VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN XUÂN BÌNH

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH

TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN

THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN XUÂN BÌNH

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH

TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN

THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm

Mã số: 8.38.01.05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. ĐINH THỊ MAI

HÀ NỘI, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của bản thân, được

thực hiện độc lập và dưới sự hướng dẫn của TS Đinh Thị Mai.

Các kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình

nào khác. Các số liệu, bảng biểu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính

chính xác, tin cậy và trung thực.

Vậy, tôi viết lời cam đoan này đề nghị Học viện cho tôi được bảo vệ

luận văn của mình trước Hội đồng.

Tác giả luận văn

Nguyễn Xuân Bình

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH

HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN ............................................................... 5

1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản 5

1.2. Cơ sở, nguyên tắc của phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản .......... 12

1.3. Chủ thể phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản ................................. 13

1.4. Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản ....................... 14

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP

GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .................. 24

2.1. Thực trạng đặc điểm tình hình có liên quan đến phòng ngừa tội cướp giật

tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng .......................................................... 24

2.2. Thực trạng phòng ngừa ............................................................................ 47

2.3. Nhận xét, đánh giá kết quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật

tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ......................................................... 63

CHƯƠNG 3. DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA

TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH

PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................................................. 68

3.1. Dự báo hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng .......................................................................................... 68

3.2. Giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa

bàn thành phố Đà Nẵng ................................................................................... 71

KẾT LUẬN .................................................................................................... 80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BLHS : Bộ luật hình sự

CGTS : Cướp giật tài sản

TAND : Tòa án nhân dân

TP : Thành phố

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Sở hữu hệ thống cảng biển, sân bay quốc tế, với nhiều khu du lịch, nghỉ

dưỡng cao cấp, bãi biển đẹp, tiếp giáp với các điểm di sản văn hoá thế giới

như: Mỹ Sơn, Hội An, Huế và là địa điểm diễn ra các sự kiện chính trị, văn

hóa lớn của quốc tế và đất nước như: Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái

Bình Dương, Cuộc thi trình diễn pháo hoa Quốc tế, các Đại hội thể thao biển,

… trong những năm qua, TP Đà Nẵng luôn là điểm đến du lịch của hàng triệu

du khách trong và ngoài nước, góp phần phát triển kinh tế du lịch, dịch vụ của

thành phố. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển này, tình hình tội phạm có

nhiều diễn biến khó lường, trong đó tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành

phố Đà Nẵng diễn ra hết sức phức tạp, khó lường về tính chất, mức độ hoạt

động của tội phạm. Phương thức thủ đoạn của tội cướp giật tài sản ngày càng

đa dạng, các đối tượng phạm tội thay đổi theo từng thời điểm, liên quan đến

nhiều địa bàn khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn là các địa bàn trung tâm thành

phố, khu du lịch, khu nghỉ dưỡng...trên địa bàn thành phố, đáng lo ngại là sự

xuất hiện của các băng, nhóm chuyên nghiệp. Từ năm 2014 đến 06 tháng đầu

năm 2019, tổng số vụ án cướp giật tài sản xảy ra tại các địa bàn du lịch, khu

du lịch chiếm 9,21% trong tổng số các vụ phạm pháp hình sự xảy ra và đã ảnh

hưởng xấu đến môi trường du lịch của thành phố. Tuy nhiên, những thống kê

trên chỉ là những vụ cướp giật tài sản ở các địa bàn, khu du lịch mà nạn nhân

trình báo với cơ quan chức năng, trong thực tế số vụ án cướp giật tài sản tại

các địa bàn này xảy ra còn nhiều hơn, mà nạn nhân vì những lý do khác nhau

đã không trình báo với cơ quan chức năng.

Trước tình hình phức tạp của tình hình tội CGTS, Đảng bộ, các ban

ngành và Chính quyền thành phố đã ban hành các chủ trương, chính sách,

các kế hoạch, chuyên đề về đấu tranh, phòng ngừa đối với tình hình tội

2

phạm CGTS. Tuy nhiên, trong thực tế công tác phòng ngừa với loại tội

phạm này vẫn còn những hạn chế nhất định như chưa huy động được sức

mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào các hoạt động phòng ngừa đối

với loại tội phạm này, cơ chế phối hợp giữa các lực lượng còn nhiều bất cập,

trong công tác tuyên truyền nâng cao tinh thần cảnh giác trong nhân dân

chưa được thường xuyên, liên tục, chưa được chú trọng đúng mức đã ảnh

hưởng không nhỏ đến tình hình tội cướp giật tài sản tại trên địa bàn thành

phố Đà Nẵng, đáng báo động phương thức, thủ đoạn hoạt động của loại tội

phạm này diễn biến ngày càng phức tạp về quy mô, tính chất và mức độ

nguy hiểm cho xã hội. Bên cạnh những nguyên nhân về khách quan, chủ

quan, thì ý thức tự bảo vệ tài sản của du khách và tham gia bảo vệ tài sản

của người khác trong nhân dân chưa cao cũng góp phần ảnh hưởng đến tình

hình tội cướp giật tài sản.

Trên cơ sở các tài liệu tổng kết về công tác phòng ngừa đối với tội cướp

giật tài sản và xuất phát từ yêu cầu thực tiễn về nâng cao hiệu quả trong hoạt

động phòng ngừa đối với tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng,

tôi chọn đề tài “Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành

phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ luật học là hoàn toàn cấp thiết.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Nghiên cứu về hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản đã

được một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu và công bố, điển hình như:

- Luận văn thạc sĩ: “Tội cướp giật tài sản trên địa bàn tỉnh An Giang:

tình hình,nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”, của Lê Ngọc Hớn – Học

viện khoa học xã hội – TP Hồ Chí Minh, năm 2010.

- Luận văn thạc sĩ: “Nâng cao hiệu quả phòng ngừa và điều tra tội cướp

giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”, của Nguyễn Công Danh – Học

viện cảnh sát nhân dân, năm 2013.

- Luận văn thạc sĩ: “Tội cướp giật tài sản trên địa bàn TP Đà Nẵng: tình

3

hình, nguyên nhân và phòng ngừa”, của Lê Như Thành – Học viện khoa học

xã hội – TP Đà Nẵng, năm 2019.

Như vậy, đã có nhiều đề tài nghiên cứu về hoạt động phòng ngừa, điều tra

tội cướp giật tài sản, song chưa có đề tài nào nghiên cứu về phòng ngừa tình

hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng phòng ngừa tình

hình tội cướp giật tài sản tại trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, luận văn đưa ra

những nhận xét đánh giá về hạn chế, tồn tại và nguyên nhân, từ đó đề ra giải

pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp

giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu trên, trong quá trình nghiên cứu luận văn cần giải

quyết các nhiệm vụ sau:

+ Làm rõ cơ sở lý luận của phòng ngừa tội cướp giật tài sản và hoạt động

phòng ngừa tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

+ Làm rõ thực trạng hoạt động phòng ngừa tội cướp giật tài sản trên địa

bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến 06 tháng đầu năm 2019.

+ Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Tình hình, chủ thể, cơ sở và thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình

tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về không gian: Địa bàn thành phố Đà Nẵng.

- Phạm vi về thời gian: từ năm 2014 đến 06 tháng đầu năm 2019.

4

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin

và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà

nước ta về phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ ANQG và giữ

gìn TTATXH.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu.

+ Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp.

+ Phương pháp tọa đàm, trao đổi.

+ Phương pháp chuyên gia.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ sung vào lý luận về phòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Là tài liệu nghiên cứu, tham khảo đối với các lực lượng đang trực tiếp làm

phòng ngừa, đấu tranh đối với tội cướp giật tài sản. Những dự báo và đề xuất

giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội

cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

nội dung luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội cướp giật

tài sản.

Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa

bàn thành phố Đà Nẵng.

Chương 3: Dự báo và giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội

cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

5

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa phòng ngừa tình hình tội cướp

giật tài sản

- Khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm

Ở nước ta hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về phòng ngừa tình

hình tội phạm.

Theo từ điển Bách khoa nghiệp vụ Công an thì: phòng ngừa tội phạm là

sự vận dụng tổng hợp những biện pháp chính trị, tư tưởng, kinh tế, pháp luật...

theo một kế hoạch nhất định của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội để chủ

động ngăn ngừa các hành vi phạm tội, loại trừ những nguyên nhân và điều

kiện phát sinh tội phạm.

Theo giáo trình Tội phạm học, Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Ngọc Quang cho

rằng đấu tranh chống tội phạm bao hàm hai nội dung cơ bản: Thứ nhất, phát

hiện điều tra khám phá kịp thời mỗi khi tội phạm xảy ra nhằm đảm bảo tội

phạm không thể không bị phát hiện và điều tra xử lý kịp thời, không một

người phạm tội nào có thể tránh khỏi hình phạt của pháp luật. Đây là nội dung

quan trọng trong mọi thời kỳ của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.[11]

Thứ hai, bằng mọi biện pháp không cho tội phạm xảy ra, không để cho một

thành viên nào của xã hội phải chịu hình phạt của pháp luật, xã hội không

phải chịu hậu quả của tội phạm, các cơ quan bảo vệ pháp luật không phải có

những chi phí cần thiết cho việc điều tra, khám phá, xử lý người phạm tội và

điều quan trọng hơn là đảm bảo cuộc sống bình thường cho mọi công dân

trong xã hội, làm cơ sở cho mọi công dân có thể cống hiến sức lực của mình

vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Theo quan niệm này phòng ngừa tội

phạm khác với công tác điều tra khám phá, xử lý tội phạm.[11]

6

Theo giáo trình Tội phạm học của Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm

phòng ngừa tội phạm không chỉ bao gồm các hoạt động nhằm thủ tiêu nguyên

nhân và điều kiện phạm tội, không để cho tội phạm xảy ra mà còn bao gồm cả

những hoạt động ngăn chặn tội phạm, phát hiện điều tra khám phá tội phạm

và xử lý nghiêm minh các hành vi phạm tội nhằm trừng trị giáo dục người

phạm tội trở thành người công dân có ích cho xã hội [29]. Truy cứu trách

nhiệm hình sự cũng là một hình thức phòng ngừa tình hình tội phạm chủ động

và có hiệu quả. Thông qua hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và buộc kẻ phạm

tội phải chịu một hình phạt không những có ý nghĩa phòng ngừa cá biệt mà

còn có ý nghĩa phòng ngừa chung[29]. Việc trừng trị kẻ phạm tội và ngăn

chặn nó không phạm tội mới còn có ý nghĩa tác động đối với những người

xung quanh làm cho họ từ bỏ ý định phạm tội. Tuy nhiên, phòng ngừa tình

hình tội phạm còn được thể hiện ở việc cải thiện các điều kiện kinh tế, xã hội,

xóa bỏ các nguyên nhân và điều kiện phạm tội, hình thành các điều kiện tích

cực cho sự hình thành, hoàn thiện nhân cách con người mới. Theo quan niệm

này, phòng ngừa tình hình tội phạm bao hàm không chỉ ngăn ngừa tội phạm

xảy ra mà còn trừng trị người phạm tội nhằm giáo dục và cải tạo họ thành

người có ích cho xã hội [28].

Hiện nay, các nhà nghiên cứu trong lực lượng CAND quan niệm rằng:

phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống các biện pháp của Nhà nước và xã

hội nhằm khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tình trạng phạm tội làm

giảm tội phạm. Phòng ngừa tình hình tội phạm là tư tưởng chỉ đạo trong đấu

tranh phòng, chống tội phạm, bao gồm các hình thức và biện pháp được thực

hiện nhằm ngăn ngừa không để tội phạm xảy ra, nếu tội phạm xảy ra thì phải

hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả tác hại... [12]. Theo quan điểm này thì

phòng ngừa tình hình tội phạm bao gồm các hoạt động để phát hiện và khắc

phục nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội từ đó tiến hành các biện

pháp nhằm ngăn ngừa không để tội phạm xảy ra, đồng thời hạn chế đến mức

7

thấp nhất tác hại khi tội phạm xảy ra. [11].

- Khái niệm tội cướp giật tài sản

Điều 171 Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

năm 2015 quy định:

“Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm

đến năm năm”.

Căn cứ vào điều luật và qua thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử thì hành vi

cướp giật tài sản là hành vi “công khai” chiếm đoạt tài sản của người khác và

“nhanh chóng” tẩu thoát.

Như vậy, có thể rút ra khái niệm tội cướp giật tài sản như sau: tội cướp

giật tài sản là người phạm tội chiếm đoạt tài sản của người khác bằng hành vi

nhanh chóng, công khai giật lấy tài sản rồi tìm cách tẩu thoát.

- Dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản

Điều 171 Bộ luật hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

năm 2015 quy định:

1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm

đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba

năm đến mười năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000

đồng;

d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;

đ) Hành hung để tẩu thoát;

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ

lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

g) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người

8

già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

i) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy

năm đến mười lăm năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000

đồng;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ

lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ

lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người

31% trở lên;

c) Làm chết người;

d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến

100.000.000 đồng.

Căn cứ vào quy định của điều luật thì tội cướp giật tài sản có các dấu

hiệu pháp lý như sau:

Thứ nhất, khách thể của tội cướp giật tài sản

Tội cướp giật tài sản xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu của người khác

đối với tài sản.

Trong một số trường hợp, hành vi cướp giật tài sản đã gây ra hậu quả

nghiêm trọng ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại như cướp

9

giật tài sản của người đang điều khiển xe môtô làm cho họ ngã xe gây thương

tích. Trong những trường hợp này, trước khi thực hiện hành vi cướp giật tài

sản, người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm và hậu quả của hành

vi nhưng vẫn thực hiện. Do vậy, Bộ luật hình sự năm 2015 đưa vào trong cấu

thành tội phạm dấu hiệu thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của người khác và

coi đây là những tình tiết định khung hình phạt. Như vậy, ở đây tội cướp giật

tài sản đồng thời xâm phạm đến hai khách thể, đó là quan hệ nhân thân và

quan hệ sở hữu. Nhưng việc xâm phạm quan hệ nhân thân không phải là mục

đích, đối tượng mà người phạm tội nhằm vào. Vì thế, đối tượng tác động của

tội cướp giật tài sản là tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác.[37].

Thứ hai, mặt khách quan của tội cướp giật tài sản

Mặt khách quan của tội cướp giật tài sản thể hiện ở hành vi công khai và

nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của người khác.

Hành vi “công khai” về mặt khách quan, chủ tài sản có khả năng biết

ngay khi hành vi này xảy ra. Về ý thức chủ quan của người phạm tội, người

phạm tội khi thực hiện hành vi chiếm đoạt biết hành vi chiếm đoạt của mình

có tính chất công khai và hoàn toàn không có ý định che giấu hành vi đó. Đây

cũng là một dấu hiệu đặc trưng để phân biệt với các trường hợp phạm tội khác

như hành vi trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản…

“Nhanh chóng” là dấu hiệu phản ánh thủ đoạn của người phạm tội. Đó là

thủ đoạn nhanh chóng tiếp cận tài sản, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và

nhanh chóng tẩu thoát.

Để giật được tài sản, người phạm tội lợi dụng sơ hở của chủ tài sản, sơ

hở này có thể sẵn có (như đeo dây chuyền lộ ra trên cổ, túi xách để ở giỏ xe,

sử dụng điện thoại di động khi đang chạy xe…) hoặc do người phạm tội chủ

động tạo ra (như giả vờ tiếp cận hỏi thăm chuyện với chủ tài sản, vào cửa

hàng giả vờ xem mua tài sản…) và nhanh chóng tiếp cận, nhanh chóng chiếm

đoạt và nhanh chóng tẩu thoát. Ví dụ, giật lấy túi xách của người đi đường và

10

nhanh chóng tẩu thoát…[37]

Thủ đoạn nhanh chóng này được thực hiện dưới nhiều hình thức khác

nhau và phụ thuộc vào đặc điểm của tài sản, cách thức giữ tài sản…, thông

thường đây là những tài sản gọn nhẹ, dễ giật lấy, dễ mang đi như: túi xách,

dây chuyền, máy ảnh, điện thoại di động…

Một số trường hợp, người phạm tội lúc đầu chỉ có ý định cướp giật tài

sản nhưng trong quá trình thực hiện hành vi bị chủ tài sản chống cự, giằng lấy

lại tài sản, người phạm tội đã có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực

ngay tức khắc để chiếm đoạt bằng được tài sản thì hành vi phạm tội này

không còn là hành vi cướp giật tài sản mà chuyển sang hành vi cướp tài sản.

Tuy nhiên, cũng được xem là hành vi cướp giật tài sản trong trường hợp

người phạm tội có tác động nhẹ đến người chiếm giữ tài sản, song không làm

cho họ lâm vào tình trạng mất khả năng chống cự (ví dụ: xô ngã, giật ví rồi

tẩu thoát…).

Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội giật được tài sản từ người khác,

kể cả trường hợp người phạm tội bỏ lại tài sản đã cướp giật được để tẩu thoát

vì một lý do nào đó, chẳng hạn như bị truy đuổi gắt gao, bị tai nạn giao

thông… [41].

Thứ ba, mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản

Tội cướp giật tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, người thực

hiện tội phạm nhận thức được hành vi cướp giật tài sản của họ là nguy hiểm

cho xã hội, thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra và mong muốn cho

hậu quả xảy ra. Mục đích chiếm đoạt tài sản.

Thứ tư, chủ thể của tội cướp giật tài sản

Chủ thể của tội cướp giật tài sản được xác định là bất kỳ người nào có đủ

năng lực trách nhiệm hình sự.

Về hình phạt.

Điều luật quy định 4 khung hình phạt:

11

+ Khung 1 (Cấu thành cơ bản): quy định hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

+ Khung 2 (Cấu thành tăng nặng): quy định hình phạt tù từ 03 năm đến

10 năm.

+ Khung 3: quy định hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

+ Khung 4: quy định hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, hoặc chung thân.

Ngoài ra, người phạm tội còn bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến

100.000.000 đồng.

- Khái niệm phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Trên cơ sở thống nhất về mặt nhận thức về khái niệm phòng ngừa tình

hình tội phạm và nhận thức về tội cướp giật tài sản nói trên, chúng ta có thể

đưa ra khái niệm phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản như sau:

Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là hoạt động của các cơ quan

nhà nước, tổ chức xã hội và công dân bằng nhiều biện pháp hướng đến việc

thủ tiêu những nguyên nhân, điều kiện của tội cướp giật tài sản, nhằm ngăn

chặn, làm hạn chế và từng bước loại trừ tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội

nói chung và nói riêng.

Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là hoạt động rất

phức tạp, đa dạng với sự tham gia của đông đảo các lực lượng, tổ chức xã

hội…Vì vậy, để phòng ngừa tình hình tội phạm này cần phải giải quyết tốt

các nhiệm vụ như nghiên cứu làm rõ các nguyên nhân, điều kiện của tình

trạng phạm tội cướp giật tài sản; soạn thảo các giải pháp, biện pháp phòng

ngừa và tổ chức tiến hành các hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật

tài sản.

Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là việc tiến hành

đồng bộ các biện pháp, sử dụng đồng bộ nhiều lực lượng nhằm khắc phục

những sơ hở thiếu sót trong các mặt công tác không để đối tượng phạm tội

cướp giật tài sản có thể lợi dụng hoạt động phạm tội. Cần phải nghiên cứu

những đặc điểm hình sự của tội cướp giật tài sản để thấy được những nguyên

12

nhân trực tiếp làm nảy sinh, phát triển loại tội phạm này, từ đó khắc phục

nhằm ngăn chặn không để cho chúng có thể xảy ra.

1.2. Cơ sở, nguyên tắc của phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Cơ sở pháp lý của hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

là toàn bộ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước nói chung

và của pháp luật tố tụng hình sự nói riêng quy định về các biện pháp, phương

tiện được sử dụng và những nội dung khác có liên quan đến hoạt động phòng

ngừa nhằm ngăn ngừa, hạn chế không để cho tội cướp giật giật tài sản xảy ra

trong cuộc đấu tranh phòng, chống đối với loại tội phạm này.

Cơ sở pháp lý quan trọng của hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp

giật tài sản là Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn

bản quy phạm pháp luật khác.

Điều 46, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có nhiệm vụ tuân

theo Hiến pháp và Pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn

xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt cộng đồng”.

Điều 64, Hiến pháp năm 2013 quy định: “… Cơ quan, tổ chức, công dân

phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh”.

Điều 67, Hiến pháp năm 2013 thể hiện: “Nhà nước xây dựng CAND cách

mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nồng cốt trong thực hiện

nhiệm vụ ANQG và bảo đảm TTATXH, đấu tranh phòng, chống tội phạm”.

Cùng với nó, các đạo luật quan trọng phục vụ đắc lực cho hoạt động đấu

tranh phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung cũng được ban hành nhằm

quy định rõ về trách nhiệm của các cơ quan, người tiến hành tố tụng trong

việc xác định nhanh chóng tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội,

cũng như trách nhiệm của các cơ quan tư pháp trong tổ chức đấu tranh phòng

ngừa tình hình tội phạm.

Ngoài ra, trong quá trình tiến hành các hoạt động phòng, chống tội phạm

nói chung và phòng, chống tội cướp giật tài sản nói riêng, lực lượng CSND và

13

các cơ quan pháp luật luôn bám sát vào đường lối, chính sách của Đảng, pháp

luật của Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm và những nội dung

phòng, chống tội phạm trong từng giai đoạn luôn được thể hiện trong các Chỉ

thị, Thông tư, Nghị quyết của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và của

ngành Công an. Những văn bản quy phạm này quy định chức năng, nhiệm vụ,

thẩm quyền của các lực lượng chuyên trách và là cơ sở pháp lý làm căn cứ điều

chỉnh các hoạt động nghiệp vụ của lực lượng CSND trong đấu tranh phòng

chống tội phạm nói chung và hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài

sản nói riêng trong thời gian qua [41]. Cụ thể là các văn bản sau:

- Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tại Điều 6 quy định: “Trong quá

trình tiến hành tố tụng hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có

trách nhiệm phát hiện nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu, kiến nghị

cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và phòng ngừa”.

- Bộ luật hình sự năm 2015, tại Điều 4 quy định: “Cơ quan Công an,

Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và cơ quan hữu quan khác có trách

nhiệm thi hành đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đồng thời

hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức, công dân đấu

tranh phòng ngừa và chống tội phạm, giám sát và giáo dục người phạm tội tại

cộng đồng”.

- Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015: Tại khoản 2, Điều 5

quy định: Cơ quan điều tra của lực lượng CSND bao gồm Cơ quan CSĐT Bộ

Công an, Cơ quan CSĐT cấp tỉnh, Cơ quan CSĐT cấp huyện và tại khoản 4,

Điều 8 quy định Cơ quan điều tra tiến có nhiệm vụ tìm ra nguyên nhân, điều

kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện

pháp khắc phục và ngăn ngừa.

1.3. Chủ thể phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Chủ thể hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là các cá

nhân, tổ chức có trách nhiệm và quyền hạn hoạt động đấu tranh phòng, chống

14

đối với loại tội phạm này. Ngoài ra sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, thì

việc mọi công dân cùng tham gia phòng, chống có ý nghĩa đặc biệt tích cực

trong việc phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Tuy nhiên, do mỗi lực

lượng, mỗi tổ chức, mỗi công dân khi tham gia phòng ngừa tình hình tội

phạm này lại có chức năng, nhiệm vụ, vị trí khác nhau cho nên cần phải xác

định rõ vai trò của từng lực lượng (chủ thể) tiến hành phòng ngừa tình hình

tội phạm.

Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản cũng chính là tiến hành phòng

ngừa đối với một hiện tượng xã hội tiêu cực. Do đó, tiến hành hoạt động

phòng ngừa phải phát huy mọi lực lượng của toàn xã hội, trong đó lực lượng

nòng cốt, chủ công là lực lượng CAND. Vai trò của lực lượng CAND đối với

hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản được thể hiện chung

nhất tại Điều 4 Luật Công an nhân dân năm 2014 quy định “CAND là lực

lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ

ANQG, đấu tranh phòng, chống tội phạm” và tại khoản 2, Điều 15 Luật

CAND năm 2013 quy định nhiệm vụ và quyền hạn của lực lượng CAND nêu

rõ “Chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại âm

mưu, hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, loại trừ nguy cơ đe dọa an ninh

quốc gia; bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập,

chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ an ninh chính

trị, an ninh trong các lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, kinh tế, quốc phòng, đối

ngoại, thông tin, xã hội, môi trường và các lợi ích khác của quốc gia; bảo vệ

khối đại đoàn kết toàn dân tộc; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân

phẩm, tài sản, quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền và lợi ích hợp pháp

của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.

1.4. Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

Tội phạm là một hiện tượng xã hội phức tạp, chịu sự chi phối của nhiều

yếu tố lịch sử - xã hội, do đó việc phòng ngừa chúng cũng đòi hỏi phải được

15

tiến hành một cách đồng bộ nhiều biện pháp, giải pháp khác nhau. Thực tiễn

pháp lý và các kết quả nghiên cứu khoa học cho phép chúng ta khái quát vấn

đề được nêu thành một hệ thống các biện pháp liên hoàn cần áp dụng để từng

bước giải quyết tình hình tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói

riêng. Có nhiều cách khác nhau để phân chia, tuy nhiên để thấy "Phòng ngừa

và đấu tranh chống tội phạm là trách nhiệm của toàn xã hội" như: Hiến pháp

năm 2013, Bộ luật hình sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã

quy định, thì việc phân loại các biện pháp phòng ngừa dựa vào phạm vi tác

động của các biện pháp là hợp lý nhất. Theo cách phân chia này thì hệ thống

các biện pháp phòng ngừa sẽ bao gồm 02 nhóm đó là: các biện pháp phòng

ngừa xã hội (phòng ngừa chung) và các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ

(phòng ngừa riêng).

