ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ GIANG
PHÂN LOẠI TỘI PHẠM
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà nội – 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ GIANG
PHÂN LOẠI TỘI PHẠM
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101,03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Độ
Hà nội – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS Trần Văn Độ. Các thông tin và kết quả nghiên cứu được trong
luận văn do tự tôi thu thập, tìm hiểu, tổng hợp và phân tích một cách khách quan.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Tác giả
Trần Thị Giang
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN LOẠI TỘI PHẠM ........... 6
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phân loại tội phạm .......................................................... 6
1.1.1. Khái niệm phân loại tội phạm ........................................................................... 6
1.1.2. Ý nghĩa của phân loại tội phạm ...................................................................... 11
1.2. Các cách phân loại tội phạm .............................................................................. 17
1.2.1. Phân loại tội phạm căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm.... 17
1.2.2. Phân loại căn cứ vào hình thức lỗi .................................................................. 19
1.2.3. Căn cứ vào khách thể loại của tội phạm ......................................................... 20
1.2.4. Căn cứ chủ thể của tội phạm ........................................................................... 22
1.2.5. Căn cứ cấu trúc cấu thành tội phạm: ............................................................... 23
1.2.6. Căn cứ vào bị hại:............................................................................................ 23
1.3. Phân loại tội phạm trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam ........................... 24
1.3.1. Phân loại tội phạm trong pháp luật hình sự trước pháp điển hoá (1985) ........ 24
1.3.2. Phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 1985 .............................................. 26
1.3.3. Phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 1999 .............................................. 28
1.4. Phân loại tội phạm trong pháp luật hình sự một số nước và kinh nghiệm cho
Việt Nam ................................................................................................................... 28
1.4.1. Phân loại tội phạm theo Bộ Luật hình sự Đức Error! Bookmark not defined.
1.4.2. Vấn đề phân loại tội phạm trong luật hình sự Thụy Điển ............................... 34
1.4.3. Vấn đề phân loại tội phạm trong Luật hình sự Liên Bang Nga............................34
1.4.4. Phân loại tội phạm trong Luật hình sự nước Cộng Hòa Pháp.........................34
1.4.5. Kinh nghiệm cho Việt Nam...................................................................................34
Chương 2. PHÂN LOẠI TỘI PHẠM TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ............................................................................................ 36
2.1. Phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 2015 ................................................. 36
2.1.1. Các dạng phân loại tội phạm trong phần chung Bộ luật Hình sự ................... 36
2.1.2. Thể hiện của phân loại tội phạm trong các chế định phần chung ................... 46
2.1.3. Thể hiện của phân loại tội phạm trong phần thứ hai ....................................... 54
2.2. Đánh giá việc phân loại tội phạm và một số kiến nghị ...................................... 58
2.2.1. Đánh giá việc phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 2015 ....................... 58
2.2.2. Một số kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện phân loại tội phạm trong pháp luật
hình sự Việt Nam ...................................................................................................... 63
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 72
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng,
an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật Hình sự
phải bị xử lý hình sự.
Nghiên cứu về tội phạm là vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của Luật Hình sự
Việt Nam. Bởi lẽ, tội phạm là đối tượng đấu tranh chống và phòng ngừa của chính
sách hình sự của Nhà nước.
Do đó, việc phân loại tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quy
định các nguyên tắc xử lý, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu thi hành
bản án và các quy định khác về điều kiện áp dụng một số loại hình phạt hoặc biện
pháp tư pháp, v.v... Phân loại tội phạm còn là cơ sở để cụ thể hóa TNHS, quy định
khung hình phạt, bảo đảm nguyên tắc cá thể hóa TNHS và hình phạt. Ngoài ra, việc
phân loại tội phạm còn có ý nghĩa đối với việc quy định một số chế định tạm giam,
tạm giữ trong BLHS. Phân loại tội phạm trong Luật Hình sự là chia những hành vi
nguy hiểm trong xã hội bị Luật Hình sự cấm thành từng loại nhất định theo những
tiêu chí này hay những tiêu chí khác để làm tiền đề cho cá thể hóa TNHS và hình
phạt hoặc tha miễn TNHS và hình phạt.
Có thể nói, Bộ luật Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Hình sự năm 1999 đã có
rất nhiều điểm mới và sự thay đổi, đặc biệt là những quy định về phần tội phạm,
phân lọai tội phạm. Điều này góp phần tích cực cho hoạt động cải cách tư pháp
trong nền Pháp luật Việt Nam nói chung và việc áp dụng, thực thi Bộ luật Hình sự nói
riêng vào đời sống xã hội hiện nay. Chính vì vậy, học viên đã chọn đề tài: “Phân loại
1
tội phạm trong luật Hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ Luật học.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu cuối cùng, chung nhất của vấn đề nghiên cứu là nhằm hoàn thiện và
áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự như: Chế định tuổi chịu trách nhiệm hình
sự; Nguyên tắc xử lý người phạm tội; Chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự... và đặc biệt để cá thể hoá hình phạt được chính xác.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
3.1. Tính mới của đề tài
Đề tài này sẽ nghiên cứu và phân tích từng loại tội phạm cũng như một số tội
danh cụ thể theo những điểm mới tích cực của Bộ luật Hình sự năm 2015. Điều này
sẽ là điểm mới rõ rệt nhất so với những đề tài nghiên cứu đã được hoàn thành.
3.2. Những đóng góp của đề tài về mặt khoa học
Một là, phân loại tội phạm là cơ sở để xác định và xây dựng các biện pháp pháp
lý hình sự tương ứng với tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, xác định chính
sách hình sự cụ thể đối với từng hành vi phạm tội cụ thể (chính sách hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội - chương X Bộ luật Hình sự, chính sách xử lý hành
vi chuẩn bị phạm tội…vv…)
Hai là, mặt khác, phân loại tội phạm cũng có vai trò quan trọng trong việc triển
khai chính sách hình sự thông qua nhận thức và phản ứng của Nhà nước đối với các
tội có tính nguy hiểm cho xã hội khác nhau thì có biện pháp xử lý khác nhau. Nó
chi phối hầu hết các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự về
tội phạm, hình phạt, thẩm quyền điều tra, xét xử…vv…
Ba là, trong hoạt động lập pháp, phân loại tội phạm là cơ sở để xây dựng các
chế định về tội phạm và hình phạt, là cơ sở thống nhất để xây dựng các khung hình
phạt cho tội phạm cụ thể.
Bốn là, ngoài ra, phân loại tội phạm còn là cơ sở để xác định đường lối đấu
tranh với các tội phạm khác nhau cũng như các ngành tính nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm, mà yêu cầu phân hóa trách nhiệm hình sự được đặt ra và trở thành
nguyên tắc của Luật hình sự.
Năm là, phân loại tội phạm thành các nhóm khác nhau là biểu hiện của sự phân
2
hóa trách nhiệm hình sự ở góc độ lập pháp. Bên cạnh đó, nghiên cứu chế định phân
loại tội phạm trong mối quan hệ thống nhất các chế định khác sẽ tạo tiền đề cho
việc nhận thức đúng bản chất của tội phạm, đánh giá đúng tính nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm, là cơ sở để hoàn thiện pháp luật hình sự.
3.3. Những đóng góp của đề tài về mặt thực tiễn
Một là, phân loại tội phạm có ý nghĩa trước hết đối với việc áp dụng nhiều quy
phạm phần chung và phần các tội phạm Bộ luật Hình sự, như: chế định tuổi chịu
trách nhiệm hình sự, chế định các giai đoạn phạm tội, chế định thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự… Chẳng hạn, theo quy định của pháp luật hiện hành, những
người chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu tội họ chuẩn bị
phạm là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, người từ đủ 14 tuổi trở
lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng; ...v.v...
Hai là, ngoài ra, việc phân loại tội phạm còn có ý nghĩa chi phối đối với việc áp
dụng một số chế định của luật tố tụng hình sự. Việc bắt người trong trường hợp
khẩn cấp chỉ được thực hiện khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị phạm
một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; các quy định về thời hạn đưa
vụ án ra xét xử hoặc ra các quyết định cụ thể đối với từng loại tội phạm cụ
thể...v.v...
Ba là, kết luận, phân loại tội phạm là đòi hỏi cần thiết cho việc phân hóa trách
nhiệm hình sự trong luật cũng như áp dụng luật, chính vì thế vấn đề này được đặt ra
trong các bộ luật. Việc phân loại tội phạm chẳng những hỗ trợ cho việc áp dụng
đúng luật mà nếu nhìn rộng ra, nhà làm luật còn có thể dựa vào tính nguy hiểm cho
quan hệ xã hội mà nó xâm hại để đánh giá, nhằm bảo vệ cho chế độ chính trị hiệu
quả hơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc
3
phân loại tội phạm, các cách phân loại tội phạm trong luật hình sự, các quy định về
tội phạm và hình phạt trong Bộ luật Hình sự và nghiên cứu sự phân loại từng tội
phạm cụ thể.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về các hình thức, cách thức cũng như ý nghĩa của việc phân loại
tội phạm theo Luật Hình sự Việt Nam hiện nay, cụ thể là theo Bộ luật Hình sự năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực ngày 01/01/2018. Bên cạnh đó, có sự so
sánh, phân tích những điểm mới so với Bộ luật Hình sự năm 1999.
Đồng thời, đề tài nêu ra việc phân loại tội phạm trong lịch sử lập pháp hình sự,
trước khi pháp điển hóa luật hình sự và sau khi nước ta ban hành BLHS, quy định về
phân loại tội phạm trong luật hình sự của một số nước. Ngoài ra, luận văn còn nghiên
cứu việc xây dựng và hoàn thiện các chế định về tội phạm và CTTP, các chế định về
hình phạt và quyết định hình phạt của BLHS hiện hành trên cơ sở quy định về phân
loại tội phạm.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm về chính sách hình sự của
Đảng và Nhà nước ta, trên cơ sở tri thức của các ngành khoa học khác như luật học,
tâm lý học, xã hội học, thống kê học… để nhận thức và luận chứng các vấn đề
nghiên cứu.
Cụ thể, các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu đề
tài luận văn là: phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp phân tích, quy nạp,
tổng hợp, hệ thống, phương pháp luật học so sánh, phương pháp thống kê, …
6. Tình hình nghiên cứu
Trong khoa học luật Hình sự, vấn đề phân loại tội phạm đã sớm được các nhà khoa
học luật quan tâm và nghiên cứu. Do ý nghĩa của việc phân loại tội phạm đối với việc
xây dựng và áp dụng luật hình sự nên trong BLHS của các nước đều có quy định về
phân loại tội phạm. Ở nước ta việc phân loại tội phạm cũng được thực hiện và quy định
theo những tiêu chí và quan niệm khác nhau. Trong các công trình nghiên cứu và trong
4
các giáo trình giảng dạy ở nước ta, việc phân loại tội phạm trong luật hình sự đã được
đề cập dưới những góc độ và mức độ khác nhau. Vấn đề phân loại tội phạm được quy
định tại Điều 9 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bên cạnh đó, được phân tích
và đề cập trong các công trình nghiên cứu khác như: Đào Trí Úc (2000), Luật hình sự
Việt Nam (Quyển I Những vấn đề chung), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội; Đỗ Ngọc
Quang, Trịnh Quốc Toản, Nguyễn Ngọc Hòa (1997) Giáo trình luật hình sự Việt
Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Cảm (2005), Sách chuyên
khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong Khoa học luật Hình sự (Phần chung),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; Lê Cảm (chủ biên) (2003), Giáo trình luật
hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,..
Từ trước pháp điển hóa năm 1985 đến nay, không có nhiều công trình luận án,
luận văn viết về đề tài phân loại tội phạm. Chỉ đáng kể đến là Luận án tiến sỹ với đề
tài "Phân loại tội phạm theo luật hình sự Việt Nam" của tác giả Trương Minh Hạnh
5
được hoàn thành và bảo vệ năm 2004.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN LOẠI TỘI PHẠM
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phân loại tội phạm
1.1.1. Khái niệm phân loại tội phạm
Trước khi tìm khái niệm phân loại tội phạm thì một vấn đề cần quan tâm đó là
tìm hiểu khái niệm tội phạm. Khái niệm tội phạm là một trong những vấn đề quan
trọng nhất của luật hình sự. Chế định tội phạm là chế định trung tâm thể hiện rõ nét
bản chất giai cấp, các đặc điểm chính trị, xã hội cũng như pháp lý của luật hình sự ở
mỗi nước. Tội phạm là một hiện tượng xã hội, cho nên khái niệm của nó luôn luôn
gắn liền với sự phát triển xã hội và ngày càng được nghiên cứu hoàn thiện. Hiện
nay, một số quốc gia trên thế giới có quy định khái niệm tội phạm trong Bộ luật
Hình sự (BLHS), tuy nhiên cũng có một số quốc gia không đưa khái niệm tội phạm
vào Bộ luật Hình sự.
Bộ luật Hình sự Cộng hòa Liên bang Đức không có điều luật về khái niệm tội
phạm nhưng có cả một chương quy định về hành vi phạm tội. Trong đó, các quy
định tập trung vào các vấn đề như: chủ thể của tội phạm, vấn đề lỗi và các trường
hợp sai lầm, vấn đề thực hiện qua không hành động và vấn đề thực hiện cho người
khác, các căn cứ biện hộ (các căn cứ loại trừ tính trái pháp luật của hành vi), phạm
tội chưa đạt, người thực hiện phạm tội và người tòng phạm 37. Hay như ở Cộng
hòa Pháp, trong Phần chung của Bộ luật Hình sự không nêu các dấu hiệu của hành
vi phạm tội. Tuy nhiên, tại Phần các tội phạm lại quy định các dấu hiệu của hành vi
phạm tội như: mức độ nghiêm trọng của thiệt hại gây ra cho cá nhân, xã hội, Nhà
nước (Điều 111 – 1); tính trái pháp luật và tính phải chịu hình phạt của hành vi
(Điều 111 – 2, 111 – 3); tính có lỗi cố ý hoặc vô ý của hành vi (Điều 121 – 3) 16.
Và ở luật hình sự nước Anh không quy định khái niệm tội phạm và dấu hiệu của
một số tội cụ thể được quy định trong các đạo luật hình sự chuyên biệt.
Bên cạnh đó, ở một số quốc gia có quy định khái niệm tội phạm trong Luật
6
hình sự và cách thể hiện khái niệm tội phạm cũng có nhiều điểm khác nhau, có
những quốc gia chỉ quy định khái niệm tội phạm với dấu hiệu hình thức, có những
quốc gia quy định khái niệm tội phạm với sự kết hợp dấu hiệu hình thức và dấu hiệu
nội dung.
Thứ nhất, quy định khái niệm tội phạm với dấu hiệu hình thức
Ngay từ thời kỳ đầu khi xã hội tư sản vừa bước ra khỏi sự hạn chế của chủ
nghĩa phong kiến, với tư tưởng đề cao vai trò của tự do dân chủ và bình đẳng, tư
tưởng nhà nước pháp quyền thì quan niệm con người được phép làm những gì pháp
luật không cấm… được thể hiện rất rõ nét trong khái niệm tội phạm. Do đó, khái
niệm tội phạm trong Bộ luật Hình sự ở một số nước tư sản đã được diễn đạt bằng
nhiều cách khác nhau: là hành vi bị đạo luật hình sự cấm hoặc là “vi phạm pháp luật
bị Bộ luật Hình sự trừng trị” hoặc là “hành vi do luật hình sự cấm bằng nguy cơ xử
phạt”… Theo các luật gia tư sản thời kỳ này thì tội phạm là các hành vi do luật hình
quy định. Trong khái niệm tội phạm này tính luật định được coi là đặc điểm duy
nhất của tội phạm. Thực hiện nguyên tắc “không có tội phạm nếu điều đó không bị
cấm trong Bộ luật Hình sự”, các luật gia tư sản chứng minh được thế tiến bộ của
nước mình trước luật hình phong kiến 55. Cho tới nay, trong Bộ luật Hình sự ở
một số nước cũng vẫn quy định tội phạm dưới dạng hình thức là hành vi do Luật
định. Cụ thể như: tại Điều 1 BLHS Thụy Điển quy định: “Tội phạm là hành vi được
quy định trong Bộ luật này hoặc luật hoặc các văn bản pháp luật khác và bị áp
dụng các hình phạt theo quy định của Luật này” 51. Điều 10 Bộ luật Hình sự
Cộng hòa Tây Ban Nha thì tội phạm là hành vi bằng hành động hoặc không hành
động, có lỗi cố ý hoặc vô ý và bị áp dụng hình phạt theo quy định của Bộ luật Hình
sự. Theo quy định tại Điều 1 Bộ luật Hình sự Cộng hòa Thụy Sĩ, chỉ người nào thực
hiện hành vi bị Bộ luật Hình sự cấm bằng nguy cơ bị áp dụng hình phạt mới phải
chịu hình phạt.
Thứ hai, quy định khái niệm tội phạm với sự kết hợp cả dấu hiệu hình thức và
dấu hiệu nội dung
Hiện nay, cùng với dấu hiệu hình thức, ở một số nước đã đưa dấu hiệu nội dung
7
vào khái niệm tội phạm. Tội phạm không chỉ là hành vi được luật hình quy định mà
còn là hành vi chống lại lợi ích xã hội, là hành vi có hại. Các khái niệm tội phạm
được quy định trong Luật hình sự thể hiện ở hai dạng: khái niệm đầy đủ và khái
niệm tổng quát về tội phạm.
- Khái niệm đầy đủ về tội phạm:
Trong khái niệm này các tác giả đưa ra đầy đủ các dấu hiệu tội phạm. Một số
cho rằng “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
Hình sự do người ở một độ tuổi luật định có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý và vì nó người phạm tội phải bị xử phạt”.
Theo khái niệm nêu trên, tội phạm được đưa ra với đầy đủ các dấu hiệu của nó
là: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; tội phạm được quy định trong Bộ luật
Hình sự; Tội phạm do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt đến một độ tuổi
nhất định thực hiện; tội phạm được thực hiện do cố ý hoặc vô ý (có lỗi) và người
phạm tội phải bị xử phạt. Điều 14 Bộ luật Hình sự Liên bang Nga năm 1996, sửa
đổi năm 2010 quy định: “Tội phạm là hành vi có lỗi gây nguy hiểm cho xã hội, bị
cấm bởi Bộ luật Hình sự và phải chịu hình phạt. Hành động (hoặc không hành
động), mặc dù về hình thức có bao hàm những dấu hiệu của một hành vi nào đó
được Bộ luật này quy định nhưng do tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể
thì không phải là tội phạm”54.
Cùng với quan điểm như trên, những người khác không coi tình tiết phải bị xử
phạt là dấu hiệu của tội phạm, và vì vậy không đưa đặc điểm này vào khái niệm đầy
đủ về tội phạm. Những tác giả này cho rằng: phạm tội thì không tránh khỏi phải
chịu hình phạt, đó là một trong những nguyên tắc quan trọng của luật hình sự. Phải
chịu xử phạt, đó là hậu quả tất yếu của việc thực hiện tội phạm chứ chính nó không
phải là thuộc tính của tội phạm. Mặt khác, trong thực tế có nhiều trường hợp tội
phạm không bị xử phạt do nhiều nguyên nhân khác nhau (quá thời hiệu, không
khám phá được, được miễn trách nhiệm hình sự…), vậy thì trong những trường hợp
ấy hành vi có được coi là tội phạm hay không nếu có đủ các yếu tố cấu thành. Thực
vậy, khi một người thực hiện hành vi chứa đựng đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội
8
phạm thì hành vi đó đã là tội phạm, không phụ thuộc người đó có bị xử phạt hay
không. Điều 13 Bộ luật Hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1997, sửa đổi
năm 2005 quy định: “Mọi hành vi gây nguy hại đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và
an ninh quốc gia; chia cắt quốc gia; lật đổ chính quyền chuyên chính dân chủ nhân
dân và xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa; phá hoại trật tự kinh tế xã hội; xâm phạm
tài sản thuộc sở hữu nhà nước và tài sản thuộc sở hữu tập thể của quần chúng lao
động; xâm phạm tài sản thuộc sở hữu riêng của công dân; xâm phạm các quyền
nhân thân dân chủ và các quyền khác của công dân cũng như các hành vi khác gây
nguy hại cho xã hội được quy định là tội phạm. Những hành vi nhỏ nhặt gây hại
không lớn thì không phải là tội phạm” 9.
