ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ QUỲNH PH¢N CÊP QU¶N Lý NHµ N¦íC GI÷A

TRUNG ¦¥NG Vµ CHÝNH QUYÒN CÊP TØNH TRONG

LÜNH VùC Tæ CHøC Bé M¸Y Vµ C¸N Bé C¤NG CHøC LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ QUỲNH PH¢N CÊP QU¶N Lý NHµ N¦íC GI÷A

TRUNG ¦¥NG Vµ CHÝNH QUYÒN CÊP TØNH TRONG

LÜNH VùC Tæ CHøC Bé M¸Y Vµ C¸N Bé C¤NG CHøC Chuyên ngành: Luật Hiến pháp - Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. PHẠM HỒNG THÁI HÀ NỘI - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong

bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong

Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã

hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ

tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để

tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Quỳnh

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ, cụm từ viết tắt

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC GIỮA TRUNG ƢƠNG VÀ CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH TRONG LĨNH VỰC TỔ CHỨC BỘ MÁY VÀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC .......................................................................... 12

1.1.

Quan niệm về phân cấp quản lý nhà nƣớc giữa trung ƣơng và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức .................................................................................... 12

1.2.

Nhu cầu, mục đích, ý nghĩa của việc phân cấp quản lý nhà nƣớc giữa Trung ƣơng và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức ....................................... 18

1.3.

Kinh nghiệm phân cấp, phân quyền quản lý giữa Trung ƣơng và địa phƣơng về tổ chức bộ máy và cán bộ công chức ở một số nƣớc trên thế giới; bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ...... 23 1.3.1. Trong lĩnh vực tổ chức bộ máy ......................................................... 23 1.3.2. Trong lĩnh vực quản lý cán bộ công chức ......................................... 27 1.3.3. Một số giá trị tham khảo cho Việt Nam ............................................ 33

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC GIỮA TRUNG ƢƠNG VÀ CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH TRONG LĨNH VỰC TỔ CHỨC BỘ MÁY VÀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC .................................................................................. 35

2.1.

Thực trạng sự điều chỉnh của pháp luật về phân cấp giữa trung ƣơng và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy .............................................................................................. 35

2.1.1. Các quy định về phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung ương

và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy ................... 35

2.1.2. Kết quả, hạn chế vướng mắc về quy định phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung ương và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực Tổ chức bộ máy ....................................................................................... 44

2.2.

Thực trạng sự điều chỉnh của pháp luật về phân cấp giữa trung ƣơng và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực cán bộ, công chức .......................................................................................... 51

2.2.1. Các quy định về phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung ương và

chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực lĩnh vực cán bộ, công chức ......... 51

2.2.2. Kết quả, hạn chế và vướng mắc trong quy định phân cấp quản

lý cán bộ công chức ........................................................................... 65

2.3.

Thực trạng thực hiện phân cấp giữa trung ƣơng và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức .......................................................................................... 70

2.3.1. Kết quả thực hiện phân cấp giữa trung ương và chính quyền

cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức ......... 70

2.3.2. Những tồn tại, hạn chế trong phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và chính quyền cấp tỉnh về tổ chức, bộ máy và cán bộ, công chức ..................................................................................... 71

Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC GIỮA TRUNG ƢƠNG VÀ CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH TRONG LĨNH VỰC TỔ CHỨC BỘ MÁY VÀ CÁN BỘ CÔNG CHỨC .................................................. 77

3.1.

Quan điểm bảo đảm phân cấp quản lý nhà nƣớc giữa trung ƣơng và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ công chức ................................................................ 77 Giải pháp bảo đảm phân cấp ......................................................... 78

3.2. 3.2.1. Thay đổi nhận thức về phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức .............................................................................. 78

3.2.2. Mở rộng nội dung phân cấp quản lý cho chính quyền cấp tỉnh

trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức ....................... 80

3.2.3. Hoàn thiện thể chế về phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức .............................................................................. 88 3.2.4. Cơ cấu lại mối quan hệ giữa trung ương và chính quyền cấp tỉnh ....... 90 3.2.5. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính ................................................. 91 3.2.6. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ, công chức hành chính

nhà nước ............................................................................................ 92

3.2.7. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát và nâng cao

trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước ............ 92 3.2.8. Đảm bảo nguồn lực tài chính để giúp các cấp thực hiện nhiệm vụ ....... 93

KẾT LUẬN .................................................................................................... 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 97

DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT

CBCC: Cán bộ công chức

CQĐP: Chính quyền địa phương

ĐTBD: Đào tạo, bồi dưỡng

ĐVSNCL: Đơn vị sự nghiệp công lập

HCNN: Hành chính nhà nước

TCBM: Tổ chức bộ máy

UBND: Ủy ban nhân dân

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Công cuộc đổi mới đất nước, sự phát triển nền kinh tế thị trường định

hướng Xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế tạo ra những tiền đề và đòi hỏi

đổi mới, tăng cường phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương và

giữa các cấp chính quyền địa phương nhằm phát huy mạnh mẽ tính năng

động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa

phương các cấp trong quản lý, điều hành các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã

hội trên địa bàn.

Quán triệt chủ trương đẩy mạnh phân cấp quản lý của Đảng và Chương

trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001- 2010, Chính phủ

đã có những giải pháp tích cực, cụ thể trong việc tăng cường phân cấp nhiều

hơn, rõ hơn các nhiệm vụ, thẩm quyền cho chính quyền địa phương trên các

lĩnh vực tài chính - ngân sách, kế hoạch - đầu tư, đất đai, tài nguyên, y tế, văn

hoá, giáo dục, tổ chức - nhân sự. v.v.

Bên cạnh đó, chính quyền một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

đã chủ động thực hiện phân cấp quản lý cho chính quyền cấp huyện và cấp xã

nhằm giải quyết các công việc liên quan trực tiếp đến người dân nhanh hơn,

sát với tình hình thực tế của từng địa phương và phát huy được tính chủ động,

sáng tạo của chính quyền cấp huyện và xã.

Yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đẩy mạnh cải cách hành chính

trong thời kỳ mới đòi hỏi phải tập trung giải quyết một cách cơ bản, mạnh mẽ,

có hiệu quả hơn vấn đề phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương với địa

phương và giữa các cấp chính quyền địa phương. Do vậy, ngày 30/6/2004

Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP “về tiếp tục đẩy mạnh

phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố

1

trực thuộc Trung ương”. Trong các lĩnh vực phân cấp nhiệm vụ, thẩm quyền,

trách nhiệm giữa Chính phủ và chính quyền cấp tỉnh có lĩnh vực phân cấp

quản lý về tổ chức bộ máy và cán bộ công chức với những nội dung chủ yếu

sau: “Trên cơ sở các quy định khung của Chính phủ, chính quyền cấp tỉnh

quyết định việc thành lập, sáp nhập, giải thể các cơ quan chuyên môn của ủy

ban nhân dân cấp tỉnh (trừ một số cơ quan chuyên môn do Chính phủ quy

định thống nhất) và các cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân cấp huyện,

phù hợp với tình hình, đặc điểm cụ thể của mỗi địa phương; quyết định việc

điều chỉnh một số nhiệm vụ cụ thể giữa các sở, ban, ngành của cấp tỉnh và cấp

huyện (không phải là những nhiệm vụ cơ bản, chủ yếu theo chức năng của

mỗi cơ quan chuyên môn); Căn cứ vào các định mức, tiêu chuẩn biên chế do

Chính phủ quy định, chính quyền cấp tỉnh xác định tổng biên chế hành chính

của địa phương trình Chính phủ quyết định; quyết định tổng biên chế sự

nghiệp của tỉnh; quyết định phân bổ chỉ tiêu biên chế cán bộ, công chức hành

chính cho từng cơ quan, đơn vị thuộc tỉnh và ủy ban nhân dân cấp huyện;

quyết định các chế độ khuyến khích, thu hút nhân tài, nhân lực có trình độ cao

về làm việc tại địa phương; quyết định cụ thể số lượng cán bộ chuyên trách,

công chức thuộc ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định khung của Chính phủ;

quyết định số lượng và mức phụ cấp đối với cán bộ không chuyên trách cấp

xã phù hợp với đặc điểm, tính chất và khả năng ngân sách của mỗi địa

phương; Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, tiêu chuẩn chức danh và quy trình cán

bộ, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm,

bãi nhiệm, cách chức, từ chức đối với người đứng đầu các cơ quan chuyên

môn thuộc ủy ban nhân dân và đơn vị sự nghiệp thuộc cấp tỉnh, không phải

thoả thuận với các bộ, ngành liên quan”.

Qua hơn 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về

phân cấp quản lý tổ chức bộ máy và cán bộ công chức, bên cạnh các kết quả

2

và chuyển biến tích cực vẫn còn bộc lộ không ít những khó khăn, vướng mắc.

Quan điểm về phân cấp quản lý tổ chức bộ máy và cán bộ công chức chưa

nhất quán dẫn đến tình trạng các giải pháp đẩy mạnh phân cấp giữa Chính

phủ và chính quyền cấp tỉnh chưa đồng bộ, thiếu sự phân định rõ ràng, cụ thể:

việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức cho các tổ

chức tại địa phương chưa được thống nhất; quy định của pháp luật về thành

lập, sáp nhập, giải thể tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập chưa đáp

ứng được yêu cầu, nguyên tắc phân cấp; chưa có hướng dẫn phân loại, xếp

hạng các tổ chức sự nghiệp công lập; một số văn bản hướng dẫn cụ thể về thi

ngạch cạnh tranh, chức danh chưa ban hành kịp thời; cơ chế quản lý công

chức vẫn còn tập trung khá nhiều vào trung ương…

Để có cơ sở hiến định cho việc phân cấp, phân quyền giữa trung ương

và địa phương, cũng như giữa các cấp chính quyền địa phương, khoản 2

Điều 112 Hiến pháp năm 2013 quy định “Nhiệm vụ, quyền hạn của chính

quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các

cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền

địa phương” [56, Điều 112].

Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 lần đầu tiên đã quy

định về phân quyền, phân cấp, ủy quyền tại các Điều 12, 13, 14.

Trước những yêu cầu về lý luận và thực tiễn của phân cấp quản lý về tổ

chức bộ máy và cán bộ công chức, học viên lựa chọn đề tài “Phân cấp quản

lý nhà nước giữa trung ương và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ

chức bộ máy và cán bộ công chức” làm luận văn thạc sỹ.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Phân cấp quản lý nhà nước đang là xu hướng chủ yếu trong cải cách bộ

máy nhà nước của nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, trong quá trình

cải cách nền hành chính nhà nước, vấn đề này nhận được sự quan tâm của

nhiều nhà khoa học, nhà quản lý. Và do vậy đã có khá nhiều công trình, đề tài

3

khoa học đề cập đến các vấn đề lý luận và thực tiễn của phân cấp quản lý.

Một số công trình nước ngoài liên quan đến vấn đề phân cấp quản lý

đáng chú ý:

Các công trình “Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đồi” (1998)

của Ngân hàng Thế giới; “Phục vụ và duy trì: cải thiện hành chính công trong

một thế giới cạnh tranh” (2003) của Ngân hàng Phát triển Châu Á đã nhấn

mạnh sự cần thiết phải tăng cường phân cấp, phân quyền trong thực thi quản

lý nhà nước, đề cao quyền tự chủ, tự quản của chính quyền địa phương các

cấp, đồng thời phải gắn liền với việc thiết lập chính quyền trung ương đủ

mạnh, có hiệu lực và hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, cùng với cơ chế phát huy

dân chủ, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, các tổ chức xã hội tham gia

vào hoạt động quản lý nhà nước

Công trình “Phân cấp quản lý hành chỉnh - chiến lược cho các nước

đang phát triển” (2002) của tác giả LM.Cohen và S.B.Peterson đã phân tích

mặt mạnh, mặt yếu của mô hình thiết kế hành chính trên cơ sở những nguyên

tắc của khoa học quản lý hành chính và đưa ra những ví dụ cụ thể về phân cấp

quản lý hành chính đang được áp dụng ở một số nước.

Công trình “Phân cấp ở Đông Á - để chính quyền địa phương phát huy

tác dụng” (2005) do các chuyên gia Ngân hàng Thế giới thực hiện cho rằng,

phân cấp là sự chuyển giao trách nhiệm và nguồn thu tài chính từ chính quyền

cấp cao xuống các cấp thấp hơn. Nó được xem như là một biện pháp đưa

chính quyền về gần với dân và mang lại cho người dân cơ hội tham gia vào

quá trình tìm ra quyết sách. Một hệ thống phân cấp, phân quyền được thiết kế

tốt sẽ mang lại nhiều lợi ích, trong đó có việc đẩy mạnh tăng trưởng và ổn

định kinh tế. Họ cũng cảnh báo rằng, nếu việc phân cấp, phân quyền được

thiết kế không tốt hoặc quá trình thực hiện không được giám sát hợp lý, sẽ có

thể làm cho sự kiểm soát quyền lực trở nên lỏng lẻo đối với hoạt động của

4

chính quyền địa phương các cấp, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế, quản

lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công. Đây có thể xem là những kinh nghiệm

quan trọng bởi những điểm tương đồng về địa - chính trị, địa - kinh tế, địa - văn

hoá khi nghiên cứu và thiết kế mô hình phân cấp, phân quyền ở Việt Nam.

Ở nước ta, sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 08/2004/NQ-CP

ngày 30/6/2004 về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính

phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đã có khá nhiều

công trình nghiên cứu, hội thảo về phân cấp quản lý như:

Sách Phân cấp quản lý nhà nước - lý luận và thực tiễn (2004) của

PGS,TS. Võ Kim Sơn là công trình nghiên cứu khá toàn diện về phân quyền

theo chiều ngang (lập pháp - hành pháp - tư pháp) và phân quyền theo chiều

dọc giữa trung ương và địa phương (phân cấp quản lý hành chính nhà nước).

Công trình này đã dẫn giải nhiều cách tiếp cận khác nhau về phân cấp, phân

quyền quản lý nhà nước; tìm hiểu các mô hình phân cấp, phân quyền và phân

tích các hình thức phân cấp quản lý hành chính nhà nước. Trên cơ sở khung lý

thuyết đó, tác giả nghiên cứu thực trạng phân cấp quản lý hành chính nhà

nước ở Việt Nam trên hai phương diện: phân tích các chế định pháp lý qua

các Hiến pháp và luật, khảo sát thực tiễn trên một số lĩnh vực quản lý hành

chính nhà nước, từ đó đề xuất các giải pháp đẩy mạnh phân cấp trong hoạt

động quản lý hành chính nhà nước.

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Phân cấp quản lý và vấn đề hoàn thiện chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền các cấp (2004) của Học viện

Hành chính quốc gia đã tập hợp các tham luận về: quan niệm phân cấp, phân

quyền; tính tất yếu phân cấp, phân quyền giữa trung ương và chính quyền địa

phương các cấp; những thách thức, rào cản trong quá trình thiết kế các mô

hình và thực hiện phân cấp, phân quyền; đánh giá thực trạng phân cấp giữa

trung ương và địa phương, giữa chính quyền địa phương các cấp ở nước ta

trên một số lĩnh vực chủ yếu; giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý ở nước ta.

5

Sách Phân cấp quản lý trong hệ thống hành chính nhà nước của chính

quyền địa phương (2006) của TS. Bùi Đức Kháng đã bước đầu làm rõ một số

vấn đề có tính lý luận về phân cấp; kinh nghiệm phân cấp của một số quốc gia

trên thế giới; đánh giá thực trạng phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa

phương trên một số lĩnh vực như: địa chính, đăng ký kinh doanh và quản lý sau

cấp phép, văn hoá, v.v.; trên cơ sở đó, tác giả đề xuất đề xuất 10 giải pháp đẩy

mạnh phân công, phân cấp quản lý trong hệ thống hành chính nhà nước.

Hội thảo quốc tế Phân cấp quản lý và cải cách hành chính - Kỉnh

nghiệm quốc tế và những gợi ý đối với Việt Nam (9/2007), do Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn phối hợp với Viện Konrad Adanauer Stiftung (KAS)

Cộng hoà liên bang Đức tổ chức đã đề cập đến kinh nghiệm phân cấp, phân

quyền giữa trung ương và chính quyền địa phương ở một số quốc gia như Nhật

Bản, Hàn Quốc, Philippin, v.v.; đánh giá thực trạng phân cấp, phân quyền giữa

trung ương và địa phương ở Việt Nam và đề xuất giải pháp hoàn thiện phân

cấp, phân quyền đáp ứng yêu cầu cải cách nền hành chính quốc gia.

Sách Phân cấp quản lý nhà nước (2011) do GS,TS. Phạm Hồng Thái,

GS,TS. Nguyễn Đăng Dung, TS. Nguyễn Ngọc Chí (đồng chủ biên) là công

trình tập hợp các bài viết của nhiều tác giả về cơ sở lý luận của phân cấp,

phân quyền quản lý; kinh nghiệm phân cấp, phân quyền ở một số nước trên

thế giới; thực trạng và phương hướng đổi mới phân cấp, phân quyền quản lý ờ

Việt Nam. Mặc dù có những điểm chưa thống nhất, song các bài viết đều cho

rằng phân cấp, phân quyền là tất yếu khách quan trong điều kiện phát triển

kinh tế thị trường và dân chủ hóa; tuy nhiên, mỗi quốc gia lại có nhận thức và

cách làm khác nhau.

Về vai trò và tính tất yếu của việc đẩy mạnh phân cấp, phân quyền

quản lý giữa trung ương và địa phương trong cải cách hành chính, đã có nhiều

bài viết đăng trên các tạp chí: Tăng cường phân cấp quản lý nhà nước giữa

6

các cấp CQĐP trong giai đoạn hiện nay của TS. Nguyễn Minh Phương, Tạp

chí Tổ chức nhà nước, (1/2005); Phân cấp quản lý trong mối quan hệ giữa

trung ương và địa phương của PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt, Tạp chí Nghiên

cứu Lập pháp, (7/2005); Vai trò của phân cấp quản lý nhà nước trong cải

cách hành chính ở nước ta hiện nay của PGS.TS. Vũ Đức Đán, Tạp chí Quản

lý Nhà nước (8/2005); Cải cách hành chính và phân cấp quản lý: vấn đề và

những bứt phá mới của TS. Thang Văn Phúc, Tạp chí Kinh tế và Dự

báo,(10/2007); Một số vấn để lý luận và thực tiễn về phân cấp quản lý ở nước

ta hiện nay của TS. Nguyễn Minh Phương, Tạp chí Khoa học Chính trị

(1/2008); Các hình thức phân cấp, phân quyền của GS.TS. Nguyễn Đăng

Dung, Tạp chí Khoa học, Luật học (26/2010); Phân quyền và phân cấp trong

quản lý nhà nước - một số khía cạnh lý luận - thực tiễn và pháp lý của GS.TS.

Phạm Hồng Thái, Tạp chí Khoa học, Luật học, (27/2011); Tiếp tục thực hiện

phân cấp quản lý hành chính nhà nước đến năm 2015 của TS. Trần Anh

Tuấn,Tạp chí Lý luận chính trị (2/2013);... v.v..

Ngoài ra còn có một số chương trình, dự án của các tổ chức nước ngoài

và quốc tế tại Việt Nam như ĐANIA (Đan Mạch), SIDA (Thụy Điển), KAS

(CHLB Đức), ADB (Ngân hàng Phát triển châu Á), WB (Ngân hàng Thế

giới), thông qua việc tài trợ nghiên cứu về phân cấp quản lý ở một số Bộ,

ngành, địa phương đã xây dựng các báo cáo tổng kết tình hình phân cấp quản

lý và đưa ra một số khuyến nghị về đẩy mạnh phân cấp quản lý ở Việt Nam.

Các kết quả nghiên cứu hiện nay cho thấy:

Thứ nhất, những đề tài nghiên cứu khoa học nêu trên chủ yếu nghiên

cứu về phân cấp quản lý nhà nước nói chung và trên nhiều lĩnh vực, nhưng về

phân cấp quản lý tổ chức bộ máy và cán bộ công chức chưa được nghiên cứu

một cách xác đáng.

Thứ hai, các công trình nghiên cứu mới chỉ tập trung vào hệ thống giải

7

pháp đổi mới công tác quản lý nhà nước nói chung chứ chưa tập trung nhiều

vào giải pháp về phân cấp tổ chức bộ máy và cán bộ công chức.

Thứ ba, một số nghiên cứu đã xem xét đến vấn đề phân cấp tổ chức bộ

máy và cán bộ công chức song chủ yếu mới tiếp cận dưới góc độ quy định

pháp luật về phân cấp mà chưa đi sâu vào phân tích việc thực hiện các quy

định trên thực tế.

Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng phân cấp

quản lý nhà nước giữa trung ương và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ

chức bộ máy và cán bộ công chức đồng thời xây dựng một số quan điểm và

giải pháp đảm bảo phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và chính

quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ công chức ở Việt

Nam hiện nay là rất cần thiết.

3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Trên cơ sở hệ thống những vần đề lý luận; phân tích và đánh giá phân

cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực

tổ chức bộ máy và cán bộ công chức hiện nay. Từ đó đề xuất một số quan

điểm và giải pháp đảm bảo phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và

chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ công chức

3.2. Nhiệm vụ

Thứ nhất, làm rõ quan niệm về phân cấp quản lý nhà nước giữa trung

ương và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước và cán

bộ công chức; mục đích, ý nghĩa của việc phân cấp quản lý nhà nước giữa

trung ương và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ

công chức; kinh nghiệm phân cấp, phân quyền quản lý giữa trung ương và địa

phương về tổ chức bộ máy và cán bộ công chức ở một số nước trên thế giới

để đưa ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

8

Thứ hai, phân tích và đánh giá thực trạng phân cấp quản lý nhà nước

giữa trung ương và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và

cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay (thực trạng sự điều chỉnh pháp luật

về phân cấp và thực trạng thực hiện phân cấp); đánh giá những ưu điểm và

những hạn chế, vướng mắc trong thực trạng phân cấp quản lý nhà nước

giữa trung ương và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và

cán bộ công chức.

Cuối cùng, luận văn đề xuất một số quan điểm và giải pháp bảo đảm

phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và chính quyền cấp tỉnh trong

lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ công chức hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng

Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề về phân cấp quản lý nhà

nước giữa trung ương và chính quyền cấp tỉnh ở Việt Nam trong lĩnh vực tổ

chức bộ máy và cán bộ, công chức hiện nay, bao gồm: phân cấp trong việc

thành lập, sáp nhập, giải thể tổ chức bộ máy, phân loại, xếp hạng tổ chức;

phân cấp về tuyển dụng, sử dụng, quản lý biên chế, ngạch, đào tạo, bồi

dưỡng; khen thưởng và xử lý kỷ luật; chế độ tiền lương của cán bộ công chức.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phân cấp quản lý nhà nước ở nước ta bao gồm phân cấp giữa trung

ương – địa phương và phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương (tỉnh –

huyện – xã), tuy nhiên đề tài tập trung đánh giá thực trạng điều chỉnh pháp

luật và thực trạng thực hiện phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương

(Chính phủ, Bộ và cơ quan ngang Bộ) và chính quyền cấp tỉnh (chính quyền

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán

bộ công chức hiện nay đồng thời đề xuất một số quan điểm, giải pháp đảm

bảo phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và chính quyền cấp tỉnh trong

thời gian tới.

9

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận Mác – Lê nin, tư

tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm, đường lối, chủ

trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam về phân cấp quản lý nhà nước, về tổ

chức, cán bộ, công chức, về cải cách hành chính.

Trong quá trình nghiên cứu, học viên đã sử dụng một số phương pháp

nghiên cứu cụ thể như sau:

- Tổng hợp, phân tích, đánh giá sự điều chỉnh của pháp luật về phân cấp

quản lý nhà nước giữa Trung ương và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ

chức bộ máy và cán bộ công chức.

- Đánh giá thực trạng thực hiện phân cấp quản lý nhà nước giữa trung

ương và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ công

chức ở Việt Nam hiện nay.

- Phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát kinh nghiệm phân cấp, phân

quyền giữa trung ương và địa phương trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán

bộ công chức ở một số nước trên thế giới, rút ra những kết luận, mà Việt Nam

có thể tham khảo.

- Dự báo và đề xuất những quan điểm, giải pháp đảm bảo phân cấp

quản lý giữa trung ương và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ

máy và cán bộ công chức.

6. Ý nghĩa và tính mới của đề tài

Hiện nay chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách toàn diện về cơ sở lý

luận và thực tiễn về phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và chính

quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ công chức, do đó việc

nghiên cứu đề tài về cơ bản là mới. Đề tài tập trung vào một số nội dung sau:

Dựa trên lý thuyết về quản lý tổ chức bộ máy và quản lý cán bộ, công

chức, học viên nghiên cứu và luận giải quan điểm về phân cấp quản lý nhà

10

nước giữa trung ương và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy

và cán bộ, công chức.

Nghiên cứu một số kinh nghiệm phân cấp, phân quyền quản lý giữa

trung ương và địa phương về tổ chức bộ máy và cán bộ công chức ở một số

nước trên thế giới, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Phân tích và đánh giá thực trạng phân cấp quản lý nhà nước giữa

trung ương và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán

bộ công chức.

Qua đó đề xuất quan điểm và giải pháp đảm bảo về phân cấp quản lý

nhà nước giữa trung ương và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ

máy và cán bộ công chức ở Việt Nam.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương:

Chương 1. Cơ sở lý luận của phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương

và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ công chức.

Chương 2. Thực trạng phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và

chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ công chức.

Chương 3. Quan điểm và giải pháp bảo đảm phân cấp quản lý nhà nước

giữa trung ương và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và

cán bộ, công chức.