Phòng ngừa xã hội là hệ thống các biện pháp kinh tế, chính trị, văn hoá,

xã hội, giáo dục và pháp luật nhằm góp phần hạn chế tiến tới loại trừ các yếu

tố có thể trở thành nguyên nhân và điều kiện thực hiện tội phạm; phòng ngừa

xã hội được tiến hành bởi các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tập

thể lao động cũng như bản thân từng công dân - cá nhân, thành viên của xã

hội, trong đó lực lượng CAND là nòng cốt thực hiện chức năng tham mưu,

hướng dẫn và trực tiếp tiến hành các mặt hoạt động đấu tranh phòng ngừa tình

hình tội phạm [38].

Để thực thi các biện pháp phòng ngừa xã hội, các lực lượng cần tiến

hành một số công tác cụ thể sau đây:

Thứ nhất, làm tốt công tác tham mưu, đề xuất với các cấp ủy Đảng,

chính quyền xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật có liên

quan đến việc quản lý con người, quản lý xã hội; công tác đấu tranh phòng,

chống tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng. Tổ chức thực

hiện tốt các chủ trương, chính sách hiện hành của Đảng và Nhà nước về

công tác phòng, chống tội phạm, đặc biệt là phòng chống tội cướp giật tài

16

sản . Tham mưu cho Đảng, chính quyền nhằm tích cực chủ động phòng ngừa

bằng các hoạt động: Đề ra chủ trương, biện pháp, giải pháp phòng ngừa tình

hình tội cướp giật tài sản phù hợp từng thời điểm, đồng thời có biện pháp tổ

chức sản xuất, phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương

để giải quyết việc làm hợp lý cho người dân; Huy động các cơ quan ban

ngành trong toàn xã hội làm tốt chức năng của mình góp phần xây dựng xã

hội mới về mọi mặt, chủ động đấu tranh bài trừ tệ nạn xã hội, cướp giật,

trộm cắp và các hiện tượng xã hội tiêu cực khác, kịp thời phát hiện xử lý

mọi hành vi vi phạm pháp luật [38] .

Thứ hai, phối hợp giữa các lực lượng hữu quan xây dựng kế hoạch tổ

chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để từng bước nâng cao ý thức

pháp luật cho người dân. Tuyên truyền giáo dục giúp cho quần chúng nhân

dân nhận thức rõ quy luật hoạt động và hậu quả tác hại của tội cướp giật tài

sản , từ đó có ý thức cảnh giác, tự bảo vệ mình, bảo vệ tài sản, tự giác tham

gia trong đấu tranh phòng chống tội cướp giật tài sản. Phát huy hiệu quả công

tác vận động, giáo dục cá biệt đối với những đối tượng có khả năng và điều

kiện phạm tội.

Thứ ba, phát động phong trào toàn dân tham gia phòng chống tội phạm

nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng. Phối hợp chặt chẽ với các cơ

quan, ban ngành, đoàn thể xã hội tăng cường vận động thực hiện phong trào

“Toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc”, đảm bảo huy động sức mạnh

của cả hệ thống chính trị, nhất là ở cơ sở tham gia phòng chống tội phạm.

Thứ tư, các cấp chính quyền, các cơ quan chức năng tạo điều kiện công

ăn việc làm cho những người không có việc làm ổn định, đưa các đối tượng

nghiện ma túy đi cai nghiện, mở các trung tâm chữa bệnh, bảo trợ xã hội cho

những người là nạn nhân của tệ nạn xã hội, giúp họ từ bỏ con đường lầm lỗi.

Hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ của lực lượng CAND đối với tội cướp

giật tài sản nói chung và nói riêng là quá trình sử dụng các biện pháp, phương

17

tiện nghiệp vụ của mình nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và phát hiện tội cướp

giật tài sản. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, các lực lượng CAND

cần tiến hành các biện pháp phòng ngừa cụ thể sau:

Một là, công tác điều tra cơ bản: Công tác ĐTCB của lực lượng CAND

là một hoạt động điều tra, nghiên cứu được tiến hành nhằm thu thập một cách

rộng rãi, toàn diện và hệ thống về tình hình, tài liệu, số liệu ở một địa bàn,

tuyến, lĩnh vực, một hệ đối tượng đấu tranh có liên quan đến công tác quản lý

nhà nước về lĩnh vực hoạt động của CAND; về phương thức, thủ đoạn hoạt

động, nguyên nhân, điều kiện của các loại đối tượng để nghiên cứu tổng hợp

rút ra kết luận và đề ra đối sách thích hợp trong công tác bảo vệ ANQG và giữ

gìn TTATXH. Kết quả công tác ĐTCB là cơ sở để lực lượng Công an tham

mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp chỉ đạo các ngành tổ chức công

tác đảm bảo an ninh, phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ

quốc, khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong việc thực hiện chính sách của

Đảng, pháp luật của Nhà nước ở cơ sở; phát hiện nhiều vấn đề liên quan đến

ANTT nhất là các yếu tố có tính quy luật chi phối tình hình tội phạm, làm nền

tảng cho toàn bộ hoạt động nghiệp vụ của lực lượng Công an. ĐTCB được

tiến hành ở tất cả các đơn vị nghiệp vụ trong ngành Công an một cách thường

xuyên, liên tục và lâu dài.

Điều 3, Thông tư 18/2013/TT-BCA-C41, ngày 01/4/2013 của Bộ Công

an quy định đối tượng công tác ĐTCB gồm: địa bàn (xã, phường, thị trấn, cơ

quan doanh nghiệp…); tuyến, mục tiêu, lĩnh vực; hệ, loại đối tượng. Do vậy,

để phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản lực lượng CAND cần tiến hành

công tác ĐTCB những địa bàn tập trung đông và dễ có nhiều tài sản có thể

cướp giật được, như khu du lịch, tuyến du lịch nơi tập hợp các khu du lịch

hoặc các hoạt động dịch vụ du lịch liền kề tập trung nhiều khách sạn, nhà

nghỉ, dịch vụ ăn uống, mua sắn… mà khách du lịch, người dân thường xuyên

tụ tập, lui tới để thăm quan, du lịch và kinh doanh. Ngoài ra, công tác ĐTCB

18

cần được tiến hành đối với hệ loại những đối tượng có điều kiện, khả năng

tham gia, thực hiện tội cướp giật tài sản.

Hai là, công tác sưu tra: Công tác sưu tra của lực lượng CAND là một

quá trình điều tra, nghiên cứu về những người có điều kiện, khả năng phạm

tội hoặc đang có biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội nhằm mục đích nắm

tình hình của các loại đối tượng, chủ động phát hiện và có biện pháp tác động

đấu tranh, ngăn chặn không để tội phạm xảy ra. Đây là một trong những công

tác NVCB đặc biệt quan trọng đối với lực lượng CAND trong phòng ngừa,

phát hiện, điều tra tội phạm nói chung và tội cướp giật nói riêng.

Tiến hành sưu tra phải nắm được diễn biến của các đối tượng sưu tra có

điều kiện, khả năng hoặc có biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội cướp giật

tài sản nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng; nắm lai lịch, tiền án, tiền

sự, các mối quan hệ xã hội của đối tượng một cách có hệ thống, chính xác và

kịp thời. Trên cơ sở đó nghiên cứu phân loại đối tượng một cách chuẩn xác để

có kế hoạch quản lý, giáo dục, cảm hóa thích hợp hoặc tiến hành các biện

pháp nghiệp vụ để phòng ngừa, ngăn chặn mọi hoạt động liên quan đến tội

phạm của đối tượng.

Theo quy định tại Thông tư 19/2013/TT-BCA-C41 của Bộ trưởng Bộ

Công an, quá trình thực hiện công tác sưu tra, lực lượng CSND tiến hành sưu

tra theo danh mục gắn với địa bàn nơi cư trú, nơi làm việc hoặc hoạt động của

đối tượng và tiến hành sưu tra theo hệ loại đối tượng. Sau đó, dựa vào kết quả

sưu tra, phân loại đối tượng đã được xác định để phân cấp nhiệm vụ, trách

nhiệm của từng cấp trong việc áp dụng các biện pháp quản lý nghiệp vụ cho

từng đối tượng sưu tra. Đặc biệt cần chú ý đến số đối tượng có tiền án, tiền

sự, đối tượng sống lang thang, số đối tượng nghiện ma túy, bởi vì đây là số

đối tượng có khả năng phạm tội cướp giật tài sản trong đó có cướp giật tài

sản. Sau đó, dựa vào kết quả sưu tra, phân loại đối tượng đã được xác định để

phân cấp nhiệm vụ, trách nhiệm của từng cấp trong việc áp dụng các biện

19

pháp quản lý nghiệp vụ cho từng đối tượng sưu tra.

Để công tác sưu tra quản lý đối tượng có hiệu quả đòi hỏi khi thực hiện

phải gắn với các mặt công tác cơ bản khác, nhất là công tác quản lý tuyến, địa

bàn và công tác vận động toàn dân tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở, gắn liền

với kết quả công tác điều tra cơ bản, xác minh và đấu tranh phòng chống tệ

nạn xã hội để bổ sung tài liệu phục vụ công tác sưu tra đối tượng.

Ba là, công tác xác minh hiềm nghi: Hiềm nghi trong đấu tranh phòng

chống tội phạm, giữ gìn TTATXH là những người, việc, hiện tượng nghi

vấn hoạt động phạm tội mà lực lượng CSND phải khẩn trương tiến hành xác

minh làm rõ để kịp thời phòng ngừa, ngăn chặn. Hiềm nghi được xác lập khi

có căn cứ. Công tác xác minh hiềm nghi của lực lượng CSND là xác lập và

tập trung xác minh làm rõ nghi vấn và đi đến kết luận có hoạt động phạm tội

hay không.

Thực chất của công tác xác minh hiềm nghi thường là bước chuyển tiếp

và phát triển của công tác sưu tra nhằm tập trung xác minh làm rõ những dấu

hiệu nghi vấn về hoạt động phạm tội cụ thể của đối tượng; những vấn đề nghi

vấn và đi đến kết luận vấn đề nghi vấn ấy có phải là tội phạm; có hành vi

phạm tội hay không. Xác định khi một người có hành vi giống với hành vi

của người đang chuẩn bị hoặc đang hoạt động phạm tội cướp giật tài sản nói

chung và nói riêng; có dấu hiệu nghi vấn che dấu tung tích, thay đổi nhận

dạng, chuẩn bị phương tiện, công cụ; trên người, tại chỗ ở hoặc nơi làm việc

có dấu vết, tài liệu hoặc tài sản nghi là vật chứng của vụ án, có công cụ,

phương tiện có liên quan đến hoạt động phạm tội... đặc biệt là biểu hiện che

giấu hoặc ngụy trang những bất minh về kinh tế và bất minh thời gian trước,

trong và sau khi gây án.[12]

Căn cứ xác định đối tượng hiềm nghi là dựa vào kinh nghiệm, kiến thức

hiểu biết pháp luật của cán bộ trinh sát; vào phương thức, thủ đoạn hoạt động

của loại tội phạm này và những tài liệu, chứng cứ thu thập được có khả năng

20

liên quan đến hành vi phạm tội của các đối tượng, những hành vi đó có đủ yếu

tố cấu thành mặt khách quan của tội cướp giật tài sản. Để có cơ sở xác lập,

xác minh hiềm nghi, cần tiến hành công tác sưu tra, quản lý đối tượng một

cách có hệ thống gắn với công tác ĐTCB ở các địa bàn khác nhau để nắm mọi

diễn biến hoạt động của các loại đối tượng có tiền án, tiền sự và đối tượng có

biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội cướp giật tài sản [12].

Việc xác lập, xác minh hiềm nghi là cần thiết nhằm tập trung vào đối

tượng “điểm” nổi cộm cần đấu tranh, tránh dàn trải và áp dụng các biện pháp

nghiệp vụ tràn lan, kém hiệu quả. Trên thực tế có nhiều vụ việc, hiện tượng

“nghiêm trọng” bước đầu mới có dấu hiệu nghi liên quan đến hoạt động phạm

tội cướp giật tài sản , nhưng chưa có đầy đủ căn cứ để kết luận, do vậy cần

thiết phải có bước xác lập hiềm nghi để áp dụng các biện pháp nghiệp vụ làm

rõ. Tuy nhiên, việc xác lập, xác minh hiềm nghi về người chỉ tiến hành đối

với các trường hợp đối tượng hoạt động nghiêm trọng, có phương thức thủ

đoạn tinh vi, xảo quyệt, cần thiết phải áp dụng các biện pháp nghiệp vụ trinh

sát cao hơn mới làm rõ được.

Bốn là, công tác đấu tranh chuyên án: Chuyên án của lực lượng CSND

là hoạt động điều tra trinh sát, được tiến hành với sự chỉ đạo tập trung, thống

nhất, phối hợp chặt chẽ nhiều lực lượng, sử dụng đồng bộ các biện pháp,

phương tiện kỹ thuật, chiến thuật nghiệp vụ nhằm vào những đối tượng đã xác

định để phòng ngừa, ngăn chặn và khám phá, truy bắt tội phạm.

Đấu tranh chuyên án là bước phát triển, giai đoạn quan trọng của công

tác điều tra trinh sát, trực tiếp giải quyết các yêu cầu mà hoạt động điều tra

riêng lẻ không thể giải quyết được. Do vậy, quá trình thực hiện phải tuyệt đối

chấp hành các nguyên tắc: tuân thủ pháp luật, đảm bảo yêu cầu chính trị,

nghiệp vụ của ngành Công an; đảm bảo bí mật; tập trung, thống nhất, nhanh

chóng, kịp thời. Đồng thời, phải căn cứ vào yêu cầu, tính chất quy mô cụ thể

của chuyên án để tính toán việc sử dụng đặc tình, cơ sở bí mật hợp lý; kết hợp

21

với các biện pháp khác để tạo tính liên hoàn, hỗ trợ lẫn nhau nhằm giải quyết

các tình huống có tính chất quyết định đến sự thành công của chuyên án.

Trong quá trình thực hiện công tác đấu tranh chuyên án, cần phân biệt rõ

hai loại chuyên án trinh sát và chuyên án truy xét làm cơ sở xác lập và phân

cấp chuyên án, tránh xác lập tràn lan không đủ căn cứ, không đúng tính chất;

kết hợp chặt chẽ giữa các lực lượng trinh sát và điều tra, thực hiện đồng bộ

các biện pháp nghiệp vụ, thường xuyên trao đổi thông tin, tài liệu cần thiết có

sự chỉ đạo chặt chẽ, thống nhất của cấp chỉ huy, đồng thời phải căn cứ vào

tình hình, tính khách quan của từng vụ việc cụ thể để phân cấp các lực lượng

thực hiện [12].

Năm là, công tác xây dựng, sử dụng cộng tác viên bí mật: Xây dựng, sử

dụng CTVBM của lực lượng CSND là một hoạt động nghiệp vụ quan trọng

của ngành Công an, là một trong những mặt công tác nghiệp vụ cơ bản, nhằm

sử dụng và thông qua con người để tìm kiếm, phát hiện thu thập và xử lý các

thông tin, tài liệu liên quan đến hoạt động phạm tội, được tiến hành bằng các

lực lượng, phương pháp, chiến thuật, phương tiện bí mật trong khuôn khổ

pháp luật và theo các quy định của ngành, nhằm thực hiện chức năng quản lý

Nhà nước về ANTT và trực tiếp phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, điều tra

khám phá tội phạm.[12]

Xây dựng và sử dụng CTVBM trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật

tài sản là quá trình lực lượng CSND lựa chọn, xây dựng và sử dụng những

người ngoài biên chế của ngành Công an để phát hiện, thu thập thông tin tài

liệu liên quan đến hoạt động của tội cướp giật tài sản nói chung, nói riêng hoặc

tư vấn cho lực lượng CSND về những địa bàn du lịch, điểm du lịch, tuyến du

lịch mà đối tượng phạm tội cướp giật tài sản thường hoạt động, từ đó có biện

pháp chủ động phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với loại tội phạm này.

Xây dựng và sử dụng có hiệu quả CTVBM, đặc biệt là mạng lưới đặc

tình, cơ sở bí mật ở các địa bàn, tuyến liên quan đến các khu tập trung đông

22

dân cư hoặc các khu có nhiều điều kiện để thực hiện hành vi tiếp cận và cướp

giật tài sản,… nhằm mục đích thu thập và phát hiện kịp thời những tin tức về

đối tượng gây án, các băng, nhóm, tổ chức tội cướp giật đang hình thành, phát

triển. Biện pháp này có tác dụng trong việc phát hiện những tin tức ban đầu về

hoạt động phạm tội, đồng thời còn có thể sử dụng phục vụ công tác điều tra

phát hiện tội phạm bằng các kế hoạch trinh sát cần thiết như đi sâu vào băng,

nhóm, tổ chức tội cướp giật.[12]

Ngoài ra, lực lượng CSND cần phải nâng cao hiệu quả công tác điều tra

giải quyết các vụ án cướp giật tài sản nói chung, nói riêng, xử lý triệt để các

đối tượng phạm tội sẽ góp phần phòng ngừa tích cực, bởi vì, nếu vụ án xảy ra

mà không điều tra khám phá được hoặc khám phá chậm trễ, để đối tượng trốn

tránh ngoài xã hội, thì đối tượng phạm tội lại tiếp tục hoạt động mạnh mẽ hơn,

táo bạo hơn. Do vậy, muốn phòng ngừa tích cực, không để tội phạm xảy ra,

lực lượng CSND cần tiến hành các chiến dịch truy quét, tiến công thường

xuyên, liên tục, tuần tra, kiểm soát trên các tuyến, địa bàn trọng điểm phức

tạp về ANTT có liên quan đến hoạt động phạm tội cướp giật tài sản, đặc biệt

tại các địa bàn, tuyến tập trung thường xuyên xẩy ra các vụ cướp giật tài sản.

Để đảm bảo thực hiện được những biện pháp phòng ngừa, lực lượng

CSND phải làm tốt một số công việc sau [11]:

- Tiến hành điều tra nghiên cứu, nắm vững tình hình diễn biến của tội

cướp giật tài sản nói chung và nói riêng.

- Xây dựng chương trình kế hoạch phòng ngừa tình hình tội cướp giật

một cách chi tiết, cụ thể trên từng địa bàn, tuyến thường xuyên xẩy ra các vụ

cướp giật tài sản.

- Kết hợp với các cơ quan Nhà nước, các ngành và đoàn thể quần chúng

nhân dân cùng tiến hành phòng ngừa tình hình tội cướp giật theo một kế

hoạch thống nhất.

- Chuẩn bị các điều kiện, phương tiện vật chất cần thiết để phục vụ cho

23

công tác phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản như: phương tiện giao

thông, công cụ hỗ trợ, phương tiện tuyên truyền...

Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản nêu trên là

những biện pháp cơ bản nhất, phổ biến nhất cần phải được tổ chức triển khai

thực hiện thường xuyên và có hệ thống. Trong quá trình thực hiện, muốn có

hiệu quả cao, lực lượng CSND cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị,

ban ngành, đoàn thể trong và ngoài lực lượng, huy động sức mạnh của cả hệ

thống chính trị và sự tham gia của quần chúng nhân dân.

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1, tác giả đã nghiên cứu và làm rõ một số vấn đề lý luận sau:

Làm rõ những nhận thức về tội cướp giật tài sản, nhận thức về phòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Đồng thời làm rõ về khái niệm, cơ sở

pháp lý, chủ thể và những biện pháp tiến hành phòng ngừa loại tội cướp giật

tài sản.

Kết quả nghiên cứu trên, sẽ tạo cơ sở pháp lý quan trọng để tiếp tục

nghiên cứu thực trạng của hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài

sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

24

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP

GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

2.1. Thực trạng đặc điểm tình hình có liên quan đến phòng ngừa tội

cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

2.1.1. Đặc điểm về vị trí địa lý, dân cư, kinh tế, văn hóa xã hội trên địa

bàn thành phố Đà Nẵng

Thành phố Đà Nẵng nằm cách thủ đô Hà Nội 764 km về phía Bắc,

cách thành phố Hồ Chí Minh 964 km về phía Nam, gồm vùng đất liền và vùng quần đảo trên biển Đông. Vùng đất liền nằm ở 15055' đến 16014' vĩ độ Bắc, 107018' đến 108020' kinh độ Đông, Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế,

Tây và Nam giáp tỉnh Quảng Nam, Đông giáp Biển Đông. Vùng biển gồm quần đảo Hoàng Sa nằm ở 15045’ đến 17015’ vĩ độ Bắc, 1110 đến 1130 kinh

độ Đông, cách đảo Lý Sơn (thuộc tỉnh Quảng Ngãi) khoảng 120 hải lý về phía Nam; với diện tích tự nhiên là 1.283,42 km2; trong đó, các quận nội thành chiếm diện tích 241,51 km2, các huyện ngoại thành chiếm diện tích 1.041,91 km2.

Thành phố Đà Nẵng - đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương bao

gồm 6 quận nội thành, 1 huyện ngoại thành và 1 huyện đảo. Cụ thể:

- Quận Hải Châu - quận trung tâm của thành phố Đà Nẵng với nhiều cơ

quan Nhà nước đóng trên địa bàn. Hải Châu là trung tâm hành chính, thương

mại, dịch vụ, du lịch của thành phố, tập trung đông dân cư.

- Quận Thanh Khê - có diện tích nhỏ nhất của thành phố. Hiện là đầu

mối giao thông liên vùng và quốc tế của thành phố Đà Nẵng. Là địa phương

có nhiều lợi thế trong phát triển thương mại, du lịch, dịch vụ, giao thông vận

tải và kinh tế biển.

- Quận Sơn Trà - có vị trí khá đặc biệt, phía Đông là bờ biển dài, đẹp

với nhiều bãi san hô lớn; phía Tây giáp với Sông Hàn; phía Bắc là Khu bảo

25

tồn thiên nhiên Sơn Trà và Cảng biển Tiên Sa đã mang lại cho quận một lợi

thế rất lớn trong phát triển du lịch dựa trên du lịch sinh thái và du lịch biển.

Là điểm cuối cùng ra biển của hành lang kinh tế Đông Tây, quận Sơn Trà có

lợi thế rất lớn trong phát triển thương mại và du lịch.

- Quận Ngũ Hành Sơn - nằm trên 2 tuyến đường giao thông chính

giữa thành phố Đà Nẵng và đô thị cổ Hội An (đường Ngũ Hành Sơn - Lê

Văn Hiến và đường Sơn Trà - Điện Ngọc) với danh thắng Ngũ Hành Sơn và

các bãi biển đẹp, là nơi lý tưởng để xây dựng các khu du lịch, các khách sạn

cao cấp. Trong tương lai, Làng Đại học Đà Nẵng sẽ được xây dựng trên địa

bàn quận với nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực cho cả khu vực miền Trung

và Tây Nguyên.

- Quận Liên Chiểu - ngăn cách với tỉnh Thừa Thiên - Huế bởi Đèo Hải

Vân. Nằm ven theo vịnh Đà Nẵng, với quốc lộ 1A đi ngang. Là địa phương

có điều kiện thuận lợi nhất về giao thông vận tải, vận tải du lịch của thành phố

trong tương lai khi Bến xe trung tâm, Nhà ga xe lửa, cảng biển Liên Chiểu và

các tuyến đường cao tốc, đường quốc lộ đều nằm trên địa bàn quận. Liên

Chiểu còn có các khu công nghiệp tập trung lớn của thành phố Đà Nẵng như

Khu công nghiệp Hòa Khánh, Khu công nghiệp Liên Chiểu.

- Quận Cẩm Lệ - quận mới trên địa bàn thành phố, với tổng diện tích tự

nhiên là 3.330 ha và 71.429 nhân khẩu; được thành lập vào ngày 29/8/2005

trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các xã Hòa Thọ Đông, Hòa

Thọ Tây, Hòa Phát, Hòa An, Hòa Xuân thuộc huyện Hòa Vang và toàn bộ

diện tích tự nhiên, dân số của phường Khuê Trung thuộc quận Hải Châu. Cẩm

Lệ là địa bàn trung chuyển của hoạt động du lịch sinh thái, văn hóa trên địa

bàn thành phố.

- Huyện Hòa Vang - huyện ngoại thành duy nhất của thành phố Đà

Nẵng. Các tuyến đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi, Quốc lộ 14B đều

chạy qua địa bàn huyện, tạo điều kiện rất tốt để cho huyện phát triển. Nền

nông nghiệp đang chuyển dần sang sản xuất hàng hóa với các sản phẩm có

26

chất lượng cao, giá trị thương mại lớn. Với các làng đồng bào dân tộc Cơtu,

khu du lịch nổi tiếng như Bà Nà - Suối Mơ, hồ Hòa Trung, Đồng Nghệ,...

huyện Hòa Vang còn có tiềm năng rất lớn trong việc phát triển du lịch sinh

thái và văn hóa. Đặc biệt, với trên 60% diện tích là rừng núi, ngoài nhiệm vụ

là lá phổi của thành phố Đà Nẵng, Hòa Vang còn là bức bình phong bảo vệ

thành phố Đà Nẵng khỏi sự tàn phá của thiên nhiên.