- Khái niệm tổng quát về tội phạm:
Những người có quan điểm này cho rằng tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội được Bộ luật Hình sự quy định hay nói cách khác tội phạm có hai đặc tính cơ
bản: nội dung là hành vi nguy hiểm cho xã hội và hình thức được Bộ luật Hình sự
quy định.
Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng tuy là khái niệm được đưa ra
mang tính khái quát cao nhưng nó vẫn thể hiện đầy đủ các đặc điểm của tội phạm.
Không phải bất kỳ một hành vi nguy hiểm nào (tức gây thiệt hại hoặc có khả năng
gây thiệt hại) cũng là tội phạm. Chỉ hành vi nguy hiểm cho xã hội mới được quy
định là tội phạm. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bao gồm cả hai
mặt: mặt thực tế (gây thiệt hại hoặc nguy cơ gây thiệt hại) và mặt xã hội.
Khái niệm tội phạm có thể được coi là khái niệm cơ bản nhất trong luật hình sự
Việt Nam. Khái niệm này một mặt là cơ sở thống nhất cho việc xác định những tội
phạm cụ thể trong Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự, mặt khác trực tiếp thể
hiện một cách rõ nét những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam và là cơ sở
để quy định các chế định khác của Luật hình sự, trong đó có phân loại tội phạm.
Nội dung của khái niệm tội phạm xác định giới hạn giữa tội phạm và không phải là
tội phạm, giữa trách nhiệm hình sự và những trách nhiệm pháp lý khác. Khái niệm
tội phạm là cơ sở để xây dựng các cấu thành tội phạm cụ thể với ý nghĩa là mô hình
9
pháp lý của từng loại tội phạm và qua đó cũng là cơ sở để quy định khung hình phạt
tương ứng. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, người và cơ quan có thẩm
quyền tuy dựa vào cấu thành tội phạm để xác định tội phạm nhưng chỉ trên cơ sở
nhận thức đúng đắn và đầy đủ về bản chất cũng như những đặc điểm của tội phạm
nói chung mới có thể áp dụng luật hình sự một cách đúng đắn qua việc xác định đúng
tội danh, đánh giá đúng tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội 38.
Hiện nay khái niệm tội phạm được ghi nhận tại Điều 8 BLHS năm 2015. Và
khái niệm này cũng cơ bản được tiếp nhận trong khoa học Luật hình sự.
“1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những
lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật
này phải bị xử lý hình sự.
2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã
hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”
2, Điều 8.
Khái niệm tội phạm đầy đủ với cách thể hiện đầy đủ các dấu hiệu cơ bản như
tính nguy hiểm (tính chất và mức độ) cho xã hội, tính có lỗi, các nhóm khách thể bị
xâm hại… không chỉ thể hiện chính sách pháp luật hình sự, mà còn là cơ sở quan
trọng trong phân loại tội phạm. Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm thông qua chế tài (hình phạt) được quy định, hình thức lỗi khi thực hiện tội
phạm, các nhóm khách thể (khách thể loại) luôn được sử dụng làm tiêu chí phân
loại tội phạm trong khoa học luật hình sự nước ta từ xưa đến nay.
Tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự của Nhà nước ta rất đa dạng,
phức tạp, xâm phạm đến các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Phân loại tội
phạm là cực kỳ cần thiết vì phân loại tội phạm để thực hiện chính sách pháp luật
10
hình sự có phân biệt; sắp xếp, hệ thống hóa các tội phạm trong Bộ luật Hình sự theo
từng chương, bảo đảm tính khoa học, thuận lợi cho công tác nghiên cứu và áp dụng.
Phân loại tội phạm theo tính chất và mức độ nguy hiểm, theo hình thức lỗi, theo
khách thể xâm hại là cơ sở để từ đó quy định hình phạt và áp dụng hình phạt cũng
như các biện pháp trách nhiệm hình sự khác; thực hiện nguyên tắc phân hoá trong
chấp hành hình phạt đối với các loại tội phạm…
Ngoài ra việc phân loại tội phạm có mục đích để áp dụng, thực hiện các chế
định khác nhau của pháp luật tố tụng hình sự như biện pháp ngăn chặn do Bộ luật
Tố tụng hình sự quy định cho phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm; xác định thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, thời hạn chuẩn bị
xét xử, thời hạn xóa án tích cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của các
tội phạm cụ thể; thực hiện các loại thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng...
Như vậy, Phân loại tội phạm là việc phân chia các tội phạm thành những nhóm
khác nhau dựa trên những tiêu chí và nhằm những mục đích nhất định. Phân loại tội
phạm là đòi hỏi cần thiết cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật cũng như
áp dụng luật, chính vì thế vấn đề này được đặt ra trong các bộ luật. Việc phân loại
tội phạm chẳng những hỗ trợ cho việc áp dụng đúng luật mà nếu nhìn rộng ra, nhà
làm luật còn có thể dựa vào tính nguy hiểm cho quan hệ xã hội mà nó xâm hại để
đánh giá, nhằm bảo vệ cho chế độ chính trị hiệu quả hơn.
1.1.2. Ý nghĩa của phân loại tội phạm
- Ý nghĩa chính trị xã hội
Phân loại tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc truy cứu trách nhiệm
hình sự và quyết định hình phạt đánh giá chính trị, pháp lý về tội phạm. Việc xây
dựng chính sách pháp luật hình sự trên cơ sở phân loại tội phạm có ý nghĩa lớn
trong việc giáo dục người phạm tội, từ đó nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm, nhằm hạn chế các sự việc phạm tội có thể xảy ra. Mặt khác,
xây dựng hệ thống hình phạt đúng trên cơ sở phân loại tội phạm còn là yếu tố quan
trọng để đạt được các mục đích của hình phạt, vừa mang tính giáo dục, vừa thể hiện
được sự công minh và nghiêm khắc của pháp luật. Như vậy, việc phân loại tội phạm
11
góp phần xây dựng nên ý thức pháp luật của người dân, tạo ra xã hội ổn định. Phân
loại tội phạm là đòi hỏi cần thiết cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật
cũng như áp dụng luật, chính vì thế vấn đề này được đặt ra trong các bộ luật. Việc
phân loại tội phạm chẳng những hỗ trợ cho việc áp dụng đúng luật mà nếu nhìn
rộng ra, nhà làm luật còn có thể dựa vào tính nguy hiểm cho quan hệ xã hội mà nó
xâm hại để đánh giá, nhằm bảo vệ cho chế độ chính trị hiệu quả hơn.
Việc phân loại tội phạm cũng có ý nghĩa để sắp xếp, hệ thống hóa các tội phạm
trong Bộ luật Hình sự theo từng chương, bảo đảm tính khoa học, thuận lợi cho công
tác nghiên cứu và áp dụng.
Mặt khác, phân loại tội phạm cũng có vai trò quan trọng trong việc triển khai
chính sách hình sự thông qua nhận thức và phản ứng của Nhà nước đối với các tội
có tính nguy hiểm cho xã hội khác nhau thì có biện pháp xử lý khác nhau. Nó chi
phối hầu hết các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự về tội
phạm, hình phạt, thẩm quyền điều tra, xét xử.
- Ý nghĩa pháp lý hình sự
Phân loại tội phạm là cơ sở để xác định và xây dựng các chế định khác nhau
của Luật hình sự tương ứng với tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, hình thức
lỗi hoặc tính chất khách thể bị xâm hại; xác định chính sách hình sự cụ thể đối với
từng hành vi phạm tội cụ thể… Cụ thể là:
+ Xác định và xây dựng hệ thống hình phạt trong phần chung cũng như cụ thể
hoá trong chế tài các tội phạm. Ví dụ: Các hình phạt tù chung thân, tử hình chỉ quy
định và áp dụng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng (Điều 39, 40 BLHS năm 2015,
sửa đổi bổ sung năm 2017); hình phạt cảnh cáo chỉ áp dụng đối với tội ít nghiêm
trọng (Điều 34 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017);
+ Xác định chính sách xử lý trong những trường hợp đặc biệt như tuổi chịu
trách nhiệm hình sự (Điều 12 BLHS); đường lối xử lý đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội (Chương XII BLHS); chính sách xử lý hành vi chuẩn bị phạm tội…;
+ Phân loại tội phạm là cơ sở để xây dựng các chế định khác nhau của BLHS.
Ví dụ: Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô
12
ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người
khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải
và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự
(Khoản 3 Điều 29 BLHS).
Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng
và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích - Xoá án tích (Điều 69
BLHS).
Đồng thời, phân loại tội phạm cũng là yếu tố quan trọng được người, cơ quan
có thẩm quyền cân nhắc khi áp dụng pháp luật hình sự.
- Ý nghĩa pháp lý tố tụng hình sự
Phân loại tội phạm là căn cứ để xác định áp dụng và thực hiện nhiều chế định
khác nhau của tố tụng hình sự:
+ Để xác định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử;
Cụ thể, được quy định tại Khoản 1 Điều 268 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:
“Điều 268. Thẩm quyền xét xử của Tòa án
1. Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm
những vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội
phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm:
a) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b) Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
c) Các tội quy định tại các điều 123, 125, 126, 227, 277, 278, 279, 280, 282,
283, 284, 286, 287, 288, 337, 368, 369, 370, 371, 399 và 400 của Bộ luật Hình sự;
d) Các tội phạm được thực hiện ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.”.
Quy định về thẩm quyền điều tra (Khoản 5 Điều 163 BL TTHS):
“5. Việc phân cấp thẩm quyền điều tra như sau:
a) Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực điều tra vụ
án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp
huyện, Tòa án quân sự khu vực;
b) Cơ quan điều tra cấp tỉnh điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc
13
thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền
điều tra của Cơ quan điều tra cấp huyện xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phạm tội
có tổ chức hoặc có yếu tố nước ngoài nếu x t thấy cần trực tiếp điều tra;
Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu điều tra vụ án hình sự về những tội
phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự cấp quân khu hoặc những vụ án
thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp khu vực nếu x t thấy cần trực
tiếp điều tra;
c) Cơ quan điều tra Bộ Công an, Cơ quan điều tra Bộ Quốc ph ng điều tra vụ
án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hủy để điều tra lại; vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng,
phức tạp liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, vụ án hình sự
về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều quốc gia nếu x t
thấy cần trực tiếp điều tra.”. Để xác định các loại thời hạn như thời hạn điều tra
(Điều 172 BL TTHS), thời hạn tạm giam để điều tra (Điều 173 BL TTHS), Thời hạn
phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại (Điều 174 BL TTHS), thời hạn
chuẩn bị xét xử (Điều 277 BL TTHS)cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm
của các tội phạm cụ thể 4, Điều 268.
Việc phân loại tội phạm còn có ý nghĩa chi phối đối với việc áp dụng một số
chế định của luật tố tụng hình sự. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp chỉ
được thực hiện khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị phạm một tội rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; các quy định về thời hạn tố tụng hoặc ra
các quyết định cụ thể đối với từng loại tội phạm...
+ Xác định căn cứ thực hiện, áp dụng một số biện pháp tố tụng (biện pháp ngăn
chặn, nhất là tạm giam (Điều 119 BL TTHS); các biện pháp điều tra đặc biệt…).
Tội phạm nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng có thể tạm giam ngay mà không cần
điều kiện gì.
Các biện pháp điều tra đặc biệt được áp dụng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng là tội tham nhũng và tội xâm phạm an ninh quốc gia, được sử dụng các biện
pháp như quay lén, chụp hình lén, ghi âm lén hoặc xâm nhập vào acount điện tử của
14
tội phạm.
+ Phân loại tội phạm cũng có ý nghĩa quan trọng trong quy định và thực hiện
các loại thời hạn tố tụng như thời hạn điều tra, thời hạn xét xử; thời hạn áp dụng
biện pháp tạm giam; thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại.
Ví dụ, về thời hạn điều tra được quy định tại Điều 172 BLTTHS thì thời hạn
điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không
quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm
rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến
khi kết thúc điều tra.
Bên cạnh đó, việc gia hạn điều tra cũng được quy định căn cứ vào loại tội phạm.
Ví dụ: Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần
không quá 02 tháng; đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai
lần, lần thứ nhất không quá 03 tháng và lần thứ hai không quá 02 tháng; ...
Đối với thời hạn tạm giam để điều tra được quy định tại Điều 173 BLTTHS
cũng căn cứ vào từng loại tội phạm tương ứng như thời hạn điều tra. Thời hạn tạm
giam bị can để điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không
quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm
rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trường hợp gia hạn tạm giam để điều tra, đối với tội phạm ít nghiêm trọng có
thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 01 tháng, tội phạm nghiêm trọng
được gia hạn một lần không quá 02 tháng, tội phạm rất nghiêm trọng được gia hạn
một lần không quá 03 tháng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì được gia hạn hai
lần, mỗi lần không quá 04 tháng.
Trường hợp phục hồi điều tra quy định tại Điều 235 của BLHS thì thời hạn
điều tra tiếp không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng và không quá 03 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng kể từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết thúc điều
tra.- Ý nghĩa trong thi hành án hình sự
+ Phân loại trại giam (Điều 27 Luật Thi hành án hình sự năm 2010)
Việc tổ chức giam giữ phạm nhân cũng được quy định dựa theo nhóm loại tội
15
phạm, gồm: Khu giam giữ đối với phạm nhân có mức án tù trên 15 năm, tù chung
thân, phạm nhân thuộc loại tái phạm nguy hiểm và khu giam giữ đối với phạm nhân có
mức án tù từ 15 năm trở xuống; phạm nhân có mức án tù trên 15 năm nhưng có kết quả
chấp hành án tốt, đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù còn dưới 15 năm 34,
Điều 27.
+ Phân loại quản lý người bị tạm giữ, người bị tạm giam (Điều 18 Luật Thi
hành tạm giữ, tạm giam 2015)
Loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng cũng được quy định trong điểm g khoản 1
Điều 18. Theo đó, loại tội này sẽ bị tạm giữ, tạm giam riêng so với những tội phạm
ít nghiêm trọng hơn. Ví dụ, tội phạm giết người cướp tài sản thì sẽ không giam, giữ
chung với người phạm tội trộm cắp tài sản hay tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ. Bởi mức độ nguy hiểm và tính chất thực hiện
hành vi của từng loại tội phạm có sự khác nhau
Giảm mức hình phạt đã tuyên (Điều 63 BLHS)
Trong điều luật này có hai nội dung quy định liên quan đến phân loại tội phạm
như sau:
Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi
phạm tội mới ít nghiêm trọng do cố ý, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người
đó đã chấp hành được một phần hai mức hình phạt chung.
Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm
tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Tòa án chỉ
xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt
chung hoặc trường hợp hình phạt chung là tù chung thân thì việc xét giảm án thực
hiện theo quy định tại khoản 3 Điều này.
- Ý nghĩa thực tiễn
Phân loại tội phạm có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Phân loại tội phạm là cơ sở
để xây dựng, hướng dẫn pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi
hành án hình sự. Trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử: cơ quan, người
tiến hành tố tụng luôn cân nhắc loại tội phạm khi áp dụng các quy định khác nhau
16
của pháp luật hình sự trong trường hợp được lựa chọn, tuỳ nghi. Loại tội phạm cũng
được cân nhắc trong hoạt động thi hành án, nhất là chế độ giam giữ, giáo dục cải tạo
phạm nhân, …
Phân loại tội phạm có ý nghĩa trước hết đối với việc áp dụng nhiều quy phạm
phần chung và phần các tội phạm Bộ luật Hình sự, như: chế định tuổi chịu trách
nhiệm hình sự, chế định các giai đoạn phạm tội, chế định thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự… Chẳng hạn, theo quy định của pháp luật hiện hành, những người
chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu tội họ chuẩn bị phạm là tội
rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng
chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội rất nghiêm trọng do
cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng; ...v.v...
Ngoài ra, việc phân loại tội phạm còn có ý nghĩa chi phối đối với việc áp dụng
một số chế định của luật tố tụng hình sự. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp
chỉ được thực hiện khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị phạm một tội rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; các quyết định về thời hạn tố tụng như
thời hạn điều tra, truy tố, xét xử; thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn… được
quyết định trên cơ sở loại tội phạm được xác định...
1.2. Các cách phân loại tội phạm
1.2.1. Phân loại tội phạm căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm
Chế tài đối với các tội là kết quả của tính chất, mức độ nguy hiểm của tội đó.
Vì vậy, hình phạt được quy định trong chế tài luôn thể hiện đầy đủ, chính xác tính
chất, mức độ nguy hiểm chung của tội phạm đó. Vì vậy, việc phân loại tội phạm cơ
bản được thực hiện theo tiêu chí tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm;
Nhưng để nhận biết tội phạm được quy định thuộc loại nào thì cần căn cứ vào chế
tài được quy định đối với tội phạm đó.
Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm thông qua chế tài được
quy định, tội phạm được chia thành 4 loại:
+ Tội phạm ít nghiêm trọng:
Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
17
hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối
với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm 2, Điều
9.
Quy định về tội phạm ít nghiêm trọng trong BLHS 2015 đã mở rộng hơn so với
BLHS 1999. BLHS cũ chỉ căn cứ vào mức hình phạt tù có thời hạn không quá 3
năm nên không bao quát hết các khung (khung cơ bản) không có hình phạt tù. Do
đó quy định theo hướng ngoài mức phạt tù có thời hạn là 3 năm còn có phạt tiền,
phạt cải tạo không giam giữ là phù hợp.
+ Tội phạm nghiêm trọng:
Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy
là từ trên 03 năm đến 07 năm tù 2, Điều 9.
+ Tội phạm rất nghiêm trọng:
Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với
tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù 2, Điều 9.
+ Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng:
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy
định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình 2,
Điều 9.
Có thể thấy một trong các điểm khác biệt lớn nhất ở BLHS 2015 so với BLHS
1999 là đã tách quy định về phân loại tội phạm ra thành một điều luật riêng, không
còn chung với điều luật quy định về khái niệm tội phạm. Việc này đã góp phần đảm
bảo tính minh bạch khi các chủ thể áp dụng Bộ luật để nghiên cứu và thực thi.
Việc phân loại tội phạm theo căn cứ này nhằm để xác định tội phạm theo tính
chất và mức độ nguy hiểm, từ đó quy định hình phạt và áp dụng hình phạt.Và để áp
dụng biện pháp ngăn chặn do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định cho phù hợp với
18
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Ngoài ra nó còn có ý nghĩa
để xác định thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn
xóa án tích cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của các tội phạm cụ thể.
1.2.2. Phân loại căn cứ vào hình thức lỗi
Căn cứ vào hình thức lỗi có thể phân loại tội phạm thành tội phạm được thực
hiện do lỗi cố ý và tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý.
Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
- Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra (Lỗi cố ý trực tiếp)
- Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý
thức để mặc cho hậu quả xảy ra (Lỗi cố ý gián tiếp).
Ngoài ra, các nhà khoa học pháp lý hình sự có phân tích các hình thức cố ý
phạm tội như: cố ý có dự mưu và cố ý đột xuất; cố ý xác định và cố ý không xác
định. Việc xác định hình thức này không có ý nghĩa trong việc định tội mà có ý
nghĩa để đánh giá về tính chất mức độ của hành vi khi xác định khung hình phạt.
- Cố ý có dự mưu là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội, người có hành vi đó đã suy nghĩ, tính toán cẩn thận mới bắt tay vào việc thực
hiện tội phạm.
- Cố ý đột xuất là trường hợp một người vừa có ý định phạm tội đã thực hiện
ngay ý định đó.
- Cố ý xác định là trường hợp khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội,
người có hành vi đã xác định được hậu quả cụ thể xảy ra.