11

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC GIỮA

TRUNG ƢƠNG VÀ CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH TRONG LĨNH VỰC

TỔ CHỨC BỘ MÁY VÀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

1.1. Quan niệm về phân cấp quản lý nhà nƣớc giữa trung ƣơng và

chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức

Phân cấp là thuật ngữ được sử dụng trong quản lý nhà nước, tuy vậy

trong khoa học ở Việt nam có nhiều quan niệm khác nhau về phân cấp:

Phân cấp là: ...việc giao bớt một phần quyền quản lý cho cấp

dưới trong hệ thống quản lý chung [68];

Chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà

nước cấp trên cho cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới thực hiện

thường xuyên, lâu dài, ổn định trên cơ sở pháp luật... thực chất của

phân cấp quản lý hành chính là xác định lại sự phân chia thẩm quyền

theo các cấp hành chính phù hợp với yêu cầu của tình hình mới [64];

Sự chuyển giao quyền lực quản lý xuống các cấp dưới để

thực hiện cho sát dân và sát tình hình thực tiễn, đồng thời để giảm

bớt khối lượng cho cấp trên khỏi phải trực tiếp giải quyết những

việc sự vụ [39];

Một phương pháp quản lý, trong đó chức năng, nhiệm vụ và

quyền hạn của các tổ chức trong hệ thống các cơ quan thực thi

quyền hành pháp một cách cụ thể thông qua hệ thống văn bản quy

phạm pháp luật theo nguyên tắc trao cho cơ quan cấp dưới nhiều

quyền ra quyết định các vấn đề có liên quan và tăng cường sự giám

sát hoạt động của các cơ quan đó thông qua hệ thống trách nhiệm

báo cáo [42];

12

Một loại hình tổ chức và hoạt động quản lý được pháp luật

quy định tạo nên các cơ quan có thứ bậc khác nhau trong một hệ

thống, mỗi cấp được giao nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm v.v.

nhất định để phát huy tính tự chủ, năng động và sáng tạo của mình,

nhằm phục vụ cho việc thực hiện một hay nhiều nhiệm vụ nào đó

đạt hiệu quả cao nhất [43];

Cách thức tổ chức lại hệ thống các cơ quan hành chính nhà

nước bao gồm Chính phủ, hệ thống các cơ quan hành chính nhà

nước địa phương nhằm đáp ứng tốt nhất đòi hỏi và sự mong muốn

hợp pháp của công dân. Cách tổ chức này làm cho quá trình ra

quyết định phải gắn liền với điều kiện cụ thể của từng cấp, từng đơn

vị lãnh thổ [60, tr.22];

Phân cấp quản lý nhà nước là sự phân định thẩm quyền, trách

nhiệm giữa các cấp chính quyền trên cơ sở bảo đảm sự phù hợp giữa

khối lượng và tính chất thẩm quyền với năng lực và điều kiện thực tế

của từng cấp nhằm tăng cường chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của

hoạt động quản lý nhà nước [46];

Sự phân chia các đơn vị hành chính - lãnh thổ và phân công

thẩm quyền hợp lý giữa các cấp chính quyền tương ứng cho phù

hợp với chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm của mỗi cấp để nhằm

thực thi hiệu quả hơn quyền lực nhà nước [67].

Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 lần đầu tiên đã quy

định về phân quyền, phân cấp, ủy quyền tại các Điều 12, 13, 14. Theo đó

trong nền hành chính nhà nước thì việc chấp hành và điều hành trên phương

pháp mệnh lệnh quyền uy, trên cơ sở quy định pháp luật chính quyền địa

phương có nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu là tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp

luật tại địa phương. Để đảm bảo sự vận hành đồng bộ của chính quyền địa

13

phương, tạo cơ chế cho chính quyền địa phương có thể ủy quyền cho cấp dưới

khi thực hiện những nhiệm vụ nhất định. Luật tổ chức Chính quyền địa

phương bổ sung quy định mới như: Phân định thẩm quyền của chính quyền

địa phương (Điều 11, Luật Tổ chức chính quyền địa phương); phân quyền cho

chính quyền địa phương (Điều 12, Luật Tổ chức chính quyền địa phương);

phân cấp cho chính quyền địa phương (Điều 13, Luật tổ chức Chính quyền

địa phương); ủy quyền cho cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (Điều

14, Luật tổ chức Chính quyền địa phương), quy định các điều kiện thực hiện

phân cấp, phân quyền, ủy quyền cho cơ quan hành chính nhà nước ở địa

phương thực hiện.

Về phân quyền, Luật quy định việc phân quyền cho các cấp chính

quyền địa phương phải được quy định trong các luật; chính quyền địa phương

tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn

được phân quyền. Như vậy có thể hiểu rằng phân quyền giữa trung ương và

địa phương (phân quyền theo chiều dọc) là phân chia quyền lực nhà nước

giữa các cấp chính quyền, mỗi cấp có nhiệm vụ, quyền hạn riêng của mình,

các cấp hạn chế việc can thiệp vào nhiệm vụ, quyền hạn của nhau, nhưng cấp

trên có thể kiểm tra, thanh tra cấp dưới theo quy định của pháp luật. Phân

quyền theo chiều dọc cũng có nghĩa là sự phân công trong mỗi loại cơ quan

nhà nước khi cùng thực hiện một loại quyền lực. Chẳng hạn, thực hiện quyền

hành pháp cần có sự phân công giữa Chính phủ với các cơ quan hành chính

nhà nước ở các địa phương.

Về phân cấp, Luật quy định căn cứ vào yêu cầu công tác, khả năng thực

hiện và điều kiện, tình hình cụ thể khác của địa phương, cơ quan nhà nước ở

trung ương và địa phương được quyền phân cấp cho chính quyền địa phương

hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một cách liên tục, thường xuyên

một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình, trừ trường

14

hợp pháp luật có quy định khác. Việc phân cấp phải được quy định trong văn

bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước thực hiện phân cấp. Như vậy,

phân cấp là việc cấp trên chuyển giao những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định do

mình đang nắm giữ và thực hiện cho cấp dưới thực hiện một cách thường

xuyên, liên tục bằng phương thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc

bằng cách chuyển cho cấp dưới thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn bằng các quyết

định cụ thể. Nội dung của phân cấp là giao cho các cấp chính quyền, các bộ

phận trong bộ máy nhà nước những nhiệm vụ, quyền hạn để thực hiện, giải

quyết những công việc nhất định của nhà nước. Những nhiệm vụ, quyền hạn

được giao cho các cơ quan nhà nước mỗi cấp được xác định sao cho hợp pháp

và hợp lý, căn cứ vào vị trí, tính chất và chức năng của chúng trong bộ máy nhà

nước thể hiện dưới dạng các quyền, trách nhiệm của cơ quan nhà nước đó.

Về ủy quyền, Luật quy định trong trường hợp cần thiết, cơ quan hành

chính nhà nước cấp trên có thể ủy quyền bằng văn bản do UBND cấp dưới

hoặc cơ quan, tổ chức khác thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn

của mình trong khoảng thời gian xác định kèm theo các điều kiện cụ thể. Có

thể hiểu uỷ quyền trong lĩnh vực quản lý hành chính một cách chung nhất là

việc chuyên giao quyền ra quyết định của chính quyền và quyền để thực hiện

các nhiệm vụ được xác định một cách rõ ràng cho các cơ quan hoặc tổ chức ở

dưới quyền quản lý trực tiếp hoặc gián tiếp của chính phủ hoặc cơ quan, tổ

chức độc lập. Trong một số trường hợp, chính phủ trung ương có thể ủy

quyền cho chính quyền địa phương thay mặt chính phủ quyết định một việc

nào đó. chế độ ủy quyền phải được thực hiện có thời hạn nhất định, nếu ủy

quyền lâu dài sẽ biến thành phân quyền, “ủy quyền là việc cơ quan nhà nước

cấp trên bàng văn bản pháp luật giao cho chính quyền địa phương cấp dưới

thực hiện các công việc của mình trong khoảng thời gian nhất định, kèm theo

các điều kiện cụ thể”. Như vậy, ủy quyền là việc Chính phủ (hay chính quyền

15

địa phương cấp trên) chuyển giao quyền ra quyết định và quản lý một số chức

năng hành chính nhà nước cho chính quyền địa phương cấp dưới. Mối quan

hệ giữa Chính phủ (chính quyền địa phương cấp trên) với chính quyền địa

phương được uỷ quyền là mối quan hệ giữa người giao nhiệm vụ và người

thực hiện nhiệm vụ. Ủy quyền đòi hỏi chính quyền địa phương thực hiện

nhiệm vụ một cách độc lập trong thẩm quyền được giao và không phải là đơn

vị ngoại nhiệm (tản quyền) của chính phủ. Khi uỷ quyền, tổ chức, cá nhân uỷ

quyền vẫn phải chịu trách nhiệm cuối cùng và tổ chức, cá nhân được ủy

quyền không được ủy quyền tiếp cho tổ chức, cá nhân khác.

Từ những quan điểm khoa học nêu trên và phân tích các quy định tại

Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, có thể thấy bản chất của

phân cấp thể hiện ở một số điểm sau đây:

Thứ nhất, cơ quan nhà nước ở cấp trên chuyển giao những nhiệm vụ,

quyền hạn của mình cho cấp dưới thực hiện thông qua việc ban hành văn bản

quy phạm pháp luật để chuyển giao.

Thứ hai, khi phân cấp cơ quan hành chính nhà nước cấp trên phải bảo

đảm điều kiện (tài chính, nhân lực và những điều kiện khác) để cơ quan cấp

dưới thực hiện được những nhiệm vụ, công việc được phân cấp.

Thứ ba, cơ quan được phân cấp có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ,

công việc được phân cấp.

Thứ tư, cơ quan được phân cấp chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà

nước cấp trên và pháp luật về những vấn đề được phân cấp.

Thứ năm, việc phân cấp quản lý phải dựa vào yêu cầu công tác và điều

kiện, tình hình cụ thể của địa phương.

Thứ sáu, bảo đảm quyền, các phương tiện để thực hiện phân cấp và

thực hiện đầy đủ trách nhiệm của cơ quan cấp dưới trong việc quyết định,

thực hiện nhiệm vụ được phân cấp.

16

Thứ bảy, phân cấp phải được thực hiện trên cơ sở một hệ thống thể chế,

văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ, thống nhất, gắn với đổi mới cơ chế và

bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ quan được phân cấp.

Thứ tám, cơ quan nhà nước ở địa phương có thể phân cấp tiếp cho

chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện các nhiệm

vụ, quyền hạn đã được cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp nhưng phải được

sự đồng ý của cơ quan nhà nước đã phân cấp.

Quản lý, quản lý nhà nước được hiểu như sau:

Quản lý là sự tác động lên một hệ thống nào đó với mục tiêu đưa hệ

thống đó đến trạng thái cần đạt được. Quản lý là một phạm trù xuất hiện trước

khi có Nhà nước với tính chất là một loại lao động xã hội hay lao động chung

được thực hiện ở quy mô lớn. Quản lý được phát sinh từ lao động, không tách

rời với lao động và bản thân quản lý cũng là một loại hoạt động lao động.

“Bất kỳ lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào đó mà được tiến

hành trên quy mô tương đối lớn đều cần có sự quản lý ở mức độ nhiều hay ít

nhằm phối hợp những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng

chung... Một nhạc công tự điều khiển mình nhưng một dàn nhạc cần phải có

nhạc trưởng”. Như vậy, quản lý xã hội không phải là sản phẩm của sự phân

chia quyền lực, mà là sản phẩm của sự phân công lao động nhằm liên kết và

phối hợp hoạt động chung của con người.

Là một phạm trù gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước, quản lý nhà

nước ra đời với tính chất là loại hoạt động quản lý xã hội. Quản lý nhà nước,

hiểu theo nghĩa rộng, được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước. Theo

nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành được đặc

trưng bởi các yếu tố có tính tổ chức; được thực hiện trên cơ sở và để thi hành

pháp luật; được bảo đảm thực hiện chủ yếu bởi hệ thống các cơ quan hành

chính nhà nước (hoặc một số tổ chức xã hội trong trường hợp được giao

17

nhiệm vụ quản lý nhà nước). Quản lý nhà nước cũng là sản phẩm của việc

phân công lao động nhằm liên kết và phối hợp các đối tượng bị quản lý.

Quản lý nhà nước trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ, công

chức bao gồm các nội dung: xây dựng, ban hành thể chế trong lĩnh vực tổ

chức bộ máy và cán bộ, công chức; tổ chức thực hiện thể chế; kiểm tra việc

thực hiện thể chế.

Nội dung phân cấp quản lý nhà nước trong lĩnh vực tổ chức bộ máy

gồm phân cấp trong việc thành lập, sáp nhập, giải thể tổ chức bộ máy; phân

cấp trong việc phân loại, xếp hạng tổ chức;

Nội dung phân cấp trong lĩnh vực cán bộ, công chức: bao gồm phân

cấp về tuyển dụng công chức; phân cấp về quản lý biên chế công chức; phân

cấp về quản lý ngạch công chức; phân cấp về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức; phân cấp về lĩnh vực tiền lương.

Từ phân tích trên, có thể quan niệm: Phân cấp quản lý nhà nước giữa

trung ương và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ,

công chức là việc cơ quan nhà nước cấp trên chuyển giao cho cơ quan nhà

nước ở cấp tỉnh thực hiện một cách thường xuyên, liên tục một hay một số

nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình bằng một văn bản quy phạm

pháp luật.

1.2. Nhu cầu, mục đích, ý nghĩa của việc phân cấp quản lý nhà nƣớc

giữa Trung ƣơng và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và

cán bộ, công chức

Phân cấp giữa trung ương và chính quyền cấp tỉnh thường diễn ra với

hai lý do cơ bản: một là, khả năng hạn chế của chính quyền trung ương trong

việc quản lý, điều hành các công việc của đất nước ở các địa phương, nhất là

ở những vùng sâu, vùng xa, ở tầm vi mô; hai là, một số địa phương nhờ có

những ưu thế nhất định (về tài nguyên khoáng sản, về nguồn nhân lực con

18

người…) nên phát triển khá mạnh nên thường dẫn đến xu hướng không muốn

lệ thuộc hoàn toàn vào chính quyền trung ương, họ đấu tranh để được quyền

tự chủ trong một số lĩnh vực hoặc vấn đề nhất định. Có thể nói, phân cấp vừa

là nhu cầu đòi hỏi khách quan của việc quản lý đất nước rộng lớn, phức tạp

vừa là nhu cầu phát triển lợi ích của mỗi địa phương, nhất là những địa

phương có điều kiện phát triển mạnh, mong muốn phải có những quyền,

những lợi ích nhất định của địa phương trong quá trình phát triển của mình.

Như vậy, việc phân cấp luôn phản ánh mối quan hệ giữa trung ương và địa

phương, giữa chính quyền cấp trên và chính quyền cấp dưới.

Việc phân cấp cho mỗi cấp khác nhau thì khác nhau và cho các địa

phương khác nhau có thể cũng khác nhau và sự phân cấp, phân quyền ở các

thời kỳ khác nhau đòi hỏi phải khác nhau. Thông thường địa phương nào có

điều kiện phát triển tốt thì mong muốn được phân cấp nhiều hơn, nhưng trung

ương khi này lại không muốn phân cấp, phân quyền vì việc phân cấp sẽ ảnh

hưởng đến quyền lực, lợi ích, thu nhập hợp pháp của chính quyền trung ương,

của các cơ quan chủ quản... Do vậy, trong thực tế tồn tại tình trạng là các cơ

quan trung ương, cơ quan cấp trên nhiều khi không có khả năng giải quyết tốt

công việc nhưng lại có quyền giải quyết, còn các cơ quan địa phương, cơ

quan cấp dưới có khả năng giải quyết tốt công việc nhưng lại không có quyền

giải quyết… từ đó dẫn đến hiện tượng quan liêu, bao cấp, hoặc không hiệu

quả trong giải quyết các công việc nhà nước.

Ngược lại với tình trạng trên là việc phân cấp cho địa phương có thể

dẫn đến tình trạng địa phương hoặc là không đủ năng lực, trình độ để thực

hiện những nhiệm vụ, quyền hạn được giao hoặc là quá nhiều công việc vượt

quá khả năng giải quyết của chính quyền địa phương. Phân cấp cũng có thể

dẫn đến sự tùy tiện sử dụng những gì được phân cấp để làm lợi cục bộ cho địa

phương mình, bất chấp hoặc không tính đến lợi ích của các địa phương khác

19

hoặc lợi ích của quốc gia trong tổng thể. Chẳng hạn, việc phân cấp quản lý và

cấp phép sử dụng quỹ đất ở Việt Nam thời gian qua đã dẫn đến nhiều địa

phương cấp phép sử dụng đất không hợp lý hoặc khai thác khoáng sản không

đúng, ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia và sự phát triển cân đối, bền vững của

đất nước. Do vậy, việc phân cấp còn là giải quyết mối quan hệ giữa trung

ương và địa phương một cách phù hợp nhất, tạo điều kiện cho sự phát triển

của cả đất nước cũng như mỗi địa phương. Việc phân cấp cho các địa phương

là vấn đề tất yếu của các nhà nước, nó phụ thuộc vào khả năng của chính

quyền địa phương mỗi giai đoạn phát triển, nếu phân cấp, giao nhiều quyền

quá có thể dẫn đến chính quyền địa phương sẽ quá tải, không thể thực hiện

hết được, nếu phân cấp, giao ít quyền quá thì hiệu quả hoạt động của chính

quyền địa phương sẽ không cao. Xu hướng chung hiện nay trong các nhà

nước dân chủ là khi xã hội phát triển cao thì việc phân cấp, phân quyền diễn

ra nhiều hơn, chính quyền các địa phương được trao cho nhiều nhiệm vụ,

quyền hạn hơn.

Việc phân cấp giữa trung ương và địa phương: Một mặt, nhằm phát huy

tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền

địa phương trên cơ sở phân định rõ, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm

của mỗi cấp trong bộ máy chính quyền nhà nước; mặt khác, bảo đảm sự quản

lý tập trung, thống nhất và thông suốt của chính quyền trung ương, tăng

cường kỷ luật, kỷ cương để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước

phục vụ tốt hơn nhu cầu và lợi ích của nhân dân, thúc đẩy kinh tế - xã hội ở

từng địa phương phát triển, trên cơ sở phát huy thế mạnh của mỗi địa phương

trong một nhà nước thống nhất. Do vậy, việc phân cấp hợp lý, chính xác sẽ có

những tác dụng tích cực như:

Thúc đẩy sự phát triển dân chủ thông qua việc cung cấp những cơ hội

tốt hơn để người dân tham gia tích cực và trực tiếp hơn vào các quá trình ra

quyết định của các cơ quan nhà nước các cấp;

20

Tăng cường hiệu quả của việc cung cấp các dịch vụ công cho nhân dân

thông qua việc ủy quyền cho chính quyền địa phương thực thi chức năng cung

cấp dịch vụ công, từ đó hạn chế sự quan liêu và trì trệ của các cơ quan nhà

nước cấp trên, cơ quan trung ương.

Tạo điều kiện để nâng cao chất lượng của những dịch vụ công được

cung cấp cho người dân dựa trên trách nhiệm giải trình và sự nhạy cảm trong

việc nắm bắt và đáp ứng nhu cầu của dân chúng của chính quyền địa phương.

Tăng cường sự phát triển về kinh tế, xã hội dựa trên sự am hiểu chính

xác điều kiện kinh tế - xã hội và các đặc điểm về địa lý, dân cư… của chính

quyền địa phương, trên cơ sở đó đề ra các kế hoạch và có những chính sách

đúng đắn cho việc phát triển đó, phát huy được thế mạnh của mỗi địa phương.

Tăng cường sự chủ động, minh bạch, trách nhiệm giải trình và năng lực

giải quyết các công việc của các cơ quan chính quyền địa phương.

Cho phép đại điện đa dạng hơn về chính trị và sự tham gia của các

nhóm lợi ích như văn hóa, chính trị, tôn giáo, sắc tộc khác nhau… vào quá

trình ra quyết định của các cơ quan nhà nước liên quan đến các vấn đề của

mỗi địa phương.

Tăng cường sự ổn định chính trị và sự thống nhất của quốc gia thông

qua việc cho phép người dân quyền giám sát một cách trực tiếp và hiệu quả

hơn các chương trình, kế hoạch và hoạt động của chính quyền nhà nước ở địa

phương thuộc các cấp khác nhau.

Tạo điều kiện cho những ý tưởng kinh tế, chính trị, xã hội… mới nảy

sinh, từ đó có được những chương trình, hoạt động quản lý nhà nước có tính

sáng tạo hơn đối với mỗi địa phương.

Hoạt động phân cấp nếu thực hiện không tốt cũng có thể sẽ dẫn đến

những ảnh hưởng tiêu cực như:

Thứ nhất, thông qua việc trao cho những người cầm quyền ở địa

21

phương nhiều quyền lực hơn, nhiều khi vượt ra ngoài sự kiểm soát của chính

quyền trung ương có thể dẫn đến làm tổn hại nền dân chủ xã hội.

Thứ hai, làm giảm hiệu quả của việc cung cấp dịch vụ công cho các tổ

chức và cá nhân do thiếu sự kiểm soát và giám sát có hiệu quả việc thực thi

chức năng này từ phía các cơ quan cấp trên, cơ quan trung ương.

Thứ ba, chất lượng của những dịch vụ công được cung cấp cho người

dân bị ảnh hưởng vì chính quyền địa phương thiếu năng lực hoặc những

nguồn lực cần thiết để đảm bảo việc cung cấp những dịch vụ đó.

Thứ tư, làm tăng nguy cơ tham nhũng trong bộ máy nhà nước ở các địa

phương và khả năng phát triển bất bình đẳng giữa các vùng miền, khu vực

khác nhau của đất nước, có thể gây ra những mâu thuẫn giữa các địa phương

với nhau hoặc giữa địa phương với trung ương.

Thứ năm, có nguy cơ khiến các cơ quan ở các cấp chính quyền địa

phương bị quá tải vì phải thực hiện quá nhiều công việc khi nguồn nhân lực

không đáp ứng được. Hoặc làm cho đội ngũ cán bộ, công chức của bộ máy

chính quyền địa phương tăng lên quá nhiều dẫn đến lãng phí nguồn nhân lực

của bộ máy nhà nước.

Thứ sáu, tạo ra những kình địch, cạnh tranh mới, hoặc kích thích những

sự kình địch, cạnh tranh tiềm tàng giữa các địa phương khác nhau trong đất

nước về các vấn đề khác nhau của đời sống xã hội. Thậm chí việc phân cấp,

phân quyền còn có nguy cơ làm suy yếu quốc gia vì có thể dẫn đến gia tăng

sự bất bình đẳng giữa các khu vực hoặc chủ nghĩa ly khai, hoặc làm suy yếu

hoạt động quản lý tài chính của quốc gia.

Thứ bảy, làm giảm tính sáng tạo trong quản lý nhà nước do việc trao

quyền cho những người cầm quyền bảo thủ ở một số địa phương.

Trong lịch sử phát triển của nhân loại có rất nhiều mô hình phân cấp,

phân quyền giữa trung ương với địa phương được mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ

22

phát triển sáng tạo ra, dẫn đến cách thức tổ chức và hoạt động của chính

quyền địa phương ở các quốc gia là rất đa dạng, phong phú. Theo các nhà

khoa học thì hiện nay trên thế giới có 4 mô hình phân cấp, phân quyền giữa

trung ương và địa phương cơ bản là mô hình Anh - phân cấp cho chính

quyền địa phương theo chức năng (functional regulation); mô hình Pháp -

song trùng giám sát (dual supervision); mô hình Đức - phụ trợ lãnh thổ

(areal subsidiarization); mô hình Xô viết - song trùng trực thuộc (dual

subordination). Như vậy, mỗi quốc gia có cách thức phân cấp, phân quyền

giữa trung ương và địa phương khác nhau và mỗi cách thức đều có những ưu

điểm và hạn chế nhất định.

1.3. Kinh nghiệm phân cấp, phân quyền quản lý giữa Trung ƣơng

và địa phƣơng về tổ chức bộ máy và cán bộ công chức ở một số nƣớc trên

thế giới; bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

1.3.1. Trong lĩnh vực tổ chức bộ máy

Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều tổ chức các đơn vị hành chính -

lãnh thổ và thành lập các cơ quan nhà nước ở địa phương nhằm mục đích:

Triển khai việc thực hiện các quyết định của các cơ quan nhà nước ở trung

ương; Để nhân dân địa phương tham gia vào các hoạt động của các cơ quan

nhà nước và quyết định những vấn đề có liên quan đến đời sống của nhân dân

địa phương; Phân cấp cho địa phương để giảm bớt công việc cho cơ quan nhà

nước ở trung ương, từ đó tạo điều kiện cho trung ương tập trung giải quyết

những công việc có tính chất quốc gia và để giải quyết tốt quyền lợi của

Trung ương cũng như quyền lợi của mỗi địa phương.

a) Ở Đức

Cơ sở pháp lý hình thành phân cấp quản lý nhà nước về tổ chức bộ máy

ở CHLB Đức là Hiến pháp Liên bang và Luật của các bang.

Đơn vị hành chính tự quản địa phương ở CHLB Đức là xã và liên xã.

23

Hai loại đơn vị hành chính này với tư cách là cấp tự quản ở địa phương có

quyền quyết định và tự chịu trách nhiệm về tất cả các công việc của cộng

đồng địa phương trong khuôn khổ pháp luật.

Xã ở CHLB Đức là khái niệm chỉ một đơn vị hành chính cơ sở, kể cả

thành phố lớn, vừa và nhỏ (chỉ trừ 3 thành phố được hưởng quy chế đặc biệt

là: Berlin, Bermen, Hamburg). Hiện nay CHLB Đức có khoảng 14.619 xã.

Liên xã ở CHLB Đức là khái niệm chỉ hình thức liên kết giữa một số xã có

quy mô nhỏ thành một đơn vị hành chính cơ sở.

Tổ chức, hoạt động của chính quyền xã, liên xã ở CHLB Đức:

Trong khuôn khổ pháp luật, xã có nghĩa vụ và quyền điều hành công

việc của mình theo tinh thần tự chịu trách nhiệm. Xã có quyền khiếu kiện

trước các toà án có thẩm quyền về những sự can thiệp trái pháp luật và những

cản trở đối với quyền tự quản của mình. Các xã, liên xã có biểu tượng riêng,

có cờ và con dấu công vụ của mình.

Cơ cấu tổ chức chính quyền tự quản xã, liên xã ở CHLB Đức bao gồm:

Hội đồng, Xã trưởng và các phòng ban chuyên môn.

Hội đồng xã, liên xã (sau đây gọi là Hội đồng xã) được nhân dân địa

phương bầu ra thông qua bỏ phiếu. Số lượng thành viên của Hội đồng xã

phụ thuộc vào số dân của xã, có nhiệm kỳ 5 năm. Nhiệm vụ của Hội đồng xã

là: Quyết định phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội và nâng

cao phúc lợi cho nhân dân địa phương; Quyết định ngân sách và quyết toán

hằng năm, quy định về thuế và đảm bảo nguồn tài chính cho địa phương;

Ban hành điều lệ, quy chế pháp lý của xã; Bầu xã trưởng, sa thải cán bộ,

công chức; Quy định việc thành lập các cơ quan công quyền và Ban hành

quy chế hoạt động cho Hội đồng xã. Quyền hạn của Hội đồng xã là giám sát

đối với hoạt động của xã.

Xã trưởng được Hội đồng xã bầu ngoại trừ một số xã dân bầu trực tiếp

24

xã trưởng với nhiệm kỳ từ 6 đến 12 năm, tuỳ thuộc vào quy chế của từng xã.

Xã trưởng là người lãnh đạo bộ máy hành chính xã, có quyền trực tiếp quyết

định những vấn đề có tính chất cấp bách của xã; Chuẩn bị và thực hiện các

Nghị quyết của Hội đồng xã; Đại diện pháp lý cho xã về đối ngoại; Điều hành

các công việc của các phòng ban chuyên môn thuộc cơ quan hành chính xã.

