VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THỊ HẢI LÝ

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP

TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THỊ HẢI LÝ

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP

TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

Chuyên ngành : Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm

Mã số: 8.38.01.05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. TRẦN HỮU TRÁNG

HÀ NỘI, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc

sĩ Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm về “Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp

tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế” là hoàn toàn trung thực và chưa từng

được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả

Đặng Thị Hải Lý

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH

HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN

HUẾ ....................................................................................................................... 8

1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản ................ 8

1.2. Mục đích phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản .................................... 12

1.3. Các chủ thể thực hiện phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản ................. 13

1.4. Nội dung và các biện pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản ......... 17

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM

CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ GIAI ĐOẠN

2014 -2018 ............................................................................................................ 27

2.1. Thực trạng nhận thức về ý nghĩa, mục đích, các nguyên tắc, nội dung phòng

ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn

2014 - 2018 ........................................................................................................... 27

2.2. Thực trạng áp dụng các giải pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản

trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2014 - 2018 .................................... 30

CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH

HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN

HUẾ ..................................................................................................................... 60

3.1. Tăng cường nhận thức về ý nghĩa, mục đích, các nguyên tắc, nội dung

phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế ..... 60

3.2. Tăng cường phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa

Thiên Huế ............................................................................................................. 62

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

BLHS : Bộ luật hình sự

BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự

PNTP : Phòng ngừa tội phạm

THTP : Tình hình tội phạm

TAND : Tòa án nhân dân

TCTS : Trộm cắp tài sản

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Số hiệu Tên bảng Trang Bảng

Mức độ tổng quan tuyệt đối của tình hình tội trộm cắp tài

2.1 sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn từ năm PL

2014 - 2018

Tỷ lệ tội phạm trộm cắp tài sản thực hiện trong tình hình

2.2 tội phạm trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn từ PL

năm 2014 - 2018

Mức độ tổng quan tình hình các tội xâm phạm sở hữu và

2.3 tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên PL

Huế (2014 - 2018)

Động thái của tình hình của tội trộm cắp tài sản trên địa PL 2.4 bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn từ năm 2014 - 2018

Động thái (diễn biến) của tội trộm cắp tài sản trên địa

2.5 bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn từ năm 2014 - 2018 PL

trong so sánh liên kế

2.6 Cơ cấu theo phương thức, thủ đoạn phạm tội PL

Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản theo loại và mức hình PL 2.7 phạt đã được áp dụng

Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản theo loại tội phạm PL 2.8

Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản theo hình thức phạm tội PL 2.9

2.10 Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản theo địa điểm phạm tội PL

2.11 Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản theo thời gian phạm tội PL

2.12 Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản theo tài sản bị chiếm đoạt PL

2.13 Cơ cấu theo giới tính, độ tuổi của người phạm tội trộm PL cắp tài sản

Tên bảng Trang Số hiệu

Bảng

2.14 Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa

Thiên Huế giai đoạn từ năm 2014 - 2018 xét theo trình độ PL

học vấn của người phạm tội

2.15 Cơ cấu theo tình huống trở thành nạn nhân PL

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thừa Thiên Huế là một tỉnh ven biển nằm ở vùng Bắc trung Bộ Việt Nam,

Thừa Thiên Huế giáp tỉnh Quảng Trị về phía bắc, biển Đông về phía đông, thành

phố Đà Nẵng về phía đông nam, tỉnh Quảng Nam về phía nam, dãy Trường Sơn

và các tỉnh Saravane và Sekong của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào về phía tây.

Tỉnh có 1 thành phố, 2 thị xã và 06 huyện với diện tích tự nhiên 5.053.99km2, dân

số trung bình năm 2010 ước là 1.105,5 nghìn người, chiếm 1,5% về diện tích và

1,5% về dân số so với cả nước.

Thừa Thiên Huế ở vào vị trí trung độ của cả nước, nằm giữa thành phố Hà

Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai trung tâm lớn của hai vùng kinh tế phát

triển nhất nước ta, là nơi giao thoa giữa điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của

hai miền Nam - Bắc. Những năm qua, trên địa bàn tỉnh đã xuất hiện nhiều khu

công nghiệp, cụ thể như khu công nghiệp Phú Bài, Phú Thứ, tạo tiền đề mạnh mẽ

thúc đẩy nền kinh tế trong toàn tỉnh phát triển mạnh, sự hình thành các cụm kinh

tế mở Chân Mây - Lăng Cô đã và đang tạo nên một thế phát triển mạnh mẽ, thu

hút nhiều người lao động đến tỉnh làm việc và sinh sống, các trường học cũng thu

hút số lượng lớn học sinh, sinh viên đến học tập, nghiên cứu, công nghiệpphát

triển dẫn đến số lượng người lao động từ các vùng khác đến làm việc, sinh sống,

cộng với lượng khách tham quan, du lịch tăng cao đã ảnh hưởng không nhỏ đến

tình hình an ninh trật tự trên phạm vi toàn, là môi trường thuận lợi cho các đối

tượng hình sự ở các nơi khác đến hoạt động.

Quá trình đô thị hóa ngày càng diễn ra nhanh, đất nông nghiệp dùng cho

sản xuất ngày càng hẹp dần, nông dân không có ruộng để sản xuất, canh tác...sự

nhàn rỗi, không có việc làm cũng làm phát sinh tội phạm trong đó có tội phạm

TCTS.

1

Công nghệ internet phát triển, nhiều trò chơi mới hình thành, thu hút nhiều

thanh thiếu niên tham gia chơi game, cha, mẹ chủ yếu kiếm tiền, ít quan tâm đến

con cái…sự thiếu thốn trong sinh hoạt, bị các đối tượng xấu lôi kéo, dụ dỗ nên

các em rất dễ đi vào con đường phạm tội, trong đó có tội TCTS.

Sự chủ quan, lơ là, mất cảnh giác của chủ tài sản hoặc của người được

giao nhiệm vụ trông coi tài sản nên các đối tượng dễ dàng lợi dụng để thực hiện

hành vi phạm tội của mình.

Số vụ trộm cắp tài sản không có dấu hiệu ngày càng tăng cao mà không

giảm xuống, có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, trong đó

có nguyên nhân công tác tổng kết, đánh giá chưa hiệu quả và phát huy được vai

trò, tầm quan trọng của công tác phòng ngừa trộm cắp tài sản. Mặt khác, công

tác xây dựng lực lượng, trang thiết bị, phương tiện... chưa được đầu tư đúng

mức. Việc sơ kết, tổng kết đánh giá chưa được chú trọng và có trọng tâm. Bên

cạnh đó, việc vận động nhân dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc trong đấu

tranh phòng chống các loại tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng

chưa thực sự có trọng tâm, còn chung chung, chưa cụ thể, nên hiệu quả chưa rõ

rệt, còn tồn tại nhiều sai sót.

Do nhu cầu của thực tiễn, phải nghiên cứu lý luận phòng ngừa tình hình tội

trộm cắp tài sản, thực trạng nhận thức, thực trạng áp dụng các biện pháp phòng

ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trong thời gian qua, để xây dựng được các giải

pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội TCTS toàn diện, hệ thống, hiệu quả cao

trong thời gian tới, góp phần phục vụ thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước. Mặt khác, hiện nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu

đưa ra các giải pháp phòng ngừa một cách có hệ thống, đầy đủ và toàn diện về

phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản ở thời điểm hiện nay tại tỉnh Thừa Thiên

Huế. Đó là lý do mà tác giả chọn đề tài: “Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài

sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế” làm luận văn Thạc sĩ luật học là đáp

ứng yêu cầu hiện nay.

2

2. Tình hình nghiên cứu

a. Các công trình nghiên cứu về lý luận chung của tội phạm học

Từ trước đến nay, liên quan đến đề tài Luận văn, đã có các công trình

khoa học sau đây nghiên cứu về lý luận chung của Tội phạm học:

- “Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Viện

Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, năm 2000;

- Giáo trình “Tội phạm học” của GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb. Công an

nhân dân, tái bản năm 2013;

- Giáo trình “Tội phạm học” của Học viện Cảnh sát nhân dân, Nxb.Công

an nhân dân, 2002, 2013;

- Giáo trình “Tội phạm học” của khoa Luật của Trường Đại học quốc gia

Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 1999;

- Giáo trình “Tội phạm học” của trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công

an nhân dân, 2012;

- Giáo trình “Tội phạm học” của trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Chính

trị quốc gia, 1994;

Các công trình đã nêu sẽ là những tài liệu tham khảo không thể thiếu trong

việc thực hiện đề tài luận văn. Các công trình này cung cấp lý luận tội phạm học

và giúp tác giả xác định đúng phương pháp nghiên cứu cho toàn bộ luận văn của

mình.

b. Tình hình nghiên cứu cụ thể

Liên quan trực tiếp và ở mức độ cụ thể đối với đề tài Luận văn, tác giả đã

nghiên cứu ở những công trình sau:

- Đặng Văn Chinh (2018) “Phòng ngừa tình hình các tội phạm xâm phạm

sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Quảng Nam”, Luận văn Thạc sỹ

luật học, Học viện Khoa học xã hội;

- Đỗ Lường Thiện (2017) “Hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về

tội trộm cắp tài sản”, Nghề luật, số 04, tr. 71 - 73;

3

- Đỗ Văn, Trần Thị Thanh Thủy (2013) “Có căn cứ xác định Vương Văn

T. phạm tội trộm cắp tài sản”, Tòa án nhân dân, số 14, tr.30-32

- Hoàng Thị Hoa (2016), “Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên

địa bàn tỉnh Đồng Nai”, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội;

- Lê Quang Thành (2012) “Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng,

chống tội trộm cắp tài sản do người nước ngoài thực hiện, Nhà nước và Pháp

luật, số 02, tr.75 - 78,84;

- Lê Văn Định (2017) “Một số đặc điểm về nhân thân người phạm tội

trộm cắp tài sản trên địa bàn Tây Nguyên”, Kiểm sát, số 05, tr.45 - 50;

- Nguyễn Đỗ Tuấn Long (2018) “Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản trên địa

bàn thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ luật học, Đại học Luật Hà Nội;

- Nguyễn Minh Tuấn (2018) “Kiểm sát hoạt động nghiên cứu dấu vết hình

sự trong khám nghiệm hiện trường các vụ trộm cắp tài sản, Kiểm sát, số 15, tr.41

- 46;

- Nguyễn Thị Xuân (2015) “Hoàn thiện quy định cấu thành tội trộm cắp

tài sản theo Điều 138 Bộ luật Hình sự, Nghiên cứu lập pháp, số 21, tr.37 - 40;

- Phạm Xuân Thụy (2015) “Đỗ Ngọc B, Hoàng Đình T và Trần Văn Q

không phạm tội “trộm cắp tài sản””, Tòa án nhân dân, số 08, tr.41 - 43;

- Trần Quỳnh Phượng (2011) “Nguyễn Văn Thông cùng đồng bọn phạm

tội “trộm cắp tài sản”, Kiểm sát, số 13, tr.55;

- Vũ Thị Thùy Dung (2013) “Tội trộm cắp tài sản - So sánh giữa Bộ luật

Hồng Đức và Bộ luật Hình sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học

Luật Hà Nội.

Trên cơ sở nguồn lý luận chung đã được nghiên cứu và thực hiện trong

những năm gần đây, tác giả xin kế thừa và tham khảo để thực hiện đề tài “Phòng

ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế”.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

4

Mục đích nghiên cứu của luận văn hướng đến là xây dựng được các biện

pháp tăng cường phòng ngừa một cách hữu hiệu với tình hình tội trộm cắp tài

sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ sau, nhằm đạt được mục đích đã

nêu ở trên:

- Nghiên cứu tài liệu: Gồm có các tài liệu văn bản của Đảng ở Trung ương

và địa phương, tài liệu về pháp luật và tài liệu chuyên ngành tội phạm học.

- Nghiên cứu thực tế: Gồm có số liệu thống kê, báo cáo sơ kết, tổng kết

năm của các cơ quan tư pháp, thu thập hồ sơ, bản án cụ thể.

- Nghiên cứu sáng tạo, gồm có những việc như sau:

+ Khái quát những vấn đề lý luận chung về phòng ngừa tình hình tội phạm

nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng.

+ Thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa

bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

+ Làm rõ những tồn tại, nguyên nhân trong hoạt động phòng ngừa tình

hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

+ Đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng

ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh Thừa

Thiên Huế.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu trong đề tài gồm: những vấn đề lý luận, thực trạng

và các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa

bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

4.1. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung, luận văn nghiên cứu hoạt động phòng ngừa tình hình tội

trộm cắp tài sản trong phạm vi khoa học Tội phạm học thuộc ngành Tội phạm

5

học và phòng ngừa tội phạm.

- Về tội danh, đề tài luận văn đề cập đến tội trộm cắp tài sản, được quy

định ở điều 138 - Bộ luật hình sự năm 1999 (Sửa đổi bổ sung năm 2009), có cập

nhật những Điều luật tương ứng trong BLHS hiện hành (Điều 173 Bộ luật hình

sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Về thời gian, luận văn sử dụng chất liệu nghiên cứu trong phạm vi 5

năm, từ năm 2014 đến năm 2018.

- Về không gian, luận văn nghiên cứu hoạt động phòng ngừa tình hình tội

trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng

duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng các quy luật, các cặp phạm trù phù

hợp để luận giải những vấn đề trong tinh hình tội phạm, nguyên nhân và điều

kiện của tình hình tội phạm và phòng ngừa tội phạm. Luận văn cũng dựa trên tư

tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phòng ngừa tội

phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

Quá trình thực hiện luận văn, tác giả có sử dụng các phương pháp nghiên

cứu sau: Phương pháp suy luận Lô-gich; phương pháp hệ thống; phương pháp

thống kê; phương pháp phân tích; phương pháp tổng hợp; phương pháp so sánh,

quy nạp, diễn dịch; phương pháp mô tả bằng bảng, biểu; phương pháp nghiên

cứu trường hợp điển hình... nhằm giải quyết những yêu cầu đặt ra đối với luận

văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Dưới góc độ tội phạm học Việt Nam, luận văn là công trình khoa học

nghiên cứu tình hình tội trộm cắp tài sản một cách toàn diện, hệ thống và nhất

6

quán trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể

sử dụng để làm tài liệu tham khảo tại Học viện khoa học xã hội, trong các trường

Luật, các trường Công an.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể sử dụng kết quả nghiên cứu của luận

văn để làm tài liệu tuyên truyền, giáo dục nâng cao trình độ nhận thức cho người

dân và vận dụng trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, mặt khác góp phần nâng

cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình

tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng.

Các cơ sở đào tạo luật trên cả nước có thể sử dụng kết quả nghiên cứu của

luận văn để làm tài liệu tham khảo.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

phần nội dung của luận văn được cấu trúc thành 3 chương như sau:

Chương 1. Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài

sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

Chương 2. Thực trạng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa

bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2014 - 2018

Chương 3. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài

7

sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI

TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản

1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản

1.1.1.1. Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam

Trộm cắp tài sản (TCTS) là một trong những tội xảy ra phổ biến trong

nhóm tội xâm phạm đến quyền sở hữu. Tội TCTS được quy định tại Điều 173,

chương XVI, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Sau đây gọi

tắt là BLHS năm 2015) - Là một tội phạm cụ thể, tội TCTS trước hết có các dấu

hiệu của tội phạm nói chung đã được ghi nhận ở khoản 1 Điều 8 BLHS năm

2015. Theo đó, tội TCTS được hiểu khái quát là hành vi nguy hiểm cho xã hội

do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật hình sự qui định

thực hiện một cách cố ý xâm hại đến quan hệ sở hữu được BLHS quy định.

Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có chủ. Như

các tội phạm khác, tội TCTS cũng có các đặc điểm là hành vi có tính nguy hiểm

đáng kể cho xã hội, có tính trái pháp luật hình sự, có tính có lỗi và có tính phải

chịu hình phạt [47, tr.50-59].

Tội phạm là một thể thống nhất giữa các yếu tố chủ quan và khách quan

không tách rời nhau bao gồm khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội

phạm, chủ thể của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm. Do đó, đối với tội

TCTS cũng cần thiết phải nhận thức đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng cho bốn yếu

tố trên.

- Khách thể của tội trộm cắp tài sản

Tội TCTS đã xâm phạm đến quan hệ sở hữu về tài sản của Nhà nước, cơ

quan, tổ chức, doanh nghiệp hoặc cá nhân. Quan hệ sở hữu là khách thể của tội

8

TCTS. Đối tượng của quan hệ sở hữu là tài sản và đây cũng là đối tượng tác

động của hành vi TCTS.

Hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng cách lén lút chính là hành

vi nguy hiểm cho xã hội, gây thiệt hại về tài sản cho người bị trộm cắp.

Nếu sau khi chiếm đoạt tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt có hành vi

chống trả để giữ bằng được tài sản vừa chiếm đoạt được thì tội trộm cắp chuyển

hóa thành tội cướp tài sản.

- Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản

Hành vi khách quan của tội TCTS là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của

người khác khi tài sản đó đang có chủ quản lý. “Lén lút” chiếm đoạt tài sản trong

tội TCTS là hành vi của một người cố ý thực hiện một việc vụng trộm, giấu diếm

không để cho người khác biết nhằm chiếm đoạt tài sản, nó có đặc điểm khách

quan là “lén lút” và ý thức chủ quan của người phạm tội cũng là “lén lút”. Hành

vi chiếm đoạt được coi là “lén lút” nếu được thực hiện bằng hình thức có khả

năng không cho phép chủ tài sản biết khi hành vi này xảy ra [46, tr.134].

- Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản

Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của nó bao gồm lỗi, mục đích

phạm tội, động cơ phạm tội [47, tr.134]. Lỗi của người phạm tội TCTS là lỗi cố ý

trực tiếp nhằm mục đích vụ lợi. Người phạm tội khi thực hiện hành vi nhận thức

được hành vi đó nguy hiểm cho xã hội, trái với quy định của pháp luật, thấy được

hậu quả tất yếu sẽ xảy ra và mong muốn hậu quả xảy ra. Chiếm đoạt được tài sản

là mục đích mà người phạm tội hướng đến.

- Chủ thể của tội trộm cắp tài sản

Theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay, tội TCTS có chủ thể là thể

nhân, con người cụ thể. Chủ thể đó phải đủ độ tuổi luật hình sự quy định để có

thể chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm

2017) và phải có năng lực trách nhiệm hình sự (nhận thức qua Điều 13 BLHS

năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017). Chủ thể của tội TCTS theo quy định của

9

BLHS năm 2015 là chủ thể đủ những điều kiện đã khái quát như trên.

Trong quá trình điều tra, xét xử vụ án, nghiên cứu khái niệm và những yếu

tố cấu thành tội TCTS giúp xác định đúng tội danh, tránh được sự nhầm lẫn giữa

các tội danh, đúng pháp luật để từ đó có phương pháp phòng ngừa thích hợp và

đạt kết quả cao đối với tội này.

1.1.1.2. Tình hình tội trộm cắp tài sản dưới góc độ tội phạm học

Tình hình tội phạm (THTP) nói chung và tình hình tội TCTS nói riêng thể

hiện đặc điểm định lượng và định tính ở mỗi thời kỳ, mỗi vùng, lãnh thổ hành

chính nhất định, tình hình tội TCTS được thể hiện thông qua mức độ, cơ cấu,

động thái và tính chất của THTP.

Tình hình tội TCTS xảy ra ở địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, trong một thời

gian nhất định, thì tội phạm học nhìn nhận đó là một hiện tượng xã hội tiêu cực

phản ánh quy luật của sự phạm tội của tội TCTS thông qua những bản chất nhất

định. Vì vậy mà tội phạm học khách quan khẳng định quan điểm rằng “Tình

hình tội phạm là một hiện tượng xã hội, pháp lý - hình sự được thay đổi về mặt

lịch sử, mang tính giai cấp bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống) các tội phạm

thực hiện trong một xã hội (quốc gia) nhất định trong một thời gian nhất định”

[56, tr.61]. Khái niệm THTP hiện được xác định là một hiện tượng tâm - sinh lý -

xã hội tiêu cực, vừa mang tính lịch sử và lịch sử cụ thể, vừa mang tính pháp lý

hình sự với hạt nhân là tính giai cấp, được biểu hiện thông qua tổng thể các

hành vi phạm tội cùng với các chủ thể đã thực hiện các hành vi đó trong một

đơn vị thời gian và không gian nhất định [55, tr10].

Tình hình tội TCTS là một trường hợp cụ thể của THTP, vì vậy cũng có

những thuộc tính, dấu hiệu của THTP. Ngoài ra, tình hình tội TCTS trên địa bàn

tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn từ 2014 - 2018 cũng có những đặc điểm đặc thù

sẽ được làm rõ ở phần sau của luận văn.

1.1.1.3. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản

Tại Việt Nam hiện nay, các nhà nghiên cứu có hai quan điểm về phòng

10

ngừa THTP. Đối với quan điểm thứ nhất, phòng ngừa THTP bao gồm cả hoạt

động phòng và chống tội phạm. Về quan điểm thứ hai, phòng ngừa THTP chỉ

bao gồm hoạt động tác động và nguyên nhân và điều kiện của tội phạm nhằm

ngăn ngừa trước không cho tội phạm xảy ra. Theo quan điểm của GS.TS. Võ

Khánh Vinh thì: “Phòng ngừa THTP là hệ thống nhiều mức độ các biện pháp

mang tính chất Nhà nước - xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện

của tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa (làm yếu; hạn chế) chúng, bằng cách đó làm

giảm và dần dần loại bỏ THTP. Trong đấu tranh với THTP có hai phương

hướng liên kết chặt chẽ với nhau, đó là phòng ngừa và phát hiện điều tra, truy

tố, xét xử các tội phạm, đảm bảo người phạm tội phải chịu các hình phạt thích

đáng, tương xứng với hành vi phạm tội của mình và được giáo dục, cải tạo để

trở thành một công dân có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. Các

biện pháp pháp lý- hình sự của cuộc đấu tranh với THTP có vị trí, vai trò quan

trọng trong những trường hợp chuẩn bị và thực hiện các tội phạm cụ thể. Theo

nghĩa đen, phòng ngừa là việc khắc phục hoặc vô hiệu hóa các nguyên nhân và

điều kiện của các tội phạm trước khi nó gây ra việc thực hiện tội phạm” [55,

tr.154-155].

Các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và cá nhân công dân là chủ thể

chính của hoạt động phòng ngừa THTP [15, tr.10]. Phòng ngừa THTP là hoạt

động khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải có sự quan tâm thực hiện của tất cả các

cấp chính quyền một cách khoa học, chính xác mới có thể phát huy hiệu quả.

Trên cơ sở nhận thức chung về phòng ngừa THTP, và từ quan điểm của

các nhà nghiên cứu, có thể đưa ra khái niệm PNTH tội TCTS trên địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế như sau: “Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa

bàn tỉnh Thừa Thiên Huế là hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã

hội và mọi công dân thực hiện các biện pháp nhằm khắc phục, kìm hãm hay loại

trừ các nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn

tỉnh Thừa Thiên Huế và bằng cách đó làm giảm dần và kiểm soát được tình hình

11

trộm cắp tài sản, từng bước loại trừ tội trộm cắp tài sản ra khỏi đời sống xã hội

trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế”.

1.1.2. Ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản

Hiện nay, tình hình TCTS đang gây ra nhiều thiệt hại cho người dân và xã

hội, ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình TTATXH. Trong hoạt động đấu tranh

phòng chống tội phạm, nghiên cứu cácbiện pháp phòng ngừa tình hình tội TCTS

có ý nghĩa rất quan trọng.

Theo từ điển Tiếng Việt năm 2010 của Viện Ngôn ngữ học thì: “Ý nghĩa

là giá trị, tác dụng” [54, tr.117].

- Ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội TCTS trong luận văn này: Phòng

ngừa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội TCTS nói riêng đem lại nhiều

lợi ích trong thực tiễn như kinh tế, văn hóa xã hội... Trước hết, giúp hạn chế áp

dụng việc trừng phạt, thay vào đó làm tội phạm không có khả năng xảy ra, từ đó

không có người phạm tội, không phải chịu trách nhiệm hình sự, chịu hình phạt

của pháp luật... Điều đó cũng làm giảm nguy cơ trở thành nạn nhân của tội phạm

TCTS, làm cho nhiều người không phải chịu hậu quả của hành vi phạm tội

TCTS gây ra. Mặt khác, phòng ngừa THTP góp phần gìn giữa an ninh quốc gia,

TTATXH, bảo vệ tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người

dân. Bên cạnh đó, giúp tiết kiệm được kinh phí cho việc điều tra, xét xử, thi hành

án hàng năm, giảm tải áp lực công việc cho các cơ quan thực thi pháp luật.

1.2. Mục đích, các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài

sản

1.2.1. Mục đích phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản

Mục đích phòng ngừa THTP được đặt ra tùy thuộc vào điều kiện của mỗi

quốc gia, mỗi thời kỳ và theo từng giai đoạn cụ thể. Để chỉ đạo cuộc đấu tranh

phòng chống tội phạm ở nước ta hiện nay, Đảng đã ban hành Chỉ thị số

48/CT/TW ngày 22 tháng 10 năm 2010 “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

đối với công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới” trong đó

12

đã chỉ rõ: “Trong thời gian tới công tác phòng chống tội phạm phải kiềm chế,

làm giảm các loại tội phạm, nhất là các loại tội phạm nghiêm trọng, tội phạm

mới, tạo môi trường lành mạnh phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế

xã hội, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc và bình yên của nhân dân”. Từ nhận thức,

con người sinh ra vốn có bản chất hướng thiện và đều có thể trở thành công dân

có ích. Những việc làm sai trái xuất phát do những nguyên nhân và điều kiện xã

hội nhất định, vì vậy con người sẽ không bị sa vào thế giới của tội phạm nếu loại

trừ được những nguyên nhân và điều kiện xã hội đó. Không những vậy, người

phạm tội hoàn toàn có thể cải tạo, rèn luyện trở thành người lương thiện nếu

được sống trong môi trường có các điều kiện xã hội lành mạnh [28, tr.209].

Phòng ngừa THTP cụ thể, trong đó có phòng ngừa tình hình tội TCTS chỉ

là một trường hợp cụ thể của phòng ngừa THTP nói chung, vì vậy mục đích của

nó cũng được quy định bởi mục đích của “Cái chung”, nghĩa là ngăn chặn và

từng bước đẩy lùi tội phạm khỏi đời sống xã hội [6], gọi tắt là ngăn chặn và đẩy

lùi tội TCTS. Mục đích của phòng ngừa tình hình tội TCTS cũng được quy định

bởi mục đích chung của hoạt động PNTP nói chung tức là ngăn chặn, từng bước

hạn chế, làm giảm dần, tiến tới loại bỏ tội trộm cắp khỏi đời sống xã hội.

1.3. Các chủ thể thực hiện phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản

Cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể khác nhau trong hoạt

động phòng ngừa tình hình tội TCTS, do đây là hoạt động xã hội phức tạp. Chủ

thể phòng ngừa tình hình tội TCTS gồm có:

1.3.1. Chủ thể lãnh đạo hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp

tài sản

Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lư ợng lãnh đạo xã hội

nói chung và hoạt động PNTH tội TCTS nói riêng. Tại Khoản 1 Điều 4 Hiến

pháp: “Đảng Cộng sản Việt Nam…là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.

Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện qua việc định hướng phòng chống THTP nói

chung, trong đó có tội phạm về TCTS nói riêng ở từng giai đoạn, định hướng

13

hoàn thiện cơ cấu tổ chức các cơ quan đấu tranh phòng chống tội phạm thông

qua các nghị quyết của Đảng.

Ngoài ra, sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở vai trò nòng cốt, tiên

phong, gương mẫu của mỗi cán bộ Đảng viên trong hoạt động phòng ngừa tình

hình tội TCTS.

Trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, vai trò lãnh đạo của Đảng trong phòng,

chống tội phạm nói chung, tội TCTS nói riêng thuộc về Tỉnh ủy và cấp ủy của

các địa phương trong toàn tỉnh.

1.3.2. Chủ thể thực hiện hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp

tài sản

- Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp

Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp tiến hành PNTP ở các phương diện

sau:

Ban hành các đạo luật, nghị quyết, các văn bản pháp lý về phòng chống tội

phạm, hoàn thiện pháp luật nhằm làm cơ sở để các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã

hội, mỗi công dân làm tốt công tác phòng chống tội phạm:

Thành lập các ủy ban, các tiểu ban giúp cho Quốc hội soạn thảo ban hành

các văn bản pháp luật có liên quan đến công tác đấu tranh chống tội phạm nói

chung (ủy ban sửa đổi Hiến pháp, pháp luật, ủy ban quốc phòng an ninh).

Giám sát các cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội việc tuân thủ pháp luật

trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

Hội đồng nhân dân địa phương ra các Nghị quyết về phòng chống tội phạm

ở địa phương mình.

- Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp

Chức năng chính của Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp trong phòng

chống tội phạm là quản lý, điều hành, phối hợp, đảm bảo các điều kiện cần thiết,

thể hiện:

Cụ thể hoá các chỉ thị, nghị quyết của Đảng thành những văn bản pháp qui

14

nhằm hướng dẫn, tổ chức các lực lượng phòng chống tội phạm.

Sử dụng các cơ quan chuyên trách của Chính phủ tiến hành hoạt động

phòng chống tội phạm.

Phối hợp tiến hành đồng bộ hoạt động giữa các chủ thể khác nhau thuộc

cấp mình quản lý theo kế hoạch thống nhất.

Đảm bảo các điều kiện vật chất cho hoạt động phòng chống tội phạm: ngân

sách, phương tiện, điều kiện làm việc.

Tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát, phối hợp điều chỉnh hoạt động

phòng chống tội phạm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

Huy động sức mạnh của toàn xã hội tham gia hoạt động phòng chống tội

phạm thông qua nhiều biện pháp khác nhau.

Trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, vai trò quản lý, điều hành, phối hợp,

đảm bảo các điều kiện cần thiết trong PNTP nói chung, tội TCTS nói riêng thuộc

về UBND tỉnh Thừa Thiên Huế và UBND các cấp của tỉnh.

- Các cơ quan quản lý kinh tế, văn hoá, giáo dục, dịch vụ, du lịch trong

phạm vi tổ chức hoạt động chuyên môn

Phát hiện những nguyên nhân, điều kiện làm hình thành, phát triển tội

phạm thuộc lĩnh vực mình quản lý.

Ban hành các quy định thích hợp, kịp thời tham mưu cho Nhà nước ban

hành các chủ trương, chính sách đúng đắn nhằm góp phần khắc phục những

nguyên nhân, điều kiện của tội phạm.

Xây dựng và tổ chức thực hiện những phương án PNTP trong phạm vi cơ

quan có hiệu quả.

Phối hợp với chính quyền các cấp trong công tác phòng chống ở nội bộ,

ngoài xã hội theo chương trình chung của Chính phủ.

- Các tổ chức xã hội, các tổ chức quần chúng tự quản

Phối hợp, hỗ trợ soạn thảo, tham gia kế hoạch PNTP với chính quyền địa

phương và các cơ quan chuyên môn .

15

Nâng cao ý thức cảnh giác của hội viên thông qua công tác tuyên truyền

tính chất, thủ đoạn hoạt động của tội phạm.

Huy động các hội viên tham gia chương trình phòng chống tội phạm của

Chính phủ trong phạm vi địa phương, nội bộ hiệp hội của mình.

- Các cơ quan bảo vệ pháp luật: Công an, Toà án, Viện kiểm sát

Nghiên cứu, phân tích tình hình phạm tội, xác định chính xác những

nguyên nhân, điều kiện của tội phạm để từ đó đề xuất các giải pháp phòng chống

mang lại hiệu quả cao.

Trực tiếp tiến hành các hoạt động PNTP thông qua sử dụng các biện pháp

theo quy định của pháp luật và các biện pháp nghiệp vụ chuyên môn theo chức

năng của mình.

Lực lượng Công an nhân dân: Phải trực tiếp tổ chức, triển khai các hoạt

động PNTP theo hai hướng: Tham gia phòng ngừa xã hội (phòng ngừa chung) và

trực tiếp tiến hành toàn diện hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ, điều tra tội

phạm.

Viện kiểm sát: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với những hoạt động

điều tra, xét xử, thi hành án, giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân, giữ quyền

công tố.

Toà án các cấp: Phát hiện những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm để

Chính Phủ, các ngành, các cấp kịp thời có biện pháp ngăn chặn, loại trừ thông

qua hoạt động xét xử các vụ án theo đúng quy định của pháp luật; .

Bộ Tư pháp: Tham gia xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên

quan đến công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, khắc phục những mặt hạn

chế là nguyên nhân, điều kiện của tội phạm.

- Công dân

Tích cực tham gia PNTP, thực hiện các quyền lợi, nghĩa vụ của công dân

được quy định trong Hiến pháp, .

Chủ động phát hiện mọi hoạt động của tội phạm, thông báo cho các cơ

16

quan chức năng.

Tại cộng đồng dân cư, tham gia công tác giáo dục, cảm hoá các đối tượng

có liên quan đến hoạt động phạm .

Tham gia giúp đỡ các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội thực hiện tốt

chương trình “Quốc gia phòng chống tội phạm”. Thực hiện tốt các phong trào:

"Toàn dân tham gia phòng chống tội phạm, tố giác tội phạm, cảm hoá giáo dục

người phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư”, giúp đỡ người phạm tội tái

hòa nhập với cộng đồng khi trở về địa phương.

Trong gia đình mình, trực tiếp làm tốt công tác PNTP.

1.4. Nội dung và các biện pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài

sản

1.4.1. Nội dung phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản

Thứ nhất, phòng ngừa tình hình tình hình tội TCTS là việc áp dụng các

biện pháp mang tính xã hội tác động vào nguyên nhân và điều kiện của tội phạm

nhằm ngăn ngừa trước, không cho tội phạm xảy ra. Các biện pháp mang tính xã

hội gồm có: những biện pháp về kinh tế - xã hội, văn hóa xã hội, tâm lý xã

hội…nhằm bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần cho con người để từ đó không

thực hiện hành vi phạm tội do thiếu thốn vật chất hay do hạn chế trong nhận

thức. Các biện pháp phòng ngừa xã hội này có thể được xây dựng, triển khai bởi

nhiều chủ thể khác nhau. Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội TCTS chủ yếu

tác động đến các quan hệ xã hội, làm vô hiệu hóa khả năng làm phát sinh các tội

phạm về sở hữu. Ngoài ra, để phòng ngừa tình hình tội TCTS cần kết hợp giáo

dục, giúp đỡ các thành viên trong cộng đồng, hướng họ đến một cuộc sống đầy

đủ về vật chất và lành mạnh về tinh thần, từ đó ngăn ngừa hành vi phạm tội.

- Thứ hai, phòng ngừa tình hình tội TCTS còn là việc áp dụng các biện

pháp mang tính nhà nước (còn được gọi là biện pháp mang tính cưỡng chế nhà

nước, các biện pháp mang tính bắt buộc), kịp thời phát hiện, xử lý sau khi tội

phạm xảy ra nhằm tiếp tục PNTP. Các biện pháp này được các chủ thể là các cơ

17

quan tiến hành tố tụng thực hiện. Trong thực tiễn không phải lúc nào việc áp

dụng các biện pháp phòng ngừa xã hội cũng mang hiệu quả như mong muốn và

biểu hiện cụ thể là vẫn có tội phạm xảy ra. Vì vậy, trong trường hợp có loại tội

phạm xảy ra thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự là rất cần thiết. Khi áp dụng

trách nhiệm hình sự mà cụ thể là hình phạt thì sự tổn thất mà người phạm tội

phải gánh chịu sẽ lớn hơn so với những gì có được từ việc phạm tội và đây là

một cách thức nhằm kiểm soát tội phạm. Mặc dù hình phạt không phải là biện

pháp xử lý duy nhất đối với các tội phạm về sở hữu, tuy nhiên đây là biện pháp

cần thiết nhằm bảo đảm cho hiệu quả phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở

hữu.

1.4.2. Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản

1.4.2.1. Các biện pháp phòng ngừa tội phạm tiềm năng

Các biện pháp này được hiểu là những biện pháp kiểm soát xã hội, quản lý

xã hội đối với điều kiện tồn tại của hành vi phạm tội tiềm tàng, người phạm tội

tiềm tàng và nạn nhân tiềm tàng của tội phạm nhằm làm tê liệt quá trình chuẩn bị

và thực hiện tội phạm. Các biện pháp phòng ngừa tội phạm tiềm năng gồm có

các biện pháp sau:

- Biện pháp về chính trị:

Biện pháp chính trị là những biện pháp có tính chất chính trị - tư tưởng,

tác động chủ yếu đến lĩnh vực chính trị. Chính quyền địa phương cần thực hiện

có hiệu quả Chỉ thị số 48-CT/TW, Nghị quyết 37/2012/QH13 của Quốc hội,

Quyết định 623/QĐ-TTg và thực hiện nghiêm túc các kế hoạch phòng chống tội

phạm. Trong đó nâng cao vai trò, trách nhiệm của lãnh đạo đơn vị, của người

đảng viên, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Các biện

pháp chính trị về cơ bản vẫn phải tập trung vào phát huy sức mạnh tập thể của

các ban ngành, các tổ chức đoàn thể và đông đảo quần chúng nhân dân tham gia.

- Biện pháp về kinh tế - xã hội:

Các biện pháp về kinh tế tập trung vào công tác xóa đói, giảm nghèo,

18

nâng cao mức sống của người dân, tiến tới thu hẹp khoảng cách chênh lệch kinh

tế giữa các khu vực của địa phương. Kinh tế đảm bảo là cơ sở nền tảng cho xây

dựng và thực hiện các chính sách về an ninh quốc gia, TTATXH. Ngoài ra, cần

chú trọng thực hiện quyền con người, phát huy công bằng xã hội, tạo cơ hội kinh

doanh và việc làm cho nhân dân trên địa bàn.

Những bất ổn về kinh tế và công bằng xã hội có thể xem là những nguyên

nhân sâu xa của gây nên những bất ổn về tình hình an ninh, TTATXH. Tuy

nhiên việc thực hiện các giải pháp về kinh tế - xã hội cũng cần có những lộ trình

và kế hoạch cụ thể để đảm bảo sự đồng bộ và khoa học trong thu hẹp khoảng

cách phát triển giữa các vùng trên địa bàn tỉnh.

- Biện pháp về dân sự - xã hội:

Trong lĩnh vực xã hội, Hiến pháp 2013 đã xác định trách nhiệm của Nhà

nước cùng với toàn xă hội, bằng các nguồn lực kinh tế - tài chính, đầu tư phát

triển các lĩnh vực lao động, việc làm, y tế, phúc lợi và an sinh xã hội, khoa học,

công nghệ.

Đây là cơ sở để công dân bảo đảm có được thu nhập tối thiểu nhằm thoát

khỏi tình trạng nghèo đói khi không có việc làm hoặc không có thu nhập, và là

cơ sở để Nhà nước xây dựng hệ thống duy trì thu nhập do Nhà nước quản lý, bảo

đảm cho người dân được hưởng quyền về an sinh xã hội. Bảo đảm an sinh xã hội

góp phần duy trì sự ổn định, phát triển đất nước và hiện thực hóa các quyền xã

hội của mọi người dân. Đây là tiền đề quan trọng để tiến tới đẩy lùi THTP khỏi

đời sống xã hội.

- Biện pháp về văn hóa - giáo dục:

Đầu tư cho giáo dục được xem là đầu tư cho sự phát triển, cho tương lai

và là quốc sách hàng đầu. Tỉnh Thừa Thiên Huế quán triệt quan điểm chỉ đạo

của Đảng, dù còn nhiều khó khăn, nguồn vốn đầu tư cho giáo dục hạn hẹp,

nhưng với nỗ lực của toàn tỉnh, giáo dục đã đạt được nhiều thành tựu to lớn: thực

hiện giáo dục toàn dân, nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, bồi dưỡng nhân tài;

19

góp phần giáo dục ý thức công dân, phẩm chất chính trị, lý tưởng cách mạng cho

các thế hệ; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; các điều kiện đảm bảo chất

lượng giáo dục được tăng cường; chất lượng và hiệu quả giáo dục ở các cấp học,

trình độ đào tạo có tiến bộ; hợp tác quốc tế được mở rộng; lực lượng lao động

qua đào tạo tăng khá nhanh.

Về văn hóa, Điều 41, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: Mọi người có quyền

hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử

dụng các cơ sở văn hóa. Quy định này không những quán triệt tinh thần nhất

quán của Đảng xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh

nội sinh và động lực phát triển đất nước mà còn thấm nhuần sâu sắc lời dạy của

Bác Hồ: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Trên cơ sở đó, tỉnh Thừa Thiên

huế tập trung xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân

tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa tốt đẹp của dân tộc; phát triển văn học, nghệ thuật

nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của người dân; phát triển

các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân

dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tạo môi trường xây dựng

gia đình trên địa bàn tỉnh ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; hướng đến xây dựng con

người có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức

làm chủ, trách nhiệm công dân.

Như vậy, khi biện pháp văn hóa, giáo dục được thực hiện có hiệu quả sẽ

góp phần rất lớn trong việc đẩy lùi THTP nói chung, tội TCTS nói riêng.

- Biện pháp về công tác quản lý:

Các biện pháp về công tác quản lý nhằm mục đích phát huy quyền làm

chủ và giám sát của nhân dân vào công việc nhà nước, tăng cường vai trò, trách

nhiệm của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, cá nhân thực hiện công tác quản

lý. Cần có sự kiểm tra, đôn đốc thường xuyên việc thực hiện công tác này, qua

đó xử lý nghiêm các cán bộ vi phạm hoặc không thực hiện tốt chức trách, nhiệm

vụ của mình trong vai trò quản lý. Vai trò giám sát của nhân dân giữ vị trí rất

20

quan trọng trong giám sát việc thực hiện chức trách của cán bộ quản lý, đây là

một trong những cơ sở để xem xét đánh giá mức độ thực hiện công tác chuyên

môn của cơ quan và cán bộ quản lý.

Thứ nhất, nhóm biện pháp tác động vào hành vi phạm tội tiềm năng. Các

cơ quan chuyên trách, các tổ chức xã hội và toàn bộ người dân là chủ thể thực

hiện các biện pháp tác động vào quá trình chuẩn bị tội phạm, hành vi tiềm năng,

phương thức thực hiện tội phạm như: quản lý chặt chẽ các loại công cụ, phương

tiện có khả năng trở thành công cụ gây án, ngoài ra, người dân tích cực, cảnh

giác, chủ động và báo cơ quan chức năng khi phát hiện những đối tượng có biểu

hiện nghi vấn, có thể xảy ra tội phạm.

Thứ hai, nhóm biện pháp quản lý người phạm tội tiềm năng. Đây là nhóm

biện pháp cũng cần có sự tham gia tích cực của không chỉ các cơ quan chức

năng, các tổ chức xã hội mà còn của tất cả người dân. Người phạm tội tiềm năng

là những người thuộc nhóm có nguy cơ cao sẽ thực hiện hành vi phạm tội trộm

cắp trong thực tế. Nếu không được quản lý tốt thì khi gặp những điều kiện thuận

lợi như công việc, một số yếu tố trong cuộc sống thì những người này sẽ có khả

năng trở thành tội phạm, cụ thể như: người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp

hoặc nghề nghiệp không ổn định, những người đã từng có quá khứ phạm tội, có

hoàn cảnh khó khăn...do những đối tượng này có khả năng điều chỉnh, kiểm soát

hành vi cá nhân kém hơn người bình thường nên dễ bị sa ngã khi bị lôi kéo, kích

động, khi có những nhu cầu vượt quá khả năng đáp ứng của bản thân. Do vậy,

trong công tác PNTP nói chung, tội TCTS nói riêng, phải có biện pháp quản lý

những đối tượng này.

- Biện pháp pháp lý:

Khi hệ thống pháp luật hoàn thiện, đội ngũ cán bộ tư pháp, các cơ quan

trong lĩnh vực hoạt động tư pháp hoạt động có hiệu quả sẽ góp phần tạo lòng tin

cho nhân dân về tính minh bạch, đúng đắn của pháp luật, tạo nên niềm tin cho

nhân dân đối với việc xử lý những hành vi sai phạm, từ đó nhân dân an tâm tích

21

cực tham gia trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, dồng thời còn tạo

nên sự răn đe đối với những đối tượng có hành vi phạm tội. Biện pháp pháp lý

trong PNTP tiềm năng được tiến hành như sau:

+ Kiến nghị xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý

cho việc bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người và quyền công dân:

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội

ở nước ta và các Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII,

IX, X đều chỉ rõ: Nhà nước ta định ra các đạo luật quy định quyền con người,

quyền công dân, trong đó bên cạnh các luật về kinh tế, Nhà nước cần ưu tiên xây

dựng các luật về quyền công dân.

+ Tăng cường hiệu lực trong lĩnh vực tư pháp hình sự:

Cần thiết phải xây dựng được đội ngũ cán bộ tư pháp tận tâm, có trình độ

chuyên môn nghiệp vụ cao, hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình; bên cạnh đó có

cơ chế giám sát, chỉ đạo điều hành chặt chẽ từ phía Đảng, cơ quan nhà nước,

đoàn thể, nhân dân là rất cần thiết nhằm hoàn thiện kể về cơ cấu tổ chức.

Trước hết, tăng cường sự lãnh đạo của tỉnh ủy với cơ quan tư pháp. Bảo

đảm sự lãnh đạo của Đảng không phải là can thiệp vào hoạt động điều tra, truy

tố, xét xử, mà bảo đảm sự lãnh đạo chỉ đạo bằng đường lối, chủ trương lớn ở tầm

vĩ mô; về xây dựng tổ chức, bộ máy, về công tác cán bộ…

Tăng cường sự giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp đối với cơ quan

tư pháp; sự giám sát của đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính trị xã hội đối

với hoạt động tư pháp; bảo đảm sự tham gia trong lĩnh vực đấu tranh phát giác

tội phạm và tham gia hoạt động xét xử (cơ chế hội thẩm).

Trong hoạt động tư pháp cũng cần thiết phải nâng cao hơn nữa vai trò, vị

trí của luật sư. Luật sư phải thực sự là người đại diện cho thân chủ. Trong quá

trình tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ nhanh chóng làm

sáng tỏ bản chất thật sự của vụ án, tránh và giảm thiểu đến mức thấp nhất oan

22

sai, không vô tư, khách quan thông qua sự tham gia, vai trò của luật sư.

1.4.2.2. Các biện pháp ngăn chặn

a. Ngăn chặn tội phạm đang xảy ra

Biện pháp này được hiểu là: Kịp thời phát hiện nhằm chặn đứng hành vi

phạm tội TCTS đang diễn ra, không để cho nó gây thêm thiệt hại thông qua các

chủ thể chức năng hoặc được phát hiện bởi các chủ thể khác như các tổ chức,

đoàn thể, cơ quan quản lý hành chính nhà nước… và mọi cá nhân trong xã hội;

Chặn đứng quá trình lặp lại của hành vi phạm tội, không để cho tội phạm được

thực hiện nhiều lần. Các biện pháp ngăn chặn tội phạm đang xảy ra phải được

phát hiện sớm bởi lực lượng chức năng hoặc các các chủ thể khác để kịp thời tố

giác, tin báo nhằm xác minh, xử lý kịp thời. Cụ thể như sau: Ngăn chặn hành vi

phạm tội đang được thực hiện, tức là chặn đứng các hành vi phạm tội, hạn chế

đến mức thấp nhất thiệt hại về sức khỏe, tính mạng và tài sản của con người.