- Huyện đảo Hoàng Sa - một quần đảo san hô nằm cách thành phố Đà

Nẵng 170 hải lý (khoảng 315 km), bao gồm các đảo: đảo Hoàng Sa, đảo Đá

Bắc, đảo Hữu Nhật, đảo Đá Lồi, đảo Bạch Quy, đảo Tri Tôn, đảo Cây, đảo

Bắc, đảo Giữa, đảo Nam, đảo Phú Lâm, đảo Linh Côn, đảo Quang Hòa, Cồn

Bông Bay, Cồn Quan Sát, Cồn Cát Tây, Đá Chim Yến, Đá Tháp.

Đà Nẵng là trung điểm của 04 di sản văn hoá thế giới nổi tiếng là cố đô

Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn và Rừng quốc gia Phong Nha - Kẻ

Bàng. Trong phạm vi khu vực và quốc tế, Đà Nẵng là một trong những cửa

ngõ quan trọng ra biển của các nước Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma đến

các nước vùng Đông Bắc Á và thế giới, thông qua Hành lang kinh tế Đông

Tây với điểm kết thúc là Cảng biển Tiên Sa. [6].

Đà Nẵng hiện có đủ 4 loại đường giao thông thông dụng là: đường bộ,

đường sắt, đường biển và đường hàng không, trong đó:

- Tuyến đường bộ: Tổng số km đường trên địa bàn thành phố (không kể

các hẻm, kiệt và đường đất) là 382,583 km, trong đó: quốc lộ 70,865 km; tỉnh

lộ 99,716 km; đường huyện 67 km; đường nội thị 181,672 km.

- Tuyến đường sắt: Có chiều dài khoảng 30 km, với các ga Đà Nẵng,

Thanh Khê, Kim Liên, Hải Vân Nam. Trong đó, ga Đà Nẵng là một trong

những ga lớn của Việt Nam.

- Tuyến đường biển: Với 02 cảng là cảng Tiên Sa và cảng Sông Hàn nằm ở

vị trí khá thuận lợi đi đến hầu hết các cảng lớn của Việt Nam và trên thế giới.

- Tuyến hàng không: Sân bay hàng không quốc tế Đà Nẵng có diện tích

là 150 ha (diện tích cả khu vực là 842 ha), với 2 đường băng, mỗi đường dài

27

3.048m, rộng 45m. Hàng tuần, sân bay Đà Nẵng đón tiếp hơn 100 lượt

chuyến bay quốc tế và nội địa.

Toàn thành phố hiện có: 256.198 hộ; 1.088.505 nhân khẩu; 558.080 nhân

khẩu nữ; 823.462 nhân khẩu tuổi từ đủ 14 tuổi trở lên. Trong đó:

- Nhân khẩu thường trú: 232.961 hộ; 940.493 nhân khẩu; 478.593 nhân

khẩu nữ; 699.174 nhân khẩu từ đủ 14 tuổi trở lên. Trong đó, có: 11.434 hộ;

48.323 khẩu; 27.226 nữ; 37.147 nhân khẩu từ đủ 14 tuổi trở lên cư trú trên địa

bàn thành phố nhưng không đúng nơi đăng ký thường trú; có 1.813 hộ; 7.511

nhân khẩu, 4.300 nhân khẩu nữ, 6.417 nhân khẩu từ đủ 14 tuổi trở lên có hộ

khẩu thường trú tại địa thành phố nhưng hiện ở các tỉnh, thành phố khác.

- Nhân khẩu tạm trú: 42.829 hộ; 228.653 nhân khẩu; 124.850 nhân khẩu

nữ; 39.443 nhân khẩu từ đủ 14 tuổi trở lên. Trong đó tỉnh, thành phố khác

đến: 25.050 hộ; 155.523 nhân khẩu, 83.787 nhân khẩu nữ, 130.705 nhân khẩu

từ đủ 14 tuổi.

- Nhân khẩu lưu trú: 102.480 nhân khẩu (có 7,818 nhân khẩu lưu trú

trong hộ gia đình và 89.207 nhân khẩu lưu trú tại cơ sở cho thuê lưu trú);

46.269 nữ.

- Nhân khẩu tạm vắng: 928 nhân khẩu, có 295 nhân khẩu nữ.

Năm 2015 tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn Đà Nẵng ước đạt 45.885 tỷ

đồng, tăng 9,8% so với năm 2014. Các hoạt động thương mại, dịch vụ tiếp tục

phát triển; ước tính trong năm 2015 tổng lượng khách tham quan, du lịch tại

Đà Nẵng đạt 4,6 triệu lượt, tăng 20,5% so với năm 2014, trong đó khách quốc

tế ước đạt 1,25 triệu lượt, tăng 30,8%; tổng thu nhập xã hội từ hoạt động du

lịch ước đạt 12.700 tỷ đồng, tăng 28,7% so với năm 2014.

Cùng với dịch vụ, du lịch, sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành phố

được duy trì ổn định. Giá trị sản xuất công nghiệp trong năm ước đạt 41.500

tỷ đồng, tăng 11,3% so với năm 2014. Hoạt động xúc tiến đầu tư, phát triển

doanh nghiệp và các hoạt động đối ngoại tiếp tục được quan tâm. Tổng vốn

đầu tư phát triển trên địa bàn thành phố năm 2015 ước đạt 35.000 tỷ đồng,

28

tăng 6,8% so với cùng kỳ. Thu ngân sách Nhà nước đến 29/12/2015 là

14.691,5 tỷ đồng, đạt 121,4% dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao và

đạt 125,9% dự toán Trung ương giao. Các hoạt lĩnh vực quản lý quy hoạch,

đô thị, đầu tư - xây dựng cơ bản và tài nguyên môi trường được quan tâm

đầu tư. Thành phố tập trung khắc phục ô nhiễm ở các bãi biển, bãi tắm;

thanh tra, kiểm tra các đơn vị về lĩnh vực môi trường, khoáng sản, tài

nguyên nước, đất đai, đặc biệt tập trung chấn chỉnh các sai phạm liên quan

đến việc khai thác đất đá…

Về di tích lịch sử, danh lam, thắng cảnh Đà Nẵng sở hữu: Đình Quá

Giáng, đình Bồ Bản, đình Tuý Loan, di tích K20, bảo tàng điêu khắc Champa,

khu nghĩ dưỡng Bà Nà, đèo Hải Vân “thiên hạ đệ nhất hùng quan”, Sơn Trà –

Khu bảo tồn thiên nhiên thành phố, thắng cảnh Ngũ Hành Sơn, Nghĩa trũng

Phước Ninh, Nghĩa trũng Hoà Vang, nhà thờ Lớn, chùa Quan Thế Âm, chùa

Linh Ứng – Ngũ Hành Sơn, chùa Linh Ứng – Bà Nà núi Chúa, chùa Linh

Ứng – Sơn Trà, chùa Pháp Lâm,…

Với những điều kiện tự nhiên sẵn có, nhiều khu du lịch sinh thái, lịch sử,

danh lam thắng cảnh, Đà Nẵng là điểm đến lý tưởng của hàng triệu du khách

trong và ngoài nước và đây cũng chính là “miếng đất màu mỡ” cho các đối

tượng lợi dụng hoạt động phạm tội nói chung, phạm tội cướp giật tài sản nói

riêng, làm cho tình hình ANTT thêm phức tạp.

Bên cạnh đó, với đặc điểm xã hội như việc mất cảnh giác trong việc tự

bảo vệ tài sản của các du khách, người dân khi lưu thông trên đường phố, việc

phô trương, khoe khoang tài sản, mang nhiều đồ trang sức, thản nhiên nghe

điện thoại di động khi tham gia giao thông, để túi xách đựng tiền, vàng... trên

giỏ xe hoặc cầm nắm, đeo ở vai khi vừa bước xuống xe ôtô,.. là điều kiện

thuận lợi cho hoạt động của tội cướp giật tài sản nói chung và nói riêng;

không ít người bị hại là du khách, người dân sau khi bị cướp giật đã thiếu tin

tưởng vào cơ quan Công an, ngại rắc rối mà không khai báo, thiếu tinh thần

đấu tranh phòng, chống tội phạm khi nghe tri hô “cướp, cướp...” vẫn thờ ơ

29

không hề có biện pháp nào hỗ trợ nạn nhân truy bắt tội phạm, họ sợ bị liên

lụy, bị thương, bị trả thù, sợ tốn thời gian, công sức..., thậm chí, họ còn cho

rằng trách nhiệm bảo vệ tài sản công dân thuộc về cơ quan Công an, truy bắt

tội cướp giật tài sản là công việc của riêng lực lượng Công an, điều này chẳng

những tạo điều kiện cho tội cướp giật tiếp tục hoạt động mà còn gây khó khăn

cho công tác điều tra.

Như vậy, vị trí địa lý, tình hình dân cư, đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội

và ý thức của người dân, du khách trong việc bảo vệ tài sản có ảnh hưởng đến

tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Qua nghiên

cứu những ảnh hưởng đó, giúp cho các lực lượng Công an thành phố Đà Nẵng

có được cơ sở để khai thác những điều kiện thuận lợi phục vụ cho công tác

phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản , làm hạn chế đến mức thấp nhất

những nhân tố gây khó khăn cản trở hoạt động này.

2.1.2. Tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Trong những năm qua (từ năm 2014 đến 06 tháng đầu năm 2019), tình

hình phạm pháp hình sự trên địa bàn thành phố Đà Nẵng diễn biến phức

tạp, có chiều hướng gia tăng [Xem Bảng 2.1 và Biểu đồ 2.1 phần phụ lục].

Trên lĩnh vực hình sự, tội phạm xâm hại tài sản chiếm tỷ lệ cao trong cơ

cấu tội phạm [Xem Bảng 2.2 và Biểu đồ 2.2 phần phụ lục], phương thức

hoạt động của các loại tội phạm ngày càng tinh vi, liều lĩnh, tập trung vào

nhóm tội phạm: cướp, cướp giật, trộm cắp, nổi lên là tình trạng cướp giật

tài sản, nhất là cướp giật tài sản của khách du lịch, người dân [Xem Bảng

2.3 và Biểu đồ 2.3 phần phụ lục]; trộm cắp “vặt” trong các khu dân cư, nhà

trọ,… Tội phạm giết người chủ yếu do nguyên nhân xã hội, nổi lên là mâu

thuẫn trong quan hệ tình cảm nam nữ có xu hướng gia tăng. Các hành vi cố

ý gây thương tích, đòi nợ thuê, bảo kê, bắt giữ người trái pháp luật, cưỡng

đoạt tài sản ... được kiềm chế, không để tội phạm lộng hành, hoạt động

theo kiểu “xã hội đen”. Tình hình tệ nạn xã hội được kiềm chế, đẩy lùi, đã

tập trung đấu tranh, phát hiện, xử lý nhiều vụ đánh bạc, số đề, cá độ bóng

30

đá qua mạng...; tệ nạn mại dâm có phức tạp hơn do bất cập của pháp luật

trong việc quản lý, xử lý số đối tượng hành nghề mại dâm nhưng vẫn trong

tầm kiểm soát của các cơ quan chức năng.

Qua phân tích, tổng hợp số liệu thống kê số vụ cướp giật tài sản trên địa

bàn thành phố Đà Nẵng [Xem Bảng 2.3 và Biểu đồ 2.3 phần phụ lục] cho thấy

tình hình tội phạm cướp giật tài sản có diễn biến khó lường, phức tạp cả về số

vụ và tính chất mức độ nguy hiểm lúc tăng, lúc giảm.

Tội cướp giật hoạt động hầu hết ở các địa bàn của thành phố, trong đó

tập trung ở địa bàn trung tâm thành phố, các khu du lịch, đông dân cư, nhiều

khách du lịch như Hải Châu 62 vụ (chiếm 24,51%), Thanh Khê 44 vụ (chiếm

17,39%), Sơn Trà 41 vụ (chiếm 16,21%) [Xem Bảng 2.4 và Biểu đồ 2.4 phần

phụ lục].

Thời gian gây án của tội cướp giật tài sản tại không phân biệt ngày hay

đêm [Xem Bảng 2.5 và Biểu đồ 2.5 phần phụ lục], khi xuất hiện mục tiêu và

điều kiện thuận lợi các đối tượng sẽ thực hiện hành vi phạm tội.

Trước đây, đối tượng cướp giật thường thực hiện hành vi theo nhóm

gồm 2 người, nhưng thời gian gần đây, xảy ra rất nhiều vụ đối tượng thực

hiện tội phạm một mình (chiếm 6,72% tổng số vụ). Điều này cho thấy tội

phạm rất liều lĩnh và chuyên nghiệp, thực hiện hành vi nhanh, gọn, chính xác

và tẩu thoát nhanh chóng, không cần đối tượng khác hỗ trợ [Xem Bảng 2.6 và

Biểu đồ 2.6 phần phụ lục].

Hiện nay các đối tượng hoạt động phạm tội có xu hướng nhắm đến các

nạn nhân là những người đi bộ trong khu dân cư, những người đang mua, bán

hàng, nạn nhân đi ô tô xuống xe, khách du lịch đang đi bộ,... [Xem Bảng 2.7

và Biểu đồ 2.7 phần phụ lục]. Những nạn nhân này thường không phản ứng

kịp để đối phó với hành vi cướp giật, không có sẵn phương tiện để kịp thời

đuổi bắt.

Tài sản thiệt hại chủ yếu vẫn là những tài sản nhỏ gọn, có giá trị kinh tế

cao [Xem Bảng 2.8 và Biểu đồ 2.8 phần phụ lục] cho thấy ý thức bảo vệ tài

31

sản của người dân còn chưa cao, để tài sản hớ hênh, tạo điều kiện cho đối

tượng phạm tội.

Từ những phân tích trên cho thấy, tội cướp giật hoạt động bất kể địa bàn,

thời gian, các đối tượng len lỏi vào tất cả các khu dân cư để thực hiện hành vi

phạm tội, gây bức xúc dư luận và trong nhân.

2.1.3. Đặc điểm nhân thân của tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành

phố Đà Nẵng

Đặc điểm nhân thân của tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà

Nẵng là hệ thống các thông tin phản ánh những thuộc tính, những đặc điểm cơ

bản nhất của tội phạm. Vì vậy, khi phòng ngừa loại tội phạm này đòi hỏi phải

nghiên cứu nắm vững nội dung từng đặc điểm, thấy được mối quan hệ giữa

các đặc điểm đó với nhau từ đó rút ra ý nghĩa thực tiễn phục vụ cho công tác

phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.

2.1.3.1. Đặc điểm nhân thân của tội phạm cướp giật tài sản

Đặc điểm nhân thân của tội phạm cướp giật tài sản những đặc điểm về

dấu hiệu cá nhân của con người thực hiện hành vi phạm tội cướp giật tài sản,

như độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tiền án, tiền sự... Thông qua việc nghiên

cứu về nhân thân người phạm tội để nắm rõ thực chất về hoàn cảnh, thái độ

tâm lý, tình cảm của họ đối với các giá trị xã hội, đối với pháp luật. Trên cơ

sở đó, tìm hiểu về nguyên nhân, điều kiện của tội cướp giật tài sản và đề xuất

các giải pháp phòng ngừa có hiệu quả đối với loại tội phạm này.

Qua nghiên cứu khảo sát đặc điểm nhân thân của 258 đối tượng phạm tội

cướp giật tài sản trong thời gian từ năm 2014 đến 06 tháng đầu năm 2019

[Xem bảng 2.9 và Biểu đồ 2.9 phần phụ lục] rút ra một số đặc điểm sau:

- Về giới tính

Qua nghiên cứu khảo sát 156 vụ án cướp giật tài sản thì số đối tượng là

nam giới chiếm tỉ lệ cao 151/156 vụ (chiếm 96,79%), số đối tượng là nữ giới

(04 đối tượng, chiếm 4,21%) chiếm tỉ lệ thấp (04 vụ chiếm 2,56%). Tất cả

bốn đối tượng là nữ tham gia thực hiện các vụ cướp giật tài sản chỉ giữ vai trò

32

cản địa, quản lý, tiêu thụ các tài sản chiếm đoạt được trong các băng, nhóm

cướp giật do đối tượng là nam giới cầm đầu.

Như vậy, nam giới chiếm tỉ lệ cao hơn nữ giới trong cơ cấu tội cướp giật

tài sản. Do đó, khi tiến hành các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật

tài sản cần chú ý tập trung vào các đối tượng là nam.

- Về độ tuổi

Người phạm tội trong các vụ án cướp giật tài sản đã xảy ra chủ yếu ở độ

tuổi từ 18 tuổi đến 30 tuổi (chiếm 77,91%). Cụ thể:

+ Dưới 16 tuổi: 02 người, tỷ lệ 0,78%;

+ Từ 16 đến 18 tuổi: 37 người, tỉ lệ 14,34%;

+ Từ 18 đến 30 tuổi: 201 người, tỉ lệ 77,91%;

+ Trên 30 tuổi: 18 người, tỉ lệ 6,97%.

Như vậy, đối tượng phạm tội cướp giật chủ yếu ở độ tuổi thanh thiếu

niên, tức từ 18 đến 30 tuổi (chiếm 77,91%) và dưới 18 tuổi (chiếm 15,12%).

Các đối tượng ở độ tuổi này để những nhu cầu thấp hèn vị kỷ, tiêu cực chệch

hướng với giá trị chuẩn mực của xã hội định hướng nên đã đi vào con đường

phạm tội. Do đó khi tiến hành các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp

giật cần chú ý tập trung vào các đối tượng ở lứa tuổi thanh thiếu niên.

- Về trình độ học vấn

Trình độ học vấn có ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách, lý trí,

cách ứng xử của con người khi họ tham gia vào các quan hệ xã hội. Trình độ

học vấn của tội phạm cướp giật tài sản tại có tác động mạnh đến nhận thức,

động cơ, thủ đoạn thực hiện hành vi cướp giật. Trong đó, số đối tượng không

đi học: 06 người (tỷ lệ 2,33%); đối tượng có trình độ học vấn tiểu học: 38

người (tỷ lệ 14,73%); đối tượng có trình độ học vấn trung học cơ sở: 155

người (tỷ lệ 60,07%); đối tượng có trình độ học vấn trung học phổ thông: 57

người (tỷ lệ 22,09%); đối tượng có trình độ học vấn cao đẳng - đại học: 02

người (tỷ lệ 0,78%).

Như vậy, đa số đối tượng phạm tội cướp giật tài sản có trình độ học vấn

33

không cao (từ lớp 9 trở xuống chiếm tỉ lệ 77,13%).

- Về nghề nghiệp

Số đối tượng không có nghề nghiệp và có nghề nghiệp nhưng không ổn

định phạm tội cướp giật tài sản chiếm tỉ lệ cao, cụ thể:

+ Số đối tượng không nghề nghiệp: 143 người (tỷ lệ 55,43%);

+ Số đối tượng có nghề nghiệp nhưng không ổn định: 56 người (tỷ lệ

21,71%);

+ Số đối tượng có nghề nghiệp ổn định: 22 người (tỷ lệ 8,52%);

+ Số đối tượng là học sinh, sinh viên: 37 người (tỷ lệ 14,34%).

Như vậy, nghề nghiệp cũng có ảnh hưởng đến khả năng phạm tội, bởi vì,

một trong nguyên nhân dẫn đến việc phạm tội là do thu nhập thấp, không ổn

định hoặc không có việc làm, lại có nhu cầu tiêu xài, có những đòi hỏi về vật

chất lớn hoặc khi việc làm không ổn định, còn nhiều thời gian nhàn rỗi, bị bạn

bè xấu rủ rê, lôi kéo nên nhiều đối tượng đã tìm đến con đường phạm tội cướp

giật. Đáng báo động là tình trạng sinh viên, học sinh tham gia cướp giật tài

sản có chiều hướng gia tăng.

- Về nơi cư trú

Tội phạm cướp giật tài sản hầu hết là người có hộ khẩu trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng, cụ thể:

+ Đối tượng có hộ khẩu trên địa bàn Đà Nẵng: 202 người, tỉ lệ 78,29%;

+ Đối tượng ngoại tỉnh: 56 người, tỉ lệ 21,71%;

Như vậy, đối tượng gây án cướp giật chủ yếu là người địa phương, tuy

nhiên trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội các đối tượng có sự di

chuyển từ phường này sang phường khác, quận này sang quận khác và điểm

đến thường là các nơi tập trung đông người với nhiều tài sản có giá trị. Các

đối tượng từ ngoại tỉnh chủ yếu vẫn là Quảng Nam, Quảng Ngãi, Gia Lai,

Kontum, tuy chiếm số lượng nhỏ nhưng thủ đoạn gây án cũng hết sức táo bạo,

liều lĩnh và di chuyển về lại địa phương ngay sau khi gây án, gây nhiều khó

khăn cho hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý.

34

- Về tiền án, tiền sự

Tội phạm cướp giật tại phần lớn là đối tượng phạm tội lần đầu, cụ thể:

+ Đối tượng có tiền án, tiền sự: 42 người, tỷ lệ 16,28%;

+ Đối tượng phạm tội lần đầu: 216 người, tỷ lệ 83,72%.

Tuy hầu hết đối tượng gây án cướp giật tài sản là phạm tội lần đầu,

nhưng trong nhiều trường hợp đối tượng lại gây án liên tục, thường xuyên

thay đổi địa bàn, thời điểm gây án, gây nhiều khó khăn cho động phòng ngừa,

đấu tranh, làm rõ. Số đối tượng gây án đã có tiền án, tiền sự khi thực hiện

hành vi phạm tội có sự chuẩn bị trước, nghiên cứu cụ thể đặc điểm địa bàn,

tuyến, khu dân cư để chuẩn bị gây án, khi bị phát hiện, bắt giữ khai báo nhỏ

giọt, luôn quanh co chối tội.

- Về đặc điểm tâm lý của tội phạm cướp giật tài sản

Tội phạm cướp giật tài sản chủ yếu là thanh thiếu niên, đều đang ở độ

tuổi rất trẻ, sung mãn về sức lực, tính khí nóng nảy, cộc cằn. Còn đối với

những đối tượng cướp giật chuyên nghiệp thì hết sức lỳ lợm, ngang ngạnh,

thực hiện hành vi phạm tội với thủ đoạn táo bạo, liều lĩnh, trắng trợn. Tội

cướp giật nhận thức về pháp luật cũng như những giá trị chuẩn mực đạo đức

xã hội rất thấp, coi thường mọi người, chây lười lao động nhưng lại thích ăn

chơi, dễ tiêm nhiễm những thói hư tật xấu.

- Về hoàn cảnh gia đình

Gia đình có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành nhân cách của con người.

Vì vậy, khi gia đình có cấu trúc không bền vững như thiếu bố, thiếu mẹ, hoặc

thiếu cả bố lẫn mẹ, bố mẹ ly dị, gia đình khó khăn túng quẫn, gia đình có các

thành viên phạm tội hình sự, tệ nạn xã hội… là những môi trường thuận lợi

tạo điều kiện cho cá nhân hình thành và phát triển nét tâm lý tiêu cực, nhân

sinh quan chệch hướng những chuẩn mực đạo đức xã hội và một trong những

biểu hiện ra bên ngoài là con đường phạm tội. Cá biệt, cũng có đối tượng

phạm tội xuất phát từ gia đình khá giả, gia đình cán bộ nhưng lại thiếu sự

quản lý, quan tâm đúng mức đến việc giáo dục con cái.

35

Qua phân tích đặc điểm nhân thân của tội phạm cướp giật tài sản cho

thấy, đối tượng phạm tội cướp giật phần lớn là những thanh thiếu niên, người

đang trong độ tuổi khỏe mạnh nhưng chây lười lao động, nghiện hút ma túy,

ăn chơi trác táng, không nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn định, cũng

có những đối tượng phạm tội lần đầu nhưng thủ đoạn gây án rất chuyên

nghiệp và gây án hàng loạt. Các đối tượng phạm tội cướp giật có tính cách

manh động, hành động liều lĩnh, sử dụng thành thạo phương tiện giao thông

có tốc độ cao, thông thuộc địa bàn gây án. Nắm vững đầy đủ các đặc điểm

nhân thân của tội phạm cướp giật có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đề ra

các giải pháp phòng ngừa để góp phần ngăn chặn tình trạng phạm pháp trong

giai đoạn hiện nay.

2.1.3.2. Đặc điểm về thời gian, địa điểm gây án

Thời gian và địa điểm gây án của tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ với

nhau, tùy từng địa điểm gây án cụ thể mà đối tượng lựa chọn thời gian gây án

thích hợp, ngược lại, tùy thuộc vào thời gian gây án đã lựa chọn mà đối tượng

tính toán gây án ở những địa điểm phù hợp. Tuy nhiên, trong nhiều trường

hợp nếu gặp điều kiện thuận lợi thì đối tượng sẽ gây án ngay.

Qua nghiên cứu 156 vụ án cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà

Nẵng cho thấy, đối tượng gây án không cố định vào một khung thời gian

nhất định, đối tượng có thể hành động khi thấy có điều kiện, cơ hội thuận

lợi, cụ thể:

- Từ 06h đến10h: 22 vụ, tỷ lệ 14,1%;

- Từ 10h đến 14h: 35 vụ, tỷ lệ 22,43%;

- Từ 14h đến 19h: 26 vụ, tỷ lệ 16,67%;

- Từ 19h đến 22h: 48 vụ, tỷ lệ 30,77%;

- Từ 22h đến 06h: 25 vụ, tỷ lệ 16,03%;

Tuy nhiên khoảng thời gian mà tội cướp giật gây án nhiều nhất là

khoảng thời gian từ 10 giờ đến 22giờ (109/156 vụ, tỉ lệ 69,87%).