Các phòng ban chuyên môn có số lượng khác nhau tuỳ thuộc vào quy

chế của từng xã. Cơ cấu thành phần các phòng ban chuyên môn do Hội đồng

xã quyết định. Trưởng phòng và nhân viên các phòng ban chuyên môn do Xã

trưởng bổ nhiệm. Hoạt động của các phòng ban chuyên môn khá đa dạng về

nhiều lĩnh vực như: Xây dựng, nhà đất, an ninh trật tự, giáo dục, thuế, thống

kê, pháp luật, an sinh xã hội…

b) Ở Pháp

Hệ thống các cơ quan địa phương ở Pháp được xây dựng trên cơ sở

phân chia đơn vị hành chính – lãnh thổ. Đơn vị hành chính của Pháp bao

gồm: xã, tỉnh và vùng; mỗi đơn vị hành chính – lãnh thổ đều có thực hiện chế

độ tự quản ở các mức độ khác nhau.

Đối với đơn vị hành chính xã: Hiện nay, ở Pháp có khoảng 36 nghìn xã.

Chịu trách nhiệm tổ chức, điều hành các công việc ở xã như: Quyết định

những vấn đề liên quan đến lợi ích của xã, định đoạt tài sản của xã, chỉ đạo

cung ứng các dịch vụ cần thiết như: bệnh viện; chợ; xây dựng, sửa chữa

đường sá, cầu cống; trường học; bảo tàng... là Hội đồng và xã trưởng.

Đối với đơn vị hành chính Tỉnh: Tỉnh là đơn vị hành chính lãnh thổ chủ

yếu ở Pháp. Tổ chức điều hành hoạt động của tỉnh là do Hội đồng tỉnh (hay

còn gọi là Hàng tổng), đứng đầu Hội đồng tỉnh là Chủ tịch Hội đồng tỉnh.

Hoạt động của Hội đồng tỉnh bao gồm: thông qua ngân sách và kiểm

tra việc thực hiện ngân sách, tổ chức cung ứng các dịch vụ do cấp trên cung

cấp và quản lý tài sản của tỉnh.

25

Nhiệm vụ của Chủ tịch Hội đồng là thi hành các quyết định của Hội

đồng, chịu trách nhiệm về việc quản lý tỉnh, chi phối kinh phí và đứng đầu

các tổ chức dịch vụ hành chính, kỹ thuật của tỉnh.

Đối với đơn vị hành chính Vùng: Pháp có 22 vùng ở mẫu quốc và các

vùng riêng biệt như: Guadeloupe; Guyane; Martinique; Rounion. Vùng có

nhiều nét giống với tỉnh về cơ cấu tổ chức. Tổ chức Vùng có Hội đồng vùng

và Chủ tịch Hội đồng, ngoài ra tuỳ mỗi vùng mà có thêm Hội đồng kinh tế và

xã hội; Hội đồng về vấn đề vay nợ và Viện kiểm toán. Hội đồng vùng đưa ra

các biện pháp về phát triển kinh tế, xã hội, vệ sinh môi trường, phát triển khoa

học công nghệ và các biện pháp xây dựng lãnh thổ trên cơ sở tôn trọng tính

toàn vẹn lãnh thổ của mỗi vùng.

Chủ tịch Hội đồng vùng là người chuẩn bị và thi hành các quyết định của

Hội đồng, chi phối kinh phí, quản lý tài sản, lãnh đạo các cơ quan của Vùng.

Hội đồng kinh tế và xã hội không có quyền ban hành quyết định mà chỉ

có quyền đưa ra ý kiến đối với Hội đồng vùng về các vấn đề như: chuẩn bị thi

hành những kế hoạch của Nhà nước đối với vùng, chiến lược phát triển vùng.

c) Ở Vương quốc Anh:

Vấn đề tự quản địa phương hình thành dựa trên cơ sở pháp lý là Quy

chế tự quản địa phương năm 1972. Theo đó, tổ chức tự quản địa phương ở

Anh được thực hiện theo chế độ hai cấp: vùng và giáo xứ.

Lãnh thổ Anh và xứ Wales được chia thành các lãnh địa, các lãnh địa

chia thành các vùng. Có tất cả là 339 vùng, trong đó có 296 vùng của Anh, 37

vùng của xứ Wales và 26 vùng của Bắc Ailen.

Giáo xứ là cấp thấp nhất của tự quản địa phương ở Anh (riêng ở xứ

Wales cấp thấp nhất là xã). Hiện nay ở Anh có khoảng hơn 11 nghìn giáo xứ.

Tổ chức hoạt động của tự quản địa phương ở Anh được thực hiện qua

Hội đồng các cấp. Hội đồng các cấp được hình thành do nhân dân địa phương

26

bầu, có nhiệm kỳ 4 năm, bao gồm Chủ tịch và các uỷ viên. Chủ tịch Hội đồng

được bầu từ các đại biểu của Hội đồng và cứ mỗi năm 1 lần thì 1/3 các uỷ

viên của Hội đồng được bầu lại.

Hoạt động của Hội đồng bao gồm: trật tự an ninh, phòng cháy chữa cháy,

đường sá giao thông, bảo tàng, bảo trợ người già và các dịch vụ xã hội khác.

Mặc dù được trao một số quyền tự quyết nhất định theo chế độ tự quản,

song chính quyền địa phương ở Anh lại chịu nhiều biện pháp giám sát, kiểm

tra của Chính phủ. Một trong những hình thức kiểm tra quan trọng nhất của

Chính phủ đối với tự quản địa phương là: điều chỉnh bằng pháp luật. Theo đó,

pháp luật quy định bắt buộc các cơ quan làm việc tại địa phương phải tuân thủ

những quy định chung về hình thức và phương pháp làm việc.

Một hình thức kiểm tra khác của Chính phủ Anh là cơ quan trung ương

có quyền phê chuẩn nhân sự của bộ máy chính quyền địa phương do Hội

đồng bầu ra. Ngoài ra, các cơ quan Chính phủ có quyền yêu cầu tiến hành các

cuộc điều tra về hoạt động của chính quyền tự quản địa phương nếu phát hiện

ra những hành vi gian dối hoặc có tính chất lừa đảo.

1.3.2. Trong lĩnh vực quản lý cán bộ công chức

Mỗi quốc gia đều có những cách thức khác nhau để quản lý người làm

một việc cho nhà nước tùy thuộc vào thể chế chính trị và điều kiện cụ thể của

quốc gia đó. Phân cấp quản lý công chức trong khu vực nhà nước giữa các cấp

chính quyền đang trở thành xu thế chung của các nước nhằm hướng đến “một

chính phủ tốt hơn nhưng nhỏ hơn”. Khó có thể tìm kiếm một mô hình chung

cho phân cấp quản lý công chức do mỗi nước có những cách khác nhau tùy

thuộc vào điều kiện cụ thể của mình. Mặt khác, ngay trong từng nước quá trình

phân cấp công chức từng giai đoạn lịch sử cũng luôn thay đổi để phù họp với

sự thay đổi chung.

27

a) Ở Vương quốc Anh:

Các văn bản pháp luật về quản lý công chức của Vương quốc Anh đa

số là do Chính phủ ban hành dựa trên quyền uy của Nữ hoàng. Từ năm 1959,

phạm vi công chức đã được quy định gồm 2 bộ phận:

Những người do Nữ hoàng Anh trực tiếp bổ nhiệm, được ủy ban dân sự

cấp giấy chứng nhận hợp lệ cho phép tham gia công tác ở cơ quan dân sự.

Những người mà toàn bộ tiền lương được cấp từ ngân sách thống nhất

của Vương quốc hoặc từ các nguồn do Nghị viện thông qua.

Công chức Anh là công bộc của Vua hay Nữ hoàng do Nữ hoàng bổ

nhiệm hoặc do Thủ tướng với tư cách là người thay mặt Nữ hoàng bổ nhiệm

trong phạm vi quyền hạn của mình.

Trước năm 1968, công chức Anh được chia làm 6 loại theo cấp: Loại

hành chính (quan chức) gồm Thứ trưởng (phó quan thường vụ), trợ lý Thứ

trưởng, chủ quản, trợ lý chủ quản, các chức vụ đứng đầu cơ quan thuộc Chính

phủ; loại nhân viên chấp hành (chuyên môn); loại nhân viên chuyên môn và

khoa học kỹ thuật chia ra hệ A và hệ B; Loại nhân viên văn phòng; loại giúp

việc công tác văn phòng; loại tạp vụ. Trong số 6 loại công chức trên thì công

chức loại hành chính (loại 1) là công chức cao cấp sẽ do Chính phủ quản lý.

Sau khi tiến hành cải cách công vụ năm 1968, công chức được chia ra

làm 10 loại: quan chức hành chính - công chức cao cấp; chuyên gia kinh tế;

chuyên gia thống kê; chuyên gia tin học; công chức khoa học; chuyên môn kỹ

thuật; thư ký; bảo hiểm xã hội và huấn luyện; pháp luật và cảnh sát. Trong số

đó có 4 loại đầu và quan chức của loại 5 và loại 6 được coi là công chức cao

cấp và có chính sách quản lý riêng.

Công chức của nước Anh chỉ bao gồm những người làm việc tại các

Bộ ở Trung ương, những người làm việc tại các cấp chính quyền địa phương

không được xem là công chức. Có nhiều cấp và hạng khác nhau trong công

28

vụ song có thể chia làm 3 nhóm chính: các nhóm phục vụ làm việc tại các

Bộ khác nhau, mỗi nhóm có thang bảng lương riêng và yêu cầu riêng về

trình độ chuyện môn khi vào làm trong công vụ; Các nhóm chuyên gia, kỹ

thuật; và các ngạch riêng của mỗi Bộ như thanh tra thuế, hải quan, giám

ngục và nhân viên xuất nhập cảnh.

Cơ quan quản lý về hoạt động của công chức ở Trung ương là Bộ công

vụ với những chức năng, nhiệm vụ cơ bản sau: Phụ trách quản lý công chức

bao gồm việc tuyển chọn, đào tạo, thăng cấp, miễn nhiệm; Quyết định tiền

lương, phúc lợi; Giúp Thủ tướng Chính phủ phân công, phân cấp chức trách

và quản lý công chức; Quản lý và đảm nhiệm công việc đổi mới công sở, kỹ

thuật mới, trang bị mới cho công tác công sở và công chức.

Như vậy, việc quản lý công chức ở Anh được thực hiện trên cơ sở phân

loại công việc. Điều này có nghĩa là xác định rõ hơn các công chức cao cấp

chủ yếu phụ trách nghiên cứu và hoạch định chính sách, theo dõi và chi đạo

việc thực hiện chính sách, các công chức cao cấp được giao trách nhiệm chủ

yếu làm ở các vị trí công tác như thủ trưởng các cơ quan chấp hành của Chính

phủ. Việc phân cấp quản lý cho các cơ quan hành chính căn cứ vào vị trí công

việc của công chức.

b) Ở Pháp:

Công chức Pháp được quản lý theo chế độ chức nghiệp tức là công

chức được phân loại theo ngạch, bậc. Nếu căn cứ theo trình độ đào tạo thì

công chức Pháp được chia thành 4 loại: Loại A, B, C, D.

Tổng thống bổ nhiệm các bộ trưởng và thành viên của Chính phủ theo

đề nghị của Thủ tướng. Khi Thủ tướng đệ trình đơn từ nhiệm của Chính phủ

lên tổng thống thì toàn bộ chính phủ sẽ thay đổi. Khi tổng thống cách chức

một bộ trưởng hay khi một bộ trưởng từ chức sẽ có sự thay đổi ở cấp Bộ. Thủ

tướng là người đứng đầu chính phủ. Các bộ trưởng nhà nước chịu trách nhiệm

29

về bộ được coi là quan trọng hơn hoặc giữ vai trò phối hợp. Các bộ trưởng

đứng đầu một bộ (theo luật chung), ví du: Kinh tế, giáo dục, tư pháp, quốc

phòng... các bộ trưởng được ủy nhiệm: bộ trưởng nhận nhiệm vụ từ Thủ

tướng về một nhiệm vụ đặc biệt.

Bộ trưởng đảm nhận vai trò chính trị với tư cách là thành viên của

Chính phủ và vai trò hành chính với tư cách là người đứng đầu một Bộ. Theo

quy định của Hiến pháp, thành viên của Chính phủ không được là thành viên

của Nghị viện., không được thực hiện các nhiệm vụ đại diện các tổ chức nghề

nghiệp mang tính quốc gia, công vụ và các hoạt động nghề nghiệp.

Bộ trưởng đứng đầu một bộ và đảm nhiệm vai trò là người lãnh đạo

duy nhất của bộ đó. Bộ trưởng có thẩm quyền mang tính thứ bậc đối với toàn

bộ các nhân viên dưới quyền, ra mệnh lệnh hoặc chỉ dẫn cho họ, có thể áp

dụng hình thức kỷ luật đối với họ theo các quy chế và quy tắc chung của pháp

luật. Ngoài ra, như tất cả những người đứng đầu ở cơ quan khác, bộ trưởng có

quyền áp dụng tất cà các biện pháp cần thiết để đảm bảo cho hoạt động của bộ

máy hành chính dưới quyền. Quyền lập quy của bộ trưởng chỉ được thực hiện

trong phạm vi của bộ về mặt nhân sự và cơ cấu. về nguyên tắc, bộ trưởng

không có quyền lập quy nói chung - với danh nghĩa là nguồn luật hay là nghĩa

vụ đối với những đối tượng bị quản lý, nhưng pháp luật cũng dành cho các bộ

trưởng quyền lập quy nói riêng trong một số lĩnh vực cụ thể.

Cơ quan quản lý công chức ở Trung ương của Pháp là Tổng cục công

chức và hành chính, trong đó có bộ phận riêng để quản lý công chức cấp cao

và công chức lãnh đạo. Thủ tướng chính phủ và Tổng thư ký của chính phủ

trực tiếp quản lý Tổng cục. Chức năng của Tổng cục và hành chính là quản lý

và giám sát việc thi hành “quy chế công chức” và thực hiện các quy định khác

trong lĩnh vực quản lý nhân sự. Trong xu thế cải cách hiện nay, Tổng cục

được giao thêm một số nhiệm vụ mới như: Phát triển, thúc đẩy cải cách công

30

vụ, điều hòa mối quan hệ giữa tổ chức và công chức, tăng cường nghiên cứu

khoa học về tổ chức lao động quản lý, hiện đại hóa công tác hành chính và

công sở HCNN, làm đầu mối quản lý các cơ quan quản lý nhân sự của các

Bộ, ngành và địa phương trên toàn quốc.

Ngoài ra, Pháp còn thành lập một loạt các Hội đồng tư vấn cho việc quản

lý nhân sự như: Hội đồng công chức tối cao; Hội đồng hành chính, Hội đồng

kỹ thuật, Hội đồng giáo dục tối cao, Hội đồng tối cao pháp quan. Quan trọng

nhất là “Hội đồng công chức tối cao” là cơ quan do Thủ tướng chỉ đạo, một Bộ

trưởng hoặc Thư ký Chính phủ làm lãnh đạo, thành viên có 32 người do chính

phủ bổ nhiệm, trong đó có 16 người là cố vấn hành chính do Chính phủ cử, 16

người do Hội đồng mời vào và do Văn phòng Thủ tướng bổ nhiệm.

“Hội đồng hành chính” là Hội đồng đóng vai trò quan trọng trong việc

quản lý công chức cao cấp và lãnh đạo. Hội đồng thực hiện các chức năng về

giám định, các ý kiến tham mưu về đề bạt, khen thường, kỷ luật trong đội ngũ

công chức lãnh đạo và cao cấp. Ở Pháp, mỗi Bộ, ngành, địa phương đều có

một Hội đồng hành chính để thực hiện việc quản lý đội ngũ công chức cao

cấp và lãnh đạo của Bộ, ngành và địa phương.

c) Ở Trung Quốc:

Với mục tiêu phấn dấu đến năm 2010 xây dựng được một đội ngũ cán

bộ có trình độ cao, thích ứng với công cuộc xây dựng kinh tế, chính trị, văn

hóa trong nước và hội nhập quốc tế, chế độ nhân sự của Đảng cộng sản Trung

Quốc đã được cải cách phù hợp với điều kiện mới với hai chiến lược: Khoa -

Giáo hưng quốc và Nhân tài cường quốc, trong đó chiến lược Nhân tài cường

quốc được chú trọng với sự tham gia của nhiều Bộ, ngành Trung ương. Ngày

27/4/2005, ủy ban thường vụ Quốc vụ viện Trung Quốc (khóa X) đã thông

qua Luật Công chức với 18 chương, 107 điều. Luật Công chức có hiệu lực

1/1/2006 đã giải quyết được nhiều nội dung về chế độ nhân sự, trong đó quy

định rõ thẩm quyền các cấp trong quản lý công chức.

31

Theo Luật Công chức, các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chế

độ phân loại công chức theo vị trí công tác và bậc. Chức danh của công chức

Trung Quốc chia thành 2 loại: Công chức lãnh đạo và công chức thường. Vị

trí và bậc công chức là tiêu chí quan trọng để xác định tiền lương công chức

và thẩm quyền công chức.

Công chức lãnh đạo bao gồm: các vị trí lãnh đạo cấp cao của Nhà nước;

Trưởng và Phó thủ trưởng cơ quan cấp Bộ và tỉnh; Trưởng và Phó thủ trưởng

cơ quan Cục, Vụ; Trưởng và Phó thủ trưởng cơ quan cấp huyện, thị và

Trưởng, Phó các phòng, ban và bộ phận trực thuộc.

Công chức Trung Quốc được phân loại theo các bậc (rank). Việc xếp

hạng vào các bậc dựa trên năng lực, mức độ hoàn thành công việc và thâm

niên công tác. Công chức có thể thăng tiến đến bậc cao nhất của vị trí công

việc tương ứng.

Cán bộ công chức của Trung Quốc được chia thành 15 bậc: Bậc 1: Thủ

tướng Quốc vụ viện; Bậc 2: Phó Thủ tướng và các thành viên Quốc vụ viện;

Bậc 3 - Bậc 4: Bộ trưởng, Tỉnh trưởng; Bậc 5: Thứ trưởng, Phó Tỉnh trưởng;

Bậc 5-7: cấp trưởng của các Vụ, Cục, Viện (ở Bộ) và Sở (ở Tỉnh), chuyên

viên thanh tra - tương đương chuyên viên cao cấp; Bậc 6-8: cấp phó của các

Vụ, Cục, Viện (ở Bộ) và Sở (ở Tỉnh), trợ lý chuyên viên thanh tra; Bậc 7-10:

cấp trưởng phòng (ở Bộ) và Sở (ở Tỉnh), Trưởng cấp huyện, chuyên viên

nghiên cứu - tương đương chuyên viên chính; Bậc 8-11: cấp phó phòng (ở

Bộ) và Sở (ở Tỉnh), phó cấp huyện, chuyên viên nghiên cứu; Bậc 9-12:

Chuyên viên tổ trưởng, trưởng cấp xã; Bậc 9-13: Chuyên viên tổ phó, phó xã;

Bậc 9-14: Chuyên viên; Bậc 10-15: Cán sự.

Việc quản lý theo các chức danh công chức được phân cấp giữa Trung

ương, Bộ, ngành và địa phương. Từ bậc 7 trở lên đến bậc 1 đều do các cơ

quan chuyên trách của Trung ương quản lý. Còn đối với công chức từ bậc 7

đến bậc 15 được phân cấp cho các cấp chính quyền địa phương.

32

Ủy ban công vụ Trung ương có nhiệm vụ quản lý chung đối với đội

ngũ công chức trên phạm vi cả nước và quản lý công chức làm việc ở các cơ

quan Trung ương, ủy ban công vụ từ cấp huyện trở lên có trách nhiệm quản lý

chung đối vái đội ngũ công chức địa phương trên địa bản trong phạm vi thẩm

quyền của mình, về nguyên tắc, 1 ủy ban công vụ cấp trên sẽ hướng dẫn Ban

công vụ cấp dưới về chuyên môn. Ủy ban công vụ từng cấp sẽ hướng dẫn việc

quản lý công chức trong các cơ quan HCNN cùng cấp.

1.3.3. Một số giá trị tham khảo cho Việt Nam

Một là, nội dung và thể chế phân cấp quản lý trên thực tế phụ thuộc vào

thể chế tổ chức nhà nước, đặc điểm kinh tế - xã hội và luật pháp của mỗi

nước, nhưng có điều chung nội bật nhất là, xu thế ngày càng tăng quyền quyết

định và quyền giám sát của người dân đối với những công việc của cộng

đồng, giảm bớt sự bao biện, làm thay hoặc áp đặt sự điều hành của các cơ

quan hành chính cấp trên đối với những công việc trực tiếp của cộng đồng.

Đồng thời việc tăng thẩm quyền cho chính quyền địa phương vẫn đảm bảo

tính thống nhất quản lý của nhà nước trung ương, thông qua hệ thống pháp

luật của mỗi quốc gia.

Hai là, việc tăng cường phân cấp quản lý cho chính quyền địa phương

phải gắn liền với việc thiết lập chính quyền trung ương đủ mạnh, có hiệu lực

và hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, cùng với cơ chế phát huy dân chủ, tạo điều

kiện thuận lợi cho người dân, các tổ chức xã hội tham gia vào hoạt động quản

lý. Thực hiện phân cấp phải luôn bảo đảm các yêu cầu đối với các cấp chính

quyền được phân cấp.

Ba là, cần phải xác định mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và

chính quyền địa phương trong hệ thống hành chính nhà nước. Chính phủ tập

trung vào một số chức năng nhất định về quản lý vĩ mô. Đồng thời thực hiện

tốt việc điều phối, đánh giá và giám sát, định ra những tiêu chuẩn về chuyên

môn của quốc gia.

33

Bốn là, mức độ phân cấp trong quản lý TCBM và CBCC nhà nước phụ

thuộc vào quan điểm chính trị của mỗi nước cũng như đối với từng nhóm công

chức. Thông thường đối với các chức danh cao cấp trong cơ quan hành pháp thì

việc quản lý mang tính tập trung cao hơn so với các công chức khác. Nhiều

quốc gia quy định công chức cao cấp thuộc sự quản lý thống nhất của chính

quyền Trung ương.Hầu hết các nước có sự phân biệt giữa công chức và những

người được bầu và thường không có quy định phân cấp quản lý người được

bầu vì những người này chịu sự điều chỉnh của luật bầu cử. Do đó không có

nhiều quy định phân các quản lý đối với Tổng thống, Thủ tướng và Bộ trưởng.

Năm là, nhiều nước có xu hướng áp dụng chế độ phân quyền mạnh mẽ

(phân quyền trọn gói) đã giao quyền tự chủ tối đa cho các cơ quan trực tiếp sử

dụng công chức hành chính. Các cơ quan HCNN căn cứ vào tình hình cụ thể được

toàn quyền quyết định các vấn đề về tuyển dụng, sử dụng, phát triển công chức. Ở

những nước áp dụng theo mô hình này như Vương quốc Anh, New Zealand...

thường có đội ngũ công chức chuyên nghiệp, hiện đại và làm việc có hiệu quả do

người sử dụng công chức được quyền quyết định tất cả các vấn đề liên quan đến

công chức trong khuôn khổ Luật Công vụ và Luật về khu vực nhà nước.

Sáu là, chính quyền địa phương ngày càng được trao nhiều quyền hơn.

Phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương các cấp thường gắn với việc tăng

thêm thẩm quyền cho người đứng đầu hành pháp ở địa phương. Người đứng

đầu hành pháp ở địa phương có thể ban hành các quy định, bổ nhiệm các

thành viên của các ban hành chính độc lập, bổ nhiệm Phó tỉnh trưởng và kế

toán trưởng, Phó thị trưởng và thủ quỹ đối với cấp cơ sở cũng như bổ nhiệm

các công chức địa phương.

Bảy là, phân cấp quản lý TCBM và CBCC cho các cơ quan hành chính

luôn gắn liền với vấn đề giám sát. Vì vậy, trong các Luật Phân cấp và các luật

chuyên ngành như Luật công chức của các nước đều coi kiểm soát là hoạt

động mang tính bắt buộc.

34

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC GIỮA TRUNG

ƢƠNG VÀ CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH TRONG LĨNH VỰC TỔ

CHỨC BỘ MÁY VÀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

2.1. Thực trạng sự điều chỉnh của pháp luật về phân cấp giữa trung

ƣơng và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy

2.1.1. Các quy định về phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung ương

và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy

2.1.1.1. Đối với thành lập, sáp nhập, giải thể tổ chức bộ máy

a) Các văn bản quy định thành lập, sáp nhập, giải thế tổ chức bộ máy

Luật Tổ chức Chính phủ số 76/2015/QH13 của Quốc hội ban hành

ngày 19 tháng 06 năm 2015;

Luật Tổ chức Chính quyền địa phương số 77/2015/QH13 của Quốc hội

ban hành ngày 19 tháng 06 năm 2015;

Nghị định số 29/2008/NĐ-CP của Chính phủ quy định về khu công

nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế ban hành ngày 14/3/2008;

Nghị định số 45/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt

động và quản lý hội, Hà Nội, ngày 21 tháng 04 năm 2010;

Nghị định số 36/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ, ngày 18

tháng 04 năm 2012;

Nghị định số 55/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định về thành lập, tổ

chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập ngày 28 tháng 06 năm 2012;

Nghị định số 24/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định tổ chức các cơ

quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương ban hành ngày 04 tháng 04 năm 2014;

35

Nghị định số 37/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định tổ chức các cơ

quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố

thuộc tỉnh Chính phủ ban hành ngày 05 tháng 05 năm 2014;

Nghị định số 16/2015/NĐ-CP của Chính phủ Quy định cơ chế tự chủ

của đơn vị sự nghiệp công lập ban hành ngày 14 tháng 02 năm 2015;

Thông tư liên tịch số 06/2015/TTLT-BKHĐT-BNV của Bộ Kế hoạch

và Đầu tư và Bộ Nội vụ ban hành Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu

kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu, ngày 03 tháng 09 năm 2015;

…..

b) Nội dung quy định về phân cấp thành lập, sáp nhập, giải thể tổ chức

bộ máy

Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 đã phân cấp cho UBND

cấp tỉnh quyết định thành lập, sáp nhập, giải thể một số cơ quan chuyên môn

đặc thù thuộc UBND cấp tỉnh trên cơ sở tiêu chí, điều kiện do Chính phủ quy

định, cụ thể là: theo quy định tại Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày

04/4/2014, ở các tỉnh có 03 cơ quan chuyên môn (Sở Quy hoạch – Kiến trúc ở

thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, Sở Ngoại vụ, Ban Dân tộc).

Đối với các tổ chức thuộc cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn

ở cấp tỉnh, Bộ quản lý ngành và Bộ Nội vụ đã ban hành các Thông tư liên tịch

hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ

quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, trong đó có phân cấp cho Chủ tịch

UBND cấp tỉnh quyết định cụ thể tên gọi, số lượng các tổ chức thuộc cơ cấu

tổ chức của cơ quan chuyên môn ở cấp tỉnh và lựa chọn mô hình tổ chức

(Phòng hoặc Chi cục) để tổ chức quản lý một số ngành, lĩnh vực, bảo đảm

phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.

Đối với các Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh

36

tế trực thuộc UBND cấp tỉnh, Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008

đã phân cấp cho UBND cấp tỉnh quyết định cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý.

