VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM UYÊN THY
NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM UYÊN THY
NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 9. 38. 01. 05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Hồ Trọng Ngũ
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả phân tích trong luận án hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây. Tôi xin chịu hoàn toàn
trách nhiệm về kết quả nghiên cứu trong luận án của mình.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 5 năm 2019
Tác giả
Phạm Uyên Thy
MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ...................................... 7
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ...................................................................... 7
1.2. Những nghiên cứu trong nước .............................................................................. 14
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án ............................. 23
1.4. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục được nghiên cứu trong Luận án ..................... 24
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI
PHẠM TỘI .................................................................................................................. 27
2.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa nghiên cứu nhân thân người phạm tội ............ 27
2.2. Những hiện tượng xã hội tiêu cực tác động đến quá trình hình thành nhân
thân người phạm tội ...................................................................................................... 49
2.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội ..................................... 58
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG HIỆN TƯỢNG TIÊU CỰC TÁC
ĐỘNG HÌNH THÀNH NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...................................................................... 63
3.1. Thực trạng tình hình tội phạm tại Thành phố Hồ Chí Minh ............................... 63
3.2. Thực trạng nhân thân người phạm tội tại Thành phố Hồ Chí Minh .................. 72
3.3. Thực trạng những hiện tượng xã hội tiêu cực tác động đến sự hình thành
nhân thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh .............................. 84
3.4. Nhận xét đánh giá chung ...................................................................................... 107
Chương 4: DỰ BÁO VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ KHÍA CẠNH NHÂN
THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI .................................................................................... 113
4.1. Dự báo về xu hướng của các yếu tố tác động đến sự hình thành đặc điểm
nhân thân người phạm tội tại Thành phố Hồ Chí Minh ............................................ 113
4.2. Những giải pháp loại bỏ những hiện tượng tiêu cực tác động từ môi
trường sống ................................................................................................................. 121
4.3. Những giải pháp khắc phục, dần loại bỏ những hiện tượng tiêu cực từ nhân
thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ...................................... 137
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............................................................ 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 152
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
CAND
: Công an nhân dân
CNXH
: Chủ nghĩa xã hội
HĐXX
: Hội đồng xét xử
NCS
: Nghiên cứu sinh
NXB
: Nhà xuất bản
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân Tối cao
TP HCM
: Thành phố Hồ Chí Minh
UBND
: Ủy ban nhân dân
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu nguyên nhân của tội phạm từ việc phân tích những đặc điểm
nhân thân người phạm tội sẽ giúp cho Nhà nước nói chung kịp thời đề ra những
chính sách pháp luật phù hợp, nhằm giảm bớt những mâu thuẫn trong xã hội, đưa
ra những biện pháp phòng ngừa xã hội phù hợp, giúp cho công tác đấu tranh chống
tội phạm đạt được những kết quả bền vững, làm cơ sở xã hội để giảm tỷ lệ tội phạm
trong khi vẫn bảo đảm mục tiêu phát triển kinh tế, giữ nền chính trị ổn định nhất là
ở những thành phố lớn có vai trò trọng điểm trong nền kinh tế quốc dân.
Về mặt lý luận, nhân thân người phạm tội là một đề tài được nhiều ngành
khoa học quan tâm nghiên cứu. Hiện nay, có nhiều biện pháp đồng bộ được sử
dụng nhằm phòng ngừa tình trạng phạm tội đang gia tăng, trong đó các biện
pháp tác động ảnh hưởng tới nhân thân người phạm tội. Nghiên cứu nhân thân
người phạm tội cho phép chỉ ra quá trình hình thành những đặc điểm nhân thân
tiêu cực của người phạm tội, chỉ ra quá trình hình thành các nguyên nhân và điều
kiện của tội phạm, bên cạnh đó nghiên cứu về nhân thân người phạm tội cũng
cho phép chỉ ra sự chuyển biến các đặc điểm nhân thân người phạm tội làm biến
đổi thành các nguyên nhân và điều kiện hình thành tội phạm. Từ đó, có thể phân
loại từng đặc điểm nhân thân để có các hệ thống biện pháp phòng ngừa theo từng
loại tội, từng nhóm đối tượng hiệu quả từ góc độ nhân thân người phạm tội.
Về mặt thực tiễn, Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm chính trị - xã hội
lớn của cả nước, là đầu cầu các hoạt động kinh tế của đất nước, với diện tích
2.095,06 km², có 19 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành. Theo thống kê của
Tổng cục Thống kê năm 2016, dân số Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng
9.224.000 người, nhưng căn cứ trên số lượng dân cư không đăng ký và dân nhập
cư, có khoảng hơn 14 triệu người, mật độ dân số 3.809 người/km². Đặc trưng
dân cư tại Thành phố Hồ Chí Minh phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở các
quận nội thành. Với vị thế là trung tâm hoạt động kinh tế xã hội, Thành phố Hồ
Chí Minh luôn được Nhà nước ưu tiên nhiều chính sách và chủ trương phát triển
1
kinh tế xã hội, là cơ sở để Thành phố Hồ Chí Minh kêu gọi các nguồn đầu tư,
đây cũng là nguồn giải quyết việc làm của người dân. Trong những năm qua, với
sự phát triển vượt bậc về kinh tế, chất lượng đời sống của người dân ngày càng
nâng cao, bên cạnh những thành tựu phát triển kinh tế đạt được, Thành phố Hồ
Chí Minh đang đối mặt với hàng loạt vấn đề xã hội, điển hình là tình hình gia
tăng tội phạm xảy ra ngày càng nhiều và diễn biến ngày càng phức tạp. Một bộ
phận nhân dân có đời sống kinh tế khó khăn, không việc làm hoặc việc làm không
ổn định; sự phân hóa giàu nghèo và sự xâm nhập văn hóa độc hại, lối sống thực
dụng, các tệ nạn xã hội ngày càng tăng… đang làm cho tình hình trật tự an toàn xã
hội hết sức phức tạp, là điều kiện thuận lợi làm phát sinh tội phạm trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh mới chỉ dừng lại ở mức độ cá nhân, mà yêu cầu của
công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đòi hỏi việc nghiên cứu nhân thân
người phạm tội phải khái quát ở mức độ nhóm và cao hơn là mức độ tình hình
tội phạm, để nhận thức đúng nhất nguyên nhân của tình hình tội phạm và đề xuất
được các giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm một cách hữu hiệu nhất và
mong muốn góp phần làm giảm tình hình tội phạm, vì vậy nghiên cứu sinh chọn
đề tài "Nhân thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh", để làm
đề tài luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án có mục đích làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn nhân thân
người phạm tội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, từ đó chỉ rõ thực trạng các
đặc điểm của nhân thân tiêu cực của người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh và những hiện tượng xã hội tiêu cực trong đời sống kinh tế xã hội tác
động làm hình thành nhân thân người phạm tội; qua đó đề xuất xây dựng những
giải pháp phòng ngừa tội phạm bằng cách hạn chế, khắc phục, loại bỏ các hiện
tượng tiêu cực tác động hình thành đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm
2
tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu nói trên, Luận án có những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Tổng quan các công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài về nhân
thân người phạm tội để xác định các vấn đề kế thừa, tiếp thu và những vấn đề
cần tiếp tục nghiên cứu và làm rõ trong luận án.
- Hệ thống hoá, phân tích các vấn đề lý luận liên quan đến đề tài nghiên
cứu như nhân thân con người, nhân thân người phạm tội, các đặc điểm của nhân
thân người phạm tội làm nền tảng lý luận và phương pháp luận cho Luận án.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng đặc điểm nhân thân người phạm tội trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, chỉ ra những đặc điểm tiêu cực nào tác động
hình thành đặc điểm nhân nhân thân tiêu cực của người phạm tội trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất các giải pháp phòng ngừa hiệu quả tình hình phạm tội trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh từ góc độ nhân thân người phạm tội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn nhân
thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 – 2018.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu là những vấn đề lý luận nhân thân người phạm tội dưới
góc độ chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm dựa trên thực tiễn
tình hình tội phạm tại Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 - 2018 với hai
nhóm tội là các tội phạm về ma túy và các tội xâm phạm sở hữu, do hai nhóm tội
này chiếm tỷ lệ cao (76,5%) trên tổng số vụ án đưa ra xét xử hình sự tại Thành
phố Hồ Chí Minh.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng,
3
Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm trong quá trình xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, áp dụng và bảo vệ pháp luật trong thời kỳ đổi
mới liên quan đến nhân thân người phạm tội làm phương pháp luận nghiên cứu.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp
phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp luật học so sánh,
phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp thống kê… Phương pháp nghiên cứu
gián tiếp thông qua tổng hợp và phân tích tài liệu, phương pháp nghiên cứu trực
tiếp thông qua khảo sát thực tế, tiếp xúc và trao đổi trực tiếp với các nhà nghiên
cứu, cũng như phỏng vấn trực tiếp người phạm tội tại trại giam Chí Hòa, Thành
phố Hồ Chí Minh.
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng và thu thập số
liệu thống kê về tội phạm, các báo cáo tổng kết, các số liệu thống kê, các bản
án… của Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
để phân tích và làm rõ các đặc điểm của nhân thân người phạm tội, từ đó chỉ ra
các yếu tố tác động và hệ thống các giải pháp nhằm loại bỏ, ngăn chặn các yếu tố
tiêu cực này ra khỏi đời sống xã hội.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Luận án sử dụng phương pháp này
nhằm đánh giá các bản án điển hình về tội phạm ma tuý và xâm phạm sở hữu đã
được Toà án nhân thành phố Hồ Chí Minh xét xử điển hình nhất trong giai đoạn
2009 - 2018, nhằm phản ánh về tính chất, mức độ, đặc điểm của nhân thân người
phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phương pháp so sánh: Trong luận án, phương pháp này được sử dụng để
so sánh tình hình nhân thân người phạm tội trong địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh so với vùng miền khác.
- Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này được sử dụng trong luận án
để tiến hành các buổi trao đổi các ý kiến chuyên gia, với những người có kinh
nghiệm, với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán…. để làm rõ hơn về thực
trạng phòng ngừa tội phạm từ khía cạnh nhân thân người phạm tội trên địa bàn
4
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Phương pháp này đươc thực hiện bằng
các bảng hỏi đối với người phạm tội đang bị giam giữ tại trại giam Chí Hòa.
Mục đích nghiên cứu nhằm khảo sát thực trạng các đặc điểm nhân thân người
phạm tội, các nguyên nhân dẫn đến họ thực hiện hành vi phạm tội và khả năng
phòng ngừa tái phạm tội.
5. Những đóng góp mới về khoa học của Luận án
Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện, có hệ thống về
“Nhân thân người phạm tội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” dưới góc độ tội
phạm học và phòng ngừa tội phạm. Những điểm mới của luận án thể hiện:
Thứ nhất, sử dụng phương pháp nghiên cứu tiếp cận liên ngành luật học
để giải quyết các vấn đề trọng tâm của luận án, đặc biệt là cách tiếp cận triết học
pháp luật; tâm lý học tội phạm kết hợp với các phương pháp nghiên cứu cụ thể,
luận án phân tích, đánh giá làm rõ đặc điểm nhân thân người phạm tội trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh;
Thứ hai, phân tích làm rõ những đặc trưng của nhân thân người phạm tội
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có tính đến yếu tố địa lý học tội phạm (đặc
thù của nhân thân người phạm tội trong mối liên hệ với yếu tố dân số, văn hóa,
phong tục, truyền thống, lối sống ...);
Thứ ba, phân tích làm rõ những tác động từ môi trường gia đình, nhà
trường, bạn bè… trong việc hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của
người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 - 2018;
Thứ tư, chỉ ra điểm khác biệt của đặc điểm nhân thân người phạm tội giữa
các nhóm tội khác nhau trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh;
Thứ năm, kiến nghị được những giải pháp tăng cường phòng ngừa tội phạm
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ góc độ nhân thân người phạm tội;
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa quan trọng trên khía cạnh lý
luận và thực tiễn trong công tác phòng ngừa tội phạm nói chung và công tác
5
phòng ngừa tội phạm tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Dựa trên sự phân tích làm rõ lý luận về nhân thân người phạm tội và ứng
dụng vào thực tiễn tình hình tội phạm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận
án góp phần bổ sung thêm lý luận khoa học tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
nói chung cũng như lý luận về nhân thân người phạm tội.
- Đề tài là một công trình góp phần bổ sung thêm phương pháp tiếp cận từ
việc nghiên cứu thực tiễn nhân thân người phạm tội khái quát thành lý luận
phòng ngừa tình hình tội phạm.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những giải pháp được đề xuất trong đề tài sẽ là tài liệu có giá trị giúp các cơ
quan áp dụng pháp luật tham khảo, nghiên cứu và vận dụng nhằm nâng cao hiệu
quả của hoạt động phòng, chống tội phạm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Những kết quả nghiên cứu trong Luận án góp phần bổ sung thêm tài liệu
tham khảo trong nghiên cứu, học tập của các cơ sở đào tạo luật và góp phần bổ
sung, hoàn thiện lý luận nhân thân người phạm tội chuyên ngành tội phạm học
nói chung và lý luận phòng, chống tội phạm nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, luận án được kết cấu gồm 4 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Những vấn đề lý luận cơ bản về nhân thân người phạm tội
Chương 3. Thực trạng và những hiện tượng tiêu cực tác động hình thành
nhân thân người phạm tội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Chương 4. Dự báo và các giải pháp phòng ngừa tội phạm trên địa bàn
6
thành phố Hồ Chí Minh từ khía cạnh nhân thân người phạm tội.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về nhân thân người phạm tội tiếp cận
ở nhiều góc độ khác nhau. Để có thể nghiên cứu nhân thân người phạm tội trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu sinh đã tham khảo các công trình
nghiên cứu trên thế giới, cụ thể như sau:
1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về các vấn đề lý luận nhân thân
người phạm tội
Trong cuốn sách “Vì sao họ phạm tội? Tình trạng thanh, thiếu niên phạm
tội ở các nước tư bản chủ nghĩa” của Melinikova E.B [112]: Trong tác phẩm
này, nhà tội phạm học người Nga đã chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu của tình
hình tội phạm trong xã hội tư bản và cho rằng hoàn cảnh vật chất và sự chênh
lệch lớn giữa giàu và nghèo là những yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành cách
xử sự của người phạm tội, đặc biệt là đối với người chưa thành niên, trong khi đó
người chưa thành niên lại chưa được đặt vào trong các mối quan hệ xã hội phức
tạp, không có kinh nghiệm sống, không có nghề nghiệp… Theo Melinikova E.B,
bối cảnh xã hội và tình hình tội phạm cũng liên quan tới nhau, đó là các hình ảnh
trên truyền hình về phong cách, lối sống sử dụng bạo lực, vũ khí… tất cả các yếu
tố này đều ảnh hưởng tới sự hình thành thói quen, nhu cầu, nhân cách của người
chưa thành niên phạm tội.
Cuốn sách “Cơ sở lý luận của việc phòng ngừa tội phạm” của G.M.
Mikovskij (bản dịch của Viện thông tin Khoa học xã hội - 1982) [113]: nghiên
cứu chuyên sâu về lý luận phòng ngừa tội phạm, tác giả đưa ra hệ thống các biện
pháp phòng ngừa chung và riêng áp dụng đối với các đối tượng phạm tội cụ thể.
Các giải pháp được xây dựng trên nguyên tắc loại trừ các yếu tố tiêu cực tác
động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực cũng như động cơ, mục
đích của người phạm tội.
Trong cuốn sách “Youth crime and youth culture in the inner city” (Tội
7
phạm thanh, thiếu niên và văn hóa giới trẻ trong khu vực nội thành) của Sanders,
Bill [118]: Trong công trình này, tác giả phân tích xu hướng gia tăng tình hình
tội phạm do thanh, thiếu niên thực hiện ở thành phố của xã hội hiện đại, làm rõ
động cơ, thái độ của người phạm tội và tác động của môi trường kinh tế - xã hội
đối với sự hình thành các đặc điểm về nhân thân của người phạm tội… Các tác
giả tập trung nghiên cứu làm rõ động cơ, thái độ của những người phạm tội và
vai trò của môi trường kinh tế xã hội tác động đến quá trình hình thành các đặc
điểm nhân thân người phạm tội. Nghiên cứu có ý nghĩa rất lớn trong việc xác
định các nguyên nhân của hành vi phạm tội xuất phát từ đặc điểm nhân thân
thanh thiếu niên phạm tội, trong đó có tội xâm phạm sở hữu.
Trong cuốn sách “An introduction to Crime and Criminology” (Giới thiệu
về tội phạm và tội phạm học) của Hennessy Hayes và Tim Prenzler [103]: Đây là
công trình chuyên khảo nghiên cứu về tình hình tội phạm và nhân thân người
phạm tội, trong đó các tác giả đã chỉ ra nguyên nhân và điều kiện của tội phạm
chịu ảnh hưởng lớn bởi các yếu tố tiêu cực, như từ phía người bị hại, từ môi
trường xã hội, môi trường giáo dục, từ chính sách pháp luật... Đây là tác phẩm
có ý nghĩa khoa học đối công tác phòng ngừa tội phạm từ khía cạnh nhân thân
người phạm tội, trong tác phẩm tác giả đã đưa ra chiến lược và các phương pháp
đấu tranh phòng, chống một số loại tội phạm cụ thể.
Trong cuốn sách “Crime prevention – Theory and Practice” (Phòng ngừa
tội phạm - Lý luận và thực tiễn) của Stephen R. Schneider [122]: Trong tác phẩm
tác giả nhấn mạnh các vấn đề lý luận về phòng ngừa tội phạm, các tình huống
phòng, chống tội phạm thông qua thiết kế môi trường… tác giả đã dựa trên
nguyên tắc loại trừ các yếu tố tiêu cực từ môi trường là nguyên nhân tác động
hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người phạm tội. Đây là tác phẩm
có ý nghĩa khoa học trong việc xác định các yếu tố tiêu cực từ môi trường kinh tế
xã hội tác động, hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người phạm tội.
Trong cuốn sách “White - Collar Crime and Criminal Careers Specifying
a Trajectory of Punctuated Situational Offending” (Tội phạm cổ cồn trắng và xu
hướng phạm tội ở độ tuổi thanh thiếu niên), của Nicole Leeperpiquero và
8
Michail L.Benson [116]: Là một trong các công trình nghiên cứu chuyên sâu về
tội phạm học. Các tác giả cho rằng những học thuyết trước đây về tội phạm
không chú ý đến kiểu tội phạm thuộc gia đình quyền thế và giàu có, là kiểu tội
phạm có những đặc trưng khác biệt với những dạng tội phạm vị thành niên và tội
phạm đường phố, được coi là đặc trưng tồn tại trong xã hội. Trong đó tội phạm
vị thành niên, gồm những người có hành vi chống đối xã hội rất sớm và tiếp tục
phạm tội trong suốt thời kỳ thành niên; còn tội phạm đường phố, gồm những
người lúc thơ ấu không có dấu hiệu chống đối xã hội, nhưng sau đó phạm tội
trong suốt thời thanh niên. Các tác giả cho rằng theo các nhà nghiên cứu, mỗi
người có thể có một quỹ đạo phạm tội gồm các khía cạnh tương quan với nhau:
sự bắt đầu của tội phạm, quá trình hoạt động tội phạm và sự chấm dứt tội phạm,
với hầu hết mọi người, các hành vi liên quan đến tội phạm thường bắt đầu giữa
những năm của tuổi thanh thiếu niên (15 đến 17 tuổi), một số khác (ít hơn) chấm
dứt hoạt động tội phạm muộn hơn (những năm đầu của tuổi 20) và không thực
hiện tội phạm sau 25 tuổi.
Các tác giả đồng tình với sự giải thích của Moffitt (1993) về hai loại tội
phạm chuyên nghiệp và tội phạm tức thời, trên có sở kết hợp giữa các yếu tố
sinh học và xã hội học khi cho rằng sự tương tác của yếu tố môi trường như bị
ngược đãi hoặc thiếu sự chăm sóc của cha mẹ, đối với sự thiếu hụt, rối loạn về
thần kinh sẽ làm cho trẻ con trở nên khó phục tùng và khó dạy dỗ... Trong thời
kỳ chuẩn bị trưởng thành (khoảng từ 14 đến 18 tuổi), trẻ em có xu hướng thích
độc lập và muốn được cư xử như người lớn. Trong khi đó, cha mẹ, thầy cô và
xã hội lại nghĩ rằng chúng không thể tự chủ được và tiếp tục đặt ra giới hạn để
gò bó hành vi và tự do của trẻ, dẫn tới trẻ thường chống lại cách đối xử này khi
cố chứng minh có thể thật sự độc lập và kết quả dẫn đến là đã phạm một số lỗi
như hút thuốc, uống rượu, quan hệ tình dục trái phép hoặc có hành động cố ý
khác... Tội phạm hạn chế ở tuổi thành niên chính là sự bắt chước cách cư xử
của những tội phạm bền bỉ... Khi có sự trưởng thành về tuổi tác, nhu cầu và sự
lôi cuốn của sự phạm lỗi ngày càng giảm đi và dần dần sẽ chấm dứt tham gia các
9
hoạt động tội phạm... Sự chuyển từ giai đoạn thanh thiếu niên sang giai đoạn
trưởng thành, có thể dẫn tới một trong các khả năng: Một số vị thành niên tiếp
tục phạm tội, một số khác sẽ chấm dứt hành vi chống đối xã hội...
Nghiên cứu còn cho thấy, sự phạm tội thời thơ ấu có ảnh hưởng tới giai đoạn
trưởng thành: Ở một số người chưa thành niên có cách cư xử chống lại xã hội sẽ
tiếp tục nếu thiếu sự kiểm soát của xã hội, nhưng ở một số khác lại vượt qua được
hoàn cảnh không tốt để sống bình thường sau khi trải qua bước ngoặc khác, như
hôn nhân hạnh phúc, công việc ổn định hoặc tham gia quân đội... Có thể thấy đây là
một công trình đề cập khá sâu đến các nguyên nhân hình thành các đặc điểm nhân
thân xấu của những người chưa thành niên phạm tội.
Nhằm xây dựng cơ sở lý luận sâu sắc khi nghiên cứu nhân thân người phạm
tội, bên cạnh việc tham khảo các công trình nghiên cứu lý luận về nhân thân người
phạm tội, nghiên cứu sinh đã tham khảo thêm một số quan điểm về tội phạm học
nói chung đề cập trong các trường phái, học thuyết khác nhau trên thế giới.
Trường phái nhân chủng học luật hình sự Ý thế kỷ XIX: Hạt nhân của
trường phái sinh học hình sự Ý là học thuyết của Lombroso trong “Der
Verbrecher”- “Người phạm tội”, năm 1876 về người phạm tội bẩm sinh, tức là
người có biểu hiện phạm tội từ khi sinh ra căn cứ về cấu tạo cơ thể, đối với
người này trước sau gì cũng phạm tội, không cải tạo được và bất chấp điều kiện
tác động của xã hội. Đến năm 1889, công trình nghiên cứu “Những nguyên nhân
và cuộc đấu tranh” đã điều chỉnh học thuyết này và khẳng định chỉ 1/3 số người
phạm tội do bản tính quyết định và không thể cải tạo, nên chỉ áp dụng hình phạt
chung thân và tử hình.
Trường phái xã hội học luật hình sự Pháp thế kỷ XIX là trường phái có
quan điểm đối lập với trường phái nhân chủng học luật hình sự Ý. Trường phái
này chủ yếu nghiêng về tính quyết định của môi trường sống, của xã hội đối với
sự hình thành tội phạm.
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về thực trạng nhân thân người
phạm tội
Nghiên cứu đặc điểm nhân thân người phạm tội không thể không nghiên
10
cứu về thực trạng nhân thân người phạm tội. Những công trình nghiên cứu về
thực trạng nhân thân người phạm tội ở nước ngoài mà nghiên cứu sinh tham
khảo có thể kể đến như:
Cuốn sách “Crime and criminology in Japan” (tạm dịch: Tội phạm và tội
phạm học ở Nhật Bản hiện đại) của Can Ueda, Giáo sư, tiến sĩ luật học, Trường
Đại học Tổng hợp Ritsumeikan được dịch từ bản dịch tiếng Nga của Nhà xuất
bản Tiến Bộ, Moskva, năm 1989 do Nhà xuất bản Công an nhân dân ấn hành
năm 1994. Trong cuốn sách này, nhà tội phạm học người Nhật cho rằng tội phạm
học không phải là khoa học duy nhất nghiên cứu tội phạm, mà là đối tượng của
một số ngành khoa học khác như: Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, Xã hội học,
Tâm lý học….Theo Can Ueda “Tội phạm học là khoa học nghiên cứu tội phạm
và đề ra các biện pháp đấu tranh, phòng chống”. Tác phẩm đã nghiên cứu
chuyên sâu về nguyên nhân, điều kiện của tội phạm, đưa ra các đặc điểm nhân
thân của tội phạm đặc trưng ở Nhật Bản, như đặc điểm về giới tính, lứa tuổi:
Trong số phụ nữ phạm tội bị cảnh sát bắt giữ có 42,3% là nữ vị thành niên
(1980); trung bình cứ 100.000 người dân trên 15 tuổi thì có 65,6 người phạm tội,
trong số những người bị bắt giữ vì phạm tội năm 1981 có 0,7% người bị tổn hạn
về thần kinh, sự bất thường nhiễm sắc thể giới tính và tội phạm không có mối
quan hệ với nhau. Đây là đặc điểm của tội phạm để nghiên cứu sinh tham khảo,
so sánh, làm sáng tỏ các đặc điểm nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu.
Khi nghiên cứu về tình trạng bạo lực trong trường phổ thông. Can Ueda cho rằng
“tình trạng các nhóm lưu manh càn quấy đe doạ học sinh và các thầy cô, hành vi
phạm tội của chúng đã gây ra thương tích, chết người và các thiệt hại khác. Các
nhóm càn quấy có tới 95% các em học sinh hư hỏng tham gia, nguyên nhân
trước hết là sự dồn nén tâm lý và hình thành ý thức phá hoại, một số do rèn luyện
kém trở nên lỗ mãng, ngỗ ngược, do ảnh hưởng của phim ảnh, sách báo, bao lục
rùng rợn, sự đô thị hoá nhanh, phá vỡ xã hội truyền thống làm phát triển tư
tưởng cá thể, thói ích kỷ”. [Can Ueda 1989 Crime and criminilogy in Japan,
Trường Đại học Tổng hợp Ritsumeikan, (dịch từ bản dịch tiếng Nga của Nhà
11
xuất bản Tiến Bộ), Moskva] [94].
Trong cuốn “Street Robbery” (Cướp giật trên đường phố, Tạp chí Viện An
ninh và Khoa học tội phạm, ISSN: 2050-4853, năm 2012) của Lisa Tompson
[109]: Trong bài viết, tác giả đã phân tích và rút ra kết luận cướp giật trên đường
phố là việc sử dụng hoặc đe dọa vũ lực để cướp tài sản từ một người trong không
gian công cộng; chỉ ra một số đặc trưng của tội phạm này như: xảy ra vào những
thời điểm cụ thể; trong không gian công cộng ngắn gọn; nạn nhân thường là người
mới giao dịch ở các cây ATM, cửa hàng tiện lợi, nhà hàng thức ăn nhanh hoặc lưu
thông trên đường có mang theo tài sản. Trên có sở đó, tác giả đưa ra các biện pháp
phòng ngừa đối với tội cướp giật trên đường phố và các yêu cầu đặt ra đối với hệ
thống pháp luật trong phòng ngừa tội phạm này.
Công trình “Race, crime, and justice” (Tạm dịch: Chủng tộc, tội phạm và
công lý) của các tác giả Shaun L.Gabbidon và Helen Taylor Greene, Nhà xuất
bản Routledge, New York, năm 2005. Công trình có sự tham gia của nhiều học
giả tên tuổi với 15 chuyển khảo nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của tình
hình tội phạm. Đặc biệt là chuyên đề thứ 11 có chủ đề “Up it up: Gender and the
accomplishment of street robbery” (Tạm dịch: Chủ đề nóng: Giới tính và hậu
quả của tội cướp trên đường phố) của học giả Jody Miller có nội dung rất rộng…
Theo học giả Jody Miller, cho thấy nam giới tương đối phù hợp cho việc thực
hiện các hành vi phạm tội liên quan đến mại dâm, nhưng điều đó không loại trừ
nữ giới thực hiện hành vi phạm tội cướp, cướp giật đường phố. Nữ giới, đặc biệt
là nữ giới Mỹ gốc phi có liên quan nhiều hơn đến các tội phạm bạo lực và tội
cướp, cướp giật đường phố hơn phụ nữ da trắng. Điều đó cho thấy ngoài giới
tính, chủng tộc cũng có vai trò đáng kể đến việc thực hiện các tội phạm bạo lực,
tội cướp và cướp đường phố. Đây là đánh giá hữu ích về thực trạng đặc điểm về
giới tính và chủng tộc người phạm tội để nghiên cứu sinh tham khảo liên quan
luận án [119].
1.1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu về các giải pháp tăng cường
phòng ngừa tình hình tội phạm từ khía cạnh nhân thân người phạm tội
Trong cuốn “Crime prevention - Theory and Practice” (Phòng ngừa tội
12
phạm - Lý luận và thực tiễn) của Stephen R. Schneider, Giáo sư về lĩnh vực khoa
học xã hội học và tội phạm, thuộc Đại học Saint mary, Halifax, Nova Scotia,
Canada [122]. Tác giả nhấn mạnh các vấn đề lý luận về phòng ngừa tội phạm,
biện pháp phòng chống tội phạm thông qua thiết kế môi trường. Theo tác giả,
việc phòng ngừa tội phạm còn được thực hiện thông qua hoạt động phát triển xã
hội cho thanh, thiếu niên và người lớn, thông qua cộng đồng xã hội… Với công
trình này, tác giả đưa ra và giải thích một cách khoa học về hoạt động phòng
ngừa tội phạm như: Giảm nguy cơ phạm tội bằng cách thay đổi hành vi của các
nạn nhân tiềm tàng trong xã hội; giám sát mọi cơ hội tiếp cận để phòng ngừa
hành vi phạm tội; các biện pháp kiểm soát lãnh thổ, không gian, kiểm soát xã hội
không chính thức, nhằm giảm những nguyên nhân, điều kiện cần thiết để thực
hiện tội phạm. Tác giả cũng chỉ ra được những hạn chế và cách giải quyết những
hạn chế của việc áp dụng các giải pháp giải quyết vấn đề xã hội cho người phạm
tội, tập trung vào công tác phòng ngừa tái phạm, nâng cao trách nhiệm của cộng
đồng trong phòng ngừa tội phạm.
Trong cuốn “Street Robbery: Problem Oriented Guides for Police” (Cướp
trên đường phố: Những định hướng các vấn đề về chính sách - 2010) của John E.
Eck, Khadija Monk, Justin A. Heinonen [106]: Trong tác phẩm này, các tác giả đã
phân tích những vấn đề về tội phạm cướp trên đường phố và đưa ra những khuyến
cáo về cách thức thực hiện, thời gian, địa điểm thường xảy ra tội phạm. Ngoài ra,
công trình còn phân tích làm rõ những đặc điểm tâm lý của người phạm tội thích
lựa chọn những nhóm nạn nhân nhất định, để đề xuất các biện pháp phòng ngừa
tội phạm hiệu quả hơn.
Trong cuốn “An introduction to Crime and Criminology” (Giới thiệu về
tội phạm và tội phạm học) của Hennessy Hayes và Tim Prenzler [103]: Đây là
công trình chuyên khảo nghiên cứu về tình hình tội phạm và nhân thân người
phạm tội, trong đó các tác giả đã chỉ ra nguyên nhân và điều kiện của tội phạm chịu
ảnh hưởng lớn bởi các yếu tố tiêu cực, như từ phía người bị hại, từ môi trường xã
hội, môi trường giáo dục, từ chính sách pháp luật... đồng thời đưa ra chiến lược và
13
các phương pháp đấu tranh phòng, chống một số loại tội phạm cụ thể.
Các công trình này đều đề cập đến nhân thân người phạm tội như một yếu
tố và nguyên nhân làm phát sinh hành vi phạm tội, làm sáng tỏ cơ chế của hành
vi phạm tội, là nguồn tài liệu tham khảo trạng thái nghiên cứu về lý luận về
nguyên nhân, điều kiện, tình hình tội phạm, nghiên cứu về hoạt động phòng
ngừa tội phạm.
Do tội phạm trong tội phạm học là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học nên phải tiếp cận bằng đa ngành, liên ngành. Phân tích công trình nước
ngoài khẳng định được các đặc điểm nhân thân người phạm tội như đặc điểm về
sinh học (đặc điểm gen, ngoại hình...), là đặc điểm quan trọng nhưng không
quyết định đến hình thành tội phạm mà môi trường xã hội mới quyết định hình
thành nhân cách của con người, để từ đó định hướng, kế thừa và làm rõ vấn đề
nghiên cứu của Luận án là nhân thân người phạm tội được hiệu quả, lập luận
chặt chẽ và logic.
1.2. Những nghiên cứu trong nước
1.2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về các vấn đề lý luận nhân thân
người phạm tội
Nhân thân là một trong những vấn đề được nhiều ngành khoa học quan
tâm nghiên cứu như: y học; tâm lý học; sinh học; luật học… Trong lĩnh vực pháp
luật, việc nghiên cứu nhân thân không chỉ có ý nghĩa trong việc đề ra biện pháp
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm có hiệu quả. Bên cạnh luật hình sự nghiên
cứu về nhân thân người phạm tội, tội phạm học cũng là một lĩnh vực khoa học đi
sâu nghiên cứu về nhân thân người phạm tội. Dưới đây là một số giáo trình, sách
chuyên khảo; luân văn, luận án và các bài báo khoa học nghiên cứu làm rõ khái
niệm thân nhân người phạm tội.
Sách chuyên khảo “Tội phạm học Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn”, của tập thể tác giả Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật do TS.
Phạm Hồng Hải làm chủ biên, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2000. Công
trình đã làm rõ định nghĩa nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc tính,
14
các dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội của con người mà trong những điều kiện,
hoàn cảnh nhất định và dưới sự tác động của chính các điều kiện, hoàn cảnh đó
động cơ phạm tội nảy sinh. [80, tr. 92].
Sách chuyên khảo “Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam”, của GS.TS.
Nguyễn Văn Cảnh và PGS.TS. Phạm Văn Tỉnh, Học viện CSND, năm 2013. Công
trình đã đưa ra khái niệm nhân thân người phạm tội là tổng hòa các yếu tố, các đặc
điểm riêng biệt của người phạm tội ở một địa bàn hành chính – lãnh thổ nhất định,
trong một khoảng thời gian nhất định về các mặt tâm - sinh lý - xã hội, nhân khẩu -
nhân chủng học, dân tộc học và pháp lý, những cái có ý nghĩa, có giá trị thiết thực
cho việc xác định nguyên nhân, điều kiện của tội phạm để có giải pháp phòng ngừa
tội phạm phù hợp. So với định nghĩa trên, định nghĩa này thể hiện chi tiết, cụ thể
hơn những nhóm đặc điểm đặc trưng của nhân thân người phạm tội [6].
Giáo trình “Tội phạm học” của tập thể tác giả Trường Đại học Luật Hà
Nội, Nhà xuất bản CAND, năm 2012, định nghĩa “nhân thân người phạm tội là
tổng hợp những đặc điểm sinh học, tâm lí và xã hội của người phạm tội và các
đặc điểm này kết hợp với các điều kiện, hoàn cảnh khách quan bên ngoài đã dẫn
đến con người đó thực hiện hành vi phạm tội” [69, tr. 150].
Sách chuyên khảo “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm”, của
GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2001 [91, tr
106], tác giả đã đưa ra quan điểm nhân thân người phạm tội dưới góc độ “cá
nhân kẻ phạm tội”, “có nghĩa là chúng ta đề cập tới các đặc điểm cá nhân con
người gây ra tội phạm” [92, tr.141], công trình đưa ra 04 căn cứ để phân loại
nhân thân người phạm tội: Phân loại theo các tài liệu nhân khẩu học như giới
tính, lứa tuổi; phân loại theo các tiêu chí kinh tế - xã hội như trình độ văn hóa,
điều kiện sống, nơi cư trú, địa bàn cư trú…; phân loại theo quốc tịch; phân loại
theo tình trạng cá nhân vào thời điểm phạm tội (say rượu, nghiệm ma túy, phạm
tội có tổ chức, phạm tội trong khi cải tạo tại trại giam…) và phân loại theo đặc
điểm của hành vi phạm tội (cố ý phạm tội hay vô ý phạm tội; phạm tội có sử
dụng bạo lực, trục lợi chiếm đoạt tài sản…).
Sách chuyên khảo “Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và
15
thực tiễn”, của tập thể tác giả Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật do TS.
Phạm Hồng Hải làm chủ biên, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2000, nhóm
tác giả đưa ra quan điểm căn cứ vào nguồn gốc hình thành, nhân thân người
phạm tội chia thành hai loại: “Đặc điểm xã hội và đặc điểm sinh học” [40,
tr.103], tuy nhiên “tội phạm học Việt Nam thừa nhận nhân thân người phạm tội
là tổng hợp cả hai loại đặc điểm trên, trong đó đặc điểm xã hội có tính quyết
định” [40, tr.103], ngoài ra còn có các phân loại khác, trong đó phổ biến là “đặc
điểm xã hội – nhân khẩu học; đặc điểm về động cơ, mục đích; đặc điểm về đạo
đức – tâm lý” [40, tr.105].
Giáo trình “Tội phạm học” của GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb. Công an
nhân dân (2013). Giáo trình đã dành chương 6 từ trang 127 đến trang 153 để làm
rõ lý luận về nhân thân người phạm tội. Tác giả nhấn mạnh “Nhân thân người
phạm tội là một bộ phận cấu thành tất yếu và rất quan trọng của cơ chế hành vi
phạm tội” [86, tr.127]. Đây là một nhận thức quan trọng và là tiền đề để các
nghiên cứu về tội phạm học khai thác khía cạnh nhân thân người phạm tội để
làm rõ cơ chế hành vi phạm tội. Giáo trình cũng chỉ ra phương pháp nghiên cứu
nhân thân người phạm tội là “một mặt phải xuất phát và dựa vào những luận
điểm chung” đã trình bày trong giáo trình và “mặt khác cần phải cân nhắc cả
một số đặc điểm mang tính chất tội phạm học” [86, tr. 129]. Giáo trình cũng chỉ
rõ “Việc hiểu biết đúng đắn về nhân thân nói chung chỉ có thể có được trên cơ sở
hiểu biết tất cả các đặc điểm xã hội và các biểu hiện của chúng, hiểu biết sự
tương quan, chẳng hạn của “tỷ trọng” của các đặc điểm tốt về mặt xã hội và các
đặc điểm tiêu cực về mặt xã hội” [86, tr. 130]. Đặc biệt, giáo trình đã đưa ra một
định nghĩa rất khoa học về nhân thân người phạm tội: “Nhân thân người phạm
tội tức là người có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Luật
hình sự quy định là tội phạm được hiểu là tổng thể tất cả các dấu hiệu, đặc điểm
có ý nghĩa về mặt xã hội, trong sự kết hợp với các điều kiện và hoàn cảnh bên
ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người đó.” [86, tr.131]
Trong cuốn giáo trình Tội phạm học của tập thể tác giả Trường Đại học
Luật Hà Nội, Nhà xuất bản CAND, năm 2012, chia nhân thân người phạm tội
16
thành 03 nhóm: Nhóm đặc điểm sinh học, nhóm đặc điểm tâm lý, nhóm đặc
điểm xã hội. Trong đó, “nhóm đặc điểm sinh học bao gồm giới tính, tuổi và một
số đặc điểm thể chất khác” [69, tr.154], “nhóm đặc điểm tâm lý của người phạm
tội thường được kể đến là những đặc điểm tâm lý tiêu cực của người phạm tội”
[69, tr.156], “nhóm đặc điểm xã hội có thể kể đến các đặc điểm về việc làm, nghề
nghiệp, thành phần xã hội, về hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh kinh tế… và các
đặc điểm về môi trường, quá trình được giáo dục, đào tạo…” [69, tr.158]
Đề nghiên cứu sâu hơn về lý luận nhân thân người phạm tội, nghiên cứu
sinh có tìm hiểu và nghiên cứu thêm một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ để
làm cơ sở lý luận cho luận án của mình, cụ thể:
Luận án Tiến sĩ “Nhân thân người phạm tội trong luật Hình sự Việt Nam”,
Nguyễn Thị Thanh Thủy, Viện Nhà nước và pháp luật, năm 2005, ủng hộ quan
điểm chia nhân thân người phạm tội thành ba nhóm dấu hiệu đặc điểm, đặc trưng
của nhân thân người phạm tội: Nhóm các đặc điểm, dấu hiệu về nhân khẩu học - xã
hội (giới tính, độ tuổi, học vấn, hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp, nơi cư trú); nhóm
các đặc điểm, dấu hiệu theo pháp lý - hình sự (động cơ, mục đích thực hiện tội
phạm; tái phạm; đồng phạm và mức độ có tổ chức của người phạm tội); nhóm các
đặc điểm, dấu hiệu về đạo đức - tâm lý. [47].
Luận văn thạc sĩ “Vai trò nhân thân người phạm tội – Dấu hiệu quy định
trách nhiệm hình sự”, tác giả Chu Thị Quỳnh, năm 2015, tác giả rút ra một số
đặc điểm và các dấu hiệu nhân thân người phạm tội ảnh hưởng đến việc xác định
trách nhiệm hình sự gồm: Các đặc điểm mang tính chất sinh học (tuổi, giới tính,
tình trạng sức khỏe), các đặc điểm mang tính chất xã hội (học vấn, nghề nghiệp,
hoàn cảnh gia đình, nơi cư trú), các đặc điểm mang tính pháp lý hình sự (động
cơ, mục đích, phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm). Tác giả cũng
nêu lên ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội đến việc quy định
trách nhiệm hình sự, cụ thể là có ý nghĩa trong việc xác định nguyên nhân của tội
phạm, có thuyết phục để Tòa án quyết định hình phạt này hay hình phạt khác,
đảm bảo hình phạt đã tuyên có tính thực tế, phù hợp các nguyên tắc của luật hình
sự cũng như đáp ứng được mục đích trừng trị, cải tạo, giáo dục người phạm tội
17
có ý nghĩa rất lớn đối với việc cá thể hóa hình phạt.
Các công trình ở trên đã cơ bản phân tích chuyên sâu về nội dung các
đặc điểm về nhân thân người phạm tội. Điểm chung của các công trình nghiên
cứu trên là đa số đều đồng tình với quan điểm chia các đặc điểm nhân thân
người phạm tội thành các đặc điểm sinh học, tâm lý, xã hội, pháp lý. Phân
tích, tiếp cận các quan điểm ở trên, nghiên cứu sinh đồng quan điểm chia các
đặc điểm của nhân thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
thành 3 đặc điểm:
- Các đặc điểm xã hội – nhân khẩu;
- Các đặc điểm xã hội – tâm lý;
- Các đặc điểm xã hội - pháp lý.
1.2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về các vấn thực tiễn nhân thân
người phạm tội
Luận văn thạc sĩ “Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu từ thực
tiễn tỉnh Bình Dương” của Phạm Thị Triều Mến, năm 2016. Trong công trình
nghiên cứu, tác giả đã ủng hộ quan điểm chia nhân thân người phạm tội xâm
phạm sở hữu thành 03 nhóm: Nhóm đặc điểm xã hội – nhân khẩu (Giới tính, lứa
tuổi, nơi cư trú, dân tộc, địa vị xã hội, nghề nghiệp, quốc tịch, hoàn cảnh gia
đình, trình độ học vấn…); nhóm đặc điểm xã hội – tâm lý (Quan điểm, thái độ,
nhận thức đối với các giá trị đạo đức xã hội, pháp luật; nhu cầu, sở thích, thói
quen; động cơ, mục đích phạm tội; tôn giáo, tín ngưỡng,…); nhóm các đặc điểm
xã hội - pháp lý (những đặc điểm của nhân thân người phạm tội xâm phạm sở
hữu và có ý nghĩa trong việc định tội, định khung và quyết định hình phạt). Từ
việc phân tích thực tiễn nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn
tỉnh Bình Dương giai đoạn 2011-2015, tác giả đã kiến nghị các giải pháp phòng
ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Bình Dương từ góc độ
nhân thân người phạm tội. Nghiên cứu của tác giả cho thấy được phương pháp
luận trong việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội theo một nhóm tội, trên địa
bàn của một tỉnh.
Luận văn thạc sĩ luật học “Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu
18
trên địa bàn tỉnh Kiên Giang” của tác giả Hồ Thanh Lam, năm 2016, Học viện
Khoa học xã hội. Trong luận văn tác giả đã khẳng định tầm quan trọng của việc
nghiên cứu nhân thân tội phạm học và phòng ngừa tội phạm và chỉ rõ: Nghiên
cứu làm rõ nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu, góp phần làm cho quá
trình định tội, định khung và quyết định hình phạt được chính xác. Các đặc điểm
của nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định các vấn
đề: Truy cứu trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt, yếu tố định tội hoặc định
khung hình phạt… Pháp luật tố tụng hình sự quy định, các đặc điểm nhân thân
người phạm tội phải được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập đầy đủ trong hồ sơ
vụ án và phải được thể hiện trong bản kết luận điều tra của Cơ quan Điều tra, Cáo
trạng của Viện kiểm sát và Bản án của Tòa án. Các đặc điểm nhân thân người phạm
tội xâm phạm sở hữu có ý nghĩa trong việc định tội và định khung hình phạt đối với
các tội xâm phạm sở hữu, như: Động cơ và mục đích tư lợi…
Nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu, giúp xác
định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội xâm phạm sở hữu (nguyên nhân
từ phía người phạm tội và nguyên nhân từ phía xã hội). Việc nhận thức, phân
tích các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội xâm phạm sở hữu không thể
thiếu việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu, bản chất, các
đặc điểm và quá trình hình thành nó. Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở
hữu với tổng thể các đặc điểm có tác động chi phối hành vi phạm tội và cũng
chính là kết quả của sự tác động qua lại giữa người phạm tội và môi trường xã hội
của người phạm tội xâm phạm sở hữu. Bằng những nghiên cứu tổng quát về nhân
thân người phạm tội xâm phạm sở hữu và những số liệu về các loại tội xâm phạm
sở hữu góp phần làm rõ những tác động tiêu cực của môi trường gia đình, nhà
trường, môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội vĩ mô đến sự hình thành các đặc điểm
nhân thân tiêu cực của người phạm tội xâm phạm sở hữu. Nghiên cứu cụ thể về các
đặc điểm và những yếu tố tác động đến quá trình hình thành các đặc điểm tiêu cực
của nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu sẽ cho thấy rõ những nguyên nhân
và điều kiện làm phát sinh hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu.
Nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu giúp đề ra
19
biện pháp phòng ngừa tội xâm phạm sở hữu nói riêng và tội phạm nói chung. Về
ý nghĩa việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu: Phân tích
ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội sở hữu giúp cho người
nghiên cứu xác định được tầm quan trọng, vai trò về lý luận và thực tiễn, để thay
đổi nhận thức và đích đến là phòng ngừa, loại trừ tội phạm xảy ra trong thực tiễn.
Trong luận văn, tác giả cũng tập trung phân tích thực trạng nhân thân
người phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2011-
2015, từ đó kiến nghị các giải pháp phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở
hữu trên địa bàn tỉnh Kiên Giang từ khía cạnh nhân thân người phạm tội.
Ngoài các giáo trình, sách tham khảo, Luận án Tiến sỹ, luận văn thạc sỹ
nêu trên, thời gian qua còn có rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí khoa học có
liên quan đến vấn đề nhân thân người phạm tội. Có thể chia các bài viết khoa
học thành hai nhóm: Nhóm các công trình nghiên cứu nhân thân người phạm tội
dưới góc độ luật hình sự và nhóm các công trình nghiên cứu nhân thân người
phạm tội dưới góc độ tội phạm học.
Bài viết “Nhân thân người phạm tội: Một số vấn đề lý luận cơ bản” của
tác giả Lê Cảm đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân, số 10/2001, tr. 7 - 11; số
11/2001, tr. 5 - 8; số 1/2002, tr. 16 - 19. đã phân tích chi tiết về ý nghĩa khi
nghiên cứu nhân thân người phạm tội dưới góc độ Luật Hình sự, Tội phạm học,
Luật Tố tụng hình sự, Luật thi hành án hình sự và phân tích các đặc điểm cơ bản,
điển hình của nhân thân người phạm tội để đưa ra khái niệm: “Nhân thân người
phạm tội là tổng hợp các đặc điểm về mặt pháp lý hình sự, xã hội nhân khẩu
học, xã hội sinh học và đạo đức tâm lý học của người đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý)
trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, mà các
đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng để giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự
của người đó một cách công minh, có căn cứ, đúng pháp luật, đồng thời góp
phần đấu tranh chống tình hình tội phạm”. [7].
Bài viết “Vấn đề nhân thân người phạm tội trong thực tiễn quyết định hình
phạt” của tác giả Lê Thị Thanh Thủy đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân, số
19/2005, tr. 3 - 9. Theo tác giả khi nghiên cứu các đặc điểm, thuộc tính của nhân
20
thân người phạm tội với tư cách là một trong những căn cứ quyết định hình phạt,
không nên trừu tượng hoá và tách rời chúng khỏi tội phạm do người đó đã thực
hiện. Điều đó nói lên mối quan hệ biện chứng giữa cái khách quan là tội phạm đã
thực hiện và cái chủ quan là đặc điểm, thuộc tính nhân thân người phạm tội. [47].
Bài viết “Vấn đề nhân thân người phạm tội trong thực tiễn truy cứu trách
nhiệm hình sự” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ đăng trên Tạp chí Kiểm sát,
số 17/2005, tr. 32 - 35. Thông qua việc phân tích một số trường hợp cụ thể, tác
giả rút những kết luận: Cần xác minh các thông tin về nhân thân người phạm tội;
việc chứng nhận của chính quyền địa phương về nhân thân người phạm tội chưa
chính xác; việc thu thập thông tin về nhân thân người phạm tội chưa tốt... Trên
cơ sở đó, tác giả chỉ ra một số nguyên nhân chủ quan và khách quan của thực
trạng vấn đề. [46].
Bài viết: “Nhân thân bị can và một số khái niệm kề cận”, của tác giả TS. Bùi
Kiên Điện, Tạp chí Luật học, số 6/2001, tr.14-18, trong bài viết tác giả đã phân tích
nội hàm khái niệm nhân thân , sự hình thành nhân thân con người nói chung. Trong
bài viết, tác giả đã đi sâu phân tích và làm rõ sự tương đồng và khác biệt của các khái
niệm này: nhân thân bị can và nhân thân con người; nhân thân người phạm tội; chủ
thể phạm tội. Bên cạnh đó, bài viết còn chỉ ra các tiêu chí cụ thể để phân biệt một số
khái niệm cận kề nhau dễ nhầm lẫn như thân nhân bị can và nhân thân con người,
nhân thân người phạm tội, chủ thể tội phạm, nhân cách bị can có ý nghĩa không nhỏ
đối với thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Bài viết có ý nghĩa khoa
học lớn về việc phân định nội hàm khái niệm khoa học nhân thân, tuy nhiên dưới góc
độ tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, khái niệm nhân thân người phạm tội chưa
thực sự được đưa ra bình luận và nhận xét sâu sắc. [8].
Bài viết “Đặc điểm nhân thân người phạm tội và phương thức thực hiện
tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai” của tác giả Lê Văn Định đăng
trên Tạp chí Kiểm sát, số 6/2015, tr. 47 - 53. Bài viết nghiên cứu số liệu thống kê
xét xử sơ thẩm hình sự và 300 bản án hình sự sơ thẩm với 541 bị cáo phạm tội
trộm cắp tài sản ở tỉnh Gia Lai giai đoạn 2009 - 2013 để làm rõ đặc điểm nhân
thân người phạm tội và phương thức thực hiện tội phạm. Trên cơ sở đó đưa ra
21
các biện pháp ngăn chặn tội trộm cắp tài sản. [9].
Bài viết “Một số đặc điểm cần chú ý về nhân thân của người phạm tội về
ma tuý ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tuyết Mai đăng trên Tạp chí Luật học,
số 11/2006, tr. 32 - 37. Tác giả phân tích một số đặc điểm đáng chú ý về nhân
thân người phạm tội về ma tuý ở Việt Nam dưới góc độ tội phạm học, trên cơ sở
các số liệu thống kê của toà án cũng như kết quả khảo sát đặc điểm nhân thân
của 708 bị cáo trong 549 bản án về ma tuý từ năm 2001 đến năm 2005. [23].
Bài viết “Một số đặc điểm về nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn Tây Nguyên” của tác giả Lê Văn Định đăng trên Tạp chí Kiểm sát,
số 5/2017 [9]. Trên cơ sở nghiên cứu các số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự
của Vụ Thống kê - Tổng hợp Tòa án nhân dân Tối cao, tác giả phân tích các đặc
điểm về nhân thân; nguyên nhân, điều kiện thuộc về nhân thân của người phạm
tội trộm cắp trên địa bàn Tây Nguyên. Từ đó, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm
tăng cường phòng ngừa tội phạm này.
1.2.3. Nhóm các công trình nghiên cứu về các giải pháp phòng ngừa tội
phạm từ khía nhân thân người phạm tội.