Về địa điểm gây án, tội phạm cướp giật thường thực hiện ở các tuyến

36

đường tập trung đông đúc, nhiều người dân và du khách, thông thường tại các

khu vực du lịch dịch vụ như mua sắm, ăn uống,… du khách và người dân

thường xuyên qua lại như địa bàn Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành

Sơn chiếm 69,17% (175/253 vụ).

Như vậy, tội cướp giật thường chọn những địa bàn, tuyến, khu vực có

đông dân cư, cơ sở lưu trú, dịch vụ du lịch để thực hiện hành vi phạm tội. Các

khu vực ở nông thôn, miền núi thì số vụ cướp giật ít hơn rất nhiều, thậm chí

không xảy ra cướp giật.

2.1.3.3. Đặc điểm về nạn nhân của vụ án cướp giật tài sản

Nạn nhân của vụ án cướp giật tài sản tại thường là người mang theo tài

sản gọn nhẹ, có giá trị, như dây chuyền vàng, điện thoại di động, giỏ xách...

nhưng sơ hở, dễ phát hiện, dễ thấy lại thiếu tinh thần cảnh giác trong việc quản

lý tài sản của mình nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng thực hiện

hành vi phạm tội. Khi bị cướp giật tài sản, nạn nhân thường hoang mang,

hoảng hốt tinh thần nhưng ít nhiều trong tâm trí họ vẫn còn lưu lại thông tin về

đối tượng gây án, chẳng hạn: đặc điểm nhận dạng (dáng người, đầu tóc, quần

áo), loại phương tiện được sử dụng để gây án, biển kiểm soát... và thậm chí có

trường hợp dũng cảm truy đuổi đối tượng thực hiện hành vi cướp giật. Nghiên

cứu 156 vụ án cướp giật tài sản xảy ra thì nạn nhân là nữ là chính, cụ thể:

- Nạn nhân là nữ: 118 vụ, tỷ lệ 75,64%;

- Nạn nhân là nam: 25 vụ, tỉ lệ 16,03%;

- Nạn nhân là nam chở nữ: 13 vụ, tỷ lệ 8,33%;

- Nạn nhân là người nước ngoài: 15 vụ, tỷ lệ 9,62% (trong đó nam là 04

người, nữ là 11 người).

Các đối tượng cướp giật tài sản thường chọn nạn nhân là nữ vì nắm được

đặc điểm tâm lý khi bị cướp giật tài sản, nữ giới tỏ ra hốt hoảng, hoang mang

và ít chống trả, ít truy đuổi hơn nam giới.

Tất cả các nạn nhân là người nước ngoài trong các vụ án cướp giật tài

sản là các du khách đến Đà Nẵng để tham quan du lịch là chủ yếu nên họ

37

thường mang tài sản đựng trong giỏ xách gọn nhẹ để dễ đi lại, di chuyển. Tuy

nhiên, họ cũng chủ quan, sơ hở trong việc bảo vệ tài sản của mình như để giỏ

xách ở baga xe đạp, đeo ở vai, vả lại họ không rành đường đi lại, bất đồng

ngôn ngữ không thể trình báo, không thể kêu cứu nên đã bị các đối tượng triệt

để lợi dụng để cướp giật tài sản.

Khi bị cướp giật tài sản, nhiều nạn nhân không tin tưởng vào cơ quan

chức năng hoặc do giá trị tài sản ít, sợ mất thời gian hoặc trường hợp nạn

nhân là người nước ngoài vì bất đồng ngôn ngữ, không rành đường nên đã

không đến trình báo cơ quan chức năng vì vậy đã gây khó khăn cho công tác

xử lý, góp phần làm tăng tội phạm ẩn trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Như vậy, nạn nhân của vụ án cướp giật trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

là người Việt Nam và cả người nước ngoài, phần lớn là nữ giới, thường mang

trên người những tài sản gọn nhẹ và sơ hở trong việc quản lý tài sản, tạo điều

kiện cho các đối tượng thực hiện hành vi cướp giật, cá biệt có một số trường

hợp sau khi bị cướp giật các nạn nhân không trình báo với cơ quan chức năng.

2.1.3.4. Đặc điểm về tài sản bị chiếm đoạt

Tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ cướp giật trên địa bàn thành phố Đà

Nẵng thường là những tài sản gọn nhẹ, có giá trị như giỏ xách, điện thoại di

động, dây chuyền vàng, máy ảnh kỹ thuật số và một số loại khác như thẻ tín

dụng, giấy tờ, kính đeo mắt.... Qua nghiên cứu khảo sát 156 vụ cướp giật tài

sản thì số tài sản bị cướp giật bao gồm:

- Túi xách: 85 vụ, tỷ lệ 54,48%;

- Điện thoại di động: 26 vụ, tỷ lệ 16,67%;

- Dây chuyền vàng: 29 vụ, tỷ lệ 18,59%;

- Laptop, máy ảnh: 16 vụ, tỷ lệ 10,26%;

Đối tượng cướp giật tài sản nhằm vào những tài sản gọn nhẹ để dễ dàng

giật lấy, dễ dàng tẩu thoát và tài sản cướp giật được lại dễ cất giấu, dễ tiêu thụ.

Nắm được đặc điểm tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ án cướp giật tài

sản có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tuyên truyền cho mọi người biện

38

pháp phòng ngừa, quản lý tài sản.

2.1.3.5. Hậu quả do tội cướp giật tài sản gây ra

Tội cướp giật tài sản không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu riêng của

công dân, làm cho nạn nhân rơi vào trạng thái hoang mang mà còn gây ra tâm

lý hoang mang cho quần chúng nhân dân, nhất là người nước ngoài đang

sống, làm việc và tham quan du lịch trên địa bàn, góp phần ảnh hưởng không

nhỏ đến tình hình TTATXH, môi trường du lịch của thành phố.

Nghiêm trọng hơn, các đối tượng cướp giật tài sản khi thực hiện hành vi

phạm tội thường liều lĩnh, táo bạo và kiên quyết thực hiện đến cùng nên bất

chấp cả tính mạng của nạn nhân, thậm chí sẵn sàng chống trả quyết liệt nếu bị

truy đuổi, gây thương tích nặng cho lực lượng truy đuổi hòng tẩu thoát bằng

cách đạp ngã xe của nạn nhân, của lực lượng truy đuổi, hoặc dùng dao, vật

nhọn để đâm...

2.1.3.6. Thủ đoạn phạm tội cướp giật

Tội cướp giật tài sản thường được thực hiện thông qua 3 giai đoạn:

- Giai đoạn chuẩn bị gây án

Đây là hoạt động đầu tiên phục vụ cho quá trình gây án được trót lọt, ở

giai đoạn này người thực hiện hành vi phạm tội thường thực hiện một số nội

dung sau:

Một là, thăm dò nắm tình hình về đối tượng hoặc diện đối tượng mà

chúng chuẩn bị cướp giật như phát hiện những người mang tài sản hay đồ

trang sức có giá trị, quan sát xác định những điểm sơ hở của người mang tài

sản. Đây là thủ đoạn phổ biến nhất của băng, nhóm cướp giật tài sản thường

vận dụng để thực hiện hành vi phạm tội.

Hai là, trước khi gây án chúng thường nghiên cứu kỹ địa bàn, tuyến, khu

dân cư mà chúng sẽ gây án và xác định từng khoảng thời gian nhất định để

thuận lợi cho việc gây án, mặc dù thời gian gây án của đối tượng cướp giật

không cố định vào một khoảng thời gian nhất định, đối tượng có thể hành

động khi thấy có điều kiện, cơ hội thuận lợi. Tuy nhiên, khoảng thời gian mà

39

tội cướp giật gây án nhiều nhất là khoảng thời gian từ 10giờ đến 22giờ

(109/156 vụ, tỉ lệ 69,87%).

Ba là, cùng với nội dung trên là quá trình chuẩn bị phương tiện, hung khí

gây án, như xe máy phải chuẩn bị loại nào, có khác biệt với loại xe lưu thông

thông thường hay không, có bảo đảm để gây án được thuận lợi hay không. Đa

số các đối tượng sử dụng xe máy có phân khối lớn và thường là xe mang biển

số giả, hoặc làm cho mờ biển số, bẻ cong biển số. Hung khí chuẩn bị mang

trong người thường là lưỡi lê, dao găm, kéo,... nhằm mục đích nếu bị truy

đuổi sẽ chống trả quyết liệt để tìm đường tẩu thoát. Cùng với sự chuẩn bị

công cụ, phương tiện để gây án chúng còn chuẩn bị cả nơi tiêu thụ tài sản và

nơi ẩn náu sau khi gây án.

Ngoài các nội dung trên, trước khi gây án, nếu có từ 02 đối tượng trở lên

bao giờ chúng cũng có sự bàn bạc kỹ lưỡng trong việc phân công vai trò, vị trí

của từng tên, tên chuyên điều khiển phương tiện, tên chuyên thực hiện hành vi

cướp giật, hay tên cản đường..., dự định thời gian, địa điểm, các phương án,

phương thức, thủ đoạn và cách đối phó, khai báo với cơ quan Công an khi bị

bắt giữ. Đặc biệt hiện nay, trước khi gây án các đối tượng thường tụ tập bàn

bạc kế hoạch gây án nhưng không cho biết chỗ ở, nơi trọ của nhau, để đề

phòng khi bị bắt không thể khai báo được nơi ở của đồng bọn.

Như vậy, quá trình chuẩn bị gây án là một hoạt động thường có ở tội

cướp giật, song hầu hết các vụ cướp giật xảy ra đối tượng phạm tội đều là

những tên đã có sẵn ý định phạm tội, vì thế, khi phát hiện cơ hội thuận lợi là

gây án ngay.

- Giai đoạn tiến hành gây án

Đây là giai đoạn người phạm tội thực hiện hành vi cướp giật. Khi xác

định được đối tượng để gây án, chúng tìm mọi cách tiếp cận rồi nhanh chóng

giật lấy tài sản trên người nạn nhân rồi tẩu thoát.

Ở giai đoạn này, thủ đoạn được thể hiện như sau:

+ Gây án sau khi quan sát, theo dõi đối tượng

40

Các đối tượng thường có mặt ở những địa điểm nhất định để quan sát,

theo dõi những người ra vào có mang theo túi xách…, khi xác định được mục

tiêu gây án là chúng cho xe bám theo nạn nhân tới những địa điểm thuận lợi

như chỗ đường giao nhau, chỗ đường rộng, đường giáp ranh, lúc này tên cầm

lái cho xe ép sát vào xe nạn nhân, đồng thời tên ngồi sau nhanh chóng giật tài

sản của nạn nhân, ngay lập tức tên cầm lái tăng tốc độ để tẩu thoát. Thời gian

hành động xảy ra rất nhanh “trong nháy mắt” nên khi nạn nhân phát hiện

mình bị giật tài sản thì đối tượng đã chạy khá xa, hoặc là vào các ngõ hẻm

khác, hoặc trà trộn vào dòng người lưu thông trên đường, nạn nhân không kịp

tri hô và quan sát kịp biển số xe của chúng. Qua nghiên cứu 156 vụ thì có 16

vụ đối tượng dùng thủ đoạn này (chiếm tỉ lệ 13,44%).

+ Các đối tượng cướp giật tài sản đi dạo chơi trên các tuyến đường khi

thấy thuận lợi sẽ thực hiện hành vi cướp giật. Thủ đoạn này thường thể hiện

qua các trường hợp sau:

* Thứ nhất, vụ án cướp giật chỉ có 01 đối tượng

Đối tượng gây án đi bộ hoặc đi xe máy một mình giả vờ như người dân

thường nhưng đối tượng có sự quan sát, theo dõi nạn nhân, lợi dụng sự lơ là,

mất cảnh giác của họ nhanh chóng giật lấy tài sản rồi tẩu thoát. Nghiên cứu

156 vụ thì có 76 vụ đối tượng dùng thủ đoạn này (tỉ lệ 48,72%).

* Thứ hai, trường hợp gây án có từ hai đối tượng trở lên

Các đối tượng sử dụng xe máy, khi phát hiện nạn nhân đi bộ có mang

theo tài sản, một đối tượng xuống đi bộ để bám theo, tiếp cận nạn nhân khi

thấy thời cơ thuận lợi nhanh chóng thực hiện hành vi giật lấy tài sản và chạy

ra lên xe đồng bọn đang nổ máy chờ sẵn để tẩu thoát. Thủ đoạn này thường

xảy ra tại các khu vực đông người, những tuyến du lịch bộ như Võ Nguyên

Giáp, Hoàng Sa, Trường Sa,…Hay với thủ đoạn vừa chạy xe vừa quan sát,

khi phát hiện tài sản nạn nhân mang theo có thể thuận lợi cho việc cướp giật

thì tiến hành giật ngay; hoặc cho xe máy bám theo, đến địa điểm thuận lợi thì

nhanh chóng giật lấy tài sản rồi tẩu thoát. Nghiên cứu 156 vụ thì có 80 vụ đối

41

tượng dùng thủ đoạn này (tỉ lệ 51,28%).

Phương tiện mà đối tượng cướp giật thường sử dụng là những loại xe

máy có phân khối 100cc trở lên như các loại xe Exciter, Sirus, Airblade,

Wave,…, được tháo biển số, biển số giả, làm mờ biển số, bẻ cong biển số

hoặc dùng băng keo dán sửa biển số, hoặc dùng cành cây để che biển số.

Những phương tiện này là của mình, thuê của người khác, hay xe mượn của

gia đình, bạn bè. Nếu nạn nhân và người đi đường có phản ứng tri hô và đuổi

theo thì đồng bọn của chúng đi trên các xe phía sau sẽ tìm mọi cách ngăn cản,

gây khó khăn cho nạn nhân bằng các thủ đoạn như giả vờ hỏi thăm chuyện gì

nhằm trì hoãn đánh lạc hướng hay lạng lách cản đường chèn ép xe nạn nhân,

hoặc sẵn sàng chống trả quyết liệt lực lượng truy đuổi để tẩu thoát bằng các

loại vũ khí thô sơ như dao thái lan, ná thun, đá nhỏ...

- Giai đoạn sau khi gây án

Nhanh chóng là dấu hiệu phản ánh thủ đoạn của người phạm tội. Chúng

nhanh chóng tiếp cận tài sản, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng

tẩu thoát. Vì thế, sau khi gây án, tội cướp giật nhanh chóng rút khỏi hiện

trường nhằm tránh sự phát hiện, truy bắt của quần chúng nhân dân và lực

lượng chức năng.

Tài sản mà các đối tượng cướp giật tập trung chiếm đoạt thường gọn nhẹ,

có giá trị, vừa dễ chiếm đoạt, dễ cất giấu, dễ sử dụng và dễ tiêu thụ như tiền, giỏ

xách đựng tiền, vàng, đôla, đồ trang sức như dây chuyền, vòng vàng, ngọc trai,

điện thoại di động... Qua nghiên cứu 156 vụ cướp giật , có 65 vụ tài sản bị cướp

giật là túi xách, 46 vụ là điện thoại di động, 29 vụ là dây chuyền vàng, 16 vụ là

laptop, máy ảnh. Thông thường, sau khi đạt được mục đích gây án là chiếm đoạt

được tài sản, các đối tượng cướp giật thường sử dụng (như tiền, đôla, điện thoại)

hoặc mang đi tiêu thụ, bán để lấy tiền tiêu xài, ăn chơi, hút chích, cờ bạc (dây

chuyền vàng, laptop, máy ảnh...). Đối với những vụ cướp giật tài sản là túi xách,

sau khi lấy hết tài sản có giá trị trong túi xách của nạn nhân thì đối tượng vứt lại

túi xách đựng những thứ lặt vặt, những vật dụng không có giá trị (mỹ phẩm,

42

gương, lược..), bóp ví đựng tiền, giấy tờ tùy thân tại các địa điểm như dưới chân

cầu, trong các thùng rác... hoặc đốt túi xách để phi tang.

Những nơi mà các đối tượng phạm tội cướp giật nhằm vào tiêu thụ tài sản

thường được tính toán cân nhắc vì chúng biết được quy luật phát hiện của Công

an thông qua việc phát hiện tài sản mà tội phạm mang đi tiêu thụ. Vì vậy, đa số

các đối tượng này có những cơ sở tiêu thụ riêng, thậm chí có những tên còn móc

nối trước khi gây án để tìm những cơ sở chuyên tiêu thụ cho chúng.

Tuy nhiên, có nhiều trường hợp sau khi gây án xong đối tượng không

mang tài sản đi bán ngay mà chờ một thời gian để nghe ngóng tình hình động

tĩnh, dò xét sự điều tra của cơ quan Công an, nếu thấy động, có biểu hiện

không bình thường thì các đối tượng mang cất giấu hoặc gửi nhà người quen,

bạn bè sau đó mới mang đi tiêu thụ. Ngoài ra, do nhu cầu cần tiền để tiêu xài,

ăn chơi, hút chích ma túy nên đa số đối tượng sau khi giật được tài sản thì

mang đi bán ngay, tiêu thụ ngay mà không cần phải lựa chọn nơi tiêu thụ nhất

định, không để ý đến việc truy tìm, điều tra của cơ quan Công an.

Tóm lại, qua thủ đoạn gây án và che giấu tội phạm của tội cướp giật tài

sản địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua cho thấy các đối tượng

thường sử dụng xe máy phân khối lớn, làm thay đổi biển số thật, gây án từ 02

đối tượng trở lên, có sự phân công vai trò, vị trí của từng tên. Sau khi phát

hiện được mục tiêu gây án, chúng quan sát sơ hở của nạn nhân rồi thực hiện

hành vi cướp giật và nhanh chóng tẩu thoát. Trong trường hợp gây án mà bị

quần chúng nhân dân phát hiện truy đuổi thì đối tượng sẵn sàng chống trả

quyết liệt bằng hung khí hòng tẩu thoát hoặc giải cứu cho đồng bọn. Sau khi

gây án hoặc là ngay lập tức tìm nơi tiêu thụ tài sản cướp giật được để lấy tiền

mua ma túy sử dụng, ăn chơi, cờ bạc, bao gái tại các nhà hàng, khách sạn, vũ

trường, quán bar hoặc là chờ thời cơ thuận lợi để tiêu thụ tài sản.

2.1.4. Nguyên nhân, điều kiện của tình trạng tội cướp giật tài sản trên

địa bàn thành phố Đà Nẵng

Nguyên nhân của tình trạng tội cướp giật tài sản là những yếu tố tác

43

động trực tiếp làm phát sinh ra loại tội phạm này; còn điều kiện của tình trạng

tội cướp giật tài sản là những hiện tượng xã hội thúc đẩy, tạo điều kiện thuận

lợi làm nảy sinh loại tội phạm này.

Qua nghiên cứu, xác định nổi lên một số nguyên nhân, điều kiện khách

quan và chủ quan chủ yếu làm phát sinh tội cướp giật tài sản như sau:

2.1.4.1. Nguyên nhân, điều kiện khách quan

- Từ phía gia đình

Dưới tác động của nền kinh tế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo ngày

càng rõ nét. Nhiều gia đình có hoàn cảnh quá khó khăn về kinh tế, con cái

không có điều kiện ăn học, không đáp ứng nhu cầu vật chất tối thiểu phải nghỉ

học phụ giúp gia đình như: bán vé số, đánh giầy, làm ôsin... sớm tiếp xúc với

môi trường xã hội lại thiếu kinh nghiệm sống nên dễ bị mặt trái của nền kinh

tế thị trường tác động và bị lôi kéo vào con đường phạm tội. Qua nghiên cứu

khảo sát thì yếu tố gia đình khó khăn túng quẫn, hoàn cảnh kinh tế, mức thu

nhập thấp là một trong những động cơ phát sinh tội cướp giật tài sản (57/258

đối tượng, tỷ lệ 22,09%).

Tuy nhiên, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn không phải là nguyên

nhân chủ yếu nảy sinh tội cướp giật. Trong nền kinh tế thị trường, nhiều gia

đình giàu lên nhanh chóng, họ chỉ chú tâm vào công việc xã hội, lo làm giàu

mà quên chức trách làm cha mẹ. Nhiều cha mẹ cứ nghĩ thỏa mãn nhiều vật

chất cho con là đủ mà không cần có sự quan tâm chia sẻ, động viên con em

mình. Khi được cha mẹ cho nhiều tiền, có một số người lao vào ăn chơi trụy

lạc, tệ nạn xã hội, bỏ học. Đến khi không được cha mẹ cung cấp tiền kịp thời

thì nảy sinh hành vi phạm tội để kiếm tiền tiêu xài. Trường hợp này có 46/258

đối tượng, tỷ lệ chiếm 17,83%.

Bên cạnh đó, gia đình không hoàn hảo, không thuận lợi như có bố mẹ ly

dị, không có bố mẹ, hoặc không có bố hoặc không có mẹ cũng được coi là

nguyên nhân của việc giáo dục, dạy dỗ con cái, môi trường phát sinh ý định

phạm tội cướp giật tài sản (có đến 59/258 đối tượng chiếm 23,16%).

44

Ngoài ra, sự buông lỏng quản lý của gia đình, không chú ý đến sự phát

triển nhân cách của cá nhân thành viên trong gia đình, không quan tâm quản

lý giờ giấc đi lại, tiêu xài… đã tạo cho thành viên trong gia đình có lối sống

buông thả, giao du với các phần tử xấu, một trong những con đường dẫn đến

phạm tội trong đó có tội cướp giật tài sản.

- Từ phía nhà trường

Công tác quản lý giáo dục học sinh, sinh viên trong các nhà trường còn

lỏng lẻo, trong khi số lượng học sinh ngày càng tăng. Một số tệ nạn nghiện

hút, cờ bạc đã xuất hiện trong môi trường nhà trường nhưng chưa được phát

hiện và xử lý kịp thời.

Chương trình học ở nhà trường còn nhiều bất cập ở việc không cân đối

thời lượng giữa các môn học làm cho học sinh, sinh viên vừa quá tải vừa hổng

kiến thức. Một số học sinh yếu không theo kịp bạn bè, học lưu ban nên mặc

cảm với bạn bè, chán học, trốn học tụ tập bạn bè đi chơi, mắc phải tệ nạn xã

hội và cuối cùng đi vào con đường phạm tội.

Sự quan tâm, phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong quản lý giáo

dục, trong việc phòng ngừa những lệch lạc, và trong việc phát hiện sơ hở của

học sinh chưa được thường xuyên và thiếu chặt chẽ. Những biểu hiện xấu của

học sinh không được nhà trường phản ánh kịp thời, đầy đủ đến gia đình và

ngược lại. Mặc khác, kỷ luật nhà trường đôi lúc còn lỏng lẻo. Điều này cũng

góp phần tạo ra môi trường thuận lợi cho học sinh trốn học, bỏ học, tụ tập để

ăn chơi hoặc cướp giật tài sản để tiêu xài.

- Từ phía xã hội

Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ thông tin, các

dịch vụ giải trí trên các lĩnh vực, thì hoạt động của các tổ chức quần chúng

như Đoàn thanh niên, hoạt động của các ban ngành... ở cơ sở còn yếu, mang

tính hình thức nên không thu hút được đông đảo thanh, thiếu niên tham gia vì

thế, ý thức phấn đấu vươn lên còn hạn chế, không muốn khép mình vào

khuôn khổ, ý thức tập thể kém nên khi gặp hoàn cảnh xấu, bàn bè rủ rê lôi kéo

45

dễ có hành động phạm tội.

2.1.4.2. Nguyên nhân, điều kiện chủ quan từ bản thân người phạm tội

Các đối tượng phạm tội cướp giật tài sản tại các khu du lịch có những

đòi hỏi quá cao so với sự đáp ứng của bản thân và gia đình, đó là nhu cầu ích

kỷ về sự hưởng thụ, khi gia đình không đáp ứng sẽ có hành vi phạm tội để

thỏa mãn nhu cầu. Bên cạnh đó, các đối tượng này rất chây lười lao động,

quen sống hưởng thụ với những nhu cầu thấp hèn vị kỷ, có lối sống xa hoa

trụy lạc, ăn chơi trác táng như: nhậu nhẹt, massage, bao gái... nhân sinh quan

bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi thái độ coi đồng tiền, lợi ích vật chất là trên

hết, nhất là tầng lớp thanh thiếu niên mới lớn. Đây được xem là nguyên nhân

trực tiếp dẫn đến tội cướp giật. Qua nghiên cứu 156 vụ án cướp giật tài sản,

số lượng vụ án xảy ra do nguyên nhân trình bày trên là 128 vụ (tỷ lệ 82,05%),

còn lại 28 vụ (tỷ lệ 17,95%) là do nghiện ma túy.

Đối tượng phạm tội cướp giật tài sản có nhận thức xã hội và trình độ văn

hóa thấp, hạn chế nhận thức về pháp luật, có sự suy thoái nghiêm trọng về đạo

đức, trượt dài từ gia đình, nhà trường cho đến xã hội, cuối cùng đi vào con

đường phạm tội. Số đối tượng phạm tội cướp giật không đi học 06/258 người,

tỷ lệ 2,33%; có trình độ văn hóa tiểu học 38/258 người, tỷ lệ 14,73%; có trình

độ trung học cơ sở 155/258 người, tỷ lệ 60,07%.

Số lượng đối tượng phạm tội trong tình trạng không nghề nghiệp, nghề

nghiệp không ổn định ngày càng nhiều 199/258 người, tỷ lệ 77,13%.