- Cố ý không xác định là trường hợp khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội, người có hành vi không hình dung cụ thể hậu quả xảy ra như thế nào.
Theo quy định tại Điều 11 BLHS năm 2015 thì vô ý phạm tội được hiểu là việc
người thực hiện hành vi phạm tội thuộc trường hợp sau:
- Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại
19
cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
- Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả
nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Khoa học Luật hình sự có đặt ra một số hình thức vô ý phạm tội sau đây:
- Vô ý vì cẩu thả: là trường hợp do cẩu thả mà người phạm tội không thấy trước
khả năng gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, mặc dù phải thấy trước hoặc có
thể thấy trước. Tiêu chuẩn để xác định một người phải thấy trước và có thể thấy
trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội là căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra
sự việc, một người bình thường cũng có thể thấy trước; ngoài ra còn phải căn cứ độ
tuổi, trình độ nhận thức, trình độ văn hóa, tay nghề, chuyên môn…
- Vô ý vì quá tự tin: là trường hợp người phạm tội thấy trước được hành vi của
mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ
không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, nhưng hậu quả đó vẫn xảy ra.
Các trường hợp vô ý phạm tội thường liên quan nhiều đến những người phạm
tội hình sự trong quá trình hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của mình. Nếu như
việc phân loại tội phạm theo hình thức lỗi (tội cố ý, tội vô ý) có ý nghĩa quan trọng
trong quy định và áp dụng pháp luật hình sự; thì việc phân loại theo các dạng lỗi (các
dạng cố ý trực tiếp, gián tiếp, xác định, không xác định; vô ý do chủ quan, vô ý do
cẩu thả...) lại có ý nghĩa trong nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự trên thực tế.
1.2.3. Căn cứ vào khách thể loại của tội phạm
Khách thể của tội phạm là các quyền và lợi ích được luật Hình sự bảo vệ và bị
tội phạm xâm hại. Theo hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam những quyền và lợi
ích đó là: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; chế độ
chính trị; nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của
công dân... những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
- Khách thể chung của tội phạm
Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp tất cả các quyền, lợi ích bị tội phạm
xâm hại và được Luật hình sự bảo vệ. Khách thể chung của tội phạm được xác định
20
tại Điều 8 BLHS năm 2015. Bất cứ hành vi phạm tội nào cũng đều gây phương hại
đến khách thể chung được xác định tại Điều 8 BLHS. Chính vì vậy, thông qua
khách thể chung, chúng ta có thể thấy được nhiệm vụ của Bộ luật Hình sự và bản
chất giai cấp của nó. Hay nói đúng hơn là thấy được chính sách hình sự của một
quốc gia.
- Khách thể loại của tội phạm
Khách thể loại của tội phạm là nhóm quyền, lợi ích cùng tính chất được một
nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị một nhóm tội phạm xâm hại.
- Khách thể trực tiếp của tội phạm
Khách thể trực tiếp của tội phạm là một hoặc một số quyền, lợi ích cụ thể bị
hành vi phạm tội cụ thể xâm hại. Thông qua việc gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt
hại (xâm hại) đối với khách thể trực tiếp mà tội phạm đã gây phương hại đến khách
thể chung và khách thể loại của tội phạm. Một tội phạm có thể xâm hại đến nhiều
khách thể nhưng không phải lúc nào tất cả các khách thể đó đều được xem là khách
thể trực tiếp. Khách thể chính khi đó là quan hệ xã hội mà tội phạm gây thiệt hại thể
hiện được đầy đủ bản chất của hành vi và tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.
Mỗi tội phạm thường xâm hại một khách thể chính trực tiếp; nhưng trong một số
trường hợp, nếu một tội phạm xâm phạm đến nhiều khách thể mà xâm phạm đến
khách thể nào cũng thể hiện được bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội, các khách thể đó đều là khách thể chính. Một tội phạm có thể có một khách thể
trực tiếp hoặc nhiều khách thể trực tiếp. Tội phạm có nhiều khách thể trực tiếp khi
hành vi phạm tội xâm hại đến nhiều quan hệ xã hội mà việc xem xét sự gây thiệt hại
đối với bất cứ một quan hệ xã hội nào cũng không thể hiện đầy đủ bản chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi đó và nhiều khách thể đó luôn bị xâm hại ở mọi trường
hợp phạm tội. Ví dụ: hành vi cướp tài sản vừa xâm hại đến quan hệ nhân thân vừa
xâm hại đến quan hệ sở hữu.
Trong các loại khách thể trên, khách thể loại có vai trò quan trọng về mặt lập
pháp. Nó là cơ sở để Bộ luật Hình sự xây dựng các chương trong phần các tội
phạm. Tội phạm trên thực tế dù rất đa dạng về các mặt chủ thể, chủ quan, khách
quan nhưng nếu xâm hại đến các quan hệ xã hội có cùng tính chất sẽ được xếp
21
chung vào một chương. Thông qua việc xem xét các nhóm khách thể nhất định,
chúng ta có thể đánh giá được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cụ
thể khi trực tiếp xâm hại đến một trong số các khách thể của nhóm. Việc sắp xếp
các chương trong phần các tội phạm dựa theo khách thể loại là hết sức hợp lý và
khoa học. Nếu chúng ta sắp xếp theo các cơ sở khác (chủ quan, chủ thể…) thì sẽ
dẫn đến tình trạng nhiều tội phạm có bản chất rất khác nhau lại nằm cùng một
chương. Điều này gây khó khăn rất lớn trong việc đánh giá tính nguy hiểm cho xã
hội của từng tội phạm và việc xử lý chúng. Các tội phạm được quy định trong cùng
một chương phần các tội phạm (có cùng khách thể loại) bao giờ cũng xâm hại đến
khách thể loại của chúng. Tuy nhiên, từng tội phạm trong một chương đó không
phải luôn xâm hại cùng khách thể trực tiếp. Điều đó có nghĩa là mỗi tội phạm có
khách thể trực tiếp riêng của nó.
1.2.4. Căn cứ chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm bao gồm thể nhân (cá nhân) và pháp nhân.
- Chủ thể thể nhân là con người cụ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
một cách cố ý hoặc vô ý, khi phạm tội không ở trong tình trạng không có năng lực
trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của Luật Hình sự. Do đó, chủ thể
của tội phạm phải là con người, đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong BLHS. Nhưng không phải bất kỳ ai thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội cũng là tội phạm, chỉ khi thỏa mãn các điều kiện nhất định như khi phạm tội
không ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, phải đạt độ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự theo luật định...
Đối với một số tội phạm có chủ thể đặc biệt thì pháp luật có yêu cầu chủ thể là
cá nhân phải có thêm các dấu hiệu khác như chủ thể có chức vụ, quyền hạn, là chủ
thể xác định như điều tra viên, kiểm sát viên...
- Chủ thể là pháp nhân thương mại: đây là một quy định mới của BLHS khi ghi
nhận pháp nhân cũng là một chủ thể của tội phạm. Pháp nhân thương mại là pháp
nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành
viên. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác.
Đây là chủ thể đặc biệt, theo quy định của BLHS, pháp nhân thương mại chỉ phải
22
chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện quy định tại Điều 75 như sau:
+ Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;
+ Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;
+ Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận
của pháp nhân thương mại;
+ Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và
khoản 3 Điều 27 của BLHS.
Mặt khác, pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội
nhất định được quy định cụ thể tại Điều 76 BLHS năm 2015.
Như vậy, căn cứ chủ thể của tội phạm và tuỳ theo mục đích khác nhau mà tội
phạm được phân loại theo các cách khác nhau như tội phạm do cá nhân và tội phạm
do pháp nhân thương mại thực hiện; tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện; tội
phạm do người có chức vụ thực hiện; tội phạm do quân nhân thực hiện…
Ví dụ: Theo BLHS 1999 thì tội Hiếp dâm chỉ quy định đối với người phạm tội
là nam giới, nhưng BLHS năm 2015 thì không chỉ có nam giới mà nữ giới khi thực
hiện hành vi cũng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Từ đó sẽ kéo theo việc có sự
thay đổi về phân loại tội phạm.
1.2.5. Căn cứ cấu trúc cấu thành tội phạm
- Tội phạm có cấu thành vật chất: CTTP vật chất là cấu thành mà mặt khách
quan của nó được pháp luật hình sự quy định bằng các dấu hiệu của hành vi phạm tội
cũng như cả các dấu hiệu của hậu quả phạm tội nữa (tức là hậu quả nguy hiểm cho xã
hội trong trường hợp này được nhà làm luật coi là dấu hiệu bắt buộc của CTTP).
- Tội phạm có cấu thành hình thức: CTTP hình thức là cấu thành mà mặt khách
quan của nó được pháp luật hình sự quy định chỉ bằng các dấu hiệu của hành vi phạm
tội. Hậu quả của tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.
1.2.6. Căn cứ vào bị hại
Có tội phạm có bị hại, cũng có những tội phạm không có bị hại như các tội xâm
phạm an ninh quốc gia.
Tất cả các tội xâm phạm an ninh quốc gia đều thuộc loại tội phạm rất nghiêm
23
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Đối với bị hại là người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, người già yếu cũng là căn
cứ để phân loại tội phạm.
Ví dụ, về tội Hiếp dâm, hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm, tội cưỡng
dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội dâm ô, tội dâm ô đối với người dưới
16 tuổi, tội mua bán người, tội cướp giật tài sản, tội hành hạ người khác,...
1.3. Phân loại tội phạm trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam
1.3.1. Phân loại tội phạm trong pháp luật hình sự trước pháp điển hoá (1985)
Sau khi cách mạng tháng 8 thành công, trong hoàn cảnh đất nước ta vừa mới
đánh đổ sự thống trị của phát xít Nhật để giành lại chính quyền, do còn thiếu kinh
nghiệm trong xây dựng pháp luật nên trong suốt quãng thời gian này các văn bản
pháp luật hình sự Việt Nam là một tập hợp các văn bản đơn hành thể hiện dưới
nhiều hình thức tên gọi như Sắc lệnh, Thông tư, Điều lệ… Trong khoảng những
năm 1970, chính quyền nước Việt Nam đã ban hành một số văn bản pháp luật hình
sự có tính pháp điển hóa như Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng vào ngày
30/10/1967; Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa vào ngày
21/10/1970; Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân vào
ngày 21/10/1970; Sắc luật số 03/SL của Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam
Việt Nam vào ngày 15/3/1976; Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ vào ngày 20/5/1981,…
Trong giai đoạn này, do hạn chế về kỹ thuật lập pháp việc phân loại tội phạm
không được quy định cụ thể và cũng không được quy định thống nhất trong một văn
bản mà mỗi loại tội phạm sẽ được quy định trong một văn bản riêng. Ví dụ như: Tội
hối lộ thì có văn bản điều chỉnh là Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ vào ngày 20/5/1981;
hay tội xâm hại tài sản xã hội chủ nghĩa thì có Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm
tài sản xã hội chủ nghĩa vào ngày 21/10/1970,…
Trong các văn bản pháp luật hình sự của Nhà nước ta thời bấy giờ, bên cạnh
các hành vi cố ý phạm tội (chiếm đại bộ phận), còn có quy định các hành vi phạm
tội vì vô ý trong một số ít trường hợp như sơ suất để lộ bí mật quốc gia; không cẩn
thận gây tai nạn làm người khác bị thương hoặc làm chết người; tội vô ý gây thiệt
24
hại nghiêm trọng đến tài sản XHCN; tội thiếu tinh thần trách nhiệm gây ra thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản XHCN,... Tuy nhiên, chưa có văn bản nào giải thích các
khái niệm về hình thức lỗi: Cố ý và vô ý.
Trích Nghị định 181-NV-6 ngày 12-6-1951 của Liên Bộ Nội vụ, Bộ Tư Pháp
ấn định chi tiết về sự thiết lập, tổ chức, kiểm soát trại giam và ban hành bản quy tắc
trại giam:
“Điều 9: Nếu có thể được, những phạm nhân thành án nên phân loại như sau
và giam riêng:
1. Sơ phạm;
2. Phạm pháp nhiều lần;
3. Phạm nhân dưới 18 tuổi;
4. Phạm nhân trên 55 tuổi;
5. Phạm nhân tàn tật.”.
Về đường lối xử lý về hình sự đối với những người chưa thành niên phạm tội
hiếp dâm, trích bản tổng kết và hướng dẫn số 329-HS2 ngày 11-02-1967 của
TANDTC về đường lối xét xử tội hiếp dâm và một số tội phạm khác về mặt tình
dục. Riêng đối với các can phạm còn ít tuổi phạm tội hiếp dâm cần phân biệt đối với
những can phạm trong lứa tuổi, từ khoảng 14 đến 16, chủ yếu nên dùng những biện
pháp giáo dục như: Giao cho cha, anh, chú, bác bảo lĩnh và giáo dục, giữ trong các
trại giáo dưỡng vị thành niên...; chỉ trong một số trường hợp có tình tiết thực sự
nghiêm trọng mới cần xét xử.
Đối với các can phạm trong lứa tuổi từ khoảng 16 đến 18 trừ một số trường
hợp có tình tiết ít nghiêm trọng, có thể xử lý bằng các biện pháp giáo dục như trên,
nói chung cần xét xử về hình sự, nhưng khi xét xử cần chiếu cố thích đáng đến trình
độ hiểu biết về pháp luật còn non kém và khả năng dễ tiếp thu cải tạo của họ, đến
việc họ chưa nhận thức được đầy đủ tính chất nguy hiểm của hành vi của mình mà
xét xử nhẹ hơn các phạm nhân đã lớn tuổi, nếu các tình tiết phạm pháp khác đều
tương đương (thông thường mức án tối đa đối với các can phạm đó chỉ vào khoảng
25
½ mức án đối với các can phạm đã lớn tuổi).
Trong việc áp dụng hình phạt, đối với hình phạt chung thân, trích theo thông tư
số 498-P4 ngày 31-10-1946 của Bộ Tư pháp: Chung thân cũng là một hình phạt có
tính chất đặc biệt. Cũng như hình phạt tử hình, nó có thể được áp dụng đối với một
số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng....
Về quy tắc trại giam, cách sắp đặt phạm nhân trong trại giam cũng được phân
loại theo loại phạm nhân hoặc theo mức độ phạm tội.
Theo Nghị định số 181-NV/6 ngày 12/6/1951 của Liên Bộ Nội vụ - Tư pháp:
“Điều 8 – Trong trại giam nên giam riêng biệt:
- Chính trị phạm
- Những người bị an tri
- Những phạm nhân nguy hiểm hoặc hung dữ không chịu cải hối (có thể giam
vào một biệt lao)
- Những người bị giam cứu
- Những phạm nhân đàn bà
Điều 9 – Nếu có thể được, những phạm nhân thành án nên phân loại như sau:
- Sơ phạm
- Phạm pháp nhiều lần
- Phạm nhân dưới 18 tuổi
- Phạm nhân trên 55 tuổi
- Phạm nhân tàng tật”.
Từ đó cho thấy pháp luật hình sự thời bấy giờ chưa có sự phân loại tội phạm
một cách rõ ràng, mà quy định trong từng tội riêng hoặc trong từng chế định riêng
về tính nguy hiểm, đặc biệt nguy hiểm, về hình thức phạm tội,...
1.3.2. Phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 1985
Có thể nói, BLHS năm 1985 là sự kết hợp thành tựu 40 năm hoạt động lập
pháp của chính quyền cách mạng Việt Nam, là kết quả của quá trình thực tiễn đấu
tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta từ năm 1945 đến thời điểm Bộ luật được ban
hành. BLHS năm 1985 là một bộ luật thống nhất xác định rõ các quy định liên quan
26
đến tội phạm và hình phạt.
BLHS 1985 chia tội phạm ra thành hai loại: tội phạm ít nghiêm trọng và tội
phạm nghiêm trọng.
Theo quy định tại Điều 8 BLHS 1985 quy định:
“1- Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô
ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xâm
phạm chế độ Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chế độ kinh tế và sở hữu xã hội chủ nghĩa,
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và
lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa.
2- Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên năm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Những tội phạm khác là tội phạm ít nghiêm trọng”.
Như vậy, theo quy định trên ta có thể hiểu tội phạm nghiêm trọng trong BLHS
1985 là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt
đối với tội ấy là trên năm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Còn những tội khác
không thuộc loại tội nghiêm trọng là tội phạm ít nghiêm trọng.
Ngoài ra, trong Phần các tội phạm thì BLHS 1985 cũng phân loại tội cụ thể,
bao gồm: tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia quy định từ Điều 72 đến Điều 100;
tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người quy định từ
Điều 101 đến Điều 118; tội xâm phạm các quyền tự do dân chủ của công dân quy
định từ Điều 119 đến Điều 128; các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa quy định
từ Điều 129 đến Điều 142; các tội phạm xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và các
tội đối với người chưa thành niên quy định từ Điều 143 đến Điều 150; các tội xâm
phạm sở hữu của công dân quy định từ Điều 151 đến Điều 163; các tội phạm về
kinh tế quy định từ Điều 164 đến Điều 185; các tội xâm phạm an toàn, trật tự công
cộng và quản lý hành chính nhà nước quy định từ Điều 186 đến Điều 218; các tội
phạm về chức vụ quy định từ Điều 219 đến Điều 229; các tội phạm xâm phạm hoạt
27
động tư pháp quy định từ Điều 230 đến Điều 248; các tội phạm xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm của quân nhân quy định từ Điều 249 đến Điều 276; tội chống phá hòa
bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định từ Điều 277 đến Điều 280…
1.3.3. Phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 1999
BLHS 1999 chia tội phạm ra làm bốn loại: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đây là
điểm mới cơ bản của BLHS 1999 so với BLHS 1985, cũng từ quy định mới này,
kéo theo nhiều quy định mới khác trong BLHS.
- Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù.
- Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù
- Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là mười lăm năm tù.
- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã
hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù
chung thân hoặc từ hình.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 8 BLHS thì những hành vi tuy có dấu hiệu của
tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là
tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác. BLHS năm 1999 đã có sự kế thừa
các quy định của BLHS 1985 về tiêu chí phân loại tội phạm, nhưng tội phạm được
phân thành 4 loại cụ thể hơn làm cơ sở cho việc thực hiện nguyên tắc phân hoá
trách nhiệm hình sự, xây dựng các chế định hình sự, tố tụng hình sự khác nhau và
giúp cho việc áp dụng đúng đắn, thống nhất pháp luật, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người…
1.4. Phân loại tội phạm trong pháp luật hình sự một số nước và kinh nghiệm
cho Việt Nam
1.4.1. Phân loại tội phạm theo Bộ luật Hình sự Đức
Cộng hoà Liên bang Đức là một đất nước có truyền thống pháp luật lục địa lâu
28
đời. Ở Đức, BLHS là nguồn chủ yếu quy định về tội phạm và hình phạt. Bộ luật
Hình sự nước Cộng hòa liên bang Đức được ban hành vào ngày 13/11/1998 và được
sửa đổi, bổ sung lần gần đây nhất vào ngày 02/10/2009.
Nghiên cứu BLHS Đức, chúng ta có 2 cách phân loại tội phạm được thể hiện
khá rõ nét trong BLHS.
Thứ nhất, dựa vào khách thể loại của tội phạm được phân thành 29 nhóm tội
phạm khác nhau, tương ứng với từng chương trong phần các tội phạm trong BLHS
Đức. Cụ thể: Nhóm tội phạm chống hòa bình, phản bội nhà nước và gây nguy hại
cho nhà nước pháp quyền dân chủ (chương thứ nhất); nhóm tội phạm phản quốc và
gây nguy hại cho an ninh đối ngoại (chương thứ hai); các tội xâm hại các nhà nước
ngoài (chương thứ ba); các tội xâm phạm các cơ quan hiến pháp cũng như các tội
phạm trong bầu cử và biểu quyết (chương thứ tư); các tội phạm quốc phòng
(chương thứ năm); nhóm tội chống đối quyền lực nhà nước (chương thứ sáu); các
tội xâm phạm trật tự công cộng (chương thứ bảy); các tội làm giả tiền và tem có
mệnh giá (chương thứ tám); các tội phạm liên quan đến tôn giáo và thế giới quan
(chương thứ chín);…
Cách phân loại tội phạm theo khách thể loại như trên có ý nghĩa trong việc
xác định những nhóm tội có cùng tính chất, có cùng một khách thể được luật hình
sự bảo vệ. Đồng thời cũng là cơ sở sắp xếp nội dung trong BLHS theo một trật tự
nhất định.