Đây là biện pháp ngăn chặn thể hiện sự phản ứng của xã hội tức thì đối với hành

vi phạm tội đang diễn ra. Chủ thể thực hiện ngăn chặn ở đây không chỉ là chủ thể

chuyên nghiệp như: Công an, lực lượng tuần tra, cơ quan, trực ban... mà còn có

chủ thể không chuyên nghiệp là mọi cá nhân trong xã hội. Trong các chủ thể này

thì lực lượng Công an đóng vai trò nòng cốt, ngoài ra để công tác này đạt hiệu

quả cao thì còn phải huy động sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân. Người dân

hỗ trợ thông qua việc tố giác tội phạm, báo tin kịp thời thông qua số điện thoại

trực ban công an tại địa phương, hoặc hơn nữa là số điện thoại đường dây nóng

của công an (113). Kịp thời khen thưởng, động viên đối với những cá nhân có

nhiều đóng góp, góp nhiều thông tin cho lực lượng chức năng, nhằm làm cho

người dân tham gia tích cực hơn nữa.

b. Ngăn chặn tái phạm tội

Khoản 1 Điều 53 BLHS năm 2015 quy định về tái phạm tội như sau: “Tái

phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi

phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng,

23

tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.” Những trường hợp sau đây được coi là

tái phạm nguy hiểm: Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc

biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm

tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; đã tái

phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.

Phòng ngừa tái phạm, tái phạm nguy hiểm nhằm ngăn chặn sự lặp lại của

hành vi phạm tội đối với những người đã chấp hành xong hình phạt, đã trở lại

với cộng đồng, xã hội hoặc đang được áp dụng các hình phạt án treo, cải tạo

không giam giữ. Theo đó, cần huy động sức mạnh của không chỉ các cơ quan

chức năng mà còn cả cộng đồng nhân dân, cụ thể:

- Thuyết phục, cảm hóa: Đây là mục tiêu chủ yếu, quan trọng nhất trong

ngăn chặn tái phạm, biện pháp này mang tính nhân văn sâu sắc. Biện pháp này

hướng đến loại bỏ những phẩm chất tâm lý tiêu cực ở người phạm tội, từ đó làm

nảy sinh, phát triển các phẩm chất tâm lý tích cực để đưa họ về với xã hội. Từ

đặc điểm, tính chất của người phạm tội, cho nên việc áp dụng biện pháp giáo

dục, thuyết phục, cảm hóa can phạm nhân được cán bộ quản giáo kết hợp với các

biện pháp nghiệp vụ khác để quản lý an toàn các đối tượng giam giữ. Cùng với

việc tăng cường các biện pháp giáo dục, cảm hóa can phạm nhân, cần thực hiện

đầy đủ các chế độ, chính sách, quyền, nghĩa vụ đối với can phạm nhân, không để

xảy ra trường hợp xâm phạm đến tính mạng, nhân phẩm, sức khoẻ, không để can

phạm nhân ốm đau, suy kiệt ở trong Trại.

- Giáo dục cải tạo: Theo quy định của hệ thống luật thực định hiện hành,

mục đích của hình phạt tù không chỉ là trừng trị người phạm tội mà còn giáo

dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội. Giáo dục phạm nhân là mảng

công tác bao gồm tổng thể các hoạt động từ tiếp nhận phạm nhân vào trại giam

đến tổ chức phân loại, thực hiện chế độ chính sách, giáo dục chính trị, pháp luật,

văn hóa, đạo đức, lối sống... Đây được coi là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp nhất

của các trại giam, bởi mục đích của nó là: Thay đổi nhận thức, tư tưởng, tình

24

cảm không đúng, hướng tới phục hồi và hoàn thiện nhân cách. Giáo dục một

người bình thường đã khó, giáo dục phạm nhân - những con người đã lầm lạc

trong tính cách, nhận thức - còn khó khăn gấp bội phần, do vậy trong cải tạo phải

chú ý nắm bắt những chuyển biến, tình cảm, tâm tư, nguyện vọng của người

phạm tội để có những biện pháp giáo dục, cải tạo thật tốt và có hiệu quả cao.

- Tái hòa nhập cộng đồng: Những người từng chấp hành án phạt tù sau khi

trở về với gia đình, với cộng đồng thường gặp không ít khó khăn trong quá trình

làm lại cuộc đời bởi phần lớn họ có trình độ văn hoá thấp, thuộc diện kinh tế khó

khăn, không có nghề nghiệp, việc làm ổn định. Các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền, các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện các biện pháp bảo đảm tái

hòa nhập cho người chấp hành xong án phạt tù cho đến khi họ được xóa án tích

25

theo quy định của BLHS và BLTTHS.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trong chương 1, tác giả đã khái quát, phân tích, luận giải những vấn đề lý

luận chung về khái niệm, ý nghĩa, mục đích, nguyên tắc, các loại và nội dung

biện pháp phòng ngừa tình hình tội TCTS; chủ thể phòng ngừa tình hình tội

TCTS. Phòng ngừa tình hình tội TCTS do thực tế quy định, tức là dựa trên các

nguyên nhân và điều kiện thực tế của THTP quy định, nghĩa là tình hình tội

TCTS là hiện tượng tiêu cực tồn tại khách quan, do những con người bình

thường, không phải bẩm sinh phạm tội gây ra.

Những nhận thức chung về phòng ngừa THTP chung và tình hình tội

phạm TCTS nói riêng là cơ sở để tác giả phân tích, làm rõ thực trạng tình hình

và công tác phòng ngừa tình hình ở địa bàn nghiên cứu.

Qua nghiên cứu một số nội dung về lý luận của phòng ngừa tình hình tội

TCTS, có thể phần nào thấy trong đấu tranh, phòng, chống các loại tội phạm, các

biện pháp phòng ngừa THTP nói chung và các biện pháp phòng ngừa tình hình

26

tội TCTS có ý nghĩa hết sức quan trọng.

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

GIAI ĐOẠN 2014 -2018

2.1. Thực trạng nhận thức về ý nghĩa, mục đích, các nguyên tắc, nội

dung phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa

Thiên Huế giai đoạn 2014 - 2018

Thực trạng nhận thức về ý nghĩa, mục đích, các nguyên tắc, nội dung

phòng ngừa tình hình tội TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2014

- 2018 được hiểu là thực trạng hiểu biết về tầm quan trọng của công tác phòng

ngừa THTP nói chung, tội TCTS nói riêng trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai

đoạn 2014 - 2018. Thực trạng: này được thể hiện như sau

Các chủ thể đã xây dựng và triển khai nhiều biện pháp PNTP như: Tỉnh

ủy, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã đề ra những kế hoạch, chủ trương, phong

trào để triển khai thực hiện Chỉ thị, Nghị quyết, Quyết định của Đảng và Nhà

nước như: Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 26/3/2008 của Bộ Chính trị về “tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình

hình mới”; Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 01/02/2011 của Ban Bí thư “tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ trong tình hình

mới”; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 của Ban Chấp hành TW Đảng

(khóa XI) về “chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Chỉ thị số 46-

CT/TW ngày 22/6/2015 của Bộ Chính trị khóa XI về “tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác đảm bảo ANTT trong tình hình mới”; Nghị quyết

63/2013/QH13 ngày 27/11/2013 của Quốc hội về tăng cường các biện pháp đấu

tranh phòng chống tội phạm,… Quyết định số 138/1998-QĐ/TTg của Thủ tướng

Chính phủ về phê duyệt Chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm giai đoạn

27

2016-2025 định hướng đến 2030...

Điển hình cho các văn bản chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh Thừa Thiên

Huế có thể kể đến Kế hoạch số 148/KH-UBND của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế

ngày 30 tháng 6 năm 2017 về thực hiện Chiến lược Quốc gia phòng, chống tội

phạm giai đoạn 2016 - 2025 và định hướng đến năm 2030; Chương trình phòng,

chống tội phạm quốc gia. Kế hoạch đã xác định quan điểm: “Phòng, chống tội

phạm là nhiệm vụ của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, các ban, ngành, cơ

quan, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của hệ

thống chính trị và nhân dân tích cực tham gia có hiệu quả công tác đấu tranh

phòng, chống tội phạm; đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, sự chủ

động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc các cấp, các tổ chức đoàn thể, quần chúng

nhân dân”. Kế hoạch này cũng chỉ rõ: “Công tác phòng, chống tội phạm ngày

càng được cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm, thường xuyên chỉ đạo; phong

trào toàn dân bảo vệ An ninh Tổ quốc ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả cao

hơn; lực lượng trực tiếp đấu tranh phòng chống tội phạm ngày càng được kiện

toàn, nâng cao phẩm chất chính trị, năng lực công tác... Chính vì vậy, tình hình

hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp luật được kiềm chế, kiểm soát, không

để hình thành các đường dây, tổ chức tội phạm có tính chất nguy hiểm, phức tạp,

tội phạm hoạt động mang kiểu “xã hội đen” trên địa bàn; kịp thời điều tra,

khám phá các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, các đối tượng

phạm tội với phương thức, thủ đoạn mới như lợi dụng mạng internet để phạm

tội, huy động tài chính dưới hình thức kinh doanh sàn vàng, bán hàng đa cấp để

chiếm đoạt tài sản; không để oan sai, bỏ lọt tội phạm. Những kết quả quan trọng

đó đã phục vụ đắc lực nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương”. Kế

hoạch cũng đề ra mục tiêu cụ thể đến năm 2020 là “đến năm 2020, giảm từ 3 -

5% tổng số vụ phạm tội hình sự so với năm 2016, nhất là tội phạm rất nghiêm

trọng, đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm ở các địa bàn trọng điểm; giảm từ 15% -

20% số vụ án do người chưa thành niên thực hiện và giảm từ 5 - 7% tội phạm

28

xâm hại trẻ em. Tỷ lệ điều tra, khám phá các loại tội phạm đạt từ 75% trở lên;

các tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng đạt 95% trở lên; tăng 5% - 10%

tỷ lệ khởi tố điều tra các vụ án về kinh tế, tham nhũng trên tổng số vụ việc được

phát hiện; tăng từ 5 - 10% số vụ phạm tội về ma túy được phát hiện, bắt giữ. Ít

nhất 50% số khu dân cư, xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, nhà

trường đạt tiêu chí “An toàn về an ninh, trật tự”; chuyển hóa thành công 60%

địa bàn được xác định là trọng điểm, phức tạp về trật tự, an toàn xã hội. Giảm tỷ

lệ tái phạm tội trong số người chấp hành xong án phạt tù xuống dưới 15%; tư

vấn, hỗ trợ tìm việc làm cho 100% người chấp hành xong án phạt tù...”.

Tuy nhiên nhận thức về ý nghĩa, mục đích, các nguyên tắc, nội dung

phòng ngừa tình hình tội TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế cũng còn

những hạn chế nhất định, hạn chế này do một số nguyên nhân chủ yếu:

- Trình độ chuyên môn về PNTP nói chung và phòng ngừa tình hình tội

TCTS trên địa bàn còn hạn chế, còn tập trung nhiều ở hoạt động phát hiện, xử lý

tội phạm, chưa nhận thức đúng đắn về sự cần thiết của phòng ngừa không để tội

phạm xảy ra, do chủ thể phòng ngừa chuyên trách hiện nay chủ yếu là các cơ

quan tiến hành tố tụng và tập trung vào hoạt động phát hiện, xử lý tội phạm; chủ

thể làm công tác tuyên truyền là Hội đồng phổ biến, giáo dục pháp luật không

phải là cơ quan chuyên trách, là hoạt động chung của nhiều cơ quan, trong đó cơ

quan tư pháp giữ vai trò chủ đạo nhưng hoạt động còn mang tính hình thức do

các cơ quan còn thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đó.

- Cơ sở vật chất đảm bảo cho việc nâng cao nhận thức PNTP còn hạn chế,

trong khi muốn nâng cao nhận thức về phòng ngừa tình hình tội TCTS cần có cơ

chế hình thành nhận thức đó.

- Hoạt động tuyên truyền được sử dụng chủ yếu nhằm nâng cao nhận thức

về phòng ngừa tình hình tội TCTS, tuy nhiên hoạt động này chưa được tiến hành

thường xuyên và chưa chủ động.

- Người dân còn nhiều khó khăn trong cuộc sống, phải vất vả mưu sinh

29

kiếm thu nhập cho gia đình, chưa có thời gian quan tâm đến hoạt động phòng

ngừa tình hình tội TCTS, chưa ý thức bảo vệ tài sản của bản thân và gia đình từ

đó ảnh hưởng đến nhận thức về PNTP.

2.2. Thực trạng áp dụng các giải pháp phòng ngừa tình hình tội trộm

cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2014 - 2018

2.2.1. Thực trạng triển khai các biện pháp ngăn chặn tội phạm trộm cắp

tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2014 - 2018

Lực lượng Công an tỉnh Thừa Thiên Huế có nhiều thành tích đóng góp

trong công tác PNTP nói chung và tội TCTS nói riêng. Trong phong trào toàn

dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, Công an nhân dân tỉnh đã làm tốt công tác nắm tình

hình, tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, cùng với các ban

ngành, đoàn thể, chính quyền địa phương tổ chức thực hiện tốt công tác phát

động phong trào.

Lực lượng Công an tỉnh Thừa Thiên Huế đã phối hợp chặt chẽ với các cơ

quan trong và ngoài ngành trong công tác đấu tranh, phòng chống các loại tội

phạm nói chung, TCTS nói riêng, như: Viện kiểm sát nhân dân (VKSND),

TAND, cơ quan quản lý giáo dục, khu công nghệ...trong quá trình điều tra, truy

tố và xét xử đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, xây dựng kế hoạch

phường ngừa tội phạm và tuyên truyền pháp luật.

Kết quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong hoạt động

chống tội TCTS giai đoạn 2014 - 2018 được thể hiện cụ thể thông qua tình hình

tội TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, cụ thể như sau:

2.2.1.1. Phần hiện của tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế giai đoạn từ 2014 - 2018

a. Mức độ tổng quan tuyệt đối của tình hình tội trộm cắp tài sản (Bảng 2.1

- phần phụ lục)

Mức độ tổng quan của tình hình tội TCTS cho ta thấy khái quát về mặt

lượng của tình hình tội TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2014 -

30

2018. Mức độ tổng quan có hai hình thức biểu hiện là tuyệt đối và tương đối dựa

trên tổng kết giai đoạn từ năm 2014 - 2018 .

Mức độ tổng quan tuyệt đối thể hiện ở Bảng 2.1 cho thấy, mức độ tổng

quan tuyệt đối của tình hình tội TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai

đoạn từ năm 2014 đến năm 2018 là 3.925 vụ án với 5.620 người phạm tội TCTS.

Trung bình mỗi năm có khoảng 785 vụ với khoảng 1.124 người phạm tội bị xét

xử sơ thẩm về tội TCTS. Như vậy, xét về mức độ tổng quan tuyệt đối tình hình

tội TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn từ năm 2014 - 2018 có sự

giao động nhẹ giữa các năm, có xu hướng tăng về số vụ và số bị cáo.

Số liệu này mặc dù đã góp phần quan trọng trong việc phản ánh THTP

nhưng chưa thể phác họa được toàn bộ tình hình tội phạm TCTS trên địa bàn

tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 2014 - 2018, do vậy để biết số liệu về số vụ và bị

cáo liên quan này là cao hay thấp trong tổng quan tuyệt đối của THTP nói chung

trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế cần phải có sự so sánh để tìm ra chỉ số khái

quát, được tính toán bằng cách mà tội phạm học Việt Nam đã chỉ ra là so sánh

mức độ tổng quan tuyệt đối của tình hình tội TCTS thực hiện từ năm 2014 đến

năm 2018 với mức độ tổng quan của THTP ở tỉnh Thừa Thiên Huế trong cùng

thời điểm nghiên cứu để giúp chúng ta có được sự đánh giá và cái nhìn đầy đủ

hơn về hiện trạng của tội phạm TCTS trên địa bàn trong thời gian nghiên cứu.

Bảng 2.2 - phần phụ lục sẽ cho ta thấy rõ tỷ lệ này.

Bảng số liệu 2.2 - phần phụ lục cho thấy tình hình tội TCTS qua các năm

như sau:

Năm 2014: Tổng số vụ án TCTS phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố và xét

xử là 773 vụ/3.925 bị cáo, tội phạm nói chung là 2.342 vụ/12.744 bị cáo, tội

TCTS chiếm tỉ lệ 33,0% vụ án với 29,1% bị cáo trong tổng số tội phạm hình sự.

Năm 2015: Tổng số vụ án TCTS phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố và xét

xử là 796 vụ/1150 bị cáo, tội phạm nói chung là 2460 vụ/4103 bị cáo, tội TCTS

chiếm tỷ lệ 32.4% vụ với 28,0 % bị cáo trong tổng số tội phạm nói chung. Số vụ

31

án TCTS năm 2015 so với năm 2014 tăng 23 vụ/19 bị cáo.

Năm 2016: Tổng số vụ án TCTS phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố và xét

xử là 807 vụ/1052 bị cáo, tội phạm nói chung là 2655 vụ/4511 bị cáo. Như vậy,

tội TCTS chiếm tỷ lệ 30.4% vụ và 23,3 % bị cáo trong tổng số tội phạm nói

chung. Số vụ án TCTS năm 2016 so với năm 2015 tăng 11 vụ, tuy nhiên số bị

cáo phạm tội TCTS năm 2016 có giảm 98 bị cáo so với năm 2015.

Năm 2017: Tổng số vụ án đã điều tra, khởi tố và xét xử về tội TCTS là

857 vụ/1254 bị cáo, tổng các tội phạm nói chung là 2801 vụ/4906 bị cáo. Tội

TCTS chiếm tỷ lệ 30,6% vụ và 25,6% bị cáo trong tổng số tội phạm nói chung.

Như vậy, so với năm 2016 thì số tội trộm cắp tăng 50 vụ/202 bị cáo.

Năm 2018: Tổng số vụ án nói chung là 2486 vụ/4015 bị cáo (giảm 315

vụ/891 bị cáo so với năm trước). Tội TCTS là 792 vụ/1033 bị cáo (giảm 65

vụ/221 bị cáo so với năm 2017). Tội TCTS mặc dù số vụ án/bị cáo đã giảm so

với năm trước nhưng vẫn chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong tổng số tội phạm nói

chung (31,9%).

Số liệu cho chúng ta thấy trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, trong 5 năm

đã thụ lý và giải quyết 3.925 vụ, 5.620 bị cáo phạm tội TCTS, chiếm 30,8% về

số vụ và 26,2,9 % số bị cáo, trung bình mỗi năm có khoảng 785 vụ với 1124 bị

cáo bị xét xử về tội TCTS, đây là tỷ lệ tội phạm TCTS trong THTP ở tỉnh Thừa

Thiên Huế, cái giữ vai trò chỉ số khái quát của THTP.

b. Mức độ tổng quan tình hình trộm cắp tài sản và các tội xâm phạm sở

hữu trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 2014 đến năm 2018 (Bảng 2.3 -

phần phụ lục)

Bảng 2.3 cho thấy số vụ TCTS chiếm tỷ lệ ngày càng tăng cao so với các

tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn qua các năm từ năm 2014 đến 2018. Năm

2014 chiếm 62%, năm 2018 lên 64% (tăng 2%).

Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và số liệu thống kê ở trên, có thể rút ra kết

luận về nguyên nhân, điều kiện và công tác đấu tranh phòng ngừa THTP như

32

sau:

- Số lượng vụ án và bị cáo phạm tội TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên

Huế được phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử trong 5 năm chiếm tỷ lệ cao trong

tổng số vụ án và tổng số bị cáo (chiếm 30,8% tổng số vụ và 26,2% tổng số bị

cáo) tội phạm nói chung và chiếm tỷ lệ khá cao (65% tổng số vụ và 62% tổng số

bị cáo) trong tổng số tội phạm xâm phạm sở hữu.

- Số lượng tội phạm hình sự nói chung và số lượng tội TCTS được điều

tra, truy tố và xét xử trong 5 năm qua nói riêng có chiều hướng gia tăng, diễn

biến phức tạp. Nếu lấy năm 2014 làm gốc so với số liệu năm 2018 thì số vụ án

vẫn tăng 19 vụ. Cụ thể tăng, giảm các năm như sau: năm 2015 tăng hơn năm

2014 là 23 vụ án; năm 2016 tăng hơn năm 2015 là 11 vụ án; năm 2017 tăng hơn

năm 2016 là 50 vụ án; năm 2018 giảm hơn năm 2017 là 65 vụ án, cho thấy các

biện pháp phòng ngừa cũng như nhận thức về tội phạm này ngày càng quan tâm

và thực hiện có hiệu quả hơn.

Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) của nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định 13 Điều luật tương ứng với 13 tội

trong phần các tội xâm phạm sở hữu, trong đó quy định tội TCTS chỉ trong một

điều luật (Điều 173). Nhưng so với các tội phạm xâm phạm sở hữu khác thì tội

phạm TCTS đã xét xử ở Thừa Thiên Huế chiếm hơn 60% cả về số vụ và số

người phạm tội xâm phạm sở hữu.

c. Động thái của tình hình tội trộm cắp tài sản xảy ra trên địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018

- So sánh định gốc (Bảng 2.4 - phần phụ lục)

So sánh định gốc được thực hiện theo từng năm và ba năm liên tiếp để

thấy được sự vận động của tình hình tội pham trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

gia đoạn 2014 - 2018.

Kết quả của cách so sánh này được thể hiện ở Bảng 2.4, thấy tình xu

hướng gia tăng của tình hình tội TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế trong

33

giai đoạn 2014 - 2018. Sự gia tăng dù không cao nhưng qua sự vận động có thể

thấy t́nh h́ nh tội phạm thuộc nhóm tội vẫn diễn ra rất phức tạp trên địa bàn. Lý

do gia tăng cả về số vụ và số người phạm tội có nguyên nhân liên quan đến đặc

điểm địa lý, dân cư, lịch sử phát triển, hoạt động kinh tế của tỉnhThừa Thiên

Huế, đây là tỉnh có tiềm năng phát triển du lịch, hàng năm số thu hút lượng

khách du lịch trong nước và quốc tế đến địa phương rất lớn tham quan các di tích

lịch sử, các lễ hội, sự kiện như festival ..., ngoài ra, hiện nay chính quyền tỉnh

đang đẩy nhanh tốc độ quy hoạch đô thị, mở rộng phát triển cơ sở hạ tầng, các

khu công nghiệp và kinh tế được hình thành, tạo nên những thay đổi cơ bản diện

mạo của tỉnh nhà.

Điều này dẫn đến sự thay đổi nơi sinh sống, làm việc...của một bộ phận

không nhỏ dân cư, cộng thêm với có sự biến động, số lượng người ngoài tỉnh đến

làm việc, học tập, lao động ngày càng tăng, tạo áp lực về chỗ ở, tạo nhiều khó

khăn cho công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự tại địa phương.

- So sánh liên kế (Bảng số liệu 2.5 - phần phụ lục)

Phương pháp giúp làm rõ tỷ lệ tăng, giảm hàng năm của tình hình tội

TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Kết quả so sánh bằng phương pháp liên

kế năm cho thấy xu hướng tình hình tội TCTS mặc dù có tăng có giảm nhưng xu

hướng gia tăng chủ đạo cả về số vụ và bị cáo trong tổng số vụ. Sự gia tăng này

cũng phù hợp với lý giải ở phương pháp so sánh định gốc trước đó.

Thông qua hai phương pháp so sánh định gốc và so sánh liên kế, ta có thể

thấy rõ động thái của tình hình tội TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai

đoạn 2014 - 2018 có diễn biến phức tạp theo từng năm. Nếu lấy năm 2014 là

năm định gốc để so sánh thì động thái của tình hình tội TCTS đã diễn ra theo xu

hướng năm tăng năm giảm, nhưng xét năm 2014 với năm 2015, 2016, 2017,

2018 thì vẫn có sự gia tăng về số vụ và số bị cáo.

d. Cơ cấu của tình hình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa

Thiên Huế trong giai đoạn từ năm 2014 - 2018.

