VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN XUÂN BÌNH
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN XUÂN BÌNH
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH THỊ MAI
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của bản thân, được
thực hiện độc lập và dưới sự hướng dẫn của TS Đinh Thị Mai.
Các kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, bảng biểu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy, tôi viết lời cam đoan này đề nghị Học viện cho tôi được bảo vệ
luận văn của mình trước Hội đồng.
Tác giả luận văn
Nguyễn Xuân Bình
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH
HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN ............................................................... 5
1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản 5
1.2. Cơ sở, nguyên tắc của phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản .......... 12
1.3. Chủ thể phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản ................................. 13
1.4. Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản ....................... 14
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP
GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .................. 24
2.1. Thực trạng đặc điểm tình hình có liên quan đến phòng ngừa tội cướp giật
tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng .......................................................... 24
2.2. Thực trạng phòng ngừa ............................................................................ 47
2.3. Nhận xét, đánh giá kết quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật
tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ......................................................... 63
CHƯƠNG 3. DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA
TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................................................. 68
3.1. Dự báo hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng .......................................................................................... 68
3.2. Giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng ................................................................................... 71
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLHS : Bộ luật hình sự
CGTS : Cướp giật tài sản
TAND : Tòa án nhân dân
TP : Thành phố
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sở hữu hệ thống cảng biển, sân bay quốc tế, với nhiều khu du lịch, nghỉ
dưỡng cao cấp, bãi biển đẹp, tiếp giáp với các điểm di sản văn hoá thế giới
như: Mỹ Sơn, Hội An, Huế và là địa điểm diễn ra các sự kiện chính trị, văn
hóa lớn của quốc tế và đất nước như: Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái
Bình Dương, Cuộc thi trình diễn pháo hoa Quốc tế, các Đại hội thể thao biển,
… trong những năm qua, TP Đà Nẵng luôn là điểm đến du lịch của hàng triệu
du khách trong và ngoài nước, góp phần phát triển kinh tế du lịch, dịch vụ của
thành phố. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển này, tình hình tội phạm có
nhiều diễn biến khó lường, trong đó tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng diễn ra hết sức phức tạp, khó lường về tính chất, mức độ hoạt
động của tội phạm. Phương thức thủ đoạn của tội cướp giật tài sản ngày càng
đa dạng, các đối tượng phạm tội thay đổi theo từng thời điểm, liên quan đến
nhiều địa bàn khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn là các địa bàn trung tâm thành
phố, khu du lịch, khu nghỉ dưỡng...trên địa bàn thành phố, đáng lo ngại là sự
xuất hiện của các băng, nhóm chuyên nghiệp. Từ năm 2014 đến 06 tháng đầu
năm 2019, tổng số vụ án cướp giật tài sản xảy ra tại các địa bàn du lịch, khu
du lịch chiếm 9,21% trong tổng số các vụ phạm pháp hình sự xảy ra và đã ảnh
hưởng xấu đến môi trường du lịch của thành phố. Tuy nhiên, những thống kê
trên chỉ là những vụ cướp giật tài sản ở các địa bàn, khu du lịch mà nạn nhân
trình báo với cơ quan chức năng, trong thực tế số vụ án cướp giật tài sản tại
các địa bàn này xảy ra còn nhiều hơn, mà nạn nhân vì những lý do khác nhau
đã không trình báo với cơ quan chức năng.
Trước tình hình phức tạp của tình hình tội CGTS, Đảng bộ, các ban
ngành và Chính quyền thành phố đã ban hành các chủ trương, chính sách,
các kế hoạch, chuyên đề về đấu tranh, phòng ngừa đối với tình hình tội
2
phạm CGTS. Tuy nhiên, trong thực tế công tác phòng ngừa với loại tội
phạm này vẫn còn những hạn chế nhất định như chưa huy động được sức
mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào các hoạt động phòng ngừa đối
với loại tội phạm này, cơ chế phối hợp giữa các lực lượng còn nhiều bất cập,
trong công tác tuyên truyền nâng cao tinh thần cảnh giác trong nhân dân
chưa được thường xuyên, liên tục, chưa được chú trọng đúng mức đã ảnh
hưởng không nhỏ đến tình hình tội cướp giật tài sản tại trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng, đáng báo động phương thức, thủ đoạn hoạt động của loại tội
phạm này diễn biến ngày càng phức tạp về quy mô, tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội. Bên cạnh những nguyên nhân về khách quan, chủ
quan, thì ý thức tự bảo vệ tài sản của du khách và tham gia bảo vệ tài sản
của người khác trong nhân dân chưa cao cũng góp phần ảnh hưởng đến tình
hình tội cướp giật tài sản.
Trên cơ sở các tài liệu tổng kết về công tác phòng ngừa đối với tội cướp
giật tài sản và xuất phát từ yêu cầu thực tiễn về nâng cao hiệu quả trong hoạt
động phòng ngừa đối với tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng,
tôi chọn đề tài “Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ luật học là hoàn toàn cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản đã
được một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu và công bố, điển hình như:
- Luận văn thạc sĩ: “Tội cướp giật tài sản trên địa bàn tỉnh An Giang:
tình hình,nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”, của Lê Ngọc Hớn – Học
viện khoa học xã hội – TP Hồ Chí Minh, năm 2010.
- Luận văn thạc sĩ: “Nâng cao hiệu quả phòng ngừa và điều tra tội cướp
giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”, của Nguyễn Công Danh – Học
viện cảnh sát nhân dân, năm 2013.
- Luận văn thạc sĩ: “Tội cướp giật tài sản trên địa bàn TP Đà Nẵng: tình
3
hình, nguyên nhân và phòng ngừa”, của Lê Như Thành – Học viện khoa học
xã hội – TP Đà Nẵng, năm 2019.
Như vậy, đã có nhiều đề tài nghiên cứu về hoạt động phòng ngừa, điều tra
tội cướp giật tài sản, song chưa có đề tài nào nghiên cứu về phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản tại trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, luận văn đưa ra
những nhận xét đánh giá về hạn chế, tồn tại và nguyên nhân, từ đó đề ra giải
pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, trong quá trình nghiên cứu luận văn cần giải
quyết các nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ cơ sở lý luận của phòng ngừa tội cướp giật tài sản và hoạt động
phòng ngừa tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
+ Làm rõ thực trạng hoạt động phòng ngừa tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến 06 tháng đầu năm 2019.
+ Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tình hình, chủ thể, cơ sở và thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình
tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Phạm vi về thời gian: từ năm 2014 đến 06 tháng đầu năm 2019.
4
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà
nước ta về phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ ANQG và giữ
gìn TTATXH.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
+ Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp.
+ Phương pháp tọa đàm, trao đổi.
+ Phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ sung vào lý luận về phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Là tài liệu nghiên cứu, tham khảo đối với các lực lượng đang trực tiếp làm
phòng ngừa, đấu tranh đối với tội cướp giật tài sản. Những dự báo và đề xuất
giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội cướp giật
tài sản.
Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Dự báo và giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
5
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa phòng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản
- Khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm
Ở nước ta hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về phòng ngừa tình
hình tội phạm.
Theo từ điển Bách khoa nghiệp vụ Công an thì: phòng ngừa tội phạm là
sự vận dụng tổng hợp những biện pháp chính trị, tư tưởng, kinh tế, pháp luật...
theo một kế hoạch nhất định của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội để chủ
động ngăn ngừa các hành vi phạm tội, loại trừ những nguyên nhân và điều
kiện phát sinh tội phạm.
Theo giáo trình Tội phạm học, Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Ngọc Quang cho
rằng đấu tranh chống tội phạm bao hàm hai nội dung cơ bản: Thứ nhất, phát
hiện điều tra khám phá kịp thời mỗi khi tội phạm xảy ra nhằm đảm bảo tội
phạm không thể không bị phát hiện và điều tra xử lý kịp thời, không một
người phạm tội nào có thể tránh khỏi hình phạt của pháp luật. Đây là nội dung
quan trọng trong mọi thời kỳ của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.[11]
Thứ hai, bằng mọi biện pháp không cho tội phạm xảy ra, không để cho một
thành viên nào của xã hội phải chịu hình phạt của pháp luật, xã hội không
phải chịu hậu quả của tội phạm, các cơ quan bảo vệ pháp luật không phải có
những chi phí cần thiết cho việc điều tra, khám phá, xử lý người phạm tội và
điều quan trọng hơn là đảm bảo cuộc sống bình thường cho mọi công dân
trong xã hội, làm cơ sở cho mọi công dân có thể cống hiến sức lực của mình
vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Theo quan niệm này phòng ngừa tội
phạm khác với công tác điều tra khám phá, xử lý tội phạm.[11]
6
Theo giáo trình Tội phạm học của Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm
phòng ngừa tội phạm không chỉ bao gồm các hoạt động nhằm thủ tiêu nguyên
nhân và điều kiện phạm tội, không để cho tội phạm xảy ra mà còn bao gồm cả
những hoạt động ngăn chặn tội phạm, phát hiện điều tra khám phá tội phạm
và xử lý nghiêm minh các hành vi phạm tội nhằm trừng trị giáo dục người
phạm tội trở thành người công dân có ích cho xã hội [29]. Truy cứu trách
nhiệm hình sự cũng là một hình thức phòng ngừa tình hình tội phạm chủ động
và có hiệu quả. Thông qua hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và buộc kẻ phạm
tội phải chịu một hình phạt không những có ý nghĩa phòng ngừa cá biệt mà
còn có ý nghĩa phòng ngừa chung[29]. Việc trừng trị kẻ phạm tội và ngăn
chặn nó không phạm tội mới còn có ý nghĩa tác động đối với những người
xung quanh làm cho họ từ bỏ ý định phạm tội. Tuy nhiên, phòng ngừa tình
hình tội phạm còn được thể hiện ở việc cải thiện các điều kiện kinh tế, xã hội,
xóa bỏ các nguyên nhân và điều kiện phạm tội, hình thành các điều kiện tích
cực cho sự hình thành, hoàn thiện nhân cách con người mới. Theo quan niệm
này, phòng ngừa tình hình tội phạm bao hàm không chỉ ngăn ngừa tội phạm
xảy ra mà còn trừng trị người phạm tội nhằm giáo dục và cải tạo họ thành
người có ích cho xã hội [28].
Hiện nay, các nhà nghiên cứu trong lực lượng CAND quan niệm rằng:
phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống các biện pháp của Nhà nước và xã
hội nhằm khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tình trạng phạm tội làm
giảm tội phạm. Phòng ngừa tình hình tội phạm là tư tưởng chỉ đạo trong đấu
tranh phòng, chống tội phạm, bao gồm các hình thức và biện pháp được thực
hiện nhằm ngăn ngừa không để tội phạm xảy ra, nếu tội phạm xảy ra thì phải
hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả tác hại... [12]. Theo quan điểm này thì
phòng ngừa tình hình tội phạm bao gồm các hoạt động để phát hiện và khắc
phục nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội từ đó tiến hành các biện
pháp nhằm ngăn ngừa không để tội phạm xảy ra, đồng thời hạn chế đến mức
7
thấp nhất tác hại khi tội phạm xảy ra. [11].
- Khái niệm tội cướp giật tài sản
Điều 171 Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2015 quy định:
“Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm
đến năm năm”.
Căn cứ vào điều luật và qua thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử thì hành vi
cướp giật tài sản là hành vi “công khai” chiếm đoạt tài sản của người khác và
“nhanh chóng” tẩu thoát.
Như vậy, có thể rút ra khái niệm tội cướp giật tài sản như sau: tội cướp
giật tài sản là người phạm tội chiếm đoạt tài sản của người khác bằng hành vi
nhanh chóng, công khai giật lấy tài sản rồi tìm cách tẩu thoát.
- Dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản
Điều 171 Bộ luật hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2015 quy định:
1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm
đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba
năm đến mười năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng;
d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;
đ) Hành hung để tẩu thoát;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;
g) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người
8
già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
i) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy
năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000
đồng;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người
31% trở lên;
c) Làm chết người;
d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng.
Căn cứ vào quy định của điều luật thì tội cướp giật tài sản có các dấu
hiệu pháp lý như sau:
Thứ nhất, khách thể của tội cướp giật tài sản
Tội cướp giật tài sản xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu của người khác
đối với tài sản.
Trong một số trường hợp, hành vi cướp giật tài sản đã gây ra hậu quả
nghiêm trọng ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại như cướp
9
giật tài sản của người đang điều khiển xe môtô làm cho họ ngã xe gây thương
tích. Trong những trường hợp này, trước khi thực hiện hành vi cướp giật tài
sản, người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm và hậu quả của hành
vi nhưng vẫn thực hiện. Do vậy, Bộ luật hình sự năm 2015 đưa vào trong cấu
thành tội phạm dấu hiệu thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của người khác và
coi đây là những tình tiết định khung hình phạt. Như vậy, ở đây tội cướp giật
tài sản đồng thời xâm phạm đến hai khách thể, đó là quan hệ nhân thân và
quan hệ sở hữu. Nhưng việc xâm phạm quan hệ nhân thân không phải là mục
đích, đối tượng mà người phạm tội nhằm vào. Vì thế, đối tượng tác động của
tội cướp giật tài sản là tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác.[37].
Thứ hai, mặt khách quan của tội cướp giật tài sản
Mặt khách quan của tội cướp giật tài sản thể hiện ở hành vi công khai và
nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của người khác.
Hành vi “công khai” về mặt khách quan, chủ tài sản có khả năng biết
ngay khi hành vi này xảy ra. Về ý thức chủ quan của người phạm tội, người
phạm tội khi thực hiện hành vi chiếm đoạt biết hành vi chiếm đoạt của mình
có tính chất công khai và hoàn toàn không có ý định che giấu hành vi đó. Đây
cũng là một dấu hiệu đặc trưng để phân biệt với các trường hợp phạm tội khác
như hành vi trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản…
“Nhanh chóng” là dấu hiệu phản ánh thủ đoạn của người phạm tội. Đó là
thủ đoạn nhanh chóng tiếp cận tài sản, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và
nhanh chóng tẩu thoát.
Để giật được tài sản, người phạm tội lợi dụng sơ hở của chủ tài sản, sơ
hở này có thể sẵn có (như đeo dây chuyền lộ ra trên cổ, túi xách để ở giỏ xe,
sử dụng điện thoại di động khi đang chạy xe…) hoặc do người phạm tội chủ
động tạo ra (như giả vờ tiếp cận hỏi thăm chuyện với chủ tài sản, vào cửa
hàng giả vờ xem mua tài sản…) và nhanh chóng tiếp cận, nhanh chóng chiếm
đoạt và nhanh chóng tẩu thoát. Ví dụ, giật lấy túi xách của người đi đường và
10
nhanh chóng tẩu thoát…[37]
Thủ đoạn nhanh chóng này được thực hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau và phụ thuộc vào đặc điểm của tài sản, cách thức giữ tài sản…, thông
thường đây là những tài sản gọn nhẹ, dễ giật lấy, dễ mang đi như: túi xách,
dây chuyền, máy ảnh, điện thoại di động…
Một số trường hợp, người phạm tội lúc đầu chỉ có ý định cướp giật tài
sản nhưng trong quá trình thực hiện hành vi bị chủ tài sản chống cự, giằng lấy
lại tài sản, người phạm tội đã có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực
ngay tức khắc để chiếm đoạt bằng được tài sản thì hành vi phạm tội này
không còn là hành vi cướp giật tài sản mà chuyển sang hành vi cướp tài sản.
Tuy nhiên, cũng được xem là hành vi cướp giật tài sản trong trường hợp
người phạm tội có tác động nhẹ đến người chiếm giữ tài sản, song không làm
cho họ lâm vào tình trạng mất khả năng chống cự (ví dụ: xô ngã, giật ví rồi
tẩu thoát…).
Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội giật được tài sản từ người khác,
kể cả trường hợp người phạm tội bỏ lại tài sản đã cướp giật được để tẩu thoát
vì một lý do nào đó, chẳng hạn như bị truy đuổi gắt gao, bị tai nạn giao
thông… [41].
Thứ ba, mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản
Tội cướp giật tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, người thực
hiện tội phạm nhận thức được hành vi cướp giật tài sản của họ là nguy hiểm
cho xã hội, thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra và mong muốn cho
hậu quả xảy ra. Mục đích chiếm đoạt tài sản.
Thứ tư, chủ thể của tội cướp giật tài sản
Chủ thể của tội cướp giật tài sản được xác định là bất kỳ người nào có đủ
năng lực trách nhiệm hình sự.
Về hình phạt.
Điều luật quy định 4 khung hình phạt:
11
+ Khung 1 (Cấu thành cơ bản): quy định hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
+ Khung 2 (Cấu thành tăng nặng): quy định hình phạt tù từ 03 năm đến
10 năm.
+ Khung 3: quy định hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
+ Khung 4: quy định hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, hoặc chung thân.
Ngoài ra, người phạm tội còn bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng.
- Khái niệm phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Trên cơ sở thống nhất về mặt nhận thức về khái niệm phòng ngừa tình
hình tội phạm và nhận thức về tội cướp giật tài sản nói trên, chúng ta có thể
đưa ra khái niệm phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản như sau:
Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là hoạt động của các cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội và công dân bằng nhiều biện pháp hướng đến việc
thủ tiêu những nguyên nhân, điều kiện của tội cướp giật tài sản, nhằm ngăn
chặn, làm hạn chế và từng bước loại trừ tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội
nói chung và nói riêng.
Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là hoạt động rất
phức tạp, đa dạng với sự tham gia của đông đảo các lực lượng, tổ chức xã
hội…Vì vậy, để phòng ngừa tình hình tội phạm này cần phải giải quyết tốt
các nhiệm vụ như nghiên cứu làm rõ các nguyên nhân, điều kiện của tình
trạng phạm tội cướp giật tài sản; soạn thảo các giải pháp, biện pháp phòng
ngừa và tổ chức tiến hành các hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật
tài sản.
Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là việc tiến hành
đồng bộ các biện pháp, sử dụng đồng bộ nhiều lực lượng nhằm khắc phục
những sơ hở thiếu sót trong các mặt công tác không để đối tượng phạm tội
cướp giật tài sản có thể lợi dụng hoạt động phạm tội. Cần phải nghiên cứu
những đặc điểm hình sự của tội cướp giật tài sản để thấy được những nguyên
12
nhân trực tiếp làm nảy sinh, phát triển loại tội phạm này, từ đó khắc phục
nhằm ngăn chặn không để cho chúng có thể xảy ra.
1.2. Cơ sở, nguyên tắc của phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Cơ sở pháp lý của hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
là toàn bộ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước nói chung
và của pháp luật tố tụng hình sự nói riêng quy định về các biện pháp, phương
tiện được sử dụng và những nội dung khác có liên quan đến hoạt động phòng
ngừa nhằm ngăn ngừa, hạn chế không để cho tội cướp giật giật tài sản xảy ra
trong cuộc đấu tranh phòng, chống đối với loại tội phạm này.
Cơ sở pháp lý quan trọng của hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản là Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn
bản quy phạm pháp luật khác.
Điều 46, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có nhiệm vụ tuân
theo Hiến pháp và Pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt cộng đồng”.
Điều 64, Hiến pháp năm 2013 quy định: “… Cơ quan, tổ chức, công dân
phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh”.
Điều 67, Hiến pháp năm 2013 thể hiện: “Nhà nước xây dựng CAND cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nồng cốt trong thực hiện
nhiệm vụ ANQG và bảo đảm TTATXH, đấu tranh phòng, chống tội phạm”.
Cùng với nó, các đạo luật quan trọng phục vụ đắc lực cho hoạt động đấu
tranh phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung cũng được ban hành nhằm
quy định rõ về trách nhiệm của các cơ quan, người tiến hành tố tụng trong
việc xác định nhanh chóng tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội,
cũng như trách nhiệm của các cơ quan tư pháp trong tổ chức đấu tranh phòng
ngừa tình hình tội phạm.
Ngoài ra, trong quá trình tiến hành các hoạt động phòng, chống tội phạm
nói chung và phòng, chống tội cướp giật tài sản nói riêng, lực lượng CSND và
13
các cơ quan pháp luật luôn bám sát vào đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm và những nội dung
phòng, chống tội phạm trong từng giai đoạn luôn được thể hiện trong các Chỉ
thị, Thông tư, Nghị quyết của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và của
ngành Công an. Những văn bản quy phạm này quy định chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền của các lực lượng chuyên trách và là cơ sở pháp lý làm căn cứ điều
chỉnh các hoạt động nghiệp vụ của lực lượng CSND trong đấu tranh phòng
chống tội phạm nói chung và hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản nói riêng trong thời gian qua [41]. Cụ thể là các văn bản sau:
- Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tại Điều 6 quy định: “Trong quá
trình tiến hành tố tụng hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có
trách nhiệm phát hiện nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu, kiến nghị
cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và phòng ngừa”.
- Bộ luật hình sự năm 2015, tại Điều 4 quy định: “Cơ quan Công an,
Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và cơ quan hữu quan khác có trách
nhiệm thi hành đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đồng thời
hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức, công dân đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm, giám sát và giáo dục người phạm tội tại
cộng đồng”.
- Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015: Tại khoản 2, Điều 5
quy định: Cơ quan điều tra của lực lượng CSND bao gồm Cơ quan CSĐT Bộ
Công an, Cơ quan CSĐT cấp tỉnh, Cơ quan CSĐT cấp huyện và tại khoản 4,
Điều 8 quy định Cơ quan điều tra tiến có nhiệm vụ tìm ra nguyên nhân, điều
kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện
pháp khắc phục và ngăn ngừa.
1.3. Chủ thể phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Chủ thể hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là các cá
nhân, tổ chức có trách nhiệm và quyền hạn hoạt động đấu tranh phòng, chống
14
đối với loại tội phạm này. Ngoài ra sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, thì
việc mọi công dân cùng tham gia phòng, chống có ý nghĩa đặc biệt tích cực
trong việc phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Tuy nhiên, do mỗi lực
lượng, mỗi tổ chức, mỗi công dân khi tham gia phòng ngừa tình hình tội
phạm này lại có chức năng, nhiệm vụ, vị trí khác nhau cho nên cần phải xác
định rõ vai trò của từng lực lượng (chủ thể) tiến hành phòng ngừa tình hình
tội phạm.
Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản cũng chính là tiến hành phòng
ngừa đối với một hiện tượng xã hội tiêu cực. Do đó, tiến hành hoạt động
phòng ngừa phải phát huy mọi lực lượng của toàn xã hội, trong đó lực lượng
nòng cốt, chủ công là lực lượng CAND. Vai trò của lực lượng CAND đối với
hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản được thể hiện chung
nhất tại Điều 4 Luật Công an nhân dân năm 2014 quy định “CAND là lực
lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
ANQG, đấu tranh phòng, chống tội phạm” và tại khoản 2, Điều 15 Luật
CAND năm 2013 quy định nhiệm vụ và quyền hạn của lực lượng CAND nêu
rõ “Chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại âm
mưu, hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, loại trừ nguy cơ đe dọa an ninh
quốc gia; bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ an ninh chính
trị, an ninh trong các lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, kinh tế, quốc phòng, đối
ngoại, thông tin, xã hội, môi trường và các lợi ích khác của quốc gia; bảo vệ
khối đại đoàn kết toàn dân tộc; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tài sản, quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.
1.4. Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Tội phạm là một hiện tượng xã hội phức tạp, chịu sự chi phối của nhiều
yếu tố lịch sử - xã hội, do đó việc phòng ngừa chúng cũng đòi hỏi phải được
15
tiến hành một cách đồng bộ nhiều biện pháp, giải pháp khác nhau. Thực tiễn
pháp lý và các kết quả nghiên cứu khoa học cho phép chúng ta khái quát vấn
đề được nêu thành một hệ thống các biện pháp liên hoàn cần áp dụng để từng
bước giải quyết tình hình tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói
riêng. Có nhiều cách khác nhau để phân chia, tuy nhiên để thấy "Phòng ngừa
và đấu tranh chống tội phạm là trách nhiệm của toàn xã hội" như: Hiến pháp
năm 2013, Bộ luật hình sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã
quy định, thì việc phân loại các biện pháp phòng ngừa dựa vào phạm vi tác
động của các biện pháp là hợp lý nhất. Theo cách phân chia này thì hệ thống
các biện pháp phòng ngừa sẽ bao gồm 02 nhóm đó là: các biện pháp phòng
ngừa xã hội (phòng ngừa chung) và các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ
(phòng ngừa riêng).
Phòng ngừa xã hội là hệ thống các biện pháp kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội, giáo dục và pháp luật nhằm góp phần hạn chế tiến tới loại trừ các yếu
tố có thể trở thành nguyên nhân và điều kiện thực hiện tội phạm; phòng ngừa
xã hội được tiến hành bởi các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tập
thể lao động cũng như bản thân từng công dân - cá nhân, thành viên của xã
hội, trong đó lực lượng CAND là nòng cốt thực hiện chức năng tham mưu,
hướng dẫn và trực tiếp tiến hành các mặt hoạt động đấu tranh phòng ngừa tình
hình tội phạm [38].