Trên đây là một số nguyên nhân, điều kiện của tình trạng tội cướp giật tài

sản trong thời gian qua trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đã ảnh hưởng đến công

tác phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản nói chung, cướp giật tài sản nói

riêng của các lực lượng, trong đó có lực lượng Công an thành phố Đà Nẵng.

2.1.5 Thực trạng tổ chức lực lượng phòng ngừa tình hình tội cướp

giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

2.1.5.1. Tổ chức, biên chế của lực lượng Công an thành phố Đà Nẵng

Tổng biên chế của Công an thành phố khoảng: 5.000 người, trong đó các

46

lực lượng trực tiếp tham gia, tiến hành các hoạt động đấu tranh, phòng chống

tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố là lực lượng CSND từ thành phố,

xuống đến quận, huyện, phường với tổng biên chế khoảng 3.000 người,

Qua nghiên cứu cho thấy, lực lượng CSND của Công an thành phố Đà

Nẵng trực tiếp tham gia phòng chống tội cướp giật, tội cướp giật tài sản phân

bố tương đối đồng đều giữa 03 cấp, qua đó giúp các lực lượng chủ động hơn

trong công tác nắm tình hình, triển khai các chương trình, kế hoạch công tác,

phục vụ tốt cho hoạt động phòng ngừa đối với loại tội phạm này. Tuy nhiên,

bên cạnh đó lực lượng trực tiếp tham gia phòng, chống tội cướp giật tài sản

còn trẻ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế, chưa có nhiều kinh

nghiệm, nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến trong quá trình tổ chức triển khai,

thực hiện các hoạt động phòng ngừa tình hình đối với loại tội phạm này.

Như vậy, lực lượng Công an thành phố mà trực tiếp là lực lượng CSND

tham gia, tiến hành các hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có trình độ chuyên môn nghiệp vụ không

đồng đều và trẻ hóa nên còn thiếu kinh nghiệm so với yêu cầu của tình hình,

hiệu quả công tác mang lại chưa cao. Chính vì vậy, công tác phòng ngừa tình

hình tội cướp giật chỉ giải quyết được bề nổi còn chưa thể đi vào chiều sâu,

chưa áp dụng hết các biện pháp đấu tranh đối với loại tội phạm này.

2.1.5.2. Tình hình các lực lượng bán chuyên trách, trực tiếp tham gia,

phối hợp thực hiện nhiệm vụ phòng chống tội cướp giật tài sản trên địa bàn

thành phố

Lực lượng Công an xã với tổng số 185 người, trong đó có 11 Trưởng Công

an xã, tỷ lệ 5,95%; 22 Phó Công an xã, tỷ lệ 11,89%; 32 Công an viên thường trực

tại xã, tỷ lệ 17,3%; 120 Công an viên phụ trách thôn, tỷ lệ 64,86%;

Lực lượng Bảo vệ Dân phố có 45 Ban Bảo vệ dân phố và 355 Tổ Bảo vệ

dân phố, với tổng số thành viên: 2019 người, trong đó có 45 Trưởng ban Bảo

vệ dân phố, tỷ lệ 2,23%; 88 Phó trưởng ban Bảo vệ dân phố, tỷ lệ 4,36%; 256

Uỷ viên Ban bảo vệ dân phố, tỷ lệ 12,68%; 350 Tổ phó, tỷ lệ 17,34%; 1280

47

Tổ viên, tỷ lệ 63,4% (riêng Tổ trưởng Bảo vệ dân phố đều là thành viên ban

Bảo vệ dân phố);

Dân phòng: Có 58 Đội Dân phòng/56 phường, xã, gồm có 1.376 người,

trong đó có 02 đội Dân phòng Nữ gồm 39 người (phường Khuê Mỹ quận Ngũ

Hành Sơn có 20 người; phường Hòa Hải quận Ngũ Hành Sơn có 12 người);

Ngoài ra, còn có các tổ chức, lực lượng được hình thành từ công tác xây

dựng phong trào Toàn dân bảo vệ An ninh Tổ quốc, các tổ chức tham gia

công tác đấu tranh PCTP được hình thành tự phát, như:

- Đội xe thồ tự quản tham gia phòng, chống tội phạm có 192 người,

trong đó Đội xe thồ tự quản phường Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ có 12

người, Đội xe thồ tự quản Bến xe trung tâm thành phố Đà Nẵng gồm 04 Tổ,

có 180 người;

- Tổ xung kích tự quản phòng, chống tội phạm; phòng cháy chữa cháy và

phòng chống thiên tai, bão lụt tại khu vực dân cư Xuân Thiều phường Hòa

Hiệp Nam quận Liên Chiểu có 100 người.

- 113 mô hình phong trào Toàn dân bảo vệ An ninh Tổ quốc với các nội

dung, hình thức đa dạng và phong phú, các mô hình đã góp phần kiềm chế

hoạt động các loại tội phạm và tệ nạn xã hội.

Như vậy, dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền

địa phương và sự hướng dẫn nghiệp vụ của lực lượng Công an, các lực lượng

Bảo vệ dân phố, dân phòng, các tổ chức, mô hình được hình thành từ phong

trào Toàn dân bảo vệ An ninh Tổ quốc đã phát huy tốt vai trò, trách nhiệm,

tích cực tham gia phòng, chống tội phạm nói chung, tội cướp giật tài sản nói

riêng theo chức năng, nhiệm vụ được quy định theo các Quyết định, kế hoạch,

chương trình công tác của UBND các cấp, góp phần đảm bảo tình hình ANTT

trên từng địa bàn.

2.2. Thực trạng phòng ngừa

2.2.1. Công tác phòng ngừa xã hội

Công tác phòng ngừa có vị trí rất quan trọng góp phần ngăn chặn những

48

nguyên nhân sâu xa và một số nguyên nhân, điều kiện trực tiếp của hành vi

phạm tội. Trong 5 năm qua (từ năm 2014 đến 06 tháng đầu năm 2019), lực

lượng Công an thành phố Đà Nẵng với vai trò nòng cốt đã chủ động tham

mưu, phối hợp với các lực lượng tổ chức triển khai các mặt công tác phòng

ngừa xã hội đối với tội phạm nói chung, tội cướp giật tài sản nói riêng, trong

đó có tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố như:

2.2.1.1. Công tác tham mưu lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai các

hoạt động phòng ngừa

Tham mưu Thành ủy thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của

Đảng, Quốc hội, Chính phủ về công tác đấu tranh phòng chống tội phạm như:

Chỉ thị 46-CT/TW của Bộ Chính trị về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

đối với công tác đảm bảo an ninh, trật tự trong tình hình mới"; Chỉ thị số 48-

CT/TW “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống

tội phạm trong tình hình mới”; Chỉ thị số 21-CT/TW của Bộ Chính trị “Về

tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma

tuý trong tình hình mới”; Chỉ thị số 09/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương

Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo

vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới”, qua đó, đã ban hành Chương trình

hành động số 05-CTr/TU nhằm tổ chức, triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ

thị số 48-CT/BCT của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới”; Chương trình

hành động số 14-CTr/TU về thực hiện Chỉ thị 09-CT/TW của Ban bí thư

Trung ương Đảng (Khoá XI) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với

phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ trong tình hình mới”, nhằm xác định

nhiệm vụ phòng chống tội phạm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp;

trách nhiệm của người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền đối với tình hình tội

phạm ở địa phương, đơn vị mình quản lý và xem đây là một tiêu chí để bình

xét, phân loại, hàng năm đối với tổ chức Đảng và Đảng viên ở các tổ chức cơ

sở Đảng trực thuộc. Bên cạnh đó, các cơ quan tham mưu giúp việc của Thành

49

ủy như Ban Tổ chức, Ban Dân vận, Ban Nội chính, Uỷ ban Kiểm tra, Đảng uỷ

Khối doanh nghiệp…đã tổ quán triệt đầy đủ, sâu sắc tư tưởng chỉ đạo, các

nhiệm vụ, giải pháp liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm

mà Thành ủy đã đề ra thông qua các Chỉ thị như Chỉ thị 24-CT/TU và Chỉ thị

25-CT/TU của Thành ủy về “đẩy mạnh công tác phối hợp, giúp đỡ các gia

đình có hoàn cảnh đặc biệt nghèo, học sinh bỏ học và thiếu niên hư, vi phạm

pháp luật” và “phòng chống bạo lực gia đình” và các văn bản có liên quan

đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm đã tạo nên sự chuyển biến

mạnh mẽ từ nhận thức đến hành của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân

trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

UBND thành phố đã ban hành Kế hoạch số 676/KH-UBND ngày

09/02/2011 về thực hiện Chỉ thị 48-CT/TW và Kế hoạch số 869/KH-UBND

ngày 20/02/2012 đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình

hình mới theo tinh thần chỉ đạo của Chỉ thị số 09-CT/TW và Chương trình hành

động số 19-CTr/TU để chỉ đạo các cấp, các ngành triển khai thực hiện; chỉ đạo

tiếp tục thực hiện Quyết định số 19/QĐ-UBND ngày 07-8-2009 về phê duyệt đề

án “Đổi mới công tác tuyên truyền vận động toàn dân tham gia phòng chống tội

phạm và xây dựng mô hình phòng chống tội phạm trên địa bàn thành phố Đà

Nẵng”; Chỉ thị số 01/CT-UBND ngày 12/02/2014 về công tác phòng, chống tội

phạm trên địa bàn thành phố giai đoạn 2014-2015; Kế hoạch số 2188/KH-

UBND ngày 20/03/2014 về rà soát, thống kê người nghiện ma túy trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng; Quyết định số 28/2014/QĐ-UBND ngày 06/9/2014 của

UBND thành phố về Quy chế phối hợp lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma tuý

trên địa bàn thành phố; ban hành và tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả

Quyết định số 6743/QĐ-UBND ngày 07/9/2010 về thành lập lực lượng chống

cướp giật và tội phạm khác trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và Quyết định

8394/QĐ-UBND ngày 09/11/2015 (thay thế cho Quyết định 7661) về hoạt động

phối hợp tuần tra, kiểm soát bảo vệ ANTT ở địa bàn dân cư.

Các cấp, các ngành chức năng của thành phố đã phối hợp tổ chức thực

50

hiện có hiệu quả các chương trình hành động, chỉ thị, quyết định, kế hoạch,

văn bản chỉ đạo của Thành uỷ, UBND thành phố liên quan đến công tác đảm

bảo ANTT, như Chỉ thị số 24/CT-TU ngày 10/8/2009 của Thành uỷ Đà Nẵng

v/v “Tiếp tục đẩy mạnh công tác phối hợp giúp đỡ các gia đình có hoàn cảnh

đặc biệt nghèo, học sinh bỏ học và thiếu niên hư vi phạm pháp luật trên địa

bàn thành phố Đà Nẵng”, Chỉ thị số 25-CT/TU ngày 20/10/2009 của Ban

Thường vụ Thành uỷ Đà Nẵng về “Phòng chống bạo lực gia đình”; Chỉ thị số

37-CT/TU ngày 20/8/2014 của Ban Thường vụ Thành ủy về “tiếp tục tăng

cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống, kiểm soát tội phạm và tệ nạn

ma túy trên địa bàn thành phố”; Kế hoạch số 38-KH/TU ngày 11-6-2014 của

Thành ủy về triển khai thực hiện Kết luận số 95-KL/TW của Ban Bí thư (khoá

XI) nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng theo tinh thần Chỉ

thị số 21-CT/TW ngày 26-3-2008 của Bộ Chính trị “về tiếp tục tăng cường

lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình

mới”; Quyết định số 19/QĐ-UBND ngày 07-8-2009 về phê duyệt đề án “Đổi

mới công tác tuyên truyền vận động toàn dân tham gia phòng, chống tội phạm

và xây dựng mô hình phòng chống tội phạm trên địa bàn thành phố Đà

Nẵng”; Quyết định số 6743/QĐ-UBND ngày 07-9-2010 về thành lập lực

lượng chống cướp giật và tội phạm khác trên địa bàn thành phố Đà Nẵng;

Quyết định số 7661/QĐ-UBND ngày 20-9-2012 về hoạt động phối hợp tuần

tra, kiểm soát bảo vệ ANTT ở địa bàn dân cư; Quyết định số 28/2014/QĐ-

UBND ngày 06/9/2014 của UBND thành phố về ban hành Quy chế phối hợp

lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma tuý trên địa bàn thành phố; Quyết định số

7557/QĐ-UBND ngày 23/10/2014 của UBND thành phố về việc thành lập Cơ

sở quản lý người nghiện không có nơi cư trú ổn định trên địa bàn thành phố

Đà Nẵng trong thời gian lập hồ sơ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc; Quyết định số 38/QĐ-UBND ngày 23/10/2014 của UBND

thành phố quy định mức chi hỗ trợ công tác cai nghiện và quản lý sau cai

nghiện ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Đồng thời, tổ chức rà soát,

51

đánh giá, điều chỉnh, khắc phục những tồn tại, giải quyết những khó khăn,

vướng mắc, bất cập trong quá trình tổ chức công tác phòng ngừa, đấu tranh,

xử lý tội phạm, như Quyết định số 8048/QĐ-UBND, ngày 08/11/2014 của

Chủ tịch UBND thành phố về kiện toàn Ban Chỉ đạo phòng chống tội phạm,

tệ nạn xã hội, HIV/AIDS và Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ

quốc; Quyết định số 20/QĐ-BCĐ ngày 10/3/2015 về việc ban hành Quy chế

hoạt động của Ban Chỉ đạo và Quyết định số 19/QĐ-BCĐ ngày 10/3/2015 về

việc thành lập Tổ giúp việc của Ban Chỉ đạo; Quyết định số 8835/QĐ-UBND

ngày 04/12/2014 về việc thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ phòng, chống tội

phạm thành phố Đà Nẵng; Công văn số 11192/UBND-VX ngày 06/12/2014

của UBND thành phố về chỉ đạo thực hiện một số nội dung về lập hồ sơ và tổ

chức cai nghiện ma túy; Công văn số 704/UBND-VX ngày 28/01/2015 của

UBND thành phố về chỉ đạo thực hiện một số nội dung về công tác cai nghiện

ma tuý; Quyết định số 9097/QĐ-UBND ngày 17/12/2014 về việc thành lập

Tổ Công tác thống kê người nghiện ma tuý trên địa bàn thành phố; Quyết

định 8394 ngày 09/11/2015 về việc phối hợp các lực lượng trong tuần tra

phòng, chống tội phạm và đảm bảo ANTT trên địa bàn thành phố.

UBND thành phố đã chỉ đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể, chính quyền các

cấp trên địa bàn thành phố chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện nghiêm túc các

chương trình hành động, chỉ thị, quyết định, kế hoạch của Thành uỷ, UBND thành

phố đối với công tác phòng, chống tội phạm; đẩy mạnh tuyên truyền, vận động

phòng chống vi phạm pháp luật và tội phạm trong toàn dân, lồng ghép vào các

buổi sinh hoạt của các mô hình để tuyên truyền thông qua phong trào “Toàn dân

đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, phong trào PCTP, phong trào

quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, thực hiện chương trình “5 không, 3 có” của

thành phố, đã góp phần tích cực trong việc PCTP trên địa bàn thành phố.

2.2.1.2. Công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân phòng,

chống tội phạm

Lãnh đạo UBND thành phố đã tổ chức quán triệt đến từng đảng viên, cán

52

bộ, công nhân viên quan điểm chỉ đạo của Thành uỷ, UBND thành phố về công

tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Xác định trách nhiệm của người đứng

đầu cấp uỷ, chính quyền đối với tình hình ANTT ở địa phương, đơn vị mình

quản lý và xem đây là một tiêu chí để bình xét, phân loại hàng năm đối với chất

lượng của tổ chức cơ sở đảng, cũng nhưng đánh giá, phân loại cán bộ. Đồng

thời, chỉ đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể chính trị - xã hội và chính quyền các

cấp làm tốt công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật liên quan đến công tác

PCTP theo chức năng, nhiệm vụ của mình, như đẩy mạnh cuộc vận động

“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” của Ủy ban mặt

trận Tổ quốc Việt Nam thành phố; mô hình “Tổ, thôn không có tội phạm và tệ

nạn xã hội”, phong trào “Tuổi trẻ chung tay đẩy lùi tệ nạn xã hội” của Đoàn

Thanh niên; mô hình “5+1” (4 hội, đoàn thể + 1 Công an nhận kèm, giúp đỡ

một đối tượng sau cai nghiện), mô hình “1+3” (1 Cựu chiến binh liên kết với 3

gia đình kề cận ngăn chặn tội phạm, ma tuý và mại dâm thâm nhập vào khu

dân cư) và thực hiện chương trình “5 không, 3 có” của thành phố; mô hình

“Chi hội không có hội viên nông dân và con em nông dân vi phạm pháp luật”

của Hội Nông dân; Liên đoàn lao động thành phố đã tổ chức 10 lớp truyên

truyền PCTP, ma túy, mại dâm, HIV/AIDS cho trên 1.500 lượt công nhân lao

động tại 10 doanh nghiệp trên địa bàn thành phố, tổ chức đăng ký thi đua tại 14

công đoàn cấp trên cơ sở và 50 công đoàn cơ sở trực thuộc, triển khai 15 tổ tự

quản khu nhà trọ với hơn 1.400 công nhân, lao động; Hội Nông dân thành phố

đã triển khai 12 đợt hoạt động tuyên truyền PCTP tại 204 điểm cho 16.624 lượt

người dự, cấp phát trên 6.000 tờ rơi, 400 sách hỏi đáp về pháp luật, các cấp hội

ở cơ sở đã tổ chức 440 buổi tuyên truyền PCTP, phòng chống ma túy cho

29.171 lượt người tham dự, tổ chức 23 buổi văn nghệ lồng ghép các tiểu phẩm

đề cao cảnh giác PCTP có 12.660 lượt người dự xem, hội viên nông dân, các

cấp hội đã nhận cảm hoá giáo dục 135 thanh thiếu niên vi phạm pháp luật,

Đoàn Thanh niên các cấp đã tổ chức tuyên truyền, vận động trong cán bộ,

Đoàn viên, thanh thiếu niên và các tầng lớp nhân dân tham gia các hoạt động

53

PCTP, ma túy, tệ nạn xã hội. Các cấp Hội Cựu Chiến binh thành phố nhận giúp

đỡ 1.442 lượt người vi phạm, trong đó có 340 lượt người nghiện ma tuý và

quản lý sau cai, giáo dục tiến bộ 829 lượt, đạt tỷ lệ 57,4%, cung cấp 375 tin về

tội phạm, trong đó có 37 tin liên quan đến buôn bán sử dụng trái phép chất ma

tuý; tổ chức lồng ghép tuyên truyền cho hội viên, nhân dân, học sinh, sinh viên

được 764 buổi với 124.288 lượt người dự nghe. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ

Chí Minh thành phố lồng ghép các hoạt động hội thi, hội diễn văn nghệ nội

dung tuyên truyền về phòng, chống tội phạm, ma tuý, mại dâm. Tổ chức Hội

thi tìm hiểu pháp luật về phòng chống HIV/AIDS, tệ nạn ma tuý, mại dâm tại

Hội trại đồng hành hàng năm, thu hút trên 10.000 trại sinh theo dõi, cổ vũ.

Hàng năm tập huấn về Luật phòng chống ma túy và tọa đàm về tình hình lây

nhiễm HIV/AIDS cho các tổng phụ trách Đội của các trường tiểu học, phổ

thông cơ sở, cán bộ Hội Liên hiệp thanh niên, chủ nhiệm các Câu lạc bộ đội,

nhóm. Thông qua các hoạt động như hội thi, hội diễn, sinh hoạt chuyên đề…,

nhằm vận động quần chúng nhân dân chấp hành các chủ trương, chính sách của

Đảng, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia phòng ngừa, phát hiện và tố

giác tội phạm; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Phong trào đoàn

kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, kết hợp với xây dựng “Tổ dân

phố không có tội phạm và tệ nạn xã hội”, gắn với thực hiện Chỉ thị số 24, 25-

CT/TU của Thành ủy.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền PCTP đến tận tổ dân phố, cụm

dân cư và từng hộ gia đình với nhiều nội dung, hình thức phong phú, trong đó

chú trọng tuyên truyền cá biệt cho số đối tượng có nguy cơ cao vi phạm pháp

luật như: số đối tượng có tiền án, tiền sự, số người nghiện, thanh thiếu niên

hư, vi phạm pháp luật, học sinh, sinh viên bỏ học.... Lực lượng Công an thành

phố đã tiến hành kiểm danh, kiểm diện 10.475 lượt đối tượng chính trị, hình

sự; gọi hỏi, răn đe, giáo dục 24.755 lượt đối tượng; đưa ra kiểm điểm trước

dân 907 lượt đối tượng; lập hồ sơ đưa vào giáo dục tại xã, phường 813 đối

tượng; mở 662 lớp tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho 18.670 đối tượng có

54

nguy cơ cao vi phạm pháp luật tham gia....; phối hợp liên ngành Viện kiểm sát

- Toà án chọn, đưa ra xét xử lưu động nhiều vụ án hình sự phục vụ công tác

tuyên truyền, giáo dục, phòng ngừa, răn đe tội phạm; chủ động đưa tin, tuyên

truyền sâu rộng về các phương thức, thủ đoạn của các loại tội phạm để nhân

dân biết, nâng cao cảnh giác và có biện pháp tự quản lý, bảo vệ tài sản; tổ

chức tập huấn, hướng dẫn 04 nhiệm vụ trọng tâm cho tất cả các Tổ trưởng dân

phố nhằm nắm bắt kịp thời việc quản lý ANTT và xây dựng phong trào Toàn

dân bảo vệ an ninh Tổ quốc tại địa bàn dân cư, phối hợp tốt với các lực lượng

chức năng những vấn đề liên quan đến tình hình ANTT trên địa bàn.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại

chúng như: Đài Phát thanh truyền hình Đà Nẵng, Trung tâm Truyền hình Việt

Nam tại Đà Nẵng, Đài Tiếng nói Việt Nam tại Đà Nẵng, Báo Đà Nẵng, Báo

Công an thành phố và các đài địa phương đã lồng ghép chương trình phòng,

chống tội phạm - ma tuý và tệ nạn xã hội vào chương trình Phát thanh -

Truyền hình Vì An ninh tổ quốc của thành phố hàng tuần, xây dựng nhiều

phóng sự, phim ảnh kịp thời đưa tin các hoạt động phòng, chống tội phạm của

các địa phương, ban, ngành, đoàn thể để tuyên truyền giáo dục chung. Các

báo, đài thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền phù hợp với

từng loại đối tượng; tiếp tục nhân rộng mô hình “Xã, phường, tộc, họ, tổ dân

phố không có tệ nạn xã hội”, “Chi hội an toàn lành mạnh”; vận động,

khuyến khích lồng ghép nội dung phong trào phòng, chống tội phạm vào các phong trào thi đua của các ngành, đoàn thể. Sở Tư pháp đã phối hợp các

ngành Công an – Lao động, Thương binh và Xã hội triển khai hoạt động phổ

biến giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố và xây

dựng Đề án về sát nhập các mô hình Câu lạc bộ tuổi trẻ PCTP (Câu lạc bộ

09); Câu lạc bộ sau cai nghiện (Câu lạc bộ Sau cai hay Câu lạc bộ vươn lên);

Đội công tác xã hội tình nguyện trên địa bàn thành phố; Sở Tư pháp đã phối

hợp Đài phát thanh truyền hình Đà Nẵng xây dựng kế hoạch tuyên truyền phổ

biến giáo dục pháp luật về PCTP, ma túy giai đoạn 2013-2016. Sở Thông tin

55

và Truyền thông đã tổ chức 03 Hội thảo nâng cao kỹ năng tuyên truyền PCTP

cho các cơ quan thông tấn báo chí và phối hợp với các cơ quan thông tin đại

chúng đã đăng tải hơn 20.000 tin, bài với nhiều hình thức và nội dung tuyên

truyền đa dạng về công tác phòng, chống tội phạm và ma tuý. Trong đó các

cơ quan báo chí, đặc biệt là báo, đài địa phương như Báo Đà Nẵng, Báo Công

an Đà Nẵng, Đài Phát thanh Truyền hình Đà Nẵng… đã thể hiện được vai trò

chủ lực của mình trong công tác tuyên truyền PCTP.