34

- Cơ cấu theo phương thức, thủ đoạn phạm tội (Bảng 2.6 - phần phụ lục)

Phương thức, thủ đoạn thực hiện tội TCTS được hiểu là cách thức,

phương pháp mà người thực hiện hành vi phạm tội hành động theo hướng nhằm

chuyển những thiệt hại của người khác thành những lợi ích cho mình, ở đây là

tài sản.

Từ 200 bản án hình sự sơ thẩm, tác giả đã thống kê phương thức, thủ đoạn

phạm tội như sau:

Bảng thống kê cho thấy, phương thức, thủ đoạn thường được các đối

tượng phạm tội TCTS sử dụng là lợi dụng sơ hở trong quản lý của chủ tài sản,

với 110 vụ, chiếm 55%; tiếp đến là 42 vụ sử dụng công cụ cạy phá để đột nhập

vào nhà, chiếm 21%. Ngoài ra, các phương thức, thủ đoạn khác cũng được người

phạm tội sử dụng là lợi dụng chỗ đông người, chen lấn, xô đẩy móc túi..

- Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản theo loại và mức hình phạt đã được áp

dụng (Bảng 2.7 - phần phụ lục)

Theo bảng thống kê cho thấy: Trong tổng số 5.620 bị cáo đã bị xét xử về

tội TCTS, phần lớn các bị cáo đều bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn là 5.529

chiếm 98,38 %, đối với hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ có 91 bị cáo, chiếm

1,62% .

Trong số 5.620 bị cáo bị xử phạt tù, có: 3.007 bị cáo bị xử phạt tù từ 3

năm trở xuống, chiếm đa số 53,51%. Chiếm tỷ lệ thứ hai là số bị cáo phạm tội

TCTS bị áp dụng mức hình phạt tù từ dưới 3 năm nhưng cho hưởng án treo

1.401 bị cáo, chiếm 24,93%, số bị cáo được áp dụng hình phạt tù trên 3 năm đến

7 năm cũng chiếm tỷ lệ lớn với 976 bị cáo, chiếm 1,37% số bị cáo bị xét xử về

tội TCTS trong năm năm qua, số bị cáo được áp dụng hình phạt tù trên 15 năm

đến 20 năm chiếm tỷ lệ thấp nhất với 17 bị cáo, chiếm 0,30% và không có hình

phạt tử hình nào được áp dụng. Như vậy về cơ cấu hình phạt đã áp dụng phù hợp

với tội TCTS.

- Cơ cấu của tội TCTS theo loại tội phạm (Bảng 2.8 - phần phụ lục)

35

Trong 200 bản án hình sự sơ thẩm với 289 người phạm tội bị xét xử về tội

TCTS của TAND các cấp trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 2014 đến

2018 mà tác giả đã nghiên cứu, có thể thấy tội TCTS ở Thừa Thiên Huế tập

trung vào loại tội ít nghiêm trọng, theo khoản 1 Điều 173 BLHS, với 220 bị cáo,

chiếm 76,12%; tội nghiêm trọng theo khoản 2 Điều 173 BLHS có 60 bị cáo,

chiếm 20,76%, tội rất nghiêm trọng theo khoản 3 Điều 173 với 6 bị cáo, chiếm

2,08% và đặc biệt trọng có 3 bị cáo bị xét xử vào tội đặc biệt nghiêm trọng,

chiếm tỉ lệ 1,04%.

- Cơ cấu của tội TCTS theo hình thức phạm tội (Bảng 2.9 - phần phụ lục)

Nhìn vào bảng thống kê, ta thấy trên thực tế, tội TCTS ở Thừa Thiên Huế

chủ yếu được thực hiện dưới hình thức phạm tội riêng lẻ, chiếm đến 77%; hình

thức phạm tội đồng phạm chiếm 23%. Đa số các vụ án phạm tội theo hình thức

riêng lẻ, người phạm tội thường trộm những tài sản có giá trị tài sản không lớn.

So với các trường hợp phạm tội thông thường thì phạm tội dưới hình thức đồng

phạm nguy hiểm hơn nhiều từ phương thức, thủ đoạn phạm tội, đến việc che

giấu tội phạm cũng như để lại hậu quả xấu cho đời sống cộng đồng. Đồng phạm

thường có người giúp sức như canh gác, đứng che tầm nhìn của người có tài sản,

gây mất cảnh giác hay chặn đường, gây cản trở lực lượng truy đuổi để người

thực hiện hành vi TCTS lẩn trốn.

- Cơ cấu của tội TCTS theo địa điểm phạm tội (Bảng 2.10 - phần phụ lục)

Nghiên cứu địa bàn phạm tội của tội phạm TCTS theo địa giới hành

chính, ngoài ra, chúng ta còn có thể xem xét cơ cấu của tội phạm này theo địa

điểm phạm tội.

Trong số 200 vụ TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế được khảo sát có

89 vụ xảy ra ở nhà dân, chiếm tỷ lệ cao nhất 44,5%; 35 vụ xảy ra ở nơi khác (ví

dụ như ở quán internet, công trường, quán karaoke…), chiếm tỷ lệ 17,5%; 35 vụ

xảy ra ở nơi công cộng (như bệnh viện, tại chùa, ngoài chợ...), chiếm tỷ lệ

17,5%; 28 vụ xảy ra ở ngoài đường (ở bờ rừng, vỉa hè…), chiếm tỷ lệ 14% và 14

36

vụ xảy ra ở nhà trọ chiếm 7,0%.

- Cơ cấu của tội TCTS theo thời gian phạm tội (Bảng 2.11 - phần phụ lục)

Qua nghiên cứu 200 bản án hình sự sơ thẩm (HSST) về tội TCTS trên địa

bàn tỉnh thừa Thiên Huế cho thấy: Khoảng thời gian tội TCTS diễn ra nhiều nhất

là từ 12 – 18 giờ có 67 vụ, chiếm 33,5%. Đây là thời gian nghỉ trưa nên các đối

tượng lợi dụng sơ hở để trộm cắp, ngoài ra còn do các phương tiện xe máy, xe

đạp để ở vỉa hè không có người trông coi, hay là ở đền, chùa, miếu, chợ... tập

trung đông người dễ bị các đối tượng xấu lợi dụng sơ hở để trà trộn vào đám

đông lợi dụng sơ hở móc trộm ví tiền, điện thoại di động để trong túi quần, túi

áo, túi xách của bị hại. Tiếp đến là khoảng thời gian từ 0 - 6 giờ có 55 vụ, chiếm

27,5%, đây là thời điểm mọi người đã đi ngủ, trên các tuyến đường vắng người

qua lại, ngoài ra lực lượng tuần tra không thể tuần tra kiểm soát hết được tất cả

địa bàn, đây là điều thuận lợi để tội phạm TCTS hoạt động. Mặt khác, người

phạm tội chọn thời gian này do tâm lý cho rằng khó bị nhận dạng hơn so với các

thời điểm khác trong ngày và dễ tẩu thoát hơn. Mặt khác thời gian từ 18 - 24 giờ

cũng là khoảng thời gian người phạm tội hay lựa chọn để phạm tội, có 43 vụ,

chiếm 21,5%, thời ít xảy ra tội TCTS là từ khoảng 6 - 12 giờ với 35 vụ, chiếm

17,5%. Có thể nhận thấy, các vụ TCTS có thể xảy ra vào nhiều thời điểm khác

nhau trong ngày và không tuân theo bất cứ quy luật nào.

- Cơ cấu của tội TCTS theo tài sản bị chiếm đoạt (Bảng 2.12 - phần phụ

lục)

Thông qua số liệu kết quả khảo sát 200 bản án cho thấy cơ cấu của tội

TCTS theo tài sản bị chiếm đoạt trên cho thấy, các vụ phạm tội có tài sản bị

chiếm đoạt nhiều nhất là điện thoại, ví tiền với 79 vụ, chiếm 39,5%, đây là loại

tài sản nhỏ gọn, thông dụng đối với mọi người, đối tượng dễ dàng mang đi tẩu

tán, tiêu thụ; tiếp đến là xe máy với 47 vụ, chiếm 23,5%, là loại tàn sản có giá trị

cao, đối tượng sau khi lấy cắp cũng dễ dàng tẩu thoát, ngoài ra, dễ được tiêu thụ

ở các tiệm cầm đồ hơn; xe đạp với 21 vụ, chiếm 21%...

37

- Cơ cấu của tội TCTS theo công cụ, phương tiện phạm tội

Qua nghiên cứu 200 bản án hình sự sơ thẩm cho thấy, phần lớn các vụ

TCTS đều được người phạm tội sử dụng các công cụ, phương tiện để phạm tội,

có đến 121 vụ, chiếm tỷ lệ 60,5%. Công cụ, phương tiện được sử dụng chủ yếu

như là chìa khóa vạn năng, kìm cộng lực, dụng cụ phá khóa... Ngoài ra, cũng có

các đối tượng phạm tội chiếm tỷ lệ cao không sử dụng công cụ, phương tiện để

phạm tội, với 79 vụ, chiếm 39,5%.

- Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản theo động cơ phạm tội

Như vậy, nghiên cứu ngẫu nhiên 200 bản án hình sự với 289 bị cáo cho

thấy, động cơ của người phạm tội TCTS là để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của

cá nhân, có 141 người phạm tội (chiếm 48,8%); tiếp đến là các đối tượng trộm

cắp để có tiền mua ma túy với 69 người phạm tội (chiếm 23,8%), ngoài ra số

người trộm cắp để phục vụ mục đích khác, như là chơi game, uống rượu

bia...những mục đích có tính chất ăn chơi hưởng thụ, có 79 người (chiếm 27,3%)

- Cơ cấu của tội TCTS theo một số đặc điểm về nhân thân của người

phạm tội

Trong quá trình tiến hành công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, giáo

dục và cải tạo người phạm tội, vấn đề về nhân thân người phạm tội luôn được

các cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội hết sức quan tâm.

Dưới góc độ tội phạm học thì nhân thân người phạm tội được xem là một

trong những khách thể nghiên cứu cơ bản. Thông qua nghiên cứu đặc điểm nhân

nhân người phạm tội có thể tìm ra các yếu tố xúc tác hành vi phạm tội từ đó có

thể có các biện pháp phòng ngừa phù hợp.

Để làm rõ đặc điểm nhân thân người phạm tội TCTS trên địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế giai đoạn 2014 – 2018, tác giải phân tích cụ thể qua các bảng số

liệu sau đây:

+ Đặc điểm về giới tính và độ tuổi (Bảng 2.13 - phần phụ lục)

Theo số liệu thống kê chính thức của TAND tỉnh Thừa Thiên Huế, trong

38

tổng số 5.620 bị cáo bị xét xử về tội TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, có

đến 3.986 bị cáo là nam, chiếm 70,9%, còn nữ giới chỉ chiếm 29,1% với 1.634 bị

cáo. Đây cũng là một đặc điểm quan trọng cần làm rõ để tiến hành các hoạt động

phòng ngừa thích hợp.

Đặc điểm về độ tuổi liên quan đến đặc điểm về thể chất, tinh thần, hành vi

của người phạm tội trong mỗi giai đoạn nhất định. Mỗi lứa tuổi sẽ có những

nhận thức và hành vi tương ứng, nó liên quan trực tiếp đến hành vi, tính chất,

mức độ phạm tội.

Bảng số liệu cho thấy nhóm phạm tội có độ tuổi từ đủ 18 tuổi đến dưới 30

tuổi với 2.753 bị cáo, chiếm tỷ lệ cao nhất (49%) so với các nhóm tuổi khác. Ở

độ tuổi này, con người thường bắt đầu bước vào cuộc sống tự lập, có sự thay đổi

lớn về tâm, sinh lý, nhận thức, cũng là lứa tuổi thích mạo hiểm, khám phá và nhu

cầu cá nhân cao, dễ bị tác động bởi những mặt tiêu cực, mặt trái của xã hội, từ đó

dễ dẫn đến thực hiện hành vi lệch lạc, không phù hợp với chuẩn mực xã hội. Còn

đối với nhóm phạm tội có độ tuổi từ đủ 30 tuổi trở lên cũng chiếm tỷ lệ khá cao

là 41,2%, đây là độ tuổi đã có nhiều kinh nghiệm sống hơn những lứa tuổi trước

đó, tuy nhiên họ vẫn cần có những ham muốn để thỏa mãn cho nhu cầu của cá

nhân còn cao, đa số là những người phạm tội tái phạm, hoặc trước đó đã từng

thực hiện hành vi phạm tội TCTS nhưng chưa bị phát hiện. Tỷ lệ người chưa

thành niên phạm tội TCTS ở Thừa Thiên huế cũng chiếm tỷ lệ đáng kể, đây là

nhóm tuổi về nhận thức xã hội còn hạn chế, đặc điểm tâm sinh lý chưa phát triển

đầy đủ, hay đua đòi, dễ bị lôi kéo, kích động nên dễ thực hiện hành vi phạm tội.

+ Về trình độ học vấn, nghề nghiệp (Bảng 2.14 - phần phụ lục)

Trình độ học vấn liên quan đến nhận thức xã hội, pháp luật, ảnh hưởng rất

lớn đến nhân cách của con người, giúp con người có hành vi tương ứng trong các

mối quan hệ xã hội. Qua bảng số liệu 2.14 cho thấy, số tội phạm không biết chữ

chiếm tỷ lệ cao nhất, với 31,0%; trình độ học hết cấp I chiếm 19,1%; trình độ

học hết cấp II chiếm 18,2%; trình độ học hết cấp II chiếm 18,6%; và chiếm tỉ lệ

39

thấp nhất là trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học với 13,1%.

Qua nghiên cứu 200 bản án hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Thừa Thiên

Huế với 289 người phạm tội TCTS, cho thấy có 232 người không có nghề

nghiệp, sống bằng nghề tự do (chiếm hơn 80%); số người phạm tội có nghề

nghiệp nhưng đang trong tình trạng thất nghiệp có 37 người (chiếm gần 13%) và

số người phạm tội có nghề nghiệp chỉ chiếm 20 người (chiếm gần 7%).

Phần lớn những người có trình độ học vấn thấp không có công việc ổn

định hoặc thậm chí không có nghề nghiệp, đây cũng là một trong những nguyên

nhân dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, không phải cứ có trình độ

học vấn cao sẽ không thực hiện hành vi trộm cắp, nếu mà những người có trình

độ học vấn cao nhưng nhận biết pháp luật hạn chế, không được giáo dục kịp

thời và không có việc làm ổn định cũng là những đối tượng có nguy cơ phạm tội

cao.

+ Đặc điểm về tái phạm

Theo thống kê của TAND tỉnh Thừa Thiên Huế, trong số 5.620 người

phạm tội đối với tội TCTS có 3.8222 người phạm tội thuộc trường hợp phạm tội

lần đầu, chiếm tỷ lệ 68%, có 1.798 người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm,

tái phạm nguy hiểm”, chiếm tỷ lệ 32%. Điều này cho thấy tình trạng tái phạm

của tội TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế còn rát cao.

+ Đặc điểm về hoàn cảnh gia đình

Nghiên cứu 200 hồ sơ vụ án với 289 người phạm tội TCTS trên địa bàn

tỉnh Thừa Thiên Huế cho thấy phần nhiều nhiều người phạm tội có hoàn cảnh

gia đình phức tạp với 89 người (chiếm 30,8%) sống trong gia đình có cha mẹ đã

ly hôn hoặc đã chết; có 79 người (chiếm 27,3%) sống trong gia đình có người

thân không gương mẫu (gia đình đã có người phạm tội, gia đình có người mắc

các tệ nạn xã hội....); có 60 người (chiếm 20,7%) sống trong gia đình có phương

pháp giáo dục khắt khe, cứng nhắc; có 87 người (chiếm 30,1%) người sống trong

gia đình thiếu sự quan tâm; có 55 người (chiếm 19%) sống trong gia đình có cấu

40

trúc không hoàn hảo. Qua đó nhận thấy vai trò của giáo dục gia đình ảnh hưởng

lớn rất lớn đến con cái.

+ Đặc điểm về nơi cư trú, hộ khẩu thường trú:

Nghiên cứu 200 hồ sơ vụ án với 289 người phạm tội TCTS trên địa bàn

tỉnh Thừa Thiên Huế cho thấy có 116 người có hộ khẩu thường trú tại địa bàn

tỉnh Thừa Thiên Huế (chiếm 40,1%), có 173 người không có hộ khẩu thường trú

trên địa bàn tỉnh (chiếm 59,9%).

+ Cơ cấu theo tình huống trở thành nạn nhân của tội trộm cắp tài sản

(Bảng 2.15 - phần phụ lục)

Thông qua khảo sát 200 bản án HSST về tội TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa

Thiên Huế, tác giả khái quát được các tình huống sau: Tình huống đặc thù cơ

bản của tội phạm này là quên không khóa cửa nhà, tài sản với 83 vụ, chiếm

41,5%; đứng ở vị trí tiếp theo là tình huống bị cậy phá đột nhập nhà là 40 vụ,

chiếm tỷ lệ 20%; còn lại là các tình huống khác như bị phá khóa xe máy, móc

túi, tài sản không người trông giữ bị trộm cắp.

+ Cơ cấu theo địa bàn hoạt động:

Tội TCTS được thực hiện ở tất cả các địa bàn của tỉnh. Tuy nhiên tội

phạm này hoạt động và gây án phổ biến vẫn tập trung ở những địa bàn có mật độ

dân cư cao, kinh tế xã hội phát triển, có các khu công nghiệp như địa bàn thành

phố Huế, thị xã Hương Thủy, thị xã Hương Trà…Đây là những địa bàn có nhiều

điều kện để hình thành tội phạm như: có nhiều quan hệ xã hội phức tạp, nhu cầu

vật chất của con người cao hơn, khả năng kiểm soát của cộng đồng còn thiếu;

bên cạnh đó, công tác quản lý của các cơ quan chức năng chưa cao. Ở những địa

bàn vùng núi TCTS vẫn xảy ra nhưng số vụ và số người phạm tội còn ít về số

lượng và tính chất.

2.2.1.2. Phần ẩn của tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên

Huế thời gian từ năm 2014 - 2018

Có nhiều định nghĩa khác nhau về tội phạm ẩn, nhưng định nghĩa phản

41

ánh được bản chất của khái niệm đặt trong mối quan hệ với phần hiện, với

THTP, đó là định nghĩa của PGS.TS. Phạm Văn Tỉnh: “Là một trong hai phần

của tình hình tội phạm, tội phạm ẩn (hay phần ẩn của tình hình tội phạm) được

tạo nên bởi tổng thể các hành vi phạm tội đã xảy ra trong thực tế, song không

được phát hiện, không bị xử lý theo quy định của pháp luật hình sự hoặc không

có trong thống kê tội phạm”[22, tr113].

Thực tiễn cho thấy mỗi tội phạm, mỗi nhóm tội phạm cụ thể (trong đó có

tội TCTS) đều có khả năng ẩn, và độ ẩn, mức độ ẩn cao hay thấp của mỗi loại tội

không giống nhau. Sự khác nhau khả năng ẩn của tội phạm TCTS tùy thuộc vào

đặc điểm riêng biệt của từng loại tội phạm, lĩnh vực xảy ra phạm tội, căn cứ vào

tình hình kinh tế - xã hội, an ninh trật tự cũng như khả năng phát hiện, xử lý về

hình sự của các cơ quan bảo vệ pháp luật.

Số vụ và số bị cáo bị đưa ra xét xử về tội TCTS hỉ phản ánh phần nào tình

trạng thực tế của tội TCTS xảy ra. Nếu chỉ dựa trên các số liệu này thì có thể

thấy, số vụ trộm cắp chưa được phát hiện, xử lý về hình sự, tức là vẫn còn ẩn,

chiếm tỷ lệ từ 30% đến 35%. Thực tiễn cho thấy, có rất nhiều người là nạn nhân

của hành vi TCTS, nhưng vì những nguyên nhân khác nhau đã không khai báo

thông tin đến các cơ quan có thẩm quyền. Vì vậy, số lượng tội phạm ẩn trong tội

TCTS là một con số không nhỏ.

Tội phạm ẩn có thể được chia thành 3 loại sau đây:

- Thứ nhất, tội phạm ẩn khách quan: Gồm có những những tội phạm đã

xảy ra trong thực tế, nhưng các cơ quan có thẩm quyền phát hiện, xử lý tội phạm

không có thông tin về chúng.

- Thứ hai, tội phạm ẩn chủ quan: Là những tội phạm đã xảy ra trong thực

tế mà thông tin về chúng đã được cơ quan có thẩm quyền phát hiện, xử lí tội

phạm nắm được, nhưng vì nhiều lý do khác nhau, các tội phạm đó trong một thời

gian nhất định hoặc vĩnh viễn không bị xử lí hoặc không thể xử lí hoặc xử lí

không đúng quy định của pháp luật.

42

- Thứ ba, tội phạm ẩn thống kê là toàn bộ các tội danh mà bị cáo bị tòa án

xét xử trong một bản án hình sự nhưng do quy định của pháp luật về thống kê tội

phạm đã không thống kê đủ số tội danh đó nên bị loại ra ngoài con số thống kê.

Nguyên nhân của tội phạm ẩn khách quan, chủ quan và thống kê:

Thứ nhất, lý do ẩn đối với tội phạm ẩn khách quan: Từ việc nghiên cứu

các bản án hình sự sơ thẩm, tác giả cho rằng lý do ẩn:

Một là, lý do ẩn xuất phát từ chủ thể thực hiện hành vi phạm tội: Người

phạm tội luôn muốn che giấu hành vi của mình, không để cho nạn nhân biết; tận

dụng mọi khả năng, điều kiện có thể để che giấu hành vi phạm tội và tạo ra

những cản trở để tránh bị phát giác, phát hiện; Xuất phát từ nhân thân người

phạm tội, tuy họ được xếp vào loại lần đầu phạm tội nhưng họ có khả năng giấu

hành vi phạm tội của mình rất tinh vi, họ phạm tội liên tục trong một thời gian

dài mà không bị phát hiện.

Hai là, xuất phát từ phía người bị hại, người làm chứng: Khi người bị hại

không báo với cơ quan chức năng biết về tội phạm sẽ ảnh hưởng rất lớn đến mức

độ tội phạm ẩn. Vì tội phạm với tâm thế ngoan cố, che giấu tội phạm, vì thế số

vụ tự thú chiếm tỉ lệ không cao. Do đó, nếu như người bị hại và người làm chứng

không báo tin tội phạm cho cơ quan chức năng sẽ gây khó khăn cho công tác

điều tra, phát hiện.

Thứ hai, đối với tội phạm ẩn chủ quan: Từ kết quả nghiên cứu về lí luận

và thực tiễn, tác giả rút ra các lí do ẩn như sau:

Một là, các chủ thể có chức năng tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm đã tiếp nhận tố giác, tinh báo về tội phạm nhưng không tiến hành

các trình tự, thủ tục xử lí theo quy định.

Hai là, do trình độ, năng lực của cán bộ, công chức của các cơ quan tư

pháp hình sự còn hạn chế, yếu kém đã không điều tra ra người đã thực hiện hành

vi phạm tội hoặc điều tra ra người đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng không

xử lí, xử lí không đúng quy định, thiếu trách nhiệm với nhiệm vụ được giao, có

43

tiêu cực trong xử lí tội phạm.

Ba là, trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự tội phạm ẩn chỉ xuất hiện

trong các trường hợp sau: Cơ quan điều tra quyết định không khởi tố vụ án hình

sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự vì cho rằng không có căn

cứ để khởi tố vụ án hình sự nhưng theo quy định của pháp luật thì có căn cứ để

khởi tố vụ án hình sự; Cơ quan điều tra đã áp dụng mọi biện pháp để tìm bị can

nhưng vẫn không biết bị can đang ở đâu nên đã tạm đình chỉ điều tra theo đúng

quy định; Tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra không đúng quy định.

Bốn là, trong giai đoạn truy tố căn cứ vào hồ sơ, tài liệu, chứng cứ, Viện

kiểm sát có thể ra một trong các quyết định: Truy tố bị can trước Tòa án bằng

bản cáo trạng, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.