Thứ hai, theo Điều 12 BLHS Cộng hòa liên bang Đức, tội phạm được phân
thành hai loại là tội phạm nghiêm trọng và tôi phạm ít nghiêm trọng. Đây cũng là
cách phân loại quan trọng nhất được quy định trong một điều luật độc lập và là cách
phân loại có ý nghĩa nhất được các nhà lập pháp ghi nhận trong BLHS.
“(1) Tội phạm nghiêm trọng là các hành vi trái pháp luật bị đe dọa ở mức thấp
nhất với hình phạt tự do một năm hoặc cao hơn.
(2) Tội phạm ít nghiêm trọng là các hành vi trái pháp luật bị đe dọa ở mức
29
thấp nhất với hình phạt tự do nhẹ hơn hoặc là hình phạt tiền.
(3) Các sự tăng nặng hoặc giảm nhẹ được dự liệu theo các quy định của Phần
chung hoặc cho các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng không
ảnh hưởng đến việc phân loại”.
Như vậy, dựa vào mức độ nghiêm khắc của hình phạt được quy định trong Bộ
luật Hình sự Đức, tội phạm được chia thành hai loại là tội phạm nghiêm trọng và tội
phạm ít nghiêm trọng. Tội phạm nghiêm trọng là người đã thực hiện các hành vi trái
pháp luật nghiêm trọng với mức hình phạt thấp nhất là hình phạt tước tự do một
năm hoặc cao hơn. Ví dụ như Điều 227 quy định về tội xâm phạm thân thể với hậu
quả chết người: “(1) nếu người thực hiện tội phạm qua xâm phạm thân thể (các
điều 223 đến 226) gây ra cái chết của người vị xâm phạm thì hình phạt là hình phạt
tự do không dưới ba năm”. Theo đó, người thực hiện hành vi này có thể bị xử phạt
với mức thấp nhất là hình phạt tự do là ba năm.
Tại khoản 2 Điều 227 thì: “(2) Trong các trường hợp ít nghiêm trọng thì quyết
định hình phạt tự do từ một năm đến mười năm”. Mức hình phạt thấp nhất đối với
người phạm tội là hình phạt tự do từ một năm. So sánh với quy định tại khoản 1
Điều 12, chúng ta thấy, người thực hiện hành vi theo quy định tại khoản 1 và khoản
2 Điều 227 là tội phạm nghiêm trọng.
Tội phạm ít nghiêm trọng là các hành vi trái pháp luật bị đe dọa ở mức thấp
nhất là chịu hình phạt tước tự do nhẹ hơn một năm hoặc hình phạt tiền. Theo Điều
38 BLHS Đức thì hình phạt tự do là hình phạt từ một tháng trở lên. Nên thực chất
tội phạm ít nghiêm trọng bị đe dọa ở mức thấp nhất là hình phạt tự do từ một tháng
đến dưới một năm hoặc hình phạt tiền. Ví dụ như: tội phạm tại Điều 183 về hành vi
phô bày tình dục: “một người đàn ông mà quấy rối một người khác qua một hành vi
phô bày tình dục thì bị xử phạt với hình phạt tự do đến 1 năm hoặc hình phạt tiền”.
Theo đó, mức hình phạt thấp nhất mà người phạm tội có thể phải chịu là hình phạt tự
do một tháng. Theo quy định tại Điều 12 ta thấy hành vi là tội phạm ít nghiêm trọng.
Như vậy, việc phân loại tội phạm trong BLHS Đức khá cụ thể với 2 loại tội
phạm là tội phạm nghiêm trọng và tội phạm ít nghiêm trọng. Và căn cứ để phân loại
30
tội phạm chính là mức hình phạt thấp nhất được quy định trong BLHS.
Việc phân loại tội phạm như trên đã bao quát được khá rõ nét những loại tội
phạm cơ bản theo BLHS Đức. Và các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS quy
định trong phần chung hoặc các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng hoặc ít nghiêm
trọng không làm ảnh hưởng đến việc phân loại tội phạm như trên.
Qua việc phân tích về phân loại tội phạm trong BLHS CHLB Đức, chúng ta có
thể rút ra một số vấn đề sau:
Thứ nhất, cách quy định về phân loại tội phạm trong BLHS Đức và trong
BLHS Việt Nam có nhiều điểm giống nhau như: cách gọi tên loại tội phạm đều theo
mức độ nghiêm trọng của tội phạm. Ở Việt Nam, tội phạm được phân thành 4 loại
với tên gọi là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm
trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong khi đó, ở Đức cũng đã gọi tên loại
tội phạm tại Điều 12 là tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng.
Mặt khác, căn cứ xác định loại tội phạm trong BLHS Đức và trong BLHS Việt
Nam đều dựa vào mức hình phạt luật định.
Ngoài ra, việc phân loại tội phạm đều có ý nghĩa quan trọng đối với các chế
định khác như chế định tuổi chịu TNHS, phạm tội chưa đạt…trong BLHS. Cụ thể
như trong BLHS Đức quy định: “1) Phạm tội chưa đạt của một tội phạm nghiêm
trọng luôn bị xử phạt, phạm tội chưa đạt của 1 tội phạm ít nghiêm trọng chỉ bị xử
phạt nếu Luật quy định rõ. 2) phạm tội chưa đạt có thể được xử phạt nhẹ hơn phạm
tội hoàn thành…” [39]. Như vậy, việc phân loại tội phạm có ý nghĩa trực tiếp đến
việc áp dụng đối với người phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt.
BLHS Việt Nam hiện nay quy định vấn đề phân loại tội phạm trong 1 điều luật
độc lập là Điều 9. BLHS Đức cũng dành riêng một điều luật độc lập để quy định về
phân loại tội phạm tại Điều 12: “(1) tội phạm nghiêm trọng là các hành vi trái pháp
luật bị đe dọa ở mức thấp nhất với hình phạt tự do 1 năm hoặc cao hơn.
(2) tội phạm ít nghiêm trọng là các hành vi trái pháp luật bị đe dọa ở mức thấp
nhất với hình phạt tự do nhẹ hơn hoặc là hình phạt tiền” [39, Điều 12].
Thứ hai, dù có những điểm cơ bản giống nhau nêu trên, nhưng cách phân loại
31
của BLHS Việt Nam và BLHS Đức cũng có 1 số quy định khác nhau:
Một là, tội phạm trong BLHS Đức được phân thành hai loại là tội phạm nghiêm
trọng và tội phạm ít nghiêm trọng. Trong khi đó, tội phạm theo quy định của BLHS
Việt Nam được phân thành 4 loại là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Hai là, căn cứ để xác định phân loại tội phạm theo LHS Việt Nam là vào
khoảng của khung hình phạt. Còn LHS Đức là mức thấp nhất của khung hình phạt.
Ba là, trong quy định của Việt Nam về phân loại tội phạm đã chỉ ra cơ sở của
việc phân loại trong điều luật – là mức độ gây thiệt hại của hành vi nguy hiểm và
khái niệm của từng loại tội phạm cụ thể tại Điều 9 BLHS Việt Nam. Trong khi đó,
BLHS Đức không xác định cơ sở phân loại tội phạm trong điều luật mà chỉ quy
định căn cứ để phân loại tội phạm là mức hình phạt thấp nhất.
1.4.2. Vấn đề phân loại tội phạm trong luật hình sự Thụy Điển
Bộ luật Hình sự Thụy Điển được thông qua vào năm 1962 và có hiệu lực từ
ngày 01/01/1965 và đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần vào các năm 1967, 1970,
1974, 1976, 1986, 1988, 1994… và lần sửa đổi gần đây nhất vào năm 1999. Bộ luật
Hình sự Thụy Điển quy định các hành vi được coi là tội phạm ở Thụy Điển. Các
quy định về tội phạm khác cũng được tìm thấy trong luật pháp đặc biệt. Nó cũng
chứa đựng các quy định chung trên tất cả các tội phạm, hình thức xử phạt đối với tội
phạm và cách áp dụng của pháp luật Thụy Điển. Khác với Luật hình sự Việt Nam,
Luật hình sự Thụy Điển không có chế định phân loại tội phạm. Nói một cách khác,
việc phân loại tội phạm trên cơ sở mức độ nguy hiểm của tội phạm đã không được
quy định chung trong BLHS. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa việc phân loại tội
phạm hoàn toàn không được đặt ra trong pháp luật hình sự của Thụy Điển. Các quy
định tại phần tội phạm cụ thể trong BLHS (phần hai) cũng như quy định về tội
phạm cụ thể trong các đạo luật hình sự khác hoặc trong các luật chuyên ngành khác
đã cho thấy rõ điều này. Nhiều tội phạm cụ thể đã được phân hóa thành các mức độ
phạm tội với tên gọi khác nhau như: ít nghiêm trọng, rất nghiêm trọng. Ví dụ như
32
đối với tội giết người nhà làm luật đã phân thành hai loại tội là giết người nghiêm
trọng và giết người trong trường hợp ít nghiêm trọng với tên gọi tại Chương 3 của
BLHS của Thụy Điển 53.
1.4.3. Vấn đề phân loại tội phạm trong Luật hình sự Liên Bang Nga
BLHS của Liên Bang Nga là BLHS năm 1997 sửa đổi bổ sung năm 2003.
BLHS của Liên Bang Nga có quy đinh về phân loại tội phạm như sau:
Khoản 1 Điều 15 BLHS Liên Bang Nga:
“1. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được
quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Tội phạm ít nghiêm trọng là những hành vi cố ý hoặc vô ý mà Bộ luật này quy
định hình phạt cao nhất đối với chúng không quá 2 năm tù.
Tội phạm nghiêm trọng là những hành vi cố ý hoặc vô ý mà Bộ luật này quy
định hình phạt cao nhất đối với chúng không quá 5 năm tù.
Tội phạm rất nghiêm trọng là những hành vi cố ý hoặc vô ý mà bộ luật này quy
định hình phạt cao nhất đối với chúng không quá 10 năm tù.
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là những hành vi cố ý mà bộ luật này quy định
hình phạt đối với chúng là trên 10 năm tù hoặc hình phạt nghiêm khắc hơn” 39
Điều 15.
Cách phân loại tội phạm theo BLHS Liên Bang Nga cũng dựa vào tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong BLHS đó, cũng
được chia thành 4 loại tội. Nhưng ở BLHS Liên Bang Nga ta thấy việc định nghĩa
mỗi loại tội phạm khác với ở Việt Nam.
Thứ nhất, khác với Việt Nam, Nga chủ yếu phân loại tội phạm trên cơ sở là
mức hình phạt cao nhất còn Việt Nam ngoài phân loại tội phạm trên cơ sở trên còn
căn cứ theo mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Và theo pháp luật Nga tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng chỉ có thể là những hành vi cố ý, không thể là hành vi
33
vô ý, phân biệt rõ nét với tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng.
Thứ hai, mức hình phạt cao nhất của các tội ở BLHS Nga quy định nhẹ hơn ở
Việt Nam. Ví dụ như: quy định ở tội ít nghiêm trọng BLHS Nga quy định hình phạt
cao nhất đối với tội này là không quá 2 năm còn ở Việt Nam là đến 3 năm tù.
1.4.4. Phân loại tội phạm trong Luật hình sự nước Cộng Hòa Pháp
Theo Bộ luật Hình sự năm 1992 của Cộng hoà Pháp, tội phạm được chia thành
ba loại:
- Tội đại hình là tội có mức hình phạt cao nhất được quy định đến tù chung thân;
- Tội tiểu hình là tội có mức phạt cao nhất được quy định đến 10 năm tù;
- Tội vi cảnh là tội chỉ bị áp dụng các hình phạt vi cảnh, tức là không có phạt tù.
1.4.5. Kinh nghiệm cho Việt Nam
Qua việc nghiên cứu cách phân loại tội phạm của một số các quốc gia như:
CHLB Đức, Liên Bang Nga, Thụy Điển... ta thấy việc phân loại tội phạm hiện nay
của BLHS Việt Nam đã học hỏi những tinh hoa của các BLHS các quốc gia. Theo
pháp luật hình sự Việt Nam tội phạm nào cũng đều có đặc điểm chung như có tính
nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, trái pháp luật hình sự nhưng những hành vi phạm
tội cụ thể không những có sự khác nhau về nguyên nhân và điều kiện phát sinh, về
tính chất của các quan hệ xã hội bị xâm phạm mà còn có sự khác nhau ngay ở tính
chất và mức độ nguy hiểm của hậu quả do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây
ra cũng như ở nhiều tình tiết khách quan và chủ quan khác. Chính do sự khác nhau
như vậy mà vấn đề phân hóa và cá thể hóa TNHS được đặt ra và được coi là một
nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam. Nguyên tắc không chỉ có ý nghĩa khi áp
dụng luật hình sự mà đòi hỏi trước hết phải có sự phân hóa TNHS ngay trong luật
và đó là cơ sở để có thể cá thể hóa TNHS trong thực tiễn áp dụng luật. Phân hóa
TNHS trong luật và cá thể hóa TNHS trong áp dụng là hai mặt không tách rời nhau.
Phân hóa TNHS trong luật là cơ sở của cá thể hóa TNHS trong áp dụng. Ngược lại,
mục đích của phân hóa TNHS trong luật cũng chính nhằm để cá thể hóa TNHS
trong áp dụng. TNHS càng được phân hóa trong luật thì càng tạo điều kiện cho cá
thể hóa TNHS trong áp dụng. Với ý nghĩa như vậy, vấn đề phân hóa TNHS đã được
đặc biệt quan tâm trong khi xây dựng các BLHS của Việt Nam. Phân loại tội phạm
34
trong luật theo mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội vừa là biểu hiện của sự phân
hóa TNHS và cũng là cơ sở thống nhất cần thiết cho việc xây dựng các chế định,
các điều luật nhằm phân hóa TNHS trong phần chung cũng như phần các tội phạm
của BLHS.
Thể hiện nguyên tắc này, luật hình sự Việt Nam phân tội phạm thành các nhóm
tội phạm khác nhau theo mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội.
Thực ra, việc phân loại tội phạm không phải là vấn đề mới, trái lại, nó đã được
thực hiện trong thực tiễn áp dụng luật hình sự nước ta trước khi có Bộ luật Hình sự
năm 1985. Pháp luật hình sự của nhiều nựớc trên thế giới cũng quy định việc phân
loại tội phạm. Tuy vậy, do những đặc điểm riêng của mỗi nước, mỗi thời kì, trình
độ lập pháp, chính sách hình sự... nên có các cách phân loại tội phạm khác nhau. Ở
các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, nhà làm luật căn cứ vào tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm chia tội phạm ra bốn loại: Các tội không nguy
hiểm lớn cho xã hội; các tội ít nghiêm trọng; các tội nghiêm trọng; các tội đặc biệt
nghiêm trọng. Ở Pháp, Bộ luật Hình sự năm 1992 chia tội phạm thành ba loại; Tội
đại hình (tội có mức hình phạt cao nhất đến tù chung thân); tội tiểu hình (tội có mức
phạt cao nhất đến 10 năm tù); tội vi cảnh (tội chỉ bị áp dụng các hình phạt vi cảnh).
Tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự của Nhà nước ta rất đa dạng,
phức tạp, xâm phạm, đến các lĩnh vực khác nhau. Xuất phát từ yêu cầu phân loại tội
phạm là sự cần thiết vì: Để sắp xếp, hệ thống hóa các tội phạm trong Bộ luật Hình
sự theo từng chương, bảo đảm tính khoa học, thuận lợi cho công tác nghiên cứu và
áp dụng. Đồng thời, để xác định tội phạm theo tính chất và mức độ nguy hiểm, từ
đó quy định hình phạt và áp dụng hình phạt.
Ngoài ra, nhằm áp dụng biện pháp ngăn chặn do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định
cho phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Và nhất là
xác định thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn xóa án
35
tích cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của các tội phạm cụ thể..
Chương 2
PHÂN LOẠI TỘI PHẠM TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 VÀ MỘT SỐ
KIẾN NGHỊ
2.1. Phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 2015
2.1.1. Các dạng phân loại tội phạm trong phần chung Bộ luật Hình sự
2.1.1.1. Phân loại tội phạm theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
Việc phân loại tội phạm có ý nghĩa lớn về mặt chính trị, xã hội, pháp lý và thực
tiễn, không chỉ trong lĩnh vực lập pháp và áp dụng luật hình sự mà còn có ý nghĩa
đối với hoạt động lập pháp tố tụng hình sự, thực tiễn áp dụng nhiều quy định của
luật tố tụng hình sự. Ngoài ra việc phân loại có ý nghĩa đối với hoạt động phân loại
và xây dựng chế độ của từng trại giam giữ… Đặc biệt trong lĩnh vực luật hình sự,
việc phân loại tội phạm có ý nghĩa đối với việc xây dựng nhiều chế định của phần
chung như tái phạm, tái phạm nguy hiểm, chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, che
giấu tội phạm, không tố giác tội phạm... và trong phần các tội phạm, việc phân loại
tội phạm là cơ sở để thống nhất cho việc xây dựng các cấu thành tội phạm và các
khung hình phạt tương ứng đối với từng loại tội. Thực hiện chính sách hình sự của
Nhà nước, việc phân loại tội phạm trong luật hình sự vừa là biểu hiện rõ rệt các
nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam mà trước hết là nguyên tắc pháp chế
XHCN, nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự vừa là đòi hỏi của các nguyên tắc
này trong thực tiễn áp dụng. Với những ý nghĩa to lớn đó, việc phân loại tội phạm
đã được đặt ra và thực hiện trong luật.
Đối với căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm và mức hình
phạt với các tội phạm. Điều 9 BLHS 2015 quy định:
“1. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây:
a) Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối
36
với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
b) Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội
ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;
c) Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định
đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;
d) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy
định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
2. Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định tại
khoản 1 Điều này và quy định tương ứng đối với các tội phạm được quy định tại
Điều 76 của Bộ luật này”.
Như vậy, căn cứ vào tính chất mức độ, nguy hiểm của tội phạm thông qua
mức hình phạt trong chế tài quy định đối với các tội phạm, tội phạm được chia
thành 4 loại:
- Tội phạm ít nghiêm trọng:
Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối
với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm. Quy
định về tội phạm ít nghiêm trọng trong Bộ luật Hình sự 2015 đã mở rộng hơn so với
Bộ luật Hình sự 1999. Bộ luật Hình sự cũ chỉ căn cứ vào mức hình phạt tù có thời
hạn không quá 3 năm nên không bao quát hết các khung (khung cơ bản) không có
hình phạt tù. Do đó quy định theo hướng ngoài mức phạt tù có thời hạn là 3 năm
còn có phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ là phù hợp. Việc các nhà làm luật đưa
ra các quy định để xác định một tội phạm thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng (có
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù) và tội đặc biệt
nghiêm trọng (có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm
37
năm tù, tù chung thân hoặc tử hình), theo tác giả là đầy đủ, rõ ràng và chính xác.
Về quy định để xác định là một tội phạm ít nghiêm trọng mặc dù trong BLHS
năm 1999 và nay là BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung có một số điều luật có quy định
mức án cao nhất của khung hình phạt đối với các tội phạm ấy cũng không đến 03
năm tù nhưng tất cả đều thống nhất hiểu là tội phạm ít nghiêm trọng bởi lẽ đó là loại
tội phạm nhẹ nhất trong 04 loại tội phạm của pháp luật hình sự Việt Nam (tức là
không thể thuộc loại tội phạm khác).