Để thực thi các biện pháp phòng ngừa xã hội, các lực lượng cần tiến
hành một số công tác cụ thể sau đây:
Thứ nhất, làm tốt công tác tham mưu, đề xuất với các cấp ủy Đảng,
chính quyền xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật có liên
quan đến việc quản lý con người, quản lý xã hội; công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng. Tổ chức thực
hiện tốt các chủ trương, chính sách hiện hành của Đảng và Nhà nước về
công tác phòng, chống tội phạm, đặc biệt là phòng chống tội cướp giật tài
16
sản . Tham mưu cho Đảng, chính quyền nhằm tích cực chủ động phòng ngừa
bằng các hoạt động: Đề ra chủ trương, biện pháp, giải pháp phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản phù hợp từng thời điểm, đồng thời có biện pháp tổ
chức sản xuất, phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương
để giải quyết việc làm hợp lý cho người dân; Huy động các cơ quan ban
ngành trong toàn xã hội làm tốt chức năng của mình góp phần xây dựng xã
hội mới về mọi mặt, chủ động đấu tranh bài trừ tệ nạn xã hội, cướp giật,
trộm cắp và các hiện tượng xã hội tiêu cực khác, kịp thời phát hiện xử lý
mọi hành vi vi phạm pháp luật [38] .
Thứ hai, phối hợp giữa các lực lượng hữu quan xây dựng kế hoạch tổ
chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để từng bước nâng cao ý thức
pháp luật cho người dân. Tuyên truyền giáo dục giúp cho quần chúng nhân
dân nhận thức rõ quy luật hoạt động và hậu quả tác hại của tội cướp giật tài
sản , từ đó có ý thức cảnh giác, tự bảo vệ mình, bảo vệ tài sản, tự giác tham
gia trong đấu tranh phòng chống tội cướp giật tài sản. Phát huy hiệu quả công
tác vận động, giáo dục cá biệt đối với những đối tượng có khả năng và điều
kiện phạm tội.
Thứ ba, phát động phong trào toàn dân tham gia phòng chống tội phạm
nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng. Phối hợp chặt chẽ với các cơ
quan, ban ngành, đoàn thể xã hội tăng cường vận động thực hiện phong trào
“Toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc”, đảm bảo huy động sức mạnh
của cả hệ thống chính trị, nhất là ở cơ sở tham gia phòng chống tội phạm.
Thứ tư, các cấp chính quyền, các cơ quan chức năng tạo điều kiện công
ăn việc làm cho những người không có việc làm ổn định, đưa các đối tượng
nghiện ma túy đi cai nghiện, mở các trung tâm chữa bệnh, bảo trợ xã hội cho
những người là nạn nhân của tệ nạn xã hội, giúp họ từ bỏ con đường lầm lỗi.
Hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ của lực lượng CAND đối với tội cướp
giật tài sản nói chung và nói riêng là quá trình sử dụng các biện pháp, phương
17
tiện nghiệp vụ của mình nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và phát hiện tội cướp
giật tài sản. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, các lực lượng CAND
cần tiến hành các biện pháp phòng ngừa cụ thể sau:
Một là, công tác điều tra cơ bản: Công tác ĐTCB của lực lượng CAND
là một hoạt động điều tra, nghiên cứu được tiến hành nhằm thu thập một cách
rộng rãi, toàn diện và hệ thống về tình hình, tài liệu, số liệu ở một địa bàn,
tuyến, lĩnh vực, một hệ đối tượng đấu tranh có liên quan đến công tác quản lý
nhà nước về lĩnh vực hoạt động của CAND; về phương thức, thủ đoạn hoạt
động, nguyên nhân, điều kiện của các loại đối tượng để nghiên cứu tổng hợp
rút ra kết luận và đề ra đối sách thích hợp trong công tác bảo vệ ANQG và giữ
gìn TTATXH. Kết quả công tác ĐTCB là cơ sở để lực lượng Công an tham
mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp chỉ đạo các ngành tổ chức công
tác đảm bảo an ninh, phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ
quốc, khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong việc thực hiện chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước ở cơ sở; phát hiện nhiều vấn đề liên quan đến
ANTT nhất là các yếu tố có tính quy luật chi phối tình hình tội phạm, làm nền
tảng cho toàn bộ hoạt động nghiệp vụ của lực lượng Công an. ĐTCB được
tiến hành ở tất cả các đơn vị nghiệp vụ trong ngành Công an một cách thường
xuyên, liên tục và lâu dài.
Điều 3, Thông tư 18/2013/TT-BCA-C41, ngày 01/4/2013 của Bộ Công
an quy định đối tượng công tác ĐTCB gồm: địa bàn (xã, phường, thị trấn, cơ
quan doanh nghiệp…); tuyến, mục tiêu, lĩnh vực; hệ, loại đối tượng. Do vậy,
để phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản lực lượng CAND cần tiến hành
công tác ĐTCB những địa bàn tập trung đông và dễ có nhiều tài sản có thể
cướp giật được, như khu du lịch, tuyến du lịch nơi tập hợp các khu du lịch
hoặc các hoạt động dịch vụ du lịch liền kề tập trung nhiều khách sạn, nhà
nghỉ, dịch vụ ăn uống, mua sắn… mà khách du lịch, người dân thường xuyên
tụ tập, lui tới để thăm quan, du lịch và kinh doanh. Ngoài ra, công tác ĐTCB
18
cần được tiến hành đối với hệ loại những đối tượng có điều kiện, khả năng
tham gia, thực hiện tội cướp giật tài sản.
Hai là, công tác sưu tra: Công tác sưu tra của lực lượng CAND là một
quá trình điều tra, nghiên cứu về những người có điều kiện, khả năng phạm
tội hoặc đang có biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội nhằm mục đích nắm
tình hình của các loại đối tượng, chủ động phát hiện và có biện pháp tác động
đấu tranh, ngăn chặn không để tội phạm xảy ra. Đây là một trong những công
tác NVCB đặc biệt quan trọng đối với lực lượng CAND trong phòng ngừa,
phát hiện, điều tra tội phạm nói chung và tội cướp giật nói riêng.
Tiến hành sưu tra phải nắm được diễn biến của các đối tượng sưu tra có
điều kiện, khả năng hoặc có biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội cướp giật
tài sản nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng; nắm lai lịch, tiền án, tiền
sự, các mối quan hệ xã hội của đối tượng một cách có hệ thống, chính xác và
kịp thời. Trên cơ sở đó nghiên cứu phân loại đối tượng một cách chuẩn xác để
có kế hoạch quản lý, giáo dục, cảm hóa thích hợp hoặc tiến hành các biện
pháp nghiệp vụ để phòng ngừa, ngăn chặn mọi hoạt động liên quan đến tội
phạm của đối tượng.
Theo quy định tại Thông tư 19/2013/TT-BCA-C41 của Bộ trưởng Bộ
Công an, quá trình thực hiện công tác sưu tra, lực lượng CSND tiến hành sưu
tra theo danh mục gắn với địa bàn nơi cư trú, nơi làm việc hoặc hoạt động của
đối tượng và tiến hành sưu tra theo hệ loại đối tượng. Sau đó, dựa vào kết quả
sưu tra, phân loại đối tượng đã được xác định để phân cấp nhiệm vụ, trách
nhiệm của từng cấp trong việc áp dụng các biện pháp quản lý nghiệp vụ cho
từng đối tượng sưu tra. Đặc biệt cần chú ý đến số đối tượng có tiền án, tiền
sự, đối tượng sống lang thang, số đối tượng nghiện ma túy, bởi vì đây là số
đối tượng có khả năng phạm tội cướp giật tài sản trong đó có cướp giật tài
sản. Sau đó, dựa vào kết quả sưu tra, phân loại đối tượng đã được xác định để
phân cấp nhiệm vụ, trách nhiệm của từng cấp trong việc áp dụng các biện
19
pháp quản lý nghiệp vụ cho từng đối tượng sưu tra.
Để công tác sưu tra quản lý đối tượng có hiệu quả đòi hỏi khi thực hiện
phải gắn với các mặt công tác cơ bản khác, nhất là công tác quản lý tuyến, địa
bàn và công tác vận động toàn dân tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở, gắn liền
với kết quả công tác điều tra cơ bản, xác minh và đấu tranh phòng chống tệ
nạn xã hội để bổ sung tài liệu phục vụ công tác sưu tra đối tượng.
Ba là, công tác xác minh hiềm nghi: Hiềm nghi trong đấu tranh phòng
chống tội phạm, giữ gìn TTATXH là những người, việc, hiện tượng nghi
vấn hoạt động phạm tội mà lực lượng CSND phải khẩn trương tiến hành xác
minh làm rõ để kịp thời phòng ngừa, ngăn chặn. Hiềm nghi được xác lập khi
có căn cứ. Công tác xác minh hiềm nghi của lực lượng CSND là xác lập và
tập trung xác minh làm rõ nghi vấn và đi đến kết luận có hoạt động phạm tội
hay không.
Thực chất của công tác xác minh hiềm nghi thường là bước chuyển tiếp
và phát triển của công tác sưu tra nhằm tập trung xác minh làm rõ những dấu
hiệu nghi vấn về hoạt động phạm tội cụ thể của đối tượng; những vấn đề nghi
vấn và đi đến kết luận vấn đề nghi vấn ấy có phải là tội phạm; có hành vi
phạm tội hay không. Xác định khi một người có hành vi giống với hành vi
của người đang chuẩn bị hoặc đang hoạt động phạm tội cướp giật tài sản nói
chung và nói riêng; có dấu hiệu nghi vấn che dấu tung tích, thay đổi nhận
dạng, chuẩn bị phương tiện, công cụ; trên người, tại chỗ ở hoặc nơi làm việc
có dấu vết, tài liệu hoặc tài sản nghi là vật chứng của vụ án, có công cụ,
phương tiện có liên quan đến hoạt động phạm tội... đặc biệt là biểu hiện che
giấu hoặc ngụy trang những bất minh về kinh tế và bất minh thời gian trước,
trong và sau khi gây án.[12]
Căn cứ xác định đối tượng hiềm nghi là dựa vào kinh nghiệm, kiến thức
hiểu biết pháp luật của cán bộ trinh sát; vào phương thức, thủ đoạn hoạt động
của loại tội phạm này và những tài liệu, chứng cứ thu thập được có khả năng
20
liên quan đến hành vi phạm tội của các đối tượng, những hành vi đó có đủ yếu
tố cấu thành mặt khách quan của tội cướp giật tài sản. Để có cơ sở xác lập,
xác minh hiềm nghi, cần tiến hành công tác sưu tra, quản lý đối tượng một
cách có hệ thống gắn với công tác ĐTCB ở các địa bàn khác nhau để nắm mọi
diễn biến hoạt động của các loại đối tượng có tiền án, tiền sự và đối tượng có
biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội cướp giật tài sản [12].
Việc xác lập, xác minh hiềm nghi là cần thiết nhằm tập trung vào đối
tượng “điểm” nổi cộm cần đấu tranh, tránh dàn trải và áp dụng các biện pháp
nghiệp vụ tràn lan, kém hiệu quả. Trên thực tế có nhiều vụ việc, hiện tượng
“nghiêm trọng” bước đầu mới có dấu hiệu nghi liên quan đến hoạt động phạm
tội cướp giật tài sản , nhưng chưa có đầy đủ căn cứ để kết luận, do vậy cần
thiết phải có bước xác lập hiềm nghi để áp dụng các biện pháp nghiệp vụ làm
rõ. Tuy nhiên, việc xác lập, xác minh hiềm nghi về người chỉ tiến hành đối
với các trường hợp đối tượng hoạt động nghiêm trọng, có phương thức thủ
đoạn tinh vi, xảo quyệt, cần thiết phải áp dụng các biện pháp nghiệp vụ trinh
sát cao hơn mới làm rõ được.
Bốn là, công tác đấu tranh chuyên án: Chuyên án của lực lượng CSND
là hoạt động điều tra trinh sát, được tiến hành với sự chỉ đạo tập trung, thống
nhất, phối hợp chặt chẽ nhiều lực lượng, sử dụng đồng bộ các biện pháp,
phương tiện kỹ thuật, chiến thuật nghiệp vụ nhằm vào những đối tượng đã xác
định để phòng ngừa, ngăn chặn và khám phá, truy bắt tội phạm.
Đấu tranh chuyên án là bước phát triển, giai đoạn quan trọng của công
tác điều tra trinh sát, trực tiếp giải quyết các yêu cầu mà hoạt động điều tra
riêng lẻ không thể giải quyết được. Do vậy, quá trình thực hiện phải tuyệt đối
chấp hành các nguyên tắc: tuân thủ pháp luật, đảm bảo yêu cầu chính trị,
nghiệp vụ của ngành Công an; đảm bảo bí mật; tập trung, thống nhất, nhanh
chóng, kịp thời. Đồng thời, phải căn cứ vào yêu cầu, tính chất quy mô cụ thể
của chuyên án để tính toán việc sử dụng đặc tình, cơ sở bí mật hợp lý; kết hợp
21
với các biện pháp khác để tạo tính liên hoàn, hỗ trợ lẫn nhau nhằm giải quyết
các tình huống có tính chất quyết định đến sự thành công của chuyên án.
Trong quá trình thực hiện công tác đấu tranh chuyên án, cần phân biệt rõ
hai loại chuyên án trinh sát và chuyên án truy xét làm cơ sở xác lập và phân
cấp chuyên án, tránh xác lập tràn lan không đủ căn cứ, không đúng tính chất;
kết hợp chặt chẽ giữa các lực lượng trinh sát và điều tra, thực hiện đồng bộ
các biện pháp nghiệp vụ, thường xuyên trao đổi thông tin, tài liệu cần thiết có
sự chỉ đạo chặt chẽ, thống nhất của cấp chỉ huy, đồng thời phải căn cứ vào
tình hình, tính khách quan của từng vụ việc cụ thể để phân cấp các lực lượng
thực hiện [12].
Năm là, công tác xây dựng, sử dụng cộng tác viên bí mật: Xây dựng, sử
dụng CTVBM của lực lượng CSND là một hoạt động nghiệp vụ quan trọng
của ngành Công an, là một trong những mặt công tác nghiệp vụ cơ bản, nhằm
sử dụng và thông qua con người để tìm kiếm, phát hiện thu thập và xử lý các
thông tin, tài liệu liên quan đến hoạt động phạm tội, được tiến hành bằng các
lực lượng, phương pháp, chiến thuật, phương tiện bí mật trong khuôn khổ
pháp luật và theo các quy định của ngành, nhằm thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước về ANTT và trực tiếp phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, điều tra
khám phá tội phạm.[12]
Xây dựng và sử dụng CTVBM trong phòng ngừa tình hình tội cướp giật
tài sản là quá trình lực lượng CSND lựa chọn, xây dựng và sử dụng những
người ngoài biên chế của ngành Công an để phát hiện, thu thập thông tin tài
liệu liên quan đến hoạt động của tội cướp giật tài sản nói chung, nói riêng hoặc
tư vấn cho lực lượng CSND về những địa bàn du lịch, điểm du lịch, tuyến du
lịch mà đối tượng phạm tội cướp giật tài sản thường hoạt động, từ đó có biện
pháp chủ động phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với loại tội phạm này.
Xây dựng và sử dụng có hiệu quả CTVBM, đặc biệt là mạng lưới đặc
tình, cơ sở bí mật ở các địa bàn, tuyến liên quan đến các khu tập trung đông
22
dân cư hoặc các khu có nhiều điều kiện để thực hiện hành vi tiếp cận và cướp
giật tài sản,… nhằm mục đích thu thập và phát hiện kịp thời những tin tức về
đối tượng gây án, các băng, nhóm, tổ chức tội cướp giật đang hình thành, phát
triển. Biện pháp này có tác dụng trong việc phát hiện những tin tức ban đầu về
hoạt động phạm tội, đồng thời còn có thể sử dụng phục vụ công tác điều tra
phát hiện tội phạm bằng các kế hoạch trinh sát cần thiết như đi sâu vào băng,
nhóm, tổ chức tội cướp giật.[12]
Ngoài ra, lực lượng CSND cần phải nâng cao hiệu quả công tác điều tra
giải quyết các vụ án cướp giật tài sản nói chung, nói riêng, xử lý triệt để các
đối tượng phạm tội sẽ góp phần phòng ngừa tích cực, bởi vì, nếu vụ án xảy ra
mà không điều tra khám phá được hoặc khám phá chậm trễ, để đối tượng trốn
tránh ngoài xã hội, thì đối tượng phạm tội lại tiếp tục hoạt động mạnh mẽ hơn,
táo bạo hơn. Do vậy, muốn phòng ngừa tích cực, không để tội phạm xảy ra,
lực lượng CSND cần tiến hành các chiến dịch truy quét, tiến công thường
xuyên, liên tục, tuần tra, kiểm soát trên các tuyến, địa bàn trọng điểm phức
tạp về ANTT có liên quan đến hoạt động phạm tội cướp giật tài sản, đặc biệt
tại các địa bàn, tuyến tập trung thường xuyên xẩy ra các vụ cướp giật tài sản.
Để đảm bảo thực hiện được những biện pháp phòng ngừa, lực lượng
CSND phải làm tốt một số công việc sau [11]:
- Tiến hành điều tra nghiên cứu, nắm vững tình hình diễn biến của tội
cướp giật tài sản nói chung và nói riêng.
- Xây dựng chương trình kế hoạch phòng ngừa tình hình tội cướp giật
một cách chi tiết, cụ thể trên từng địa bàn, tuyến thường xuyên xẩy ra các vụ
cướp giật tài sản.
- Kết hợp với các cơ quan Nhà nước, các ngành và đoàn thể quần chúng
nhân dân cùng tiến hành phòng ngừa tình hình tội cướp giật theo một kế
hoạch thống nhất.
- Chuẩn bị các điều kiện, phương tiện vật chất cần thiết để phục vụ cho
23
công tác phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản như: phương tiện giao
thông, công cụ hỗ trợ, phương tiện tuyên truyền...
Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản nêu trên là
những biện pháp cơ bản nhất, phổ biến nhất cần phải được tổ chức triển khai
thực hiện thường xuyên và có hệ thống. Trong quá trình thực hiện, muốn có
hiệu quả cao, lực lượng CSND cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị,
ban ngành, đoàn thể trong và ngoài lực lượng, huy động sức mạnh của cả hệ
thống chính trị và sự tham gia của quần chúng nhân dân.
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, tác giả đã nghiên cứu và làm rõ một số vấn đề lý luận sau:
Làm rõ những nhận thức về tội cướp giật tài sản, nhận thức về phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Đồng thời làm rõ về khái niệm, cơ sở
pháp lý, chủ thể và những biện pháp tiến hành phòng ngừa loại tội cướp giật
tài sản.
Kết quả nghiên cứu trên, sẽ tạo cơ sở pháp lý quan trọng để tiếp tục
nghiên cứu thực trạng của hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
24
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP
GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Thực trạng đặc điểm tình hình có liên quan đến phòng ngừa tội
cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
2.1.1. Đặc điểm về vị trí địa lý, dân cư, kinh tế, văn hóa xã hội trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng
Thành phố Đà Nẵng nằm cách thủ đô Hà Nội 764 km về phía Bắc,
cách thành phố Hồ Chí Minh 964 km về phía Nam, gồm vùng đất liền và vùng quần đảo trên biển Đông. Vùng đất liền nằm ở 15055' đến 16014' vĩ độ Bắc, 107018' đến 108020' kinh độ Đông, Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế,
Tây và Nam giáp tỉnh Quảng Nam, Đông giáp Biển Đông. Vùng biển gồm quần đảo Hoàng Sa nằm ở 15045’ đến 17015’ vĩ độ Bắc, 1110 đến 1130 kinh
độ Đông, cách đảo Lý Sơn (thuộc tỉnh Quảng Ngãi) khoảng 120 hải lý về phía Nam; với diện tích tự nhiên là 1.283,42 km2; trong đó, các quận nội thành chiếm diện tích 241,51 km2, các huyện ngoại thành chiếm diện tích 1.041,91 km2.
Thành phố Đà Nẵng - đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương bao
gồm 6 quận nội thành, 1 huyện ngoại thành và 1 huyện đảo. Cụ thể:
- Quận Hải Châu - quận trung tâm của thành phố Đà Nẵng với nhiều cơ
quan Nhà nước đóng trên địa bàn. Hải Châu là trung tâm hành chính, thương
mại, dịch vụ, du lịch của thành phố, tập trung đông dân cư.
- Quận Thanh Khê - có diện tích nhỏ nhất của thành phố. Hiện là đầu
mối giao thông liên vùng và quốc tế của thành phố Đà Nẵng. Là địa phương
có nhiều lợi thế trong phát triển thương mại, du lịch, dịch vụ, giao thông vận
tải và kinh tế biển.
- Quận Sơn Trà - có vị trí khá đặc biệt, phía Đông là bờ biển dài, đẹp
với nhiều bãi san hô lớn; phía Tây giáp với Sông Hàn; phía Bắc là Khu bảo
25
tồn thiên nhiên Sơn Trà và Cảng biển Tiên Sa đã mang lại cho quận một lợi
thế rất lớn trong phát triển du lịch dựa trên du lịch sinh thái và du lịch biển.
Là điểm cuối cùng ra biển của hành lang kinh tế Đông Tây, quận Sơn Trà có
lợi thế rất lớn trong phát triển thương mại và du lịch.
- Quận Ngũ Hành Sơn - nằm trên 2 tuyến đường giao thông chính
giữa thành phố Đà Nẵng và đô thị cổ Hội An (đường Ngũ Hành Sơn - Lê
Văn Hiến và đường Sơn Trà - Điện Ngọc) với danh thắng Ngũ Hành Sơn và
các bãi biển đẹp, là nơi lý tưởng để xây dựng các khu du lịch, các khách sạn
cao cấp. Trong tương lai, Làng Đại học Đà Nẵng sẽ được xây dựng trên địa
bàn quận với nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực cho cả khu vực miền Trung
và Tây Nguyên.
- Quận Liên Chiểu - ngăn cách với tỉnh Thừa Thiên - Huế bởi Đèo Hải
Vân. Nằm ven theo vịnh Đà Nẵng, với quốc lộ 1A đi ngang. Là địa phương
có điều kiện thuận lợi nhất về giao thông vận tải, vận tải du lịch của thành phố
trong tương lai khi Bến xe trung tâm, Nhà ga xe lửa, cảng biển Liên Chiểu và
các tuyến đường cao tốc, đường quốc lộ đều nằm trên địa bàn quận. Liên
Chiểu còn có các khu công nghiệp tập trung lớn của thành phố Đà Nẵng như
Khu công nghiệp Hòa Khánh, Khu công nghiệp Liên Chiểu.
- Quận Cẩm Lệ - quận mới trên địa bàn thành phố, với tổng diện tích tự
nhiên là 3.330 ha và 71.429 nhân khẩu; được thành lập vào ngày 29/8/2005
trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các xã Hòa Thọ Đông, Hòa
Thọ Tây, Hòa Phát, Hòa An, Hòa Xuân thuộc huyện Hòa Vang và toàn bộ
diện tích tự nhiên, dân số của phường Khuê Trung thuộc quận Hải Châu. Cẩm
Lệ là địa bàn trung chuyển của hoạt động du lịch sinh thái, văn hóa trên địa
bàn thành phố.
- Huyện Hòa Vang - huyện ngoại thành duy nhất của thành phố Đà
Nẵng. Các tuyến đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi, Quốc lộ 14B đều
chạy qua địa bàn huyện, tạo điều kiện rất tốt để cho huyện phát triển. Nền
nông nghiệp đang chuyển dần sang sản xuất hàng hóa với các sản phẩm có
26
chất lượng cao, giá trị thương mại lớn. Với các làng đồng bào dân tộc Cơtu,
khu du lịch nổi tiếng như Bà Nà - Suối Mơ, hồ Hòa Trung, Đồng Nghệ,...
huyện Hòa Vang còn có tiềm năng rất lớn trong việc phát triển du lịch sinh
thái và văn hóa. Đặc biệt, với trên 60% diện tích là rừng núi, ngoài nhiệm vụ
là lá phổi của thành phố Đà Nẵng, Hòa Vang còn là bức bình phong bảo vệ
thành phố Đà Nẵng khỏi sự tàn phá của thiên nhiên.
- Huyện đảo Hoàng Sa - một quần đảo san hô nằm cách thành phố Đà
Nẵng 170 hải lý (khoảng 315 km), bao gồm các đảo: đảo Hoàng Sa, đảo Đá
Bắc, đảo Hữu Nhật, đảo Đá Lồi, đảo Bạch Quy, đảo Tri Tôn, đảo Cây, đảo
Bắc, đảo Giữa, đảo Nam, đảo Phú Lâm, đảo Linh Côn, đảo Quang Hòa, Cồn
Bông Bay, Cồn Quan Sát, Cồn Cát Tây, Đá Chim Yến, Đá Tháp.
