứu 302 bị cáo trong 100 bản án đánh bạc trên địa bàn Quận 7,

Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 - 2019 cho thấy người phạm tội có những

sở thích lệch lạc như: nghiện games, nghiện ma tuý, ăn chơi, cờ bạc, mại dâm...[41]

là một trong những nguyên nhân dẫn đễn việc phạm tội đánh bạc.

2.2.3.2. Sai lệch về nhu cầu và cách thức thỏa mãn nhu cầu

Qua nghiên cứu 100 bản án với 302 bị cáo cho thấy: 100/302 bị cáo nhằm

thoả mãn nhu cầu cá nhân chiếm tỉ lệ 33.11%, [41] đây là một con số không nhỏ..

Nhu cầu có khả năng chi phối con người nếu trong trường hợp câp bách. Nhu cầu

của một cá nhân rất đa dạng và vô tận nếu trong trường hợp con người có nhu cầu

sai lệch và tìm mọi cách thoả mãn nhu cầu đó thì sẽ dễ dẫn đến việc thực hiện hành

vi phạm tội. Hiện nay, dưới sự tác động của mặt trái của nền kinh tế thị trường, một

số người có tư tưởng thực dụng, lười lao động, buông thả… mà bản thân những

người đó lại không có công ăn việc làm, thu nhập không đủ thoả mãn nhu cầu cá

nhân nên đã coi thực hiện hành vi đánh bạc là cách thức thoả mãn nhu cầu vật chất

của bị cáo.

Vụ án thứ bảy: Trần Thị Ngọc Huyền (SN: 1991, tại Nam Định), Trần Thị

Thu Trang (SN: 1958, tại Đà Nẵng), Ngô Thị Như Mai (SN: 1973, tại Bình Thuận):

Khoảng 15giờ 30 ngày 30/09/2014, Công an Quận 7 bắt quả tang tại số nhà C4

Lưu Trọng Lư, Khu phố 3, phường Tân Thuận Đông Quận 7 đang ghi bán số đề cho

Từ Thị Trinh.Qua khai nhận: Huyền tổ chức ghi bán số đề tại địa chỉ như trên vào

tháng 06/2014 cho những người làm công nhân trong cảng gần nhà (không rõ lai

lịch). Tỉ lệ thắng thua bằng tiền dựa vào kết quả sổ số kiến thiết các tỉnh hàng ngày.

Từ 13h Huyền sẽ bán số đề cho người mua trực tiếp đến nhà hoặc người mua qua

tin nhắn điện thoại. Huyền trực tiếp tính thắng thua với những người mua số đề

ngay sau khi có kết quả sổ số và chung chi vào ngày hôm sau. Mỗi ngày, Huyền bán

50

được số tiền phơi từ 01 triệu đồng đến 02 triệu đồng, có ngày được 10 triệu đồng.

Khoảng tháng 9/2014, Huyền gọi Mai là người giúp việc cho vợ chồng Huyền phụ

ghi và bán số đề với Huyền, Mai đồng ý thực hiện. Tiền công giúp việc nhà và phụ

ghi bán số đề, Mai được Huyền trả mỗi tháng là 5.000.000 đồng. Còn Trang do

quen biết và gần nhà nên giữa tháng 9/2014, Huyền rủ Trang ghi bán số đề rồi giao

phơi lại cho Huyền để hưởng hoa hồng 4% trên tổng số phơi ghi được. (Trích bản

án số 62/2015/HSST ngày 20/05/2015 của TAND Quận 7, Thành phố Hồ Chí

Minh). [41]

Nghiên cứu hồ sơ vụ án cho thấy, Trang, Huyền, Hà đều là những người có

lối sống thích hưởng thụ, ăn chơi, lười lao động, Hà nghiện ma tuý, ham mê cơ bạc.

Trang đã từng bị TAND Quận 7 xử phạt 2 năm 6 tháng tù về tội “Đánh bạc” và Mai

bị TAND thị xã Lagi tỉnh Bình Thuận xử phạt 6 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thực

hiện hình phạt chưa lâu, nhưng các bị cáo vẫn không từ bỏ được ma tuý và cờ bạc

nên tiếp tục thực hiện hành vi để thoả mãn nhu cầu lệch lạc của mình.

2.2.2.3 Hạn chế về năng lực trí tuệ

Năng lực mang dấu ấn cá nhân rất rõ nét, là một trong những điều kiện để

đánh giá sự khác biệt của cá nhân người này với người khác. Như ở chương 2 phần

2.2.2. đã nêu lên thực trạng về trình độ học vấn, đa phần người phạm tội đánh bạc

có trình độ học vấn có trình độ từ tiểu học đến trung học cơ sở và THPT chiếm tỉ lệ

khá cao với 44.04 % và 38.07% [41]. Qua nghiên cứu các vụ án đánh bạc cho thấy

cùng với trình độ học vấn không cao, nghề nghiệp có nhưng không ổn định cùng

với những đặc điểm nhân thân không tốt như tâm lý muốn kiếm tiền một cách

nhanh chóng, thích hưởng thụ, không muốn lao động vất vả nên một số bị cáo đã

thực hiện hành vi đánh bạc để thoả mãn nhu cầu lệch lạc của mình. Như trong vụ

án thứ tám: “Vào hồi 13 giờ 30 phút ngày 16/07/2014 Công an Quận 7 bắt quả

tang các bị cáo Võ Minh Trí, Lê Hồng Thanh, Võ Văn Nhứt và Nguyễn Văn Tuấn

đang cùng nhau đánh bài tiến lên được thua bằng tiền tại số nhà 360/20 Lê Văn

Lương, Khu phố 1, phường Tân Hưng, Quận 7. Công an thu giữ số tiền các bị cáo

51

dùng để đánh bạc là 2.990.000 đồng.” (Trích bản án số 18/2015/HSST ngày

10/02/2015 của TAND Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh).[41]

Trong vụ án trên có các bị cáo Võ Minh Trí (SN: 1969, tại Thành phố Hồ

Chí Minh) có trình độ học vấn 4/12; bị cáo Lê Hồng Thanh (SN: 1963, tại Thành

phố Hồ Chí Minh) có trinh độ học vấn 11/12; bị cáo Võ Văn Nhứt (SN: 1975, tại

Long An) có trình độ văn hoá 02/12; bị cáo Nguyễn Văn Tuấn (SN: 1976, tại Thành

phố Hồ Chí Minh) có trình độ văn hoá 9/12 đa phần là những bị cáo có trình độ học

vấn thấp nên nhận thức hạn chế. Các bị cáo không nhận thức được giá trị bản thân,

tin vào con đường làm ăn chân chính mà lại sa ngã vào tệ nạn cờ bạc. Trường hợp

này cho thấy sự hạn chế về năng lực trí tuệ ảnh hưởng đến nhận thức trong suy nghĩ

và hành động tạo ra xu hướng đi ngược lại xã hội.

2.2.2.4. Sai lệch, hạn chế về ý thức pháp luật cá nhân

Qua nghiên cứu 100 bản án với 302 bị cáo phạm tội đánh bạc trên địa bàn

Quận 7 giai đoạn 2015 – 2019 cho thấy hầu hết các bị cáo có trình độ từ tiểu học

đến Trung học phổ thông, đây là nhóm trình độ có đủ khả năng nhận thức được rằng

đánh bạc là một trong những hành vi vi phạm pháp luật, là một tệ nạn xã hội đáng

bị lên án. Nhưng trong số các bị cáo có một bộ phận biết nhưng vẫn thờ ơ coi

thường pháp luật và các cơ quan bảo vệ pháp luật (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,

TA). Chính vì vậy, nên họ thờ ơ, có xu hướng chống đối pháp luật, một số người lợi

dụng sự hiểu biết của mình với công nghệ cao nên đã dùng những thủ đoạn tinh vi

nhằm qua mắt các cơ quan chức năng.