Tội phạm ẩn chỉ xảy ra trong trường hợp tạm đình chỉ vụ án, đình chỉ vụ án

không đúng quy định hoặc tạm đình chỉ vụ án đúng quy định nhưng vẫn được

xác định tội phạm ẩn vì bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu,

không biết đến khi nào sẽ tìm được bị can.

Năm là, trong giai đoạn xét xử, Tòa án căn cứ vào hồ sơ, tài liệu, chứng

cứ để ra một trong những quyết định: Đưa vụ án ra xét xử, trả hồ sơ để điều tra

bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Tội phạm ẩn chỉ xảy ra trong trường

hợp tạm đình chỉ vụ án, đình chỉ vụ án hoặc tuyên bị cáo không có tội không

đúng quy định của pháp luật; tạm đình chỉ vụ án đúng quy định nhưng vẫn được

xác định tội phạm ẩn vì không biết bị can, bị cáo đang ở đâu, không biết đến khi

nào tìm thấy được bị can, bị cáo. Hội đồng xét xử tại phiên tòa phát hiện được

tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra nhưng đã không ra quyết

định khởi tố hoặc không yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự.

Thứ ba, đối với tội phạm ẩn thống kê: Theo hướng dẫn thống kê tội phạm

mẫu 01A của TAND tối cao, tội phạm ẩn chỉ xảy ra trong các trường hợp: Một

là, trong vụ án chỉ có một bị cáo, nhưng bị cáo đó bị xử phạt về nhiều tội khác

nhau thì thống kê theo tội danh nặng nhất và có mức hình phạt cao nhất (so sánh

44

giữa các tội mà bị cáo bị xét xử). Hai là, trong một vụ án có nhiều bị cáo phạm

nhiều tội khác nhau thì thống kê theo tội danh của bị cáo đầu vụ. Như vậy, tội

phạm ẩn chỉ xảy ra do quy định của pháp luật về thống kê tội phạm đã không

thống kê đầy đủ số tội danh mà bị cáo đã bị xét xử trong các trường hợp nêu

trên.

Có thể thấy rằng, trong những số liệu phản ánh tình hình tội TCTS thì số

liệu phản ánh phần hiện nền tảng, nó phản ánh cơ cấu, mức độ, diễn biến, tính

chất của tội TCTS xảy ra, là cơ sở để xác định phần ẩn, giữa hai số liệu này có

mối quan hệ bù trừ lẫn nhau. Do vậy, nhận thức đầy đủ về THTP phải nhận thức

về cả phần hiện và phần ẩn của nó, từ đó có thể đưa ra được các giải pháp PNTP

hiệu quả.

2.2.1.3. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản trên

địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2014 - 2018

a. Những nguyên nhân và điều kiện khách quan thuộc môi trường sống

- Những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường gia đình

Con người sinh ra không bẩm sinh là người có xu hướng phạm tội, mà nó

khởi nguồn do sự thiếu sót trong quá trình phát triển nhân cách, mà chủ yếu do

môi trường, hoàn cảnh gia đình tạo nên. Gia đình là nơi quyết định nhân cách

gốc của con người, vì thế con người tốt hay trở thành tội phạm có nguyên nhân

xuất phát từ giáo dục của môi trường. Những sai lầm, thiếu sót từ phía gia đình

trong quản lý, giáo dục con cái thường mắc phải như sau:

+ Gia đình có người thân không gương mẫu về đạo đức, lối sống, xem

trọng giá trị vật chất, gia đình không hòa thuận, không tôn trọng lẫn nhau, một số

thành viên trong gia đình sống buông thả, sa đọa, rượu chè, cờ bạc, cha mẹ vi

phạm pháp luật…Các hành vi tiêu cực này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình

hình thành nhân cách của con người. (Theo thống kê từ 200 bản án hình sự sơ

thẩm TAND tỉnh Thừa Thiên Huế có 27,3% số người phạm tội TCTS ở Thừa

thiên Huế có người thân không gương mẫu)

45

+ Gia đình thiếu quan tâm đến việc quản lý, chăm sóc, giáo dục con cái.

Cha mẹ cho rằng đó là trách nhiệm của nhà trường, họ chỉ mải mê kiếm

tiền, do vậy không kịp uốn nắn hành vi sai trái của con em, vô tình làm con em

mình buồn chán, chây lười học tập, dễ bị lô kéo bởi những đối tượng xấu để

chúng đi vào con đường phạm tội. (Theo thống kê từ 200 bản án hình sự sơ thẩm

TAND tỉnh Thừa Thiên Huế, có 30,1% số người phạm tội TCTS ở Thừa thiên

Huế có gia đình thiếu quan tâm).

+ Phương pháp giáo dục của gia đình chưa đúng cách, có gia đình quá

nuông chiều hoặc quá cứng nhắc, khắc khe làm con cái sợ hãi, không gần gũi với

cha mẹ, tạo khó khăn cho quá trình hình thành nhân cách cho trẻ. (Theo thống kê

từ 200 bản án hình sự sơ thẩm TAND tỉnh Thừa Thiên Huế, có 20,7 % số người

phạm tội TCTS ở Thừa thiên Huế có gia đình có phương pháp giáo dục cứng

nhắc

+ Gia đình có cấu trúc không hoàn hảo như: mồ côi bố hoặc mẹ hay bố mẹ

li dị, không có người chăm sóc dạy dỗ con cái… Theo thống kê từ 200 bản án

hình sự sơ thẩm TAND tỉnh Thừa Thiên Huế có 19% số người phạm tội TCTS ở

Thừa thiên Huế có gia đình cấu trúc không hoàn hảo.

Con em trong gia đình không xác định được mục đích của việc học một

cách đúng đắn, các em bỏ học hoặc có những gia đình không có điều kiện để các

em có điều kiện theo học, phải sớm bươn chải để kiếm sống, tiếp xúc với mọi

mặt tốt xấu của đời sống xã hội, trong khi đó chưa hoàn thiện về tri thức và nhân

cách nên dễ dàng bị lôi kéo bởi những thói hư tật xấu, dẫn đến việc dễ dàng có

những hành vi phạm tội.

Để kéo giảm tội phạm TCTS, yếu tố gia đình cũng là rất quan trọng.

Không ai có thể quản lý, giáo dục con em sâu sát bằng chính phụ huynh, cha mẹ,

ông bà trong gia đình. Nếu gia đình có ý thức sống tốt, chăm lo, giáo dục tốt thì

nguy cơ phạm tội sẽ giảm đáng kể. Gia đình, những người có con em, người thân

có dấu hiệu phạm tội, hay đã phạm tội cần mạnh dạn phát giác, thông báo, phối

46

hợp với chính quyền, ngành chức năng trong công tác xử lý, khắc phục.

- Những yếu tố tiêu cực xuất phát từ phía môi trường nhà trường

Qua bảng số liệu 2.14 cho thấy, số tội phạm không biết chữ chiếm tỷ lệ

cao nhất, với 31,0%; trình độ học hết cấp I chiếm 19,1%; trình độ học hết cấp II

chiếm 18,2%; trình độ học hết cấp II chiếm 18,6%; và chiếm tỉ lệ thấp nhất là

trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học với 13,1%, qua số liệu cho thấy trình độ

học vấn của người phạm tội TCTS chủ yếu tập trung ở những người có trình độ

học vấn thấp.

Nhà trường là nơi đào tạo nhân lực tương lai của đất nước, bồi dưỡng

nhân tài, nâng cao kiến thức tự nhiên và xã hội, không những vậy đây còn là nơi

trau dồi hệ thống các quan điểm, nhân sinh quan, cách nhìn nhận, đánh giá đối

với mỗi sự vật, hiện tượng. Nếu trong trường học có chứa đựng những yếu tố

không lành mạnh thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành và phát triển

nhân cách lệch lạc của mỗi cá nhân, đến chất lượng quản lý, giáo dục.

Theo bảng số liệu 2.13 thì số người phạm tội TCTS dưới 16 tuổi chiếm

0,3%, từ 16 đến dưới 18 tuổi chiếm 9,5%... đây là lứa tuổi đến trường, lứa tuổi

đang ngồi trên ghế nhà trường, mặc dù chiếm tỷ lệ nhỏ so với các nhóm tuổi

khác nhưng cho thấy các em chưa được nhà trường, gia đình quan tâm đúng

mức, dù đang ngồi ghế nhà trường nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội về

TCTS.

Qua việc nghiên cứu các vụ án TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

cho thấy những yếu tố không lành mạnh ảnh hưởng đến quá trình phát triển nhân

cách, phẩm chất tiêu cực của cá nhân từ phía nhà trường gồm có những yếu tố

sau:

+ Hạn chế về công tác giáo dục pháp luật: Các môn học chủ yếu nặng về

lý thuyết, chưa chú trọng rèn luyện kỹ năng sống, cách nhìn nhận, đánh giá và kỹ

năng xử lý các tình huống trong thực tiễn, môn học giáo dục công dân, đạo đức

trong nhà trường chưa được quan tâm đúng mức, kỷ luật của nhà trường chưa

47

nghiêm, chưa xử lý triệt để những biểu hiện suy giảm đạo đức, các hành vi sai

phạm chưa được điều chỉnh kịp thời, từ đó dẫn đến những hiện tượng tiêu cực

trong nhà trường có nguy cơ lây lan. Các biện pháp xử lý kỷ luật đối với học

viên vi phạm còn bất cập, một số hình thức xử luật chưa hợp lý với hình thức

buộc thôi học, đẩy các em vào môi trường xã hội mà từ sớm mà từ bỏ trách

nhiệm tiếp tục giáo dục các em. Bị thất học, không có việc làm hoặc việc làm thu

nhập không ổn định đã ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện các hành vi phạm

tội.

+ Hạn chế từ phía giáo viên giảng dạy: Sự phát triển của nền kinh tế thị

trường, ảnh hưởng không nhỏ đến giáo viên trong giảng dạy, họ làm việc còn

mang tính trách nhiệm, chưa tâm huyết với và thiếu sự quan tâm đến học sinh,

sinh viên, dẫn đến chất lượng giáo dục giảm sút, kiến thức đến với học sinh

chưa hiệu quả. Một số địa phương, do điều kiện hoàn cảnh khó khăn, xuất hiện

tình trạng bỏ học đi kiếm việc làm ở các thành phố lớn, tuy nhiên nhà trường

chưa thực sự quan tâm, phối hợp với chính quyền địa phương động viên các em

đi học trở lại.

+ Hạn chế từ sự phối hợp giữa gia đình và Nhà trường trong quản lý giáo

dục: Mối quan hệ phối hợp giữa nhà trường và gia đình chưa chặt chẽ, thường

xuyên. Nhà trường và gia đình chưa phối hợp quản lý chặt chẽ tình hình học tập,

quỹ thời gian, và mỗi cấp học, bậc học, các em sẽ có những thay đổi nhất định về

tâm lý, vì vậy nếu buông lỏng quản lý sẽ không uốn nắn, định hướng kịp thời

cho các em, nhất là thời buổi bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay.

- Những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường nhóm (bạn bè; nơi làm việc)

Môi trường bạn bè, nơi làm việc chứa đựng không ít một số yếu tố tiêu

cực trong công tác, lối sống, giao tiếp…tác động lớn đến sự hình thành cũng như

phát triển nhân cách trái với chuẩn mực của xă hội. Trong một khoảng thời gian

rất lớn vào mỗi ngày, cá nhân thường tiếp xúc với môi trường này. Do vậy mà

môi trường này ảnh hưởng không nhỏ đến mỗi cá nhân. Đặc biệt là vai trò của

48

cơ quan, đoàn thể xã hội trong công tác giáo dục, quản lý ở một số nơi, hay vào

một khoảng thời gian nào đó chưa được kỷ cương, nề nếp. Thực tiễn cho thấy,

những người đồng phạm trong một vụ án cũng thường xoay quanh mối quan hệ

bạn bè hoặc đồng nghiệp. Theo thống kê của TAND tỉnh Thừa Thiên Huế, có

910 vụ có đồng phạm trong tổng số 3.925 vụ TCTS, chiếm tỷ lệ 23%.

- Những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường xã hội với nhà nước là chủ thể

quản lý

+ Do tác động của nền kinh tế thị trường: Trước sự chuyển đổi cơ cấu nền

kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ

nghĩa, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, mọi mặt của đời sống xã hội có nhiều

khởi sắc, đời sống của người dân được cải thiện. Tuy nhiên, quá trình này lại

cũng chứa đựng những mặt trái, một bộ phận người dân không kịp thích ứng với

cơ chế thị trường, không có vốn, bị phá sản, thất nghiệp đã trở nên nghèo đói,

thiếu ăn, thiếu mặc... Những người này, nếu không thích nghi và vượt lên được

trong cơ chế thị trường thì dễ bị lôi kéo theo các tệ nạn xã hội. Xu thế hội nhập

đòi hỏi sự mở rộng, giao lưu hợp tác giữa nước ta và các nước trên thế giới về

mặt kinh tế, văn hóa... sự phát triển của các khu công nghiệp, nhà máy... từ đó đã

kéo theo sự tác động từ bên ngoài vào nước ta như lối sống thực dụng, xem trọng

giá trị vậtchất, đặt đồng tiền lên trên các giá trị khác và nhất là sự xuất hiện các

loại văn hóa độc hại như: Phim ảnh, trò chơi kích động bạo lực, đồi trụy dễ dẫn

họ đến con đường phạm tội, trong đó có tội TCTS để có tiền tiêu xài. Theo thống

kê từ 200 bản án hình sự với 289 bị cáo cho thấy, động cơ của người phạm tội

TCTS là để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của cá nhân chiếm 48,8%; tiếp đến là

các đối tượng trộm cắp để có tiền mua ma túy chiếm 23,8%,.

+ Sự yếu kém của cơ quan có thẩm quyền trong việc phát hiện và ngăn

chặn tội phạm: tồn tại trong các khâu quản lý, từ xác định mục đích, áp dụng cơ

chế quản lý, ban hành quyết định quản lý và thực hiện quyết định quản lý.

Những tồn tại này của quá trình quản lý Nhà nước, chính quyền địa phương đã

49

tạo nên môi trường xã hội tiêu cực, tạo nên một số yếu tố làm phát sinh tội

TCTS. Ngoài ra, tâm lý của người bị hại bị ảnh hưởng do quá trình trình báo, tố

giác về tội TCTS, một số cán bộ có thái độ thờ ơ, không quan tâm, thiếu trách

nhiệm, gây phiền hà về thủ tục trình báo, hơn thế, có trường hợp các cơ quan đùn

đẩy trách nhiệm khi tiếp nhận tin tố giác tội phạm ở những địa điểm giáp ranh

giữa các địa bàn do bệnh thành tích.

- Những yếu tố tiêu cực khác

+ Sự thờ ơ của môi trường xã hội bên ngoài, các thành viên trong xã hội

thiếu sự quan tâm, chỉ biết sống cho bản thân, coi trọng chủ nghĩa cá nhân từ đó

tạo thuận lợi cho cái xấu, sự lộng hành của các đối tượng phạm tội. Trong đó có

nguyên nhân do nạn nhân, người làm chứng không tố giá hành vi phạm tội với

cơ quan có chức năng trong quá trình điều tra, do nhiều lý do khác nhau như tài

sản bị chiếm đoạt không lớn hay là tài sản chưa bị thiệt hại.

+ Nguyên nhân từ phía nạn nhân của tội TCTS. Có những lối sống và

thói quen của nạn nhân trở thành điều kiện để dẫn đến hành vi phạm tội. Những

thói quen, lối sống tưởng như vô hại song trong những không gian, thời gian

nhất định, kết hợp với động cơ, mục đích của đối tượng có hành vi phạm tội

chính là điều kiện thúc đẩy những người này thành nạn nhân của tội TCTS. Đó

là sự chủ quan, mất cảnh giác, thiếu cẩn trọng, thích khoe khoang, lơ là trong giữ

gìn, bảo quản tài sản hay là nạn nhân vì quá tự tin, dễ dãi với sự an toàn của bản

thân là những nguyên nhân chính là gia tăng nguy cơ trở thành nạn nhân của tội

TCTS. Ở bảng số liệu 2.15, qua khảo sát 200 bản án hình sự về tội TCTS cho

thấy có 83 vụ TCTS, chiếm 41,5% được thực hiện nạn nhân do quên khóa cửa

nhà, tài sản.

b. Những nguyên nhân và điều kiện thuộc nhân thân người phạm tội

Những đặc điểm về nhân thân người phạm tội đã được thể hiện qua

nghiên cứu về cơ cấu tình hình tội TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

Trong đó, từ nhân thân người phạm tội có thể thấy các yếu tố tiêu cực thuộc

50

nguyên nhân và điều kiện của tội phạm:

- Những tiêu cực thuộc ý thức cá nhân:

Cùng với sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội thì nhận thức của

người dân cũng tăng cao, trong đó có nhận thức về pháp luật. Tuy vậy, bên cạnh

đó ý thức pháp luật trong nhân dân vẫn còn nhiều hạn chế. Một bộ phận không

nhỏ nhân dân trình độ nhận thức pháp luật kém. Kiến thức pháp luật của nhân

dân, đặc biệt những vùng nông thôn, miền núi còn rất thấp, đặc biệt là ý thức tôn

trọng pháp luật, tôn trọng quyền sở hữu, tôn trọng tài sản của người khác. Hạn

chế về ý thức pháp luật của nhân dân xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Trước hết

do trình độ dân trí của một bộ phận nhân dân còn hạn chế, con người ở các bậc

học khác nhau thì nhận thức và hiểu biết pháp luật cũng có sự khác biệt. Ngoài

ra, công tác tuyên truyền pháp luật trong quần chúng chưa toàn diện, chưa sâu

rộng và chưa hiệu quả.

Thói quen và lối sống lệch lạc: Trong đời sống xã hội vẫn còn không ít

người chưa có thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, xem

thường pháp luật, coi pháp luật là sự trói buộc mình nên làm cho lối sống và

hành vi của họ trái với các giá trị chuẩn mực đạo đức của xã hội. Những đối

tượng này bất chấp pháp luật để thực hiện các hành vi sai trái nhằm đạt được nhu

cầu cho bản thân, một số đối tượng xem hành vi TCTS là thú vui, thể hiện “đẳng

cấp” trong “thế giới ngầm”. Theo thống kê từ 200 bản án hình sự về tội TCTS

của TAND tỉnh Thừa Thiên Huế thì của TAND tỉnh Thừa Thiên Huế, có 27,3%

người phạm tội TCTS có những thói quen, sở thích lệch lạc như nghiện game

online, nghiện rượu, bia, nghiện ma túy, nghiện cờ bạc...

2.2.2. Thực trạng triển khai các biện pháp phòng ngừa tội phạm tiềm

năng

* Biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ

Biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ là biện pháp được thực hiện bởi lực

lượng Công an nhân dân, tiến hành tác động vào các điều kiện, các nguyên nhân

51

tội phạm, tác động đến những cá nhân có nhận thức, hành động lệch chuẩn, mục

đích nhằm ngăn ngừa tội phạm có thể xảy ra. Biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ

phòng chống tội TCTS được cơ quan công an tiến hành gồm:

- Công tác điều tra cơ bản nắm tình hình: Trong đó nòng cốt, lực lượng

chủ yếu là Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, Công an xã, phường, thị

trấn phối kết hợp với các lực lượng nghiệp vụ khác theo quy định. Qua đó đánh

giá được đặc điểm tình hình tội phạm một cách đầy đủ và chính xác nhất, góp

phần đưa ra những nhận đinh, dự báo và kiến nghị với các cơ quan chức năng

nhằm xóa bỏ dần hạn chế, những yếu tố là nguyên nhân, điều kiện của tội phạm,

tham mưu đưa ra giải pháp đấu tranh phù hợp không để xảy ra tội TCTS.

- Phối hợp với các cơ quan, chính quyền địa phương nhằm giáo dục, răn

đe những đối tượng có tiền án tiền sự.

- Tổ chức tiếp nhận, xác minh các thông tin, tài liệu, tin báo tố giác tội

phạm do các cơ quan, tổ chức, cá nhân cungcaaps theo quy định của pháp luật.

- Phối hợp với cơ quan chức năng thực hiện quản lý an ninh trật tự, quản

lý nhân khẩu, hộ khẩu tạm trú, lưu trú, tạm vắng, quản lý các hoạt động kinh

doanh, dịch vụ.

- Nghiên cứu đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước liên quan

đến công tác phòng ngừa tội phạm nói chung, tội TCTS nói riêng.

* Biện pháp về kinh tế - xã hội, dân sự - xã hội

Dựa trên những tiềm năng, lợi thế vốn có của mình, những năm qua, tỉnh

Thừa Thiên Huế đã triển khai nhiều kế hoạch, dự án nhằm phát triển kinh tế - xã

hội của vùng, với sự xuất hiện của nhiều khu công nghiệp, siêu thị, trung tâm

thương mại, phát triển mô hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh cá thể,

khai thác lợi thế về du lịch... Mặt khác, Thừa Thiên huế cũng đã hoàn thành

chương trình chính sách nhằm an sinh xã hội như giảm hộ nghèo, tăng hộ khá,

52

chất lượng sống của người dân ngày càng tăng cao, giải quyết được việc làm cho

một bộ phận dân cư...

Mặc dù tỉnh đã có nhiều chính sách chú trọng phát triển kinh tế, an sinh

xã hội tuy nhiên vẫn tồn tại những khó khăn về mặt kinh tế, đây là một trong

những nguyên nhân cơ bản dẫn tới THTP, trong đó có tình hình tội TCTS tăng

cao. Những hạn chế như là:

- Tình trạng thất nghiệp vẫn còn cao, tuy nhiên chính quyền vẫn chưa có

những biện pháp giải quyết thực sự hiệu quả. Qua nghiên cứu 200 bản án hình sự

sơ thẩm của TAND tỉnh Thừa Thiên Huế với 289 người phạm tội TCTS, cho

thấy có hơn 80% người không có nghề nghiệp, sống bằng nghề tự do; gần 13%

số người phạm tội có nghề nghiệp nhưng đang trong tình trạng thất nghiệp và gần

7% số người phạm tội có nghề nghiệp. Tình trạng thất nghiệp một phần do trình

độ học vấn của người dân chưa đáp ứng với nhu cầu công việc, cụ thể ở bảng số

liệu 2.14 về cơ cấu của tội TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn từ

năm 2014 - 2018 xét theo trình độ học vấn của người phạm tội cho nhận số người

phạm tội TCTS không biết chữ là nhiều nhất với 1.742 người, chiếm tỷ lệ 31%, và

thấp nhất là 736 người chiếm 13,1% có trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học.

Ngoài ra, tình hình kinh tế tại tỉnh có sự biến động, tuy nhiên chưa có biện pháp

thiết thực nào hạn chế tình trạng giải thể, phá sản của các doanh nghiệp và thực tế

này đã có ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng thất nghiệp hiện nay trên địa bàn.

- Số dân nhập cư ở tỉnh Thừa Thiên Huế liên tục tăng. Tuy nhiên, Công

tác quản lý đối với người nhập cư trên địa bàn tỉnh chưa thực sự hiệu qủa, đây

cũng là nguyên nhân của tình hình tội TCTS. Theo thống kê từ 200 bản án có

hiệu lực pháp luật của TAND tỉnh Thừa Thiên Huế thì với 289 bị cáo, có 59,9%

người phạm tội là người có nguồn gốc xuất thân, hộ khẩu thường trú từ các địa

phương khác. Mặt khác, những người từ vùng khác đến còn có thể trở thành nạn

nhân của các đối tượng phạm tội TCTS.

- Chưa có những dự báo về ảnh hưởng và biện pháp giải quyết những ảnh

53

hưởng của cơ quan chức năng về quá trình đô thị hóa. Quá trình đô thị hóa dẫn

đến việc chuyển đổi cơ cấu đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp,

trung tâm thương mại, địa điểm du lịch...trong khi đó chưa có chính sách ổn định

cuộc sống, giải quyết việc làm cho người dân ở những khu vực này, người dân

không còn đất để sản xuất, một lượng lớn dân cư, đặc biệt là dân cư đang trong

độ tuổi lao động không có việc làm và rất khó thích nghi với môi trường vừa

được đô thị hóa.