Đà Nẵng là trung điểm của 04 di sản văn hoá thế giới nổi tiếng là cố đô
Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn và Rừng quốc gia Phong Nha - Kẻ
Bàng. Trong phạm vi khu vực và quốc tế, Đà Nẵng là một trong những cửa
ngõ quan trọng ra biển của các nước Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma đến
các nước vùng Đông Bắc Á và thế giới, thông qua Hành lang kinh tế Đông
Tây với điểm kết thúc là Cảng biển Tiên Sa. [6].
Đà Nẵng hiện có đủ 4 loại đường giao thông thông dụng là: đường bộ,
đường sắt, đường biển và đường hàng không, trong đó:
- Tuyến đường bộ: Tổng số km đường trên địa bàn thành phố (không kể
các hẻm, kiệt và đường đất) là 382,583 km, trong đó: quốc lộ 70,865 km; tỉnh
lộ 99,716 km; đường huyện 67 km; đường nội thị 181,672 km.
- Tuyến đường sắt: Có chiều dài khoảng 30 km, với các ga Đà Nẵng,
Thanh Khê, Kim Liên, Hải Vân Nam. Trong đó, ga Đà Nẵng là một trong
những ga lớn của Việt Nam.
- Tuyến đường biển: Với 02 cảng là cảng Tiên Sa và cảng Sông Hàn nằm ở
vị trí khá thuận lợi đi đến hầu hết các cảng lớn của Việt Nam và trên thế giới.
- Tuyến hàng không: Sân bay hàng không quốc tế Đà Nẵng có diện tích
là 150 ha (diện tích cả khu vực là 842 ha), với 2 đường băng, mỗi đường dài
27
3.048m, rộng 45m. Hàng tuần, sân bay Đà Nẵng đón tiếp hơn 100 lượt
chuyến bay quốc tế và nội địa.
Toàn thành phố hiện có: 256.198 hộ; 1.088.505 nhân khẩu; 558.080 nhân
khẩu nữ; 823.462 nhân khẩu tuổi từ đủ 14 tuổi trở lên. Trong đó:
- Nhân khẩu thường trú: 232.961 hộ; 940.493 nhân khẩu; 478.593 nhân
khẩu nữ; 699.174 nhân khẩu từ đủ 14 tuổi trở lên. Trong đó, có: 11.434 hộ;
48.323 khẩu; 27.226 nữ; 37.147 nhân khẩu từ đủ 14 tuổi trở lên cư trú trên địa
bàn thành phố nhưng không đúng nơi đăng ký thường trú; có 1.813 hộ; 7.511
nhân khẩu, 4.300 nhân khẩu nữ, 6.417 nhân khẩu từ đủ 14 tuổi trở lên có hộ
khẩu thường trú tại địa thành phố nhưng hiện ở các tỉnh, thành phố khác.
- Nhân khẩu tạm trú: 42.829 hộ; 228.653 nhân khẩu; 124.850 nhân khẩu
nữ; 39.443 nhân khẩu từ đủ 14 tuổi trở lên. Trong đó tỉnh, thành phố khác
đến: 25.050 hộ; 155.523 nhân khẩu, 83.787 nhân khẩu nữ, 130.705 nhân khẩu
từ đủ 14 tuổi.
- Nhân khẩu lưu trú: 102.480 nhân khẩu (có 7,818 nhân khẩu lưu trú
trong hộ gia đình và 89.207 nhân khẩu lưu trú tại cơ sở cho thuê lưu trú);
46.269 nữ.
- Nhân khẩu tạm vắng: 928 nhân khẩu, có 295 nhân khẩu nữ.
Năm 2015 tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn Đà Nẵng ước đạt 45.885 tỷ
đồng, tăng 9,8% so với năm 2014. Các hoạt động thương mại, dịch vụ tiếp tục
phát triển; ước tính trong năm 2015 tổng lượng khách tham quan, du lịch tại
Đà Nẵng đạt 4,6 triệu lượt, tăng 20,5% so với năm 2014, trong đó khách quốc
tế ước đạt 1,25 triệu lượt, tăng 30,8%; tổng thu nhập xã hội từ hoạt động du
lịch ước đạt 12.700 tỷ đồng, tăng 28,7% so với năm 2014.
Cùng với dịch vụ, du lịch, sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành phố
được duy trì ổn định. Giá trị sản xuất công nghiệp trong năm ước đạt 41.500
tỷ đồng, tăng 11,3% so với năm 2014. Hoạt động xúc tiến đầu tư, phát triển
doanh nghiệp và các hoạt động đối ngoại tiếp tục được quan tâm. Tổng vốn
đầu tư phát triển trên địa bàn thành phố năm 2015 ước đạt 35.000 tỷ đồng,
28
tăng 6,8% so với cùng kỳ. Thu ngân sách Nhà nước đến 29/12/2015 là
14.691,5 tỷ đồng, đạt 121,4% dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao và
đạt 125,9% dự toán Trung ương giao. Các hoạt lĩnh vực quản lý quy hoạch,
đô thị, đầu tư - xây dựng cơ bản và tài nguyên môi trường được quan tâm
đầu tư. Thành phố tập trung khắc phục ô nhiễm ở các bãi biển, bãi tắm;
thanh tra, kiểm tra các đơn vị về lĩnh vực môi trường, khoáng sản, tài
nguyên nước, đất đai, đặc biệt tập trung chấn chỉnh các sai phạm liên quan
đến việc khai thác đất đá…
Về di tích lịch sử, danh lam, thắng cảnh Đà Nẵng sở hữu: Đình Quá
Giáng, đình Bồ Bản, đình Tuý Loan, di tích K20, bảo tàng điêu khắc Champa,
khu nghĩ dưỡng Bà Nà, đèo Hải Vân “thiên hạ đệ nhất hùng quan”, Sơn Trà –
Khu bảo tồn thiên nhiên thành phố, thắng cảnh Ngũ Hành Sơn, Nghĩa trũng
Phước Ninh, Nghĩa trũng Hoà Vang, nhà thờ Lớn, chùa Quan Thế Âm, chùa
Linh Ứng – Ngũ Hành Sơn, chùa Linh Ứng – Bà Nà núi Chúa, chùa Linh
Ứng – Sơn Trà, chùa Pháp Lâm,…
Với những điều kiện tự nhiên sẵn có, nhiều khu du lịch sinh thái, lịch sử,
danh lam thắng cảnh, Đà Nẵng là điểm đến lý tưởng của hàng triệu du khách
trong và ngoài nước và đây cũng chính là “miếng đất màu mỡ” cho các đối
tượng lợi dụng hoạt động phạm tội nói chung, phạm tội cướp giật tài sản nói
riêng, làm cho tình hình ANTT thêm phức tạp.
Bên cạnh đó, với đặc điểm xã hội như việc mất cảnh giác trong việc tự
bảo vệ tài sản của các du khách, người dân khi lưu thông trên đường phố, việc
phô trương, khoe khoang tài sản, mang nhiều đồ trang sức, thản nhiên nghe
điện thoại di động khi tham gia giao thông, để túi xách đựng tiền, vàng... trên
giỏ xe hoặc cầm nắm, đeo ở vai khi vừa bước xuống xe ôtô,.. là điều kiện
thuận lợi cho hoạt động của tội cướp giật tài sản nói chung và nói riêng;
không ít người bị hại là du khách, người dân sau khi bị cướp giật đã thiếu tin
tưởng vào cơ quan Công an, ngại rắc rối mà không khai báo, thiếu tinh thần
đấu tranh phòng, chống tội phạm khi nghe tri hô “cướp, cướp...” vẫn thờ ơ
29
không hề có biện pháp nào hỗ trợ nạn nhân truy bắt tội phạm, họ sợ bị liên
lụy, bị thương, bị trả thù, sợ tốn thời gian, công sức..., thậm chí, họ còn cho
rằng trách nhiệm bảo vệ tài sản công dân thuộc về cơ quan Công an, truy bắt
tội cướp giật tài sản là công việc của riêng lực lượng Công an, điều này chẳng
những tạo điều kiện cho tội cướp giật tiếp tục hoạt động mà còn gây khó khăn
cho công tác điều tra.
Như vậy, vị trí địa lý, tình hình dân cư, đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội
và ý thức của người dân, du khách trong việc bảo vệ tài sản có ảnh hưởng đến
tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Qua nghiên
cứu những ảnh hưởng đó, giúp cho các lực lượng Công an thành phố Đà Nẵng
có được cơ sở để khai thác những điều kiện thuận lợi phục vụ cho công tác
phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản , làm hạn chế đến mức thấp nhất
những nhân tố gây khó khăn cản trở hoạt động này.
2.1.2. Tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Trong những năm qua (từ năm 2014 đến 06 tháng đầu năm 2019), tình
hình phạm pháp hình sự trên địa bàn thành phố Đà Nẵng diễn biến phức
tạp, có chiều hướng gia tăng [Xem Bảng 2.1 và Biểu đồ 2.1 phần phụ lục].
Trên lĩnh vực hình sự, tội phạm xâm hại tài sản chiếm tỷ lệ cao trong cơ
cấu tội phạm [Xem Bảng 2.2 và Biểu đồ 2.2 phần phụ lục], phương thức
hoạt động của các loại tội phạm ngày càng tinh vi, liều lĩnh, tập trung vào
nhóm tội phạm: cướp, cướp giật, trộm cắp, nổi lên là tình trạng cướp giật
tài sản, nhất là cướp giật tài sản của khách du lịch, người dân [Xem Bảng
2.3 và Biểu đồ 2.3 phần phụ lục]; trộm cắp “vặt” trong các khu dân cư, nhà
trọ,… Tội phạm giết người chủ yếu do nguyên nhân xã hội, nổi lên là mâu
thuẫn trong quan hệ tình cảm nam nữ có xu hướng gia tăng. Các hành vi cố
ý gây thương tích, đòi nợ thuê, bảo kê, bắt giữ người trái pháp luật, cưỡng
đoạt tài sản ... được kiềm chế, không để tội phạm lộng hành, hoạt động
theo kiểu “xã hội đen”. Tình hình tệ nạn xã hội được kiềm chế, đẩy lùi, đã
tập trung đấu tranh, phát hiện, xử lý nhiều vụ đánh bạc, số đề, cá độ bóng
30
đá qua mạng...; tệ nạn mại dâm có phức tạp hơn do bất cập của pháp luật
trong việc quản lý, xử lý số đối tượng hành nghề mại dâm nhưng vẫn trong
tầm kiểm soát của các cơ quan chức năng.
Qua phân tích, tổng hợp số liệu thống kê số vụ cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng [Xem Bảng 2.3 và Biểu đồ 2.3 phần phụ lục] cho thấy
tình hình tội phạm cướp giật tài sản có diễn biến khó lường, phức tạp cả về số
vụ và tính chất mức độ nguy hiểm lúc tăng, lúc giảm.
Tội cướp giật hoạt động hầu hết ở các địa bàn của thành phố, trong đó
tập trung ở địa bàn trung tâm thành phố, các khu du lịch, đông dân cư, nhiều
khách du lịch như Hải Châu 62 vụ (chiếm 24,51%), Thanh Khê 44 vụ (chiếm
17,39%), Sơn Trà 41 vụ (chiếm 16,21%) [Xem Bảng 2.4 và Biểu đồ 2.4 phần
phụ lục].
Thời gian gây án của tội cướp giật tài sản tại không phân biệt ngày hay
đêm [Xem Bảng 2.5 và Biểu đồ 2.5 phần phụ lục], khi xuất hiện mục tiêu và
điều kiện thuận lợi các đối tượng sẽ thực hiện hành vi phạm tội.
Trước đây, đối tượng cướp giật thường thực hiện hành vi theo nhóm
gồm 2 người, nhưng thời gian gần đây, xảy ra rất nhiều vụ đối tượng thực
hiện tội phạm một mình (chiếm 6,72% tổng số vụ). Điều này cho thấy tội
phạm rất liều lĩnh và chuyên nghiệp, thực hiện hành vi nhanh, gọn, chính xác
và tẩu thoát nhanh chóng, không cần đối tượng khác hỗ trợ [Xem Bảng 2.6 và
Biểu đồ 2.6 phần phụ lục].
Hiện nay các đối tượng hoạt động phạm tội có xu hướng nhắm đến các
nạn nhân là những người đi bộ trong khu dân cư, những người đang mua, bán
hàng, nạn nhân đi ô tô xuống xe, khách du lịch đang đi bộ,... [Xem Bảng 2.7
và Biểu đồ 2.7 phần phụ lục]. Những nạn nhân này thường không phản ứng
kịp để đối phó với hành vi cướp giật, không có sẵn phương tiện để kịp thời
đuổi bắt.
Tài sản thiệt hại chủ yếu vẫn là những tài sản nhỏ gọn, có giá trị kinh tế
cao [Xem Bảng 2.8 và Biểu đồ 2.8 phần phụ lục] cho thấy ý thức bảo vệ tài
31
sản của người dân còn chưa cao, để tài sản hớ hênh, tạo điều kiện cho đối
tượng phạm tội.
Từ những phân tích trên cho thấy, tội cướp giật hoạt động bất kể địa bàn,
thời gian, các đối tượng len lỏi vào tất cả các khu dân cư để thực hiện hành vi
phạm tội, gây bức xúc dư luận và trong nhân.
2.1.3. Đặc điểm nhân thân của tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng
Đặc điểm nhân thân của tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng là hệ thống các thông tin phản ánh những thuộc tính, những đặc điểm cơ
bản nhất của tội phạm. Vì vậy, khi phòng ngừa loại tội phạm này đòi hỏi phải
nghiên cứu nắm vững nội dung từng đặc điểm, thấy được mối quan hệ giữa
các đặc điểm đó với nhau từ đó rút ra ý nghĩa thực tiễn phục vụ cho công tác
phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.
2.1.3.1. Đặc điểm nhân thân của tội phạm cướp giật tài sản
Đặc điểm nhân thân của tội phạm cướp giật tài sản những đặc điểm về
dấu hiệu cá nhân của con người thực hiện hành vi phạm tội cướp giật tài sản,
như độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tiền án, tiền sự... Thông qua việc nghiên
cứu về nhân thân người phạm tội để nắm rõ thực chất về hoàn cảnh, thái độ
tâm lý, tình cảm của họ đối với các giá trị xã hội, đối với pháp luật. Trên cơ
sở đó, tìm hiểu về nguyên nhân, điều kiện của tội cướp giật tài sản và đề xuất
các giải pháp phòng ngừa có hiệu quả đối với loại tội phạm này.
Qua nghiên cứu khảo sát đặc điểm nhân thân của 258 đối tượng phạm tội
cướp giật tài sản trong thời gian từ năm 2014 đến 06 tháng đầu năm 2019
[Xem bảng 2.9 và Biểu đồ 2.9 phần phụ lục] rút ra một số đặc điểm sau:
- Về giới tính
Qua nghiên cứu khảo sát 156 vụ án cướp giật tài sản thì số đối tượng là
nam giới chiếm tỉ lệ cao 151/156 vụ (chiếm 96,79%), số đối tượng là nữ giới
(04 đối tượng, chiếm 4,21%) chiếm tỉ lệ thấp (04 vụ chiếm 2,56%). Tất cả
bốn đối tượng là nữ tham gia thực hiện các vụ cướp giật tài sản chỉ giữ vai trò
32
cản địa, quản lý, tiêu thụ các tài sản chiếm đoạt được trong các băng, nhóm
cướp giật do đối tượng là nam giới cầm đầu.
Như vậy, nam giới chiếm tỉ lệ cao hơn nữ giới trong cơ cấu tội cướp giật
tài sản. Do đó, khi tiến hành các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật
tài sản cần chú ý tập trung vào các đối tượng là nam.
- Về độ tuổi
Người phạm tội trong các vụ án cướp giật tài sản đã xảy ra chủ yếu ở độ
tuổi từ 18 tuổi đến 30 tuổi (chiếm 77,91%). Cụ thể:
+ Dưới 16 tuổi: 02 người, tỷ lệ 0,78%;
+ Từ 16 đến 18 tuổi: 37 người, tỉ lệ 14,34%;
+ Từ 18 đến 30 tuổi: 201 người, tỉ lệ 77,91%;
+ Trên 30 tuổi: 18 người, tỉ lệ 6,97%.
Như vậy, đối tượng phạm tội cướp giật chủ yếu ở độ tuổi thanh thiếu
niên, tức từ 18 đến 30 tuổi (chiếm 77,91%) và dưới 18 tuổi (chiếm 15,12%).
Các đối tượng ở độ tuổi này để những nhu cầu thấp hèn vị kỷ, tiêu cực chệch
hướng với giá trị chuẩn mực của xã hội định hướng nên đã đi vào con đường
phạm tội. Do đó khi tiến hành các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp
giật cần chú ý tập trung vào các đối tượng ở lứa tuổi thanh thiếu niên.
- Về trình độ học vấn
Trình độ học vấn có ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách, lý trí,
cách ứng xử của con người khi họ tham gia vào các quan hệ xã hội. Trình độ
học vấn của tội phạm cướp giật tài sản tại có tác động mạnh đến nhận thức,
động cơ, thủ đoạn thực hiện hành vi cướp giật. Trong đó, số đối tượng không
đi học: 06 người (tỷ lệ 2,33%); đối tượng có trình độ học vấn tiểu học: 38
người (tỷ lệ 14,73%); đối tượng có trình độ học vấn trung học cơ sở: 155
người (tỷ lệ 60,07%); đối tượng có trình độ học vấn trung học phổ thông: 57
người (tỷ lệ 22,09%); đối tượng có trình độ học vấn cao đẳng - đại học: 02
người (tỷ lệ 0,78%).
Như vậy, đa số đối tượng phạm tội cướp giật tài sản có trình độ học vấn
33
không cao (từ lớp 9 trở xuống chiếm tỉ lệ 77,13%).
- Về nghề nghiệp
Số đối tượng không có nghề nghiệp và có nghề nghiệp nhưng không ổn
định phạm tội cướp giật tài sản chiếm tỉ lệ cao, cụ thể:
+ Số đối tượng không nghề nghiệp: 143 người (tỷ lệ 55,43%);
+ Số đối tượng có nghề nghiệp nhưng không ổn định: 56 người (tỷ lệ
21,71%);
+ Số đối tượng có nghề nghiệp ổn định: 22 người (tỷ lệ 8,52%);
+ Số đối tượng là học sinh, sinh viên: 37 người (tỷ lệ 14,34%).
Như vậy, nghề nghiệp cũng có ảnh hưởng đến khả năng phạm tội, bởi vì,
một trong nguyên nhân dẫn đến việc phạm tội là do thu nhập thấp, không ổn
định hoặc không có việc làm, lại có nhu cầu tiêu xài, có những đòi hỏi về vật
chất lớn hoặc khi việc làm không ổn định, còn nhiều thời gian nhàn rỗi, bị bạn
bè xấu rủ rê, lôi kéo nên nhiều đối tượng đã tìm đến con đường phạm tội cướp
giật. Đáng báo động là tình trạng sinh viên, học sinh tham gia cướp giật tài
sản có chiều hướng gia tăng.
- Về nơi cư trú
Tội phạm cướp giật tài sản hầu hết là người có hộ khẩu trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng, cụ thể:
+ Đối tượng có hộ khẩu trên địa bàn Đà Nẵng: 202 người, tỉ lệ 78,29%;
+ Đối tượng ngoại tỉnh: 56 người, tỉ lệ 21,71%;
Như vậy, đối tượng gây án cướp giật chủ yếu là người địa phương, tuy
nhiên trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội các đối tượng có sự di
chuyển từ phường này sang phường khác, quận này sang quận khác và điểm
đến thường là các nơi tập trung đông người với nhiều tài sản có giá trị. Các
đối tượng từ ngoại tỉnh chủ yếu vẫn là Quảng Nam, Quảng Ngãi, Gia Lai,
Kontum, tuy chiếm số lượng nhỏ nhưng thủ đoạn gây án cũng hết sức táo bạo,
liều lĩnh và di chuyển về lại địa phương ngay sau khi gây án, gây nhiều khó
khăn cho hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý.
34
- Về tiền án, tiền sự
Tội phạm cướp giật tại phần lớn là đối tượng phạm tội lần đầu, cụ thể:
+ Đối tượng có tiền án, tiền sự: 42 người, tỷ lệ 16,28%;
+ Đối tượng phạm tội lần đầu: 216 người, tỷ lệ 83,72%.
Tuy hầu hết đối tượng gây án cướp giật tài sản là phạm tội lần đầu,
nhưng trong nhiều trường hợp đối tượng lại gây án liên tục, thường xuyên
thay đổi địa bàn, thời điểm gây án, gây nhiều khó khăn cho động phòng ngừa,
đấu tranh, làm rõ. Số đối tượng gây án đã có tiền án, tiền sự khi thực hiện
hành vi phạm tội có sự chuẩn bị trước, nghiên cứu cụ thể đặc điểm địa bàn,
tuyến, khu dân cư để chuẩn bị gây án, khi bị phát hiện, bắt giữ khai báo nhỏ
giọt, luôn quanh co chối tội.
- Về đặc điểm tâm lý của tội phạm cướp giật tài sản
Tội phạm cướp giật tài sản chủ yếu là thanh thiếu niên, đều đang ở độ
tuổi rất trẻ, sung mãn về sức lực, tính khí nóng nảy, cộc cằn. Còn đối với
những đối tượng cướp giật chuyên nghiệp thì hết sức lỳ lợm, ngang ngạnh,
thực hiện hành vi phạm tội với thủ đoạn táo bạo, liều lĩnh, trắng trợn. Tội
cướp giật nhận thức về pháp luật cũng như những giá trị chuẩn mực đạo đức
xã hội rất thấp, coi thường mọi người, chây lười lao động nhưng lại thích ăn
chơi, dễ tiêm nhiễm những thói hư tật xấu.
- Về hoàn cảnh gia đình
Gia đình có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành nhân cách của con người.
Vì vậy, khi gia đình có cấu trúc không bền vững như thiếu bố, thiếu mẹ, hoặc
thiếu cả bố lẫn mẹ, bố mẹ ly dị, gia đình khó khăn túng quẫn, gia đình có các
thành viên phạm tội hình sự, tệ nạn xã hội… là những môi trường thuận lợi
tạo điều kiện cho cá nhân hình thành và phát triển nét tâm lý tiêu cực, nhân
sinh quan chệch hướng những chuẩn mực đạo đức xã hội và một trong những
biểu hiện ra bên ngoài là con đường phạm tội. Cá biệt, cũng có đối tượng
phạm tội xuất phát từ gia đình khá giả, gia đình cán bộ nhưng lại thiếu sự
quản lý, quan tâm đúng mức đến việc giáo dục con cái.
35
Qua phân tích đặc điểm nhân thân của tội phạm cướp giật tài sản cho
thấy, đối tượng phạm tội cướp giật phần lớn là những thanh thiếu niên, người
đang trong độ tuổi khỏe mạnh nhưng chây lười lao động, nghiện hút ma túy,
ăn chơi trác táng, không nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn định, cũng
có những đối tượng phạm tội lần đầu nhưng thủ đoạn gây án rất chuyên
nghiệp và gây án hàng loạt. Các đối tượng phạm tội cướp giật có tính cách
manh động, hành động liều lĩnh, sử dụng thành thạo phương tiện giao thông
có tốc độ cao, thông thuộc địa bàn gây án. Nắm vững đầy đủ các đặc điểm
nhân thân của tội phạm cướp giật có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đề ra
các giải pháp phòng ngừa để góp phần ngăn chặn tình trạng phạm pháp trong
giai đoạn hiện nay.
2.1.3.2. Đặc điểm về thời gian, địa điểm gây án
Thời gian và địa điểm gây án của tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, tùy từng địa điểm gây án cụ thể mà đối tượng lựa chọn thời gian gây án
thích hợp, ngược lại, tùy thuộc vào thời gian gây án đã lựa chọn mà đối tượng
tính toán gây án ở những địa điểm phù hợp. Tuy nhiên, trong nhiều trường
hợp nếu gặp điều kiện thuận lợi thì đối tượng sẽ gây án ngay.
Qua nghiên cứu 156 vụ án cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng cho thấy, đối tượng gây án không cố định vào một khung thời gian
nhất định, đối tượng có thể hành động khi thấy có điều kiện, cơ hội thuận
lợi, cụ thể:
- Từ 06h đến10h: 22 vụ, tỷ lệ 14,1%;
- Từ 10h đến 14h: 35 vụ, tỷ lệ 22,43%;
- Từ 14h đến 19h: 26 vụ, tỷ lệ 16,67%;
- Từ 19h đến 22h: 48 vụ, tỷ lệ 30,77%;
- Từ 22h đến 06h: 25 vụ, tỷ lệ 16,03%;
Tuy nhiên khoảng thời gian mà tội cướp giật gây án nhiều nhất là
khoảng thời gian từ 10 giờ đến 22giờ (109/156 vụ, tỉ lệ 69,87%).
Về địa điểm gây án, tội phạm cướp giật thường thực hiện ở các tuyến
36
đường tập trung đông đúc, nhiều người dân và du khách, thông thường tại các
khu vực du lịch dịch vụ như mua sắm, ăn uống,… du khách và người dân
thường xuyên qua lại như địa bàn Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành
Sơn chiếm 69,17% (175/253 vụ).