Tiểu kết chương 2

Trong chương 2 của luận văn tác giả khái quát tình hình người phạm tội đánh

bạc trên địa bàn Quận 7 giai đoạn 2015 – 2019; thực trạng các đặc điểm của nhân

thân người phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7; thực trạng những yếu tố tác

động đến việc hình thành nhân thân người phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7

giai đoạn từ 2014 đến 2018. Thông qua đó tác giả rút ra được những nội dung như

sau:

52

Thứ nhất, Tình hình tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí

Minh chiếm tỉ lệ là 5,59% so với tình hình tội phạm trên địa bàn Quận 7 và 8,29%

[40] so với tình hình tội đánh bạc trên địa bàn toàn Thành phố Hồ Chí Minh đây là

một con số không cao. Tuy nhiên, tình hình tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7 có xu

hướng diễn biến ngày càng phức tạp, với phương thức thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt

hơn. Các tội này tập trung nhiều nhất ở khu vực các khu nhà trọ, khu công nghiệp,

khu chế xuất trên địa bàn Quận.

Thứ hai, người phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7 đa phần là nam giới,

có độ tuổi từ 30 đến 45 tuổi và đa phần có trình độ từ tiểu học đến THPT, có nghề

nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn định, hoàn cảnh gia đình không thuận lợi gia

đình khuyết thiếu, không hạnh phúc. Ngoài ra, đa phần những bị cáo phạm tội đánh

bạc là dân nhập cư, có nơi cư trú không ổn định trên địa bàn Quận 7. Các bị cáo có

động cơ, mục đích phạm tội nhằm thoả mãn nhu cầu cá nhân là rất lớn.

Thứ ba, từ kết quả phân tích những yếu tố tác động đến việc hình thành nhân

thân người phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh cho

thấy những yếu tố này có tác động rất lớn đến việc hình thành nhân thân người

phạm tội.

Những luận điểm đã làm rõ ở chương 2 là cơ sở quan trọng để tác giả tiếp

tục nghiên cứu các giải pháp phòng ngừa tình hình tội đánh bach từ khía cạnh nhân

thân.

Chương 3

DỰ BÁO VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI ĐÁN

BẠC TỪ KHÍA CẠNHNHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI

53

3.1. Dự báo tình hình nhân thân người phạm tội đánh bạc và các yếu tố

tác độngđến việc hình thành nhân thân người phạm tội này

3.1.1 Dự báo tình hình nhân thân người phạm tội đánh bạc

Cùng với sự tăng trưởng của kinh tế dẫn tới sự phát triển của nhu cầu văn

hoá, tinh thần hành vi đánh bạc đem lại sở thích lệch lạc cho một bộ phận không

nhỏ trong nhân dân dự báo về nhân thân người phạm tội đánh bạc trong thời gian

tới như sau:

Người phạm tội đánh bạc thường có sở thích không lành mạnh, tiêu cực sẽ

hình thành ở cá nhân đó các nhân cách lệch lạc như lối sống ích kỉ, hưởng thụ,

buông thả, coi thường chuẩn mực đạo đức… Người phạm tội sẵn sàng bất chấp

những giá trị, quy tắc đạo đức để thoả mãn nhu cầu, sở thích hàng ngày của mình,

dẫn đến hành động theo thói quen, cảm tính.

Người phạm tội đánh bạc thường có quan niệm sai lầm về các giá trị của

cuộc sống, không hiểu biết hoặc ít hiểu biết pháp luật nên thường có thái độ thờ ơ,

coi thường pháp luật. Những sai lệch trong ý thức pháp luật cũng là một trong

những yếu tố tác động trong cơ chế làm phát sinh tội phạm khi gặp những hoàn

cảnh, tình huống cụ thể họ sẽ không kiềm chế, kiểm soát được hành vi của mình, xử

sự không đúng đắn và có hành vi vi phạm pháp luật.

3.1.2. Dự báo những yếu tố tác động đếnviệc hình thànhnhân thân người

phạm tội đánh bạc

- Môi trường kinh tế, xã hội

Trong giai đoạn 2016 - 2020, Quận 7 đã đề ra mục tiêu tổng quát trở thành

quận văn minh, hiện đại đóng góp vào sự phát triển chung của thành phố. Phấn đấu

tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất các thành phần kinh tế ở mức bình quân từ 12%

trở lên. Phát triển dịch vụ, thương mại theo hướng một quận đô thị hoá đang phát

triển. Tạo mọi điều kiện về quy hoạch, cải cách hành chính để các dự án bất động

sản trên địa bàn tiến hành bền vững theo quy hoạch. Uỷ ban nhân dân quận đã đề ra

36 chỉ tiêu cụ thể trên các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, đô thị - môi trường; an ninh

54

quốc phòng; cải cách hành chính. Về lĩnh vực kinh tế gồm 05 chỉ tiêu: thực hiện

đảm bảo chỉ tiêu phát triển 1000 doanh nghiệp theo nghị quyết của Hội đồng nhân

dân Quận, vận động 90% hộ kinh doanh đủ điều kiện chuyển đổi sang doanh

nghiêp; phấn đấu tổng thu ngân sách Nhà nước, tổng thu và tổng chi ngân sách địa

phương đạt chỉ tiêu thành phố giao… Lĩnh vực xã hội gồm có 13 chỉ tiêu: tỷ lệ trẻ

em 5 tuổi đi học mẫu giáo đạt 99%, tỷ lệ học sinh đi học đạt đúng độ tuổi tiểu học

đạt 100%, THCS đạt 99% trở lên, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS và lớp 10 trung

học nghề đạt 100%, tỷ lệ xét tốt nghiệp THCS đạt trên 99%; đạt tỷ lệ 18 bác sĩ/

10.000 dân, 30 giường bệnh /10.000 dân; phấn đấu giới thiệu và giải quyết việc làm

cho ít nhất 16.000 lượt lao động, tỷ lệ thất nghiệp của lao động dưới 5%... [10]

Quận 7 có vị trí chiến lược trong khai thác giao thông đường thuỷ và đường bộ,

đồng thời đây cũng là cửa ngõ phía Nam của Thành phố Hồ Chí Minh nên có điều

kiện thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Với vị trí và điều kiện thuận lợi như vậy,

Quận 7 là nơi thu hút người lao động từ khắp các tỉnh thành làm việc ở những vị trí

khác nhau. Tuy nhiên, cùng với sự tác động đó một bộ phận dân cư có đời sống khó

khăn, thất nghiệp việc làm không ổn định, tham gia vào các tệ nạn xã hội trong đó

có cờ bạc.

Vì vậy, dự báo tình hình tội đánh bạc dưới sự tác động của môi trường kinh

tế, xã hội ngày càng phức tạp, có xu hướng gia tăng, thủ đoạn hoạt động tinh vi,

ngụy trang dưới nhiều hình thức. Nguy hại hơn, cờ bạc là một trong những nguyên

nhân phát sinh các hành vi phạm tội khác như trộm cắp, cướp giật… khiến tình hình

trật tự an toàn xã hội thêm phức tạp.

- Môi trường gia đình

Mỗi đứa trẻ sinh ra như một tờ giấy trắng, bản thân trẻ chưa hình thành một

tính cách rõ rệt. Những nét vẽ đầu tiên trên trang giấy đó có thể sẽ quyết định cả

cuộc đời. Vậy nên, môi trường đầu tiên mà mỗi đứa trẻ tiếp xúc – gia đình – sẽ là

những ảnh hưởng đầu tiên và quan trọng nhất đối với sự phát triển tâm lí và tính

cách của trẻ.. Đối với phần lớn người Việt Nam chúng ta, gia đình luôn là mối quan

tâm hàng đầu, vì gia đình là mối quan tâm hàng đầu. Trải qua nhiều thế hệ, gia đình

55

Việt Nam tồn tại và phát triển gắn với những chuẩn mực, giá trị tốt đẹp, góp phần

xây dựng nền văn hoá Việt Nam, gia đình truyền thống Việt Nam hoà thuận, hiếu

thảo, khoan dung, chung thuỷ. Qúa trình đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế ngày

nay tạo ra nhiều cơ hội và điều kiện để gia đình Việt Nam ngày càng phát triển, tuy

nhiên vấn đề gia đình và giáo dục gia đình cũng đang gặp nhiều khó khăn, thách

thức.