Một số công trình nghiên cứu làm cơ sở để tác giả tham khảo để áp dụng
các biện pháp phòng ngừa tình hình nhân thân người phạm tội:
Tác phẩm “Crime prevention – Theory and Pratice” (Tạm dịch: Phòng
ngừa tội phạm – Lý luận và thực tiễn) của Stephen R. Schneider đã đưa ra và
giải thích một cách khoa học về hoạt động phòng ngừa tôị phạm như: Giảm nguy
cơ tội phạm bằng cách thay đổi hành vi của các nạn nhân tiềm tàng trong xã hội;
giám sát mọi cơ hội tiếp cận để phòng ngừa hành vi phạm tội; các biện pháp
kiểm soát lãnh thổ, không gian, kiểm soát xã hội không chính thức, nhằm giảm
nguyên nhân điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm. Tác giả cũng chỉ ra
những hạn chế và cách giải quyết hạn chế của việc áp dụng các giải pháp giải
quyết vấn đề xã hội cho người phạm tội, tập trung vào công tác phòng ngừa tái
phạm, nâng cao trách nhiệm cộng đồng trong phòng ngừa tội phạm [122].
Cuốn sách “Cơ sở lý luận của việc phòng ngừa tội phạm” của Mikovskij
G.M do Nxb. Max-xơ-va, Jurid, Literature, năm 1977 (bản dịch của Viện thông
22
tin Khoa học xã hội, năm 1982) [113]. Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu
về cơ sở lý luận của phòng ngừa tội phạm. Công trình chỉ rõ tội phạm là hiện
tượng xã hội và phương hướng đấu tranh chống tội phạm cơ bản nhất là phòng
ngừa tội phạm. Tác giả G.M. Mikovskij cho rằng “để phòng ngừa tội phạm, cần
phải nâng cao đời sống vật chất của quần chúng nhân dân, không ngừng tăng
cường tích cực tự giác của quần chúng trong phòng, chống tội phạm, phải theo
dõi và thống kê đầy đủ; kịp thời nghiên cứu tội phạm và các điều kiện làm nảy
sinh tội phạm để có cơ sở đề ra các biện pháp phòng, chống tội phạm có hiệu
quả; áp dụng kịp thời hình phạt đối với người phạm tội để phòng ngừa tội
phạm”. G.M. Mikovskij cũng cho rằng “phòng ngừa tội phạm phải bao gồm biện
pháp loại trừ các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, các điều kiện sống không lành
mạnh và không ổn định; phát triển các tiêu đề cho việc nâng cao trình độ văn hoá
của con người trong xã hội; mở rộng hơn nữa điều kiện giáo dục gia đình”.
Từ cách tiếp cận nhân thân người phạm tội đã làm rõ một số vấn đề lý
luận về nhân thân người phạm tội, như khái niệm, phân loại nhân thân người
phạm tội; ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cũng như các
yếu tố tác động hình thành các đặc điểm nhân thân người phạm tội để phân tích
làm rõ thực trạng nhân thân người phạm tội từ đó kiến nghị các giải pháp phòng
ngừa tình hình tội phạm.
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án
Qua việc nghiên cứu và tham khảo các công trình nghiên cứu trong và
ngoài nước có liên quan đến vấn đề nhân thân người phạm tội theo các nhóm vấn
đề lý luận, thực trạng nhân thân người phạm tội và các giải pháp phòng ngừa
tình hình tội phạm nhìn từ góc độ nhân thân người phạm tội, cho phép nghiên
cứu sinh kết luận:
Thứ nhất, các những công trình nghiên cứu có đề cập đến nhân thân người
phạm tội dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội phạm đề nghiên cứu nhân
thân người phạm tội trong mối liên hệ với các vấn đề như tình hình phạm tội,
nguyên nhân và điều kiện phạm tội, các giải pháp phòng ngừa tình hình phạm tội
nói chung và ở một số địa phương khác nói riêng.
23
Thứ hai, các công trình đều phân tích nội hàm và các dấu hiệu của nhân
thân người phạm tội, các công trình đều đánh giá ý nghĩa của việc nghiên cứu
nhân thân người phạm tội ở nhiều ngành khoa học khác nhau. Các công trình
nghiên cứu có điểm chung là những đặc điểm của cá nhân người phạm tội và
những đặc điểm đó được hình thành từ sự tác động của các nhân tố khách quan
và chủ quan tiêu cực khác nhau.
Thứ ba, có nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến nhân thân người phạm
tội mà chưa được đề cập sâu, chẳng hạn như: cơ chế hình thành hành vi phạm tội
chưa được đề cập nghiên cứu, cơ chế hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực
ở người phạm tội; các giải pháp khắc phục những hiện tượng tiêu cực, quá trình
xã hội tiêu cực đến sự hình thành nhân thân người phạm tội…
1.4. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục được nghiên cứu trong Luận án
1.4.1. Những vấn đề đặt ra về lý luận, thực tiễn và giải pháp
Ngoài những nội dung đã thống nhất ở trên sẽ được kế thừa trong Luận án,
Luận án cần giải quyết các nội dung sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân
người phạm tội ma tuý và xâm phạm sở hữu, rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu
nhân thân người phạm tội, phân loại nhân thân người phạm tội; làm rõ và chỉ ra
nhân thân người phạm tội gồm những đặc điểm gì và có những hiện tượng xã hội
tiêu cực nào tác động làm hình thành nhân thân người phạm tội.
Thứ hai, trên cơ sở lý luận về nhân thân người phạm tội nói chung và các
nghiên cứu nhân thân người phạm tội trên các địa bàn khác làm rõ thực trạng đặc điểm
nhân thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh năm 2009 – 2018;
Thứ ba, từ thực trạng đặc điểm nhân thân người phạm tội trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh, bằng khảo sát xã hội học tác giả chỉ ra những hiện
tượng xã hội tiêu cực nào trong thực tế đời sống xã hội và thuộc về người phạm
tội tác động hình thành nên đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người phạm tội làm
thúc đẩy hành vi phạm tội.
Thứ tư, từ những kết quả nghiên cứu lý luận và kết quả nghiên cứu thực tiễn
và thực trạng đặc điểm nhân thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
24
Minh, trên cơ sở những yếu tố tiêu cực tác động hình thành những đặc điểm nhân
thân tiêu cực thúc đẩy hành vi phạm tội, nghiên cứu sinh đề xuất những giải pháp
nhằm phòng ngừa tình hình phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
1.4.2. Câu hỏi nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội?
- Phân loại nhân thân người phạm tội gồm những loại nào?
- Thực trạng đặc điểm nhân thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh từ năm 2009 – 2018.
- Có những hiện tượng xã hội tiêu cực nào tác động làm hình thành nhân
thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2009 – 2018?
- Trong thời gian tới, tình hình đặc điểm và những hiện tượng tiêu cực tác
động hình thành nhân thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
sẽ như thế nào?
- Địa nhân thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có
đặc trưng gì?
- Với những đặc điểm địa nhân thân người phạm tội trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh như vậy, những giải pháp nào phù hợp với đặc điểm địa lý học
tội phạm nhằm phòng ngừa tình hình tội phạm hiện nay?
1.4.3. Giả thuyết nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài tác giả đưa ra một số giả thuyết như sau:
- Nhân thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai
đoạn năm 2009 - 2018 có một số đặc điểm sau: Tội phạm chủ yếu nam giới, tuy
nhiên ở tội phạm ma túy, số lượng nữ chiếm tỷ lệ không chênh lệch nhiều so với
nam, có sự phân hoá giới tính nam nữ ở tội xâm phạm sở hữu; độ tuổi từ 18 đến
45, không có nghề nghiệp ổn định, trình độ học vấn thấp; số đông là những
người không có thói quen lao động, có nhu cầu và sở thích lệch lạc; thường có
tiền án tiền sự, tái phạm, tái phạm nguy hiểm…
- Nghiên cứu và phân tích thực trạng những hiện tượng tiêu cực tác động
đến quá trình hình thành nhân thân người phạm tội, nghiên cứu các hiện tượng từ
các lĩnh vực môi trường sống: văn hoá, kinh tế, xã hội, gia đình, nhà trường…
những hiện tượng tiêu cực từ cá nhân người phạm tội như: Ý thức pháp luật, sở
25
thích, nhu cầu… từ đó áp dụng các biện pháp phòng ngừa được hiệu quả.
- Từ thực tiễn nghiên cứu lý luận và thực tiễn về nhân thân người phạm tội
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả đề xuất một số giải pháp phòng ngừa
tối ưu, phù hợp với thực tế góp phần hạn chế tình trạng phạm tội trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh, trong đó bao gồm các giải pháp loại bỏ những yếu tố tiêu cực tác
động đến quá trình hình thành đặc điểm nhân thân người phạm tội.
Kết luận chương 1
Hiện nay, phòng ngừa tội phạm là một trong những vấn đề được ưu tiên
hàng đầu do số lượng tội phạm ngày càng gia tăng. Đề công tác phòng ngừa tội
phạm này hiệu quả, một trong những biện pháp cần được chú trọng trong đó là
sự chuyển biến tích cực trong những đặc điểm nhân thân tiêu cực của người
phạm tội. Nghiên cứu và tìm hiểu đặc điểm nhân thân người phạm tội cho phép
xác định được những yếu tố tiêu cực tác động đến việc hình thành đặc điểm tiêu
cực ở con người dẫn đến hành vi phạm tội, đây là cơ sở để nghiên cứu sinh đề
xuất các biện pháp ngăn ngừa hiệu quả từ góc độ nhân thân người phạm tội.
Nghiên cứu vấn đề nhân thân người phạm tội, nghiên cứu sinh làm rõ tổng
quan tình hình nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về nhân thân người
phạm tội qua các tài liệu trong và nước ngoài để tiếp cận theo hướng liên ngành,
khái quát nhất, toàn diện nhất về nhân thân người phạm tội.
Trong những năm qua, được các ngành chức năng nỗ lực quan tâm và
công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm hình sự, giữ vững an ninh trật tự
trên địa bàn đã có những kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, công tác phòng ngừa
tội phạm vẫn còn những hạn chế nhất định. Để đạt hiệu quả cao trong hoạt động
phòng ngừa tội phạm, việc nghiên cứu đặc điểm nhân thân người phạm tội có ý
nghĩa rất quan trọng. Bằng những nghiên cứu tổng quát về nhân thân người
phạm tội, tác giả phân tích làm rõ đặc điểm sự hình thành nhân cách sai lệch của
người phạm tội, dưới sự tác động trong quá trình sống, sinh hoạt và làm việc, tìm
ra hoàn cảnh cụ thể đã đưa đến việc thực hiện tội phạm. Đồng thời, tác giả làm
rõ thực trạng vận dụng đặc điểm nhân thân người phạm tội phục vụ hoạt động
26
phòng ngừa tội phạm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI
2.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa nghiên cứu nhân thân người
phạm tội
2.1.1. Khái niệm nhân thân con người và nhân thân người phạm tội
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin: “…bản chất con người
không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” [22, tr.19].
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin cho thấy, các đặc điểm riêng của các cá
nhân trong xã hội luôn chịu sự tác động của hoàn cảnh xã hội. Giữa con người
với xã hội luôn có mối quan hệ tương tác lẫn nhau: “…con người tạo ra hoàn
cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy” [22,
tr.55]. Khái niệm “con người” được nhìn nhận từ tổng thể những khía cạnh khác
nhau trong bản chất của nó: xã học, sinh học, lịch sử - văn hóa, đạo đức, giáo
dục. Con người từ khi sinh ra đã là một thực thể sinh vật, con người phải tham
gia vào quá trình lao động, sinh hoạt để duy trì sự tồn tại của bản thân như: ăn,
uống, ngủ, vui chơi, giải trí, học tập, lao động… Quá trình lao động, sinh hoạt có
tác động rất lớn đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân của con người.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ nội dung của nhân thân, vai trò của nó
trong việc tác động đến các hành vi xử sự của con người trong đời sống xã hội.
Mỗi con người mang một đặc trưng nhân thân khác biệt. Trong các đặc điểm
nhân thân của con người, có những đặc điểm nhân thân mang giá trị tích cực
thúc đẩy các hành vi tốt làm phát triển xã hội, tuy nhiên cũng có những đặc điểm
nhân thân tiêu cực làm phát sinh các hành vi tiêu cực, cản trở sự phát triển của
xã hội. Tuy nhiên, cần hiểu, cái tạo thành giá trị đích thực của nhân thân không
phải là nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, trình độ hiểu biết của con người mà là
ở đạo đức, nhân cách, quan điểm, lập trường xã hội, tính tích cực cá nhân những
đóng góp của cá nhân vào sự phát triển chung của xã hội.
Các đặc điểm “nhân thân” còn bao gồm cả các yếu tố tâm lý, tình cảm
như: nhu cầu, cảm xúc, ham muốn….các yếu tố này là khía cạnh tâm lý, khía
27
cạnh tinh thần trong nhân thân con người. Mỗi con người đều có một tập hợp các
nhu cầu cơ bản về tâm lý, tình cảm mà việc đáp ứng những đòi hỏi của chúng
gắn liền với lĩnh vực ý thức phong phú, những cảm xúc, lợi ích, ham muốn…của
con người. Chính quá trình hoạt động của con người nhằm thỏa mãn các nhu cầu
này xác định được phạm vi nhận thức, xác định tâm trạng, quy định khuynh
hướng hành vi của con người.
Một dấu hiệu quan trọng của nhân thân con người là ý thức. Khi tham gia
các mối quan hệ xã hội, yếu tố này đóng vai trò quan trọng tạo thành tính tích
cực cá nhân, là khâu trung gian hóa sự tác động của các hoạt động xã hội sao cho
phù hợp với giá trị của cá nhân, đồng thời trong mỗi tình huống cụ thể nó lựa
chọn cách hành xử khác nhau cho phù hợp. Các hiện tượng tâm lý đan xen một
cách hữu cơ với cuộc sống toàn vẹn của cá nhân, vì chức năng cơ bản của mọi
hiện tượng và quá trình tâm lý là điều tiết hoạt động của con người.
Bản chất của nhân thân thể hiện ở chỗ không bị quy về các đặc thù tâm lý
cá nhân của con người, mà là sự thống nhất giữa cái chung, cái đặc thù và cái
riêng trong sự phát triển và hình thành nên nhân thân kế thừa và phản ánh kinh
nghiệm xã hội của mọi thế hệ trước. Ngoài ra, nhân thân cũng thể hiện các đặc
điểm của một chế độ xã hội nhất định trong ý thức giai cấp, trong thế giới quan,
lý tưởng chính trị của mình. Cuối cùng, nhân thân con người là sự thể hiện các
đặc điểm cá nhân không trùng lặp, phản ánh sự phát triển của con người, sự tồn
tại cá nhân của nó - đó là sự tồn tại được quy định bởi một nội dung cụ thể của
các mối quan hệ gia đình, sản xuất, xã hội… Đó cũng chính là môi trường, trong
đó con người sống và phát triển với tư cách là một cá nhân trong xã hội.
Tự sự phân tích trên, có thể hiểu: Nhân thân người phạm tội là người có lỗi
trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là tội
phạm, được hiểu là tổng thể các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội, trong
sự kết hợp với hoàn cảnh điều kiện bên ngoài tác động dẫn đến hành vi phạm tội.
Nghiên cứu nhân thân người phạm tội cũng chính là nghiên cứu nhân thân
con người ở dạng cụ thể: Nhân thân của những người đã thực hiện hành vi phạm
tội, là chủ thể của tội phạm. Nhân thân con người, theo quan điểm chủ nghĩa
Mác - Lênin là một phạm trù xã hội lịch sử. Nó là sản phẩm của một thời đại
28
nhất định, được quy định bởi những điều kiện lịch sử cụ thể của hiện thực xã hội.
Nếu nhân thân con người là tổng hợp các đặc điểm xã hội, dấu hiệu thể
hiện bản chất con người tham gia vào mối quan hệ xã hội, khi đề cập đến nhân
thân người phạm tội là nói đến nhân thân con người thực hiện tội phạm. Đây là
một trường hợp đặc biệt của nhân thân con người. Trong nhân thân người phạm
tội, ngoài những dấu hiệu nhân thân con người nói chung, còn có những dấu hiệu
đặc điểm đặc trưng của nhân thân người phạm tội và chính những đặc điểm dấu
hiệu này thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của nhân thân người phạm tội.
Xét về mặt ngôn ngữ, khái niệm nhân thân người phạm tội được hình thành từ
khái niệm “nhân thân” và khái niệm “người phạm tội”. Như vậy, khái niệm nhân
thân người phạm tội được hiểu là nhân thân người có lỗi trong khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự coi là tội phạm, nên khi nghiên cứu khái
niệm nhân thân người phạm tội cần phải bắt đầu từ khái niệm nhân thân con người.
Để hiểu rõ hơn khái niệm nhân thân người phạm tội cần phải phân biệt
khái niệm này với khái niệm chủ thể của tội phạm. Chủ thể của tội phạm là khái
niệm pháp lý hình sự, là một trong những yếu tố cấu thành tội phạm. Chỉ có
người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định vào thời điểm
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mới phải chịu trách nhiệm hình sự về
hành vi trái pháp luật hình sự của mình.
Nhân thân người phạm tội là nói đến nhân thân của con người thực hiện
tội phạm, là trường hợp cá biệt của nhân thân con người. Trong nhân thân người
phạm tội, ngoài những dấu hiệu của nhân thân con người nói chung, còn có
những đặc điểm, dấu hiệu đặc trưng của nhân thân người phạm tội và chính
những đặc điểm dấu hiệu này thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của nhân
thân người phạm tội.
Dấu hiệu đặc trưng trong nhân thân người phạm tội khác với nhân thân
con người bình thường, trước hết là nhân thân của họ có đầy đủ các dấu hiệu chủ
thể của tội phạm theo quy định của Luật Hình sự, tại thời điểm họ thực hiện tội
phạm, họ là những con người cụ thể đang sống, có năng lực trách nhiệm hình sự,
đạt độ tuổi theo luật định và đặc biệt là họ đã thực hiện hành vi phạm tội.
Gắn liền với sự việc phạm tội là toàn bộ những đặc điểm đặc trưng có liên
29
quan đến sự việc phạm tội đó như: Mối tương quan giữa bản chất tốt xấu trong nhân
thân con người đó, thể hiện ở phẩm chất đạo đức, các trạng thái tâm lý, ý thức pháp
luật, thái độ xử sự nói chung cho đến các đặc điểm cụ thể như động cơ, mục đích
thực hiện hành vi phạm tội, thái độ đối với các giá trị đạo đức, pháp luật… Những
đặc điểm đó phần lớn được hình thành trước thời điểm thực hiện tội phạm, trong đó
đặc biệt phải chú ý đến các phẩm chất tiên cực của cá nhân.
Nhân thân người phạm tội là những đặc điểm dấu hiệu đặc trưng phản ánh
bản chất của người phạm tội, những đặc điểm dấu hiệu này tác động với những
tình huống và hoàn cảnh khách quan khác tạo ra xử sự phạm tội của người đó.
Những đặc điểm đó có thể là độ tuổi, nghề nghiệp, thái độ làm việc, thái độ trong
quan hệ với những người khác, trình độ văn hóa, lối sống, hoàn cảnh gia đình và
đời sống kinh tế, thái độ chính trị, ý thức pháp luật, tôn giáo, tiền án, tiền sự…
Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa nhân thân người phạm tội như
sau: Nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện
bản chất xã hội của con người đã thực hiện tội phạm.
* Phân biệt khái niệm nhân thân người phạm tội (dưới góc độ tội phạm
học) với một số khái niệm liên quan đến nhân thân con người
- Nhân thân người phạm tội và cá nhân người phạm tội
Khi đề cập đến khái niệm “cá nhân” là nói đến một con người cụ thể với tư
cách là một cá thể trong xã hội, là sản phẩm của sự phát triển xã hội, là chủ thể của
lao động, của mọi quan hệ xã hội, mang những đặc điểm cơ bản của điều kiện văn
hóa lịch sử xã hội nhất định. Trong mỗi cá nhân bao hàm cả nét riêng biệt mang
tính riêng và nét chung của cộng đồng và chúng có sự thống nhất với nhau.
Như vậy, “cá nhân người phạm tội” là khái niệm được dùng để chỉ một
cá thể người trong xã hội đã thực hiện tội phạm. Mặc dù, trong mỗi cá nhân
người phạm tội đều phản ảnh những nét chung của con người xã hội nói chung,
song khái niệm cá nhân người phạm tội lại sử dụng để chỉ một con người cụ thể
có những đặc điểm riêng có của mỗi con người phạm tội. Những đặc điểm riêng
đó nói lên tính cá biệt của cá nhân người phạm tội. Cho nên, có thể nói rằng,
khái niệm “nhân thân người phạm tội” thuộc phạm trù chung, còn khái niệm
30
“cá nhân người phạm tội” là cái riêng [31, tr 103].
- Nhân thân người phạm tội và nhân cách người phạm tội
Nhân cách không chỉ là khái niệm tâm lý học mà còn là đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học khác như: xã hội học; giáo dục học; đạo đức học;
triết học… Nhân cách là khái niệm được nhiều ngành khoa học quan tâm, luận
bàn. Nhân cách là tư cách làm người, là “tư cách và phẩm chất, đạo đức của con
người” [90, tr.1238]. Có nhiều quan điểm khác nhau về nhân cách, mỗi ngành
khoa học đưa ra khái niệm và phương pháp tiếp cận khác nhau, phổ biến nhất và
được nhiều nhà khoa học chấp nhận là quan điểm “tâm lý hóa nhân cách”, xem
nhân cách như những cá nhân độc lập trong sự tồn tại, tham gia trong các nhóm
xã hội “Nhân cách là tổ hợp các thuộc tính tâm lý của một cá nhân, biểu hiện
bản sắc và giá trị của người ấy”.
“Nhân cách người phạm tội” là một khái niệm được dùng để chỉ tổ hợp
những thuộc tính tâm lý của một cá nhân đã thực hiện tội phạm, biểu hiện ở bản
sắc và giá trị xã hội tiêu cực của cá nhân đó. “Nhân cách người phạm tội” được
hình thành trong quá trình thực hiện tội phạm, quá trình tác động lẫn nhau giữa
cá nhân và môi trường sống, đặc biệt là môi trường xã hội tiêu cực. Nhân cách
người phạm tội khác với nhân cách khác trong xã hội, là “nhân cách không thích
hợp” không đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi của xã hội, là đặc trưng cho
đặc điểm tiêu cực của tâm lý con người trong xã hội. Các đặc điểm đặc trưng
trong nhân cách người phạm tội thường được nghiên cứu là những đặc trưng về
nhu cầu, hứng thú, tính cách, năng lực, thới quen, niềm tin, lý tưởng sống… của
người phạm tội.
Phân loại “Nhân cách người phạm tội”, có nhiều cách phân loại khác nhau:
- Cách thứ nhất theo AI. Đôngôva, có 3 loại: Loại nhân cách phạm pháp có
hệ thống, người có nhân cách này họ không chỉ lợi dụng hoàn cảnh mà bản thân
còn tự tạo ra hoàn cảnh, vượt qua mọi trở ngại để thực hiện âm mưu tội lỗi, hành
vi phạm tội đã trờ thành thói quen xử sự ở họ; Loại hình nhân cách phạm pháp
do chuẩn mực đạo đức, pháp luật lỏng lẻo không nghiêm. Lối sống đã hình thành
trước đây trong sự tác động với tình huống chuẩn mực đạo đức pháp luật lỏng
31
lẻo, không nghiêm đã dẫn đến hành vi phạm tội; Loại hình nhân cách bối cảnh,
người có nhân cách loại này thường có hành vi phạm tội xảy ra trong hoàn cảnh
xung đột. Ở đây hành vi phạm tội xảy ra tựa như kích thích phản ứng. [22]
- Cách thức hai, căn cứ vào mức độ của những đặc điểm, phẩm chất tâm
lý tiêu cực để phân loại về nội dung vác cách chia cũng tương tự như trên: Nhân
cách tội phạm toàn thể, người có nhân cách loại này thường có thái độ xấu với
xã hội, hành vi phạm tội được định hình, thường xuyên toan tính, hoạt động
phạm tội, không dao động ngả nghiêng trong hoạt động phạm tội; Nhân cách tội
phạm cục bộ, có sự phân đôi các phẩm chất, vừa có những phẩm chất hợp chuẩn,
vừa có những phẩm chất không hợp chuẩn (thường có ở những tội phạm tham ô,
hối lộ..); Nhân cách tội phạm cục bộ, trong loại nhân cách này có vài phẩm chất
tâm lý tiêu cực mà trong tình huống nhất định đã thúc đẩy cá nhân phạm tôi.
- Nhân thân người phạm tội và chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là khái niệm của khoa học pháp lý hình sự, là một
trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm, là điều kiện tất yếu để truy cứu trách nhiệm
hình sự. Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội một cách cố ý hoặc vô ý, có đủ trách nhiệm năng lực trách nhiệm
hình sự và đạt độ tuổi theo luật định. Ngoài ra, đối với chủ thể đặc biệt của tội
phạm còn phải có thêm các dấu hiệu như giới tính, lứa tuổi, chức vụ, nghề
nghiệp, quan hệ gia đình….
Khái niệm nhân thân người phạm tội bao gồm tất cả các dấu hiệu mà luật
hình sự quy định về chủ thể thường cũng như chủ thể đặc biệt của tội phạm,
nhưng trong khái niệm nhân thân người phạm tội thì dấu hiệu đó được thể hiện
rộng hơn, chi tiết hơn. Chẳng hạn, dấu hiệu độ tuổi trong nhân thân người phạm
tội không chỉ là yếu tố xác định năng lực hành vi của con người (tuổi chịu trách
nhiệm hình sự - Điều 12 Bộ Luật Hình sự), mà còn được xem là một đặc điểm có
liên quan tới những biến đổi về tâm, sinh lý, kinh nghiệm sống và các vai trò, vị
thế xã hội khác nhau. Đặc điểm tâm lý (dấu hiệu bên trong) của nhân thân người
phạm tội là cả đời sống tâm lý, sự hình thành và phát triển nhân cách của họ với
tất cả những cảm xúc, tình cảm, ý chí, xu hướng, tính cách thói quen, nhu cầu,
ước vọng… Còn trong chủ thể của tội phạm chủ yếu xem xét các dấu hiệu lý trí
32
và ý chí biểu hiện ở khả năng nhận thức và điều chỉnh hành vi, làm cơ sở xác
định năng lực trách nhiệm hình sự và lỗi của một người khi họ thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội [31, tr.104]
Ngoài ra, khái nhiệm nhân thân người phạm tội còn có cả những đặc
điểm, dấu hiệu mà trong khái niệm chủ thể của tội phạm không có hoặc không
cần thiết phải quy định về mặt pháp lý, như những dấu hiệu về mặt trình độ học
vấn, dân tộc, tôn giáo, quan hệ xã hội…thái độ của họ đối với các giá trị xã hội
và với chính bản thân mình.
2.1.2. Các đặc điểm của nhân thân người phạm tội
Nhân thân người phạm tội trước hết bao hàm các đặc điểm nhân cách tiêu
cực dẫn đến thực hiện hành vi phạm tội được hình thành trong quá trình tương
tác giữa môi trường sống với đặc điểm tâm sinh lý mỗi cá nhân. Ngoài ra, trong
cấu trúc của nhân thân người phạm tội còn có các đặc điểm, dấu hiệu đặc trưng
cho chính nhân thân đó mà trong một con người bình thường không có. Các đặc
điểm dấu hiệu này có vai trò quan trọng trong cơ chế hành vi phạm tội. Cũng cần
phải lưu ý rằng bản chất sự khác nhau giữa nhân thân người phạm tội và nhân
thân người không phạm tội được xem xét trong tổng thể các đặc điểm dấu hiệu
nhất định của nó chứ không phải được xác định bởi các dấu hiệu riêng biệt (như
trình độ học vấn thấp, lợi ích hẹp hòi, thái độ không tốt đối với lao động…), vì
các dấu hiệu này không chỉ riêng có ở những người phạm tội, mà chúng thể hiện
ở ngay cả trong nhân thân của những người không phạm tội.
Cơ sở nghiên cứu nhằm xác định các đặc điểm, dấu hiệu của nhân thân
người phạm tội để chỉ ra mối quan hệ hay quy luật của hành vi phạm tội, tìm
hiểu những nguyên nhân xã hội tiêu cực tác động, những đặc trưng khác của
nhân thân người phạm tội, từ đó mới có những biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa
được hiệu quả. Để chỉ ra những nhóm đặc điểm đặc trưng cho nhân nhân người
phạm tội trước hết phải làm sáng tỏ mối quan hệ giữa đặc điểm sinh học và đặc
điểm xã hội trong nhân thân người phạm tội. Như vậy, trước hết phải dựa vào
những hoạt động thực tế của người đó. Những hoạt động này phải được đánh giá
trong một tập hợp nhất định: hành vi phạm tội, động cơ phạm tội; mục đích
phạm tội và các dấu hiệu khác như đạo đức – tâm lý của người phạm tội. Có thể
33
nói cấu trúc của nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc điểm, dấu hiệu mà
xét về mặt tổng thể đặc trưng cho chính nhân người đã thực hiện hành vi phạm
tội. Các đặc điểm, dấu hiệu đặc trưng này đều có liên quan đến việc thực hiện tội
phạm của con người đó.
Đối với các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội được hình
thành thông qua những hoạt động thực tế của người đó, trong quá trình hoạt
động đó thì các yếu tố thuộc về bản thân người phạm tội và các yếu tố thuộc về
môi trường sống dẫn đến việc chủ thể thực hiện hành vi phạm tội sẽ khác so với
đặc điểm nhân thân các nhóm tội phạm khác.
Có nhiều cách phân loại các nhóm đặc điểm nhân thân người phạm tội
khác nhau, đề làm rõ một cách toàn diện về nhân thân người phạm tội và để đánh
giá được đặc điểm nhân thân trong tổng hoà các mối quan hệ xã hội cũng như
đặc điểm tâm sinh lý của người phạm tội, chúng ta có thể phân loại thành 03 đặc
điểm như sau:
- Đặc điểm xã hội – nhân khẩu;
- Đặc điểm xã hội – tâm lý;
- Đặc điểm xã hội - pháp lý.
Để chỉ ra đặc điểm nhân thân người phạm tội, chúng ta phải làm rõ cơ sở
lý luận của 3 nhóm đặc điểm trên của người phạm tội.
2.1.2.1. Đặc điểm xã hội – nhân khẩu
Đặc điểm xã hội – nhân khẩu là những đặc điểm mang dấu hiệu bên ngoài
như: Giới tính, lứa tuổi, nơi ở, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình…. Bản thân mỗi
người chúng ta đều mang những đặc điểm xã hôi nhân khẩu như vậy, bản thân
các đặc điểm này không khẳng định cá nhân ai đó phạm tội. Một cá nhân nào đó
phạm tội khi có các đặc điểm nhân thân tiêu cực được hình thành trong quá trình
sống và khi gặp tình huống dẫn đến hành vi phạm tội thì những đặc điểm này ở
một chừng mực nào đó ảnh hưởng nhất định đến quá trình hình thành nhân thân
tiêu cực của người phạm tội.
Giới tính: Đặc điểm giới tính xác định người phạm tội là nam giới hay nữ
giới. Lịch sử thống kê tội phạm và thực tế của cuộc đấu tranh tội phạm đã chỉ ra
rằng có các quy luật nhất định về tương quan số lượng giữa nam giới và nữ giới
34
trong tổng thể những người phạm tội nói chung và trong các nhóm, loại người
phạm tội riêng biệt. Qua nghiên cứu tỷ lệ giữa nam giới và nữ giới trong việc
phạm tội, tỷ lệ nam giới phạm tội bao giờ cũng cao hơn và mang tính chất “ổn
định” hơn. Cho thấy có thể xác định được đặc trưng của nam giới là dễ bị ảnh
hưởng của môi trường và điều kiện sống để hình thành những đặc điểm tâm lý
tiêu cực hoặc dễ bị thói hư tật xấu trong xã hội nhiều hơn nữ giới. Trong thực tế
cuộc đấu tranh chống tội phạm ở nước ta, cứ 100 người phạm tội, nữ giới chỉ có
6 đến 10 người [31, tr.110].
Tuy nhiên trong những năm gần đây, cơ cấu phạm tội theo giới tính đang
có sự thay đổi. Tỷ lệ phạm tội nữ giới có xu hướng tăng lên và các loại tội phạm
do họ thực hiện ngày càng đa dạng. Ngoài những tội phạm chủ yếu mà trước đây
nữ giới thường phạm tội là: tội trộm cắp tài sản; tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản;
hay tội đầu cơ…, hiện nay trong danh mục đó có thêm nhiều loại tội phạm nguy
hiểm như: tội bắt cóc trẻ em, tội chứa mại dâm, tội mua bán trái phép chất ma
túy… đặc biệt xuất hiện một số băng nhóm tội phạm có sự tham gia của phụ nữ,
thậm chí là với vai trò cầm đầu, đã gây ra nhiều vụ phạm tội rất nghiêm trọng
như giết người, cướp tài sản , bắt cóc tống tiền… làm tình hình trật tự xã hội
ngày càng thêm phức tạp. Điều này cho thấy, đến nay cơ cấu giới tính của người
phạm tội đã có sự thay đổi.
Lứa tuổi: Cùng với sự biến đổi của độ tuổi là quá trình diễn ra sự thay đổi
của bản thân nhân thân. Các giai đoạn phát triển khác nhau của nhân thân không
phụ thuộc vào các đặc điểm độ tuổi, mà chủ yếu phụ thuộc vào các hình thức
hoạt động thực tế có nội dung cụ thể của con người. Nghiên cứu về độ tuổi trong
tội phạm học chỉ ra tội phạm phổ biến ở độ tuổi nào. Sự phát triển về thể chất,
tâm lý, nhận thức, tình cảm… của mỗi lứa tuổi khác nhau sẽ có những đặc điểm
riêng khác nhau. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến hành vi con người. Tội phạm
học nghiên cứu lứa tuổi nhằm xác định hai vấn đề quan trọng là: lứa tuổi nào phạm
tội nhiều nhất, phân bố và diễn biến của tội phạm theo lứa tuổi và cơ cấu của tội
phạm theo lứa tuổi. Nghiên cứu đặc điểm lứa tuổi giúp cho việc sắp xếp ưu tiên
trong các biện pháp giáo dục cải tạo, đấu tranh phòng ngừa tội giết người.
Thực tế cuộc đấu tranh chống tội phạm cho thấy người phạm tội ở độ tuổi
35
từ 18 đến 30 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất, sau đó là những người từ 31 đến 45 tuổi
và những người chưa thành niên (từ 14 đến dưới 18 tuổi), còn những người trên
45 tuổi phạm tội chiếm tỷ lệ ít hơn. Đối với từng lứa tuổi khác nhau, cơ cấu tội
phạm được thực hiện cũng có những đặc trưng khác nhau. Chẳng hạn các tội
phạm mà người chưa thành niên thực hiện nhiều nhất phải kể đến các tội xâm
phạm sở hữu trong đó chủ yếu là trộm cắp, sau mới đến các tội cướp, tội cướp
giật và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Trình độ học vấn: Thể hiện mức độ hiểu biết, kiến thức của con người về
thế giới khách quan, về xã hội về các mối quan hệ và những lĩnh vực khấc nhau
trong đời sống. Tất cả những sự hiểu biết này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển trí tuệ, đến quá trình hình thành phát triển nhân cách của các nhân. Có thể
nói trình độ học vấn có sự tác động rất lớn lên hành vi ứng xử và cách giải quyết
mâu thuẫn trong cuộc sống của mỗi người. Trong nhiều trường hợp do trình độ
học vấn thấp đã tao ra nhiều hạn chế trong việc một cá nhân xử lý các tình huống
phát sinh trong cuộc sống hàng ngày, làm cho nhiều người có suy nghĩ lệch lạc,
từ đó họ có những hành vi sai trái với những quy đình của pháp luật nói chung
và pháp luật hình sự nói riêng.
Nghiên cứu trình độ học vấn của người phạm tội không chỉ hạn chế ở việc
phân tích thành phần người phạm tội nói chung và so sánh với trình độ học vấn
của dân số, mà cần phải nghiên cứu trình độ học vấn của từng nhóm, loại người
phạm tội riêng biệt, đồng thời phải chỉ ra các mối liên hệ và phụ thuộc giữa trình
độ học vấn và xu hướng phạm tội của các nhóm, loại phạm tội đó. Trên thực tế,
những người phạm tội ở các nhóm khác nhau cũng có trình độ học vấn khác
nhau. Những người có trình độ học vấn thấp thường phạm tội có tính chất bạo
lực, côn đồ hoặc các tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội, còn những tội
phạm xâm phạm kinh tế, các tội phạm chức vụ hoặc có động cơ vụ lợi do những
người có trình độ văn hóa cao hơn thực hiện.
Nghề nghiệp, địa vị xã hội: Địa vị xã hội và nghề nghiệp là một đặc điểm
quan trọng của nhân thân con người và nhân thân người phạm tội nói riêng. Địa
vị xã hội thường gắn liền với nghề nghiệp của người đó và phụ thuộc vào trình
độ học vấn của họ. Đối với người có nghề nghiệp ổn định, có địa vị xã hội cao sẽ
36
dễ dàng có được những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhân cách, những
nhu cầu cơ bản của đời sống được bảo đảm thì sẽ hạn chế được việc xảy ra mâu
thuẫn. Nghiên cứu địa vị xã hội và nghề nghiệp chỉ ra nhóm người làm việc ở
những ngành, lĩnh vực nào trong xã hội dễ thực hiện tội phạm và loại tội phạm
họ thực hiện. Một số nhóm tội mà đặc điểm nghề nghiệp và địa vị xã hội có ảnh
hưởng khá lớn đến hành vi phạm tội như là nhóm các tội xâm phạm trật tự quản
lý kinh tế, nhóm tội tham nhũng… Dấu hiệu về địa vị xã hội chỉ ra nhóm tội
phạm nào phổ biến, đồng thời chúng cũng định hướng cho việc tìm hiểu và chỉ
ra các yếu tố phát sinh tội phạm vốn đặc trưng cho các nhóm nghề nghiệp khác
nhau của cư dân, cho các ngành kinh tế, các hình thức sản xuất khác nhau.
Trong nhân thân con người nói chung, nghề nghiệp, địa vị xã hội có ảnh
hưởng rất lớn đến hành vi ứng xử của mỗi người và nó thường thể hiện những
phong cách riêng của từng loại người xét theo nghề nghiệp, địa vị xã hội. Theo
thống kê tội phạm, đa số người phạm tội là người không có nghề nghiệp hoặc
nghề nghiệp không ổn định, địa vị trong xã hội rất thấp [31, tr.112]. Đặc biệt là
đối với những người phạm tội thuộc loại tái phạm, tái phạm nguy hiểm thì
thường chỉ số này rất cao.
Nghiên cứu dấu hiệu địa vị xã hội và nghề nghiệp của những người phạm
tội cho thấy, cần phải gắn liền và giải quyết vấn đề tội phạm trong xã hội với vấn
đề giáo dục và đào tạo nghề cho người phạm tội trong quá trình cải tạo, đây là
một trong những giải pháp hạn chế tình trạng tái phạm tội hiện nay.
Hoàn cảnh gia đình: Như chúng ta đã biết, gia đình có chức năng như
chức năng tái sản sinh xã hội; chức năng giáo dục… tất cả các chức năng này có
mối liên hệ mật thiết và tác động lẫn nhau, trong đó chức năng giáo dục là chức
năng cực kỳ quan trọng. Thông qua gia đình, cá nhân học được các quy chuẩn,
chuẩn mực xã hội và các giá trị mà xã hội đề cao. Những yếu tố quan trọng nhất
trong nhân cách của một cá nhân là: nhận thức về chính mình; thái độ; sở thích;
niềm tin; mục đích sống; định hướng giá trị… đều được hình thành trong khuôn
khổ gia đình và thông qua vai trò của thành viên trong gia đình, nhất là bố mẹ.
Những khiếm khuyết của gia đình cộng với những yếu tố khác đã tác động đến
việc thực hiện tội phạm của cá nhân. Người phạm tội thường xuất thân trong
37
những gia đình có một số khiếm khuyết, hạn chế nhất định như sự khó khăn về
kinh tế; hoàn cảnh hôn nhân; gia đình không hạnh phúc; gia đình có sự hạn chế
trong kiểm soát giáo dục, quản lí đối với các thành viên; gia đình có bầu không
khí xung đột căng thẳng kéo dài; sai lệch trong ý thức đạo đức; ý thức pháp luật
và định hướng giá trị… Nghiên cứu về hoàn cảnh gia đình trong nhân thân người
phạm tội thường sẽ lưu ý đến những yếu tố sau:
Quan hệ gia đình: là thông tin phản ánh về tình trạng hôn nhân của người
phạm tội (kết hôn hay chưa, quan hệ vợ chồng còn cái…) và quan hệ với các
thành viên khác trong gia đình như (ông bà, bố mẹ, anh chị em ruột…). Các
nghiên cứu về người phạm tội cho thấy, nhìn chung những người trong gia đình
đã kết hôn phạm tội ít hơn những người chưa có gia đình. Phần lớn các trường
hợp chính nhân tố gia đình đã có tác động tích cực đến cách ứng xử của mỗi
thành viên trong gia đình đồng thời gia đình giữ vai trò kiểm soát, giám sát hành
vi của mỗi thành viên trong gia đình, hạn chế tối đã các hành vi không phù hợp
với chuẩn mực xã hội. Tuy nhiên, có không ít những trường hợp người phạm tội
sống trong gia đình có cơ cấu không hoàn thiện (bố mẹ ly hôn, bố hoặc mẹ chết,
gia đình ly tán….).
Thành phần gia đình: nghiên cứu về thành phần gia đình trong nhân thân
người phạm tội chủ yếu có ý nghĩa trong nghiên cứu các tội phạm xâm phạm an
ninh quốc gia. Những người phạm loại tội này thường xuất thân trong gia đình
có tầng lớp của giai cấp bóc lột cũ hoặc người đã có thời gian làm việc cho chính
quyền cũ bị lật đổ.
Hoàn cảnh kinh tế gia đình: nghiên cứu về hoàn cảnh kinh tế gia đình cho
chúng ta những thông tin về tình trạng kinh tế gia đình của người phạm tội như:
mức thu nhập, nguồn thu nhập; điều kiện nhà ở….nghiên cứu nhân thân người
chưa thành niên phạm tội cho thấy: 79% các em sống trong gia đình đông con;
32,2% sống trong gia đình có hoàn cảnh nghèo đói; 40,7% sống trong gia đình
đủ ăn; 24,6% sống trong gia đình có điều kiện kinh tế khá giả [31, tr.113]. Số
liệu này cho thấy, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khan cũng là một nhân tố đã
đẩy các em vào con đường phạm tội.
Nơi cư trú: Nghiên cứu nơi cư trú của nhân thân người phạm tội có ý
38
nghĩa rất lớn trong công tác phòng ngừa tội phạm. Nơi cư trú tại thành thị hay
nông thôn là nơi có lối sống khác nhau. Thành phố là nơi tập trung cơ sở văn
hóa, chính trị, xã hội. Nhịp sống ở thành phố nhanh hơn, tất cả hoạt động đều
diễn ra khá nhanh, điều này đã tác động đến lối ứng xử buông thả của con người.
Tuy nhiên, ở nông thôn do vẫn ảnh hưởng bởi lối sống văn hóa cộng đồng, mọi
người hầu như biết nhau, đây là một nhân tố mang tính giám sát xã hội, buộc cá
nhân hành xử đều phải hướng đến chuẩn mực chung của cộng động, hành vi cá
nhân bị chế ngự bởi những tục lệ cũng như luật bất hành văn.
Các đặc điểm của đời sống thành thị cũng xác định tính phổ biến khá cao
của một số loại tội phạm. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh, sự gia tăng dân số ở thành
phố không tạo ra sự tăng trưởng của tội phạm ở thành phố đó.
Quan hệ xã hội: Nghiên cứu quan hệ xã hội là việc chúng ta tìm hiểu sự
gắn bó ảnh hưởng qua lại giữa người phạm tội và những người xung quanh. Cụ
thể là mối quan hệ: bạn bè, quan hệ các nhóm, tổ chức đoàn thể…Những thông
tin phản ánh về mối quan hệ xã hội của người phạm tội giúp chúng ta phần nào
lý giải được thái độ, hành vi xử sự của họ trước những tình huống xảy ra trong
thực tiễn cuộc sống, từ đó có tác động tích cực nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi
phạm tội. Đối với người phạm tội, cần chú ý đến quan hệ xã hội bất thường, đây
là căn cứ định hướng điều tra cũng như phòng ngừa tội phạm.
Ngoài những đặc điểm, dấu hiệu kể trên, những dấu hiệu khác thuộc
nhóm đặc điểm, dấu hiệu nhân khẩu học như: dân tộc; tôn giáo… cũng có ý
nghĩa rất lớn trong nghiên cứu nhân thân người phạm tội. Việc chia nhỏ những
dấu hiệu xã hội liên quan đến người phạm tội giúp cho chúng ta hiểu sâu về
người phạm tội, từ đó có các biện pháp đấu tranh thích hợp.
2.1.2.2. Nhóm đặc điểm xã hội - tâm lý
Khi nghiên cứu về nhân thân người phạm tội, bên cạnh đặc điểm xã hội -
nhân khẩu - dấu hiệu bên ngoài, nó chưa thực sự lý giải được vì sao người ta
phạm tội. Để trả lời được câu hỏi này, chúng ta phải đi sâu nghiên cứu mặt bên
trong của tội phạm được thể hiện ở khía cạnh xã hội - tâm lý. Đây là dấu hiệu nổi
bật trong nhân cách con người, có thể nói đây là một đặc điểm quan trọng khi
39
nghiên cứu nhân thân người phạm tội trong tội phạm học.
Đặc điểm phẩm chất đạo đức người phạm tội: Đạo đức là một trong
những yếu tố cấu thành nhân cách con người. Nó không phải là thứ có sẵn ngay
từ khi con người mới sinh ra, mà được hình thành dần dần trong quá trình xã hội
hóa dưới sự tác động của gia đình, nhà trường và xã hội. Phẩm chất đạo đức con
người thể hiện ở hệ thống quan niệm, thái độ, nhận thức của người đó đối với
các giá trị đạo đức xã hội, như đối với đất nước, trong lao động, giữ gìn trật tự xã
hội, trong tập thể và trong cả gia đình. Khi cá nhân định hướng đối với giá trị
nào đó cho là chủ yếu, thì chúng ta có thể đánh giá được khuynh hướng phát
triển của nhân cách. Phẩm chất đạo đức con người thường được bộc lộ ra bên
ngoài thông qua các hành vi, các cách xử sự cụ thể của người đó trong điều kiện
hoàn cảnh thực tế. Nghiên cứu về người phạm tội cho thấy đa số họ có nhận thức
không đúng hoặc không đầy đủ về các giá trị đạo đức xã hội, vì vậy thường có
thái độ tiêu cực đối với các giá trị đó, họ thường đề cao lợi ích cá nhân hơn lợi
ích tập thể.
Con người có thể trở thành người phạm tội do có những tác động xã hội
bất lợi. Những tác động xã hội bất lợi đó được tiếp nhận và ảnh hướng đến quá
trình hình thành thể giới quan, hệ thống quan niệm và thái độ… sau đó họ thể
hiện thông qua hành vi phạm tội. Đương nhiên không nên đồng nhất các phẩm
chất đạo đức của nhân thân với các hiện tượng xã hội (mà có thể được xem là
nguyên nhân phạm tội). Nhưng mối liên hệ qua lại giữa chúng là tất yếu vì thực
chất phẩm chất đạo đức được hình thành của nhân thân người phạm tội là khâu
trung gian giữa các nguyên nhân xã hội nêu trên với bản thân hành vi phạm tội.
Đặc điểm tâm lý cá nhân: ở người phạm tội đặc điểm tâm lý cá nhân thể hiện
ở nhu cầu, thói quen, hứng thú, niềm đam mê, xúc cảm, tình cảm… Những đặc
điểm này cũng tồn tại như những người bình thường khác, tuy nhiên ở người phạm
tội, phần lớn là hệ thống nhu cầu, hướng thú thấp kém, là những thói quen tật xấu.
Tuy nhiên, nguồn gốc của hành vi phạm tội không phải ở bản thân nhu cầu mà là ở
ý thức sai về nhu cầu và con đường thỏa mãn nhu cầu. Nhu cầu của người phạm tội
thường nghiêng về vật chất, vụ lợi và đặc biệt là phương thức để thỏa mãn những
40
nhu cầu, hứng thú đó thường là trái pháp luật, kể cả pháp luật hình sự.
Thế giới quan của người phạm tội đa số cũng lệch lạc, u tối, đặc biệt là sự
xuyên tạc đối với chuẩn mực xã hội. Niềm tin ở người phạm tội phát triển lệch
lạc khác với ở con người bình thường trong xã hội. Niềm tin dã mất hết ý nghĩa
đúng đắn và thiêng liêng giữa con người với nhau, niềm tin đã phát triển lệch lạc
sang hướng khác, ở họ không còn niềm tin ở xã hội, ở mối quan hệ giữa con
người với con người.
Tính cách là yếu tố trong đặc điểm tâm lý cá nhân người phạm tội, tính
cách là hệ thống thái độ biểu hiện qua hệ thống hành vi quen thuộc, thái độ của
người phạm tội thường lệch lạc, đi ngược với chuẩn mực xã hội. Tính cách của
người phạm tội là kết quả của quá trình thực hiện các hoạt động tội phạm, ở
người phạm tội, sự “bình tĩnh” mang tính chất thủ đoạn nhằm né tránh tội khi
khai báo.
Thành tố quan trọng trong đặc điềm cá nhân người phạm tội đó là khí
chất. Khí chất vốn được xem là yếu tố liên quan chặt chẽ với loại hình thần kinh
của con người. Tính ổn định tương đối của khí chất làm cho nó ít chịu tác động
trước hoàn cảnh bên ngoài. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện phạm tội với
những tình huống căng thẳng cản trở việc thực hiện mục đích, nhiều cá nhân
phải điều tiết liên tục hệ thần kinh, khí chất vốn có của mình cho phù hợp với
hiện thực. Vì vậy, có những trường hợp người phạm tội lại có những hành vi
khác xa với hành vi, bản tính hàng ngày mà bậc cha mẹ, người thân không thể
tin rằng con họ lại phạm tội.
Đối với mỗi loại người phạm tội khác nhau thì đặc điểm tâm lý trong họ
cũng khác nhau. Người phạm tội lần đầu có trạng thái tâm lý khác với người tái
phạm tội, tái phạm nguy hiểm; người phạm tội xâm phạm sở hữu có nhu cầu,
hứng thú khác với người phạm tội về ma túy; người phạm tội thuộc các lứa tuổi,
địa vị xã hội khác nhau cũng có những đặc điểm tâm lý khác nhau.
Đặc điểm tâm lý người phạm tội: Đặc điểm tâm lý người phạm tội là yếu
tố lý giải vì sao trong hoàn cảnh nhất định một con người lại thực hiện hành vi
phạm tội. Tâm lý người phạm tội là tất cả những hiện tượng tinh thần nảy sinh
trong đầu óc của người phạm tội, bao gồm hiện tượng tâm lý tích cực và tiêu cực
41
(trong đó có tâm lý tội phạm) điều hành hành vi, hoạt động của họ. Đặc điểm
tâm lý người phạm tội là yếu tố lý giải vì sao trong hoàn cảnh nhất định một con
người lại thực hiện hành vi phạm tội. Tâm lý người phạm tội là tất cả những hiện
tượng tinh thần nảy sinh trong đầu óc của người phạm tội, bao gồm hiện tượng
tâm lý tích cực và tiêu cực (trong đó có tâm lý tội phạm) điều hành hành vi, hoạt
động của họ.
Tâm lý người phạm tội không phải tự có sẵn, không di truyền, mà là kết
quả của quá trình hình thành và phát triển dưới tác động của nhiều yếu tố bên
trong và bên ngoài của cá nhân con người. Quá trình phát triển tâm lý người
phạm tội vừa tuân theo các quy luật chung, vừa tuân theo quy luật của sự hình
thành và phát triển tâm lý tội phạm nói riêng. Tâm lý tội phạm cũng chịu sự chi
phối của các yếu tố thể chất, môi trường sống và hoạt động của cá nhân, như quá
trình xã hội hóa và thích ứng xã hội của họ có khiếm khuyết và sai lệch chuẩn
mực xã hội trong đó có chuẩn mực pháp luật hình sự. Những đặc điểm tâm lý
của người phạm tội được nghiên cứu ở các góc độ: đặc điểm tâm lý cá nhân, đặc
điểm tâm lý xã hội; đặc điểm tâm lý pháp luật của người phạm tội.
Tâm lý pháp luật: đây là vấn đề quan trọng cần được nghiên cứu sâu đối
với người phạm tội. Đặc điểm tâm lý pháp luật trong nhân thân người phạm tội
thể hiện dưới dạng nhận thức pháp luật: thái độ; cảm xúc; hành vi… đối với
pháp luật của người phạm tội. Nhìn chung, người phạm tội có hiểu biết rất thấp
về pháp luật, trong khi đó lại có thái độ không tôn trọng pháp luật và cơ quan
bảo vệ pháp luật. Người phạm tội có niềm tin rằng sẽ trốn tránh được sự trừng
phạt của pháp luật, họ luôn hy vọng cơ quan điều tra sẽ không phát hiện và làm
rõ được hành vi phạm tội của mình.
Tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi không những là căn cứ để xác
định một hành vi nguy hiểm cho xã hội có phải là tội phạm hay không mà còn
dùng làm căn cứ phân loại tội phạm. Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội càng cao thì trách nhiệm hình sự của người thực hiện tội phạm càng
nặng nề. Dựa vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Nghiên cứu động cơ, mục đích thực hiện tội phạm của người phạm tội
góp phần làm rõ nguyên nhân thực hiện tội phạm của họ, đồng thời cũng giúp
42
cho việc đánh giá chính xác tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội đó. Một hành vi có ý thức thể hiện ở sự điểu khiển có chủ định của ý
chí, ở sự hiểu biết bản chất mối quan hệ nhân quả giữa chúng. Chủ thể phải thấy
trước kết quả của hành động mà mình sẽ thực hiện. Mục đích đó do chủ thể đặt
ra và nhận thức như là yếu tố cần thiết và có khả năng thực hiện trong điều kiện
nhất định. Sau khi nhận thức, đặt ra mục đích, chủ thể phân tích điều kiện, hoàn
cảnh thực tế, nghĩa là đưa ra phương án thích hợp để đạt được mục đích. Trên cơ
sở những phương án đó cá nhân cân nhắc, lựa chọn tìm phương án tối ưu nhất
theo chủ quan của mình.
Việc lựa chọn mục đích do động cơ quyết định. Động cơ là động lực thúc
đẩy hành vi của cá nhân. Khi nhu cầu được nhận thức và khả năng thực hiện thì
nó trở thành động cơ. Động cơ và mục đích có liên quan chặt chẽ, nhờ động cơ
thúc đẩy, nên người phạm tội mới hành động quyết liệt để đạt mục đích. Tất cả
trường hợp phạm tội cố ý đều do động cơ nhất định thúc đẩy. Chỉ trong trường
hợp cá nhân vô ý cẩu thả chưa kịp suy nghĩ, thì hành vi của họ không có động cơ
phạm tội rõ ràng.
Động cơ gắn liền với nhân cách người phạm tội, vì vậy, việc phát hiện ra
động cơ phạm tội và nghiên cứu chúng sẽ có ý nghĩa lớn trong việc xác định
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, xác định mức độ nguy hiểm của cá
nhân người phạm tội, dự báo khả năng tái phạm tội của cá nhân.
Sự xuất hiện động cơ và mục đích phạm tội chưa dẫn đến hành vi phạm
tội. Hành vi phạm tội có diễn ra hay không còn phụ thuộc vào hoàn cảnh, tình
huống phạm tội. Tình huống đó không có ý nghĩa quyết định độc lập mà chỉ
củng cố động cơ và mục đích đã được hình thành trước đó và làm xuất hiện ý
định phạm tội. Có thể nói vào thời điểm này mục đích phạm tội nổi lên trên hết,
mọi “ý nghĩa” của cá nhân đều tập trung hướng đến “kết quả” phạm tội. Nghiên
cứu thực tiễn cho thấy, có thể xem xét động cơ mục đích của người phạm tội
trong tổng thể những người phạm tội nói chung hoặc giữa các nhóm người phạm
tội nói riêng thông qua một dấu hiệu nào đó phản ánh mức độ nguy hiểm xã hội
và ngược lại cũng có thể xem xét đánh giá các nhóm người phạm tội trên cơ sở
43
phân biệt tính chất hay động cơ của việc phạm tội.
Như vậy, chúng ta nhận thấy mỗi một người phạm tội đều có những đặc
điểm, dấu hiệu riêng biệt. Tội phạm là kết quả của sự tác động qua lại phức tạp
của nhiều yếu tố, trong đó các đặc điểm nhân thân đóng vai trò quan trọng. Các
đặc điểm nhân thân người phạm tội là kết quả của những điều kiện sống nhất
định, của sự giáo dục, những mối quan hệ và sự ảnh hưởng qua lại giữa mối
trường xã hội và người phạm tội.
2.1.2.3. Các đặc điểm xã hội - pháp lý
Nghiên cứu và phân tích các đặc điểm xã hội - pháp lý của nhân thân
người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội. Đây chính là căn cứ, cơ sở để xác định tội danh,
quyết định hình phạt cho hợp lý. Bênh cạnh đó, nghiên cứu các đặc điểm pháp lý
hình sự của người phạm tội cho phép chúng ta chỉ ra nguyên nhân, điều kiện
phát sinh tội phạm và từ những đặc điểm này để xây dựng hệ thống các biện
pháp phòng ngừa tội phạm.
Đặc điểm xã hội - pháp lý là dấu hiệu để phân biệt giữa người phạm tội và
người không phạm tội. Đặc điểm xã hội - pháp lý của nhân thân người phạm tội
bao gồm: phạm tội lần đầu hay tái phạm, tái phạm nguy hiểm; tính chất, mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội; phạm tội một mình hay có đồng phạm.
Hai nhóm tội phạm mà túy và xâm phạm sở hữu trên thực tế cho thấy là
những đối tượng không có nghề nghiệp ổn định và khi mãn hạn tù thì tái phạm
tội cao hơn các nhóm tội phạm khác. Đối với đối tượng phạm tội ma túy, trong
quá trình chấp hành phạt tù có sự gặp gỡ và lao động cải tạo cùng nhóm tội
phạm khác, mở rộng sự quen biết với các bị cáo khác, trao đổi kinh nghiệm và
chiêu mộ thêm nhiều người vào đường dây của mình để sau khi ra tù móc nối
làm ăn với nhau. Phân tích đặc điểm này ở nhân thân người phạm tội có ý nghĩa
quan trọng đối với phòng ngừa tội phạm, cho phép xác định tỷ lệ tái phạm tội,
bên cạnh đó giúp cho cơ quan quản lý trại giam nắm được cơ chế hình thành các
nhóm phạm nhân có xu hướng phạm tội trong quá trình cải tạo nhằm nâng cao
hơn chất lượng giáo dục cải tạo phạm nhân.
Nghiên cứu tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nhằm xác
44
định tính chất, mức độ tiêu cực của nhân thân người phạm tội thông qua cơ chế
hành vi phạm tội để từ đó phân loại nhân thân người phạm tội và dựa trên cơ sở
đó có những biện pháp phòng ngừa, giáo dục cải tạp hiệu quả hơn.
Để xác định tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội căn cứ
vào quyết định hình phạt như tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng, đặc biệt nghiệm trọng hoặc thông qua các hình thức gián tiếp để xác định
hành vi phạm tội và chuyển biến tâm lý của người phạm tội: hậu quả; thiệt hại;
thủ đoạn; tính chất mức độ lỗi; động cơ mục đích thực hiện hành vi…..
Đối với đặc điểm tội phạm một mình hay có đồng phạm trong việc thực
hiện hành vi phạm tội cũng là căn cứ xác định mức độ nguy hiểm của nhân thân
người phạm tội. Phạm tội một mình là trường hợp phạm tội được thực hiện bởi
một người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt tới độ tuổi quy định của Bộ
luật Hình sự. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cùng thực hiện một
hành vi phạm tội. Tội phạm trong những vụ án có đồng phạm bao giờ cũng thể
hiện tính chất, mức độ nguy hiểm, phạm tội có hệ thống, phạm tội nhằm tăng
khả năng đạt đến mục đích đạt đươc.
2.1.3. Ý nghĩa nghiên cứu nhân thân người phạm tội
Tội phạm là hiện tượng xã hội phát sinh từ sự tác động qua lại giữa các
điều kiện bên ngoài và điều kiện bên trong. Trong toàn bộ hệ thống các quan hệ
đó, nhân thân người phạm tội là một khâu rất quan trọng để đánh giá chính xác
tội phạm. Thực chất của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội nhằm đáp
ứng yêu cầu nghiên cứu tình hình tội phạm, để đưa ra những giải pháp, kiến nghị
giải quyết vấn đề tội phạm trong xã hội. Bản thân việc đánh giá thực trạng, diễn
biến của tình hình tội phạm, dự đoán hướng phát triển và quy mô ảnh hưởng đến
các hiện tượng và quá trình xã hội khác phụ thuộc vào những số liệu đã được
tổng kết về nhân thân người phạm tội nói chung và các loại tội phạm cụ thể nói
riêng. Đó là các số liệu về đặc điểm giới tính, độ tuổi, trình độ văn hóa, đặc điểm
tâm lý. Nghiên cứu về nhân thân người phạm tội có ý nghĩa sau:
2.1.3.1. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội tạo cơ sở cho việc xác định
nguyên nhân và điều kiện của tội phạm
Nghiên cứu nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc
45
xác định nguyên nhân của tội phạm. Nguyên nhân thực hiện tội phạm cụ thể là
khuynh hướng thể hiện tính chống đối xã hội của con người cụ thể, trước hết là
động cơ xử sự của người đo trong sự tác động qua lại với môi trường và hoàn
cảnh cụ thể, thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm.
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu tư sản, nguyên nhân phạm tội về
các đặc điểm sinh học, phủ nhận vai trò của các điều kiện, hoàn cảnh xã hội
trong việc làm phát sinh cách xử sự phạm tội và làm hình thành nên các đặc
điểm của nhân thân người phạm tội, từ đó hướng nghiên cứu nhân thân người
phạm tội vào việc đi sâu phân tích các yếu tố sinh học - yếu tố dẫn đến nguyên
nhân phạm tội.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu xã hội chủ nghĩa đã chỉ ra rằng sự hình
thành và phát sinh các đặc điểm, đặc tính đó là dưới sự tác động của môi trường
xã hội. Con người có thể làm cho các điều kiện xã hội cần thiết thích nghi với
mình và chống lại các điều kiện không có lợi cho bản thân. Với kết quả tác động
của cùng một hoàn cảnh, điều kiện xã hội lại hình thành các loại nhân thân khác
nhau, mỗi con người tiếp nhận hoàn cảnh đó phù hợp với kinh nghiệm mà họ
tích lũy được, với các quan điểm, định hướng về giá trị, nhu cầu và lợi ích của
họ. Xuất phát từ quá trình tác động qua lại giữa con người và môi trường xã hội
trong cả quá trình sống, làm việc và trưởng thành đó, có thể tìm ra nguyên nhân
và điều kiện của tội phạm, tìm ra hoàn cảnh cụ thể đã làm phát sinh ra các phẩm
chất tiêu cực trong con người, dẫn con người đến việc thực hiện tội phạm, từ đó
đưa ra các biện pháp nhằm loại trừ và ngăn chặn những hoàn cảnh bất lợi đó,
không để con người đi vào con đường phạm tội, đồng thời áp dụng những biện
pháp chống và phòng ngừa riêng biệt đối với từng người phạm tội cụ thể.
Việc nhận thức, phân tích các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
phạm không thể thiếu việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội, bản chất, các
đặc điểm và quá trình hình thành nó. “Việc phân tích các nguyên nhân và điều
kiện của tội phạm cụ thể chỉ ra rằng không thể nhận thức, hiểu biết được các
nguyên nhân và điều kiện đó nếu thiếu việc cân nhắc nhân thân người phạm tội”
[86]. Nhân thân người phạm tội với tổng thể các đặc điểm có tác động chi phối
hành vi phạm tội và cũng chính là kết quả của sự tác động qua lại giữa người
46
phạm tội và môi trường xã hội của người phạm tội. Bằng những nghiên cứu tổng
quát về nhân thân người phạm tội và những số liệu về các loại tội phạm góp
phần làm rõ những tác động tiêu cực của môi trường gia đình, nhà trường, môi
trường kinh tế, văn hóa, xã hội vĩ mô đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân
tiêu cực của người phạm tội phạm. Nghiên cứu cụ thể về các đặc điểm và những
yếu tố tác động đến quá trình hình thành các đặc điểm tiêu cực của nhân thân
người phạm tội phạm sẽ cho thấy rõ những nguyên nhân và điều kiện làm phát
sinh hành vi phạm tội.
Nghiên cứu về nhân thân người phạm tội còn giúp hiểu rõ mức độ phổ
biến khác nhau của các loại nhân thân người phạm tội, đặc điểm nhân thân của
nhiều tầng lớp dân cư khác nhau trong sự tác động qua lại với hệ thống các quan
hệ xã hội phức tạp, từ đó có thể phân loại tội phạm, người phạm tội theo từng
nhóm, từng loại có những đặc điểm giống nhau và xác định nguyên nhân, điều
kiện của từng nhóm, loại tội phạm và người phạm tội, phục vụ cho việc áp dụng
phương pháp chống và phòng ngừa theo từng nhóm, loại tội phạm và người
phạm tội nhằm làm giảm đi tình trạng tội phạm trong xã hội.
2.1.3.2. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội tạo cơ sở cho việc xây
dựng biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội.
Nghiên cứu nhân thân người phạm tội là nội dung của nhiều ngành khoa
học khác nhau. Thực tế cho thấy, cuộc đấu tranh chống tội phạm không thể đạt
được kết quả cao nếu các cơ quan trực tiếp làm nhiệm vụ này không hiểu được
đối tượng mà mình đấu tranh có những điểm gì đặc biệt đề từ đó đưa ra biện
pháp phù hợp. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội làm rõ phẩm chất tiêu cực
vốn có của người phạm tội như các đặc điểm tâm lý, quan điểm, nhận thức… có
ý nghĩa rất to lớn về mặt nhận thức.
Đối với người phạm tội, sau khi bản án có hiệu lực là bắt đầu giai đoạn
chấp hành hình phạt tù, đây là giai đoạn thích ứng cực kỳ khó khăn đối với
người phạm tội. Bản chất của quá trình chấp hành án phạt là quá trình cải tạo,
diễn ra đồng thời hai quá trình loại bỏ những phẩm chất nhân cách tiêu cực, đồng
thời hình thành những phẩm chất nhân cách tích cực, phù hợp với chuẩn mực xã
hội. Bên cạnh những biện pháp giáo dục chuyên biệt, còn phải giáo dục phạm
47
nhân bằng các hoạt động rèn luyện tư tưởng, tình cảm, thói quen, hành động tích
cực ở người phạm tội. Việc nắm rõ được đặc điểm nhân thân người phạm tội
giúp cho các bộ giáo dục, cán bộ trại giam phân loại được đối tượng tội phạm và
có những hoạt động cải tạo phù hợp với các đối tượng khác nhau. Nắm bắt được
đặc điểm tâm lý của người phạm tội là căn cứ quan trọng để xác định chế độ cải
tạo, giáo dục phù hợp.
Nghiên cứu nhân thân người phạm tội để có các hình thức, phương pháp
giáo dục, quản lý người phạm tội… một cách phù hợp và hiệu quả. Cần phải dựa
vào đặc điểm nhân thân của người phạm tội để phân loại người phạm tội nhằm
áp dụng các biện pháp giáo dục, cải tạo phù hợp với từng nhóm người với các
đặc điểm nhân thân khác nhau nhằm cải thiện hoặc loại trừ các đặc điểm nhân
thân tiêu cực có vai trò quan trọng đối với việc phát sinh tội phạm, từ đó có thể
giáo dục, cải tạo họ thành người tốt, không tái phạm tội. Nghiên cứu các đặc
điểm nhân thân người phạm tội cũng giúp cho việc tư vấn cho phạm nhân việc
học nghề, chuẩn bị tốt nhất cho quá trình tái hòa nhập.
2.1.3.3. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng
trong dự báo tội phạm và phòng ngừa tội phạm
Nghiên cứu nhân thân người phạm tội góp phần ngăn chặn không để bất
kỳ thành viên nào trong xã hội đi vào con đường phạm tội và phải chịu hình phạt
của pháp luật. Việc nghiên cứu này không chỉ đơn thuần làm rõ điều kiện hoàn
cảnh, nguyên nhân phạm tội, mà còn chỉ ra những điều kiện không thuận lợi cho
sự hình thành nhân cách con người, từ đó ngăn chặn những yếu tố góp phần hình
thành nên những phẩm chất nhân cách tiêu cực ở một số cá nhân.
“Hành vi phạm tội là kết quả không mong đợi của quá trình tương tác giữa
các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống với các yếu tố tâm - sinh lý tiêu cực
bên trong cá nhân chủ thể hành vi đã dẫn tới việc thực hiện hành động hoặc
không hành động mà pháp luật hình sự xem là phạm tội”[6]. Nghiên cứu nhân
thân người phạm tội có thể xác định được những yếu tố tiêu cực từ phía người
phạm tội và những yếu tố tiêu cực từ môi trường xã hội trong sự tác động qua lại
với nhau, hình thành nguyên nhân của tội phạm. Từ đó, có những giải pháp
phòng ngừa tội phạm hiệu quả bằng cách tác động làm hạn chế hoặc loại trừ các
48
tác động tiêu cực từ môi trường sống, qua đó góp phần hạn chế hay loại trừ các
đặc điểm nhân thân tiêu cực của con người, góp phần quan trọng trong phòng
ngừa tội phạm.
2.2. Những hiện tượng xã hội tiêu cực tác động đến quá trình hình
thành nhân thân người phạm tội
Sự hình thành các đặc điểm nhân thân con người là quá trình hình thành
nhân thân người phạm tội tương tác lâu dài giữa các yếu tố khách quan, thuộc
môi trường sống với các yếu tố chủ quan của con người trong quá trình nhận
thức. Quá trình hình thành và phát triển nhân thân con người trong bất cứ xã hội
nào cũng luôn tồn tại hai xu hướng: Tích cực và tiêu cực. Những yếu tố tích cực
thuộc môi trường sống sẽ tác động để hình thành các đặc điểm nhân thân tốt.
Ngược lại, những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống sẽ tác động để hình
thành các đặc điểm nhân thân xấu. Chính các đặc điểm nhân thân tiêu cực trong
sự kết hợp với các tình huống, hoàn cảnh cụ thể sẽ dễ làm phát sinh hành vi
phạm tội.
Đối với nhân thân tích cực, là quá trình tác động qua lại giữa các yếu tố
tích cực tác động lên con người, hình thành lên đặc điểm nhân thân tích cực và
phản ánh môi trường địa lý, môi trường xã hội tích cực mà chủ thể đã và đang
sinh sống. Để đánh giá yếu tố tích cực này thì tiêu chí đánh giá chính là thông
qua hành vi, ứng xử của chủ thể với môi trường xã hội xung quanh.
Đối với nhân thân tiêu cực, đây là quá trình tác động tiêu cực giữa các yếu
tố tác động lên con người. Nhân thân tiêu cực là sản phẩm của quá trình tương
tác giữa các yếu tố tiêu cực tác động lên con người. Nhân thân tiêu cực là sản
phẩm của sự tác động qua lại giữa các yếu tố tiêu cực thuộc về môi trường sống,
những đặc điểm tiêu cực này tiếp tục gặp hoàn cảnh cụ thể sẽ này sinh hành vi
phạm tội. Nhân thân người phạm tội đều phản ánh sự sai lệch của xã hội, của
môi trường sống. Tìm hiểu nguyên nhân vì sao hình thành những đặc điểm nhân
thân tiêu cực của người phạm tội là tìm hiểu về những hiện tượng xã hội tác
động đến quá trình hình thành nhân thân người phạm tội. Những hiện tượng xã
hội này chia thành 2 nhóm đó là những hiện tượng xã hội tiêu cực thuộc về môi
trường sống và nhóm hiện tượng xã hội tiêu cực thuộc về người phạm tội.
49
2.2.1. Những hiện tượng xã hội tiêu cực thuộc về môi trường sống
Môi trường sống là yếu tố quan trọng bao gồm nhiều yếu tố tác động đến
việc hình thành nhân thân người phạm tội. Những hiện tượng xã hội tiêu cực
thuộc về môi trường sống như: vị trí địa lý, văn hoá, giáo dục, kinh tế…. cá nhân
sống trong môi trường đó tương tác hình thành những đặc điểm nhân thân tiêu
cực, được luận giải như sau.
2.2.1.1. Những hiện tượng tiêu cực từ môi trường tự nhiên - địa lý
Môi trường tự nhiên - địa lý là một trong những yêu tố góp phần trong cơ
chế hình thành đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người phạm tội. Những yếu tố tiêu
cực từ môi trường địa lý là “hành chính - lãnh thổ”, nơi mà người phạm tội sinh
sống, nó đặc trưng cho nhân thân người phạm tội gắn liền với nông thôn, đường
lối…. Chính những đặc điểm địa lý từng vùng lãnh thổ tạo nên tính chất riêng
biệt của “địa lý học tội phạm”, nghĩa là tội phạm mang tính vùng, miền khác.
Khu vực Thành phố Hồ Chí Minh với những đặc điểm đặc trưng về khí hậu, điều
kiện vị trí địa lý, lối sống văn hoá cũng như chính sách phát triển kinh tế đã hình
thành đặc điểm nhân thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh,
khác biệt với đặc điểm nhân thân người phạm tội ở các vị trí địa lý khác.
Nghiên cứu các yếu tố tiêu cực từ môi trường tự nhiên - địa lý trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh, tác động hình thành đặc điểm nhân thân tiêu cực ở
người phạm tội có thể đề ra các biện pháp phòng ngừa mang tính đặc trưng riêng
của khu vực địa lý Thành phố Hồ Chí Minh.
2.2.1.2. Những hiện tượng xã hội tiêu cực thuộc về môi trường gia đình
Gia đình giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành và phát
triển nhân cách của mọi cá nhân. Gia đình là đơn vị trung tâm chịu trách nhiệm
đối với việc xã hội hóa ban đầu của cá nhân, là tổ ấm giúp các thành viên ổn
định tư tưởng, giải tỏa sự hụt hẫng, buồn bực xảy ra trong cuộc sống hàng ngày.
Trong thực tế, về cơ bản gia đình đã thực hiện tốt chức năng trong việc xây dựng
nhân cách gốc cho mỗi cá nhân, nhưng vẫn có những gia đình bộc lộ những
nhược điểm, thiếu sót có ảnh hưởng đến các thành viên khác trong gia đình.
Nhân cách của con người được hình thành qua một quá trình giáo dục từ
gia đình đến nhà trường và xã hội. Quá trình hình thành và phát triển nhân cách
50
của mỗi người là khác nhau. Môi trường gia đình hòa thuận, gắn bó, yêu thương,
quan tâm chăm sóc lẫn nhau, có lối sống lành mạnh, văn hóa… sẽ hình thành các
đặc điểm nhân thân tích cực đối với mỗi cá nhân. Ngược lại, môi trường gia đình
khuyết thiếu, quá nuông chiều hay quá nghiêm khắc, thường xuyên đánh, chửi
nhau, gia đình có thành viên vi phạm pháp luật, phạm tội, các thành viên thiếu sự
quan tâm nhau… sẽ hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực đối với mỗi
thành viên trong gia đình, đặc biệt là đối với lứa tuổi thanh thiếu niên. Các yếu tố
tiêu cực từ môi trường gia đình tác động đến hình thành đặc điểm nhân thân
người phạm tội bao gồm:
Thứ nhất, gia đình quá nghiêm khắc hoặc gia đình thiếu sự quan tâm
chăm sóc và giáo dục. Có nhiều trường hợp cha mẹ có đủ kiến thức, điều kiện
nhưng không chú ý đúng mức đến việc giáo dục con cái, bận làm việc không gần
gũi trẻ, phải đi công tác, làm việc trong thời gian dài hoặc chú ý đến việc giáo
dục trẻ, nhưng chưa có phương pháp giáo dục đúng đắn. Điều này dẫn đến làm
cho trẻ không muốn gần gũi cha mẹ mình, tâm lý sợ hãi, cô đơn, thiếu sự chia sẻ,
ngại giao tiếp, chán nản, thấy bất công, đối phó và luôn tìm cách che đậy khuyết
điểm, nói dối để tránh sự trừng phạt, xa lánh mọi người và căm ghét cha mẹ, các
em cảm thấy thiếu nơi nương tựa, tâm lý căng thẳng và thường tìm đến bạn bè để
chia sẻ. Sự nghiêm khắc của cha mẹ nhiều khi làm cho trẻ không dám đòi hỏi vật
chất, từ đó dần hình thành những khát khao về vật chất, như khát khao có đồ
chơi mới, có quần áo mới, có đồ ăn ngon, có đồ dùng mới, có xe đạp, xe máy...
Nhiều trường hợp còn tụ tập bạn bè, rủ nhau đi trộm, cướp, cướp giật để thỏa
mãn nhu cầu vật chất.
Thứ hai, có những gia đình giáo dục con không đúng phương pháp như
nuông chiều, thỏa mãn vô nguyên tắc những đòi hỏi của con, không tập cho con
có thói quen lao động, đặc biệt là gia đình trong cơ chế thị trường hiện nay, từ đó
hình thành ở trẻ thói lười biếng, ích kỷ không ý thức về trách nhiệm, quen được
phục vụ, hưởng thụ, có thói quen đòi hỏi, coi thường giá trị lao động, đề cao lợi
ích cá nhân, thiếu động cơ phấn đấu. Từ chỗ có nhiều thời gian rảnh rỗi, nên
chúng tìm cách lấp chỗ trống bằng cách gia nhập các nhóm tự phát. Ở đó, các
yếu tố tiêu cực có cơ hội len lỏi vào tâm lý của trẻ, lôi khéo trẻ khỏi quỹ đạo của
51
gia đình. Chúng ta biết rằng, trẻ em nhất là khi còn nhỏ, đòi hỏi sự chăm sóc tỉ
mỉ, đầy tình yêu thương của cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình, song
sự yêu thương phải kèm theo với kỷ luật và trách nhiệm.
Đến một lúc nào đó, khi gia đình không thỏa mãn được hoặc không có
điều kiện phục vụ trẻ trở nên bất mãn, thậm chí thù ghét bố mẹ, chúng thường bỏ
nhà đi bụi, tụ tập với bạn bè hư. Nhiều trẻ trộm cắp tài sản của chính bố mẹ mình
hoặc của người khác để thỏa mãn những nhu cầu không chính đáng như đua đòi
ăn diện, đánh bạc, hút chích…
Thứ ba, gia đình có cấu trúc không hoàn hảo, nhất là trong trường hợp bố
mẹ ly dị nhau hoặc cách xa nhau. Việc con cái thiếu người mẹ, sẽ thiếu đi sự
hiện thân của lòng tốt, sự thương cảm, tính nhẫn nại. Thiếu người bố là thiếu hụt
tính cứng rắn, nguyên tắc. Vì vậy, đối với những trẻ thiếu cha hoặc mẹ là thiếu
đi sự hài hòa trong quá trình giáo dục. Trong gia đình như vậy trẻ luôn có tâm
trạng buồn tủi, thiếu niềm tin vào cuộc sống. Đáng lo ngại là những gia đình đối
nghịch với xã hội (bố mẹ vi phạm pháp luật…), gia đình như vậy thường có lối
sống không lành mạnh, có quan điểm sai lệch chuẩn mực xã hội và ảnh hưởng
lớn dến sự hình thành, phát triển nhân cách của con cái.
Thứ tư, hiện nay không ít gia đình chủ quan thiếu trách nhiệm trong việc
giáo dục con cái, ỷ lại cho nhà trường dẫn đến việc buông lỏng giáo dục học tập,
sinh hoạt, lao động. Có những gia đình chỉ lo cho con cái ăn, mặc mà không
quan tâm đến việc hình thành nhân cách của con, do đó không phát hiện kịp thời
những biểu hiện sai lệch để kịp thời uốn nắn.
Thứ năm, gia đình không hạnh phúc, các thành viên thường xuyên đánh,
chửi nhau, không có ai yêu thương, che chắn và bảo vệ, kể cả việc đánh đập
hoặc dùng nhục hình với trẻ. Sống trong môi trường gia đình này, đứa trẻ thường
bị ám ảnh về mặt tinh thần, suy nghĩ mọi việc đều có thể được giải quyết bằng
con đường bạo lực. Điều đó sẽ dẫn đến trẻ bị khủng hoảng về tâm lý, tự ti, khó
hòa nhập, trở lên hung hãn, lỳ lợm, xa lánh mọi người, căm ghét gia đình, thiếu
tôn trọng người khác và ưa bạo lực. Những mâu thuẫn trong gia đình đã đẩy
nhiều trẻ em rơi vào tình trạng hụt hẫng về mọi phương diện, nhiều em không đủ
52
ý chí để vượt qua khó khăn, đã rơi vào trạng thái trầm cảm, rối loạn tâm lý hoặc
bỏ nhà đi lang thang. Khi đã bỏ nhà đi, để có tiền trang trải cuộc sống, trẻ dễ
thực hiện hành vi phạm tội.
Đối với người trưởng thành, gia đình vẫn là một yếu tố cực kỳ quan trọng,
là nơi mỗi người chia sẻ khó khăn trong cuộc sống, là cơ sở để con người thiết
lập và thực hiện các mối quan hệ xã hội. Đồng thời, gia đình còn là một động lực
thúc đẩy mỗi người thể nghiệm các chức năng xã hội của mình, do đó, gia đình
còn là chất keo gắn bó con người với cuộc sống, với những mục tiêu xã hội. Nếu
gia đình mất đi những ý nghĩa chân chính của nó thì chính gia đình sẽ trở thành
yếu tố thúc đẩy cá nhân tham gia vào các nhóm xã hội tiêu cực, tiếp thu những
ảnh hưởng xấu và làm cho nhân cách trở nên méo mó, lệch lạc.
2.2.1.3. Những hiện tượng xã hội tiêu cực thuộc môi trường nhà trường
Môi trường là yếu tố giáo dục thứ hai đóng vai trọng trong việc hình thành
những đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội nói chung. Những thiếu
sót, yếu kém trong giáo dục ở nhà trường ở những khía cạnh như kiến thức văn
hoá, đạo đức lối sống, pháp luật, kỹ năng sống cần thiết. Nhà giáo dục Nga
Xukhômlinxki đã viết: Điều đau khổ đáng sợ nhất đối với gia đình, nhà trường
và xã hội là trẻ em không muốn hiểu biết. Đó là trong bóng tối, trong đó tôi
thoáng nhìn thấy bóng dáng của chiếc ghế bị cáo và bức tường nhà tù xám ngoét.
Nhà trường là chiếc nôi, là nơi thỏa mãn ngày một tốt hơn những nhu cầu muôn
hình, muôn vẽ của học sinh. Do vậy, thời kỳ con người được sống trong môi
trường nhà trường, nhất là lứa tuổi nhỏ, không những tiếp thu được một nền tảng
tri thức của nhân loại mà còn hình thành những phẩm chất nhân cách một cách
hệ thống. Vì lẽ đó, nhà trường đóng một vai trò không kém phần quan trọng đối
với việc hình thành và phát triển nhân cách một cách tích cực và hệ thống. Các
yếu tố tiêu cực từ môi trường giáo dục tác động đến hình thành đặc điểm nhân
thân người phạm tội bao gồm:
Thứ nhất, nhà trường chưa chú trọng giáo dục đạo đức, pháp luật và kỹ
năng sống; chưa chú trọng giáo dục sự tôn trọng tài sản, tính mạng của người
khác. Không được giáo dục tốt, trẻ dễ hình thành đặc điểm nhân thân xấu như
53
coi thường đạo đức, pháp luật, coi thường tài sản, tính mạng của người khác…
và khi gặp những tình huống thuận lợi, trẻ sẽ lựa chọn cách thức xử sự trái đạo
đức, trái pháp luật.
Thứ hai, sự phân biệt đối xử của thầy cô, nội dung học tập nặng nề,
phương pháp không phù hợp, tình trạng bạo lực học đường. Chính những
nguyên nhân trên sẽ hình thành các đặc điểm nhân thân xấu ở trẻ như: Sự bi
quan, chán nản, sự coi thường tri thức, sự bất mãn, thiếu tôn trọng thầy cô giáo,
sự thiếu tôn trọng thậm chí sợ hãi, thù ghét, căm hận bạn bè, thầy cô giáo... từ đó
trẻ dễ buông xuôi, bỏ học, tụ tập bạn bè xấu và nghe theo sự lôi kéo của bạn bè
tham gia vào các tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, chơi game… để có tiền thỏa
mãn các sở thích lệch lạc đó, họ dễ thực hiện hành vi phạm tội.
Thứ ba, sự quản lý lỏng lẻo, không có hoặc có nhưng không đạt hiệu quả về
sự phối hợp giữa nhà trường với gia đình, xã hội trong việc giáo dục trẻ em. Gia đình
thường ỷ lại, giao phó việc quản lý, quan tâm và giáo dục trẻ cho nhà trường, còn nhà
trường lại chỉ thực hiện chức năng truyền thụ kiến thức, mà không có sự giáo dục
toàn diện cho học sinh. Nhiều trường hợp học sinh có những biểu hiện tiêu cực như
thường xuyên trốn học, học hành sa sút, đánh nhau, đua đòi, uống rượu, cờ bạc, chơi
games, thậm chí sử dụng ma túy... nhưng nhà trường và gia đình không quan tâm
theo dõi, quản lý để kịp thời phát hiện và uốn nắn, dẫn đến trẻ chán học, bỏ học, rơi
vào các tệ nạn xã hội và nghe theo sự lôi kéo của bạn bè xấu tham gia vào các băng
nhóm phạm tội để có tiền tiêu xài, thỏa mãn nhu cầu của bản thân.
2.2.1.4. Những hiện tượng xã hội tiêu cực trong các lĩnh vực chính trị -
kinh tế xã hội
Sự bùng nổ phát triển kinh tế xã hội, xây dựng các khu công nghiệp, khu
chế xuất bên cạnh việc giải quyết việc làm, nhưng bên cạnh đó đã làm phát sinh
nhiều hiện tượng tiêu cực như thu hút quá nhiều dân cư các tỉnh lân cận đến làm
việc, không kiểm soát được tình trạng nhập cư, dẫn đến tình trạng trộm cắp,
cướp vặt, lừa đảo… gia tăng. Người lao động di cư chủ yếu là người có trình độ
học vấn thấp, nên thu nhập cũng thấp. Trong khi đó, người nhập cư phải đối mặt
với những chi phí phát sinh như: tiền thuê nhà trọ, tiền điện, nước trả tiền cao
hơn giá nhà nước quy định, để đảm bảo chi tiêu, họ phải sống trong những khu
54
nhà trọ phức tạp, ẩm thấp, nhỏ bé, điều kiện sống không đảm bảo. Khi trẻ sống
trong thành phố nhiều tiện nghi, trẻ thèm khát cuộc sống đầy đủ, ấm no. Khi
mong muốn thỏa mãn về nhu cầu, sở thích của mình. Nếu gia đình thiếu quan
tâm, quản lý trẻ, trẻ rất dễ bị người xấu lợi dụng lôi kéo tham gia các hành vi vi
phạm pháp luật nhất là thỏa mãn nhu cầu vật chất dẫn đến phạm tội.
Bên cạnh đó sự phát triển các trung tâm, mô hình giải trí mới ra đời thu
hút giới trẻ tham gia rất nhiều và chính những khía cạnh tiêu cực của các hoạt
động giải trí này đã góp phần tác động mạnh mẽ đến nhân thân tiêu cực của
người phạm tội nhất là tội trộm cắp, cướp giật. Sự phát triển vượt bậc về công
nghệ thông tin, các dịch vụ viễn thông điện tử cũng như những tiện ích giao dịch
tài chính qua mạng cũng là một những yếu tố tác động đến nhân thân tiêu cực
của người phạm tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản.
2.2.1.5. Những hiện tượng xã hội tiêu cực thuộc về văn hoá, tư tưởng đạo đức
Trong điều kiện giao lưu quốc tế mở rộng, những nền văn hóa và lối sống
của các dân tộc, quốc gia khác nhau đều có tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Đối
với nước ta, những tác động của một số yếu tố văn hóa, lối sống không phù hợp
với truyền thống dân tộc, đang là yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát
triển nhân cách, nhất là đối với thanh thiếu niên. Đời sống văn hóa phong phú,
nhiều giá trị truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa,
đạo đức mới được hình thành. Tuy nhiên, cùng với đó là tình trạng phổ biến, tiếp
thu thiếu chọn lọc những sản phẩm văn hóa không phù hợp từ nước ngoài (băng
đĩa, phim ảnh, sách ảnh đồi trụy, bạo lực, không lành mạnh…); tình trạng suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong xã hội có chiều hướng gia tăng; các
giá trị đạo đức truyền thống bị xói mòn. Bên cạnh đó, hiệu quả của công tác giáo
dục đạo đức, lối sống ở cơ sở, trong cộng đồng dân cư chưa cao và cùng với sự tác
động tiêu cực từ nền kinh tế thị trường đã hình thành ở một bộ phận không nhỏ
người dân có tư tưởng hám lợi, tham lam, ích kỷ, coi trọng vật chất, chây lười lao
động, sống nhanh, sống gấp, coi thường tài sản, tính mạng của người khác… họ lao
vào các hoạt động tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện ma tuý, nghiện rượu, mại
dâm… để có tiền tiêu xài, thỏa mãn sở thích lệch lạc một số đối tượng đã lựa chọn
55
đi vào con đường phạm tội trộm cắp, cướp và cướp giật tài sản…
2.2.1.6. Những hiện tượng tiêu cực trong công tác quản lý
là một cơ chế hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội.
Một trong những yếu kém về mặt quản lý nhân khẩu di cư đến thành phố
Phương thức nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật trong nhân dân hiện nay là tuyên
truyền phổ biến pháp luật, đây là những hoạt động mang tính giáo dục cao, không
những nâng cao hiểu biết của nhân dân về pháp luật còn tạo ý thức tuân thủ pháp
luật của những người phạm tội.
2.2.2. Những hiện tượng tiêu cực thuộc về người phạm tội
Bên cạnh những yếu tố tiêu cực từ môi trưởng sống tác động và hình thành
các đặc điểm nhân thân tiêu cực thì các yếu tố thuộc về người phạm tội được coi
như điều kiện, tiền đề làm gia tăng hình thành đặc điểm nhân thân tiêu cực.
Yếu tố thuộc về người phạm tội là những yếu tố thuộc chính bản thân
người phạm tội. Những khiếm khuyết trong nhân cách của người phạm tội là hệ
quả của một quá trình hình thành những nét tâm lý lệch lạc. “Môi trường bên
ngoài tác động đến các cá nhân nhưng các cá nhân với tư cách là chủ thể của xã
hội luôn nhận thức các hiện tượng, quá trình xã hội phù hợp với đặc điểm tâm sinh
lý của mình để hình thành những quan niệm, quan điểm, tính cách hay lối sống
riêng của mình. Điều đó lý giải cho việc trong những môi trường sống tiêu cực
tương tự nhau nhưng không phải ai cũng hình thành các đặc điểm nhân thân xấu.
Đó là vì các đặc điểm nhân thân được hình thành thông qua một quá trình lâu dài
và phức tạp, hơn nữa lại phụ thuộc vào nhận thức, hiểu biết của từng cá nhân cụ
thể” [63, tr.43]. Các yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội như: trí tuệ; hệ giá trị;
hệ thống các động lực (nhu cầu, hứng thú, lý tưởng); ý thức pháp luật…
2.2.2.1. Sai lệch trong nhu cầu và trong cách thức thoả mãn nhu cầu
Nhu cầu và việc thỏa mãn nhu cầu là động lực thúc đẩy hoạt động, điều
chỉnh hành vi của cá nhân. Nhu cầu của con người rất phong phú và đa dạng, nó
gắn liền với đời sống thực tiễn của mỗi cá nhân. Nhu cầu mang tính cá nhân, nó
khác biệt giữa độ tuổi, hoàn cảnh, công việc… Khi nhu cầu được nhân thức và
so sánh với các điều kiện, công cụ, phương thức thỏa mãn nhu cầu thì đó là lợi
ích. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng nguồn gốc của hành vi phạm tội không phải ở
56
bản thân nhu cầu mà lại ở sự ý thức sai về nhu cầu và con đường thỏa mãn nhu
cầu. Nhu cầu của người phạm tội thường nghiên về vật chất, vụ lợi với phương
thức thỏa mãn lệch chuẩn xã hội.
Mỗi cá nhân trong xã hội đều có những nhu cầu rất khác nhau và thể hiện
trong tất cả các mặt của đời sống, như nhu cầu về kinh tế, chính trị, văn hóa, vật
chất, chức vụ ... Nếu cá nhân có nhu cầu sai lệch thì trong điều kiện, hoàn cảnh
nhất định, cá nhân bắt đầu hướng nhận thức vào việc tìm kiếm cái thỏa mãn nhu
cầu, tức là lợi ích không chính đáng và từ đó sẽ lựa chọn cách thức thỏa mãn nhu
cầu không đúng đắn. Phần lớn những cá nhân có nhu cầu vật chất lớn, vượt quá
khả năng đáp ứng của bản thân, gia đình, họ rất dễ lựa chọn cách thức thỏa mãn
nhu cầu là xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác.
2.2.2.2. Sai lệch trong sở thích cá nhân
Sở thích là những hoạt động thường xuyên hoặc thói quen đem lại cho con
người niềm vui, sự phấn khởi trong cuộc sống. Nếu cá nhân có những sở thích như
đọc sách, xem băng đĩa, vui chơi lành mạnh thì hình thành ở người đó nhân cách
đúng đắn. Ngược lại, cá nhân có sở thích không lành mạnh, tiêu cực như tụ tập ăn
chơi, nghiện rượu chè, ma túy… sẽ hình thành ở cá nhân đó nhân cách lệch lạc như
sống thực dụng, coi trọng vật chất, hưởng thụ, sống nhanh, sống gấp, sống buông
thả, không có hoài bão, không có định hướng, coi thường chuẩn mực đạo đức,...
Đến một lúc nào đó, gặp những hoàn cảnh, tình huống cụ thể họ sẽ không kiềm chế,
kiểm soát được hành vi của mình và lựa chọn cách xử sự không đúng đắn, kể cả
xâm phạm đến tài sản, tính mạng, sức khỏe của người khác.
2.2.2.3. Sai lệch trong ý thức pháp luật của cá nhân
Sai lệch trong ý thức pháp luật cũng là một trong những yếu tố tác động
trong cơ chế làm phát sinh tội phạm. Mỗi cá nhân đều có quan điểm, thái độ,
nhận thức riêng đối với pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật, đối với cơ quan
bản vệ pháp luật. Người phạm tội thường là không hiểu biết hoặc hiểu biết rất ít,
hiểu biết mơ hồ về pháp luật (đa số người phạm tội có trình độ học vấn thấp); có
thái độ thờ ơ, coi thường pháp luật và các cơ quan bảo vệ pháp luật; có xu hướng
chống đối pháp luật và các cơ quan bảo vệ pháp luật (đặc biệt là các trường hợp
57
tái phạm, tái phạm nguy hiểm).
Phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận về địa nhân thân người phạm tội
cho thấy được những đặc điểm rõ ràng của người phạm tội trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh.. Qua đó có thể làm rõ các hiện tượng xã hội đặc trưng của
Thành phố Hồ Chí Minh tác động đến việc hình thành nhân thân người phạm tội
như thế nào, từ đó đề xuất xây dựng các biện pháp nhằm phòng ngừa tình trạng
phạm tội trên địa bàn khu vực này.
2.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội
2.3.1. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội tạo cơ sở cho việc xác
định nguyên nhân và điều kiện của tội phạm
Nghiên cứu nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc
xác định nguyên nhân của tội phạm. Nguyên nhân phát sinh tội phạm cụ thể là
khuynh hướng thể hiện tính chống đối xã hội của con người cụ thể, mà trước hết
là động cơ xử sự của người đo trong sự tác động qua lại với môi trường và hoàn
cảnh cụ thể, thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm.
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu tư sản là nguyên nhân phạm tội
về các đặc điểm sinh học, phủ nhận vai trò của các điều kiện, hoàn cảnh xã hội
trong việc làm phát sinh tội phạm và làm hình thành nên các đặc điểm của nhân
thân người phạm tội, từ đó hướng nghiên cứu nhân thân người phạm tội vào việc
đi sâu phân tích các yếu tố sinh học – yếu tố dẫn đến nguyên nhân phạm tội. Tuy
nhiên, các nhà nghiên cứu xã hội chủ nghĩa đã chỉ ra rằng sự hình thành và phát
sinh các đặc điểm, đặc tính đó là dưới sự tác động của môi trường xã hội. Con
người có thể làm cho các điều kiện xã hội cần thiết thích nghi với mình và chống
lại các điều kiện không có lợi cho bản thân. Tuy nhiên, với kết quả tác động của
cùng một hoàn cảnh, điều kiện xã hội lại hình thành các loại nhân thân khác
nhau. Mỗi con người tiếp nhận hoàn cảnh đó phù hợp với kinh nghiệm mà họ
tích lũy được, với các quan điểm, định hướng về giá trị, nhu cầu và lợi ích của
họ. Xuất phát từ quá trình tác động qua lại giữa con người và môi trường xã hội
trong cả quá trình sống, làm việc và trường thành đó, có thể tìm ra nguyên nhân
và điều kiện của tội phạm, tìm ra hoàn cảnh cụ thể nào đã làm phát sinh ra các
phẩm chất tiêu cực trong con người, dẫn con người đến việc thực hiện tội phạm,
58
và từ đó đưa ra các biện pháp nhằm loại trừ và ngăn chặn những hoàn cảnh bất
lợi đó, không để con người đi vào con đường phạm tội, đồng thời áp dụng những
biện pháp chống và phòng ngừa riêng biệt đối với từng người phạm tội cụ thể.
Việc nhận thức, phân tích các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
phạm không thể thiếu việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội, bản chất, các đặc
điểm và quá trình hình thành nó. “Việc phân tích các nguyên nhân và điều kiện của
tội phạm cụ thể chỉ ra rằng không thể nhận thức, hiểu biết được các nguyên nhân
và điều kiện đó nếu thiếu việc cân nhắc nhân thân người phạm tội”[86, tr.124].
Nhân thân người phạm tội với tổng thể các đặc điểm có tác động chi phối hành vi
phạm tội và cũng chính là kết quả của sự tác động qua lại giữa người phạm tội và
môi trường xã hội của người phạm tội. Bằng những nghiên cứu tổng quát về nhân
thân người phạm tội và những số liệu về các loại tội phạm góp phần làm rõ những
tác động tiêu cực của môi trường gia đình, nhà trường, môi trường kinh tế, văn hóa,
xã hội vĩ mô đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội
phạm. Nghiên cứu cụ thể về các đặc điểm và những yếu tố tác động đến quá trình
hình thành các đặc điểm tiêu cực của nhân thân người phạm tội phạm sẽ cho thấy rõ
những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh hành vi phạm tội.
Nghiên cứu về nhân thân người phạm tội còn giúp chúng ta hiểu rõ mức
độ phổ biến khác nhau của các loại nhân thân người phạm tội, đặc điểm nhân
thân của nhiều tầng lớp dân cư khác nhau trong sự tác động qua lại với hệ thống
các quan hệ xã hội phức tạp, từ đó có thể phân loại tội phạm, người phạm tội
theo từng nhóm, từng loại có những đặc điểm giống nhau và xác định nguyên
nhân, điều kiện của từng nhóm, loại tội phạm và người phạm tội, phục vụ cho
việc áp dụng phương pháp chống và phòng ngừa theo từng nhóm, loại tội phạm
và người phạm tội nhằm làm giảm đi tình trạng tội phạm trong xã hội.
2.3.2. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội tạo cơ sở cho việc xây
dựng biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội
Nghiên cứu nhân thân người phạm tội là nội dung của nhiều ngành khoa
học khác nhau. Thực tế cho thấy, cuộc đấu tranh chống tội phạm không thể đạt
được kết quả cao nếu các cơ quan trực tiếp làm nhiệm vụ này không hiểu được
đối tượng mà mình đấu tranh có những điểm gì đặc biệt đề từ đó đưa ra biện
59
pháp, chiến thuật phù hợp. Vì vậy, nghiên cứu nhân thân người phạm tội làm rõ
phẩm chất tiêu cực vốn có của người phạm tội như các đặc điểm tâm lý, quan
điểm, nhận thức… có ý nghĩa rất to lớn về mặt nhận thức.
Đối với người phạm tội, sau khi bản án có hiệu lực họ bắt đầu giai đoạn
chấp hành án phạt tù, có lẽ đây là giai đoạn thích ứng cực kỳ khó khăn đối với
người phạm tội. Bản chất của quá trình chấp hành án phạt là quá trình cải tạo,
diễn ra đồng thời hai quá trình loại bỏ những phẩm chất nhân cách tiêu cực, đồng
thời hình thành những phẩm chất nhân cách tích cực, phù hợp với chuẩn mực xã
hội. Bên cạnh những biện pháp giáo dục chuyên biệt, cơ quan thi hành án còn
giáo dục phạm nhân bằng các hoạt động nhằm rèn luyện những tư tưởng, tình
cảm, thói quen, hành động tích cực ở người phạm tội. Việc nắm rõ được đặc
điểm nhân thân người phạm tội sẽ giúp cho các bộ giáo dục, cán bộ trại giam
phân loại được đối tượng tội phạm và có những hoạt động cải tạo phù hợp với
các đối tượng khác nhau. Nắm bắt được đặc điểm tâm lý của người phạm tội sẽ
là căn cứ quan trọng để xác định chế độ cải tạo, giáo dục phù hợp.
Nghiên cứu nhân thân người phạm tội để có các hình thức, phương pháp
giáo dục, quản lý người phạm tội… một cách phù hợp và hiệu quả. Cần phải dựa
vào đặc điểm nhân thân của người phạm tội để phân loại người phạm tội nhằm
áp dụng các biện pháp giáo dục, cải tạo phù hợp với từng nhóm người với các
đặc điểm nhân thân khác nhau nhằm cải thiện hoặc loại trừ các đặc điểm nhân
thân tiêu cực có vai trò quan trọng đối với việc phát sinh tội phạm, từ đó có thể
giáo dục, cải tạo họ thành người tốt, không tái phạm tội. Nghiên cứu các đặc
điểm nhân thân người phạm tội cũng giúp cho việc tư vấn cho phạm nhân việc
học nghề, chuẩn bị tốt nhất cho quá trình tái hòa nhập.
2.3.3. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng
trong dự báo tội phạm và phòng ngừa tội phạm
Nghiên cứu nhân thân người phạm tội góp phần ngăn chặn không để bất
kỳ thành viên nào trong xã hội đi vào con đường phạm tội và phải chịu hình phạt
của pháp luật. Việc nghiên cứu này không chỉ đơn thuần làm rõ điều kiện hoàn
cảnh, nguyên nhân phạm tội, mà còn chỉ ra những điều kiện không thuận lợi cho
sự hình thành nhân cách con người, từ đó ngăn chặn những yếu tố góp phần hình
60
thành nên những phẩm chất nhân cách tiêu cực ở một số cá nhân.
“Hành vi phạm tội là kết quả không mong đợi của quá trình tương tác
giữa các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống với các yếu tố tâm - sinh lý tiêu
cực bên trong cá nhân chủ thể hành vi đã dẫn tới việc thực hiện hành động hoặc
không hành động mà pháp luật hình sự xem là phạm tội”[6, tr.101]. Nghiên cứu
nhân thân người phạm tội có thể xác định được những yếu tố tiêu cực từ phía
người phạm tội và những yếu tố tiêu cực từ môi trường xã hội trong sự tác động
qua lại với nhau, hình thành nguyên nhân của tội phạm. Từ đó, có những giải
pháp phòng ngừa tội phạm hiệu quả bằng cách tác động làm hạn chế hoặc loại
trừ các tác động tiêu cực từ môi trường sống, qua đó góp phần hạn chế hay loại
trừ các đặc điểm nhân thân tiêu cực của con người, góp phần quan trọng trong
phòng ngừa tội phạm.
Kết luận chương 2
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội có ý nghĩa
lớn trong việc định hướng nghiên cứu về nhân thân người phạm tội trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh. Từ những vấn đề lý luận trên, nghiên cứu sinh so sánh,
đánh giá với những luận điểm cần triển khai nghiên cứu trên thực tiễn địa bàn
nghiên cứu. Thông qua tìm hiểu nghiên cứu các vấn đề lý luận, từ những điểm
chung thống nhất cũng như những luận điểm còn đang còn những điểm chưa
thống nhất, nghiên cứu sinh làm sáng tỏ những vấn đề lý luận sau:
Một là, nghiên cứu sinh đã phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về nhân
thân người phạm tội, trong đó đưa ra khái niệm: “Nhân thân người phạm tội là
người có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự
quy định là tội phạm, được hiểu là tổng thể các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về
mặt xã hội, trong sự kết hợp với hoàn cảnh điều kiện bên ngoài tác động dẫn đến
hành vi phạm tội”. Trên cơ sở khái niệm về nhân thân người phạm tội, nghiên
cứu sinh đã xác định được đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và nền
tảng lý luận cơ bản.
Hai là, nghiên cứu sinh đã chỉ ra một số đặc điểm về nhân thân người
phạm tội và chỉ ra được quy luật hay mối quan hệ nhân quả của hành vi phạm tội
từ đó mới chỉ ra được những hiện tượng xã hội tiêu cực nào tác động đến việc
61
hình thành những đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người phạm tội. Qua đó còn cho
thấy mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong nhân
thân người phạm tội, qua nghiên cứu lý luận nghiên cứu sinh có rút ra được 03
nhóm đặc điểm nhân thân cơ bản của người phạm tội: Đặc điểm xã hội – nhân
khẩu; đặc điểm về xã hội – tâm lý; đặc điểm xã hội - pháp lý.
Ba là, trên cơ sở lý luận về đặc điểm nhân thân người phạm tội, nghiên
cứu sinh tìm hiểu và xác định những hiện tượng xã hội tiêu cực tác động hình
thành đặc điểm nhân thân người phạm tội và nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm
tội. Từ đây tìm hiểu được nguyên nhân vì sao hình thành nhân thân người phạm
tội, có hai nhóm nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội đó là những hiện tượng
xã hội khách quan và những hiện tượng chủ quan thuộc về môi trường sống của
người phạm tội.