2.2.1.3. Công tác phát động phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ

Tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị 07/CT-BCA-V28 ngày 15/8/2014

của Bộ trưởng Bộ Công an về “Đẩy mạnh Phong trào Toàn dân BVANTQ

trong cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo đảm

an ninh, trật tự trong tình hình mới”, Quyết định số 19/2009/QĐ-UBND của

Chủ tịch UBND thành phố về phê duyệt đề án “Đổi mới công tác tuyên

truyền, vận động toàn dân tham gia phòng chống tội phạm trên địa bàn thành

phố Đà Nẵng”, qua đó từng bước đổi mới công tác phát động phong trào toàn

dân bảo vệ ANTQ trong quần chúng nhân dân, với nội dung và hình thức

ngày càng phong phú, đa dạng và phù hợp với từng địa bàn, khu dân cư, từng

đối tượng vận động đã mang lại hiệu quả trong phòng, chống tội phạm, tệ nạn

xã hội, theo tinh thần của Chỉ thị 09/CT của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ trong tình hình

mới”. Thường xuyên tổ chức tuyên truyền phong trào phòng chống tội phạm;

xây dựng, nhân rộng các mô hình phát huy hiệu quả trong công tác phòng,

chống tội phạm và tệ nạn xã hội tại các khu dân cư. Trong đó:

Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Cựu chiến binh, Nông dân, Liên

đoàn lao động thành phố và các lực lượng vũ trang bên cạnh việc tổ chức tuyên

truyền trong các tầng lớp nhân dân, đã chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên

truyền vận động trong hội viên và cán bộ công nhân viên với nhiều hình thức

đa dạng, phong phú gắn liền với các nội dung phong trào như: phong trào 4

không “không buôn bán, không tàng trữ, không tiêm chích, không có người

56

nghiện ma tuý”; “Gia đình không có con em vi phạm pháp luật và tệ nạn xã

hội”; nêu cao vai trò của gia đình trong việc quản lý, giáo dục con cái; Tộc họ

làm tốt công tác giáo dục con cháu, xây dựng thôn, xóm, khu phố bình yên gia

đình hạnh phúc không có tệ nạn xã hội; Quân dân chung tay đẩy lùi ma tuý; tình nguyện vì thành phố 5 không; Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Cựu

chiến binh, Liên đoàn lao động, Đoàn Thanh niên đã xây dựng kế hoạch tổ

chức 65 đợt triển khai thực hiện hoạt động tuyên truyền phòng, chống tệ nạn

ma tuý và tệ nạn xã hội tại 2.986 điểm cho 278.965 lượt người dự, cấp phát

60.000 tờ rơi về hiểm hoạ ma tuý, mại dâm, 1.700 cuốn sách hỏi đáp về pháp

luật, 5.000 cuốn tạp chí. Thông qua các hoạt động như hội thi, hội diễn, sinh

hoạt chuyên đề…đã giáo dục, động viên đông đảo quần chúng tích cực hưởng

ứng các hoạt động phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội, tiêu biểu như mô

hình “Tổ, thôn không có tội phạm và tệ nạn xã hội”, phong trào “Tuổi trẻ

chung tay đẩy lùi tệ nạn xã hội” của Đoàn Thanh niên; mô hình “5+1” (4 hội,

đoàn thể + 1 Công an nhận kèm, giúp đỡ một đối tượng sau cai nghiện), mô

hình “1+3” (1 Cựu chiến binh liên kết với 3 gia đình kề cận ngăn chặn tội

phạm, ma tuý và mại dâm thâm nhập vào khu dân cư) và phát động phong trào

quần chúng bảo vệ ANTQ, thực hiện chương trình “5 không, 3 có” của thành

phố đã góp phần tích cực phòng, chống tội phạm trên địa bàn thành phố.

Lực lượng Hải quan, Bộ Chỉ huy Quân Sự và Bộ Chỉ huy Biên phòng

thành phố, Quản lý thị trường thành phố đã tăng cường công tác tuyên truyền

về PCTP, Luật phòng, chống ma tuý cho cán bộ chiến sĩ, nhân dân xung

quanh nơi đóng quân, khu vực cửa khẩu, biên giới và kiểm tra, kiểm soát

người xuất nhập cảnh và hàng hoá nhập khẩu; ngành thương mại đã tập trung

tuyên truyền phòng, chống tội phạm, ma tuý, gian lận thương mại thông qua

hệ thống loa phóng thanh của các chợ.

2.2.1.4. Công tác quản lý, cảm hoá, giáo dục, giúp đỡ, tạo việc làm cho

những người phạm tội được tha tù trở về

Thành uỷ ban hành Chỉ thị 24-CT/TU về “đẩy mạnh công tác phối hợp,

57

giúp đỡ các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt nghèo, học sinh bỏ học và thiếu

niên hư, vi phạm pháp luật” và tổ chức quán triệt nghiêm túc đến từng cấp uỷ

Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể từ thành phố đến cơ sở; UBND

thành phố ban hành Kế hoạch số 7733/KH-UBND về quản lý, giúp đỡ và

phòng ngừa nguy cơ thiếu niên vi phạm pháp luật, thiếu niên hư giai đoạn 2009

- 2015 nhằm phân công trách nhiệm cụ thể cho cho các ngành chức năng triển khai thực hiện và đã xây dựng nhiều mô hình có hiệu quả cao như mô hình

“5+1” của CAP Thanh Khê Tây, Tân Chính, Tam Thuận, qua đó, quản lý 01

em thiếu niên hư, vi phạm pháp luật gồm: Đại diện gia đình, tổ trưởng dân phố,

các đoàn thể tổ chức xã hội, CSKV, ban chỉ huy CAP; mô hình “2 gặp, 3 biết”

của CAP Mân Thái, An Hải Bắc qua đó, quản lý 01 em thiếu niên hư, vi phạm

pháp luật phải gặp gỡ gia đình, gặp gỡ đối tượng, biết mặt, biết tên, biết nhà;

mô hình “3+1” của Thành Đoàn qua đó, quản lý 01 em thiếu niên hư, vi phạm

pháp luật sẽ do 01 cán bộ Thành Đoàn cùng 01 cán bộ quận, huyện đoàn và 01

bí thư đoàn phường trực tiếp kèm cặp, giúp đỡ. Qua 05 năm thực hiện, liên

ngành đã phối hợp với các cơ quan, đoàn thể đã tiến hành cảm hoá, giáo dục

cho 499 em và đã có 431 em tiến bộ không còn vi phạm.

UBND thành phố đã thành lập “Quỹ hoàn lương” nhằm mục đích cho

vay vốn đối với những người đã từng vi phạm pháp luật sau khi chấp hành

xong hình phạt tù trở về địa phương tạo công ăn, việc làm, sớm ổn định cuộc

sống tái hoà nhập cộng đồng, qua triển khai đã cho vay được 1.127 lượt người

với tổng số tiền 3.442.000.000 đồng (Ba tỷ bốn trăm bốn mươi hai triệu

đồng). Đây là việc làm thiết thực đem lại hiệu quả cao trong công tác quản lý,

giúp đỡ người có tiền án, tiền sự tiến bộ, không tiếp tục vi phạm pháp luật.

Các đoàn thể chính trị chủ động phối hợp mở hàng trăm lớp giáo dục

pháp luật cho các loại đối tượng hình sự, ma túy, đưa đối tượng vi phạm ra

kiểm điểm trước dân; hàng năm, các địa phương đều tiến hành rà soát lên

danh sách, phân loại các loại đối tượng tù tha, đặc xá và căn cứ vào đặc điểm

giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp... để giao chỉ tiêu, số lượng cụ thể cho các ban,

58

ngành, đoàn thể trực tiếp quản lý, cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ nhiều người lầm

lỗi tiến bộ, nhiều đối tượng được hỗ trợ tạo việc làm, cho vay vốn làm ăn để

tạo điều kiện cho họ hòa nhập cộng đồng không tái phạm.

2.2.1.5. Công tác phối hợp các lực lượng tuần tra phòng chống tội phạm

Với mục đích luôn luôn có lực lượng chuyên trách, bán chuyên trách đối

với công tác phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm trên đường phố, vào

mọi thời điểm trong ngày, UBND thành phố ban hành Quyết định số

6743/QĐ-UBND ngày 07/9/2010 về thành lập lực lượng chống cướp giật và

tội phạm khác trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và Quyết định 8394/QĐ-

UBND ngày 09/11/2015 (thay thế cho Quyết định 7661) về hoạt động phối

hợp tuần tra, kiểm soát bảo vệ ANTT ở địa bàn dân cư. Qua triển khai, đã huy

động trên 978.000 lượt Công an, dân quân tự vệ, ban bảo vệ dân phố, dân

phòng, quân sự, biên phòng tham gia tuần tra phòng chống tội phạm, kịp thời

phát hiện, ngăn chặn hàng trăm vụ phạm pháp hình sự và vi phạm pháp luật.

2.2.1.6. Công tác củng cố, tăng cường và nâng cao năng lực các lực

lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm

Nhằm nâng cao hơn nữa công tác quản lý địa bàn, không để các loại

đối tượng lợi dụng những hạn chế trong công tác quản lý nhân hộ khẩu,

quản lý lưu trú để ẩn nấu, thực hiện hành vi phạm tội, thành phố đã ban

hành các văn bản:

+ Thành uỷ ban hành Chỉ thị 21-CT/TU về “tập trung lãnh đạo nâng cao

chất lượng hoạt động của tổ dân phố, thôn trên địa bàn thành phố” và UBND

thành phố ban hành Quyết định 51/2012/QĐ-UBND ban hành “Quy chế về tổ

chức và hoạt động của tổ dân phố, thôn trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”,

qua đó thành lập 5.717 tổ dân phố, thôn với quy mô mỗi tổ dân phố, thôn chỉ

từ 20 đến 40 hộ dân, đồng thời qui định tổ dân phố, thôn phải thực hiện tốt 04

nhiệm vụ trọng tâm, trong đó nhấn mạnh vào 02 nhiệm vụ “quản lý cư trú

chặt chẽ” và “giữ vững an ninh trật tự, phòng chống tội phạm”.

+ Ban hành Kế hoạch 185/KH-CATP-PV11 về “Nâng cao chất lượng

59

hoạt động của Công an phường giai đoạn 2013 - 2015” với mục đích kiện

toàn về số lượng, chất lượng cán bộ chiến sĩ Công an phường nhằm nâng cao

vị trí, vai trò và tầm quan trọng của lực lượng Công an phường trong công tác

đảm bảo ANTT ở cơ sở, khai thác, phối hợp tốt với các Tổ trưởng tổ dân phố

quản lý chặt chẽ địa bàn, đối tượng. Qua triển khai, Công an phường đã xác

minh, điều tra làm rõ 716 vụ/1.232 vụ phạm pháp hình sự xảy ra (đạt tỷ lệ

58,1%), Tổ trưởng tổ dân phố, Trưởng thôn đã cung cấp trên 1.000 thông tin

liên quan đến tội phạm có giá trị.

2.2.1.7. Công tác chuyển hóa địa bàn trọng điểm, phức tạp về TTATXH

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu “Không có người

nghiện ma tuý trong cộng đồng trên địa bàn thành phố”, đồng thời chỉ đạo

Ban Chỉ đạo 07 quận, huyện và 56 phường, xã xây dựng chương trình, kế

hoạch tham mưu chính quyền địa phương, phối hợp với các ban ngành đoàn

thể... tổ chức phát động phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, phòng

chống tội phạm, phòng chống ma tuý” tuyên truyền, vận động trong nhân dân

để nhân dân tham gia tốt vào công tác phát hiện, tố giác, đấu tranh với các

loại tội phạm và tệ nạn ma túy, xây dựng xã, phường, thị trấn không có tệ nạn

ma túy.

Tiếp tục duy trì việc triển khai cho người nghiện ma tuý đang quản lý

trong diện sau cai được uống Methadone tại trung tâm điều trị Methadone số

01 và số 02 của thành phố, hiện có 347 người nghiện trên địa bàn toàn thành

phố đang được điều trị bằng Methadone. Đồng thời, tổ chức rà soát, đánh giá

lại các đối tượng ma túy trên địa bàn để có biện pháp quản lý hợp lý và tổ

chức hoạt động có hiệu quả các mô hình Câu lạc bộ sau cai nghiện, vận động

giúp đỡ giáo dục người sau cai nghiện có việc làm, hoàn lương để ổn định

cuộc sống.

Thường xuyên kiểm danh, kiểm diện, kiểm tra thử test số người trong

diện quản lý sau cai, số đối tượng ma túy đang quản lý trên từng địa bàn; khảo

sát, xác định các điểm, tụ điểm nghi vấn tổ chức sử dụng ma túy để có biện

60

pháp triệt xóa, đồng thời, mở nhiều đợt ra quân kiểm tra, xử lý người nghiện,

người sử dụng trái phép ma túy, qua triển khai 02 đợt ra quân tổng kiểm tra,

xử lý người sử dụng trái phép chất ma túy theo Kế hoạch số 87/KH-CATP

ngày 29/01/2015 của CATP, đã kiểm tra thử test tổng cộng 2.010 trường hợp;

qua đó, phát hiện, lập hồ sơ xử lý 549 trường hợp dương tính với ma túy

(chiếm 27,3%). Hiện trên địa bàn thành phố, không để xảy ra tình trạng mua

bán, sản xuất các tiền chất ma túy và tái trồng các loại cây thuốc phiện trên

địa bàn thành phố.

Nhìn chung, tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội cướp giật tài sản

nói riêng còn tiềm ẩn nhiều phức tạp, nhưng dưới sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ

đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp và sự phối hợp của các sở,

ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội, thành phố đã triển khai nhiều hoạt

động phòng ngừa đối với các loại tội phạm, trong đó có tội cướp giật tài sản,

góp phần ổn định được tình hình, góp phần phát triển môi trường du lịch của

thành phố. Tuy nhiên, tình hình tội cướp giật tài sản vẫn diễn biến khó lường,

tiềm ẩn phức tạp; công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân,

nhất là trong thanh, thiếu niên chưa thường xuyên liên tục, trong khi số lượng

thanh thiếu niên vi phạm pháp luật chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu thành phần độ

tuổi phạm tội; một số cấp, ngành còn thờ ơ trong việc tham gia vào công tác

đấu tranh, phòng chống tội phạm; việc phối hợp trao đổi thông tin tội phạm

giữa các lực lượng còn hạn chế, chưa chủ động phát hiện và giải quyết kịp

thời những vấn đề phát sinh liên quan đến tình hình ANTT,...

2.2.2. Thực trạng phòng ngừa nghiệp vụ của lực lượng Công an thành phố

Với vai trò nòng cốt trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói

chung, tội cướp giật tài sản nói riêng, Công an thành phố đã mở nhiều đợt cao

điểm ra quân tấn công trấn áp tội phạm, đảm bảo tốt tình hình ANTT trên địa

bàn như Kế hoạch 263/KH-CATP-PV11 ngày 11/9/2015 về bảo vệ an toàn

tuyệt đối Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XXI tiến tới

bảo vệ an toàn Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; kế hoạch

61

đảm bảo ANTT lễ kỷ niệm 40 năm giải phóng Đà Nẵng, Cuộc thi trình diễn

pháo hoa quốc tế Đà Nẵng 2015, Kế hoạch tổ chức các hoạt động kỷ niệm 70

năm Ngày thành lập CAND Việt Nam và 10 năm Ngày hội Toàn dân bảo vệ

ANTQ trên địa bàn thành phố; Kế hoạch 499/KH-CATP-PV11 ngày

11/11/2015 về “Tăng cường công tác đảm bảo ANTT trên địa bàn thành

phố”; xây dựng và triển khai có hiệu quả nhiều kế hoạch chuyên đề phòng,

chống tội phạm như Kế hoạch 562/KH-BCĐ(PV11) về “đấu tranh, triệt phá

các băng, nhóm tội phạm chuyên cố ý gây thương tích, cưỡng đoạt tài sản,

đòi nợ thuê, bảo kê”; Kế hoạch 807/KHCĐ-CATP-PV11 về “phòng, chống

tội cướp giật, trộm cắp tài sản”; Kế hoạch số 229/KH-CATP-PV11-PC45 về

“thực hiện một số biện pháp cấp bách, phòng ngừa tội phạm giết người do

nguyên nhân xã hội”; Kế hoạch số 49/KH-CATP-PV11 về “Đấu tranh phòng,

chống tệ nạn cờ bạc trên địa bàn thành phố”; Kế hoạch số 01/KH-CATP-

PV11-PC47 về “đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy trên địa bàn thành

phố Đà Nẵng”; Kế hoạch số 65/KH-CATP-PC46 về “đấu tranh với tội phạm

lợi dụng chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với Việt kiều hồi hương để nhập

khẩu xe ôtô nhằm mục đích buôn lậu, trốn thuế” và nhiều kế hoạch về tăng

cường công tác quản lý cư trú, kiểm tra cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm đồ,

kinh doanh lưu trú, massage, vũ trường, quán bar, quán karaoke, kinh doanh

dịch vụ bảo vệ, kiểm tra công tác quản lý vũ khí, vật liệu nổ…

Qua triển khai các chương trình, kế hoạch công tác, nhất là các kế hoạch

PCTP theo chuyên đề, Công an thành phố đã tổ chức phòng ngừa, đấu tranh

với loại tội phạm này theo chuyên đề từ thành phố, xuống tận quận, huyện,

phường, xã trên địa bàn thành phố. Từng bước nâng cao hiệu quả công tác

phòng ngừa, tăng cường công tác tuần tra mật phục tại địa bàn dân cư thường

xảy ra các vụ cướp giật tài sản, tập trung truy xét nhanh các vụ án cướp giật

tài sản xảy ra trên từng địa bàn, nhất là các vụ cướp giật tài sản xảy ra .

Ngay sau khi thành lập theo Quyết định 6743/QĐ-UBND của Chủ tịch

UBND thành phố, lực lượng chống cướp giật và các loại tội phạm khác, đã

62

chủ động lên sơ đồ những địa bàn, khu vực hoặc những thời điểm thường xảy

ra cướp giật tài sản để có phương án chốt chặn, mật phục, đồng thời không

quản ngại ngày đêm, gian khổ, nắng gió và hiểm nguy, luôn âm thầm chia

nhau thành nhiều tổ lên đường làm nhiệm vụ tuần tra trinh sát, hóa trang mật

phục bám sát địa bàn trên từng tuyến đường, góc phố, khu dân cư. Với tinh

thần cương quyết tấn công tội phạm, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu

cũng như triển khai công tác tuần tra mật phục 24/24 giờ, từ ngày thành lập đã

tổ chức trên 16.950 ca, với hơn 974.000 lượt Công an, Bộ đội biên phòng

thành phố tham gia tuần tra vũ trang phòng chống tội phạm; đã tiếp nhận,

tham gia giải quyết trên 1.455 thông tin liên quan đến tội phạm, xác minh,

làm rõ 341 vụ vi phạm pháp luật, làm rõ 169 vụ phạm pháp hình sự, bắt 276

đối tượng phạm tội, trong đó đã bố trí lực lượng bắt quả tang 47 vụ/98 đối

tượng cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố.

Lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an thành

phố Đà Nẵng thường xuyên phối hợp quản lý giáo dục đối tượng tại địa bàn

cơ sở, nắm tình hình các đối tượng, phối hợp tổ chức phát động phong trào

quần chúng tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội cướp

giật nói riêng trong địa bàn dân cư. Việc quản lý nhân khẩu, quản lý ngành

nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự, khách sạn, nhà trọ, các cơ sở

kinh doanh dịch vụ như quán bar, vũ trường, karaoke, hớt tóc thanh nữ… góp

phần phát hiện những biểu hiện nghi vấn, phát hiện các đối tượng, các băng,

nhóm chuẩn bị hoặc đang hoạt động phạm tội cướp giật, cũng như sự xuất

hiện, di biến động của các đối tượng nghi vấn để có biện pháp phối hợp đấu

tranh ngăn chặn.

Bên cạnh những kết quả đạt được thì sự phối hợp còn bộc lộ những hạn

chế, thiếu sót nhất định như: lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự

xã hội chưa làm tốt công tác quản lý tạm trú, tạm vắng; chưa nắm chắc được

lai lịch, hoạt động hiện tại của các đối tượng thuộc diện quản lý nghiệp vụ của

ngành; chưa phát hiện được đối tượng mới đến cư trú và gây án trên địa bàn

63

mình quản lý. Bên cạnh đó, việc tiếp nhận tin báo tố giác về tội cướp giật của

Công an xã, phường, thị trấn còn hạn chế, chưa nắm bắt được những thông tin

cần thiết về vụ án cướp giật xảy ra, đôi lúc còn có thái độ thờ ơ làm cho bị hại

hoặc người dân ngại trình báo thông tin về vụ án, do đó thiếu thông tin cung

cấp cho lực lượng chuyên trách.

Lực lượng Cảnh sát giao thông, cảnh sát trật tự Công an thành phố có vai

trò quan trọng trong đấu tranh phòng chống tội cướp giật tài sản. Phần lớn các

đối tượng phạm tội cướp giật tài sản đều sử dụng phương tiện gây án là xe

gắn máy, gắn biển số giả, biển số mờ, làm cong biển số, xe thuê hoặc mua

không sang tên… nên trong quá trình tuần tra, kiểm soát 02 lực lượng tiến

hành kiểm tra, lập biên bản tạm giữ phương tiện… sẽ góp phần hạn chế điều

kiện gây án của đối tượng. Mặt khác, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tuần

tra kiểm soát, lực lượng Cảnh sát giao thông, cảnh sát trật tự còn hỗ trợ lực

lượng hoặc quần chúng nhân dân truy đuổi, bắt giữ đối tượng gây án và thu

giữ tang vật vụ án.

2.3. Nhận xét, đánh giá kết quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội

cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Trong những năm qua, mặc dù tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong

nước nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng gặp nhiều khó khăn, nhiều

chính sách pháp luật về phòng, chống tội phạm chưa hoàn thiện đã tác động

xấu đến công tác đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn thành phố. Tuy nhiên,

sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo xuyên suốt của Thành uỷ, UBND thành phố;

sự vào cuộc đồng bộ, mạnh mẽ và quyết liệt của các cấp, các ngành trên địa

bàn thành phố mà nòng cốt là lực lượng Công an thành phố, qua đó tạo sự

chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức đến hành động của đông đảo cán bộ, Đảng

viên và nhân dân góp phần huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống

chính trị, mọi tầng lớp nhân dân trong công tác đấu tranh phòng chống tội

phạm nói chung, tội cướp giật tài sản nói riêng, cùng góp phần giữ vững an

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường phát triển du lịch bền

64

vững. Đạt được kết quả trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có một số

nguyên nhân chủ yếu sau:

Một là, cấp ủy và chính quyền các cấp đã nêu cao vai trò lãnh đạo, chỉ

đạo, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc trong việc triển khai thực hiện công tác

phòng chống tội phạm nói chung, tội cướp giật tài sản nói riêng và vai trò

gương mẫu của cán bộ, đảng viên, các tổ chức, cơ sở đảng trong công tác đấu

tranh, phòng chống đối với loại tội phạm này.

Hai là, UBND các cấp, các sở, ban, ngành, tổ chức chính trị xã hội đã có

nhiều chương trình, kế hoạch phòng, chống tội phạm cụ thể phù hợp với tình

hình thực tế và gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.

Ba là, các cấp uỷ Đảng, chính quyền thường xuyên chỉ đạo các ngành

đoàn thể tập trung thực hiện tốt Nghị quyết liên tịch, kết hợp xây dựng đời

sống văn hoá ở khu dân cư với xây dựng mô hình “Tổ dân phố không có tội

phạm và tệ nạn xã hội” và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Bốn là, Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam thành phố, các đoàn thể, cơ

quan, ban, ngành liên quan đã phát huy vai trò tích cực trong tuyên truyền,

vận động nhân dân tham gia tố giác, đấu tranh phòng, chống tội phạm nói

chung, tội cướp giật tài sản nói riêng.

Năm là, trong quá trình thực hiện cấp ủy và chính quyền các cấp đã gắn

công tác phòng, chống tội phạm nói chung, tội cướp giật tài sản nói riêng với

các chương trình, kế hoạch phòng, chống tội phạm, phòng, chống ma túy, của

thành phố, đặc biệt là các chương trình an sinh xã hội của thành phố như:

chính sách cho vay vốn đối với hộ nghèo, giải quyết việc làm, nhà ở; cho

những đối tượng đặc xá, tù tha có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn làm ăn,

tái hòa nhập cộng đồng; gặp gỡ đối thoại với số thanh thiếu niên hư, chậm

tiến để nắm bắt tâm tư tình cảm của các em để giao cho các ngành chức năng

có biện pháp hỗ trợ (tạo công ăn việc làm, hỗ trợ vay vốn, miễn giảm tiền học

phí, mua sắm phương tiện đi lại…) để các em có điều kiện phấn đấu, tiến bộ.

Ngoài ra thành phố còn tạo điều kiện và động viên khen thưởng bằng vật chất

65

đối với số người cai nghiện ma tuý hiệu quả, phấn đấu hoàn lương trở thành

công dân có ích cho xã hội.

Sáu là, lực lượng Công an đã phát huy vai trò nòng cốt trong công tác

tham mưu, hướng dẫn và tổ chức tấn công trấn áp tội phạm, đảm bảo trật tự

an toàn xã hội, cụ thể:

- Đã chủ động xây dựng các kế hoạch chuyên đề để tập trung đấu tranh

quyết liệt với các băng, nhóm tội phạm có tổ chức, trong đó có tội phạm

chuyên cướp giật tài sản tại các địa bàn, tuyến, khu du lịch và quản lý chặt

chẽ số đối tượng này, không để chúng có điều kiện hoạt động, gây án;

- Công an các đơn vị, địa phương đã chủ động có kế hoạch tổ chức thực

hiện các mặt công tác nghiệp vụ và gắn trách nhiệm, chỉ tiêu các mặt công tác

với từng lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ chiến sỹ. Công tác nghiệp vụ đã được các

đơn vị chú trọng hơn, gắn chặt với các mặt công tác chuyên môn của từng

đơn vị, từng lực lượng và việc thực hiệncác Kế hoạch chuyên đề về PCTP của

lãnh đạo Công an thành phố. Bước đầu đã tạo ra những chuyển biến tích cực

trong công tác phòng, chống tội phạm, góp phần đảm bảo tình hình ANTT

trên địa bàn.