Như vậy, tội cướp giật thường chọn những địa bàn, tuyến, khu vực có
đông dân cư, cơ sở lưu trú, dịch vụ du lịch để thực hiện hành vi phạm tội. Các
khu vực ở nông thôn, miền núi thì số vụ cướp giật ít hơn rất nhiều, thậm chí
không xảy ra cướp giật.
2.1.3.3. Đặc điểm về nạn nhân của vụ án cướp giật tài sản
Nạn nhân của vụ án cướp giật tài sản tại thường là người mang theo tài
sản gọn nhẹ, có giá trị, như dây chuyền vàng, điện thoại di động, giỏ xách...
nhưng sơ hở, dễ phát hiện, dễ thấy lại thiếu tinh thần cảnh giác trong việc quản
lý tài sản của mình nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng thực hiện
hành vi phạm tội. Khi bị cướp giật tài sản, nạn nhân thường hoang mang,
hoảng hốt tinh thần nhưng ít nhiều trong tâm trí họ vẫn còn lưu lại thông tin về
đối tượng gây án, chẳng hạn: đặc điểm nhận dạng (dáng người, đầu tóc, quần
áo), loại phương tiện được sử dụng để gây án, biển kiểm soát... và thậm chí có
trường hợp dũng cảm truy đuổi đối tượng thực hiện hành vi cướp giật. Nghiên
cứu 156 vụ án cướp giật tài sản xảy ra thì nạn nhân là nữ là chính, cụ thể:
- Nạn nhân là nữ: 118 vụ, tỷ lệ 75,64%;
- Nạn nhân là nam: 25 vụ, tỉ lệ 16,03%;
- Nạn nhân là nam chở nữ: 13 vụ, tỷ lệ 8,33%;
- Nạn nhân là người nước ngoài: 15 vụ, tỷ lệ 9,62% (trong đó nam là 04
người, nữ là 11 người).
Các đối tượng cướp giật tài sản thường chọn nạn nhân là nữ vì nắm được
đặc điểm tâm lý khi bị cướp giật tài sản, nữ giới tỏ ra hốt hoảng, hoang mang
và ít chống trả, ít truy đuổi hơn nam giới.
Tất cả các nạn nhân là người nước ngoài trong các vụ án cướp giật tài
sản là các du khách đến Đà Nẵng để tham quan du lịch là chủ yếu nên họ
37
thường mang tài sản đựng trong giỏ xách gọn nhẹ để dễ đi lại, di chuyển. Tuy
nhiên, họ cũng chủ quan, sơ hở trong việc bảo vệ tài sản của mình như để giỏ
xách ở baga xe đạp, đeo ở vai, vả lại họ không rành đường đi lại, bất đồng
ngôn ngữ không thể trình báo, không thể kêu cứu nên đã bị các đối tượng triệt
để lợi dụng để cướp giật tài sản.
Khi bị cướp giật tài sản, nhiều nạn nhân không tin tưởng vào cơ quan
chức năng hoặc do giá trị tài sản ít, sợ mất thời gian hoặc trường hợp nạn
nhân là người nước ngoài vì bất đồng ngôn ngữ, không rành đường nên đã
không đến trình báo cơ quan chức năng vì vậy đã gây khó khăn cho công tác
xử lý, góp phần làm tăng tội phạm ẩn trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Như vậy, nạn nhân của vụ án cướp giật trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
là người Việt Nam và cả người nước ngoài, phần lớn là nữ giới, thường mang
trên người những tài sản gọn nhẹ và sơ hở trong việc quản lý tài sản, tạo điều
kiện cho các đối tượng thực hiện hành vi cướp giật, cá biệt có một số trường
hợp sau khi bị cướp giật các nạn nhân không trình báo với cơ quan chức năng.
2.1.3.4. Đặc điểm về tài sản bị chiếm đoạt
Tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ cướp giật trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng thường là những tài sản gọn nhẹ, có giá trị như giỏ xách, điện thoại di
động, dây chuyền vàng, máy ảnh kỹ thuật số và một số loại khác như thẻ tín
dụng, giấy tờ, kính đeo mắt.... Qua nghiên cứu khảo sát 156 vụ cướp giật tài
sản thì số tài sản bị cướp giật bao gồm:
- Túi xách: 85 vụ, tỷ lệ 54,48%;
- Điện thoại di động: 26 vụ, tỷ lệ 16,67%;
- Dây chuyền vàng: 29 vụ, tỷ lệ 18,59%;
- Laptop, máy ảnh: 16 vụ, tỷ lệ 10,26%;
Đối tượng cướp giật tài sản nhằm vào những tài sản gọn nhẹ để dễ dàng
giật lấy, dễ dàng tẩu thoát và tài sản cướp giật được lại dễ cất giấu, dễ tiêu thụ.
Nắm được đặc điểm tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ án cướp giật tài
sản có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tuyên truyền cho mọi người biện
38
pháp phòng ngừa, quản lý tài sản.
2.1.3.5. Hậu quả do tội cướp giật tài sản gây ra
Tội cướp giật tài sản không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu riêng của
công dân, làm cho nạn nhân rơi vào trạng thái hoang mang mà còn gây ra tâm
lý hoang mang cho quần chúng nhân dân, nhất là người nước ngoài đang
sống, làm việc và tham quan du lịch trên địa bàn, góp phần ảnh hưởng không
nhỏ đến tình hình TTATXH, môi trường du lịch của thành phố.
Nghiêm trọng hơn, các đối tượng cướp giật tài sản khi thực hiện hành vi
phạm tội thường liều lĩnh, táo bạo và kiên quyết thực hiện đến cùng nên bất
chấp cả tính mạng của nạn nhân, thậm chí sẵn sàng chống trả quyết liệt nếu bị
truy đuổi, gây thương tích nặng cho lực lượng truy đuổi hòng tẩu thoát bằng
cách đạp ngã xe của nạn nhân, của lực lượng truy đuổi, hoặc dùng dao, vật
nhọn để đâm...
2.1.3.6. Thủ đoạn phạm tội cướp giật
Tội cướp giật tài sản thường được thực hiện thông qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn chuẩn bị gây án
Đây là hoạt động đầu tiên phục vụ cho quá trình gây án được trót lọt, ở
giai đoạn này người thực hiện hành vi phạm tội thường thực hiện một số nội
dung sau:
Một là, thăm dò nắm tình hình về đối tượng hoặc diện đối tượng mà
chúng chuẩn bị cướp giật như phát hiện những người mang tài sản hay đồ
trang sức có giá trị, quan sát xác định những điểm sơ hở của người mang tài
sản. Đây là thủ đoạn phổ biến nhất của băng, nhóm cướp giật tài sản thường
vận dụng để thực hiện hành vi phạm tội.
Hai là, trước khi gây án chúng thường nghiên cứu kỹ địa bàn, tuyến, khu
dân cư mà chúng sẽ gây án và xác định từng khoảng thời gian nhất định để
thuận lợi cho việc gây án, mặc dù thời gian gây án của đối tượng cướp giật
không cố định vào một khoảng thời gian nhất định, đối tượng có thể hành
động khi thấy có điều kiện, cơ hội thuận lợi. Tuy nhiên, khoảng thời gian mà
39
tội cướp giật gây án nhiều nhất là khoảng thời gian từ 10giờ đến 22giờ
(109/156 vụ, tỉ lệ 69,87%).
Ba là, cùng với nội dung trên là quá trình chuẩn bị phương tiện, hung khí
gây án, như xe máy phải chuẩn bị loại nào, có khác biệt với loại xe lưu thông
thông thường hay không, có bảo đảm để gây án được thuận lợi hay không. Đa
số các đối tượng sử dụng xe máy có phân khối lớn và thường là xe mang biển
số giả, hoặc làm cho mờ biển số, bẻ cong biển số. Hung khí chuẩn bị mang
trong người thường là lưỡi lê, dao găm, kéo,... nhằm mục đích nếu bị truy
đuổi sẽ chống trả quyết liệt để tìm đường tẩu thoát. Cùng với sự chuẩn bị
công cụ, phương tiện để gây án chúng còn chuẩn bị cả nơi tiêu thụ tài sản và
nơi ẩn náu sau khi gây án.
Ngoài các nội dung trên, trước khi gây án, nếu có từ 02 đối tượng trở lên
bao giờ chúng cũng có sự bàn bạc kỹ lưỡng trong việc phân công vai trò, vị trí
của từng tên, tên chuyên điều khiển phương tiện, tên chuyên thực hiện hành vi
cướp giật, hay tên cản đường..., dự định thời gian, địa điểm, các phương án,
phương thức, thủ đoạn và cách đối phó, khai báo với cơ quan Công an khi bị
bắt giữ. Đặc biệt hiện nay, trước khi gây án các đối tượng thường tụ tập bàn
bạc kế hoạch gây án nhưng không cho biết chỗ ở, nơi trọ của nhau, để đề
phòng khi bị bắt không thể khai báo được nơi ở của đồng bọn.
Như vậy, quá trình chuẩn bị gây án là một hoạt động thường có ở tội
cướp giật, song hầu hết các vụ cướp giật xảy ra đối tượng phạm tội đều là
những tên đã có sẵn ý định phạm tội, vì thế, khi phát hiện cơ hội thuận lợi là
gây án ngay.
- Giai đoạn tiến hành gây án
Đây là giai đoạn người phạm tội thực hiện hành vi cướp giật. Khi xác
định được đối tượng để gây án, chúng tìm mọi cách tiếp cận rồi nhanh chóng
giật lấy tài sản trên người nạn nhân rồi tẩu thoát.
Ở giai đoạn này, thủ đoạn được thể hiện như sau:
+ Gây án sau khi quan sát, theo dõi đối tượng
40
Các đối tượng thường có mặt ở những địa điểm nhất định để quan sát,
theo dõi những người ra vào có mang theo túi xách…, khi xác định được mục
tiêu gây án là chúng cho xe bám theo nạn nhân tới những địa điểm thuận lợi
như chỗ đường giao nhau, chỗ đường rộng, đường giáp ranh, lúc này tên cầm
lái cho xe ép sát vào xe nạn nhân, đồng thời tên ngồi sau nhanh chóng giật tài
sản của nạn nhân, ngay lập tức tên cầm lái tăng tốc độ để tẩu thoát. Thời gian
hành động xảy ra rất nhanh “trong nháy mắt” nên khi nạn nhân phát hiện
mình bị giật tài sản thì đối tượng đã chạy khá xa, hoặc là vào các ngõ hẻm
khác, hoặc trà trộn vào dòng người lưu thông trên đường, nạn nhân không kịp
tri hô và quan sát kịp biển số xe của chúng. Qua nghiên cứu 156 vụ thì có 16
vụ đối tượng dùng thủ đoạn này (chiếm tỉ lệ 13,44%).
+ Các đối tượng cướp giật tài sản đi dạo chơi trên các tuyến đường khi
thấy thuận lợi sẽ thực hiện hành vi cướp giật. Thủ đoạn này thường thể hiện
qua các trường hợp sau:
* Thứ nhất, vụ án cướp giật chỉ có 01 đối tượng
Đối tượng gây án đi bộ hoặc đi xe máy một mình giả vờ như người dân
thường nhưng đối tượng có sự quan sát, theo dõi nạn nhân, lợi dụng sự lơ là,
mất cảnh giác của họ nhanh chóng giật lấy tài sản rồi tẩu thoát. Nghiên cứu
156 vụ thì có 76 vụ đối tượng dùng thủ đoạn này (tỉ lệ 48,72%).
* Thứ hai, trường hợp gây án có từ hai đối tượng trở lên
Các đối tượng sử dụng xe máy, khi phát hiện nạn nhân đi bộ có mang
theo tài sản, một đối tượng xuống đi bộ để bám theo, tiếp cận nạn nhân khi
thấy thời cơ thuận lợi nhanh chóng thực hiện hành vi giật lấy tài sản và chạy
ra lên xe đồng bọn đang nổ máy chờ sẵn để tẩu thoát. Thủ đoạn này thường
xảy ra tại các khu vực đông người, những tuyến du lịch bộ như Võ Nguyên
Giáp, Hoàng Sa, Trường Sa,…Hay với thủ đoạn vừa chạy xe vừa quan sát,
khi phát hiện tài sản nạn nhân mang theo có thể thuận lợi cho việc cướp giật
thì tiến hành giật ngay; hoặc cho xe máy bám theo, đến địa điểm thuận lợi thì
nhanh chóng giật lấy tài sản rồi tẩu thoát. Nghiên cứu 156 vụ thì có 80 vụ đối
41
tượng dùng thủ đoạn này (tỉ lệ 51,28%).
Phương tiện mà đối tượng cướp giật thường sử dụng là những loại xe
máy có phân khối 100cc trở lên như các loại xe Exciter, Sirus, Airblade,
Wave,…, được tháo biển số, biển số giả, làm mờ biển số, bẻ cong biển số
hoặc dùng băng keo dán sửa biển số, hoặc dùng cành cây để che biển số.
Những phương tiện này là của mình, thuê của người khác, hay xe mượn của
gia đình, bạn bè. Nếu nạn nhân và người đi đường có phản ứng tri hô và đuổi
theo thì đồng bọn của chúng đi trên các xe phía sau sẽ tìm mọi cách ngăn cản,
gây khó khăn cho nạn nhân bằng các thủ đoạn như giả vờ hỏi thăm chuyện gì
nhằm trì hoãn đánh lạc hướng hay lạng lách cản đường chèn ép xe nạn nhân,
hoặc sẵn sàng chống trả quyết liệt lực lượng truy đuổi để tẩu thoát bằng các
loại vũ khí thô sơ như dao thái lan, ná thun, đá nhỏ...
- Giai đoạn sau khi gây án
Nhanh chóng là dấu hiệu phản ánh thủ đoạn của người phạm tội. Chúng
nhanh chóng tiếp cận tài sản, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng
tẩu thoát. Vì thế, sau khi gây án, tội cướp giật nhanh chóng rút khỏi hiện
trường nhằm tránh sự phát hiện, truy bắt của quần chúng nhân dân và lực
lượng chức năng.
Tài sản mà các đối tượng cướp giật tập trung chiếm đoạt thường gọn nhẹ,
có giá trị, vừa dễ chiếm đoạt, dễ cất giấu, dễ sử dụng và dễ tiêu thụ như tiền, giỏ
xách đựng tiền, vàng, đôla, đồ trang sức như dây chuyền, vòng vàng, ngọc trai,
điện thoại di động... Qua nghiên cứu 156 vụ cướp giật , có 65 vụ tài sản bị cướp
giật là túi xách, 46 vụ là điện thoại di động, 29 vụ là dây chuyền vàng, 16 vụ là
laptop, máy ảnh. Thông thường, sau khi đạt được mục đích gây án là chiếm đoạt
được tài sản, các đối tượng cướp giật thường sử dụng (như tiền, đôla, điện thoại)
hoặc mang đi tiêu thụ, bán để lấy tiền tiêu xài, ăn chơi, hút chích, cờ bạc (dây
chuyền vàng, laptop, máy ảnh...). Đối với những vụ cướp giật tài sản là túi xách,
sau khi lấy hết tài sản có giá trị trong túi xách của nạn nhân thì đối tượng vứt lại
túi xách đựng những thứ lặt vặt, những vật dụng không có giá trị (mỹ phẩm,
42
gương, lược..), bóp ví đựng tiền, giấy tờ tùy thân tại các địa điểm như dưới chân
cầu, trong các thùng rác... hoặc đốt túi xách để phi tang.
Những nơi mà các đối tượng phạm tội cướp giật nhằm vào tiêu thụ tài sản
thường được tính toán cân nhắc vì chúng biết được quy luật phát hiện của Công
an thông qua việc phát hiện tài sản mà tội phạm mang đi tiêu thụ. Vì vậy, đa số
các đối tượng này có những cơ sở tiêu thụ riêng, thậm chí có những tên còn móc
nối trước khi gây án để tìm những cơ sở chuyên tiêu thụ cho chúng.
Tuy nhiên, có nhiều trường hợp sau khi gây án xong đối tượng không
mang tài sản đi bán ngay mà chờ một thời gian để nghe ngóng tình hình động
tĩnh, dò xét sự điều tra của cơ quan Công an, nếu thấy động, có biểu hiện
không bình thường thì các đối tượng mang cất giấu hoặc gửi nhà người quen,
bạn bè sau đó mới mang đi tiêu thụ. Ngoài ra, do nhu cầu cần tiền để tiêu xài,
ăn chơi, hút chích ma túy nên đa số đối tượng sau khi giật được tài sản thì
mang đi bán ngay, tiêu thụ ngay mà không cần phải lựa chọn nơi tiêu thụ nhất
định, không để ý đến việc truy tìm, điều tra của cơ quan Công an.
Tóm lại, qua thủ đoạn gây án và che giấu tội phạm của tội cướp giật tài
sản địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua cho thấy các đối tượng
thường sử dụng xe máy phân khối lớn, làm thay đổi biển số thật, gây án từ 02
đối tượng trở lên, có sự phân công vai trò, vị trí của từng tên. Sau khi phát
hiện được mục tiêu gây án, chúng quan sát sơ hở của nạn nhân rồi thực hiện
hành vi cướp giật và nhanh chóng tẩu thoát. Trong trường hợp gây án mà bị
quần chúng nhân dân phát hiện truy đuổi thì đối tượng sẵn sàng chống trả
quyết liệt bằng hung khí hòng tẩu thoát hoặc giải cứu cho đồng bọn. Sau khi
gây án hoặc là ngay lập tức tìm nơi tiêu thụ tài sản cướp giật được để lấy tiền
mua ma túy sử dụng, ăn chơi, cờ bạc, bao gái tại các nhà hàng, khách sạn, vũ
trường, quán bar hoặc là chờ thời cơ thuận lợi để tiêu thụ tài sản.
2.1.4. Nguyên nhân, điều kiện của tình trạng tội cướp giật tài sản trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng
Nguyên nhân của tình trạng tội cướp giật tài sản là những yếu tố tác
43
động trực tiếp làm phát sinh ra loại tội phạm này; còn điều kiện của tình trạng
tội cướp giật tài sản là những hiện tượng xã hội thúc đẩy, tạo điều kiện thuận
lợi làm nảy sinh loại tội phạm này.
Qua nghiên cứu, xác định nổi lên một số nguyên nhân, điều kiện khách
quan và chủ quan chủ yếu làm phát sinh tội cướp giật tài sản như sau:
2.1.4.1. Nguyên nhân, điều kiện khách quan
- Từ phía gia đình
Dưới tác động của nền kinh tế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo ngày
càng rõ nét. Nhiều gia đình có hoàn cảnh quá khó khăn về kinh tế, con cái
không có điều kiện ăn học, không đáp ứng nhu cầu vật chất tối thiểu phải nghỉ
học phụ giúp gia đình như: bán vé số, đánh giầy, làm ôsin... sớm tiếp xúc với
môi trường xã hội lại thiếu kinh nghiệm sống nên dễ bị mặt trái của nền kinh
tế thị trường tác động và bị lôi kéo vào con đường phạm tội. Qua nghiên cứu
khảo sát thì yếu tố gia đình khó khăn túng quẫn, hoàn cảnh kinh tế, mức thu
nhập thấp là một trong những động cơ phát sinh tội cướp giật tài sản (57/258
đối tượng, tỷ lệ 22,09%).
Tuy nhiên, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn không phải là nguyên
nhân chủ yếu nảy sinh tội cướp giật. Trong nền kinh tế thị trường, nhiều gia
đình giàu lên nhanh chóng, họ chỉ chú tâm vào công việc xã hội, lo làm giàu
mà quên chức trách làm cha mẹ. Nhiều cha mẹ cứ nghĩ thỏa mãn nhiều vật
chất cho con là đủ mà không cần có sự quan tâm chia sẻ, động viên con em
mình. Khi được cha mẹ cho nhiều tiền, có một số người lao vào ăn chơi trụy
lạc, tệ nạn xã hội, bỏ học. Đến khi không được cha mẹ cung cấp tiền kịp thời
thì nảy sinh hành vi phạm tội để kiếm tiền tiêu xài. Trường hợp này có 46/258
đối tượng, tỷ lệ chiếm 17,83%.
Bên cạnh đó, gia đình không hoàn hảo, không thuận lợi như có bố mẹ ly
dị, không có bố mẹ, hoặc không có bố hoặc không có mẹ cũng được coi là
nguyên nhân của việc giáo dục, dạy dỗ con cái, môi trường phát sinh ý định
phạm tội cướp giật tài sản (có đến 59/258 đối tượng chiếm 23,16%).
44
Ngoài ra, sự buông lỏng quản lý của gia đình, không chú ý đến sự phát
triển nhân cách của cá nhân thành viên trong gia đình, không quan tâm quản
lý giờ giấc đi lại, tiêu xài… đã tạo cho thành viên trong gia đình có lối sống
buông thả, giao du với các phần tử xấu, một trong những con đường dẫn đến
phạm tội trong đó có tội cướp giật tài sản.
- Từ phía nhà trường
Công tác quản lý giáo dục học sinh, sinh viên trong các nhà trường còn
lỏng lẻo, trong khi số lượng học sinh ngày càng tăng. Một số tệ nạn nghiện
hút, cờ bạc đã xuất hiện trong môi trường nhà trường nhưng chưa được phát
hiện và xử lý kịp thời.
Chương trình học ở nhà trường còn nhiều bất cập ở việc không cân đối
thời lượng giữa các môn học làm cho học sinh, sinh viên vừa quá tải vừa hổng
kiến thức. Một số học sinh yếu không theo kịp bạn bè, học lưu ban nên mặc
cảm với bạn bè, chán học, trốn học tụ tập bạn bè đi chơi, mắc phải tệ nạn xã
hội và cuối cùng đi vào con đường phạm tội.
Sự quan tâm, phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong quản lý giáo
dục, trong việc phòng ngừa những lệch lạc, và trong việc phát hiện sơ hở của
học sinh chưa được thường xuyên và thiếu chặt chẽ. Những biểu hiện xấu của
học sinh không được nhà trường phản ánh kịp thời, đầy đủ đến gia đình và
ngược lại. Mặc khác, kỷ luật nhà trường đôi lúc còn lỏng lẻo. Điều này cũng
góp phần tạo ra môi trường thuận lợi cho học sinh trốn học, bỏ học, tụ tập để
ăn chơi hoặc cướp giật tài sản để tiêu xài.
- Từ phía xã hội
Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ thông tin, các
dịch vụ giải trí trên các lĩnh vực, thì hoạt động của các tổ chức quần chúng
như Đoàn thanh niên, hoạt động của các ban ngành... ở cơ sở còn yếu, mang
tính hình thức nên không thu hút được đông đảo thanh, thiếu niên tham gia vì
thế, ý thức phấn đấu vươn lên còn hạn chế, không muốn khép mình vào
khuôn khổ, ý thức tập thể kém nên khi gặp hoàn cảnh xấu, bàn bè rủ rê lôi kéo
45
dễ có hành động phạm tội.
2.1.4.2. Nguyên nhân, điều kiện chủ quan từ bản thân người phạm tội
Các đối tượng phạm tội cướp giật tài sản tại các khu du lịch có những
đòi hỏi quá cao so với sự đáp ứng của bản thân và gia đình, đó là nhu cầu ích
kỷ về sự hưởng thụ, khi gia đình không đáp ứng sẽ có hành vi phạm tội để
thỏa mãn nhu cầu. Bên cạnh đó, các đối tượng này rất chây lười lao động,
quen sống hưởng thụ với những nhu cầu thấp hèn vị kỷ, có lối sống xa hoa
trụy lạc, ăn chơi trác táng như: nhậu nhẹt, massage, bao gái... nhân sinh quan
bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi thái độ coi đồng tiền, lợi ích vật chất là trên
hết, nhất là tầng lớp thanh thiếu niên mới lớn. Đây được xem là nguyên nhân
trực tiếp dẫn đến tội cướp giật. Qua nghiên cứu 156 vụ án cướp giật tài sản,
số lượng vụ án xảy ra do nguyên nhân trình bày trên là 128 vụ (tỷ lệ 82,05%),
còn lại 28 vụ (tỷ lệ 17,95%) là do nghiện ma túy.
Đối tượng phạm tội cướp giật tài sản có nhận thức xã hội và trình độ văn
hóa thấp, hạn chế nhận thức về pháp luật, có sự suy thoái nghiêm trọng về đạo
đức, trượt dài từ gia đình, nhà trường cho đến xã hội, cuối cùng đi vào con
đường phạm tội. Số đối tượng phạm tội cướp giật không đi học 06/258 người,
tỷ lệ 2,33%; có trình độ văn hóa tiểu học 38/258 người, tỷ lệ 14,73%; có trình
độ trung học cơ sở 155/258 người, tỷ lệ 60,07%.
Số lượng đối tượng phạm tội trong tình trạng không nghề nghiệp, nghề
nghiệp không ổn định ngày càng nhiều 199/258 người, tỷ lệ 77,13%.
Trên đây là một số nguyên nhân, điều kiện của tình trạng tội cướp giật tài
sản trong thời gian qua trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đã ảnh hưởng đến công
tác phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản nói chung, cướp giật tài sản nói
riêng của các lực lượng, trong đó có lực lượng Công an thành phố Đà Nẵng.