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội là
cơ sở để nghiên cứu sinh đánh giá được thực tiễn về nhân thân người phạm tội
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh sẽ có những đặc điểm đặc trưng cụ thể nào,
Từ những đặc điểm đặc trưng này nghiên cứu sinh xây dựng các biện pháp hiệu
quả trong công tác phòng ngừa tội phạm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
62
trong giai đoạn sắp tới.
Chương 3
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG HIỆN TƯỢNG TIÊU CỰC TÁC ĐỘNG
HÌNH THÀNH NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. Thực trạng tình hình tội phạm tại Thành phố Hồ Chí Minh
3.1.1. Thực trạng (mức độ) của tình hình tội phạm tại Thành phố Hồ
Chí Minh
Thực trạng (mức độ) của tình hình tội phạm trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh giai đoạn 2009 - 2018 được xác định thông qua tổng số tội phạm và
số người thực hiện hành vi phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai
đoạn 2009 - 2018. Tình hình tội phạm được xem xét gồm cả tội phạm rõ và tội
phạm ẩn. Tội phạm rõ được nhận thức thông qua tổng số hành vi phạm tội và
số người phạm tội đã bị xét xử bằng một bản án và có trong thống kê xét xử
của ngành Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, chiếm số lượng án nhiều nhất trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh so với các nhóm tội khác là tội xâm phạm sở hữu và các tội về ma túy, là
hai nhóm tội điển hình, chiếm tỷ lệ nhiều nhất, đồng thời cũng rất đặc trưng tại
Thành phố Hồ Chí Minh, nên tác giả tập trung nghiên cứu nhân thân người phạm
tội trên hai nhóm tội này. Thực trạng của tình hình tội xâm phạm sở hữu và tội ma
túy trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2009-2018 được xác định
thông qua toàn bộ số tội phạm hình sự trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong
giai đoạn 2009 -2018 với số vụ án đã được phát hiện xử và xử lý qua công tác xét
63
xử hai cấp của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (tội phạm rõ).
Bảng 3.1. Thực trạng (mức độ) của tình hình tội phạm tại Thành phố
Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 - 2018
Tội phạm khác Các tội về ma túy
Năm
Tổng số bị cáo Các tội xâm phạm sở hữu Số bị Số vụ cáo án Số vụ án Số bị cáo Số vụ án Số bị cáo
5203 5397 5516 5962 6037 6189 6108 6598 7099 7105 1704 1856 1876 1883 2506 2156 2457 2453 2541 2589 1715 1873 1906 1899 2556 2182 2472 2459 2545 2601 2219 2187 2378 2287 1987 2276 2731 2039 2897 3002 2224 2198 2386 2292 1993 2278 2748 2045 2903 3017 1280 1354 1262 1792 1994 1757 920 2106 1661 1514 1264 1326 1224 1771 1488 1729 888 2094 1651 1487 Tổng số vụ án hình sự 5113 5267 5472 5712 5979 6222 6041 6422 6782 6799
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Tổng 59.609 61.214 21.571 22.208 24.003 24.084 15.640 15.922
(Nguồn: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh)
Qua bảng thống kê 3.1, cho thấy giai đoạn 2009 - 2018, tổng số vụ án
hình sự đã xét xử hai cấp của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là
59.609 vụ, trong đó số vụ án về các tội ma túy có tỉ lệ cao nhất với 24.003 vụ
chiếm 40,26%; các tội xâm phạm sở hữu đứng thứ 2 với tỉ lệ 36,18% với
21.571 vụ; các loại tội phạm hình sự còn lại là 15.640 vụ, chiếm 26,13%. Từ
số liệu thống kê này cho thấy, trong tổng số người phạm tội trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 - 2018, số người phạm các tội phạm về ma
túy, các tội xâm phạm sở hữu chiếm số lượng gần như tuyệt đối là 76,45%. Do
đó, để phòng chống có hiệu quả tình hình tội phạm trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh cần tập trung nghiên cứu phòng ngừa có hiệu quả các tội phạm về
ma túy và các tội xâm phạm sở hữu.
3.1.2. Động thái của tình hình tội phạm tại Thành phố Hồ Chí Minh
Động thái hay còn gọi là diễn biến của tình hình tội phạm “là sự phản ánh
64
xu hướng tăng, giảm hoặc ổn định tương đối của tội phạm nói chung (một tội
hoặc nhóm tội phạm) xảy ra trong khoảng thời gian nhất định và trên một địa
bản nhất định” [24].
Nhìn chung, số lượng vụ án hình sự trong 10 năm qua tại Thành phố Hồ
Chí Minh không có xu hướng giảm, mà tăng đều qua các năm, mỗi năm tăng
khoảng 1.000 vụ án chiếm hơn 10% đến 12%. Số liệu cho thấy diễn biến của
tình hình tội phạm tại Thành phố Hồ Chí Minh phản ánh sự phức tạp và có chiều
hướng gia tăng qua mỗi năm.
Bảng 3.2. Thống kê số lượng người phạm tội trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 – 2018
Các tội phạm khác Tội phạm nói chung Các tội xâm phạm sở hữu Các tội phạm về ma túy Năm
SL 2009 5203 2010 5397 2011 5516 2012 5962 2013 6037 2014 6189 2015 6108 2016 6598 2017 7099 2018 7105 Tổng 61.214 Tỷ lệ 100% Tỷ lệ % 100 103,72 106,01 114,58 116,02 118,95 117,39 126,81 136,44 136,55 - - SL 1715 1873 1906 1899 2556 2182 2472 2459 2545 2601 22.208 36,27 Tỷ lệ % 100 105,28 107,13 106,74 143,67 122,65 138,95 138,22 143,05 146,20 - Tỷ lệ % 100 94.,57 102,66 98,62 85,75 98,02 118,24 87,99 124,91 129,81 - SL 1264 1326 1224 1771 1488 1729 888 2094 1651 1487 15.922 25,59 SL 2224 2198 2386 2292 1993 2278 2748 2045 2903 3017 24.084 39,34
Tỷ lệ % 100 103,59 98,59 140 155,78 137,26 71,87 164,53 129,76 118,28 - (Nguồn: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh)
Với bảng trên, cho thấy sự tăng giảm về số lượng vụ án ma túy và xâm
phạm sở hữu, và các loại tội phạm hình sự khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh giai đoạn 2009 - 2018, số lượng vụ án có xu hướng tăng đều qua các năm,
có một số năm giảm nhưng không đáng kể. Số lượng vụ án về tội ma túy nhiều
nhất, nhưng trong một số năm lại giảm đáng kể qua các năm. Còn số lượng vụ án
65
về các tội xâm phạm sở hữu có xu hướng tăng đều qua các năm.
Biểu đổ 3.1. Động thái tình hình tội phạm về Ma túy, nhóm tội xâm phạm sở
hữu tại Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 - 2018
3.1.3. Cơ cấu của tình hình tội phạm tại Thành phố Hồ Chí Minh giai
đoạn 2009 – 2018
“Cơ cấu về tình hình tội phạm là tỷ trọng, mối tương quan giữa nhân tố bộ
phận và tổng thể của tình hình tội phạm theo tiêu thức (tiêu chí) nhất định trong
khoảng thời gian và địa bàn nhất định” [25]. Có nhiều cách tiếp cận nghiên cứu
cơ cấu về tình hình tội phạm khác nhau, trong giới hạn chương này, tác giả
nghiên cứu cơ cấu tình hình tội phạm theo: cơ cấu tội danh; cơ cấu theo loại tội;
cơ cấu theo phương thức thực hiện tội phạm.
3.1.3.1. Cơ cấu theo tội danh
Cơ cấu theo tội danh cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự, loại cơ
cấu này thường được xác định khi nghiên cứu tình hình tội phạm của nhóm xã
hội nào đó.
* Nhóm tội phạm về ma túy
Cơ cấu theo tội danh của các tội phạm về ma túy có mức độ phổ biến cao
nhất trong cả giai đoạn là tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
theo Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 với 19.377
66
vụ, chiếm tỷ lệ 70,29% trong tổng số các tội phạm về ma túy; còn lại là tội phạm
về ma túy có mức độ phổ biến thấp, chiếm 3,7% trong tổng số các tội phạm về
ma túy, cụ thể: Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý (Điều 198 Bộ
luật Hình sự năm 1999) chiếm tỷ lệ 2,3%; tội sản xuất trái phép chất ma túy
(Điều 193 Bộ luật Hình sự năm 1999) chỉ chiếm tỷ lệ 1,4%.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong 534 bản án với 775 bị cáo phạm tội về
ma túy, có 378 vụ án và 498 bị cáo phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, chiếm
tỷ lệ cao nhất 70,71% số vụ và 66,0% số bị cáo; có 97 vụ án và 149 bị cáo phạm tội
tàng trữ trái phép chất ma túy, chiếm tỷ lệ 18,16% số vụ và 19,73% số bị cáo; có 59
vụ và 108 bị cáo phạm tội vận chuyển trái phép chất ma túy, chiếm tỷ lệ 7,81% số
vụ và 14,3% số bị cáo; có 103 vụ và 158 bị cáo phạm nhiều tội chiếm tỷ lệ 19,2%
số vụ và 20,9% số bị cáo. Trường hợp phạm nhiều tội, có vụ có mức độ nghiêm
trọng đáng kể, song chủ yếu kèm theo hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm
mục đích sử dụng của bản thân người phạm tội (chiếm tỷ lệ 19,2%).
* Nhóm tội xâm phạm sở hữu
Theo số liệu thống kê, giai đoạn 2009 - 2018, trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh xảy ra 21.571 vụ án xâm phạm sở hữu (trung bình mỗi năm xảy ra
khoảng 2.000 vụ). Số vụ án qua các năm chủ yếu tăng lên, chiếm tỷ lệ lớn nhất
trong số vụ án nói trên là tội “trộm cắp tài sản” (chiếm 53,51%), tiếp đó là tội
“cướp giật tài sản” (chiếm 15.41%); “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (chiếm 3,7%),
“lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” (chiếm 3,01%); “cưỡng đoạt tài sản”
(chiếm 2,39 %); “bắt cóc chiếm đoạt tài sản” (chiếm 1,94%)...
Nghiên cứu 578 bản án với 791 bị cáo phạm tội về xâm phạm sở hữu, có
412 vụ và 572 bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản chiếm tỉ lệ cao nhất chiếm 71,28
% số vụ và 72,31 số bị cáo; có 103 vụ và 125 bị cáo phạm tội cướp giật tài sản
chiếm 17,82 % và 15,80%; có 63 vụ và 94 bị cáo phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản chiếm 10,89% số vụ và 11,90% số bị cáo phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
* Nhóm tội phạm khác
Bên cạnh hai nhóm tội phạm điển hình thì trong giai đoạn 2009 - 2018,
67
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh xảy ra 15.640 vụ án, chiếm tỉ lệ 26,26%
tổng số vụ án hình sự trên địa bàn. Các tội phạm còn lại thì nhóm tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe nhân phẩm chiếm 73,24% và đặc biệt là tội phạm giết
người. Thành phố Hồ Chí Minh có số vụ án giết người cao hơn các tỉnh khác do
các nguyên nhân chủ yếu: Là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước với các hoạt động
kinh doanh, đầu tư đa dạng; dân số tập trung đông, số lượng người ngoài thành phố
đến cư trú, tạm trú, nhiều trường hợp không khai báo với chính quyền địa phương
nên khó kiểm soát. Đây cũng là nơi các băng nhóm giang hồ, bảo kê hoạt động
mạnh hoặc bị các bang nhóm khác thanh toán nên đến Thành phố Hồ Chí Minh để
lẩn trốn. Tỷ lệ tội phạm ở các vùng ven (các huyện ngoại thành) thành phố cao do
quanh đây là các khu công nghiệp, khu chế xuất. Việc lẩn trốn sau khi gây án thuận
lợi cả về đường hàng không, đường thủy, đường sắt và đường bộ.
3.1.3.2. Cơ cấu theo loại tội
Cơ cấu theo loại tội phạm: tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất
nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định Bộ Luật Hình sự.
Phân tích số liệu thống kê hình sự đối với 61.214 bị cáo phạm tội hình sự đã
xét xử giai đoạn 2009 - 2018 cho thấy, có khoảng 1/3 (chiếm 34,89%) số bị cáo phạm
tội thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng; tội phạm
nghiêm trọng chiếm tỷ lệ 16,93%; tội phạm ít nghiêm trọng chiếm tỷ lệ cao nhất
48,16%. Số liệu này phản ánh tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn.
Trong những năm 2009 – 2018, Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
đã xét xử 24.084 bị cáo phạm tội ma túy cho thấy, có 11.935 số bị cáo phạm tội
nghiệm trọng chiếm 46,69%; có 7.853 số bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng chiếm
30,72% và 5.769 bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng
chiếm 22,57%. Thực tiễn nghiên cứu hồ sơ vụ án ma túy cho thấy tội phạm ma
túy ngày càng diễn biến phức tạp và với hình thức tinh vi hơn, khi phát hiện vụ
án có nhiều người tham gia thì thường là người phạm tội có tâm lý dựa vào sức
mạnh tập thể, có hành động liều lĩnh hơn và có khả năng gây hậu quả lớn hơn
nhằm che giấu tội phạm.
Đối với các tội xâm phạm sở hữu, giai đoạn 2009 - 2018, tại Thành phố
68
Hồ Chí Minh đã xét xử 22.208 bị cáo phạm tội xâm phạm sở hữu cho thấy có
8756 bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng chiếm 39,15%;
có 7513 bị cáo phạm tội nghiêm trọng chiếm 33,59% và có 6094 bị cáo phạm tội
ít nghiêm trọng chiếm 27,25%. Số liệu này cho thấy số lượng bị cáo phạm đội
rất nghiệm trọng và đặc biệt nghiêm trọng chiếm 1/3 tổng số bị cáo phạm tội
xâm phạm sở hữu điều này cho thấy mức độ nghiêm trọng của loại tội phạm này.
3.1.3.3. Cơ cấu theo phương thức thực hiện tội phạm
Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh, những vụ án có tính chất đồng phạm chiếm 40%, đặc biệt là các tội cướp
tài sản, cố ý gây thương tích, trộm cắp, gây rối trật tự công cộng có tỉ lệ đồng
phạm lên đến hơn 75%. Điều này cho thấy tình hình tội phạm tại Thành phố Hồ
Chí Minh có tính chất, mức độ nguy hiểm khá cao bởi thông thường, những vụ
phạm tội có đồng phạm sẽ có tính chất, mức độ nguy hiểm cao hơn nhiều so với
những trường hợp phạm tội đơn lẻ.
Theo số liệu thống kê của Công an Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh,
giai đoạn 2009 - 2018, người phạm tội về ma túy có sử dụng, công cụ, phương
tiện phạm tội chiếm tỷ lệ cao, với 90% tổng số các vụ án. Trong đó, công cụ,
phương tiện phạm tội đa số là xe máy, xe ô tô, điện thoại di động… Các đối
tượng hoạt động phạm tội về ma túy gần đây có nhiều phương thức, thủ đoạn
tinh vi, xảo quyệt nhằm che giấu và đối phó với lực lượng chức năng như: Gắn
camera trước nhà để quan sát khi phát hiện lực lượng công an thì tiêu hủy ma
túy; giấu ma túy vào vùng kín trên cơ thể; sử dụng các trang mạng xã hội để liên
lạc giao dịch; đối tượng phạm tội không trực tiếp giao dịch mà để ma túy ở địa
điểm nào đó rồi mới thông báo cho người mua; sử dụng trẻ em, phụ nữ mang
thai đi giao dịch, vận chuyển ma túy.
Theo số liệu thống kê, giai đoạn 2009 - 2018, trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh xảy ra 22.208 vụ án xâm phạm sở hữu, trung bình mỗi năm xảy ra
khoảng 2.000 vụ. Số vụ án qua các năm chủ yếu tăng lên, chiếm tỷ lệ lớn nhất
trong số vụ án nói trên là “trộm cắp tài sản”. Thực tế này phần nào phản ánh tính
chất manh động, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của người phạm tội và cả những yếu
69
tố thuộc về người bị hại như sự nhẹ dạ cả tin, sự lơi lỏng, sơ hở trong quá trình
quản lý, chiếm giữ và sử dụng tài sản, tạo điều kiện thuận lợi để người phạm tội
thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm quyền sở hữu tài sản. Nghiên cứu 100 hồ
sơ vụ án xâm phạm sở hữu cho thấy: Các đối tượng thực hiện hành vi phạm tội
cả ngày lẫn đêm, thống kê về thời gian xảy ra các vụ án xâm phạm sở hữu trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2008 - 2017 cho thấy, thời gian gây
án của các đối tượng trong các vụ án xâm phạm sở hữu xảy ra quanh năm và ở
bất kỳ thời điểm nào trong ngày (cả ngày lẫn đêm). Cụ thể, từ 0 giờ đến 12 giờ
xảy ra 9 vụ, chiếm tỷ lệ 13,43%; từ 12 giờ đến 16 giờ xảy ra 6 vụ, chiếm tỷ lệ
8,95%; từ 16 giờ đến 20 giờ xảy ra 37 vụ, chiếm tỷ lệ 55,22%; từ 20 giờ đến 24
giờ xảy ra 15 vụ, chiếm tỷ lệ 22,38%. Như vậy, số vụ án xâm phạm sở hữu xảy
ra nhiều nhất vào khoảng thời gian từ 16 giờ đến 24 giờ, đây là thời gian nghỉ
ngơi sau ngày làm việc, thường có các hoạt động đi lại giao lưu, ăn uống, nên
thường thiếu cảnh giác trong việc bảo quản tài sản. Đây cũng là thời điểm thuận
lợi mà thủ phạm thường chọn để trốn thoát sau khi gây án. Tội phạm thường xảy
ra ở khu vực dân cư sinh sống (qua hồ sơ các vụ án giai đoạn 2009 - 2018 có tỷ
lệ 61,19%); địa điểm gây án ở trung tâm quận, huyện, nơi công cộng, các quán
nhậu, quán cà phê, tụ điểm vui chơi giải trí là 33 vụ (chiếm tỷ lệ 49,25%), gây án
xảy ra ở các tuyến trọng điểm là 18 vụ (chiếm tỷ lệ 26,86%).
Số vụ không có sự chuẩn bị chiếm tỷ lệ 64,17% (42 vụ), các đối tượng
thực hiện bột phát bất ngờ, dùng nhiều thủ đoạn để thực hiện hành vi chiếm đoạt
tài sản, thường sử dụng những công cụ sẵn có ở hiện trường để gây án, không có
thời gian lựa chọn phương pháp, thủ đoạn gây án, lợi dụng những sơ hở của nạn
nhân, điều kiện tự nhiên sẵn có tại hiện trường để gây án. Số vụ có giai đoạn
chuẩn bị gây án chiếm tỷ lệ 35,82% (24 vụ), các đối tượng thường lợi dụng vào
điều kiện, hoàn cảnh khách quan, lựa chọn thời điểm thuận lợi như khi nạn nhân
sơ hở, mất cảnh giác, vắng người để nhanh chóng tiếp cận chiếm đoạt tài sản, rồi
nhanh chóng tẩu thoát khỏi nơi gây án mà không bị phát hiện, truy đuổi. Tuy
nhiên, có nhiều vụ dù không có sự chuẩn bị từ trước, nhưng thủ phạm luôn có
sẵn công cụ, phương tiện gây án trong người để có thể thực hiện hành vi phạm
70
tội ngay lập tức. Trong các vụ án xâm phạm sở hữu mà giữa thủ phạm và nạn
nhân có mối quan hệ quen biết từ trước thì thường có giai đoạn chuẩn bị phạm
tội và ngược lại. Nếu có mối quan hệ quen biết (thân thích, hàng xóm láng giềng
hoặc bạn bè, đối tác làm ăn), thì việc thực hiện tội phạm lại diễn ra công khai, có
nhiều người chứng kiến. Đối với vụ án mà người phạm tội không quen biết nạn
nhân, thường các đối tượng bất ngờ gây án rồi nhanh chóng rút khỏi hiện trường
nhằm tránh sự nhận diện của nạn nhân và những người khác.
Bên cạnh đó, đối tượng thường sử dụng hung khí để gây án. Thủ phạm sử
dụng các công cụ, phương tiện gây án rất đa dạng tùy thuộc vào từng đối tượng,
từng nhóm đối tượng thực hiện hành vi xâm phạm sở hữu. Số vụ mà các đối tượng
dùng sức mạnh chân, tay để phạm tội chỉ chiếm 17,91% (13 vụ), còn lại là sử
dụng các loại vũ khí, hung khí, trong đó số vụ án mà các đối tượng sử dụng roi
điện, dao, kiếm, mã tấu, búa, cuốc, xẻng, chai lọ thủy tinh để phạm tội là 33 vụ
(chiếm tỷ lệ 49,25%); số vụ án mà các đối tượng sử dụng vũ khí quân dụng để
phạm tội là 3 vụ (chiếm tỷ lệ 4,47%); số vụ án mà các đối tượng sử dụng các loại
công cụ, phương tiện khác để phạm tội là 18 vụ (chiếm tỷ lệ 26,86%)…Việc sử
dụng các loại vũ khí “nóng” (súng, dao, kiếm, mã tấu…) để phạm tội ngày càng
phổ biến. Điều này phần nào phản ánh tính chất manh động, liều lĩnh, táo bạo và
tính tổ chức cao trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội của các đối tượng.
Phân tích cơ cấu của phương thức thực hiện các tội phạm về ma túy và tội
xâm phạm sở hữu trên đây không chỉ có ý nghĩa trong việc định hướng, đề ra
đường lối phòng ngừa tội phạm có hiệu quả, mà còn có ý nghĩa và là nền tảng
cho việc định tội danh và quyết định hình phạt một cách công bằng, chính xác,
khách quan, bảo đảm xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, góp phần tiến
tới thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện cho sự tồn tại và gia tăng tội phạm nói
chung và tội phạm ma túy; xâm phạm sở hữu; xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng trong thời gian tới tại một địa bàn
trọng điểm về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội như Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong tổng số vụ án hình sự còn lại là 15.640 vụ, số vụ án thuộc tội phạm
71
giết người đáng báo động với phương thức thực hiện ngày càng tinh xảo và man
rợ. Trong tổng số 203 vụ án giết người tác giả đã nghiên cứu, có 121 vụ người
phạm tội đã có sự chuẩn bị từ trước (59,6%). Nghiên cứu về các loại phương tiện
mà người phạm tội chuẩn bị trong quá trình gây án, cho thấy: có chuẩn bị vũ khí
nóng: 07 vụ, chiếm tỉ lệ 3,5% và có chuẩn bị vũ khí lạnh (dao, lê, các loại khác
bằng kim loại) 101 vụ chiếm 49,7%; các phương tiện khác có 95 vụ chiếm tỉ lệ
46,7%. Nghiên cứu hồ sơ vụ án cho thấy, có nhiều người phạm tội đã có tiền án,
tiền sự về các tội sử dụng bạo lực để gây án.
Tuy nhiên, những người phạm tội gây ra các loại án này đa phần là những
thành phần lưu manh, những người phạm tội đã có tiền án, tiền sự về các tội sử
dụng bạo lực để gây án như: Giết người, Cướp tài sản, cố ý gây thương tích, chống
người thi hành công vụ… Tính chất nguy hiểm của loại tội phạm này còn thể hiện ở
thủ đoạn rất manh động, nhiều khi giết một lúc nhiều người, người phạm tội gây án
hoạt động có băng nhóm, gây án liên tục như những vụ án giết người do thanh
trừng lẫn nhau, giết người cướp tài sản. Trong những năm gần đây, đối tượng phạm
tội giết người có những phương thức gây án mới. Những thủ đoạn dùng bom thư,
mìn tự tạo là những thủ đoạn mới, độc ác nhằm tước đoạt tính mạng. Tôi phạm giết
người xảy ra đã gây nhiều thiệt hại về tính mạng, tải sản cũng như những tổn hại
khác về sức khỏe, tinh thần cho người bị hại và người thân của họ.
3.2. Thực trạng nhân thân người phạm tội tại Thành phố Hồ Chí Minh
Để có cơ sở phân tích cơ cấu đặc điểm nhân thân của người phạm tội trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 - 2018, nghiên cứu sinh đã
nghiên cứu 250 bản án được lựa chọn ngẫu nhiên, trong đó có 100 bản án xét xử
về các tội phạm về ma túy và 100 bản án xét xử về các tội xâm phạm sở hữu và
50 bản án của các tội còn lại. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
3.2.1. Thực trạng nhân thân người phạm tội xét theo đặc điểm xã hội –
nhân khẩu
Qua phân tích báo cáo tổng hợp của Toà án Thành phố Hồ Chí Minh và
250 bản án nghiên cứu cho thấy có đặc điểm nổi bật về đặc điểm xã hội – nhân
khẩu của người phạm tội ma tuý và xâm phạm sở hữu trên địa bàn Thành phố
72
Hồ Chí Minh như sau:
* Đặc điểm về độ tuổi: có ảnh hưởng rất lớn đến tính chất, mức độ, loại
tội phạm, đến việc thực hiện các loại tội phạm khác nhau ở những người có độ
tuổi khác nhau. Thực tế cho thấy, nếu xem xét mối tương quan giữa các nhóm
tuổi khác nhau trong tổng thể những người phạm tội thì nhóm những người
phạm tội ở độ tuổi từ 18 – 25 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (54,5%), sau đó là nhóm
người phạm tội ở lứa tuổi từ 25 đến dưới 45 (31,6%) và nhóm những người
phạm tội chưa thành niên (từ 14 – 18 tuổi) có tỷ lệ là 13,5%; cuối cùng là những
người từ 45 tuổi trở lên (0,06%), ở lứa tuổi này họ rất ít phạm tội. Mức độ phạm
tội phổ biến lớn nhất ở nhóm người phạm tội có độ tuổi từ 18 - 25 tuổi. Ở độ tuổi
25 đến dưới 45 tuổi, con người thường đã tích lũy được kinh nghiệm sống phong
phú, những người ở độ tuổi này thường hay phạm các loại tội về tội phạm kinh tế
(31%). Còn những người ở độ tuổi từ 45 trở lên, do đã tích lũy được các ưu điểm
của lối sống xã hội đúng đắn, khả năng tự kiềm chế cao, có vị trí tương đối ổn
định trong xã hội, nên mức độ phạm tội ít hơn.
* Đặc điểm về giới tính: Trong tổng số 61.214 người phạm tội tại Thành
phố Hồ Chí Minh, có 44.584 đối tượng là nam, chiếm tỷ lệ 71,2% và 16.630 đối
tượng là nữ, chiếm tỷ lệ 22,8%. Qua đó, thấy tỉ lệ nam giới phạm tội chiếm tỉ lệ
cao hơn nhiều so với người phạm tội là nữ giới. Trong mỗi nhóm nữ giới khác
nhau (về nơi ở, về nghề nghiệp, địa vị xã hội…), tỷ lệ phạm tội và hình thức
phạm tội cũng khác nhau. Nữ giới sống ở nông thôn thường phạm tội trộm cắp.
Nữ giới là công nhân viên chức hoặc tiểu thương thường phạm tội lừa đảo hoặc
cố ý gây thương tích (do ghen tuông, tình ái, mâu thuẫn gia đình). Đa số nữ giới
thường phạm tội riêng lẻ, nếu trong tổ chức tội phạm thì chỉ giữ vai trò thứ yếu.
Thời gian gần đây các loại tội phạm do nữ giới thực hiện ngày càng đa dạng có
những hình thức phạm tội mới nguy hiểm hơn.
Đối với nhóm người phạm tội về ma túy: Trong tổng số 24.084 bị cáo bị
xét xử về các tội phạm về ma túy, có 14.913 bị cáo là nam giới và 9.171 bị cáo là
nữ giới. Số người phạm tội về ma túy là nam giới chiếm tỷ lệ cao 54%, trong khi
người phạm tội này là nữ giới chỉ chiếm tỷ lệ 46%. Về độ tuổi vi phạm, nhóm
73
người phạm tội ở vào độ tuổi từ dưới 18 tuổi chiếm 7,98%; đủ 18 tuổi đến 30
tuổi chiếm 38,20%; nhóm người phạm tội có độ tuổi trên 30 chiếm 58,48%. Như
vậy, nhóm người phạm tội độ tuổi trên 30 chiếm tỷ lệ cao nhất và duy trì khá đều
trong 10 năm từ năm 2009 đến năm 2018 (chiếm tỷ lệ trung bình cả giai đoạn là
77,68%), đáng lưu ý năm 2017 và 2018, tỷ lệ cao đột biến.
Thành phần tội phạm về ma túy khá đa dạng, bao gồm cả công chức
nhà nước dù chiếm tỷ lệ nhỏ 0,35%, Đảng viên chiếm tỷ lệ 0,38%. Qua phân
tích các bản án hình sự sơ thẩm cho thấy tập trung lớn nhất vào các bị cáo có
nghề nghiệp làm thuê, làm mướn, với tỷ lệ 81,85%, không nghề nghiệp chiếm
17,85%, viên chức nghỉ hưu 0,30%. Trong tổng số 24.084 bị cáo phạm tội về
ma túy có 17.013 bị cáo là người thành thị chiếm tỷ lệ rất cao 73,7%, có xu
hướng tăng dần (so với năm 2009, năm 2018 tăng 14,96%), có 6088 bị cáo ở
nông thôn chiếm 26,3%. Các bị cáo phạm tội về ma túy chủ yếu tập trung vào
dân tộc Kinh, là dân tộc có tỷ lệ người phạm tội về ma túy cao nhất. Nguy
hiểm hơn, số người nghiện ma túy tăng dần qua các năm trong giai đoạn
nghiên cứu, đồng thời có 51,76% bị cáo là người nghiện ma túy trong tổng số
các bị cáo phạm tội về ma túy, chiếm tỷ lệ 4,70% trên tổng số người nghiện
trên toàn quốc, đây là con số đáng báo động, vì con số trung bình cả nước
chia đều mỗi tỉnh chỉ có 1,56%.
Đối với nhóm người phạm các tội xâm phạm sở hữu: Trong tổng số
22.208 bị cáo phạm tội xâm phạm sở hữu bị xét xử cho thấy, có 17.001 bị cáo
nam và 5.207 bị cáo nữ, số bị cáo nam nhiều hơn nữ chiếm 82,1% và nữ chiếm
17,9%. Như vậy, cho thấy đối tượng phạm tội xâm phạm sở hữu chủ yếu là nam
giới. Việc nam giới vẫn chiếm số lượng lớn như trên cũng là điều dễ hiểu vì họ
thường có khí chất nóng nảy, manh động và bộc trực hơn so với nữ giới. Về độ
tuổi, có 1391 bị cáo ở độ tuổi dưới 18 tuổi chiếm 6,72%; có 9137 bị cáo trong độ
tuổi từ 18 đến 30 chiếm 44,1% và 10.168 bị cáo trong độ tuổi từ 30 trở lên chiếm
49,1%, như vậy số lượng bị cáo phạm tội xâm phạm sở hữu tập trung ở độ tuổi
từ 18 đến 30 nhiều hơn.
Qua thực tiễn nghiên cứu các bản án của các loại tội phạm trên cho thấy
74
số bị cáo chủ yếu giới tính là nam, tập trung ở độ tuổi từ 18 đến 30 điều nay
cho thấy tội phạm đang có xu hướng trẻ hóa thực sự rất đáng báo động, ngày
càng diễn biến phức tạp và trên đà gia tăng. Trong 10 năm, trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh có số vụ án về ma túy nhiều nhất mà cụ thể là con số, tỷ lệ
về số người nghiện ma túy, số vụ án và bị cáo hằng năm chưa được kiềm chế
một cách hiệu quả, liên tục gia tăng; các chỉ số đều phản ảnh rõ về mối tương
quan, về tỷ lệ, giúp xác định nhân tố bộ phận cũng như tổng thể trong mối
tương quan tương ứng.
* Đặc điểm về trình độ học vấn
Trên cơ sở dữ liệu Toà án Thành phố Hồ Chí Minh và số lượng bản án
nghiên cứu cho thấy kết quả về đặc điểm trình độ học vấn đặc trưng của người
phạm tội ma tuý và phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bản Thành phố Hồ Chí
Minh như sau:
Bảng 3.3. Cơ cấu theo trình độ học vấn của người phạm tội tại Thành phố
Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2009 - 2018
Ma túy Tổng TT Trình độ Xâm phạm sở hữu
Tội phạm khác SL % SL % SL % SL %
9176 15,59 1 Mù chữ - cấp 1 4.144 18,66 4462 1098 6,9
70,22 Cấp 2 - cấp 3 14.024 63,15 12.673 79,6 2 18,5 3 70,4 2 16.95 9 42.98 4
7.015 11,46 3.508 15,8 2.263 9,40 1385 8,7 3
4
528 22.208 2,38 100 4,8 1.665 2,72 100 15.922 100 61.214 100 Tốt nghiệp TC, CĐ, ĐH Trên Đại học Tổng
397 1,65 764 24.08 4
(Nguồn: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh)
Cơ cấu tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu theo cơ cấu trình độ học
vấn, cho thấy trong giai đoạn 2009 - 2018 có 4.144 bị cáo không biết chữ hoặc học
75
dưới cấp 1, tỉ lệ 18,66%; bị cáo có trình độ học vấn dưới Trung học phổ thông là
14.024 người, tỉ lệ 63,15 %; bị cáo có trình độ Đại học, Cao đẳng, Trung cấp là
3.508 người, tỉ lệ 15,8%; trên đại học có 528 người, tỉ lệ 2,38%. Như vậy, số
người có trình độ dưới Trung học phổ thông chiếm tỉ lệ cao nhất với 63,15 %,
số liệu trên cho thấy, công tác giáo dục đào tạo nói chung và tuyên truyền, giáo dục
pháp luật cần thiết đặt ra đối với những người có trình độ học vấn thấp (người
không đi học, không biết chữ hoặc trình độ tiểu học, trung học cơ sở).
Tội phạm ma túy cũng có cơ cấu phân hóa giữa các trình độ khác nhau, cụ
thể: có 4.462 người không biết chữ hoặc học dưới cấp 1, tỉ lệ 18,53%; bị cáo có
trình độ học vấn dưới trung học phổ thông 16.959 người, tỉ lệ 70,42%; tiếp đó là
2.263 bị cáo có trình độ Đại học, Cao Đẳng, Trung cấp, tỉ lệ 9,4% và 397 bị cáo
có trình độ trên đại học, tỉ lệ 1,65%. Số liệu cho thấy, số người có trình độ dưới
Trung học phổ thông chiếm tỉ lệ cao nhất. Mặt khác, tỉ lệ người phạm tội xâm
phạm sở hữu có trình độ Đại học, Cao đẳng, Trung cấp cũng khá cao trong cơ
cấu nói chung, đây là những đối tượng được học hành, hiểu biết về kiến thức nói
chung và pháp luật nói riêng, nhưng vẫn phạm tội, như vậy cho thấy sự bất cần
và liều lĩnh, đánh đổi ở họ. Sự manh động, liều lĩnh thiếu kiềm soát trong hành
vi, thói lười lao động muốn hướng thụ, nên khi thấy cơ hội là họ sẽ thực hiện
hành vi phạm tội nhằm đạt được mục đích của họ.
Về các tội phạm khác tại Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 - 2018,
cho thấy, trong tổng số 15.640 vụ án, có 15.922 người bị xét xử, có 1.098 bị cáo
có trình độ học vấn dưới lớp 5 và không biết chữ, chiếm tỉ lệ 6,9%; bị cáo có
trình độ Trung học cơ sở là 12.673, chiếm tỉ lệ 79,6%; có 1.385 bị cáo có trình độ
Trung học, Cao đẳng, Đại học, chiếm tỉ lệ 8,7% và có 764 bị cáo có trình độ trên
đại học, chiếm tỉ lệ 4,8%. Như vậy, số đối tượng phạm tội có trình độ trung học cơ
sở chiếm đa số (79,6%), còn lại là số tội phạm không biết chữ hoặc đã bỏ học.
* Đặc điểm về nghề nghiệp, địa vị xã hội
Cơ cấu nghề nghiệp là tiêu chí quan trọng đánh giá thực trạng và nguyên
nhân vì sao tình hình tội phạm gia tăng trong một khoảng thời gian cụ thể. Qua
nghiên cứu đặc đặc điểm nghề nghiệp của người phạm các tội trên địa bàn Thành
76
phố Hồ Chí Minh, cho thấy: Trong số 61.214 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giai đoạn 2009 - 2018, có 43,6% là lao động phổ
thông, 17,7% là lao động tự do, 10,1% nghề khác và 28,7% không có nghề
nghiệp. Các đối tượng là lao động phổ thông chiếm tỷ lệ phạm tội nhiều nhất
(43,6%) và các ngành nghề khác chiếm tỷ lệ ít nhất (10,1%).
Trong giai đoạn 2009 - 2018 tại Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử 24.084
bị cáo phạm tội ma túy, trong đó có 5.971 bị cáo có nghề nghiệp ổn định chiếm
21,65%; bị cáo có nghề nghiệp không ổn định 11.093 chiếm 40,24%; nhóm
người phạm tội không có nghề nghiệp chiếm tỷ lệ 11.379 chiếm 41,279%. Nhóm
người phạm tội không có nghề nghiệp chiếm tỉ lệ cao nhất, tiếp đó là nhóm
không có nghề nghiệp, như vậy không có nghề nghiệp ổn định là một trong
những nguyên nhân dẫn đến việc bất chấp thủ đoạn để thực hiện hành vi phạm
tội, tâm lý lười lao động muốn kiếm được số tiền nhiều nên nhiều bị cáo đã tham
gia và đương dây mua bán ma túy.
Cũng như nhóm tội phạm ma túy, tôi phạm xâm phạm sở hữu trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh nhìn chung những đối tượng phạm tội thường là những
đối tượng không có nghề nghiệp, không chịu sự quản lý của gia đình hay một tổ
chức, đoàn thể nào. Trong số 22.208 bị cáo phạm tội xâm phạm sở hữu có 3.715
chiếm 17,9% có việc làm ổn định; có 5.602 chiếm 27,0% người phạm tội; số
người không có việc làm 1.1379 chiếm 54,9%. Nhóm tội phạm hình sự còn lại
cũng tập trung trên 64,3% đối tượng không có việc làm.
Qua thống kê, số tội phạm phạm các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh, thành phần nghề nghiệp của loại tội phạm này đa dạng
không tập trung ở một nghề nghiệp nhất định, tuy nhiên những người lao động
chân tay phạm các tội xâm phạm sở hữu nhiều hơn những người lao động trí óc.
Số người không có nghề nghiệp ổn định cao chiếm đa số, điều đó khẳng định,
khi con người không có nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn định thì dễ dẫn
đến các hành vi sai lệch, dễ bị lôi kéo vào con đường phạm tội. Một điểm đáng
lưu ý là số người phạm các tội xâm phạm sở hữu tại địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh có nhiều khu công nghiệp, đây là điểm đặc trưng của Thành phố Hồ Chí
77
Minh trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, là địa điểm thu hút nhiều nguồn
lao động từ các tỉnh về, tuy nhiên khi di cư về Thành phố Hồ Chí Minh không
phải ai cũng bắt nhịp được công việc tại các khu công nghiệp, dẫn đến tình trạng
thất nghiệp và sa vào con đường phạm tội nhiều.
* Đặc điểm về hoàn cảnh gia đình
Nghiên cứu đặc điểm nhân thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh trên phương diện hoàn cảnh gia đình cho thấy: Trong tổng số
61.214 người phạm tội bị xét xử trong giai đoạn 2009 - 2018 có tới 31.978 người
(chiếm 54,3%) sống trong gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn và có từ 3
con trở lên; có 11.371 người (chiếm 19,3%) có hoàn cảnh gia đình bố mẹ ly
hôn, bố hoặc mẹ đi tù phải sống với anh, chị, ông bà từ nhỏ; có tới 9873 người
( chiếm 16,8%) xuất thân trong gia đình phức tạp, có người thân trong gia
đình có tiền án, tiền sự (trong đó phần lớn người thân có tiền án, tiền sự phạm
tội về ma túy); có 5636 người (chiếm 9,57%) sinh sống trong các gia đình
thiếu sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục con cái.
Như vậy, người sống trong gia đình đông con, thường ít được quan tâm,
chăm sóc và người sống trong gia đình ít con (con trai duy nhất, con út trong
gia đình) được quá nuông chiều là những nhân tố tiêu cực góp phần quan
trọng đưa họ sa vào con đường phạm tội. Hoàn cảnh gia đình đã tác động
không nhỏ tới việc hình thành, phát triển nhân cách người phạm tội hình sự
nói chung. Số liệu trên cho thấy, người phạm tội ma túy và tội xâm phạm sở hữu
sống trong gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn và có từ 3 con trở lên chiếm
nhiều nhất với 54,3%; tiếp đó người phạm tội xuất thân trong gia đình khuyết
thiếu phức tạp; tiếp đó người phạm tội xuất thân trong gia đình có người thân
có tiền án, tiền sự (trong đó phần lớn người thân có tiền án, tiền sự phạm tội về
ma túy), gia đình thiếu sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục con cái; gia đình có bố,
mẹ, người thân có trình độ học vấn thấp…
3.2.2. Thực trạng đặc điểm nhân thân người phạm tội xét theo các đặc
điểm mặt đạo đức - tâm lý
Thực tiễn nghiên cứu hồ sơ vụ án cho thấy đặc điểm nhân thân người
78
phạm tội ma tuý và phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh khắc hoạ những đặc điểm về khía cạnh đạo đức tâm lý, thực trạng đặc
điểm đạo đức tâm lý cho thấy hầu hết các bị cáo phạm tội ma tuý và xâm phạm
sở hữu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đề có nhận thức và quan niệm sống
không đúng đắn, lệch lạc và thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội. Từ nhận
thức lệch lạc đã hình thành quan niệm và thái độ lười biếng, không chịu học tập
và lao động nhưng lại muốn có cuộc sống giàu có sung sướng. Ý niệm về làm
gàu đơn giản và bất chấp đạt được mục đích đó.
Thái độ, quan điểm sống, sở thích, thói quen có ý nghĩa đáng kể đối với
quá trình hình thành động cơ, mục đích phạm tội. Sở thích là thú vui, là thú tiêu
khiển, là những hoạt động thường xuyên hoặc theo thói quen đem lại cho con
người niềm vui, sự phấn khởi trong khoảng thời gian thư giãn, sở thích cũng chỉ
về sự hứng thú, thái độ ham thích đối với một đối tượng nhất định. Sở thích của
mỗi người, mỗi cá nhân có thể giống nhau, cũng thể khác nhau. Những người có sở
thích chơi thể thao, đọc báo, nghe nhạc, xem phim… thường hình thành nên nhân
cách tốt. Ngược lại, những người có sở thích ăn nhậu, cờ bạc, tụ tập bạn bè chơi
bời, xem phim bạo lực, khiêu dâm… thì những sở thích này sẽ dần dần thấm sâu
vào nhận thức của họ làm cho họ có cái nhìn lệch lạc, tiêu cực, hình thành nên tâm
lý sống buông thả, thực dụng, coi thường chuẩn mực đạo đức, văn hóa…
Nhận thức sai nên khi gặp những điều kiện bên ngoài tác động một cách
tiêu cực sẽ dẫn đến tình trạng những người này không xác định được đúng sai,
coi thường pháp luật, thậm chí thực hiện tội phạm. Nghiên cứu các hồ sơ vụ án
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 - 2018, có 82,75% người
phạm tội thường có sở thích, lối sống hưởng thụ, lười lao động, tụ tập bạn bè,
thường xuyên không về nhà, không có nghề nghiệp ổn định.
* Thực trạng đặc điểm đạo đức – tâm lý của nhân thân người phạm tội xét
theo nhu cầu – lợi ích: Điển hình vụ án đối tượng phạm tội có quan điểm lệch lạc
về cuộc sống, lười lao động nhưng lại muốn có cuộc sống hưởng thụ, nhàn hạ.
Để có tiền tiêu xài, băng nhóm gồm: Trần Quốc Cường, Triệu Quốc Nhật, Đỗ
Thanh Việt, Đỗ Thanh Tâm, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Lê Ngọc, Nguyễn
79
Thành Sang, Đỗ Trọng Hiệp, Triệu Quốc Tài, Đinh Văn Cảnh và Phạm Minh Chí
bàn bạc cùng nhau đi trộm cắp tài sản bằng hình thức dàn cảnh đụng xe rồi móc
túi những người tham gia giao thông trên đường. Các đối tượng này thỏa thuận
với nhau cách thức phạm tội: mỗi người sẽ điều khiển xe môtô của mình đi trên
các tuyến đường trong địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; Cường, Sang có nhiệm
vụ tìm kiếm bị hại có tài sản sơ hở trong lúc tham gia giao thông trên đường sẽ
chỉ điểm cho Tâm “cúp” đầu xe nạn nhân và phối hợp với các người còn lại làm
nhiệm vụ va quẹt xe với nạn nhân tạo như vụ va chạm giao thông; đồng thời
những người còn lại làm nhiệm vụ cảnh giới, che chắn người đi đường, la hét ầm
ĩ gây hỗn loạn… tạo tâm lý cho bị hại mất cảnh giác trong việc bảo vệ tài sản
của mình để cho Nhật, Hiệp lén lút móc túi lấy trộm tiền. Từ tháng 12/2015 đến
khi bị bắt quả tang ngày 10/3/2016, băng nhóm Trần Quốc Cường đã thực hiện
nhiều vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, với
hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, các bị cáo Trần Quốc Cường
và Phạm Minh Chí đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 138 Bộ luật
Hình sự. Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, không chỉ
trực tiếp xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn xâm
phạm đến trật tự an toàn xã hội, gây tâm lý hoang mang, bất an cho người dân
sinh sống tại địa phương, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại khu vực nên cần
phải xử lý nghiêm mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với các bị cáo và răn đe,
phòng ngừa chung đối với xã hội.
* Thực trạng đặc điểm đạo đức – tâm lý của nhân thân người phạm tội xét
theo động cơ phạm tội.
Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực
hiện hành vi phạm tội cố ý. Nghiên cứu các bản án xét xử hình sự trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 – 2018 cho thấy động cơ phạm tội của
đối tượng phạm tội hình sự xuất phát từ một số động cơ cụ thể như sau:
Đối với tội phạm ma túy, trong tổng số 24.084 người phạm tội ma túy, có
8.703 người có động cơ phạm tội do “vụ lợi, nhu cầu vật chất” chiếm 37,6%; có
13.407 người phạm tội với động cơ “kiếm tiền làm giàu” chiếm 58,03; có 991 người
80
phạm tội do động cơ “kiếm tiền phục vụ nhu cầu nghiện ma túy” chiếm 4,2%.
Đối với tội phạm xâm phạm sở hữu, người phạm tội cũng xuất phát từ một
số động cơ cụ thể như: 10.913 người phạm tội do xuất phát từ động cơ “vụ lợi,
nhu cầu vật chất” chiếm 52,7%; Động cơ muốn kiếm tiền làm giàu có 5070
người chiếm 24,5%; động cơ trả thù do “mâu thuẫn, hận thù” có 735 chiếm
3,5%; người phạm tội có động cơ kiếm tiền phục vụ nhu cầu nghiện ma túy có
3974 người chiếm 19,2%. Người phạm tội còn lại chủ yếu xuất phát từ động cơ
muốn kiếm tiền làm giàu chiếm 70,3 % tổng số vụ án hình sự được xét xử tại
Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 – 2018.
Nghiên cứu động cơ phạm tội của các tội phạm khác trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh cho thấy, những người phạm tội đều có động cơ, mục đích vụ
lợi gắn liền với mục đích kinh tế, muốn làm giàu nhanh chóng, nâng cao thể diện
cá nhân, bất chấp nguy hiểm đến tính mạng và sự tan vỡ gia đình mà lao vào
thực hiện tội phạm đến cùng. Nguy hiểm hơn, trong số này có những bị cáo
phạm nhiều tội như: Giết người; tàng trữ, vận chuyển, sử dụng vũ khí quân dụng
trái phép; trộm cắp tài sản hoặc gây rối trật tự công cộng.
Như vậy, những người có tư tưởng hám lợi, ăn bám, tham lam, chây lười
lao động, có nhu cầu, sở thích lệch lạc, tham gia vào các hoạt động tệ nạn xã hội,
sẽ dễ thực hiện tội phạm hình sự.
3.2.3. Các đặc điểm pháp lý hình sự
Nghiên cứu 250 bản án được lựa chọn ngẫu nhiên, trong đó có 100 bản án
xét xử về các tội phạm về ma túy và 100 bản án xét xử về các tội xâm phạm sở
hữu cho thấy một số đặc điểm đáng chú ý là đối tượng chủ yếu là tái phạm và tái
phạm nguy hiểm.
Trong tổng số 61.214 người phạm tội tại Thành phố Hồ Chí Minh giai
đoạn 2009 - 2018: có 54.561 người có tiền án, tái phạm, chiếm tỉ lệ 89,13%. Như
vậy, tỉ lệ người có tiền án, tái phạm của người phạm tội rất cao.
Trong số 24.084 người phạm các tội mua bán chất ma túy ở Thành phố
Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 - 2018: Có 17.256 người phạm tội có tiền án hoặc
thuộc trường hợp tái phạm về các hành vi phạm các tội phạm về ma túy, chiếm
81
tỷ lệ 74,7%; Có 582 người phạm tội (chiếm tỷ lệ 2,52%) đã từng bị xử phạt vi
phạm hành chính về các hành vi sử dụng, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái
phép ma túy. Chỉ còn lại 5.263 người thuộc trường hợp phạm tội chưa có tiền án,
tiền sự chiếm tỷ lệ 22,78%. Số liệu này cho thấy, số người phạm tội có tiền án,
tiền sự chiếm đến 77,22% trong tổng số người phạm tội. Đây là một tỷ lệ rất lớn,
đặc biệt là số người tái phạm chiếm đến 74,7%. Thực trạng này cho thấy rõ đặc
điểm nhân thân rất xấu của những người phạm các tội phạm về ma túy trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 - 2018.
Nghiên cứu 20.696 người phạm các tội xâm phạm sở hữu, cho thấy:
Người phạm tội có tiền án, tiền sự là 2.938 người chiếm tỉ lệ 14,2%; trong đó đã
được xóa án tích 750 người, tái phạm 1.593 người, tái phạm nguy hiểm 1.610
người; người phạm tội chưa có tiền án, tiền sự 691 người chiếm 3,3%. Số người
phạm tội xâm phạm sở hữu có tiền án, tiền sự cũng tương đối cao.
Số liệu khảo sát trên đã thể hiện mức độ, tính chất nguy hiểm của tội
phạm xét về nhân thân người phạm tội với số lượng vi phạm của nhiều đối tượng
để dễ dàng gây án dễ đạt được mục đích.
Điển hình như vụ “Trộm cắp tài sản ” tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn
Sung Shin Việt Nam, vốn nước ngoài 100%, tại Khu Chế xuất Sài Gòn - Linh
Trung, phường Linh Trung, quận Thủ Đức. Ngày 26/11/2015, Công ty TNHH
Sung Shin Việt Nam ký hợp đồng thuê Công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ Đại
Trường Hải cung cấp sử dụng dịch vụ bảo vệ. Ngày 02/1/2016, Công ty TNHH
Sung Shin Việt Nam ký hợp đồng vận tải thuê Công ty TNHH Giao nhận Vận tải
Phú Mơ cung cấp phương tiện vận chuyển, nhận và giao hàng….Lợi dụng sự sơ
hở trong quản lý và bảo vệ tài sản của Công ty TNHH Sung Shin Việt Nam,
Nguyễn Đức Tịnh là trợ lý Giám đốc xưởng C của Công ty TNHH Sung Shin
Việt Nam đã cấu kết với bảo vệ của Công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ Đại Trường
Hải và tài xế của Công ty TNHH vận tải Phú Mơ thực hiện 02 vụ trộm cắp tài
sản, lợi dụng sự sơ hở trong quản lý, bảo vệ tài sản của Công ty TNHH Sung
Shin Việt Nam, Nguyễn Đức Tịnh đã cấu kết với Dương Anh Tuấn, Huỳnh
Minh Lý, Ngô Văn Chính, Nguyễn Ngọc Quyền và Đoàn Ngọc Biển cùng nhau
82
lén lút trộm cắp hạt nhựa EVA của Công ty đem bán. Trong đó, các bị cáo Tịnh,
Tuấn, Chính và Lý thực hiện 02 vụ trộm vào ngày 05/4/2016 và ngày 09/4/2016
với tổng trị giá tài sản chiếm đoạt theo định giá là 278.125.000 đồng. Bị cáo
Nguyễn Ngọc Quyền thực hiện một vụ trộm vào ngày 05/4/2016, trị giá tài sản
chiếm đoạt là 166.875.000 đồng và bị cáo Đoàn Ngọc Biển thực hiện một vụ
trộm vào ngày 09/4/2016 với tài sản có giá trị là 111.250.000 đồng.
Qua số lượng hồ sơ bản án nghiên cứu từng khía cạnh nhân thân người
phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy mức độ nguy hiểm của
hai loại tội phạm này trên địa bàn. Về khía cạnh giới tính thì đặc điểm giới tính
của nhân thân người phạm tội chủ yếu là nam giới với các tội trộm cắp tài sản,
cướp giật tài sản, nữ giới thường đóng vai trò đồng phạm giúp sức, trong đó
nhiều nhất thuộc nhóm tội như trộm cắp, cướp giật tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài
sản. Phân tích thực trạng cho thấy nữ giới thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt
tài sản nhiều hơn và thường đóng vai trò chủ mưu đây là một trong những đặc
điểm cần lưu ý trong công tác phòng ngừa tội phạm.