Bảy là, lực lượng quân sự, công an, dân phòng, bảo vệ dân phố đã phối

hợp tốt trong công tác phòng, chống tội phạm theo các Quyết định

8394/2015/QĐ-UBND ngày 09/11/2015 của UBND thành phố về hoạt động

phối hợp tuần tra, kiểm soát bảo vệ ANTT ở địa bàn dân cư và Quyết định số

6743/QĐ-UBND ngày 07/9/2010 của UBND thành phố về thành lập lực

lượng chống cướp giật và tội phạm khác trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

UBND thành phố đã chi ngân sách của địa phương để các lực lượng này hoạt

động. Xây dựng và triển khai đề án “Phân bổ dân cư” trên địa bàn thành phố;

chia nhỏ mỗi tổ dân phố chỉ từ 25 đến 40 hộ để tạo điều kiện cho công tác

quản lý ANTT.

Tuy nhiên, tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội cướp giật tài sản

nói riêng trong những năm quan vẫn diễn biến khó lường, phức tạp và có tăng

66

có giảm; tỷ lệ điều tra khám phá án đối với án cướp giật tài sản còn thấp; công

tác tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân, nhất là trong thanh, thiếu

niên chưa thường xuyên liên tục, trong khi số lượng thanh thiếu niên vi phạm

pháp luật chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu thành phần độ tuổi phạm tội; một số

cấp, ngành còn thờ ơ trong việc tham gia vào công tác đấu tranh, phòng chống

tội phạm nói chung, tội cướp giật tài sản nói riêng; việc phối hợp trao đổi

thông tin tội phạm giữa các lực lượng còn hạn chế, chưa chủ động phát hiện

và giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh liên quan đến tình hình

ANTT,... Những tồn tại nêu trên do nhiều nguyên nhân trong có một số

nguyên nhân sau:

Một là, một số cấp ủy đảng, chính quyền, sở, ban, ngành, đoàn thể tuy có

quan tâm đến công tác phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội

cướp giật tài sản nói riêng, nhưng chưa lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt nên việc tổ

chức thực hiện có lúc, có nơi chưa thường xuyên, liên tục, có nơi chưa gắn kết

chặt chẽ thực hiện chương trình, kế hoạch phòng ngừa tình hình tội phạm nói

chung, tình hình tội cướp giật tài sản nói riêng với các chương trình mục tiêu

phát triển kinh tế - xã hội khác nên kết quả đạt được còn hạn chế.

Hai là, việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước liên quan đến ANTT

ở một số ngành và các đơn vị, địa phương có nơi còn bộc lộ nhiều sơ hở đã

tạo điều kiện cho bọn tội phạm gây án. Một số nơi vẫn còn tư tưởng xem

trách nhiệm phòng, chống tội phạm là của cơ quan chức năng nên chưa phát

huy được sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong phòng ngừa, đấu tranh

phòng, chống tội phạm nói chung, tội cướp giật tài sản nói riêng.

Ba là, công tác đấu tranh, phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tội

cướp giật tài sản nói riêng của các ngành chức năng tuy đã đạt được nhiều kết

quả nhưng có nơi, có lúc chưa quyết liệt, thiếu nhạy bén kịp thời. Công tác

phối hợp tuần tra kiểm soát đảm bảo ANTT ban đêm chưa được thường

xuyên, liên tục, kết quả đạt được còn hạn chế. Công tác quản lý hành chính

nhà nước về ANTT còn nhiều sơ hở; Công tác quản lý đối tượng, quản lý địa

67

bàn chưa chặt chẽ; công tác quản lý, cảm hóa, giáo dục đối tượng và tạo điều

kiện cho đối tượng tái hòa nhập cộng đồng tuy có chuyển biến nhưng kết quả

đạt được còn hạn chế.

Bốn là, công tác nghiệp vụ của lực lượng Công an thành phố tuy đã phát huy

hiệu quả trong công tác phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, nhưng vẫn

chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, còn bộc lộ những tồn tại hạn, chế nhất định.

Năm là, công tác phối hợp triển khai các Nghị quyết liên tịch giữa Công

an với các ban ngành đoàn thể chưa thường xuyên, đồng bộ do vậy hiệu quả

chưa cao, nhất là trong quản lý giáo dục người lầm lỗi tại cộng đồng dân cư;

công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục chưa thường xuyên, chưa đến được

đối tượng có nguy cơ cao; Công tác phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã

hội trong quản lý con em chưa chặt chẽ, thường xuyên nên dẫn đến tình trạng

học sinh, sinh viên bỏ học, vi phạm pháp luật có xu hướng gia tăng...

Tiểu kết chương 2

Chương 2, Luận văn đã nghiên cứu, làm rõ tình hình, kết quả hoạt

động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà

Nẵng từ năm 2014 đến 06 tháng đầu năm 2019. Qua đó đã đưa ra một số

vấn đề có liên quan đến phòng ngừa tình hình tội phạm này; phác họa rõ

nét diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm hình sự nói chung, tội cướp

giật tài sản nói riêng.

Đồng thời, luận văn đã nghiên cứu các đặc điểm hình sự của tình hình tội

cướp giật tài tên địa bàn thành phố Đà Nẵng; nguyên nhân điều kiện tồn tại và

phát triển của loại tội phạm này; phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội

phạm; công tác tổ chức hoạt động phòng ngừa và kết quả đạt được, cũng như

những hạn chế tồn tại, những nguyên nhân trong quá trình tổ chức các hoạt

động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà

Nẵng. Những kết quả nghiên cứu này là cơ sở quan trọng để dự báo tình hình

tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

68

CHƯƠNG 3

DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA

TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN

THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

3.1. Dự báo hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

3.1.1. Cơ sở dự báo

Những cơ sở chủ yếu để dự báo tình hình tội cướp giật tài sản trên địa

bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới:

- Thứ nhất, Đà Nẵng là một trong những trung tâm du lịch của Việt

Nam, hàng năm thu hút một lượng lớn khách du lịch trong và ngoài nước.

Bên cạnh đó, kinh tế xã hội trong những năm vừa qua đã có bước chuyển biến

vượt bậc, như xây dựng đô thị, đầu tư cơ sở hạ tầng, giao lưu văn hóa, thương

mại, dịch vụ... Đời sống nhân dân ngày được nâng cao, tài sản của nhân dân

ngày càng nhiều, mức độ lưu chuyển tài sản ngày càng tăng.

- Thứ hai, cùng với những mặt tích cực của cơ chế thị trường góp phần

phát triển xã hội thì mặt trái của nó cũng đã tạo đà phân hóa xã hội ngày càng

sâu sắc. Tình trạng thất nghiệp hoặc không có nghề nghiệp ổn định kéo dài,

lối sống xa hoa trụy lạc, thói chây lười lao động, quen sống hưởng thụ, các tệ

nạn xã hội, nghiện ma túy, cờ bạc ngày càng gia tăng.

- Thứ ba, căn cứ vào thực tiễn diễn biến, bản chất, quy luật phát triển vận

động của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố từ năm 2014 đến 06

tháng đầu năm 2019 cho thấy loại tội phạm này hoạt động rất phức tạp, khó lường

có năm tăng, có năm giảm về số lượng vụ án cướp giật, nhưng số đối tượng tham

gia cướp giật ngày càng tăng; mức độ liên kết thành băng, nhóm ngày một nhiều;

mức độ và phạm vi hoạt động ngày càng rộng, cá biệt là hoạt động cướp giật tài

sản của các du khách người nước ngoài trên địa bàn vẫn không giảm.

- Thứ tư, trong những năm qua, lực lượng chức năng thực hiện công tác

69

phòng chống tội phạm cảu thành phố Đà Nẵng đã tập trung nhiều biện pháp

phòng ngừa và đấu tranh, tỉ lệ vụ án cướp giật khám phá ngày càng tăng.

Nhưng trong quá trình tiến hành, vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại, đặc biệt là

trong tổ chức hoạt động phòng ngừa xã hội cũng như phòng ngừa nghiệp vụ.

Lực lượng chuyên trách thực hiện phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

còn thiếu, trình độ năng lực không đồng đều, các trang thiết bị còn thiếu, kinh

phí hoạt động còn hạn hẹp. Điều này đã ảnh hưởng đến hiệu quả công tác

phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

3.1.2. Dự báo về diễn biến hoạt động của tội cướp giật tài sản trên địa

bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới

Xuất phát từ những cơ sở dự báo nêu trên, tác giả xin đưa ra một số nhận

định về tình hình tội cướp giật tài sản trong thời gian tới trên địa bàn thành

phố Đà Nẵng như sau:

- Một là, trong những năm tới tình hình hoạt động của tội cướp giật sẽ

tiếp tục diễn biến khó lường, có tăng, có giảm, với tính chất, mức độ hoạt

động ngày càng tinh vi, xảo quyệt, manh động, liều lĩnh. Quy mô, hình thức,

xu hướng trong thời gian tới sẽ hoạt động theo băng, nhóm, có sự phân công

vai trò trách nhiệm rõ ràng, cấu kết hoạt động chặt chẽ hơn, phạm tội chuyên

nghiệp hơn, hoạt động trên nhiều địa bàn, tuyến du lịch nơi tập trung nhiều du

khách, người dân đến tham quan, du lịch, kinh doanh dịch vụ. Chúng cấu kết

với nhau không chỉ hoạt động ở một khu vực, một địa bàn mà sẽ hoạt động

trên nhiều tuyến, nhiều địa bàn và có xu hướng hoạt động liên quận, liên tỉnh.

- Hai là, phương thức thủ đoạn hoạt động phạm tội cướp giật rất đa

dạng, phức tạp. Chúng có sự chuẩn bị chu đáo trước khi thực hiện hành vi

phạm tội, tiến hành gây án một cách bất ngờ, nhanh chóng, bằng cách sử dụng

xe môtô dạo quanh các tuyến đường, địa bàn nơi tập trung đông dân cư nắm

tình hình, tìm sự sơ hở, mất cảnh giác của nạn nhân để nhanh chóng giật lấy

tài sản rồi tẩu thoát, đôi lúc tiến hành gây án táo bạo, trắng trợn, làm cho

người bị hại hoảng sợ. Phương tiện gây án chủ yếu vẫn là xe môtô có phân

70

khối lớn, sử dụng biển số giả, biển số trộm cắp được hoặc bẻ cong biển số,

dán băng keo và thay đổi biển số, màu sơn của xe. Đối tượng cướp giật tài sản

ngày càng có kinh nghiệm hơn trong che giấu tội phạm và đối phó với cơ

quan chức năng, xu hướng sử dụng vũ khí để chống trả khi bị truy đuổi bằng

dao, kim tiêm nhiễm HIV ngày càng tăng.

- Ba là, thành phần các đối tượng trong các vụ án cướp giật có xu hướng trẻ

hóa và đa dạng hơn. Các đối tượng phạm tội ở độ tuổi từ 16 đến 30 tuổi ngày

càng tăng, tập trung vào những đối tượng nghiện hút ma túy, có tiền án tiền sự,

các đối tượng hoạt động lưu manh chuyên nghiệp, ngoài ra, có thêm nhiều đối

tượng chưa có tiền án, tiền sự, không có nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không

ổn định câu kết lại với nhau thực hiện hành vi cướp giật. Đối tượng hoạt động

cướp giật có cả nam, lẫn nữ, là người có hộ khẩu thường trú trong và ngoài thành

phố Đà Nẵng, nhưng chủ yếu là nam giới, có trình độ văn hóa thấp. Điều kiện

sống và hoàn cảnh gia đình của các đối tượng thường không hoàn hảo, cá biệt,

có trường hợp đối tượng phạm tội xuất phát từ gia đình khá giả, cán bộ nhưng do

tiếp thu các mặt trái của xã hội đi vào con đường phạm tội.

- Bốn là, tài sản các đối tượng hoạt động cướp giật nhằm vào chủ yếu

vẫn là các tài sản được quản lý dưới dạng mang theo người như: ôm, đeo,

mang, cầm, nắm hoặc được cài ở trên xe với các tài sản gọn, nhẹ, có giá trị

như: dây chuyền, vòng vàng, túi xách, điện thoại di động...

- Năm là, đối tượng mà tội cướp giật nhằm vào thường là phụ nữ và các

du khách là người nước ngoài khi mang theo tài sản bên người.

- Sáu là, về thời gian và địa bàn gây án. Thời gian gây án cả ngày lẫn đêm.

Địa bàn hoạt động vẫn tập trung vào các địa bàn, khu vực, tuyến du lịch có đông

du khách, người dân đến tham quan, du lịch, có các hoạt động kinh doanh, như

tuyến đường Võ Nguyên Giáp, địa bàn quận Hải Châu, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn.

- Bảy là, về nơi tiêu thụ, thông thường đối tượng phạm tội cướp giật tài

sản không cần chuẩn bị trước nơi tiêu thụ, các đối tượng có thể tiêu thụ tài sản

cướp giật được ở các tiệm vàng, cửa hàng điện thoại di động, tiệm cầm đồ

71

trong và ngoài thành phố hoặc rao bán trên mạng xã hội.

Dự báo về xu hướng, đối tượng, địa bàn, phương thức, phương tiện hoạt

động của tội cướp giật tài sản còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan, chủ

quan trong công tác phòng ngừa, điều tra, khám phá đối với loại tội phạm

này. Tuy nhiên, từ những dự báo này cần có kế hoạch nghiên cứu cụ thể cũng

như tiến hành đồng bộ các giải pháp cho phù hợp để phục vụ công tác phòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời

gian tới đạt hiệu quả hơn.

3.2. Giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

3.2.1. Cấp ủy, chính quyền các cấp tích cực tổ chức chỉ đạo triển khai

thực hiện các biện pháp phòng, chống tội phạm trên địa bàn thành phố

Tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng là một hiện tượng

xã hội phức tạp, phát sinh, tồn tại và phát triển từ các nguyên nhân của đời

sống xã hội, vì vậy, muốn phòng ngừa có hiệu quả tội phạm nói chung và tội

cướp giật tài sản nói riêng đòi hỏi phải có sự tham gia của tất cả các lực lượng

xã hội. Do vậy, các lực lượng cần thực hiện tốt các nội dung sau:

Tiếp tục tham mưu xây dựng chương trình hành động, tổ chức quán triệt,

thực hiện Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 22-6-2015 của Bộ Chính trị “về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự trong

tình hình mới”, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh, kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị số

48-CT/TW ngày 22-10-2010 của Bộ Chính trị “về tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”, Chỉ

thị số 09-CT/TW ngày 01-12-2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “về

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh

Tổ quốc trong tình hình mới”, Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 26-3-2008 của Bộ

Chính trị “về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và

kiểm soát ma túy trong tình hình mới”; Quyết định 623/QĐ-TTg ngày

14/4/2016 về phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn

72

2016 – 2025 và định hướng đến năm 2030; Chỉ thị số 37-CT/TU ngày

20/8/2014 của Ban Thường vụ Thành ủy về “tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ

đạo công tác phòng, chống, kiểm soát tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn

thành phố”; Chỉ thị số 24-CT/TU ngày 10-8-2009 và Chỉ thị số 25-CT/TU

ngày 20-10-2009 của Thành ủy về “đẩy mạnh công tác phối hợp, giúp đỡ các

gia đình có hoàn cảnh đặc biệt nghèo, học sinh bỏ học và thiếu niên hư, vi

phạm pháp luật” và “phòng chống bạo lực gia đình”; Kế hoạch số 7733/KH-

UBND ngày 26-11-2009 của UBND thành phố về “quản lý, giúp đỡ và phòng

ngừa nguy cơ thiếu niên vi phạm pháp luật, thiếu niên hư giai đoạn 2009-

2015”; Quyết định số 19/QĐ-UBND ngày 07-8-2009 của UBND thành phố

về phê duyệt đề án “Đổi mới công tác tuyên truyền vận động toàn dân tham

gia phòng, chống tội phạm và xây dựng mô hình phòng chống tội phạm trên

địa bàn thành phố Đà Nẵng”; Quyết định số 28/2014/QĐ-UBND ngày

06/9/2014 của UBND thành phố về ban hành “Quy chế phối hợp lập hồ sơ và

tổ chức cai nghiện ma tuý trên địa bàn thành phố”; Kế hoạch 7104/KH-

UBND ngày 03/6/2015 của UBND thành phố về “Cảm hóa, giáo dục, giúp đở

thanh thiếu niên sử dụng trái phép ma túy trên địa bàn thành phố”; Quyết

định 5393/QĐ-UBND ngày 10/8/2016 của UBND thành phố về việc Ban

hành Chiến lược phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2025 và định hướng

đến năm 2030 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; Quyết định 6111/QĐ-UBND

ngày 07/9/2016 của UBND thành phố về việc Phê duyệt Đề án thực hiện mục

tiêu “Không có người nghiện ma túy không được kiểm soát trong cộng đồng

trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2020”.

Thành ủy, UBND thành phố tăng cường công tác chỉ đạo các sở, ban,

ngành nâng cao vai trò đối với công tác đấu tranh PCTP; phòng, chống ma túy;

phòng, chống tệ nạn xã hội và đưa công tác này vào nội dung chương trình

công tác của đơn vị, địa phương. Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của

Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm, HIV/AIDS, tệ nạn xã hội và xây dựng

phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ từ quận đến phường nhằm nâng cao hiệu

73

quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; phòng, chống ma túy; phòng,

chống tệ nạn xã hội, trọng tâm là làm tốt công tác chuyển biến địa bàn phức tạp

về ANTT trở thành địa bàn không có tội phạm hoặc giảm đến mức thấp nhất.

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Đề án đổi mới công tác tuyên truyền vận

động toàn dân tham gia PCTP và xây dựng mô hình PCTP trên địa bàn thành

phố Đà Nẵng theo Quyết định số 19/2009/QĐ/UBND của UBND thành phố.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho số đối tượng có nguy

cơ cao; các đối tượng vi phạm pháp luật; các chủ cơ sở kinh doanh nhà trọ,

nhà nghỉ, khách sạn, cầm đồ, karaoke; các tổ xe thồ tự quản. Tham gia quản

lý, cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ người vi phạm tại gia đình và cộng đồng khu

dân cư kết hợp với biện pháp quản lý, giáo dục tại xã, phường đồng thời lập

hồ sơ đưa đối tượng vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, trung tâm cai

nghiện ma túy nhằm góp phần hạn chế phát sinh tội phạm.

Nâng cao năng lực trách nhiệm trong quản lý Nhà nước về ANTT ở cơ

sở, nhất là quản lý khu dân cư, tăng cường kiểm tra, quản lý các dịch vụ kinh

doanh ngành nghề có điều kiện về ANTT. Tăng cường công tác tuần tra, kiểm

soát phòng ngừa tình hình tội phạm. Quản lý chặt số đối tượng sau cai nghiện

tại địa phương, số đang điều trị bằng chất Methadone, làm giảm tỷ lệ nghiện

mới, tái nghiện.

Kiện toàn, củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng an

ninh cơ sở nhất là lực lượng Bảo vệ dân phố, Dân phòng theo Nghị định

38/NĐ-CP của Chính phủ. Triển khai thực hiện có hiệu quả công tác phối hợp

tuần tra phòng chống tội phạm theo Quyết định 8394/QĐ-UBND ngày

09/11/2015 của UBND thành phố về công tác tuần tra, chốt chặn, mật phục

theo kế hoạch của thành phố và trên địa bàn quận; Quyết định số 6743/QĐ-

UBND ngày 07/9/2010 về thành lập lực lượng chống cướp giật và tội phạm

khác trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trong đó có phương án bố trí lực lượng

tuần tra, mật phục hợp lý để kịp thời phát hiện, ngăn chặn tội cướp giật tài

sản, lộ trình tuần tra chú ý các địa bàn, tuyến trọng, đặc biệt là nhà hàng, dịch

74

vụ ăn uống, mua sắn, tham quan, du lịch tập trung nhiều du khách.

3.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục ý thức cảnh giác tự

bảo vệ tài sản cho du khách; ý thức tôn trọng pháp luật và tinh thần đấu

tranh phòng chống tội phạm trong nhân dân

Thực tế trong công tác đấu tranh phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

thời gian qua cho thấy một trong những vấn đề làm nảy sinh tội phạm này là do

ý thức chủ quan, mất cảnh giác của khách du lịch, người dân trong việc quản lý

tài sản mang theo, dẫn đến những sơ hở để bọn tội phạm lợi dụng cướp giật tài

sản tại các địa bàn, khu vực, tuyến trọng điểm. Chính vì vậy để phòng ngừa tình

hình loại tội phạm trên, đòi hỏi các lực lượng cần phải làm tốt hơn nữa công tác

tuyên truyền đến các tầng lớp nhân dân, du khách tham quan, du lịch trên địa bàn

thành phố, đến những người hướng dẫn viên du lịch, những người quản lý của

các đoàn khách du lịch, đoàn khách quốc tế, những người kinh doanh du lịch,

dịch vụ tại các địa bàn, khu vực, tuyến trọng điểm.

Cần tập trung tuyên truyền về tình hình, phương thức thủ đoạn của tội

phạm nói chung và cướp giật tài sản nói riêng trên địa bàn thành phố thời gian

qua; tuyên truyền để họ nắm được phương thức, thủ đoạn, thời gian, địa điểm

thường xảy ra cướp giật; giáo dục họ về ý thức, trách nhiệm trong việc tự bảo

vệ tài sản của mình, tránh sơ hở mà tội phạm có thể lợi dụng. Ngoài ra phải

tuyên truyền cho mọi người cách đối phó, giải quyết khi bị cướp (cách tri hô,

cách báo tin cho cơ quan chức năng…). Phương pháp, hình thức tuyên truyền

phải đa dạng, phù hợp với từng loại đối tượng cụ thể:

- Đối với du khách, nhất là du khách người nước ngoài khi tuyên truyền

gặp rất nhiều khó khăn như bất đồng ngôn ngữ, họ lại thường xuyên di

chuyển và nếu không cẩn thận sẽ làm cho du khách hoang mang lo sợ, nghĩ

rằng ở Đà Nẵng không an toàn, làm mất đi ý nghĩa của hoạt động du lịch,

tham quan, nghỉ ngơi. Do vậy, sử dụng nội dung hình thức, phương pháp

75

tuyên truyền phải phù hợp linh động, sáng tạo nhằm tạo cho du khách an tâm,

tin tưởng vào cơ quan chức năng, vừa nâng cao ý thức cảnh giác bảo vệ tài

sản. Một số hình thức tuyên truyền có thể mang lại hiệu quả cao như:

+ Thông qua Sở Du lịch để in những tờ rơi, tờ bướm nói về các thủ đoạn

cướp giật, các tuyến đường, khu vực công cộng thường xảy ra cướp giật, in

một số hình ảnh về hành vi cướp giật, số điện thoại liên lạc khi cần thiết để

các cơ sở lưu trú gửi đến du khách;

+ Phối hợp với các công ty du lịch, các khách sạn, nhà nghỉ phát những

tờ rơi tuyên truyền, yêu cầu họ thường xuyên nhắc nhở về ý thức cảnh giác tội

phạm cho du khách;

- Đối với quần chúng nhân dân, thực tế cho thấy nhiều vụ án cướp giật

tài sản, được sự giúp đỡ truy bắt của quần chúng đã bắt được đối tượng gây

án. Nhưng để nâng cao hơn nữa ý thức, trách nhiệm của quần chúng trong

công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản

nói riêng, lực lượng chuyên trách phải phối hợp với các cơ quan chức năng,

các đoàn thể, tổ chức, sử dụng linh hoạt các hình thức như:

+ Tổ chức các cuộc thi trên đài phát thanh, truyền hình về kiến thức pháp

luật, thủ đoạn hoạt động của tội phạm hoặc tổ chức các buổi giao lưu trực

tuyến với khán giả về chủ đề phòng ngừa tình hình tội phạm để mọi người

hưởng ứng;

+ Tuyên truyền về thủ đoạn hoạt động của tội phạm nói chung tội cướp

giật tài sản nói riêng; nêu gương điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt

về tinh thần cảnh giác, tích cực đấu tranh phòng chống tội phạm.

+ Sử dụng các tranh panô, áp phích, khẩu hiệu, tờ rơi để tuyên truyền,

vận động nhân dân phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm tại các địa bàn, khu

vực, tuyến thường xảy ra cướp giật tài sản.

Song song với các biện pháp tuyên truyền, vận động tập trung, cần chú ý

76

khai thác các hình thức tuyên truyền cá biệt như: vận động cơ quan, tổ chức

trên địa bàn trực tiếp đảm nhận và có trách nhiệm thực hiện các nội dung cụ

thể trong việc quản lý giáo dục, tiếp nhận và tạo điều kiện giúp đỡ công ăn

việc làm cho các đối tượng đang gặp khó khăn; giải quyết những vướng mắc

về gia đình, cuộc sống và cả về tư tưởng; phối hợp với các ban ngành, đoàn

thể cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ số thanh thiếu niên hư, vi phạm pháp luật, sử

dụng trái phép chất ma túy nhằm phát huy những mặt tích cực, hạn chế khắc

phục mặt tiêu cực, động viên các em phấn đấu, lao động chân chính, không

lâm vào con đường phạm tội.

Việc tổ chức tuyên truyền phải tiến hành thường xuyên, phối hợp giữa

các hình thức, có trọng tâm trọng điểm, phù hợp với tình hình thực tế của

từng địa bàn, khu vực, tuyến, có sự chỉ đạo tập trung thống nhất của các cấp

lãnh đạo, tránh hình thức qua loa, không sát thực với tình hình thực tế.