2.1.5 Thực trạng tổ chức lực lượng phòng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
2.1.5.1. Tổ chức, biên chế của lực lượng Công an thành phố Đà Nẵng
Tổng biên chế của Công an thành phố khoảng: 5.000 người, trong đó các
46
lực lượng trực tiếp tham gia, tiến hành các hoạt động đấu tranh, phòng chống
tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố là lực lượng CSND từ thành phố,
xuống đến quận, huyện, phường với tổng biên chế khoảng 3.000 người,
Qua nghiên cứu cho thấy, lực lượng CSND của Công an thành phố Đà
Nẵng trực tiếp tham gia phòng chống tội cướp giật, tội cướp giật tài sản phân
bố tương đối đồng đều giữa 03 cấp, qua đó giúp các lực lượng chủ động hơn
trong công tác nắm tình hình, triển khai các chương trình, kế hoạch công tác,
phục vụ tốt cho hoạt động phòng ngừa đối với loại tội phạm này. Tuy nhiên,
bên cạnh đó lực lượng trực tiếp tham gia phòng, chống tội cướp giật tài sản
còn trẻ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế, chưa có nhiều kinh
nghiệm, nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến trong quá trình tổ chức triển khai,
thực hiện các hoạt động phòng ngừa tình hình đối với loại tội phạm này.
Như vậy, lực lượng Công an thành phố mà trực tiếp là lực lượng CSND
tham gia, tiến hành các hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có trình độ chuyên môn nghiệp vụ không
đồng đều và trẻ hóa nên còn thiếu kinh nghiệm so với yêu cầu của tình hình,
hiệu quả công tác mang lại chưa cao. Chính vì vậy, công tác phòng ngừa tình
hình tội cướp giật chỉ giải quyết được bề nổi còn chưa thể đi vào chiều sâu,
chưa áp dụng hết các biện pháp đấu tranh đối với loại tội phạm này.
2.1.5.2. Tình hình các lực lượng bán chuyên trách, trực tiếp tham gia,
phối hợp thực hiện nhiệm vụ phòng chống tội cướp giật tài sản trên địa bàn
thành phố
Lực lượng Công an xã với tổng số 185 người, trong đó có 11 Trưởng Công
an xã, tỷ lệ 5,95%; 22 Phó Công an xã, tỷ lệ 11,89%; 32 Công an viên thường trực
tại xã, tỷ lệ 17,3%; 120 Công an viên phụ trách thôn, tỷ lệ 64,86%;
Lực lượng Bảo vệ Dân phố có 45 Ban Bảo vệ dân phố và 355 Tổ Bảo vệ
dân phố, với tổng số thành viên: 2019 người, trong đó có 45 Trưởng ban Bảo
vệ dân phố, tỷ lệ 2,23%; 88 Phó trưởng ban Bảo vệ dân phố, tỷ lệ 4,36%; 256
Uỷ viên Ban bảo vệ dân phố, tỷ lệ 12,68%; 350 Tổ phó, tỷ lệ 17,34%; 1280
47
Tổ viên, tỷ lệ 63,4% (riêng Tổ trưởng Bảo vệ dân phố đều là thành viên ban
Bảo vệ dân phố);
Dân phòng: Có 58 Đội Dân phòng/56 phường, xã, gồm có 1.376 người,
trong đó có 02 đội Dân phòng Nữ gồm 39 người (phường Khuê Mỹ quận Ngũ
Hành Sơn có 20 người; phường Hòa Hải quận Ngũ Hành Sơn có 12 người);
Ngoài ra, còn có các tổ chức, lực lượng được hình thành từ công tác xây
dựng phong trào Toàn dân bảo vệ An ninh Tổ quốc, các tổ chức tham gia
công tác đấu tranh PCTP được hình thành tự phát, như:
- Đội xe thồ tự quản tham gia phòng, chống tội phạm có 192 người,
trong đó Đội xe thồ tự quản phường Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ có 12
người, Đội xe thồ tự quản Bến xe trung tâm thành phố Đà Nẵng gồm 04 Tổ,
có 180 người;
- Tổ xung kích tự quản phòng, chống tội phạm; phòng cháy chữa cháy và
phòng chống thiên tai, bão lụt tại khu vực dân cư Xuân Thiều phường Hòa
Hiệp Nam quận Liên Chiểu có 100 người.
- 113 mô hình phong trào Toàn dân bảo vệ An ninh Tổ quốc với các nội
dung, hình thức đa dạng và phong phú, các mô hình đã góp phần kiềm chế
hoạt động các loại tội phạm và tệ nạn xã hội.
Như vậy, dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền
địa phương và sự hướng dẫn nghiệp vụ của lực lượng Công an, các lực lượng
Bảo vệ dân phố, dân phòng, các tổ chức, mô hình được hình thành từ phong
trào Toàn dân bảo vệ An ninh Tổ quốc đã phát huy tốt vai trò, trách nhiệm,
tích cực tham gia phòng, chống tội phạm nói chung, tội cướp giật tài sản nói
riêng theo chức năng, nhiệm vụ được quy định theo các Quyết định, kế hoạch,
chương trình công tác của UBND các cấp, góp phần đảm bảo tình hình ANTT
trên từng địa bàn.
2.2. Thực trạng phòng ngừa
2.2.1. Công tác phòng ngừa xã hội
Công tác phòng ngừa có vị trí rất quan trọng góp phần ngăn chặn những
48
nguyên nhân sâu xa và một số nguyên nhân, điều kiện trực tiếp của hành vi
phạm tội. Trong 5 năm qua (từ năm 2014 đến 06 tháng đầu năm 2019), lực
lượng Công an thành phố Đà Nẵng với vai trò nòng cốt đã chủ động tham
mưu, phối hợp với các lực lượng tổ chức triển khai các mặt công tác phòng
ngừa xã hội đối với tội phạm nói chung, tội cướp giật tài sản nói riêng, trong
đó có tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố như:
2.2.1.1. Công tác tham mưu lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai các
hoạt động phòng ngừa
Tham mưu Thành ủy thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, Quốc hội, Chính phủ về công tác đấu tranh phòng chống tội phạm như:
Chỉ thị 46-CT/TW của Bộ Chính trị về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác đảm bảo an ninh, trật tự trong tình hình mới"; Chỉ thị số 48-
CT/TW “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống
tội phạm trong tình hình mới”; Chỉ thị số 21-CT/TW của Bộ Chính trị “Về
tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma
tuý trong tình hình mới”; Chỉ thị số 09/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới”, qua đó, đã ban hành Chương trình
hành động số 05-CTr/TU nhằm tổ chức, triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ
thị số 48-CT/BCT của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới”; Chương trình
hành động số 14-CTr/TU về thực hiện Chỉ thị 09-CT/TW của Ban bí thư
Trung ương Đảng (Khoá XI) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ trong tình hình mới”, nhằm xác định
nhiệm vụ phòng chống tội phạm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp;
trách nhiệm của người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền đối với tình hình tội
phạm ở địa phương, đơn vị mình quản lý và xem đây là một tiêu chí để bình
xét, phân loại, hàng năm đối với tổ chức Đảng và Đảng viên ở các tổ chức cơ
sở Đảng trực thuộc. Bên cạnh đó, các cơ quan tham mưu giúp việc của Thành
49
ủy như Ban Tổ chức, Ban Dân vận, Ban Nội chính, Uỷ ban Kiểm tra, Đảng uỷ
Khối doanh nghiệp…đã tổ quán triệt đầy đủ, sâu sắc tư tưởng chỉ đạo, các
nhiệm vụ, giải pháp liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
mà Thành ủy đã đề ra thông qua các Chỉ thị như Chỉ thị 24-CT/TU và Chỉ thị
25-CT/TU của Thành ủy về “đẩy mạnh công tác phối hợp, giúp đỡ các gia
đình có hoàn cảnh đặc biệt nghèo, học sinh bỏ học và thiếu niên hư, vi phạm
pháp luật” và “phòng chống bạo lực gia đình” và các văn bản có liên quan
đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm đã tạo nên sự chuyển biến
mạnh mẽ từ nhận thức đến hành của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân
trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
UBND thành phố đã ban hành Kế hoạch số 676/KH-UBND ngày
09/02/2011 về thực hiện Chỉ thị 48-CT/TW và Kế hoạch số 869/KH-UBND
ngày 20/02/2012 đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình
hình mới theo tinh thần chỉ đạo của Chỉ thị số 09-CT/TW và Chương trình hành
động số 19-CTr/TU để chỉ đạo các cấp, các ngành triển khai thực hiện; chỉ đạo
tiếp tục thực hiện Quyết định số 19/QĐ-UBND ngày 07-8-2009 về phê duyệt đề
án “Đổi mới công tác tuyên truyền vận động toàn dân tham gia phòng chống tội
phạm và xây dựng mô hình phòng chống tội phạm trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng”; Chỉ thị số 01/CT-UBND ngày 12/02/2014 về công tác phòng, chống tội
phạm trên địa bàn thành phố giai đoạn 2014-2015; Kế hoạch số 2188/KH-
UBND ngày 20/03/2014 về rà soát, thống kê người nghiện ma túy trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng; Quyết định số 28/2014/QĐ-UBND ngày 06/9/2014 của
UBND thành phố về Quy chế phối hợp lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma tuý
trên địa bàn thành phố; ban hành và tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả
Quyết định số 6743/QĐ-UBND ngày 07/9/2010 về thành lập lực lượng chống
cướp giật và tội phạm khác trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và Quyết định
8394/QĐ-UBND ngày 09/11/2015 (thay thế cho Quyết định 7661) về hoạt động
phối hợp tuần tra, kiểm soát bảo vệ ANTT ở địa bàn dân cư.
Các cấp, các ngành chức năng của thành phố đã phối hợp tổ chức thực
50
hiện có hiệu quả các chương trình hành động, chỉ thị, quyết định, kế hoạch,
văn bản chỉ đạo của Thành uỷ, UBND thành phố liên quan đến công tác đảm
bảo ANTT, như Chỉ thị số 24/CT-TU ngày 10/8/2009 của Thành uỷ Đà Nẵng
v/v “Tiếp tục đẩy mạnh công tác phối hợp giúp đỡ các gia đình có hoàn cảnh
đặc biệt nghèo, học sinh bỏ học và thiếu niên hư vi phạm pháp luật trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng”, Chỉ thị số 25-CT/TU ngày 20/10/2009 của Ban
Thường vụ Thành uỷ Đà Nẵng về “Phòng chống bạo lực gia đình”; Chỉ thị số
37-CT/TU ngày 20/8/2014 của Ban Thường vụ Thành ủy về “tiếp tục tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống, kiểm soát tội phạm và tệ nạn
ma túy trên địa bàn thành phố”; Kế hoạch số 38-KH/TU ngày 11-6-2014 của
Thành ủy về triển khai thực hiện Kết luận số 95-KL/TW của Ban Bí thư (khoá
XI) nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng theo tinh thần Chỉ
thị số 21-CT/TW ngày 26-3-2008 của Bộ Chính trị “về tiếp tục tăng cường
lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình
mới”; Quyết định số 19/QĐ-UBND ngày 07-8-2009 về phê duyệt đề án “Đổi
mới công tác tuyên truyền vận động toàn dân tham gia phòng, chống tội phạm
và xây dựng mô hình phòng chống tội phạm trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng”; Quyết định số 6743/QĐ-UBND ngày 07-9-2010 về thành lập lực
lượng chống cướp giật và tội phạm khác trên địa bàn thành phố Đà Nẵng;
Quyết định số 7661/QĐ-UBND ngày 20-9-2012 về hoạt động phối hợp tuần
tra, kiểm soát bảo vệ ANTT ở địa bàn dân cư; Quyết định số 28/2014/QĐ-
UBND ngày 06/9/2014 của UBND thành phố về ban hành Quy chế phối hợp
lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma tuý trên địa bàn thành phố; Quyết định số
7557/QĐ-UBND ngày 23/10/2014 của UBND thành phố về việc thành lập Cơ
sở quản lý người nghiện không có nơi cư trú ổn định trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng trong thời gian lập hồ sơ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc; Quyết định số 38/QĐ-UBND ngày 23/10/2014 của UBND
thành phố quy định mức chi hỗ trợ công tác cai nghiện và quản lý sau cai
nghiện ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Đồng thời, tổ chức rà soát,
51
đánh giá, điều chỉnh, khắc phục những tồn tại, giải quyết những khó khăn,
vướng mắc, bất cập trong quá trình tổ chức công tác phòng ngừa, đấu tranh,
xử lý tội phạm, như Quyết định số 8048/QĐ-UBND, ngày 08/11/2014 của
Chủ tịch UBND thành phố về kiện toàn Ban Chỉ đạo phòng chống tội phạm,
tệ nạn xã hội, HIV/AIDS và Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc; Quyết định số 20/QĐ-BCĐ ngày 10/3/2015 về việc ban hành Quy chế
hoạt động của Ban Chỉ đạo và Quyết định số 19/QĐ-BCĐ ngày 10/3/2015 về
việc thành lập Tổ giúp việc của Ban Chỉ đạo; Quyết định số 8835/QĐ-UBND
ngày 04/12/2014 về việc thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ phòng, chống tội
phạm thành phố Đà Nẵng; Công văn số 11192/UBND-VX ngày 06/12/2014
của UBND thành phố về chỉ đạo thực hiện một số nội dung về lập hồ sơ và tổ
chức cai nghiện ma túy; Công văn số 704/UBND-VX ngày 28/01/2015 của
UBND thành phố về chỉ đạo thực hiện một số nội dung về công tác cai nghiện
ma tuý; Quyết định số 9097/QĐ-UBND ngày 17/12/2014 về việc thành lập
Tổ Công tác thống kê người nghiện ma tuý trên địa bàn thành phố; Quyết
định 8394 ngày 09/11/2015 về việc phối hợp các lực lượng trong tuần tra
phòng, chống tội phạm và đảm bảo ANTT trên địa bàn thành phố.
UBND thành phố đã chỉ đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể, chính quyền các
cấp trên địa bàn thành phố chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện nghiêm túc các
chương trình hành động, chỉ thị, quyết định, kế hoạch của Thành uỷ, UBND thành
phố đối với công tác phòng, chống tội phạm; đẩy mạnh tuyên truyền, vận động
phòng chống vi phạm pháp luật và tội phạm trong toàn dân, lồng ghép vào các
buổi sinh hoạt của các mô hình để tuyên truyền thông qua phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, phong trào PCTP, phong trào
quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, thực hiện chương trình “5 không, 3 có” của
thành phố, đã góp phần tích cực trong việc PCTP trên địa bàn thành phố.
2.2.1.2. Công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân phòng,
chống tội phạm
Lãnh đạo UBND thành phố đã tổ chức quán triệt đến từng đảng viên, cán
52
bộ, công nhân viên quan điểm chỉ đạo của Thành uỷ, UBND thành phố về công
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Xác định trách nhiệm của người đứng
đầu cấp uỷ, chính quyền đối với tình hình ANTT ở địa phương, đơn vị mình
quản lý và xem đây là một tiêu chí để bình xét, phân loại hàng năm đối với chất
lượng của tổ chức cơ sở đảng, cũng nhưng đánh giá, phân loại cán bộ. Đồng
thời, chỉ đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể chính trị - xã hội và chính quyền các
cấp làm tốt công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật liên quan đến công tác
PCTP theo chức năng, nhiệm vụ của mình, như đẩy mạnh cuộc vận động
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” của Ủy ban mặt
trận Tổ quốc Việt Nam thành phố; mô hình “Tổ, thôn không có tội phạm và tệ
nạn xã hội”, phong trào “Tuổi trẻ chung tay đẩy lùi tệ nạn xã hội” của Đoàn
Thanh niên; mô hình “5+1” (4 hội, đoàn thể + 1 Công an nhận kèm, giúp đỡ
một đối tượng sau cai nghiện), mô hình “1+3” (1 Cựu chiến binh liên kết với 3
gia đình kề cận ngăn chặn tội phạm, ma tuý và mại dâm thâm nhập vào khu
dân cư) và thực hiện chương trình “5 không, 3 có” của thành phố; mô hình
“Chi hội không có hội viên nông dân và con em nông dân vi phạm pháp luật”
của Hội Nông dân; Liên đoàn lao động thành phố đã tổ chức 10 lớp truyên
truyền PCTP, ma túy, mại dâm, HIV/AIDS cho trên 1.500 lượt công nhân lao
động tại 10 doanh nghiệp trên địa bàn thành phố, tổ chức đăng ký thi đua tại 14
công đoàn cấp trên cơ sở và 50 công đoàn cơ sở trực thuộc, triển khai 15 tổ tự
quản khu nhà trọ với hơn 1.400 công nhân, lao động; Hội Nông dân thành phố
đã triển khai 12 đợt hoạt động tuyên truyền PCTP tại 204 điểm cho 16.624 lượt
người dự, cấp phát trên 6.000 tờ rơi, 400 sách hỏi đáp về pháp luật, các cấp hội
ở cơ sở đã tổ chức 440 buổi tuyên truyền PCTP, phòng chống ma túy cho
29.171 lượt người tham dự, tổ chức 23 buổi văn nghệ lồng ghép các tiểu phẩm
đề cao cảnh giác PCTP có 12.660 lượt người dự xem, hội viên nông dân, các
cấp hội đã nhận cảm hoá giáo dục 135 thanh thiếu niên vi phạm pháp luật,
Đoàn Thanh niên các cấp đã tổ chức tuyên truyền, vận động trong cán bộ,
Đoàn viên, thanh thiếu niên và các tầng lớp nhân dân tham gia các hoạt động
53
PCTP, ma túy, tệ nạn xã hội. Các cấp Hội Cựu Chiến binh thành phố nhận giúp
đỡ 1.442 lượt người vi phạm, trong đó có 340 lượt người nghiện ma tuý và
quản lý sau cai, giáo dục tiến bộ 829 lượt, đạt tỷ lệ 57,4%, cung cấp 375 tin về
tội phạm, trong đó có 37 tin liên quan đến buôn bán sử dụng trái phép chất ma
tuý; tổ chức lồng ghép tuyên truyền cho hội viên, nhân dân, học sinh, sinh viên
được 764 buổi với 124.288 lượt người dự nghe. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh thành phố lồng ghép các hoạt động hội thi, hội diễn văn nghệ nội
dung tuyên truyền về phòng, chống tội phạm, ma tuý, mại dâm. Tổ chức Hội
thi tìm hiểu pháp luật về phòng chống HIV/AIDS, tệ nạn ma tuý, mại dâm tại
Hội trại đồng hành hàng năm, thu hút trên 10.000 trại sinh theo dõi, cổ vũ.
Hàng năm tập huấn về Luật phòng chống ma túy và tọa đàm về tình hình lây
nhiễm HIV/AIDS cho các tổng phụ trách Đội của các trường tiểu học, phổ
thông cơ sở, cán bộ Hội Liên hiệp thanh niên, chủ nhiệm các Câu lạc bộ đội,
nhóm. Thông qua các hoạt động như hội thi, hội diễn, sinh hoạt chuyên đề…,
nhằm vận động quần chúng nhân dân chấp hành các chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia phòng ngừa, phát hiện và tố
giác tội phạm; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Phong trào đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, kết hợp với xây dựng “Tổ dân
phố không có tội phạm và tệ nạn xã hội”, gắn với thực hiện Chỉ thị số 24, 25-
CT/TU của Thành ủy.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền PCTP đến tận tổ dân phố, cụm
dân cư và từng hộ gia đình với nhiều nội dung, hình thức phong phú, trong đó
chú trọng tuyên truyền cá biệt cho số đối tượng có nguy cơ cao vi phạm pháp
luật như: số đối tượng có tiền án, tiền sự, số người nghiện, thanh thiếu niên
hư, vi phạm pháp luật, học sinh, sinh viên bỏ học.... Lực lượng Công an thành
phố đã tiến hành kiểm danh, kiểm diện 10.475 lượt đối tượng chính trị, hình
sự; gọi hỏi, răn đe, giáo dục 24.755 lượt đối tượng; đưa ra kiểm điểm trước
dân 907 lượt đối tượng; lập hồ sơ đưa vào giáo dục tại xã, phường 813 đối
tượng; mở 662 lớp tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho 18.670 đối tượng có
54
nguy cơ cao vi phạm pháp luật tham gia....; phối hợp liên ngành Viện kiểm sát
- Toà án chọn, đưa ra xét xử lưu động nhiều vụ án hình sự phục vụ công tác
tuyên truyền, giáo dục, phòng ngừa, răn đe tội phạm; chủ động đưa tin, tuyên
truyền sâu rộng về các phương thức, thủ đoạn của các loại tội phạm để nhân
dân biết, nâng cao cảnh giác và có biện pháp tự quản lý, bảo vệ tài sản; tổ
chức tập huấn, hướng dẫn 04 nhiệm vụ trọng tâm cho tất cả các Tổ trưởng dân
phố nhằm nắm bắt kịp thời việc quản lý ANTT và xây dựng phong trào Toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc tại địa bàn dân cư, phối hợp tốt với các lực lượng
chức năng những vấn đề liên quan đến tình hình ANTT trên địa bàn.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại
chúng như: Đài Phát thanh truyền hình Đà Nẵng, Trung tâm Truyền hình Việt
Nam tại Đà Nẵng, Đài Tiếng nói Việt Nam tại Đà Nẵng, Báo Đà Nẵng, Báo
Công an thành phố và các đài địa phương đã lồng ghép chương trình phòng,
chống tội phạm - ma tuý và tệ nạn xã hội vào chương trình Phát thanh -
Truyền hình Vì An ninh tổ quốc của thành phố hàng tuần, xây dựng nhiều
phóng sự, phim ảnh kịp thời đưa tin các hoạt động phòng, chống tội phạm của
các địa phương, ban, ngành, đoàn thể để tuyên truyền giáo dục chung. Các
báo, đài thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền phù hợp với
từng loại đối tượng; tiếp tục nhân rộng mô hình “Xã, phường, tộc, họ, tổ dân
phố không có tệ nạn xã hội”, “Chi hội an toàn lành mạnh”; vận động,
khuyến khích lồng ghép nội dung phong trào phòng, chống tội phạm vào các phong trào thi đua của các ngành, đoàn thể. Sở Tư pháp đã phối hợp các
ngành Công an – Lao động, Thương binh và Xã hội triển khai hoạt động phổ
biến giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố và xây
dựng Đề án về sát nhập các mô hình Câu lạc bộ tuổi trẻ PCTP (Câu lạc bộ
09); Câu lạc bộ sau cai nghiện (Câu lạc bộ Sau cai hay Câu lạc bộ vươn lên);
Đội công tác xã hội tình nguyện trên địa bàn thành phố; Sở Tư pháp đã phối
hợp Đài phát thanh truyền hình Đà Nẵng xây dựng kế hoạch tuyên truyền phổ
biến giáo dục pháp luật về PCTP, ma túy giai đoạn 2013-2016. Sở Thông tin
55
và Truyền thông đã tổ chức 03 Hội thảo nâng cao kỹ năng tuyên truyền PCTP
cho các cơ quan thông tấn báo chí và phối hợp với các cơ quan thông tin đại
chúng đã đăng tải hơn 20.000 tin, bài với nhiều hình thức và nội dung tuyên
truyền đa dạng về công tác phòng, chống tội phạm và ma tuý. Trong đó các
cơ quan báo chí, đặc biệt là báo, đài địa phương như Báo Đà Nẵng, Báo Công
an Đà Nẵng, Đài Phát thanh Truyền hình Đà Nẵng… đã thể hiện được vai trò
chủ lực của mình trong công tác tuyên truyền PCTP.