Nhân thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hò Chí Minh còn phản
ánh về vị thế xã hội của người phạm tội, do không có vị thế xã hội, công việc
không ổn định, do không ổn định nơ cư trú, làm việc tạm bợ và thói quen lười
lao động không có thu nhập chính, không đủ đáp ứng nhu cầu cuộc sống dẫn đến
tình trạng phạm tội. Nghiên cứu hồ sơ vụ án cho thấy, người phạm tội trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh thường xuất thân trong gia đình không hoàn thiện,
có những đối tượng xuất thân trong gia đình có điều kiện nhưng do được nuông
chiều và dễ được thoả mãn các nhu cầu khi đòi hỏi. Đây là một trong những căn
cứ để xây dựng giải pháp phòng ngừa tội phạm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh từ khía cạnh giáo dục gia đình.
Phân tích nhân thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
cho thấy, số bị cáo phạm tội tái phạm, tái phạm nguy hiểm chiếm tỷ lệ khá cao.
Những đối tượng tái phạm tội thường có hành vi phạm tội rất chuyên nghiệp, bài
bản về phương thức, thủ đoạn tinh vi, nói lên tính chất phức tạp của nhân thân
người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay và đặc ra vấn đề
83
đối với công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội và tái hoà nhập cộng đồng.
3.3. Thực trạng những hiện tượng xã hội tiêu cực tác động đến sự
hình thành nhân thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Bằng số liệu của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và các hồ sơ
vụ án đã xét xử, cho thấy một số đặc điểm nhân thân người phạm tội ma tuý,
phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh là cơ sở cho
nghiên cứu sinh chỉ ra các hiện tượng xã hội tiêu cực tác động đến việc hình
thành nhân thân tiêu cực và giải thích tại sao các đặc điểm tiêu cực đó lại hình
thành ở người phạm tội. Để tìm ra các hiện tượng xã hội tiêu cực, nghiên cứu
sinh đã phân tích các hiện tượng xã hội tiêu cực thuộc về môi trường sống và các
hiện tượng tiêu cực thuộc về chính bản thân người phạm tội.
3.3.1. Thực trạng những hiện tượng xã hội tiêu cực thuộc môi trường sống
Gia đình có tầm ảnh hưởng nhất trong việc hình thành nhân cách cá nhân
trong thời kỳ thơ ấu. Gia đình là nơi trú ngụ của hạnh phúc, cái nôi nuôi dưỡng
và giáo dục trẻ thơ, nơi trở về sau mỗi lần vấp ngã của con người. Tuy nhiên,
nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự nói chung và hồ sợ vụ án ma túy; xâm phạm sở
hữu cho thấy số đông các bị cáo đều có hoàn cảnh đặc biệt.
a) Thực trạng những hiện tượng xã hội tiêu cực thuộc về môi trường sống
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án cho thấy trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh từ năm 2009 – 2018, các hiện tượng tiêu cực tác động xuất phát từ môi
trường gia đình hình thành nhân thân người phạm tội ma tuý và phạm tội xâm
phạm sở hữu cụ thể như sau:
* Gia đình thiếu sự quan tâm chăm sóc con cái
Khi trẻ sống trong thành phố nhiều tiện nghi, trẻ thèm khát cuộc sống đầy
đủ, ấm no. Khi mong muốn thỏa mãn về nhu cầu, sở thích của mình. Nếu gia
đình thiếu quan tâm, quản lý trẻ. Trẻ rất dễ bị người xấu lợi dụng lôi kéo tham
gia các hành vi phạm vi phạm pháp luật nhất là thỏa mãn nhu cầu vật chất dẫn
đến phạm các tội về xâm phạm sở hữu, nghiện ngập ma túy. Kết quả khảo sát
537 phạm nhân phạm tội đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam Chí Hòa, cho
thấy có 233 phạm nhân có hoàn cảnh bố mẹ ly hôn chiếm 43,3%; 75 phạm nhân
84
có cha hoặc mẹ mất chiếm 13,9% và cha mẹ làm ăn xa co 103 người chiếm
19,1%. Kết quả khảo sát cho thấy hầu hết người phạm tội đều xuất thân trong gia
đình thiếu thốn sự quan tâm chăm sóc của bố mẹ.
Điển hình như bản án số 283/2018/HSST ngày 11/8/2018 của Toà án nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh: Do cần tiền tiêu xài, không có công việc ổn định.
Khoảng 23 giờ 30 ngày 24/02/2017, Nguyễn Công Danh điều khiển xe mô tô
Yamaha Luvias, biển số 59L1-537.39 trên đường Cầu Ông Lãnh, Quận 1, thì
nhìn thấy ông Frederik Drivsholm Hermann (quốc tịch Đan Mạch) và bà
Opielewicz Karolina Anna (quốc tịch Ba Lan) đang đi bộ trên lề đường Nguyễn
Thái Học, hướng ra Đại lộ Đông Tây, bà Opielewicz Karolina Anna đi phía
ngoài, trên tay cầm 01 bóp da màu đen, Danh liền nảy sinh ý định cướp giật bóp
của bà Opielewicz Karolina Anna. Danh điều khiển xe mô tô vượt lên phía
trước, rồi quay đầu xe chạy ngược chiều, áp sát bên trái bà Opielewicz Karolina
Anna, dùng tay trái giật bóp của bà Opielewicz Karolina Anna rồi tẩu thoát về
hướng đường Trần Hưng Đạo. Với nhân thân xấu, vào năm 2004 bị đưa vào
trường giáo dưỡng số 2 trong thời hạn 24 tháng về tội "Trộm cắp tài sản"; ngày
21/02/2012 bị Uỷ ban nhân dân Quận 1 đưa đi cai nghiện bắt buộc. Ngày
28/02/2014 Cơ sở Xã hội Nhị Xuân bàn giao Danh cho Uỷ ban nhân dân phường
Cô Giang, Quận 1 áp dụng biện pháp quản lý sau cai nghiện. Ngoài ra, bị cáo
còn có một tiền án bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm
tù về tội "Cướp giật tài sản" vào 06/01/2015. Qua nghiên cứu hồ sơ và qua phiên
tòa, thấy Danh có hoàn gia đình đặc biệt, mồ côi cha từ nhỏ, mẹ bỏ đi làm ăn xa,
Danh ở cùng bà nội già và hoàn cảnh kinh tế cũng khó khăn, thiếu sự quan tâm
chăm sóc. Danh học hết lớp 6 nghỉ học và bắt đầu đi làm thêm tại các quán ăn và
đi đánh giày vào buổi tối, cuộc sống khó khăn, thu nhập bấp bênh, Danh theo các
bạn, nghiện ma túy và rơi vào con đường phạm tội. Chúng ta thấy rằng, trẻ em
hay người chưa thành niên phạm tội chính là nạn nhân của các cuộc ly hôn, hoặc
là hệ quả của ý muốn duy trì một mô hình gia đình khuyết thiếu của cha mẹ
chúng. Chính gia đình không hoàn hảo đã dẫn tới việc quan tâm, chăm sóc con
cái sẽ không được như khi có đầy đủ cha mẹ luôn ở bên nhau, luôn cùng nhau
85
chăm sóc và dạy dỗ con cái. Khi trẻ không còn thấy sự gắn kết và sức hấp dẫn
của gia đình, lại bị tấn công từ nhiều phía, các em dễ bị mất tự chủ, có nhiều
phản ứng không kìm chế được. Điều này đã gián tiếp đẩy những đứa trẻ ấy đến
con đường vi phạm pháp luật. Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã xảy ra
nhiều vụ giết người mà người phạm tội nằm trong độ tuổi chưa thành niên.
* Gia đình giáo dục con không đúng phương pháp
Kết quả khảo sát phiếu trên 538 phạm nhân tại trại giam Chí Hòa, có 249
phạm nhân cho rằng chỉ “học hết cấp 3 và đi làm kiếm thêm thu nhập” chiếm
46,2%, và 115 phạm nhân cho rằng gia đình học có quan điểm “đi xuất khẩu lao
động để có thêm thu nhập” chiếm 21,3%; có 78 phạm nhân cho rằng gia đình họ
có quan điểm “không học được đại học, phải học nghề để kiếm việc làm” chiếm
14,4% và có 51 phạm cho biết gia đình họ có quan điểm “cần phải học đại học
để đảm bảo cuộc sống”. Kết quả khảo sát cho thấy quan điểm giáo dục của gia
đình về lao động nghề nghiệp có sự ảnh hưởng rất nhiều đến định hướng tương
lai cũng như hành vi phạm tội của các phạm nhân.
Nghiên cứu bản án số 261/2018/HS-ST ngày 30/7/2018 của Toà án nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh, cho thấy Bùi Phương Thảo, sinh năm: 1994, là con
một trong gia đình, thường xuyên được bố mẹ nuông chiều. Sau khi học hết lớp
12, Bùi Phương Thảo xin việc vào làm nhân viên massage tại tiệm Anna Spa, số
104 Bùi Viện, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh và quen biết ông Yeo Ji Wan
(Quốc tịch Hàn Quốc). Khoảng 21 giờ ngày 13/3/2016, Bùi Phương Thảo rủ ông
Yeo Ji Wan đi hát karaoke. Ông Yeo Ji Wan đồng ý và chở Thảo đi bằng chiếc
xe gắn máy hiệu Honda AirBlade, biển số 59X1-115.70 của ông đến tiệm
Karaoke số 322/25 Nguyễn Tất Thành, Phường 13, Quận 4. Sau khi ông Yeo Ji
Wan gửi xe vào bãi xe và cả hai cùng đi lên phòng hát, Thảo nhìn thấy ông Yeo
Ji Wan để chìa khóa, thẻ xe giữ xe và chiếc điện thoại Samsung Galaxy S3 vào
trong túi xách đeo trên người. Do muốn có tiền mua Heroin sử dụng, Thảo nảy
sinh ý định chiếm đoạt tài sản của ông Yeo Ji Wan, Thảo viện cớ có Công an
đến kiểm tra để bảo ông Yeo Ji Wan đưa túi xách cho Thảo giữ. Ông Yeo Ji
Wan tưởng thật, đưa túi xách cho Thảo. Ngay sau đó, Thảo đi vào phòng vệ sinh
86
mở túi lấy điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S3, chìa khóa xe và thẻ giữ
xe cất vào người rồi trở lại chỗ ngồi đưa lại túi xách cho ông Yeo Ji Wan. Lúc
sau, Thảo đi xuống bãi xe, lấy chiếc xe Honda AirBlade biển số 59X1-115.70 ra
khỏi bãi xe và chạy đi.
Cha mẹ nuông chiều con nhất là các gia đình có điều kiện kinh tế, thường
luôn thỏa mãn những đòi hỏi của con một cách vô điều kiện. Con đòi gì được nấy,
không yêu cầu con làm những công việc mà lứa tuổi của con cần phải làm. Theo
thời gian đứa trẻ thành hư hỏng chỉ biết đòi hỏi, hưởng thụ, hình thành lối sống ăn
bám, tính ích kỷ, sự lười biếng. Khi gia đình không đáp ứng được nhu cầu vật chất
tầm thường thì con hư hỏng oán trách cha mẹ chúng, bỏ nhà theo bạn bè tham gia
vào các tệ nạn xã hội mại dâm, cờ bạc, trộm cắp, sử dụng ma túy.
* Gia đình khuyết thiếu
Số lượng bị cáo sống trong gia đình không có cha, không có mẹ hoặc
không có cả cha và mẹ (gia đình khuyết thiếu) chiếm tỉ lệ khá cao (15,18%). Tại
Bản án số 186/2017/ ngày 01/6/2017 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh đã xét xử bị cáo Võ Hoàng Long về tội "Cướp tài sản" theo điểm d, e
khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Vũ
Hoàng Long, sinh năm 1994 có cha mẹ ly hôn và sau đó mẹ mất khi Long còn nhỏ,
Long bỏ nhà đi vào Thành phố Hồ Chí Minh sinh sống một mình. Tháng 8/2016, Võ
Hoàng Long vào làm nhân viên bán hàng tại Công ty TNHH Một Thành viên
Thương Mại Thái Dương Xanh Việt Nam, trụ sở tầng 3 tòa nhà Lữ Gia Plaza, 70
Lữ Gia, Phường 15, Quận 11. Đến giữa tháng 9/2016, Long tự ý nghỉ việc.
Khoảng 17 giờ 45 phút ngày 15/10/2016, Long mang theo roi điện đi bộ từ
phòng trọ, trên đường Nguyễn Tri Phương đến Công ty Thái Dương Xanh để đòi
tiền lương, gặp bà Ngụy Tiểu Doan là kế toán Công ty. Long hỏi bà Doan việc
Long có được lãnh lương không, bà Doan trả lời không biết, nên Long đến gặp
bà Luân Phụng Ái là quản lý nhân sự, được biết: Do Long tự ý nghỉ việc, nên
Công ty cần xem xét giải quyết việc Long có được lãnh lương hay không. Long
đi vào phòng họp của Công ty, thấy bà Doan và ông Tu Wei (người Trung Quốc)
đang phát tiền lương cho nhân viên, trên tay ông Tu Wei có cầm túi nylon đen
87
bên trong có các bao thư đựng tiền lương của các nhân viên. Long đi đến chỗ
ông Tu Wei, lấy roi điện (kiểu dáng đèn pin, màu đen, dài khoảng 15cm, có ghi
chữ Trung Quốc), cầm trên tay phải, dí roi điện trúng cổ bên trái của ông Tu
Wei, thấy ông Tu Wei né người vào bà Doan, Long liền dùng tay trái cướp túi
nylon đen trên tay trái của ông Tu Wei. Sau khi cướp được túi nylon, Long tiếp tục
bấm roi điện đe dọa mọi người và bỏ chạy ra cửa, va vào người bà Nguyễn Thị Kiều
Vân. Long liền dùng roi điện bấm dí vào tay trái của bà Vân rồi chạy ra ngoài. Ông
Tu Wei đuổi theo giữ được Long, Long dí roi điện vào người ông Tu Wei nên ông Tu
Wei phải buông tay. Ngày 17/10/2016, Long đón xe về thành phố Buôn Mê Thuột,
tỉnh Đắk Lắk và thực hiện 04 vụ "Trộm cắp tài sản" trên địa bàn thành phố Buôn Mê
Thuột. Qua vụ án này cho thấy, do thiếu sự dạy bảo của cha mẹ, lại sống trong điều
kiện kinh tế khó khăn đã làm nảy sinh lòng tham, khát vọng kiếm tiền bằng mọi giá,
sự coi thường đạo đức, coi thường tình cảm, coi thường pháp luật ở Nhiên, khi có
điều kiện thuận lợi sẽ làm phát sinh hành vi phạm tội.
* Gia đình phức tạp, có tiền án, tiền sự
Số lượng bị cáo sống trong gia đình phức tạp, thiếu trách nhiệm trong việc
nuôi dạy con cái chiếm 31,68%. Luôn sống trong gia đình có bầu không khí
căng thẳng, không hạnh phúc, thường xuyên mâu thuẫn, đánh nhau, nên người
phạm tội có tâm lý chán nản, kết thân với bạn bè xấu, sử dụng chất kích thích, ăn
chơi rồi phát sinh hành vi tiêu cực. Như vụ án Triệu Quốc Đại phạm tội “Mua bán
trái phép chất ma túy”: Cuối tháng 12/2016, Triệu Quốc Đại mua ma túy của đối
tượng tên Tám (không rõ lai lịch) ở địa bàn xã Phước Hiệp, huyện Củ Chi, Thành
phố Hồ Chí Minh. Khoảng hai đến ba ngày, Đại mua ma túy một lần, mỗi lần mua
với số tiền 300.000 đồng đến 500.000 đồng về sử dụng và bán lại cho Nguyễn Văn
Bằng 02 lần, thu số tiền 400.000 đồng. Nghiên cứu hồ sơ vụ án cho thấy, Đại sống
trong gia đình không hạnh phúc, hoàn cảnh gia đình khó khăn, đông con, không
được giáo dục đúng đắn sự nhận thức về lao động chân chính, học hành nghiêm
túc để có nghề nghiệp ổn định, bị cáo bỏ nhà ra ngoài sống từ nhỏ và nhiều lần
phạm tội như sau: Ngày 21/4/2003 bị Tòa án nhân dân thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc
Liêu kết án 06 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án 16/HSST, chấp
88
hành xong hình phạt tù ngày 13/7/2003. Ngày 16/3/2015 bị Tòa án nhân dân Quận 1,
Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định số 85/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng về hành vi sử dụng trái
phép chất ma túy, chấp hành xong ngày 03/12/2016. Ngày 19/12/2007 bị Tòa án
nhân dân tỉnh Cà Mau xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo
Bản án 157/2007/HSST, chấp hành hình phạt tù xong ngày 10/4/2013.
* Gia đình không hạnh phúc, các thành viên thường xuyên đánh, chửi
nhau; gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
Kết quả khảo sát cho thấy, có 261 phạm nhân cho biết “gia đình họ không
hạnh phúc, các thành viên thường xuyên đánh chửi nha, gia đình có hoàn cảnh
kinh tế khó khăn” chiếm 48,5% số lượng bị cáo sống trong gia đình thiếu sự
quan tâm chăm sóc và giáo dục, chủ yếu là do người phạm tội xuất thân từ gia
đình có đông con, kinh tế không thuận lợi, gia đình không hạnh phúc. Hoàn cảnh
kinh tế là một trong những yếu tố có ý nghĩa rất lớn đối với việc hình thành động
cơ, mục đích phạm tội và tác động trực tiếp đến cách thức xử sự của con người.
Hầu hết người phạm tội xâm phạm sở hữu đều có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
Số bị cáo phạm tội xâm phạm sở hữu sống trong gia đình có kinh tế thuận lợi
chiếm tỉ lệ không cao, các bị cáo này chủ yếu là thực hiện hành vi cưỡng đoạt tài
sản và cướp tài sản đối với người bị hại là người quen biết của bị cáo hoặc người
thân của bị cáo.
Trích bản án số 563/2017/HSPT ngày 07/12/2017 của Toà án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh, nội dung: Khoảng 09 giờ 00 ngày 13/9/2017, Nguyễn
Minh Tân và Võ Tất Thành là nhân viên Công ty Nguyễn Hoàng Phát, đến nhà
chị Tạ Thị Phương Mai để sửa máy lạnh. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, Tân vào
phòng chị Mai để rút dây điện và dọn dẹp đồ thì thấy không có người trong
phòng; Tân liền nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để lấy tiền tiêu xài. Tân đến bàn
trang điểm của chị Mai kéo hộc bàn ra và lén lút lấy chiếc đồng hồ Tissot 1853
rồi bỏ vào túi quần phía trước bên phải. Sau đó, Tân mang chiếc đồng hồ đi cất
giấu tại dãy hoa kiểng phía sau bệnh viện Nhi Đồng trên đường 3/2, Phường 10,
Quận 10. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, chị Mai phát hiện bị mất tài sản nên đến
89
Công an Phường 13, Quận 10 trình báo sự việc; Công an Phường 13, Quận 10
lập hồ sơ ban đầu, sau đó chuyển đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận
10 điều tra làm rõ. Tân sinh ra và lớn lên tại Bến Tre, do hoàn cảnh kinh tế khó
khăn nên Tân đã nghỉ học giữa chừng và theo cha lên thành phố Hồ Chí Minh để
mưu sinh. Trong lúc cần tiền tiêu xài, nên Tân đã phạm tội trộm cắp tài sản.
b) Thực trạng những hiện tượng xã hội tiêu cực thuộc về môi trường nhà trường
* Nhà trường chưa chú trọng giáo dục đạo đức, pháp luật và kỹ năng sống
Qua kết quả thống kê từ các vụ án hình sự giai đoạn 2009 - 2018 trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh, có bị cáo là người dưới 18 tuổi, có đến 24,74% trẻ
em phạm tội khi không còn đi học, bỏ học giữa chừng ở quê. Phân tích thời gian
tạm trú của các bị cáo này thì phần lớn các bị cáo có thời gian tạm trú kéo dài từ
trên 01 năm đến 3 năm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, điều này
cho thấy công tác giáo dục nhà trường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
không có ảnh hưởng nhiều đến việc hình thành nhân thân của trẻ. Điều này cần
xem xét công tác giáo dục nơi chính địa phương các bị cáo sinh ra và lớn lên.
Việc chưa chú trọng giáo dục đạo đức, pháp luật và kỹ năng sống làm cho học
sinh, sinh viên thiếu hiểu biết pháp luật, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, thiếu ý
thức tôn trọng tính mạng, tài sản của người khác, thậm chí ích kỷ, nhỏ nhen, hẹp
hòi …từ đó dễ dẫn đến việc thực hiện hành vi phạm tội. Như vụ án Cao Văn
Hạnh, sinh ngày: 01/01/1999, phạm tội Cướp tài sản. Vào ngày 05/8/2017, Hạnh
rủ Nguyễn Văn Ngận đi trộm hoặc cướp tài sản của người khác bán lấy tiền tiêu
xài, nhưng Ngận không đồng ý. Sau đó, Hạnh xuống Thủ Đức chơi với bạn là
Trương Đình Lộc, Hạnh nhờ Lộc mua dùm 01 roi điện để phòng thân. Lộc đặt
mua trên mạng Internet với giá 700.000 đồng. Đến chiều cùng ngày, Lộc chở
Hạnh đến cầu Bình Triệu gặp người bán nhận roi điện (không rõ nhân thân, lai
lịch). Tối ngày 06/8/2017, Hạnh điện thoại rủ Lộc đến chỗ làm của Hạnh chơi và
nói Lộc đem cho mượn con dao để có việc, Lộc hẹn sau khi làm việc xong sẽ
đến. Khoảng 23 giờ 00 phút cùng ngày, Lộc điều khiển xe gắn máy hiệu Honda
Wave, biển số 73K5-0371 và cầm theo 01 con dao bầu, cán gỗ, mũi nhọn, dài
khoảng 40cm đến chỗ Hạnh. Ngồi chơi đến khoảng 23 giờ 30 Lộc đòi về. Khi ra
90
xe máy, Lộc đưa con dao cho Hạnh bỏ vào ba lô. Ngược lại, Hạnh đưa cho Lộc
01 con dao bấm màu đen để phòng thân, Lộc bỏ vào túi quần. Lúc này, Ngận
đang ngủ ở chân cầu thang chung cư, Hạnh gọi điện thoại kêu Ngận dậy và rủ đi
cướp tài sản thì Ngận đồng ý. Sau đó Hạnh nói chuyện và rủ thêm Lộc đi cướp
tài sản và nói sẽ chia tiền cho tiêu xài nên Lộc đồng ý. Ngận điều khiển xe gắn
máy hiệu Honda Wave, biển số 73K5-0371 chở Hạnh và Lộc chạy đến Quận 2
để cướp. Cả ba thường xuyên liên lạc, nhắn tin bằng điện thoại với nhau để biết
vị trí nhau. Lộc đứng ở vị trí chân cầu Cá Trê 1, còn Ngận chạy xe thêm một
đoạn và đứng chờ. Hạnh thuê một người xe ôm Grab (không rõ lai lịch) từ Bình
Thạnh sang Quận 2. Khi đến nơi hẹn, do người xe ôm cảnh giác, nên cả ba
không thực hiện được hành vi cướp giật. Lộc tiếp tục đứng chờ tại cầu Cá Trê,
còn Ngận chở Hạnh đến gần vòng xoay đường Trần Não để Hạnh đón xe ôm
Grab khác rồi quay về chỗ cũ đợi. Khoảng 01 giờ 18 phút ngày 07/8/2017, Hạnh
đặt được xe ôm Grab, hiệu Honda Vision, biển số 66H1-161.39 do anh Nguyễn
Công Tài điều khiển và yêu cầu anh Tài chở đến cầu Cá Trê 1. Trên đường đi
anh Tài để điện thoại di dộng Samsung S6 Adge màu trắng bạc ở hộc phía dưới
tay lái của xe, nhưng Hạnh không thấy. Khi vừa qua khỏi cầu Cá Trê 1, Hạnh
yêu cầu anh Tài quay xe lại và dừng xe tại chân cầu. Hạnh xuống xe bước lên rút
chìa khóa xe của anh Tài thì bị anh Tài gạt tay ra và hỏi “anh làm cái gì vậy”.
Lúc này, Hạnh rút 01 (một) con dao từ trong ba lô ra để ở trước ngực mình cho
anh Tài nhìn thấy nhằm đe dọa để chiếm đoạt xe mô tô của anh Tài. Anh Tài
hoảng sợ, xô ngã xe máy và tri hô “cướp” rồi bỏ chạy bộ về hướng đường Mai
Chí Thọ. Đó là do nhà trường chưa chú trọng giáo dục đạo đức, pháp luật và kỹ
năng sống và thiếu sự quan tâm giáo dục của nhà trường và gia đình dẫn đến
Hạnh, Ngận, Lộc bỏ học, sống lêu lỏng, tụ tập bạn bè xấu từ đó phát sinh các tệ
nạn và tội phạm.
* Sự lỏng léo trong công tác quản lý của nhà trường, tình trạng bạo lực
học đường gia tăng.
Những sự việc liên quan đến đạo đức học đường liên tục xảy ra trong thời
gian gần đây trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đang thật sự là điểm nóng, gây
91
bức xúc nhiều trong dư luận xã hội. Môi trường giáo dục, kỷ cương nhà trường
bị xâm phạm trầm trọng. Chính môi trường này đã tác động đến từng đứa trẻ làm
dần hình thành một số đặc điểm, thói quen xấu, như sự chán nản, bi quan; tâm lý
ngại học, ngại đến trường; sự căm ghét, căm giận người đã bắt nạt mình …Ví dụ
như tại Bản án số 278/2017/HSST ngày 09/8/2017, của TAND Thành phố Hồ
Chí Minh thì Nguyễn Phạm Quốc Bình, sinh năm 2001 và Nguyễn Thị Thu
Hằng, sinh năm 2002, là học sinh trường Trung học Nguyễn Văn Trỗi, quận Gò
Vấp. Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 12/01/2017, Bình và Hằng đến chung cư Hà
Đô, quận Gò Vấp chơi. Cả hai vào lên tầng 5 của chung cư, Bình thấy Hằng sử
dụng điện thoại di động Samsung Galaxy S5, nên nảy sinh ý chiếm đoạt, Bình
giật điện thoại của Hằng và lấy 01 thanh đá hoa cương hình chữ nhật kích thước
khoảng 50cm × 7cm × 2cm chặn ở đập vào sau gáy của Hằng làm Hằng ngã gục
xuống đất, Bình tiếp tục đánh vào đầu và mặt của Hằng cho đến khi Hằng chết.
Sau đó, Bình lấy điện thoại đi bán được 900.000 đồng. Nguyên nhân nạn bạo lực
học đường cũng có một phần do giáo dục của nhà trường còn nặng về kiến thức
văn hóa , đôi khi lãng quên đi nhiệm vụ giáo dục con người “tiên học lễ , hậu
học văn”. Mặt khác cuộc sống thực dụng chạy theo đồng tiền của một phần xã
hội đã đẩy ngã những giá trị quan trọng của nhà trường, đạo đức của học sinh.
* Sự quản lý lỏng lẻo, chưa có sự phối hợp hiệu quả giữa nhà trường với
gia đình
Nhà trường là môi trường giáo dục quan trọng để giúp cho các em ở lứa
tuổi vị thành niên hình thành nhân cách, định hướng cho các em trong cuộc sống
sau này. Chính sự quản lý lỏng lẻo của nhà trường, sự thiếu phối hợp giữa gia
đình và nhà trường dẫn đến trẻ em dễ hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu
cực, như chán nản, cảm thấy bất công, dẫn đến lười học, bỏ học, trốn học, tụ tập
bạn bè xấu và nghe theo sự lôi kéo của bạn bè dần hình thành các thói quen xấu,
như nghiện ma túy, ham mê cờ bạc, nghiện chơi games. Như tại Bản án số
456/2017/HSPT ngày 06/9/2017 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
xét xử Nguyễn Hoàng Minh Trí về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”: Khoảng
08 giờ 20 phút ngày 26/01/2016, ông Nguyễn Thành Trung là giám thị trường
92
Trung học phổ thông Marie Curie phát hiện Nguyễn Hoàng Minh Trí là học sinh
lớp 12A11 đưa cho Lê Nguyễn Gia Bảo là học sinh lớp 12D7 02 điếu thuốc lá.
Bảo khai Trí nhờ Bảo cầm 02 điếu thuốc lá đưa cho Nguyễn Thành Long là bạn
cùng lớp với Bảo. Nguyễn Hoàng Minh Trí khai nhận: Khoảng từ tháng
10/2015, Trí bắt đầu mua cần sa tại Công viên 23/9 của một người đàn ông
(không rõ lai lịch) về bán lại cho các học sinh trường Marie Curie gồm có:
Nguyễn Thành Long, Trần Phạm Hoàng Vũ, Phan Quang Long Hưng, Nguyễn
Minh Nguyên, Lê Quang Huy, Đoàn Minh Ý và Nguyễn Vương Trí Hiếu. Trí
không nhớ rõ đã bán cho mỗi bạn bao nhiêu lần, Trí đã thu lợi được khoảng
200.000 đồng đến 300.000 đồng. Khoảng 11 giờ ngày 23/01/2016, Trí đang
đứng tại quán nước mía trước cổng trường thì Nguyễn Thành Long đến gặp Trí
để đặt mua 02 điếu thuốc chứa cần sa với giá 30.000 đồng/điếu, Long hẹn ngày
25-26/01/2016 sẽ lấy. Khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, Trí điều khiển xe mô tô
hiệu Yamaha Sirius (không rõ biển số) mượn của bạn gái (không rõ lai lịch) đến
công viên 23/9 gặp người đàn ông (không rõ lai lịch) mua 02 điếu thuốc chứa
cần sa với giá 20.000 đồng/điếu. Đến khoảng 08 giờ 20 phút ngày 26/01/2016,
Trí cầm 02 điếu thuốc chứa cần sa đem đến lớp của Long để đưa cho Long,
nhưng không thấy Long nên Trí đưa cho Bảo nhờ chuyển lại cho Long, sau đó
Trí bỏ đi. Khoảng 45 phút sau thì Trí bị Giám thị mời lên làm việc. Nguyễn
Hoàng Minh Trí có cha mẹ đều là công nhân, kinh tế gia đình khó khăn, Trí lại
học chậm, nên dẫn đến chán nản, lười học, tụ tập bạn bè xấu, dẫn đến việc
nghiện ma túy và để có tiền mua ma túy sử dụng, Trí đã phạm vào tội mua bán
trái phép chất ma túy. Sự quản lý lỏng lẻo, chưa có sự phối hợp hiệu quả giữa
nhà trường với gia đình dẫn đến sự việc phạm tội trên.
c) Thực trạng những hiện tượng xã hội tiêu cực thuộc về môi trường chính
trị - kinh tế xã hội
Nhà nước là chủ thể quản lý trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và quản
lý cần được hiểu một cách đơn giản, nhưng phổ biến là một quá trình điều chỉnh
hành vi xã hội theo các bước: Đề ra mục đích quản lý, cơ chế quản lý; đề ra
mệnh lệnh quản lý mà hạt nhân là pháp luật; thực hiện mệnh lệnh quản lý, tức là
93
thực hiện pháp luật; kiểm tra việc thực hiện mệnh lệnh quản lý. Những hạn chế,
thiếu sót trong các bước này của công tác quản lí nhà nước trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh là một trong những yếu tố làm hình thành một số đặc điểm
nhân thân tiêu cực của con người sinh sống và làm việc trên địa bàn thành phố,
từ đó dẫn đến các hành vi phạm tội.
* Trên lĩnh vực kinh tế- xã hội
Dưới tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo
ngày càng rõ rệt, sự cạnh tranh trong kinh doanh diễn ra gay gắt và khốc liệt,
hàng năm cả nước có khoảng hơn 20.000 doanh nghiệp phá sản hoặc giải thể;
quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế trên địa bàn thành phố cũng dẫn đến tình
trạng mất việc làm, thất nghiệp gia tăng. Tình trạng này sẽ tác động đến tình
trạng thất nghiệp, mất việc làm, dẫn đến sự thất vọng, buồn chán, bi quan ở
những người thất nghiệp, dẫn đến một số lao vào cờ bạc, rượu chè, dẫn đến
nghiện cờ bạc, nghiện rượu, thậm chí nghiện ma túy, từ đó làm phát sinh các
hành vi phạm các tội phạm về ma túy; các tội xâm phạm sở hữu.
Sự phân hóa giàu nghèo diễn ra gay gắt, việc mở cửa, hội nhập, tăng
cường thu hút đầu tư tạo ra cơ hội mới cho sự phát triển, nhưng cũng dẫn đến
tình trạng làm ăn thất bại, phá sản. Số lượng sinh viên ra trường và số người đến
độ tuổi lao động hàng năm chiếm tỷ lệ khá cao trong thời điểm hiện nay, nhưng
chưa có biện pháp hỗ trợ và tạo công ăn việc làm cho số lao động này, công tác
đào tạo nghề trên địa bàn thành phố chưa theo kịp với xu hướng phát triển
chung; chính sách hỗ trợ doanh nghiệp chưa được quan tâm, chính sách cho vay
vốn vẫn còn nhiều điểm bất cập, thiếu đồng bộ, thiếu hiệu quả. Điều này làm cho
một bộ phận không thể kiếm được việc làm, doanh nghiệp không theo kịp sự
phát triển, dẫn đến làm ăn thất bại dẫn đến nghèo đói. Tình trạng này sẽ tác động
đến một bộ phận không nhỏ người dân của thành phố làm hình thành các đặc
điểm nhân thân xấu, như sự bi quan, chán nản, thất vọng, căm giận cuộc sống, bế
tắc … Từ đó thúc đẩy một số người phải kiếm tiền bằng mọi giá, kể cả lao vào
con đường phạm pháp, các tệ nạn xã hội. Như tại Bản án số 79/2017/HSST ngày
22/3/2017, của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử Nguyễn Văn
94
Huyền, sinh ngày: 26/8/1977 là Giảng viên môn tiếng Anh trường Đại học Công
nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm
e khoản 2 điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009,
như sau: từ tháng 11/2011 đến tháng 01/2012, Nguyễn Văn Huyền đã tự ý tổ
chức dạy học và thi trả nợ môn tiếng Anh cho sinh viên và tự ý thu tiền của sinh
viên, mặc dù trường không tổ chức học và thi lại cho các sinh viên này. Theo
báo cáo của trường Đại học Công nghiệp, sinh viên đã nộp cho Huyền
156.000.000 đồng và 2.800 USD tương đương 58.800.000 đồng, tổng cộng là
214.800.000 đồng. Do các sinh viên đóng tiền cho Huyền, không đóng tiền cho
trường và trường không tổ chức học và thi lại. Nhà trường hoàn toàn không biết
việc Huyền tự ý thu tiền của sinh viên, nên tất cả sinh viên này đều không được
công nhận kết quả thi lại, không nhận được bảng điểm môn tiếng Anh.
Một số người thất bại trong làm ăn, thất nghiệp, không kiếm được việc
làm nên chán nản, bế tắc, lại lao vào tệ nạn xã hội, nghiện games, cờ bạc, lô đề,
mại dâm, ma túy... để có tiền phục vụ các tệ nạn này nhiều người đã bất chấp
đạo đức, pháp luật để phạm tội. Vụ án trộm cắp tài sản của 04 bị cáo Nguyễn
Trường Thanh, Từ Công Thanh Bình, Dương Nguyễn Bảo Yến và Võ Thành
Đăng Khoa là một điển hình: muốn có tiền tiêu xài và chơi game, nên đã câu kết,
bàn bạc với nhau cùng đi chiếm đoạt xe gắn máy của người khác tại các địa bàn
tại Quận 7 đem bán lấy tiền tiêu xài. Từ ngày 21/12/2016 đến ngày 05/01/2017,
các bị cáo đã thực hiện nhiều vụ chiếm đoạt tài sản. Vụ thứ nhất: Ngày
21/12/2016, Từ Công Thanh Bình và Dương Nguyễn Bảo Yến thuê khách sạn
Duy, số 85 Lý Phục Man, phường Bình Thuận, Quận 7. Trưa ngày 22/12/2016,
Yến xuống quầy lễ tân thì thấy ở khách sạn có 03 chiếc xe máy không người
trông coi, nên báo cho Bình biết. Đến 16 giờ ngày 22/12/2016, Bình bàn với Yến
trộm cắp xe máy ở khách sạn, Yến đồng ý. Theo kế hoạch, Yến xuống quầy lễ
tân nói chuyện với nhân viên lễ tân, gây sự chú ý để Bình có cơ hội dùng thanh
kim loại (đoản) mở khóa xe. Sau đó, Yến đi đến nói chuyện với chị Trương Thị
Ngân Tâm là nhân viên lễ tân, còn Bình đi đến chỗ để xe ở tầng hầm của khách
sạn, dùng thanh kim loại (đoản) bẻ khóa xe máy hiệu Honda loại Airblade màu
95
đen bạc, biển số 59C1-306.84 của chị Nguyễn Xuân Thảo Vy. Sau khi lấy trộm
xe, Bình và Yến gặp nhau tại ngã ba Tân Mỹ và Nguyễn Thị Thập. Bình chở
Yến bằng xe máy vừa trộm được đến tiệm cầm đồ Hùng Phan, số 88/7 Lưu
Trọng Lư, Quận 7 do anh Lê Hùng Phan làm chủ, cầm xe máy được 10.000.000
đồng, cả hai tiêu xài và chơi game bắn cá hết. Vụ thứ hai: Khoảng 01 giờ ngày
05/01/2017, Từ Công Thanh Bình, Dương Nguyễn Bảo Yến, Võ Trường Thanh
và Võ Thành Đăng Khoa đang chơi game bắn cá thì Bình nói với Thanh là ở nhà
số 297A Huỳnh Tấn Phát, phường Tân Thuận Đông, Quận 7 có tài sản để sơ hở,
không người trông coi, nên cả nhóm bàn nhau trộm cắp tài sản ở nhà 297A
Huỳnh Tấn Phát. Bình đi một mình vào nhà số 297A Huỳnh Tấn Phát, dẫn chiếc
xe máy hiệu Exciter biển số 59C2-665.66 của anh Trần Minh Quốc Trị ra ngoài
và đem xe về nhà Bình cất giấu. Sau đó, Bình và Khoa quay lại chơi game bắn
cá tiếp. Đến sáng ngày 05/01/2017, Bình bảo Thanh lấy chiếc xe gắn máy vừa
trộm được chở Yến đi bán xe cho một thanh niên chưa rõ lai lịch ở Quận 3 với
giá 11.000.000 đồng. Thanh cho người thanh niên 1.000.000 đồng, Thanh và
Khoa được chia 4.500.000 đồng, trong đó Khoa đưa Thanh 1.350.000 đồng, còn lại
5.500.000 đồng Bình và Yến tiêu xài, chơi game bắn cá hết. Đây là một vụ án điển
hình mà việc cho phép kinh doanh các trò chơi ăn tiền mà không có sự quản lý
nghiêm của cơ quan có thẩm quyền, và một bên là lối sống đua đòi, tụ tập bạn bè
mê game, lười lao động, dù không có tiền họ vẫn sẵn sàng vi phạm pháp luật để có
tiền thỏa mãn nhu cầu, sở thích của mình.
Công tác quản lý nhân hộ khẩu, tạm trú, tạm vắng từng lúc còn buông
lỏng, nhất là số người ngoài địa phương đến làm ăn, sinh sống; số có tiền án, tiền
sự; đối tượng nghiện ma túy… là điều kiện thuận lợi cho các băng, ổ nhóm tội
phạm trên địa bàn phát triển cũng như nhiều nhóm tội phạm ở nơi khác đến ẩn
náu, móc nối với người tại địa phương để hoạt động phạm tội. Người lao động
nhập cư (người ngoài tỉnh và người nước ngoài) vào Thành phố Hồ Chí Minh để
làm việc và sinh sống có hai dạng: Nhập cư chính thức và nhập cư không chính
thức. Những người nhập cư chính thức họ mong muốn được ở lại Thành phố Hồ
Chí Minh lâu dài và định cư ở đây luôn nên họ thường đi cùng cả gia đình. Họ
96
thường thuê nhà hoặc mua nhà ở theo hộ gia đình của mình. Họ quan tâm đến
việc nhập hộ khẩu tại Thành phố Hồ Chí Minh, họ mong muốn ở ổn định tại đây
vì thế, họ luôn giữ mối quan hệ gắn kết với hàng xóm, láng giềng, chính quyền
địa phương. Ngược lại, người nhập cư không chính thức họ thường đến Thành
phố Hồ Chí Minh một mình để làm việc và gửi tiền về quê để nuôi gia đình. Để
tiết kiệm chi phí họ thường ở trọ ghép cùng bạn bè. Nơi ở của họ, chỉ là nơi nghỉ
ngơi sau một ngày làm việc mệt mỏi. Họ thường đi làm rất sớm rồi về nhà rất trể
nên không có điều kiện được tham gia các hoạt động địa phương, không tham dự
các cuộc họp tổ dân phố. Chính quyền địa phương cũng không có điều kiện tiếp
xúc với họ nên họ bị hạn chế những thông tin tuyên truyền pháp luật của địa
phương, họ không được tiếp cận các chính sách an sinh xã hội: như chính sách
dành cho hộ nghèo Người nghèo được cấp mã số hộ nghèo phải có hộ khẩu
thường trú tại địa phương. Họ không được mua bảo hiểm y tế tự nguyện tại địa
phương, con của họ được đi học tại địa phương nếu có đăng ký tạm trú trên 06
tháng. Họ phải đối mặt với những những chi phí phát sinh như: tiền thuê nhà trọ,
tiền điện, nước phải trả theo giá cao do phải mua điện nước từ chủ nhà trọ,
không được mua trực tiếp từ nhà nước, người nhập cư phải khéo chi tiêu thì mới
đảm bảo cuộc sống.
Ví dụ như vụ án cướp tài sản như sau: Ravi Parkash (Quốc tịch Ấn Độ) và
Attri Moon (Quốc tịch Mỹ) là bạn bè, cả hai đã nhiều lần nhập cảnh vào Việt
Nam. Ngày 30/11/2016, Attri Moon nhập cảnh vào Việt Nam lưu trú tại phòng
102 khách sạn Asiana, số 605 Lê Văn Lương, phường Tân Phong, Quận 7,
Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 14/02/2017, Parkash nhập cảnh vào Việt Nam
lưu trú tại căn hộ số 12, lầu 17, lô C2 chung cư New Sài Gòn, đường Nguyễn
Hữu Thọ, xã Phước Kiển, huyện Nhà Bè. Khoảng 23 giờ 30 phút ngày
20/3/2017, Ravi Parkash đem theo 01 cây roi điện đến phòng 102 khách sạn
Asiana gặp Attri Moon. Do cần tiền tiêu xài, nên cả hai bàn bạc cùng thống nhất
đặt xe GrabBike mục đích để cướp tài sản của tài xế. Sau đó, Moon sử dụng xe
gắn máy hiệu Nouvo 3, biển số 51S9-7262 chở Parkash đến trước quán Vườn
Thư Giãn tại đường Nguyễn Hữu Thọ, ấp 3, xã Phước Kiển, huyện Nhà Bè. Tại
97
đây, Parkash dùng điện thoại di động hiệu Samsung lấy tên Trinh Nguyễn đặt
GraBike, nơi đi là quán Vườn Thư Giãn, huyện Nhà Bè, nơi đến là sân bay Tân
Sơn Nhất, quận Tân Bình. Ông Lê Đức Tâm là nhân viên GrabBike nhận được
thông tin nên gọi điện thoại lại, thì Attri Moon nghe máy và ông Tâm hẹn 10
phút sau sẽ đón. Đến 00 giờ 24 phút ngày 21/3/2017, anh Tâm điều khiển xe gắn
máy hiệu Air Blade, biển số 59C1-678.59 đến điểm hẹn trước quán Vườn Thư
Giãn. Lúc này, Moon đang ngồi trên xe Nouvo, Parkash ngồi sát lề đường
Nguyễn Hữu Thọ cách Moon khoảng 2 mét. Ông Tâm dừng xe thì Moon dùng
tay chỉ qua Parkash. Ông Tâm xuống xe lấy nón bảo hiểm đưa cho Parkash. Bất
ngờ, Parkash dùng tay trái kẹp cổ ông Tâm, tay phải cầm sẵn roi điện bấm nút
chích vào dái tai bên phải và đẩy ông Tâm ngã vào lề đường. Parkash nhanh
chóng chiếm đoạt xe Air Blade biển số 59C1-678.59 của ông Tâm nổ máy, điều
khiển xe bỏ chạy. Trong lúc Parkash tấn công ông Tâm, Moon vẫn ngồi trên xe
Nouvo quan sát, thấy Parkash lấy được xe Air Blade của ông Tâm bỏ chạy,
Moon điều khiển xe Nouvo chạy theo. Đến 19 giờ ngày 24/3/2017, Parkash và
Moon bị lực lượng Cảnh sát Hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh phát
hiện và bắt giữ. Tại Bản án số 417/2017/HSST ngày 15/12/2017 của Toà án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử Ravi Parkash và Attri Moon về tội
“Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự và xử
phạt mỗi bị cáo 07 (bảy) năm tù.
Cùng với mặt trái của kinh tế thị trường, nhiều gia đình giàu lên nhanh
chóng, cũng có rất nhiều gia đình nghèo khó, đó cũng chính là một trong những
yếu tố đã tác động đến hình thành nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu
nói riêng và tội phạm nói chung trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Qua số
liệu thống kê 100 vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
cho thấy có đến gần 74,45%% bị cáo có việc làm không ổn định hoặc không có
việc làm và có đến 72,05% bị cáo có hoàn cảnh kinh tế chỉ đủ ăn, túng thiếu.
Chính từ con số này đã cho thấy do không có việc làm ổn định, hoặc không có
việc làm mà thu nhập của các đối tượng này rất thấp hoặc không có, nhu cầu
cuộc sống, giá trị đồng tiền trong cuộc sống được coi trọng, cuộc sống gia đình,
98
bản thân không được đảm bảo, gặp yếu tố môi trường, hoàn cảnh xấu tác động
họ sẵn sàng phạm tội. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị
trường mang lại nhiều mặt tích cực, thì trong quá trình điều hành, quản lý của
Nhà nước cũng có nhiều vấn đề mặt trái mà từ đó sẽ tạo điều kiện môi trường
xấu cho hành vi phạm tội xảy ra. Ngoài ra, người nhập cư thường có đời sống
kinh tế khó khăn, đời sống sinh hoạt thiếu thốn cả vật chất và tinh thần, nên họ
làm mọi cách để kiếm tiền. Nghiên cứu hồ sơ vụ án cho thấy các bị cáo không ở
cố định một địa phương nào, di chuyển liên tục qua các tỉnh thành phố khác nhau.
Điều này cho thất, việc quản lý nhân khẩu lỏng lẻo không xác định dược nhân
khẩu của từng địa phương nên sẽ khó kiểm soát được tình hình an ninh trật tự.
* Trên lĩnh vực văn hóa
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, văn hóa của cả nước, với
nhiều tiềm năng phát triển Thành phố đã, đang thu hút được nhiều sự đầu tư của
các doanh nghiệp trong nước và khu vực. Lượng dân nhập cư vào Thành phố
sinh sống, làm việc ngày càng tăng, đặc biệt hàng năm có hàng triệu lượt khách
du lịch ghé đến nghỉ ngơi, thăm quan. Với sự du nhập của văn hóa độc hại thời
mở cửa, nó đã ảnh hưởng rất xấu đến sự phát triển tâm lý, gây ra sự lệch lạc về
đạo đức, lối sống của một bộ phận dân cư, dẫn đến sự xuống cấp, suy thoái về
đạo đức, lười lao động, thích hưởng thụ, ăn chơi đua đòi, sống gấp, sa đà vào các
tệ nạn xã hội, đặc biệt là tệ nạn về ma túy gây ảnh hưởng rất xấu đối với xã hội,
làm tha hóa về nhân cách, suy đồi về đạo đức và ảnh hưởng nghiêm trọng đến
giống nòi. Hiện nay, trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có rất nhiều cơ sở
hoạt động kinh doanh có điều kiện như: quán bar, vũ trường, khách sạn, nhà
nghỉ, quán karaoke, game, internet... Tuy nhiên công tác quản lý, theo dõi, giám
sát của cơ quan chức năng đôi lúc còn lỏng lẻo, chế tài xử phạt đối với những
chủ cơ sở này chưa thật sự nghiêm khắc do vậy chưa tạo được tính tuân thủ. Đây
chỉnh là môi trường thuận lợi kích thích làm hình thành nhiều đặc điểm nhân
thân xấu, như thói quen hưởng thụ, thói quen rượu chè, nghiện hút, nghiện phim
ảnh bạo lực, tình dục… Nghiên cứu vụ án Nguyễn Hữu Chánh; sinh ngày:
29/09/1994, đã chuyển đổi giới tính thành nữ, như sau: Vào lúc 20 giờ ngày
99
14/6/2017, Nguyễn Hữu Chánh rủ Huỳnh Thanh Tú đi trộm cắp tài sản của
người nước ngoài bằng thủ đoạn tiếp cận rủ đi vào khách sạn massage hay mua
dâm rồi lợi dụng sơ hở để chiếm đoạt tài sản. Tú đồng ý và điều khiển xe mô tô
Honda hiệu Vision màu đỏ biển số 59E1-748.41 chở Chánh đi qua nhiều tuyến
đường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Khi đến trước nhà số 149 Pasteur,
Phường 6, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh thì phát hiện một người đàn ông
nước ngoài (chưa xác định được lai lịch và quốc tịch) đang đi bộ trên lề đường
theo hướng cùng chiều, nên Tú dừng xe lại để Chánh đi xuống tiếp cận nói
chuyện và rủ người đàn ông này đi khách sạn massage và mua dâm. Trong lúc
nói chuyện, Chánh dùng tay trái thò vào túi hộp để phía bên phải quẩn lửng của
người đàn ông này lấy được một điện thoại di động Iphone 6S Plus màu xám đen
rồi lên xe để Tú chở chạy thoát. Do không biết mình bị lấy trộm điện thoại di
động nên người đàn ông này bỏ đi. Trên đường tẩu thoát, Chánh tháo sim điện
thoại vừa lấy được ra ném đi và nói Tú chạy về nhà số 578/1 Hưng Phú, Phường
9, Quận 8 để cất giấu điện thoại. Tại đây, Chánh nói với bà Đặng Mỹ Châu biết
chiếc điện thoại vừa lấy được là của Chánh, do bị hết pin nên gửi lại cho bà
Châu nhờ giữ giùm và hẹn đến lấy sau. Sau đó, Tú điều khiển xe mô tô Honda
hiệu Vision màu đỏ biển số 59E1-748.41 tiếp tục chở Chánh đi trộm cắp tài sản
của người nước ngoài cũng với hình thức và thủ đoạn nêu trên. Đến khoảng 22
giờ cùng ngày, khi đi đến trước trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh,
địa chỉ số 59C Nguyễn Đình Chiểu, Phường 6, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
phát hiện ông Daniel Martin Evan và ông Sandler Lourence Ernst (quốc tịch Mỹ)
đang đi bộ trên lề đường theo hướng cùng chiều nên Tú dừng xe lại để Chánh đi
xuống tiếp cận nói chuyện rủ ông Daniel Martin Evan đi vào khách sạn massage.
Trong lúc nói chuyện, Chánh dùng tay phải sờ vào dương vật của ông Daniel
Martin Evan để làm mất chú ý, đồng thời dùng tay trái thò vào túi quần phải của
ông Daniel Martin Evan lấy được một điện thoại di động Iphone 6 màu vàng rồi
lên xe để Tú chở chạy thoát thì bị ông Daniel Martin Evan phát hiện đuổi theo và
nắm được đuôi xe của Tú, Chánh kéo lại. Tú tiếp tục tăng ga bỏ chạy và kéo lê
ông Daniel Martin Evan một đoạn thì bị quần chúng nhân dân bắt giữ giao cho
100
Công an Phường 6, Quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh lập biên bản bắt người
phạm tội quả tang đồng thời chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh xử lý.