Ví dụ: Tội giết con mới đẻ quy định tại Khoản 1 Điều 124 BLHS, Tội giết
người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Khoản 1 Điều 126), Tội hành hạ
người khác (Khoản 1 Điều 140), Tội làm nhục người khác (Khoản 1 Điều 155), Tội
vu khống (Khoản 1 Điều 156), Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Khoản 1
Điều 157)… đều chỉ có mức án cao nhất của khung hình phạt đối với các tội phạm
ấy là đến hai năm tù (hoặc đến mức ba năm tù theo quy định).
- Tội phạm nghiêm trọng:
Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy
là từ trên 03 năm đến 07 năm tù. Quy định của luật nêu lên khái niệm “Tội phạm
nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức
cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03
năm đến 07 năm tù;”.
Như vậy, có thể hiểu một tội phạm được coi là tội phạm nghiêm trọng khi tội
phạm đó có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội phạm ấy từ trên ba năm tù
(từ ba năm tù trở xuống là thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng) cho đến bảy năm tù.
Có nghĩa là tất cả những tội phạm mà mức án cao nhất của khung hình phạt đối với
tội phạm ấy là từ bảy năm tù trở xuống đến trên ba năm tù thì đều thuộc loại tội
phạm nghiêm trọng.
Ví dụ, các tội như: Tội vô ý làm chết người quy định tại Khoản 1 Điều 128
BLHS có mức án cao nhất cho khung hình phạt đối với tội phạm ấy là đến 06 năm
tù; Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13
38
tuổi đến dưới 16 tuổi (Khoản 1 Điều 145), Tội Cướp giật tài sản (Khoản 1 Điều
171), Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (Khoản 1 Điều 322)… đều có mức án cao
nhất cho khung hình phạt đối với tội phạm ấy là đến 05 năm tù… nên đều là loại tội
nghiêm trọng do mức án cao nhất của khung hình phạt đối với các tội phạm ấy đều
trên ba năm tù nhưng cũng chưa quá bảy năm tù.
- Tội phạm rất nghiêm trọng:
Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với
tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù. Quy định này cũng nêu ra khái niệm “Tội
phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất
lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là
từ trên 07 năm đến 15 năm tù”. Như vậy, những tội phạm mà mức án cao nhất của
khung hình phạt đối với tội phạm ấy là từ trên bảy năm tù đến mười lăm năm tù thì
đều thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng. Ví dụ như: Khoản 3 Điều 147, tội sử dụng
người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm có khung hình phạt từ 7 năm đến 12
năm, hay Khoản 1 Điều 150, tội mua bán người với khung hình phạt từ 5 năm đến
10 năm tù…những tội phạm này có mức cao nhất của khung hình phạt là 12, 10
năm tù nên nằm trong khung hình phạt thuộc tội phạm rất nghiêm trọng - mức cao
nhất của khung hình phạt từ trên 7 năm đến 15 năm tù.
- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng:
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy
định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Ví
dụ như Tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người tại Khoản 3 Điều
154 BLHS năm 2015 có khung hình phạt từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân,
hay tội giết người theo Khoản 1 Điều 123 BLHS năm 2015 có khung hình phạt từ
12 năm, 20 năm tù chung thân hoặc tử hình…. hai tội này đều có mức cao nhất của
khung hình phạt thuộc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Có thể thấy một trong các điểm khác biệt lớn nhất ở Bộ luật Hình sự 2015 so
39
với Bộ luật Hình sự 1999 là đã tách quy định về phân loại tội phạm ra thành một
điều luật riêng, không còn chung với điều luật quy định về khái niệm tội phạm. Việc
này đã góp phần đảm bảo tính minh bạch khi các chủ thể áp dụng Bộ luật để nghiên
cứu và thực thi.
2.1.1.2. Phân loại tội phạm theo hình thức lỗi
Lỗi theo quy định của Luật hình sự được hiểu là quan hệ giữa cá nhân người
phạm tội với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định chủ quan những đòi hỏi cụ
thể của luật hình sự. Sự phủ định chủ quan này tồn tại trên cơ sở và trong sự thống
nhất với sự phủ định khách quan là tính gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là
khách thể được luật hình sự bảo vệ. Cũng như quan hệ khách quan và chủ quan, sự
phủ định khách quan có thể tồn tại độc lập. Với ý nghĩa là nội dung của lỗi thì quan
hệ cá nhân giữa cá nhân người phạm tội với xã hội luôn được thể hiện và tồn tại là
quan hệ tâm lý nhất định của chủ thể với hành vi gây thiệt hại cho xã hội. Đó là
hình thức của lỗi. Như vậy, giáo trình trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa lỗi
như sau: Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi có tính gây thiệt hại
cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý1. Như vậy, trên cơ sở lỗi thì việc phân loại tội phạm theo
hình thức lỗi có thể được phân thành:
- Tội cố ý:
Tội cố ý là tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý trong những trường hợp sau đây:
Trường hợp thứ nhất, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;
Trường hợp thứ hai, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong
muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Khoa học pháp lý hình sự chia tội phạm thực hiện do lỗi cố ý hay còn gọi là cố
ý phạm tội bao gồm các hình thức như: cố ý có dự mưu và cố ý đột xuất; cố ý xác
định và cố ý không xác định. Việc xác định hình thức này không có ý nghĩa trong
việc định tội mà có ý nghĩa để đánh giá về tính chất mức độ của hành vi khi xác
định khung hình phạt.
1 Giáo trình Luật Hình sự, trường ĐH Luật Hà Nội, nxb Công an nhân dân, 2013.
40
+ Cố ý có dự mưu là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội, người có hành vi đó đã suy nghĩ, tính toán cẩn thận mới bắt tay vào việc thực
hiện tội phạm.
+ Cố ý đột xuất là trường hợp một người vừa có ý định phạm tội đã thực hiện
ngay ý định đó.
+ Cố ý xác định là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội, người có hành vi đã xác định được hậu quả.
+ Cố ý không xác định là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội, người có hành vi không hình dung chính xác hậu quả xảy ra như thế nào.
Thông thường nếu phân loại tội phạm theo hình thức lỗi cố ý thì bao gồm tội
phạm thực hiện với lỗi trực tiếp và tội phạm thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp.
Trong đó, cố ý trực tiếp phạm tội là trường hợp mà người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội xâm hại đến các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ và
chủ thể đó nhận thức được hành vi của mình có tính chất nguy hiểm cho xã hội,
thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó và mong muốn hậu quả
xảy ra.
Xét về lý trí, người phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, nhận thức được tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, thấy trước hậu quả nguy hiểm
cho xã hội của hành vi, nghĩa là khi thực hiện hành vi chủ thể biết được hành vi của
mình có hại cho xã hội, đi ngược lại lợi ích, các yêu cầu và chuẩn mực xã hội. Sự
nhận thức này phụ thuộc vào những phẩm chất của chủ thể như kinh nghiệm sống,
học vấn, trí tuệ, hiểu biết pháp luật… khả năng nhận thức được ý nghĩa xã hội của
hành vi là phẩm chất đặc trưng của mọi người phát triển bình thường, điều cần đặc
biệt nhấn mạnh là sự nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
không có nghĩa phải nhận được tính trái pháp luật của hành vi. Một người biết hay
không biết tính trái pháp luật của hành vi, không phải là điều kiện bắt buộc để xác
định họ có lỗi hay không có lỗi khi thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội.
Thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi là hình dung ra những
41
nét chung nhất, những đặc điểm nổi bật nhất của hậu quả do hành vi sẽ gây ra. Sự
thấy trước hậu quả của hành vi, có thể ở mức độ hình dung ra hậu quả tất nhiên sẽ
xảy ra hoặc có thể xảy ra và sự thấy trước này xuất hiện trước hoặc trong khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Về ý chí, người phạm tội mong muốn hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra,
mong muốn hậu quả mà họ đã “thấy trước”, đã hình dung ra khi thực hiện hành vi
sẽ xuất hiện trên thực tế. Xác định tồn tại trong ý thức của chủ thể sự mong muốn
xuất hiện hậu quả nào đó là vấn đề rất phức tạp, thông thường người ta phải đánh
giá, phân tích toàn bộ các tình tiết khách quan điển hình của hành động ý chí và cả
những xử sự sau đó của chủ thể để xác định vấn đề này.
Tội phạm thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp là trường hợp chủ thể thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
của mình, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó, không mong
muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Để mặc cho hậu quả xảy ra có
nghĩa là hậu quả xảy ra hay không xảy ra đối với người phạm tội đều có ý nghĩa
như nhau, hậu quả nguy hiểm cho xã hội xuất hiện trên thực tế hay không xuất hiện,
người phạm tội cũng đều chấp nhận. Khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội,
người phạm tội theo đuổi mục đích khác vì thế họ nhìn thấy trước hậu quả nguy
hiểm cho xã hội và hậu quả này dù không phù hợp với mục đích của mình nhưng
người phạm tội vẫn chấp nhận để cho hậu quả xảy ra.
Về khía cạnh lý trí, cũng như cố ý trực tiếp, trong trường hợp cố ý gián tiếp,
người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra. Có một vấn đề về quan hệ tâm lý
của người phạm tội với hậu quả nguy hiểm cho xã hội hiện nay chưa đạt được sự
thống nhất trong giới nghiên cứu Luật Hình sự là: khi người phạm tội thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả tất nhiên sẽ xảy ra nhưng chủ thể
không mong muốn hậu quả đó thì hình thức lỗi của người phạm tội là cố ý trực tiếp
hay cố ý gián tiếp.
Có ý kiến xác định rằng: không thể có trường hợp người phạm tội đã thấy trước
42
hậu quả tất nhiên phải xảy ra mà lại có thái độ bỏ mặc, không mong muốn hậu quả
đó khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Cũng có quan điểm khẳng định, về
lý thuyết cũng như thực tế hoàn cảnh có thể xảy ra trường hợp người phạm tội thấy
trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội tất nhiên sẽ xảy ra, tức là hành vi mà chủ thể sẽ
thực hiện không tránh khỏi gây ra thiệt hại cho xã hội nhưng thái độ tâm lý của
người phạm tội không mong muốn hậu quả đó. Quan hệ tâm lý của chủ thể đối với
hậu quả nguy hiểm cho xã hội trong trách nhiệm không mong muốn nhưng thấy
trước hậu quả tất nhiên sẽ xảy ra khi thực hiện hành vi gần gũi với sự mong muốn
hậu quả xảy ra hơn là có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Đó chính là cơ sở cho
phép thừa nhận trách nhiệm này là cố ý trực tiếp. Giải thích theo quan điểm thứ hai
là hợp lý và thuyết phục.
Ngoài ra hình thức cụ thể của lỗi cố ý là cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp đã trình
bày trên đây, khoa học Luật Hình sự và thực tiễn còn phân chia các hình thức cụ thể
của lỗi cố ý theo thời điểm hình phạt so với sự thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội là cố ý dự mưu và cố ý không có dự mưu hay cố ý đột xuất. Người phạm tội cân
nhắc, tính toán về việc thực hiện tội phạm trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội là cố ý có dự mưu, nếu người phạm tội vùa nảy sinh ý định phạm tội đã
thực hiện ngay ý định đó mà không có sự tính toán, cân nhắc cụ thể trước đó về việc
thực hiện tội phạm là cố ý đột xuất.
Theo mức độ cụ thể của hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà chủ thể hình dung ra
trước khi thực hiện tội phạm, người ta phân chia lỗi cố ý thành cố ý xác định và cố
ý không xác định. Nếu người phạm tội hình dung được cụ thể, xác định được rõ
ràng hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra khi thực hiện hành vi là cố ý xác định,
trường hợp người phạm tội nhìn thấy trước hậu quả xảy ra nhưng không rõ ràng,
không cụ thể, chủ thể chấp nhận bất kỳ một hậu quả nào đó trong số các hậu quả đã
hình dung ra hoặc bất kỳ một mức độ nào của hậu quả là cố ý không xác định.
- Tội phạm được thực hiện do vô ý:.
Tội vô ý là tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý trong những trường hợp sau đây:
Trường hợp thứ nhất, người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể
gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra
43
hoặc có thể ngăn ngừa được;
Trường hợp thứ hai, người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể
gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu
quả đó.
Khoa học Luật hình sự có đặt ra một số hình thức vô ý phạm tội sau đây:
+ Vô ý vì cẩu thả: Đây là trường hợp phạm tội với lỗi vô ý, là trường hợp do
cẩu thả mà người phạm tội không thấy trước khả năng gây ra hậu quả nghiêm trọng
cho xã hội, mặc dù phải thấy trước hoặc có thể thấy trước. Tiêu chuẩn để xác định
một người phải thấy trước và có thể thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội
là căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra sự việc, một người bình thường cũng có
thể thấy trước; ngoài ra còn phải căn cứ độ tuổi, trình độ nhận thức, trình độ văn
hóa, tay nghề, chuyên môn…
+ Vô ý vì quá tự tin: là trường hợp phạm tội với lỗi vô ý, trong đó người phạm
tội thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội,
nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, nhưng hậu
quả đó vẫn xảy ra. Các trường hợp vô ý phạm tội thường liên quan nhiều đến những
người phạm tội hình sự trong quá trình hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của mình.
Như vậy, dựa vào căn cứ pháp luật trên, ta có thể phân biệt được cố ý phạm tội
và vô ý phạm tội các cơ quan có thẩm quyền sẽ phân tích hành vi của người phạm
tội để ra quyết định có hay không được truy tố. Đặc biệt là trong trường hợp đối với
trẻ em chưa thành niên thì vấn đề này càng trở nên quan trọng.
Định nghĩa lỗi vô ý trên đây đã phân biệt hai hình thức lỗi vô ý là vô ý phạm
tội vì cẩu thả và vô ý phạm tội vì quá tự tin.
Theo khoản 1 của Điều 11 BLHS năm 2015 thì: Vô ý phạm tội vì quá tự tin là lỗi
của một người trong trường hợp thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả
nguy hiểm cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn
ngừa được, vì vậy đã thực hiện hành vi và gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Về lý trí, người phạm tội do vô ý vì quá tự tin, thấy trước hành vi của mình có
thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Nhìn thấy trước hậu quả nguy hiểm cho
xã hội có thể xảy ra cũng có nghĩa là chủ thể nhận thức được tính nguy hiểm cho xã
44
hội của chính hành vi mà mình thực hiện.
Sự giống nhau giữa vô ý phạm tội vì quá tự tin và cố ý gián tiếp là người phạm
tội đều nhìn thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Sự khác nhau về lý trí giữa
hai hình thức này của lỗi thể hiện như sau: Trong trường hợp cố ý gián tiếp, chủ thể
thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội một cách tương đối rõ ràng, cụ thể. Trong
trường hợp vô ý phạm tội vì quá tự tin người phạm tội nhìn thấy hậu quả có thể xảy
ra, cũng có thể không xảy ra, hậu quả được chủ thể nhận thức chung chung, chưa
mang tính cụ thể. Người phạm tội tin ở khả năng hậu quả sẽ không xảy ra nên đã
thực hiện hành vi.
Về ý chí, người phạm tội do vô ý vì quá tự tin không mong muốn hành vi của
mình gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Sự khác nhau cơ bản giữa cố ý gián tiếp
và vô ý phạm tội vì quá tự tin thể hiện ở nội dung ý chí của lỗi. Người phạm tội vô
ý vì quá tự tin không mong muốn gây ra hậu quả và cũng không có ý thức để mặc
cho hậu quả xảy ra, họ hy vọng hậu quả sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa
được, nhưng sự hy vọng này là dựa trên những căn cứ không chắc chắn như kinh
nghiệm nghề nghiệp, sự khéo léo của bản thân, sự hiểu biết hoặc những tình tiết
khách quan khác. Chẳng hạn: Công nhân một lâm trường khi làm rừng đã nấu ăn,
nhìn thấy mây đen kéo đến vùng trời khu rừng cho rằng sẽ có mưa nên trước khi về
nhà không dùng nước dập tắt lửa, gió thổi, lửa cháy bén khu rừng cây lấy nhựa. Do
sự đánh giá không chính xác các điều kiện, tình tiết khách quan do tin quá mức hy
vọng ngăn ngừa được hậu quả dựa trên các căn cứ không chắc chắn nên hậu quả
nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra.
Theo Khoản 2 của Điều 11 BLHS năm 2015 thì: Vô ý phạm tội vì cẩu thả là lỗi
của một người trong trường hợp gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội vì cẩu thả đã
không nhìn thấy trước hậu quả đó mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước được
hậu quả đó.
Có thể tóm tắt nội dung của lỗi vô ý phạm tội vì cẩu thả như sau:
+ Người phạm tội không thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội của hành vi
mà mình thực hiện.
45
+ Người phạm tội phải thấy trước và có thể thấy trước được hậu quả đó.
Khác với các hình thức cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp và vô ý vì quá tự tin, người
phạm tội vô ý vì cẩu thả đã không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của
hành vi. Khi thực hiện một xử sự nhất định do không cân nhắc thận trọng, một
người đã không nhận thức được khả năng gây thiệt hại cho xã hội, tức là không
nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình. Ví dụ: Một
người hút thuốc lá đi vào kho xăng rồi vứt đoạn thuốc đang cháy dở xuống sân kho
đã gây cháy kho, hay người y tá đã phát nhầm thuốc cho bệnh nhân do cẩu thả
không chú ý và kiểm tra cẩn thận dẫn đến chết người. Hành vi phát nhầm thuốc
chứa đựng khả năng gây thiệt hại cho xã hội nhưng chủ thể không nhận thấy mình
phát nhầm thuốc và do đó cũng không nhận thấy khả năng gây ra hậu quả nguy hại
cho xã hội. Tương tự như vậy, hút thuốc trong kho xặng dầu (nơi cấm lửa) và vứt
mẩu thuốc đang cháy xuống sàn kho là hành vi chứa đựng khả năng gây ra hậu quả
nguy hại nhưng chủ thể do không thận trọng, không có sự chú ý cần thiết nên đã
thực hiện hành vi ấy.
Người phạm tội trong trường hợp vô ý cẩu thả, tuy không nhận thức được khả
năng gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội của hành vi mà họ thực hiện nhưng phải
thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội của hành vi và có thể thấy trước được hậu
quả đó. Để có thể thấy trước hậu quả phải tồn tại đầy đủ các điều kiện khách quan
và chủ quan trong từng trường hợp cụ thể. Điều kiện chủ quan thể hiện chủ thể có
năng lực nhận thức và đánh giá được các yêu cầu của xã hội phản ánh qua các quy
tắc an toàn chung mà họ phải tuân theo. Năng lực này phụ thuộc các phẩm chất của
cá nhân như trình độ chuyên môn, kinh nghiệm sống, tri thức văn hoá… năng lực
“có thể thấy trước” là phẩm chất phổ biến đối với mọi người ở vào những địa vị và
hoàn cảnh cụ thể.
2.1.2. Thể hiện của phân loại tội phạm trong các chế định phần chung
2.1.2.1. Thể hiện trong đường lối xử lý chung
- Thể hiện trong đường lối xử lý chung
Nguyên tắc mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật không loại trừ
46
việc xử lý tội phạm phải có sự phân hoá vì các trường hợp phạm tội đều có sự khác
nhau ở nhiều khía cạnh. Đây là một nguyên tắc khác của luật hình sự – Nguyên tắc
phân hoá trách nhiệm hình sự. Trong xây dựng luật, nguyên tắc này được thể hiện
trực tiếp ở nhiều nhóm điều luật khác nhau của BLHS. Tuy nhiên, trong chính sách
xử lý tội phạm, nguyên tắc phân hoá này được thể hiện ở chỗ phải có sự phân biệt
trong xử lý đối với những đối tượng phạm tội khác nhau – có đối tượng phải
nghiêm trị và có đối tượng cần phải được khoan hồng. BLHS hiện hành xác định
đối tượng phải bị nghiêm trị là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống
đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm
tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng2; còn đối tượng cần được khoan hồng là
người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra3.
Như vậy, phân tích đường lối xử lý chung cho thấy, những người cần nghiêm
trị là tội phạm
- Thể hiện trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
- Thể hiện trong điều kiện miễn trách nhiệm hình sự...