2.2.1.3. Công tác phát động phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ
Tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị 07/CT-BCA-V28 ngày 15/8/2014
của Bộ trưởng Bộ Công an về “Đẩy mạnh Phong trào Toàn dân BVANTQ
trong cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo đảm
an ninh, trật tự trong tình hình mới”, Quyết định số 19/2009/QĐ-UBND của
Chủ tịch UBND thành phố về phê duyệt đề án “Đổi mới công tác tuyên
truyền, vận động toàn dân tham gia phòng chống tội phạm trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng”, qua đó từng bước đổi mới công tác phát động phong trào toàn
dân bảo vệ ANTQ trong quần chúng nhân dân, với nội dung và hình thức
ngày càng phong phú, đa dạng và phù hợp với từng địa bàn, khu dân cư, từng
đối tượng vận động đã mang lại hiệu quả trong phòng, chống tội phạm, tệ nạn
xã hội, theo tinh thần của Chỉ thị 09/CT của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ trong tình hình
mới”. Thường xuyên tổ chức tuyên truyền phong trào phòng chống tội phạm;
xây dựng, nhân rộng các mô hình phát huy hiệu quả trong công tác phòng,
chống tội phạm và tệ nạn xã hội tại các khu dân cư. Trong đó:
Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Cựu chiến binh, Nông dân, Liên
đoàn lao động thành phố và các lực lượng vũ trang bên cạnh việc tổ chức tuyên
truyền trong các tầng lớp nhân dân, đã chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên
truyền vận động trong hội viên và cán bộ công nhân viên với nhiều hình thức
đa dạng, phong phú gắn liền với các nội dung phong trào như: phong trào 4
không “không buôn bán, không tàng trữ, không tiêm chích, không có người
56
nghiện ma tuý”; “Gia đình không có con em vi phạm pháp luật và tệ nạn xã
hội”; nêu cao vai trò của gia đình trong việc quản lý, giáo dục con cái; Tộc họ
làm tốt công tác giáo dục con cháu, xây dựng thôn, xóm, khu phố bình yên gia
đình hạnh phúc không có tệ nạn xã hội; Quân dân chung tay đẩy lùi ma tuý; tình nguyện vì thành phố 5 không; Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Cựu
chiến binh, Liên đoàn lao động, Đoàn Thanh niên đã xây dựng kế hoạch tổ
chức 65 đợt triển khai thực hiện hoạt động tuyên truyền phòng, chống tệ nạn
ma tuý và tệ nạn xã hội tại 2.986 điểm cho 278.965 lượt người dự, cấp phát
60.000 tờ rơi về hiểm hoạ ma tuý, mại dâm, 1.700 cuốn sách hỏi đáp về pháp
luật, 5.000 cuốn tạp chí. Thông qua các hoạt động như hội thi, hội diễn, sinh
hoạt chuyên đề…đã giáo dục, động viên đông đảo quần chúng tích cực hưởng
ứng các hoạt động phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội, tiêu biểu như mô
hình “Tổ, thôn không có tội phạm và tệ nạn xã hội”, phong trào “Tuổi trẻ
chung tay đẩy lùi tệ nạn xã hội” của Đoàn Thanh niên; mô hình “5+1” (4 hội,
đoàn thể + 1 Công an nhận kèm, giúp đỡ một đối tượng sau cai nghiện), mô
hình “1+3” (1 Cựu chiến binh liên kết với 3 gia đình kề cận ngăn chặn tội
phạm, ma tuý và mại dâm thâm nhập vào khu dân cư) và phát động phong trào
quần chúng bảo vệ ANTQ, thực hiện chương trình “5 không, 3 có” của thành
phố đã góp phần tích cực phòng, chống tội phạm trên địa bàn thành phố.
Lực lượng Hải quan, Bộ Chỉ huy Quân Sự và Bộ Chỉ huy Biên phòng
thành phố, Quản lý thị trường thành phố đã tăng cường công tác tuyên truyền
về PCTP, Luật phòng, chống ma tuý cho cán bộ chiến sĩ, nhân dân xung
quanh nơi đóng quân, khu vực cửa khẩu, biên giới và kiểm tra, kiểm soát
người xuất nhập cảnh và hàng hoá nhập khẩu; ngành thương mại đã tập trung
tuyên truyền phòng, chống tội phạm, ma tuý, gian lận thương mại thông qua
hệ thống loa phóng thanh của các chợ.
2.2.1.4. Công tác quản lý, cảm hoá, giáo dục, giúp đỡ, tạo việc làm cho
những người phạm tội được tha tù trở về
Thành uỷ ban hành Chỉ thị 24-CT/TU về “đẩy mạnh công tác phối hợp,
57
giúp đỡ các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt nghèo, học sinh bỏ học và thiếu
niên hư, vi phạm pháp luật” và tổ chức quán triệt nghiêm túc đến từng cấp uỷ
Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể từ thành phố đến cơ sở; UBND
thành phố ban hành Kế hoạch số 7733/KH-UBND về quản lý, giúp đỡ và
phòng ngừa nguy cơ thiếu niên vi phạm pháp luật, thiếu niên hư giai đoạn 2009
- 2015 nhằm phân công trách nhiệm cụ thể cho cho các ngành chức năng triển khai thực hiện và đã xây dựng nhiều mô hình có hiệu quả cao như mô hình
“5+1” của CAP Thanh Khê Tây, Tân Chính, Tam Thuận, qua đó, quản lý 01
em thiếu niên hư, vi phạm pháp luật gồm: Đại diện gia đình, tổ trưởng dân phố,
các đoàn thể tổ chức xã hội, CSKV, ban chỉ huy CAP; mô hình “2 gặp, 3 biết”
của CAP Mân Thái, An Hải Bắc qua đó, quản lý 01 em thiếu niên hư, vi phạm
pháp luật phải gặp gỡ gia đình, gặp gỡ đối tượng, biết mặt, biết tên, biết nhà;
mô hình “3+1” của Thành Đoàn qua đó, quản lý 01 em thiếu niên hư, vi phạm
pháp luật sẽ do 01 cán bộ Thành Đoàn cùng 01 cán bộ quận, huyện đoàn và 01
bí thư đoàn phường trực tiếp kèm cặp, giúp đỡ. Qua 05 năm thực hiện, liên
ngành đã phối hợp với các cơ quan, đoàn thể đã tiến hành cảm hoá, giáo dục
cho 499 em và đã có 431 em tiến bộ không còn vi phạm.
UBND thành phố đã thành lập “Quỹ hoàn lương” nhằm mục đích cho
vay vốn đối với những người đã từng vi phạm pháp luật sau khi chấp hành
xong hình phạt tù trở về địa phương tạo công ăn, việc làm, sớm ổn định cuộc
sống tái hoà nhập cộng đồng, qua triển khai đã cho vay được 1.127 lượt người
với tổng số tiền 3.442.000.000 đồng (Ba tỷ bốn trăm bốn mươi hai triệu
đồng). Đây là việc làm thiết thực đem lại hiệu quả cao trong công tác quản lý,
giúp đỡ người có tiền án, tiền sự tiến bộ, không tiếp tục vi phạm pháp luật.
Các đoàn thể chính trị chủ động phối hợp mở hàng trăm lớp giáo dục
pháp luật cho các loại đối tượng hình sự, ma túy, đưa đối tượng vi phạm ra
kiểm điểm trước dân; hàng năm, các địa phương đều tiến hành rà soát lên
danh sách, phân loại các loại đối tượng tù tha, đặc xá và căn cứ vào đặc điểm
giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp... để giao chỉ tiêu, số lượng cụ thể cho các ban,
58
ngành, đoàn thể trực tiếp quản lý, cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ nhiều người lầm
lỗi tiến bộ, nhiều đối tượng được hỗ trợ tạo việc làm, cho vay vốn làm ăn để
tạo điều kiện cho họ hòa nhập cộng đồng không tái phạm.
2.2.1.5. Công tác phối hợp các lực lượng tuần tra phòng chống tội phạm
Với mục đích luôn luôn có lực lượng chuyên trách, bán chuyên trách đối
với công tác phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm trên đường phố, vào
mọi thời điểm trong ngày, UBND thành phố ban hành Quyết định số
6743/QĐ-UBND ngày 07/9/2010 về thành lập lực lượng chống cướp giật và
tội phạm khác trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và Quyết định 8394/QĐ-
UBND ngày 09/11/2015 (thay thế cho Quyết định 7661) về hoạt động phối
hợp tuần tra, kiểm soát bảo vệ ANTT ở địa bàn dân cư. Qua triển khai, đã huy
động trên 978.000 lượt Công an, dân quân tự vệ, ban bảo vệ dân phố, dân
phòng, quân sự, biên phòng tham gia tuần tra phòng chống tội phạm, kịp thời
phát hiện, ngăn chặn hàng trăm vụ phạm pháp hình sự và vi phạm pháp luật.
2.2.1.6. Công tác củng cố, tăng cường và nâng cao năng lực các lực
lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm
Nhằm nâng cao hơn nữa công tác quản lý địa bàn, không để các loại
đối tượng lợi dụng những hạn chế trong công tác quản lý nhân hộ khẩu,
quản lý lưu trú để ẩn nấu, thực hiện hành vi phạm tội, thành phố đã ban
hành các văn bản:
+ Thành uỷ ban hành Chỉ thị 21-CT/TU về “tập trung lãnh đạo nâng cao
chất lượng hoạt động của tổ dân phố, thôn trên địa bàn thành phố” và UBND
thành phố ban hành Quyết định 51/2012/QĐ-UBND ban hành “Quy chế về tổ
chức và hoạt động của tổ dân phố, thôn trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”,
qua đó thành lập 5.717 tổ dân phố, thôn với quy mô mỗi tổ dân phố, thôn chỉ
từ 20 đến 40 hộ dân, đồng thời qui định tổ dân phố, thôn phải thực hiện tốt 04
nhiệm vụ trọng tâm, trong đó nhấn mạnh vào 02 nhiệm vụ “quản lý cư trú
chặt chẽ” và “giữ vững an ninh trật tự, phòng chống tội phạm”.
+ Ban hành Kế hoạch 185/KH-CATP-PV11 về “Nâng cao chất lượng
59
hoạt động của Công an phường giai đoạn 2013 - 2015” với mục đích kiện
toàn về số lượng, chất lượng cán bộ chiến sĩ Công an phường nhằm nâng cao
vị trí, vai trò và tầm quan trọng của lực lượng Công an phường trong công tác
đảm bảo ANTT ở cơ sở, khai thác, phối hợp tốt với các Tổ trưởng tổ dân phố
quản lý chặt chẽ địa bàn, đối tượng. Qua triển khai, Công an phường đã xác
minh, điều tra làm rõ 716 vụ/1.232 vụ phạm pháp hình sự xảy ra (đạt tỷ lệ
58,1%), Tổ trưởng tổ dân phố, Trưởng thôn đã cung cấp trên 1.000 thông tin
liên quan đến tội phạm có giá trị.
2.2.1.7. Công tác chuyển hóa địa bàn trọng điểm, phức tạp về TTATXH
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu “Không có người
nghiện ma tuý trong cộng đồng trên địa bàn thành phố”, đồng thời chỉ đạo
Ban Chỉ đạo 07 quận, huyện và 56 phường, xã xây dựng chương trình, kế
hoạch tham mưu chính quyền địa phương, phối hợp với các ban ngành đoàn
thể... tổ chức phát động phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, phòng
chống tội phạm, phòng chống ma tuý” tuyên truyền, vận động trong nhân dân
để nhân dân tham gia tốt vào công tác phát hiện, tố giác, đấu tranh với các
loại tội phạm và tệ nạn ma túy, xây dựng xã, phường, thị trấn không có tệ nạn
ma túy.
Tiếp tục duy trì việc triển khai cho người nghiện ma tuý đang quản lý
trong diện sau cai được uống Methadone tại trung tâm điều trị Methadone số
01 và số 02 của thành phố, hiện có 347 người nghiện trên địa bàn toàn thành
phố đang được điều trị bằng Methadone. Đồng thời, tổ chức rà soát, đánh giá
lại các đối tượng ma túy trên địa bàn để có biện pháp quản lý hợp lý và tổ
chức hoạt động có hiệu quả các mô hình Câu lạc bộ sau cai nghiện, vận động
giúp đỡ giáo dục người sau cai nghiện có việc làm, hoàn lương để ổn định
cuộc sống.
Thường xuyên kiểm danh, kiểm diện, kiểm tra thử test số người trong
diện quản lý sau cai, số đối tượng ma túy đang quản lý trên từng địa bàn; khảo
sát, xác định các điểm, tụ điểm nghi vấn tổ chức sử dụng ma túy để có biện
60
pháp triệt xóa, đồng thời, mở nhiều đợt ra quân kiểm tra, xử lý người nghiện,
người sử dụng trái phép ma túy, qua triển khai 02 đợt ra quân tổng kiểm tra,
xử lý người sử dụng trái phép chất ma túy theo Kế hoạch số 87/KH-CATP
ngày 29/01/2015 của CATP, đã kiểm tra thử test tổng cộng 2.010 trường hợp;
qua đó, phát hiện, lập hồ sơ xử lý 549 trường hợp dương tính với ma túy
(chiếm 27,3%). Hiện trên địa bàn thành phố, không để xảy ra tình trạng mua
bán, sản xuất các tiền chất ma túy và tái trồng các loại cây thuốc phiện trên
địa bàn thành phố.
Nhìn chung, tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội cướp giật tài sản
nói riêng còn tiềm ẩn nhiều phức tạp, nhưng dưới sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ
đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp và sự phối hợp của các sở,
ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội, thành phố đã triển khai nhiều hoạt
động phòng ngừa đối với các loại tội phạm, trong đó có tội cướp giật tài sản,
góp phần ổn định được tình hình, góp phần phát triển môi trường du lịch của
thành phố. Tuy nhiên, tình hình tội cướp giật tài sản vẫn diễn biến khó lường,
tiềm ẩn phức tạp; công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân,
nhất là trong thanh, thiếu niên chưa thường xuyên liên tục, trong khi số lượng
thanh thiếu niên vi phạm pháp luật chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu thành phần độ
tuổi phạm tội; một số cấp, ngành còn thờ ơ trong việc tham gia vào công tác
đấu tranh, phòng chống tội phạm; việc phối hợp trao đổi thông tin tội phạm
giữa các lực lượng còn hạn chế, chưa chủ động phát hiện và giải quyết kịp
thời những vấn đề phát sinh liên quan đến tình hình ANTT,...
2.2.2. Thực trạng phòng ngừa nghiệp vụ của lực lượng Công an thành phố
Với vai trò nòng cốt trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói
chung, tội cướp giật tài sản nói riêng, Công an thành phố đã mở nhiều đợt cao
điểm ra quân tấn công trấn áp tội phạm, đảm bảo tốt tình hình ANTT trên địa
bàn như Kế hoạch 263/KH-CATP-PV11 ngày 11/9/2015 về bảo vệ an toàn
tuyệt đối Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XXI tiến tới
bảo vệ an toàn Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; kế hoạch
61
đảm bảo ANTT lễ kỷ niệm 40 năm giải phóng Đà Nẵng, Cuộc thi trình diễn
pháo hoa quốc tế Đà Nẵng 2015, Kế hoạch tổ chức các hoạt động kỷ niệm 70
năm Ngày thành lập CAND Việt Nam và 10 năm Ngày hội Toàn dân bảo vệ
ANTQ trên địa bàn thành phố; Kế hoạch 499/KH-CATP-PV11 ngày
11/11/2015 về “Tăng cường công tác đảm bảo ANTT trên địa bàn thành
phố”; xây dựng và triển khai có hiệu quả nhiều kế hoạch chuyên đề phòng,
chống tội phạm như Kế hoạch 562/KH-BCĐ(PV11) về “đấu tranh, triệt phá
các băng, nhóm tội phạm chuyên cố ý gây thương tích, cưỡng đoạt tài sản,
đòi nợ thuê, bảo kê”; Kế hoạch 807/KHCĐ-CATP-PV11 về “phòng, chống
tội cướp giật, trộm cắp tài sản”; Kế hoạch số 229/KH-CATP-PV11-PC45 về
“thực hiện một số biện pháp cấp bách, phòng ngừa tội phạm giết người do
nguyên nhân xã hội”; Kế hoạch số 49/KH-CATP-PV11 về “Đấu tranh phòng,
chống tệ nạn cờ bạc trên địa bàn thành phố”; Kế hoạch số 01/KH-CATP-
PV11-PC47 về “đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng”; Kế hoạch số 65/KH-CATP-PC46 về “đấu tranh với tội phạm
lợi dụng chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với Việt kiều hồi hương để nhập
khẩu xe ôtô nhằm mục đích buôn lậu, trốn thuế” và nhiều kế hoạch về tăng
cường công tác quản lý cư trú, kiểm tra cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm đồ,
kinh doanh lưu trú, massage, vũ trường, quán bar, quán karaoke, kinh doanh
dịch vụ bảo vệ, kiểm tra công tác quản lý vũ khí, vật liệu nổ…
Qua triển khai các chương trình, kế hoạch công tác, nhất là các kế hoạch
PCTP theo chuyên đề, Công an thành phố đã tổ chức phòng ngừa, đấu tranh
với loại tội phạm này theo chuyên đề từ thành phố, xuống tận quận, huyện,
phường, xã trên địa bàn thành phố. Từng bước nâng cao hiệu quả công tác
phòng ngừa, tăng cường công tác tuần tra mật phục tại địa bàn dân cư thường
xảy ra các vụ cướp giật tài sản, tập trung truy xét nhanh các vụ án cướp giật
tài sản xảy ra trên từng địa bàn, nhất là các vụ cướp giật tài sản xảy ra .
Ngay sau khi thành lập theo Quyết định 6743/QĐ-UBND của Chủ tịch
UBND thành phố, lực lượng chống cướp giật và các loại tội phạm khác, đã
62
chủ động lên sơ đồ những địa bàn, khu vực hoặc những thời điểm thường xảy
ra cướp giật tài sản để có phương án chốt chặn, mật phục, đồng thời không
quản ngại ngày đêm, gian khổ, nắng gió và hiểm nguy, luôn âm thầm chia
nhau thành nhiều tổ lên đường làm nhiệm vụ tuần tra trinh sát, hóa trang mật
phục bám sát địa bàn trên từng tuyến đường, góc phố, khu dân cư. Với tinh
thần cương quyết tấn công tội phạm, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu
cũng như triển khai công tác tuần tra mật phục 24/24 giờ, từ ngày thành lập đã
tổ chức trên 16.950 ca, với hơn 974.000 lượt Công an, Bộ đội biên phòng
thành phố tham gia tuần tra vũ trang phòng chống tội phạm; đã tiếp nhận,
tham gia giải quyết trên 1.455 thông tin liên quan đến tội phạm, xác minh,
làm rõ 341 vụ vi phạm pháp luật, làm rõ 169 vụ phạm pháp hình sự, bắt 276
đối tượng phạm tội, trong đó đã bố trí lực lượng bắt quả tang 47 vụ/98 đối
tượng cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố.
Lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an thành
phố Đà Nẵng thường xuyên phối hợp quản lý giáo dục đối tượng tại địa bàn
cơ sở, nắm tình hình các đối tượng, phối hợp tổ chức phát động phong trào
quần chúng tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội cướp
giật nói riêng trong địa bàn dân cư. Việc quản lý nhân khẩu, quản lý ngành
nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự, khách sạn, nhà trọ, các cơ sở
kinh doanh dịch vụ như quán bar, vũ trường, karaoke, hớt tóc thanh nữ… góp
phần phát hiện những biểu hiện nghi vấn, phát hiện các đối tượng, các băng,
nhóm chuẩn bị hoặc đang hoạt động phạm tội cướp giật, cũng như sự xuất
hiện, di biến động của các đối tượng nghi vấn để có biện pháp phối hợp đấu
tranh ngăn chặn.
Bên cạnh những kết quả đạt được thì sự phối hợp còn bộc lộ những hạn
chế, thiếu sót nhất định như: lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự
xã hội chưa làm tốt công tác quản lý tạm trú, tạm vắng; chưa nắm chắc được
lai lịch, hoạt động hiện tại của các đối tượng thuộc diện quản lý nghiệp vụ của
ngành; chưa phát hiện được đối tượng mới đến cư trú và gây án trên địa bàn
63
mình quản lý. Bên cạnh đó, việc tiếp nhận tin báo tố giác về tội cướp giật của
Công an xã, phường, thị trấn còn hạn chế, chưa nắm bắt được những thông tin
cần thiết về vụ án cướp giật xảy ra, đôi lúc còn có thái độ thờ ơ làm cho bị hại
hoặc người dân ngại trình báo thông tin về vụ án, do đó thiếu thông tin cung
cấp cho lực lượng chuyên trách.
Lực lượng Cảnh sát giao thông, cảnh sát trật tự Công an thành phố có vai
trò quan trọng trong đấu tranh phòng chống tội cướp giật tài sản. Phần lớn các
đối tượng phạm tội cướp giật tài sản đều sử dụng phương tiện gây án là xe
gắn máy, gắn biển số giả, biển số mờ, làm cong biển số, xe thuê hoặc mua
không sang tên… nên trong quá trình tuần tra, kiểm soát 02 lực lượng tiến
hành kiểm tra, lập biên bản tạm giữ phương tiện… sẽ góp phần hạn chế điều
kiện gây án của đối tượng. Mặt khác, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tuần
tra kiểm soát, lực lượng Cảnh sát giao thông, cảnh sát trật tự còn hỗ trợ lực
lượng hoặc quần chúng nhân dân truy đuổi, bắt giữ đối tượng gây án và thu
giữ tang vật vụ án.
2.3. Nhận xét, đánh giá kết quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Trong những năm qua, mặc dù tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong
nước nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng gặp nhiều khó khăn, nhiều
chính sách pháp luật về phòng, chống tội phạm chưa hoàn thiện đã tác động
xấu đến công tác đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn thành phố. Tuy nhiên,
sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo xuyên suốt của Thành uỷ, UBND thành phố;
sự vào cuộc đồng bộ, mạnh mẽ và quyết liệt của các cấp, các ngành trên địa
bàn thành phố mà nòng cốt là lực lượng Công an thành phố, qua đó tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức đến hành động của đông đảo cán bộ, Đảng
viên và nhân dân góp phần huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống
chính trị, mọi tầng lớp nhân dân trong công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm nói chung, tội cướp giật tài sản nói riêng, cùng góp phần giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường phát triển du lịch bền
64
vững. Đạt được kết quả trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có một số
nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, cấp ủy và chính quyền các cấp đã nêu cao vai trò lãnh đạo, chỉ
đạo, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc trong việc triển khai thực hiện công tác
phòng chống tội phạm nói chung, tội cướp giật tài sản nói riêng và vai trò
gương mẫu của cán bộ, đảng viên, các tổ chức, cơ sở đảng trong công tác đấu
tranh, phòng chống đối với loại tội phạm này.
Hai là, UBND các cấp, các sở, ban, ngành, tổ chức chính trị xã hội đã có
nhiều chương trình, kế hoạch phòng, chống tội phạm cụ thể phù hợp với tình
hình thực tế và gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Ba là, các cấp uỷ Đảng, chính quyền thường xuyên chỉ đạo các ngành
đoàn thể tập trung thực hiện tốt Nghị quyết liên tịch, kết hợp xây dựng đời
sống văn hoá ở khu dân cư với xây dựng mô hình “Tổ dân phố không có tội
phạm và tệ nạn xã hội” và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Bốn là, Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam thành phố, các đoàn thể, cơ
quan, ban, ngành liên quan đã phát huy vai trò tích cực trong tuyên truyền,
vận động nhân dân tham gia tố giác, đấu tranh phòng, chống tội phạm nói
chung, tội cướp giật tài sản nói riêng.
Năm là, trong quá trình thực hiện cấp ủy và chính quyền các cấp đã gắn
công tác phòng, chống tội phạm nói chung, tội cướp giật tài sản nói riêng với
các chương trình, kế hoạch phòng, chống tội phạm, phòng, chống ma túy, của
thành phố, đặc biệt là các chương trình an sinh xã hội của thành phố như:
chính sách cho vay vốn đối với hộ nghèo, giải quyết việc làm, nhà ở; cho
những đối tượng đặc xá, tù tha có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn làm ăn,
tái hòa nhập cộng đồng; gặp gỡ đối thoại với số thanh thiếu niên hư, chậm
tiến để nắm bắt tâm tư tình cảm của các em để giao cho các ngành chức năng
có biện pháp hỗ trợ (tạo công ăn việc làm, hỗ trợ vay vốn, miễn giảm tiền học
phí, mua sắm phương tiện đi lại…) để các em có điều kiện phấn đấu, tiến bộ.
Ngoài ra thành phố còn tạo điều kiện và động viên khen thưởng bằng vật chất
65
đối với số người cai nghiện ma tuý hiệu quả, phấn đấu hoàn lương trở thành
công dân có ích cho xã hội.
Sáu là, lực lượng Công an đã phát huy vai trò nòng cốt trong công tác
tham mưu, hướng dẫn và tổ chức tấn công trấn áp tội phạm, đảm bảo trật tự
an toàn xã hội, cụ thể:
- Đã chủ động xây dựng các kế hoạch chuyên đề để tập trung đấu tranh
quyết liệt với các băng, nhóm tội phạm có tổ chức, trong đó có tội phạm
chuyên cướp giật tài sản tại các địa bàn, tuyến, khu du lịch và quản lý chặt
chẽ số đối tượng này, không để chúng có điều kiện hoạt động, gây án;
- Công an các đơn vị, địa phương đã chủ động có kế hoạch tổ chức thực
hiện các mặt công tác nghiệp vụ và gắn trách nhiệm, chỉ tiêu các mặt công tác
với từng lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ chiến sỹ. Công tác nghiệp vụ đã được các
đơn vị chú trọng hơn, gắn chặt với các mặt công tác chuyên môn của từng
đơn vị, từng lực lượng và việc thực hiệncác Kế hoạch chuyên đề về PCTP của
lãnh đạo Công an thành phố. Bước đầu đã tạo ra những chuyển biến tích cực
trong công tác phòng, chống tội phạm, góp phần đảm bảo tình hình ANTT
trên địa bàn.
Bảy là, lực lượng quân sự, công an, dân phòng, bảo vệ dân phố đã phối
hợp tốt trong công tác phòng, chống tội phạm theo các Quyết định
8394/2015/QĐ-UBND ngày 09/11/2015 của UBND thành phố về hoạt động
phối hợp tuần tra, kiểm soát bảo vệ ANTT ở địa bàn dân cư và Quyết định số
6743/QĐ-UBND ngày 07/9/2010 của UBND thành phố về thành lập lực
lượng chống cướp giật và tội phạm khác trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
UBND thành phố đã chi ngân sách của địa phương để các lực lượng này hoạt
động. Xây dựng và triển khai đề án “Phân bổ dân cư” trên địa bàn thành phố;
chia nhỏ mỗi tổ dân phố chỉ từ 25 đến 40 hộ để tạo điều kiện cho công tác
quản lý ANTT.