Đối với việc thành lập, tổ chức lại, giải thể các đơn vị sự nghiệp công

lập được quy định tại Nghị định số 55/2012/NĐ-CP ngày 28 tháng 6 năm

2012 quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập:

trước đây, việc quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp

công lập được quy định tại Nghị định 83/2006/NĐ-CP ngày 17/08/2006 quy

định trình tự, thủ tục thành lập, tổ chức lại, giải thể tổ chức hành chính, tổ

chức sự nghiệp nhà nước. Điểm khác biệt của Nghị định số 55/2012/NĐ-CP

là đã quy định tách bạch việc thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp

công lập, không quy định chung với cơ quan hành chính như tại Nghị định số

83/2006/NĐ-CP.

Về thẩm quyền thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công

lập, Nghị định đã có sự thay đổi trong nội dung phân cấp. Cụ thể, Thủ tướng

Chính phủ quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công

lập thuộc UBND cấp tỉnh và đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của luật

chuyên ngành. UBND tỉnh quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự

nghiệp đối với đơn vị sự nghiệp thuộc cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh

theo hướng dẫn của Bộ quản lý ngành và của Bộ Nội vụ; đơn vị sự nghiệp

công lập khác thuộc cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh theo quy định

của luật chuyên ngành và thực hiện phân cấp cho UBND cấp huyện thẩm

quyền thành lập, tổ chức lại, giải thể đối với một số loại hình đơn vị sự nghiệp

công lập thuộc UBND cấp huyện theo quy định của luật chuyên ngành. Sự

thay đổi trong nội dung phân cấp ở địa phương được thể hiện rõ nhất ở sự

thay đổi thẩm quyền thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp thuộc

UBND thành phố, trước đây nội dung này do UBND thành phố quyết định thì

nay Nghị định số 55/2012/NĐ-CP quy định thẩm quyền quyết định là của Thủ

37

tướng Chính phủ. Việc cụ thể hóa quy định thành lập đơn vị sự nghiệp công

lập gắn với vị trí việc làm của người lao động phù hợp với Nghị định số

41/2012/NĐ-CP ngày 08/5/2012 của Chính phủ quy định về vị trí việc làm

trong đơn vị sự nghiệp công lập. Nghị định này nêu rõ:

Đối với đơn vị sự nghiệp công lập được thành lập mới theo

quyết định của cơ quan có thẩm quyền thì danh mục vị trí việc làm,

số lượng người làm việc và cơ cấu viên chức theo chức danh nghề

nghiệp phải được xác định ngay từ khi xây dựng đề án thành lập và

được cấp có thẩm quyền phê duyệt trong Quyết định thành lập [27].

Bên cạnh đó, Chính phủ Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp

công lập trong Nghị định số 16/2015/NĐ-CP năm 2015 thay thế Nghị định số

43/2006/NĐ-CP năm 2006.

Đơn vị sự nghiệp tự chủ về tổ chức bộ máy: Đơn vị sự nghiệp công

được quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể các đơn vị không thuộc cơ cấu

tổ chức các đơn vị cấu thành theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, khi

đáp ứng các tiêu chí, điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật; xây

dựng phương án sắp xếp lại các đơn vị cấu thành trình cơ quan có thẩm quyền

quyết định. Riêng đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường

xuyên và đơn vị sự nghiệp công do ngân sách nhà nước bảo đảm chi thường

xuyên: Xây dựng phương án sắp xếp, kiện toàn cơ cấu tổ chức của đơn vị

trình cơ quan có thẩm quyền quyết định [33, Điều 6].

Các Bộ, cơ quan Trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: căn cứ phạm vi

quản lý, chức năng, nhiệm vụ theo thẩm quyền được giao rà soát, sửa đổi, bổ

sung hoặc ban hành mới các tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng, cơ chế giám sát,

đánh giá, kiểm định chất lượng dịch vụ sự nghiệp công; hiệu quả hoạt động của

đơn vị sự nghiệp công; thực hiện thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm trong

hoạt động cung ứng dịch vụ sự nghiệp công và tổ chức thực hiện các nội dung

38

khác về trách nhiệm quản lý nhà nước đối với dịch vụ sự nghiệp công và đơn vị

sự nghiệp công quy định tại Điều 4 (Quản lý nhà nước đối với dịch vụ sự

nghiệp công và đơn vị sự nghiệp công) Nghị định này [33, Điều 22].

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: trong phạm vi thẩm quyền có trách

nhiệm ban hành trong năm 2015: Quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp

công trong từng lĩnh vực; danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân

sách nhà nước; định mức kinh tế - kỹ thuật áp dụng trong các lĩnh vực dịch vụ

sự nghiệp công, làm cơ sở ban hành giá dịch vụ sự nghiệp công tính đủ chi

phí và các quy định tại Điều 4 (Quản lý nhà nước đối với dịch vụ sự nghiệp

công và đơn vị sự nghiệp công) Nghị định này [33, Điều 22].

Đối với các tổ chức thuộc các ngành, lĩnh vực đã có quy hoạch mạng

lưới được cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc được tổ chức thống nhất theo

hướng dẫn của Chính phủ, về cơ bản đã phân cấp cho UBND cấp tỉnh, cấp

huyện quyết định t heo thẩm quyền.

2.1.1.2. Đối với việc phân loại, xếp hạng tổ chức

a) Các văn bản quy định về phân loại, xếp hạng tổ chức

Thông tư số 36/2005/TT-BNV của Bộ Nội vụ ngày 6/4/2005 về việc

xếp hạng Ban quản lý khu công nghiệp, Ban quản lý khu kinh tế, Ban

quản lý khu kinh tế mở, Ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu, Ban quản lý

khu kinh tế- thương mại, Ban quản lý khu công nghiệp cao và các Ban

quản lý có tên gọi khác;

Quyết định số 181/2005/QĐ-TTg ngày 19 tháng 07 năm 2005 của Thủ

tướng Chính phủ quy định việc phân loại, xếp hạng đối với các tổ chức sự

nghiệp, dịch vụ công lập;

Thông tư số 23/2005/TT-BYT của Bộ Y tế ngày 25/08/2005 hướng dẫn

xếp hạng các đơn vị sự nghiệp y tế;

Thông tư số 18/2005/TT-BKHCN của Bộ Khoa học Công nghệ ngày

39

02/11/2005 hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp chức vụ lãnh đạo trong các

tổ chức khoa học và công nghệ;

Thông tư số 33/2005/TT-BGD&ĐT ngày 08/12/2005 của Bộ Giáo dục

và Đào tạo hướng dẫn tạm thời thực hiện chế độ phụ cấp chức vụ lãnh đạo

trong các cơ sở giáo dục công lập; Công văn số 3644/TC-ĐH ngày 17/12/1985

của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo)

về việc hướng dẫn phân hạng trường;

Thông tư số 67/2006/TT-BVHTT của Bộ Văn hóa thông tin ngày

10/08/2006 hướng dẫn phân hạng và thực hiện phụ cấp chức vụ lãnh đạo

trong các tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công lập hoạt động văn hóa – thông tin;

Thông tư số 18 /2006/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động – Thương binh

và Xã hội ngày 28 tháng 11 năm 2006 Hướng dẫn xếp hạng một số loại hình

đơn vị sự nghiệp công lập thuộc ngành lao động, thương binh và xã hội;

Thông tư liên tịch số 06/2007/TTLT-BGTVT-BNV ngày 17/5/2007

hướng dẫn xếp hạng các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công lập thuộc ngành giao

thông vận tải đã phân cấp cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định xếp hạng

các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công lập do UBND cấp tỉnh và Sở giao thông

vận tải quản lý;

Thông tư số 14/2007/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động thương binh và

xã hội ngày 30/08/2007 Hướng dẫn xếp hạng trường cao đẳng nghề, trường

trung cấp nghề và trung tâm dạy nghề công lập;

Thông tư số 48/2008/TT-BGDĐT ngày 25/08/2008 hướng dẫn xếp

hạng và thực hiện chế độ phụ cấp chức vụ lãnh đạo của Trung tâm giáo dục

thường xuyên;

Thông tư liên tịch số 79/2009/TTLT-BNNPTNT-BNV của Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Nội vụ ngày 14 tháng 12 năm 2009

hướng dẫn việc xếp hạng các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công lập thuộc ngành

nông nghiệp và phát triển nông thôn;

40

Thông tư liên tịch số 02/2010/TTLT-BTP-BNV của Bộ Tư pháp và Bộ

Nội vụ ngày 11 tháng 02 năm 2010 hướng dẫn việc xếp hạng các đơn vị sự

nghiệp công lập thuộc ngành Tư pháp.

Thông tư liên tịch Số 16/2011/TTLT-BCT-BNV Của Bộ Công thương

và Bộ Nội vụ ngày 5 tháng 4 năm 2011 Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế của trung tâm khuyến công vả tư vấn

phát triển công nghiệp trực thuộc Sở Công thương.

b) Nội dung quy định phân cấp quản lý về phân loại, xếp hạng tổ chức

Bộ Nội vụ đã phối hợp với các Bộ quản lý ngành ban hành Thông tư

hoặc Thông tư liên tịch hướng dẫn về phân loại, xếp hạng đối với các tổ chức

hành chính, sự nghiệp trong một số ngành, lĩnh vực; trong đó đã thể hiện các

nội dung phân cấp cho chính quyền cấp tỉnh, cụ thể như sau:

Thông tư số 36/2005/TT-BNV của Bộ Nội vụ ngày 6/4/2005 về việc

xếp hạng Ban quản lý khu công nghiệp, Ban quản lý khu kinh tế, Ban quản lý

khu kinh tế mở, Ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu, Ban quản lý khu kinh tế-

thương mại, Ban quản lý khu công nghiệp cao và các Ban quản lý có tên gọi

khác(gọi chung các Ban quản lý là Ban quản lý Khu Công nghiệp và các loại

Khu thuộc các Ban quản lý là Khu Công nghiệp) đã phân cấp cho UBND cấp

tỉnh quyết định xếp hạng II đối với các Ban quản lý theo tiêu chí, điều kiện

trong thông tư;

Thông tư số 23/2005/TT-BYT ngày 25/08/2005 hướng dẫn xếp hạng

các đơn vị sự nghiệp y tế đã phân cấp cho UBND cấp tỉnh quyết định xếp

hạng các đơn vị sự nghiệp y tế từ hạng I trở xuống trong phạm vi quản lý;

Thông tư số 18/2005/TT-BKHCN của Bộ Khoa học công nghệ ngày

02/11/2005 hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp chức vụ lãnh đạo trong các

tổ chức khoa học và công nghệ đã phân cấp UBND cấp tỉnh quyết định phân

loại đối với các tổ chức sự nghiệp khoa học và công nghệ do mình thành lập;

41

Thông tư số 33/2005/TT-BGD&ĐT ngày 08/12/2005 của Bộ Giáo dục

và Đào tạo hướng dẫn tạm thời thực hiện chế độ phụ cấp chức vụ lãnh đạo

trong các cơ sở giáo dục công lập; Công văn số 3644/TC-ĐH ngày

17/12/1985 của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (nay là Bộ Giáo dục

và Đào tạo) về việc hướng dẫn phân hạng trường đã phân cấp cho UBND cấp

tỉnh quyết định xếp hạng các trường thuộc phạm vi quản lý;

Thông tư số 67/2006/TT-BVHTT ngày 10/08/2006 hướng dẫn phân

hạng và thực hiện phụ cấp chức vụ lãnh đạo trong các tổ chức sự nghiệp, dịch

vụ công lập hoạt động văn hóa – thông tin đã phân cấp Chủ tịch UBND cấp

tỉnh quyết định xếp hạng các tổ chức sự nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý;

- Thông tư số 18 /2006/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động – Thương

binh và Xã hội ngày 28 tháng 11 năm 2006 hướng dẫn xếp hạng một số loại

hình đơn vị sự nghiệp công lập thuộc ngành lao động, thương binh và xã hội,

đã phân cấp cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

quyết định xếp hạng đối với đơn vị sự nghiệp trực tiếp quản lý và gửi báo cáo

về Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội;

Thông tư liên tịch số 06/2007/TTLT-BGTVT-BNV của Bộ Giao thông

Vận tải và Bộ Nội vụ ngày 17/5/2007 hướng dẫn xếp hạng các đơn vị sự

nghiệp, dịch vụ công lập thuộc ngành giao thông vận tải đã phân cấp cho Chủ

tịch UBND cấp tỉnh quyết định xếp hạng các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công

lập do UBND cấp tỉnh và Sở giao thông vận tải quản lý;

Thông tư số 14/2007/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động thương binh và

xã hội ngày 30/08/2007 hướng dẫn xếp hạng trường cao đẳng nghề, trường

trung cấp nghề và trung tâm dạy nghề công lập đã phân cấp cho Chủ tịch

UBND cấp tỉnh quyết định công nhận hạng đối với các cơ sở dạy nghề thuộc

phạm vi quản lý của UBND cấp tỉnh;

42

Thông tư số 48/2008/TT-BGDĐT ngày 25/08/2008 hướng dẫn xếp

hạng và thực hiện chế độ phụ cấp chức vụ lãnh đạo của Trung tâm giáo dục

thường xuyên đã phân cấp Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định xếp hạng

Trung tâm giáo dục thường xuyên;

Thông tư liên tịch số 79/2009/TTLT-BNNPTNT-BNV của Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Nội vụ ngày 14 tháng 12 năm 2009

Hướng dẫn việc xếp hạng các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công lập thuộc ngành

nông nghiệp và phát triển nông thôn, đã phân cấp Chủ tịch Ủy ban nhân dân

cấp tỉnh quyết định xếp hạng các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công lập thuộc

ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn thuộc tỉnh quản lý;

Thông tư liên tịch số 02/2010/TTLT-BTP-BNV của Bộ Tư pháp và Bộ

Nội vụ ngày 11 tháng 02 năm 2010 hướng dẫn việc xếp hạng các đơn vị sự

nghiệp công lập thuộc ngành Tư pháp, đã phân cấp cho Chủ tịch UBND cấp

tỉnh quyết định xếp hạng đối với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, Phòng

Công chứng, Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản trực thuộc Sở Tư pháp.

Quy định thẩm quyền xếp hạng: Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định xếp hạng

các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản trực thuộc Cục Đăng ký quốc gia

giao dịch bảo đảm - Bộ Tư pháp; Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định xếp

hạng đối với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, Phòng Công chứng, Trung

tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản trực thuộc Sở Tư pháp;

Thông tư liên tịch Số: 16/2011/TTLT-BCT-BNV Của Bộ Công thương

và Bộ Nội vụ ngày 5 tháng 4 năm 2011 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế của trung tâm khuyến công vả tư vấn

phát triển công nghiệp trực thuộc Sở Công thương, đã phân cấp cho Ủy ban

nhân dân cấp tỉnh quyết định cơ cấu tổ chức và biên chế của Trung tâm.

43

2.1.2. Kết quả, hạn chế vướng mắc về quy định phân cấp quản lý nhà

nước giữa Trung ương và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực Tổ chức bộ máy

2.1.2.1. Kết quả

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về phân cấp quản lý tổ chức đã

tạo cơ sở pháp lý tương đối đầy đủ, cơ bản đối với việc phân cấp thẩm quyền

thành lập, sáp nhập, giải thể tổ chức bộ máy, cụ thể như sau:

Trên cơ sở quy định của Chính phủ, UBND các tỉnh đã tiến hành tổ

chức, sắp xếp lại các cơ quan chuyên môn theo Nghị định số 24/2014/NĐ-CP,

Nghị định số 37/2014/NĐ-CP. Đối với các tổ chức thuộc cơ cấu tổ chức của

các cơ quan chuyên môn ở cấp tỉnh, Bộ quản lý ngành và Bộ Nội vụ đã ban

hành các Thông tư liên tịch hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ

cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh; trong đó, có

phân cấp cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định cụ thể tên gọi, số lượng các

tổ chức thuộc cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn ở cấp tỉnh và lựa chọn

mô hình tổ chức (Phòng hoặc Chi cục) để tổ chức quản lý một số ngành, lĩnh

vực, bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương. Đối với các tổ chức

thuộc các ngành, lĩnh vực đã có quy hoạch mạng lưới được cấp có thẩm quyền

phê duyệt hoặc được tổ chức thống nhất theo hướng dẫn của Chính Phủ, về cơ

bản đã phân cấp cho UBND cấp tỉnh, cấp huyện quyết định theo thẩm quyền.

Nhìn chung, tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên môn từ cấp tỉnh đến cấp

huyện được kiện toàn, củng cố theo các quy định pháp luật, góp phần ổn định

hoạt động và tăng cường chủ động trong tham mưu, đề xuất cơ chế, chính sách

theo ngành, lĩnh vực, thúc đẩy kinh tế - xã hội của địa phương phát triển.

Căn cứ quy định của pháp luật về thành lập, sáp nhập, giải thể tổ chức

hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập, đến nay về cơ bản trong lĩnh vực tổ

chức bộ máy đã thực hiện phân cấp bảo đảm được các yêu cầu, nguyên tắc

phân cấp theo Nghị quyết 08/NĐ-CP của Chính phủ.

44

Đối với các cơ quan hành chính: trên cơ sở quy định của pháp luật đã

cụ thể hóa các tiêu chí, điều kiện và thông tư hướng dẫn để phân cấp cho

chính quyền địa phương quyết định thành lập, đảm bảo tính thống nhất, thông

suốt trong cả nước.

Thực hiện Thông tư liên tịch giữa Bộ Nội vụ và các Bộ, ngành trung

ương, UBND tỉnh đã quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các

cơ quan chuyên môn. Hầu hết các Sở đã tham mưu, giúp UBND cấp tỉnh thực

hiện tốt chức năng quản lý nhà nước, quản lý ngành, lĩnh vực được giao, đồng

thời thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ, quyền hạn theo ủy quyền hoặc

được phân cấp của UBND cấp tỉnh

Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập: Về tổ chức bộ máy ngoài những

tổ chức “cứng” theo quy định của Chính phủ, căn cứ vào hướng dẫn của

Trung ương, chính quyền cấp tỉnh có quyền căn cứ vào thực tế của địa

phương để quyết định thành lập hoặc giảm bớt những tổ chức giúp việc hoặc

các tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công khác, đồng thời đã từng bước phân loại

và sắp xếp phù hợp với quy hoạch mạng lưới tổ chức, cụ thể là:

Các đơn vị sự nghiệp có chức năng phục vụ quản lý nhà nước được quy

định trong cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh được thành

lập và được nhà nước bố trí ngân sách hoạt động thường xuyên.

Các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công lập khác được thành lập theo quy

hoạch trên cơ sở đáp ứng đủ các tiêu chí, điều kiện và do chính quyền địa

phương quyết định theo thẩm quyền.

Về điều kiện thành lập, điều kiện giải thể các đơn vị sự nghiệp được

quy định cụ thể góp phần thúc đẩy đơn vị sự nghiệp tự chủ hoạt động, khắc

phục tình trạng ỷ lại, dựa dẫm vào nhà nước của không ít các đơn vị sự

nghiệp công lập hiện nay. Đồng thời, từ yêu cầu xác định vị trí việc làm trong

đơn vị sự nghiệp, Chính phủ đã cụ thể hóa quy định về việc thành lập đơn vị

45

sự nghiệp công lập gắn với vị trí việc làm của người lao động. Điều này có ý

nghĩa rất lớn đối với việc cải cách tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng con

người gắn với vị trí công việc cụ thể, tránh tình trạng vừa thừa vừa thiếu

trong tổ chức bộ máy nhà nước nói chung và các đơn vị sự nghiệp nói riêng

như hiện nay.

Đối với việc phân loại, xếp hạng tổ chức Bộ Nội vụ đã phối hợp với các

Bộ quản lý ngành ban hành Thông tư hoặc thông tư liên tịch hướng dẫn về

phân loại, xếp hạng đối với các tổ chức hành chính sự nghiệp trong một số

ngành, lĩnh vực đã thể hiện các nội dung phân cấp cho chính quyền cấp tỉnh,

cụ thể như sau:

Thực hiện phân cấp trong việc phân loại, xếp hạng các tổ chức sự

nghiệp, dịch vụ công lập thuộc phạm vi quản lý của từng cấp tạo điều kiện:

Kiện toàn và tăng cường công tác quản lý đối với các tổ chức sự nghiệp, dịch

vụ công lập; khắc phục sự thiếu tính thống nhất về phân loại, xếp hạng và

khuynh hướng nâng hạng các tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công lập; Thực hiện

chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang,

trong đó phân loại, xếp hạng các tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công lập là một

căn cứ để quy định việc áp dụng chế độ phụ cấp chức vụ đối với cán bộ, công

chức lãnh đạo, quản lý của từng loại tổ chức theo các mức xếp hạng tương

ứng, bảo đảm sự thống nhất trong cả nước; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt

động của tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công lập trong từng ngành, lĩnh vực; đổi

mới phương thức đầu tư cho mỗi loại tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công lập

theo hệ thống phân loại, xếp hạng.

Một số tổ chức đơn vị sự nghiệp công lập đã được quy định rõ ràng về

cơ quan quản lý, như: Thông tư liên tịch số 51/2015/TTLT-BYT-BNV hướng

dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Y tế thuộc Ủy

ban nhân dân cấp tỉnh và Thông tư liên tịch số 11/2015/TTLT-BGDĐT-BNV

46

Hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở

Giáo dục và Đào tạo thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, đã quy định rõ

ràng:Trường Cao đẳng hoặc Trung cấp y tế thuộc trực thuộc Sở Y tế; còn các

Trường cao đẳng sư phạm; trường trung cấp sư phạm… trực thuộc Sở Giáo

dục và Đào tạo. (Trước khi hai Thông tư trên được ban hành, theo Thông tư

liên tịch số 03/2008/TTLT-BYT-BNV của Bộ Y tế - Bộ Nội vụ hướng dẫn

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Y tế, Phòng Y tế

thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện, thì Trường Cao đẳng Y tế trực thuộc Sở Y

tế. Trong khi Thông tư liên tịch số 47/2011/TTLT-BGDĐT-BNV của Bộ

Giáo dục và Đào tạo - Bộ Nội vụ lại quy định các trường cao đẳng trực thuộc

Sở Giáo dục và Đào tạo).

2.1.2.2. Hạn chế, vướng mắc

Thứ nhất, hệ thống chính sách, pháp luật còn thiếu đồng bộ và chưa cụ

thể bởi nhiều việc đã phân cấp cho chính quyền địa phương nhưng cơ chế,

chính sách chưa đủ rõ: việc tổ chức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công

lập; phân cấp cho chính quyền cấp tỉnh được sắp xếp, tổ chức lại và bố trí

định biên cho các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công.

Thứ hai, hiện nay, vẫn còn một số ngành, lĩnh vực chưa có hướng dẫn

phân cấp, xếp hạng các tổ chức sự nghiệp công lập, gây khó khăn cho địa

phương trong việc quyết định mức phụ cấp chức vụ lãnh đạo, quản lý tại các

đơn vị sự nghiệp công lập.

Thứ ba, đối với các tổ chức sự nghiệp công lập tự trang trải kinh phí,

theo phân cấp hiện nay, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp huyện quyết định thành

lập theo quy hoạch mạng lưới tổ chức các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc

ngành, lĩnh vực. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Cán bộ, công chức thì có

một số chức danh lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp thuộc biên chế công

chức. Vì vậy, để đồng bộ với các quy định về quản lý biên chế, công tác quản

lý tổ chức bộ máy cần điều chỉnh cho phù hợp.

47

Thứ tư, đối với việc phân loại đơn vị sự nghiệp công lập: Luật quản lý

và sử dụng tài sản nhà nước và Nghị định 52/2009/NĐ-CP xác định các loại

hình ĐVSNCL gồm: đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính, đơn vị sự

nghiệp công lập chưa tự chủ tài chính (khoản 1, điều 37, Nghị định

52/2009/NĐ-CP); Luật Viên chức và Nghị định số 55/2012/NĐ-CP xác định

các loại hình ĐVSNCL gồm:

Đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ (Đơn vị

sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện

nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự) và đơn vị sự nghiệp

công lập chưa được giao quyền tự chủ (Đơn vị sự nghiệp công lập

chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài

chính, tổ chức bộ máy, nhân sự) [56, Điều 9].

Như vậy là giữa các văn bản pháp luật hiện hành đã đưa ra nhiều cách

thức phân loại ĐVSNCL, dẫn đến sự thiếu thống nhất và khó khăn trong việc

thực hiện.

Thứ năm, việc thành lập và quy định cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn của Thanh tra Ban quản lý các khu kinh tế, Khu công nghiệp

gặp nhiều khó khăn vì Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của

Chính phủ chưa quy định cụ thể cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn của Thanh tra Ban quản lý các khu kinh tế, Khu công nghiệp. Luật Thanh

tra năm 2010 cũng không quy định Ban Quản lý các khu kinh tế, khu công

nghiệp có tổ chức thanh tra.

Thứ sáu, việc thành lập các đơn vị sự nghiệp công lập: Theo quy định

tại mục 5, phần 3 Nghị quyết 08/2004/NQ-CP thì chính quyền cấp tỉnh được

quyền “quyết định thành lập và quản lý các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công

trên địa bàn như: giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, văn hóa, thể dục thể

thao, dịch vụ công ích vệ sinh, môi trường, nước sạch....”. Tuy nhiên, theo

48

quy định tại khoản 2, Điều 17 Nghị định số 55/2012/NĐ-CP ngày 28/6/2012

của Chính phủ quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp

công lập thì thẩm quyền quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự

nghiệp công lập thuộc UBND cấp tỉnh là thuộc thẩm quyền của Thủ tướng

Chính phủ.

Thứ bảy, nghị định số 24/2014/NĐ-CP, Nghị định số 37/2014/NĐ-CP

được ban hành từ năm 2014, tuy nhiên, Thông tư liên tịch hướng dẫn thực

hiện của các bộ, ngành lĩnh vực ban hành còn chậm nên ảnh hưởng đến tiến

độ triển khai, thực hiện các Nghị định trên.

Thứ tám, một số nội dung còn chưa có sự thống nhất giữa Nghị định và

các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan:

Về việc thành lập tổ chức “Thanh tra” trong cơ quan chuyên môn thuộc

Ủy ban nhân dân tỉnh:

Tại Điều 5 của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP quy định: Cơ cấu tổ chức

của sở thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh gồm có: 1. Văn phòng. 2. Thanh tra.

3. Phòng chuyên môn, nghiệp vụ. 4. Chi cục. 5. Đơn vị sự nghiệp công lập.

Không nhất thiết các sở đều có các tổ chức quy định tại Khoản 2, 4 và 5 của

Điều này… Như vậy, theo quy định trên, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy

ban nhân dân tỉnh không nhất thiết phải có tổ chức “Thanh tra” trong cơ cấu

tổ chức bộ máy.[

Tuy nhiên, theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010: “Thanh tra sở

được thành lập ở những sở thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ủy

quyền của Ủy ban nhân dân cùng cấp hoặc theo quy định của pháp luật.”