- Thể hiện trong đường lối xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội (tuổi, chính sách
xử lý,...)
2.1.2.2. Thể hiện trong chế định tội phạm
Ngoài quy định về phân loại tội phạm, ở vai trò là cơ sở pháp lý của trách
nhiệm hình sự, là căn cứ pháp lý để định tội, từ trước đến nay cấu thành tội phạm
(CTTP) luôn là vấn đề được quan tâm nghiên cứu. Theo quan điểm phổ biến hiện
nay, CTTP được hiểu là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho loại
tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Mặc dù có cùng bản chất pháp lý
như vậy nhưng trong các đạo luật hình sự, CTTP lại được xây dựng dưới nhiều
dạng khác nhau. Sự khác biệt của chúng đòi hỏi thực hiện việc phân loại một cách
hợp lý, khoa học. Cho đến nay, CTTP được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau
47
như mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được CTTP phản ánh, đặc điểm cấu 2 Điều 3. BLHS năm 2015 3 Điều 3. BLHS năm 2015
trúc của CTTP hay cách thức được nhà làm luật sử dụng quy định CTTP trong luật
hình sự. Việc phân loại CTTP hay cụ thể hơn là việc xác định đúng loại cấu thành
tội phạm (đặc biệt là đối với việc phân loại theo hai tiêu chí đầu) có ảnh hưởng trực
tiếp đến vấn đề trách nhiệm hình sự của những người thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội.
Trong nhiều trường hợp, việc xác định đúng loại CTTP cho phép chúng ta phân
biệt những hành vi là tội phạm với những hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng
không phải là tội phạm, xác định nhanh chóng, chính xác giai đoạn thực hiện tội
phạm và hình thức lỗi của tội phạm. Những hoạt động này lại chính là cơ sở của
việc xác định đúng trách nhiệm hình sự của những người liên quan. Vì vậy, trong
phạm vi bài viết này chúng tôi phân tích làm sáng tỏ hơn vấn đề phân loại cấu thành
tội phạm, từ đó chỉ ra một cách khái quát một số nội dung về cơ sở lý luận cho việc
xác định trách nhiệm hình sự trong trường hợp tương ứng.
Trước hết, theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được cấu thành tội
phạm (CTTP) phản ánh, CTTP được phân loại thành CTTP cơ bản, CTTP tăng
nặng và CTTP giảm nhẹ. Trong mối quan hệ này, CTTP cơ bản bao gồm những dấu
hiệu đặc trưng có ở mọi trường hợp phạm tội của loại tội nhất định thể hiện tính
nguy hiểm của loại tội đó và cho phép phân biệt loại tội phạm này với loại tội phạm
khác. CTTP tăng nặng và CTTP giảm nhẹ được xây dựng dựa trên cơ sở CTTP cơ
bản. Vì vậy, chúng bao gồm cả những dấu hiệu của CTTP cơ bản và những dấu hiệu
bổ sung phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội tăng lên (CTTP tăng nặng) hoặc
giảm đi (CTTP giảm nhẹ) của mỗi loại tội phạm. Như vậy, có thể khẳng định rằng
mọi CTTP tăng nặng và CTTP giảm nhẹ đều phải có đầy đủ các dấu hiệu của CTTP
cơ bản. Nói cách khác, tất cả những trường hợp không thoả mãn CTTP cơ bản của
một loại tội phạm nhất định thì dù có những dấu hiệu làm cho tính nguy hiểm cho
xã hội tăng lên (tình tiết định khung tăng nặng) hay giảm đi (tình tiết định khung
giảm nhẹ) cũng không thể thoả mãn CTTP tăng nặng hay CTTP giảm nhẹ của loại
tội đó. Trường hợp này hành vi được thực hiện có thể không phải là tội phạm hoặc
48
là một tội phạm khác (nếu thoả mãn dấu hiệu cấu thành của loại tội phạm khác). Ví
dụ: Trường hợp lần đầu tiên lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản
của người khác có giá trị dưới 500.000đ (không thuộc trường hợp gây hậu quả
nghiêm trọng) không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Liên quan đến ranh giới giữa CTTP cơ bản và CTTP tăng nặng tôi muốn đề cập
trường hợp thực tiễn hiện nay vẫn còn gây tranh cãi xung quanh việc xác định loại
CTTP để áp dụng. Đây là trường hợp đặt ra đối với những tội phạm được thực hiện
với lỗi cố ý mà CTTP cơ bản có quy định cụ thể tình tiết định lượng và đồng thời
cũng quy định những trường hợp mặc dù không thoả mãn tình tiết định lượng
nhưng lại thoả mãn tình tiết khác là đã bị kết án về những tội nhất định, chưa được
xoá án tích mà còn vi phạm, mặt khác trong CTTP tăng nặng lại có tình tiết định
khung “tái phạm nguy hiểm”, ví dụ: CTTP tội trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS).
Vấn đề cần xác định ở đây là nếu người thực hiện hành vi quy định trong CTTP cơ
bản không thoả mãn tình tiết định lượng nhưng trước đó đã thuộc trường hợp tái
phạm ở một tội theo điều luật quy định, chưa được xoá án tích thì sẽ xử lý theo
CTTP cơ bản hay theo CTTP tăng nặng? Trên thực tế một số cơ quan tư pháp
hướng dẫn các cơ quan cấp dưới xử lý những trường hợp này theo CTTP tăng nặng.
Theo quan điểm của chúng tôi, trường hợp này sẽ không thể thoả mãn CTTP cơ bản
nếu không cộng với tình tiết đã bị kết án (dù thuộc trường hợp tái phạm hay trường
hợp thông thường), đây là tình tiết để hành vi vi phạm trở thành hành vi phạm tội
còn tình tiết đã tái phạm chỉ được sử dụng để chuyển hoá thành tái phạm nguy hiểm
nếu hành vi trên tự thân nó đã đủ để cấu thành tội phạm. Như vậy, thực chất đây là
trường hợp chỉ đáp ứng được các yêu cầu của CTTP cơ bản mà không có thêm tình
tiết nào để có thể chuyển sang CTTP tăng nặng.
Với vai trò là cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự, là căn cứ pháp lý để định
tội, từ trước đến nay CTTP luôn là vấn đề được quan tâm nghiên cứu. Theo quan
điểm phổ biến hiện nay, CTTP được hiểu là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính
đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Mặc dù có
cùng bản chất pháp lý như vậy nhưng trong các đạo luật hình sự, CTTP lại được
49
xây dựng dưới nhiều dạng khác nhau. Sự khác biệt của chúng đòi hỏi thực hiện việc
phân loại một cách hợp lý, khoa học. Cho đến nay, CTTP được phân loại theo nhiều
tiêu chí khác nhau như mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được CTTP phản
ánh, đặc điểm cấu trúc của CTTP hay cách thức được nhà làm luật sử dụng quy
định CTTP trong luật hình sự. Việc phân loại CTTP hay cụ thể hơn là việc xác định
đúng loại cấu thành tội phạm (đặc biệt là đối với việc phân loại theo hai tiêu chí
đầu) có ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề trách nhiệm hình sự của những người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Trong nhiều trường hợp, việc xác định đúng loại CTTP cho phép chúng ta phân
biệt những hành vi là tội phạm với những hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng
không phải là tội phạm, xác định nhanh chóng, chính xác giai đoạn thực hiện tội
phạm và hình thức lỗi của tội phạm. Những hoạt động này lại chính là cơ sở của
việc xác định đúng trách nhiệm hình sự của những người liên quan. Vì vậy, trong
phạm vi bài viết này phân tích làm sáng tỏ hơn vấn đề phân loại CTTP, từ đó chỉ ra
một cách khái quát một số nội dung về cơ sở lý luận cho việc xác định trách nhiệm
hình sự trong trường hợp tương ứng.
2.1.2.3. Thể hiện trong chế định hình phạt
Phân loại tội phạm thể hiện trong chế định hình phạt ở các nội dung sau:
- Trong điều kiện áp dụng các loại hình phạt
Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều
tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt. (Điều 34 BLHS)
Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp sau đây:
+ Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này
quy định;
+ Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi
trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật
này quy định. (Khoản 1 Điều 35 BLHS)
Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người
50
phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang
có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải
cách ly người phạm tội khỏi xã hội (Khoản 1 Điều 36 BLHS).
Tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm
tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình (Điều 39 BLHS)
Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm
tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định (Khoản 1 Điều 40 BLHS)
Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm
trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an
ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tham nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật này
quy định (Điều 45 BLHS)
- Trong điều kiện miễn trách nhiệm hình sự
Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý
gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người
khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải
và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự
(khoản 3 Điều 29 BLHS). Đây là một trong những căn cứ để người phạm tội được
miễn trách nhiệm hình sự.
- Trong căn cứ quyết định hình phạt
Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người
phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó, khi quyết
định hình phạt cho người phạm tội thì sẽ căn cứ vào việc tội phạm thuộc loại tội
phạm nào để đưa ra mức hình phạt phù hợp, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
- Trong quy định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau (Điều 27
BLHS):
51
+ 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;
+ 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng;
+ 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;
+ 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Ví dụ: Ngày 15/5/2010 A thực hiện hành vị trộm cắp tài sản 5.000.000 đồng
thuộc Khoản 1 Điều 173 BLHS thì sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm tù
hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Như vậy, hành vi trộm cắp của A là tội phạm
ít nghiêm trọng nên thời hiệu truy cứu TNHS là 05 năm kể từ ngày 15/5/2010. Kể
từ ngày thực hiện hành vi cho đến 05 năm sau nếu A vẫn chưa bị truy cứu TNHS thì
A sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nữa vì đã hết thời hiệu.
Không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 27
của Bộ luật Hình sự đối với các tội phạm sau đây (Điều 28 BLHS năm 2015):
+ Các tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Chương XIII của Bộ luật này;
+ Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định
tại Chương XXVI của Bộ luật này;
+ Tội tham ô tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều
353 của Bộ luật này; tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và
khoản 4 Điều 354 của Bộ luật này.
- Trong điều kiện và biện pháp xoá án tích
Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng
và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích (Khoản 2 Điều 69 BLHS)
Để có thể đạt được mục đích giáo dục chung chính sách xử lý tội phạm đòi hỏi
phải phát hiện kịp thời mọi hành vi phạm tội và nhanh chóng xử lý nghiêm minh.
Xử lý nghiêm minh không chỉ là đòi hỏi của mục đích giáo dục chung mà cũng là
đòi hỏi của mục đích giáo dục riêng. Xử lý nghiêm minh đòi hỏi phải là xử lý đúng
luật, bao gồm định tội danh đúng luật, xác định khung hình phạt đúng luật và xác
định hình phạt cụ thể đúng luật. Để có cơ sở cho việc xử lý tội phạm được nghiêm
minh BLHS đã quy định tương đối cụ thể và rõ ràng các vấn đề về tội phạm và hình
phạt. Trong đó có quy định về các căn cứ quyết định hình phạt: “Khi quyết định
52
hình phạt, Toà án căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các
tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự” (Điều 50 BLHS). Theo đó
việc xử lý tội phạm đòi hỏi hình phạt được tuyên phải tương xứng với tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và phù hợp với nhân thân người
phạm tội mà trước hết là phù hợp với khả năng giáo dục của họ.
Mục đích giáo dục của việc xử lý tội phạm đòi hỏi việc xử lý tội phạm phải có
tính nhân đạo. Tính nhân đạo này trước hết phải được thể hiện trong luật, ở nội
dung, phạm vi và điều kiện áp dụng các loại hình phạt trong hệ thống hình phạt
cũng như ở nội dung các quy định về quyết định hình phạt, về việc chấp hành hình
phạt. Đồng thời tính nhân đạo trong xử lý tội phạm cũng đòi hỏi các cơ quan áp
dụng luật để xử lý tội phạm cũng như các cơ quan thực hiện việc thi hành án cũng
phải xuất phát và dựa trên tư tưởng nhân đạo.
Trong BLHS hiện hành, tính nhân đạo của chính sách xử lý tội phạm đã được
thể hiện việc phân loại tội phạm cụ thể:
- Hệ thống hình phạt được quy định không chỉ có hình phạt tước tự do mà có
nhiều hình phạt chính là hình phạt không tước tự do (cảnh cáo, cải tạo không giam
giữ, phạt tiền) và những hình phạt này được quy định cho các tội phạm cụ thể với
phạm vi rộng hơn. Tính nhân đạo của chính sách xử lý tội phạm còn được thể hiện
trong các quy định riêng cho những đối tượng đặc biệt là người chưa thành niên,
phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con nhỏ, người già. Cụ thể: Không áp dụng hình phạt tù
chung thân đối với người phạm tội là người chưa thành niên; không áp dụng hình
phạt tử hình đối với người phạm tội là phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con
dưới 36 tháng tuổi, khi phạm tội hoặc khi bị xét xử; người phạm tội là người già
được quy định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
- Chế định án treo (miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện); chế định giảm
mức hình phạt đã tuyên (do có tiến bộ trong khi chấp hành hình phạt); chế định
hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù (do bị bệnh nặng, do có thai …) và
53
chế định xoá án tích.
2.1.3. Thể hiện của phân loại tội phạm trong phần thứ hai
2.1.3.1. Phân loại tội phạm trong việc xây dựng các chương, mục của phần các tội phạm
Theo căn cứ này, phân biệt được xây dựng trong các chương mục. Căn cứ này
là kết quả gián tiếp của việc liệt kê các loại tội được xem là nguy hiểm nhất đối với
trật tự, kỉ cương, đạo đức xã hội. Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ và bị các hành vi phạm tội xâm hại đến. Việc quy định
những quan hệ xã hội nào được luật hình sự bảo vệ là khách thể của tội phạm phụ
thuộc vào ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội nhưng thường thì nó là
các quan hệ xã hội quan trọng trong đời sống xã hội. Khách thể của tội phạm chính
là đối tượng được bảo vệ của pháp luật hình sự được quy định ở Khoản 1 Điều 8
của BLHS
Do tính chất nguy hiểm đặc biệt của các loại tội nên thông thường theo khách
thể loại và khách thể trực tiếp phân chia thành các nhóm tội:
Chương XIII Các tội xâm phạm an ninh quốc gia, Chương XIV Các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; Chương XV Các tội
xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; Chương
XVI Các tội xâm phạm sở hữu; Chương XVII Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân
và gia đình; Chương XVIII Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; Chương XIX
Các tội phạm về môi trường; Chương XX Các tội phạm về ma túy; Chương XXI
Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng; Chương XXII Các tội xâm
phạm trật tự quản lý hành chính; Chương XXIII Các tội phạm về chức vụ; Chương
XXIV Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp; Chương XXV Các tội xâm phạm nghĩa
vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với quân đội
trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; Chương XXVI Các tội phá hoại hòa bình,
chống loài người và tội phạm chiến tranh.
2.1.3.2. Phân loại tội phạm trong việc xây dựng các cấu thành tội phạm cụ thể
Trong một tội có nhiều khung hình phạt, tại khoản 1 thuộc tội ít nghiêm trọng
nhưng đến khoản 4 lại thuộc tội đặc biệt nghiêm trọng (Tội trộm cắp tài sản Điều
54
173 BLHS); Tội Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169 BLHS) thì khoản 1 là
tội nghiêm trọng, khoản 4 là tội đặc biệt nghiêm trọng; Tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134 BLHS) thì khoản 1 là tội ít
nghiêm trọng, khoản 6 là tội đặc biệt nghiêm trọng.
Với vai trò là cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự, là căn cứ pháp lý để định
tội, từ trước đến cấu thành tội phạm luôn là vấn đề được quan tâm nghiên cứu. Cấu
thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính chất đặc trưng cho loại tội
phạm cụ thể được quy định trong BLHS. Với nội dung này, cấu thành tội phạm
được coi là khái niệm pháp lý của loại tội phạm cụ thể, là sự mô tả khái quát một
loại tội phạm nhất định trong BLHS. Cấu thành tội phạm được phân loại như sau:
Căn cứ theo tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:
Tùy thuộc vào các dấu hiệu đặc trưng cho các dấu hiệu cấu thành tội phạm có
ảnh hưởng đến tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà nhà làm luật sẽ cân nhắc
để xây dựng các cấu thành tội phạm.
Dựa trên căn cứ này, cấu thành tội phạm được phân thành 3 loại:
Cấu thành tội phạm cơ bản: Cấu thành tội phạm cơ bản là cấu thành tội phạm
chứa đựng các dấu hiệu đặc trưng, có ở mọi trường hợp phạm tội của một loại tội.
Cấu thành tội phạm cơ bản thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của loại tội
phạm đó và cho phép phân biệt với loại tội phạm khác. Cấu thành tội phạm cơ bản
chứa đựng yếu tố định tội nhằm xác định tội phạm (hành vi đã đến mức là tội phạm)
và phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác.
Ví dụ, Bộ luật Hình sự quy định: “Người nào sản xuất trái phép chất ma tuý
dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm” là cấu thành tội
phạm cơ bản của “tội sản xuất trái phép chất ma tuý”. Để xác định một người
phạm vào tội này, hành vi của người đó phải đã thỏa mãn các dấu hiệu cơ bản trên
đây. Đồng thời, các dấu hiệu này cũng là cơ sở để phân biệt tội sản xuất trái phép
chất ma túy với các tội phạm khác.
Cấu thành tội phạm giảm nhẹ: Cấu thành tội phạm giảm nhẹ là cấu thành tội
phạm được hình thành dựa trên các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản cùng
55
với những yếu tố khác khiến cho tội phạm giảm đi tính nguy hiểm cho xã hội. Ví
dụ, cấu thành tội phạm cơ bản của tội phạm quy định tại Điều 108 Bộ luật Hình sự
2015 là:
“Công dân Việt Nam nào câu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ xã hội chủ
nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tiềm lực quốc phòng, an
ninh, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình” 2, Điều
108
Trong trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn các dấu hiệu này, đồng thời
còn có “nhiều tình tiết giảm nhẹ” (khoản 2 Điều 108) thì hành vi phạm tội được
xem là thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm giảm nhẹ.
Cấu thành tội phạm tăng nặng: Cấu thành tội phạm tăng nặng là cấu thành tội
phạm được hình thành dựa trên các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản cùng
với những yếu tố khác khiến cho tội phạm tăng tính nguy hiểm cho xã hội.
Tóm lại, để xây dựng cấu thành tội phạm giảm nhẹ, cấu thành tội phạm tăng
nặng, nhà làm luật cần thiết phải dựa vào cấu thành tội phạm cơ bản, đồng thời căn
cứ yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm cũng như tình hình phạm tội
trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Những dấu hiệu có trong cấu thành tội phạm
giảm nhẹ hoặc tăng nặng được gọi là dấu hiệu định khung vì khi thoả mãn được các
yếu tố đó sẽ cho phép chuyển khung hình phạt.
Phân loại theo đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm:
Căn cứ theo đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm, cấu thành tội phạm
được phân thành 2 loại:
Cấu thành tội phạm hình thức: Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội
phạm có dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Đối với
những tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức, hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ
cần được thực hiện, kết hợp với các yếu tố cần và đủ khác là đã đủ yếu tố xác định
tội phạm hoàn thành. Ví dụ, để xem là tội phạm hoàn thành đối với tội xâm phạm
an ninh lãnh thổ, người phạm tội chỉ cần có hành vi “xâm nhập lãnh thổ, có hành
56
động làm sai lệch đường biên giới quốc gia hoặc có hành động khác nhằm gây
phương hại cho an ninh lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
mà không cần phải gây ra hậu quả nào.
Cấu thành tội phạm vật chất: Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội
phạm có dấu hiệu của mặt khách quan không chỉ là hành vi nguy hiểm cho xã hội
mà còn đòi hỏi phải có hậu quả xảy ra và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu
quả đó. Đối với tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất, hành vi bị xem là tội phạm
khi nó thực tế gây ra một hậu quả cụ thể thoả mãn yêu cầu của điều luật quy định về
tội phạm đó, giữa hành vi và hậu quả phải có mối quan hệ nhân quả. Nếu có hành vi
nhưng hậu quả chưa xảy ra hoặc hậu quả không có mối quan hệ nhân quả với hành
vi thì tội phạm coi như chưa hoàn thành.