* Biện pháp về văn hóa - giáo dục

Tỉnh Thừa Thiên Huế luôn chú trọng đến công tác giáo dục đào tạo, nâng

cao trình độ, dạy nghề cho người lao động luôn được tỉnh Thừa Thiên Huế quan

tâm đầu tư nhằm giải quyết nhu cầu việc làm, tạo điều kiện nâng cao đời sống

vật chất, tinh thần của người dân, một yếu tố có vai trò rất quan trọng trong việc

PNTP. Tuy nhiên biện pháp về văn hóa - giáo dục nhằm ngăn chặn tội phạm

tiềm năng lại có những hạn chế do nhiều nguyên nhân:

- Nhận thức ở một bộ phận cán bộ quản lý về công tác quản lý nhà trường

và phương pháp giảng dạy còn chậm, chưa chú trọng đổi mới; cơ sở vật chất nhà

trường chưa đáp ứng nhu cầu dạy học; giữa nhà trường và gia đình và địa

phương học sinh chưa có mối liên hệ chặt chẽ; nội dung giáo dục chủ yếu là

cung cấp các kiến thức phổ thông, chưa chú trọng giáo dục về nhận thức pháp

luật; một bộ phận giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, từ đây đã ảnh

hưởng rất lớn đến chất lượng, sự tiếp thu của người học. Số liệu tại bảng 2.14 về

cơ cấu của tội TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn từ năm 2014 -

2018 xét theo trình độ học vấn của người phạm tội cho thấy trình độ học vấn của

người phạm tội TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế chủ yếu tập trung ở

những người có trình độ học vấn thấp, cụ thể là có đến 31% người phạm tội

không biết chữ, 19,1 % người phạm tội học hết cấp 1, có 12% người phạm tội

học hết cấp 2... Trình độ học vấn là tiền đề để có nghề nghiệp ổn định. Tình

trạng thất nghiệp, không có việc làm ổn định chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn

54

tới tình trạng phạm tội nói chung, tội TCTS nói rêng.

- Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật có một số hạn chế như: Nội

dung chưa cụ thể, chưa có trọng tâm, trọng điểm, chưa ứng dụng những phương

pháp tuyên truyền mới trong quá trình tuyên truyền, và ngoài ra, công tác này

chưa tiến hành thường xuyên, liên tục.

- Chương trình giáo dục pháp luật ở trường học tuy có nhưng còn dàn trải,

nặng về phổ biến các quy định của pháp luật, chưa chú trọng đến việc hướng học

sinh rèn luyện kỹ năng ứng xử, kỹ năng vận dụng pháp luật vào việc giải quyết

các vấn đề của thực tiễn cuộc sống, trình độ giáo viên giảng dạy chưa đáp ứng

yêu cầu về chuyên môn, các giáo viên đảm nhận công tác này đa số là giáo viên

giảng dạy môn giáo dục công dân, nên chưa đáp ứng về chuyên môn, kinh

nghiệm truyền đạt nội dung pháp luật về PNTP, vì vậy ảnh hướng lớn đến mục

đích của công tác giáo dục pháp luật ở nhà trường. Bảng số liệu thống kê 2.13 về

cơ cấu theo giới tính, độ tuổi của người phạm tội TCTS cho thấy có 0,3% người

phạm tội trộm cắp dưới 16 tuổi, 9,5% người phạm tội trộm cắp từ đủ 16 tuổi đến

18 tuổi, đây là lứa tuổi đến trường,con số này tuy không nhiều so với các nhóm

tuổi khác nhưng cho thấy một bộ phận học sinh hiện nay chưa được nhà trường,

gia đình quan tâm đúng mức, đang ngồi ghế nhà trường nhưng vẫn thực hiện

hành vi phạm tội về TCTS.

* Biện pháp về công tác quản lý

Các biện pháp tổ chức quản lý xã hội được thực hiện nhằm PNTP tiềm

năng về TCTS trên địa bàn bao gồm nhóm biện pháp tác động vào hành vi tiềm

năng tội phạm và nhóm biện pháp quản lý người phạm tội tiềm năng. Một số

hoạt động cụ thể đã được tiến hành như: cơ quan chức năng quản lý chặt chẽ các

loại công cụ, phương tiện có khả năng trở thành công cụ gây án; quản lý người

nghiện ma túy, không nghề nghiệp, có quá khứ phạm tội;... ngoài ra quần chúng

nhân dân cũng đã cùng các cơ quan chức năng tham gia vào những hoạt động

này. Mặc dù biện pháp về công tác quản lý có nhiều tác động đến kết quả PNTP

55

trộm cắp trên địa bàn tỉnh nhưng vẫn tồn tại những hạn chế như sau:

- Các chủ thể PNTP chưa có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên, nhất là

sự phối hợp giữa chủ thể chuyên trách và cá nhân, công dân. Mặc dù có sự tham

gia của người dân trong hoạt động PNTP nhưng số lượng vẫn còn ít, người dân

khi phát hiện đối tượng có biểu hiện nghi vấn nhưng chưa có động thái phù hợp

hoặc nạn nhân không tố giác tội phạm xảy ra. Một phần nguyên nhân là do người

dân chưa an tâm là được bảo vệ an toàn khi tham gia phòng, chống tội phạm khi

mà công tác của cơ quan chức năng chưa thực sự hiệu quả. Ngoài ra, các chủ thể

là cơ quan nhà nước tuy có sự phối hợp nhưng còn mang tính hình thức, với

những thủ tục rườm rà,mất thời gian nên chưa yêu cầu phòng, chống tội phạm.

Công tác quản lý các đối tượng có tiềm năng phạm tội như người nghiện

ma túy, người có tiền án tiền sự, nhưng còn một bộ phận người nghiện tái

nghiện, người sau cai nghiện chưa tạo điều kiện được tái hòa nhập cộng đồng,

chưa được sự quản lý đúng mức từ cơ quan công an, tổ chức đoàn thể tại địa

phương nên còn tình trạng lêu lỏng, thất nghiệp và tái phạm tội. Theo thống kê

của TAND tỉnh Thừa Thiên Huế thì trong số 2.095 người phạm tội đối với tội

TCTS có 1.458 người phạm tội thuộc trường hợp phạm tội lần đầu, chiếm tỷ lệ

69,5%, có 639 người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm”,

chiếm tỷ lệ 30,5%.

- Hoạt động quản lý của không chỉ các cơ quan chức năng mà còn của

người dân đối với những địa điểm thường xảy là nơi các đối tượng TCTS còn

chưa hiệu quả. Trong số 200 vụ TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế được

khảo sát có 89 vụ xảy ra ở nhà dân, chiếm tỷ lệ cao nhất 44,5%; 35 vụ xảy ra ở

nơi khác (ví dụ như ở quán internet, công trường, quán karaoke…), chiếm tỷ lệ

17,5%; 35 vụ xảy ra ở nơi công cộng (như bệnh viện, tại chùa, ngoài chợ...),

chiếm tỷ lệ 17,5%; 28 vụ xảy ra ở ngoài đường (ở bờ rừng, vỉa hè…), chiếm tỷ

lệ 14% và 14 vụ xảy ra ở nhà trọ chiếm 7,0%. Bên cạnh đó, việc quản lý của cơ

quan chức năng đối với các cơ sở kinh doanh có thể là nơi tiêu thụ tài sản do

56

phạm tội mà có chưa thực sự hiệu quả.

* Biện pháp pháp lý

Biện pháp pháp lý được tỉnh Thừa Thiên Huế triển khai thực hiện như:

kiến nghị xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc

bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người, quyền công dân: tăng cường bảo

vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Tuy nhiên việc áp dung biện

pháp này trong PNTP tiềm năng vẫn còn một số hạn chế như:

- Những quy định BLHS, BLTTHS, Luật Tổ chức VKSND, Luật Tổ chức

TAND, Luật Thi hành án hình sự, pháp luật về tổ chức cơ quan điều tra hình sự,

pháp luật chưa chú trọng phòng ngừa, mà chủ yếu còn mang nặng các biện pháp

xử lý. Cụ thể như trong BLHS 2015, tội TCTS được quy định tại điều 173, quy

định chủ yếu là về hình phạt đối với tội này.

- Các quy định của pháp luật thường xuyên cập nhật, thay đổi, tuy nhiên

các văn bản hướng dẫn chậm được triển khai, gây khó khăn, hạn chế trong thực

thi pháp luật, mỗi địa phương có những cách hiểu và thực hiện khác nhau dẫn

đến sự chồng chéo, không thống nhất. Ví dụ như: BLHS năm 2015 mặc dù đã

được thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2018, tuy nhiên qua tìm hiểu,

đối với quy định về tội TCTS vẫn tồn tại một số khó khăn, vướng mắc: Thứ

nhất, “Về cấu thành cơ bản của tội phạm: Trường hợp TCTS có giá trị dưới 2

triệu đồng nhưng “gây hậu quả nghiêm trọng” đã được bãi bỏ, được thay bằng

“gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”. Tuy nhiên Luật 2015

chưa quy định thế nào là “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã

hội”sẽ dẫn đến khó khăn trong việc hiểu và áp dụng,vì đây là tình tiết, hậu quả

mang tính phi vật chất, việc đánh giá, áp dụng nếu không được hướng dẫn cụ thể

sẽ có thể dẫn tới tùy nghi, phụ thuộc vào nhận thức của các cơ quan, người tiến

hành tố tụng cũng như phụ thuộc vào đặc trưng, điều kiện phát triển kinh tế của

từng vùng miền, địa phương khác nhau”; Thứ hai, “ về tình tiết định khung tăng

nặng “hành hung để tẩu thoát”: BLHS năm 2015 đã bỏ tình tiết định khung tăng

57

nặng “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng” và “gây hậu

quả đặc biệt nghiêm trọng” trong tội TCTS, tuy nhiên tình tiết “hành hung để tẩu

thoát” vẫn còn (quy định tại điểm đ, Khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015). Theo

quy định tại mục 6 Phần I Thông tư liên tịch số 02 thì khi áp dụng tình tiết “hành

hung để tẩu thoát” tại điểm đ khoản 2 Điều 138 BLHS: “Trường hợp, người

phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nếu bị

phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã có những hành vi chống

trả lại người bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ như đánh, chém, bắn, xô ngã…

nhằm tẩu thoát”là trường hợp “hành hung để tẩu thoát”; “nếu đã bị người bị hại

hoặc người khác giành lại, mà người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe doạ dùng

vũ lực ngay tức khắc tấn công người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt

cho được tài sản”, thì chuyển hóa từ tội TCTS thành tội cướp tài sản... Thông tư

liên tịch số 02 chưa quy định cụ thể thế nào là “bị phát hiện”.Vấn đề đặt ra trong

trường hợp người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản thì khoảng thời gian từ

khi chiếm đoạt được đến khi bị phát hiện, bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ hoặc bị

giành lại là bao lâu?, Trường hợp nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài

sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nếu bị phát hiện và “chưa bị bắt giữ” thì đã

có những hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực nhằm “không bị bắt

giữ”sau đó tẩu thoát thì có áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “hành hung để

tẩu thoát” hay không? Hậu quả của hành vi dùng vũ lực gây thiệt hại về sức

khỏe, tính mạng cho người phát hiện trong trường hợp này sẽ xử lý như thế nào?,

Trường hợp “nếu đã bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà người phạm

tội tiếp tục dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công người bị hại

hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản” thì theo hướng dẫn của

Thông tư liên tịch số 02 sẽ chuyển hóa từ tội TCTS thành tội cướp tài sản. [32,

58

tr.1].

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trong phạm vi chương 2 nhằm đánh giá“Thực trạng phòng ngừa tình hình

tội TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế”, tác giả đã trình bày những nội

dung về thực trạng nhận thức về ý nghĩa, mục đích, các nguyên tắc, nội dung

phòng ngừa tình hình tội TCTS thực trạng các giải pháp và áp dụng các giải

pháp phòng ngừa tình hình tội TCTS trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2014 - 2018.

Từ việc phân tích thực trạng nhận thức thông qua tình hình tội TCTS và

thực trạng nhận thức thông qua việc xác định nguyên nhân và điều kiện của tình

hình tội TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn từ năm 2014 - 2018,

tác giả đã làm rõ các đặc điểm cơ bản và đặc trưng của tình hình tội TCTS trên

địa bàn, về những kết quả đã đạt được và chỉ rõ những hạn chế, nguyên nhân

trong nhận thức về phòng ngừa tình hình tội TCTS, trong triển khai các biện

pháp ngăn chặn tội TCTS và triển khai các biện pháp PNTP tiềm năng.

Những hạn chế, nguyên nhân trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội

TCTS như đã phân tích là cơ sở cho việc đề ra các giải pháp để thực hiện tốt hoạt

59

động trong thời gian tới.

CHƯƠNG 3

CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI

TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

THỪA THIÊN HUẾ

3.1. Tăng cường nhận thức về ý nghĩa, mục đích, các nguyên tắc, nội

dung phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa

Thiên Huế

Để phòng ngừa THTP nói chung, tội TCTS nói riêng trên địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế thì trước hết cần nâng cao nhận thức của toàn xã hội về công

tác này, cụ thể như sau:

Thứ nhất, cần có nhận thức đúng đắn sự cần thiết của công tác phòng

ngừa không để tội phạm xảy ra. Hoạt động phòng ngừa tình hình tội TCTS gồm

có hoạt động phòng ngừa không để tội phạm xảy ra và phát hiện, xử lý sau khi

tội phạm đã xảy ra. Tuy nhiên, khi tội phạm đã xảy ra đã những gây hậu quả nhất

định cho nạn nhân và xã hội, mặc dù sau đó có phát hiện và xử lý kịp thời, trong

khi đó mục đích của PNTP là tiến tới một xã hội không còn tội phạm, PNTP

thực chất là bảo vệ con người (không để một người đi vào con đường phạm tội

và con người không thể trở thành nạn nhân của tội phạm), vì vậy khi thực hiện

các biện pháp phòng ngừa, cần ưu tiên cho các biện pháp ngăn ngừa trước.

Sử dụng hình thức, biện pháp tuyên truyền cho mọi cơ quan, tổ chức, công

dân nhận thức được chủ thể phòng ngừa THTP, không phải phải là trách nhiệm

của riêng cơ quan, đoàn thể là chủ thể mà của toàn xã hội. Cần giáo dục cách

hiểu về PNTP cho mọi đối tượng, tương ứng với trình độ, nhận thức của những

đối tượng này trong xã hội. Các hình thức, phương pháp, biện pháp có thể được

sử dụng trong công tác tuyên truyền giáo dục gồm có như: tuyên truyền thông

qua các phương tiện thông tin đại chúng; tổ chức các buổi nói chuyện, chiếu

60

phim; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật; tuyên truyền, cổ động triển lãm

ảnh nội dung tuyên truyền... mỗi hình thức, biện pháp sẽ có những ưu nhược

điểm riêng, cơ quan có chức năng cần căn cứ vào địa bàn, đối tượng cần tuyên

truyền để sử dụng, kết hợp phù hợp nhằm mang lại hiệu quả cao.

Thứ hai, như đã trình bày trong chương 1, chủ thể của PNTP gồm có các

cơ quan tổ chức, cá nhân, công dân và hoạt động PNTP cần được các chủ thể này

tiến hành thường xuyên, liên tục chứ không phải theo phong trào thì mới đạt

được hiệu quả cao. Vì vậy, công tác này cần có chủ thể PNTP chuyên trách, giữ

vai trò chủ đạo, là đầu mối xây dựng các chương trình PNTP, tuy nhiên hiện nay

vân còn chưa rõ ràng về vấn đề này. Do vậy, tỉnh Thừa Thiên Huế cần tận dụng

tối đa nguồn nhân lực trí thức có trình độ chuyên môn trên địa bàn để cung cấp,

lan tỏa nhận thức chính thống, khoa học về PNTP, định hướng cho người dân

trên địa bàn hiểu PNTP và tầm quan trọng của hoạt động này trong đời sống, đó

chính là lực lượng giảng viên, các nhà nghiên cứu về Tội phạm học.

Thứ ba, nâng cao nhận thức về sự cần thiết phải phòng ngừa tình hình các

tội TCTS đến các chủ thể phòng ngừa. Thông qua việc nâng cao trình độ chuyên

môn về PNTP cho các chủ thể phòng ngừa mang tính thường xuyên trên địa bàn

tỉnh như: Sở Tư pháp, Công an tỉnh VKSND tỉnh, TAND tỉnh và bồi dưỡng

chuyên môn, tập huấn các biện pháp PNTP cho cả các chủ thể không thường

xuyên trên địa bàn như: Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu Chiến Binh, Đoàn

Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Ngoài ra, thường xuyên tổ chức các buổi

sinh hoạt kết hợp với các biện pháp khác như thông qua phương tiện thông tin

đại chúng, các buổi sinh hoạt văn nghệ tại địa phương, phát tờ rơi tuyên truyền

nhằm nhận thức về PNTP phải thông suốt đến từng cá nhân, hộ gia đình, giúp họ

thấy được lợi ích của hoạt động phòng ngừa tình hình tội TCTS có ý nghĩa trước

hết đối với bản thân họ, sau đó là lợi ích chung của xã hội. Bên cạnh đó, cũng

cần chú trọng nâng cao nhận thức về phòng ngừa tình hình TCTS cho thế hệ trẻ,

sở giáo dục đào tạo kết hợp với sở Tư pháp triển khai các chương trình PNTP

61

trong các trường học.

Thứ tư, tăng cường cơ sở vật chất góp phần tạo điều kiện cho việc nâng

cao nhận thức PNTP. Trong công tác tuyên truyền về nhận thức ý nghĩa, mục

đích, các nguyên tắc, nội dung phòng ngừa tình hình tội TCTS cần sử dụng kết

hợp với các phương tiện thông tin đại chúng, tận dụng sự phát triển của khoa học

kỹ thuât, đặc biệt là cuộc Cách mạng khoa học kỹ thuật 4.0 nhằm nâng cao nhận

thức PNTP đến toàn xã hội.

Tăng cường nhận thức về ý nghĩa, mục đích, các nguyên tắc, nội dung

phòng ngừa tình hình tội TCTS là quá trình lâu dài. Các biện pháp được áp dụng

cần được sự nghiên cứu, đầu tư nghiêm túc bởi các chủ thể có năng lực, chuyên

môn cao và cần có sự đồng lòng chung của toàn xã hội.

3.2. Tăng cường phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa

bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

PNTP nói chung và tội phạm TCTS nói riêng trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên

Huế là hoạt động phức tạp, khó khăn cần có sự chung tay, đồng lòng của toàn xã

hội. Hoạt động này thủ tiêu những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng thời

loại bỏ các yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến quá trình hình thành phẩm chất cá

nhân tiêu cực và dần dần hạn chế, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm ra khỏi

thực tiễn thông qua việc sử dụng nhiều biện pháp khác nhau.

3.2.1. Tăng cường các biện pháp ngăn chặn tội trộm cắp tài sản trên địa

bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

3.2.1.1. Những biện pháp ngăn chặn tội phạm xảy ra

Thông qua việc sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp nhằm ngăn chặn, không

cho hành vi phạm tội có điều kiện thực hiện. Những biện pháp này thực hiện

được từ nhiều yếu tố:

- Thứ nhất, yếu tố người bị hại, nạn nhân: Nạn nhân của tội TCTS là

những cá nhân, tổ chức bị các hành vi phạm các tội xâm phạm sở hữu trực tiếp

xâm phạm gây thiệt hại về quyên sở hữu. Người bị hại, nạn nhân do chủ quan,

62

mất cảnh giác, không chủ động phòng ngừa, thực hiện hành vi không đúng mực

đã tạo những thuận lợi để các đối tượng có cơ hội để thực hiện tội phạm, đây là

do lỗi của nạn nhân, người bị hại. Vai trò của nạn nhân, người bị hại thì có hai

dạng là có lỗi và không có lỗi, ở đây ta xem xét ở khía cạnh nạn nhân, người bị

hại có lỗi. Vì vậy, người bị hại, nạn nhân phải tự giác trong quản lý tài sản của

mình.

Đối với cá nhân, Đối với chủ nhà, chủ cửa hàng, người đứng đầu các chi

nhánh ngân hàng, công ty, điểm thu phí... : Chú ý những phương thức thủ đoạn

mà đối tượng phạm tội thường sử dụng đối với nhóm đối tượng này, và hướng

dẫn cách đề phòng như: Tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức cảnh giác,làm

cho mọi người nhận biết được các dấu hiệu hoạt động của tội phạm; trang bị kỹ

năng PNTP để bảo vệ an toàn cho bản thân và gia đình; nêu cao ý thức, tinh thần

trách nhiệm công dân trong phòng, chống tội phạm. lắp đặt và thường xuyên

kiểm tra để đảm bảo hệ thống an ninh như: khóa, camera, mắt thần gắn cửa, hàng

rào, dây thép gai, vẫn hoạt động tốt, kịp thời khắc phục những sơ hở, thiếu sót

mà các đối tượng có thể lợi dụng để đột nhập; đảm bảo mọi thành viên trong gia

đình đều có số điện thoại của cơ quan Công an, Tổ trưởng tổ dân phố nơi sinh

sống và lực lượng bảo vệ, hoặc an ninh, bảo vệ các khu chung cư...

Các điểm tập trung tài sản với số lượng lớn như ngân hàng, điểm thu

phí..., cần chủ động phối hợp với lực lượng Công an cơ sở lắp đặt camera an

ninh, hoặc kênh liên lạc riêng kết nối trực tiếp giữa các địa điểm với trực ban

Công an xã, phường, thị trấn để theo dõi, kịp thời thông tin, xử lý các vụ TCTS.

Đối với những người được giao trách nhiệm bảo vệ, trông coi, quản lý tài sản tại

các khu chung cư, cửa hàng, ngân hàng, cần kiểm soát chặt chẽ những người lạ

mặt, hoặc đối tượng có dấu hiệu nghi vấn xuất hiện xung quanh và trong khu vực

mình có trách nhiệm bảo vệ, trông coi, quản lý; thường xuyên tổ chức tuần tra

trong khu vực được giao trách nhiệm bảo vệ, trông coi, quản lý; thiết lập kênh

thông tin, liên lạc riêng với những người được giao trách nhiệm bảo vệ, trông

63

coi, quản lý tài sản xung quanh và chủ cửa hàng, ngân hàng, ban quản lý nhà

chung cư, lực lượng Công an cơ sở... để kịp thời thông báo, phối hợp khi xảy ra

tội phạm"

Đối với các trường học: Lưu ý về những phương thức, thủ đoạn của tội

phạm trộm cắp tại các trường học. Đồng thời, hướng dẫn cách đề phòng như:

Xây dựng nhà giữ xe, khóa xe cẩn thận, trong cốp xe không để các tài sản có giá

trị, bố trí bảo vệ trường, không cho các đối tượng lạ mặt, đối tượng nghi vấn đi

vào khuôn viên nhà trường.

- Thứ hai, yếu tố người phạm tội: Có thể nhận thấy rằng, một trong những

nguyên nhân làm phát sinh tội phạm đó chính là sự phát triển của nhiều tệ nạn xã

hội, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm ngày càng gia tăng; đối tượng phạm tội

thường ở tuổi thanh niên, có trình độ học vấn thấp, đa số không có nghề nghiệp

hoặc nghề nghiệp không ổn định, nhiều đối tượng có tiền án, tiền sự, sau khi

chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương rất khó tìm được việc làm, không

nhận được sự quan tâm hỗ trợ của chính quyền địa phương, của cộng đồng để tái

hòa nhập, vì vậy mà dễ tái phạm khi bị rủ rê lôi kéo.