3.3.2. Thực trạng những hiện tượng xã hội tiêu cực thuộc về người
phạm tội
Ngoài những yếu tố khách quan, sự hình thành các đặc điểm nhân thân
người phạm tội còn phụ thuộc vào chính những đặc điểm thuộc chủ quan người
phạm tội, như các đặc điểm tâm, sinh lý, thói quen, sở thích, lối sống, quan điểm
của người phạm tội.
a) Sai lệch trong phương thức thoả mãn nhu cầu
Nghiên cứu 200 bản án hình sự của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh, cho thấy, từ những sở thích lệch lạc như tụ tập bạn bè xấu, ăn chơi, uống
rượu, nghiện ma túy, nghiện games, cờ bạc là những nguyên nhân sâu xa dẫn
đến việc các bị cáo phạm tội. Nghiên cứu bản án 241/2017/HSST ngày 16/7/2017
của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh: Khoảng 14 giờ ngày 10/3/2016, bị
cáo Trần Như Minh Phong điều khiển xe môtô nhãn hiệu Yamaha, loại Taurus,
màu đen, biển số 54L4-7476 đi đến hẻm số 43 Thống Nhất, quận Gò Vấp thì gặp
Trương Trọng Hiếu (sinh năm 1999; thường trú: 54/2 Trần Quang Khải, phường
Tân Định, Quận 1). Lúc này, Phong rủ Hiếu đi gặp một người có tên là Phước
(không rõ lai lịch) để đòi số tiền 800.000 đồng tại khu vực chợ Bà Chiểu, Hiếu
đồng ý. Phong điều khiển xe chở Hiếu đến chợ Bà Chiểu nhưng không gặp được
Phước. Lúc này, Hiếu nói với Phong đưa xe cho Hiếu chở để đi qua nhà mẹ nuôi
của Hiếu xin tiền tiêu xài, Phong đồng ý. Hiếu điều khiển xe môtô chở Phong
hướng từ quận Bình Thạnh về Quận 1. Khi đi ngang qua số 66 Trường Sa,
Phường 17, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, cả hai nhìn thấy ông
Hwang Sungjoon (sinh năm 1968; Quốc tịch Hàn Quốc; Hộ chiếu số:
M03352696) đang đứng bấm điện thoại hiệu Samsung Galaxy S6, màu đen tại
góc ngã ba đầu hẻm số 64 Trường Sa, Phường 17, quận Bình Thạnh. Hiếu và
Phong đã chạy qua chỗ ông Hwang Sungjoon đứng khoảng 05 đến 06 mét, rồi rẽ
trái quay đầu xe theo hướng ngược lại và đi vào hẻm 64 Trường Sa. Khi Hiếu
101
đang điều khiển xe vào hẻm 64 cách vị trí ông Hwang Sungjoon khoảng 0,5 mét,
Phong ngồi phía sau dùng tay trái giật điện thoại Samsung Galaxy S6 màu đen
của ông Hwang Sungjoon, nhưng chỉ nắm được phần đỉnh đầu của điện thoại,
ông Hwang Sungjoon giằng co giữ lại nên Phong không giật được. Ngay lúc đó,
có trinh sát Công an quận Bình Thạnh đang tuần tra nhìn thấy Hiếu và Phong
giật điện thoại của ông Hwang Sungjoon nên đuổi theo. Khi đến trước số 97
Nguyễn Cửu Vân, thì bắt giữ được Phong và Hiếu giao cho Công an phường 17,
quận Bình Thạnh lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, sau đó Công an
Phường 17, quận Bình Thạnh chuyển hồ sơ cùng Phong và Hiếu đến Cơ quan
Cảnh sát Điều tra - Công an quận Bình Thạnh điều tra thụ lý.
Qua bản án cho thấy sự lệch lạc về sở thích, lối sống đã dẫn bị cáo đến
con đường phạm tội. Qua nghiên cứu hoàn cảnh gia đình bị cáo cho thấy, gia
đình có kinh tế không ổn định, bị cáo nghiện game và thường xuyên trộm cắp tài
sản của gia đình để thỏa mãn thú vui của mình.
b) Sai lệch trong sở thích cá nhân
Trong tâm lý của con người bình thường luôn tồn tại các nhu cầu về vật
chất, tuy nhiên đối với người đã thành niên, họ nhận thức được rằng, muốn thỏa
mãn nhu cầu thì cần phải lao động, có lao động thì mới có hưởng thụ, họ nhận
thức được đâu là hành vi được phép và không được phép làm trong xã hội.
Trong khi đối với người chưa thành niên, nhu cầu vật chất luôn thúc ép lên tâm
lý họ đòi hỏi sự thỏa mãn, nhưng với độ tuổi và năng lực và điều kiện sống phụ
thuộc thì họ không thể nào lao động, làm việc thỏa mãn nhu cầu của mình, sự
mâu thuẫn giữa nhu cầu và thỏa mãn nhu cầu kết hợp với sự kém nhận thức về
hành vi, về pháp luật đã làm cho họ sẵn sàng thực hiện các hành vi phạm tội.
Điển hình như trường hợp của bị cáo Nguyễn Văn Minh, sinh ngày 26 tháng 3
năm 2001 nghề nghiệp: phụ buôn bán; trình độ văn hoá: 6/12. Khoảng 15 giờ 30
phút ngày 28/01/2017, Nguyễn Văn Minh điều khiển xe mô tô biển số 51T7-
3153 lưu thông trên đường Ký Con, quận 1, hướng từ đường Nguyễn Thái Bình
ra đường Trần Hưng Đạo, quận 1. Khi đến trước nhà số 169 Ký Con, phường
Nguyễn Thái Bình, quận 1, Minh nhìn thấy bà Elizabeth Kelsey Bagust đang đi
102
bộ trên vỉa hè gần sát lề đường bên trái đường Ký Con, phía sau túi quần bên
phải của bà Elizabeth Kelsey Bagust có để một điện thoại di động hiệu Iphone 6
Plus, liền nảy sinh ý định cướp giật điện thoại bán lấy tiền tiêu xài. Minh điều
khiển xe quay lại áp sát bên phải bà Elizabeth Kelsey Bagust và dùng tay trái
giật điện thoại di động của bà Elizabeth Kelsey Bagust rồi tăng ga xe tẩu thoát.
Tại bản án số 326/2017/HSST ngày 01 tháng 9 năm 2017, Toà án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử Nguyễn Văn Minh về tội “Cướp giật tài sản”
theo Điểm d, Khoản 2, Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ
sung năm 2009 và xử phạt Nguyễn Văn Minh 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.
c) Sai lệch trong ý thức pháp luật
* Sự coi thường các giá trị đạo đức, pháp luật
Nghiên cứu các vụ án trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy
một thực tế rằng, vấn đề đạo đức của một bộ phận người phạm tội đang xuống
cấp một cách nghiêm trọng; có những gia đình vì lợi nhuận ma tuý, bố mẹ lôi
con cái, vợ lôi kéo chồng, anh em lôi kéo nhau vào con đường cùng phạm tội.
Tại bản án mua bán trái phép chất ma túy với nội dung vụ án như sau: Cao Thị
Thúy Nhi và Cao Quang Phong là chị em sống cùng cha tại Thành phố Cần Thơ,
mẹ bỏ đi khi cả hai còn nhỏ. Đầu năm 2015, Nhi lên Thành phố Hồ Chí Minh
thuê căn hộ C11-16 chung cư Carina, 1648 Võ Văn Kiệt, Phường 16, Quận 8 để
ở. Vào lúc 21 giờ ngày ngày 10/9/2015, Cơ quan Điều tra khám xét nơi ở của
Cao Thị Thúy Nhi tại căn hộ C11-16 chung cư Carina, 1648 Võ Văn Kiệt,
Phường 16, Quận 8, thu giữ 10 gói tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, có
khối lượng 448,91g loại MA, 01 gói tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, có
khối lượng 506,23g loại MA và 1395 viên nén bầu dục màu xanh có khắc số “6”
là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 380,70g loại MDMA. Tại Cơ quan Điều tra,
Cao Thị Thúy Nhi và Cao Quang Phong khai nhận hành vi phạm tội như sau:
Cao Thị Thúy Nhi mua bán các loại ma túy như MA, MDMA từ tháng 04/2015
đến khi bị bắt. Quá trình mua bán ma túy, Nhi gọi em trai là Cao Quang Phong
đến nhà ở chung để phụ Nhi thu tiền bán ma túy và kinh doanh quán trà sữa. Tại
bản án số 176/2018/HS-ST ngày 28/5/2018 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ
103
Chí Minh đã xét xử Cao Thị Thúy Nhi và Cao Quang Phong về tội “Mua bán trái
phép chất ma túy”. Xử phạt Cao Thị Thúy Nhi tù chung thân và xử phạt bị cáo
Cao Quang Phong 06 (sáu) năm tù. Điều này cho thấy vấn đề đạo đức đang
xuống cấp trong một bộ phận người phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, họ
đã lôi kéo các đối tượng là người cùng gia đình, dòng họ, tạo đường dây khép
kín phạm tội là một vấn đề đáng lo ngại. Với sức hút ma lực đồng tiền và lợi
nhuận khủng khiếp của việc mua bán ma túy; cùng với đó, hình thức xử phạt
nghiêm khắc của pháp luật đối với tội mua bán trái phép chất ma túy, đặc điểm
tội phạm mua bán trái phép chất ma túy, không những không chấp hành pháp
luật mà sẵn sàng chống đối pháp luật. Nghiên cứu cho thấy, số lượng mua bán
ma túy càng lớn là sự bất chấp và coi thường pháp luật càng cao. Đối tượng
phạm tội mua bán trái phép chất ma túy sẵn sàng chống đối pháp luật, chống
trả cơ quan bảo vệ pháp luật đến cùng khi bị phát hiện. Thậm chí sẵn sàng trả
thù theo kiểu “luật rừng ma túy” nếu chúng phát hiện ra những quần chúng tố
giác chúng. Vụ việc trên có thể thấy rằng, với sức hút của “đồng tiền” cộng thêm
nhận thức hạn chế, ý thức coi thường pháp luật, dùng “luật rừng ma túy” mà công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy gặp nhiều khó khăn.
Thực tế cho thấy rằng, trong đời sống xã hội hiện nay, trước sự coi trọng
đồng tiền và có thể nói “hám tiền, muốn giàu nhanh mà không cần bỏ sức lao
động”, thích hưởng thụ hay những “con nghiện” khi đã không biết quay đầu lại
để làm lại từ đầu, tiếp tục muốn thỏa mãn cơn nghiện khi không có tiền, những
con người này đã coi thường giá trị đạo đức, bất chấp pháp luật thực hiện hành
vi mua bán trái phép chất ma túy, xâm phạm sở hữu. Số liệu trên cho thấy, đa số
đối tượng phạm tội không có việc làm, có hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn.
Thực trạng trên cho thấy, đây là nguyên nhân căn bản dẫn đến tình hình tội phạm
ngày càng gia tăng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
* Tâm lý sống gấp, ăn chơi, đua đòi
Lối sống gấp, chơi bời là một trong các nguyên nhân dẫn đến hành vi
phạm tội. Nhiều người phạm tội muốn thỏa mãn nhu cầu cá nhân đến kiếm
tiền để ăn chơi, làm giàu. Nghiên cứu các bản án tại Tòa án nhân dân Thành phố
104
Hồ Chí Minh, thấy vấn đề đạo đức của một số người đang xuống cấp nghiêm
trọng, nhất là trong giới trẻ hiện nay, tội phạm ngày một trẻ hóa và gia tăng. Đặc
điểm của sự phạm tội này là sự lười biếng, học vấn thấp, thiếu quan tâm giáo
dục, quản lý của gia đình, muốn có tiền bằng mọi giá kể cả mua bán trái phép
chất ma túy. Như vụ án Huỳnh Lê Trà Giang, sinh ngày 05/4/1986 và Lâm Mạnh
Cường, sinh ngày 18/5/1990 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo
quy định tại khoản 3 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm
2009. Vào lúc 01 giờ 30 ngày 11/01/2017, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma
túy Công an Quận 8 phối hợp với Công an Phường 16, Quận 8 kiểm tra hành
chính phòng trọ số 54 nhà số 172/194/3/11D An Dương Vương Phường 16,
Quận 8 phát hiện Huỳnh Lê Trà Giang và Lâm Mạnh Cường có hành vi tàng trữ
trái phép ma túy để bán, thu giữ được 01 túi nylon chứa tinh thể không màu để
bên trong một thùng thiếc đặt tại lối đi phía tường bên ngoài phòng, qua giám
định không tìm thấy các chất ma túy thường gặp. Thu trong phòng trên tầng trệt
01 túi nylon chứa tinh thể không màu bên trong 01 hộp đen hiệu Promise since
1997 treo phía trong trên cửa chính; 01 túi nylon chứa tinh thể không màu bên
trong ngăn kéo thứ nhất từ trên xuống của tủ để quần áo; 01 túi nylon chứa tinh
thể màu trắng bên trong bao thuốc lá hiệu Jet ở trong ngăn kéo thứ 2 từ trên
xuống của tủ để quần áo. Thu trên gác: 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng
nằm trong 01 vỏ hộp Vinamilk tại sát tường trước cạnh cầu thang, 02 gói nylon
chứa tinh thể không màu để trong ca nhựa màu trắng. Qua giám định, 04 gói
nylon chứa tinh thể không màu giám định có tổng khối lượng 156,6389 gram là
ma túy ở thế rắn, loại Methamphetamine; 02 gói chứa tinh thể màu trắng giám
định có tổng khối lượng 345,1091 gram không tìm thấy các chất ma túy thường
gặp, theo Kết luận giám định số 318/KLGĐ-H ngày 03/3/2017 của Phòng Kỹ
thuật Hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh.
* Hạn chế về hiểu biết pháp luật
Trình độ học vấn tác động trực tiếp đến quá trình nhận thức của người về
thế giới quan, từ đó quyết định cơ chế hành vi của con người. Khi con người
có trình độ, hiểu biết thì nhận thức được hành vi của mình là đúng hoặc sai, từ
105
đó điều chỉnh hành vi của mình phù hợp và đúng quy định pháp luật. Ngược lại,
khi con người có trình độ học vấn thấp, thậm chí không có học vấn (thất học)
thì những người này sẽ không nhận thức được hành vi mình là đúng hay sai,
gặp những môi trường tiêu cực, dễ hình thành những sai lệch trong ý thức pháp
luật mà không hay biết, khi đó, những người này rất dễ rơi vào tình trạng ấu
trĩ pháp luật và hư vô pháp luật. Nghiên cứu tình hình phạm tội do người
phạm tội hình sự trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua cho
thấy số người phạm tội có trình độ học vấn thấp chiếm tỉ lệ cao. Đánh giá tình
hình về trình độ học vấn của người phạm tội cho thấy, số đối tượng phạm tội
phần lớn là những đối tượng hạn chế về trình độ học vấn dẫn đến những hạn chế
trong hiểu biết pháp luật (có thể ấu trĩ pháp luật hoặc hư vô pháp luật), đây là
một trong những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tình hình các tội phạm,
biểu hiện ở các hình thức sau:
Hư vô pháp luật: Hư vô pháp luật là sự hiểu biết lơ mơ về pháp luật. Hư
vô không phải không cũng không phải có, hiểu mà như không hiểu, hiểu biết một
cách lệch lạc, mơ hồ về quy định pháp luật. Không hiểu biết hoặc có hiểu biết
nhưng sự hiểu biết đó rất hạn chế, còn mơ hồ dẫn đến việc thực hiện hành phạm tội
là điều tất yếu. Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp người thực hiện hành vi phạm
tội mà không hề biết hành vi đó là hành vi vi phạm pháp luật.
Ấu trĩ pháp luật: Ấu trĩ pháp luật là sự non nớt về pháp luật, ngộ nhận
về hiểu biết pháp luật hoặc nhận thức về pháp luật kém do chưa được phổ
biến, chưa có tri thức về pháp luật. Vì vậy, sự hiểu biết về pháp luật của người
phạm tội còn rất hạn chế, thậm chí có những người phạm tội còn không rõ về
quyền và nghĩa vụ của bản thân mình, họ không biết mình được làm gì và
không được làm gì. Chính sự ấu trĩ về pháp luật đã hình thành ý thức pháp
luật lệch chuẩn dẫn đến hành vi phạm tội, như vụ án Trần Đình Hoàng Dũng như
sau: Tháng 02/2017, Trần Đình Hoàng Dũng được giới thiệu vào làm bảo vệ tại
cửa hàng kinh doanh điện thoại di động FPT Shop, địa chỉ số 46, đường Nguyễn
Ảnh Thủ, khu phố 10, phường Tân Chánh Hiệp, Quận 12, thời gian bảo vệ từ 20
giờ đêm hôm trước cho đến 08 giờ sang hôm sau. Khoảng 02 giờ 30 phút ngày
106
22/3/2017, trong lúc bảo vệ, Dũng phát hiện ổ khóa kho không bấm lại nên mở
cửa vào trong kho trộm cắp 01 điện thoại di động Samsung J7 Prime và 02 điện
thoại di động hiệu Nokia Xperia XA Ultra cất trong người. Sau khi lấy trộm,
Dũng bấm ổ khóa lại rồi đi ra ngoài tiếp tục trông coi cửa hàng. Đến khoảng 08
giờ cùng ngày, Dũng bàn giao lại cửa hàng cho nhân viên FPT Shop rồi mang 03
điện thoại di động đã trộm được ra ngoài, nhờ 01 người bạn tên Phương (chưa
xác định) bán giúp 02 điện thoại di động hiệu Nokia Xperia XA Ultra được số
tiền là 6.200.000 đồng, Dũng cho Phương 200.000 đồng. Riêng chiếc điện thoại
di động Samsung J7 Prime Dũng bán được 3.000.000 đồng, tiền bán 03 điện
thoại trên Dũng đã tiêu xài hết. (Theo bản án hình sự sơ thẩm số 221/2017/HS-ST
ngày 01/12/2017 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh). Nghiên
cứu hồ sơ thấy Trần Đình Hoàng Dũng sống trong gia đình không có cha, mẹ lại
mất sớm, không được đi học và không có ai trực tiếp dạy dỗ, giáo dục, nên có nhận
thức sai lệch, ấu trĩ về pháp luật đưa đến hành vi vi phạm pháp luật.
3.4. Nhận xét đánh giá chung
Sau khi phân tích hệ thống thực tiễn đặc điểm nhân thân người phạm tội trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh là cơ sở để nghiên cứu sinh tìm ra các hiện tượng
xã hội tiêu cực tác động đến sự hình thành nhân thân tiêu cực để giải thích vì sao
con người lại thực hiện hành vi phạm tội và tại sao lại hình thành đặc điểm nhân
thân tiêu cực đó của người phạm tội. Kết quả nghiên cứu cho thấy thực trạng nhân
thân người phạm tội và thực trạng những hiện tượng xã hội tiêu cực tác động đến sự
hình thành nhân thân người phạm tôi trên địa bàn thành phố Hố Chí Minh có sự tác
động ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khác nhau.
Qua thực tiễn nghiên cứu các bản án của các loại tội phạm trên cho thấy số bị
cáo chủ yếu là nam giới, tập trung ở độ tuổi từ 18 đến 30, cho thấy tội phạm đang có
xu hướng trẻ hóa thực sự rất đáng báo động, ngày càng diễn biến phức tạp và trên đà
gia tăng. Trong giai đoạn 2009 - 2018, trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có số vụ
án về ma túy nhiều nhất với 24.003 vụ, chiếm tỷ lệ 40,26%, tiếp đến là các tội xâm
phạm sở hữu với 21.571 vụ, chiếm tỷ lệ 36,18%. Số vụ án và số bị cáo hằng năm đều
tăng, chưa được kiềm chế một cách hiệu quả, liên tục gia tăng; các chỉ số đều phản
107
ảnh rõ về mối tương quan, về tỷ lệ, giúp xác định nhân tố bộ phận cũng như tổng thể
trong mối tương quan tương ứng. Như vậy, số đối tượng phạm tội có trình độ trung
học cơ sở chiếm đa số (79,6%), còn lại là số tội phạm không biết chữ hoặc đã bỏ học.
Qua kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án cho thấy có nhiều yếu tố tiêu cực tác động
đến quá trình hình thành đặc điểm nhân thân người phạm tội, bao gồm những yếu tố
thuộc về môi trường sống như: gia đình, nhà trường, những hiện tượng tiêu cực thuộc
nền kinh tế xã hội và những yếu tố thuộc về bản thân các người phạm tội như như sai
lệch phương thức thoả mãn nhu cầu, sở thích cá nhân và ý thức pháp luật.
- Nguyên nhân từ khía cạnh gia đình: Trong những năm qua, vấn đề giáo dục
con cái trong nhiều gia đình chưa thật sự được chú trọng. Do tập trung thời gian cho
việc kiếm tiền, rất nhiều gia đình gần như giao việc giáo dục con cái cho nhà
trường. Một bộ phận gia đình kinh tế khó khăn có quan niệm chỉ cần học biết chữ,
biết đếm, sau đó bỏ học đi làm kinh tế. Hầu hết các em học sinh hư, học kém… đều
rơi vào gia đình hoàn cảnh khó khăn hoặc éo le như cha mẹ ly hôn, ly thân… Mối
quan hệ giữa gia đình và nhà trường còn lỏng lẻo dẫn đến con bỏ học, chơi bời hư
hỏng mà cha mẹ không biết, không quan tâm đến việc học tập của con cái. Thiếu sự
kèm cặp, giáo dục của gia đình, nên các em quen với lối sống tự do, buông thả, dễ
tiếp thu những mặt trái của xã hội, dễ đi vào con đường phạm tội. Mặt khác, một số
ít gia đình có một con nên nuông chiều con quá mức, tạo cho trẻ lối sống thích gì
được nấy dẫn đến có những nhu cầu vượt quá khả năng của gia đình và khi không
đáp ứng được nhu cầu dẫn đến có những hành vi vi phạm pháp luật.
- Nguyên nhân từ khía cạnh giáo dục nhà trường: Nhà trường là một môi
trường giáo dục quan trọng để giúp cho các em ở lứa tuổi vị thành niên hình thành
nhân cách, định hướng cho các em trong cuộc sống sau này. Nếu không được giáo
dục một cách toàn diện, lại sớm phải va chạm với thực tế cuộc sống khó khăn, dễ
dẫn các em vào con đường phạm tội. Mặt khác, trong những năm vừa qua, nhà
trường chỉ chú trọng đến công tác giảng dạy kiến thức cơ bản về văn hóa, khoa học,
kỹ thuật; việc giáo dục nhân cách cho các em chưa thực sự được quan tâm. Trong
mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường vẫn còn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm
trong quản lý, giáo dục học sinh. Bên cạnh đó, trong học đường còn có một số tiêu
108
cực, đã hình thành trong tâm hồn các em những nhận thức sai lệch về chuẩn mực xã
hội, dẫn đến sự chán đời, lười học và bỏ học, từ đó nảy sinh tình trạng tụ tập, đàn
đúm thực hiện hành vi phạm pháp.
- Nguyên nhân từ khía cạnh môi trường xã hội: Môi trường xã hội có tác
động sâu sắc đến quá trình hình thành nhân cách của mỗi cá nhân và không thể tách
rời sự phát triển của cá nhân với xã hội. Trong thời gian qua, xã hội đã có những
biến động do tác động của kinh tế thị trường kéo theo sự thay đổi của các mặt đời
sống xã hội như: sự du nhập của văn hóa, công nghệ từ môi trường vào một cách ồ
ạt. Trong khi đó, một bộ phận dân cư mà đa số là thanh thiếu niên không được trang
bị những kiến thức, hiểu biết để đề kháng với những thay đổi của đời sống xã hội đã
bị tác động bởi các tiêu cực xã hội, hình thành lối sống thực dụng, hưởng thụ. Sự
quan tâm của xã hội, nhà trường và gia đình đối với người chưa thành niên không
đủ để trang bị cho họ những hiểu biết, uốn nắn trước những sai trái, lâu dần hình
thành động cơ phạm tội.
Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, văn hóa, đạo đức, lối sống trong
quần chúng nhân dân nhất là thanh thiếu niên chưa được coi trọng đúng mức, còn
thiếu cả về bề rộng và chiều sâu. Do vậy, việc nắm vững pháp luật và thực hiện pháp
luật còn hạn chế, nhiều người chưa nhận thức đầy đủ về tội phạm, tính nguy hiểm của
mình do không hiểu biết pháp luật. Một bộ phận không nhỏ đối tượng là người chưa
thành niên khi thực hiện hành vi mà không biết rằng đó là hành vi phạm tội.
Công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự còn nhiều yếu kém, bất cập, thiếu
toàn diện, sâu sát như quản lý đối tượng tại cộng đồng dân cư, quản lý nhân, hộ khẩu,
quản lý tạm trú, tạm vắng, có nhiều trường hợp đối tượng đi khỏi địa phương nhiều
tháng đến khi có thông báo về việc bắt đối tượng phạm tội của Công an địa phương
khác, thì chính quyền địa phương mới nắm được việc đi khỏi địa phương của đối
tượng, đây chính là một trong những sơ hở làm tội phạm nảy sinh, tồn tại và phát triển.
Các hoạt động phòng ngừa riêng của các lực lực lượng chuyên trách còn nhiều
hạn chế, hiệu quả chưa cao. Các hoạt động quản lý đối tượng có điều kiện khả năng
phạm tội còn chưa chặt chẽ, thiếu tính hệ thống và thiếu thông tin giữa các địa bàn. Các
hoạt động nghiệp vụ trinh sát trong ngăn chặn, phát hiện người chưa thành niên phạm
109
tội còn gặp nhiều khó khăn do một phần hạn chế của cán bộ làm công tác này.
Kết luận chương 3
Tìm hiểu và làm rõ thực trạng tội phạm từ khía cạnh nhân thân người
phạm tội và là cơ sở để đưa ra các biện pháp phòng ngừa được hiệu quả, nghiên
cứu sinh đã nghiên cứu 250 bản án được lựa chọn ngẫu nhiên, trong đó có 100
bản án xét xử về các tội phạm về ma túy và 100 bản án xét xử về các tội xâm
phạm sở hữu và 50 bản án của các tội còn lại và khảo sát bằng phiếu điều tra xã
hội học một số đối tượng thuộc các cơ sở giáo dục như giáo viên, lãnh đạo nhà
trường, Thẩm phán, Kiểm sát viên, bị cáo…Từ đó kết luận trong nội dung
chương này nghiên cứu sinh đã phân tích làm rõ về những nội dung sau:
Một là, làm rõ những đặc điểm nhân thân người phạm tội nói trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh thông qua nghiên cứu hồ sơ và số liệu Toà án Thành
phố Hồ Chí Minh cũng như phiếu khảo sát xã hội học làm rõ một số đặc điểm
như: Về giới tính, số người phạm tội có giới tính nam và số người có giới tính nữ
phạm tội hiện nay khá tương đồng, tỷ lệ này tuy có sự chênh lệch nhưng sự
chênh lệch là không đáng kể. Độ tuổi nổi trội của người phạm tội là khoảng 18
đến 30 tuổi, lứa tuổi chưa có suy nghĩ và hành động chín chắn. Đặc điểm thất
học hoặc trình độ học vấn thấp là đặc trưng nhân thân rất phổ biến của người
phạm tội. Đặc điểm địa bàn cư trú hoặc sinh sống nổi trội của người phạm tội là
ở địa bàn thành phố. Những người sống ở vùng nông thôn chỉ chiếm một tỷ lệ
nhỏ. Đặc điểm về hoàn cảnh gia đình nổi trội là nghèo túng, kinh tế khó khăn, bố
mẹ ly hôn; bố mẹ thường xuyên cãi chửi nhau… Thất nghiệp hoặc nghề nghiệp
không ổn định, thu nhập thấp cũng là đặc điểm nhân thân đặc trưng rất điển hình
của những người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Tương tự, như
vậy, đặc điểm nghiện ma túy cũng là đặc điểm nhân thân rất đặc trưng, điển hình
của người phạm tội và một đặc trưng nổi trội thể hiện tính chất, mức độ rất nguy
hiểm của tình hình các tội phạm ở Thành phố Hồ Chí Minh là tái phạm. Có thể
thấy nhiều người phạm tội phạm là người nghiện ma túy. Động cơ, mục đích nổi
trội của những người phạm tội phạm là hám lợi, kiếm tiền bằng mọi giá, bất chấp
110
đạo đức, nhân cách của con người.
Hai là, thông qua các đặc điểm tâm sinh lý tiêu cực của người phạm tội là
cơ sở giúp nghiên cứu sinh làm rõ thực trạng các hiện tượng xã hội tiêu cực tác
động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh để luận giải vì sao ở những người phạm tội lại hình thành những đặc
điểm tiêu cực đó và thực hiện hành vi phạm tội, bao gồm thực trạng những hiện
tượng xã hội tiêu cực thuộc môi trường sống và thực trạng những hiện tượng tiêu
cực thuộc về người phạm tội xâm phạm sở hữu.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được
nâng lên. Bên cạnh đó, dưới góc độ tội phạm học, tình hình tội phạm ở nước ta
nói chung và tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cũng phát triển theo chiều
hướng gia tăng, trong đó có các tội về ma túy và các tội xâm phạm sở hữu cũng
xảy ra ngày càng nhiều và diễn biến ngày càng phức tạp, một bộ phận nhân dân
có đời sống kinh tế khó khăn, không việc làm hay việc làm không ổn định; sự
phân hóa giàu nghèo và sự xâm nhập văn hóa độc hại, lối sống thực dụng, các tệ
nạn xã hội ngày càng tăng… đang làm cho tình hình trật tự an toàn xã hội hết
sức phức tạp, là điều kiện thuận lợi làm phát sinh tội phạm trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh. Đặc điểm nhân thân con người được hình thành trong quá
trình tương tác với các yếu tố xã hội, các yếu tố này luôn tồn tại hai xu hướng
tích cực và tiêu cực. Quan trọng là ở mỗi cá nhân phải nhận thức đúng đắn và
đầy đủ các vấn đề diễn ra trong cuộc sống để hạn chế các tình huống, hoàn cảnh
dễ làm phát sinh hành vi phạm tội.
Xuất phát từ thực tế nêu trên cho thấy việc nghiên cứu, tìm hiểu thực tiễn
nhân thân người phạm tội ở Thành phố Hồ Chí Minh là cần thiết, để từ đó đưa ra
dự báo tình hình tội phạm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian
tới. Tác giả tập trung làm rõ các yếu tố tiêu cực tác động đến việc hình thành đặc
điểm nhân thân xấu của những người phạm tội. Sự tác động qua lại giữa các yếu
tố tiêu cực thuộc môi trường gia đình, nhà trường và xã hội và những yếu tố tiêu
cực xuất phát từ chính cá nhân người phạm tội đã dần hình thành các đặc điểm
111
nhân thân tiêu cực của người phạm các tội này. Nghiên cứu đặc điểm nhân thân
người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 - 2018 cho
thấy nổi lên các đặc điểm đặc trưng cơ bản: Về giới tính, số người phạm tội có
giới tính nam và số người có giới tính nữ phạm tội hiện nay khá tương đồng, tỷ
lệ này tuy có sự chênh lệch nhưng sự chênh lệch là không đáng kể. Độ tuổi nổi
trội của người phạm tội là khoảng 18 đến 30 tuổi, lứa tuổi chưa có suy nghĩ và
hành động chín chắn. Đặc điểm thất học hoặc trình độ học vấn thấp là đặc trưng
nhân thân rất phổ biến của người phạm tội. Đặc điểm địa bàn cư trú hoặc sinh
sống nổi trội của người phạm tội là ở địa bàn thành phố. Những người sống ở
vùng nông thôn chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Đặc điểm về hoàn cảnh gia đình nổi
trội là nghèo túng, kinh tế khó khăn, bố mẹ ly hôn; bố mẹ thường xuyên cãi chửi
nhau… Thất nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn định, thu nhập thấp cũng là đặc
điểm nhân thân đặc trưng rất điển hình của những người phạm tội trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh. Tương tự, như vậy, đặc điểm nghiện ma túy cũng là đặc
điểm nhân thân rất đặc trưng, điển hình của người phạm tội và một đặc trưng nổi
trội thể hiện tính chất, mức độ rất nguy hiểm của tình hình các tội phạm ở Thành
phố Hồ Chí Minh là tái phạm. Có thể thấy nhiều người phạm tội phạm là người
nghiện ma túy. Động cơ, mục đích nổi trội của những người phạm tội phạm là hám
lợi, kiếm tiền bằng mọi giá, bất chấp đạo đức, nhân cách của con người.
Trên cơ sở, phân tích các số liệu tổng hợp cũng như xem xét điển hình
một số bản án xét xử những người phạm tội trong giai đoạn 2009 - 2018 trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh để làm rõ các nguyên nhân cả khách quan và chủ
quan tác động đến quá trình hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực ở những
người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh theo một cơ chế tổng thể,
liên quan, tác động qua lại với nhau. Các yếu tố tiêu cực trong nguyên nhân chủ
quan khi gặp những yêu tố khách quan thuận lợi sẽ nhanh chóng đẩy con người
đến hành vi phạm tội.
Từ khía cạnh nhân thân người phạm tội, những vấn đề được phân tích ở
trên là những cơ sở quan trọng để có thể đưa ra những kiến nghị các giải pháp
tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
112
Minh từ khía cạnh nhân thân người phạm tội ở chương 4.
Chương 4
DỰ BÁO VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ KHÍA CẠNH
NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI
4.1. Dự báo về xu hướng của các yếu tố tác động đến sự hình thành
đặc điểm nhân thân người phạm tội tại Thành phố Hồ Chí Minh
4.1.1. Cơ sở khoa học của dự báo
Khoa học dự báo đã và đang trở thành một lĩnh vực khoa học không thể
thiếu trong thời đại ngày nay. Khoa học dự báo đang ngày càng thể hiện vai trò
to lớn hỗ trợ mọi mặt phát triển của đời sống kinh tế - xã hội. Nhiệm vụ cơ bản
của dự báo khoa học là “… đặt cơ sở lý luận và đề ra những phương pháp tiên
đoán những khuynh hướng phát triển của sự vật trong tương lai”. Dự báo khoa
học là phải chỉ ra được những “mối liên hệ quy định khuynh hướng phát triển
trong tương lai, sự chuyển biến từ hình thái này sang hình thái khác của sự vật và hiện tượng” [42]. Nhân thân người phạm tội trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh chịu tác động sâu sắc của những thay đổi của môi trường sống, nhất là môi
trường gia đình, môi trường kinh tế - xã hội vĩ mô của Thành phố Hồ Chí Minh,
vì vậy, làm rõ những thay đổi này sẽ cho thấy khuynh hướng phát triển của nhân
thân người phạm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, từ đó hỗ trợ cho việc xây
dựng những giải pháp phù hợp hơn với xu hướng thay đổi này, bảo đảm tăng
cường hiệu quả của các giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn
thành phố từ khía cạnh nhân thân người phạm tội. Từ những phân tích trên, có
thể đưa ra định nghĩa: Dự báo sự biến động của các yếu tố có tác động đến nhân
thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh là chỉ ra được khuynh
hướng thay đổi của các yếu tố có tác động đến nhân thân người phạm tội, từ đó
làm rõ sự thay đổi đó có tác động như thế nào đến nhân thân người phạm tội
113
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
4.1.2. Dự báo về tội phạm và nhân thân người phạm tội trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh
4.1.2.1. Dự báo biến động về kinh tế - xã hội, chính trị của Thành phố Hồ
Chí Minh
Ngày 24/11/2017, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 54/2017/QH14 về
thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh về quản
lý đất đai, đầu tư, tài chính - ngân sách nhà nước; quy định cơ chế ủy quyền giữa
các cấp chính quyền và thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức thuộc Thành
phố quản lý. Chính sách đặc thù này đang đặt ra triển vọng tạo một cơ chế đột
phá trong phát triển kinh tế - xã hội của thành phố trong những năm tới. Kỳ họp
thứ 7 (kỳ họp bất thường) của Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh khóa
IX nhiệm kỳ 2016-2021 ngày 15, 16 tháng 3 năm 2018, đã thông qua những vấn
đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của Thành phố Hồ Chí
Minh, đã quy định trong Nghị quyết 54/2017/QH14 của Quốc hội với 18 nội
dung thuộc 5 lĩnh vực, với kỳ vọng sẽ tạo động lực mới, giải phóng các tiềm
năng, tháo gỡ các điểm nghẽn, giải quyết các thách thức trong bối cảnh sự vượt
trội của Thành phố Hồ Chí Minh.
Thành phố Hồ Chí Minh đã quán triệt sâu rộng Nghị quyết 54/2017/QH14
của Quốc hội đến toàn hệ thống chính trị và tất cả các tầng lớp nhân dân để cùng
chung tay góp sức và quyết tâm hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị
quyết đề ra.
Quyết định số 815/QĐ-UBND ngày 25/02/2015 của Chủ tịch UBND
Thành phố Hồ Chí Minh về việc ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Chiến
lược phát triển bền vững Việt Nam trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đến năm
2020 đã chỉ rõ mục tiêu: Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh văn minh, hiện đại
với vai trò đô thị đặc biệt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
đóng góp ngày càng lớn đối với khu vực và cả nước; từng bước trở thành, trung
tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học - công nghệ của đất nước và
khu vực Đông Nam Á; góp phần tích cực đưa nước ta cơ bản trở thành nước
114
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Phát triển Thành phố Hồ Chí
Minh thành trung tâm văn hóa, trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
cho vùng và cả nước; đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững,
phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường, đảm bảo quốc phòng, an ninh trật
tự an toàn xã hội trên địa bàn.
Với nền kinh tế năng động nhất cả nước, mức độ đô thị hoá ở Thành phố
Hồ Chí Minh đang diễn ra với tốc độ tương đối nhanh, các doanh nghiệp, xí
nghiệp, các khu công nghiệp được xây dựng nhiều, tỷ lệ gia tăng dân số cũng ở
mức cao (1,59% năm 2015). Bình quân một năm, dân số trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh tăng khoảng 0,7 đến 0,8 triệu người. Trong khi đó vấn đề việc làm
cho người lao động vẫn còn rất nan giải. Theo số liệu của Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội Thành phố, năm 2017 Thành phố Hồ Chí Minh đã giải quyết
được việc làm cho 323.225 lượt người, đạt 115,4% kế hoạch đặt ra. Tuy nhiên,
tỷ lệ thất nghiệp vẫn là 3,95%, có nghĩa là vẫn còn gần 4% lao động thất nghiệp.
Hơn nữa, trong những năm tới, do tác động của cuộc cách mạng công nghiệp
4.0, đòi hỏi lao động phải có trình độ tay nghề cao, mặt khác nền kinh tế ứng
dụng trí tuệ nhân tạo nên chắc chắn số người mất việc làm, thất nghiệp sẽ gia
tăng nhanh chóng. Điều này sẽ tiếp tục có tác động xấu đến sự hình thành các
đặc điểm nhân thân xấu của con người.
Tình trạng doanh nghiệp nhận chuyển nhượng đất từ người dân để xây
dựng các nhà máy, khu công nghiệp sẽ phát sinh vấn đề bồi thường đất đai, làm
biến động, xáo trộn đất đai, làm phát sinh các mâu thuẫn trong tranh chấp đất đai
tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đây chính là một trong những yếu tố trực tiếp làm
nảy sinh mâu thuẫn trong nhân dân, có tác động đến sự hình thành các đặc điểm
nhân thân tiêu cực, như sự thù hằn, sự căm ghét, mong muốn trả thù...
Các điều kiện về cơ sở vật chất, về con người phục vụ cho vấn đề quản lý
nhà nước về trật tự xã hội chưa theo kịp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội
tại địa phương. Công tác quản lý nhà nước về trật tự xã hội còn gặp nhiều khó
khăn, vướng mắc như: Lực lượng chức năng thực hiện công tác quản lý nhà
nước còn mỏng; công tác quản lý dân cư còn lỏng lẻo, hình thức, chưa khoa học,
115
quản lý trên giấy tờ là chính, ít quan tâm đến công tác kiểm tra, đối chiếu; việc
đầu tư các trang thiết bị phục vụ công tác quản lý nhà nước còn thiếu, lạc hậu,
chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới... Đây cũng là điều kiện thuận
lợi làm phát sinh nhiều đặc điểm nhân thân tiêu cực.
Các chủ trương, chính sách về kinh tế và pháp luật: hiện nay tại Thành
phố Hồ Chí Minh còn rất nhiều hạn chế, yếu kém; vấn đề đảm bảo phúc lợi xã
hội chưa đáp ứng đầy đủ, từ đó họ dễ phát sinh tâm lý chống đối xã hội. Môi
trường văn hóa còn tồn tại tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu
chọn lọc những sản phẩm văn hóa nước ngoài; các tệ nạn xã hội (cờ bạc, nghiện
rượu, nghiện ma tuý…) có chiều hướng gia tăng; hiệu quả của công tác giáo dục
đạo đức, pháp luật, kỹ năng sống trong gia đình, nhà trường và xã hội chưa
cao…từ đó hình thành những quan điểm, quan niệm tiêu cực, lệch lạc trong cuộc
sống, dễ thúc đẩy con người thực hiện hành vi phạm tội.
Việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong các trường phổ thông
chưa được quan tâm chú ý đúng mức. Tình hình dân trí, ý thức pháp luật của
nhân dân mặc dù được quan tâm, nhưng chưa đồng bộ, đều khắp trong khi các
hoạt động, tệ nạn phát triển mạnh, từ đó sẽ tác động để hình thành nhiều đặc
điểm nhân thân tiêu cực xấu ở mỗi người, như sự lười lao động, thích hưởng
thụ, coi thường tính mạng, tài sản của người khác, nghiện bia rượu, ma túy...
Sự phân hoá giàu nghèo ngày càng sâu sắc, tình trạng hộ nghèo ở địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn. Tình trạng thiếu việc làm hoặc có việc làm
nhưng thu nhập thấp không đáp ứng được nhu cầu cuộc sống trong tầng lớp
thanh thiếu niên vẫn còn nhiều, dẫn đến tình trạng có một số người do bị kích
động bởi cuộc sống vật chất nghèo túng hiện tại, có thể làm phát sinh những đặc
điểm tâm lý tiêu cực, như chán nản, buồn chán, thất vọng, căm giận cuộc đời, từ
đó lao vào rượu chè, cờ bạc, ma túy.
Như vậy, các yếu tố tiêu cực nảy sinh từ quá trình phát triển kinh tế, xã
hội đã hình thành nên nhân thân tiêu cực của người phạm các tội ma túy và các
tội xâm phạm sở hữu như: coi trọng vật chất, lười lao động, ăn chơi đua đòi, coi
thường các giá trị đạo đức, coi thường danh dự nhân phẩm của người khác đó
116
cũng nguyên nhân, điều kiện của tội phạm nói chung, các tội nói riêng vẫn còn
tồn tại mà chưa thể khắc phục triệt để, chưa thể bị loại trừ ngay. Vì vậy, dự báo
trong thời gian tới, các loại tội phạm nói chung và các tội phạm ma túy và các tội
xâm phạm sở hữu nói riêng có nguyên nhân phát sinh từ yếu tố tiêu cực trong
quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vẫn diễn ra với mức độ và tính chất
nghiêm trọng hơn.
Trong điều kiện nước ta vẫn còn nằm trong nhóm các nước có thu nhập
trung bình thấp; nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, năng suất lao động
thấp; những hạn chế yếu kém trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội chưa được khắc
phục và hệ thống giáo dục, đào tạo còn nhiều bất cập. Do vậy, từ nay đến năm
2020, những nguyên nhân làm phát sinh tội phạm nữ giới trong lĩnh vực kinh tế -
xã hội, văn hóa - giáo dục, quản lí nhà nước về an ninh, trật tự; những yếu kém
trong hoạt động chống tội phạm và giáo dục cải tạo phạm nhân nữ vẫn chưa
được giải quyết một cách triệt để. Vì vậy, tội phạm do nữ giới thực hiện vẫn có
diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng. Ví dụ, tình trạng thất nghiệp nói
chung và đặc biệt là nữ thất nghiệp nói riêng vẫn chưa thể giải quyết được.
Trong cơ cấu của tội phạm do nữ giới thực hiện chủ yếu vẫn là các tội như sau:
Tội tang trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy; tội chứa mại dâm, môi
giới mại dâm; tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc; tội trộm cắp tài sản, tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản; tội mua bán người. Do thất nghiệp lao động nữ ở thành thị và
thiếu việc làm ở nông thôn; tệ nạn xã hội chưa giảm: số người nghiện ma túy
chưa giảm, tỉ lệ tái nghiện còn cao, nhu cầu về các chất ma túy rất lớn dẫn đến
tình trạng mua bán, vận chuyển các chất ma túy ngày một gia tăng ở đối tượng
phụ nữa. Nữ giới tham gia đồng phạm tăng đặc biệt là nhóm tội phạm có tổ chức
thực hiện các loại tội phạm về ma túy và các tội xâm phạm sở hữu.
Bên cạnh tội phạm nữ giới ngày càng có xu hướng gia tăng thì tình hình
người nước ngoài phạm tội tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng có xu hướng gia
tăng. Thực trạng tội phạm do người nước ngoài thực hiện trong những năm vừa
qua có chiều hướng gia tăng. Trong thời gian tới quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, với chính sách mở cửa ngày càng thông thoáng, làn sóng người nước ngoài
117
đến Thành phố Hồ Chí Minh tham quan du lịch, đầu tư, tìm kiếm việc làm và
sinh sống cũng tăng nhanh. Vì vậy, cùng với việc gia tăng người nước ngoài
nhập cảnh vào thành phố, loại tội phạm này vẫn tiếp tục gia tăng và diễn biến
phức tạp. Xu hướng của tội phạm có tổ chức, tội phạm hoạt động xuyên quốc gia
sẽ ngày càng phổ biến. Đáng chú ý là những đường dây mua bán, vận chuyển ma
túy xuyên quốc gia; tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm sử dụng thẻ tín
dụng giả chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng của các đối
tượng người Malaysia, Hàn Quốc, Trung Quốc, sẽ diễn biến phức tạp, dùng mọi
thủ đoạn tinh vi để móc nối, thâm nhập vào thành phố hoạt động tội phạm.
Thủ đoạn hoạt động của tội phạm ngày càng tinh vi, nhiều loại tội phạm
mới sẽ xuất hiện Trong bối cảnh khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển
như vũ bão thì hoạt động của tội phạm sử dụng khoa học kỹ thuật, sử dụng công
nghệ cao như: tội phạm làm, sử dụng giấy tờ có giá giả khác; tội phạm sử dụng
máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet để lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng sẽ
phát triển theo với những phương thức thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn. Các loại
tội phạm về ma túy với nhiều đường dây bị phát hiện và xét xử nghiêm minh với
mức hình phạt cao nhất do đó các đối tượng cũng sẽ tiếp tục thay đổi phương
thức thủ đoạn hoạt động tinh vi hơn nhằm đối phó với sự phát hiện của các lực
lượng chức năng và sự trừng phạt của pháp luật. Bên cạnh đó do còn có thể xuất
hiện thêm các tội phạm mới như tội phạm trốn thuế, tội phạm về môi trường các
đường dây của tội phạm rửa tiền. Vì vậy số lượng tội phạm sẽ nhiều hơn, tính
chất tội phạm sẽ đa dạng, phức tạp hơn và sẽ có nhiều loại tội phạm mới, thủ
đoạn mới xuất hiện.
Tội phạm sẽ có nhiều quốc tịch khác nhau trong đó đáng chú ý là số có
quốc tịch Châu Á, Châu Phi và kể cả các nước Đông Âu. Theo thống kê của
Công an Thành phố từ năm 2012-2016 cho thấy số người nước ngoài phạm tội
được phát hiện gồm 32 quốc tịch. Trong khi đó số lượng người nước ngoài đến
thành phố Hồ Chí Minh này càng nhiều và đa dạng về quốc tịch. Bên cạnh xu
hướng tăng nhanh tội phạm có quốc tịch Châu Á, Châu Phi và vùng Trung Đông,
trong thời gian gần đây đã xuất hiện nhiều vụ án do người nước ngoài đến Thành
118
phố Hồ Chí Minh phạm tội.
Bên cạnh đó, xu hướng móc nối, liên kết giữa tội phạm người nước ngoài
với tội phạm trong nước thành các băng nhóm tội phạm hoạt động có tổ chức
xuyên quốc gia ngày càng phổ biến. Trong thời gian qua đã có một số tổ chức tội
phạm móc nối liên kết với tội phạm trong nước hình thành các đường dây để
hoạt động như: tổ chức hoạt động mại dâm, cờ bạc, trong các nhà hàng, vũ
trường; môi giới hôn nhân trái phép (Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc); mua
bán phụ nữ và trẻ em; lôi kéo người nghèo, phụ nữ vào những đường dây buôn
bán vận chuyển ma túy xuyên quốc gia; sử dụng thẻ tín dụng giả để mua hàng,
rút tiền ngân hàng...Cùng với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ,
đặc biệt là công nghệ thông tin đã tạo điều kiện thuận lợi cho bọn tội phạm ở
nước ngoài dễ dàng liên hệ chỉ đạo hoạt động tội phạm ở các quốc gia khác
nhau. Vì vậy, thời gian tới sự móc nối, cấu kết giữa tội phạm người nước ngoài
với người Việt Nam hoặc ngược lại, đối tượng phạm tội là người Việt Nam với
người nước ngoài thành đường dây có tổ chức để thực hiện các hành vi phạm tội
sẽ diễn biến phức tạp.
Như vậy, dự báo tình hình tội phạm do người nước ngoài thực hiện trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới sẽ tiếp tục gia tăng, diễn biến
phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi, nhiều loại tội phạm mới xuất hiện. Tình hình
trên đặt ra yêu cầu phải có các giải pháp phù hợp, thiết thực để phòng ngừa tội
phạm do người nước ngoài thực hiện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong
thời gian tới.
Dưới những tác động trực tiếp của các hiện tượng tiêu cực và các ấn phẩm
văn hóa không lành mạnh, tình trạng phim ảnh sex, khiêu dâm, thiếu chỗ vui
chơi lành mạnh đối với thanh thiếu niên, đặc biệt là vùng nông thôn hẻo lánh, sẽ
đẩy nhanh sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, trụy lạc, sử dụng rượu bia và các
chất kích thích khác ngày một tăng nhất là giới trẻ. Cùng với đó là sự hạn chế
thông tin về pháp luật, về hôn nhân gia đình, về chăm sóc và bảo vệ trẻ em cũng
là một trong những nguyên nhân hình thành các đặc điểm nhân thân xấu của
119
người phạm các tội ma túy và xâm phạm sở hữu.
4.1.2.2. Dự báo biến động trong môi trường gia đình
Điểm thuận lợi của gia đình là giáo dục chủ yếu bằng tình yêu thương
giữa các thành viên dành cho nhau, đặc biệt là của cha mẹ dành cho con cái. Quá
trình giáo dục đó diễn ra thường xuyên, lâu dài, liên tục, tác động vào mọi ngõ
ngách, góc cạnh của quá trình hình thành, phát triển nhân cách của mỗi con
người. Việc giáo dục của gia đình mang tính cá thể hóa rất cao. Cha mẹ là người
gần gũi và hiểu rõ đặc điểm tâm lý của từng đứa trẻ. Tuy nhiên, mặc dù cơ quan
chức năng có nhiều biện pháp tuyên truyền để đảm bảo môi trường gia đình lành
mạnh, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề bất cập trong gia đình như: tình trạng ly hôn,
ly thân, chung sống không kết hôn, sống thử… gia tăng; các giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp của gia đình đang có biểu hiện sa sút; sự xung đột giữa các
thế hệ trong gia đình về lối sống, bạo lực gia đình có chiều hướng phát triển; các
tệ nạn đang xâm nhập vào các gia đình.
Chính những hạn chế này đã tác động đến việc hình thành nhân thân tiêu
cực của người phạm tội như: sống bất cần, coi trọng vật chất, coi thường tình
cảm và các giá trị đạo đức, thậm chí coi thường tính mạng, sức khỏe của
người khác.
Mặt khác, một đặc thù trong nền giáo dục tại gia đình tại Thành phố Hồ
Chí Minh là kiểu giáo dục cha mẹ đặt nhiều kỳ vọng vào con cái, cho con cái
vào các trường chuyên, trường điểm, hay học trường Quốc tế, đi du học, nhưng
không phải trẻ nào cũng thích nghi được vào sự chọn lựa, kỳ vọng của bố mẹ.
Nếu trẻ không thích nghi được sẽ bật ngược trở lại, sẽ bỏ học, chơi game, dẫn
đến bi quan, chán nản. Vì vậy, với những tác động của các yếu tố tiêu cực trong
gia đình, nếu không có các giải pháp đột phá để khắc phục sẽ vẫn có ảnh hưởng
lớn đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân xấu của con người. Điều này
đồng nghĩa trong thời gian tới, nếu không có giải pháp đột phá cải thiện môi
trường gia đình, tội phạm sẽ có chiều hướng tăng.
Trên đây là một số nhận định về xu hướng biến động của một số yếu tố
có tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân người phạm tội trên địa
120
bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong tương lai.
4.2. Những giải pháp loại bỏ những hiện tượng tiêu cực tác động từ
môi trường sống
Những hiện tượng tiêu cực từ môi trường sống tác động đến việc hình thành
những đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người phạm, giải pháp này nhằm hướng tới
loại bỏ, hạn chế những hiện tượng xã hội tiêu cực tác động đến việc hình thành
nhân thân tiêu cực ở người phạm tội đang tồn tại trong môi trường sống trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh.
Mỗi cá nhân sinh và ra lớn lên sẽ dần tham gia các hoạt động nhằm xã hội
hoá, trong quá trình tương tác với môi trường sống và những đặc điểm tâm sinh
lý của mỗi cá nhân con người được hình thành đặc điểm nhân thân con người tốt
hay xấu. Với những con người có đặc điểm nhân tốt là những người có thái độ
sống tích cực, ý thức tôn trọng pháp luật, chính sách đường lối của Đảng và nhà
nước, có lối sống lành mạnh và văn minh. Ngược lại, với con người có nhân thân
tốt mặc dù đã được hình thành, nhưng vẫn phụ thuộc vào môi trường sống, chịu
chi phối của nhiều yếu tố, vẫn có thể dẫn đến hành vi phạm tội. Bên cạnh đó, đối
với những con người đã có đặc điểm nhân thân xấu, khi gặp điều kiện thuận lợi
sẽ tiến hành hành vi phạm tội. Như vậy, cả hai trường hợp con người có nhân
thân tốt và con người có nhân thân xấu đều cần loại bỏ và hạn chế những hiện
tượng xã hội tiêu cực dẫn đến việc hình hành nhân thân người phạm tội. Từ hai
khía cạnh trên, nghiên cứu sinh đề xuất một số giải pháp như sau:
4.2.1. Giải pháp từ môi trường gia đình
Gia đình là đơn vị cơ bản của xã hội, không có gia đình tốt, sẽ không có
xã hội tốt. Do đó, sự bền vững của gia đình là mục tiêu của chiến lược phát triển
kinh tế, xã hội lâu dài trong toàn dân. Hạn chế, loại trừ những nguyên nhân làm
phát sinh nhân thân xấu từ khía cạnh gia đình, vừa là nhiệm vụ phát triển kinh tế
của cả dân tộc, vừa nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm. Gia đình là môi trường
quan trọng hình thành nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách, bảo tồn và phát huy
văn hóa truyền thống tốt đẹp chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực
121
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì vậy xây dựng gia đình ấm no,
tiến bộ, hạnh phúc là một trong những mục tiêu quan trọng của chiến lược phát
triển kinh tế xã hội, đồng thời là trách nhiệm của mỗi gia đình.