Ví dụ, để tội phạm hoàn thành đối với tội giết con mới đẻ, người phạm tội phải
có hành vi giết đứa trẻ và hậu quả là đứa trẻ phải chết.
Việc phân loại cấu thành tội phạm vật chất và hình thức phụ thuộc vào chính
sách hình sự của một quốc gia trên cơ sở xác định mức độ can thiệp cần thiết của
Luật hình sự đối với tính nguy hiểm của từng loại tội phạm.
Đối với loại tội phạm có tính nguy hiểm càng cao thì Nhà nước cần thiết phải
ngăn chặn càng sớm tránh xảy ra thiệt hại (các tội phạm có cấu thành tội phạm hình
thức). Mặt khác, việc phân chia này còn chịu chi phối của việc xác định tính chất
của sự thiệt hại, đó là thiệt hại về vật chất, thể chất, tinh thần hay chính trị. Chẳng
hạn, hành vi tuyên truyền chống chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng ta không thể xác
định được mức độ ảnh hưởng của việc tuyên truyền đó, hay nói khác hơn chúng ta
không thể xác định được hậu quả xảy ra ở mức độ nào. Và những trường hợp này,
nhà làm luật thường quy định cho nó cấu thành tội phạm hình thức.
Ngoài ra, dựa trên đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm, có quan điểm cho
rằng còn có một cấu thành tội phạm thứ ba, đó là cấu thành tội phạm cắt xén. Thực
ra, đây là một dạng đặc biệt của cấu thành tội phạm hình thức. Cấu thành tội phạm
loại này không bắt buộc hậu quả xảy ra và tính đặc biệt của nó thể hiện ở chỗ hành
vi khách quan không phải phản ánh hành vi phạm tội mà chỉ là những “hoạt động
57
nhằm” thực hiện hành vi phạm tội mà thôi.
Việc phân chia thành cấu thành tội phạm vật chất và hình thức có ý nghĩa dùng
để xác định thời điểm hoàn thành của tội phạm. Việc xác định này có ý nghĩa quan
trọng trong việc áp dụng một số chế định khác như: đồng phạm, quyết định hình
phạt, các giai đoạn thực hiện tội phạm…
2.2. Đánh giá việc phân loại tội phạm và một số kiến nghị
2.2.1. Đánh giá việc phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 2015
Những điểm tích cực:
Có thể thấy một điểm tiến bộ của BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017
so với Bộ luật Hình sự 1999 là Bộ luật Hình sự 2015 đã tách quy định về phân loại
tội phạm ra thành một điều luật riêng, không còn chung với điều luật quy định về
khái niệm tội phạm. Việc này đã góp phần đảm bảo tính minh bạch khi các chủ thể
áp dụng Bộ luật để nghiên cứu và thực thi. Theo quy định của BLHS 1999 sửa đổi,
bổ sung năm 2009, phân loại tội phạm được quy định cùng trong một điều luật quy
định khái niệm tội phạm (Điều 8 BLHS 1999) là không phù hợp nên cần tách thành
một điều luật riêng để đảm bảo tính minh bạch. Còn BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ
sung năm 2017 đã quy định khái niệm tội phạm tại Điều 8 còn phân loại tội phạm
tại Điều 9.
Điều 9 của BLHS năm 2015 quy định về phân loại tội phạm được tách ra từ
khoản 2 Điều 8 của BLHS năm 1999 và cơ bản vẫn giữ nguyên cách phân loại tội
phạm dựa trên tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, theo đó, tội
phạm được phân chia thành bốn loại:
(1) Tội phạm ít nghiêm trọng;
(2) Tội phạm nghiêm trọng;
(3) Tội phạm rất nghiêm trọng;
(4) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Việc phân loại tội phạm theo cách này giúp các nhà làm luật có thể thực hiện
được nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự ngay trong luật và đây cũng chính là
điều kiện để có thể cá thể hoá trách nhiệm hình sự trong luật và trong thực tiễn áp
58
dụng. Đồng thời, là cơ sở để áp dụng các biện pháp ngăn chặn, để tính thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự và các thời hạn tố tụng cũng như quy định thẩm quyền
điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Tuy nhiên, cần lưu ý là Điều 9 của BLHS năm 2015 có sự khác biệt trong cách
quy định về mức cao nhất của khung hình phạt đối với mỗi loại tội so với BLHS
năm 1999. Cụ thể là, theo BLHS năm 1999 thì mức cao nhất của khung hình phạt
đối với tội ít nghiêm trọng là đến 03 năm tù, tội nghiêm trọng là đến 07 năm tù và
tội rất nghiêm trọng là đến 15 năm tù. Quy định này rất không rõ ràng vì chỉ quy
định điểm cuối mà không quy định điểm bắt đầu để xác định mức cao nhất của
khung hình phạt đối với mỗi loại tội, dẫn đến cách hiểu khác nhau, gây khó khăn
cho việc xác định loại tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng hay rất nghiêm trọng. (Ví
dụ, khoản 1 Điều 115 BLHS năm 1999 quy định mức phạt tù đến 05 năm tù; khoản
2 Điều 113 BLHS năm 1999 quy định mức phạt tù đến 10 năm tù. Nếu theo cách
quy định mức cao nhất của khung hình phạt như trên thì không rõ các trường hợp
phạm tội này thuộc loại tội nào). Để góp phần khắc phục bất cập nêu trên, đồng thời
tăng tính rõ ràng, minh bạch của Bộ luật, Điều 9 đã quy định rõ điểm bắt đầu để xác
định mức cao nhất của khung hình phạt đối với mỗi loại tội, làm cơ sở để xác định
loại tội phạm, theo đó:
- Tội ít nghiêm trọng là tội có mức cao nhất của khung hình phạt là phạt tiền
hoặc phạt cải tạo không giam giữ mà không có hình phạt tù hoặc là phạt tù đến
03 năm;
- Tội nghiêm trọng là tội có mức cao nhất của khung hình phạt nằm trong
khoảng từ trên 03 năm đến 07 năm tù;
- Tội rất nghiêm trọng là tội có mức cao nhất của khung hình phạt nằm trong
khoảng từ trên 07 năm đến 15 năm tù;
- Tội đặc biệt nghiêm trọng là tội có mức cao nhất của khung hình phạt nằm
trong khoảng từ trên 15 năm đến 20 năm tù hoặc tù chung thân hoặc tử hình.
Quy định này phân định rõ ranh giới giữa các loại tội, đồng thời, phù hợp với
cách quy định các khung hình phạt trong từng tội danh trong Bộ luật Hình sự. Cùng
59
với đó, sửa đổi cách nêu khái niệm về các tội phạm với cụm từ: “có tính chất và
mức độ nguy hiểm” thay cho cụm từ: “gây nguy hại” cho phù hợp với căn cứ phân
loại là dựa vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Những bất cập, hạn chế:
Bên cạnh những ưu điểm của BLHS năm 2015 về phân loại tội phạm như đã
phân tích ở trên thì BLHS năm 2015 vẫn còn những hạn chế nhất định như:
Thứ nhất, hiện nay BLHS năm 2015 phân loại tội phạm chủ yếu theo cách phân
loại tội phạm quy định tại Điều 9, phân loại theo tính chất và mức độ nguy hiểm và
hình phạt nhưng trên thực tế có những cách phân loại khác sát với chủ thể phạm tội hơn
như có thể phân loại tội phạm thành tội phạm là cá nhân và tội phạm là pháp nhân.
Thứ hai, TNHS của pháp nhân là chế định mới được quy định trong BLHS năm
2015, chưa có tiền lệ nên trong quy định của pháp luật, cũng như trong việc thực thi
trên thực tế sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế và vướng mắc:
Một là, tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định tại
Khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015. Đây là quy định mới được bổ sung khi sửa đổi
BLHS năm 2015. Theo đó, tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện cũng được
phân loại làm cơ sở để tiến hành các hoạt động tố tụng, xác định các vấn đề khác có
liên quan như thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hạn điều tra, thẩm quyền
điều tra…
Ví dụ: Khoản 6 Điều 188 BLHS quy định về tội buôn lậu. Nếu pháp nhân
phạm tội thuộc điểm a khoản 6 Điều 188, thì tính chất, mức độ nguy hiểm của hành
vi tương ứng với khoản 1 Điều 188. Theo quy định này thì mức cao nhất của khung
hình phạt do BLHS quy định đối với tội phạm này là 3 năm tù, tội phạm mà pháp
nhân thương mại thực hiện. Do vậy, tội phạm mà pháp nhân thương mại thực hiện
nếu xác định thuộc điểm a khoản 6 Điều 188 là tội phạm ít nghiêm trọng.
Tương tự, nếu pháp nhân phạm tội thuộc điểm b khoản 1 Điều 188 là tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng, nếu thuộc điểm d khoản 6 Điều 188, tội phạm mà pháp nhân
60
thương mại thực hiện sẽ là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Tuy nhiên, nếu tội phạm mà pháp nhân thương mại thực hiện tại điểm đ, khoản
6 Điều 188 “phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 188: phạm tội thuộc
trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh
viễn”. Vậy trường hợp này, dựa vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi, loại tội phạm mà pháp nhân thương mại thực hiện là tội phạm nào khi
không có khoản tương ứng đối với hành vi phạm tội do cá nhân thực hiện.
Hai là, Khoản 2 Điều 75 BLHS năm 2015 quy định việc pháp nhân thương mại
chịu TNHS không loại trừ TNHS của cá nhân. Quy định này làm phát sinh một vấn
đề là cá nhân và pháp nhân thương mại là cùng nhau phạm tội thì có được xem là
đồng phạm trong cùng một vụ án không? Xác định lỗi và vai trò của cá nhân và
pháp nhân thương mại với một hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại như thế
nào? Trong một vụ phạm tội của pháp nhân thì cá nhân sẽ chịu trách nhiệm về cùng
một tội danh hay sẽ xử lý theo tội danh khác? Trong trường hợp bị xét xử về cùng
một tội danh thì có xem xét vấn đề đồng phạm không? Tất cả những câu hỏi này
BLHS năm 2015 không quy định rõ.
Ba là, Khoản 1 Điều 75 BLHS năm 2015 quy định những điều kiện cần và đủ
để xác định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân. Điều này cho thấy BLHS năm
2015 đã áp dụng các điều kiện truy cứu TNHS của pháp nhân theo học thuyết đồng
nhất hóa TNHS. Tuy nhiên, để áp dụng thuận lợi và thống nhất trong xét xử, phòng
ngừa đấu tranh và chống tội phạm vì ở nước ta mặc dù đã ban hành nghị quyết ban
hành án lệ của TANDTC, tuy nhiên Hội đồng thẩm phán TANDTC lại chưa ban
hành án lệ về trường hợp này. Theo tôi, để giải quyết vướng mắc này cần phải phân
loại TNHS theo dạng hành vi cụ thể của pháp nhân với 3 trường hợp: Pháp nhân có
thể phải chịu TNHS về hành vi không được thực hiện nghĩa vụ được quy định trực
tiếp cho pháp nhân; Pháp nhân có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi
phạm tội được thực hiện nhân danh và vì lợi ích của pháp nhân; Pháp nhân phải
chịu TNHS trong trường hợp người của pháp nhân đã phạm tội khi thực hiện các
61
công việc được pháp nhân giao và việc phạm tội này có phần lỗi vủa pháp nhân.
Bốn là, xác định lỗi của pháp nhân. Trong việc quyết định cấu trúc pháp lý của
trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thì lỗi của chủ thể thuộc về mặt chủ quan của
hành vi phạm tội là vấn đề gây tranh cãi tất yếu nhất. Lỗi được hiểu nhận thức, thái
độ tâm lý của con người về hành vi của chính mình. Trong khi đó, pháp nhân là một
thực thể không thể có nhận thức tâm lý như một con người. Vì vậy, yếu tố lỗi của
chủ thể như là một yếu tố không thể thiếu của hành vi không thể áp dụng trực tiếp
cho chủ thể là là pháp nhân. Tuy nhiên như đã phân tích ở trên, lỗi của pháp nhân
nằm trong lỗi thuộc về hành vi của người lãnh đạo hoặc người đại diện có thẩm
quyền cua pháp nhân. Khi hành vi phạm tội do người lãnh đạo, người đại diện có
thẩm quyền gây ra thì pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự với tư cách là đồng
phạm. Thêm vào đó, việc quy đinh về điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự của
pháp nhân thương mại theo quan điểm của tôi là chưa phù hợp. Ví dụ: Tại Điều 216
tội trốn đóng BHXH, BHYT, Bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động. Đối với tội
này là trường hợp quy định về việc pháp nhân phải chịu TNHS về hành vi không
thực hiện nghĩa vụ được quy định trực tiếp cho pháp nhân. Khi không thực hiện
nghĩa vụ này ở mức độ nghiêm trọng, doanh nghiệp có thể phải chịu TNHS. Đối với
dạng hành vi này không thực hiện nghĩa vụ này, luật không đòi hỏi thêm điều kiện
để xác định TNHS như Điều 75.
Năm là, về phạm vi chịu TNHS của pháp nhân. Điều 76 đã liệt kê các tội danh
cụ thể mà pháp nhân có thể phải chịu TNHS về các tội danh đó. Theo quan điểm cá
nhân tôi cho rằng, với việc quy định như Điều 76 người đọc có thể nhận biết được
phạm vi chịu TNHS của pháp nhân thương mại phạm tội về những tội danh đã được
liệt kê. Tuy nhiên, về mặt kỹ thuật lập pháp quy định này lại chưa hợp lý, vì khi
thêm hoặc bớt 1 tội danh có quy định TNHS của pháp nhân thì không những cần
sửa đổi điều luật về tội danh có liên quan mà cũng phải sửa đổi cả Điều 76. Hơn
nữa việc quy định về cùng một nội dung không nhất thiết phải sử dụng phương
pháp “bắc cầu” giữa hai điều luật.
Thứ ba, mặc dù BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã có nhiều quy
62
định mới từng bước đáp ứng nhu cầu phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm môi trường
nhưng vẫn còn một số hạn chế, tồn tại chưa theo sát được thực tiễn tội phạm về môi
trường đang diễn ra, cụ thể:
- Về mức xử phạt tiền nặng nhất có thể áp dụng đối với hành vi phạm tội môi
trường là 20.000.000đ, tuy nhiên trên thực tế chưa đủ sức răn đe đối tượng phạm tội
cũng như yêu cầu khắc phục hậu quả xảy ra. Ví dụ vụ xả thải ở khu công nghiệp
Formosa - Hà Tĩnh với thiệt hại nặng nề cho khu vực biển miền trung, hàng nghìn
tấn cá bị chết, hàng vạn ngư dân không thể ra khơi đánh cá trong một vài năm liền,
thiệt hại về vật chất, tinh thần là không thể đếm xuể, không thể bù đắp được. Để
khắc phục hậu quả, trả lại môi trường biển như trước đây chúng ta phải mất rất
nhiều thời gian và tốn kém hàng nghìn tỉ đồng.
- Khó khăn trong xác định hậu quả của hành vi phạm tội của pháp nhân, vì trên
thực tế việc xả thải ra môi trường diễn ra trong nhiều năm, ảnh hưởng đến khu vực
rộng lớn, thậm chí là hàng nghìn hộ dân ở tuyến xả thải. Do đó, việc xác định hành
vi phạm tội, hậu quả xảy ra trong một thời điểm phát hiện hành vi phạm tội chưa
phản ánh đúng hết bản chất hậu quả hành vi của tội phạm xảy ra. Ví dụ như trở lại
vụ án Công ty Vedan xả thải ra sông Thị Vải, gây ra hiện tượng cá chết hàng loạt,
ảnh hưởng đến cuộc sống của 2000 hộ dân dọc sông Thị Vải thuộc ba tỉnh Đồng
Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Thành Phố Hồ Chí Minh. Theo phản ánh của người dân
lưu vực sông Thị Vải, thì từ năm 2001 bắt đầu có hiện tượng cá chết nhưng đến
đỉnh điểm năm 2008 thì toàn bộ dòng sông đã bị bức tử, không còn sinh vật nào có
thể sống dưới nước được. Như vậy, việc xác định thiệt hại, từ năm 2001 đến năm
2008 là rất khó khăn, chưa có cơ sở khoa học để xác định chính xác con số thiệt hại
mà công ty Vedan gây ra.
- Thời điểm truy cứu trách nhiệm hình sự được xác định trên mức độ nghiêm
trọng của hành vi phạm tội, Tuy nhiên, đối với hành vi phạm tội của pháp nhân thì
việc xác định thời hiệu truy cứu TNHS nên dựa vào mức độ thiệt hại đối với môi
trường, không nên tính theo mức phạt tù.
2.2.2. Một số kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện phân loại tội phạm trong pháp
luật hình sự Việt Nam
63
2.2.2.1. Kiến nghị về các cách phân loại
- Thứ nhất, tại Điều 9 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về phân loại tội
phạm về cơ bản vẫn được giữ nguyên theo Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999, cụ thể
là: “Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành bốn loại sau đây:
1. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối
với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
2. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội
ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù;
3. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định
đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù;
4. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy
định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình” [2,
Điều 9].
Quy định như trên khi áp dụng để phân loại các tội phạm cụ thể đối với pháp
nhân thương mại phạm tội, có thể dẫn tới hai cách hiểu khác nhau như sau:
Cách hiểu thứ nhất: Do không có một điều luật nào quy định việc phân loại tội
phạm áp dụng riêng đối với pháp nhân thương mại. Do vậy, Điều 9 của Bộ luật
Hình sự năm 2015 sẽ được áp dụng chung cho tất cả các trường hợp bất kể chủ thể
của tội phạm là cá nhân hay pháp nhân. Hình phạt áp dụng với pháp nhân thương
mại chủ yếu là phạt tiền và cũng chỉ có hình phạt tiền được quy định là một trong
những căn cứ để phân loại tội phạm đối với loại chủ thể này. Cho nên, tội phạm mà
các pháp nhân thương mại thực hiện sẽ luôn thuộc trường hợp tội phạm ít nghiêm
trọng theo quy định tại khoản 1 Điều 9 nêu trên.
Nếu hiểu theo cách này, sẽ thấy bất hợp lý trong quy định về phân loại tội
phạm; khi rõ ràng tính chất, mức độ nguy hiểm cũng như hậu quả đối với xã hội của
64
hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện quy định tại từng điểm là khác
nhau, có trường hợp gây thiệt hại chỉ về tài sản, có trường hợp gây thiệt hại đến sức
khỏe, tính mạng của một người hoặc nhiều người, có trường hợp gây ảnh hưởng xấu
đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội… nhưng lại bị xếp vào cùng một loại tội phạm,
bất kể là số tiền nhiều hay ít, hay có sự phân thành các mức khác nhau tương ứng
với từng điều, khoản cụ thể.
Như vậy, cách hiểu này sẽ không đúng với bản chất hành vi phạm tội do pháp
nhân thương mại thực hiện. Bởi lẽ, không thể căn cứ vào hình phạt tiền được áp
dụng để xác định tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện trong các trường hợp
này là tội phạm ít nghiêm trọng. Do đặc điểm của pháp nhân là một chủ thể pháp
luật có sự độc lập trong tài chính, được thành lập ra để hoạt động kinh doanh vì mục
tiêu lợi nhuận, nên việc áp dụng hình phạt tiền đối với pháp nhân là nhằm đảm bảo
tính răn đe, có hiệu quả cũng như phù hợp với bản chất của chủ thể. Nếu như hình
phạt tù được phân ra các khung hình phạt khác nhau tương ứng với mức độ nguy
hiểm của hành vi do cá nhân thực hiện, thì hình phạt tiền áp dụng đối với pháp nhân
thương mại được phân ra thành các mức khác nhau cũng có ý nghĩa như vậy.