Đồng thời tại một số Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện Nghị định số

24/2014/NĐ-CP của một số bộ như Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT-

BNNPTNT-BNV ngày 25/3/2015 của Bộ NN&PTNT và Bộ Nội vụ; TTLT số

11/2015/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 29/5/2015 của Bộ Giáo dục à Đào tạo và

Bộ Nội vụ; TTLT số 23/2014/TTLT-BTP-BNV ngày 22/12/2014 của Bộ tư

49

pháp và Bộ Nội vụ cũng quy định cứng có tổ chức “Thanh tra sở” trong cơ

cấu tổ chức bộ máy.

Về thẩm quyền thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể các tổ chức, đơn

vị thuộc sở:

Tại Nghị định số 24/2014/NĐ-CP quy định: “Trình Chủ tịch Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh: a) Dự thảo quyết định thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể các

tổ chức, đơn vị của sở theo quy định của pháp luật;…” [30, Điều 4, Khoản 2].

Theo đó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh có thẩm quyền quyết định thành lập,

sáp nhập, chia tách, giải thể các tổ chức, đơn vị của sở.

Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2, Điều 2 Nghị định số 55/2015/NĐ-

CP ngày 28/6/2012 của Chính phủ quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể

đơn vị sự nghiệp công lập quy định thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:

…. Quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập,

gồm: a) Đơn vị sự nghiệp công lập thuộc cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban

nhân dân cấp tỉnh theo hướng dẫn của Bộ quản lý ngành và của Bộ Nội vụ; b)

Đơn vị sự nghiệp công lập khác thuộc cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh theo quy định của luật chuyên ngành;… .

Như vậy, các quy định trên còn chưa có sự thống nhất giữa Nghị định

số 24/2014/NĐ-CP và Nghị định số 55/2015/NĐ-CP về thẩm quyền của Ủy

ban nhân dân tỉnh / Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh trong việc thành lập, sáp

nhập, chia tách, giải thể các tổ chức, đơn vị của sở.

Về thẩm quyền quy định về cơ cấu tổ chức của các đơn vị thuộc, trực

thuộc sở: Tại Khoản 11, Điều 4 Nghị định số 24/2014/NĐ-CP chỉ quy định

thẩm quyền của sở: “Quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của

văn phòng, phòng chuyên môn nghiệp vụ, chi cục và đơn vị sự nghiệp công

lập thuộc sở…” [29, Điều 4]. Trong nội dung Nghị định số 24/2014/NĐ-CP

vẫn chưa quy định rõ thẩm quyền quy định về cơ cấu tổ chức của các đơn vị

50

thuộc, trực thuộc sở. Các Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện Nghị định số

24/2014/NĐ-CP cơ bản đều không quy định rõ thẩm quyền này; chỉ có Thông

tư số 15/2014/TT-BNV ngày 31/10/2014 của Bộ nội vụ có quy định rõ:

“Giám đốc Sở Nội vụ có trách nhiệm ban hành văn bản quy định cụ thể chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan, đơn vị thuộc,

trực thuộc Sở Nội vụ”. Do đó, cần có sự thống nhất về thẩm quyền “Quy định

cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các đơn vị

thuộc, trực thuộc sở”.

Về tư cách pháp nhân của các phòng chuyên môn thuộc Ủy ban nhân

dân cấp huyện: Hiện nay, các Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện Nghị

định số 37/2014/NĐ-CP của Bộ Nội vụ và các bộ, ngành còn chưa có sự

thống nhất về nội dung quy định tư cách pháp nhân của các phòng chuyên

môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện. Đa số các phòng được quy định tư

cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản. Tuy nhiên, có một số phòng không

được quy định về nội dung này như: Phòng Tư pháp, Phòng Nội vụ, Phòng Y

tế; do đó, dẫn đến sự không thống nhất trong quy định và trên thực tiễn hoạt

động các phòng vẫn cần có tư cách pháp nhân, con dấu để hoạt động

2.2. Thực trạng sự điều chỉnh của pháp luật về phân cấp giữa trung

ƣơng và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực cán bộ, công chức

2.2.1. Các quy định về phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung ương

và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực lĩnh vực cán bộ, công chức

2.2.1.1. Các văn bản quy định về cán bộ, công chức

Luật Cán bộ, công chức số 22/2008/QH12, Quốc hội ban hành ngày 13

tháng 11 năm 2008;

Nghị định số 92/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22 tháng 10 năm

2009, Về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ,

công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã;

51

Nghị định số 21/2010/NĐ-CP ngày 08 tháng 03 năm 2010 của Chính

phủ, Về quản lý biên chế công chức;

Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 03 năm 2010 của Chính

phủ Quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức;

Nghị định số 93/2010/NĐ-CP ngày 31 tháng 08 năm 2010 của Chính

phủ Về sửa đổi một số điều của Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/03/2010

quy định của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức;

Nghị định số 112/2011/NĐ-CP ngày 05 tháng 12 năm 2011 của Chính

phủ Về Công chức xã, phường, thị trấn;

Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/04/2012 của Chính phủ về tuyển

dụng, sử dụng và quản lý viên chức.

Nghị định số 36/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 04 năm 2013 của Chính

phủ Về vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức;

Nghị định số 24/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định tổ chức các cơ

quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương ban hành ngày 04 tháng 04 năm 2014;

Thông tư số 19/2001/TT-BTCCBCP ngày 25 tháng 4 năm 2001 của

Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ, hướng dẫn Nghị định số: 71/2000/NĐ-CP

của Chính phủ Quy định việc kéo dài thời gian công tác của cán bộ, công

chức đến tuổi nghỉ hưu;

Thông tư số 13/2010/TT-BNV ngày 30 tháng 12 năm 2010 của Bộ Nội

vụ quy định chi tiết một số điều về tuyển dụng và nâng ngạch công chức của

Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ quy

định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức;

Ngoài ra, còn hệ thống các Nghị định, Thông tư và quyết định các hoạt

động quản lý cán bộ, công chức như: quản lý biên chế, tuyển dụng, đào tạo,

bồi dưỡng, đánh giá, thi đua, khen thưởng…

52

2.2.1.2. Nội dung quy định phân cấp quản lý cán bộ, công chức

* Phân cấp trong tuyển dụng cán bộ, công chức

Cơ sở pháp lý:

Luật CBCC ngày 13 tháng 11 năm 2008;

Nghị định số 71/2003/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2003 của Chính

phủ về phân cấp quản lý biên chế hành chính, sự nghiệp nhà nước;

Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ

quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý CC và Nghị định 93/2010/NĐ-CP

ngày 31 tháng 8 năm 2010 của Chính phủ sửa đổi một số điều của Nghị định

số 24/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ quy định về

tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức;

Nghị định số 36/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 4 năm 2013 của Chính

phủ về vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức

….

Theo quy định của pháp luật: Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc

Chính phủ tuyển dụng và phân cấp tuyển dụng công chức trong cơ quan, tổ

chức, đơn vị thuộc quyền quản lý; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tuyển dụng và

phân cấp tuyển dụng công chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc quyền

quản lý. Việc phân cấp tuyển dụng CBCC được xem xét trên các nội dung

sau: phân cấp xác định và quản lý biên chế; phân cấp trong xác định điều kiện

tuyển dụng; phân cấp trong tổ chức tuyển dụng:

Việc phân cấp trong xác định và quản lý biên chế

Trên cơ sở đó, các bộ, ngành, địa phương xây dựng đề án tinh giảm

biên chế của bộ, ngành, địa phương mình. Ngoài ra, các Sở Nội vụ không

có quyền chủ động quyết định biên chế khi nhu cầu thực tế đòi hỏi đồng

thời không đề cao trách nhiệm của các cơ quan này trong quản lý và sử

dụng biên chế.

53

Phân cấp trong xác định điều kiện tuyển dụng

Điều kiện đăng ký dự tuyển CBCC thường được ghi nhận trong các văn

bản có giá trị pháp lý cao về CBCC. Như vậy thẩm quyền xác định điều kiện

tuyển dụng CBCC thuộc về Quốc hội, thể hiện cụ thể qua Luật CBCC năm

2008. Trong đó Luật đã xác định những điều kiện chung, “cứng” để một

người có thể nộp đơn xin dự tuyển CBCC. Bộ Nội vụ ban hành các quy định

về chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ của ngạch công chức.

Tuy nhiên, để dự tuyển vào các vị trí cụ thể của từng ngành trong cơ

quan hành chính, ứng viên ngoài đáp ứng những yêu cầu chung về ngạch ứng

viên còn phải các đáp ứng các điều kiện riêng của từng ngành và điều kiện

của địa phương trên cơ sở các đơn vị sử dụng có trách nhiệm, mô tả vị trí việc

làm. Nhiều địa phương như UBND tỉnh Bắc Giang, Bình Dương, Đà Nẵng …

đã ban hành quy định về trình tự, thủ tục tuyển dụng CBCC để phù hợp với

điều kiện thực tế của từng địa phương.

Phân cấp trong tổ chức tuyển dụng

Theo quy định tại Điều 39, Luật CBCC năm 2008 quy định:

Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ tuyển

dụng và phân cấp tuyển dụng CC trong cơ quan, tổ chức,đơn vị

thuộc quyền quản lý. UBND cấp tỉnh tuyển dụng và phân cấp

tuyển dụng CC trong cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc quyền

quản lý [56, Điều 39].

Ở địa phương, nhiều tỉnh tổ chức tuyển dụng CBCC trong các cơ quan

chuyên môn thuộc UBND tỉnh. Ở các tỉnh đó, Phó Chủ tịch thường trực Hội

đồng tuyển dụng sẽ là giám đốc Sở Nội vụ. Ví dụ: Bắc Giang…

- Phân cấp trong sử dụng CBCC

Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động phân cấp sử dụng CBCC

54

Luật CBCC năm 2008;

Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ

quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức và Nghị định

93/2010/NĐ-CP ngày 31 tháng 8 năm 2010 của Chính phủ sửa đổi một số

điều của Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2010 của Chính

phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức;

Nghị định số 36/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 4 năm 2013 của Chính

phủ về vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức;

Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 của Chính

phủ về đánh giá và phân loại CBCC, viên chức;

Quyết định số 27/2003/QĐ-TTg ngày 19 tháng 2 năm 2003 của Thủ

tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế Bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân

chuẩn, từ chức, miễn nhiệm CBCC lãnh đạo

Và hệ thống các văn bản do UBDN cấp tỉnh ban hành có nội dung điều

chỉnh về hoạt động sử dụng CBCC.

Nghị định số 24/2010/NĐ-CP xác định nội dung sử dụng công chức

gồm các mục: bố trí, phân công công tác và chuyển ngạch công chức; nâng

ngạch công chức, điều động, luân chuyển, biểu phái công chức, bổ nhiệm, bổ

nhiệm lại, từ chức, miễm nhiệm công chức, đánh giá công chức

Phân cấp trong bố trí, phân công công tác và chuyển ngạch CBCC:

Hiện nay, việc phân cấp trong bố trí, sắp xếp CBCC trong cơ quan hành

chính đã cơ bản hợp lý. Việc chuyển ngạch CBCC được thực hiện khi CBCC

thay đổi vị trí việc làm hoặc theo quy định phải chuyển đổi vị trí công tác mà

ngạch CBCC đang giữ không phù hợp với yêu cầu ngạch CBCC của vị trí

việc làm mới. CBCC chuyển ngạch phải đáp ứng tiêu chuẩn chuyên môn

nghiệp vụ của ngạch được chuyển. Người đứng đầu CQHC đã căn cứ quy

định tại Điều 43 Luật CBCC quyết định chuyển ngạch CBCC theo thẩm

55

quyền được giao nhưng khi chuyển ngạch không được kết hợp nâng ngạch,

nâng bậc lương. Hiện nay, việc chuyển ngạch CBCC trong các cơ quan hành

chính thực hiện đúng theo quy định và đúng thẩm quyền.

Phân cấp trong ngạch công chức:

Theo quy định hiện hành thẩm quyền các cơ quan, đơn vị trong thi

nâng ngạch công chức như sau:

Cơ quan quản lý công chức tổng hợp danh sách công chức có đủ tiêu

chuẩn, điều kiện đăng ký dự thi nâng ngạch, có văn bản gửi cơ quan tổ chức

thi nâng ngạch theo quy định và chịu trách nhiệm về các tiêu chuẩn, điều kiện

của công chức dự thi nâng ngạch. Riêng đối với kỳ thi nâng ngạch chuyên

viên cao cấp hoặc tương đương, cơ quan quản lý công chức phải gửi hồ sơ

đăng ký dự thi của từng công chức để cơ quan tổ chức thi nâng ngạch thẩm

định và quản lý [21].

Bộ Nội vụ chủ trì tổ chức thi nâng ngạch công chức từ ngạch chuyên

viên và tương đương lên ngạch chuyên viên chính và tương đương; từ ngạch

chuyên viên chính và tương đương lên ngạch chuyên viên cao cấp và tương

đương trong các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước; [21].

Đối với việc nâng ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương, căn cứ kết quả

kỳ thi nâng ngạch, Bộ Nội vụ ra quyết định bổ nhiệm ngạch và xếp lương cho

công chức trúng tuyển theo quy định.

UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Hội đồng thi

nâng ngạch công chức từ ngạch nhân viên lên ngạch cán sự và tương đương;

từ ngạch nhân viên, cán sự và tương đương lên ngạch chuyên viên và tương

đương đối với công chức thuộc phạm vi quản lý. Nghiên cứu Quyết định phân

cấp về quản lý công chức của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,

chúng tôi thấy Sở Nội vụ cấp tỉnh thường có thẩm quyền trong thi nâng ngạch

công chức thuộc thẩm quyền cấp tỉnh như sau:

Trình UBND tỉnh ban hành kế hoạch thi nâng ngạch công chức của

56

tỉnh; trình Chủ tịch UBND tỉnh thành lập hội đồng thi nâng ngạch, tổ chức thi

tuyển, phê duyệt kết quả thi nâng ngạch công chức của tỉnh.

Căn cứ vào kết quả thi nâng ngạch công chức được Chủ tịch UBND tỉnh

phê duyệt, ban hành quyết định bổ nhiệm ngạch cho công chức trúng tuyển.

Như vậy, việc phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ

quan có thẩm quyền trong thi nâng ngạch như hiện nay khá rõ ràng, không có

sự chồng chéo, trùng lắp với hai hình thức phân định thẩm quyền là tập trung

và ủy quyền. Việc tổ chức thi nâng ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh là thực

hiện theo quy định của Luật CBCC nhằm lừa chọn được người đủ trình độ,

năng lực để bố trí vào các vị trí cao hơn trong nền công vụ. Như vậy, những

người được bổ nhiệm vào các vị trí cao hơn trong nền công vụ sau mỗi kỳ thi

đều phải là những người được tuyển chọn có trình độ, năng lực cao hơn

Phân cấp trong điều động, luân chuyển, biệt phái CBCC:

Theo quy định hiện nay, việc điều động CBCC được thực hiện trong

các trường hợp sau đây: “1. Theo yêu cầu nhiệm vụ cụ thể, 2. Chuyển đổi vị

trí công tác theo quy định của pháp luật; 3. Theo quy hoạch, kế hoạch sử

dụng CBCC trong cơ quan, tổ chức, đơn vị và giữa các cơ quan, tổ chức, đơn

vị theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền” [56, Điều 26, 50].

Việc luân chuyển công chức chỉ thực hiện đối với công chức giữa chức

vụ lãnh đạo, quản lý và trong quy hoạch vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý

cao hơn. Các trường hợp thực hiện việc luân chuyển công chức: “1. Theo yêu

cầu nhiệm vụ, quy hoạch, kế hoạch sử dụng công chức của cơ quan, tổ chức,

đơn vị; 2. Luân chuyển giữa Trung ương và địa phương, giữa các ngành, các

lĩnh vực theo quy hoạch nhằm tiếp tục rèn luyện, ĐTBD công chức lãnh đạo,

quản lý” [56, Điều 52].

Việc biệt phái công chức được thực hiện trong các trường hợp sau đây:

“1. Theo nhiệm vụ đột xuất, cấp bách; 2. Để thực hiện công việc chỉ cần giải

quyết trong một thời gian nhất định” [56, Điều 53]

57

Thẩm quyền điều động, biệt phái, luân chuyển công chức: người đứng

đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị được phân công, phân cấp quản lý công chức.

Hiện nay, các Bộ có thẩm quyền điều động, luân chuyển, biệt phái công

chức trong thẩm quyền quản lý của Bộ; UBND cấp tỉnh quyết định tiếp nhận,

điều động, biệt phái, luân chuyển đối với các đối tượng sau đây: Giám đốc

Sở, Phó Giám đốc Sở sau khi có ý kiến bằng văn bản của Ban cán sự Đảng

UBND cấp tỉnh. Như vậy thẩm quyền điều động, luân chuyển, biệt phải công

chức được gắn với cơ quan trực tiếp sử dụng công chức. Quy định như vậy

góp phần nâng cao hiệu quả sửa dụng công chức giúp cơ quan trực tiếp sử

dụng công chức chủ động trong việc bố trí, sắp xếp công chức theo nhu cầu

công việc và theo năng lực, sở trường của công chức.

Phân cấp trong bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, từ chức, miễn nhiệm CBCC:

Hiện nay việc bổ nhiệm CBCC được thực hiện dưới 2 hình thức bổ

nhiệm lần đầu và bổ nhiệm lại

Việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, từ chức, miễn nhiệm CBCC phải tuân thủ

một số nguyên tắc, trong đó có hai nguyên tắc liên quan đế phân cấp quản lý

CBCC cụ thể như sau:

Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ.

Các cấp ủy Đảng từ cơ sở trở lên trực tiếp lãnh đạo công tác bổ nhiệm, miễn

nhiệm công chức lãnh đạo.

Cấp nào có thẩm quyền bổ nhiệm thì cũng có thẩm quyền quyết định bổ

nhiệm lại, miễn nhiệm hoặc chấp nhận đơn từ chức của công chức lãnh đạo.

Nội dung cụ thể của phân cấp quản lý trong bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, từ

chức, miễn nhiệm thể hiện rõ trong thẩm quyền quyết định bổ nhiệm. Theo quy

định của pháp luật hiện hành: Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền quyết định bổ

nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thứ trưởng các Bộ; Bộ trưởng các bộ có thẩm

quyền “trình Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thứ trưởng;

58

Quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức người đứng đầu, cấp phó của người

đứng đầu các tổ chức, đơn vị thuộc cơ cấu của Bộ” [26]; Chủ tịch UBND cấp tỉnh

có thẩm quyền quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Giám đốc Sở, Phó

giám đốc Sở sau khi có thông báo của Ban thường vụ Tỉnh ủy.

Việc quy định thẩm quyền của các chủ thể trong bổ nhiệm, miễn

nhiệm, từ chức khá rõ ràng là hành lang pháp lý đầy đủ để việc bổ nhiệm, bổ

nhiệm lại, từ chức, miễn nhiệm CBCC trong cơ quan hành chính thực hiện.

Theo tinh thần phân cấp mạnh cho địa phương đã xóa bỏ cơ chế thỏa thuận

giữa Bộ và đề cao trách nhiệm cá nhân của Chủ tịch UBND cấp tỉnh trong

việc bổ nhiệm CBCC thuộc thẩm quyền quản lý của mình. Tuy nhiên, với cơ

chế phân cấp như thế này đơn vị trực tiếp sử dụng CBCC sẽ bị động, việc bổ

nhiệm CBCC phần lớn phụ thuộc vào cơ quan tổ chức có thẩm quyền, cấp

có thẩm quyền.

Phân cấp trong đánh giá CBCC:

Xem xét phân cấp đánh giá CBCC, chúng ta xem xét trên các khía

cạnh: thẩm quyền xác định nội dung đánh giá; thẩm quyền xác định tiêu chí

phân loại đánh giá; thẩm quyền tổ chức và quyết định kết quả đánh giá.

Thứ nhất, thẩm quyền xác định nội dung đánh giá

Việc xác định nội dung đánh giá được ghi nhận tại Khoản 1 và 2 Điều

56 Luật CBCC. Theo đó, nội dung đánh giá công chức được xác định cụ thể

như sau:

a) Chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và

pháp luật của Nhà nước; b) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống,

tác phong và lề lối làm việc; c) Năng lực, trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ; d) Tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ; đ) Tinh thần

trách nhiệm và phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ; e) Thái độ phục

vụ nhân dân [56, Điều 56].

Ngoài ra, đối với công chức lãnh đạo, quản lý còn được đánh giá theo

59

các nội dung sau đấy: “a) Kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị

được giao lãnh đạo, quản lý; b) Năng lực lãnh đạo, quản lý; c) Năng lực tập

hợp, đoàn kết công chức” [56, Điều 56]

Thứ hai, thẩm quyền tổ chức và quyết định kết quả đánh giá

Mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày

09 tháng 6 năm 2015 của Chính phủ về đánh giá và phân loại CBCC, viên

chức, trong đó có những quy định cụ thể về nguyên tắc đánh giá, trình tự, thủ

tục đánh giá, căn cứ đánh giá, thời điểm đánh giá, nội dung đánh giá. Điểm

mới của Nghị định này là quy định rõ về thẩm quyền đánh giá, tiêu chí phân

loại. Theo đó,

1. Người đứng đầu trực tiếp đánh giá, phân loại đối với cấp

phó của người đứng đầu và công chức thuộc quyền quản lý của

mình, chịu trách nhiệm về kết quả đánh giá, phân loại; 2. Việc đánh

giá người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị do người đứng đầu cơ

quan cấp trên quản lý trực tiếp thực hiện và chịu trách nhiệm về kết

quả đánh giá, phân loại [35, Điều 16].

Như vậy việc phân định thẩm quyền trong việc đánh giá công chức đã

rất rõ ràng. Việc quy định rõ và gắn trách nhiệm rõ ràng cho các chủ thể tham

gia trong đánh giá công chức góp phần giúp kết quả đánh giá chính xác,

khách quan hơn vì đề cao được trách nhiệm cá nhân.

Thứ ba, thẩm quyền xác định tiêu chí phân loại đánh giá CBCC

Thẩm quyền xác định tiêu chí phân loại đánh giá CBCC thuộc Chính

phủ để đảm bảo tính thống nhất trong đánh giá CBCC. Chính phủ đã quy định

khá rõ tiêu chí phân loại đánh giá CBCC với 4 mức độ. Tuy nhiên, tiêu chí

đánh giá ở cả 4 mức độ vẫn còn chung chung chưa phù hợp với đặc thù từng

ngành, từng vị trí công việc.

* Phân cấp trong quản lý đào tạo, bồi dưỡng CBCC:

Cơ sở pháp lý điều chỉnh phân cấp đào tạo, bồi dưỡng CBCC

60

Luật CBCC năm 2008;

Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 5/3/2010 của Chính phủ về Đào

tạo, bồi dưỡng CC

...

Thực trạng phân cấp trong quản lý đào tạo, bồi dưỡng CBCC:

Theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật thì thẩm quyền phân

định trong hoạt động QLNN đối với ĐTBD CBCC tương đối rõ ràng, điều

này được thể hiện ở:

Bộ Nội vụ:

1. Xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành

theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật, chế độ, chính sách

về đào tạo, bồi dưỡng công chức; 2. Xây dựng chiến lược, quy

hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức trình cấp có thẩm

quyền phê duyệt hoặc ban hành theo thẩm quyền; tổ chức, hướng dẫn

thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng sau khi

được ban hành; theo dõi, tổng hợp kết quả đào tạo, bồi dưỡng công

chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy

ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; 3. Xây dựng kế

hoạch và tổ chức bồi dưỡng công chức ở ngoài nước theo thẩm

quyền; 4. Tổng hợp nhu cầu, đề xuất kinh phí đào tạo, bồi dưỡng

hàng năm, trung hạn, dài hạn; hướng dẫn các Bộ, cơ quan ngang Bộ,

cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực

thuộc Trung ương thực hiện sau khi được Chính phủ phê duyệt; 5.

Quản lý chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức,

chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo,

quản lý; 6. Quy định tiêu chuẩn cơ sở đào tạo, bồi dưỡng; 7. Thanh

tra, kiểm tra hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức; 8. Tổ chức các

61

hoạt động thi đua, khen thưởng trong đào tạo, bồi dưỡng công chức;

9. Hướng dẫn việc tổ chức bồi dưỡng công chức ở ngoài nước bằng

nguồn ngân sách nhà nước [19, Điều 25].

UBND cấp tỉnh:

1. Xây dựng, ban hành chế độ khuyến khích công chức

không ngừng học tập nâng cao trình độ, năng lực công tác; bố trí

kinh phí bảo đảm hoạt động đào tạo, bồi dưỡng; 2. Xây dựng, ban

hành và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng

thuộc phạm vi quản lý; 3. Tổ chức thực hiện chế độ đào tạo, bồi

dưỡng theo quy định; báo cáo kết quả hoạt động đào tạo, bồi dưỡng

công chức hàng năm để Bộ Nội vụ theo dõi, tổng hợp; 4. Tổ chức

quản lý và biên soạn chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng trong

phạm vi trách nhiệm được giao; 5. Quản lý cơ sở đào tạo, bồi

dưỡng và đội ngũ giảng viên trong phạm vi thẩm quyền; 6. Thanh

tra, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng

trong phạm vi thẩm quyền [19, Điều 28].

Việc phân định thẩm quyền QLNN đã tạo sự thống nhất trong phạm vi

cả nước đối với công tác ĐTBD CBCC, tránh sự chồng chéo, cắt khúc. Công

tác ĐTBD được tổ chức kết hợp cơ chế phân cấp và cơ chế cạnh tranh nhằm

đảm bảo tính hiệu quả và nâng cao chất lượng ĐTBD CBCC.

* Phân cấp quản lý trong công tác khen thưởng, kỷ luật CBCC:

Cơ sở pháp lý điều chỉnh phân cấp trong công tác khen thưởng, kỷ

luật CBCC:

Luật Thi đua khen thưởng năm 2005;

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng

năm 2013;

Nghị định 42/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ

62

về việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng

và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng;

Nghị định số 39/2012/NĐ-CP ngày 27 tháng 4 năm 2012 của Chính

phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15

tháng 4 năm 2010 của Chính phủ về việc quy định chi tiết thi hành một số

điều của Luật Thi đua, khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của

Luật Thi đua, khen thưởng;

Nghị định số 65/2014/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2014 của Chính

phủ về quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật

Thi đua, khen thưởng năm 2013;

...