Nghị quyết các kỳ Đại hội của Đảng đều nhấn mạnh sự quan tâm đến gia

đình, từ Nghị quyết Đại hôi Đảng lần thứ VII xác định gia đình với tư cách là “tế

bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan

trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”, đến Đại hội Đảng lần thứ XII

nêu rõ: “Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam… Phát huy giá trị

truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh”, “tập

trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm

việc”. Thể chế các chủ trương, Nghị quyết của Đảng, nhiều Bộ luật đề cập đến chế

định gia đình với vị trí, vai trò rất quan trọng như Bộ luật dân sự, Bộ luật Hôn nhân

và gia đình; Luật Bình đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực gia đình; Luật trẻ em;

Luật người cao tuổi. Đặc biệt, Chính phủ ban hành Chiến lược Phát triển gia đình

Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 và quyết định kể từ năm 2001, ngày 28/06

hàng năm đã trở thành ngày gia đình Việt Nam.

Trong bối cảnh xã hội hội nhập, những giá trị chuẩn mực truyền thống đã và

đang bị tác động, thay đổi, xen lẫn với những chuẩn mực, hành vi của xã hội mới.

Mối quan tâm, chăm sóc của một bộ phận cha mẹ con cái dường như đang bị suy

giảm. Chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, bởi chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa

cá nhân và thiếu vắng sự chăm sóc, bảo vệ của gia đình làm cho nền tảng nhân

cách, xã hội của một số trẻ em có nguy cơ bị lung lay. Mâu thuẫn gia đình mà đỉnh

điểm là bạo lực gia đình ngày càng nghiêm trọng, trong đó nổi bật nhất là bạo lực

của người chồng đối với người vợ và bạo lực của cha mẹ đối với con cái và gắn với

điều này chính là vấn đề ly hôn. Trong đời sống, vẫn còn tỉ lệ không nhỏ người cha,

người mẹ không dành thời gian để chăm sóc con cái làm tăng nguy cơ đối với các

56

hành vi lệch chuẩn trong cuộc sống. Không ít trẻ em trong các gia đình này đã bỏ

học, đi lang thang bụi đời, đểcuối cùng rơi vào vòng xoáy của các tệ nạn xã hội như

cờ bạc, ma tuý, mại dâm, thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật… Đây chính là

vấn đề mà các cơ quan chức năng, Chính phủ, chính quyền địa phương các cấp và

các đoàn thể xã hội phải đặc biệt quan tâm.

- Môi trường giáo dục

Môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện là môi trường giáo dục

mà người học được bảo vệ, không bị tổn hại về thể chất và tinh thần; không có tệ

nạn xã hội, không bạo lực; người học cán bộ quản lý, giáo viên nhân viên có lối

sống lành mạnh, ứng xử văn hoá; người học được tôn trọng, đối xử công bằng, bình

đẳng và nhân ái; được phát huy dân chủ tạo điều kiện về phẩm chất, năng lực.

Trong thời gian qua, tại một số địa phương trên cả nước đã liên tiếp xảy ra tình

trạng mất an ninh, an toàn trường học, vi phạm đạo đức nhà giáo như: học sinh bị

tai nạn thương tích do điều kiện cơ sở vật chất trong trường học không đảm bảo;

học sinh đánh nhau, gây rối trật tự, an ninh trong nhà trường và nơi công cộng; phụ

huynh học sinh hàn hung, gây thương tích, xúc phạm danh dự nhà giáo, tinh thần,

thể chất học sinh; học sinh xúc phạm danh dự, nhân phẩm thân thể giáo viên, nhân

viên nhà trường, người khác. Giáo viên có hành vi thiếu chuẩn mực sư phạm với

học sinh, bạo lực, bạo hành, xâm hại học sinh…

Để đáp ứng nhu cầu giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực trong giai đoạn mới,

trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo của Trung ương, các ngành, các cấp cần tiếp tục

quan tâm đến việc củng cố, xây dựng và phát triển môi trường giáo dục trong và

ngoài trường về cả vật chất và tinh thần.

- Môi trường bạn bè

Con người sống trong xã hội, ngoài mối quan hệ với gia đình, nhà trường thì

mối quan hệ với bạn bè cũng diễn ra hàng ngày và thường xuyên trong suốt cuộc

đời của mỗi con người, bởi con ngườ không thể sống một mình mà cần có sự giao

lưu, kết bạn với nhiều thành viên khác. Trong một số trường hợp, việc tiếp xúc với

bạn bè hàng ngày còn nhiều hơn tiếp xúc với cha mẹ trong xã hội hiện đại. Việc

57

giao lưu, tiếp xúc với bạn bè có ý nghĩa trong việc hình thành đặc điểm nhân thân

tích cực nhưng song song đó cũng ảnh hưởng những đặc điểm nhân thân tiêu cực.

Cùng với sự phát triển internet và các mạng xã hội tràn lan, việc con người

giao lưu tiếp xúc với bạn bè không chỉ dừng ở chỗ tiếp xúc với bạn bè xấu hàng

ngày trong cuộc sống mà còn cả những bạn bè trong thế giới ảo. Qua việc trao đổi,

trò chuyện với bạn bè trên các mạng xã hội… tạo điều kiện cho trẻ có những mối

quan hệ với bạn bè trên mạng. Tuy nhiên, nếu không có sự quan tâm và định hướng

của gia đình thì sẽ dẫn đến hình thành những đặc điểm nhân thân tiêu cực từ môi

trường bạn bè.

- Môi trường văn hoá, tư tưởng, đạo đức

Đời sống của người dân hiện nay được nâng lên do sự phát triển của nền

kinh tế thị trường. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì cũng bộc lộ

một số vấn đề như tỉ lệ thất nghiệp cao nên nhiều người có thời gian truy cập vào

các trang mạng internet không lành mạnh. Mặt khác, văn hoá nước ngoài du nhập

vào Việt Nam bằng nhiều con đường khác nhau nên con người rất dễ bị những ảnh

hưởng không tốt bởi những luồng văn hoá này. Chính vì vậy nghiên cứu nhân thân

người phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh là nghiên

cứu về nguyên nhân phát sinh, đặc điểm tình hình, tình hình tội phạm để dự báo về

sự tác động của môi trường văn hoá tư tưởng, đạo đức với nhân thân người phạm

tội đánh bạc.