Tuy nhiên, tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội cướp giật tài sản
nói riêng trong những năm quan vẫn diễn biến khó lường, phức tạp và có tăng
66
có giảm; tỷ lệ điều tra khám phá án đối với án cướp giật tài sản còn thấp; công
tác tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân, nhất là trong thanh, thiếu
niên chưa thường xuyên liên tục, trong khi số lượng thanh thiếu niên vi phạm
pháp luật chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu thành phần độ tuổi phạm tội; một số
cấp, ngành còn thờ ơ trong việc tham gia vào công tác đấu tranh, phòng chống
tội phạm nói chung, tội cướp giật tài sản nói riêng; việc phối hợp trao đổi
thông tin tội phạm giữa các lực lượng còn hạn chế, chưa chủ động phát hiện
và giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh liên quan đến tình hình
ANTT,... Những tồn tại nêu trên do nhiều nguyên nhân trong có một số
nguyên nhân sau:
Một là, một số cấp ủy đảng, chính quyền, sở, ban, ngành, đoàn thể tuy có
quan tâm đến công tác phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội
cướp giật tài sản nói riêng, nhưng chưa lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt nên việc tổ
chức thực hiện có lúc, có nơi chưa thường xuyên, liên tục, có nơi chưa gắn kết
chặt chẽ thực hiện chương trình, kế hoạch phòng ngừa tình hình tội phạm nói
chung, tình hình tội cướp giật tài sản nói riêng với các chương trình mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội khác nên kết quả đạt được còn hạn chế.
Hai là, việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước liên quan đến ANTT
ở một số ngành và các đơn vị, địa phương có nơi còn bộc lộ nhiều sơ hở đã
tạo điều kiện cho bọn tội phạm gây án. Một số nơi vẫn còn tư tưởng xem
trách nhiệm phòng, chống tội phạm là của cơ quan chức năng nên chưa phát
huy được sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong phòng ngừa, đấu tranh
phòng, chống tội phạm nói chung, tội cướp giật tài sản nói riêng.
Ba là, công tác đấu tranh, phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tội
cướp giật tài sản nói riêng của các ngành chức năng tuy đã đạt được nhiều kết
quả nhưng có nơi, có lúc chưa quyết liệt, thiếu nhạy bén kịp thời. Công tác
phối hợp tuần tra kiểm soát đảm bảo ANTT ban đêm chưa được thường
xuyên, liên tục, kết quả đạt được còn hạn chế. Công tác quản lý hành chính
nhà nước về ANTT còn nhiều sơ hở; Công tác quản lý đối tượng, quản lý địa
67
bàn chưa chặt chẽ; công tác quản lý, cảm hóa, giáo dục đối tượng và tạo điều
kiện cho đối tượng tái hòa nhập cộng đồng tuy có chuyển biến nhưng kết quả
đạt được còn hạn chế.
Bốn là, công tác nghiệp vụ của lực lượng Công an thành phố tuy đã phát huy
hiệu quả trong công tác phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, nhưng vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, còn bộc lộ những tồn tại hạn, chế nhất định.
Năm là, công tác phối hợp triển khai các Nghị quyết liên tịch giữa Công
an với các ban ngành đoàn thể chưa thường xuyên, đồng bộ do vậy hiệu quả
chưa cao, nhất là trong quản lý giáo dục người lầm lỗi tại cộng đồng dân cư;
công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục chưa thường xuyên, chưa đến được
đối tượng có nguy cơ cao; Công tác phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã
hội trong quản lý con em chưa chặt chẽ, thường xuyên nên dẫn đến tình trạng
học sinh, sinh viên bỏ học, vi phạm pháp luật có xu hướng gia tăng...
Tiểu kết chương 2
Chương 2, Luận văn đã nghiên cứu, làm rõ tình hình, kết quả hoạt
động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng từ năm 2014 đến 06 tháng đầu năm 2019. Qua đó đã đưa ra một số
vấn đề có liên quan đến phòng ngừa tình hình tội phạm này; phác họa rõ
nét diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm hình sự nói chung, tội cướp
giật tài sản nói riêng.
Đồng thời, luận văn đã nghiên cứu các đặc điểm hình sự của tình hình tội
cướp giật tài tên địa bàn thành phố Đà Nẵng; nguyên nhân điều kiện tồn tại và
phát triển của loại tội phạm này; phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội
phạm; công tác tổ chức hoạt động phòng ngừa và kết quả đạt được, cũng như
những hạn chế tồn tại, những nguyên nhân trong quá trình tổ chức các hoạt
động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng. Những kết quả nghiên cứu này là cơ sở quan trọng để dự báo tình hình
tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
68
CHƯƠNG 3
DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA
TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
3.1. Dự báo hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
3.1.1. Cơ sở dự báo
Những cơ sở chủ yếu để dự báo tình hình tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới:
- Thứ nhất, Đà Nẵng là một trong những trung tâm du lịch của Việt
Nam, hàng năm thu hút một lượng lớn khách du lịch trong và ngoài nước.
Bên cạnh đó, kinh tế xã hội trong những năm vừa qua đã có bước chuyển biến
vượt bậc, như xây dựng đô thị, đầu tư cơ sở hạ tầng, giao lưu văn hóa, thương
mại, dịch vụ... Đời sống nhân dân ngày được nâng cao, tài sản của nhân dân
ngày càng nhiều, mức độ lưu chuyển tài sản ngày càng tăng.
- Thứ hai, cùng với những mặt tích cực của cơ chế thị trường góp phần
phát triển xã hội thì mặt trái của nó cũng đã tạo đà phân hóa xã hội ngày càng
sâu sắc. Tình trạng thất nghiệp hoặc không có nghề nghiệp ổn định kéo dài,
lối sống xa hoa trụy lạc, thói chây lười lao động, quen sống hưởng thụ, các tệ
nạn xã hội, nghiện ma túy, cờ bạc ngày càng gia tăng.
- Thứ ba, căn cứ vào thực tiễn diễn biến, bản chất, quy luật phát triển vận
động của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố từ năm 2014 đến 06
tháng đầu năm 2019 cho thấy loại tội phạm này hoạt động rất phức tạp, khó lường
có năm tăng, có năm giảm về số lượng vụ án cướp giật, nhưng số đối tượng tham
gia cướp giật ngày càng tăng; mức độ liên kết thành băng, nhóm ngày một nhiều;
mức độ và phạm vi hoạt động ngày càng rộng, cá biệt là hoạt động cướp giật tài
sản của các du khách người nước ngoài trên địa bàn vẫn không giảm.
- Thứ tư, trong những năm qua, lực lượng chức năng thực hiện công tác
69
phòng chống tội phạm cảu thành phố Đà Nẵng đã tập trung nhiều biện pháp
phòng ngừa và đấu tranh, tỉ lệ vụ án cướp giật khám phá ngày càng tăng.
Nhưng trong quá trình tiến hành, vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại, đặc biệt là
trong tổ chức hoạt động phòng ngừa xã hội cũng như phòng ngừa nghiệp vụ.
Lực lượng chuyên trách thực hiện phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
còn thiếu, trình độ năng lực không đồng đều, các trang thiết bị còn thiếu, kinh
phí hoạt động còn hạn hẹp. Điều này đã ảnh hưởng đến hiệu quả công tác
phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3.1.2. Dự báo về diễn biến hoạt động của tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới
Xuất phát từ những cơ sở dự báo nêu trên, tác giả xin đưa ra một số nhận
định về tình hình tội cướp giật tài sản trong thời gian tới trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng như sau:
- Một là, trong những năm tới tình hình hoạt động của tội cướp giật sẽ
tiếp tục diễn biến khó lường, có tăng, có giảm, với tính chất, mức độ hoạt
động ngày càng tinh vi, xảo quyệt, manh động, liều lĩnh. Quy mô, hình thức,
xu hướng trong thời gian tới sẽ hoạt động theo băng, nhóm, có sự phân công
vai trò trách nhiệm rõ ràng, cấu kết hoạt động chặt chẽ hơn, phạm tội chuyên
nghiệp hơn, hoạt động trên nhiều địa bàn, tuyến du lịch nơi tập trung nhiều du
khách, người dân đến tham quan, du lịch, kinh doanh dịch vụ. Chúng cấu kết
với nhau không chỉ hoạt động ở một khu vực, một địa bàn mà sẽ hoạt động
trên nhiều tuyến, nhiều địa bàn và có xu hướng hoạt động liên quận, liên tỉnh.
- Hai là, phương thức thủ đoạn hoạt động phạm tội cướp giật rất đa
dạng, phức tạp. Chúng có sự chuẩn bị chu đáo trước khi thực hiện hành vi
phạm tội, tiến hành gây án một cách bất ngờ, nhanh chóng, bằng cách sử dụng
xe môtô dạo quanh các tuyến đường, địa bàn nơi tập trung đông dân cư nắm
tình hình, tìm sự sơ hở, mất cảnh giác của nạn nhân để nhanh chóng giật lấy
tài sản rồi tẩu thoát, đôi lúc tiến hành gây án táo bạo, trắng trợn, làm cho
người bị hại hoảng sợ. Phương tiện gây án chủ yếu vẫn là xe môtô có phân
70
khối lớn, sử dụng biển số giả, biển số trộm cắp được hoặc bẻ cong biển số,
dán băng keo và thay đổi biển số, màu sơn của xe. Đối tượng cướp giật tài sản
ngày càng có kinh nghiệm hơn trong che giấu tội phạm và đối phó với cơ
quan chức năng, xu hướng sử dụng vũ khí để chống trả khi bị truy đuổi bằng
dao, kim tiêm nhiễm HIV ngày càng tăng.
- Ba là, thành phần các đối tượng trong các vụ án cướp giật có xu hướng trẻ
hóa và đa dạng hơn. Các đối tượng phạm tội ở độ tuổi từ 16 đến 30 tuổi ngày
càng tăng, tập trung vào những đối tượng nghiện hút ma túy, có tiền án tiền sự,
các đối tượng hoạt động lưu manh chuyên nghiệp, ngoài ra, có thêm nhiều đối
tượng chưa có tiền án, tiền sự, không có nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không
ổn định câu kết lại với nhau thực hiện hành vi cướp giật. Đối tượng hoạt động
cướp giật có cả nam, lẫn nữ, là người có hộ khẩu thường trú trong và ngoài thành
phố Đà Nẵng, nhưng chủ yếu là nam giới, có trình độ văn hóa thấp. Điều kiện
sống và hoàn cảnh gia đình của các đối tượng thường không hoàn hảo, cá biệt,
có trường hợp đối tượng phạm tội xuất phát từ gia đình khá giả, cán bộ nhưng do
tiếp thu các mặt trái của xã hội đi vào con đường phạm tội.
- Bốn là, tài sản các đối tượng hoạt động cướp giật nhằm vào chủ yếu
vẫn là các tài sản được quản lý dưới dạng mang theo người như: ôm, đeo,
mang, cầm, nắm hoặc được cài ở trên xe với các tài sản gọn, nhẹ, có giá trị
như: dây chuyền, vòng vàng, túi xách, điện thoại di động...
- Năm là, đối tượng mà tội cướp giật nhằm vào thường là phụ nữ và các
du khách là người nước ngoài khi mang theo tài sản bên người.
- Sáu là, về thời gian và địa bàn gây án. Thời gian gây án cả ngày lẫn đêm.
Địa bàn hoạt động vẫn tập trung vào các địa bàn, khu vực, tuyến du lịch có đông
du khách, người dân đến tham quan, du lịch, có các hoạt động kinh doanh, như
tuyến đường Võ Nguyên Giáp, địa bàn quận Hải Châu, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn.
- Bảy là, về nơi tiêu thụ, thông thường đối tượng phạm tội cướp giật tài
sản không cần chuẩn bị trước nơi tiêu thụ, các đối tượng có thể tiêu thụ tài sản
cướp giật được ở các tiệm vàng, cửa hàng điện thoại di động, tiệm cầm đồ
71
trong và ngoài thành phố hoặc rao bán trên mạng xã hội.
Dự báo về xu hướng, đối tượng, địa bàn, phương thức, phương tiện hoạt
động của tội cướp giật tài sản còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan, chủ
quan trong công tác phòng ngừa, điều tra, khám phá đối với loại tội phạm
này. Tuy nhiên, từ những dự báo này cần có kế hoạch nghiên cứu cụ thể cũng
như tiến hành đồng bộ các giải pháp cho phù hợp để phục vụ công tác phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời
gian tới đạt hiệu quả hơn.
3.2. Giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
3.2.1. Cấp ủy, chính quyền các cấp tích cực tổ chức chỉ đạo triển khai
thực hiện các biện pháp phòng, chống tội phạm trên địa bàn thành phố
Tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng là một hiện tượng
xã hội phức tạp, phát sinh, tồn tại và phát triển từ các nguyên nhân của đời
sống xã hội, vì vậy, muốn phòng ngừa có hiệu quả tội phạm nói chung và tội
cướp giật tài sản nói riêng đòi hỏi phải có sự tham gia của tất cả các lực lượng
xã hội. Do vậy, các lực lượng cần thực hiện tốt các nội dung sau:
Tiếp tục tham mưu xây dựng chương trình hành động, tổ chức quán triệt,
thực hiện Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 22-6-2015 của Bộ Chính trị “về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự trong
tình hình mới”, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh, kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị số
48-CT/TW ngày 22-10-2010 của Bộ Chính trị “về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”, Chỉ
thị số 09-CT/TW ngày 01-12-2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc trong tình hình mới”, Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 26-3-2008 của Bộ
Chính trị “về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và
kiểm soát ma túy trong tình hình mới”; Quyết định 623/QĐ-TTg ngày
14/4/2016 về phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn
72
2016 – 2025 và định hướng đến năm 2030; Chỉ thị số 37-CT/TU ngày
20/8/2014 của Ban Thường vụ Thành ủy về “tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ
đạo công tác phòng, chống, kiểm soát tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn
thành phố”; Chỉ thị số 24-CT/TU ngày 10-8-2009 và Chỉ thị số 25-CT/TU
ngày 20-10-2009 của Thành ủy về “đẩy mạnh công tác phối hợp, giúp đỡ các
gia đình có hoàn cảnh đặc biệt nghèo, học sinh bỏ học và thiếu niên hư, vi
phạm pháp luật” và “phòng chống bạo lực gia đình”; Kế hoạch số 7733/KH-
UBND ngày 26-11-2009 của UBND thành phố về “quản lý, giúp đỡ và phòng
ngừa nguy cơ thiếu niên vi phạm pháp luật, thiếu niên hư giai đoạn 2009-
2015”; Quyết định số 19/QĐ-UBND ngày 07-8-2009 của UBND thành phố
về phê duyệt đề án “Đổi mới công tác tuyên truyền vận động toàn dân tham
gia phòng, chống tội phạm và xây dựng mô hình phòng chống tội phạm trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng”; Quyết định số 28/2014/QĐ-UBND ngày
06/9/2014 của UBND thành phố về ban hành “Quy chế phối hợp lập hồ sơ và
tổ chức cai nghiện ma tuý trên địa bàn thành phố”; Kế hoạch 7104/KH-
UBND ngày 03/6/2015 của UBND thành phố về “Cảm hóa, giáo dục, giúp đở
thanh thiếu niên sử dụng trái phép ma túy trên địa bàn thành phố”; Quyết
định 5393/QĐ-UBND ngày 10/8/2016 của UBND thành phố về việc Ban
hành Chiến lược phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2025 và định hướng
đến năm 2030 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; Quyết định 6111/QĐ-UBND
ngày 07/9/2016 của UBND thành phố về việc Phê duyệt Đề án thực hiện mục
tiêu “Không có người nghiện ma túy không được kiểm soát trong cộng đồng
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2020”.
Thành ủy, UBND thành phố tăng cường công tác chỉ đạo các sở, ban,
ngành nâng cao vai trò đối với công tác đấu tranh PCTP; phòng, chống ma túy;
phòng, chống tệ nạn xã hội và đưa công tác này vào nội dung chương trình
công tác của đơn vị, địa phương. Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của
Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm, HIV/AIDS, tệ nạn xã hội và xây dựng
phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ từ quận đến phường nhằm nâng cao hiệu
73
quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; phòng, chống ma túy; phòng,
chống tệ nạn xã hội, trọng tâm là làm tốt công tác chuyển biến địa bàn phức tạp
về ANTT trở thành địa bàn không có tội phạm hoặc giảm đến mức thấp nhất.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Đề án đổi mới công tác tuyên truyền vận
động toàn dân tham gia PCTP và xây dựng mô hình PCTP trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng theo Quyết định số 19/2009/QĐ/UBND của UBND thành phố.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho số đối tượng có nguy
cơ cao; các đối tượng vi phạm pháp luật; các chủ cơ sở kinh doanh nhà trọ,
nhà nghỉ, khách sạn, cầm đồ, karaoke; các tổ xe thồ tự quản. Tham gia quản
lý, cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ người vi phạm tại gia đình và cộng đồng khu
dân cư kết hợp với biện pháp quản lý, giáo dục tại xã, phường đồng thời lập
hồ sơ đưa đối tượng vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, trung tâm cai
nghiện ma túy nhằm góp phần hạn chế phát sinh tội phạm.
Nâng cao năng lực trách nhiệm trong quản lý Nhà nước về ANTT ở cơ
sở, nhất là quản lý khu dân cư, tăng cường kiểm tra, quản lý các dịch vụ kinh
doanh ngành nghề có điều kiện về ANTT. Tăng cường công tác tuần tra, kiểm
soát phòng ngừa tình hình tội phạm. Quản lý chặt số đối tượng sau cai nghiện
tại địa phương, số đang điều trị bằng chất Methadone, làm giảm tỷ lệ nghiện
mới, tái nghiện.
Kiện toàn, củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng an
ninh cơ sở nhất là lực lượng Bảo vệ dân phố, Dân phòng theo Nghị định
38/NĐ-CP của Chính phủ. Triển khai thực hiện có hiệu quả công tác phối hợp
tuần tra phòng chống tội phạm theo Quyết định 8394/QĐ-UBND ngày
09/11/2015 của UBND thành phố về công tác tuần tra, chốt chặn, mật phục
theo kế hoạch của thành phố và trên địa bàn quận; Quyết định số 6743/QĐ-
UBND ngày 07/9/2010 về thành lập lực lượng chống cướp giật và tội phạm
khác trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trong đó có phương án bố trí lực lượng
tuần tra, mật phục hợp lý để kịp thời phát hiện, ngăn chặn tội cướp giật tài
sản, lộ trình tuần tra chú ý các địa bàn, tuyến trọng, đặc biệt là nhà hàng, dịch
74
vụ ăn uống, mua sắn, tham quan, du lịch tập trung nhiều du khách.
3.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục ý thức cảnh giác tự
bảo vệ tài sản cho du khách; ý thức tôn trọng pháp luật và tinh thần đấu
tranh phòng chống tội phạm trong nhân dân
Thực tế trong công tác đấu tranh phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
thời gian qua cho thấy một trong những vấn đề làm nảy sinh tội phạm này là do
ý thức chủ quan, mất cảnh giác của khách du lịch, người dân trong việc quản lý
tài sản mang theo, dẫn đến những sơ hở để bọn tội phạm lợi dụng cướp giật tài
sản tại các địa bàn, khu vực, tuyến trọng điểm. Chính vì vậy để phòng ngừa tình
hình loại tội phạm trên, đòi hỏi các lực lượng cần phải làm tốt hơn nữa công tác
tuyên truyền đến các tầng lớp nhân dân, du khách tham quan, du lịch trên địa bàn
thành phố, đến những người hướng dẫn viên du lịch, những người quản lý của
các đoàn khách du lịch, đoàn khách quốc tế, những người kinh doanh du lịch,
dịch vụ tại các địa bàn, khu vực, tuyến trọng điểm.
Cần tập trung tuyên truyền về tình hình, phương thức thủ đoạn của tội
phạm nói chung và cướp giật tài sản nói riêng trên địa bàn thành phố thời gian
qua; tuyên truyền để họ nắm được phương thức, thủ đoạn, thời gian, địa điểm
thường xảy ra cướp giật; giáo dục họ về ý thức, trách nhiệm trong việc tự bảo
vệ tài sản của mình, tránh sơ hở mà tội phạm có thể lợi dụng. Ngoài ra phải
tuyên truyền cho mọi người cách đối phó, giải quyết khi bị cướp (cách tri hô,
cách báo tin cho cơ quan chức năng…). Phương pháp, hình thức tuyên truyền
phải đa dạng, phù hợp với từng loại đối tượng cụ thể:
- Đối với du khách, nhất là du khách người nước ngoài khi tuyên truyền
gặp rất nhiều khó khăn như bất đồng ngôn ngữ, họ lại thường xuyên di
chuyển và nếu không cẩn thận sẽ làm cho du khách hoang mang lo sợ, nghĩ
rằng ở Đà Nẵng không an toàn, làm mất đi ý nghĩa của hoạt động du lịch,
tham quan, nghỉ ngơi. Do vậy, sử dụng nội dung hình thức, phương pháp
75
tuyên truyền phải phù hợp linh động, sáng tạo nhằm tạo cho du khách an tâm,
tin tưởng vào cơ quan chức năng, vừa nâng cao ý thức cảnh giác bảo vệ tài
sản. Một số hình thức tuyên truyền có thể mang lại hiệu quả cao như:
+ Thông qua Sở Du lịch để in những tờ rơi, tờ bướm nói về các thủ đoạn
cướp giật, các tuyến đường, khu vực công cộng thường xảy ra cướp giật, in
một số hình ảnh về hành vi cướp giật, số điện thoại liên lạc khi cần thiết để
các cơ sở lưu trú gửi đến du khách;
+ Phối hợp với các công ty du lịch, các khách sạn, nhà nghỉ phát những
tờ rơi tuyên truyền, yêu cầu họ thường xuyên nhắc nhở về ý thức cảnh giác tội
phạm cho du khách;
- Đối với quần chúng nhân dân, thực tế cho thấy nhiều vụ án cướp giật
tài sản, được sự giúp đỡ truy bắt của quần chúng đã bắt được đối tượng gây
án. Nhưng để nâng cao hơn nữa ý thức, trách nhiệm của quần chúng trong
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản
nói riêng, lực lượng chuyên trách phải phối hợp với các cơ quan chức năng,
các đoàn thể, tổ chức, sử dụng linh hoạt các hình thức như:
+ Tổ chức các cuộc thi trên đài phát thanh, truyền hình về kiến thức pháp
luật, thủ đoạn hoạt động của tội phạm hoặc tổ chức các buổi giao lưu trực
tuyến với khán giả về chủ đề phòng ngừa tình hình tội phạm để mọi người
hưởng ứng;
+ Tuyên truyền về thủ đoạn hoạt động của tội phạm nói chung tội cướp
giật tài sản nói riêng; nêu gương điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt
về tinh thần cảnh giác, tích cực đấu tranh phòng chống tội phạm.
+ Sử dụng các tranh panô, áp phích, khẩu hiệu, tờ rơi để tuyên truyền,
vận động nhân dân phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm tại các địa bàn, khu
vực, tuyến thường xảy ra cướp giật tài sản.
Song song với các biện pháp tuyên truyền, vận động tập trung, cần chú ý
76
khai thác các hình thức tuyên truyền cá biệt như: vận động cơ quan, tổ chức
trên địa bàn trực tiếp đảm nhận và có trách nhiệm thực hiện các nội dung cụ
thể trong việc quản lý giáo dục, tiếp nhận và tạo điều kiện giúp đỡ công ăn
việc làm cho các đối tượng đang gặp khó khăn; giải quyết những vướng mắc
về gia đình, cuộc sống và cả về tư tưởng; phối hợp với các ban ngành, đoàn
thể cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ số thanh thiếu niên hư, vi phạm pháp luật, sử
dụng trái phép chất ma túy nhằm phát huy những mặt tích cực, hạn chế khắc
phục mặt tiêu cực, động viên các em phấn đấu, lao động chân chính, không
lâm vào con đường phạm tội.
Việc tổ chức tuyên truyền phải tiến hành thường xuyên, phối hợp giữa
các hình thức, có trọng tâm trọng điểm, phù hợp với tình hình thực tế của
từng địa bàn, khu vực, tuyến, có sự chỉ đạo tập trung thống nhất của các cấp
lãnh đạo, tránh hình thức qua loa, không sát thực với tình hình thực tế.