Như vậy, có thể thấy về vấn đề quy định phân cấp trong quản lý thi

đua, khen thưởng, kỷ luật có khung pháp lý tương đối đầy đủ được thể

hiện ở chỗ:

Thẩm quyền quản lý về khen thưởng CBCC: Chính phủ, Bộ Nội vụ;

UBND cấp tỉnh

Thẩm quyền quyết định, trao tặng các danh hiệu cho CBCC: Chủ tịch

nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; Bộ trưởng; Chủ tịch UBND cấp tỉnh

Công tác khen thưởng đối với CBCC trong các cơ quan hành chính

được thực hiện đúng quy định của pháp luật và thẩm quyền được giao của các

chủ thể. Việc khen thưởng kịp thời, đúng đối tượng nên đã động viên, khuyến

khích CBCC nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Về phân cấp trong xử lý kỷ luật CBCC:

Luật CBCC năm 2008

Nghị định 34/2011/NĐ-CP quy định về xử lý kỷ luật đối với CBCC

Theo quy định hiện hành thẩm quyền xử lý CC như sau:

1. Đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, người

63

đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền bổ nhiệm tiến hành

xử lý kỷ luật và quyết định hình thức kỷ luật; 2. Đối với công chức

không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cơ quan quản

lý hoặc người đứng đầu cơ quan được phân cấp quản lý công chức

tiến hành xử lý kỷ luật và quyết định hình thức kỷ luật; 3. Đối với

công chức biệt phái, người đứng đầu cơ quan nơi công chức được cử

đến biệt phái tiến hành xử lý kỷ luật, quyết định hình thức kỷ luật và

gửi hồ sơ, quyết định kỷ luật về cơ quan quản lý công chức biệt phái;

4. Đối với công chức đã chuyển công tác mới phát hiện có hành vi vi

phạm pháp luật mà còn trong thời hiệu quy định, thì người đứng đầu

cơ quan quản lý công chức trước đây tiến hành xử lý kỷ luật, quyết

định hình thức kỷ luật và gửi hồ sơ, quyết định kỷ luật về cơ quan

đang quản lý công chức. Nếu cơ quan, tổ chức, đơn vị trước đây đã

giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách thì những người có trách

nhiệm liên quan phải bàn giao hồ sơ để cơ quan đang quản lý công

chức thực hiện việc xử lý kỷ luật [24, Điều 15].

Theo quy định, người đứng đầu cơ quan sử dụng công chức chịu trách

nhiệm tổ chức cuộc họp để công chức có hành vi vi phạm pháp luật tự kiểm

điểm và nhận hình thức kỷ luật. Trường hợp người đứng đầu hoặc cấp phó

của người đứng đầu có hành vi vi phạm pháp luật thì người đứng đầu cơ quan

cấp trên của cơ quan sử dụng công chức có trách nhiệm tổ chức họp kiểm

điểm và quyết định thành phần dự họp.

Như vậy, thẩm quyền xử lý kỷ luật đối với công chức trong cơ quan

hành chính nhà nước có sự khác biệt giữa việc xử lý kỷ luật công chức lãnh

đạo và công chức không giữ chức vụ lãnh đạo.

Đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo trong hệ thống CQHC:

Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định kỷ luật đối với công chức

lãnh đạo do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm.

64

Bộ trưởng xem xét, quyết định kỷ luật đối với công chức lãnh đạo do

Bộ trưởng bổ nhiệm.

Chủ tịch UBND các cấp xem xét, quyết định kỷ luật đối với công chức

do Chủ tịch UBND các cấp bổ nhiệm

Đối với các đối tượng công chức lãnh đạo khác, căn cứ vào phân cấp

quản lý thì công chức giữ chức vụ thuộc cấp nào bổ nhiệm thì người đứng đầu

cấp đó sẽ xét, quyết định các hình thức kỷ luật.

Việc phân định rõ ràng thẩm quyền xử lý kỷ luật công chức của các chủ

thể quản lý công chức giúp việc xử lý kỷ luật công chức được thực hiện

nghiêm túc, đúng quy trình, thủ tục, đúng thẩm quyền

2.2.2. Kết quả, hạn chế và vướng mắc trong quy định phân cấp quản

lý cán bộ công chức

2.2.2.1. Kết quả

Với khung pháp lý tương đối đầy đủ, quá trình phân cấp quản lý CBCC

ở nước ta trong thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng kể. Từ chỗ

quản lý theo xu hướng tập trung, trong bối cảnh cải cách hành chính, việc

phân cấp quản lý CBCC đã được thực hiện với những bước tiến về chất trong

phân cấp quản lý. Nhờ đó, số lượng CBCC tuy chưa giảm tới số cần thiết

song cũng đã giảm đi nhiều. Chất lượng CBCC qua đào tào, bồi dưỡng đã

được nâng cao đáng kể về nhận thức, kỹ năng công vụ phù hợp với các yêu

cầu xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, yêu cầu phát triển

kinh tế thị trường định hướng XHCN và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Nghị định số 24/2010/NĐ-CP,... đã

phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan, từng cấp giữa trung

ương và địa phương.

Việc phân cấp được tiến hành toàn diện trên các mặt: biên chế, tuyển

65

dụng, đào tạo bồi dưỡng, chế độ lương, khen thưởng và kỷ luật,... Điều đó

đã tạo điều kiện để lựa chọn, sử dụng CBCC phù hợp với thực tế quản lý,

nâng cao chất lượng CBCC. Đó là sự phân cấp mang tính chất đồng bộ, thực

hiện tốt hơn nguyên tắc “vì việc mà chọn người” chứ không phải “vì người

mà chọn việc”.

Việc phân biệt CBCC làm việc trong cơ quan HCNN với công chức,

viên chức trong các đơn vị sự nghiệp cũng tạo ra cơ sở để đổi mới cơ chế

quản lý phù hợp với mỗi loại đối tượng CBCC, viên chức nhằm nâng cao chất

lượng đội ngũ CBCC HCNN, đồng thời, tạo điều kiện cho các đơn vị sự

nghiệp giảm áp lực về bên chế và chủ động trong việc sắp xếp, bố trí lao động

để nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ. Cũng nhờ đó mà có được chế độ,

chính sách cũng như điều kiện để sử dụng tốt và sát hợp với CBCC nhà nước.

Mặt khác, đã có sự phân biệt giữa những người được tuyển dụng, bổ

nhiệm vào một ngạch công chức hoặc giao giữ một công việc thường xuyên

trong các cơ quan nhà nước ở Trung ương, cấp tỉnh với những người được

tuyển dụng, bổ nhiệm vào nghiệp của nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức

chính trị xã hội.

Phân cấp quản lý CBCC ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu của quản

lý HCNN trong từng cấp, từng ngành, có xu hướng đẩy mạnh chuyển giao

nhiệm vụ, thẩm quyền cho cấp dưới để sát với tình hình thực tế sử dụng

CBCC. Nhờ đó, hiệu quả của quán lý CBCC ngày càng được nâng cao, góp

phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN trong bối cảnh mới.

2.2.2.2. Tồn tại, vướng mắc

Bên cạnh những kết quả đạt được, quy định pháp luật phân cấp quản lý

CBCC còn nhiều hạn chế, cụ thể:

Thứ nhất, các quy định về quản lý CBCC vẫn còn mang dấu ấn của cơ

chế kế hoạch hóa tập trung, chưa xác định và quy định rõ ràng về hoạt động

66

công vụ. Cơ chế tuyển chọn và đào thải CBCC trong nền công vụ chưa rõ

ràng, cụ thể. Cách thức tuyển dụng CBCC hành chính theo chế độ làm việc

suốt đời không tương thích với cơ chế thị trường. Các quy định về tiêu chuẩn

CBCC còn chú trọng nhiều vào lý lịch, nhân thân, văn bản, chứng chỉ... Nội

dung, hình thức thi tuyển công chức chưa gắn với yêu cầu và vị trí làm việc.

Việc thi nâng ngạch chưa có tính cạnh tranh, nặng về “cử” hơn “thi”, nghiêng

về giải quyết chế độ, chính sách, chưa gắn với cơ cấu ngạch, nhu cầu, vị trí

làm việc của từng cơ quan...

Thứ hai, cơ chế quản lý công chức vẫn còn có khâu tập trung ở Trung

ương. Ví dụ Nghị định số 24/2010/NĐ-CP quy định người đứng đầu cơ quan

quản lý công chức được xem xét, tiếp nhận không qua thi tuyển đối với các

trường hợp đặc biệt, gồm: người tốt nghiệp thủ khoa tai các cơ sở đào tạo

trình độ đại học ở trong nước; Người tốt nghiệp đại học, sau đại học loại giỏi,

xuất sắc ở nước ngoài; Người có trình độ đào tạo từ đại học trở lên, có kinh

nghiệm công tác trong ngành, lĩnh vực cần tuyển dụng từ 05 năm trở lên, đáp

ứng được ngay yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển dụng, nhưng phải có ý

kiến thống nhất đối với các cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ

chức chính trị - xã hội.

Thứ ba, theo quy định tại mục 6, phần 3 Nghị quyết 08/2004/NQ-CP thì

chính quyền cấp tỉnh được quyền “quyết định tổng biên chế sự nghiệp của

tỉnh”. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3, Điều 14 Nghị định số 41/NĐ-CP

ngày 08/5/2012 của Chính phủ quy định về vị trí việc làm trong đơn vị sự

nghiệp công lập, quy định thẩm quyền của Ủy ban nhân dân tỉnh: “Trình Hội

đồng nhân dân cùng cấp phê duyệt tổng số lượng người làm việc trong các đơn

vị sự nghiệp công lập sau khi có ý kiến thẩm định của Bộ Nội vụ và tổ chức

thực hiện sau khi được phê duyệt” [27, Điều 14]. Và tại khoản 3, Điều 15 Nghị

định số 41/NĐ-CP, ngày 08/5/2012 quy định thẩm quyền của Bộ Nội vụ:

67

Quyết định vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh

nghề nghiệp trong các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc UBND tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương; thẩm định số lượng người làm việc

trong đơn vị sự nghiệp công lập trước khi UBND tỉnh, thành phố trực

thuộc Trung ương trình HĐND cùng cấp phê duyệt [27, Điều 15].

Thứ tư, các văn bản về phân cấp trong tuyển dụng CBCC còn chung

chung, chưa cụ thể dẫn tới các địa phương áp dụng phân cấp khác nhau trong

tuyển dụng CBCC giữa các cơ quan, đơn vị.

Thứ năm, thể chế liên quan đến phân cấp có nhiều bất cập, đặc biệt là

NĐ 18/2010/NĐ-CP. Văn bản này hiện nay trao quyền quá nhiều cho các cơ

sở ĐTBD CBCC ở trung ương, bộ ngành,... nhưng không có chế định nào

điều chỉnh và nhắc tới cơ sở đào tạo ngoài công lập trong đó nguyên tắc “cạnh

tranh” được nhắc tới rất nhiều trong văn bản.

Thứ sáu, phương thức và tiêu chí đánh giá CBCC chưa chú trọng đến

hiệu quả và kết quả thực thi công việc; trách nhiệm người đứng đầu cơ quan,

tổ chức chưa được quy định rõ trong đánh giá CBCC. Các quy định về thủ

tục, hồ sơ bổ nhiệm còn phước tạp, qua nhiều khâu nhưng trách nhiệm lại

chưa rõ ràng. Cơ chế và trách nhiệm lãnh đạo tập theo với cơ chế người đứng

đầu chưa rõ ràng làm hạn chế tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của

người đứng đầu.

Thứ bảy, cơ quan sử dụng công chức chưa được tự chủ cao trong xác

định nội dung và tiêu chí đánh giá. Do đó, các tiêu chí đánh giá còn chung

chung, chưa thực sự đề cao chất lượng, khối lượng hoàn thành các công việc

cụ thể của công chức cho từng vị trí công tác. Những tiêu chí đánh giá hiện

nay thường là các “tiêu chí cứng” do Bộ Nội vụ quy định mà ít có các “tiêu

chí mềm” do bộ, ngành, địa phương, đặc biệt ít những tiêu chí do chính các cơ

quan sử dụng công chức quy định. Ngoài ra, những quy định về nội dung

68

đánh giá còn dàn trải, khối lượng hoàn thành công việc là thước đo kết quả

lao động của công chức lại đặt ngang bằng với các tiêu chí khác, làm nhạt

nhòa ranh giới giữa công chức làm việc tích cực với người làm việc cầm

chừng, song cố gắng chấp hành đúng quy chế làm việc của cơ quan và quan

hệ tốt với đồng nghiệp. Tiêu chí đánh giá chưa chú trọng đến kết quả, trách

nhiệm thực hiện công vụ của công chức, thể hiện tỷ trọng nội dung liên quan

đến hoàn thành công vụ, nhiệm vụ được giao chiếm quá ít trong các nội

dung đánh giá (chỉ chiếm 1/8). Điều này dẫn đến không phân biệt được

chính xác người làm việc tốt, có hiệu quả với người làm việc ít hoặc làm

việc chưa tốt, hiệu quả.

Thứ tám, hệ thống các văn bản quy định về phân cấp trong đào tạo, bồi

dưỡng còn chồng chéo trong phân cấp đối tượng đào tạo, bồi dưỡng; chưa bao

quát hết được các đối tượng là công chức hành chính và cán bộ, công chức cơ

sở; một số chỗ phân cấp còn thiếu tính thực tế dẫn đến tình trạng không phù

hợp hoặc quá tải; một số nội dung phân công, phân cấp chưa đầy đủ, rõ ràng.

Thứ chín, chế độ công vụ của nước ta hiện nay vẫn thiên về hệ thống

chức nghiệp với nhược điểm là dễ dẫn đến sự trì trệ, quan liêu của CBCC, hạn

chế sự năng động, sáng tạo của cấp dưới và của thế hệ nhân viên mới. Đặc

biệt, hệ thống này với sự ảnh hưởng của quan hệ cá nhân, dễ dẫn đến tình

trạng nới rộng biên chế.

Thứ mười, việc phân công, phân cấp tuy đã được thể hiện rõ trên các

văn bản của Đảng và Nhà nước song trong quá trình thực hiện công tác cán

bộ, do thực hiện cơ chế song trùng lãnh đạo nên có nhiều biểu hiện không rõ

ràng về quyền hạn và trách nhiệm. Nhiều cấp, nhiều cơ quan cùng quản lý,

cùng thực hiện nhưng không rõ cơ chế chịu trách nhiệm nên đôi khi chồng

chéo trong quản lý và tổ chức thực hiện. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra,

thanh tra trong việc thực hiện các quy định về phân cấp còn bị buông lỏng.

69

Công tác ĐTBD CBCC còn ở quy mô nhỏ, chế độ chính sách còn lạc hậu so

với thực tiễn hiện nay.

2.3. Thực trạng thực hiện phân cấp giữa trung ƣơng và chính quyền

cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức

2.3.1. Kết quả thực hiện phân cấp giữa trung ương và chính quyền

cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức

Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày

30/6/2004 của Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước

giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,

tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương đã có nhiều giải pháp tích cực, cụ thể để

chỉ đạo, hướng dẫn các sở, ban, ngành, ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã

thực hiện các nội dung về phân cấp trong các ngành, lĩnh vực từ năm 2004

đến nay. Thực tiễn đã khẳng định việc phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung

ương và địa phương; giữa các cấp chính quyền địa phương thuộc tỉnh là cơ

bản phù hợp với tình hình thực tế và yêu cầu công tác quản lý nhà nước các

cấp hiện nay trên các lĩnh vực quản lý quản lý tổ chức, biên chế; cán bộ, công

chức, viên chức.

Việc phân cấp trong lĩnh vực quản lý tổ chức bộ máy và cán bộ, công

chức từ trung ương đến địa phương với xu hướng chung là phân giao quyền

hạn, trách nhiệm nhiều hơn cho chính quyền địa phương đã tạo sự chủ động

trong việc quản lý, sử dụng các nguồn lực ở cơ sở. Phân cấp, phân quyền đã

tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện vai trò hoạch định chính sách, giảm bớt

các hoạt động tác nghiệp; phát huy tính chủ động, sáng tạo của chính quyền

địa phương, đơn vị cơ sở, đưa nền hành chính sát hơn với những đặc điểm

kinh tế-xã hội cụ thể; đảm bảo công bằng, phát triển dịch đa dạng, cung ứng

hiệu quả hơn theo hướng công dân là khách hàng sử dụng dịch vụ; phát triển

nền dân chủ, tạo điều kiện cho công dân, khách hàng sử dụng dịch vụ. Quá

70

trình thực hiện phân cấp cần đảm bảo việc phân cấp phải đồng thời với trao

đủ quyền hạn, các nguồn lực cần thiết và nâng cao trách nhiệm của mỗi cấp;

đảm bảo nguyên tắc hiệu quả, việc nào, cấp nào sát thực tế hơn, giải quyết

kịp thời và phục vụ tốt hơn thì giao cho cấp đó thực hiện; phân cấp phải rõ

việc, rõ địa chỉ, rõ trách nhiệm, gắn với chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp;

mỗi nội dung công việc quản lý nhà nước chỉ giao cho một cơ quan thực

hiện và chịu trách nhiệm.

Những nội dung phân cấp quản lý nhà nước trên các lĩnh vực cơ bản đã

phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các cấp, các ngành từ tỉnh

đến cơ sở. Bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất và thông suốt, đồng thời

phát huy tính năng động, sáng tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cấp,

các ngành, từ đó góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thúc

đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đã gắn việc phân cấp với việc

rà soát các thủ tục hành chính làm giảm đầu mối, giảm bớt các thủ tục không

cần thiết, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương.

Những kết quả đạt được về phân cấp hiện nay của tỉnh/thành phố trực

thuộc trung ương đã phát huy được tính chủ động, sáng tạo của chính quyền

địa phương; khai thác các nguồn lực góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả

quản lý nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, phục vụ

tốt hơn nhu cầu của tổ chức và lợi ích của nhân dân.

2.3.2. Những tồn tại, hạn chế trong phân cấp quản lý nhà nước giữa

trung ương và chính quyền cấp tỉnh về tổ chức, bộ máy và cán bộ, công chức

Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình thực hiện phân cấp

quản lý vẫn còn gặp phải một số tồn tại, hạn chế như sau:

Việc thực hiện phân cấp quản lý còn chậm và thiếu kiên quyết; nhiều

Bộ, ngành muốn “ôm việc”, còn do dự, chưa thực sự mạnh dạn phân cấp cho

chính quyền địa phương các cấp.

71

Trong quá trình thực hiện phân cấp ở cả tầm vĩ mô và vi mô từ thể chế

cho đến tổ chức thực hiện vẫn còn nhiều bất cập. Ví dụ, đang tồn tại hai hệ

thống văn bản quản lý CBCC – Một bên là Đảng, một bên Nhà nước. Quy

định về phân cấp quản lý CBCC vẫn còn tình trạng đan xen, chồng chéo

giữa những quy định của Đảng với văn bản của Nhà nước. Điều này dẫn đến

việc hiểu và vận dụng các quy định về quản lý CBCC chưa thống nhất, ảnh

hưởng đến hiệu lực quản lý. Thậm chí, ở một số nơi nhiều hoạt động quản lý

HCNN được áp dụng theo văn bản của Đảng chứ chưa có văn bản chính

thức của Nhà nước.

Việc thực hiện phân cấp quản lý chưa phù hợp với điều kiện phát phát

triển của từng địa phương. Việc phân cấp đã được đẩy mạnh nhưng nhìn

chung các Bộ, ngành chưa đặt ra các nhiệm vụ kiện toàn tổ chức, tinh giảm

biên chế và hoàn thiện các công cụ kiểm tra, giám sát ngành, lĩnh vực để đáp

ứng yêu cấu quản lý vĩ mô trong hình hình mới. Ví dụ, Mô hình tổ chức

cũng như chức năng, nhiệm vụ của chính quyền đô thị và chính quyền nông

thôn chưa được phân biệt rõ; quy định tổ chức, hoạt động của các cơ quan

chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh do Chính phủ quy định chung cho tất cả

địa phương nên chưa sát và phù hợp với từng địa phương, do vậy trong quá

trình hoạt động, do yêu cầu công việc nhiều địa phương phải trình xin Chính

phủ điều chỉnh một số cơ quan cho phù hợp với đặc điểm và thực tiễn của

địa phương mình.

Do các địa phương có sự khác nhau về điều kiện phát triển kinh tế - xã

hội, nên việc phân cấp đồng bộ, thống nhất cho tất cả các địa phương đã tạo ra

việc thực hiện phân cấp tại các địa phương có sự khác nhau. Theo đó, việc

quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức cho các tổ chức

tại địa phương chưa được thực hiện thống nhất, nên việc phối hợp trong việc

thực hiện chức năng quản lý nhà nước giữa các cơ quan, tổ chức theo ngành

72

dọc giữa Trung ương và địa phương chưa được thống nhất, gây khó khăn

trong công tác chỉ đạo chuyên môn, nghiệp vụ theo ngành, lĩnh vực.

Việc thực hiện phân cấp chưa tạo ra sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho

các cơ quan được phân cấp thẩm quyền, điều này thể hiện ở lĩnh vực quản lý

cán bộ công chức. Ví dụ, công tác phân cấp trong tuyển dụng CBCC vẫn còn

có những hạn chế như: các văn bản về phân cấp trong tuyển dụng CBCC còn

chung chung, chưa cụ thể dẫn tới các địa phương áp dụng phân cấp khác nhau

trong tuyển dụng CBCC giữa các cơ quan, đơn vị; đơn vị, cơ quan sử dụng

CBCC không có quyền quyết định điều kiện tuyển dụng, không có quyền

quyết định việc tuyển dụng thêm người mới dựa trên nhu cầu công việc nếu

không được phân bổ chỉ tiêu biên chế. Việc tuyển dụng CBCC gắn với chỉ

tiêu biên chế hiện nay chỉ phù hợp với cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước

đây nhưng không còn phù hợp với yêu cầu của nền hành chính hiện đại, năng

động. Việc này dẫn đến một số hệ quả kế hoạch hóa nhân sự trong từng cơ

quan hành chính chỉ mang tính chất hình thức vì thực tế bản thân cơ quan,

đơn vị không có quyền quyết định. Sau khi xác định nhu cầu các cơ quan, đơn

vị chỉ có quyền đề nghị lên cấp trên có thẩm quyền để xin biên chế. Việc quy

định như vậy làm hạn chế nhiều tính chủ động và làm giảm hiệu quả trong

việc sử dụng CBCC của tổ chức; cơ quan, đơn vị sử dụng CBCC không có

nhiều quyền trong xác định tiêu chuẩn tuyển dụng. Việc thi tuyển CBCC

trong cùng một ngạch chưa phân biệt rõ ràng các loại CBCC theo đặc thù

ngành và các CQHC các cấp trong từng ngành. Do đó, nếu không trao quyền

tự chủ cho các cơ quan HCNN, các đơn vị trong việc xác định tiêu chuẩn dựa

trên Bản mô tả công việc thì việc tuyển dụng chỉ mang tính chất hình thức,

khó tìm được người thực sự đáp ứng tốt nhất cho một vị trí công việc cụ thể;

cơ quan tuyển dụng CBCC không có quyền chủ động lựa chọn hình thức và

nội dung thi tuyển do đó nội dung thi tuyển chưa thực sự phù hợp với từng

nhóm vị trí công việc tương ứng.

73

Thực chất công tác quản lý CBCC chưa có sự phân cấp giữa Trung

ương và cấp tỉnh ví dụ như trong công tác đánh giá công chức thì các cơ quan

hành chính nhà nước thường áp dụng những phương pháp đánh giá công chức

theo quy định chung, mà chưa tự xác định phương pháp đánh giá riêng cho

phù hợp với đặc thù công việc hoặc với văn hóa tổ chức mình; người lãnh

đạo, quản lý là người hiểu và nắm rõ nhất tình hình thực hiện nhiệm vụ, công

vụ của công chức nhưng không phải là người toàn quyền quyết định kết quả

đánh giá. Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan chưa được quy định rõ

trong đánh giá công chức. Lãnh đạo là người phân công, bố trí, giao nhiệm vụ

và kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ nhưng không được toàn quyền trong

đánh giá công chức. Quyền đánh giá công chức bị ảnh hưởng bởi nhiều chủ

thể đặc biệt là tập thể đồng nghiệp bình bầu, do đó dẫn đến tính thiếu trách

nhiệm trong các kết luận về đánh giá công chức; Thủ trưởng cơ quan sử dụng

công chức chưa có vai trò lớn trong việc xử lý kết quả đánh giá. Do quy định

về xử lý kết quả đánh giá chưa chặt chẽ nên người làm tốt chưa được khen

thưởng, thăng tiến đúng mức; người làm kém ít bị xem xét bố trí, sắp xếp lại

công việc hoặc xử lý kỷ luật, làm cho việc đánh giá công chức hàng năm trở

thành công việc mang tính thủ tục, hình thức và kém hiệu quả.

Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng công chức theo phân cấp cũng bộc lộ nhiều

hạn chế. Hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng công chức bao gồm: các cơ sở

đào tạo, bồi dưỡng trực thuộc Chính phủ; các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của

các Bộ, ngành; trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; trung

tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện. Thực tế cho thấy, công tác đào tạo, bồi

dưỡng của cả hệ thống nói trên chỉ tập trung chủ yếu vào các đối tượng công

chức theo tiêu chuẩn ngạch, còn việc đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh, vị trí

việc làm, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ rất ít.

Mối quan hệ giữa quản lý ngành và quản lý lãnh thổ chư được giải

74

quyết một cách căn bản trên cơ sở các quy định rành mạch, cụ thể. Nội dung

và cơ chế liên kết, phối hợp giữa các địa phương với các Bộ ngành cũng như

giữa các địa phương chưa rõ ràng, hiệu quả. Tình trạng trùng lắp, chồng chéo

về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan trung ương với nhau cũng gây khó

khăn, vướng mắc cho địa phương trong thực hiện phân cấp quản lý.

Cơ chế kiểm tra, giám sát của Trung ương đối với chính quyền địa

phương chưa đồng bộ, thiếu hiệu quả; hệ thống thông tin phản hồi, độc lập,

thông suốt giữa các cấp chính quyền chưa được đảm bảo. Thực tiễn cho

thấy chúng ta chưa bảo đảm được tính thống nhất và thông suốt của nền

hành chính. Hiện tượng trên bảo dưới không nghe, văn bản của cấp dưới

trái văn bản của cấp trên… đang làm suy giảm tính kỷ luật kỷ cương trong

hoạt động công vụ.

Hệ thống thông tin quản lý của Nhà nước hiện nay hầu như hoàn toàn

dựa trên báo cáo của địa phương, thiếu hẳn vai trò kiểm chứng độc lập của cơ

quan dân cử, các tổ chức xã hội dân sự và người dân. Trong nhiều trường hợp

chậm phát hiện những sai phạm nghiêm trọng của chính quyền cấp dưới, gây

thiệt hại to lớn về vật chất và niềm tin của người dân.

Điều kiện thực hiện phân cấp quản lý còn nhiều hạn chế: thẩm quyền,

trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp còn chưa rõ; các điều kiện

cần thiết về tổ chức – nhân sự, tài chính – ngân sách và cơ sở vật chất để thực

hiện các nhiệm vụ được phân cấp chưa được đảm bảo. Công tác hướng dẫn và

thanh tra, kiểm tra của Chính phủ và các Bộ, ngành đối với việc tổ chức thực

hiện các nhiệm vụ được phân cấp chưa được quan tâm thích đáng; còn thiếu

các công cụ kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của ngành, lĩnh vực để đáp

ứng yêu cầu quản lý vĩ mô trong tình hình mới. Còn có tình trạng một số Bộ,

ngành ban hành những quy định tùy tiện, chồng chéo, thiếu nhất quán, gây

khó khăn cho địa phương. Trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ, công chức ở

75

chính quyền các cấp, nhất là cán bộ cấp cơ sở còn nhiều hạn chế, phần lớn

chưa được đào tọa, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ và kiến thức về quản

lý nhà nước do vậy việc thực hiện các nhiệm vụ, chức trách được giao theo

phân cấp còn khó khăn. Trang thiết bị, phương tiện làm việc cần thiết của

chính quyền của các cấp, nhất là cấp cơ sở còn thiếu thốn.

Những hạn chế, bất cập trên đây, chủ yếu và trước hết là do chưa nhận

thức được rõ vai trò, chức năng của Chính phủ, của các cấp chính quyền địa

phương trong thời kỳ mới; ảnh hưởng của cơ chế tập trung, quan liêu, tư

tưởng cục bộ của cán bộ lãnh đạo nhiều ngành ở Trung ương, ở cấp tỉnh trong

quan hệ chỉ đạo với các địa phương, cơ sở; các chủ trương, giải pháp phân cấp

Trung ương – địa phương chưa rõ ràng, rành mạch, thiếu nhất quán, còn lo

ngại phân cấp mạnh dẫn đến tình trạng cục bộ, cát cứ, phân tán.

Trong tổ chức chỉ đạo còn thiếu quyết tâm, mạnh dạn từ khâu xây

dựng, ban hành thể chế chính sách cho đến việc tổ chức thực hiện; chưa chú

trọng tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm kịp thời về những chủ trương, giải

pháp phân cấp.

Bên cạnh đó trong quá trình thực hiện phân cấp còn gặp một số trở ngại

hạn chế kết quả của phân cấp như:

Thiết chế tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính nhà nước

đang là trở ngại lớn hạn chế hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nói chung và

việc phân cấp nói chung.

Tư tưởng vì lợi ích cục bộ trong bộ máy công quyền còn đang rất nặng

nề. Thông thường quyền lực đi liền với lợi ích, có quyền lực của tổ chức và lợi

ích của tổ chức, quyền lực của cá nhân và lợi ích của cá nhân. Trong nền kinh

tế thị trường, quyền và lợi đang len lỏi vào trong bộ máy công quyền đang làm

cho sự níu kéo, duy trì cơ chế “xin cho” để bảo vệ quyền uy và lợi ích cục bộ

của cơ quan công quyền. Sự níu kéo đó thể hiện cả trong thể chế và cả tổ chức

thực hiện, cả cơ quan có thẩm quyền phân cấp và cơ quan nhận phân cấp.

76

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ

NƢỚC GIỮA TRUNG ƢƠNG VÀ CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH TRONG

LĨNH VỰC TỔ CHỨC BỘ MÁY VÀ CÁN BỘ CÔNG CHỨC

3.1. Quan điểm bảo đảm phân cấp quản lý nhà nƣớc giữa trung

ƣơng và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ

công chức

a) Hoàn thiện phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung ương và chính

quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức trên cơ sở

phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của từng cấp, từng cơ quan,

bảo đảm tính thống nhất, thông suốt của nền hành chính quốc gia, bảo đảm

Chính phủ quản lý thống nhất về thể chế, chính sách quốc gia, chiến lược, quy

hoạch, kế hoạch, thanh tra, kiểm tra.

b) Phân cấp rõ thẩm quyền, trách nhiệm gắn với chức năng, nhiệm vụ

của mỗi cấp chính quyền được cụ thể trong Luật Tổ chức Chính phủ và Luật

Tổ chức chính quyền địa phương; đảm bảo tính công khai, minh bạch và trách

nhiệm giải trình của các cấp chính quyền.

c) Tăng cường phân cấp quản lý cho chính quyền cấp tỉnh nhằm phát

huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền cấp tỉnh trên cơ sở

đề cao vai trò quyết định của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và bảo đảm

nguồn lực các nhiệm vụ được phân cấp theo quy định của pháp luật của

chính quyền địa phương.

d) Tuân thủ nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành với

quản lý theo lãnh thổ; bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống

văn bản quy phạm pháp luật về quản lý tổ chức bộ máy và cán bộ, công

chức; phân định rõ nhiệm vụ quản lý nhà nước về tổ chức bộ máy và cán

77

bộ công chức của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, ngành và của

chính quyền cấp tỉnh.

đ) Phân cấp quản lý nhà nước trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ,

công chức phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng tỉnh,

từng giai đoạn, đặc thù của từng địa phương, điều kiện và khả năng phát triển

của từng khu vực, vùng lãnh thổ, loại hình đô thị, nông thôn; phù hợp với khả

năng quản lý, điều hành của từng cấp và điều kiện, khả năng cân đối các

nguồn lực cần thiết để thực hiện.

e) Tăng cường trách nhiệm theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra của

Bộ, ngành Trung ương đối với việc thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp,

chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính; đồng thời phát huy dân chủ rộng rãi

để nhân dân tham gia quản lý nhà nước.

3.2. Giải pháp bảo đảm phân cấp

3.2.1. Thay đổi nhận thức về phân cấp quản lý nhà nước giữa trung

ương và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ,

công chức

Đẩy mạnh phân cấp quản lý giữa trung ương và chính quyền cấp tỉnh là

một tất yếu khách quan nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự

chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền cấp tỉnh trên cơ sở bảo đảm sự

thống nhất của chính phủ nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước,

phục vụ tốt hơn nhu cầu và lợi ích của nhân dân, đáp ứng yêu cầu phát triển

kinh tế - xã hội trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa.

Phân cấp quản lý trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức

là việc phân định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền của mỗi cấp trong bộ

máy chính quyền nhà nước. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ phải chuyển

78

sang công tác quản lý nhà nước ở tầm vĩ mô như xây dựng chính sách, pháp

luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch vĩ mô và tăng cường chỉ đạo, điều hành

tổng thể, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện, hạn chế tối đa sự cán thiệt hành

chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp.

Chính quyền địa phương các cấp được tự chủ, tự chịu trách nhiệm

trong việc thực hiện nhiệm vụ của quản lý nhà nước trên địa bàn theo quy

định của pháp luật. Tuân thủ nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo

ngành với quản lý theo lãnh thổ, phân định rõ nhiệm vụ quản lý nhà nước của

bộ, ngành với nhiệm vụ quản lý của chính quyền địa phương đối với lĩnh vực

tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức trên địa bàn lãnh thổ.

Qúa trình phân cấp quản lý luôn gắn liền với quán trình phối hợp giữa

các ngành và các cấp chính quyền. Phân cấp quản lý không đơn giản chỉ là

“cắt khúc” hay chia đều nhiệm vụ cho từng cấp chính quyền thực hiện mà còn

đòi hỏi trách nhiệm phối hợp của cấp trên và tổ chức thực hiện của cấp dưới.

Mức độ, phạm vi và tiến trình phân cấp không chỉ lệ thuộc vào các nhiệm vụ

cần phân cấp, mà còn lệ thuộc vào khả năng và trách nhiệm phối hợp giữa các

cấp cũng như năng lực của chính quyền cấp dưới khi phải đảm nhận nhiệm vụ

được phân cấp. Phân cấp càng mạnh và toàn diện thì nhu cầu phối hợp trong

quản lý và đạt được hiệu quả tổng thế cao nhất cho các cấp quản lý.

Phân cấp là xác định rõ ràng các nhiệm vụ đích thực của mỗi cấp, làm

cho mỗi cấp nhận rõ và chủ động, sáng tạo làm đúng những nhiệm vụ phải

làm và cần làm. Cấp trên không bao biện, làm thay, cấp dưới không trông chờ,

ỷ lại. Không có sự chồng lấn hoặc bỏ sót những nhiệm vụ mà mỗi cấp phải làm

và cần làm. Thông qua đó, làm rõ chức năng nhiệm vụ và xác định cơ cấu, tổ

chức, bộ máy của của mỗi cấp chính quyền, cũng như chức phận của từng cán

bộ, công chức. Từ đó phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tính năng

động, sáng tạo trong việc quyết định những vấn đề về tổ chức, biên chế, nhân

lực ở mỗi địa phương.

79

Phân cấp quản lý phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội

trong từng giai đoạn, với đặc thù của ngành, lĩnh vực, bảo đảm nguyên tắc

hiệu quả; việc nào, cấp nào sát thực tế hơn, giải quyết kịp thời và phục vụ tốt

hơn các yêu cầu của tổ chức và người dân. Phân cấp phải tùy theo điều kiện

và khả năng phát triển của từng vùng, khu vực lãnh thổ với từng loại hình đô

thị, nông thôn, với xu thế hội nhập khu vực và quốc tế. Phân cấp phải rõ việc,

rõ địa chỉ, rõ trách nhiệm gắn với chức năng và nhiệm vụ của mỗi cấp, đảm

bảo nguồn lực về tài chính, con người và các điều kiện cần thiết để thực hiện.

Tăng cường trách nhiệm hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra, giám sát của

trung ương với chính quyền cấp tỉnh trong việc thực hiện các nhiệm vụ

được phân cấp.

Mặc khác, quá trình chuyển giao quyền lực cho cấp tỉnh có thể nảy sinh

cơ hội tham nhũng do đó cần có cơ chế giám sát, giải trình thích hợp, kịp thời

ngăn ngừa hoặc kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xử lý thích đáng.

Phân cấp quản lý cần bảo đảm tính công khai, minh bạch trong quá

trình thực hiện phân cấp.

Cần có nhận thức đúng và thống nhất, bảo đảm cho việc phân cấp được

tiến hành một cách tự giác, có trách nhiệm, có hiệu quả thiết thực vì lợi ích

của nhân dân và của toàn xã hội. Đẩy mạnh phân cấp giữa Chính phủ và

chính quyền cấp tỉnh là trách nhiệm của cả hệ thống hành chính nhà nước.

Phân cấp quản lý là nhằm mục tiêu phục vụ người dân tốt hơn và nâng cao

hiệu quả quản lý nhà nước.

3.2.2. Mở rộng nội dung phân cấp quản lý cho chính quyền cấp tỉnh

trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức

Quan triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước về phân cấp, phân quyền

cho chính quyền địa phương, trong khi chưa xây dựng và ban hành Luật về

phân cấp cho chính quyền địa phương, căn cứ vào những nhiệm vụ, quyền

80

hạn đã được quy định trong Luật tổ chức chính quyền địa phương và các văn

bản pháp luật có liên quan hiện hành, trung ương nên nghiên cứu việc mở

rộng phân cấp cho chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán

bộ, công chức theo hướng như sau:

a) Lĩnh vực tổ chức bộ máy:

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch mạng lưới tổ chức các đơn

vị sự nghiệp cung cấp dịch vụ công thuộc các ngành, lĩnh vực có yêu cầu

chuyên môn, nghiệp vụ chuyên sâu cần quản lý tập trung, thống nhất, không

phân cấp hoặc hoặc hạn chế phân cấp; mạng lưới tổ chức các đơn vị sự

nghiệp cung cấp dịch vụ công thuộc các ngành, lĩnh vực có yêu cầu chuyên

môn, nghiệp vụ đặc thù cần chỉ đạo thống nhất toàn ngành, lĩnh vực theo đề

nghị của Bộ quản lý ngành, lĩnh vực

Bộ quản lý ngành, lĩnh vực phê duyệt quy hoạch mạng lưới tổ chức các

đơn vị sự nghiệp cung cấp dịch vụ công khác thuộc các ngành, lĩnh vực do Bộ

quản lý (trừ phạm vi thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ); tổ chức

thực hiện quy hoạch mạng lưới tổ chức các đơn vị sự nghiệp cung cấp dịch vụ

công thuộc các ngành, lĩnh vực do Bộ, ngành mình quản lý

Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy hoạch mạng lưới tổ chức các đơn vị sự

nghiệp cung cấp dịch vụ công thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật

chuyên ngành..

Trên cơ sở quy hoạch mạng lưới tổ chức các đơn vị sự nghiệp cung cấp

dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực, thực hiện phân cấp thẩm quyền quyết

định thành lập các đơn vị sự nghiệp công lập trong quy hoạch mạng lưới các

tổ chức sự nghiệp dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực cho chính quyền địa

phương; cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động đối với các cơ sở cung

ứng sản phẩm dịch vụ sự nghiệp công trên cơ sở tiêu chí, tiêu chuẩn, điều

kiện do cấp có thẩm quyền quy định. Đối với các ngành, lĩnh vực chưa có quy

81

hoạch mang lưới tổ chức các đơn vị sự nghiệp cung cấp dịch vụ công, Ủy ban

nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập sau khi thống nhất với Bộ quản lý

ngành, lĩnh vực và Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính.

Các đơn vị sự nghiệp công lập chỉ được thành lập để thực hiện chức

năng, nhiệm vụ phục vụ quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công thuộc

ngành, lĩnh vực mà loại dịch vụ công đó Nhà nước chưa chuyển giao cho các tổ

chức ngoài khu vực nhà nước đảm nhiệm hoặc loại dịch vụ công đó các tổ chức

ngoài khu vực nhà nước không thực hiện hoặc không đủ khả năng thực hiện.

Tăng thẩm quyền và trách nhiệm đối với chính quyền địa phương và

xác định mối quan hệ giữa Bộ với các cấp chính quyền địa phương là quan hệ

giữa Bộ với Ủy ban nhân dân, không phải là quan hệ của Bộ với các tổ chức

cơ cấu của Ủy ban nhân dân theo lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ. Chỉ đến khi

nào mối quan hệ này được chính các bộ, ngành xác định rõ thì khi đó, Ủy ban

nhân dân cấp tỉnh mới thực sự có quyền chủ động về tổ chức cơ quan giúp Ủy

ban nhân dân quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực

b) Đối với lĩnh vực quản lý cán bộ, công chức:

Việc phân cấp quản lý cán bộ, công chức phải gắn với việc tiếp tục đẩy

mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức theo các nội dung cụ thể sau:

Về quản lý biên chế cần thống nhất quản lý từ trung ương đến cơ sở.

Biên chế sự nghiệp cần thay đổi mạnh mẽ hơn phương thức quản lý, trao

quyền chủ động hơn cho thủ trưởng đơn vị sự nghiệp như quyền của doanh

nghiệp trên cơ sở Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Thực hiện phân cấp tổ chức thi tuyển cán bộ, công chức theo quy định

của Luật Cán bộ, công chức và các quy định của Chính phủ. Cần đẩy mạnh

phân cấp tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức về cho các bộ,

ngành và địa phương nhằm tăng sự chủ động và chịu trách nhiệm của các địa

phương, đơn vị. Từng bước gắn thẩm quyền tuyển dụng với thẩm quyền sử

82

dụng. Cụ thể, việc tiếp nhận, tuyển dụng công chức trong trường hợp không

qua thi tuyển; việc thi nâng ngạch từ cán sự lên ngạch chuyên viên; nâng bậc

lương thường xuyên, nâng bậc lương trước thời hạn ngạch chuyên viên cao

cấp… nên giao về cho các địa phương thực hiện, không phải chờ ý kiến của

Bộ Nội vụ như hiện nay; Việc thi nâng ngạch công chức nên tổ chức thi tuyển

cạnh tranh trong nội bộ địa phương; vấn đề thi tuyển cạnh tranh chức danh

lãnh đạo nên áp dụng đối với chức danh lãnh đạo cấp phòng là hợp lý

Hướng dẫn và triển khai thực hiện xác định vị trí việc làm, cơ cấu công

chức theo ngạch của các cơ quan, tổ chức, các đơn vị, bảo đảm phù hợp với

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, tính chất ngành, lĩnh vực,

điều kiện thực tế quản lý và sử dụng cán bộ, công chức. Đặc biệt là nên xây

dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ chuyên môn sâu đối với cán bộ, công chức thừa

hành nhiệm vụ và có quy chế khuyến khích đội ngũ CBCC.

Trong công tác đánh giá CBCC: đề xuất hoàn thiện mô hình phân cấp

trong đánh giá công chức theo hướng trao nhiều quyền hơn cho các cơ quan

trực tiếp sử dụng công chức, đảm bảo được quyền tự chủ và tự chịu trách

nhiệm. Do người lãnh đạo đơn vị là người giao và kiểm soát công việc vì vậy

mới có khả năng nắm bắt được hoạt động của công chức và có trách nhiệm cá

nhân với kết quả đánh giá. Các cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp sử

dụng công chức cần được trao quyền chủ động theo các nội dung sau:

Thứ nhất, quyết định các tiêu chí và nội dung đánh giá cụ thể dựa vào

các “tiêu chí cứng” do Đảng, Chính phủ quy định và dựa vào các tiêu chí do

bộ quản lý ngành hoặc địa phương quy định.

Cơ quan sử dụng công chức trực tiếp quyết định các tiêu chí và nội

dung đánh giá cụ thể dựa trên thực tế công việc và điều kiện làm việc của cơ

quan mình. Có như vậy, việc đánh giá công chức mới thực chất và phù hợp

với thực tế công vụ tránh tình trạng đánh giá hình thức, không phản ánh đúng

83

chất lượng thực thi công vụ của công chức. Các “tiêu chí mềm”, có thể thay

đổi linh hoạt, thậm chí theo hàng năm, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã

hội, văn hóa tổ chức và đối tượng mà cơ quan hành chính nhà nước phục vụ.

Nội dung đánh giá công chức được cơ quan sử dụng công chức cụ thể

hóa trên 2 khía cạnh chính là đánh giá thực thi công việc (kết quả công việc

và thành tích) và đánh giá bản thân công chức (đạo đức, tiềm năng, năng lực).

Sau khi ban hành, các tiêu chí và nội dung đánh giá phải được quy định và

hướng dẫn cụ thể để việc đánh giá được xác thực, chính xác và khách quan.

Thứ hai, quyết định phương pháp và chủ thể đánh giá công chức

Căn cứ vào tính chất công việc của từng công chức, cơ quan HCNN lựa

chọn phương pháp đánh giá phù hợp nhất. Đối với một số cơ quan có tính

chất công việc đặc thù có thể áp dụng các phương pháp đánh giá như sát hạch

định kỳ hoặc đánh giá qua xử lý tình huống thực tế. Các phương pháp đánh

giá đó phải phù hợp với tính chất công việc của từng cơ quan để tránh tình

trạng đối với tất cả các công việc đều được đánh giá bằng phương pháp giống

nhau như hiện nay.

Mặc dù đề cao vai trò của thủ trưởng đơn vị trong đánh giá công chức

dưới quyền song cơ quan HCNN có thể sử dụng ý kiến đánh giá của chuyên

gia quản lý nhân sự hoặc từ phía người dân, xã hội. Cần coi đây là một kênh

tham khảo hữu hiệu cho thủ trưởng trước khi ra quyết định cuối cùng. Đối với

những công chức thường xuyên phải tiếp xúc và giải quyết công việc của dân

(cán bộ, công chức làm việc tại bộ phận “một cửa”) thì ý kiến đánh giá của

công dân là một trong những kênh đánh giá quan trọng.

Thứ ba, tăng cường trách nhiệm người đứng đầu cơ quan trực tiếp sử

dụng cán bộ, công chức trong việc đánh giá nhân sự. ý kiến tập thể đồng

nghiệp trong cơ quan là quan trọng nhưng trong tiến trình nâng cao trách

nhiệm người đứng đầu thì phải đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong việc

84

đánh giá công chức. Điều này thể hiện ở chỗ, người đứng đầu cơ quan là

người triển khai, phân công và kiểm tra thực hiện các công việc, biết chính

xác và rõ ràng nhất chất lượng, mức độ hoàn thành nhiệm vụ, công vụ của

công chức. Vì vậy, người đứng đầu phải được quyền quyết định và chịu trách

nhiệm đối với kết luận đánh giá, phân loại công chức của mình. Tuy nhiên,

trước khi đưa ra kết quả đánh giá và phân loại công chức, người đứng đầu cần

lắng nghe và tham khảo ý kiến tự kiểm điểm của công chức; ý kiến đánh giá

của tập thể đồng nghiệp; của chuyên gia quản lý nhân sự; của người dân và xã

hội. Bởi lẽ, chúng ta chỉ có thể nhận biết đúng giá trị của bản thân và người

khác thông qua ý kiến của nhiều người.

Thứ tư, xây dựng quy trình đánh giá phù hợp với thực tiễn cơ quan

Các cơ quan HCNN xây dựng và sơ đồ hóa quy trình đánh giá để tạo

điều kiện thuận lợi, dễ dàng trong áp dụng. Nếu có thể, nên xây dựng các quy

trình chuyên biệt cho từng loại đối tượng khác nhau (công chức lãnh đạo và

công chức chuyên môn).

Nếu cơ quan HCNN xây dựng được các quy trình đánh giá chi tiết và

cho từng nhóm đối tượng chuyên biệt thì kết quả đánh giá càng chính xác và

dễ thực hiện. Ví dụ, đối với cơ quan HCNN cấp bộ, có thể xây dựng quy trình

đánh giá riêng biệt cho các nhóm đối tượng như: công chức thường; công

chức lãnh đạo cấp phòng; công chức lãnh đạo cấp vụ.

Thứ năm, trao quyền tự quyết cho cơ quan hành chính nhà nước trong

xử lý kết quả đánh giá. Cơ quan sử dụng cán bộ, công chức phải được quyền

sử dụng kết quả đánh giá để khen thưởng, kỷ luật, bổ nhiệm, đào tạo.

Trong công tác về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức: Tiếp tục đẩy

mạnh phân cấp hơn nữa trong thực hiện một số chương trình đào tạo, bồi

dưỡng, chẳng hạn như chương trình đào tạo, bồi dưỡng lãnh đạo cấp Vụ. Đối

tượng lãnh đạo cấp Vụ rất khó bố trí thời gian để tham gia các khóa học tập

85

trung dài ngày, vì vậy việc giao cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ở Bộ,

ngành, địa phương chủ động tổ chức đào tạo, bồi dưỡng lãnh đạo cấp Vụ và

tương đương sẽ giải quyết được khó khăn này. Bên cạnh đó, chương trình

cũng có thể xem xét để thay đổi cho phù hợp, chẳng hạn như mời các chuyên

gia nước ngoài, các nhà quản lý cấp cao… tham gia giảng dạy; tiếp tục thực

hiện đổi mới nội dung, chương trình, tài liệu và phương pháp đào tạo, bồi

dưỡng theo hướng bám sát thực tiễn, nhu cầu người học, khắc phục tình trạng

lý thuyết, trùng lặp. Bên cạnh những chương trình tổng quan chung do Bộ

Nội vụ ban hành, các Bộ, ngành, địa phương cần đẩy mạnh nghiên cứu, xây

dựng các chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ

của riêng mình. Xúc tiến nhanh việc nghiên cứu xây dựng các chương trình,

tài liệu đào tạo, bồi dưỡng theo vị trí việc làm, nhất là khi các cơ quan, đơn vị

đã hoàn thành các đề án vị trí việc làm của mình. Liên quan đến nội dung này,

đề nghị Bộ Nội vụ xem xét, đơn giản hóa hơn các quy trình, thủ tục về thẩm

định, phê duyệt chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng theo quy định tại

Thông tư số 03/2011/TT-BNV ngày 25/01/2011 của Bộ Nội vụ hướng dẫn

thực hiện một số điều của Nghị định số 18/2010/NĐ-CP; tăng cường năng lực

cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý đào tạo, bồi dưỡng và đội

ngũ giảng viên. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng để trang bị một cách bài bản

những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công

tác quản lý đào tạo, bồi dưỡng. Về đội ngũ giảng viên, cần tăng cường xây

dựng đội ngũ giảng viên đủ về số lượng, có kiến thức chuyên môn sâu, kiến

thức thực tiễn phong phú và phương pháp sư phạm cho công tác đào tạo, bồi

dưỡng. Tiếp tục quan tâm xây dựng và sử dụng đội ngũ giảng viên thỉnh

giảng. Cần có cơ chế riêng, nhất là trả thù lao thỏa đáng, để huy động sự tham

gia tích cực của đội ngũ giảng viên thỉnh giảng là những chuyên gia đầu

ngành; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng để

86

có đủ năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Các Bộ, ngành, địa phương hàng

năm cần bố trí nguồn kinh phí để đầu tư cho các cơ sở này, trong đó chú ý đầu

tư cho những tiện ích mới như phòng học đa năng, thư viện, trang thiết bị dạy

và học hiện đại, hệ thống mạng Internet tốc độ cao… phù hợp cho việc tổ

chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng theo phương pháp mới. Bên cạnh đó, cần

đảm bảo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hoạt động theo cơ chế cạnh tranh

có sự phối hợp, hợp tác chặt chẽ giữa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng; thực hiện

đồng bộ các giải pháp về tài chính cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức. Cụ thể là:

Trong công tác thuyên chuyển, điều động cán bộ, công chức: Để bảo

đảm tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính

quyền địa phương, các tỉnh tùy thuộc vào tình hình thực tế của mình có thể

quy định thêm các điều kiện tiếp nhận, thuyên chuyển của tỉnh mình nhưng

vẫn phải bảo đảm tuân thu theo các quy định của trung ương về cơ quan, trình

tự, thời hạn giải quyết; Cơ quan có thẩm quyền giải quyết thuyên chuyển, tiếp

nhận phải niêm yết công khai, đầy đủ thủ tục hành chính về công tác thuyên

chuyển, tiếp nhận, về hồ sơ, quy trình và thời gian thực hiện; Đẩy mạnh việc

thực hiện xã hội hóa một số ngành, lĩnh vực nhất là giáo dục và y tế vốn

chiếm số lượng viên chức rất lớn. Khi xã hội hóa hoàn chỉnh, công tác thuyên

chuyển đối với các đối tượng này sẽ được bãi bỏ, thay vào đó là các công tác

hợp đồng, xếp lương theo năng lực...

Phân cấp quản lý tiền lương và các chế độ chính sách cho cán bộ,

công chức:

Xây dựng và hoàn thiện các chế độ, chính sách đối với công chức, đặc

biệt là chính sách tiền lương. Cần đổi mới cơ bản chế độ tiền lương đối với

công chức theo từng vị trí việc làm; áp dụng hệ thống bảng lương có tính linh

hoạt, mềm dẻo trên cơ sở thực hiện quyền tự chủ về ngân sách của các địa

87

phương; áp dụng hệ thống bảng lương riêng cho các vị trí lãnh đạo thông qua

thi tuyển trực tiếp, công khai; đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa dịch vụ công,

thực hiện tốt quy định của Chính phủ về khoán biên chế và chi phí hành chính

trong cơ quan hành chính nhà nước. Đổi mới chính sách thu hút nhân tài vào

làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước với quy trình đơn giản, chế độ

đãi ngộ phù hợp; bổ sung chính sách hỗ trợ khuyến khích nghiên cứu khoa

học trong các cơ quan hành chính nhà nước.

Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị và

thẩm quyền thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà nước về công

chức, công vụ.

Nêu cao trách nhiệm phục vụ của các cơ quan nhà nước trong quá trình

thực hiện chức năng thẩm định và giải quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền

quản lý nhà nước được giao.

3.2.3. Hoàn thiện thể chế về phân cấp quản lý nhà nước giữa trung

ương và chính quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ,

công chức

Trong hệ thống hành chính nhà nước của nước ta, Chính phủ giữ vai trò

quyết định trong nhiệm vụ xây dựng, ban hành hệ thống thể chế; bảo đảm cân

đối vĩ mô; hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện thể chế đó. Trong đó, thể chế

là điều quyết định cho việc phân cấp thành công, có hiệu quả và bảo đảm tính

thống nhất trong quản lý nhà nước. Hệ thống thể chế được xây dựng đồng bộ,

nhất quán là cơ sở pháp lý, là động lực số một để phát huy mọi nguồn lực

trong nước. Đồng thời, cũng là cơ sở để thực hiện có hiệu quả và thống nhất

việc phân cấp. Không có đầy đủ thể chế, việc phân cấp sẽ không được thực

hiện hoặc thực hiện tùy tiện, làm hỗn loạn trật tự xã hội. Vì vậy cần hoàn

thiện thể chế về phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và chính quyền

cấp tỉnh với một số nội dung như sau:

88

Thứ nhất, phân biệt sự khác nhau rõ hơn nữa giữa đô thị và nông thôn

để thực hiện phân cấp quản lý phù hợp với đặc điểm, tính chất của mỗi loại

hình địa phương. Do đó, bộ máy hành chính nhà nước ở đô thị phải mang tính

tập trung thống nhất, vận hành thông suốt, nhanh nhạy và không thể bị cắt

khúc theo kiểu cát cứ ở nông thôn.

Thứ hai, trong phần xây dựng hệ thống danh mục các công việc cần

phân cấp cho chính quyền cấp tỉnh phải quan tâm đến những bất cập trong

thực tế để sửa đổi các quy định của pháp luật như:

Khắc phục tình trạng còn thiếu và chậm ban hành văn bản hướng dẫn

cụ thể về: hướng dẫn phân cấp, xếp hạng các tổ chức sự nghiệp công lập; tổ

chức thi nâng ngạch cạnh tranh; quy định vị trí việc làm và cơ cấu công chức;

tuyển dụng công chức…

Rà soát, sửa đổi các quy định về nội dung phân cấp về tổ chức bộ máy,

biên chế tại các Nghị định, thông tư (như: Nghị định số 41/NĐ-CP, ngày

08/5/2012 Nghị định số 55/2012/NĐ-CP ngày 28/6/2012 …) để đảm bảo

thống nhất, phù hợp với quy định tại Nghị quyết 08/2004/NQ-CP. Sớm ban

hành quy định về phân cấp quản lý nhà nước về tổ chức bộ máy các cơ quan

chuyên môn, đơn vị sự nghiệp thuộc UBND tỉnh.

Rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách đối với cán bộ, công chức theo

hướng khuyến khích cán bộ, công chức nâng cao trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ, đạo đức công vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ; lấy bản lĩnh chính

trị, phẩm chất, đạo đức, năng lực, hiệu quả thực thi nhiệm vụ để đánh giá,

đề bạt bổ nhiệm cán bộ. Xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút,

trọng dụng nhân tài.

Tiếp tục ban hành, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn ngạch công chức để

tiêu chuẩn hóa và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, phân cấp, ủy

quyền, kiểm tra, giám sát công tác tuyển dụng, nâng ngạch công chức, thi

89

thăng hạng… ở các Bộ, ngành và địa phương; hoàn thiện cơ sở dữ liệu công

chức, ứng dụng rộng rãi phần mền thi tuyển và thi nâng ngạch công chức.

Quy định cụ thể và thống nhất công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức; chuyển đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức sang bồi

dưỡng theo chức vụ lãnh đạo, quản lý và vị trí việc làm.

Thứ ba, quy định cụ thể về phân cấp giữa trung ương và địa phương

cũng như giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau theo hướng việc gì

hoàn toàn thuộc thẩm quyền của trung ương thì chính quyền địa phương chỉ

giữ vai trò phối hợp, việc gì thuộc thẩm quyền riêng của địa phương thì cơ

quan nhà nước trung ương không được can thiệp mà giữ vai trò trong việc

kiểm tra, giám sát và việc gì là việc chung thì cần phân công, phân cấp cho rõ

trong các văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ tư, về phương thức thực hiện, phân cấp quản lý dựa trên việc

chuyển giao nhiệm vụ giữa cơ quan hành chính cấp trên cho cấp dưới thực

hiện; phân cấp, điều chỉnh lại nhiệm vụ giữa các bộ, ngành, các cấp quản lý;

bãi bỏ quy định hiện hành không cần thiết, không hợp lý để qua đó thực hiện

phân cấp; quy định chế đọ tự chủ, tự chịu trách nhiệm để thực hiện phân cấp.

3.2.4. Cơ cấu lại mối quan hệ giữa trung ương và chính quyền cấp tỉnh

Cần xác định cơ cấu tổ chức và xây dựng mối quan hệ giữa các đơn vị

theo nguyên tắc một việc giao cho một đơn vị thực hiện các đơn vị khác phối

hợp. Cần xác định phân định thẩm quyền giữa các các cấp chính quyền trong

hệ thống cơ quan hành chính nhà nước theo hướng:

Phân định rõ nhóm các công việc thuộc thẩm quyền của mỗi cấp để

tránh trùng lặp. Cụ thể là:

Nhóm công việc thuộc thẩm quyền của các cơ quan trung ương, nhất là

liên quan đến lĩnh vực lập pháp.

Nhóm công việc thuộc thẩm quyền của các cơ quan ở địa phương,

trong đó cũng phân công theo từng cấp cho phù hợp với khả năng thực hiện.

90

Nhóm các công việc có sự phối hợp thực hiện giữa trung ương và địa

phương, nghĩa là thuộc thẩm quyền của trung ương, nhưng được thực hiện

thong qua các địa phương.

Từ đó, cần phân định rõ thẩm quyền giữa các cấp chính quyền như sau:

Một là, Chính phủ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành chức năng tiến

hành rà soát và đề xuất việc sửa đổi, bổ sung các văn bản luật, pháp lệnh, nghị

định của Chính phủ cũng như các hình thức văn bản quy phạm pháp luật khác

có liên quan đến phân cấp quản lý về TCBM & BC để trình cấp có thẩm

quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền.

Hai là, đối với các bộ, ngành và chính quyền cấp tỉnh. Về cơ bản sau

phân cấp, các bộ, ngành trung ương và chính quyền cấp tỉnh với tư cách là cơ

quan QLNN được Chính phủ phân cấp quản lý cần tập trung vào việc tổ chức

triển khai các quy định về phân cấp quản lý TCBM và phân cấp quản lý thuộc

phạm vi của cấp mình. Trên cơ sở đó, tiếp tục ban hành các văn bản phân cấp

quản lý cho các đơn vị trực thuộc và chính quyền cấp huyện; trong đó, cần tập

trung vào thực hiện các nội dung công việc cơ bản sau:

Ba là, Các bộ, ngành xác định chuyển giao các nội dung công việc và đối

tượng quản lý thuộc bộ, ngành cần tiếp tục phân cấp cho chính quyền cấp tỉnh.

Bốn là, Chính quyền cấp tỉnh xác định và chuyển giao các đối tượng và

nội dung công việc cần phân cấp cho chính quyền cấp huyện và cấp sở quản

lý. Theo đó, chính quyền cấp huyện xác định và chuyển giao các đối tượng và

nội dung công việc cần phân cấp cho chính quyền cấp xã quản lý.

3.2.5. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính

Trong quản lý điều hành nền hành chính nhà nước, giải quyết các công

việc nhà nước, công việc của công dân, thủ tục hành chính có ý nghĩa, vai trò

đặc biệt quan trọng. Thủ tục hành chính là phương thức để đưa ra các quy

định thể chế vào đời sống nhà nước, đời sống xã hội. Do đó, đi đối với việc

91

phân cấp quản lý phải đồng thời tiến hành cải cách thủ tục hành chính theo

hướng “một cửa” và “một cửa liên thông” ở tất cả các cấp, các ngành để giải

quyết các công việc một cách đơn giản, nhanh chóng, kịp thời phục vụ mọi

yêu cầu của phát triển.

3.2.6. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ, công chức hành chính

nhà nước

Cán bộ, công chức hành chính nhà nước là những người trực tiếp thực

hiện mọi chủ trương, chính sách, pháp luật về phân cấp quản lý. Cán bộ, công

chức là khâu quyết định của mọi thành công. Vì vậy, để nâng cao chất lượng

của cán bộ, công chức, đặc biệt là cán bộ, công chức của chính quyền cấp tỉnh

cần thay đổi phương thức đào tạo, bồi dưỡng công chức hành chính chuyển từ

việc đào tạo cung cấp tri thức, chuyên môn nghiệp vụ sang hướng nâng cao

năng lực cho cán bộ, công chức với các nội dung: nâng cao tri thức, kỹ năng

và ứng xử của cán bộ, công chức.

3.2.7. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát và nâng cao

trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước

Thực tiễn cho thấy, thiếu sự chỉ đạo thống nhất và chặt chẽ từ Trung

ương đến địa phương, để chỉ đạo, điều hành tốt và kịp thời phát hiện, xử lý

những vi phạm trong công tác quản lý TCBM và CBCC thì việc kiểm tra,

giám sát sau phân cấp là hết sức cần thiết.

Trong phân cấp quản lý TCBC và CBCC cần tiến hành chặt chẽ công tác

kiểm tra, giám sát. Nghiên cứu về mô hình tự quản địa phương ở các nước

phương Tây, tôi thấy nổi lên là việc kiểm soát của Trung ương đối với chính

quyền địa phương là một vấn đề hết sức quan trọng giúp cho việc đảm bảo thực

hiệu quả quản lý ở địa phương. Hiến chương về tự quản địa phương Châu Âu

năm 1985 (khoản 2, điều 8) đã khẳng định: “bất kỳ sự kiểm soát hành chính

nào đối với hoạt động của cơ quan tự quản địa phương cũng phải hướng tới

mục đích đảm bảo tính pháp chế và nguyên tắc tối cao của Hiến pháp”.

92

Trước đây, việc kiểm soát của Trung ương đối với hoạt động địa

phương được tiến hành chủ yếu bằng phương thức giám hộ hành chính, tức là

các quyết định của chính quyền địa phương chỉ có hiệu lực khi các cấp giám

sát trung ương phê chuẩn. Các quyết định có thể không được thông qua vì lý

do không phù hợp với mục đích của Luật hay không hợp lý. Hiện nay, tại các

nước dân chủ, việc giám hộ hành chính gần như được thay thế bởi kiểm tra

hành chính. Theo đó, các quyết định của chính quyền địa phương về các vấn

đề thuộc thẩm quyền địa phương chỉ có thể bị bác bỏ vì lý do trái với pháp

luật theo trình tự thủ tục tố tụng tư pháp.

Thực tiễn quản lý TCBM và CBCC ở nước ta cho thấy việc kiểm tra,

giám sát đối với các hoạt động của địa phương. Kiểm soát của trung ương đối

với địa phương giúp cho việc bảo đảm thực hiện có hiệu quả việc quản lý địa

phương, trong đó có quản lý TCBM và CBCC. Quản lý mà không có kiểm tra

thì xem như không có quản lý. Công tác này cần được cải cách và việc cải cách

đi liền với vấn đề xây dựng mô hình chính quyền địa phương phân cấp quản lý

ở mức độ cao theo nguyên tắc tập trung dân chủ hay xây dựng mô hình chính

quyền địa phương theo nguyên tắc tự quản. Nhưng dù mô hình chính quyền

nào đi nữa thì vấn đề luôn đặt ra là kiểm tra, giám sát. Bên cạnh việc tăng

cường kiểm tra của Nhà nước, cần đặc biệt coi trọng hình thức giám sát của xã

hội với tư cách là một hoạt động hết sức quan trọng của xã hội công dân.

Đi đối với công tác kiểm tra, thanh tra phải nâng cao trách nhiệm của

người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước và xử lý nghiêm những trường

hợp sai phạm và khắc phục những hậu quả do sai phạm trong thực hiện phân

cấp tạo nên.

3.2.8. Đảm bảo nguồn lực tài chính để giúp các cấp thực hiện nhiệm vụ

Nguồn lực tài chính là một trong những yếu tố tác động quyết định đến

hiệu lực, hiệu quả phân cấp. Việc xác định nguồn lực tài chính cho các cơ

93

quan hành chính khi thực hiện các thẩm quyền được giao phải chú ý những

biện pháp quản lý cơ bản như:

Phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền phải tương ứng với nguồn

lực tài chính. Xu hướng cải cách quản lý tài chính công hiện nay là quản lý

theo hiệu quả đầu ra kết hợp với giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về

việc sử dụng ngân sách được cấp.

Tăng cường kiểm soát tài chính thông qua các hoạt động kiểm toán,

kiểm tra, giám sát, thanh tra.

94

KẾT LUẬN

Phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và chính quyền cấp tỉnh

trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ công chức là một nội dung tất yếu

khách quan nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu

trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền địa phương trên cơ sở đảm bảo sự quản

lý thống nhất, thông suốt của Chính phủ nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả

quản lý nhà nước, phục vụ tốt hơn nhu cầu và lợi ích của nhân dân, đáp ứng

yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện mới.

Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, Chính phủ, các bộ, các cơ quan ngang Bộ phải tập trung hơn vào công

tác quản lý nhà nước ở tầm vĩ mô như xây dựng chính sách, pháp luật, chiến

lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của đất nước và tăng cường chỉ đạo, điều

hành tổng thể, thanh tra, kiểm tra việc tổ chức thực hiện; hạn chế tố đa sự can

thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp.

Chính quyền địa phương các cấp được tự chủ, tự chịu trách nhiệm

trong việc thực hiện các nhiệm vụ của quản lý nhà nước trên địa bàn theo quy

định của pháp luật. Tuân thủ nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo

ngành với quản lý theo lãnh thổ, phân định rõ những nhiệm vụ quản lý nhà

nước của Bộ, ngành với nhiệm vụ quản lý nhà nước của chính quyền địa

phương đối với các hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn lãnh thổ.

Phân cấp quản lý nhà nước không đơn giản chỉ là cắt khúc hay chia đều

nhiệm vụ cho từng cấp chính quyền thực hiện mà còn đòi hỏi trách nhiệm

phối hợp của cấp trên và của cấp dưới. Mức độ, phạm vi và tiến trình phân

cấp không chỉ lệ thuộc vào các nhiệm vụ cần phân cấp, mà còn lệ thuộc vào

khả năng và trách nhiệm phối hợp giữa các cấp cũng như năng lực của chính

quyền cấp dưới khi phải đảm nhận giữa các cấp cũng như năng lực của chính

quyền cấp dưới khi phải đảm nhận nhiệm vụ được phân cấp. Phân cấp càng

95

mạnh và toàn diện thì nhu cầu phối hợp càng tăng lên. Mục tiêu quan trọng

nhất của cả phân cấp lẫn phối hợp trong quản lý là đạt được hiệu quả tổng thể

cao nhất của các cấp quản lý.

Việc nghiên cứu phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và chính

quyền cấp tỉnh trong lĩnh vực tổ chức bộ máy và cán bộ công chức góp phần

đưa những tồn tại, yếu kém trong phân cấp quản lý tổ chức bộ máy và cán bộ

công chức. Thông qua đó làm rõ việc hoàn thiện về cơ cấu tổ chức bộ máy

của mỗi cấp chính quyền cũng như hoàn thiện các quy định về chế độ công

chức, công vụ và phân cấp quản lý cán bộ, công chức. Đây là một nghiên cứu

góp phần vào việc đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý tổ

chức bộ máy và cán bộ công chức ở Việt Nam trong thời kỳ mới và những

điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện giải pháp trên có hiệu quả.

96

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Tổ chức cán bộ chính phủ (2001), Điều tra cơ bản về chức năng,

nhiệm vụ và phân công, phân cấp quản lý nhà nước trung ương – địa

phương, Báo cáo dự án, Hà Nội.

2. Bộ Chính trị (2007), Quyết định số 67-QĐ/TW ngày 04/7/2007 ban

hành Quy định về phân cấp, quản lý cán bộ, Hà Nội.

3. Bộ Công Thương, Bộ Nội vụ (2011), Thông tư liên tịch Số

16/2011/TTLT-BCT-BNV Của Bộ Công thương và Bộ Nội vụ ngày 5

tháng 4 năm 2011 Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu

tổ chức và biên chế của trung tâm khuyến công vả tư vấn phát triển

công nghiệp trực thuộc Sở Công thương, Hà Nội.

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Thông tư số 33/2005/TT-BGD&ĐT

ngày 08/12/2005 của Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn tạm thời thực

hiện chế độ phụ cấp chức vụ lãnh đạo trong các cơ sở giáo dục công

lập; Công văn số 3644/TC-ĐH ngày 17/12/1985 của Bộ Đại học và

Trung học chuyên nghiệp (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) về việc

hướng dẫn phân hạng trường, Hà Nội.

5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Thông tư số 48/2008/TT-BGDĐT ngày

25/08/2008 hướng dẫn xếp hạng và thực hiện chế độ phụ cấp chức vụ

lãnh đạo của Trung tâm giáo dục thường xuyên, Hà Nội.

6. Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nội vụ (2007), Thông tư liên tịch số

06/2007/TTLT-BGTVT-BNV ngày 17/5/2007 hướng dẫn xếp hạng các

đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công lập thuộc ngành giao thông vận tải đã

phân cấp cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định xếp hạng các đơn vị

sự nghiệp, dịch vụ công lập do UBND cấp tỉnh và Sở giao thông vận tải

quản lý, Hà Nội.

97

7. Bộ Khoa học và Công nghệ (2005), Thông tư số 18/2005/TT-BKHCN

của Bộ Khoa học Công nghệ ngày 02/11/2005 hướng dẫn thực hiện chế

độ phụ cấp chức vụ lãnh đạo trong các tổ chức khoa học và công nghệ,

Hà Nội.

8. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2006), Thông tư số 18/2006/TT-

BLĐTBXH của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ngày 28 tháng 11

năm 2006 Hướng dẫn xếp hạng một số loại hình đơn vị sự nghiệp công

lập thuộc ngành lao động, thương binh và xã hội, Hà Nội.

9. Bộ Nội vụ (2003), Đề án phân cấp QLNN trung ương – địa phương,

Hà Nội.

10. Bộ Nội vụ (2005), Đề án phân cấp quản lý nhà nước các lĩnh vực thuộc

thẩm quyền quản lý của Bộ Nội vụ, Hà Nội.

11. Bộ Nội vụ (2005), Thông tư số 36/2005/TT-BNV của Bộ Nội vụ ngày

6/4/2005 về việc xếp hạng Ban quản lý khu công nghiệp, Ban quản lý

khu kinh tế, Ban quản lý khu kinh tế mở, Ban quản lý khu kinh tế cửa

khẩu, Ban quản lý khu kinh tế- thương mại, Ban quản lý khu công

nghiệp cao và các Ban quản lý có tên gọi khác, Hà Nội.

12. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Nội vụ (2009), Thông tư

liên tịch số 79/2009/TTLT-BNNPTNT-BNV của Bộ Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn và Bộ Nội vụ ngày 14 tháng 12 năm 2009 hướng

dẫn việc xếp hạng các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công lập thuộc ngành

nông nghiệp và phát triển nông thôn, Hà Nội.

13. Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ (2010), Thông tư liên tịch số 02/2010/TTLT-

BTP-BNV của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ ngày 11 tháng 02 năm 2010

hướng dẫn việc xếp hạng các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc ngành

Tư pháp, Hà Nội.

98

14. Bộ Văn hóa thông tin (2006), Thông tư số 67/2006/TT-BVHTT của Bộ

Văn hóa thông tin ngày 10/08/2006 hướng dẫn phân hạng và thực hiện

phụ cấp chức vụ lãnh đạo trong các tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công

lập hoạt động văn hóa – thông tin, Hà Nội.

15. Bộ Y tế (2005), Thông tư số 23/2005/TT-BYT của Bộ Y tế ngày

25/08/2005 hướng dẫn xếp hạng các đơn vị sự nghiệp y tế, Hà Nội.

16. Chính phủ (2003), Nghị định số 71/2003/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2003

về phân cấp quản lý biên chế hành chính, sự nghiệp nhà nước, Hà Nội.

17. Chính phủ (2004), Nghị quyết 08/2004/NQ-CP ngày 20 tháng 6 năm

2004 quy định về việc đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính

phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Hà Nội.

18. Chính phủ (2008), Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 quy

định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế, Hà Nội.

19. Chính phủ (2010), Nghị đinh số 18/2010/NĐ-CP ngày 5/3/210 quy định

về đào tạo bồi dưỡng công chức, Hà Nội.

20. Chính phủ (2010), Nghị định số 21/2010/NĐ-CP ngày 08 tháng 03 năm

2010 của Chính phủ, Về quản lý biên chế công chức, Hà Nội.

21. Chính phủ (2010), Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 03 năm

2010 của Chính phủ Quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công

chức, Hà Nội.

22. Chính phủ (2010), Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 4 năm

2010 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, Hà Nội.

23. Chính phủ (2010), Nghị định số 93/2010/NĐ-CP ngày 31 tháng 08 năm

2010 của Chính phủ Về sửa đổi một số điều của Nghị định số

24/2010/NĐ-CP ngày 15/03/2010 quy định của Chính phủ về tuyển

dụng, sử dụng và quản lý công chức, Hà Nội.

24. Chính phủ (2011), Nghị định 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011 quy định

về xử lý kỷ luật đối với công chức, Hà Nội.

99

25. Chính phủ (2012), Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/04/2012 của

Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức, Hà Nội.

26. Chính phủ (2012), Nghị định số 36/2012/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18

tháng 04 năm 2012 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu

tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ, ngày 18 tháng 04 năm 2012, Hà Nội.

27. Chính phủ (2012), Nghị định số 41/2012/NĐ-CP ngày 08/5/2012 về

Quy định vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập, Hà Nội.

28. Chính phủ (2012), Nghị định số 55/2012/NĐ-CP của Chính phủ ngày

28 tháng 06 năm 2012 quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn

vị sự nghiệp công lập, Hà Nội.

29. Chính phủ (2013), Nghị định số 36/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 4 năm

2013 về vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức, Hà Nội.

30. Chính phủ (2014), Nghị định số 24/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày

04 tháng 04 năm 2014 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc

Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Hà Nội.

31. Chính phủ (2014), Nghị định số 37/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày

05 tháng 05 năm 2014 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc

Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Hà Nội.

32. Chính phủ (2014), Nghị định số 65/2014/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm

2014 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung

một số điều của Luật thi đua khen thưởng năm 2013, Hà Nội.

33. Chính phủ (2014), Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 về

chính sách tinh giản biên chế, Hà Nội.

34. Chính phủ (2015), Nghị định số 16/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày

14 tháng 02 năm 2015 Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp

công lập, Hà Nội.

35. Chính phủ (2015), Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm

2015 về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức, Hà Nội.

100

36. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Đảng cộng sản Việt Nam (2013), Kết luận số 64-KL/TW ngày 28/5/2013

của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 7 Khóa XI, Hà Nội.

40. Tô Tử Hạ (2003), Từ điển Hành chính, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.

41. Nguyễn Thị Hồng Hải (2013), “Xu hướng thay đổi trong quản lý

công chức ở một số nước trên thế giới”, Tạp chí Tổ chức nhà nước,

Bộ Nội vụ, (1).

42. Đào Bích Hiên (2005), “Bàn về phân cấp quản lý giữa các cấp chính

quyền địa phương ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,

Bộ Tư pháp, (9).

43. Học Viện Hành chính quốc gia (2005), Hành chính công – dùng cho

nghiên cứu học tập và giảng dạy sau đại học, NXB Khoa học và Kỹ

thuật, Hà Nội.

44. Học Viện Hành chính quốc gia, Viện nghiên cứu hành chính (2002),

Thuật ngữ hành chính, Hà Nội.

45. J.M.Cohen và S.B.Peterson (2002), Phân cấp quản lý hành chính –

chiến lược cho các nước phát triển, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

46. Trương Đắc Linh (2002), “Phân cấp quản lý trung ương và địa phương

- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nghiên cứu lập pháp, (3).

47. Uông Chu Lưu (2005), “Một số vấn đề về phân cấp quản lý nhà nước”,

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (Chuyên đề 60 năm ngành Tư pháp).

48. Hoàng Mai (2010), Phân cấp quản lý nhân sự hành chính ở Việt Nam,

Luận án tiến sĩ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính, Hà Nội.

101

49. Ngân hàng Thế giới (2005), Phân cấp ở Đông Nam Á để chính quyền

phát huy tác dụng, NXB Văn hóa thông tin.

50. Hoàng Thị Ngân (2009), “Đẩy mạnh công tác phân cấp trung ương và địa

phương”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, (2+3).

51. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2002), Phân cấp hành chính – chiến

lược của các nước phát triển, Hà Nội.

52. Trần Thị Diệu Oanh (2013), Về tác động của phân cấp quản lý đến địa

vị pháp lý của chính quyền địa phương trong đổi mới tổ chức hoạt

động bộ máy nhà nước, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

53. Nguyễn Minh Phương (2007), “Để tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý

giữa các cấp chính quyền địa phương hiện nay”, Tạp chí Quản lý nhà

nước, Học viện Hành chính, (1).

54. Nguyễn Minh Phương (2012), “Tiếp tục đẩy mạnh cải cách công vụ,

công chức ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Quản lý nhà nước, Học viện

Hành chính, (9).

55. Quốc hội (2005), Luật Thi đua khen thưởng, Hà Nội.

56. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, công chức, Hà Nội.

57. Quốc hội (2010), Luật Viên chức, Hà Nội

58. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

59. Quốc hội (2013), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thi đua khen

thưởng, Hà Nội.

60. Quốc hội (2015), Luật tổ chức chính phủ, Hà Nội.

61. Quốc hội (2015), Luật tổ chức chính quyền địa phương, Hà Nội.

62. Võ Kim Sơn (2004), Phân cấp trong quản lý nhà nước – Lý luận và

thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

63. Phạm Hồng Thái, Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Ngọc Chí (2011), Phân

cấp quản lý nhà nước, NXB Công an nhân dân.

102

64. Trần Anh Tuấn (2007), Hoàn thiện thể chế quản lý công chức ở Việt

Nam trong điều kiện phát triển và hội nhập quốc tế, Luận án tiến sĩ

Kinh tế, trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

65. Trần Anh Tuấn (2012), Pháp luật về công vụ, công chức của Việt Nam

và một số nước trên thế giới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

66. Viện khoa học pháp lý - Bộ tư pháp (2006), Từ điển luật học, NXB từ

điển bách khoa và NXB tư pháp, Hà Nội.

67. Viện ngôn ngữ học (1999), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

68. Nguyễn Cửu Việt (2005), “Phân cấp quản lý trong mối quan hệ giữa

Trung ương và địa phương”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng

Quốc hội, (7).

69. Nguyễn Cửu Việt, Trương Đắc Linh (2011), “Sửa đổi Hiến pháp – nhìn

từ chiến lược phan cấp quản lý”, Tạp chí Khoa học pháp lý, (3).

70. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa – Thông

tin, Hà Nội.

103