Một số cấp ủy chính quyền địa phương chưa nhận thức đầy đủ về trách

nhiệm trong phòng chống tội phạm, chưa có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, chưa

coi công tác này là nhiệm vụ của mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi cơ quan mà vẫn còn

tư tưởng khoán trắng cho lực lượng chức năng, để cho đến khi tội phạm xảy ra

rồi mới đẩy chuyển cho các cơ quan tư pháp xử lý; các giải pháp phòng ngừa xã

hội, biện pháp kinh tế, giáo dục chưa được phối hợp chặt chẽ nên việc giải quyết

các nguyên nhân, điều kiện phát sinh phạm tội còn hạn chế; công tác quản lý,

giáo dục, cảm hóa, cải tạo người phạm tội, người vi phạm pháp luật tại gia đình

và cộng đồng dân cư hiệu quả còn thấp; sự phối hợp giữa các ngành, các cấp

trong việc tạo công ăn việc làm, ổn định cuộc sống và tái hòa nhập cộng đồng

hiệu quả chưa cao, trong đó vai trò của tổ chức đoàn thanh niên chưa thật sự phát

huy hiệu quả, thiếu sự phối hợp với lực lượng công an trên địa bàn để điều tra,

64

nắm bắt tình hình, phân loại đối tượng thanh niên để kết hợp với gia đình có biện

pháp động viên, giáo dục, quản lý phù hợp.

Cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm không chỉ là nhiệm vụ riêng của

Công an, Viện kiểm sát hay Tòa án mà đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính

trị và toàn thể nhân dân. Chính vì vậy để nâng cao công tác PNTP thì giải pháp

căn bản là cần phải tạo công ăn việc làm, hạn chế tình trạng thất nghiệp, không

có việc làm ổn định. Các cấp chính quyền địa phương cần có chính sách phát

triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần cho người dân, ưu

tiên giải quyết việc làm cho những người có hoàn cảnh khó khăn, những đối

tượng đã chấp hành xong hình phạt tù, đi cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng về,

đây là giải pháp rất quan trọng, làm tốt công tác này không những giải quyết

được các vấn đề xã hội mà còn xóa bỏ những nguyên nhân, điều kiện làm phát

sinh tội phạm.

Các lực lượng công an cần tăng cường công tác nắm tình hình địa bàn,

quản lý nhân hộ khẩu, thường xuyên kiểm danh, kiểm diện, gọi hỏi răn đe, giáo

dục các đối tượng thuộc diện quản lý; các tổ chức chính trị – xã hội, nhất là tổ

chức đoàn thanh niên phải phát huy hơn nữa vai trò xung kích trong tham gia

PNTP và tệ nạn xã hội, chú trọng công tác quản lý đoàn viên, thanh niên, tăng

cường các hoạt động giao lưu kết nghĩa với các đơn vị trên địa bàn có hoàn cảnh

khó khăn, hướng thanh niên vào các hoạt động có ích, đồng thời cảm hóa, giúp

đỡ thanh niên vi phạm tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật tái hòa nhập cộng đồng,

động viên họ tích cực rèn luyện để trở thành những công dân có ích cho xã hội.

Bên cạnh đó, “...tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận

thức, ý thức, nghĩa vụ, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong công tác phòng,

chống tội phạm; liên tục triển khai các chương trình, kế hoạch, biện pháp tăng

cường phòng ngừa, đấu tranh, tố giác nhằm kiềm chế hướng đến giảm mạnh các

loại tội phạm, tệ nạn xã hội trên địa bàn; vận động nhân dân, hướng dẫn, tổ

chức có hiệu quả mô hình tố giác tội phạm tại khu dân cư, xây dựng quy trình

65

bảo mật thông tin và cơ chế bảo vệ người tố giác tội phạm; tổng kiểm tra các cơ

sở kinh doanh có điều kiện, các cơ sở dịch vụ, các tụ điểm công cộng thường

xuyên tụ tập các đối tượng có dấu hiệu cung cấp, mua bán, trao đổi, tàng trữ, sử

dụng các chất kích thích nằm trong danh mục cấm; xử lý nghiêm việc tổ chức

đánh bạc dưới nhiều hình thức, trộm cắp, tiêu thụ tài sản trộm cắp; các tụ điểm

công cộng có hiện tượng hoạt động mại dâm trên địa bàn...” [51, tr.1].

Cùng với đó, cần phát huy vai trò của quần chúng trong việc giám sát hoạt

động của các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm để quần chúng kịp

thời cung cấp thông tin cho lãnh đạo công an các cấp về những hành vi tiêu cực

của cán bộ, chiến sĩ trong phòng, chống tội phạm, góp phần làm trong sạch lực

lượng bộ máy chuyên trách phòng, chống tội phạm…

3.2.1.2. Các biện pháp ngăn chặn không cho tội phạm thực hiện đến cùng

Không cho tội phạm thực hiện đến cùng là việc áp dụng các biện pháp

nhằm ngăn chặn, cản trở không để cho cho người phạm tội có điều kiện để thực

hiện tội phạm đến cùng. Những biện pháp này phải thực hiện kịp thời và nhanh

chóng. Khi phát hiện có tội phạm đang xảy ra, người hoặc tổ chức chứng kiến sẽ

có biện pháp ngăn chặn không để đối tượng thực hiện tiếp tục hành vi của mình

đến cùng, do đó cần phân biệt với “Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng”: được

quy định tại điểm e, khoản 1, điều 52 của BLHS năm 2015. Do ngăn chặn không

cho tội phạm thực hiện được hết hành vi, nên từ đó sẽ hạn chế, làm giảm được

hậu quả, thiệt hại.

Đối tượng TCTS với thủ đoạn lén lút, bí mật, lợi dụng sơ hở để thực hiện

hành vi nên việc phát hiện được để ngăn chặn kịp thời không dễ dàng, thực tiễn

thì các hành vi TCTS đang thực hiện được phát hiện trong một số trường hợp

như: Thông qua các thiết bị, hệ thống an ninh tự động: camera an ninh, chuông

báo động chống trộm,...; công tác tuần tra, kiểm soát lưu động của các lực lượng

chuyên trách... Vì vậy, để ngăn chặn hành vi TCTS thực hiện đến cùng thì trước

hết ở những môi trường nhỏ như gia đình, nhà trường cần giáo dục cho các thành

66

viên tuân theo các quy định của pháp luật, tránh bị lôi kéo vào các tệ nạn xã hội;

tận dụng sự giúp đỡ của nhân dân, khi phát hiện tội phạm thì báo tin tố giác, vận

động đối tượng không tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội đến cùng.

3.2.1.3. Các biện pháp ngăn chặn tái phạm

Trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý

hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý gọi là tái

phạm. Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm là thể

hiện sự xem thường pháp luật. Cho nên, cần phải xử lý nghiêm hành vi phạm tội

của họ. Các biện pháp ngăn chặn tái phạm tội TCTS nhằm mục đích không để

cho những người đã từng bị xử lý hình sự về hành vi TCTS tái phạm, tái phạm

nguy hiểm hay thực hiện lại hành vi phạm tội. Những biện pháp này được được

thực hiện từ sớm, từ khi hình thành động cơ, như vậy sẽ tránh giúp cho những

người này ổn định được tâm lý, có những diễn biến tâm lý tích cực, nhờ vậy đạt

được hiệu quả cao nhất.

Công tác phòng ngừa tái phạm được tiến hành ở nhiều giai đoạn khác

nhau: giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử; giai đoạn thi hành án... vì vậy, để mang

lại hiệu quả cao thì từng chủ thể thực hiện công tác này ở mỗi giai đoạn sẽ có

những biện pháp ngăn chặn đa dạng, phù hợp, đồng bộ và thống nhất. Làm thế

nào để người vi phạm hiểu, biết và nhận thức được hành vi sai trái của mình, tin

tưởng vào sự nghiêm minh của pháp luật, đê họ có được nhận thức đúng, chấp

hành nghiêm chỉnh pháp luật, có ý thức không tái phạm và cao hơn nữa là thúc

đẩy tính tích cực của cộng đồng, đây là công tác hết sức khó khăn, cần thiết phải

phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh tội phạm xảy ra, cơ quan tiến hành tố tụng

thể hiện đúng vai trò của mình... Bên cạnh đó cần phải củng cố, nâng cao vị trí

của Nhà nước trong tất cả mọi mặt của xã hội, muốn như vậy thì các cơ quan

chức năng phải thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ của mình trong PNTP như:

đảm bảo các nguyên tắc, có chiến lược lâu dài, kịp thời tham mưu, đề xuất nhằm

hoàn thiện pháp luật.

67

Ngoài ra, việc buông lỏng công tác quản lý, ít quan tâm giáo dục, cảm

hóa, giúp đỡ, tạo điều kiện cho người lầm lỗi vươn lên nên nhiều người từ chỗ

suy nghĩ lệch lạc đã dẫn đến con đường tái phạm, đây là một trong số những

nguyên nhân dẫn đến tình trạng tái phạm tăng cao, vì vậy, cần chú trọng công

tác giáo dục của các tổ chức xã hội trong giáo dục, cải tạo phạm nhân. Cố Bộ

trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn đã nói: “Muốn giáo dục phạm nhân phải

nắm được đặc điểm hoạt động, thái độ cải tạo, tâm lý của phạm nhân để có biện

pháp thích hợp. Phải hiểu rõ vị trí, tầm quan trọng của nhiệm vụ giáo dục cải

tạo và chính sách “trấn áp kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo

dục cải tạo mới làm tốt nhiệm vụ trên”. Để làm được việc đó, đòi hỏi bản thân

người cán bộ làm công tác giáo dục cải tạo phạm nhân phải tận tụy, không quản

ngại khó khăn, gian khổ, hết lòng, hết sức vì công tác “giáo dục lại” những con

người phạm tội. Ngoài ra đối với công tác quản lý, giáo dục cải tạo và tái hòa

nhập cộng đồng đối với người phạm tội, vi phạm pháp luật và đối tượng có nguy

cơ phạm tội TCTS nói riêng, tình hình các loại tội phạm nói chung cần phải :

“Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giam giữ, quản lý, giáo dục cải tạo các

loại đối tượng; chủ động phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sơ hở, thiếu sót

trong công tác giam giữ, quản lý, giáo dục cải tạo và thực hiện chế độ, chính

sách đối với các loại đối tượng giam giữ, quản lý không để phát sinh bức xúc,

phản ứng tiêu cực, tự sát, gây rối, chống đối tập thể, gây mất an ninh, an toàn cơ

sở giam giữ, quản lý; Chủ động thực hiện các biện pháp giúp phạm nhân chuẩn

bị tái hòa nhập ngay trong quá trình chấp hành án, đồng thời thực hiện có hiệu

quả các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành

xong án phạt tù. Tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ người được hoãn, tạm

đình chỉ chấp hành án, người được tha tù trước thời hạn có điều kiện; Lồng

ghép công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù

với các chương trình, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và công tác

phòng, chống tội phạm của địa phương. Cân đối, bố trí nguồn lực của Trung

68

ương và các địa phương, nguồn lực xã hội bảo đảm thực hiện có hiệu quả các

biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án

phạt tù; Xác định trách nhiệm của cấp ủy Đảng, chính quyền, hiệu quả phối hợp

của các cấp, các ngành, cơ quan, đoàn thể, tổ chức, cá nhân trong quản lý và

giám sát thi hành các hình phạt ngoài hình phạt tù, các đối tượng được áp dụng

biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và các đối tượng có nguy cơ phạm

tội trên địa bàn” [50, tr1].

Như vậy, trong thời gian qua, với số lượng lớn tội phạm TCTS đã điều tra,

truy tố, xét xử và áp dụng các hình phạt hình sự trên toàn quốc thì nhất thiết phải

quan tâm đến phòng ngừa tái phạm nhằm ngăn chặn sự lặp lại của hành vi phạm

tội đối với những người đã chấp hành xong hình phạt, đã trở lại với cộng đồng.

3.2.2. Tăng cường biện pháp phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản

tiềm năngtrên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

3.2.2.1. Biện pháp về chính trị

“Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự quản lý, điều hành của

chính quyền, phản biện, giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và tổ chức thực

hiện của các sở, ban, ngành, cơ quan, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở trong công tác

phòng, chống tội phạm; tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các nghị quyết,

chỉ thị của Đảng, Quốc hội và Chính phủ về công tác phòng, chống tội phạm.

Nâng cao vai trò trách nhiệm, xử lý nghiêm trách nhiệm của người đứng đầu cơ

quan, đơn vị, địa phương để xảy ra tình hình tội phạm phức tạp, kéo dài, hoạt

động lộng hành hoặc bao che “bảo kê” tội phạm; thực hiện tốt công tác cải cách

hành chính, cải cách tư pháp; xây dựng cơ chế điều hành, chỉ đạo, kiểm tra, đôn

đốc, giám sát, đánh giá việc thực hiện chiến lược cải cách hành chính, cải cách

tư pháp; tăng cường, xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành trong phòng, chống

tội phạm, ưu tiên ký kết quy chế, kế hoạch phối hợp liên tịch, liên ngành. Qua

đó, thường xuyên trao đổi, nắm bắt thông tin liên quan công tác đảm bảo

ANTT, chú trọng trên lĩnh vực đầu tư, tài chính, khoáng sản, du lịch, ngành nghề

69

kinh doanh có điều kiện về ANTT nhằm chủ động phòng ngừa, dự báo tình hình,

phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm để có đối sách kịp thời, hiệu quả

trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm” [50, tr.1].

Địa phương tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị

của Đảng, Quốc hội và Chính phủ về công tác phòng, chống tội phạm như: Chỉ

thị số 48/CT-TW, ngày 22-10-2010 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với

công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới; Nghị quyết 37/2012/QH13

của Quốc hội, Quyết định 623/QĐ-TTg ... Các biện pháp chính trị về cơ bản vẫn

phải tập trung vào phát huy sức mạnh tập thể của các ban ngành, các tổ chức

đoàn thể và đông đảo quần chúng nhân dân tham gia.

3.2.2.2. Các biện pháp kinh tế

Nghị quyết Đại hội đại biểu tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ XV nêu rõ:

“Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng gắn với thực hiện có hiệu quả

chương trình giảm nghèo bền vững. Ưu tiên đầu tư phát triển toàn diện thành

phố Huế, các thị xã Hương Thủy, Hương Trà, thị trấn Thuận An, Lăng Cô để trở

thành các trung tâm kinh tế - xã hội của tỉnh. Mở rộng không gian phát triển đô

thị Huế. Khai thác có hiệu quả thế mạnh từng vùng, bảo đảm phát triển nhanh

và bền vững. Tiếp tục triển khai có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia

giảm nghèo bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới.”. Để thực hiện biện pháp

này, trước hết cần có chính sách sách phát triển kinh tế bền vững, phù hợp với

tình hình của tỉnh Thừa Thiên Huế; hỗ trợ cho các hộ nghèo vay vốn kinh doanh,

phát triển các mô hình hợp tác sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người dân,

giáo dục nâng cao trình độ, tay nghề cho người lao động.. với chính sách phát

triển kinh tế đồng đều, cần ưu tiên những vùng mức sống của người dân còn

thấp, vùng sâu, vùng xa nhằm tiến tới thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các

vùng trong tỉnh. Nền kinh tế phát triển bền vững cần gắn liền với phát triển văn

hóa xã hội, vì vậy cần có các chính sách về văn hóa xã hội song song với phát

triển kinh tế, tầm quan trọng của vấn đề này đã được Đại hội VIII của Đảng yêu

70

cầu: “Kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội,

tiến bộ xã hội, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc giải quyết những vấn

đề xã hội bức xúc, đẩy lùi tiêu cực, bất công và các tệ nạn xã hội”.

Ngoài ra, cần chủ động dự báo về những ảnh hưởng và biện pháp giải

quyết những ảnh hưởng của cơ quan chức năng về quá trình đô thị hóa để người

dân chủ động, thích nghi hơn với những ảnh hưởng này

Phát huy vai trò của các tổ chức cơ sở Đảng và các tổ chức xã hội tại địa

phương; kịp thời khuyến khích các tập thể, cá nhân có nhiều thành tích nổi bật

đóng góp cho sự phát triển kinh tế

3.2.2.3. Các biện pháp về dân sự - xã hội

Những năm qua, Đảng và Nhà nước cũng ban hành nhiều chính sách nhằm

thực hiện tốt quyền được hưởng an sinh xã hội của nhân dân. Trong các kỳ đại

hội, Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên nhấn mạnh vai trò của chính sách

an sinh xã hội và quyết tâm của Đảng trong việc thực hiện chính sách an sinh xã

hội. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế lầ thứ XV cũng chỉ rõ

nhiệm vụ “Thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh

xã hội: Khuyến khích khu vực tư nhân, doanh nghiệp tham gia dạy nghề. Phân

bố lại lao động và dân cư phù hợp với hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất và

phương hướng phát triển kinh tế - xã hội từng vùng. Bảo đảm an sinh xã hội”.

Việc thực hiện Việc thực hiện quyền được bảo đảm xã hội ở nước ta nói chung,

tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng được xác định tập trung ở những nội dung sau:

Trước hết là thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo, đây là một chủ

trương, quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực kinh tế, xã hội.

Giải quyết được vấn đề này sẽ tạo điều kiện thực hiện những chính sách, biện

pháp khác.

Thứ hai, tăng cơ hội có việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm

nghèo bền vững cho người lao động yếu thế thông qua hỗ trợ cá nhân và hộ gia

đình phát triển sản xuất, hỗ trợ tín dụng, giải quyết việc làm và kết nối thông tin

71

thị trường lao động, qua đó đã góp phần thực hiện tốt chức năng an sinh xã hội,

thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội.

Thứ ba, tạo cơ hội để người lao động được tham gia hệ thống chính sách

bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp để chủ động đối phó khi thu nhập bị suy

giảm hoặc bị mất do các rủi ro, ốm đau, tai nạn lao động, tuổi già...

Thứ tư, thường xuyên hỗ trợ các khoản tiền mặt hoặc hiện vật từ ngân

sách nhà nước đối với người có hoàn cảnh đặc thù và hỗ trợ đột xuất cho người

dân khi gặp các rủi ro không lường trước hoặc vượt quá khả năng kiểm soát (mất

mùa, thiên tai, đói nghèo...).

Thứ năm, tăng khả năng tiếp cận của người dân đối với các dịch vụ xã hội

cơ bản: giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và vệ sinh môi trường, thông tin.

Thứ sáu, tăng cường công tác kiểm tra đăng ký tạm trú, tạm vắng nhằm

đảm bảo an ninh trật tự, ngoài ra thực hiện các vấn đề an sinh xã hội ở địa bàn.

3.2.2.4. Các biện pháp về văn hóa, giáo dục

Quán triệt chủ trương của Đảng, Nghị quyết Đại hội lần thứ XV của Đảng

bộ tỉnh Thừa Thiên Huế đã xác định: “Xây dựng và phát triển trung tâm văn

hóa, du lịch đặc sắc của khu vực và cả nước. Xây dựng môi trường văn hoá lành

mạnh, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc và văn hóa Huế gắn với bảo tồn, phát

huy giá trị các di sản văn hóa, lịch sử”, trong đó tăng cường các biện pháp cụ

thể sau: Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ

cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên; Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái

xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh

hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người; bảo tồn văn hóa,

di tích lịch sử; nâng cao đời sống văn hóa ở địa bàn, tiếp tục củng cố và nâng cao

chất lượng phong trào "toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", đẩy mạnh

văn minh trong cưới hỏi, lễ hội; nhân rộng các mô hình giải trí lành mạnh, khu

sinh hoạt vui chơi phù hợp với các lứa tuồi.

Tại Thừa Thiên Huế, trong các chương trình, kế hoạch năm, kế hoạch của

72

tỉnh cũng đã xác định các biện pháp văn hóa, giáo dục đặt trong sự kết hợp hài

hòa, tạo thành một hệ thống giáo dục trên phạm vi toàn tỉnh. Tỉnh đã chú trọng

giáo dục tại gia đình; giáo dục tại tổ dân phố, thôn, xóm, phường, xã; giáo dục

trong nhà trường; giáo dục tại nơi làm việc;… và sử dụng các kênh thông tin như

sách, báo, đài, truyền hình… Đặc biệt là cần có sự nghiên cứu, xây dựng cơ chế

kiểm soát chặt chẽ đối thông tin trên môi trường mạng xã hội. Sau đây là một số

giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, nguyên nhân của biện pháp văn hóa -

giáo dục:

- Thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ làm

công tác quản lý nhà trường; giáo viên giảng dạy chú trọng chất lượng dạy học,

đặc biệt là nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp; đầu tư trang

trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ cho nhu cầu học tập; giữa nhà trường và địa

phương, gia đình học sinh luôn giữ mối liên hệ chặt chẽ...Những giải pháp này

nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tại nhà trường.

- Đối với công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cần có kế hoạch tổ

chức thường xuyên, định kỳ, nội dung có trọng điểm, trọng tâm phù hợp với từng

đối tượng tuyên truyền, ứng dụng những phương pháp thu hút đối tượng cần

tuyên truyền.

- Nghiên cứu, sửa đổi chương trình giáo dục pháp luật ở nhà trường, bên

cạnh phổ biến các quy định của pháp luật còn phải rèn luyện cho người học

những kỹ năng ứng dụng pháp luật vào trong thực tiễn cuộc sống; lựa chọn

những giáo viên có chuyên môn, kinh nghiệm để giảng dạy, truyền đạt những nội

dung pháp luật về PNTP.

Nghị quyết Đại hội lần thứ XV của Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế cũng

chỉ rõ nhiệm vụ: “Xây dựng, phát triển trung tâm giáo dục - đào tạo đa ngành,

đa lĩnh vực, chất lượng cao. Đầu tư phát triển hệ thống giáo dục mầm non, giáo

dục phổ thông theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá. Nâng cao chất

lượng giáo dục - đào tạo toàn diện. Phấn đấu có nhiều học sinh tham gia và đạt

73

thành tích cao ở các kỳ thi quốc gia, quốc tế. Xây dựng, phát triển Đại học Huế

thành trung tâm đào tạo đại học, sau đại học và nghiên cứu, ứng dụng, chuyển

giao công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao của quốc gia, ngang tầm

với các đại học trong khu vực. Hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để nâng cấp,

phát triển Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế, Học viện Âm nhạc Huế và một số

trường cao đẳng khác. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế để phát triển nguồn nhân lực,

phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề”.

3.2.2.5. Các biện pháp về tổ chức quản lý xã hội

Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, các cơ quan, tổ chức có các biện

pháp quản lý Nhà nước về kinh tế, quản lý về văn hóa xã hội, quản lý về quốc

phòng an ninh, an toàn, vấn đề dân tộc và tôn giáo, hành chính tư pháp, thực hiện

việc quản lý căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, với những

nội dung như sau: Khảo sát, điều tra thực trạng các vấn đề xã hội, xây dựng chiến

lược, chương trình, kế hoạch, chính sách, pháp luật về phát triển xã hội; tổ chức

triển khai thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch, chính sách, pháp luật về

phát triển xã hội; kiểm tra, giám sát việc thực hiện chiến lược, chương trình, kế

hoạch, chính sách, pháp luật về phát triển xã hội xử lý các sai phạm.

Hoàn thiện những chính sách đã có, mặt khác tiếp tục đề ra nhiều chủ

trương, chính sách mới nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ, bảo đảm lợi ích

của nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm

chủ của nhân dân, đảm bảo trật tự kỷ cương xã hội. Xây dựng chính quyền vững

mạnh, xác định cải cách hành chính là “chìa khóa” quan trọng hàng đầu, quyết

định thành công của nhiều chương trình, mục tiêu cũng như thu hút mạnh mẽ các

nguồn lực đầu tư từ bên ngoài, củng cố, kiện toàn và thường xuyên đổi mới, nâng

cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao năng lực lãnh đạo,

sức chiến đấu của các tổ chức đảng và chất lượng cán bộ, đảng viên. Xây dựng

chính quyền vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức, viên

chức, sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, xã giai đoạn 2019-2021, phát huy

74

vai trò, vị trí của các cơ quan hành chính cấp cơ sở, bởi đây là những cơ quan

quản lý trực tiếp, sâu sát với đời sống nhân dân, am hiểu đời sống của nhân dân vì

vậy sẽ có những biện pháp chính sách quản lý sâu sát nhất. Bên cạnh đó, thực hiện

các biện pháp nhằm đảm bảo dân sinh, nâng cao dân trí, từ đó phát huy được hiệu

quả trong công tác quản lý địa phương và cả trong PNTP nói riêng.