Cách hiểu thứ hai: Dựa vào cách xây dựng trong mỗi điều luật có quy định về
trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân, có thể căn cứ theo khung hình phạt
áp dụng đối với cá nhân để phân loại tội phạm tương ứng. Còn đối với pháp nhân,
các tình tiết định khung tương ứng cũng được áp dụng chung cho cả hai loại chủ
thể. Bởi vì, về cơ bản các điều luật quy định về tội phạm mà pháp nhân thương mại
có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự được thiết kế tương tự nhau, đó là sau khi
nêu các khung hình phạt được áp dụng với pháp nhân có hành vi phạm tội tương
ứng với các khoản được quy định trước đó về hành vi phạm tội của cá nhân: điểm a
(của khoản quy định về hành vi phạm tội của pháp nhân) tương ứng với hành vi
phạm tôi (của cá nhân) quy định tại điểm b khoản 1, tương ứng với điểm c, d khoản
2 tương ứng với khoản 3, 4 chẳng hạn …
Ví dụ: Theo khoản 1 Điều 193 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người
nào sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm thì
65
bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm” [2, Điều 193], đối chiếu với quy định tại Điều 9
của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì tội phạm quy dịnh tại khoản 1 Điều 193 nêu trên
thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng, pháp nhân thương mại phạm tội thuộc
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này sẽ được xác định là tội phạm nghiêm
trọng; phạm tội có tình tiết thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới
1.500.000.000 đồng, nếu là cá nhân thì bị phạt tù theo khung hình phạt của khoản 3
điều này là từ 10 năm đến 15 năm, tức là loại tội phạm rất nghiêm trọng, thì pháp
nhân thương mại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 điều này cũng
được xác định là loại tội phạm rất nghiêm trọng.
Như vậy, theo cách hiểu này có phần linh hoạt và hợp lý hơn cách hiểu thứ
nhất; bởi nó có thể áp dụng để đánh giá và xác định được đúng tính chất, mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện tương ứng với
các mức hình phạt quy định tại các điểm a, b, c… trong mỗi khoản của điều luật,
Nhưng hiểu như vậy, sẽ có phần suy đoán, cũng như không có căn cứ chắc chắn, cụ
thể nào để làm cơ sở cho cách hiểu này.
Đồng thời, cả hai cách hiểu và giải thích nêu trên đều chưa giải quyết được
vướng mắc dưới đây:
+ Theo quy định tại Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 2015, các hình phạt chính áp
dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội không chỉ có phạt tiền mà còn bao
gồm cả hình phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn và đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
Theo nguyên tắc quy định tại khoản 3 của Điều này thì “đối với mỗi tội phạm, pháp
nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính” [2, Điều 33]. Như
vậy, trong những trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội bị áp dụng hình phạt
đình chỉ (có thời hạn hoặc vĩnh viễn) thì tội phạm trong trường hợp này được phân
loại là tội phạm gì?
+ Điều 79 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về hình phạt đình chỉ hoạt động
vĩnh viễn áp dụng đối với pháp nhân thương mại trong hai trường hợp:
“1. Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn là chấm dứt hoạt động của pháp nhân thương
mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt
66
hại hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến tính mạng của nhiều người, gây sự
cố môi trường hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và
không có khả năng khắc phục hậu quả gây ra.
2. Pháp nhân thương mại được thành lập chỉ để thực hiện tội phạm thì bị đình
chỉ vĩnh viễn toàn bộ hoạt động” [2, Điều 79].
Như vậy, nếu pháp nhân thương mại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại
Điều 79, tương ứng với mỗi tội danh trong phạm vi Điều 76 quy định, thì bị đình
chỉ hoạt động vĩnh viễn. Nếu đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thì
trường hợp này có thể xác định là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, nhưng căn cứ
vào đâu để phân loại tội phạm trong trường hợp đó?
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, nếu không có hướng dẫn cụ thể sẽ dẫn đến
sự không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự để giải
quyết các vụ án có chủ thể là pháp nhân thương mại phạm tội, không chỉ trong phân
loại tội phạm mà còn liên quan đến các vấn đề như xác định thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự, căn cứ miễn trách nhiệm hình sự (Điều 27, Điều 29 Bộ luật Hình sự
năm 2015); thời hạn điều tra, truy tố, xét xử (các Điều 172, 173, 240, 241, 277, 278
Bộ luật Hình sự năm 2015); thời hạn áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với pháp
nhân …
Qua nghiên cứu về chế định mới về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương
mại lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015, tôi nhận thấy có sự
vướng mắc nêu trên, dễ dẫn đến cách hiểu khác nhau; để vấn đề được giải quyết
đúng đắn và có tính thống nhất nên trong thời gian tới các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành và
phân loại tội phạm với pháp nhân thương mại cụ thể hơn.
Thứ hai, có nên quy định mỗi khung hình phạt sẽ tương ứng với mỗi chế tài
tương ứng loại hình phạt để xác định với mỗi loại tội phạm và đưa ra quyết định
hình phạt được chính xác và đơn giản hơn hay không để tạo điều kiện thuận lợi
trong áp dụng Bộ luật Hình sự.
Ví dụ, theo quy định tại Điều 123 BLHS, thì Tội Giết người quy định tại khoản
1 có hình phạt là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình, mà theo
67
quy định về phân loại tội phạm thì từ trên 07 năm đến 15 năm tù là tội phạm rất
nghiêm trọng; từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình là tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng. Do đó, ở đây trong một khung hình phạt lại có thể có hai loại
tội phạm.
Vì vậy, có thể quy định chế tài khoản 2 Điều 123 BLHS là 7 năm đến 15 năm
tù (tương ứng tội rất nghiêm trọng); chế tài khoản 1 Điều luật là từ 15 năm đến 20
năm tù, tù chung thân hoặc tử hình (tương ứng tội đặc biệt nghiêm trọng).
Tương tự, trong phần các tội phạm đối với tội phạm chỉ nên quy định tối đa 4
khung hình phạt và mỗi khung tương ứng với một loại tội phạm: khoản 1 với khung
hình phạt đến 03 năm tù (Tội ít nghiêm trọng); khoản 2 từ trên 03 năm đến 07 năm tù
(Tội nghiêm trọng); khoản 3 từ trên 07 đến 15 năm tù (Tội rất nghiêm trọng); khoản 4
từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình (Tội đặc biệt nghiêm
trọng).
- Thứ ba, cần quy định để thể hiện rõ hơn về vấn đề phân loại tội phạm trong
Điều 3 BLHS (Nguyên tắc xử lý), đường lối xử lý đối với từng loại tội. Bởi phân
loại tội phạm là một trong những công cụ chính để thực hiện nguyên tắc phân hóa
trách nhiệm hình sự.
- Thứ tư, thực hiện nhân đạo hóa, nhân văn, hướng thiện đối với việc quyết
định, áp dụng hình phạt.
+ Hạn chế hình phạt tù, người phạm tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng do vô
ý được nạn nhân thỏa thuận, yêu cầu được miễn trách nhiệm hình sự thì có thể áp
dụng hình phạt cảnh cáo;
+ Đối với người phạm tội về tham gia giao thông đường bộ (do lỗi vô ý) mà đã
khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại thì không áp dụng hình phạt tù;
+ Có những người phạm tội phạm ít nghiêm trọng do lỗi vô ý có thể được xem
xét miễn trách nhiệm hình sự do người phạm tội không hề có ý chí thực hiện hành
vi. Bởi án tích kéo theo rất nhiều hệ lụy sau này đối với bản thân và gia đình;
+ Tội phạm do vô ý chỉ nên quy định đến mức cao nhất là tội rất nghiêm trọng,
68
tức chế tài về tội vô ý cao nhất là 15 năm tù…
2.2.2.2. Kiến nghị trong xây dựng các chế định phần các tội phạm từ góc độ phân
loại tội phạm
- Thứ nhất, mặc dù BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã đánh dấu
một bước quan trọng trong tư duy lập pháp hình sự, tiếp tục thể hiện tinh thần chủ
động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm, góp phần bảo vệ chủ
quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, lợi ích của nhà nước và tổ chức, bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của nước ta, BLHS
năm 2015 quy định pháp nhân là chủ thể của tội phạm, đây là điểm nổi bật, mang
tính đột phá trong chính sách và tư duy lập pháp hình sự nước ta. Tuy nhiên, đây là
vấn đề mới nên BLHS năm 2015 quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo
hướng chỉ áp dụng trách nhiệm hình sự của pháp nhân, xác định cụ thể 33 tội danh,
đây là các tội danh mang tính chất thuần túy về kinh tế, môi trường, an toàn công
cộng và trật tự công cộng; quy định rõ 3 điều kiện để pháp nhân thương mại phải
chịu TNHS và quy định các chế tài áp dụng đối với pháp nhân phạm tội bao gồm 3
hình phạt chính, 3 hình phạt bổ sung và 4 biện pháp tư pháp. Để triển khai và áp
dụng có hiệu quả, thiết nghĩ các cơ quan chức năng cần có văn bản hướng dẫn cụ
thể khắc phục các hạn chế như: các trường hợp đã được phân tích ở phía trên về
trách nhiệm hình sự của pháp nhân và thậm chí trường hợp pháp nhân bị đình chỉ
hoạt động có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động vĩnh viễn thì quyền lợi của người lao
động, của chủ nợ, các đối tác đang có hợp đồng hợp tác, kinh doanh với pháp nhân
này sẽ được giải quyết như thế nào? Những vấn đề này BLHS năm 2015 chưa dự
trù đến. Điều này cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện để có những văn bản hướng
dẫn thi hành BLHS mới.
- Thứ hai, với những hạn chế trong quy định về nhóm tội về môi trường, tác giả
kiến nghị những vấn đề sau:
Một là, sớm có văn bản hướng dẫn chi tiết việc truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với pháp nhân, nhất là thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân.
69
Đây là vấn đề mới cho nên việc triển khai áp dụng trên thực tiễn gặp nhiều khó
khăn, mỗi địa phương có một cách hiểu khác nhau. Do đó, cần sớm có văn bản
hướng dẫn để áp dụng thống nhất trong cả nước.
Hai là, tăng mức phạt tiền đối với loại tội phạm này, đặc biệt là đối với đối
tượng pháp nhân phạm tội. Đồng thời bổ sung một điều quy định về khái niệm tội
phạm môi trường, giúp cơ quan điều tra, truy tố, xét xử áp dụng các quy phạm pháp
luật hình sự được đúng đắn, khách quan.
Ba là, tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội trong lĩnh vực môi
trường, nhất là trong lĩnh vực sinh học, vũ khí hóa học, phóng xạ…
Bốn là, ngoài việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội phạm
môi trường thì việc tiếp tục hoàn thiện cơ quan quản lý nhà nước chuyên trách về
bảo vệ môi trường là rất cần thiết, đặc biệt là cơ quan phòng chống tội phạm về môi
trường, trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại để xác định độ thiệt hại mà tội
phạm gây ra để xử lý đúng người, đúng tội, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp
70
luật trong thời gian tới.
KẾT LUẬN
Hoạt động nghiên cứu, phân loại nói chung, việc phân loại tội phạm nói riêng
là quá trình phân chia tội phạm thành những nhóm, loại khác nhau theo căn cứ của
phân loại. Với mục đích của việc phân loại tội phạm trong luật hình sự là phân hóa
tội phạm, phân hóa TNHS, phân hóa cụ thể đường lối xử lý tội phạm trong luật
trước khi tội phạm bị truy tố, xét xử. Trong thực tế nhà làm luật đã thực hiện các
cách phân loại tội phạm khác nhau trong luật hình sự, trong đó cách phân loại tội
phạm theo mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội là cách phân loại tội phạm quan
trọng nhất. Có thể nói bản chất của việc phân loại tội phạm là hoạt động lập pháp,
quy định các nhóm, loại tội phạm, cụ thể hóa quy định về tội phạm và là cơ sở để
xây dựng các CTTP, xây dựng các chế định khác về tội phạm và hình phạt. Do đó,
quá trình phân loại tội phạm là quá trình thể chế hóa chính sách hình sự, xác định
đường lối đấu tranh phòng, chống tội phạm thông qua việc phân loại tội phạm. Đồng
thời, trên cơ sở lý luận về phân loại tội phạm đã được làm sáng tỏ, luận văn phân tích
và đánh giá một cách hệ thống việc xây dựng, sửa đổi và hoàn thiện một số quy định
của BLHS.
Với mong muốn nghiên cứu một cách đầy đủ hơn về phân loại tội phạm nhằm
góp phần hoàn thiện quy định về phân loại tội phạm cũng như các quy định khác về
tội phạm và hình phạt trong BLHS. Có thể nói, kết quả nghiên cứu hạn chế nhưng
luận văn đã góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận chung về phân loại tội phạm
trong luật hình sự. Luận văn đã phân tích và đánh giá quy định về phân loại tội
phạm cũng như các quy định có liên quan của BLHS. Do điều kiện nghiên cứu và
khả năng nghiên cứu của học viên còn hạn chế nên kết quả nghiên cứu sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót, học viên kính mong sự tiếp tục chỉ dẫn của các nhà khoa
71
học để luận văn có nội dung hoàn thiện hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bình luận BLHS hợp nhất 2017 phần chung.
2. Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
3. Bộ luật Hình sự số 15/1999QH10 và được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết
33/NQ-QH12 ngày 19/06/2009 và Các văn bản hướng dẫn áp dụng.
4. Bộ luật Tố tụng Hình sự số 101/2015/QH13.
5. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1967), Pháp lệnh trừng trị các tội
phản cách mạng, Hà Nội.
6. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1970), Pháp lệnh trừng trị các tội
xâm phạm tài sản riêng của công dân, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của Bộ
Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2020, Hà Nội.
9. Đào Trí Úc (2000), Luật Hình sự Việt Nam (Quyển I Những vấn đề chung),
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
10. Đinh Bích Hà (Dịch và giới thiệu): Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2007.
11. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999 – Phần
chung, Nxb thành phố Hồ chí Minh.
12. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học luật hình sự (phần các tội phạm) tập I, 3
Nxb TP. HCM 2003.
13. Đỗ Đức Hồng Hà (Chủ biên). So sánh Bộ luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật
Hình sự năm 2015. NXB Hồng Đức. Hà Nội, 2016.
14. Đỗ Ngọc Quang, Trịnh Quốc Toản, Nguyễn Ngọc Hòa (1997) Giáo trình Luật
Hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
15. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung). Nxb Đại học Quốc gia Hà
72
Nội; PGS. TSKH Lê Cảm chủ biên.
16. Nguyễn Ngọc Hòa (2018), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999 –
Phần chung, NXb Tư pháp.
17. Hồ Sỹ Sơn, “Tội phạm và các dấu hiệu của tội phạm nhìn từ góc độ so sánh
pháp luật hình sự ở một số nước trên thế giới”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật
số 10/2012.
18. Lê Cảm & Trịnh Tiến Việt. Chế định thời hiệu trong luật hình sự Việt Nam:
Một số vấn đề lý luận cơ bản. – Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2/2001.
19. Lê Cảm & Trịnh Tiến Việt. Chế định thời hiệu trong luật hình sự Việt Nam –
Trong sách: Nhà nước & pháp luật Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI. (Tập thể
tác giả do TSKH Lê Cảm chủ biên). NXB Công an nhân dân. Hà Nội, 2002.
20. Lê Cảm & Trịnh Tiến Việt. Đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về hệ thống hình phạt và phương hướng hoàn thiện. – Tạp
chí Khoa học (Chuyên san Kinh tế - Luật) của ĐHQGHN, số 4/2008.
21. Lê Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong
Khoa học luật Hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005.
22. Lê Cảm (chủ biên) (2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), (tái
bản lần thứ nhất – 2003),Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
23. Lê Cảm (chủ biên) (2003), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần các tội
phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
24. Lê Cảm (Chủ biên) (2003, 2007), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần
chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
25. Lê Cảm (Chủ biên), Phạm Mạnh Hùng & Trịnh Tiến Việt. Trách nhiệm hình sự
và miễn trách nhiệm hình sự (Sách chuyên khảo). NXB Tư pháp, Hà Nội, 2005.
26. Lê Cảm, Trịnh Tiến Việt, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự (Phần chung) về
trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự.
27. Lê Cảm. Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999: Những vấn đề cần hoàn thiện
các quy định của Phần chung. – Tạp chí DC & PL tháng 8/2008 (Số chuyên đề
sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 1999).
28. Lê Cảm. Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự (Tập IV).
73
NXB Công an nhân dân. Hà Nội, 2002.
29. Lê Cảm. Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự. (Tập I).
NXB Công an nhân dân. Hà Nội, 2000.
30. Lê Cảm. Chế định đặc xá, chế định đại xá và mô hình lý luận của chúng trong
pháp luật hình sự Việt Nam. – Tạp chí TAND, số 5 – tháng 3/2005.
31. Lê Cảm. Hình phạt & biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam. – Tạp
chí Dân chủ và pháp luật (DC&PL), số 8/2000.
32. Lê Cảm. Những cơ sở khoa học – thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật hình
sự Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. – Tạp chí Khoa học của ĐHQG Hà Nội
(Phần khoa học xã hội), XV, số 2/1999.
33. Lê Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong
khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
34. Luật Thi hành án hình sự số 53/2010/QH12.
35. Nguyễn Ngọc Chí, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, xuất bản năm 2013.
36. Nguyễn Ngọc Chí, Giáo trình Những vấn đề lý luận thực tiễn về Luật Hình sự
quốc tế, xuất bản năm 2011.
37. Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên), Giáo trình Quyền con người trong lĩnh vực tư
pháp Hình sự, xuất bản năm 2015.
38. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên). Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015
được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Phần chung). NXB Tư pháp. Hà Nội, 2017.
39. Nguyễn Ngọc Hòa, Lê Thị Sơn (2011), “Tìm hiểu hệ thống pháp luật Cộng
hòa Liên bang Đức – Về phần chung Bộ luật Hình sự Cộng hòa Liên bang
Đức”, Tạp chí Luật học, (đặc san 9).
40. Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. Công an nhân dân,
Hà Nội, 2010.
41. Nguyễn Ngọc Hòa. Tội phạm và cấu thành tội phạm. NXB Tư pháp. Hà
Nội, 2015.
42. Trần Văn Độ (1995), “Tội phạm và cấu thành tội phạm, chương 6”, trong sách:
Tội phạm học, Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự, NXB Chính trị Quốc gia,
74
Hà Nội.
43. Trần Văn Độ. “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định trách nhiệm hình
sự đối với các tổ chức, pháp nhân trong Luật hình sự Việt Nam”.
44. PGS.TS Trần Văn Độ. Các học thuyết về cơ sở trách nhiệm hình sự của pháp
nhân. – Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2011.
45. Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự (Ban hành đến ngày 31/12/1974).
46. Tòa án nhân dân Tối cao (1976), Tập hệ thống hóa luật lệ hình sự, tập 1 (1945
– 1975), Hà Nội.
47. Trịnh Quốc Toản (SCK): “Nghiên cứu hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam
dưới góc độ bảo vệ quyền con người”. NXB Chính trị Quốc Gia, 2015.
48. Trịnh Quốc Toản. trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật hình sự.
NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật. Hà Nội, 2011.
49. Trịnh Tiến Việt (2013), Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
50. Trịnh Tiến Việt, Phan Thị Thủy, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự (Phần
chung) về mối quan hệ giữa cấu thành tội phạm và tình tiết tăng nặng TNHS.
51. Trường đại học Luật Hà Nội (2008) giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần
các tội phạm) Nxb ĐHQGHN, Hà Nội.
52. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Bộ luật Hình sự Liên bang Nga (sách
được tài trợ bởi SIDA), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
53. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Bộ luật Hình sự Thụy Điển, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
54. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
55. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Bộ luật Hình sự Cộng hòa liên bang Đức
(sách được tài trợ bởi SIDA), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
56. Trường Đại học Luật Hà Nội, Bộ luật Hình sự Liên Bang Nga, Nxb. Công an
nhân dân, 2011.
57. Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Tội phạm học, luật hình sự và luật tố
tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
58. Võ Khánh Vinh (chủ biên) giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần các tội
75
phạm) Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2005.