Ngày 25/02/2015, UBND Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Quyết
định số 820/QĐ-UBND về thực hiện Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 trên địa bàn Thành phố trên cơ sở Chiến
lược phát triển gia đình Việt Nam, được Thủ tường Chính phủ phê duyệt tại
Quyết định số 629/QĐ-TTg ngày 29/5/2012. Hàng năm, UBND Thành phố Hồ
Chí Minh đều có Kế hoạch triển khai thực hiện Chiến lược phát triển gia đình
Việt Nam và các chương trình, đề án trên địa bàn Thành phố cho từng năm. Mục
đích của việc triển khai Chiến lược này là tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy
Đảng, chính quyền trong việc thực hiện Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam
và các chương trình, đề án trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nhằm bảo đảm
xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc; tăng cường sự lãnh đạo,
chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền đối với công tác gia đình, xác định
công tác gia đình là một nội dung quan trọng trong kế hoạch, chương trình công
tác thường xuyên gắn với các chỉ tiêu, mục tiêu trong Chiến lược phát triển gia
đình Việt Nam vào trong chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
Kế hoạch của UBND Thành phố cũng đề ra các giải pháp chính thực hiện
Chiến lược như: các Sở, ban, ngành, UBND quận, huyện xây dựng kế hoạch
thực hiện trên cơ sở Kế hoạch của UBND Thành phố; lồng ghép các hoạt động
thường xuyên vào kế hoạch, chương trình, đề án phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương nhằm bảo đảm từng bước hoàn thành các chỉ tiêu, mục tiêu đã đề ra
trong Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam và các chương trình, đề án trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; tăng cường công tác truyền thông, nâng cao
nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể và cộng đồng
về tầm quan trọng, vị trí, vai trò của gia đình và công tác xây dựng gia đình trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; nâng cao hiệu quả truyền thông, tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục thông tin nhằm nâng cao nhận thức và chuyển đổi
hành vi của cá nhân và cộng đồng về gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình
122
trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức, người lao động và người dân trên địa bàn
Thành phố; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực
gia đình. Giai đoạn 2015-2018, việc triển khai Chiến lược này đã đạt được những
kết quả bước đầu. Tuy nhiên, để tạo được những chuyển biến cơ bản, góp phần hình
thành một môi trường gia đình thật sự đầm ấm, xóa bỏ nguy cơ hình thành các đặc
điểm nhân thân xấu, cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược phát triển gia đình
Việt Nam và các chương trình, đề án trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh bằng
cách tăng cường hơn nữa các nội dung giáo dục gia đình như sau:
- Giáo dục đạo đức và văn hóa gia đình: giáo dục cho trẻ những điều hay
lẽ phải của chuẩn mực đạo đức và nền văn hóa truyền thống của dân tộc, lối sống
lành mạnh để hình thành, bồi dưỡng cho các thành viên trong gia đình, dòng họ
các phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Đó là tình yêu thương, lòng
kính trọng dành cho ông bà, cha mẹ và các thành viên họ hàng ruột thịt. Từ đó
giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, dân tộc, trân trọng phát huy những giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, biết yêu thương mọi người.
- Giáo dục lao động: Gia đình chính là cái nôi hình thành các phẩm chất
và năng lực lao động cơ bản của con người. Trẻ thật sự biết lao động chính là bắt
đầu biết làm những việc nhỏ trong nhà. Cả gia đình đều phải tham gia lao động,
làm việc nhà, chia sẻ công việc, phát triển kinh tế tùy theo sức khỏe, điều kiện
của mỗi người. Nhận biết khả năng, sở thích của con cái để có sự hướng nghiệp
đúng đắn cho con cái. Giáo dục trẻ biết yêu lao động là cơ sở để hình thành các
phẩm chất đạo đức giá trị khác như sống có trách nhiệm, biết tôn trọng công sức
lao động của mọi người, quý những thành quả lao động. Trẻ nhận thức được giá
trị của đồng tiền, của cuộc sống.
- Giáo dục phát triển trí tuệ: Giáo dục gia đình là có nhiều điều kiện thuận
lợi góp phần vào việc phát triển các phẩm chất và năng lực trí tuệ của trẻ. Gia
đình cần thường xuyên quan tâm đến việc học tập của trẻ; tạo điều kiện tốt để trẻ
học tập tốt. Thường xuyên trao đổi, thảo luận bồi dưỡng, cung cấp, bổ sung
những kiến thức bổ ích cho con cái và cho tất cả các thành viên trong gia đình,
123
tránh cho trẻ không mắc sai lầm vì thiếu hiểu biết.
- Giáo dục thể lực toàn diện: Giáo dục sức khỏe, không ngừng nâng cao thể
lực cho các thành viên trong gia đình là điều rất quan trọng. Hình thành thói quen
tập thể dục, thể thao cho trẻ, trước hết bố mẹ phải làm gương trong gia đình.
- Giáo dục thẩm mỹ: Nếu như ở nhà trường, việc giáo dục thẩm mỹ mang
nặng lý thuyết, giáo dục gia đình sẽ bù đắp phần khuyết thiếu trong nhân cách
trẻ. Ở nhà, trẻ có cơ hội để thể hiện niềm yêu thích hội họa, âm nhạc… Cha mẹ
hướng dẫn trẻ khả năng cảm nhận, thưởng thức những điều lý thú qua những bức
tranh, bản nhạc, bài ca. Qua những lần đi tham quan, du lịch, cha mẹ hãy làm
giàu vốn sống của trẻ bằng những cách sống đẹp, tử tế mà trẻ được chứng kiến.
Để thực hiện tốt các nội dung trên, gia đình nên áp dụng các phương pháp
giáo dục gia đình vừa mềm mỏng vừa cứng rắn, nhất là phương pháp thuyết
phục để trẻ thấu hiểu các chuẩn mực và làm theo một cách tự giác. Động viên,
khuyến khích kịp thời bất kỳ thành viên nào trong gia đình khi có những thành
công, việc làm tốt, dù đó là việc nhỏ. Khen thưởng, nhắc nhở, phê bình đúng
người, đúng việc, không phân biệt đó là con trai hay con gái. Bố mẹ cần thường
xuyên phối hợp chặt chẽ với nhà trường, thường xuyên kiểm tra quá trình học
tập của con cái, để nắm bắt tình hình học tập cũng như sự tiến bộ của con.
Xây dựng nếp sống sinh hoạt lành mạnh để trẻ có thời gian luyện tập nhân
cách của mình. Cha mẹ cần lắng nghe, không áp đặt và sử dụng bạo lực để trẻ
không bị mất phương hướng, phát triển lệch chuẩn; tập luyện cho trẻ ý thức, thói
quen tự lập, không ỷ lại, dựa dẫm, biết quý trọng công sức lao động của bản thân
và người khác. Việc giáo dục con cái trong gia đình đòi hỏi cha mẹ cần có
phương pháp giáo dục phù hợp với đặc điểm tâm lý, khí chất, trí tuệ, năng khiếu
của mỗi đứa trẻ để chúng tự tin bộc lộ hết khả năng của mình. Không được quá
nuông chiều hoặc quá nghiêm khắc đối với trẻ, cần có sự động viên khích lệ,
khen thưởng khi trẻ làm được việc tốt, có thành tích cao trong học tập, ngược lại
phải phê bình và uốn nắn khi trẻ làm việc gì sai trái, thành tích học tập không tốt.
Giáo dục gia đình có tác động hình thành nhân cách cho trẻ. Đó là kinh nghiệm
sống của cha mẹ truyền dạy cho con cháu qua hành vi ứng xử trong gia đình,
124
thường xuyên giáo dục con trẻ thái độ, cử chỉ, ăn nói lễ phép tôn kính người trên,
tôn sư trọng đạo, nhường nhịn lẫn nhau, để khi trưởng thành con cái biết ơn sinh
thành, nuôi dưỡng, chăm sóc ông bà, cha mẹ. Cha mẹ cũng cần uốn nắn, phê
phán, ngăn chặn thái độ, cử chỉ bất nhã, bất hiếu của con cái, cần xây dựng nếp
sống khoa học trong gia đình: rèn cho con nề nếp học tập và đức tính tốt, như tự
suy nghĩ tìm tòi sinh hoạt đúng giờ, gọn gàng ngăn nắp. Cha mẹ cũng cần giáo
dục các nội dung văn hoá khác cho trẻ, như văn hoá lao động, văn hoá sinh hoạt,
văn hoá tiêu dùng, văn hoá giao tiếp tập luyện cho con có ý thức, thói quen lao
động chân tay hàng ngày để nâng cao sức khoẻ, loại trừ thói xấu lười nhác, ỷ lại,
dựa dẫm, cẩu thả … để giúp cho con mình hình thành nhân cách, sớm ý thức
được mình vì mọi người và mọi người vì mình.
Nói không với bạo lực gia đình, các thành viên trong gia đình không được
có hành vi bạo lực đối với người khác. Bạo lực gia đình không chỉ là gánh nặng
đè lên trẻ hàng ngày và trong phát triển của chúng mà còn tác động trực tiếp lên
các quan hệ của chúng khi đã trở thành thanh niên hoặc đã trưởng thành và trong
những hoàn cảnh nhất định sẽ được chuyển tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác...
Cần đẩy mạnh hơn nữa các giải pháp chống bạo lực gia đình như đẩy mạnh vai trò
của Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội người cao tuổi trong giải quyết vấn đề bạo
lực gia đình. Giải quyết tốt vấn đề bạo lực gia đình sẽ góp phần loại bỏ tính ưa bạo
lực vốn là gốc rễ của hành vi chống đối pháp luật.
Cha mẹ phải làm tấm gương sáng để trẻ noi theo, phải hoàn thiện bản
thân một cách tốt nhất. Gia đình cũng cần phối hợp với các cơ quan, tổ chức xã
hội và chính quyền các cấp trong việc giáo dục, quản lý thành viên của gia đình
có hành vi vi phạm pháp luật để giáo dục, giúp đỡ và tạo điều kiện để họ hòa
nhập cộng đồng. Giáo dục nhà trường kếp hợp với giáo dục gia đình và giáo dục
xã hội. Gia đình và xã hội cần lên án mạnh mẽ bạo lực gia đình. Cần đẩy mạnh
hơn nữa các giải pháp chống bạo lực gia đình như đẩy mạnh vai trò của Hội phụ
nữ, Hội cựu chiến binh, Hội người cao tuổi trong giải quyết vấn đề bạo lực gia
đình. Cần nâng cao tuyên truyền để mọi người trong xã hội hiểu rõ tác hại của
bạo lực gia đình. Giải quyết tốt vấn đề bạo lực gia đình sẽ góp phần loại bỏ tính
125
ưa bạo lực vốn là một trong những đặc điểm của nhân thân xấu.
Tăng cường hoạt động giáo dục trong gia đình nhằm từng bước loại trừ
những điều kiện không thuận lợi trong giáo dục đã dẫn đến hình thành đặc điểm
lệch lạc trong nhân cách người phạm tội nữ; đồng thời nâng cao văn hóa nói
chung và văn hóa pháp lí của nữ giới, tạo ra một cơ chế được đảm bảo vững
chắc để ngăn chặn việc tiếp thu những quan điểm, thói quen tiêu cực, nâng cao ý
thức tự giác, tính kỉ luật của nữ giới, làm cho tất cả nữ giới chấp hành tốt các
chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực pháp luật và không thực hiện tội phạm.
4.2.2. Giải pháp từ môi trường nhà trường
Qua nghiên cứu tội phạm xảy ra trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh cho
thấy phần lớn bị cáo đều có trình độ học vấn thấp. Việc được nhận một nền giáo
dục hoàn thiện sẽ giúp hạn chế hành vi phạm tội của con người. Vì vậy, hạn chế
đến mức thấp nhất các tác động tiêu cực từ môi trường giáo dục, tạo cơ hội học
tập, nâng cao dân trí sẽ góp phần phòng ngừa hiệu quả đối với tội phạm nói
chung và tội phạm nói riêng.
Thực hiện công tác xóa mù chữ, nâng cao trình độ dân trí, xây dựng xã
hội học tập và học tập suốt đời, triển khai thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TW ngày
05 tháng 12 năm 2011 của Bộ Chính trị về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5
tuổi, củng cố kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, tăng cường
phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và xoá mù chữ cho người lớn; Quyết
định số 89/QĐ-TTg ngày 09/01/2013 của Thủ tưởng Chính phủ phê duyệt Đề án
Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012-2020; Công văn số 805-CV/TU ngày
03 tháng 10 năm 2017 của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh về tiếp tục tăng
cường lãnh đạo thực hiện công tác phổ cập giáo dục, xoá mù chữ và phân luồng
học sinh sau trung học cơ sở trên địa bàn Thành phố. Để làm tốt vai trò giáo
dục, nhà trường cần phải:
- Tăng cường giáo dục đạo đức, nhân cách, kĩ năng sống cho học sinh:
Để ngăn chặn hành vi phạm tội của học sinh, cần phải tăng cường giáo dục đạo
đức, nhân cách, giáo dục giá trị cuộc sống tích cực cho người học. Nhà trường
ngoài việc nâng cao trình độ văn hóa cho học sinh, cũng phải quan tâm bồi
126
dưỡng tình cảm, lòng đam mê học tập cho các em. Nhà trường cùng với việc
“dạy chữ” cũng phải chú ý “dạy người” cho học sinh.
- Tăng cường giáo dục pháp luật và giáo dục hình thành ý thức chấp
hành pháp luật cho học sinh: Nội dung giáo dục pháp luật cũng cần phải được
nhà trường lựa chọn sao cho phù hợp với nhu cầu, mong muốn và những vấn đề
thường gặp của học sinh, tổ chức những lớp học hay những buổi sinh hoạt ngoại
khóa có ý nghĩa giáo dục pháp luật cho học sinh. Thông qua những phương
pháp giáo dục linh hoạt, giúp học sinh hình thành những quan niệm và khái
niệm về đạo đức, pháp luật một cách đúng đắn, nâng cao ý thức tự mình ngăn
chặn và phòng tránh vi phạm pháp luật. Nhà trường có thể mời những người
chuyên trách về pháp luật ở địa phương hoặc những người làm trong ngành
Công an, Viện kiểm sát, Tòa án đến chia sẻ cho học sinh hiểu một cách sâu sắc
pháp luật và thực hiện pháp luật.
- Đẩy mạnh giáo dục kỹ năng sống cho học sinh: Cần đưa nội dung giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh ở các trường bằng cách tích hợp vào các môn
học và các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Đổi mới giáo dục đạo đức linh hoạt,
tránh kiểu đặt vấn đề cao xa, lớn lao mà thiếu cách xử lý tình huống thực tế về
lòng nhân ái, trung thực, tự trọng, lối sống lành mạnh. Kinh nghiệm cho thấy,
giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường ở nhiều nước đã thúc đẩy mối quan hệ
tích cực hơn giữa học sinh và giáo viên, đem đến hứng thú học tập cho các em
cảm thấy được tham gia vào những vấn đề liên quan đến cuộc sống của bản thân
cũng như đem đến bầu không khí năng động hơn trong lớp học và trong trường.
Những học sinh được chú trọng giáo dục tốt về đạo đức, nhân cách thì khi ra
ngoài xã hội sẽ giảm thiểu đáng kể các hành vi phạm tội.
- Tạo hứng khởi cho trẻ em đến trường: Cần có nhiều loại hình đào tạo
văn hóa để các em học tập xong chương trình phổ thông. Cần duy trì và phát
triển các Trung tâm giáo dục thường xuyên. Mở các lớp vừa đào tạo nghề, vừa
dạy văn hóa cho các em trong độ tuổi đi học những do hoàn cảnh không thể tiếp
tục học tập theo chương trình phổ thông. Mở rộng cơ sở đào tạo nghề cho đối
tượng trong độ tuổi chưa thành niên và tạo việc làm để họ vươn lên không bị lôi
127
cuốn vào con đường phạm tội.
- Tăng cường giáo dục pháp luật trong nhà trường: Vấn đề giáo dục pháp
luật trong nhà trường, cần biên soạn lại chương trình giáo dục pháp luật trong
trường phổ thông cần tập trung vào vấn đề cần thiết, cập nhật những kiến thức
pháp luật mới với những sự kiện diễn ra trong đời sống hàng ngày mà các em đã
tiếp thu. Ngoài ra, phải nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ
giáo viên dạy môn giáo dục công dân ở trường phổ thông cũng như đổi mới
phương pháp giảng dạy pháp luật ở trường phổ thông. Để có thể truyền đạt hấp
dẫn những thông tin hiểu biết đúng đắn, những kiến thức pháp luật cụ thể phù
hợp với lứa tuổi các em. Tạo điều kiện cho các em chủ động tham gia thảo luận
thật thoải mái và bổ ích. Mặt khác, cần đảm bảo điều kiện vật chất phục vụ cho
việc giảng dạy pháp luật trong trường phổ thông như sách giáo khoa phải cập
nhật thường xuyên kiến thức pháp luật, cần quan tâm hơn nữa việc trang bị các
thiết bị dạy học, xây dựng cơ sở trường cần được ưu tiên hàng đầu.
- Tăng cường các hoạt động văn hóa, thể thao lành mạnh trong nhà trường:
Chăm sóc sức khỏe tinh thần và thể chất cho học sinh là một yếu tố quan trọng
hình thành các đặc điểm nhân thân tốt của con người. Tiến hành chăm sóc sức
khỏe tinh thần cho học sinh thông qua các hoạt động như: kiểm tra, đánh giá,
sàng lọc trong tập thể học sinh để tìm ra những em đã, đang hoặc có nguy cơ
gặp khó khăn về sức khỏe tinh thần để từ đó có phương pháp can thiệp kịp thời;
tổ chức thường xuyên và định kỳ các buổi sinh hoạt chuyên đề cho học sinh,
giáo viên và phụ huynh về sức khỏe tinh thần học đường, giúp cho các em tránh
được vấn đề tinh thần thường gặp trong quá trình học tập và làm việc như: Trầm
cảm, lo âu, stress, tức giận, ám ảnh, bạo lực, tự tử… Để thực hiện được việc
này, trường học cần thiết phải có một phòng chuyên trách về sức khỏe tinh thần
học đường. Đẩy mạnh các hoạt động văn nghệ thể thao nhằm tăng cường thể
chất cho học sinh.
- Tăng cường quản lý học sinh, chống lại bạo lực học đường: Tăng cường
quản lý giáo dục, nhằm kịp thời phát hiện những mâu thuẫn trong sinh hoạt, học
tập để giáo dục, quản lý tránh việc để học sinh thoát khỏi tầm kiểm soát của gia
128
đình và nhà trường, trốn học, bỏ học. Đồng thời, để nâng cao nhận thức của học
sinh về công tác phòng, chống tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên. Có
chính sách, biện pháp quản lý học sinh không để các em bỏ lớp học, trốn học, bỏ
học. Kiểm soát bạo lực học đường, kịp thời phát hiện những mâu thuẫn trong
sinh hoạt, học tập để giáo dục, quản lý tránh việc để người chưa thành niên thoát
khỏi tầm kiểm soát của gia đình và nhà trường. Sắp xếp thời gian biểu để các em
học sinh được nghe các ngành chức năng (Công an, Viện kiểm sát, Tư pháp)
phổ biến kiến thức về phòng, chống tội phạm hình sự trong lứa tuổi chưa thành
niên, phòng chống ma tuý xâm nhập học đường và các loại tệ nạn xã hội.
- Tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình: Bên cạnh đó,
phải tăng cường các biện pháp tổ chức, quản lý học sinh trong nhà trường, vì
thực tế tình trạng học sinh bỏ học, gây gổ, xảy ra tương đối nhiều. Sở dĩ như vậy
là do không tự kiềm chế được bản thân, không tự giữ mình trong khuôn khổ kỷ
luật. Nếu nhà trường làm tốt công tác này sẽ giúp đỡ các em rèn luyện tính kỷ
luật từ thấp đến cao, từ đó có sự tự giác trong mỗi người đó là điều kiện quan
trọng để tiếp thu nội dung giáo dục. Yêu cầu của biện pháp này là thầy cô phải
tách các em ra khỏi môi trường tiêu cực và muốn đảm bảo hiệu quả của việc
ngăn ngừa này cần phải dựa vào yếu tố tình cảm, tâm lý tránh việc làm giáo điều
xây dựng nếp sống tự quản, tuyên dương những hành vi tốt, uốn nắn hành vi
lệch lạc. Bên cạnh đó, cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của thầy cô giáo: bằng
cách nêu gương tốt thầy cô giáo, xây dựng đội ngũ giáo viên có phẩm chất cao
đẹp, yêu thương, tận tụy vì học sinh. Cảm hóa, giúp đỡ học sinh hư, cá biệt, giáo
dục các em không đi vào con đường phạm tội. Không có gì thuyết phục học sinh
bằng tình thương và chính cách sống lành mạnh của thầy cô. Phối hợp chặt chẽ
giữa gia đình và nhà trường: Thực tế đã minh chứng một điều là mối quan hệ
lỏng lẻo giữa gia đình và nhà trường là một trong sơ hở dẫn đến tình trạng học
sinh bỏ học, theo kẻ xấu đến khi phạm tội mới vỡ lẽ thì đã muộn. Nên cần phối
hợp, trao đổi thông tin theo sát mọi suy nghĩ, tình cảm, hành vi để từ đó có biện
pháp giúp đỡ, giáo dục kịp thời.
4.2.3. Giải pháp từ môi trường kinh tế
129
Thành phố Hồ Chí Minh là nơi đất rộng, người đông. Đặc biệt người dân
nơi đây đa phần là dân nhập cư đến từ nhiều vùng miền khác nhau trong cả
nước, là nơi có tốc độ đô thị hóa cao thu hút đông đảo lực lượng lao động - điều
kiện hết sức thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân
khác nhau nền kinh tế trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong những năm
vừa qua tốc độ phát triển chưa đồng đều chủ yếu tập trung ở những quận nằm
trong trung tâm thành phố. Để có thể đưa nền kinh tế ổn định và phát triển tốt
hơn, cần phải tiếp tục đẩy mạnh nền kinh tế, tăng cường mở rộng hợp tác kinh tế
trong và ngoài nước, kêu gọi đầu tư nước ngoài và chú trọng trong việc phân bố
các khu vực phát triển kinh tế một cách đồng đều, thống nhất. Cải tiến, cắt bớt
các thủ tục hành chính rườm rà tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các
doanh nghiệp, thành phần kinh tế. Đối với những vi phạm cạnh tranh không lành
mạnh, lừa đảo chiếm đoạt cần phải xử lí nghiêm minh, đồng thời khuyến khích
nhân dân làm giàu hợp pháp. Bên cạnh đó cần phải khai thác triệt để và có hiệu
quả các nguồn lực có sẵn về trong tự nhiên cũng như chủ động đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng để phát triển công nghiệp và dịch vụ du lịch.
Phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo bền vững, có
các chính sách hỗ trợ đối với các những người nghèo, những người chưa có việc
làm và có hoàn cảnh khó khăn như cho vay vốn để phát triển sản xuất, bố trí tạo
công ăn việc làm, nhất là trong tầng lớp thanh niên. Tổ chức dạy nghề và tạo
việc làm để có thu nhập, xóa đói giảm nghèo là những biện pháp kinh tế, xã hội
quan trọng nhằm ngăn ngừa sự phát sinh, phát triển những loại tội phạm này.
Tăng cường quản lý và hỗ trợ các trung tâm đào tạo, dạy nghề để cung ứng lực
lượng lao động có tay nghề vào làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Mở rộng các trung tâm dạy nghề, nâng cao chất lượng các trung tâm dạy nghề, tạo
điều kiện cho những người có trình độ lao động thấp có điều kiện và hoàn cảnh khó
khăn để họ tiếp cận với công việc có tay nghề và chuyên môn cao. Mở rộng và
quản lý tốt các cơ sở hoạt động xã hội để tập trung nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em
lang thang, cơ nhỡ… tạo điều kiện cho các em hòa nhập cộng đồng, lao động với
nghề nghiệp chân chính để tự mình vươn lên trong cuộc sống.
130
Đây là những giải pháp hướng vào để phát triển nền kinh tế nhằm nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, đảm bảo công bằng xã hội, xoá
đói giảm nghèo, giải quyết công ăn việc làm… Nếu kinh tế kém phát triển, đời
sống của một bộ phận nhân dân không được đảm bảo sẽ tác động để hình thành
nhiều đặc điểm nhân thân xấu, từ đó dễ phát sinh tội phạm và tệ nạn xã hội.
Tăng cường quản lý và hỗ trợ các trung tâm đào tạo và dạy nghề để
cung ứng lực lượng lao động có tay nghề vào làm việc trong các doanh
nghiệp trên địa bàn. Mở rộng các trung tâm dạy nghề nâng cao chất lượng
các trung tâm dạy nghề, tạo điều kiện cho những người có trình độ lao động
thấp, có điều kiện và hoàn cảnh khó khăn để họ tiếp cận với công việc có tay
nghề, có thu nhập ổn định.
Mở rộng và quản lý tốt các cơ sở hoạt động xã hội để tập trung nuôi
dưỡng, giáo dục và mở lớp dạy nghề tại các cơ sở cai nghiện, cơ sở trại giam,
trẻ em lang thang, cơ nhỡ, trẻ em vi phạm pháp luật, …tạo điều kiện cho
những người này hòa nhập cộng đồng, lao động với nghề nghiệp chân chính
để tự mình vươn lên trong cuộc sống.
Phát triển kinh tế làng nghề cũng là một giải pháp đáng quan tâm. Hiện
thành phố có 65 làng nghề thủ công truyền thống, đang giải quyết việc làm cho
hơn 70.000 lao động. Các sản phẩm làm ra ngoài đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nội
địa, còn được xuất khẩu. Tuy vậy, các làng nghề hiện nay vẫn chưa thoát được
quan điểm là “ngành nghề phụ” và đang có “nguy cơ tàn lụi”. Vấn đề nhìn nhận
đúng vai trò của kinh tế làng nghề và có những chính sách, cơ chế phù hợp để
phát triển làng nghề, tạo thêm việc làm, phát triển bền vững đang đặt ra hết sức
cấp bách. Để một cơ sở làng nghề đi vào hoạt động và tạo ra được những sản
phẩm xuất khẩu, một cơ sở làng nghề phải đầu tư trên 30 tỉ đồng. Các cơ sở
muốn mở rộng sản phẩm xuất khẩu, phải đầu tư thêm tối thiểu 10 tỉ đồng. Điều
này cho thấy cần phải có cơ chế, chính sách vay vốn cho các cơ sở làng nghề.
Thiếu vốn đang là trở ngại rất lớn của hầu hết các làng nghề hiện nay. Bên cạnh
đó, các làng nghề đang đứng trước thực trạng: các nghệ nhân, các thợ thủ công
có tay nghề giỏi ngày càng khan hiếm, dẫn đến một số ngành nghề truyền thống
131
bị mai một. Thành phố Hồ Chí Minh cần phải có một trường đào tạo nghề riêng
cho thợ thủ công các làng nghề, giống như các tỉnh Nghệ An, Hải Phòng, Hà
Tây, Bắc Ninh đang làm. Có như vậy, chiến lược phát triển các làng nghề truyền
thống tạo thêm việc làm, phát triển bền vững Thành phố Hồ Chí Minh mới được
thực thi có hiệu quả.
Tăng cường việc bảo đảm phúc lợi xã hội, thực hiện tốt các chính sách an
sinh xã hội, nhất là đối với các hộ gia đình chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo;
thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp công bằng và đúng đối
tượng. Các cấp ủy Đảng, chính quyền chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chức năng tổ
chức nhiều hình thức sinh hoạt, vui chơi giải trí thường xuyên ở các địa bàn, tích
cực vận động tầng lớp thanh thiếu niên tham gia và tạo lối sống lành mạnh.
Quan tâm nâng cao trình độ dân trí, thu hút quần chúng nhân dân tham gia vào
các hoạt động văn hóa lành mạnh, bổ ích. Nâng cao nhận thức, ý thức tự giác
chấp hành pháp luật, nâng cao đạo đức, lối sống. Phát triển kinh tế - xã hội gắn
liền với phát triển văn hóa, giáo dục của người dân. Phúc lợi xã hội nâng cao sẽ
góp phần làm tăng sự hài lòng trong mọi tầng lớp người trong xã hội. Từ đó góp
phần hình thành nhân cách tốt, giảm đi sự chống đối của mọi người trong xã hội
tất yếu sẽ làm tội phạm giảm.
Trong những năm gần đây, hiện tượng di dân một cách tự do từ nông thôn
lên thành thị hoặc ở một số tỉnh khác đến thành phố Hồ Chí Minh để “tha hương
cầu thực”, sinh sống một cách tạm thời… nên các công tác quản lý nhân khẩu,
hộ khẩu gặp nhiều khó khăn. Trường hợp đăng kí hộ khẩu nơi này nhưng lại ở
nơi khác hay không đăng kí hộ khẩu xảy ra một cách phổ biến.
Khắc phục tác động tiêu cực từ quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa.
Quá trình này đã làm cho một bộ phận dân cư nông thôn trở thành cư dân thành
thị và người làm nông nghiệp trở thành cán bộ, công nhân làm trong các nhà
máy. Tuy nhiên, một phần lao động nữ làm nông nghiệp mất đất canh tác đồng
nghĩa với mất việc làm, cuộc sống của họ bị đảo lộn gặp nhiều khó khăn. Do
vậy, sự cần thiết thực hiện đồng bộ các chính sách, biện pháp trong công tác bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư, khi thu hồi đất. Và hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm,
132
chuyển đổi nghề đối với lao động làm nông nghiệp, nhất là lao động nữ có đất bị
thu hồi. Thực tế cho thấy nhiều địa phương mới chỉ chú trọng bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng khi thu hồi đất, ít quan tâm đến dạy nghề,
chuyển đổi nghề cho lao động nữ; cũng như vấn đề nhà ở cho người lao động nữ
làm việc trong khu công nghiệp, khu kinh tế.
Thực hiện các giải pháp hạn chế các tệ nạn xã hội. Đây là giải pháp có
tính đặc thù để phòng ngừa tội phạm.
Các tệ nạn xã hội như tệ nghiện ma túy, tệ mại dâm và các tệ nạn xã hội
khác là những nhân tố tiêu cực có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tội phạm do
nữ giới thực hiện trong những năm qua. Việc thực hiện các giải pháp loại trừ các
tệ nạn xã hội cũng góp phần phòng ngừa tội phạm, làm giảm tội phạm do nữ
giới thực hiện. Để bài trừ các tệ nạn xã hội đòi hỏi phải sử dụng đồng bộ nhiều
biện pháp. Quốc hội cần quan tâm quyết định nguồn lực cho công tác phòng
chống tệ nạn xã hội theo hướng tăng đầu tư cho các tỉnh, thành phố trọng điểm
có nhiều tệ nạn xã hội và ưu tiên cho các tỉnh có tệ nạn xã hội phát triển nhưng
có khó khăn về kinh tế. Công tác dạy văn hóa, dạy nghề tạo việc làm cho người
nghiện ma túy chiếm khoảng trên 30% so với tổng số người được cai nghiện đối
với những học viên có trình độ văn hóa cao thì được dạy nghề và cấp chứng chỉ
nghề như: Điện dân dụng, cơ khí, lái xe, chất lượng ngày càng cao. Nhiều đối
tượng nghiện ma túy đã cai nghiện được trở về và trở thành chủ cơ sở sản xuất,
thành cán bộ, xã phường.
Hiện nay gái mại dâm có xu hướng hoạt động sang hình thức gái gọi, gái
bao qua mạng Internet, qua điện thoại di động rất khó phát hiện và theo dõi.
Theo báo cáo của cục phòng chống tệ nạn xã hội của Bộ Lao động - Thương
binh và xã hội cho thấy số đối tượng mại dâm có hồ sơ quản lý trên phạm vi cả
nước trong 10 năm từ năm 2008 đến năm 2015 có 134.545 đối tượng mại dâm
có hồ sơ quản lý chiếm khoảng 41% so với số đối tượng mại dâm ước tính và số
đối tượng mại dâm được dạy nghề chiếm khoảng 19% so với tổng số đối tượng
có hồ sơ quản lý [5]. Số đối tượng mại dâm được dạy nghề tại các trung tâm
chữa bệnh, giáo dục, lao động xã hội và ở cộng đồng năm sau cao hơn năm
133
trước. Các trung tâm tổ chức dạy nghề kết hợp với lao động sản xuất với mục
đích nâng cao ý thức và khả năng lao động của các đối tượng mại dâm, đồng
thời tăng thêm thu nhập cải thiện sinh hoạt hàng ngày cho họ. Nhiều trung tâm
đã gắn dạy nghề với tạo việc làm cho đối tượng mại dâm làm thông qua vận
động các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất gia công sản phẩm hoặc nhận đối
tượng vào làm việc. Có biện pháp giúp đỡ đối tượng gái mại dâm phục hồi nhân
phẩm hòa nhập cộng đồng góp phần làm giảm tệ nạn mại dâm đồng thời ngăn
ngừa nữ giới phạm tội. Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức đoàn thể tại Thành phố Hồ Chí Minh đẩy mạnh cuộc vận động phòng
chống tệ nạn xã hội trong gia đình, nhà trường và cộng đồng; đẩy mạnh tuyên
truyền nâng cao nhận thức của nhân dân nhất là thanh thiếu niên về tác hại của
các tệ nạn xã hội để họ tránh không tham gia vào các tệ nạn này. Tạo điều kiện
thuận lợi, bảo đảm an toàn để nhân dân tố giác các đối tượng tham gia tệ nạn xã
hội. Chú trọng đầu tư cho lĩnh vực kinh doanh giải trí cho nhân dân nhất là cho
thanh thiếu niên vui chơi giải trí lành mạnh.
Cùng với việc duy trì phát triển các doanh nghiệp nhà nước, cần có chính
sách ưu đãi hơn cho doanh nghiệp tư nhân, cơ sở sản xuất vừa và nhỏ nhằm thu
hút và điều hòa lực lượng lao động giữa các khu vực trong thành phố tạo điều
kiện thuận lợi cho học sinh, sinh viên mới ra trường có cơ hội tìm kiếm việc
làm. Mặt khác, cần tập hợp, lôi cuốn những cá nhân sống buông thả, lười lao
động có những biện pháp phù hợp giúp họ có thể kiếm sống bằng chính sức lao
động của mình. Đối với những đối tượng liên quan đến các tệ nạn xã hội như ma
túy, cờ bạc, rượu chè, mại dâm... trước hết cần sử dụng các biện pháp trấn áp
giáo dục tích cực, tuyên truyền.
4.2.4. Giải pháp từ môi trường xã hội, văn hoá
Trong những năm qua, nghiên cứu về tình hình tội phạm nói chung trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy sự xuống cấp trầm trọng về đạo đức,
truyền thống các gia đình, dòng họ… Sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội ảnh
hưởng do sự du nhập của lối sống phương Tây dẫn đến sự xuống cấp về văn hóa
trên địa bàn thành phố. Cần phải đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn
134
hóa, nếp sống văn hóa ở cộng đồng dân cơ trên địa bàn thành phố nhằm góp
phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Mọi xử sự của con người trái với đạo đức, thuần
phong, mỹ tục, trái với pháp luật đều có thể được coi là thiếu văn hoá. Con
người thiếu văn hoá nói chung là con người khiếm khuyết về nhận thức, về nhân
cách, về xử sự. Con người thiếu văn hoá sẽ không có gia đình văn hoá, lại càng
khó khăn cho việc xây dựng nếp sống văn hoá trong nền kinh tế hội nhập như
hiện nay. Nâng cao ý thức tự quản, tự phòng tránh các va chạm nhỏ và các hành
vi liên quan đến tội phạm, tệ nạn xã hội để chúng không xâm nhập vào bản thân,
gia đình và cộng đồng. Xây dựng khối đoàn kết toàn dân định hướng cuộc sống
của con người tới “chân, thiện, mỹ”, con người phải hướng tới rèn luyện tu
dưỡng để có cuộc sống chân chính.
Vấn đề phòng ngừa tội phạm chủ yếu là do mâu thuẫn, thì vấn đề văn hoá
ứng xử có ý nghĩa vô cùng quan trọng, hành động xử sự thô bạo, gây bức xúc
cho người khác hoặc cố tình gây thiệt hại cho người khác đều là những xử sự
thiếu văn hoá. Văn hoá ứng xử của con người phải đặt trong mối quan hệ “mình
vì mọi người” và “mọi người vì mình” để xử sự một cách bình tĩnh, sáng suốt
mới có thể hạn chế được những phát sinh mâu thuẫn không cần thiết dẫn đến
hành vi phạm tội. Bên cạnh đó, các cấp chính quyền cần xây dựng những gương
mặt tiêu biểu, động viên khen thưởng hay phê bình, kỷ luật những cá nhân, tập
thể không thực hiện nay có sự vi phạm thường xuyên, kiểm tra, hướng dẫn, thẩm
định các tiêu chí xét duyệt công nhận đơn vị, gia đình văn hoá đúng tiêu chuẩn
tránh hình thức chạy theo thành tích sẽ phản tác dụng trong xây dựng phong trào.
Mặt khác, chúng ta thấy rằng không phải người nào cũng có thể dễ dàng thực
hiện hành vi phạm tội, mà chủ yếu là những đối tượng có trình độ học vấn thấp,
kém hiểu biết pháp luật. Do vậy, cần phải nâng cao trình độ học vấn, nâng cao sự
hiểu biết pháp luật cho cộng đồng. Ngoài ra, sự ảnh hưởng tiêu cực của các sản
phẩm văn hoá độc hại nhất là các loại có nội dung kích động bạo lực... là băng
đĩa hình, dịch vụ internet có nội dung đồi trụy, kích dục... đã tác động đến các
đối tượng đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên làm suy thoái đạo đức lối sống
dẫn đến hành vi vi phạm tội. Do vậy, để ngăn chặn các sản phẩm văn hoá tiêu
135
cực này cần phải kiểm soát chặt chẽ, phát hiện kịp thời và có biện pháp xử lý
đúng đắn, nghiêm khắc đảm bảo tính giáo dục, răn đe đối với các trường hợp vi
phạm pháp luật, nhất là các hành vi nhân sao, phát tán trái phép tài liệu văn hoá
phẩm có nội dung trái quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của
nhà nước. Cần duy trì và đổi mới phương pháp phối hợp với các ngành, đặc biệt
là tăng cường các đoàn liên ngành trong từng lĩnh vực kinh doanh như một số
dịch vụ về văn hoá phải có liên ngành văn hoá thông tin, quản lý thị trường, công
an (không đơn thuần như hiện nay chỉ có văn hoá thông tin và công an)... như
vậy mới nâng cao được hiệu quả xử lý, nhằm chấn chỉnh các vi phạm và ổn định
tình hình được tốt hơn. Đặc biệt, lĩnh vực Internet là một lĩnh vực mới về khoa
học công nghệ, nên các cơ quan chuyên ngành cần nghiên cứu các biện pháp kỹ
thuật ngăn ngừa từ xa, hạn chế những thông tin xấu trên mạng, hướng dẫn, chỉ
đạo, phân công trách nhiệm cụ thể cho từng đơn vị liên quan trong hoạt động
quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet. Cần tập trung nâng cao trình độ
nhận thức, ý thức giác ngộ, cảnh giác để quần chúng thấy rõ được trách nhiệm,
nghĩa vụ của mình. Vận động quần chúng tích cực tham gia phát hiện, tố giác tội
phạm, báo cơ quan cần phải có cơ chế xử phạt và khen thưởng kịp thời, nghiêm
minh đối với hành vi né tránh hay không tố giác tội phạm.
Quản lý chặt chẽ các hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, ngăn chặn sự xâm
nhập của các luồng văn hóa phẩm độc hại, tác động rất xấu đến tư tưởng, đạo
đức, lối sống, tâm lý, hành vi của một bộ phận nhân dân, nhất là thanh thiếu
niên. Để quản lý chặt chẽ các hoạt động trong lĩnh vực văn hóa nhằm ngăn chặn,
loại trừ tình hình tội phạm, các cấp ủy Đảng, chính quyền phải ban hành kế
hoạch, văn bản chỉ đạo hướng dẫn các cơ quan, đơn vị hành chính - sự nghiệp,
doanh nghiệp về công tác tuyên truyền và quản lý các loại hình dịch vụ văn hóa,
văn hóa phẩm, ấn phẩm, xuất bản phẩm. Ngành văn hóa cần phải phối hợp chặt
chẽ với các cơ quan chức năng liên quan tiến hành tiếp nhận, xử lý, kiểm tra các
loại văn hóa phẩm độc hại xâm nhập.
Vận động các tầng lớp nhân dân chấp hành đầy đủ, nghiêm túc pháp luật,
các quy định về bài trừ các sản phẩm văn hoá độc hại. Phối hợp chặt chẽ giữa
136
các cấp, các ngành, Mặt trận, đoàn thể đấu tranh chống sản phẩm văn hoá độc
hại đồng bộ, toàn diện, đồng thời có trọng tâm, trọng điểm. Tập trung thực hiện
có hiệu quả phong trào xây dựng gia đình văn hoá, nâng cao ý thức tự giác của
các thành viên trong gia đình tẩy chay, loại bỏ các sản phẩm văn hoá độc hại,
bảo vệ các giá trị văn hoá tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Rà soát, bổ sung và
thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành liên quan đến hoạt động
văn hóa. Môi trường văn hóa lành mạnh sẽ góp phần hình thành nhân cách tốt,
loại bỏ các đặc điểm nhân thân xấu từ đó góp phần làm giảm tội phạm trong xã
hội, nhất là tội phạm do bạo lực, tội phạm tình dục...
4.3. Những giải pháp khắc phục, dần loại bỏ những hiện tượng tiêu
cực từ nhân thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
4.3.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền pháp luật
nhằm tác động đến ý thức pháp luật của người dân
Qua nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến tình hình tội phạm trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng tăng có một phần nguyên nhân do ý thức
chấp hành pháp luật trong bộ phận dân cư còn kém. Điều này cũng cho thấy hiệu
quả công tác tuyên truyền giáo dục mang lại chưa cao. Một phần do nội dung và
phương pháp tuyên truyền chưa thật sự phù hợp với từng đối tượng được tuyên
truyền, còn nặng về lý luận, chưa đổi mới các hình thức, nên cần phải đẩy mạnh,
nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục và phổ biến pháp luật cho tất cả
các tầng lớp nhân dân trên địa bàn. Khi người dân nắm và hiểu được các quy định
của pháp luật sẽ hình thành ý thức sống và làm việc theo pháp luật, khắc phục các
thói quen sở thích xấu, ngăn chặn và loại trừ được tội phạm có thể xảy ra.
Đổi mới và đang dạng hoá các hình thức tuyên truyền giáo dục và phổ
biến pháp luật, không tổ chức các hội nghị tuyên truyền dưới hình thức lý thuyết
suông, mà nên xây dựng những tình huống, những mâu thuẫn, tranh chấp xảy ra
trong cuộc sống hàng ngày để các đối tượng được tuyên truyền giải quyết những
mâu thuẫn, tranh chấp đó trên cơ sở các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, đa
dạng các hình thức tuyên truyền thông qua các hội thi, hội diễn văn nghệ dưới
hình thức sân khấu hoá cũng sẽ đem lại hiệu quả cao, các quy định của pháp luật
137
được chuyển tải đến với người dân trở nên dễ nhớ, diễu hiểu hơn. Phát động các
cuộc thi viết tìm hiểu pháp luật với đối tượng tham là tất cả các tầng lớp nhân
dân. Lồng ghép tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong các hoạt động tư vấn
pháp luật; trợ giúp pháp lý miễn phí cho các đối tượng chính sách, người nghèo.
Chú trọng, tăng cường tuyên truyền giáo dục để khắc phục các thói quen,
sở thích xấu đối với người chưa thành niên phạm tội, nhằm giáo dục, giúp đỡ họ
sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Áp dụng các biện pháp tác động có tính chất giáo dục phòng ngừa đối với người
chưa thành niên, cần tăng cường tuyên truyền giáo dục để khắc phục các thói
quen, sở thích xấu. Giao cho gia đình, đoàn thể và các cơ quan khác có trách
nhiệm giáo dục nhằm giúp đỡ các em có nhận thức đúng đắn trong hành vi ứng
xử và sớm hòa nhập cộng đồng.
Với những hình thức tuyên truyền đa dạng và phong phú như trên, pháp
luật sẽ thật sự đi vào cuộc sống, mỗi người dân sẽ dần hình thành ý thức sống và
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Đây là giải pháp có ý nghĩa thiết thực
trong hoạt động phòng ngừa tội phạm, ngăn chặn và loại trừ tình hình tội phạm
có thể xảy ra trên Thành phố Hồ Chí Minh. Bởi thực hiện tốt tuyên truyền giáo
dục sẽ góp phần quan trọng trong hình thành nhân cách tốt của con người, từ đó
loại bỏ các đặc điểm nhân thân xấu, sẽ làm giảm đánh kể hành vi phạm tội.
4.3.2. Giải pháp tác động đến thói quen, sở thích xấu của nhân thân
tiêu cực
Từ kết quả nghiên cứu thực tiễn cho thấy cho thấy nhân thân người phạm
tội xuất phát từ sở thích, nhu cầu và phương thức thoả mãn nhu cầu sai lệch, do
vậy cần có giải pháp phòng ngừa các hiện tượng xã hội tiêu cực này.
Nghiên cứu các hồ sơ cho thấy, số lượng tội phạm nữ hiện nay trong nhóm tội
phạm về ma túy và nhóm tội xâm phạm sở hữu chiếm tỷ lệ khá cao (35,4% nữ giới
phạm các tội phạm về ma túy và 17,9% nữ giới phạm các tội xâm phạm sở hữu).
Điều này cho thấy, tình trạng thất nghiệp và tình trạng đói nghèo, đời sống khó khăn
của một bộ phận dân cư làm thúc đẩy hình thành nhiều đặc điểm nhân thân tiêu cực
của nữ giới, từ đó thúc đẩy nữ giới thực hiện tội phạm và tham gia vào các tệ nạn xã
138
hội để đảm bảo cuộc sống gia đình, giải quyết khó khăn vật chất.
Chính quyền địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh cần đầu tư phát triển kinh
tế tạo điều kiện giải quyết ngày càng nhiều việc làm cho người lao động đặc biệt
là lao động nữ. Thành phố Hồ Chí Minh cần khuyến khích phát triển đa dạng
các ngành, nghề sản xuất khai thác hiệu quả các tiềm năng sẵn có về đất đai, tài
nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực để phát triển kinh tế, nâng cao năng suất
lao động, tạo thêm việc làm mới đặc biệt là cho lao động nữ. Các doanh nghiệp
sử dụng nhiều lao động nữ được ưu đãi về thuế và tái chính theo quy định của
pháp luật. Thực tế ở nước ta trong những năm qua cho thấy tốc độ tăng trưởng
nhanh của các doanh nghiệp chủ yếu dựa trên nền tảng nhân công giá rẻ, trình
độ tay nghề thấp, năng suất lao động thấp dẫn đến năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp và sản phẩm của Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh
nói riêng còn thấp so với các nước trong khu vực. Do vậy, Nhà nước đầu tư phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao và cần ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
năng lực cho lao động nữ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh
tế và tăng thu nhập cho người lao động nữ. Nhà nước cần có chính sách khuyến
khích các thành phần kinh tế tham gia đào tạo nghề cho lao động nữ. Quá trình
đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước trong giai đoạn chuyển đổi sang kinh tế thị
trường đã có những tác động tiêu cực là một bộ phận lao động nữ dôi dư mất
việc làm phải rời khỏi khu vực kinh tế Nhà nước. Và sau khi mất việc làm họ
cũng có ít cơ hội tìm việc làm mới bởi nhiều lí do như trình độ chuyên môn
thấp, tay nghề thấp, không năng động, tuổi nhiều, sức khỏe không tốt, gánh nặng
công việc gia đình. Trong số lao động nữ dôi dư, một bộ phận thích ứng nhanh
tìm được việc làm mới ở các ngành dịch vụ như ăn uống, giải khát và giải trí,
may mặc, làm dịch vụ chăm sóc sắc đẹp… ở các thành thị giúp họ có được thu
nhập. Sự phát triển các dịch vụ này không chỉ tạo việc làm cho các lao động nữ
ở thành thị mà còn tạo việc làm cho lao động nữ từ nông thôn di cư tự do ra
thành phố. Tuy nhiên, một bộ phận nhỏ lao động nữ mất việc làm không có khả
năng cạnh tranh trên thị trường lao động nên thất nghiệp, họ phải làm bất cứ
công việc gì để kiếm sống kể cả việc làm bất hợp pháp. Nhà nước cần hoàn
139
thiện hệ thống bảo hiểm nhất là bảo hiểm thất nghiệp có khả năng giúp họ vượt
qua khó khăn; cũng cần phải có chính sách ưu đãi, hỗ trợ kinh phí đào tạo lại
nghề cho lao động nữ mất việc làm. Đồng thời mở rộng nhiều loại hình đào tạo
nghề phù hợp với nhu cầu xã hội để ngoài nghề đang làm người lao động nữ còn
có thể học thêm nghề dự phòng phù hợp. Nếu gặp rủi ro mất việc làm họ có thể
sớm tìm được việc làm mới ổn định cuộc sống, tránh được tình trạng lao động
nữ thất nghiệp đi vào con đường làm ăn phi pháp.
Từ chính sách nhà nước về giải quyết việc, tạo điều kiện cho người dân có
việc làm và thu nhập ổn định và có thu nhập ổn định. Lao đông nghề nghiệp
thường xuyên sẽ hình thành thói quan trân quý lao động, loại bỏ dần tư tưởng,
thói quen hưởng thụ, lười lao động.
Lứa tuổi dưới 18 tuổi phạm tội ngày càng trẻ hoá, gia đình, nhà trường và
chính quyền địa phương cần phải phối hợp trao đổi thông tin kịp thời để năm được
những đối tượng nào có tư tưởng ăn chơi và a dua theo các nhóm không chính thức.
4.3.3. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục cải tạo phạm nhân
Xuất phát từ các đặc điểm của hoạt động giáo dục cải tạo phạm nhân để
nâng cao hiệu quả của công tác này cần phải thực hiện tốt các công việc sau:
a) Xác định các yếu tố tác động tới tâm lý, nhân cách và hiệu quả của quá
trình giáo dục, cải tạo phạm nhân:
Phạm nhân là những đối tượng đặc biệt, có đời sống tâm lý cũng như các
đặc điểm nhân cách rất phức tạp. Trong điều kiện chấp hành án ở họ có những
đặc điểm tâm lý, hoàn cảnh tương đối phổ biến, có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả của quá trình quản lý giáo dục tại trại. Ngoài ra, nhiều phạm nhân khi vào
trại thường mang theo những thói quen xấu của lối sống cũ trước đây: lối sống
bừa bãi, thích hưởng thụ, sự nghiện ngập, ngôn ngữ thô thiển. Những thói quen xấu
này ảnh hưởng rất lớn tới quá trình giáo dục cải tạo cả đối với bản thân họ và với
cộng đồng trại viên. Thêm vào đó, một hiện tượng khá phổ biến trong cộng đồng
trại viên đó là nhu cầu tự khẳng định của các phạm nhân, ganh đua nhau dành vị trí
thủ lĩnh, sự lây lan những nét tâm lý xấu dẫn tới phản tác dụng giáo dục.
Mỗi phạm nhân có đời sống tâm lý riêng, do sự tác động của các yếu tố
140
thuộc hoàn cảnh riêng của mỗi người. Đối với mỗi phạm nhân, tính chất của tội
phạm do họ gây ra và mức độ hình phạt áp dụng có ảnh hưởng trực tiếp tới tâm
lý cũng như nhân cách của họ. Với những phạm nhân nhận thức được lỗi lầm
của mình, tỏ thái độ ăn năn hối cải, thường thích ứng nhanh với điều kiện giam
giữ cải tạo, tích cực học tập, lao động. Đối với những phạm nhân cho rằng, mình
bị oan, hoặc mức án quá nghiêm khắc, không tương xứng với lỗi lầm mà họ đã
phạm thì tâm lí của họ thường bị ức chế, họ dễ có phản ứng chống đối quản giáo,
cán bộ giáo dục cũng như những hành vi vi phạm các quy định khác của nội quy,
quy chế trại giam, nhất là ở thời gian đầu của quá trình chấp hành hình phạt.
Đặc điểm môi trường nơi phạm nhân chấp hành hình phạt (vị trí, điều kiện
địa lý, cơ sở vật chất, điều kiện sinh hoạt) và điều kiện sống cụ thể so với trước khi
phạm tội ( chế độ quản lý, lao động, sự chênh lệch về điều kiện sống) có tác động
khá lớn đến tâm lý cũng như hiệu quả của công tác cải tạo giáo dục đối với họ.