3.2.3. Cần phát hiện, bồi dưỡng, tuyên truyền nhân rộng các điển hình
tiên tiến trong phòng chống tội phạm nói chung và cướp giật tài sản nói
riêng; có chính sách cho những người tham gia bảo vệ ANTT tại cơ sở;
giải quyết tốt chính sách an sinh xã hội, tạo công ăn việc làm cho những
đối tượng thực sự gặp khó khăn, xây dựng môi trường sống lành mạnh tại
các địa bàn dân cư
Việc phát hiện, bồi dưỡng, tuyên truyền nhân rộng các điển hình tiên tiến
và có chế độ chính sách cho những người tham gia bảo vệ ANTT tại cơ sở là
nội dung quan trọng trong tổ chức phát động phong trào toàn dân bảo vệ
ANTQ, xây dựng tổ dân phố, thôn, xóm không có tội phạm và tệ nạn xã hội,
vừa là nhiệm vụ vừa là phương thức quan trọng của công tác tư tưởng nhằm
cổ động, tuyên dương kịp thời các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, động viên
mọi người cùng hành động, tự giác, hăng hái tham gia phòng, chống tội phạm
nói chung, tội cướp giật tài nói riêng, góp phần đảm bảo tình hình ANTT trên
77
địa bàn. Bên cạnh, các hình thức động viên, khen thưởng, biểu dương kịp thời
những gương người tốt, việc tốt, những người tham gia bảo vệ ANTT tại cơ
sở, các cơ quan thông tin đại chúng cần đổi mới và đẩy mạnh hơn nữa công
tác tuyên truyền; có phương pháp tiếp cận và cách viết phù hợp hơn để người
đọc, người nghe có sự cảm thông và từ đó làm theo; thông tin phải xác thực,
có sự lựa chọn kỹ càng, có sức lan tỏa để nhân rộng toàn xã hội.
Qua thực tế nghiên cứu cho thấy, số đối tượng phạm tội cướp giật tại
phần lớn đều không có công ăn việc làm hoặc công việc làm không ổn định,
không có nguồn thu nhập chính đáng nên rất dễ đi vào con đường phạm tội.
Vì vậy, tập trung giải quyết tốt chính sách xã hội, tạo công ăn việc làm cho
những đối tượng thực sự gặp khó khăn là nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa quan
trọng trong công tác quản lý, giáo dục đối tượng.
Công tác đấu tranh, phòng ngừa tình hình tội phạm, quản lý giáo dục đối
tượng phải gắn với chính sách phát triển kinh tế, văn hóa xã hội. Do vậy, hàng
năm, đều tiến hành rà soát lên danh sách, phân loại các loại đối tượng tù tha,
đặc xá và căn cứ vào đặc điểm giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp v.v... để giao
chỉ tiêu, số lượng cụ thể cho các ban, ngành, đoàn thể trực tiếp quản lý, cảm
hóa, giáo dục, giúp đỡ nhiều người lầm lỗi tiến bộ, nhiều đối tượng được hỗ
trợ tạo việc làm, cho vay vốn làm ăn để tạo điều kiện cho họ hòa nhập cộng
đồng không tái phạm.
3.2.4. Thường xuyên đảm bảo công tác thông tin, báo cáo về tội phạm
Củng cố, nâng cao chất lượng công tác trao đổi, thông tin, liên lạc giữa
các lực lượng, các đơn vị, địa phương theo hướng “nhanh chóng, kịp thời,
chính xác” trên tất cả các lĩnh vực liên quan đến hoạt động phòng ngừa tình
hình tội phạm nói chung, tội cướp giật tài sản tại nói riêng từ công tác báo
cáo, trao đổi nghiệp vụ, đến công tác xác minh thông tin vụ việc, quản lý địa
bàn, đối tượng,...
78
Tổ chức xâu chuỗi từng lực lượng từ thành phố, đến quận, huyện,
phường, xã và cùng tham gia chỉ đạo, hướng dẫn, cùng giải quyết đối với từng
vụ án nói chung, vụ án cướp giật tài sản tại nói riêng.
Trong công tác tiếp nhận và xử lý tin báo, tố giác tội cướp giật tài sản ,
cần thực hiện tốt các vấn đề sau:
- Khi tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm, cán bộ phải thể hiện sự quan
tâm chia sẻ, phải có thái độ lịch sự, hòa nhã, trấn an họ, làm cho người đến
báo tin có sự bình tĩnh, tin tưởng, từ đó khai báo đầy đủ, chính xác hơn.
- Cần thiết lập, quản lý và sử dụng có hiệu quả trang Website Công an
thành phố và hệ thống các hộp thư tố giác tội phạm. Những hộp thư này phải
được đặt tại những nơi dễ nhìn thấy và thông báo cho nhân dân, du khách biết
phản ánh và thường xuyên kiểm tra, xử lý kịp thời.
Củng cố, duy trì hoạt động 24/24h hệ thống Trung tâm 113 và hệ thống
Trung tâm thông tin chỉ huy, có như vậy mới tiếp nhận thông tin về tội cướp
giật tài sản kịp thời, đầy đủ, đồng thời kịp thời huy động các lực lượng phản
ứng nhanh, lực lượng công khai có mặt trên đường phố cùng tham gia công
tác phòng ngừa, truy bắt đối với loại tội phạm này. Việc duy trì và đảm bảo
hoạt động của hệ thống này sẽ làm tăng niềm tin của nhân dân vào cơ quan
chức năng, đảm bảo yêu cầu bí mật cho người cung cấp tin.
3.2.5. Nâng cao chất lượng hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa các
lực lượng trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng
Để công tác phối hợp giữa các lực lượng của thành phố Đà Nẵng trong hoạt
động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố được duy
trì thường xuyên, có hiệu quả, cần thực hiện tốt một số nội dung sau.
- Xây dựng, ban hành quy chế phối hợp trong công tác phòng, chống tội
cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trong đó có quy định quy
79
trình, nguyên tắc phối hợp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Thông
qua quy chế này, quy định quy trình, trách nhiệm, nhiệm vụ của một số lực
lượng chưa cụ thể đối với công tác phòng, chống tội cướp giật tài sản, nhằm
phát huy tối đa sức mạnh của các lực lượng. Bên cạnh đó, Quy chế cũng quy
định rõ chế tài xử lý nghiêm đối với những cá nhân, đơn vị không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng với nội dung quy định của quy chế. Đồng thời,
thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả hoạt động phối hợp
giữa các lực lượng, nhằm kịp thời chấn chỉnh những tồn tại, hạn chế, giải
quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện quy chế, cũng như kịp
thời khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích, nêu cao tinh thần trách
nhiệm trong quá trình thực hiện quy chế.
Ngoài ra, các lực lượng cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các địa
phương có địa bàn giáp ranh như Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi,… tổ chức
các hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tội cướp giật tài sản
tại các địa bàn giáp ranh, các khu vực, tuyến du lịch, khu du lịch liền kề.
Công tác phối hợp cần được tiến hành thường xuyên, liên tục, trên tất cả các
lĩnh vực công tác như xác minh, trao đổi thông tin nghiệp vụ, thông tin đối
tượng, phối hợp tuần tra, kiểm soát địa bàn, xác minh truy bắt các loại đối
tượng, trong đó có tội cướp giật tài sản.
80
KẾT LUẬN
Tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng hiện diễn
biến khó lường, có tăng, có giảm, tuy nhiên hậu quả tác hại do chúng gây ra
rất nghiêm trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường du lịch của thành
phố. Vì vậy, nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về hoạt động phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, góp phần
hạn chế những hậu quả tác hại do tội phạm này gây ra.
Thực tiễn tiến hành các hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản cho thấy các hoạt động phòng ngừa đã góp phần nắm chắc tình hình địa
bàn, khu vực, tuyến du lịch, khu du lịch; chủ động phát hiện, ngăn chặn, điều
tra, xử lý các băng, nhóm, đối tượng thực hiện hành vi cướp giật tài sản góp
phần kìm chế sự gia tăng của loại tội phạm này. Tuy nhiên bên cạnh những
kết quả đã đạt được, quá trình tiến hành các hoạt động phòng ngừa tình hình
tội cướp giật tài sản còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế nhất định. Những hạn
chế đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau.
Trên cơ sở làm rõ những mặt lý luận, cũng như việc đánh giá thực trạng
tiến hành các hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng, tìm ra những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của
những tồn tại, hạn chế, những cơ sở của dự báo và đưa ra những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Những giải pháp này tập trung vào việc giải
quyết các tồn tại, hạn chế trong thực tiễn. Tuy nhiên, hoạt động phòng ngừa
tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là quá trình
tổng hòa các hoạt động cụ thể của các đơn vị, địa phương trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội và chịu sự chi phối không nhỏ của đối tượng tiếp
nhận, vì vậy những nội dung mà tác giả đề cập có thể chưa hoàn toàn đáp ứng
được triệt để những vấn đề mà trong thực tiễn đòi hỏi. Tác giả rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của các chuyên gia để luận văn được hoàn thiện hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Anh (2005), “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
về phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”, Tạp chí Công an nhân
dân (số 9), Hà Nội.
2. Bộ Công an (2005), Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam.
3. Lê Cảm (2001), “Nhân thân người phạm tội, một số vấn đề lý luận cơ
bản”, Tạp chí Tòa án nhân dân (số 10), Hà Nội.
4. Chính phủ (2004), Chỉ thị số 37/2004/CT-TTg ngày 8/11/2004 của Thủ
tướng Chính phủ về việc thực hiện Nghị quyết số 09 và chương trình
quốc gia phòng, chống tội phạm đến năm 2020, Hà Nội.
5. Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội (C45), Báo cáo tổng kết
và Kế hoạch công tác năm 2007, 2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013,
2014, 2015, 2016, 2017,2018.
6. Đà Nẵng (2017), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2017 và mục
tiêu phát triển 2018 của thành phố Đà Nẵng.
7. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
8. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
9. Lê Thị Bích Hải (2015), Phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên
thực hiện trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, luận văn thạc sỹ luật học, Đại
học Luật Hà Nội.
10. Nguyễn Ngọc Hòa (2010), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội
11. Học viện Cảnh sát nhân dân (2002), Giáo trình Tội phạm học, Hà Nội.
12. Học viện CSND (2001), Giáo trình Tổ chức hoạt động phòng ngừa, phát
hiện, điều tra tội phạm cụ thể thuộc chức năng của lực lượng Cảnh sát
hình sự, Hà Nội.
13. Nguyễn Ngọc Hòa (2007), Phòng ngừa tội phạm trong tội phạm học,
Luật học.
14. Nguyễn Đồng Luyện (2007), Đấu tranh phòng chống tội phạm do người
chưa thành niên thực hiện trên địa bàn thành phố Hải Phòng, luận văn
thạc sỹ luật học, Đại học Luật Hà Nội.
15. Dương Tuyết Miên (2013), Tội phạm học đương đại, Nxb Chính trị -
hành chính, Hà Nội
16. Đặng Thanh Nga (2004), “Một số đặc điểm tâm lý của người chưa thành
niên phạm tội”, Tạp chí luật học số 4/2004, Hà Nội
17. Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội thành phố Đà Nẵng
(2017), Báo cáo chuyên đề thực hiện Đề án IV, Chương trình quốc gia
phòng chống tội phạm các năm 2013, 2014, 2015, 2016, 2017.
18. Lý Văn Quyền (2014), Phòng ngừa tội phạm do nữ giới thực hiện ở Việt
Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học luật Hà Nội
19. Lý Văn Quyền (2005), “Vai trò của Toà án trong việc phòng ngừa tội
phạm”, Tạp chí Luật học số 6/2005, Hà Nội
20. Phạm Văn Tỉnh (2007), Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở
Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
21. Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, Tòa án nhân dân các quận, huyện
thành phố Đà Nẵng (2017), Bản án hình sự sơ thẩm từ năm 2010 đến
năm 2015, Đà Nẵng
22. Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng (2018), Thống kê, thụ lý và giải
quyết các vụ án hình sự sơ thẩm, Hà Nội
23. Tổng cục Thống kê, dự án VIE/97/P14 (2001), Kết quả dự báo dân số
cho cả nước, các vùng địa lý - kinh tế và 61 tỉnh thành phố Việt Nam,
1999 - 2024, Hà Nội.
24. Tổng cục Thống kê (2008), Niên giám thống kê 2007, Nxb Thống kê, Hà
Nội.
25. Tổng cục Thống kê, dự án VIE/97/P14 (2001), Kết quả dự báo dân số
cho cả nước, các vùng địa lý - kinh tế và 61 tỉnh thành phố Việt Nam,
1999 -2024, Hà Nội.
26. Trung tâm Quốc gia Dự báo và Thông tin thị trường lao động, Cục việc
làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2012), Xu hướng việc làm
Việt Nam 2011, Hà Nội.
27. Trường Đại học luật Hà Nội (2008), Giáo trình Tâm lý học, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội
28. Trường Đại học luật Hà Nội (2008), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội
29. Trường Đại học luật Hà Nội (2015), Giáo trình tội phạm học, Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội
30. Đào Trí Úc (2000), Cơ sở khoa học của việc tổ chức phòng ngừa tội
phạm. Tội phạm học Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
31. Viện khoa học pháp lý - Bộ tư pháp (2004), Nghiên cứu, đánh giá, phân
tích tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật và hệ thống xử lý
tại Việt Nam, Hà Nội.
32. Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1994), Tội phạm học, Luật
Hình sự và Luật tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (2000), Tội phạm học Việt
Nam- một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
34. Võ Khánh Vinh (2000), Dự báo tình hình tội phạm, Tội phạm học Việt
Nam. Nxb CAND, Hà Nội.
35. Võ Khánh Vinh (2004), Bình Luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự,
Nxb CAND, Hà Nội.
36. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình tội phạm học, Trường Đại học Huế,
Nxb CAND, Hà Nội.
37. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, phần chung,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình tội phạm học, Nxb CAND, Hà Nội.
39. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần các tội
phạm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
40. Trần Vĩnh (2004), Hoạt động phòng ngừa tội phạm của lực lượng Cảnh
sát quản lý hành chính về trật tự xã hội ở nước ta hiện nay, đề tài Tiến sĩ
Luật học, Học viện CSND, Hà Nội.
41. Nguyễn Xuân Yêm (2013), Tội phạm học Việt Nam, tập 1, Nxb CAND,
Hà Nội.
BẢNG 2.1: THỐNG KÊ TÌNH HÌNH PHẠM PHÁP HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2014 ĐẾN 06 THÁNG ĐẦU NĂM 2019
Tổng số PPHS Trên lĩnh vực hình sự Trên lĩnh vực ma túy Trên lĩnh vực kinh tế Trên lĩnh vực môi trường
Năm Số vụ Số vụ Số vụ Số vụ Số vụ Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) So sánh tăng (+), giảm (-) so với năm 2011
553 0 483 87,342 1,447 01 0,181 11,031 61 08 2014
557 (+ 04); 0,72% 453 81,329 16,876 94 1,795 10 0 0 2015
595 (+ 42); 7,6% 484 81,345 16,639 99 2,017 12 0 0 2016
655 (+ 102); 18,4% 527 80,458 117 17,863 1,679 11 0 0 2017
668 (+ 115); 20,8% 546 81,737 115 17,216 1,048 07 0 0 2018
0 0 330 253 76,667 68 20,606 09 2,727 06 tháng đầu 2019
3.358 2.746 81,775 554 16,498 57 1,697 01 0,030 Tổng cộng
Nguồn: Công an thành phố Đà Nẵng
BẢNG 2.2: THỐNG KÊ CƠ CẤU TỘI PHẠM TRÊN LĨNH VỰC HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2014 ĐẾN 06 THÁNG ĐẦU NĂM 2019
Tội phạm xâm hại tài sản công dân Tội phạm xâm hại tính mạng, sức khỏe công dân Tội phạm xâm hại các khách thể khác
Năm Số vụ Số vụ Số vụ Số vụ Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tổng số PPHS trên lĩnh vực hình sự So sánh tăng (+), giảm (-) so với năm 2011
483 0 379 78,468 85 17,598 19 3,934 2014
453 (- 30); - 6,2% 347 76,600 89 19,647 17 3,753 2015
484 (+ 01); 0,21% 386 79,752 77 15,909 21 4,339 2016
527 (+ 44); 9,1% 423 80,266 74 14,042 30 5,693 2017
546 (+ 63); 13,04% 440 80,586 86 15,751 20 3,663 2018
205 81,028 46 253 18,182 02 0,791 06 tháng đầu 2019
2.746 2.180 79,388 457 16,642 109 3,970 Tổng cộng
Nguồn: Công an thành phố Đà Nẵng
BẢNG 2.3: THỐNG KÊ TÌNH HÌNH TỘI PHẠM CƯỚP GIẬT TÀI SẢN VÀ CÁC TỘI PHẠM HÌNH SỰ KHÁC XẢY RA TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2011 ĐẾN 06 THÁNG ĐẦU NĂM 2019
Giết người Cướp giật tài sản
Cướp tài sản
Trộm cắp tài sản
Năm
Tổng số vụ phạm pháp hình sự Tỷ lệ (%) Số vụ Tỷ lệ (%) Số vụ Tỷ lệ (%) Số vụ Tỷ lệ (%) Cố ý gây thương tích Tỷ lệ Số (%) vụ Các loại tội phạm khác Tỷ lệ Số (%) vụ Số vụ
483 13,251 15 3,106 17 3,520 316 65,424 52 10,766 19 3,934 64 2014
453 33 7,285 10 2,208 17 3,753 259 57,174 56 12,362 78 17,219 2015
484 46 9,504 09 1,860 15 3,099 289 59,711 45 9,298 80 16,529 2016
527 54 10,247 09 1,708 17 3,226 315 57,772 49 9,298 83 15,750 2017
546 47 8,608 05 0,916 07 1,282 339 62,088 67 12,271 81 14,835 2018
253 09 3,557 04 1,581 02 0,791 170 67,194 37 14,625 31 12,253 06 tháng đầu 2019
Nguồn: Công an thành phố Đà Nẵng
Tổng cộng 2.746 253 9,213 52 1,894 75 2,731 1.688 64,471 306 11,143 372 13,547
BẢNG 2.4: THỐNG KÊ ĐỊA BÀN XẢY RA TỘI PHẠM CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2014 ĐẾN 06 THÁNG ĐẦU NĂM 2019
Quận Hải Châu
Quận Thanh Khê
Quận Sơn Trà
Quận Liên Chiểu
Quận Ngũ Hành Sơn
Quận Cẩm Lệ
Huyện Hòa Vang
Năm
Số vụ
Số vụ
Số vụ
Số vụ
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Số vụ
Tỷ lệ (%)
Số vụ
Tỷ lệ (%)
Số vụ
Tỷ lệ (%)
Tổng số vụ cướp giật tài sản
19
29,688
15
23,438
10
15,625
06
9,375
07
10,938
03
4,688
04
6,250
06
18,182
04
12,121
07
21,212
04
12,121
06
18,182
03
9,091
03
9,091
64 2014
14
30,435
05
10,870
10
21,739
03
6,522
04
8,696
05
10,870
05
10,870
33 2015
11
20,370
09
16,167
07
12,963
12
22,222
06
11,111
04
7,407
05
9,259
46 2016
11
23,404
11
23,404
05
10,638
08
17,021
04
8,511
05
10,638
03
6,383
54 2017
01
11,111
0
0
02
22,222
04
44,444
01
11,111
0
0
01
11,111
47 2018
09
253
62
24,506
44
17,391
41
16,206
37
14,625
28
11,067
20
7,905
21
8,300
Nguồn: Công an thành phố Đà Nẵng
06 tháng đầu 2019 Tổng cộng
BẢNG 2.5: THỐNG KÊ THỜI GIAN XẢY RA TỘI PHẠM CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2014 ĐẾN 06 THÁNG ĐẦU NĂM 2019
Từ 6h – 10h
Từ 10h – 14h
Từ 14h – 19h
Từ 19h – 22h
Từ 22h – 06h sáng hôm sau
Năm
Tổng số vụ cướp giật tài sản
Số vụ
Số vụ
Tỷ lệ (%)
Số vụ
Tỷ lệ (%)
Số vụ
Tỷ lệ (%)
Số vụ
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
9,375
25
06
39,063
31
48,438
02
3,125
0
0
6,061
14
02
42,424
17
51,515
0
0
0
0
64 2014
8,696
17
04
36,957
21
45,652
04
8,696
0
0
33 2015
9,259
15
05
27,778
25
46,296
07
12,963
02
3,704
46 2016
13
07
14,894
27,660
16
34,043
08
17,021
03
6,383
54 2017
01
11,111
03
33,333
04
44,444
01
11,111
0
0
47 2018
09
253
25
9,881
87
34,387
114
45,059
22
8,696
05
1,976
Nguồn: Công an thành phố Đà Nẵng
06 tháng đầu 2019 Tổng cộng
BẢNG 2.6: THỐNG KÊ SỐ LƯỢNG ĐỐI TƯỢNG THAM GIA THỰC HIỆN TỘI PHẠM CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2014 ĐẾN 06 THÁNG ĐẦU NĂM 2019
01 đối tượng thực hiện
02 đối tượng thực hiện
03 đối tượng thực hiện
04 đối tượng thực hiện
Trên 04 đối tượng thực hiện
Năm
Tổng số vụ cướp giật tài sản
Số vụ
Số vụ
Số vụ
Số vụ
Tỷ lệ (%)
Số vụ
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
01
1,563
33
51,563
11
17,188
17
26,563
3,125
02
01
3,030
21
63,636
04
12,121
05
15,152
6,061
02
2014 64
02
4,348
29
63,043
06
13,043
06
13,043
6,522
03
2015 33
05
9,259
30
55,556
05
9,259
08
14,815
11,111
06
2016 46
07
14,894
21
44,681
06
12,766
10
21,277
6,383
03
2017 54
01
11,111
04
44,444
02
22,222
02
22,222
0
0
2018 47
09
253
17
6,719
138
54,545
34
13,439
48
18,972
16
6,324
06 tháng đầu 2019 Tổng cộng
Nguồn: Công an thành phố Đà Nẵng
BẢNG 2.7: THỐNG KÊ HÌNH THỨC CƯỚP GIẬT TÀI SẢN ĐỐI VỚI NẠN NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2014 ĐẾN 06 THÁNG ĐẦU NĂM 2019
Nạn nhân đang đi bộ
Nạn nhân đang đi xe
Nạn nhân vừa ra khỏi cửa hàng. nơi ở. khách sạn.…
Nạn nhân vừa xuống xe ôtô
Nạn nhân vừa dừng xe máy. môtô
Năm
Tổng số vụ cướp giật tài sản
Số vụ
Số vụ
Số vụ
Số vụ
Số vụ
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
42,188
32,813
21
27
10,938
6,250
04
05
7,813
07
45,455
33,333
11
15
12,121
3,030
01
02
6,061
04
64 2014
36,957
36,957
17
17
8,696
6,522
03
05
10,780
04
33 2015
38,889
35,185
19
21
11,111
3,704
02
06
11,111
06
46 2016
38,298
36,170
17
18
10,638
4,255
02
05
10,638
05
54 2017
02
22,222
04
44,444
02
22,222
0
0
01
11,111
47 2018
09
253
87
34,387
102
40,316
28
11,067
12
4,743
24
9,486
06 tháng đàu 2019 Tổng cộng
Nguồn: Công an thành phố Đà Nẵng
BẢNG 2.8: THỐNG KÊ LOẠI TÀI SẢN BỊ CHIẾM ĐOẠT TRONG CÁC VỤ CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2014 ĐẾN 06 THÁNG ĐẦU NĂM 2019
Loại tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ cướp giật tài sản
Năm
Túi xách
Tài sản khác
Điện thoại di động
Tổng số vụ cướp giật tài sản
Số vụ
Số vụ
Số vụ
Tỷ lệ (%)
Dây chuyền vàng Tỷ lệ Số (%) vụ
Máy tính xách tay. máy ảnh. Ipad. Tỷ lệ (%)
Số vụ
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
15
23,438
09
14,063
27
42,188
08
12,5
05
7,813
09
27,273
05
15,152
13
39,394
03
9,091
03
9,091
2014 64
12
26,087
07
15,217
16
34,783
07
15,217
04
8,696
2015 33
16
29,630
08
14,815
19
35,185
06
11,111
05
9,259
2016 46
13
27,660
07
14,894
15
31,915
08
17,021
04
8,511
2017 54
02
22,222
02
22,222
04
44,444
01
11,111
0
0
2018 47
09
06 tháng đàu 2019
253
67
26,482
38
15,020
94
37,154
33
13,043
21
8,300
Tổng cộng
Nguồn: Công an thành phố Đà Nẵng
BẢNG 2.9: THỐNG KÊ KẾT QUẢ ĐIỀU TRA KHÁM PHÁ VÀ SỐ ĐỐI TƯỢNG BỊ BẮT GIỮ CỦA CẤC VỤ ÁN CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2014 ĐẾN 06 THÁNG ĐẦU NĂM 2019
Tổng số án cướp giật tài sản xảy ra Tổng số án cướp giật tài sản điều tra khám phá Số đối tượng cướp giật tài sản bị bắt Tỷ lệ điều tra khám phá (%) Năm
40 79 62,500 2014 64
28 47 84,848 2015 33
25 38 54,348 2016 46
20 32 37,037 2017 54
35 54 74,468 2018 47
08 08 88,889 09 06 tháng đầu năm 2019
253
61,660 156 258
Tổng cộng
Nguồn: Công an thành phố Đà Nẵng