3.2. Các giải pháp phòng ngừa tình hình người phạm tội đánh bạc trên

địa bàn Quận 7 từ khía cạnh nhân thân người phạm tội

Trong những năm qua công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung

và tội đánh bạc nói riêng đã được các cấp ủy Đảng, chính quyền quan tâm lãnh đạo,

triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả góp phần đảm bảo an ninh trật tự trên địa

bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và quận 7 nói riêng. Để thực hiện phòng

ngừa tình hình tội đánh bạc Chính quyền địa phương quận 7 ngoài việc tiếp tục triển

khai, thực hiện nghiêm túc các văn bản của Đảng và Nhà nước về công tác đấu

tranh, phòng, chống tội phạm và tội đánh bạc như: Chỉ thị số 48 – CT/TW ngày

58

22/10/2010 cuả Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

phòng chống tội phạm trong tình hình mới; Chỉ thị số 46- CT/TW ngày 22/06/2015

cuả Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác đảm bảo an ninh

trật tự trong tình hình mới; Chiến lược quốc gia phòng chống tội phạm giai đoạn

2016 – 2025 và định hướng đến năm 2030; Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XII của

Đảng về tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về

tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển

hóa”trong nội bộ gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05 – CT/TW ngày 15/05/2016

của Bộ Chính trị về: “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách

Hồ Chí Minh” và các chỉ thị của Uỷ ban nhân Thành phố về đảm bảo an ninh trật

tự, an toàn xã hội trên địa bàn thì còn cần thực hiện những giải pháp sau:

3.2.1. Hạn chế, loại trừ các yếu tố tác động tiêu cực lên việc hình thành

nhân thân người phạm tội đánh bạc

3.2.1.1. Hạn chế, loại trừ những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống

a. Môi trường gia đình

Để phòng ngừa tội phạm nói chung và tội đánh bạc nói riêng thì việc hạn

chế, loại trừ những nguyên nhân làm phát sinh nhân thân xấu từ góc độ gia đình có

một ý nghĩa hết sức quan trọng và cần có những giải pháp sau:

- Gia đình là nơi tạo cảm giác an toàn cho mỗi người trong cuộc sống hàng

ngày, chứa đựng sự yêu thương, yên bình cho các thành viên. Một khi yêu thương,

gắn bó, hòa thuận các thành viên trong gia đình cảm thấy mình có giá trị, từ đó hình

thành sự tự tin và lòng tự trọng trong cuộc sống hàng ngày.

- Việc giáo dục các thành viên trong gia đình đòi hỏi cần phải có phương

pháp phù hợp với đặc điểm tâm lý, khí chất, trí tuệ, năng khiều… để mỗi người tự

tin bộc lộ hết khả năng của mình. Đối với từng lứa tuổi khác nhau, phương pháp

giáo dục khác nhau nhưng không nên quá nuông chiều hoặc quá nghiêm khắc. Cần

có sự động viên, khích lệ, khen thưởng trong gia đình một thành viên nào đó làm

được việc tốt, có thành tích cao trong học tập, ngược lại phải phê bình và uốn nắn

khi ai đó làm gì sai trái, thành tích học tập không tốt.

59

- Ông bà, cha mẹ cần làm gương cho con cháu noi theo. Khi gia đình có ông

bà, cha mẹ gương mẫu sẽ tác động tích cực đến các thành viên khác của gia đình.

Ngược lại, ông bà cha mẹ không tốt, hay vi phạm pháp luật thì sẽ dẫn đến những

thành viên khác trong gia đình vi phạm pháp luật, thậm chí có thái độ coi thường

pháp luật, coi thường các giá trị khác của cuộc sống. Các ngành, các cấp cần tổ

chức các cuộc hội thảo, giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm trong xây dựng gia đình tiêu

biểu để giáo dục nâng cao nhận thức, nhân cách cho các thành viên trong gia đình.

- Gia đình cần giáo dục lao động, tạo công ăn việc làm và rèn luyện tính tự

lập, khả năng ứng phó trước những tình huống trong thực tế. Lao động vừa là

phương thức hình thành nhân cách, phát triển tình cảm, bộc lộ năng lực cá nhân,

vừa tạo ra nguồn của cải nuôi sống bản thân và xã hội. Chỉ thông qua lao động, con

người mới có điều kiện hoàn thiện nhân cách, trở thành con người phát triển toàn

diện.

- Mỗi thành viên trong gia đình cần lắng nghe, không áp đặt và sử dụng bạo

lực để mỗi người không bị mất phương hướng, phát triển lệch chuẩn; tập luyện cho

trẻ ý thức, thói quen tự lập, không ỷ lại, dựa dẫm, biết quý trọng công sức lao động

của bản thân và người khác, đặc biệt là người chưa thành niên.

- Cần thực hiện tốt các chính sách ưu tiên khuyến khích phát triển kinh tế gia

đình, chuyển đổi nghề nghiệp phù hợp; chú trọng công tác giải quyết việc làm, nâng

cao chất lượng gia đình và xã hội.

- Cần xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu: "Ông

bà mẫu mực, con cháu hiếu thảo", "Đồng vợ đồng chồng tát biển đông cũng cạn",

"An hem như thể tay chân" chú trọng nêu gương người tốt, việc tốt. Để hạn chế tình

trạng ly hôn, ly thân của các cặp vợ chồng trẻ diễn ra phổ biến như hiện nay,

khuyến khích gia đình tham gia vào công tác hòa giải các mâu thuẫn, xích mích lẫn

nhau trong quá trình chung sống giữa các thành viên trong gia đình.

- Xây dựng gia đình Việt Nam tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi

người, là tế bào lành mạnh của xã hội. Thực hiện tốt các chủ trương, chính sách,

pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình,

60

ngăn chặn sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội vào gia đình. Kế thừa, giữ gìn và phát

huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam gắn liền với những

giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển.

b.Môi trường giáo dục

Để hạn chế, loại trừ những tác động tiêu cực từ môi trường giáo dục cần thực

hiện những giải pháp sau:

- Uỷ ban nhân dân Quận và chính quyền địa phương cần xây dựng các chính

sách hồ trợ và đầu tư cho giáo dục hơn nữa.

- Giáo viên phải thay đổi quan hệ với người học, coi trọng việc gần gũi, tạo

ra sự kết nối cảm xúc tích cực với các em, được các em tin cậy và chia sẻ.

- Học sinh cần phát huy hơn nữa tinh thần tự học, tính tích cực, sáng tạo,

những kĩ năng cần thiết trong cuộc sống. Nhà trường nên có hòm thư hoặc kênh

thông tin tin cậy để các em chia sẻ, thông báo về các hành vi bạo lực học đường, vi

phạm pháp luật…

- Các ngành, các cấp cần quan tâm đến việc củng cố, xây dựng và phát triển

môi trường giáo dục trong các nhà trường cả về vật chất và tinh thần, các yếu tố bên

trong và bên ngoài; đổi mới và phát triển từ mục tiêu, nội dung, phương pháp đến

phương tiện giáo dục, chất lượng giáo dục.

- Cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa Nhà trường, gia đình và chính

quyền địa phương trong quản lí giáo dục học sinh và xây dựng môi trường giáo dục

an toàn, lành mạnh, thân thiện, phòng chống bạo lực học đường. Bên cạnh đó, tăng

cường các giải pháp bảo đảm an ninh trật tự, an toàn trường học; ngăn chặn, phòng

ngừa và khắc phục các yếu tố có nguy cơ gây mất an toàn; bảo đảm an toàn tuyệt

đối về thể chất và tinh thần cho nhà giáo và học sinh trong các cơ sở giáo dục. Đồng

thời, tổ chức thanh tra, kiểm tra các cơ sở giáo dục trong việc thực hiện các quy

định về môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện và phòng, chống bạo

lực học đường.

- Tuyên truyền, giáo dục học sính tích cực tham gia các hoạt động vui chơi,

giải trí lành mạnh, tham gia các hoạt động Đoàn, Đội; lao động giúp đỡ gia đình và

61

tham gia các hoạt động cộng đồng, các hoạt động tình nguyện; không truy cập các

website thiếu lành mạnh trên internet; không sử dụng ma túy, đánh bạc, đua xe;

không để kẻ xấu lợi dụng, lôi kéo vào các tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan.

- Trường học phải nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục, đặc biệt là cần giáo

dục về kĩ năng cần có trong cuộc sống, đạo đức. Để làm tốt việc này Nhà trường

cần tổ chức nhiều hơn nữa những buổi sinh hoạt ngoại khoá, tham quan thực tế, về

nguồn… để cho học sinh được tiếp xúc với nhiều kiến thức trong thực tế chứ không

chỉ thông qua sách vở. Thông qua các tuyên truyền viên cần giáo dục cho học sinh

thấy được tác hại của hành vi “Đánh bạc”, nếu đánh bạc thì có thể trở thành người

phạm tội như thế nào; từ đó chỉ cho người học những kĩ năng để tránh bị rủ rê, lôi

kéo đánh bạc.

- Nhà trường cần được các ngành các cấp, phụ huynh quan tâm hơn nữa

trong việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học, sân chơi đa dạng

phù hợp cho từng lứa tuổi. Đây là môi trường mà các em học sinh có thể học hỏi,

trao đổi kiến thức, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo nhằm hạn chế đến mức

sự sa ngã, những thói quen không tốt… việc này có thể đánh lùi được tệ nạn xã hội

trong đó có cờ bạc.

- Tăng cường giáo dục pháp luật cho các đối tượng như: thanh thiều niên,

học sinh, sinh viên; những người có điều kiện kinh tế, có khả năng bị các đối tượng

cờ bạc chuyên nghiệp rủ rê, lôi kéo; những người có tiền ám, tiền sự về tội đánh

bạc; cán bộ, công nhân viên chức trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh về

những nội dung:

+ Quy định của pháp luật; chính sách của Đảng và Nhà nước về tội đánh bạc,

những vụ đánh bạc trên địa bàn Quận để nhân dân nhận thức rõ được tác hại, tính

nguy hiểm của xã hội, hình phạt đối với tội này để quần chúng nhân dân nhận thức

và hiểu rõ.

+ Phân chia để có hình thức giáo dục đối với từng nhóm cụ thể, xây dựng và

lựa chọn những cách giáo dục phù hợp.

62

c. Môi trường bạn bè

Con người sống trong xã hội, ngoài mối quan hệ với gia đình, nhà trường thì

mối quan hệ với bạn bè cũng diễn ra hàng ngày và thường xuyên trong suốt cuộc

đời của mỗi người, bởi con người không thể sống một mình mà cần có sự giao lưu,

kết bạn với nhiều người khác nhau. Việc giao lưu, tiếp xúc với bạn bè có ý nghĩa

trong việc hình thành đặc điểm nhân thân tích cực nhưng song song cũng ảnh

hưởng tới những đặc điểm nhân thân tiêu cực. Trong cuộc sống chúng ta cùng có

mối quan hệ với đồng nghiệp là những người mà con người tiếp xúc tại môi trường

làm việc, đây là một hình thức của mối quan hệ bạn bè. Chính vì vậy, gia đình cần

phối hợp với Nhà trường, nơi làm việc tìm hiểu những mối quan hệ của người thân

mình trong học tập cũng như trong cuộc sống để biết được họ đang kết giao với bạn

bè và đồng nghiệp như thế nào? Để gia đình có những định hướng thích hợp.

Đối với gia đình khiếm khuyết như cha mẹ ly hôn, ly thân, chỉ có cha hoặc

mẹ thì thời gian người phạm tội tiếp xúc với bạn bè xấu do bất mãn gia đình, bất

mãn xã hội dễ xảy ra và phổ biến. Vì vậy, các bậc phụ huynh phải thường xuyên

theo sát con cái để định hướng, động viên, khuyên bảo con trước những cạm bẫy từ

các bạn bè có lối sống tiêu cực.

Cùng với sự phát triển của internet và các mạng xã hội tràn lan, việc người

phạm tội giao lưu, kết bạn không chỉ dừng lại ở chỗ tiếp xúc với bạn bè xấu hàng

ngày trong cuộc sống mà còn với bạn bè trong thế giới ảo. Gia đình cần phải thường

xuyên kiểm tra, theo dõi và có những biện pháp, cách thức ngăn ngừa hiệu quả. Gia

đình, thầy cô giáo cần phải thực sự là những người thân thiết, hiểu rõ và chia sẻ mọi

khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống cũng như những mối quan hệ bạn bè phức

tạp của các thành viên khác giúp họ tránh khỏi những tác động xấu từ bạn bè, cần

phát huy lợi thế của nhóm bạn thân, bạn tốt trong việc hình thành nhân cách con

người.

d. Môi trường nơi cá nhân làm việc hoặc cư trú

- Tăng cường công tác quản lí tại khu dân cư, quản lí cán bộ công chức, viên

chức, người lao động, kiên quyết xử lý nghiêm minh những cá nhân tham gia đánh

63

bạc dưới hình thức số lô, số đề. Lấy tiêu chí cơ quan, đơn vị, xã thôn, tổ dân phố,

gia đình không có tệ nạn cờ bạc làm tiêu chuẩn bình xét hàng năm. Đơn vị cơ quan

nào, phường nào trên địa bàn Quận để xảy ra tệ nạn đánh bạc, tội phạm đánh bạc sử

dụng công nghệ cao, đường dây đánh bạc có tổ chức trong thời gian dài mà không

kịp thời phát hiện, xử lí thì người đứng đầu phải chịu trách nhiệm trước chủ tịch Uỷ

ban nhân dân Quận.

- Công an Quận và công an các phường cần làm tốt công tác đảm bảo An

ninh trật tự và công tác quản lí tạm vắng, tạm trú, quản lí các cơ sở kinh doanh có

điều kiện, tăng cường công tác nắm tình hình, địa bàn khu dân cư, kiên quyết xử lý

nghiêm các trường hợp vi phạm. Phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn

thể, tổ dân phố trong công tác quản lí cư trú để chủ động phòng ngừa tội phạm, tăng

cường kiểm tra các khu vực kinh doanh lưu trú và việc chấp hành các quy định về

An ninh trật tự. Hướng dẫn chủ các cơ sở lưu trú cách phòng ngừa tội phạm, kịp

thời thông tin cho các cơ quan chức năng khi phát hiện các đối tượng có biểu hiện

nghi vấn.

- Thông qua nhiều mặt công tác khác nhau, chính quyền địa phương cần trực

tiếp xuống địa bàn, thăm hỏi quần chúng nhân dân, xây dựng lực lượng quần chúng

nòng cốt để kịp thời nắm bắt những vấn đề có liên quan đến An ninh trật tự nhất là

về tôi đánh bạc, các đối tượng có biểu hiện nghi vấn để có kế hoạch điều tra, nghiên

cứu và áp dụng các biện pháp phù hợp. Thông qua công tác tuần tra, kiểm soát,

kiểm tra hành chính nhất là các điểm kinh doanh cà phê, tiệm internet, điểm vui

chơi, giải trí… để kịp thời phát hiện những vấn đề mới phát sinh, phục vụ hoạt động

phòng ngừa tình hình tội đánh bạc.

- Để có biện pháp, cách thức quản lý xã hội trên địa bàn đạt hiệu quả, thì

chính quyền các cấp cần làm tốt công tác kiểm tra, giám sát những địa điểm, khu

vực có tình hình phức tạp dễ xảy ra tình trạng đánh bạc như các khu công nghiệp,

công viên…

- Chính quyền các cấp, các cơ quan tiến hành tố tụng cần phối hợp với các

chủ doanh nghiệp tổ chức các buổi tuyên truyền cho công nhân trong các khu công

64

nghiệp, khu chế xuất nhận biết các phươn thức thủ đoạn của tội phạm đánh bạc và

hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới phòng, chống tội phạm đánh

bạc để công nhân lao động nâng cao ý thức phòng ngừa, bảo vệ mình trước sự rủ rê,

lôi kéo của các đối tượng và các loại tội phạm khác.

3.2.1.2. Hạn chế, loại trừ những tác động tiêu cực từ môi trường kinh tế, xã

hội

Kinh tế, xã hộilà điều kiện và là nền tảng cho công tác phòng ngừa tình hình

tội phạm nói chung và tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

Trong thời gian qua Uỷ ban nhân dân Quận thực hiện sự chỉ đạo của Đảng bộ và

chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, xã

hội nhằm tạo điều kiện để mọi người trong cộng đồng xã hội có cơ hội bình đẳng để

phát triển, được tiếp cận những nguồn lực chung và được tham gia, đóng góp và

hưởng lợi, tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và văn hóa tốt đẹp cần thực hiện

những giải pháp sau:

- Thứ nhất, đẩy mạnh công tác giải quyết việc làm. Trong thời gian qua,

Chính quyền địa phương đã tích cực phối hợp cùng với các doanh nghiệp triển khai

các hoạt động tư vẫn, giới thiệu việc làm, thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp,

chương trình, dự án về việc làm, thị trường lao động. Tập trung tổ chức xây dựng kế

hoạch, đăng kí học nghề cho người lao động. Ưu tiên những ngành nghề cần thiết

phục vụ các doanh nghiệp trên địa bàn, các doanh nghiệp trên địa bàn Quận 7, phù

hợp với sự phát triển kinh tế của địa phương. Đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu chuyển

đổi cơ cấu lao động. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, đơn vị tuyển dụng có thể

tiếp cận với nguồn lao động và ngược lại. Tiếp tục các giải pháp đổi mới, nâng cao

chất lượng đào tạo nghề, đảm bảo chương trình đào tạo nghề sát với thực tiễn, gắn

với nhu cầu của doanh nghiệp; tăng cường gắn kết giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp

với doanh nghiệp, huy động các doanh nghiệp tham gia dạy nghề; đẩy mạnh xã hội

hóa, đa dạng nguồn lực phát triển nghề nghiệp. Khi người dân có nghề nghiệp ổn

đinh, chăm lo kinh tế, ổn định đời sống sẽ không bị lôi kéo bởi những thói hư, tật

65

xấu, không bị tiêm nhiễm những lối sống không lành mạnh, các văn hóa phẩm đồi

trụy, độc hại… từ đó có lối sống lành mạnh, xây dựng những khu dân cư văn hóa.

- Thứ hai, Quận 7 phải ưu tiên thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo như:

ưu tiên thực hiện các chính sách, trợ giúp người nghèo về y tế, giáo dục, tạo việc

làm… Hiện nay Quận còn 1.1.79 hộ nghèo chiếm 1.41% (giảm 0.79%) và 1.104 hộ

cận nghèo, chiếm 1.32% [10]. Tập trung giúp người nghèo giảm bớt khó khăn, ổn

định cuộc sống, thu nhập; hoàn thiện chính sách an sinh, phúc lợi xã hội ổn định đời

sống của người nghèo. Các ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng nông nghiệp và

phát triển nông thôn cần triển khai các hoạt động tín dụng với lãi suất ưu đãi để học

sinh, sinh viên thuộc hộ nghèo được hưởng các chế độ ưu đãi. Tại địa bàn Quận 7,

bên cạnh những người có mức sống tương đối khá thì có một bộ phận dân cư sống ở

mức nghèo khổ. Những thành viên sống trong gia đình này do áp lực của cuộc sống

nên không quan tâm đến con cái, vì vậy họ thường bị lệch lạc về nhân cách dễ bị sa

ngã bởi những cám dỗ thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Do đó để phòng

ngừa tình hình tội đánh bạc chính quyền địa phương cần phải nỗ lực, phấn đấu, kiên

trì thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo.

- Thứ ba, Quận 7 cần tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài để chuyển

dịch cơ cấu, tăng tỉ trọng xuất khẩu các sản phẩm có giá trị tăng cao. Chủ động mời

gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước ưu tiên chọn các nhà đầu tư mạnh về tài

chính, có công nghệ mới hàm lượng chất xám cao, thân thiện với môi trường. Các

doanh nghiệp đầu tư vào Quận 7 sẽ tạo công ăn việc làm cho người dân.

- Thứ tư, để công tác phòng ngừa tình hình tội đánh bạc có hiệu quả cao thì

cần phát triển kinh tế, xã hội thúc đẩy phát triển kinh tế dưới hình thức đa dạng các

loại hình sản xuất kinh doanh, thương mại, dịch vụ là thế mạnh tại địa bàn quận.

Đầu tư về cơ sở vật chất, kĩ thuật, hạ tầng tạo điều kiện cho người dân có công ăn

việc làm.

3.2.1.3. Hạn chế, loại trừ những tác động tiêu cực từ môi trường văn hóa, tư

tưởng, đạo đức

66

Nhận thức rõ những tác động từ môi trường văn hóa, tư tưởng, đạo đức tác

động mạnh mẽ đến quá trình hình thành nhân cách con người. Vì vậy, để phòng

ngừa tình hình tội đánh bạc từ khía cạnh nhân thân cần ban hành những chuẩn mực

văn hóa tích cực góp phần xáy dựng lối sống trong sạch, lành mạnh. Các ngành các

cấp cần tuyên truyền vận động người dân thực hiện “Toàn dân đoàn kết xây dựng

đời sống văn hóa”góp phần hạn chế và đẩy lùi tệ nạn xã hội như cờ bạc, ma túy,

mại dâm. Tuy nhiên để hạn chế, loại trừ những tác động tiêu cực từ môi trường văn

hóa, tư tưởng, đạo đức cần thực hiện những giải pháp sau:

- Tổ chức những loại hình văn hóa lành mạnh, thể dục, thể thao, các hoạt

động vui chơi giải trí, văn hóa văn nghệ … cho đông đảo quần chúng tham gia

nhằm hạn chế việc truy cập vào các trang mạng không lành mạnh, ảnh hưởng không

tốt từ mạng xã hội.

- Tăng cường công tác quản lí nhà nước liên quan đến lĩnh vực an ninh trật

tự, tổ chức phối hợp kiểm tra, thanh tra các ngành nghề kinh doanh, các địa điểm

hoạt động văn hóa như nhà xuất bản, tranh, ảnh, trung tâm sản xuất đĩa, nhạc…

nhằm hạn chế, phòng ngừa tội đánh bạc.

- Các cơ quan có liên quan cần tham mưu cho Đảng và Nhà nước ban hành

những quy phạm để hạn chế tác động tiêu cực từ môi trường văn hóa, tư tưởng đạo

đức như tăng cường phòng, chống văn hóa phẩm độc hại, tệ nạn xã hội, xây dựng

môi trường văn hóa lành mạnh. Mặt khác, cần tăng cường các biện pháp giải quyết

tình trạng thiếu chọn lọc những sản phẩm văn hóa nước ngoài, tình trạng các văn

hóa phẩm bạo lực, độc hại bày bán công khai như hiện nay, phải quản lí chặt chẽ

việc kiểm duyệt các trang online, băng đĩa, phim ảnh… để hạn chế việc những đối

tượng sử dụng công nghệ cao để thực hiện hành vi đánh bạc.

- Chính quyền Quận 7 cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo

dục pháp luật về tác hại, nguy cơ của tội đánh bạc, nêu gương người tốt, việc tốt

trong đấu tranh, phòng chống tệ nạn xã hội trên các phương tiện như truyền hình, ấn

phẩm báo chí, loa phát thanh… nhằm khích lệ phong trào toàn dân bài trừ tệ nạn cờ

bạc. Xây dựng và nhân các điển hình tiên tiến trong phong trào vận động toàn dân

67

bảo vệ an ninh trật tự. Kịp thời khen thưởng hoặc đề xuất khen thưởng động viên

các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác đấu tranh với tội phạm

đánh bạc dưới hình thức số lô, số đề.

- Đề nghị các cơ quan tiến hành tố tụng kịp thời truy tố, xét xử nghiêm minh

đối với các hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc, đánh bạc sử dụng công nghệ cao

dưới hình thức mua bán số lô, số đề; phối hợp với Công an cùng cấp tổ chức xét xử

lưu động các vụ án điểm nhằm tuyên truyền, giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

3.2.2. Các giải pháp khắc phục những yếu tố nhân thân tiêu cực từ phía

người phạm tội đánh bạc

Các giải pháp khắc phục những yếu tố tiêu cực từ phía người phạm tội đánh

bạc là bao gồm những giải pháp nhằm loại trừ những yếu tố thuộc về cá nhân người

phạm tội như biểu hiện tiêu cực trong lối sống, tiêu cực thuộc ý thức cá nhân như

sau:

- Để hình thành nhân thân tốt cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục về việc

xây dựng lối sống lành mạnh, sống có trách nhiệm với bản thân, có trách nhiệm với

gia đình, tham gia vào các hoạt động đoàn thể, tập luyện văn hóa văn nghệ thể dục

thể thao… để từ đó tránh xa các tệ nạn xã hội trong đó có đánh bạc. Tăng cường

định hướng, giáo dục cho giới trẻ sống có hoài bão, ước mơ góp phần tạo môi

trường xã hội lành mạnh, hạn chế tiêu cực trong cuộc sống.

- Nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hình sự nhằm giáo dục, động viên

khuyến khích giúp cho người phạm tội hiểu, ăn năn, hối hận về hành vi của mình.

Để công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân đạt hiệu quả cần phải áp dụng các biện

pháp tuyên truyền, quản lí, giáo dục, cải tạo cho phù hợp với tính chất của tội phạm,

mức án chấp hành hình phạt… Cần có chương trình đào tạo nghề để dạy nghề cho

những người chấp hành án, có định hướng đào tạo cho phạm nhân những ngành

nghề phù hợp với nhu cầu xã hội và khả năng của họ, đảm bảo sau khi chấp hành

xong hình phạt tù họ có thể kiếm sống lương thiện bằng nghề đã học.

- Người chấp hành xong hình phạt cần được quan tâm để có niềm tin và ý chí

làm lại cuộc đời nên cần làm tốt công tác tác tái hòa nhập. Để thực hiện vấn đề này

68

có hiệu quả cần có kế hoạch rà soát, lập hồ sơ theo dõi, quản lí số người chấp hành

xong hình phạt tù về nơi cư trú. Các ban ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội trên địa

bàn cần phối hợp chặt chẽ trong việc tổ chức dạy nghề, nâng cao tay nghề, quan tâm

giúp đỡ về vật chất, thông qua các hội, đoàn thể bảo lãnh cho vay vốn để tạo việc

làm hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh tăng thu nhập; phối hợp với các doanh

nghiệp trên địa bàn giới thiệu và tiếp nhận lao động đối với số người chấp hành

xong án phạt tù để họ có việc làm, bảo đảm cuộc sống, hòa nhập cộng đồng. Đồng

thời các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội phải thường xuyên nắm tình hình, hoạt

động, diễn biến, tâm tư, nguyện vọng, thuận lợi, khó khăn của người chấp hành

xong hình phạt tù.

- Các ngành, các cấp cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục nhằm khắc phục

những thói quen, sở thích xấu, hạn chế về nhận thức pháp luật thông qua việc:

+ Tuyên truyền xây dựng lối sống trong sạch, lành mạnh ở từng cá nhân, con

cháu hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, yêu lao động, say mê hăng hái học tập, làm việc,

tham gia tích cực các phong trào vì cộng đồng, tăng cường rèn luyện thể dục thể

thao, chăm lo cho sức khoẻ…

+ Nhà trường cần từng bước đưa nội dung giáo dục về tác hại của cờ bạc và

những định hướng thiết thực đối với học sinh, sinh viên để phòng, chống tác hại của

tội này.

+ Cần giáo dục, định hướng cho những người trẻ những điều tốt đẹp mà cuộc

sống đem lại cho chúng ta, cần có những ước mơ, hoài bão để định hướng cho mình

trong tương lai, xây dựng kế hoạch để tự giác rèn luyện, học tập.

Tiểu kết chương 3

Trong chương 3 của luận văn tác giả đã đưa ra những dự báo về tình hình

người phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7 ở các khía cạnh như: môi trường kinh

tế, xã hội; môi trường gia đình; môi trường giáo dục; môi trường bạn bè; môi

trường văn hoá, tư tưởng, đạo đức; về nhân thân người phạm tội trên cơ sở những

kết quả đã nghiên cứu, phân tích, đánh giá ở chương 2. Đồng thời, từ những dự báo

69

trên tác giả đã đưa ra những giải pháp nhằm phòng ngừa tình hình tội đánh bạc từ

khía cạnh nhân thân như: hạn chế những tác động tiêu cực từ môi trường gia đình;

môi trường bạn bè; môi trường giáo dục; môi trường văn hoá, tư tưởng đạo đức;

môi trường kinh tế, xã hội, vĩ môi; môi trường nơi cá nhân làm việc, cư trú; các giải

pháp khắc phục những yếu tố tiêu cực từ phía người phạm tội đánh bạc. Đây là

những giải pháp cơ bản góp phần tích cực vào việc phòng ngừa tình hình tội đánh

bạc từ khía cạnh nhân thân trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

70

KẾT LUẬN

Luận văn là công trình đi sâu nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học về nhân

thân người phạm tội đánh bạc từ thực tiễn Quận 7, TP HCM giai đoạn 2015 – 2019

để làm rõ các đặc điểm nhân thân và các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân

thân người phạm tội đánh bạc phù hợp với đặc điểm về địa lý, dân cư, điều kiện

kinh tế, xã hội trên địa bàn TP HCM, từ đó đưa ra một số giải pháp có tính khả thi

nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn Quận 7, TP

HCM trong thời gian tới.

Luận văn có kết quả nghiên cứu được vắn tắt như sau:

Thứ nhất, Dưới góc độ lý luận, luận văn đã khái quát đượccác vấn đề lý luận

cơ bản về nhân thân người phạm tội đánh bạc bao gồm định nghĩa và các đặc điểm

nhân thân của người phạm tội đánh bạc, làm khung lý thuyết để nghiên cứu thực

trạng những đặc điểm nhân thân người phạm tội ở địa bàn và thời gian nghiên cứu

Đây là cơ sở lý luận để đối chiếu, so sánh với thực tiến và nền tảng để đề ra những

giải pháp phòng ngừa.

Thứ hai, Luận văn đã xác định và phân tích những đặc điểm nhân thân liên

quan đến người phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7, TP HCM trong giai đoạn

2015 đến năm 2019.

Thứ ba, luận văn đã dự báo xu thế vận động của các yếu tố tác động đến sự

hình thành nhân thân người phạm tội đánh bạc, qua đó đề xuất các giải pháp phòng

ngừa tình hình người phạm tội đánh bạc trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí

Minh.

Do thời gian, nhận thức có hạn nên không tránh khỏi những thiếu sót, hạn

chế nhất định. Tác giả xin chân thành cảm ơn người hướng dẫn TS. Lê Tường Vy

cùng các thầy, cô giáo đã tham gia giảng dạy lớp Cao học luật đã nhiệt tình hướng

dẫn, truyền đạt kinh nghiệm, tạo điều kiện giúp đỡ, cung cấp số liệu, tài liệu đểthực

hiện hoàn thành Luận văn này./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Bộ Chính trị (2010), Chỉ thị số 48/CT-TW ngày 22/10/2010 về tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới;

2.Lê Cảm (2001), “Nhân thân người phạm tội - Một số vấn đề lý luận cơ

bản“,Tạp chí Tòa án, (số 10), tr. 7-11, (số 11), tr. 5-8;

3.Nguyễn Văn Cảnh cùng tập thể tác giả (2010), Tội phạm học, Nxb Tổng cục

xây dựng lực lượng Công an nhân dân, Hà Nội;

4.Nguyễn Văn Cảnh và Phạm Văn Tỉnh (2013), Một số vấn đề tội phạm học

Việt Nam, Học viện cảnh sát nhân dân, Hà Nội;

5.Chính phủ (2011), Nghị định số 80/2011/NĐ-CP Quy định các biện pháp

bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù;

6.Chính phủ (1998), Nghị quyết số 09/CP ngày 31/7/1998 về tăng cường công

tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới;

7.Nguyễn Chí Công (2013), Phòng ngừa tội phạm cướp tài sản trên địa bàn

tỉnh Vĩnh Long từ góc độ nhân thân người phạm tội, Luận văn Thạc sĩ Luật học,

Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh;

8.Công an Quận 7 (2015 - 2019), Báo cáo tổng kết công tác năm 2015, 2016,

2017, 2018, 2019;

9.Công an Quận 7 (Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội) (2014

- 2018), Thống kê nhân hộ khẩu năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019;

10.Cục Thống kê Quận 7 (2015 - 2019), Niêm giám thống kê năm, 2015, 2016,

2017, 2018, 2019;

11.Bùi Kiên Điện (2001),“Nhân thân bị can và một số khái niệm kề cận”, Tạp

chí Luật học, (số 6), tr.14-18;

12.Lê Văn Định (2015),“Đặc điểm nhân thân người phạm tội và phương thức

thực hiện tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai“,Tạp chí Kiểm sát, số 06, tr.

47-53;

13.Đỗ Đức Hồng Hà (2005),“Các tình tiết định khung tăng nặng trong tội giết

người phản ánh mức độ lỗi và các đặc điểm về nhân thân người phạm tội”, Tạp chí

Toà án nhân dân, số 18, tr.17-20;

14.Ngô Minh Hải (2015), Đặc điểm nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ

em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai dưới góc độ tội phạm học, Luận văn Thạc sĩ Luật

học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh;

15.Nguyễn Quang Hạnh (2013),“Một số vấn đề nhân thân người phạm

tội”,Tạp chí Nghề luật, số 1, tr.52-57;

16.Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên) (2000), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam,

Trường đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

17.Nguyễn Tuyết Mai (2006),”Một số đặc điểm chú ý về nhân thân của người

phạm tội về ma tuý ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học,số 11, tr. 32-37;

18.Phạm Thị Triều Mến (2016), Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu

từ thực tiễn tỉnh Bình Dương, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa Học Xã

Hội;

19.Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội

xâm phạm sở hữu, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh;

20.Đinh Văn Quế (2009), “Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự liên

quan đến nhân thân người phạm tội”,Tạp chí Toà án, (số 13), tr. 23-27, (số 14), tr.

19-28;

21.Quốc hội (2017), Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

22.Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

23.Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

24.Trần Văn Sơn (1997),“Nhân thân người phạm tội một căn cứ để quyết định

hình phạt“,Tạp chí Luật học, số 1, tr. 41-43;

25.Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg ngày

31/7/1998 về phê duyệt Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm;

26.Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2001),“Một số vấn đề về nhân thân người phạm

tội”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5, tr.46-53;

27.Nguyễn Thị Thanh Thủy (1996), Nhân thân người phạm tội trong tội phạm

học, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội;

28.Nguyễn Thị Thanh Thủy (2005), Nhân thân người phạm tội trong luật hình

sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội;

29.Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2001), “Nhân thân người phạm tội với việc quy

trách nhiệm hình sự”,Tạp chí Toà án,số 8, tr. 2-7;

30.Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2005), “Vấn đề nhân thân người phạm tội trong

thực tiễn quyết định hình phạt”,Tạp chí Toà án nhân dân,số 19, tr. 3-9;

31.Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2005), “Vấn đề nhân thân người phạm tội trong

thực tiễn truy cứu trách nhiệm hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 17, tr. 32-35;

32.Nguyễn Tấn Thương (2006), Đấu tranh phòng chống tội phạm cướp giật

tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện

Cảnh sát nhân dân;

33.Phạm Uyên Thy (2015), Nhân thân người phạm tội trên địa bàn Quận 7,

Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội;

34.Phạm Văn Tỉnh (2000), Các phương pháp nghiên cứu tình hình tội phạm,

một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân;

35.Phạm Văn Tỉnh (2004), Đặc điểm tội phạm học của tình hình tội phạm ở

nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội;

36.Phạm Văn Tỉnh (2005), “Đặc điểm định lượng của tình hình tội phạm ở

nước ta hiện nay”,Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4, tr. 73-83;

37.Phạm Văn Tỉnh (2005), “Đặc điểm định tính của tình hình tội phạm ở nước

ta hiện nay”,Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,số 10, tr. 65-76;

38.Phạm Văn Tỉnh (2007), “Khái niệm tội phạm và tình hình tội phạm dưới

góc độ của Tội phạm học”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,số 6, tr. 73-79;

39.Phạm Văn Tỉnh (2007), Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt

Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội;

40.Tòa án nhân dân quận 7 (2015 - 2019), Báo cáo tổng kết công tác năm

2015, 2016, 2017, 2018, 2019.

41.Tòa án nhân dân quận 7 (2019), 100 bản án hình sự sơ thẩm về các tội

đánh bạc giai đoạn 2015 – 2019.

42.Trần Hữu Tráng (2010), “Bàn về nguyên nhân tội phạm học”,Tạp chí Luật

học, số 11, tr. 43-51;

43.Trần Hữu Tráng (2014), “Dự báo nguy cơ tội phạm”,Tạp chí Luật học, số

4, tr. 46-53;

44.Trần Hữu Tráng (2000), “Một số vấn đề về tình hình tội phạm ẩn ở Việt

Nam”,Tạp chí Luật học,số 3, tr. 51-55;

45.Trần Hữu Tráng (2000), Nạn nhân học trong tội phạm học Việt Nam - Một

số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học luật Hà Nội;

46.Trần Hữu Tráng (2010), “Tác động của kinh tế thị trường đến tình hình tội

phạm và phòng ngừa tội phạm ở nước ta”, Tạp chí Luật học, số 1, tr. 42-50;

47.Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (1998), Giáo trình tổ chức hoạt động

phòng ngừa, phát hiện và điều tra tội phạm cụ thể;

48.Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;

49.Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt

Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội;

50.Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công

an nhân dân, Hà Nội;

51.Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Tội phạm

học, Nxb Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam;

52.Lê Đức Tùng (2005),“Cần có biện pháp để thống nhất khi áp dụng tình tiết

đã bị xử phạt hành chính trong Bộ luật hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 5, tr.34-36;

53.Đào Trí Úc (1993), Hệ thống các biện pháp phòng ngừa xã hội đối với tội

phạm, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Bộ Nội vụ, tr. 18-22;

54.Đào Trí Úc (chủ biên) (1994), Tội phạm học, Luật Hình sự và Luật Tố tụng

Hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

55.Ủy ban nhân dân Quận 7 (2015 - 2019), Báo cáo tình hình Kinh tế - Xã hội

Quận 7 năm, 2015, 2016, 2017, 2018, 2019;

56.Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 (2015 - 2019), Thống kê tội phạm hình sự

năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019;

57.Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 (2015 - 2019), Báo cáo tổng kết công tác

năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019;

58.Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật (2000), Tội phạm học Việt Nam -

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;

59.Trịnh Tiến Việt (2003),“Nhân thân người phạm tội một căn cứ cần cân

nhắc khi quyết định hình phạt”,Tạp chí Kiểm sát,(số 1), tr.21-23;

60.Võ Khánh Vinh (2002), Dự báo tình hình tội phạm, một số vấn đề lý luận -

thực tiễn, Nxb Công an nhân dân;

61.Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân.

62.Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân.

63.Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, phần chung,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

64.Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật hình sự, phần các tội phạm, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

65.Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình Tội Phạm Học, Trường Đại học Huế,

Trung tâm đào tạo từ xa, Nxb giáo dục Hà Nội.

66.Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân,

Hà Nội;

67.Võ Khánh Vinh (2010), Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành

khoa học xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;

68.Võ Khánh Vinh (2012), Xã hội học pháp luật, những vấn đề cơ bản, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội;

69.Nguyễn Xuân Yêm (2003), Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.