Những yếu tố này có thể làm xuất hiện trạng thái tâm lý bị ức chế do nhiều nhu cầu
vật chất và tinh thần không được thoả mãn hoặc thoả mãn không đầy đủ. Trạng thái
này thường làm tăng tính phản ứng, tính dễ bị kích động của phạm nhân.
Theo ý kiến của nhiều cán bộ hiện làm công tác quản lý giáo dục tại trại
giam, yếu tố gia đình mà cụ thể là thái độ của những người thân trong gia đình
có tác động rất lớn đến tâm lý, thái độ và hiệu quả cải tạo của phạm nhân. Đó có
thể là nguồn động viên rất lớn giúp họ vượt qua giai đoạn thử thách. Nhưng
ngược lại cũng có thể dẫn đến trạng thái bất cần chán nản ở họ. Vì vậy, trong quá
trình phạm nhân chấp hành hình phạt tại trại giam phải đặc biệt chú ý và tăng
cường vai trò của yếu tố gia đình đối với bản thân mỗi phạm nhân.
b) Xác định rõ các mục tiêu của quá trình giáo dục cải tạo phạm nhân
Như chúng ta đã biết, hình phạt tù là loại hình phạt áp dụng đối với những
người có hành vi phạm tội bị kết án tù chung thân hoặc tù có thời hạn. Và thi
hành án phạt tù là buộc những đối tượng phải chịu hình phạt tại trại giam nhằm giáo
dục họ trở thành người lương thiện. Như vậy, giáo dục là mục đích chủ yếu của quá
trình thi hành án phạt tù tại trại giam. Tuy nhiên, giáo dục phạm nhân là quá một
quá trình đặc biệt về đối tượng, điều kiện, hoàn cảnh giáo dục. Do đó, để nâng cao
141
hiệu quả của quá trình này, cần phải xác định rõ các mục tiêu sau đây:
- Xây dựng niềm tin đối với các chuẩn mực (đạo đức, pháp luật, lẽ phải,
tình thương, tương lai, giá trị) cho phạm nhân. Như kết quả nghiên cứu, phạm
nhân là những người có nhận thức sai lệch, nông cạn, thiếu niềm tin đối với bản
thân, xã hội. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội ở
họ. Vì vậy, mục tiêu đầu tiên của quá trình giáo dục cải tạo phạm nhân là xây
dựng niềm tin đối với các chuẩn mực cho họ.
- Ở phạm nhân, trình độ hiểu biết về pháp luật rất thấp kém. Họ không
hiểu được thế nào là vi phạm pháp luật và hành vi phạm tội. Cho nên, giáo dục
phạm nhân phải hướng tới mục tiêu phổ cập ý thức pháp luật, đồng thời nâng cao
ý thức đạo đức, lao động, nghĩa vụ đúng đắn cho phạm nhân.
- Phổ cập và nâng cao ý thức, trình độ văn hoá cho phạm nhân và xây
dựng ý thức kỷ luật. Đa số phạm nhân hiện nay có trình độ học vấn thấp kém.
Họ cũng là những người sống vô trách nhiệm, hay có thái độ thờ ơ, bất cần. Do
đó, song song với mục tiêu nâng cao trình độ văn hóa cho phạm nhân cũng cần
xác định rõ mục tiêu xây dựng ý thức kỉ luật cho họ. Mặc dù có rất nhiều đặc
điểm tiêu cực trong nhân cách của phạm nhân, nhưng ở bất cứ người nào cũng
vẫn tồn tại những tình cảm tích cực. Vì vậy, khơi dậy và phát huy những tình
cảm tích cực đó ở họ sẽ góp phần làm tăng hiệu quả của quá trình cảm hoá, giáo
dục phạm nhân và tạo nên những tác động tâm lý tích cực đối với quá trình tái
hoà nhập xã hội của họ sau này.
Như vậy, để nâng cao hiệu quả của công tác quản lý, giáo dục phạm nhân
đòi hỏi phải có sự kết hợp của nhiều yếu tố. Đó là việc phân loại phạm nhân, xác
định rõ các mục tiêu giáo dục cải tạo, từ đó áp dụng các phương pháp tác động
giáo dục phù hợp. Quan trọng nhất là sự phối hợp giữa các yếu tố gia đình, trại
giam và bản thân phạm nhân.
4.3.4. Giải pháp tăng cường hiệu quả của hoạt động tái hoà nhập cộng đồng
Đồng thời phát hiện kịp thời xử lý hành chính, xử lý hình sự nghiêm minh
phù hợp với tính chất mức độ của từng hành vi tham gia vào các tệ nạn xã hội để
trừng trị, giáo dục những đối tượng này ngăn ngừa họ tái phạm. Những biện
142
pháp giúp đỡ những đối tượng nữ tham gia vào các hoạt động xã hội như: Người
nghiện nữ sau cai trở về cộng đồng, gái mại dâm đã phục hồi nhân phẩm, người
phạm tội đang chấp hành hình phạt không tước tự do hoặc người phạm tội được
hưởng án treo. Nhà nước cần có chính sách miễn phí hoặc hỗ trợ kinh phí đào
tạo nghề và giải quyết việc làm cho các đội tượng này. Đây là biện pháp phòng
ngừa tái phạm hiệu quả nhất. Cần nhân rộng mô hình xã, phường, thôn, ấp, bản
không có tệ nạn xã hội và các gia đình không có người tham gia vào các tệ nạn
xã hội. Xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, có nề
nếp, ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, anh chị
em đoàn kết, thương yêu nhau, chú trọng nêu gương người tốt, việc tốt, đồng
thời phê phán những biểu hiện không đúng trong việc xây dựng gia đình và
những biểu hiện không lành mạnh ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình. Cần đẩy
mạnh các giải pháp chống bạo lực gia đình, nhấn mạnh đến vai trò của Hội phụ
nữ, Hội cựu chiến binh, Hội người cao tuổi, Tổ dân phố, Ban quản lý khu phố
trong vấn đề giải quyết bạo lực gia đình. Gia đình có điều kiện kinh tế không
thuận lợi cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc thiếu quan tâm,
chăm sóc giáo dục trẻ, do đó chính quyền địa phương, các ban, ngành, đoàn thể
cần thực hiện tốt các chính sách ưu tiên phát triển kinh tế gia đình, mở rộng đối
tượng vay vốn, tăng số lượng vốn vay, tăng thời gian sử dụng vốn vay cho đối
tượng hộ gia đình nghèo, cận nghèo nhằm tạo điều kiện cần thiết ban đầu cho
các ia đình có điều kiện phát triển kinh tế.
4.3.5. Giải pháp tăng cường công tác quản lý xã hội, quản lý nhà nước
về an ninh trật tự tại Thành phố Hồ Chí Minh
Để giảm thiểu tình trạng phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thì
công tác tăng cường quản lý xã hội, quản lý nhà nước về an ninh trật tự tại Thành
phố Hồ Chí Minh có vai trò hết sức quan trọng. Nguyên nhân của hiện tượng này
một phần do biến đổi về quan điểm, cách nghĩ, cách ứng xử của con người trong
môi trường xã hội mới, trong đó có tư tưởng thực dụng, hưởng thụ, chạy theo
đồng tiền diễn ra ở bộ phận không nhỏ người dân, nhất là tầng lớp thanh niên. Bên
cạnh đó, còn một số nguyên nhân khiến việc vi phạm pháp luật, phạm tội ngày càng
143
diễn biến phức tạp như: công tác quản lý trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trên
nhiều lĩnh vực còn có kẽ hở; khoảng cách phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng; tình
hình tham nhũng, lãng phí khiến một số người giàu lên nhanh chóng gây nên những
bức xúc trong xã hội, tạo ra các vụ khiếu kiện đông người rất phức tạp...
Đấu tranh phòng, chống tội phạm là một trong những nhiệm vụ trọng yếu,
cấp bách, thường xuyên, liên tục và lâu dài nhằm thực hiện Hiến pháp, pháp luật
và các văn bản hướng dẫn thi hành, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân; đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của các cấp uỷ
Đảng, sự quản lý của chính quyền các cấp; sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của
các ngành, tổ chức chính trị - xã hội; đề cao vai trò, trách nhiệm và tính chủ
động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc các cấp, tổ chức đoàn thể, quần chúng nhân
dân. Để làm được điều này, cần triển khai đồng bộ những giải pháp sau:
Một là, huy động sức mạnh của hệ thống chính trị trong phòng, chống tội
phạm. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều
hành của chính quyền, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần
chúng các cấp trong công tác phòng, chống tội phạm. Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội
viên về ý thức trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tội phạm. Tập
trung đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian tới; trong đó, tăng cường
lực lượng cảnh sát hình sự đặc nhiệm tuần tra trên các địa bàn trọng điểm. Xây
dựng đề án báo cáo Bộ Công an về triển khai lực lượng cảnh sát hình sự đặc
nhiệm hoạt động theo mô hình lực lượng liên ngành. Chỉ đạo các đơn vị phối
hợp với ban ngành liên quan nghiên cứu thành lập các Câu lạc bộ, Đội, Nhóm
phòng chống tội phạm. Nghiên cứu cơ chế huy động quỹ phòng, chống tội phạm
và thưởng bằng vật chất cho người dân có thành tích truy bắt tội phạm hoặc
cung cấp tin báo có giá trị trong phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội…
Hai là, chú trọng tăng cường, nâng cao hiệu quả các biện pháp phòng
ngừa xã hội. Coi trọng phòng ngừa tội phạm từ gia đình, trong gia đình và ở cơ
sở. Rà soát, đánh giá ảnh hưởng của các chính sách phát triển và quá trình thực
hiện các chính sách phát triển đến tình hình tội phạm và hoạt động phòng, chống
144
tội phạm, đề xuất khắc phục hạn chế những sơ hở, thiếu sót, bất cập. Đẩy mạnh
các hoạt động truyền thông, giáo dục, nhất là truyền thông giáo dục về đạo đức,
lối sống, chính sách, pháp luật nhằm chống suy thoái đạo đức, lối sống, nâng cao
ý thức chấp hành pháp luật, tinh thần cảnh giác và trách nhiệm tham gia phòng,
chống tội phạm đối với các tổ chức, cá nhân và gia đình. Đẩy mạnh phong trào
“Toàn dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm và quản lý, giáo dục
người phạm tội trong gia đình, ở địa bàn dân cư” gắn với các cuộc vận động
nhằm phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Tiếp tục củng cố, kiện toàn, nâng cao một bước hiệu quả hoạt động của các lực
lượng bán chuyên trách và các tổ chức của quần chúng ở cơ sở. Đẩy nhanh quá
trình “xã hội hóa” công tác phòng, chống tội phạm, huy động thêm nhiều nguồn
lực cho công tác phòng, chống tội phạm.
Ba là, từng bước nâng cao năng lực phòng, chống tội phạm của các cơ
quan bảo vệ pháp luật và các lực lượng chuyên trách. Rà soát, đánh giá thực
trạng năng lực của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân
các cấp và các lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm thuộc Công an
nhân dân, Quân đội nhân dân, xây dựng đề án tổng thể khắc phục hạn chế, yếu
kém và nâng cao một bước căn bản năng lực các lực lượng này.
Bốn là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về phòng,
chống tội phạm. Trước hết, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung pháp luật về tổ chức
cơ quan điều tra hình sự, pháp luật về các biện pháp phòng, chống tội phạm và
một số đạo luật có liên quan.
Năm là, chủ động, tích cực mở rộng quan hệ đối ngoại và tăng cường hợp
tác quốc tế về phòng, chống tội phạm.Trước hết, ưu tiên hợp tác với các cơ quan
an ninh, cảnh sát, nội vụ các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác quan
trọng, bạn bè truyền thống, các tổ chức và hiệp hội cảnh sát, tư pháp hình sự
quốc tế để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả tội phạm xuyên quốc gia, tội
phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Tranh thủ nguồn
lực bên ngoài phục vụ yêu cầu hiện đại hóa, tăng cường năng lực của các lực
lượng chuyên trách, phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc, giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định cho sự phát triển thành phố.
145
Trên cơ sở phân tích về dự báo tình hình biến động trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh tác động đến việc hình thành đặc điểm tiêu cực của nhân thân
người phạm tội, bên cạnh đó nghiên cứu sinh đề xuất một hệ thống các giải pháp
nhằm phòng ngừa tình hình phạm tội trên địa bàn thành phố trong những năm gần
đây. Để giảm ngửa tình trạng phạm tội thì cần đồng bộ nhiều biện pháp, có sự phối
hợp đồng bộ giữa các cơ quan ban ngành trong công tác phòng ngừa tội phạm.
Kết luận chương 4
Trên cơ sở phân tích lý luận và kết quả nghiên cứu thực tiễn về nhân thân
người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 – 2018, là
cơ sở nghiên cứu sinh đề xuất các giải pháp phòng tội phạm trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh, bao gồm nhiều giải pháp khác nhau.
Các giải pháp nhằm loại bỏ những hiện tượng tiêu cực từ môi trường sống
bao gồm các giải pháp như môi trường trường học, gia đình, kinh tế, văn hoá, xã
hội. Các giải pháp đến từ các yếu tố môi trường sống sẽ góp phần tích cực và hiệu
quả trong công tác phòng ngừa tội phạm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Hệ thống các giải pháp nhằm loại bỏ những đặc điểm tiêu cực từ chính
người phạm tội, bao gồm các giải pháp như: tác động vào ý thức pháp luật; tác
động đến hệ thống nhu cầu và phương thức thoả mãn nhu cầu lệch lạc ở người
phạm tội; nâng cao hiệu quả công tác giáo dục cải tạo phạm nhân; nâng cao hiệu
quả hoạt động tái hoà nhập cộng đồng…. nhằm tác động trực tiếp đến mỗi cá
nhân trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, hạn chế và loại bỏ những yếu tố,
hiện tượng làm nảy sinh, thực hiện hành vi phạm tội.
Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo
dục, khoa học và công nghệ, đầu mối giao lưu và hội nhập quốc tế, là đầu tàu,
động lực, có sức hút lan tỏa lớn của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí
chính trị quan trọng của cả nước. Số lượng người ngoài tỉnh cũng như người
nước ngoài nhập cảnh vào thành phố ngày càng gia tăng về số lượng và đa dạng
về mục đích. Lợi dụng chính sách mở cửa để thu hút đầu tư nước ngoài, phát
triển du lịch… nhiều người nước ngoài nhập cảnh vào thành phố thực hiện hành
146
vi phạm tội. Để phòng ngừa hiệu quả với tình hình tội, trên cơ sở những dự báo
có ý nghĩa quan trọng, tác giả Luận án đề xuất xây dựng hệ thống các giải pháp
phòng ngừa tội phạm cần tập trung vào các giải pháp sau:
- Thực hiện các giải pháp chiến lược về kinh tế - xã hội, giảm sự chênh
lệch giữa các quận trung tâm và các huyện ngoại thành, đảm bảo phát triển kinh
tế bền vững, giải quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao động, thu hẹp khoảng
cách giàu nghèo, tăng cường các chế độ đãi ngộ, chính sách an sinh xã hội.
- Hệ thống các giải pháp về văn hóa, giáo dục là hệ thống biện pháp cơ
bản, thường xuyên và lâu dài. Tạo việc làm bền vững cần giao quyền tự chủ, tự
chọn loại hình và ngành đào tạo đại học, đào tạo nghề cho các cơ sở đào tạo phù
hợp, tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp trong giáo dục nghề nghiệp dưới
sự kiểm soát của Nhà nước và đặc biệt là phải chú trọng giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho người học.
- Thường xuyên thực hiện các giải pháp tổ chức, quản lý. Theo đó, lực
lượng Công an cần phối hợp với các cơ quan, tổ chức làm tốt công tác quản lý
xuất, nhập cảnh, quản lý địa bàn, quản lý dân cư, giám sát mọi di biến động của
các đối tượng có biểu hiện nghi vấn phạm tội. Quản lý chặt chẽ các ngành nghề
có điều kiện về an ninh trật tự, các điểm kinh doanh internet, karaoke, trung tâm
giới thiệu việc làm…
- Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật phải được tiến hành thường
xuyên, liên tục. Nội dung tuyên truyền phải dễ hiểu, hình thức tuyên truyền
phong phú đa dạng, phù hợp với từng nhóm đối tượng, chú trọng đến các địa bàn
phức tạp về an ninh trật tự.
- Hoàn thiện các qui định của pháp luật cũng như kịp thời ban hành các
văn bản hướng dẫn cụ thể để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, góp phần
nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm.
- Lực lượng Công an nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân
dân tăng cường hoạt động phòng ngừa theo chức năng, đảm bảo mọi hành vi
phạm tội đều bị phát hiện và chịu sự xét xử nghiêm minh của pháp luật. Bên
cạnh đó, cần tăng cường hệ thống cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật phục vụ
147
hoạt động phòng ngừa tội phạm.
KẾT LUẬN
Tội phạm hiện nay vẫn đang là mối lo ngại lớn của mọi gia đình, là vấn đề
nhức nhối trong toàn xã hội. Trong thời gian qua, tình hình tội phạm có chiều
hướng gia tăng và chưa được chế, kiểm soát. Phòng, chống tội phạm là một trong
những nhiệm vụ trọng yếu, cấp bách, thường xuyên, liên tục và lâu dài nhằm bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn
diện của Đảng, sự quản lý, chỉ đạo Điều hành thống nhất của Nhà nước.
Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo
dục, khoa học và công nghệ, đầu mối giao lưu và hội nhập quốc tế, là đầu tàu,
động lực, có sức hút lan tỏa lớn của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí
chính trị quan trọng của cả nước. Vì vậy, số lượng người ngoài tỉnh cũng như
người nước ngoài nhập cảnh vào thành phố ngày càng gia tăng về số lượng, đa
dạng về mục đích. Lợi dụng chính sách mở cửa để thu hút đầu tư nước ngoài,
phát triển du lịch… nhiều người nước ngoài nhập cảnh vào thành phố thực hiện
hành vi phạm tội. Vì vậy, phòng ngừa tội phạm là một bộ phận quan trọng trong
nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự trên địa bàn thành phố. Vì
vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Nhân thân người phạm tội trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu Luận án tiến sĩ của mình, với
những kết quả nghiên cứu trên, đề tài đã giải quyết được các vấn đề sau:
Thứ nhất, Luận án đã làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng các nghiên cứu có
liên quan đến nhân thân người phạm tội được triển khai cụ thể trong Chương 1,
bao gồm những nghiên cứu, phân tích, làm sáng tỏ những kết quả đạt được, và
những tồn tại, hạn chế, những khoảng trống nghiên cứu mà nghiên cứu sinh tiếp
tục hoàn thiện trong đề tài của mình. Các công trình liên quan đến lý luận về
nhân thân người phạm tội; thực trạng đặc điểm nhân thân người phạm tội và các
công trình nghiên cứu liên quan đến hệ thống các giải pháp phòng ngừa tội phạm.
Thứ hai, Luận án đã phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về nhân
148
thân người phạm tội, trên cơ sở đó khái quát và rút ra khái niệm về nhân thân
người phạm tội, từ đó rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm
tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội có ý nghĩa
lớn trong việc định hướng nghiên cứu về nhân thân người phạm tội trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh. Từ những vấn đề lý luận trên, nghiên cứu sinh so sánh,
đánh giá với những luận điểm cần triển khai nghiên cứu trên thực tiễn địa bàn
nghiên cứu. Thông qua tìm hiểu nghiên cứu các vấn đề lý luận, từ những điểm
chung thống nhất cũng như những luận điểm còn đang còn những điểm chưa
thống nhất, nghiên cứu sinh làm sáng tỏ những vấn đề lý luận sau:
Một là, nghiên cứu sinh phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về nhân
thân người phạm tội, đưa ra khái niệm: “Nhân thân người phạm tội là người có
lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là
tội phạm, được hiểu là tổng thể các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội,
trong sự kết hợp với hoàn cảnh điều kiện bên ngoài tác động dẫn đến hành vi
phạm tội”. Trên cơ sở khái niệm về nhân thân người phạm tội, nghiên cứu sinh
đã xác định được đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và nền tảng lý luận
cơ bản.
Nghiên cứu nhân thân người phạm tội, nghiên cứu sinh chỉ ra được quy
luật hay mối quan hệ nhân quả của hành vi phạm tội, từ đó chỉ ra được những
hiện tượng xã hội tiêu cực nào tác động đến việc hình thành những đặc điểm
nhân thân tiêu cực ở người phạm tội. Qua đó còn cho thấy mối quan hệ biện
chứng giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong nhân thân người phạm tội, qua
nghiên cứu lý luận nghiên cứu sinh có rút ra được 03 nhóm đặc điểm nhân thân
cơ bản của người phạm tội: Đặc điểm xã hội – nhân khẩu; đặc điểm xã hội - tâm
lý; đặc điểm xã hội - pháp lý.
Trên cơ sở lý luận về đặc điểm nhân thân người phạm tội, nghiên cứu sinh
tìm hiểu và xác định những hiện tượng xã hội tiêu cực tác động hình thành đặc điểm
nhân thân người phạm tội và là nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội. Từ đây tìm
149
hiểu được nguyên nhân vì sao hình thành nhân thân người phạm tội, có hai nhóm
nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội đó là những hiện tượng xã hội khách quan
và những hiện tượng chủ quan thuộc về môi trường sống của người phạm tội.
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội sẽ
là cơ sở để nghiên cứu sinh đánh giá được thực tiễn về nhân thân người phạm tội
trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh sẽ có những đặc điểm đặc trưng cụ thể nào,
và từ những đặc điểm đặc trưng này nghiên cứu sinh xây dựng các biện pháp
hiệu quả trong công tác phòng ngừa tội phạm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh trong giai đoạn sắp tới.
Trong Luận án tác giả đã chỉ ra những nguyên nhân và điều kiện của tội
phạm từ khía cạnh nhân thân người phạm tội. Xác định hai vấn đề quan trọng
của Luận án là những đặc điểm nhân thân người phạm tội tham gia vào cơ chế
hình thành hành vi phạm tội cụ thể và chỉ ra toàn bộ hệ thống những hiện tượng
xã hội tiêu cực tác động đến quá trình hình thành nhân thân người phạm tội.
Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu sinh đã phân tích được đặc điểm nhân thân
người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án đã là rõ các đặc
điểm về mặt sinh học như: giới tính, lứa tuổi; những đặc điểm về nhân khẩu xã
hội; môi trường sống gia đình và trường học, tình trạng nghề nghiệp cũng như
hoàn cảnh kinh tế, sự lệch lạc về nhu cầu, sở thích cũng như phương thức thoả
mãn nhu cầu, tâm lý hưởng thụ coi trọng đồng tiền…
Thứ tư, làm rõ thực trạng những yếu tố ảnh hưởng tác động đến sự hình
thành nhân thân người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, bao gồm
những hiện tượng xã hội tiêu cực thuộc về môi trường sống và những thực trạng
tiêu cực thuộc về người phạm tội.
Thứ năm, trên cơ sở phân tích những đặc điểm nhân thân người phạm tội
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và những yếu tố tác động hình thành đặc
điểm tiêu cực này, nghiên cứu sinh đề xuất những giải pháp tác động trên nhiều
khía cạnh đã là nguyên nhân hình thành nên đặc điểm nhân thân của người phạm
tội. Bên cạnh đó, nghiên cứu sinh còn chỉ ra cơ sở dự báo được xu hướng tội
150
phạm thay đổi như thế nào để đề ra các biện pháp phù hợp.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. PGS.TS. Trần Hữu Tráng và Phạm Uyên Thy, Các đặc điểm nhân thân
đặc trưng của người phạm các tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh, Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội (ISSN 0866 -
8051) số 47 – tháng 10/2018;
2. GS.TS. Hồ Trọng Ngũ và Phạm Uyên Thy, Nhân thân người phạm tội
nhìn từ quy định về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
trong Bộ luật Hình sự năm 2015, Tạp chí Kiểm sát (ISSN 0866 - 7357) số
24 - tháng 12/2018;
3. Phạm Uyên Thy, Tác động của môi trường gia đình đến sự hình thành các
đặc điểm nhân thân người phạm tội ở Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí
Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội (ISSN 0866 - 8051) số 45 – tháng
7/2018, tr. 01 - 16;
4. Phạm Uyên Thy, Một số đặc điểm nhân thân và giải pháp phòng ngừa
người nước ngoài phạm tội, Tạp chí Kiểm sát (ISSN 0866 - 7357) số 21 -
151
tháng 11/2018;
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 49 ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020;
2. Bộ Chính trị, Chỉ thị 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới;
3. Bộ Chính trị, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của về tiếp tục thực hiện
Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020;
4. Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an thành phố Hồ Chí Minh
Phòng (2012), “Báo cáo chuyên đề thực hiện Đề án IV, Chương trình quốc
gia phòng chống tội phạm các năm 2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010,
2011, 2012”.
5. Nguyễn Văn Cảnh cùng tập thể tác giả (2010), Tội phạm học, Nxb Tổng cục
xây dựng lực lượng CAND, Hà Nội.
6. GS.TS Nguyễn Văn Cảnh và PGS.TS Phạm Văn Tỉnh (2013), Một số vấn đề
tội phạm học Việt Nam, Nxb Tư pháp
7. Lê Cảm (2001), Nhân thân người phạm tội: Một số vấn đề lý luận cơ bản, Tạp
chí Toà án, số 10/2001, tr.7-11 và số 11/2001, tr.5-8;
8. Bùi Kiên Điện (2001), Nhân thân bị can và một số khái niệm kề cận, Tạp chí
Luật học, số 6/2001, tr.14-18;
9. Lê Văn Định (2015), Đặc điểm nhân thân người phạm tội và phương thức
thực hiện tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai, Tạp chí kiểm sát, số
6/2015, tr.47- 53;
10. Đỗ Đức Hồng Hà (2005), Các tình tiết định khung tăng nặng trong tội giết
người phản ánh mức độ lỗi và các đặc điểm về nhân thân người phạm tội,
Tạp chí Toà án nhân dân, số 18/2005, tr.17- 20;
11. Nguyễn Quang Hạnh (2013), Một số vấn đề nhân thân người phạm tội, Tạp
152
chí Nghề luật, số 1/2013, tr.52- 57;
12. Hồ Thanh Lam (2016), Luận văn thạc sĩ luật học, Nhân thân người phạm tội
xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, Học viện Khoa học xã hội;
13. Liên Hợp Quốc (1948), Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế;
14. Liên Hợp Quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị;
15. Liên Hợp Quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa;
16. Liên Hợp Quốc (1985), Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc
về hoạt động tư pháp đối với người chưa thành niên;
17. Liên Hợp Quốc (1989), Công ước quốc tế về quyền trẻ em;
18. Liên Hợp Quốc (1990), Các hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa
phạm pháp ở NCTN;
19. Liên Hợp Quốc (1990), Các quy tắc của Liên Hợp Quốc về bảo vệ NCTN bị
tước tự do;
20. Ly SuViChay (2005), Đặc điểm hình sự tội phạm cướp giật tài sản công dân
trên địa bàn thành phố Phnômpênh vương quốc Campuchia” do tác giả Ly
SuViChay bảo vệ tại Học viện Cảnh sát nhân dân;
21. Trần Văn Luyện, Phùng Thế Vắc, Lê Văn Thu, Nguyễn Mai Bộ, Phạm Thanh
Bình, Nguyễn Ngọc Hà, Phạm Thị Thu (2018), Bình Luận khoa học Bộ luật
hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017- Phần các tội phạm, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội;
22. C.Mác - Ph. Ănghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật
Hà Nội.
23. Nguyễn Tuyết Mai (2007), Một số đặc điểm chú ý về nhân thân của người
phạm tội về ma tuý ở Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 11/2007, tr.32- 37;
24. PGS.TS. Dương Tuyết Miên, Tội phạm học đương đại, NXB Chính trị -
hành chính;
25. Phạm Việt Nghĩa (2016), Luận văn thạc sĩ luật học, Nhân thân người phạm
tội trong pháp luật hình sự Việt Nam, Trường Đại học quốc gia Hà Nội;
26. Hồ Trọng Ngũ (2010), “Đặc điểm tội phạm học tội phạm kinh tế và các biện
153
pháp phòng ngừa”, NXB Công an nhân dân, Hà Nội;
27. Hồ Trọng Ngũ, Phòng ngừa tội phạm ở cộng đồng dân cư,Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, Số 6/2005, Tr. 54-60;
28. Cao Thị Oanh (2010), “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Phần các tội
phạm - Chương IV: Các tội phạm sở hữu”, NXB Giáo dục, Hà Nội.
29. Võ Thị Kim Oanh, Lê Nguyên Thanh (2013), “Giáo trình tội phạm học”
NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội;
30. Cao Thị Oanh, Lê Đăng Doanh (2015), Bình Luận khoa học Bộ luật hình sự
năm 2015, Nxb Lao động, Hà Nội.
31. GS. Trần Đại Quang, GS. Nguyễn Xuân Yêm (2013), Tội phạm học Việt
Nam, tập 1, Nxb Công an nhân dân.
32. Đinh Văn Quế (2007), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam, NXB thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
33. Đinh Văn Quế (2009), Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự liên
quan đến nhân thân người phạm tội, Tạp chí Toà án, số 13/2009, tr.23- 27 và
số 14,tr.19-28;
34. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Bộ luật hình sự
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (sửa đổi), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật hình sự
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (sửa đổi), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
37. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng Hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
38. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng Hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39.Trần Văn Sơn (1997), Nhân thân người phạm tội một căn cứ để quyết định
hình phạt, Tạp chí Luật học, số 1/1997, tr.41-43;
40. Tập thể tác giả Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật do TS. Phạm Hồng
Hải làm chủ biên (2000), “Tội phạm học Việt Nam – Một số vấn đề lý luận
154
và thực tiễn”, Nhà xuất bản Công an nhân dân;
41. Phạm Quang Thắng, Vì sao phụ nữ phạm tội gia tăng, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật online, Nguồn: http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thi-hanh-
phap-luat.aspx?ItemID=19.
42. Nguyễn Duy Thông, Dự báo khoa học và xây dựng chiến lược khoa học, Tạp
chí Xã hội học số 4/1984, tr.29-35.
43. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2001), Một số vấn đề về nhân thân người phạm
tội, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2001, tr.46-53;
44. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2001), Nhân thân người phạm tội với việc quy
trách nhiệm hình sự”, Tạp chí Toà án, số 8/2001, tr.2-7;
45. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2005), Vấn đề nhân thân người phạm tội trong
thực tiễn quyết định hình phạt, Tạp chí Toà án, số 19/2005, tr.3- 9;
46. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2005), Vấn đề nhân thân người phạm tội trong thực
tiễn truy cứu trách nhiệm hình sự, Tạp chí Kiểm sát, số 17/2005, tr.32- 35;
47. Nguyễn Thị Thanh Thủy (2005), Luận án Tiến sĩ Luật học: Nhân thân người
phạm tội trong trong luật hình sự Việt Nam;
48. Ngô Ngọc Thúy cùng tập thể tác giả (2009), Tội phạm học, NXB Công an
nhân dân, Hà Nội;
49. Phạm Văn Tỉnh (1998), Tội phạm ẩn tự nhiên có lý do ẩn từ phía chủ thể của
hành vi phạm tội, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 7/1998, tr. 12-19;
50. Phạm Văn Tỉnh (1998), Một số phương pháp làm rõ tỷ lệ ẩn của tội phạm,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 11/1998’ tr. 22 – 30;
51. Phạm Văn Tỉnh (2004), Luận án tiến sĩ luật học, Đặc điểm tội phạm học của
tình hình tội phạm ở nước ta hiện nay;
52. Phạm Văn Tỉnh (2005), Đặc điểm định lượng của tình hình tội phạm ở nước
ta hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 4/2005, tr. 73-83;
53. Phạm Văn Tỉnh (2005), Đặc điểm định tính của tình hình tội phạm ở nước ta
hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 10/2005, tr. 65-76;
54. Phạm Văn Tỉnh (2007), Khái niệm tội phạm và tình hình tội phạm dưới góc
155
độ của tội phạm học, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 6/2007, tr. 73-79;
55. Phạm Văn Tỉnh (2007), Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt
Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
56. Phạm Văn Tỉnh (2011), Tổng quan về mức độ của tình hình tội phạm ở Việt
Nam qua số liệu thống kê (1986-2008), Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số
4/2011, tr. 73-80;
57. Phạm Văn Tỉnh (2014), Phòng ngừa tội phạm và chiến lược phòng ngừa tội
phạm, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/2014, tr. 74-84;
58. Tòa án nhân dân tối cao, Đề án thành lập Tòa gia đình và người chưa thành
niên Việt Nam, Hà Nội, 2013;
59. Tòa án nhân dân Tối cao,Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Công an, Bộ
Tư pháp (2001), “Thông tư số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-
BTP Về việc hướng dẫn áp dụng một số qui định tại chương XIV “ Các tội
xâm phạm sở hữu” của Bộ luật Hình sự năm 1999”, Hà Nội.
60. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Các Báo cáo Tổng kết các năm
2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017;
61. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Các bản án xét xử từ năm 2007
đến năm 2017;
62. Trần Hữu Tráng (2000), Luận văn thạc sỹ, Nạn nhân học trong tội phạm học
Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn;
63. Trần Hữu Tráng (2000), Một số vấn đề về tình hình tội phạm ẩn ở Việt Nam,
Tạp chí Luật học số 3/2000, tr 51-55;
64. Trần Hữu Tráng (2010), Bàn về nguyên nhân tội phạm học, Tạp chí Luật học
số 11/2010, tr 43;
65. Trần Hữu Tráng (2010), Tác động của kinh tế thị trường đến tình hình tội phạm
và phòng ngừa tội phạm ở nước ta, Tạp chí Luật học số 1/2012, tr 42-50;
66. Trần Hữu Tráng (2014), Dự báo nguy cơ tội phạm, Tạp chí Luật học số
4/2914, tr 46-53;
67. Lương Ngọc Trâm (1998), Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người
156
phạm tội trong tội phạm học;
68. Thanh Trúc – Văn Khởi, Không sa ngã trước thủ đoạn lôi kéo sử dụng ma
túy, Báo Đồng Khởi online, nguồn: http://baodongkhoi.vn/khong-sa-nga-
truoc-thu-doan-loi-keo-su-dung-ma-tuy-02082017-a45302.html
69. Trường Đại hoc Luật Hà Nội (2012), Giáo trình tội phạm học;
70. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Tập
1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
71. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Tập
1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
72. Trường Đại học Luật Hà Nội (1997), Luật hình sự Việt Nam - Những vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
73. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Tập
I, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
74. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Bộ luật hình sự Liên bang Nga, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
75. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Bộ luật hình sự Liên bang Đức, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
76. Lê Đức Tùng (2005), Cần có biện pháp để thống nhất khi áp dụng tình tiết
đã bị xử phạt hành chính trong Bộ luật hình sự, Tạp chí Kiểm Sát, số
5/2005, tr.34-36;
77. Đào Trí Úc (Chủ biên) và các tác giả (1995), Tội phạm học, Luật hình sự và
Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
78. Phùng Thế Vắc (2001), “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999 ,
Phần các tội phạm, Chương IV: Các tội xâm phạm sở hữu”, NXB CAND,
Hà Nội.
79. Viện nghiên cứu chiến lược và khoa học Công an (2000), Từ điển Bách Khoa
Công an nhân dân Việt Nam, NXB CAND, Hà Nội;
80. Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (2000), Tội phạm học Việt Nam. Một
số vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
81. Lê Việt, TP.HCM giải quyết việc làm cho 323.225 lượt người trong năm
157
2017, Tạp chí Lao động và Xã hội online,
82. Trịnh Tiến Việt (2003), Nhân thân người phạm tội một căn cứ cần cân nhắc
khi quyết định hình phạt, Tạp chí kiểm sát, số 1/2003, tr.21-23;
83. Viện Ngôn ngữ Khoa Học - Xã Hội - Nhân Văn (2008), Từ điển Tiếng Việt,
NXB Hồng Đức, Hà Nội;
84. Võ Khánh Vinh (2010), Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành
khoa học xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
85. Võ Khánh Vinh (2012), Xã hội học pháp luật, những vấn đề cơ bản, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội;
86. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội;
87. Võ Khánh Vinh (2014), Luật Hình sự Việt Nam phần các tội phạm, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội;
88. Trương Quang Vinh (2000), “Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình
sự năm 1999”, Tạp chí Luật học (số 4), Tr. 33-35;
89. Linh Vũ, Thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước về số người nghiện ma
túy, Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh online, nguồn:
http://congan.com.vn/tin-chinh/tphcm-dan-dau-ca-nuoc-ve-so-nguoi-nghien-
ma-tuy_34147.html
90. Nguyễn Như Ý (chủ biên), Đại từ tiển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin,
Hà Nội, 1998; trang 1238
91. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
92. Nguyễn Xuân Yêm (2003), Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, Nxb
CAND, Hà Nội; nguồn: http://laodongxahoi.net/tphcm-giai-quyet-viec-lam-
cho-323225-luot-nguoi-trong-nam-2017-1308923.html. Truy cập ngày
27/7/2018.
Tiếng Anh
93. Barry C. Feld (1999), Bad kids (Race and the transformation of Juvenile
Court),Oxford Univrsity Presss, Inc, pp. 23 – 27.
158
94. Can Ueda (1989), Crime and criminology in Japan”.
95. Carolyn Hamiltol (2011), Guidance for Legislative Reform on Juvenile
Justice, Children's Legal Central and United Nations Children's Fun
(Unicef), New York, pp. 48 - 53.
96. Cristina Rechea Alberola (2003), Esther Fernández Molina, Report of The
Spanish Juvenile Justice System,Criminology Research Centre, University of
Castilla-La Macha, Alabaceto(Spain), pp 123 - 135.
97. Christopher McCrudden (2008), Human Dignity and Judicial Interpretation
of Human Rights, The European Journal of International Law Vol.19
no.4/2008, pp.53 – 58.
98. Fiona Brookman (2010), Handbook on crime,
99. Frieder Dunkel (2007), Juvenile justice systerms in Europe - current
situation, reform developments and good practices, pp. 127 – 150.
100. Franklin E.Jimring (2005), American juvenle Justice, Oxford University
Press, pp 12 - 25.
101. Harry Adams (2008), Justice for Children: Autonomy Development and the
State, University of New York Press, pp. 77 - 89.
102. M. Hager (2000), The Rule of law, A Lexicon for Policy Makers,
MansfieldCenter for Pacific Affairs, pp. 31 - 37.
103. Hennessy Hayes và Tim Prenzler (2014), An introduction to Crime and
Criminology.
104. James W. Osterburg và Richard H. Ward (2013), “Criminal Investigation -
A Method for Reconstructing the Past”.
105. John. E. B, Myers (2007), Child protect in America: Past, Present and
Future, Oxford University Press, pp.38 - 67.
106. John E. Eck, Khadija Monk, Justin A. Heinonen (2010) “Street Robbery:
Problem Oriented Guides for Police”.
107. Larry Siegel(2011), Criminology - The Core.
108. Leora Krygier (2009), Juvenile Court: A Judge's Guide for young adults
159
and Their Parents, The Scarecrow Press, Inc, pp. 146 - 150.
108. K.W. Lidstone (2011), Human rights in the English criminal trial - Human
rightsin criminal procedure, United Kingdom National Committee of
Comparative Law, pp.46 - 52.
109. Lisa Tompson, Street Robbery, Tạp chí Viện An ninh và Khoa học tội phạm,
ISSN: 2050-4853, năm 2012).str
110. Macilwee, The Liverpool underworld: crime in the city, 1750-1900.
111. Maharukh Adenwalla (2007), Child Protection and Juvenile Justice system
for juvenile in conflict with law, Mumbai, Inconpaper, pp. 35 - 40.
112. Melinikova E.B (1970), Vì sao họ phạm tội? Tình trạng thanh, thiếu niên
phạm tội ở các nước tư bản chủ nghĩa”.
113. G.M. Mikovskij (1977), Cơ sở lý luận của việc phòng ngừa tội phạm.
114. Neil Andrews (2009), Principle of Criminal procedure, CSICL -
Cambridge studyin international and comparative law, pp.21 – 27.
114. Nicholas Bala, Michale Kim Zapf, R.James Williams, Robin Volg, Joseph
p. Hornick (2004), Canadian Child Welfare Law: Children, Famillies and
the State, Thompson Educational Publishing, Inc. Toronto, pp.57 - 64.
115. Nicholas Bala (2004), Canada's Juvenile Justice Law and Children Rights,
Conference on making Children's Rights Work: National and International
Perspectives, International Beaureau for Children Rights, pp. 87 - 92.
116. Nicole Leeperpiquero và Michail L.Benson, White - Collar Crime and
Criminal Careers Specifying a Trajectory of Punctuated Situational
Offending.
117. Robert Forbes (2016), Criminal Psychology: Understanding the Criminal
Mind and Its Nature Through Criminal Profiling.
118. Sanders, Bill (2004), Youth crime and youth culture in the inner city.
119. Shaun L. Gabbidon và Helen Taylor Greene (2005), Race, crime, and
justice.
120. Stephan Gardbaum (2008), Human Right as International Constitutional
Rights, The European Journal of International Law Vol.19 no.4/2008, pp. 21
160
– 26.
121. Stephanos Stavros (1992), The guarantees for accused persons under
Article 6 of the European Convention on Human Rights, Inc. Martinus, pp
120 - 134.
122. Stephen R. Schneider (2014), “Crime prevention - Theory and Practice”,
Đại học Saint mary, Halifax, Nova Scotia, Canada.
123. United Nations (2009), Handbook for Professionals And Policymakers on
Justice Matters Involving Child Victims and Witnessed of Crime, Criminal
Justice Handbook Series New York, pp. 54 – 71.
124. Unicef (2007), Protecting the world's children: Impact of the Convention of
the Rights of the Child in Diverse Legal Systems, Cambridge, pp.12 - 17.
125. Unicef, East Asia And Pacific Regional Office (EAPRO) (2007), Justice for
Children: Detention as a Last Resort (Innovative Initiatives in the East Asia
and Pacific Region),pp. 44 - 50.
126. Unicef (2009), The Development of Juvenile Justice Systems in Easten
Europe and Central Asia: Lessons from Albania, Azecbaijan, Kazakhstan,
Turkey and Ukraina, pp. 65 - 79.
127. United Nation Office On Drugs and Crime (UNODC) (2009), Justice in
Matters Invoving Child Victim And Witnesses of Crime: Model Law and
Related Commentary, Printed in Oxtraylia, V08-58962, 4/2009, pp. 87 – 93.
128. United Nations (1999), American:National Report Juvenile Offenders and
161
Victims, pp. 78 - 81.
PHỤ LỤC
PHIẾU KHẢO SÁT
(Khảo sát người phạm tội)
Chúng tôi đang thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học có liên quan đến
nhân thân người phạm tội. Để có thông tin phục vụ nghiên cứu đề tài, kính
mong Ông/ Bà bớt chút thời gian trả lời các câu hỏi sau đây bằng cách đọc
thật kỹ các câu hỏi và đánh dấu “X” vào ô mà Ông/ Bà cho là hợp lí nhất hoặc
viết câu trả lời vào những phần có dấu chấm chấm (……).
Chúng tôi cam đoan những thông tin trong Phiếu khảo sát này chỉ được dùng
cho mục đích nghiên cứu khoa học mà không dùng cho bất kỳ mục đích nào
khác.
Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác giúp đỡ quý báu của Ông/ Bà!
Thông tin cá nhân:
Họ và tên ..........................................................................................................
Tuổi ..................................................................................................................
Quê quán ..........................................................................................................
Dân tộc .............................................................................................................
Tiền án tiền sự .................................................................................................
Án phạt tù về tội ..............................................................................................
Ngày tháng năm thực hiện ...............................................................................
Câu 1: Trình độ học vấn phổ thông
1. Không biết chữ
2. Tiểu học (Cấp I)
3. Trung học cơ sở (Cấp II)
4. Trung học phổ thông (Cấp III)
Câu 2: Trình độ chuyên môn nghề nghiệp
1. Chưa qua đào tạo nghề
2. Qua đào tạo nghề ngắn hạn
162
3. Trung học chuyên nghiệp/ trung cấp nghề
4. Cao đẳng, đại học
Câu 3: Lý do Ông/ Bà không học tiếp
1. Học kém, chán học
2. Trường đuổi học
3. Bạn bè lôi kéo bỏ học
4. Kinh tế gia đình khó khăn
5. Gia đình li tán
Câu 4: Ông/bà vào Thành phố Hồ Chí Minh được mấy năm?
1. 1 – 3 năm 2. Trên 3 năm
Câu 4: Việc làm của ông/bà trước khi vào trại giam?
1. Buôn bán
2. Làm ruộng
3. Công nhân
4. Công chức, viên chức
5. Không nghề nghiệp
6. Khác (ghi rõ)
…………………………………………………………………..
Câu 5: Hoàn cảnh gia đình ?
1. Còn cha mẹ
2. Cha mẹ ly hôn hoặc ly thân
3. Mẹ hoặc cha chết
4. Cha mẹ đi làm xa
Câu 6: Ông/bà là con thứ mấy trong gia đình?
1. Con một
2. Con thứ
3. Con cả
4. Con út
163
Câu 7: Tình trạng gia đình của ông/bà
1. Độc thân
2. Lập gia đình
3. Ly hôn hoặc ly thân
4. Góa chồng/ vợ
Câu 8: Gia đình của ông/bà làm nghề gì?
1. Buôn bán
2. Công chức, viên chức
3. Làm ruộng
4. Không nghề nghiệp
5. Công nhân
6. Nghề khác ……………………………………………………………….
Câu 9: Ông/bà có mấy người con? ……………………………………….
Câu 10: Ông/bà cho biết trình độ học vấn của cha mẹ?
Trình độ học vấn
Cha
Mẹ
Không biết chữ
Tiểu học
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Trung cấp
Đại học, cao đẳng
Câu 11: Ông/bà cho biết những quan điểm về học tập có thể có trong gia
đình Ông/ Bà?
1. Học hết cấp 3 và đi xuất khẩu lao động
2. Nếu không còn muốn học tập thì có thể tự đi làm kiếm tiền
3. Con gái cần phải học đại học để đảm bảo cuộc sống
4. Không học được Đại học thì cần phải học nghề để kiếm công việc
164
Câu 12: Ông/bà cho biết trong gia đình có ai đã từng nghiện ma túy
không?
1. Bố, mẹ
2. Anh, chị, em
3. Chồng/vợ, con
Câu 13: Gia đinh ông/bà có mức sống như thế nào?
1. Sung túc 2. Thiếu thốn
3. Đủ ăn 3. Đói nghèo
Câu 14: Ông/bà cho biết sống trong gia đình, ông/ bà cảm thấy như thế
nào?
1. Hạnh phúc 3. Mất tự do
5. Vất vả, cực khổ
2. Không hạnh phúc 4. Cô đơn
Câu 15: Khu vực nơi ông/bà sống trước khi vào trại giam có nhiều tụ
điểm ma túy, mại dâm, cờ bạc?
1. Nhiều 2. Không nhiều
3. Rất ít 4. Không có
Câu 16: Những hành vi nào dưới đây ông/bà đã từng thực hiện trước cả
việc phạm tội?
1. Nói tục, chửi bậy 6. Bỏ nhà lang thang
2. Tụ tập, gây rối, đánh nhau 7. Sử dụng ma túy
3. Trốn học, chơi game 8. Uống rượu
4. Cờ bạc 9. Bán dâm
5. Xem phim, sách, ảnh đồi trụy 10. Trộm cắp, lừa đảo
Câu 17: Ông/ Bà có thói quen, sở thích nào sau đây;
1. Thich tụ tập bạn bè nhậu nhẹt
4. Thích chơi game
2. Thích chơi cờ, bạc
5. Thích sử dụng ma túy
3. Thích hút thuốc
165
Câu 18: Ông/bà đã thực hiện hành vi phạm tội thuộc trường hợp nào
trong các trường hợp sau?
1. Lần đầu 2. Lần thứ hai
3. Lần thứ ba trở lên 4. Tái phạm
Câu 19: Độ tuổi lúc ông/bà phạm tội?
1. Từ 14 đến dưới 18 tuổi 3 Từ 31 đến 45 tuổi
2. Từ 18 đến 30 tuổi 4. Từ 46 đến 60 tuổi
5. Trên 60 tuổi
Câu 20: Ông/bà đã thực hiện hành vi phạm tội cùng với ai?
1. Một mình 2. Người trong gia đình
3. Bạn bè 4. Những người khác
Câu 21: Động cơ phạm tội của ông/bà?
1.Do mâu thuẫn, ghen tuông 4. Do tham lam, muốn làm giàu nhanh
2. Do nghèo đói 5. Do nghiện ma túy
3. Do tham lam, muốn làm giầu nhanh
6. Lí do khác ....................................................................................................
Câu 22: Ông/bà thực hiện tội phạm vào khoảng thời gian nào?
1. Từ 0 giờ đến dưới 6 giờ 3. Từ 12 giờ đến dưới 18 giờ
2. Từ 6 giờ đến 12 giờ 4. Từ 18 giờ đến 24 giờ
Câu 23: Hành vi phạm tội của ông/bà bị phát hiện là do ai?
1. Tự thú 4. Người dân tố giác
2. Nạn nhân tố giác 5. Cơ quan công an
3. Đồng bọn tố giác 6. Khác ..............................................
Câu 24: Thời gian ở trong trại giam người thân của ông/bà có đến thăm
không?
1. Có 2. Không
Câu 25: Hãy cho biết những yếu tố nào giúp việc cải tạo ông/bà có hiệu
quả tốt?
166
1.Sự ăn năn hối cải 4. Sự động viên của gia đình
2. Hình phạt xứng đáng 5. Sự chân tình của giám thị,
3. Chế độ lao cải phù hợp 6. Khác ..................................................
Xin trân trọng Cảm ơn ông/bà.
167
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
Bảng 3.1. Thực trạng (mức độ) của tình hình tội phạm tại Thành phố Hồ Chí
Minh giai đoạn 2009 - 2018
Bảng 3.2. Thống kê số lượng người phạm tội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh giai đoạn 2009 – 2018
Bảng 3.3. Cơ cấu theo trình độ học vấn của nguời phạm tội tại Thành phố Hồ
Chí Minh trong giai đoạn 2009 - 2018
Biểu đổ 3.2. Động thái tình hình tội phạm về ma túy, nhóm tội xâm phạm sở
168
hữu tại Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 - 2018
Bảng 3.1. Thực trạng (mức độ) của tình hình tội phạm tại Thành phố
Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 - 2018
Tội phạm khác Các tội về ma túy Các tội xâm phạm sở hữu Năm Tổng số bị cáo Tổng số vụ án hình sự
2009 2010 2011 5113 5267 5472 5203 5397 5516 Số vụ án 1704 1856 1876 Số bị cáo 1715 1873 1906 Số vụ án 2219 2187 2378 Số bị cáo 2224 2198 2386 Số vụ án 1280 1354 1262 Số bị cáo 1264 1326 1224
2012 2013 2014 5712 5979 6222 5962 6037 6189 1883 2506 2156 1899 2556 2182 2287 1987 2276 2292 1993 2278 1792 1994 1757 1771 1488 1729
2015 2016 2017 6041 6422 6782 6108 6598 7099 2457 2453 2541 2472 2459 2545 2731 2039 2897 2748 2045 2903 920 2106 1661 888 2094 1651
2018 6799 7105 2589 2601 3002 3017 1514 1487
Tổng 59.609 61.214 21.571 22.208 24.003 24.084 15.640 15.922
(Nguồn: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh)
Bảng 3.2. Thống kê số lượng người phạm tội trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh giai đoạn 2009 – 2018
Tội phạm nói chung Các tội xâm phạm sở hữu Các tội phạm về ma túy Các tội phạm khác Năm SL Tỷ lệ % Tỷ lệ % Tỷ lệ % SL SL Tỷ lệ % SL
2009 5203 100 1715 100 2224 100 1264 100
2010 5397 103,72 1873 105,28 2198 94.,57 1326 103,59
2011 5516 106,01 1906 107,13 2386 102,66 1224 98,59
2012 5962 114,58 1899 106,74 2292 98,62 1771 140
2013 6037 116,02 2556 143,67 1993 85,75 1488 155,78
2014 6189 118,95 2182 122,65 2278 98,02 1729 137,26
2015 6108 117,39 2472 138,95 2748 118,24 888 71,87
2016 6598 126,81 2459 138,22 2045 87,99 2094 164,53
2017 7099 136,44 2545 143,05 2903 124,91 1651 129,76
2018 7105 136,55 2601 146,20 3017 129,81 1487 118,28
- 22.208 24.084 15.922
Tổng
61.214
Tỷ lệ 100% - 36,27 - 39,34 - 25,59 -
(Nguồn: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh)
Biểu đổ 3.2. Động thái tình hình tội phạm về Ma túy, nhóm tội xâm phạm sở hữu tại Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn
2009 - 2018
Bảng 3.3. Cơ cấu theo trình độ học vấn của người phạm tội tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2009 - 2018
Tội phạm Tổng TT Xâm phạm sở hữu Ma túy Trình độ
khác
SL % SL % SL % SL %
9176 15,59 Mù chữ - cấp 1 4.144 18,66 4462 18,53 1098 6,9 1
42.984 70,22 Cấp 2 - cấp 3 14.024 63,15 16.959 70,42 12.673 79,6 2
7.015 11,46 Tốt nghiệp TC, CĐ, ĐH 3.508 15,8 2.263 9,40 1385 8,7 3
Trên Đại học 528 2,38 397 1,65 764 4,8 1.665 2,72 4
61.214
Tổng 22.208 100 24.084 100 15.922 100 100
(Nguồn: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh)