ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

TRẦN THỊ GIANG

PHÂN LOẠI TỘI PHẠM

TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà nội – 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

TRẦN THỊ GIANG

PHÂN LOẠI TỘI PHẠM

TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 8380101,03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Độ

Hà nội – 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng

dẫn của PGS.TS Trần Văn Độ. Các thông tin và kết quả nghiên cứu được trong

luận văn do tự tôi thu thập, tìm hiểu, tổng hợp và phân tích một cách khách quan.

Hà Nội, ngày tháng năm 2020

Tác giả

Trần Thị Giang

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN LOẠI TỘI PHẠM ........... 6

1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phân loại tội phạm .......................................................... 6

1.1.1. Khái niệm phân loại tội phạm ........................................................................... 6

1.1.2. Ý nghĩa của phân loại tội phạm ...................................................................... 11

1.2. Các cách phân loại tội phạm .............................................................................. 17

1.2.1. Phân loại tội phạm căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm.... 17

1.2.2. Phân loại căn cứ vào hình thức lỗi .................................................................. 19

1.2.3. Căn cứ vào khách thể loại của tội phạm ......................................................... 20

1.2.4. Căn cứ chủ thể của tội phạm ........................................................................... 22

1.2.5. Căn cứ cấu trúc cấu thành tội phạm: ............................................................... 23

1.2.6. Căn cứ vào bị hại:............................................................................................ 23

1.3. Phân loại tội phạm trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam ........................... 24

1.3.1. Phân loại tội phạm trong pháp luật hình sự trước pháp điển hoá (1985) ........ 24

1.3.2. Phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 1985 .............................................. 26

1.3.3. Phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 1999 .............................................. 28

1.4. Phân loại tội phạm trong pháp luật hình sự một số nước và kinh nghiệm cho

Việt Nam ................................................................................................................... 28

1.4.1. Phân loại tội phạm theo Bộ Luật hình sự Đức Error! Bookmark not defined.

1.4.2. Vấn đề phân loại tội phạm trong luật hình sự Thụy Điển ............................... 34

1.4.3. Vấn đề phân loại tội phạm trong Luật hình sự Liên Bang Nga............................34

1.4.4. Phân loại tội phạm trong Luật hình sự nước Cộng Hòa Pháp.........................34

1.4.5. Kinh nghiệm cho Việt Nam...................................................................................34

Chương 2. PHÂN LOẠI TỘI PHẠM TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 VÀ

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ............................................................................................ 36

2.1. Phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 2015 ................................................. 36

2.1.1. Các dạng phân loại tội phạm trong phần chung Bộ luật Hình sự ................... 36

2.1.2. Thể hiện của phân loại tội phạm trong các chế định phần chung ................... 46

2.1.3. Thể hiện của phân loại tội phạm trong phần thứ hai ....................................... 54

2.2. Đánh giá việc phân loại tội phạm và một số kiến nghị ...................................... 58

2.2.1. Đánh giá việc phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 2015 ....................... 58

2.2.2. Một số kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện phân loại tội phạm trong pháp luật

hình sự Việt Nam ...................................................................................................... 63

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 72

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình

sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện

một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh

thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng,

an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm

quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực

khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật Hình sự

phải bị xử lý hình sự.

Nghiên cứu về tội phạm là vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của Luật Hình sự

Việt Nam. Bởi lẽ, tội phạm là đối tượng đấu tranh chống và phòng ngừa của chính

sách hình sự của Nhà nước.

Do đó, việc phân loại tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quy

định các nguyên tắc xử lý, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu thi hành

bản án và các quy định khác về điều kiện áp dụng một số loại hình phạt hoặc biện

pháp tư pháp, v.v... Phân loại tội phạm còn là cơ sở để cụ thể hóa TNHS, quy định

khung hình phạt, bảo đảm nguyên tắc cá thể hóa TNHS và hình phạt. Ngoài ra, việc

phân loại tội phạm còn có ý nghĩa đối với việc quy định một số chế định tạm giam,

tạm giữ trong BLHS. Phân loại tội phạm trong Luật Hình sự là chia những hành vi

nguy hiểm trong xã hội bị Luật Hình sự cấm thành từng loại nhất định theo những

tiêu chí này hay những tiêu chí khác để làm tiền đề cho cá thể hóa TNHS và hình

phạt hoặc tha miễn TNHS và hình phạt.

Có thể nói, Bộ luật Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Hình sự năm 1999 đã có

rất nhiều điểm mới và sự thay đổi, đặc biệt là những quy định về phần tội phạm,

phân lọai tội phạm. Điều này góp phần tích cực cho hoạt động cải cách tư pháp

trong nền Pháp luật Việt Nam nói chung và việc áp dụng, thực thi Bộ luật Hình sự nói

riêng vào đời sống xã hội hiện nay. Chính vì vậy, học viên đã chọn đề tài: “Phân loại

1

tội phạm trong luật Hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ Luật học.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu cuối cùng, chung nhất của vấn đề nghiên cứu là nhằm hoàn thiện và

áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự như: Chế định tuổi chịu trách nhiệm hình

sự; Nguyên tắc xử lý người phạm tội; Chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình

sự... và đặc biệt để cá thể hoá hình phạt được chính xác.

3. Tính mới và những đóng góp của đề tài

3.1. Tính mới của đề tài

Đề tài này sẽ nghiên cứu và phân tích từng loại tội phạm cũng như một số tội

danh cụ thể theo những điểm mới tích cực của Bộ luật Hình sự năm 2015. Điều này

sẽ là điểm mới rõ rệt nhất so với những đề tài nghiên cứu đã được hoàn thành.

3.2. Những đóng góp của đề tài về mặt khoa học

Một là, phân loại tội phạm là cơ sở để xác định và xây dựng các biện pháp pháp

lý hình sự tương ứng với tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, xác định chính

sách hình sự cụ thể đối với từng hành vi phạm tội cụ thể (chính sách hình sự đối với

người chưa thành niên phạm tội - chương X Bộ luật Hình sự, chính sách xử lý hành

vi chuẩn bị phạm tội…vv…)

Hai là, mặt khác, phân loại tội phạm cũng có vai trò quan trọng trong việc triển

khai chính sách hình sự thông qua nhận thức và phản ứng của Nhà nước đối với các

tội có tính nguy hiểm cho xã hội khác nhau thì có biện pháp xử lý khác nhau. Nó

chi phối hầu hết các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự về

tội phạm, hình phạt, thẩm quyền điều tra, xét xử…vv…

Ba là, trong hoạt động lập pháp, phân loại tội phạm là cơ sở để xây dựng các

chế định về tội phạm và hình phạt, là cơ sở thống nhất để xây dựng các khung hình

phạt cho tội phạm cụ thể.

Bốn là, ngoài ra, phân loại tội phạm còn là cơ sở để xác định đường lối đấu

tranh với các tội phạm khác nhau cũng như các ngành tính nguy hiểm cho xã hội

của tội phạm, mà yêu cầu phân hóa trách nhiệm hình sự được đặt ra và trở thành

nguyên tắc của Luật hình sự.

Năm là, phân loại tội phạm thành các nhóm khác nhau là biểu hiện của sự phân

2

hóa trách nhiệm hình sự ở góc độ lập pháp. Bên cạnh đó, nghiên cứu chế định phân

loại tội phạm trong mối quan hệ thống nhất các chế định khác sẽ tạo tiền đề cho

việc nhận thức đúng bản chất của tội phạm, đánh giá đúng tính nguy hiểm cho xã

hội của tội phạm, là cơ sở để hoàn thiện pháp luật hình sự.

3.3. Những đóng góp của đề tài về mặt thực tiễn

Một là, phân loại tội phạm có ý nghĩa trước hết đối với việc áp dụng nhiều quy

phạm phần chung và phần các tội phạm Bộ luật Hình sự, như: chế định tuổi chịu

trách nhiệm hình sự, chế định các giai đoạn phạm tội, chế định thời hiệu truy cứu

trách nhiệm hình sự… Chẳng hạn, theo quy định của pháp luật hiện hành, những

người chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu tội họ chuẩn bị

phạm là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, người từ đủ 14 tuổi trở

lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội rất

nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng; ...v.v...

Hai là, ngoài ra, việc phân loại tội phạm còn có ý nghĩa chi phối đối với việc áp

dụng một số chế định của luật tố tụng hình sự. Việc bắt người trong trường hợp

khẩn cấp chỉ được thực hiện khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị phạm

một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; các quy định về thời hạn đưa

vụ án ra xét xử hoặc ra các quyết định cụ thể đối với từng loại tội phạm cụ

thể...v.v...

Ba là, kết luận, phân loại tội phạm là đòi hỏi cần thiết cho việc phân hóa trách

nhiệm hình sự trong luật cũng như áp dụng luật, chính vì thế vấn đề này được đặt ra

trong các bộ luật. Việc phân loại tội phạm chẳng những hỗ trợ cho việc áp dụng

đúng luật mà nếu nhìn rộng ra, nhà làm luật còn có thể dựa vào tính nguy hiểm cho

quan hệ xã hội mà nó xâm hại để đánh giá, nhằm bảo vệ cho chế độ chính trị hiệu

quả hơn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc

3

phân loại tội phạm, các cách phân loại tội phạm trong luật hình sự, các quy định về

tội phạm và hình phạt trong Bộ luật Hình sự và nghiên cứu sự phân loại từng tội

phạm cụ thể.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu về các hình thức, cách thức cũng như ý nghĩa của việc phân loại

tội phạm theo Luật Hình sự Việt Nam hiện nay, cụ thể là theo Bộ luật Hình sự năm

2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực ngày 01/01/2018. Bên cạnh đó, có sự so

sánh, phân tích những điểm mới so với Bộ luật Hình sự năm 1999.

Đồng thời, đề tài nêu ra việc phân loại tội phạm trong lịch sử lập pháp hình sự,

trước khi pháp điển hóa luật hình sự và sau khi nước ta ban hành BLHS, quy định về

phân loại tội phạm trong luật hình sự của một số nước. Ngoài ra, luận văn còn nghiên

cứu việc xây dựng và hoàn thiện các chế định về tội phạm và CTTP, các chế định về

hình phạt và quyết định hình phạt của BLHS hiện hành trên cơ sở quy định về phân

loại tội phạm.

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ

nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm về chính sách hình sự của

Đảng và Nhà nước ta, trên cơ sở tri thức của các ngành khoa học khác như luật học,

tâm lý học, xã hội học, thống kê học… để nhận thức và luận chứng các vấn đề

nghiên cứu.

Cụ thể, các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu đề

tài luận văn là: phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp phân tích, quy nạp,

tổng hợp, hệ thống, phương pháp luật học so sánh, phương pháp thống kê, …

6. Tình hình nghiên cứu

Trong khoa học luật Hình sự, vấn đề phân loại tội phạm đã sớm được các nhà khoa

học luật quan tâm và nghiên cứu. Do ý nghĩa của việc phân loại tội phạm đối với việc

xây dựng và áp dụng luật hình sự nên trong BLHS của các nước đều có quy định về

phân loại tội phạm. Ở nước ta việc phân loại tội phạm cũng được thực hiện và quy định

theo những tiêu chí và quan niệm khác nhau. Trong các công trình nghiên cứu và trong

4

các giáo trình giảng dạy ở nước ta, việc phân loại tội phạm trong luật hình sự đã được

đề cập dưới những góc độ và mức độ khác nhau. Vấn đề phân loại tội phạm được quy

định tại Điều 9 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bên cạnh đó, được phân tích

và đề cập trong các công trình nghiên cứu khác như: Đào Trí Úc (2000), Luật hình sự

Việt Nam (Quyển I Những vấn đề chung), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội; Đỗ Ngọc

Quang, Trịnh Quốc Toản, Nguyễn Ngọc Hòa (1997) Giáo trình luật hình sự Việt

Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Cảm (2005), Sách chuyên

khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong Khoa học luật Hình sự (Phần chung),

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; Lê Cảm (chủ biên) (2003), Giáo trình luật

hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,..

Từ trước pháp điển hóa năm 1985 đến nay, không có nhiều công trình luận án,

luận văn viết về đề tài phân loại tội phạm. Chỉ đáng kể đến là Luận án tiến sỹ với đề

tài "Phân loại tội phạm theo luật hình sự Việt Nam" của tác giả Trương Minh Hạnh

5

được hoàn thành và bảo vệ năm 2004.

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN LOẠI TỘI PHẠM

1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phân loại tội phạm

1.1.1. Khái niệm phân loại tội phạm

Trước khi tìm khái niệm phân loại tội phạm thì một vấn đề cần quan tâm đó là

tìm hiểu khái niệm tội phạm. Khái niệm tội phạm là một trong những vấn đề quan

trọng nhất của luật hình sự. Chế định tội phạm là chế định trung tâm thể hiện rõ nét

bản chất giai cấp, các đặc điểm chính trị, xã hội cũng như pháp lý của luật hình sự ở

mỗi nước. Tội phạm là một hiện tượng xã hội, cho nên khái niệm của nó luôn luôn

gắn liền với sự phát triển xã hội và ngày càng được nghiên cứu hoàn thiện. Hiện

nay, một số quốc gia trên thế giới có quy định khái niệm tội phạm trong Bộ luật

Hình sự (BLHS), tuy nhiên cũng có một số quốc gia không đưa khái niệm tội phạm

vào Bộ luật Hình sự.

Bộ luật Hình sự Cộng hòa Liên bang Đức không có điều luật về khái niệm tội

phạm nhưng có cả một chương quy định về hành vi phạm tội. Trong đó, các quy

định tập trung vào các vấn đề như: chủ thể của tội phạm, vấn đề lỗi và các trường

hợp sai lầm, vấn đề thực hiện qua không hành động và vấn đề thực hiện cho người

khác, các căn cứ biện hộ (các căn cứ loại trừ tính trái pháp luật của hành vi), phạm

tội chưa đạt, người thực hiện phạm tội và người tòng phạm 37. Hay như ở Cộng

hòa Pháp, trong Phần chung của Bộ luật Hình sự không nêu các dấu hiệu của hành

vi phạm tội. Tuy nhiên, tại Phần các tội phạm lại quy định các dấu hiệu của hành vi

phạm tội như: mức độ nghiêm trọng của thiệt hại gây ra cho cá nhân, xã hội, Nhà

nước (Điều 111 – 1); tính trái pháp luật và tính phải chịu hình phạt của hành vi

(Điều 111 – 2, 111 – 3); tính có lỗi cố ý hoặc vô ý của hành vi (Điều 121 – 3) 16.

Và ở luật hình sự nước Anh không quy định khái niệm tội phạm và dấu hiệu của

một số tội cụ thể được quy định trong các đạo luật hình sự chuyên biệt.

Bên cạnh đó, ở một số quốc gia có quy định khái niệm tội phạm trong Luật

6

hình sự và cách thể hiện khái niệm tội phạm cũng có nhiều điểm khác nhau, có

những quốc gia chỉ quy định khái niệm tội phạm với dấu hiệu hình thức, có những

quốc gia quy định khái niệm tội phạm với sự kết hợp dấu hiệu hình thức và dấu hiệu

nội dung.

Thứ nhất, quy định khái niệm tội phạm với dấu hiệu hình thức

Ngay từ thời kỳ đầu khi xã hội tư sản vừa bước ra khỏi sự hạn chế của chủ

nghĩa phong kiến, với tư tưởng đề cao vai trò của tự do dân chủ và bình đẳng, tư

tưởng nhà nước pháp quyền thì quan niệm con người được phép làm những gì pháp

luật không cấm… được thể hiện rất rõ nét trong khái niệm tội phạm. Do đó, khái

niệm tội phạm trong Bộ luật Hình sự ở một số nước tư sản đã được diễn đạt bằng

nhiều cách khác nhau: là hành vi bị đạo luật hình sự cấm hoặc là “vi phạm pháp luật

bị Bộ luật Hình sự trừng trị” hoặc là “hành vi do luật hình sự cấm bằng nguy cơ xử

phạt”… Theo các luật gia tư sản thời kỳ này thì tội phạm là các hành vi do luật hình

quy định. Trong khái niệm tội phạm này tính luật định được coi là đặc điểm duy

nhất của tội phạm. Thực hiện nguyên tắc “không có tội phạm nếu điều đó không bị

cấm trong Bộ luật Hình sự”, các luật gia tư sản chứng minh được thế tiến bộ của

nước mình trước luật hình phong kiến 55. Cho tới nay, trong Bộ luật Hình sự ở

một số nước cũng vẫn quy định tội phạm dưới dạng hình thức là hành vi do Luật

định. Cụ thể như: tại Điều 1 BLHS Thụy Điển quy định: “Tội phạm là hành vi được

quy định trong Bộ luật này hoặc luật hoặc các văn bản pháp luật khác và bị áp

dụng các hình phạt theo quy định của Luật này” 51. Điều 10 Bộ luật Hình sự

Cộng hòa Tây Ban Nha thì tội phạm là hành vi bằng hành động hoặc không hành

động, có lỗi cố ý hoặc vô ý và bị áp dụng hình phạt theo quy định của Bộ luật Hình

sự. Theo quy định tại Điều 1 Bộ luật Hình sự Cộng hòa Thụy Sĩ, chỉ người nào thực

hiện hành vi bị Bộ luật Hình sự cấm bằng nguy cơ bị áp dụng hình phạt mới phải

chịu hình phạt.

Thứ hai, quy định khái niệm tội phạm với sự kết hợp cả dấu hiệu hình thức và

dấu hiệu nội dung

Hiện nay, cùng với dấu hiệu hình thức, ở một số nước đã đưa dấu hiệu nội dung

7

vào khái niệm tội phạm. Tội phạm không chỉ là hành vi được luật hình quy định mà

còn là hành vi chống lại lợi ích xã hội, là hành vi có hại. Các khái niệm tội phạm

được quy định trong Luật hình sự thể hiện ở hai dạng: khái niệm đầy đủ và khái

niệm tổng quát về tội phạm.

- Khái niệm đầy đủ về tội phạm:

Trong khái niệm này các tác giả đưa ra đầy đủ các dấu hiệu tội phạm. Một số

cho rằng “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật

Hình sự do người ở một độ tuổi luật định có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện

một cách cố ý hoặc vô ý và vì nó người phạm tội phải bị xử phạt”.

Theo khái niệm nêu trên, tội phạm được đưa ra với đầy đủ các dấu hiệu của nó

là: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; tội phạm được quy định trong Bộ luật

Hình sự; Tội phạm do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt đến một độ tuổi

nhất định thực hiện; tội phạm được thực hiện do cố ý hoặc vô ý (có lỗi) và người

phạm tội phải bị xử phạt. Điều 14 Bộ luật Hình sự Liên bang Nga năm 1996, sửa

đổi năm 2010 quy định: “Tội phạm là hành vi có lỗi gây nguy hiểm cho xã hội, bị

cấm bởi Bộ luật Hình sự và phải chịu hình phạt. Hành động (hoặc không hành

động), mặc dù về hình thức có bao hàm những dấu hiệu của một hành vi nào đó

được Bộ luật này quy định nhưng do tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể

thì không phải là tội phạm”54.

Cùng với quan điểm như trên, những người khác không coi tình tiết phải bị xử

phạt là dấu hiệu của tội phạm, và vì vậy không đưa đặc điểm này vào khái niệm đầy

đủ về tội phạm. Những tác giả này cho rằng: phạm tội thì không tránh khỏi phải

chịu hình phạt, đó là một trong những nguyên tắc quan trọng của luật hình sự. Phải

chịu xử phạt, đó là hậu quả tất yếu của việc thực hiện tội phạm chứ chính nó không

phải là thuộc tính của tội phạm. Mặt khác, trong thực tế có nhiều trường hợp tội

phạm không bị xử phạt do nhiều nguyên nhân khác nhau (quá thời hiệu, không

khám phá được, được miễn trách nhiệm hình sự…), vậy thì trong những trường hợp

ấy hành vi có được coi là tội phạm hay không nếu có đủ các yếu tố cấu thành. Thực

vậy, khi một người thực hiện hành vi chứa đựng đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội

8

phạm thì hành vi đó đã là tội phạm, không phụ thuộc người đó có bị xử phạt hay

không. Điều 13 Bộ luật Hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1997, sửa đổi

năm 2005 quy định: “Mọi hành vi gây nguy hại đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và

an ninh quốc gia; chia cắt quốc gia; lật đổ chính quyền chuyên chính dân chủ nhân

dân và xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa; phá hoại trật tự kinh tế xã hội; xâm phạm

tài sản thuộc sở hữu nhà nước và tài sản thuộc sở hữu tập thể của quần chúng lao

động; xâm phạm tài sản thuộc sở hữu riêng của công dân; xâm phạm các quyền

nhân thân dân chủ và các quyền khác của công dân cũng như các hành vi khác gây

nguy hại cho xã hội được quy định là tội phạm. Những hành vi nhỏ nhặt gây hại

không lớn thì không phải là tội phạm” 9.

- Khái niệm tổng quát về tội phạm:

Những người có quan điểm này cho rằng tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã

hội được Bộ luật Hình sự quy định hay nói cách khác tội phạm có hai đặc tính cơ

bản: nội dung là hành vi nguy hiểm cho xã hội và hình thức được Bộ luật Hình sự

quy định.

Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng tuy là khái niệm được đưa ra

mang tính khái quát cao nhưng nó vẫn thể hiện đầy đủ các đặc điểm của tội phạm.

Không phải bất kỳ một hành vi nguy hiểm nào (tức gây thiệt hại hoặc có khả năng

gây thiệt hại) cũng là tội phạm. Chỉ hành vi nguy hiểm cho xã hội mới được quy

định là tội phạm. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bao gồm cả hai

mặt: mặt thực tế (gây thiệt hại hoặc nguy cơ gây thiệt hại) và mặt xã hội.

Khái niệm tội phạm có thể được coi là khái niệm cơ bản nhất trong luật hình sự

Việt Nam. Khái niệm này một mặt là cơ sở thống nhất cho việc xác định những tội

phạm cụ thể trong Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự, mặt khác trực tiếp thể

hiện một cách rõ nét những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam và là cơ sở

để quy định các chế định khác của Luật hình sự, trong đó có phân loại tội phạm.

Nội dung của khái niệm tội phạm xác định giới hạn giữa tội phạm và không phải là

tội phạm, giữa trách nhiệm hình sự và những trách nhiệm pháp lý khác. Khái niệm

tội phạm là cơ sở để xây dựng các cấu thành tội phạm cụ thể với ý nghĩa là mô hình

9

pháp lý của từng loại tội phạm và qua đó cũng là cơ sở để quy định khung hình phạt

tương ứng. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, người và cơ quan có thẩm

quyền tuy dựa vào cấu thành tội phạm để xác định tội phạm nhưng chỉ trên cơ sở

nhận thức đúng đắn và đầy đủ về bản chất cũng như những đặc điểm của tội phạm

nói chung mới có thể áp dụng luật hình sự một cách đúng đắn qua việc xác định đúng

tội danh, đánh giá đúng tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội 38.

Hiện nay khái niệm tội phạm được ghi nhận tại Điều 8 BLHS năm 2015. Và

khái niệm này cũng cơ bản được tiếp nhận trong khoa học Luật hình sự.

“1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật

Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại

thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn

vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc

phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm

phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những

lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật

này phải bị xử lý hình sự.

2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã

hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”

2, Điều 8.

Khái niệm tội phạm đầy đủ với cách thể hiện đầy đủ các dấu hiệu cơ bản như

tính nguy hiểm (tính chất và mức độ) cho xã hội, tính có lỗi, các nhóm khách thể bị

xâm hại… không chỉ thể hiện chính sách pháp luật hình sự, mà còn là cơ sở quan

trọng trong phân loại tội phạm. Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội

phạm thông qua chế tài (hình phạt) được quy định, hình thức lỗi khi thực hiện tội

phạm, các nhóm khách thể (khách thể loại) luôn được sử dụng làm tiêu chí phân

loại tội phạm trong khoa học luật hình sự nước ta từ xưa đến nay.

Tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự của Nhà nước ta rất đa dạng,

phức tạp, xâm phạm đến các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Phân loại tội

phạm là cực kỳ cần thiết vì phân loại tội phạm để thực hiện chính sách pháp luật

10

hình sự có phân biệt; sắp xếp, hệ thống hóa các tội phạm trong Bộ luật Hình sự theo

từng chương, bảo đảm tính khoa học, thuận lợi cho công tác nghiên cứu và áp dụng.

Phân loại tội phạm theo tính chất và mức độ nguy hiểm, theo hình thức lỗi, theo

khách thể xâm hại là cơ sở để từ đó quy định hình phạt và áp dụng hình phạt cũng

như các biện pháp trách nhiệm hình sự khác; thực hiện nguyên tắc phân hoá trong

chấp hành hình phạt đối với các loại tội phạm…

Ngoài ra việc phân loại tội phạm có mục đích để áp dụng, thực hiện các chế

định khác nhau của pháp luật tố tụng hình sự như biện pháp ngăn chặn do Bộ luật

Tố tụng hình sự quy định cho phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã

hội của tội phạm; xác định thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, thời hạn chuẩn bị

xét xử, thời hạn xóa án tích cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của các

tội phạm cụ thể; thực hiện các loại thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng...

Như vậy, Phân loại tội phạm là việc phân chia các tội phạm thành những nhóm

khác nhau dựa trên những tiêu chí và nhằm những mục đích nhất định. Phân loại tội

phạm là đòi hỏi cần thiết cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật cũng như

áp dụng luật, chính vì thế vấn đề này được đặt ra trong các bộ luật. Việc phân loại

tội phạm chẳng những hỗ trợ cho việc áp dụng đúng luật mà nếu nhìn rộng ra, nhà

làm luật còn có thể dựa vào tính nguy hiểm cho quan hệ xã hội mà nó xâm hại để

đánh giá, nhằm bảo vệ cho chế độ chính trị hiệu quả hơn.

1.1.2. Ý nghĩa của phân loại tội phạm

- Ý nghĩa chính trị xã hội

Phân loại tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc truy cứu trách nhiệm

hình sự và quyết định hình phạt đánh giá chính trị, pháp lý về tội phạm. Việc xây

dựng chính sách pháp luật hình sự trên cơ sở phân loại tội phạm có ý nghĩa lớn

trong việc giáo dục người phạm tội, từ đó nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh

phòng, chống tội phạm, nhằm hạn chế các sự việc phạm tội có thể xảy ra. Mặt khác,

xây dựng hệ thống hình phạt đúng trên cơ sở phân loại tội phạm còn là yếu tố quan

trọng để đạt được các mục đích của hình phạt, vừa mang tính giáo dục, vừa thể hiện

được sự công minh và nghiêm khắc của pháp luật. Như vậy, việc phân loại tội phạm

11

góp phần xây dựng nên ý thức pháp luật của người dân, tạo ra xã hội ổn định. Phân

loại tội phạm là đòi hỏi cần thiết cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật

cũng như áp dụng luật, chính vì thế vấn đề này được đặt ra trong các bộ luật. Việc

phân loại tội phạm chẳng những hỗ trợ cho việc áp dụng đúng luật mà nếu nhìn

rộng ra, nhà làm luật còn có thể dựa vào tính nguy hiểm cho quan hệ xã hội mà nó

xâm hại để đánh giá, nhằm bảo vệ cho chế độ chính trị hiệu quả hơn.

Việc phân loại tội phạm cũng có ý nghĩa để sắp xếp, hệ thống hóa các tội phạm

trong Bộ luật Hình sự theo từng chương, bảo đảm tính khoa học, thuận lợi cho công

tác nghiên cứu và áp dụng.

Mặt khác, phân loại tội phạm cũng có vai trò quan trọng trong việc triển khai

chính sách hình sự thông qua nhận thức và phản ứng của Nhà nước đối với các tội

có tính nguy hiểm cho xã hội khác nhau thì có biện pháp xử lý khác nhau. Nó chi

phối hầu hết các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự về tội

phạm, hình phạt, thẩm quyền điều tra, xét xử.

- Ý nghĩa pháp lý hình sự

Phân loại tội phạm là cơ sở để xác định và xây dựng các chế định khác nhau

của Luật hình sự tương ứng với tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, hình thức

lỗi hoặc tính chất khách thể bị xâm hại; xác định chính sách hình sự cụ thể đối với

từng hành vi phạm tội cụ thể… Cụ thể là:

+ Xác định và xây dựng hệ thống hình phạt trong phần chung cũng như cụ thể

hoá trong chế tài các tội phạm. Ví dụ: Các hình phạt tù chung thân, tử hình chỉ quy

định và áp dụng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng (Điều 39, 40 BLHS năm 2015,

sửa đổi bổ sung năm 2017); hình phạt cảnh cáo chỉ áp dụng đối với tội ít nghiêm

trọng (Điều 34 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017);

+ Xác định chính sách xử lý trong những trường hợp đặc biệt như tuổi chịu

trách nhiệm hình sự (Điều 12 BLHS); đường lối xử lý đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội (Chương XII BLHS); chính sách xử lý hành vi chuẩn bị phạm tội…;

+ Phân loại tội phạm là cơ sở để xây dựng các chế định khác nhau của BLHS.

Ví dụ: Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô

12

ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người

khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải

và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự

(Khoản 3 Điều 29 BLHS).

Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng

và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích - Xoá án tích (Điều 69

BLHS).

Đồng thời, phân loại tội phạm cũng là yếu tố quan trọng được người, cơ quan

có thẩm quyền cân nhắc khi áp dụng pháp luật hình sự.

- Ý nghĩa pháp lý tố tụng hình sự

Phân loại tội phạm là căn cứ để xác định áp dụng và thực hiện nhiều chế định

khác nhau của tố tụng hình sự:

+ Để xác định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử;

Cụ thể, được quy định tại Khoản 1 Điều 268 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

“Điều 268. Thẩm quyền xét xử của Tòa án

1. Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm

những vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội

phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm:

a) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;

b) Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;

c) Các tội quy định tại các điều 123, 125, 126, 227, 277, 278, 279, 280, 282,

283, 284, 286, 287, 288, 337, 368, 369, 370, 371, 399 và 400 của Bộ luật Hình sự;

d) Các tội phạm được thực hiện ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam.”.

Quy định về thẩm quyền điều tra (Khoản 5 Điều 163 BL TTHS):

“5. Việc phân cấp thẩm quyền điều tra như sau:

a) Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực điều tra vụ

án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp

huyện, Tòa án quân sự khu vực;

b) Cơ quan điều tra cấp tỉnh điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc

13

thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền

điều tra của Cơ quan điều tra cấp huyện xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, quận, thị

xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phạm tội

có tổ chức hoặc có yếu tố nước ngoài nếu x t thấy cần trực tiếp điều tra;

Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu điều tra vụ án hình sự về những tội

phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự cấp quân khu hoặc những vụ án

thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp khu vực nếu x t thấy cần trực

tiếp điều tra;

c) Cơ quan điều tra Bộ Công an, Cơ quan điều tra Bộ Quốc ph ng điều tra vụ

án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân

dân tối cao hủy để điều tra lại; vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng,

phức tạp liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, vụ án hình sự

về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều quốc gia nếu x t

thấy cần trực tiếp điều tra.”. Để xác định các loại thời hạn như thời hạn điều tra

(Điều 172 BL TTHS), thời hạn tạm giam để điều tra (Điều 173 BL TTHS), Thời hạn

phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại (Điều 174 BL TTHS), thời hạn

chuẩn bị xét xử (Điều 277 BL TTHS)cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm

của các tội phạm cụ thể 4, Điều 268.

Việc phân loại tội phạm còn có ý nghĩa chi phối đối với việc áp dụng một số

chế định của luật tố tụng hình sự. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp chỉ

được thực hiện khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị phạm một tội rất

nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; các quy định về thời hạn tố tụng hoặc ra

các quyết định cụ thể đối với từng loại tội phạm...

+ Xác định căn cứ thực hiện, áp dụng một số biện pháp tố tụng (biện pháp ngăn

chặn, nhất là tạm giam (Điều 119 BL TTHS); các biện pháp điều tra đặc biệt…).

Tội phạm nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng có thể tạm giam ngay mà không cần

điều kiện gì.

Các biện pháp điều tra đặc biệt được áp dụng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm

trọng là tội tham nhũng và tội xâm phạm an ninh quốc gia, được sử dụng các biện

pháp như quay lén, chụp hình lén, ghi âm lén hoặc xâm nhập vào acount điện tử của

14

tội phạm.

+ Phân loại tội phạm cũng có ý nghĩa quan trọng trong quy định và thực hiện

các loại thời hạn tố tụng như thời hạn điều tra, thời hạn xét xử; thời hạn áp dụng

biện pháp tạm giam; thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại.

Ví dụ, về thời hạn điều tra được quy định tại Điều 172 BLTTHS thì thời hạn

điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không

quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm

rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến

khi kết thúc điều tra.

Bên cạnh đó, việc gia hạn điều tra cũng được quy định căn cứ vào loại tội phạm.

Ví dụ: Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần

không quá 02 tháng; đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai

lần, lần thứ nhất không quá 03 tháng và lần thứ hai không quá 02 tháng; ...

Đối với thời hạn tạm giam để điều tra được quy định tại Điều 173 BLTTHS

cũng căn cứ vào từng loại tội phạm tương ứng như thời hạn điều tra. Thời hạn tạm

giam bị can để điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không

quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm

rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Trường hợp gia hạn tạm giam để điều tra, đối với tội phạm ít nghiêm trọng có

thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 01 tháng, tội phạm nghiêm trọng

được gia hạn một lần không quá 02 tháng, tội phạm rất nghiêm trọng được gia hạn

một lần không quá 03 tháng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì được gia hạn hai

lần, mỗi lần không quá 04 tháng.

Trường hợp phục hồi điều tra quy định tại Điều 235 của BLHS thì thời hạn

điều tra tiếp không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm

trọng và không quá 03 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt

nghiêm trọng kể từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết thúc điều

tra.- Ý nghĩa trong thi hành án hình sự

+ Phân loại trại giam (Điều 27 Luật Thi hành án hình sự năm 2010)

Việc tổ chức giam giữ phạm nhân cũng được quy định dựa theo nhóm loại tội

15

phạm, gồm: Khu giam giữ đối với phạm nhân có mức án tù trên 15 năm, tù chung

thân, phạm nhân thuộc loại tái phạm nguy hiểm và khu giam giữ đối với phạm nhân có

mức án tù từ 15 năm trở xuống; phạm nhân có mức án tù trên 15 năm nhưng có kết quả

chấp hành án tốt, đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù còn dưới 15 năm 34,

Điều 27.

+ Phân loại quản lý người bị tạm giữ, người bị tạm giam (Điều 18 Luật Thi

hành tạm giữ, tạm giam 2015)

Loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng cũng được quy định trong điểm g khoản 1

Điều 18. Theo đó, loại tội này sẽ bị tạm giữ, tạm giam riêng so với những tội phạm

ít nghiêm trọng hơn. Ví dụ, tội phạm giết người cướp tài sản thì sẽ không giam, giữ

chung với người phạm tội trộm cắp tài sản hay tội vi phạm quy định về điều khiển

phương tiện giao thông đường bộ. Bởi mức độ nguy hiểm và tính chất thực hiện

hành vi của từng loại tội phạm có sự khác nhau

Giảm mức hình phạt đã tuyên (Điều 63 BLHS)

Trong điều luật này có hai nội dung quy định liên quan đến phân loại tội phạm

như sau:

Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi

phạm tội mới ít nghiêm trọng do cố ý, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người

đó đã chấp hành được một phần hai mức hình phạt chung.

Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm

tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Tòa án chỉ

xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt

chung hoặc trường hợp hình phạt chung là tù chung thân thì việc xét giảm án thực

hiện theo quy định tại khoản 3 Điều này.

- Ý nghĩa thực tiễn

Phân loại tội phạm có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Phân loại tội phạm là cơ sở

để xây dựng, hướng dẫn pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi

hành án hình sự. Trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử: cơ quan, người

tiến hành tố tụng luôn cân nhắc loại tội phạm khi áp dụng các quy định khác nhau

16

của pháp luật hình sự trong trường hợp được lựa chọn, tuỳ nghi. Loại tội phạm cũng

được cân nhắc trong hoạt động thi hành án, nhất là chế độ giam giữ, giáo dục cải tạo

phạm nhân, …

Phân loại tội phạm có ý nghĩa trước hết đối với việc áp dụng nhiều quy phạm

phần chung và phần các tội phạm Bộ luật Hình sự, như: chế định tuổi chịu trách

nhiệm hình sự, chế định các giai đoạn phạm tội, chế định thời hiệu truy cứu trách

nhiệm hình sự… Chẳng hạn, theo quy định của pháp luật hiện hành, những người

chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu tội họ chuẩn bị phạm là tội

rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng

chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội rất nghiêm trọng do

cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng; ...v.v...

Ngoài ra, việc phân loại tội phạm còn có ý nghĩa chi phối đối với việc áp dụng

một số chế định của luật tố tụng hình sự. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp

chỉ được thực hiện khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị phạm một tội rất

nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; các quyết định về thời hạn tố tụng như

thời hạn điều tra, truy tố, xét xử; thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn… được

quyết định trên cơ sở loại tội phạm được xác định...

1.2. Các cách phân loại tội phạm

1.2.1. Phân loại tội phạm căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm

Chế tài đối với các tội là kết quả của tính chất, mức độ nguy hiểm của tội đó.

Vì vậy, hình phạt được quy định trong chế tài luôn thể hiện đầy đủ, chính xác tính

chất, mức độ nguy hiểm chung của tội phạm đó. Vì vậy, việc phân loại tội phạm cơ

bản được thực hiện theo tiêu chí tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm;

Nhưng để nhận biết tội phạm được quy định thuộc loại nào thì cần căn cứ vào chế

tài được quy định đối với tội phạm đó.

Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm thông qua chế tài được

quy định, tội phạm được chia thành 4 loại:

+ Tội phạm ít nghiêm trọng:

Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã

17

hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối

với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm 2, Điều

9.

Quy định về tội phạm ít nghiêm trọng trong BLHS 2015 đã mở rộng hơn so với

BLHS 1999. BLHS cũ chỉ căn cứ vào mức hình phạt tù có thời hạn không quá 3

năm nên không bao quát hết các khung (khung cơ bản) không có hình phạt tù. Do

đó quy định theo hướng ngoài mức phạt tù có thời hạn là 3 năm còn có phạt tiền,

phạt cải tạo không giam giữ là phù hợp.

+ Tội phạm nghiêm trọng:

Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã

hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy

là từ trên 03 năm đến 07 năm tù 2, Điều 9.

+ Tội phạm rất nghiêm trọng:

Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho

xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với

tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù 2, Điều 9.

+ Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng:

Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm

cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy

định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình 2,

Điều 9.

Có thể thấy một trong các điểm khác biệt lớn nhất ở BLHS 2015 so với BLHS

1999 là đã tách quy định về phân loại tội phạm ra thành một điều luật riêng, không

còn chung với điều luật quy định về khái niệm tội phạm. Việc này đã góp phần đảm

bảo tính minh bạch khi các chủ thể áp dụng Bộ luật để nghiên cứu và thực thi.

Việc phân loại tội phạm theo căn cứ này nhằm để xác định tội phạm theo tính

chất và mức độ nguy hiểm, từ đó quy định hình phạt và áp dụng hình phạt.Và để áp

dụng biện pháp ngăn chặn do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định cho phù hợp với

18

tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Ngoài ra nó còn có ý nghĩa

để xác định thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn

xóa án tích cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của các tội phạm cụ thể.

1.2.2. Phân loại căn cứ vào hình thức lỗi

Căn cứ vào hình thức lỗi có thể phân loại tội phạm thành tội phạm được thực

hiện do lỗi cố ý và tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý.

Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:

- Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy

trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra (Lỗi cố ý trực tiếp)

- Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy

trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý

thức để mặc cho hậu quả xảy ra (Lỗi cố ý gián tiếp).

Ngoài ra, các nhà khoa học pháp lý hình sự có phân tích các hình thức cố ý

phạm tội như: cố ý có dự mưu và cố ý đột xuất; cố ý xác định và cố ý không xác

định. Việc xác định hình thức này không có ý nghĩa trong việc định tội mà có ý

nghĩa để đánh giá về tính chất mức độ của hành vi khi xác định khung hình phạt.

- Cố ý có dự mưu là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã

hội, người có hành vi đó đã suy nghĩ, tính toán cẩn thận mới bắt tay vào việc thực

hiện tội phạm.

- Cố ý đột xuất là trường hợp một người vừa có ý định phạm tội đã thực hiện

ngay ý định đó.

- Cố ý xác định là trường hợp khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội,

người có hành vi đã xác định được hậu quả cụ thể xảy ra.

- Cố ý không xác định là trường hợp khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã

hội, người có hành vi không hình dung cụ thể hậu quả xảy ra như thế nào.

Theo quy định tại Điều 11 BLHS năm 2015 thì vô ý phạm tội được hiểu là việc

người thực hiện hành vi phạm tội thuộc trường hợp sau:

- Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại

19

cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.

- Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả

nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

Khoa học Luật hình sự có đặt ra một số hình thức vô ý phạm tội sau đây:

- Vô ý vì cẩu thả: là trường hợp do cẩu thả mà người phạm tội không thấy trước

khả năng gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, mặc dù phải thấy trước hoặc có

thể thấy trước. Tiêu chuẩn để xác định một người phải thấy trước và có thể thấy

trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội là căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra

sự việc, một người bình thường cũng có thể thấy trước; ngoài ra còn phải căn cứ độ

tuổi, trình độ nhận thức, trình độ văn hóa, tay nghề, chuyên môn…

- Vô ý vì quá tự tin: là trường hợp người phạm tội thấy trước được hành vi của

mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ

không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, nhưng hậu quả đó vẫn xảy ra.

Các trường hợp vô ý phạm tội thường liên quan nhiều đến những người phạm

tội hình sự trong quá trình hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của mình. Nếu như

việc phân loại tội phạm theo hình thức lỗi (tội cố ý, tội vô ý) có ý nghĩa quan trọng

trong quy định và áp dụng pháp luật hình sự; thì việc phân loại theo các dạng lỗi (các

dạng cố ý trực tiếp, gián tiếp, xác định, không xác định; vô ý do chủ quan, vô ý do

cẩu thả...) lại có ý nghĩa trong nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự trên thực tế.

1.2.3. Căn cứ vào khách thể loại của tội phạm

Khách thể của tội phạm là các quyền và lợi ích được luật Hình sự bảo vệ và bị

tội phạm xâm hại. Theo hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam những quyền và lợi

ích đó là: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; chế độ

chính trị; nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; quyền, lợi ích

hợp pháp của tổ chức; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của

công dân... những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.

- Khách thể chung của tội phạm

Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp tất cả các quyền, lợi ích bị tội phạm

xâm hại và được Luật hình sự bảo vệ. Khách thể chung của tội phạm được xác định

20

tại Điều 8 BLHS năm 2015. Bất cứ hành vi phạm tội nào cũng đều gây phương hại

đến khách thể chung được xác định tại Điều 8 BLHS. Chính vì vậy, thông qua

khách thể chung, chúng ta có thể thấy được nhiệm vụ của Bộ luật Hình sự và bản

chất giai cấp của nó. Hay nói đúng hơn là thấy được chính sách hình sự của một

quốc gia.

- Khách thể loại của tội phạm

Khách thể loại của tội phạm là nhóm quyền, lợi ích cùng tính chất được một

nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị một nhóm tội phạm xâm hại.

- Khách thể trực tiếp của tội phạm

Khách thể trực tiếp của tội phạm là một hoặc một số quyền, lợi ích cụ thể bị

hành vi phạm tội cụ thể xâm hại. Thông qua việc gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt

hại (xâm hại) đối với khách thể trực tiếp mà tội phạm đã gây phương hại đến khách

thể chung và khách thể loại của tội phạm. Một tội phạm có thể xâm hại đến nhiều

khách thể nhưng không phải lúc nào tất cả các khách thể đó đều được xem là khách

thể trực tiếp. Khách thể chính khi đó là quan hệ xã hội mà tội phạm gây thiệt hại thể

hiện được đầy đủ bản chất của hành vi và tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.

Mỗi tội phạm thường xâm hại một khách thể chính trực tiếp; nhưng trong một số

trường hợp, nếu một tội phạm xâm phạm đến nhiều khách thể mà xâm phạm đến

khách thể nào cũng thể hiện được bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm

tội, các khách thể đó đều là khách thể chính. Một tội phạm có thể có một khách thể

trực tiếp hoặc nhiều khách thể trực tiếp. Tội phạm có nhiều khách thể trực tiếp khi

hành vi phạm tội xâm hại đến nhiều quan hệ xã hội mà việc xem xét sự gây thiệt hại

đối với bất cứ một quan hệ xã hội nào cũng không thể hiện đầy đủ bản chất nguy

hiểm cho xã hội của hành vi đó và nhiều khách thể đó luôn bị xâm hại ở mọi trường

hợp phạm tội. Ví dụ: hành vi cướp tài sản vừa xâm hại đến quan hệ nhân thân vừa

xâm hại đến quan hệ sở hữu.

Trong các loại khách thể trên, khách thể loại có vai trò quan trọng về mặt lập

pháp. Nó là cơ sở để Bộ luật Hình sự xây dựng các chương trong phần các tội

phạm. Tội phạm trên thực tế dù rất đa dạng về các mặt chủ thể, chủ quan, khách

quan nhưng nếu xâm hại đến các quan hệ xã hội có cùng tính chất sẽ được xếp

21

chung vào một chương. Thông qua việc xem xét các nhóm khách thể nhất định,

chúng ta có thể đánh giá được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cụ

thể khi trực tiếp xâm hại đến một trong số các khách thể của nhóm. Việc sắp xếp

các chương trong phần các tội phạm dựa theo khách thể loại là hết sức hợp lý và

khoa học. Nếu chúng ta sắp xếp theo các cơ sở khác (chủ quan, chủ thể…) thì sẽ

dẫn đến tình trạng nhiều tội phạm có bản chất rất khác nhau lại nằm cùng một

chương. Điều này gây khó khăn rất lớn trong việc đánh giá tính nguy hiểm cho xã

hội của từng tội phạm và việc xử lý chúng. Các tội phạm được quy định trong cùng

một chương phần các tội phạm (có cùng khách thể loại) bao giờ cũng xâm hại đến

khách thể loại của chúng. Tuy nhiên, từng tội phạm trong một chương đó không

phải luôn xâm hại cùng khách thể trực tiếp. Điều đó có nghĩa là mỗi tội phạm có

khách thể trực tiếp riêng của nó.

1.2.4. Căn cứ chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm bao gồm thể nhân (cá nhân) và pháp nhân.

- Chủ thể thể nhân là con người cụ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội

một cách cố ý hoặc vô ý, khi phạm tội không ở trong tình trạng không có năng lực

trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của Luật Hình sự. Do đó, chủ thể

của tội phạm phải là con người, đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được

quy định trong BLHS. Nhưng không phải bất kỳ ai thực hiện hành vi nguy hiểm cho

xã hội cũng là tội phạm, chỉ khi thỏa mãn các điều kiện nhất định như khi phạm tội

không ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, phải đạt độ tuổi

chịu trách nhiệm hình sự theo luật định...

Đối với một số tội phạm có chủ thể đặc biệt thì pháp luật có yêu cầu chủ thể là

cá nhân phải có thêm các dấu hiệu khác như chủ thể có chức vụ, quyền hạn, là chủ

thể xác định như điều tra viên, kiểm sát viên...

- Chủ thể là pháp nhân thương mại: đây là một quy định mới của BLHS khi ghi

nhận pháp nhân cũng là một chủ thể của tội phạm. Pháp nhân thương mại là pháp

nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành

viên. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác.

Đây là chủ thể đặc biệt, theo quy định của BLHS, pháp nhân thương mại chỉ phải

22

chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện quy định tại Điều 75 như sau:

+ Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;

+ Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;

+ Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận

của pháp nhân thương mại;

+ Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và

khoản 3 Điều 27 của BLHS.

Mặt khác, pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội

nhất định được quy định cụ thể tại Điều 76 BLHS năm 2015.

Như vậy, căn cứ chủ thể của tội phạm và tuỳ theo mục đích khác nhau mà tội

phạm được phân loại theo các cách khác nhau như tội phạm do cá nhân và tội phạm

do pháp nhân thương mại thực hiện; tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện; tội

phạm do người có chức vụ thực hiện; tội phạm do quân nhân thực hiện…

Ví dụ: Theo BLHS 1999 thì tội Hiếp dâm chỉ quy định đối với người phạm tội

là nam giới, nhưng BLHS năm 2015 thì không chỉ có nam giới mà nữ giới khi thực

hiện hành vi cũng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Từ đó sẽ kéo theo việc có sự

thay đổi về phân loại tội phạm.

1.2.5. Căn cứ cấu trúc cấu thành tội phạm

- Tội phạm có cấu thành vật chất: CTTP vật chất là cấu thành mà mặt khách

quan của nó được pháp luật hình sự quy định bằng các dấu hiệu của hành vi phạm tội

cũng như cả các dấu hiệu của hậu quả phạm tội nữa (tức là hậu quả nguy hiểm cho xã

hội trong trường hợp này được nhà làm luật coi là dấu hiệu bắt buộc của CTTP).

- Tội phạm có cấu thành hình thức: CTTP hình thức là cấu thành mà mặt khách

quan của nó được pháp luật hình sự quy định chỉ bằng các dấu hiệu của hành vi phạm

tội. Hậu quả của tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.

1.2.6. Căn cứ vào bị hại

Có tội phạm có bị hại, cũng có những tội phạm không có bị hại như các tội xâm

phạm an ninh quốc gia.

Tất cả các tội xâm phạm an ninh quốc gia đều thuộc loại tội phạm rất nghiêm

23

trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

Đối với bị hại là người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, người già yếu cũng là căn

cứ để phân loại tội phạm.

Ví dụ, về tội Hiếp dâm, hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm, tội cưỡng

dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội dâm ô, tội dâm ô đối với người dưới

16 tuổi, tội mua bán người, tội cướp giật tài sản, tội hành hạ người khác,...

1.3. Phân loại tội phạm trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam

1.3.1. Phân loại tội phạm trong pháp luật hình sự trước pháp điển hoá (1985)

Sau khi cách mạng tháng 8 thành công, trong hoàn cảnh đất nước ta vừa mới

đánh đổ sự thống trị của phát xít Nhật để giành lại chính quyền, do còn thiếu kinh

nghiệm trong xây dựng pháp luật nên trong suốt quãng thời gian này các văn bản

pháp luật hình sự Việt Nam là một tập hợp các văn bản đơn hành thể hiện dưới

nhiều hình thức tên gọi như Sắc lệnh, Thông tư, Điều lệ… Trong khoảng những

năm 1970, chính quyền nước Việt Nam đã ban hành một số văn bản pháp luật hình

sự có tính pháp điển hóa như Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng vào ngày

30/10/1967; Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa vào ngày

21/10/1970; Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân vào

ngày 21/10/1970; Sắc luật số 03/SL của Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam

Việt Nam vào ngày 15/3/1976; Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ vào ngày 20/5/1981,…

Trong giai đoạn này, do hạn chế về kỹ thuật lập pháp việc phân loại tội phạm

không được quy định cụ thể và cũng không được quy định thống nhất trong một văn

bản mà mỗi loại tội phạm sẽ được quy định trong một văn bản riêng. Ví dụ như: Tội

hối lộ thì có văn bản điều chỉnh là Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ vào ngày 20/5/1981;

hay tội xâm hại tài sản xã hội chủ nghĩa thì có Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm

tài sản xã hội chủ nghĩa vào ngày 21/10/1970,…

Trong các văn bản pháp luật hình sự của Nhà nước ta thời bấy giờ, bên cạnh

các hành vi cố ý phạm tội (chiếm đại bộ phận), còn có quy định các hành vi phạm

tội vì vô ý trong một số ít trường hợp như sơ suất để lộ bí mật quốc gia; không cẩn

thận gây tai nạn làm người khác bị thương hoặc làm chết người; tội vô ý gây thiệt

24

hại nghiêm trọng đến tài sản XHCN; tội thiếu tinh thần trách nhiệm gây ra thiệt hại

nghiêm trọng đến tài sản XHCN,... Tuy nhiên, chưa có văn bản nào giải thích các

khái niệm về hình thức lỗi: Cố ý và vô ý.

Trích Nghị định 181-NV-6 ngày 12-6-1951 của Liên Bộ Nội vụ, Bộ Tư Pháp

ấn định chi tiết về sự thiết lập, tổ chức, kiểm soát trại giam và ban hành bản quy tắc

trại giam:

“Điều 9: Nếu có thể được, những phạm nhân thành án nên phân loại như sau

và giam riêng:

1. Sơ phạm;

2. Phạm pháp nhiều lần;

3. Phạm nhân dưới 18 tuổi;

4. Phạm nhân trên 55 tuổi;

5. Phạm nhân tàn tật.”.

Về đường lối xử lý về hình sự đối với những người chưa thành niên phạm tội

hiếp dâm, trích bản tổng kết và hướng dẫn số 329-HS2 ngày 11-02-1967 của

TANDTC về đường lối xét xử tội hiếp dâm và một số tội phạm khác về mặt tình

dục. Riêng đối với các can phạm còn ít tuổi phạm tội hiếp dâm cần phân biệt đối với

những can phạm trong lứa tuổi, từ khoảng 14 đến 16, chủ yếu nên dùng những biện

pháp giáo dục như: Giao cho cha, anh, chú, bác bảo lĩnh và giáo dục, giữ trong các

trại giáo dưỡng vị thành niên...; chỉ trong một số trường hợp có tình tiết thực sự

nghiêm trọng mới cần xét xử.

Đối với các can phạm trong lứa tuổi từ khoảng 16 đến 18 trừ một số trường

hợp có tình tiết ít nghiêm trọng, có thể xử lý bằng các biện pháp giáo dục như trên,

nói chung cần xét xử về hình sự, nhưng khi xét xử cần chiếu cố thích đáng đến trình

độ hiểu biết về pháp luật còn non kém và khả năng dễ tiếp thu cải tạo của họ, đến

việc họ chưa nhận thức được đầy đủ tính chất nguy hiểm của hành vi của mình mà

xét xử nhẹ hơn các phạm nhân đã lớn tuổi, nếu các tình tiết phạm pháp khác đều

tương đương (thông thường mức án tối đa đối với các can phạm đó chỉ vào khoảng

25

½ mức án đối với các can phạm đã lớn tuổi).

Trong việc áp dụng hình phạt, đối với hình phạt chung thân, trích theo thông tư

số 498-P4 ngày 31-10-1946 của Bộ Tư pháp: Chung thân cũng là một hình phạt có

tính chất đặc biệt. Cũng như hình phạt tử hình, nó có thể được áp dụng đối với một

số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng....

Về quy tắc trại giam, cách sắp đặt phạm nhân trong trại giam cũng được phân

loại theo loại phạm nhân hoặc theo mức độ phạm tội.

Theo Nghị định số 181-NV/6 ngày 12/6/1951 của Liên Bộ Nội vụ - Tư pháp:

“Điều 8 – Trong trại giam nên giam riêng biệt:

- Chính trị phạm

- Những người bị an tri

- Những phạm nhân nguy hiểm hoặc hung dữ không chịu cải hối (có thể giam

vào một biệt lao)

- Những người bị giam cứu

- Những phạm nhân đàn bà

Điều 9 – Nếu có thể được, những phạm nhân thành án nên phân loại như sau:

- Sơ phạm

- Phạm pháp nhiều lần

- Phạm nhân dưới 18 tuổi

- Phạm nhân trên 55 tuổi

- Phạm nhân tàng tật”.

Từ đó cho thấy pháp luật hình sự thời bấy giờ chưa có sự phân loại tội phạm

một cách rõ ràng, mà quy định trong từng tội riêng hoặc trong từng chế định riêng

về tính nguy hiểm, đặc biệt nguy hiểm, về hình thức phạm tội,...

1.3.2. Phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 1985

Có thể nói, BLHS năm 1985 là sự kết hợp thành tựu 40 năm hoạt động lập

pháp của chính quyền cách mạng Việt Nam, là kết quả của quá trình thực tiễn đấu

tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta từ năm 1945 đến thời điểm Bộ luật được ban

hành. BLHS năm 1985 là một bộ luật thống nhất xác định rõ các quy định liên quan

26

đến tội phạm và hình phạt.

BLHS 1985 chia tội phạm ra thành hai loại: tội phạm ít nghiêm trọng và tội

phạm nghiêm trọng.

Theo quy định tại Điều 8 BLHS 1985 quy định:

“1- Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật

Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô

ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xâm

phạm chế độ Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chế độ kinh tế và sở hữu xã hội chủ nghĩa,

xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và

lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự

pháp luật xã hội chủ nghĩa.

2- Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao

nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên năm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

Những tội phạm khác là tội phạm ít nghiêm trọng”.

Như vậy, theo quy định trên ta có thể hiểu tội phạm nghiêm trọng trong BLHS

1985 là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt

đối với tội ấy là trên năm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Còn những tội khác

không thuộc loại tội nghiêm trọng là tội phạm ít nghiêm trọng.

Ngoài ra, trong Phần các tội phạm thì BLHS 1985 cũng phân loại tội cụ thể,

bao gồm: tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia quy định từ Điều 72 đến Điều 100;

tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người quy định từ

Điều 101 đến Điều 118; tội xâm phạm các quyền tự do dân chủ của công dân quy

định từ Điều 119 đến Điều 128; các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa quy định

từ Điều 129 đến Điều 142; các tội phạm xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và các

tội đối với người chưa thành niên quy định từ Điều 143 đến Điều 150; các tội xâm

phạm sở hữu của công dân quy định từ Điều 151 đến Điều 163; các tội phạm về

kinh tế quy định từ Điều 164 đến Điều 185; các tội xâm phạm an toàn, trật tự công

cộng và quản lý hành chính nhà nước quy định từ Điều 186 đến Điều 218; các tội

phạm về chức vụ quy định từ Điều 219 đến Điều 229; các tội phạm xâm phạm hoạt

27

động tư pháp quy định từ Điều 230 đến Điều 248; các tội phạm xâm phạm nghĩa vụ,

trách nhiệm của quân nhân quy định từ Điều 249 đến Điều 276; tội chống phá hòa

bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định từ Điều 277 đến Điều 280…

1.3.3. Phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 1999

BLHS 1999 chia tội phạm ra làm bốn loại: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm

nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đây là

điểm mới cơ bản của BLHS 1999 so với BLHS 1985, cũng từ quy định mới này,

kéo theo nhiều quy định mới khác trong BLHS.

- Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà

mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù.

- Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao

nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù

- Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà

mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là mười lăm năm tù.

- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã

hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù

chung thân hoặc từ hình.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 8 BLHS thì những hành vi tuy có dấu hiệu của

tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là

tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác. BLHS năm 1999 đã có sự kế thừa

các quy định của BLHS 1985 về tiêu chí phân loại tội phạm, nhưng tội phạm được

phân thành 4 loại cụ thể hơn làm cơ sở cho việc thực hiện nguyên tắc phân hoá

trách nhiệm hình sự, xây dựng các chế định hình sự, tố tụng hình sự khác nhau và

giúp cho việc áp dụng đúng đắn, thống nhất pháp luật, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền

con người…

1.4. Phân loại tội phạm trong pháp luật hình sự một số nước và kinh nghiệm

cho Việt Nam

1.4.1. Phân loại tội phạm theo Bộ luật Hình sự Đức

Cộng hoà Liên bang Đức là một đất nước có truyền thống pháp luật lục địa lâu

28

đời. Ở Đức, BLHS là nguồn chủ yếu quy định về tội phạm và hình phạt. Bộ luật

Hình sự nước Cộng hòa liên bang Đức được ban hành vào ngày 13/11/1998 và được

sửa đổi, bổ sung lần gần đây nhất vào ngày 02/10/2009.

Nghiên cứu BLHS Đức, chúng ta có 2 cách phân loại tội phạm được thể hiện

khá rõ nét trong BLHS.

Thứ nhất, dựa vào khách thể loại của tội phạm được phân thành 29 nhóm tội

phạm khác nhau, tương ứng với từng chương trong phần các tội phạm trong BLHS

Đức. Cụ thể: Nhóm tội phạm chống hòa bình, phản bội nhà nước và gây nguy hại

cho nhà nước pháp quyền dân chủ (chương thứ nhất); nhóm tội phạm phản quốc và

gây nguy hại cho an ninh đối ngoại (chương thứ hai); các tội xâm hại các nhà nước

ngoài (chương thứ ba); các tội xâm phạm các cơ quan hiến pháp cũng như các tội

phạm trong bầu cử và biểu quyết (chương thứ tư); các tội phạm quốc phòng

(chương thứ năm); nhóm tội chống đối quyền lực nhà nước (chương thứ sáu); các

tội xâm phạm trật tự công cộng (chương thứ bảy); các tội làm giả tiền và tem có

mệnh giá (chương thứ tám); các tội phạm liên quan đến tôn giáo và thế giới quan

(chương thứ chín);…

Cách phân loại tội phạm theo khách thể loại như trên có ý nghĩa trong việc

xác định những nhóm tội có cùng tính chất, có cùng một khách thể được luật hình

sự bảo vệ. Đồng thời cũng là cơ sở sắp xếp nội dung trong BLHS theo một trật tự

nhất định.

Thứ hai, theo Điều 12 BLHS Cộng hòa liên bang Đức, tội phạm được phân

thành hai loại là tội phạm nghiêm trọng và tôi phạm ít nghiêm trọng. Đây cũng là

cách phân loại quan trọng nhất được quy định trong một điều luật độc lập và là cách

phân loại có ý nghĩa nhất được các nhà lập pháp ghi nhận trong BLHS.

“(1) Tội phạm nghiêm trọng là các hành vi trái pháp luật bị đe dọa ở mức thấp

nhất với hình phạt tự do một năm hoặc cao hơn.

(2) Tội phạm ít nghiêm trọng là các hành vi trái pháp luật bị đe dọa ở mức

29

thấp nhất với hình phạt tự do nhẹ hơn hoặc là hình phạt tiền.

(3) Các sự tăng nặng hoặc giảm nhẹ được dự liệu theo các quy định của Phần

chung hoặc cho các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng không

ảnh hưởng đến việc phân loại”.

Như vậy, dựa vào mức độ nghiêm khắc của hình phạt được quy định trong Bộ

luật Hình sự Đức, tội phạm được chia thành hai loại là tội phạm nghiêm trọng và tội

phạm ít nghiêm trọng. Tội phạm nghiêm trọng là người đã thực hiện các hành vi trái

pháp luật nghiêm trọng với mức hình phạt thấp nhất là hình phạt tước tự do một

năm hoặc cao hơn. Ví dụ như Điều 227 quy định về tội xâm phạm thân thể với hậu

quả chết người: “(1) nếu người thực hiện tội phạm qua xâm phạm thân thể (các

điều 223 đến 226) gây ra cái chết của người vị xâm phạm thì hình phạt là hình phạt

tự do không dưới ba năm”. Theo đó, người thực hiện hành vi này có thể bị xử phạt

với mức thấp nhất là hình phạt tự do là ba năm.

Tại khoản 2 Điều 227 thì: “(2) Trong các trường hợp ít nghiêm trọng thì quyết

định hình phạt tự do từ một năm đến mười năm”. Mức hình phạt thấp nhất đối với

người phạm tội là hình phạt tự do từ một năm. So sánh với quy định tại khoản 1

Điều 12, chúng ta thấy, người thực hiện hành vi theo quy định tại khoản 1 và khoản

2 Điều 227 là tội phạm nghiêm trọng.

Tội phạm ít nghiêm trọng là các hành vi trái pháp luật bị đe dọa ở mức thấp

nhất là chịu hình phạt tước tự do nhẹ hơn một năm hoặc hình phạt tiền. Theo Điều

38 BLHS Đức thì hình phạt tự do là hình phạt từ một tháng trở lên. Nên thực chất

tội phạm ít nghiêm trọng bị đe dọa ở mức thấp nhất là hình phạt tự do từ một tháng

đến dưới một năm hoặc hình phạt tiền. Ví dụ như: tội phạm tại Điều 183 về hành vi

phô bày tình dục: “một người đàn ông mà quấy rối một người khác qua một hành vi

phô bày tình dục thì bị xử phạt với hình phạt tự do đến 1 năm hoặc hình phạt tiền”.

Theo đó, mức hình phạt thấp nhất mà người phạm tội có thể phải chịu là hình phạt tự

do một tháng. Theo quy định tại Điều 12 ta thấy hành vi là tội phạm ít nghiêm trọng.

Như vậy, việc phân loại tội phạm trong BLHS Đức khá cụ thể với 2 loại tội

phạm là tội phạm nghiêm trọng và tội phạm ít nghiêm trọng. Và căn cứ để phân loại

30

tội phạm chính là mức hình phạt thấp nhất được quy định trong BLHS.

Việc phân loại tội phạm như trên đã bao quát được khá rõ nét những loại tội

phạm cơ bản theo BLHS Đức. Và các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS quy

định trong phần chung hoặc các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng hoặc ít nghiêm

trọng không làm ảnh hưởng đến việc phân loại tội phạm như trên.

Qua việc phân tích về phân loại tội phạm trong BLHS CHLB Đức, chúng ta có

thể rút ra một số vấn đề sau:

Thứ nhất, cách quy định về phân loại tội phạm trong BLHS Đức và trong

BLHS Việt Nam có nhiều điểm giống nhau như: cách gọi tên loại tội phạm đều theo

mức độ nghiêm trọng của tội phạm. Ở Việt Nam, tội phạm được phân thành 4 loại

với tên gọi là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm

trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong khi đó, ở Đức cũng đã gọi tên loại

tội phạm tại Điều 12 là tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng.

Mặt khác, căn cứ xác định loại tội phạm trong BLHS Đức và trong BLHS Việt

Nam đều dựa vào mức hình phạt luật định.

Ngoài ra, việc phân loại tội phạm đều có ý nghĩa quan trọng đối với các chế

định khác như chế định tuổi chịu TNHS, phạm tội chưa đạt…trong BLHS. Cụ thể

như trong BLHS Đức quy định: “1) Phạm tội chưa đạt của một tội phạm nghiêm

trọng luôn bị xử phạt, phạm tội chưa đạt của 1 tội phạm ít nghiêm trọng chỉ bị xử

phạt nếu Luật quy định rõ. 2) phạm tội chưa đạt có thể được xử phạt nhẹ hơn phạm

tội hoàn thành…” [39]. Như vậy, việc phân loại tội phạm có ý nghĩa trực tiếp đến

việc áp dụng đối với người phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt.

BLHS Việt Nam hiện nay quy định vấn đề phân loại tội phạm trong 1 điều luật

độc lập là Điều 9. BLHS Đức cũng dành riêng một điều luật độc lập để quy định về

phân loại tội phạm tại Điều 12: “(1) tội phạm nghiêm trọng là các hành vi trái pháp

luật bị đe dọa ở mức thấp nhất với hình phạt tự do 1 năm hoặc cao hơn.

(2) tội phạm ít nghiêm trọng là các hành vi trái pháp luật bị đe dọa ở mức thấp

nhất với hình phạt tự do nhẹ hơn hoặc là hình phạt tiền” [39, Điều 12].

Thứ hai, dù có những điểm cơ bản giống nhau nêu trên, nhưng cách phân loại

31

của BLHS Việt Nam và BLHS Đức cũng có 1 số quy định khác nhau:

Một là, tội phạm trong BLHS Đức được phân thành hai loại là tội phạm nghiêm

trọng và tội phạm ít nghiêm trọng. Trong khi đó, tội phạm theo quy định của BLHS

Việt Nam được phân thành 4 loại là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm

trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Hai là, căn cứ để xác định phân loại tội phạm theo LHS Việt Nam là vào

khoảng của khung hình phạt. Còn LHS Đức là mức thấp nhất của khung hình phạt.

Ba là, trong quy định của Việt Nam về phân loại tội phạm đã chỉ ra cơ sở của

việc phân loại trong điều luật – là mức độ gây thiệt hại của hành vi nguy hiểm và

khái niệm của từng loại tội phạm cụ thể tại Điều 9 BLHS Việt Nam. Trong khi đó,

BLHS Đức không xác định cơ sở phân loại tội phạm trong điều luật mà chỉ quy

định căn cứ để phân loại tội phạm là mức hình phạt thấp nhất.

1.4.2. Vấn đề phân loại tội phạm trong luật hình sự Thụy Điển

Bộ luật Hình sự Thụy Điển được thông qua vào năm 1962 và có hiệu lực từ

ngày 01/01/1965 và đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần vào các năm 1967, 1970,

1974, 1976, 1986, 1988, 1994… và lần sửa đổi gần đây nhất vào năm 1999. Bộ luật

Hình sự Thụy Điển quy định các hành vi được coi là tội phạm ở Thụy Điển. Các

quy định về tội phạm khác cũng được tìm thấy trong luật pháp đặc biệt. Nó cũng

chứa đựng các quy định chung trên tất cả các tội phạm, hình thức xử phạt đối với tội

phạm và cách áp dụng của pháp luật Thụy Điển. Khác với Luật hình sự Việt Nam,

Luật hình sự Thụy Điển không có chế định phân loại tội phạm. Nói một cách khác,

việc phân loại tội phạm trên cơ sở mức độ nguy hiểm của tội phạm đã không được

quy định chung trong BLHS. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa việc phân loại tội

phạm hoàn toàn không được đặt ra trong pháp luật hình sự của Thụy Điển. Các quy

định tại phần tội phạm cụ thể trong BLHS (phần hai) cũng như quy định về tội

phạm cụ thể trong các đạo luật hình sự khác hoặc trong các luật chuyên ngành khác

đã cho thấy rõ điều này. Nhiều tội phạm cụ thể đã được phân hóa thành các mức độ

phạm tội với tên gọi khác nhau như: ít nghiêm trọng, rất nghiêm trọng. Ví dụ như

32

đối với tội giết người nhà làm luật đã phân thành hai loại tội là giết người nghiêm

trọng và giết người trong trường hợp ít nghiêm trọng với tên gọi tại Chương 3 của

BLHS của Thụy Điển 53.

1.4.3. Vấn đề phân loại tội phạm trong Luật hình sự Liên Bang Nga

BLHS của Liên Bang Nga là BLHS năm 1997 sửa đổi bổ sung năm 2003.

BLHS của Liên Bang Nga có quy đinh về phân loại tội phạm như sau:

Khoản 1 Điều 15 BLHS Liên Bang Nga:

“1. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được

quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội

phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Tội phạm ít nghiêm trọng là những hành vi cố ý hoặc vô ý mà Bộ luật này quy

định hình phạt cao nhất đối với chúng không quá 2 năm tù.

Tội phạm nghiêm trọng là những hành vi cố ý hoặc vô ý mà Bộ luật này quy

định hình phạt cao nhất đối với chúng không quá 5 năm tù.

Tội phạm rất nghiêm trọng là những hành vi cố ý hoặc vô ý mà bộ luật này quy

định hình phạt cao nhất đối với chúng không quá 10 năm tù.

Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là những hành vi cố ý mà bộ luật này quy định

hình phạt đối với chúng là trên 10 năm tù hoặc hình phạt nghiêm khắc hơn” 39

Điều 15.

Cách phân loại tội phạm theo BLHS Liên Bang Nga cũng dựa vào tính chất và

mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong BLHS đó, cũng

được chia thành 4 loại tội. Nhưng ở BLHS Liên Bang Nga ta thấy việc định nghĩa

mỗi loại tội phạm khác với ở Việt Nam.

Thứ nhất, khác với Việt Nam, Nga chủ yếu phân loại tội phạm trên cơ sở là

mức hình phạt cao nhất còn Việt Nam ngoài phân loại tội phạm trên cơ sở trên còn

căn cứ theo mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Và theo pháp luật Nga tội

phạm đặc biệt nghiêm trọng chỉ có thể là những hành vi cố ý, không thể là hành vi

33

vô ý, phân biệt rõ nét với tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng.

Thứ hai, mức hình phạt cao nhất của các tội ở BLHS Nga quy định nhẹ hơn ở

Việt Nam. Ví dụ như: quy định ở tội ít nghiêm trọng BLHS Nga quy định hình phạt

cao nhất đối với tội này là không quá 2 năm còn ở Việt Nam là đến 3 năm tù.

1.4.4. Phân loại tội phạm trong Luật hình sự nước Cộng Hòa Pháp

Theo Bộ luật Hình sự năm 1992 của Cộng hoà Pháp, tội phạm được chia thành

ba loại:

- Tội đại hình là tội có mức hình phạt cao nhất được quy định đến tù chung thân;

- Tội tiểu hình là tội có mức phạt cao nhất được quy định đến 10 năm tù;

- Tội vi cảnh là tội chỉ bị áp dụng các hình phạt vi cảnh, tức là không có phạt tù.

1.4.5. Kinh nghiệm cho Việt Nam

Qua việc nghiên cứu cách phân loại tội phạm của một số các quốc gia như:

CHLB Đức, Liên Bang Nga, Thụy Điển... ta thấy việc phân loại tội phạm hiện nay

của BLHS Việt Nam đã học hỏi những tinh hoa của các BLHS các quốc gia. Theo

pháp luật hình sự Việt Nam tội phạm nào cũng đều có đặc điểm chung như có tính

nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, trái pháp luật hình sự nhưng những hành vi phạm

tội cụ thể không những có sự khác nhau về nguyên nhân và điều kiện phát sinh, về

tính chất của các quan hệ xã hội bị xâm phạm mà còn có sự khác nhau ngay ở tính

chất và mức độ nguy hiểm của hậu quả do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây

ra cũng như ở nhiều tình tiết khách quan và chủ quan khác. Chính do sự khác nhau

như vậy mà vấn đề phân hóa và cá thể hóa TNHS được đặt ra và được coi là một

nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam. Nguyên tắc không chỉ có ý nghĩa khi áp

dụng luật hình sự mà đòi hỏi trước hết phải có sự phân hóa TNHS ngay trong luật

và đó là cơ sở để có thể cá thể hóa TNHS trong thực tiễn áp dụng luật. Phân hóa

TNHS trong luật và cá thể hóa TNHS trong áp dụng là hai mặt không tách rời nhau.

Phân hóa TNHS trong luật là cơ sở của cá thể hóa TNHS trong áp dụng. Ngược lại,

mục đích của phân hóa TNHS trong luật cũng chính nhằm để cá thể hóa TNHS

trong áp dụng. TNHS càng được phân hóa trong luật thì càng tạo điều kiện cho cá

thể hóa TNHS trong áp dụng. Với ý nghĩa như vậy, vấn đề phân hóa TNHS đã được

đặc biệt quan tâm trong khi xây dựng các BLHS của Việt Nam. Phân loại tội phạm

34

trong luật theo mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội vừa là biểu hiện của sự phân

hóa TNHS và cũng là cơ sở thống nhất cần thiết cho việc xây dựng các chế định,

các điều luật nhằm phân hóa TNHS trong phần chung cũng như phần các tội phạm

của BLHS.

Thể hiện nguyên tắc này, luật hình sự Việt Nam phân tội phạm thành các nhóm

tội phạm khác nhau theo mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội.

Thực ra, việc phân loại tội phạm không phải là vấn đề mới, trái lại, nó đã được

thực hiện trong thực tiễn áp dụng luật hình sự nước ta trước khi có Bộ luật Hình sự

năm 1985. Pháp luật hình sự của nhiều nựớc trên thế giới cũng quy định việc phân

loại tội phạm. Tuy vậy, do những đặc điểm riêng của mỗi nước, mỗi thời kì, trình

độ lập pháp, chính sách hình sự... nên có các cách phân loại tội phạm khác nhau. Ở

các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, nhà làm luật căn cứ vào tính chất và mức độ

nguy hiểm cho xã hội của tội phạm chia tội phạm ra bốn loại: Các tội không nguy

hiểm lớn cho xã hội; các tội ít nghiêm trọng; các tội nghiêm trọng; các tội đặc biệt

nghiêm trọng. Ở Pháp, Bộ luật Hình sự năm 1992 chia tội phạm thành ba loại; Tội

đại hình (tội có mức hình phạt cao nhất đến tù chung thân); tội tiểu hình (tội có mức

phạt cao nhất đến 10 năm tù); tội vi cảnh (tội chỉ bị áp dụng các hình phạt vi cảnh).

Tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự của Nhà nước ta rất đa dạng,

phức tạp, xâm phạm, đến các lĩnh vực khác nhau. Xuất phát từ yêu cầu phân loại tội

phạm là sự cần thiết vì: Để sắp xếp, hệ thống hóa các tội phạm trong Bộ luật Hình

sự theo từng chương, bảo đảm tính khoa học, thuận lợi cho công tác nghiên cứu và

áp dụng. Đồng thời, để xác định tội phạm theo tính chất và mức độ nguy hiểm, từ

đó quy định hình phạt và áp dụng hình phạt.

Ngoài ra, nhằm áp dụng biện pháp ngăn chặn do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định

cho phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Và nhất là

xác định thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn xóa án

35

tích cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của các tội phạm cụ thể..

Chương 2

PHÂN LOẠI TỘI PHẠM TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 VÀ MỘT SỐ

KIẾN NGHỊ

2.1. Phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 2015

2.1.1. Các dạng phân loại tội phạm trong phần chung Bộ luật Hình sự

2.1.1.1. Phân loại tội phạm theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm

Việc phân loại tội phạm có ý nghĩa lớn về mặt chính trị, xã hội, pháp lý và thực

tiễn, không chỉ trong lĩnh vực lập pháp và áp dụng luật hình sự mà còn có ý nghĩa

đối với hoạt động lập pháp tố tụng hình sự, thực tiễn áp dụng nhiều quy định của

luật tố tụng hình sự. Ngoài ra việc phân loại có ý nghĩa đối với hoạt động phân loại

và xây dựng chế độ của từng trại giam giữ… Đặc biệt trong lĩnh vực luật hình sự,

việc phân loại tội phạm có ý nghĩa đối với việc xây dựng nhiều chế định của phần

chung như tái phạm, tái phạm nguy hiểm, chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, che

giấu tội phạm, không tố giác tội phạm... và trong phần các tội phạm, việc phân loại

tội phạm là cơ sở để thống nhất cho việc xây dựng các cấu thành tội phạm và các

khung hình phạt tương ứng đối với từng loại tội. Thực hiện chính sách hình sự của

Nhà nước, việc phân loại tội phạm trong luật hình sự vừa là biểu hiện rõ rệt các

nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam mà trước hết là nguyên tắc pháp chế

XHCN, nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự vừa là đòi hỏi của các nguyên tắc

này trong thực tiễn áp dụng. Với những ý nghĩa to lớn đó, việc phân loại tội phạm

đã được đặt ra và thực hiện trong luật.

Đối với căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm và mức hình

phạt với các tội phạm. Điều 9 BLHS 2015 quy định:

“1. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội

được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây:

a) Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho

xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối

36

với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;

b) Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã

hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội

ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;

c) Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm

cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định

đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;

d) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm

cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy

định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

2. Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào

tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định tại

khoản 1 Điều này và quy định tương ứng đối với các tội phạm được quy định tại

Điều 76 của Bộ luật này”.

Như vậy, căn cứ vào tính chất mức độ, nguy hiểm của tội phạm thông qua

mức hình phạt trong chế tài quy định đối với các tội phạm, tội phạm được chia

thành 4 loại:

- Tội phạm ít nghiêm trọng:

Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã

hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối

với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm. Quy

định về tội phạm ít nghiêm trọng trong Bộ luật Hình sự 2015 đã mở rộng hơn so với

Bộ luật Hình sự 1999. Bộ luật Hình sự cũ chỉ căn cứ vào mức hình phạt tù có thời

hạn không quá 3 năm nên không bao quát hết các khung (khung cơ bản) không có

hình phạt tù. Do đó quy định theo hướng ngoài mức phạt tù có thời hạn là 3 năm

còn có phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ là phù hợp. Việc các nhà làm luật đưa

ra các quy định để xác định một tội phạm thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng (có

mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù) và tội đặc biệt

nghiêm trọng (có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm

37

năm tù, tù chung thân hoặc tử hình), theo tác giả là đầy đủ, rõ ràng và chính xác.

Về quy định để xác định là một tội phạm ít nghiêm trọng mặc dù trong BLHS

năm 1999 và nay là BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung có một số điều luật có quy định

mức án cao nhất của khung hình phạt đối với các tội phạm ấy cũng không đến 03

năm tù nhưng tất cả đều thống nhất hiểu là tội phạm ít nghiêm trọng bởi lẽ đó là loại

tội phạm nhẹ nhất trong 04 loại tội phạm của pháp luật hình sự Việt Nam (tức là

không thể thuộc loại tội phạm khác).

Ví dụ: Tội giết con mới đẻ quy định tại Khoản 1 Điều 124 BLHS, Tội giết

người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Khoản 1 Điều 126), Tội hành hạ

người khác (Khoản 1 Điều 140), Tội làm nhục người khác (Khoản 1 Điều 155), Tội

vu khống (Khoản 1 Điều 156), Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Khoản 1

Điều 157)… đều chỉ có mức án cao nhất của khung hình phạt đối với các tội phạm

ấy là đến hai năm tù (hoặc đến mức ba năm tù theo quy định).

- Tội phạm nghiêm trọng:

Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã

hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy

là từ trên 03 năm đến 07 năm tù. Quy định của luật nêu lên khái niệm “Tội phạm

nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức

cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03

năm đến 07 năm tù;”.

Như vậy, có thể hiểu một tội phạm được coi là tội phạm nghiêm trọng khi tội

phạm đó có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội phạm ấy từ trên ba năm tù

(từ ba năm tù trở xuống là thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng) cho đến bảy năm tù.

Có nghĩa là tất cả những tội phạm mà mức án cao nhất của khung hình phạt đối với

tội phạm ấy là từ bảy năm tù trở xuống đến trên ba năm tù thì đều thuộc loại tội

phạm nghiêm trọng.

Ví dụ, các tội như: Tội vô ý làm chết người quy định tại Khoản 1 Điều 128

BLHS có mức án cao nhất cho khung hình phạt đối với tội phạm ấy là đến 06 năm

tù; Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13

38

tuổi đến dưới 16 tuổi (Khoản 1 Điều 145), Tội Cướp giật tài sản (Khoản 1 Điều

171), Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (Khoản 1 Điều 322)… đều có mức án cao

nhất cho khung hình phạt đối với tội phạm ấy là đến 05 năm tù… nên đều là loại tội

nghiêm trọng do mức án cao nhất của khung hình phạt đối với các tội phạm ấy đều

trên ba năm tù nhưng cũng chưa quá bảy năm tù.

- Tội phạm rất nghiêm trọng:

Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho

xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với

tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù. Quy định này cũng nêu ra khái niệm “Tội

phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất

lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là

từ trên 07 năm đến 15 năm tù”. Như vậy, những tội phạm mà mức án cao nhất của

khung hình phạt đối với tội phạm ấy là từ trên bảy năm tù đến mười lăm năm tù thì

đều thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng. Ví dụ như: Khoản 3 Điều 147, tội sử dụng

người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm có khung hình phạt từ 7 năm đến 12

năm, hay Khoản 1 Điều 150, tội mua bán người với khung hình phạt từ 5 năm đến

10 năm tù…những tội phạm này có mức cao nhất của khung hình phạt là 12, 10

năm tù nên nằm trong khung hình phạt thuộc tội phạm rất nghiêm trọng - mức cao

nhất của khung hình phạt từ trên 7 năm đến 15 năm tù.

- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng:

Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm

cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy

định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Ví

dụ như Tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người tại Khoản 3 Điều

154 BLHS năm 2015 có khung hình phạt từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân,

hay tội giết người theo Khoản 1 Điều 123 BLHS năm 2015 có khung hình phạt từ

12 năm, 20 năm tù chung thân hoặc tử hình…. hai tội này đều có mức cao nhất của

khung hình phạt thuộc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Có thể thấy một trong các điểm khác biệt lớn nhất ở Bộ luật Hình sự 2015 so

39

với Bộ luật Hình sự 1999 là đã tách quy định về phân loại tội phạm ra thành một

điều luật riêng, không còn chung với điều luật quy định về khái niệm tội phạm. Việc

này đã góp phần đảm bảo tính minh bạch khi các chủ thể áp dụng Bộ luật để nghiên

cứu và thực thi.

2.1.1.2. Phân loại tội phạm theo hình thức lỗi

Lỗi theo quy định của Luật hình sự được hiểu là quan hệ giữa cá nhân người

phạm tội với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định chủ quan những đòi hỏi cụ

thể của luật hình sự. Sự phủ định chủ quan này tồn tại trên cơ sở và trong sự thống

nhất với sự phủ định khách quan là tính gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là

khách thể được luật hình sự bảo vệ. Cũng như quan hệ khách quan và chủ quan, sự

phủ định khách quan có thể tồn tại độc lập. Với ý nghĩa là nội dung của lỗi thì quan

hệ cá nhân giữa cá nhân người phạm tội với xã hội luôn được thể hiện và tồn tại là

quan hệ tâm lý nhất định của chủ thể với hành vi gây thiệt hại cho xã hội. Đó là

hình thức của lỗi. Như vậy, giáo trình trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa lỗi

như sau: Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi có tính gây thiệt hại

cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý1. Như vậy, trên cơ sở lỗi thì việc phân loại tội phạm theo

hình thức lỗi có thể được phân thành:

- Tội cố ý:

Tội cố ý là tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý trong những trường hợp sau đây:

Trường hợp thứ nhất, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy

hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;

Trường hợp thứ hai, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy

hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong

muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

Khoa học pháp lý hình sự chia tội phạm thực hiện do lỗi cố ý hay còn gọi là cố

ý phạm tội bao gồm các hình thức như: cố ý có dự mưu và cố ý đột xuất; cố ý xác

định và cố ý không xác định. Việc xác định hình thức này không có ý nghĩa trong

việc định tội mà có ý nghĩa để đánh giá về tính chất mức độ của hành vi khi xác

định khung hình phạt.

1 Giáo trình Luật Hình sự, trường ĐH Luật Hà Nội, nxb Công an nhân dân, 2013.

40

+ Cố ý có dự mưu là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã

hội, người có hành vi đó đã suy nghĩ, tính toán cẩn thận mới bắt tay vào việc thực

hiện tội phạm.

+ Cố ý đột xuất là trường hợp một người vừa có ý định phạm tội đã thực hiện

ngay ý định đó.

+ Cố ý xác định là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã

hội, người có hành vi đã xác định được hậu quả.

+ Cố ý không xác định là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho

xã hội, người có hành vi không hình dung chính xác hậu quả xảy ra như thế nào.

Thông thường nếu phân loại tội phạm theo hình thức lỗi cố ý thì bao gồm tội

phạm thực hiện với lỗi trực tiếp và tội phạm thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp.

Trong đó, cố ý trực tiếp phạm tội là trường hợp mà người thực hiện hành vi

nguy hiểm cho xã hội xâm hại đến các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ và

chủ thể đó nhận thức được hành vi của mình có tính chất nguy hiểm cho xã hội,

thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó và mong muốn hậu quả

xảy ra.

Xét về lý trí, người phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, nhận thức được tính chất

nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, thấy trước hậu quả nguy hiểm

cho xã hội của hành vi, nghĩa là khi thực hiện hành vi chủ thể biết được hành vi của

mình có hại cho xã hội, đi ngược lại lợi ích, các yêu cầu và chuẩn mực xã hội. Sự

nhận thức này phụ thuộc vào những phẩm chất của chủ thể như kinh nghiệm sống,

học vấn, trí tuệ, hiểu biết pháp luật… khả năng nhận thức được ý nghĩa xã hội của

hành vi là phẩm chất đặc trưng của mọi người phát triển bình thường, điều cần đặc

biệt nhấn mạnh là sự nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi

không có nghĩa phải nhận được tính trái pháp luật của hành vi. Một người biết hay

không biết tính trái pháp luật của hành vi, không phải là điều kiện bắt buộc để xác

định họ có lỗi hay không có lỗi khi thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội.

Thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi là hình dung ra những

41

nét chung nhất, những đặc điểm nổi bật nhất của hậu quả do hành vi sẽ gây ra. Sự

thấy trước hậu quả của hành vi, có thể ở mức độ hình dung ra hậu quả tất nhiên sẽ

xảy ra hoặc có thể xảy ra và sự thấy trước này xuất hiện trước hoặc trong khi thực

hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.

Về ý chí, người phạm tội mong muốn hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra,

mong muốn hậu quả mà họ đã “thấy trước”, đã hình dung ra khi thực hiện hành vi

sẽ xuất hiện trên thực tế. Xác định tồn tại trong ý thức của chủ thể sự mong muốn

xuất hiện hậu quả nào đó là vấn đề rất phức tạp, thông thường người ta phải đánh

giá, phân tích toàn bộ các tình tiết khách quan điển hình của hành động ý chí và cả

những xử sự sau đó của chủ thể để xác định vấn đề này.

Tội phạm thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp là trường hợp chủ thể thực hiện hành

vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi

của mình, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó, không mong

muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Để mặc cho hậu quả xảy ra có

nghĩa là hậu quả xảy ra hay không xảy ra đối với người phạm tội đều có ý nghĩa

như nhau, hậu quả nguy hiểm cho xã hội xuất hiện trên thực tế hay không xuất hiện,

người phạm tội cũng đều chấp nhận. Khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội,

người phạm tội theo đuổi mục đích khác vì thế họ nhìn thấy trước hậu quả nguy

hiểm cho xã hội và hậu quả này dù không phù hợp với mục đích của mình nhưng

người phạm tội vẫn chấp nhận để cho hậu quả xảy ra.

Về khía cạnh lý trí, cũng như cố ý trực tiếp, trong trường hợp cố ý gián tiếp,

người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy

trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra. Có một vấn đề về quan hệ tâm lý

của người phạm tội với hậu quả nguy hiểm cho xã hội hiện nay chưa đạt được sự

thống nhất trong giới nghiên cứu Luật Hình sự là: khi người phạm tội thực hiện

hành vi nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả tất nhiên sẽ xảy ra nhưng chủ thể

không mong muốn hậu quả đó thì hình thức lỗi của người phạm tội là cố ý trực tiếp

hay cố ý gián tiếp.

Có ý kiến xác định rằng: không thể có trường hợp người phạm tội đã thấy trước

42

hậu quả tất nhiên phải xảy ra mà lại có thái độ bỏ mặc, không mong muốn hậu quả

đó khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Cũng có quan điểm khẳng định, về

lý thuyết cũng như thực tế hoàn cảnh có thể xảy ra trường hợp người phạm tội thấy

trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội tất nhiên sẽ xảy ra, tức là hành vi mà chủ thể sẽ

thực hiện không tránh khỏi gây ra thiệt hại cho xã hội nhưng thái độ tâm lý của

người phạm tội không mong muốn hậu quả đó. Quan hệ tâm lý của chủ thể đối với

hậu quả nguy hiểm cho xã hội trong trách nhiệm không mong muốn nhưng thấy

trước hậu quả tất nhiên sẽ xảy ra khi thực hiện hành vi gần gũi với sự mong muốn

hậu quả xảy ra hơn là có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Đó chính là cơ sở cho

phép thừa nhận trách nhiệm này là cố ý trực tiếp. Giải thích theo quan điểm thứ hai

là hợp lý và thuyết phục.

Ngoài ra hình thức cụ thể của lỗi cố ý là cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp đã trình

bày trên đây, khoa học Luật Hình sự và thực tiễn còn phân chia các hình thức cụ thể

của lỗi cố ý theo thời điểm hình phạt so với sự thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã

hội là cố ý dự mưu và cố ý không có dự mưu hay cố ý đột xuất. Người phạm tội cân

nhắc, tính toán về việc thực hiện tội phạm trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm

cho xã hội là cố ý có dự mưu, nếu người phạm tội vùa nảy sinh ý định phạm tội đã

thực hiện ngay ý định đó mà không có sự tính toán, cân nhắc cụ thể trước đó về việc

thực hiện tội phạm là cố ý đột xuất.

Theo mức độ cụ thể của hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà chủ thể hình dung ra

trước khi thực hiện tội phạm, người ta phân chia lỗi cố ý thành cố ý xác định và cố

ý không xác định. Nếu người phạm tội hình dung được cụ thể, xác định được rõ

ràng hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra khi thực hiện hành vi là cố ý xác định,

trường hợp người phạm tội nhìn thấy trước hậu quả xảy ra nhưng không rõ ràng,

không cụ thể, chủ thể chấp nhận bất kỳ một hậu quả nào đó trong số các hậu quả đã

hình dung ra hoặc bất kỳ một mức độ nào của hậu quả là cố ý không xác định.

- Tội phạm được thực hiện do vô ý:.

Tội vô ý là tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý trong những trường hợp sau đây:

Trường hợp thứ nhất, người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể

gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra

43

hoặc có thể ngăn ngừa được;

Trường hợp thứ hai, người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể

gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu

quả đó.

Khoa học Luật hình sự có đặt ra một số hình thức vô ý phạm tội sau đây:

+ Vô ý vì cẩu thả: Đây là trường hợp phạm tội với lỗi vô ý, là trường hợp do

cẩu thả mà người phạm tội không thấy trước khả năng gây ra hậu quả nghiêm trọng

cho xã hội, mặc dù phải thấy trước hoặc có thể thấy trước. Tiêu chuẩn để xác định

một người phải thấy trước và có thể thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội

là căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra sự việc, một người bình thường cũng có

thể thấy trước; ngoài ra còn phải căn cứ độ tuổi, trình độ nhận thức, trình độ văn

hóa, tay nghề, chuyên môn…

+ Vô ý vì quá tự tin: là trường hợp phạm tội với lỗi vô ý, trong đó người phạm

tội thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội,

nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, nhưng hậu

quả đó vẫn xảy ra. Các trường hợp vô ý phạm tội thường liên quan nhiều đến những

người phạm tội hình sự trong quá trình hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của mình.

Như vậy, dựa vào căn cứ pháp luật trên, ta có thể phân biệt được cố ý phạm tội

và vô ý phạm tội các cơ quan có thẩm quyền sẽ phân tích hành vi của người phạm

tội để ra quyết định có hay không được truy tố. Đặc biệt là trong trường hợp đối với

trẻ em chưa thành niên thì vấn đề này càng trở nên quan trọng.

Định nghĩa lỗi vô ý trên đây đã phân biệt hai hình thức lỗi vô ý là vô ý phạm

tội vì cẩu thả và vô ý phạm tội vì quá tự tin.

Theo khoản 1 của Điều 11 BLHS năm 2015 thì: Vô ý phạm tội vì quá tự tin là lỗi

của một người trong trường hợp thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả

nguy hiểm cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn

ngừa được, vì vậy đã thực hiện hành vi và gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.

Về lý trí, người phạm tội do vô ý vì quá tự tin, thấy trước hành vi của mình có

thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Nhìn thấy trước hậu quả nguy hiểm cho

xã hội có thể xảy ra cũng có nghĩa là chủ thể nhận thức được tính nguy hiểm cho xã

44

hội của chính hành vi mà mình thực hiện.

Sự giống nhau giữa vô ý phạm tội vì quá tự tin và cố ý gián tiếp là người phạm

tội đều nhìn thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Sự khác nhau về lý trí giữa

hai hình thức này của lỗi thể hiện như sau: Trong trường hợp cố ý gián tiếp, chủ thể

thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội một cách tương đối rõ ràng, cụ thể. Trong

trường hợp vô ý phạm tội vì quá tự tin người phạm tội nhìn thấy hậu quả có thể xảy

ra, cũng có thể không xảy ra, hậu quả được chủ thể nhận thức chung chung, chưa

mang tính cụ thể. Người phạm tội tin ở khả năng hậu quả sẽ không xảy ra nên đã

thực hiện hành vi.

Về ý chí, người phạm tội do vô ý vì quá tự tin không mong muốn hành vi của

mình gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Sự khác nhau cơ bản giữa cố ý gián tiếp

và vô ý phạm tội vì quá tự tin thể hiện ở nội dung ý chí của lỗi. Người phạm tội vô

ý vì quá tự tin không mong muốn gây ra hậu quả và cũng không có ý thức để mặc

cho hậu quả xảy ra, họ hy vọng hậu quả sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa

được, nhưng sự hy vọng này là dựa trên những căn cứ không chắc chắn như kinh

nghiệm nghề nghiệp, sự khéo léo của bản thân, sự hiểu biết hoặc những tình tiết

khách quan khác. Chẳng hạn: Công nhân một lâm trường khi làm rừng đã nấu ăn,

nhìn thấy mây đen kéo đến vùng trời khu rừng cho rằng sẽ có mưa nên trước khi về

nhà không dùng nước dập tắt lửa, gió thổi, lửa cháy bén khu rừng cây lấy nhựa. Do

sự đánh giá không chính xác các điều kiện, tình tiết khách quan do tin quá mức hy

vọng ngăn ngừa được hậu quả dựa trên các căn cứ không chắc chắn nên hậu quả

nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra.

Theo Khoản 2 của Điều 11 BLHS năm 2015 thì: Vô ý phạm tội vì cẩu thả là lỗi

của một người trong trường hợp gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội vì cẩu thả đã

không nhìn thấy trước hậu quả đó mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước được

hậu quả đó.

Có thể tóm tắt nội dung của lỗi vô ý phạm tội vì cẩu thả như sau:

+ Người phạm tội không thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội của hành vi

mà mình thực hiện.

45

+ Người phạm tội phải thấy trước và có thể thấy trước được hậu quả đó.

Khác với các hình thức cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp và vô ý vì quá tự tin, người

phạm tội vô ý vì cẩu thả đã không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của

hành vi. Khi thực hiện một xử sự nhất định do không cân nhắc thận trọng, một

người đã không nhận thức được khả năng gây thiệt hại cho xã hội, tức là không

nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình. Ví dụ: Một

người hút thuốc lá đi vào kho xăng rồi vứt đoạn thuốc đang cháy dở xuống sân kho

đã gây cháy kho, hay người y tá đã phát nhầm thuốc cho bệnh nhân do cẩu thả

không chú ý và kiểm tra cẩn thận dẫn đến chết người. Hành vi phát nhầm thuốc

chứa đựng khả năng gây thiệt hại cho xã hội nhưng chủ thể không nhận thấy mình

phát nhầm thuốc và do đó cũng không nhận thấy khả năng gây ra hậu quả nguy hại

cho xã hội. Tương tự như vậy, hút thuốc trong kho xặng dầu (nơi cấm lửa) và vứt

mẩu thuốc đang cháy xuống sàn kho là hành vi chứa đựng khả năng gây ra hậu quả

nguy hại nhưng chủ thể do không thận trọng, không có sự chú ý cần thiết nên đã

thực hiện hành vi ấy.

Người phạm tội trong trường hợp vô ý cẩu thả, tuy không nhận thức được khả

năng gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội của hành vi mà họ thực hiện nhưng phải

thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội của hành vi và có thể thấy trước được hậu

quả đó. Để có thể thấy trước hậu quả phải tồn tại đầy đủ các điều kiện khách quan

và chủ quan trong từng trường hợp cụ thể. Điều kiện chủ quan thể hiện chủ thể có

năng lực nhận thức và đánh giá được các yêu cầu của xã hội phản ánh qua các quy

tắc an toàn chung mà họ phải tuân theo. Năng lực này phụ thuộc các phẩm chất của

cá nhân như trình độ chuyên môn, kinh nghiệm sống, tri thức văn hoá… năng lực

“có thể thấy trước” là phẩm chất phổ biến đối với mọi người ở vào những địa vị và

hoàn cảnh cụ thể.

2.1.2. Thể hiện của phân loại tội phạm trong các chế định phần chung

2.1.2.1. Thể hiện trong đường lối xử lý chung

- Thể hiện trong đường lối xử lý chung

Nguyên tắc mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật không loại trừ

46

việc xử lý tội phạm phải có sự phân hoá vì các trường hợp phạm tội đều có sự khác

nhau ở nhiều khía cạnh. Đây là một nguyên tắc khác của luật hình sự – Nguyên tắc

phân hoá trách nhiệm hình sự. Trong xây dựng luật, nguyên tắc này được thể hiện

trực tiếp ở nhiều nhóm điều luật khác nhau của BLHS. Tuy nhiên, trong chính sách

xử lý tội phạm, nguyên tắc phân hoá này được thể hiện ở chỗ phải có sự phân biệt

trong xử lý đối với những đối tượng phạm tội khác nhau – có đối tượng phải

nghiêm trị và có đối tượng cần phải được khoan hồng. BLHS hiện hành xác định

đối tượng phải bị nghiêm trị là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống

đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm

tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng2; còn đối tượng cần được khoan hồng là

người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra3.

Như vậy, phân tích đường lối xử lý chung cho thấy, những người cần nghiêm

trị là tội phạm

- Thể hiện trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

- Thể hiện trong điều kiện miễn trách nhiệm hình sự...

- Thể hiện trong đường lối xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội (tuổi, chính sách

xử lý,...)

2.1.2.2. Thể hiện trong chế định tội phạm

Ngoài quy định về phân loại tội phạm, ở vai trò là cơ sở pháp lý của trách

nhiệm hình sự, là căn cứ pháp lý để định tội, từ trước đến nay cấu thành tội phạm

(CTTP) luôn là vấn đề được quan tâm nghiên cứu. Theo quan điểm phổ biến hiện

nay, CTTP được hiểu là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho loại

tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Mặc dù có cùng bản chất pháp lý

như vậy nhưng trong các đạo luật hình sự, CTTP lại được xây dựng dưới nhiều

dạng khác nhau. Sự khác biệt của chúng đòi hỏi thực hiện việc phân loại một cách

hợp lý, khoa học. Cho đến nay, CTTP được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau

47

như mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được CTTP phản ánh, đặc điểm cấu 2 Điều 3. BLHS năm 2015 3 Điều 3. BLHS năm 2015

trúc của CTTP hay cách thức được nhà làm luật sử dụng quy định CTTP trong luật

hình sự. Việc phân loại CTTP hay cụ thể hơn là việc xác định đúng loại cấu thành

tội phạm (đặc biệt là đối với việc phân loại theo hai tiêu chí đầu) có ảnh hưởng trực

tiếp đến vấn đề trách nhiệm hình sự của những người thực hiện hành vi nguy hiểm

cho xã hội.

Trong nhiều trường hợp, việc xác định đúng loại CTTP cho phép chúng ta phân

biệt những hành vi là tội phạm với những hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng

không phải là tội phạm, xác định nhanh chóng, chính xác giai đoạn thực hiện tội

phạm và hình thức lỗi của tội phạm. Những hoạt động này lại chính là cơ sở của

việc xác định đúng trách nhiệm hình sự của những người liên quan. Vì vậy, trong

phạm vi bài viết này chúng tôi phân tích làm sáng tỏ hơn vấn đề phân loại cấu thành

tội phạm, từ đó chỉ ra một cách khái quát một số nội dung về cơ sở lý luận cho việc

xác định trách nhiệm hình sự trong trường hợp tương ứng.

Trước hết, theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được cấu thành tội

phạm (CTTP) phản ánh, CTTP được phân loại thành CTTP cơ bản, CTTP tăng

nặng và CTTP giảm nhẹ. Trong mối quan hệ này, CTTP cơ bản bao gồm những dấu

hiệu đặc trưng có ở mọi trường hợp phạm tội của loại tội nhất định thể hiện tính

nguy hiểm của loại tội đó và cho phép phân biệt loại tội phạm này với loại tội phạm

khác. CTTP tăng nặng và CTTP giảm nhẹ được xây dựng dựa trên cơ sở CTTP cơ

bản. Vì vậy, chúng bao gồm cả những dấu hiệu của CTTP cơ bản và những dấu hiệu

bổ sung phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội tăng lên (CTTP tăng nặng) hoặc

giảm đi (CTTP giảm nhẹ) của mỗi loại tội phạm. Như vậy, có thể khẳng định rằng

mọi CTTP tăng nặng và CTTP giảm nhẹ đều phải có đầy đủ các dấu hiệu của CTTP

cơ bản. Nói cách khác, tất cả những trường hợp không thoả mãn CTTP cơ bản của

một loại tội phạm nhất định thì dù có những dấu hiệu làm cho tính nguy hiểm cho

xã hội tăng lên (tình tiết định khung tăng nặng) hay giảm đi (tình tiết định khung

giảm nhẹ) cũng không thể thoả mãn CTTP tăng nặng hay CTTP giảm nhẹ của loại

tội đó. Trường hợp này hành vi được thực hiện có thể không phải là tội phạm hoặc

48

là một tội phạm khác (nếu thoả mãn dấu hiệu cấu thành của loại tội phạm khác). Ví

dụ: Trường hợp lần đầu tiên lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản

của người khác có giá trị dưới 500.000đ (không thuộc trường hợp gây hậu quả

nghiêm trọng) không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Liên quan đến ranh giới giữa CTTP cơ bản và CTTP tăng nặng tôi muốn đề cập

trường hợp thực tiễn hiện nay vẫn còn gây tranh cãi xung quanh việc xác định loại

CTTP để áp dụng. Đây là trường hợp đặt ra đối với những tội phạm được thực hiện

với lỗi cố ý mà CTTP cơ bản có quy định cụ thể tình tiết định lượng và đồng thời

cũng quy định những trường hợp mặc dù không thoả mãn tình tiết định lượng

nhưng lại thoả mãn tình tiết khác là đã bị kết án về những tội nhất định, chưa được

xoá án tích mà còn vi phạm, mặt khác trong CTTP tăng nặng lại có tình tiết định

khung “tái phạm nguy hiểm”, ví dụ: CTTP tội trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS).

Vấn đề cần xác định ở đây là nếu người thực hiện hành vi quy định trong CTTP cơ

bản không thoả mãn tình tiết định lượng nhưng trước đó đã thuộc trường hợp tái

phạm ở một tội theo điều luật quy định, chưa được xoá án tích thì sẽ xử lý theo

CTTP cơ bản hay theo CTTP tăng nặng? Trên thực tế một số cơ quan tư pháp

hướng dẫn các cơ quan cấp dưới xử lý những trường hợp này theo CTTP tăng nặng.

Theo quan điểm của chúng tôi, trường hợp này sẽ không thể thoả mãn CTTP cơ bản

nếu không cộng với tình tiết đã bị kết án (dù thuộc trường hợp tái phạm hay trường

hợp thông thường), đây là tình tiết để hành vi vi phạm trở thành hành vi phạm tội

còn tình tiết đã tái phạm chỉ được sử dụng để chuyển hoá thành tái phạm nguy hiểm

nếu hành vi trên tự thân nó đã đủ để cấu thành tội phạm. Như vậy, thực chất đây là

trường hợp chỉ đáp ứng được các yêu cầu của CTTP cơ bản mà không có thêm tình

tiết nào để có thể chuyển sang CTTP tăng nặng.

Với vai trò là cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự, là căn cứ pháp lý để định

tội, từ trước đến nay CTTP luôn là vấn đề được quan tâm nghiên cứu. Theo quan

điểm phổ biến hiện nay, CTTP được hiểu là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính

đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Mặc dù có

cùng bản chất pháp lý như vậy nhưng trong các đạo luật hình sự, CTTP lại được

49

xây dựng dưới nhiều dạng khác nhau. Sự khác biệt của chúng đòi hỏi thực hiện việc

phân loại một cách hợp lý, khoa học. Cho đến nay, CTTP được phân loại theo nhiều

tiêu chí khác nhau như mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được CTTP phản

ánh, đặc điểm cấu trúc của CTTP hay cách thức được nhà làm luật sử dụng quy

định CTTP trong luật hình sự. Việc phân loại CTTP hay cụ thể hơn là việc xác định

đúng loại cấu thành tội phạm (đặc biệt là đối với việc phân loại theo hai tiêu chí

đầu) có ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề trách nhiệm hình sự của những người thực

hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.

Trong nhiều trường hợp, việc xác định đúng loại CTTP cho phép chúng ta phân

biệt những hành vi là tội phạm với những hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng

không phải là tội phạm, xác định nhanh chóng, chính xác giai đoạn thực hiện tội

phạm và hình thức lỗi của tội phạm. Những hoạt động này lại chính là cơ sở của

việc xác định đúng trách nhiệm hình sự của những người liên quan. Vì vậy, trong

phạm vi bài viết này phân tích làm sáng tỏ hơn vấn đề phân loại CTTP, từ đó chỉ ra

một cách khái quát một số nội dung về cơ sở lý luận cho việc xác định trách nhiệm

hình sự trong trường hợp tương ứng.

2.1.2.3. Thể hiện trong chế định hình phạt

Phân loại tội phạm thể hiện trong chế định hình phạt ở các nội dung sau:

- Trong điều kiện áp dụng các loại hình phạt

Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều

tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt. (Điều 34 BLHS)

Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp sau đây:

+ Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này

quy định;

+ Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi

trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật

này quy định. (Khoản 1 Điều 35 BLHS)

Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người

50

phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang

có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải

cách ly người phạm tội khỏi xã hội (Khoản 1 Điều 36 BLHS).

Tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm

tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình (Điều 39 BLHS)

Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt

nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm

tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc

biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định (Khoản 1 Điều 40 BLHS)

Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm

trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an

ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tham nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật này

quy định (Điều 45 BLHS)

- Trong điều kiện miễn trách nhiệm hình sự

Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý

gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người

khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải

và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự

(khoản 3 Điều 29 BLHS). Đây là một trong những căn cứ để người phạm tội được

miễn trách nhiệm hình sự.

- Trong căn cứ quyết định hình phạt

Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc

tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người

phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó, khi quyết

định hình phạt cho người phạm tội thì sẽ căn cứ vào việc tội phạm thuộc loại tội

phạm nào để đưa ra mức hình phạt phù hợp, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

- Trong quy định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau (Điều 27

BLHS):

51

+ 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;

+ 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng;

+ 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;

+ 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Ví dụ: Ngày 15/5/2010 A thực hiện hành vị trộm cắp tài sản 5.000.000 đồng

thuộc Khoản 1 Điều 173 BLHS thì sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm tù

hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Như vậy, hành vi trộm cắp của A là tội phạm

ít nghiêm trọng nên thời hiệu truy cứu TNHS là 05 năm kể từ ngày 15/5/2010. Kể

từ ngày thực hiện hành vi cho đến 05 năm sau nếu A vẫn chưa bị truy cứu TNHS thì

A sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nữa vì đã hết thời hiệu.

Không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 27

của Bộ luật Hình sự đối với các tội phạm sau đây (Điều 28 BLHS năm 2015):

+ Các tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Chương XIII của Bộ luật này;

+ Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định

tại Chương XXVI của Bộ luật này;

+ Tội tham ô tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều

353 của Bộ luật này; tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và

khoản 4 Điều 354 của Bộ luật này.

- Trong điều kiện và biện pháp xoá án tích

Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng

và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích (Khoản 2 Điều 69 BLHS)

Để có thể đạt được mục đích giáo dục chung chính sách xử lý tội phạm đòi hỏi

phải phát hiện kịp thời mọi hành vi phạm tội và nhanh chóng xử lý nghiêm minh.

Xử lý nghiêm minh không chỉ là đòi hỏi của mục đích giáo dục chung mà cũng là

đòi hỏi của mục đích giáo dục riêng. Xử lý nghiêm minh đòi hỏi phải là xử lý đúng

luật, bao gồm định tội danh đúng luật, xác định khung hình phạt đúng luật và xác

định hình phạt cụ thể đúng luật. Để có cơ sở cho việc xử lý tội phạm được nghiêm

minh BLHS đã quy định tương đối cụ thể và rõ ràng các vấn đề về tội phạm và hình

phạt. Trong đó có quy định về các căn cứ quyết định hình phạt: “Khi quyết định

52

hình phạt, Toà án căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và

mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các

tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự” (Điều 50 BLHS). Theo đó

việc xử lý tội phạm đòi hỏi hình phạt được tuyên phải tương xứng với tính chất,

mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và phù hợp với nhân thân người

phạm tội mà trước hết là phù hợp với khả năng giáo dục của họ.

Mục đích giáo dục của việc xử lý tội phạm đòi hỏi việc xử lý tội phạm phải có

tính nhân đạo. Tính nhân đạo này trước hết phải được thể hiện trong luật, ở nội

dung, phạm vi và điều kiện áp dụng các loại hình phạt trong hệ thống hình phạt

cũng như ở nội dung các quy định về quyết định hình phạt, về việc chấp hành hình

phạt. Đồng thời tính nhân đạo trong xử lý tội phạm cũng đòi hỏi các cơ quan áp

dụng luật để xử lý tội phạm cũng như các cơ quan thực hiện việc thi hành án cũng

phải xuất phát và dựa trên tư tưởng nhân đạo.

Trong BLHS hiện hành, tính nhân đạo của chính sách xử lý tội phạm đã được

thể hiện việc phân loại tội phạm cụ thể:

- Hệ thống hình phạt được quy định không chỉ có hình phạt tước tự do mà có

nhiều hình phạt chính là hình phạt không tước tự do (cảnh cáo, cải tạo không giam

giữ, phạt tiền) và những hình phạt này được quy định cho các tội phạm cụ thể với

phạm vi rộng hơn. Tính nhân đạo của chính sách xử lý tội phạm còn được thể hiện

trong các quy định riêng cho những đối tượng đặc biệt là người chưa thành niên,

phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con nhỏ, người già. Cụ thể: Không áp dụng hình phạt tù

chung thân đối với người phạm tội là người chưa thành niên; không áp dụng hình

phạt tử hình đối với người phạm tội là phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con

dưới 36 tháng tuổi, khi phạm tội hoặc khi bị xét xử; người phạm tội là người già

được quy định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

- Chế định án treo (miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện); chế định giảm

mức hình phạt đã tuyên (do có tiến bộ trong khi chấp hành hình phạt); chế định

hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù (do bị bệnh nặng, do có thai …) và

53

chế định xoá án tích.

2.1.3. Thể hiện của phân loại tội phạm trong phần thứ hai

2.1.3.1. Phân loại tội phạm trong việc xây dựng các chương, mục của phần các tội phạm

Theo căn cứ này, phân biệt được xây dựng trong các chương mục. Căn cứ này

là kết quả gián tiếp của việc liệt kê các loại tội được xem là nguy hiểm nhất đối với

trật tự, kỉ cương, đạo đức xã hội. Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội

được luật hình sự bảo vệ và bị các hành vi phạm tội xâm hại đến. Việc quy định

những quan hệ xã hội nào được luật hình sự bảo vệ là khách thể của tội phạm phụ

thuộc vào ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội nhưng thường thì nó là

các quan hệ xã hội quan trọng trong đời sống xã hội. Khách thể của tội phạm chính

là đối tượng được bảo vệ của pháp luật hình sự được quy định ở Khoản 1 Điều 8

của BLHS

Do tính chất nguy hiểm đặc biệt của các loại tội nên thông thường theo khách

thể loại và khách thể trực tiếp phân chia thành các nhóm tội:

Chương XIII Các tội xâm phạm an ninh quốc gia, Chương XIV Các tội xâm

phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; Chương XV Các tội

xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; Chương

XVI Các tội xâm phạm sở hữu; Chương XVII Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân

và gia đình; Chương XVIII Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; Chương XIX

Các tội phạm về môi trường; Chương XX Các tội phạm về ma túy; Chương XXI

Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng; Chương XXII Các tội xâm

phạm trật tự quản lý hành chính; Chương XXIII Các tội phạm về chức vụ; Chương

XXIV Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp; Chương XXV Các tội xâm phạm nghĩa

vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với quân đội

trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; Chương XXVI Các tội phá hoại hòa bình,

chống loài người và tội phạm chiến tranh.

2.1.3.2. Phân loại tội phạm trong việc xây dựng các cấu thành tội phạm cụ thể

Trong một tội có nhiều khung hình phạt, tại khoản 1 thuộc tội ít nghiêm trọng

nhưng đến khoản 4 lại thuộc tội đặc biệt nghiêm trọng (Tội trộm cắp tài sản Điều

54

173 BLHS); Tội Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169 BLHS) thì khoản 1 là

tội nghiêm trọng, khoản 4 là tội đặc biệt nghiêm trọng; Tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134 BLHS) thì khoản 1 là tội ít

nghiêm trọng, khoản 6 là tội đặc biệt nghiêm trọng.

Với vai trò là cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự, là căn cứ pháp lý để định

tội, từ trước đến cấu thành tội phạm luôn là vấn đề được quan tâm nghiên cứu. Cấu

thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính chất đặc trưng cho loại tội

phạm cụ thể được quy định trong BLHS. Với nội dung này, cấu thành tội phạm

được coi là khái niệm pháp lý của loại tội phạm cụ thể, là sự mô tả khái quát một

loại tội phạm nhất định trong BLHS. Cấu thành tội phạm được phân loại như sau:

Căn cứ theo tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Tùy thuộc vào các dấu hiệu đặc trưng cho các dấu hiệu cấu thành tội phạm có

ảnh hưởng đến tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà nhà làm luật sẽ cân nhắc

để xây dựng các cấu thành tội phạm.

Dựa trên căn cứ này, cấu thành tội phạm được phân thành 3 loại:

Cấu thành tội phạm cơ bản: Cấu thành tội phạm cơ bản là cấu thành tội phạm

chứa đựng các dấu hiệu đặc trưng, có ở mọi trường hợp phạm tội của một loại tội.

Cấu thành tội phạm cơ bản thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của loại tội

phạm đó và cho phép phân biệt với loại tội phạm khác. Cấu thành tội phạm cơ bản

chứa đựng yếu tố định tội nhằm xác định tội phạm (hành vi đã đến mức là tội phạm)

và phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác.

Ví dụ, Bộ luật Hình sự quy định: “Người nào sản xuất trái phép chất ma tuý

dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm” là cấu thành tội

phạm cơ bản của “tội sản xuất trái phép chất ma tuý”. Để xác định một người

phạm vào tội này, hành vi của người đó phải đã thỏa mãn các dấu hiệu cơ bản trên

đây. Đồng thời, các dấu hiệu này cũng là cơ sở để phân biệt tội sản xuất trái phép

chất ma túy với các tội phạm khác.

Cấu thành tội phạm giảm nhẹ: Cấu thành tội phạm giảm nhẹ là cấu thành tội

phạm được hình thành dựa trên các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản cùng

55

với những yếu tố khác khiến cho tội phạm giảm đi tính nguy hiểm cho xã hội. Ví

dụ, cấu thành tội phạm cơ bản của tội phạm quy định tại Điều 108 Bộ luật Hình sự

2015 là:

“Công dân Việt Nam nào câu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho độc

lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ xã hội chủ

nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tiềm lực quốc phòng, an

ninh, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình” 2, Điều

108

Trong trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn các dấu hiệu này, đồng thời

còn có “nhiều tình tiết giảm nhẹ” (khoản 2 Điều 108) thì hành vi phạm tội được

xem là thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm giảm nhẹ.

Cấu thành tội phạm tăng nặng: Cấu thành tội phạm tăng nặng là cấu thành tội

phạm được hình thành dựa trên các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản cùng

với những yếu tố khác khiến cho tội phạm tăng tính nguy hiểm cho xã hội.

Tóm lại, để xây dựng cấu thành tội phạm giảm nhẹ, cấu thành tội phạm tăng

nặng, nhà làm luật cần thiết phải dựa vào cấu thành tội phạm cơ bản, đồng thời căn

cứ yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm cũng như tình hình phạm tội

trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Những dấu hiệu có trong cấu thành tội phạm

giảm nhẹ hoặc tăng nặng được gọi là dấu hiệu định khung vì khi thoả mãn được các

yếu tố đó sẽ cho phép chuyển khung hình phạt.

Phân loại theo đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm:

Căn cứ theo đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm, cấu thành tội phạm

được phân thành 2 loại:

Cấu thành tội phạm hình thức: Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội

phạm có dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Đối với

những tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức, hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ

cần được thực hiện, kết hợp với các yếu tố cần và đủ khác là đã đủ yếu tố xác định

tội phạm hoàn thành. Ví dụ, để xem là tội phạm hoàn thành đối với tội xâm phạm

an ninh lãnh thổ, người phạm tội chỉ cần có hành vi “xâm nhập lãnh thổ, có hành

56

động làm sai lệch đường biên giới quốc gia hoặc có hành động khác nhằm gây

phương hại cho an ninh lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”

mà không cần phải gây ra hậu quả nào.

Cấu thành tội phạm vật chất: Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội

phạm có dấu hiệu của mặt khách quan không chỉ là hành vi nguy hiểm cho xã hội

mà còn đòi hỏi phải có hậu quả xảy ra và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu

quả đó. Đối với tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất, hành vi bị xem là tội phạm

khi nó thực tế gây ra một hậu quả cụ thể thoả mãn yêu cầu của điều luật quy định về

tội phạm đó, giữa hành vi và hậu quả phải có mối quan hệ nhân quả. Nếu có hành vi

nhưng hậu quả chưa xảy ra hoặc hậu quả không có mối quan hệ nhân quả với hành

vi thì tội phạm coi như chưa hoàn thành.

Ví dụ, để tội phạm hoàn thành đối với tội giết con mới đẻ, người phạm tội phải

có hành vi giết đứa trẻ và hậu quả là đứa trẻ phải chết.

Việc phân loại cấu thành tội phạm vật chất và hình thức phụ thuộc vào chính

sách hình sự của một quốc gia trên cơ sở xác định mức độ can thiệp cần thiết của

Luật hình sự đối với tính nguy hiểm của từng loại tội phạm.

Đối với loại tội phạm có tính nguy hiểm càng cao thì Nhà nước cần thiết phải

ngăn chặn càng sớm tránh xảy ra thiệt hại (các tội phạm có cấu thành tội phạm hình

thức). Mặt khác, việc phân chia này còn chịu chi phối của việc xác định tính chất

của sự thiệt hại, đó là thiệt hại về vật chất, thể chất, tinh thần hay chính trị. Chẳng

hạn, hành vi tuyên truyền chống chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng ta không thể xác

định được mức độ ảnh hưởng của việc tuyên truyền đó, hay nói khác hơn chúng ta

không thể xác định được hậu quả xảy ra ở mức độ nào. Và những trường hợp này,

nhà làm luật thường quy định cho nó cấu thành tội phạm hình thức.

Ngoài ra, dựa trên đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm, có quan điểm cho

rằng còn có một cấu thành tội phạm thứ ba, đó là cấu thành tội phạm cắt xén. Thực

ra, đây là một dạng đặc biệt của cấu thành tội phạm hình thức. Cấu thành tội phạm

loại này không bắt buộc hậu quả xảy ra và tính đặc biệt của nó thể hiện ở chỗ hành

vi khách quan không phải phản ánh hành vi phạm tội mà chỉ là những “hoạt động

57

nhằm” thực hiện hành vi phạm tội mà thôi.

Việc phân chia thành cấu thành tội phạm vật chất và hình thức có ý nghĩa dùng

để xác định thời điểm hoàn thành của tội phạm. Việc xác định này có ý nghĩa quan

trọng trong việc áp dụng một số chế định khác như: đồng phạm, quyết định hình

phạt, các giai đoạn thực hiện tội phạm…

2.2. Đánh giá việc phân loại tội phạm và một số kiến nghị

2.2.1. Đánh giá việc phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 2015

Những điểm tích cực:

Có thể thấy một điểm tiến bộ của BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017

so với Bộ luật Hình sự 1999 là Bộ luật Hình sự 2015 đã tách quy định về phân loại

tội phạm ra thành một điều luật riêng, không còn chung với điều luật quy định về

khái niệm tội phạm. Việc này đã góp phần đảm bảo tính minh bạch khi các chủ thể

áp dụng Bộ luật để nghiên cứu và thực thi. Theo quy định của BLHS 1999 sửa đổi,

bổ sung năm 2009, phân loại tội phạm được quy định cùng trong một điều luật quy

định khái niệm tội phạm (Điều 8 BLHS 1999) là không phù hợp nên cần tách thành

một điều luật riêng để đảm bảo tính minh bạch. Còn BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ

sung năm 2017 đã quy định khái niệm tội phạm tại Điều 8 còn phân loại tội phạm

tại Điều 9.

Điều 9 của BLHS năm 2015 quy định về phân loại tội phạm được tách ra từ

khoản 2 Điều 8 của BLHS năm 1999 và cơ bản vẫn giữ nguyên cách phân loại tội

phạm dựa trên tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, theo đó, tội

phạm được phân chia thành bốn loại:

(1) Tội phạm ít nghiêm trọng;

(2) Tội phạm nghiêm trọng;

(3) Tội phạm rất nghiêm trọng;

(4) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Việc phân loại tội phạm theo cách này giúp các nhà làm luật có thể thực hiện

được nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự ngay trong luật và đây cũng chính là

điều kiện để có thể cá thể hoá trách nhiệm hình sự trong luật và trong thực tiễn áp

58

dụng. Đồng thời, là cơ sở để áp dụng các biện pháp ngăn chặn, để tính thời hiệu

truy cứu trách nhiệm hình sự và các thời hạn tố tụng cũng như quy định thẩm quyền

điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng.

Tuy nhiên, cần lưu ý là Điều 9 của BLHS năm 2015 có sự khác biệt trong cách

quy định về mức cao nhất của khung hình phạt đối với mỗi loại tội so với BLHS

năm 1999. Cụ thể là, theo BLHS năm 1999 thì mức cao nhất của khung hình phạt

đối với tội ít nghiêm trọng là đến 03 năm tù, tội nghiêm trọng là đến 07 năm tù và

tội rất nghiêm trọng là đến 15 năm tù. Quy định này rất không rõ ràng vì chỉ quy

định điểm cuối mà không quy định điểm bắt đầu để xác định mức cao nhất của

khung hình phạt đối với mỗi loại tội, dẫn đến cách hiểu khác nhau, gây khó khăn

cho việc xác định loại tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng hay rất nghiêm trọng. (Ví

dụ, khoản 1 Điều 115 BLHS năm 1999 quy định mức phạt tù đến 05 năm tù; khoản

2 Điều 113 BLHS năm 1999 quy định mức phạt tù đến 10 năm tù. Nếu theo cách

quy định mức cao nhất của khung hình phạt như trên thì không rõ các trường hợp

phạm tội này thuộc loại tội nào). Để góp phần khắc phục bất cập nêu trên, đồng thời

tăng tính rõ ràng, minh bạch của Bộ luật, Điều 9 đã quy định rõ điểm bắt đầu để xác

định mức cao nhất của khung hình phạt đối với mỗi loại tội, làm cơ sở để xác định

loại tội phạm, theo đó:

- Tội ít nghiêm trọng là tội có mức cao nhất của khung hình phạt là phạt tiền

hoặc phạt cải tạo không giam giữ mà không có hình phạt tù hoặc là phạt tù đến

03 năm;

- Tội nghiêm trọng là tội có mức cao nhất của khung hình phạt nằm trong

khoảng từ trên 03 năm đến 07 năm tù;

- Tội rất nghiêm trọng là tội có mức cao nhất của khung hình phạt nằm trong

khoảng từ trên 07 năm đến 15 năm tù;

- Tội đặc biệt nghiêm trọng là tội có mức cao nhất của khung hình phạt nằm

trong khoảng từ trên 15 năm đến 20 năm tù hoặc tù chung thân hoặc tử hình.

Quy định này phân định rõ ranh giới giữa các loại tội, đồng thời, phù hợp với

cách quy định các khung hình phạt trong từng tội danh trong Bộ luật Hình sự. Cùng

59

với đó, sửa đổi cách nêu khái niệm về các tội phạm với cụm từ: “có tính chất và

mức độ nguy hiểm” thay cho cụm từ: “gây nguy hại” cho phù hợp với căn cứ phân

loại là dựa vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.

Những bất cập, hạn chế:

Bên cạnh những ưu điểm của BLHS năm 2015 về phân loại tội phạm như đã

phân tích ở trên thì BLHS năm 2015 vẫn còn những hạn chế nhất định như:

Thứ nhất, hiện nay BLHS năm 2015 phân loại tội phạm chủ yếu theo cách phân

loại tội phạm quy định tại Điều 9, phân loại theo tính chất và mức độ nguy hiểm và

hình phạt nhưng trên thực tế có những cách phân loại khác sát với chủ thể phạm tội hơn

như có thể phân loại tội phạm thành tội phạm là cá nhân và tội phạm là pháp nhân.

Thứ hai, TNHS của pháp nhân là chế định mới được quy định trong BLHS năm

2015, chưa có tiền lệ nên trong quy định của pháp luật, cũng như trong việc thực thi

trên thực tế sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế và vướng mắc:

Một là, tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào

tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định tại

Khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015. Đây là quy định mới được bổ sung khi sửa đổi

BLHS năm 2015. Theo đó, tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện cũng được

phân loại làm cơ sở để tiến hành các hoạt động tố tụng, xác định các vấn đề khác có

liên quan như thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hạn điều tra, thẩm quyền

điều tra…

Ví dụ: Khoản 6 Điều 188 BLHS quy định về tội buôn lậu. Nếu pháp nhân

phạm tội thuộc điểm a khoản 6 Điều 188, thì tính chất, mức độ nguy hiểm của hành

vi tương ứng với khoản 1 Điều 188. Theo quy định này thì mức cao nhất của khung

hình phạt do BLHS quy định đối với tội phạm này là 3 năm tù, tội phạm mà pháp

nhân thương mại thực hiện. Do vậy, tội phạm mà pháp nhân thương mại thực hiện

nếu xác định thuộc điểm a khoản 6 Điều 188 là tội phạm ít nghiêm trọng.

Tương tự, nếu pháp nhân phạm tội thuộc điểm b khoản 1 Điều 188 là tội phạm

đặc biệt nghiêm trọng, nếu thuộc điểm d khoản 6 Điều 188, tội phạm mà pháp nhân

60

thương mại thực hiện sẽ là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Tuy nhiên, nếu tội phạm mà pháp nhân thương mại thực hiện tại điểm đ, khoản

6 Điều 188 “phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 188: phạm tội thuộc

trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh

viễn”. Vậy trường hợp này, dựa vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của

hành vi, loại tội phạm mà pháp nhân thương mại thực hiện là tội phạm nào khi

không có khoản tương ứng đối với hành vi phạm tội do cá nhân thực hiện.

Hai là, Khoản 2 Điều 75 BLHS năm 2015 quy định việc pháp nhân thương mại

chịu TNHS không loại trừ TNHS của cá nhân. Quy định này làm phát sinh một vấn

đề là cá nhân và pháp nhân thương mại là cùng nhau phạm tội thì có được xem là

đồng phạm trong cùng một vụ án không? Xác định lỗi và vai trò của cá nhân và

pháp nhân thương mại với một hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại như thế

nào? Trong một vụ phạm tội của pháp nhân thì cá nhân sẽ chịu trách nhiệm về cùng

một tội danh hay sẽ xử lý theo tội danh khác? Trong trường hợp bị xét xử về cùng

một tội danh thì có xem xét vấn đề đồng phạm không? Tất cả những câu hỏi này

BLHS năm 2015 không quy định rõ.

Ba là, Khoản 1 Điều 75 BLHS năm 2015 quy định những điều kiện cần và đủ

để xác định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân. Điều này cho thấy BLHS năm

2015 đã áp dụng các điều kiện truy cứu TNHS của pháp nhân theo học thuyết đồng

nhất hóa TNHS. Tuy nhiên, để áp dụng thuận lợi và thống nhất trong xét xử, phòng

ngừa đấu tranh và chống tội phạm vì ở nước ta mặc dù đã ban hành nghị quyết ban

hành án lệ của TANDTC, tuy nhiên Hội đồng thẩm phán TANDTC lại chưa ban

hành án lệ về trường hợp này. Theo tôi, để giải quyết vướng mắc này cần phải phân

loại TNHS theo dạng hành vi cụ thể của pháp nhân với 3 trường hợp: Pháp nhân có

thể phải chịu TNHS về hành vi không được thực hiện nghĩa vụ được quy định trực

tiếp cho pháp nhân; Pháp nhân có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi

phạm tội được thực hiện nhân danh và vì lợi ích của pháp nhân; Pháp nhân phải

chịu TNHS trong trường hợp người của pháp nhân đã phạm tội khi thực hiện các

61

công việc được pháp nhân giao và việc phạm tội này có phần lỗi vủa pháp nhân.

Bốn là, xác định lỗi của pháp nhân. Trong việc quyết định cấu trúc pháp lý của

trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thì lỗi của chủ thể thuộc về mặt chủ quan của

hành vi phạm tội là vấn đề gây tranh cãi tất yếu nhất. Lỗi được hiểu nhận thức, thái

độ tâm lý của con người về hành vi của chính mình. Trong khi đó, pháp nhân là một

thực thể không thể có nhận thức tâm lý như một con người. Vì vậy, yếu tố lỗi của

chủ thể như là một yếu tố không thể thiếu của hành vi không thể áp dụng trực tiếp

cho chủ thể là là pháp nhân. Tuy nhiên như đã phân tích ở trên, lỗi của pháp nhân

nằm trong lỗi thuộc về hành vi của người lãnh đạo hoặc người đại diện có thẩm

quyền cua pháp nhân. Khi hành vi phạm tội do người lãnh đạo, người đại diện có

thẩm quyền gây ra thì pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự với tư cách là đồng

phạm. Thêm vào đó, việc quy đinh về điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự của

pháp nhân thương mại theo quan điểm của tôi là chưa phù hợp. Ví dụ: Tại Điều 216

tội trốn đóng BHXH, BHYT, Bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động. Đối với tội

này là trường hợp quy định về việc pháp nhân phải chịu TNHS về hành vi không

thực hiện nghĩa vụ được quy định trực tiếp cho pháp nhân. Khi không thực hiện

nghĩa vụ này ở mức độ nghiêm trọng, doanh nghiệp có thể phải chịu TNHS. Đối với

dạng hành vi này không thực hiện nghĩa vụ này, luật không đòi hỏi thêm điều kiện

để xác định TNHS như Điều 75.

Năm là, về phạm vi chịu TNHS của pháp nhân. Điều 76 đã liệt kê các tội danh

cụ thể mà pháp nhân có thể phải chịu TNHS về các tội danh đó. Theo quan điểm cá

nhân tôi cho rằng, với việc quy định như Điều 76 người đọc có thể nhận biết được

phạm vi chịu TNHS của pháp nhân thương mại phạm tội về những tội danh đã được

liệt kê. Tuy nhiên, về mặt kỹ thuật lập pháp quy định này lại chưa hợp lý, vì khi

thêm hoặc bớt 1 tội danh có quy định TNHS của pháp nhân thì không những cần

sửa đổi điều luật về tội danh có liên quan mà cũng phải sửa đổi cả Điều 76. Hơn

nữa việc quy định về cùng một nội dung không nhất thiết phải sử dụng phương

pháp “bắc cầu” giữa hai điều luật.

Thứ ba, mặc dù BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã có nhiều quy

62

định mới từng bước đáp ứng nhu cầu phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm môi trường

nhưng vẫn còn một số hạn chế, tồn tại chưa theo sát được thực tiễn tội phạm về môi

trường đang diễn ra, cụ thể:

- Về mức xử phạt tiền nặng nhất có thể áp dụng đối với hành vi phạm tội môi

trường là 20.000.000đ, tuy nhiên trên thực tế chưa đủ sức răn đe đối tượng phạm tội

cũng như yêu cầu khắc phục hậu quả xảy ra. Ví dụ vụ xả thải ở khu công nghiệp

Formosa - Hà Tĩnh với thiệt hại nặng nề cho khu vực biển miền trung, hàng nghìn

tấn cá bị chết, hàng vạn ngư dân không thể ra khơi đánh cá trong một vài năm liền,

thiệt hại về vật chất, tinh thần là không thể đếm xuể, không thể bù đắp được. Để

khắc phục hậu quả, trả lại môi trường biển như trước đây chúng ta phải mất rất

nhiều thời gian và tốn kém hàng nghìn tỉ đồng.

- Khó khăn trong xác định hậu quả của hành vi phạm tội của pháp nhân, vì trên

thực tế việc xả thải ra môi trường diễn ra trong nhiều năm, ảnh hưởng đến khu vực

rộng lớn, thậm chí là hàng nghìn hộ dân ở tuyến xả thải. Do đó, việc xác định hành

vi phạm tội, hậu quả xảy ra trong một thời điểm phát hiện hành vi phạm tội chưa

phản ánh đúng hết bản chất hậu quả hành vi của tội phạm xảy ra. Ví dụ như trở lại

vụ án Công ty Vedan xả thải ra sông Thị Vải, gây ra hiện tượng cá chết hàng loạt,

ảnh hưởng đến cuộc sống của 2000 hộ dân dọc sông Thị Vải thuộc ba tỉnh Đồng

Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Thành Phố Hồ Chí Minh. Theo phản ánh của người dân

lưu vực sông Thị Vải, thì từ năm 2001 bắt đầu có hiện tượng cá chết nhưng đến

đỉnh điểm năm 2008 thì toàn bộ dòng sông đã bị bức tử, không còn sinh vật nào có

thể sống dưới nước được. Như vậy, việc xác định thiệt hại, từ năm 2001 đến năm

2008 là rất khó khăn, chưa có cơ sở khoa học để xác định chính xác con số thiệt hại

mà công ty Vedan gây ra.

- Thời điểm truy cứu trách nhiệm hình sự được xác định trên mức độ nghiêm

trọng của hành vi phạm tội, Tuy nhiên, đối với hành vi phạm tội của pháp nhân thì

việc xác định thời hiệu truy cứu TNHS nên dựa vào mức độ thiệt hại đối với môi

trường, không nên tính theo mức phạt tù.

2.2.2. Một số kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện phân loại tội phạm trong pháp

luật hình sự Việt Nam

63

2.2.2.1. Kiến nghị về các cách phân loại

- Thứ nhất, tại Điều 9 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về phân loại tội

phạm về cơ bản vẫn được giữ nguyên theo Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999, cụ thể

là: “Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội

được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành bốn loại sau đây:

1. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho

xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối

với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;

2. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã

hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội

ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù;

3. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm

cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định

đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù;

4. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm

cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy

định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình” [2,

Điều 9].

Quy định như trên khi áp dụng để phân loại các tội phạm cụ thể đối với pháp

nhân thương mại phạm tội, có thể dẫn tới hai cách hiểu khác nhau như sau:

Cách hiểu thứ nhất: Do không có một điều luật nào quy định việc phân loại tội

phạm áp dụng riêng đối với pháp nhân thương mại. Do vậy, Điều 9 của Bộ luật

Hình sự năm 2015 sẽ được áp dụng chung cho tất cả các trường hợp bất kể chủ thể

của tội phạm là cá nhân hay pháp nhân. Hình phạt áp dụng với pháp nhân thương

mại chủ yếu là phạt tiền và cũng chỉ có hình phạt tiền được quy định là một trong

những căn cứ để phân loại tội phạm đối với loại chủ thể này. Cho nên, tội phạm mà

các pháp nhân thương mại thực hiện sẽ luôn thuộc trường hợp tội phạm ít nghiêm

trọng theo quy định tại khoản 1 Điều 9 nêu trên.

Nếu hiểu theo cách này, sẽ thấy bất hợp lý trong quy định về phân loại tội

phạm; khi rõ ràng tính chất, mức độ nguy hiểm cũng như hậu quả đối với xã hội của

64

hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện quy định tại từng điểm là khác

nhau, có trường hợp gây thiệt hại chỉ về tài sản, có trường hợp gây thiệt hại đến sức

khỏe, tính mạng của một người hoặc nhiều người, có trường hợp gây ảnh hưởng xấu

đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội… nhưng lại bị xếp vào cùng một loại tội phạm,

bất kể là số tiền nhiều hay ít, hay có sự phân thành các mức khác nhau tương ứng

với từng điều, khoản cụ thể.

Như vậy, cách hiểu này sẽ không đúng với bản chất hành vi phạm tội do pháp

nhân thương mại thực hiện. Bởi lẽ, không thể căn cứ vào hình phạt tiền được áp

dụng để xác định tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện trong các trường hợp

này là tội phạm ít nghiêm trọng. Do đặc điểm của pháp nhân là một chủ thể pháp

luật có sự độc lập trong tài chính, được thành lập ra để hoạt động kinh doanh vì mục

tiêu lợi nhuận, nên việc áp dụng hình phạt tiền đối với pháp nhân là nhằm đảm bảo

tính răn đe, có hiệu quả cũng như phù hợp với bản chất của chủ thể. Nếu như hình

phạt tù được phân ra các khung hình phạt khác nhau tương ứng với mức độ nguy

hiểm của hành vi do cá nhân thực hiện, thì hình phạt tiền áp dụng đối với pháp nhân

thương mại được phân ra thành các mức khác nhau cũng có ý nghĩa như vậy.

Cách hiểu thứ hai: Dựa vào cách xây dựng trong mỗi điều luật có quy định về

trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân, có thể căn cứ theo khung hình phạt

áp dụng đối với cá nhân để phân loại tội phạm tương ứng. Còn đối với pháp nhân,

các tình tiết định khung tương ứng cũng được áp dụng chung cho cả hai loại chủ

thể. Bởi vì, về cơ bản các điều luật quy định về tội phạm mà pháp nhân thương mại

có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự được thiết kế tương tự nhau, đó là sau khi

nêu các khung hình phạt được áp dụng với pháp nhân có hành vi phạm tội tương

ứng với các khoản được quy định trước đó về hành vi phạm tội của cá nhân: điểm a

(của khoản quy định về hành vi phạm tội của pháp nhân) tương ứng với hành vi

phạm tôi (của cá nhân) quy định tại điểm b khoản 1, tương ứng với điểm c, d khoản

2 tương ứng với khoản 3, 4 chẳng hạn …

Ví dụ: Theo khoản 1 Điều 193 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người

nào sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm thì

65

bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm” [2, Điều 193], đối chiếu với quy định tại Điều 9

của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì tội phạm quy dịnh tại khoản 1 Điều 193 nêu trên

thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng, pháp nhân thương mại phạm tội thuộc

trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này sẽ được xác định là tội phạm nghiêm

trọng; phạm tội có tình tiết thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới

1.500.000.000 đồng, nếu là cá nhân thì bị phạt tù theo khung hình phạt của khoản 3

điều này là từ 10 năm đến 15 năm, tức là loại tội phạm rất nghiêm trọng, thì pháp

nhân thương mại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 điều này cũng

được xác định là loại tội phạm rất nghiêm trọng.

Như vậy, theo cách hiểu này có phần linh hoạt và hợp lý hơn cách hiểu thứ

nhất; bởi nó có thể áp dụng để đánh giá và xác định được đúng tính chất, mức độ

nguy hiểm của hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện tương ứng với

các mức hình phạt quy định tại các điểm a, b, c… trong mỗi khoản của điều luật,

Nhưng hiểu như vậy, sẽ có phần suy đoán, cũng như không có căn cứ chắc chắn, cụ

thể nào để làm cơ sở cho cách hiểu này.

Đồng thời, cả hai cách hiểu và giải thích nêu trên đều chưa giải quyết được

vướng mắc dưới đây:

+ Theo quy định tại Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 2015, các hình phạt chính áp

dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội không chỉ có phạt tiền mà còn bao

gồm cả hình phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn và đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.

Theo nguyên tắc quy định tại khoản 3 của Điều này thì “đối với mỗi tội phạm, pháp

nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính” [2, Điều 33]. Như

vậy, trong những trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội bị áp dụng hình phạt

đình chỉ (có thời hạn hoặc vĩnh viễn) thì tội phạm trong trường hợp này được phân

loại là tội phạm gì?

+ Điều 79 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về hình phạt đình chỉ hoạt động

vĩnh viễn áp dụng đối với pháp nhân thương mại trong hai trường hợp:

“1. Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn là chấm dứt hoạt động của pháp nhân thương

mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt

66

hại hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến tính mạng của nhiều người, gây sự

cố môi trường hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và

không có khả năng khắc phục hậu quả gây ra.

2. Pháp nhân thương mại được thành lập chỉ để thực hiện tội phạm thì bị đình

chỉ vĩnh viễn toàn bộ hoạt động” [2, Điều 79].

Như vậy, nếu pháp nhân thương mại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại

Điều 79, tương ứng với mỗi tội danh trong phạm vi Điều 76 quy định, thì bị đình

chỉ hoạt động vĩnh viễn. Nếu đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thì

trường hợp này có thể xác định là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, nhưng căn cứ

vào đâu để phân loại tội phạm trong trường hợp đó?

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, nếu không có hướng dẫn cụ thể sẽ dẫn đến

sự không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự để giải

quyết các vụ án có chủ thể là pháp nhân thương mại phạm tội, không chỉ trong phân

loại tội phạm mà còn liên quan đến các vấn đề như xác định thời hiệu truy cứu trách

nhiệm hình sự, căn cứ miễn trách nhiệm hình sự (Điều 27, Điều 29 Bộ luật Hình sự

năm 2015); thời hạn điều tra, truy tố, xét xử (các Điều 172, 173, 240, 241, 277, 278

Bộ luật Hình sự năm 2015); thời hạn áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với pháp

nhân …

Qua nghiên cứu về chế định mới về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương

mại lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015, tôi nhận thấy có sự

vướng mắc nêu trên, dễ dẫn đến cách hiểu khác nhau; để vấn đề được giải quyết

đúng đắn và có tính thống nhất nên trong thời gian tới các cơ quan nhà nước có

thẩm quyền sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành và

phân loại tội phạm với pháp nhân thương mại cụ thể hơn.

Thứ hai, có nên quy định mỗi khung hình phạt sẽ tương ứng với mỗi chế tài

tương ứng loại hình phạt để xác định với mỗi loại tội phạm và đưa ra quyết định

hình phạt được chính xác và đơn giản hơn hay không để tạo điều kiện thuận lợi

trong áp dụng Bộ luật Hình sự.

Ví dụ, theo quy định tại Điều 123 BLHS, thì Tội Giết người quy định tại khoản

1 có hình phạt là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình, mà theo

67

quy định về phân loại tội phạm thì từ trên 07 năm đến 15 năm tù là tội phạm rất

nghiêm trọng; từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình là tội phạm

đặc biệt nghiêm trọng. Do đó, ở đây trong một khung hình phạt lại có thể có hai loại

tội phạm.

Vì vậy, có thể quy định chế tài khoản 2 Điều 123 BLHS là 7 năm đến 15 năm

tù (tương ứng tội rất nghiêm trọng); chế tài khoản 1 Điều luật là từ 15 năm đến 20

năm tù, tù chung thân hoặc tử hình (tương ứng tội đặc biệt nghiêm trọng).

Tương tự, trong phần các tội phạm đối với tội phạm chỉ nên quy định tối đa 4

khung hình phạt và mỗi khung tương ứng với một loại tội phạm: khoản 1 với khung

hình phạt đến 03 năm tù (Tội ít nghiêm trọng); khoản 2 từ trên 03 năm đến 07 năm tù

(Tội nghiêm trọng); khoản 3 từ trên 07 đến 15 năm tù (Tội rất nghiêm trọng); khoản 4

từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình (Tội đặc biệt nghiêm

trọng).

- Thứ ba, cần quy định để thể hiện rõ hơn về vấn đề phân loại tội phạm trong

Điều 3 BLHS (Nguyên tắc xử lý), đường lối xử lý đối với từng loại tội. Bởi phân

loại tội phạm là một trong những công cụ chính để thực hiện nguyên tắc phân hóa

trách nhiệm hình sự.

- Thứ tư, thực hiện nhân đạo hóa, nhân văn, hướng thiện đối với việc quyết

định, áp dụng hình phạt.

+ Hạn chế hình phạt tù, người phạm tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng do vô

ý được nạn nhân thỏa thuận, yêu cầu được miễn trách nhiệm hình sự thì có thể áp

dụng hình phạt cảnh cáo;

+ Đối với người phạm tội về tham gia giao thông đường bộ (do lỗi vô ý) mà đã

khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại thì không áp dụng hình phạt tù;

+ Có những người phạm tội phạm ít nghiêm trọng do lỗi vô ý có thể được xem

xét miễn trách nhiệm hình sự do người phạm tội không hề có ý chí thực hiện hành

vi. Bởi án tích kéo theo rất nhiều hệ lụy sau này đối với bản thân và gia đình;

+ Tội phạm do vô ý chỉ nên quy định đến mức cao nhất là tội rất nghiêm trọng,

68

tức chế tài về tội vô ý cao nhất là 15 năm tù…

2.2.2.2. Kiến nghị trong xây dựng các chế định phần các tội phạm từ góc độ phân

loại tội phạm

- Thứ nhất, mặc dù BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã đánh dấu

một bước quan trọng trong tư duy lập pháp hình sự, tiếp tục thể hiện tinh thần chủ

động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm, góp phần bảo vệ chủ

quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công

dân, lợi ích của nhà nước và tổ chức, bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của nước ta, BLHS

năm 2015 quy định pháp nhân là chủ thể của tội phạm, đây là điểm nổi bật, mang

tính đột phá trong chính sách và tư duy lập pháp hình sự nước ta. Tuy nhiên, đây là

vấn đề mới nên BLHS năm 2015 quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo

hướng chỉ áp dụng trách nhiệm hình sự của pháp nhân, xác định cụ thể 33 tội danh,

đây là các tội danh mang tính chất thuần túy về kinh tế, môi trường, an toàn công

cộng và trật tự công cộng; quy định rõ 3 điều kiện để pháp nhân thương mại phải

chịu TNHS và quy định các chế tài áp dụng đối với pháp nhân phạm tội bao gồm 3

hình phạt chính, 3 hình phạt bổ sung và 4 biện pháp tư pháp. Để triển khai và áp

dụng có hiệu quả, thiết nghĩ các cơ quan chức năng cần có văn bản hướng dẫn cụ

thể khắc phục các hạn chế như: các trường hợp đã được phân tích ở phía trên về

trách nhiệm hình sự của pháp nhân và thậm chí trường hợp pháp nhân bị đình chỉ

hoạt động có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động vĩnh viễn thì quyền lợi của người lao

động, của chủ nợ, các đối tác đang có hợp đồng hợp tác, kinh doanh với pháp nhân

này sẽ được giải quyết như thế nào? Những vấn đề này BLHS năm 2015 chưa dự

trù đến. Điều này cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện để có những văn bản hướng

dẫn thi hành BLHS mới.

- Thứ hai, với những hạn chế trong quy định về nhóm tội về môi trường, tác giả

kiến nghị những vấn đề sau:

Một là, sớm có văn bản hướng dẫn chi tiết việc truy cứu trách nhiệm hình sự

đối với pháp nhân, nhất là thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân.

69

Đây là vấn đề mới cho nên việc triển khai áp dụng trên thực tiễn gặp nhiều khó

khăn, mỗi địa phương có một cách hiểu khác nhau. Do đó, cần sớm có văn bản

hướng dẫn để áp dụng thống nhất trong cả nước.

Hai là, tăng mức phạt tiền đối với loại tội phạm này, đặc biệt là đối với đối

tượng pháp nhân phạm tội. Đồng thời bổ sung một điều quy định về khái niệm tội

phạm môi trường, giúp cơ quan điều tra, truy tố, xét xử áp dụng các quy phạm pháp

luật hình sự được đúng đắn, khách quan.

Ba là, tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội trong lĩnh vực môi

trường, nhất là trong lĩnh vực sinh học, vũ khí hóa học, phóng xạ…

Bốn là, ngoài việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội phạm

môi trường thì việc tiếp tục hoàn thiện cơ quan quản lý nhà nước chuyên trách về

bảo vệ môi trường là rất cần thiết, đặc biệt là cơ quan phòng chống tội phạm về môi

trường, trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại để xác định độ thiệt hại mà tội

phạm gây ra để xử lý đúng người, đúng tội, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp

70

luật trong thời gian tới.

KẾT LUẬN

Hoạt động nghiên cứu, phân loại nói chung, việc phân loại tội phạm nói riêng

là quá trình phân chia tội phạm thành những nhóm, loại khác nhau theo căn cứ của

phân loại. Với mục đích của việc phân loại tội phạm trong luật hình sự là phân hóa

tội phạm, phân hóa TNHS, phân hóa cụ thể đường lối xử lý tội phạm trong luật

trước khi tội phạm bị truy tố, xét xử. Trong thực tế nhà làm luật đã thực hiện các

cách phân loại tội phạm khác nhau trong luật hình sự, trong đó cách phân loại tội

phạm theo mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội là cách phân loại tội phạm quan

trọng nhất. Có thể nói bản chất của việc phân loại tội phạm là hoạt động lập pháp,

quy định các nhóm, loại tội phạm, cụ thể hóa quy định về tội phạm và là cơ sở để

xây dựng các CTTP, xây dựng các chế định khác về tội phạm và hình phạt. Do đó,

quá trình phân loại tội phạm là quá trình thể chế hóa chính sách hình sự, xác định

đường lối đấu tranh phòng, chống tội phạm thông qua việc phân loại tội phạm. Đồng

thời, trên cơ sở lý luận về phân loại tội phạm đã được làm sáng tỏ, luận văn phân tích

và đánh giá một cách hệ thống việc xây dựng, sửa đổi và hoàn thiện một số quy định

của BLHS.

Với mong muốn nghiên cứu một cách đầy đủ hơn về phân loại tội phạm nhằm

góp phần hoàn thiện quy định về phân loại tội phạm cũng như các quy định khác về

tội phạm và hình phạt trong BLHS. Có thể nói, kết quả nghiên cứu hạn chế nhưng

luận văn đã góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận chung về phân loại tội phạm

trong luật hình sự. Luận văn đã phân tích và đánh giá quy định về phân loại tội

phạm cũng như các quy định có liên quan của BLHS. Do điều kiện nghiên cứu và

khả năng nghiên cứu của học viên còn hạn chế nên kết quả nghiên cứu sẽ không

tránh khỏi những thiếu sót, học viên kính mong sự tiếp tục chỉ dẫn của các nhà khoa

71

học để luận văn có nội dung hoàn thiện hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bình luận BLHS hợp nhất 2017 phần chung.

2. Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

3. Bộ luật Hình sự số 15/1999QH10 và được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết

33/NQ-QH12 ngày 19/06/2009 và Các văn bản hướng dẫn áp dụng.

4. Bộ luật Tố tụng Hình sự số 101/2015/QH13.

5. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1967), Pháp lệnh trừng trị các tội

phản cách mạng, Hà Nội.

6. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1970), Pháp lệnh trừng trị các tội

xâm phạm tài sản riêng của công dân, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ

Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của Bộ

Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

đến năm 2020, Hà Nội.

9. Đào Trí Úc (2000), Luật Hình sự Việt Nam (Quyển I Những vấn đề chung),

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

10. Đinh Bích Hà (Dịch và giới thiệu): Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa Nhân

dân Trung Hoa, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2007.

11. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999 – Phần

chung, Nxb thành phố Hồ chí Minh.

12. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học luật hình sự (phần các tội phạm) tập I, 3

Nxb TP. HCM 2003.

13. Đỗ Đức Hồng Hà (Chủ biên). So sánh Bộ luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật

Hình sự năm 2015. NXB Hồng Đức. Hà Nội, 2016.

14. Đỗ Ngọc Quang, Trịnh Quốc Toản, Nguyễn Ngọc Hòa (1997) Giáo trình Luật

Hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

15. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung). Nxb Đại học Quốc gia Hà

72

Nội; PGS. TSKH Lê Cảm chủ biên.

16. Nguyễn Ngọc Hòa (2018), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999 –

Phần chung, NXb Tư pháp.

17. Hồ Sỹ Sơn, “Tội phạm và các dấu hiệu của tội phạm nhìn từ góc độ so sánh

pháp luật hình sự ở một số nước trên thế giới”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật

số 10/2012.

18. Lê Cảm & Trịnh Tiến Việt. Chế định thời hiệu trong luật hình sự Việt Nam:

Một số vấn đề lý luận cơ bản. – Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2/2001.

19. Lê Cảm & Trịnh Tiến Việt. Chế định thời hiệu trong luật hình sự Việt Nam –

Trong sách: Nhà nước & pháp luật Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI. (Tập thể

tác giả do TSKH Lê Cảm chủ biên). NXB Công an nhân dân. Hà Nội, 2002.

20. Lê Cảm & Trịnh Tiến Việt. Đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật

hình sự Việt Nam về hệ thống hình phạt và phương hướng hoàn thiện. – Tạp

chí Khoa học (Chuyên san Kinh tế - Luật) của ĐHQGHN, số 4/2008.

21. Lê Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong

Khoa học luật Hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005.

22. Lê Cảm (chủ biên) (2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), (tái

bản lần thứ nhất – 2003),Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

23. Lê Cảm (chủ biên) (2003), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần các tội

phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

24. Lê Cảm (Chủ biên) (2003, 2007), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần

chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

25. Lê Cảm (Chủ biên), Phạm Mạnh Hùng & Trịnh Tiến Việt. Trách nhiệm hình sự

và miễn trách nhiệm hình sự (Sách chuyên khảo). NXB Tư pháp, Hà Nội, 2005.

26. Lê Cảm, Trịnh Tiến Việt, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự (Phần chung) về

trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự.

27. Lê Cảm. Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999: Những vấn đề cần hoàn thiện

các quy định của Phần chung. – Tạp chí DC & PL tháng 8/2008 (Số chuyên đề

sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 1999).

28. Lê Cảm. Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự (Tập IV).

73

NXB Công an nhân dân. Hà Nội, 2002.

29. Lê Cảm. Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự. (Tập I).

NXB Công an nhân dân. Hà Nội, 2000.

30. Lê Cảm. Chế định đặc xá, chế định đại xá và mô hình lý luận của chúng trong

pháp luật hình sự Việt Nam. – Tạp chí TAND, số 5 – tháng 3/2005.

31. Lê Cảm. Hình phạt & biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam. – Tạp

chí Dân chủ và pháp luật (DC&PL), số 8/2000.

32. Lê Cảm. Những cơ sở khoa học – thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật hình

sự Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. – Tạp chí Khoa học của ĐHQG Hà Nội

(Phần khoa học xã hội), XV, số 2/1999.

33. Lê Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong

khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

34. Luật Thi hành án hình sự số 53/2010/QH12.

35. Nguyễn Ngọc Chí, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, xuất bản năm 2013.

36. Nguyễn Ngọc Chí, Giáo trình Những vấn đề lý luận thực tiễn về Luật Hình sự

quốc tế, xuất bản năm 2011.

37. Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên), Giáo trình Quyền con người trong lĩnh vực tư

pháp Hình sự, xuất bản năm 2015.

38. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên). Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015

được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Phần chung). NXB Tư pháp. Hà Nội, 2017.

39. Nguyễn Ngọc Hòa, Lê Thị Sơn (2011), “Tìm hiểu hệ thống pháp luật Cộng

hòa Liên bang Đức – Về phần chung Bộ luật Hình sự Cộng hòa Liên bang

Đức”, Tạp chí Luật học, (đặc san 9).

40. Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. Công an nhân dân,

Hà Nội, 2010.

41. Nguyễn Ngọc Hòa. Tội phạm và cấu thành tội phạm. NXB Tư pháp. Hà

Nội, 2015.

42. Trần Văn Độ (1995), “Tội phạm và cấu thành tội phạm, chương 6”, trong sách:

Tội phạm học, Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự, NXB Chính trị Quốc gia,

74

Hà Nội.

43. Trần Văn Độ. “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định trách nhiệm hình

sự đối với các tổ chức, pháp nhân trong Luật hình sự Việt Nam”.

44. PGS.TS Trần Văn Độ. Các học thuyết về cơ sở trách nhiệm hình sự của pháp

nhân. – Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2011.

45. Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự (Ban hành đến ngày 31/12/1974).

46. Tòa án nhân dân Tối cao (1976), Tập hệ thống hóa luật lệ hình sự, tập 1 (1945

– 1975), Hà Nội.

47. Trịnh Quốc Toản (SCK): “Nghiên cứu hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam

dưới góc độ bảo vệ quyền con người”. NXB Chính trị Quốc Gia, 2015.

48. Trịnh Quốc Toản. trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật hình sự.

NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật. Hà Nội, 2011.

49. Trịnh Tiến Việt (2013), Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

50. Trịnh Tiến Việt, Phan Thị Thủy, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự (Phần

chung) về mối quan hệ giữa cấu thành tội phạm và tình tiết tăng nặng TNHS.

51. Trường đại học Luật Hà Nội (2008) giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần

các tội phạm) Nxb ĐHQGHN, Hà Nội.

52. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Bộ luật Hình sự Liên bang Nga (sách

được tài trợ bởi SIDA), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

53. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Bộ luật Hình sự Thụy Điển, Nxb Công

an nhân dân, Hà Nội.

54. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

55. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Bộ luật Hình sự Cộng hòa liên bang Đức

(sách được tài trợ bởi SIDA), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

56. Trường Đại học Luật Hà Nội, Bộ luật Hình sự Liên Bang Nga, Nxb. Công an

nhân dân, 2011.

57. Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Tội phạm học, luật hình sự và luật tố

tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.

58. Võ Khánh Vinh (chủ biên) giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần các tội

75

phạm) Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2005.