- Về công tác quản lý TTATXH, với vai trò là lực lượng nòng cốt, lực

lượng CAND nói chung và Công an tại địa bàn cơ sở nói riêng, chủ động tham

mưu, phối hợp, hướng dẫn các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị, trường học, tăng

cường vận động quần chúng nhân dân luôn chấp hành tốt các quy định của pháp

luật, phòng ngừa trấn áp tội phạm và các tệ nạn xã hội, phổ biến cho các chủ thể

trên về phương thức, thủ đoạn hoạt động của các đối tượng TCTS trong tình hình

mới và đưa ra một số biện pháp phòng ngừa. Bên cạnh đó, Công an tại địa bàn

cơ sở hường xuyên tham mưu cho cấp ủy, chính quyền, thủ trưởng các cơ quan

doanh nghiệp, đơn vị, rà soát đánh giá, kiện toàn tổ chức nâng cao hiệu quả của

lực lượng bảo vệ cơ quan doanh nghiệp, bảo vệ dân phố; rà soát lại địa bàn, củng

cố các điểm tuần tra nhân dân ở các khu dân cư và trên các tuyến, điểm nóng về

tình hình ANTT. Ngoài ra, còn triển khai thực hiện tốt công tác nắm bắt tình

hình nội bộ nhân dân, tranh thủ sử giúp sức, cung cấp thông tin kịp thời của

người dân, kịp thời phát hiện, giải quyết các nghi vấn, vi phạm tại địa bàn.

- Quản lý chặt chẽ các đối tượng có tiềm năng phạm tội như: người nghiện

ma túy, người có tiền án tiền sự; có những chính sách phù hợp giúp cho những

người cho những người sau cai nghiện hoặc sau khi chấp hành bản án phạt tù

sớm hòa nhập cộng đồng.

- Xây dựng đề án tổng thể khắc phục hạn chế, yếu kém và nâng cao một

bước căn bản năng lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật.

- Thường xuyên cập nhật các báo cáo về tình hình, kết quả công tác

phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật từ các cơ quan chức năng; có cơ quan,

đơn vị chuyên trách thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, là cơ quan trung gian

75

giữa các tổ chức, cơ quan, đơn vị trong công tác PNTP, nắm bắt tình hình để

tham mưu khắc phục những hạn chế trong công tác PNTP nói chung, tội phạm

TCTS nói riêng.

- Nâng cao hiệu quả hoạt động, năng lực quản lý của các sở, ban ngành,

các cơ quan truyền thông, trong tình hình mới trong công tác đấu tranh, phòng

ngừa THTP, đặc biệt là trong giai đoạn Cách mạng công nghệ 4.0 như hiện nay,

có biện pháp phát hiện, tuyên truyền ngăn chặn, xử lý với sự xâm nhập của

những nội dung văn hóa không lành mạnh.

- Trong quản lý xã hội cần phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân

tộc, có chính sách phù hợp nhằm củng cố trách nhiệm pháp lý và quyền bình

đẳng trước pháp luật, thiết lập về quyền được đối xử một cách như nhau, công

bằng giữa mọi công dân trước pháp luật, theo đó, mọi công dân, nam, nữ thuộc

các dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội khác nhau trong một

quốc gia đều không bị phân biệt đối xử trong việc hưởng quyền, nghĩa vụ và

chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật.

- Các biện pháp về pháp luật

Biện pháp pháp luật là trong hoạt động PNTP, sử dụng pháp luật như một

phương tiện. Sự hiện diện của pháp luật và hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã

hội của nó có thể loại trừ các khả năng phạm tội. Cần xây dựng và hoàn thiện

pháp luật kịp thời nhằm nâng cao vai trò PNTP của pháp luật,

Để hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về phòng, chống tội

phạm. Đầu tiên, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLHS, BLTTHS, Luật Tổ chức

VKSND, Luật Tổ chức TAND, Luật Thi hành án hình sự, pháp luật về các biện

pháp phòng, chống tội phạm, pháp luật về tổ chức cơ quan điều tra hình sự, và cả

một số đạo luật có liên quan. Tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TƯ ngày

02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì cần

hoàn thiện chính sách pháp luật về hình sự theo hướng nhân đạo. Đồng thời cần

có những văn bản hướng dẫn cụ thể, như vậy sẽ hạn chế sự bất hợp lý, thậm chí

76

chồng chéo, mâu thuẫn trong thực thi pháp luật ở các địa phương.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Phòng ngừa THTP nói chung, tội TCTS nói riêng là trách nhiệm chung

của toàn xã hội. Để hoạt động này phát huy được hiệu quả cao nhất thì cần thiết

phải huy động được sức mạnh toàn dân. Trong đó lấy việc nâng cao nhận thức

pháp luật cho người dân làm cơ sở để tiến hành các hoạt động phòng ngừa.

Từ thực trạng phòng ngừa tình hình tội TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa

Thiên Huế giai đoạn 2014 - 2018, tác giả đã đưa ra một số giải pháp nhằm tăng

cường phòng ngừa tình hình TCTS tại địa bàn tỉnh trong thời gian tới. Những

giải pháp này cần được tiến hành đồng bộ, liên tục, có cơ chế giám sát chặt chẽ

nhằm đẩy lùi, xóa bỏ các mặt hạn chế, đây là nguyên nhân, điều kiện của THTP,

77

từ đó kiểm soát tốt tình hình tội TCTS trên địa bàn tỉnh.

KẾT LUẬN

Trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự, hoạt động PNTP có vị trí, tầm

quan trọng đặc biệt, nó đã, đang và sẽ luôn thu hút sự quan tâm của toàn Đảng,

toàn dân và toàn xã hội, qua đó, góp phần giữ vững ổn định chính trị và

TTATXH, phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong

giai đoạn mới.

Với ý nghĩa như vậy, hoạt động PNTP TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên

Huế luôn được cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân tỉnh quan tâm. Tuy nhiên,

đây là công tác rất phức tạp, khó khăn, muốn đạt được hiệu quả cao cần có sự

tham gia của nhiều lực lượng, tiến hành đồng bộ các biện pháp, giải pháp theo kế

hoạch đã thống nhất. Thực tế cho thấy, trong 05 năm qua, mặc dù đã có nhiều nổ

lực song hiệu quả công tác PNTP TCTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế chưa

đạt được kết quả như mong muốn, tội TCTS vẫn diễn ra một cách phổ biến và có

diễn biến ngày càng phức tạp. Đây là một vấn đề nóng hổi đã được đề cập trong

toàn bộ nội dung luận văn.

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả đã đi sâu phân tích những vấn đề lý

luận về phòng ngừa tội TCTS, phân tích THTP thể hiện qua các thông số về mức

độ, cơ cấu, động thái, tính chất và làm rõ THTP ẩn của các tội này trên địa bàn

tỉnh Thừa Thiên Huế trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến năm 2018. Trên

cơ sở đó, tác giả đánh giá những nguyên nhân, điều kiện là các yếu tố tiêu cực

thuộc môi trường sống bên ngoài, các yếu tố tâm - sinh - lý của chủ thể hành vi

phạm tội và quá trình hình thành bản thân hành vi phạm tội. Qua đó, xây dựng

và kiến nghị hệ thống các biện pháp phòng ngừa, tập trung vào các biện pháp

ngăn chặn và loại trừ nhóm tội phạm này trong tương lai. Hệ thống các biện

pháp này có được dựa trên kết quả phân tích THTP, nghiên cứu, lý giải nguyên

nhân - điều kiện làm phát sinh THTP trên địa tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là

78

những biện pháp mang tính khoa học và có tính khả thi góp phần nâng cao hiệu

quả hoạt động điều tra loại tội phạm này, giúp các cơ quan tư pháp có thể vận

dụng trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm TCTS trong thời gian tới,

góp phần giữ vững an ninh trật tự của địa phương.

Tuy nhiên đây là một đề tài rộng, với khả năng và điều kiện nghiên cứu có

hạn, luận văn chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Vì vậy, để

luận văn được hoàn thiện hơn, tác giả kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến

79

từ các thầy giáo, các nhà khoa học và các bạn đồng nghiệp./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ương – Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ/TW

ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời

gian tới.

2. Ban Chỉ đạo 138 của Chính phủ (1999), Kế hoạch số 01/BCĐ138/CP, ngày

10/12/1999 triển khai thực hiện Nghị quyết 09/CP ngày 31/7/1998 của

Chính phủ và Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm.

3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020.

4. Bộ Chính trị (2010), Chỉ thị số 48/CT-TW ngày 22/10/2010 về tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình

hình mới.

5. Chính phủ (1998), Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 31/7/1998 về tăng cường

công

6. Chính phủ (2009), Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12/5/2009 về ban hành

chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020.

7. Đào Trí Úc (1994), Tội phạm học, Luật hình sự và Tố tụng hình sự Việt

Nam, NXB Chính trị quốc gia.

8. Đinh Văn Quế (2012), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội xâm

phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự 1999, NXB Lao động, Hà Nội.

9. Hồ Tấn Phong (2008 “Quan hệ sở hữu: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”,

, (29/10/2008);

10. Học viện Cảnh sát nhân dân (2009, 2010), Giáo trình Tội phạm học, Hà

Nội.

11. Học viện Cảnh sát nhân dân (2013), Một số vấn đề Tội phạm học Việt Nam

(Tài liệu tham khảo dành cho hệ đào tạo sau đại học).

12. Học viện hành chính quốc gia (2005), Tài liệu bồi dưỡng về quản lý hành

chính Nhà nước – Phần I, II, III, NXB Giáo dục, Hà Nội.

13. Khoa học hình sự Việt Nam – Tập 1,4,5, NXB Công an nhân dân năm 2012.

14. Lê Thế Tiệm (2002), Thực hiện chương trình quốc gia phòng chống tội

phạm trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước,

NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

15. Mai Thành Nam (2018) “Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm tính mạng

của con người trên địa bàn tỉnh Quảng Nam”, Luận văn Thạc sỹ luật học,

Học viện Khoa học xã hội.

16. Nguyễn Thị Yến (2018), “Vấn đề nhân thân người phạm tội trong luậ hình

sự”,

hinh-su/n20161028120822243.html>, (01/01/2018);

17. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm,

NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

18. NXB Khoa học xã hội.

19. PGS.TS. Nguyễn Minh Đức (2012), Phòng, tránh vi phạm pháp luật và tệ

nạn ma túy trong lứa tuổi thanh, thiếu niên, NXB Thông tin và truyền

thông.

20. Phạm Văn Beo (2012), Luật hình sự Việt Nam, quyển 2 phần các tội phạm,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Phạm Văn Tỉnh (2007), Khái niệm tội phạm và tình hình tội phạm dưới góc

độ của tội phạm học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số 6).

22. Phạm Văn Tỉnh (2007), Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt

Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội.

23. Phạm Văn Tỉnh (2007), Vấn đề định nghĩa khái niệm tội phạm học và nhu

cầu nâng cao trình độ lý luận tội phạm học ở nước ta, Tạp chí Nhà nước và

Pháp luật, (số 12), tr. 11-19.

24. Phạm Văn Tỉnh (2008), Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm ở

nước ta hiện nay – Mô hình lý luận, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số 6).

25. Phạm Văn Tỉnh (2011), Khoa học pháp lý Việt Nam và yêu cầu nâng cao

trình độ lý luận theo tinh thần Nghị quyết XI của Đảng, Tạp chí Nhà nước

và Pháp luật, (số 8).

26. Phạm Văn Tỉnh (2011), Phòng ngừa tội phạm và vấn đề bảo vệ quyền con

người – Một nghiên cứu liên ngành tội phạm học và nhân quyền học, Tạp

chí Nhà nước và pháp luật, (số 7).

27. Phạm Văn Tỉnh (2011), Tổng quan về mức độ của tình hình tội phạm ở Việt

Nam qua số liệu thống kê (1986-2008), Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số

4).

28. Phạm Văn Tỉnh (2013), Tập bải giảng Những vấn đề lý luận cơ bản của tội

phạm học, Học viện khoa học xã hội.

29. Phạm Văn Tỉnh (2014), Phòng ngừa tội phạm và chiến lược phòng ngừa tội

phạm, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số 3).

30. Phạm Văn Tỉnh (2015), Bài giảng Tội phạm học.

31. Phạm Văn Tỉnh, Đào Bá Sơn (2010), Đấu tranh với tình hình tội phạm

chống người thi hành công vụ ở nước ta hiện nay, NXB Công an nhân dân.

32. Phan Quang Huy (2017) “Tội trộm cắp tài sản - Khó khăn vướng mắc trong

việc nhận thsc theo quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm

2017)”, , (07/11/2017);

33. Quốc hội, Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009, NXB Chính

trị quốc gia.

34. Quốc hội, Luật phòng, chống ma túy năm 2005 sửa đổi bổ sung năm 2008,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Quốc hội, Luật Thi hành án hình sự năm 2011 và văn bản hướng dẫn thi

hành, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg ngày

31/7/1998 phê duyệt Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm.

37. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày 14/4/2016

của Thủ tướng chính phủ phê duyệt chiến lược quốc gia phòng, chống tội

phạm giai đoạn 2016 – 2025 và định hướng đến năm 2030.

38. Tỉnh ủy Quảng Nam (2015), Báo cáo số 388-BC/TU ngày 04/09/2015 về sơ

kết 5 năm triển khai thực hiện Chỉ thị 48-CT/TW của Bộ Chính trị về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong

tình hình mới.

39. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, 100 bản án của các tội xâm phạm sở hữu

có tính chiếm đoạt đã sưu tầm, nghiên cứu từ năm 2013-2017.

40. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, thống kê xét xử các vụ án hình sự sơ

thẩm từ năm 2013 đến năm 2017.

41. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ tư

pháp, Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BCA-BTP

ngày 25/12/2001 về hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV

“Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự năm 1999.

42. Trần Hữu Tráng (2000), Một số vấn đề về tình hình tội phạm ẩn ở Việt Nam,

Tạp chí Luật học, (số 3).

43. Trần Hữu Tráng (2011), Nạn nhân của tội phạm, NXB Giáo dục Việt Nam.

44. Trần Văn Hưởng (2009), Bình luận khoa học – Bộ luật hình sự đã sửa đổi

bổ sung năm 2009, NXB Lao động, Hà Nội.

45. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,

NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

46. Trường ĐH Luật HN (2014), Giáo trình LHSVN, Tập 1, Nxb. Công an nhân

dân, tr.134;

47. Trường ĐH Luật HN (2014), Giáo trình LHSVN, Tập 1, Nxb. Công an nhân

dân, tr.50-59;

48. Trường ĐH Luật HN (2014), Giáo trình LHSVN, Yập 2, Nxb. Công an nhân

dân, tr.32;

49. Từ điển triết học (1986), NXB tiến bộ Mát-xcơ-va.

50. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (2017) Kế hoạch số 148/KH-UBND

ngày 30 tháng 6 năm 2017 của UBND tỉnh Thừa Thiên huế về thực hiện

chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 - 2015 và định

hướng đến năm 2013; chương trình phòng, chống tội phạm quốc gia, ban

hành ngày 30 tháng 6 năm 2017, Thừa Thiên Huế

51. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (2018) Chỉ thị số 30/CT-UBND ngày

26 tháng 12 năm 2016 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế về tăng cường các

biện pháp, giải pháp, đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội trên

địa bàn tỉnh, ban hành ngày 26 tháng 12 năm 2018, Thừa Thiên Huế

52. Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Dự án hỗ trợ thể chế (2009), Tội phạm có

tổ chức, đưa hối lộ, nhận hối lộ và rửa tiền - Thực tiễn và giải pháp đấu

tranh phòng, chống loại tội phạm này.

53. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ tư pháp, thông tin khoa học pháp lý

(2001), Chuyên đề: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tái hòa nhập cộng

đồng của công dân sau thời gian cải tạo, giam giữ.

54. Viện Ngôn ngữ học (2010), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa.

55. Võ Khánh Vinh (2003), Hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tình

hình tội phạm, trong cuốn Giáo trình tội phạm học, NXB Công an nhân dân,

Hà Nội.

56. Võ Khánh Vinh (2009), Giáo trình tội phạm học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

57. Võ Khánh Vinh (2012), Xã hội học pháp luật – Những vấn đề cơ bản, NXB

Khoa học xã hội.

PHỤ LỤC

Bảng 2.1. Mức độ tổng quan tuyệt đối của tình hình tội trộm cắp tài

sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn từ năm 2014 - 2018

Năm Số vụ Số bị cáo

2014 773 1.131

2015 796 1.150

2016 807 1.052

2017 857 1.254

2018 792 1.033

Tổng số 3.925 5.620

Trung bình 785 1.124

(Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế)

Bảng 2.2. Tỷ lệ tội phạm trộm cắp tài sản thực hiện trong tình hình

tội phạm trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn từ năm 2014 - 2018

Số vụ Bị cáo Tỷ lệ Tỷ lệ

Năm (%) (%) Tội phạm Tội phạm Tội phạm Tội phạm

(2)/(3) (5)/(6) TCTS nói chung TCTS nói chung

(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7)

2014 773 2.342 33,0 1.131 3.892 29,1

2015 796 2.460 32,4 1.150 4.103 28,0

2016 807 2.655 30,4 1.052 4.511 23,3

2017 857 2.801 30,6 1.254 4.906 25,6

2018 792 2.486 31,9 1.033 4.015 25,7

30,8 5.620 21.427 26,2 Tổng 3.925 12.744

(Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế)

Bảng 2.3. Mức độ tổng quan tình hình các tội xâm phạm sở hữu và tình

hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế (2014 - 2018)

Năm Tình hình tội trộm Tình hình các tội Tỷ lệ %

cắp tài sản xâm phạm sở hữu

Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo

2014 773 1.131 1.240 1.701 62 66

2015 796 1.150 1.211 1.907 66 60

2016 807 1.052 1.209 1.722 67 61

2017 857 1.254 1.299 1.957 66 64

2018 792 1.033 1.232 1.690 64 61

65 62 Tổng 3.925 5.620 6.241 8.967

(Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế)

Bảng 2.4. Động thái của tình hình của tội trộm cắp tài sản trên địa

bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn từ năm 2014 - 2018

Năm Số vụ Mức độ tăng, giảm Số bị cáo Mức độ tăng, giảm

hàng năm hàng năm

2014 773 100% 1.131 100%

2015 796 102,98 (tăng 2,98%) 1.150 101,68% (tăng

1,68%)

2016 807 104,40% (tăng 4,40%) 1.052 93,02% (giảm 0,7%)

2017 857 110,87% (tăng 10,87%) 1.254 110,88% (tăng

10,9%)

2018 792 102,46% (tăng 2,46%) 1.033 91,34% (giảm

8,67%)

2014-2016 2.376 100% 3.333 100%

2016-2018 2.456 103,37% (tăng 3,37%) 3.339 103,02% (tăng

0,01%)

(Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế)

Bảng 2.5. Động thái (diễn biến) của tội trộm cắp tài sản trên địa bàn

tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn từ năm 2014 - 2018 trong so sánh liên kế

Năm Số vụ

2014 773 Mức độ tăng, giảm hàng năm 100% Số bị cáo 1.131 Mức độ tăng, giảm hàng năm 100%

2015 796 102,98% (tăng 2,98%) 1.150 101,68% (tăng 1,68%)

2016 807 101,38% (tăng 1,38%) 1.052 91,48% (giảm 8,52%)

2017 857 106,20% (tăng 6,20%) 1.254 119,20% (tăng 19,20%)

2018 792 92,42% (giảm 7,58%) 1.033 82,37% (giảm 17,62%)

(Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế)

Bảng 2.6. Cơ cấu theo phương thức, thủ đoạn phạm tội

Phương thức, thủ đoạn phạm tội Số vụ Tỷ lệ %

Lợi dụng sơ hở trong quản lý của chủ tài sản 110 55%

Sử dụng công cụ cạy phá để đột nhập vào nhà 42 21%

Lợi dụng chỗ đông người, chen lấn, móc túi 26 13%

Phương thức, thủ đoạn khác 22 11%

Tổng 200 100%

(Nguồn: 200 bản án HSST về tội trộm cắp tài sản)

Bảng 2.7. Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản theo loại và mức hình phạt

đã được áp dụng

Loại và mức hình phạt đã được áp dụng Tỷ lệ % Số người phạm tội

Cải tạo không giam giữ 91 1,62%

1.401 24,93% Tù từ dưới 3 năm nhưng cho hưởng án treo

Tù từ 3 năm trở xuống 3.007 53,51% Tù có thời hạn Tù trên 3 năm đến 7 năm 976 17,37%

Tù trên 7 năm đến 15 năm 128 2,28%

Tù trên 15 năm đến 20 năm 17 0,30%

Tổng 100% 5.620

(Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế)

Bảng 2.8. Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản theo loại tội phạm

Tội ít nghiêm Tội nghiêm Tội rất Tội đặc biệt Tổng trọng trọng nghiêm trọng nghiêm trọng

289 bị cáo 220 60 6 3

1,04% 100% 76,12% 20,76% 2,08%

(Nguồn: 200 Bản án hình sự sơ thẩm)

Bảng 2. 1. Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản theo hình thức phạm tội

Tổng số Đồng phạm Phạm tội riêng lẻ

3.925 vụ 910 3.015

100% 23% 77%

(Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế)

Bảng 2.10. Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản theo địa điểm phạm tội

Nơi phạm tội Số vụ Tỷ lệ %

Nhà dân 89 44,5%

Nhà trọ 14 7,0%

Nơi công cộng 35 17,5%

Ngoài đường 28 14%

Nơi khác 35 17,5%

Tổng 200 100%

(Nguồn: 200 bản án HSST về tội trộm cắp tài sản)

Bảng 2.11. Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản theo thời gian phạm tội

Khoảng thời gian phạm tội Số vụ Tỷ lệ

0h – 6h 55 27,5%

6h – 12h 35 17,5%

12h – 18h 67 33,5%

18h – 24h 43 21,5%

Tổng số 200 100%

(Nguồn: 200 bản án HSST về tội trộm cắp tài sản)

Bảng 2.12. Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản theo tài sản bị chiếm đoạt

Tài sản bị chiếm đoạt Số vụ Tỷ lệ %

Điện thoại, ví tiền 79 39,5%

Xe máy 47 23,5%

Xe đạp 21 10,5%

Đồ dùng gia đình, đồ dùng cá nhân 14 7,0%

Tài sản khác 39 19,5%

Tổng 200 100%

(Nguồn: 200 Bản án HSST về tội trộm cắp tài sản)

Bảng 2.13. Cơ cấu theo giới tính, độ tuổi của người phạm tội trộm cắp tài

sản

Giới tính Độ tuổi

Từ đủ 18 Dưới 16 Từ đủ 16 đến Từ đủ 30 Nam Nữ đến dưới 30 tuổi dưới 18 tuổi tuổi trở lên tuổi

3.986 1.634 15 535 2.753 2.317

70,9% 29,1% 0,3% 9,5% 49% 41,2%

Tổng: 5.620 bị cáo = 100%

(Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế)

Bảng 2.14. Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai

đoạn từ năm 2014 - 2018 xét theo trình độ học vấn của người phạm tội

Tỷ lệ (%) Trình độ học vấn Số bị cáo

Không biết chữ 1.742 31,0%

Học hết cấp I 1.073 19,1%

Cấp II 1.023 18,2%

Cấp III 1.045 18,6%

Trung cấp, Cao đẳng, Đại học 736 13,1%

Tổng cộng 5.620 100%

(Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế)

Bảng 2.15. Cơ cấu theo tình huống trở thành nạn nhân

Quên không Bị cậy phá Bị phá Bị móc Tài sản không người khóa cửa nhà, đột nhập khóa xe túi trông giữ tài sản nhà máy

83 vụ 40 vụ 25 vụ 19 vụ 33 vụ

41,5% 20% 12,5% 9,5% 16,5%

Tổng số: 200 vụ = 100%

(Nguồn: 200 bản án HSST về tội trộm cắp tài sản)