3.2.3. Cần phát hiện, bồi dưỡng, tuyên truyền nhân rộng các điển hình

tiên tiến trong phòng chống tội phạm nói chung và cướp giật tài sản nói

riêng; có chính sách cho những người tham gia bảo vệ ANTT tại cơ sở;

giải quyết tốt chính sách an sinh xã hội, tạo công ăn việc làm cho những

đối tượng thực sự gặp khó khăn, xây dựng môi trường sống lành mạnh tại

các địa bàn dân cư

Việc phát hiện, bồi dưỡng, tuyên truyền nhân rộng các điển hình tiên tiến

và có chế độ chính sách cho những người tham gia bảo vệ ANTT tại cơ sở là

nội dung quan trọng trong tổ chức phát động phong trào toàn dân bảo vệ

ANTQ, xây dựng tổ dân phố, thôn, xóm không có tội phạm và tệ nạn xã hội,

vừa là nhiệm vụ vừa là phương thức quan trọng của công tác tư tưởng nhằm

cổ động, tuyên dương kịp thời các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, động viên

mọi người cùng hành động, tự giác, hăng hái tham gia phòng, chống tội phạm

nói chung, tội cướp giật tài nói riêng, góp phần đảm bảo tình hình ANTT trên

77

địa bàn. Bên cạnh, các hình thức động viên, khen thưởng, biểu dương kịp thời

những gương người tốt, việc tốt, những người tham gia bảo vệ ANTT tại cơ

sở, các cơ quan thông tin đại chúng cần đổi mới và đẩy mạnh hơn nữa công

tác tuyên truyền; có phương pháp tiếp cận và cách viết phù hợp hơn để người

đọc, người nghe có sự cảm thông và từ đó làm theo; thông tin phải xác thực,

có sự lựa chọn kỹ càng, có sức lan tỏa để nhân rộng toàn xã hội.

Qua thực tế nghiên cứu cho thấy, số đối tượng phạm tội cướp giật tại

phần lớn đều không có công ăn việc làm hoặc công việc làm không ổn định,

không có nguồn thu nhập chính đáng nên rất dễ đi vào con đường phạm tội.

Vì vậy, tập trung giải quyết tốt chính sách xã hội, tạo công ăn việc làm cho

những đối tượng thực sự gặp khó khăn là nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa quan

trọng trong công tác quản lý, giáo dục đối tượng.

Công tác đấu tranh, phòng ngừa tình hình tội phạm, quản lý giáo dục đối

tượng phải gắn với chính sách phát triển kinh tế, văn hóa xã hội. Do vậy, hàng

năm, đều tiến hành rà soát lên danh sách, phân loại các loại đối tượng tù tha,

đặc xá và căn cứ vào đặc điểm giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp v.v... để giao

chỉ tiêu, số lượng cụ thể cho các ban, ngành, đoàn thể trực tiếp quản lý, cảm

hóa, giáo dục, giúp đỡ nhiều người lầm lỗi tiến bộ, nhiều đối tượng được hỗ

trợ tạo việc làm, cho vay vốn làm ăn để tạo điều kiện cho họ hòa nhập cộng

đồng không tái phạm.

3.2.4. Thường xuyên đảm bảo công tác thông tin, báo cáo về tội phạm

Củng cố, nâng cao chất lượng công tác trao đổi, thông tin, liên lạc giữa

các lực lượng, các đơn vị, địa phương theo hướng “nhanh chóng, kịp thời,

chính xác” trên tất cả các lĩnh vực liên quan đến hoạt động phòng ngừa tình

hình tội phạm nói chung, tội cướp giật tài sản tại nói riêng từ công tác báo

cáo, trao đổi nghiệp vụ, đến công tác xác minh thông tin vụ việc, quản lý địa

bàn, đối tượng,...

78

Tổ chức xâu chuỗi từng lực lượng từ thành phố, đến quận, huyện,

phường, xã và cùng tham gia chỉ đạo, hướng dẫn, cùng giải quyết đối với từng

vụ án nói chung, vụ án cướp giật tài sản tại nói riêng.

Trong công tác tiếp nhận và xử lý tin báo, tố giác tội cướp giật tài sản ,

cần thực hiện tốt các vấn đề sau:

- Khi tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm, cán bộ phải thể hiện sự quan

tâm chia sẻ, phải có thái độ lịch sự, hòa nhã, trấn an họ, làm cho người đến

báo tin có sự bình tĩnh, tin tưởng, từ đó khai báo đầy đủ, chính xác hơn.

- Cần thiết lập, quản lý và sử dụng có hiệu quả trang Website Công an

thành phố và hệ thống các hộp thư tố giác tội phạm. Những hộp thư này phải

được đặt tại những nơi dễ nhìn thấy và thông báo cho nhân dân, du khách biết

phản ánh và thường xuyên kiểm tra, xử lý kịp thời.

Củng cố, duy trì hoạt động 24/24h hệ thống Trung tâm 113 và hệ thống

Trung tâm thông tin chỉ huy, có như vậy mới tiếp nhận thông tin về tội cướp

giật tài sản kịp thời, đầy đủ, đồng thời kịp thời huy động các lực lượng phản

ứng nhanh, lực lượng công khai có mặt trên đường phố cùng tham gia công

tác phòng ngừa, truy bắt đối với loại tội phạm này. Việc duy trì và đảm bảo

hoạt động của hệ thống này sẽ làm tăng niềm tin của nhân dân vào cơ quan

chức năng, đảm bảo yêu cầu bí mật cho người cung cấp tin.

3.2.5. Nâng cao chất lượng hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa các

lực lượng trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên

địa bàn thành phố Đà Nẵng

Để công tác phối hợp giữa các lực lượng của thành phố Đà Nẵng trong hoạt

động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố được duy

trì thường xuyên, có hiệu quả, cần thực hiện tốt một số nội dung sau.

- Xây dựng, ban hành quy chế phối hợp trong công tác phòng, chống tội

cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trong đó có quy định quy

79

trình, nguyên tắc phối hợp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Thông

qua quy chế này, quy định quy trình, trách nhiệm, nhiệm vụ của một số lực

lượng chưa cụ thể đối với công tác phòng, chống tội cướp giật tài sản, nhằm

phát huy tối đa sức mạnh của các lực lượng. Bên cạnh đó, Quy chế cũng quy

định rõ chế tài xử lý nghiêm đối với những cá nhân, đơn vị không thực hiện

hoặc thực hiện không đúng với nội dung quy định của quy chế. Đồng thời,

thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả hoạt động phối hợp

giữa các lực lượng, nhằm kịp thời chấn chỉnh những tồn tại, hạn chế, giải

quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện quy chế, cũng như kịp

thời khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích, nêu cao tinh thần trách

nhiệm trong quá trình thực hiện quy chế.

Ngoài ra, các lực lượng cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các địa

phương có địa bàn giáp ranh như Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi,… tổ chức

các hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tội cướp giật tài sản

tại các địa bàn giáp ranh, các khu vực, tuyến du lịch, khu du lịch liền kề.

Công tác phối hợp cần được tiến hành thường xuyên, liên tục, trên tất cả các

lĩnh vực công tác như xác minh, trao đổi thông tin nghiệp vụ, thông tin đối

tượng, phối hợp tuần tra, kiểm soát địa bàn, xác minh truy bắt các loại đối

tượng, trong đó có tội cướp giật tài sản.

80

KẾT LUẬN

Tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng hiện diễn

biến khó lường, có tăng, có giảm, tuy nhiên hậu quả tác hại do chúng gây ra

rất nghiêm trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường du lịch của thành

phố. Vì vậy, nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về hoạt động phòng

ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, góp phần

hạn chế những hậu quả tác hại do tội phạm này gây ra.

Thực tiễn tiến hành các hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài

sản cho thấy các hoạt động phòng ngừa đã góp phần nắm chắc tình hình địa

bàn, khu vực, tuyến du lịch, khu du lịch; chủ động phát hiện, ngăn chặn, điều

tra, xử lý các băng, nhóm, đối tượng thực hiện hành vi cướp giật tài sản góp

phần kìm chế sự gia tăng của loại tội phạm này. Tuy nhiên bên cạnh những

kết quả đã đạt được, quá trình tiến hành các hoạt động phòng ngừa tình hình

tội cướp giật tài sản còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế nhất định. Những hạn

chế đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau.

Trên cơ sở làm rõ những mặt lý luận, cũng như việc đánh giá thực trạng

tiến hành các hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa

bàn thành phố Đà Nẵng, tìm ra những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của

những tồn tại, hạn chế, những cơ sở của dự báo và đưa ra những giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Những giải pháp này tập trung vào việc giải

quyết các tồn tại, hạn chế trong thực tiễn. Tuy nhiên, hoạt động phòng ngừa

tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là quá trình

tổng hòa các hoạt động cụ thể của các đơn vị, địa phương trên tất cả các lĩnh

vực của đời sống xã hội và chịu sự chi phối không nhỏ của đối tượng tiếp

nhận, vì vậy những nội dung mà tác giả đề cập có thể chưa hoàn toàn đáp ứng

được triệt để những vấn đề mà trong thực tiễn đòi hỏi. Tác giả rất mong nhận

được sự đóng góp ý kiến của các chuyên gia để luận văn được hoàn thiện hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Ngọc Anh (2005), “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật

về phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”, Tạp chí Công an nhân

dân (số 9), Hà Nội.

2. Bộ Công an (2005), Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam.

3. Lê Cảm (2001), “Nhân thân người phạm tội, một số vấn đề lý luận cơ

bản”, Tạp chí Tòa án nhân dân (số 10), Hà Nội.

4. Chính phủ (2004), Chỉ thị số 37/2004/CT-TTg ngày 8/11/2004 của Thủ

tướng Chính phủ về việc thực hiện Nghị quyết số 09 và chương trình

quốc gia phòng, chống tội phạm đến năm 2020, Hà Nội.

5. Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội (C45), Báo cáo tổng kết

và Kế hoạch công tác năm 2007, 2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013,

2014, 2015, 2016, 2017,2018.

6. Đà Nẵng (2017), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2017 và mục

tiêu phát triển 2018 của thành phố Đà Nẵng.

7. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005

của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

8. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ

thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.

9. Lê Thị Bích Hải (2015), Phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên

thực hiện trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, luận văn thạc sỹ luật học, Đại

học Luật Hà Nội.

10. Nguyễn Ngọc Hòa (2010), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. Công

an nhân dân, Hà Nội

11. Học viện Cảnh sát nhân dân (2002), Giáo trình Tội phạm học, Hà Nội.

12. Học viện CSND (2001), Giáo trình Tổ chức hoạt động phòng ngừa, phát

hiện, điều tra tội phạm cụ thể thuộc chức năng của lực lượng Cảnh sát

hình sự, Hà Nội.

13. Nguyễn Ngọc Hòa (2007), Phòng ngừa tội phạm trong tội phạm học,

Luật học.

14. Nguyễn Đồng Luyện (2007), Đấu tranh phòng chống tội phạm do người

chưa thành niên thực hiện trên địa bàn thành phố Hải Phòng, luận văn

thạc sỹ luật học, Đại học Luật Hà Nội.

15. Dương Tuyết Miên (2013), Tội phạm học đương đại, Nxb Chính trị -

hành chính, Hà Nội

16. Đặng Thanh Nga (2004), “Một số đặc điểm tâm lý của người chưa thành

niên phạm tội”, Tạp chí luật học số 4/2004, Hà Nội

17. Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội thành phố Đà Nẵng

(2017), Báo cáo chuyên đề thực hiện Đề án IV, Chương trình quốc gia

phòng chống tội phạm các năm 2013, 2014, 2015, 2016, 2017.

18. Lý Văn Quyền (2014), Phòng ngừa tội phạm do nữ giới thực hiện ở Việt

Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học luật Hà Nội

19. Lý Văn Quyền (2005), “Vai trò của Toà án trong việc phòng ngừa tội

phạm”, Tạp chí Luật học số 6/2005, Hà Nội

20. Phạm Văn Tỉnh (2007), Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở

Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

21. Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, Tòa án nhân dân các quận, huyện

thành phố Đà Nẵng (2017), Bản án hình sự sơ thẩm từ năm 2010 đến

năm 2015, Đà Nẵng

22. Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng (2018), Thống kê, thụ lý và giải

quyết các vụ án hình sự sơ thẩm, Hà Nội

23. Tổng cục Thống kê, dự án VIE/97/P14 (2001), Kết quả dự báo dân số

cho cả nước, các vùng địa lý - kinh tế và 61 tỉnh thành phố Việt Nam,

1999 - 2024, Hà Nội.

24. Tổng cục Thống kê (2008), Niên giám thống kê 2007, Nxb Thống kê, Hà

Nội.

25. Tổng cục Thống kê, dự án VIE/97/P14 (2001), Kết quả dự báo dân số

cho cả nước, các vùng địa lý - kinh tế và 61 tỉnh thành phố Việt Nam,

1999 -2024, Hà Nội.

26. Trung tâm Quốc gia Dự báo và Thông tin thị trường lao động, Cục việc

làm, 
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2012), Xu hướng việc làm

Việt Nam 2011, Hà Nội.

27. Trường Đại học luật Hà Nội (2008), Giáo trình Tâm lý học, Nxb Công

an nhân dân, Hà Nội

28. Trường Đại học luật Hà Nội (2008), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công

an nhân dân, Hà Nội

29. Trường Đại học luật Hà Nội (2015), Giáo trình tội phạm học, Nxb. Công

an nhân dân, Hà Nội

30. Đào Trí Úc (2000), Cơ sở khoa học của việc tổ chức phòng ngừa tội

phạm. Tội phạm học Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

31. Viện khoa học pháp lý - Bộ tư pháp (2004), Nghiên cứu, đánh giá, phân

tích tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật và hệ thống xử lý

tại Việt Nam, Hà Nội.

32. Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1994), Tội phạm học, Luật

Hình sự và Luật tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (2000), Tội phạm học Việt

Nam- một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

34. Võ Khánh Vinh (2000), Dự báo tình hình tội phạm, Tội phạm học Việt

Nam. Nxb CAND, Hà Nội.

35. Võ Khánh Vinh (2004), Bình Luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự,

Nxb CAND, Hà Nội.

36. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình tội phạm học, Trường Đại học Huế,

Nxb CAND, Hà Nội.

37. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, phần chung,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

38. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình tội phạm học, Nxb CAND, Hà Nội.

39. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần các tội

phạm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

40. Trần Vĩnh (2004), Hoạt động phòng ngừa tội phạm của lực lượng Cảnh

sát quản lý hành chính về trật tự xã hội ở nước ta hiện nay, đề tài Tiến sĩ

Luật học, Học viện CSND, Hà Nội.

41. Nguyễn Xuân Yêm (2013), Tội phạm học Việt Nam, tập 1, Nxb CAND,

Hà Nội.

BẢNG 2.1: THỐNG KÊ TÌNH HÌNH PHẠM PHÁP HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2014 ĐẾN 06 THÁNG ĐẦU NĂM 2019

Tổng số PPHS Trên lĩnh vực hình sự Trên lĩnh vực ma túy Trên lĩnh vực kinh tế Trên lĩnh vực môi trường

Năm Số vụ Số vụ Số vụ Số vụ Số vụ Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) So sánh tăng (+), giảm (-) so với năm 2011

553 0 483 87,342 1,447 01 0,181 11,031 61 08 2014

557 (+ 04); 0,72% 453 81,329 16,876 94 1,795 10 0 0 2015

595 (+ 42); 7,6% 484 81,345 16,639 99 2,017 12 0 0 2016

655 (+ 102); 18,4% 527 80,458 117 17,863 1,679 11 0 0 2017

668 (+ 115); 20,8% 546 81,737 115 17,216 1,048 07 0 0 2018

0 0 330 253 76,667 68 20,606 09 2,727 06 tháng đầu 2019

3.358 2.746 81,775 554 16,498 57 1,697 01 0,030 Tổng cộng

Nguồn: Công an thành phố Đà Nẵng

BẢNG 2.2: THỐNG KÊ CƠ CẤU TỘI PHẠM TRÊN LĨNH VỰC HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2014 ĐẾN 06 THÁNG ĐẦU NĂM 2019

Tội phạm xâm hại tài sản công dân Tội phạm xâm hại tính mạng, sức khỏe công dân Tội phạm xâm hại các khách thể khác

Năm Số vụ Số vụ Số vụ Số vụ Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tổng số PPHS trên lĩnh vực hình sự So sánh tăng (+), giảm (-) so với năm 2011

483 0 379 78,468 85 17,598 19 3,934 2014

453 (- 30); - 6,2% 347 76,600 89 19,647 17 3,753 2015

484 (+ 01); 0,21% 386 79,752 77 15,909 21 4,339 2016

527 (+ 44); 9,1% 423 80,266 74 14,042 30 5,693 2017

546 (+ 63); 13,04% 440 80,586 86 15,751 20 3,663 2018

205 81,028 46 253 18,182 02 0,791 06 tháng đầu 2019

2.746 2.180 79,388 457 16,642 109 3,970 Tổng cộng

Nguồn: Công an thành phố Đà Nẵng

BẢNG 2.3: THỐNG KÊ TÌNH HÌNH TỘI PHẠM CƯỚP GIẬT TÀI SẢN VÀ CÁC TỘI PHẠM HÌNH SỰ KHÁC XẢY RA TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2011 ĐẾN 06 THÁNG ĐẦU NĂM 2019

Giết người Cướp giật tài sản

Cướp tài sản

Trộm cắp tài sản

Năm

Tổng số vụ phạm pháp hình sự Tỷ lệ (%) Số vụ Tỷ lệ (%) Số vụ Tỷ lệ (%) Số vụ Tỷ lệ (%) Cố ý gây thương tích Tỷ lệ Số (%) vụ Các loại tội phạm khác Tỷ lệ Số (%) vụ Số vụ

483 13,251 15 3,106 17 3,520 316 65,424 52 10,766 19 3,934 64 2014

453 33 7,285 10 2,208 17 3,753 259 57,174 56 12,362 78 17,219 2015

484 46 9,504 09 1,860 15 3,099 289 59,711 45 9,298 80 16,529 2016

527 54 10,247 09 1,708 17 3,226 315 57,772 49 9,298 83 15,750 2017

546 47 8,608 05 0,916 07 1,282 339 62,088 67 12,271 81 14,835 2018

253 09 3,557 04 1,581 02 0,791 170 67,194 37 14,625 31 12,253 06 tháng đầu 2019

Nguồn: Công an thành phố Đà Nẵng

Tổng cộng 2.746 253 9,213 52 1,894 75 2,731 1.688 64,471 306 11,143 372 13,547

BẢNG 2.4: THỐNG KÊ ĐỊA BÀN XẢY RA TỘI PHẠM CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2014 ĐẾN 06 THÁNG ĐẦU NĂM 2019

Quận Hải Châu

Quận Thanh Khê

Quận Sơn Trà

Quận Liên Chiểu

Quận Ngũ Hành Sơn

Quận Cẩm Lệ

Huyện Hòa Vang

Năm

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Số vụ

Tỷ lệ (%)

Số vụ

Tỷ lệ (%)

Số vụ

Tỷ lệ (%)

Tổng số vụ cướp giật tài sản

19

29,688

15

23,438

10

15,625

06

9,375

07

10,938

03

4,688

04

6,250

06

18,182

04

12,121

07

21,212

04

12,121

06

18,182

03

9,091

03

9,091

64 2014

14

30,435

05

10,870

10

21,739

03

6,522

04

8,696

05

10,870

05

10,870

33 2015

11

20,370

09

16,167

07

12,963

12

22,222

06

11,111

04

7,407

05

9,259

46 2016

11

23,404

11

23,404

05

10,638

08

17,021

04

8,511

05

10,638

03

6,383

54 2017

01

11,111

0

0

02

22,222

04

44,444

01

11,111

0

0

01

11,111

47 2018

09

253

62

24,506

44

17,391

41

16,206

37

14,625

28

11,067

20

7,905

21

8,300

Nguồn: Công an thành phố Đà Nẵng

06 tháng đầu 2019 Tổng cộng

BẢNG 2.5: THỐNG KÊ THỜI GIAN XẢY RA TỘI PHẠM CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2014 ĐẾN 06 THÁNG ĐẦU NĂM 2019

Từ 6h – 10h

Từ 10h – 14h

Từ 14h – 19h

Từ 19h – 22h

Từ 22h – 06h sáng hôm sau

Năm

Tổng số vụ cướp giật tài sản

Số vụ

Số vụ

Tỷ lệ (%)

Số vụ

Tỷ lệ (%)

Số vụ

Tỷ lệ (%)

Số vụ

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

9,375

25

06

39,063

31

48,438

02

3,125

0

0

6,061

14

02

42,424

17

51,515

0

0

0

0

64 2014

8,696

17

04

36,957

21

45,652

04

8,696

0

0

33 2015

9,259

15

05

27,778

25

46,296

07

12,963

02

3,704

46 2016

13

07

14,894

27,660

16

34,043

08

17,021

03

6,383

54 2017

01

11,111

03

33,333

04

44,444

01

11,111

0

0

47 2018

09

253

25

9,881

87

34,387

114

45,059

22

8,696

05

1,976

Nguồn: Công an thành phố Đà Nẵng

06 tháng đầu 2019 Tổng cộng

BẢNG 2.6: THỐNG KÊ SỐ LƯỢNG ĐỐI TƯỢNG THAM GIA THỰC HIỆN TỘI PHẠM CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2014 ĐẾN 06 THÁNG ĐẦU NĂM 2019

01 đối tượng thực hiện

02 đối tượng thực hiện

03 đối tượng thực hiện

04 đối tượng thực hiện

Trên 04 đối tượng thực hiện

Năm

Tổng số vụ cướp giật tài sản

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Tỷ lệ (%)

Số vụ

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

01

1,563

33

51,563

11

17,188

17

26,563

3,125

02

01

3,030

21

63,636

04

12,121

05

15,152

6,061

02

2014 64

02

4,348

29

63,043

06

13,043

06

13,043

6,522

03

2015 33

05

9,259

30

55,556

05

9,259

08

14,815

11,111

06

2016 46

07

14,894

21

44,681

06

12,766

10

21,277

6,383

03

2017 54

01

11,111

04

44,444

02

22,222

02

22,222

0

0

2018 47

09

253

17

6,719

138

54,545

34

13,439

48

18,972

16

6,324

06 tháng đầu 2019 Tổng cộng

Nguồn: Công an thành phố Đà Nẵng

BẢNG 2.7: THỐNG KÊ HÌNH THỨC CƯỚP GIẬT TÀI SẢN ĐỐI VỚI NẠN NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2014 ĐẾN 06 THÁNG ĐẦU NĂM 2019

Nạn nhân đang đi bộ

Nạn nhân đang đi xe

Nạn nhân vừa ra khỏi cửa hàng. nơi ở. khách sạn.…

Nạn nhân vừa xuống xe ôtô

Nạn nhân vừa dừng xe máy. môtô

Năm

Tổng số vụ cướp giật tài sản

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

42,188

32,813

21

27

10,938

6,250

04

05

7,813

07

45,455

33,333

11

15

12,121

3,030

01

02

6,061

04

64 2014

36,957

36,957

17

17

8,696

6,522

03

05

10,780

04

33 2015

38,889

35,185

19

21

11,111

3,704

02

06

11,111

06

46 2016

38,298

36,170

17

18

10,638

4,255

02

05

10,638

05

54 2017

02

22,222

04

44,444

02

22,222

0

0

01

11,111

47 2018

09

253

87

34,387

102

40,316

28

11,067

12

4,743

24

9,486

06 tháng đàu 2019 Tổng cộng

Nguồn: Công an thành phố Đà Nẵng

BẢNG 2.8: THỐNG KÊ LOẠI TÀI SẢN BỊ CHIẾM ĐOẠT TRONG CÁC VỤ CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2014 ĐẾN 06 THÁNG ĐẦU NĂM 2019

Loại tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ cướp giật tài sản

Năm

Túi xách

Tài sản khác

Điện thoại di động

Tổng số vụ cướp giật tài sản

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Tỷ lệ (%)

Dây chuyền vàng Tỷ lệ Số (%) vụ

Máy tính xách tay. máy ảnh. Ipad. Tỷ lệ (%)

Số vụ

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

15

23,438

09

14,063

27

42,188

08

12,5

05

7,813

09

27,273

05

15,152

13

39,394

03

9,091

03

9,091

2014 64

12

26,087

07

15,217

16

34,783

07

15,217

04

8,696

2015 33

16

29,630

08

14,815

19

35,185

06

11,111

05

9,259

2016 46

13

27,660

07

14,894

15

31,915

08

17,021

04

8,511

2017 54

02

22,222

02

22,222

04

44,444

01

11,111

0

0

2018 47

09

06 tháng đàu 2019

253

67

26,482

38

15,020

94

37,154

33

13,043

21

8,300

Tổng cộng

Nguồn: Công an thành phố Đà Nẵng

BẢNG 2.9: THỐNG KÊ KẾT QUẢ ĐIỀU TRA KHÁM PHÁ VÀ SỐ ĐỐI TƯỢNG BỊ BẮT GIỮ CỦA CẤC VỤ ÁN CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2014 ĐẾN 06 THÁNG ĐẦU NĂM 2019

Tổng số án cướp giật tài sản xảy ra Tổng số án cướp giật tài sản điều tra khám phá Số đối tượng cướp giật tài sản bị bắt Tỷ lệ điều tra khám phá (%) Năm

40 79 62,500 2014 64

28 47 84,848 2015 33

25 38 54,348 2016 46

20 32 37,037 2017 54

35 54 74,468 2018 47

08 08 88,889 09 06 tháng đầu năm 2019

253

61,660 156 258

Tổng cộng

Nguồn: Công an thành phố Đà Nẵng