ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
LÊ HỒNG LAM
THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ QUYÒN BµO CH÷A
Vµ B¶O VÖ QUYÒN, LîI ÝCH HîP PH¸P
TRONG Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
LÊ HỒNG LAM
THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ QUYÒN BµO CH÷A
Vµ B¶O VÖ QUYÒN, LîI ÝCH HîP PH¸P
TRONG Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Lí luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số: 8380101.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN HOÀNG ANH
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ này là công trình nghiên cứu của
riêng cá nhân tôi. Các kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn này chưa được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu nghiên cứu, ví dụ, trích
dẫn, diễn giải trong Luận văn này được đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực.
Tôi viết Lời Cam Đoan này và kính đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
bảo vệ Luận văn theo đúng kế hoạch.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lê Hồng Lam
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUYỀN BÀO CHỮA VÀ BẢO VỆ QUYỀN, LỢI
ÍCH HỢP PHÁP TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ....... 9
1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam ................ 9
1.1.1. Khái niệm quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
trong tố tụng hình sự Việt Nam .............................................................. 9
1.1.2. Khái niệm thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam .................... 12
1.2. Các hình thức thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam ......... 15
1.2.1. Tuân thủ pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam ........................................... 16
1.2.2. Chấp hành pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam ........................................... 17
1.2.3. Sử dụng pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam ........................................... 19
1.2.4. Áp dụng pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam ........................................... 21
1.3. Nội dung của thực hiện pháp luật về Quyền bào chữa và bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam ......... 22
1.3.1. Thực hiện pháp luật về quyền im lặng ................................................ 22
1.3.2. Thực hiện pháp luật về quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa .............................................................................................. 23
1.4. Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam ..... 24
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 26
Chương 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÀO CHỮA VÀ BẢO VỆ QUYỀN,
LỢI ÍCH HỢP PHÁP TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TẠI
VIỆT NAM .................................................................................................... 27
2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về quyền bào chữa và bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự .......................... 27
2.1.1. Quy định của pháp luật VN về thực hiện quyền bào chữa và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự từ năm 1945 đến
năm 2003 ............................................................................................. 31
2.1.2. Quy định củ Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về việc thực hiện
quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng
hình sự ................................................................................................. 44
2.2. Thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
2015 về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
trong tố tụng hình sự......................................................................... 50
2.2.1. Kết quả thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015
về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố
tụng hình sự .......................................................................................... 50
2.2.2. Những hạn chế trong thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự 2015 về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp trong tố tụng hình sự ................................................................... 54
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 61
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
QUYỀN BÀO CHỮA VÀ BẢO VỆ QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP
PHÁP TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TẠI VIỆT NAM ............... 62
3.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền bào chữa
và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự tại
Việt Nam............................................................................................. 62
3.1.1. Thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp trong tố tụng hình sự phù hợp với các nguyên tắc của
văn kiện quốc tế .................................................................................. 62
3.1.2. Thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp trong tố tụng hình sự nhằm bảo vệ tốt quyền và lợi ích
hợp pháp .............................................................................................. 66
3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền bào chữa
và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự tại
Việt Nam............................................................................................. 68
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về việc thực hiện quyền bào chữa và bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự tại Việt Nam .......... 68
3.2.2. Phổ biến giải t c ướng d n áp dụng pháp luật .............................. 72
3.2.3. Nâng cao nhận thức của người dân về quyền bào chữa ...................... 73
3.2.4. Giải pháp hoàn thiện cơ c ế thực hiện pháp luật về quyền bào
chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự tại
Việt Nam ............................................................................................. 74
3.2.5. Hoàn thiện cơ c ế kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm ......................... 77
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 78
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT Cơ quan điều tra
ĐLS Đoàn Luật sư
ICCPR Công ước Quốc tế về các quyền chính trị, dân sự 1966
THTT Tiến hành tố tụng
TTHS Tố tụng hình sự
UNDP Cơ quan p át triển của Liên hợp quốc
VKS Viện kiểm sát
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Trang Số hiệu Tên biểu đồ
Biểu đồ 2.1 So sánh số vụ xét xử hình sự sơ t ẩm có sự tham gia của luật sư/người bào chữa trong các năm 2015-2018 53
Biểu đồ 2.2 So sánh tỉ lệ luật sư trên tổng dân số tại một số quốc
gia Châu Á – T ái Bìn Dương 54
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ sau sự kiện “Đổi mới” năm 1986 để hiện thực hóa mục tiêu xây
dựng N à nước pháp quyền Xã hội chủ ng ĩa Đảng và Nhà nước ta đã đề ra
nhiều chủ trương cải các tư p áp. Đối với ngành luật hình sự và tố tụng hình
sự, chủ trương xuyên suốt được nhấn mạnh trong nhiều văn kiện (Nghị quyết
số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005,
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận số 79-KL/TW ngày
28/7/2010, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị; Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần X, XI của Đảng Cộng sản Việt Nam):
Cải cách mạnh mẽ thủ tục tố tụng tư p áp t eo ướng dân chủ, bình
đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ n ưng t uận tiện, bảo đảm sự
tham gia và giám sát của n ân dân đối với hoạt động tư p áp; bảo
đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh
tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là
k âu đột p á để nâng cao chất lượng hoạt động tư p áp; đồng thời,
yêu cầu cải cách nhiều nội dung cụ thể khác của tố tụng hình sự.
Đây đồng thời cũng là những địn ướng quan trọng, chỉ đạo việc
nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
(BLTTHS) [76, tr.1].
Thực hiện đúng c ủ trương trên từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã
xây dựng lần lượt 03 BLTTHS (trong các năm 1988 2003 2015). BLTTHS
2015 ra đời dựa trên sự tiếp nối những thành quả to lớn đạt được trong quá
trình thi hành BLTTHS 1988 và BLTTHS 2003. Bên cạn đó n ằm khắc
1
phục những thiếu sót trong quá trình thực thi hai bộ luật trên, BLTTHS 2015
cũng đã tiếp thu, sửa đổi sao cho phù hợp tình hình phát triển và hội nhập
quốc tế của Việt Nam hiện nay. Trên thực tế, một trong những lĩn vực được
quan tâm sửa đổi nhất là quy định về quyền bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích
của đương sự trong Tố tụng hình sự (TTHS).
Trong BLTTHS của mỗi quốc gia trên thế giới, những quy định về
quyền bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự luôn đóng vai trò quan
trọng. Quyền này được xem là một trong những quyền cơ bản nhất của con
người, được quy định tại nhiều văn kiện quốc tế quan trọng. Văn kiện đầu tiên
phải kể đến là Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế 1948, tại Khoản 1 Điều 11.
Tiếp theo, quyền này cũng được quy định tại Điểm b và d, Khoản 3 Điều 14
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR 1966).
Phù hợp với những quy định quốc tế, Khoản 4 Điều 31 Hiến pháp 2013
của nước CHXHCN Việt Nam quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người
khác bào chữa”. Quyền này cũng được nhắc lại một lần nữa tại Khoản 7 Điều
103 Hiến pháp 2013 (tại c ương VIII quy định về Tòa án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân): “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích
hợp pháp của đương sự được bảo đảm.”
Thực tế, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã nêu rõ mục tiêu chủ đạo xây
dựng BLTTHS 2015 trong tờ trình trình Quốc hội n ư sau:
Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân đã được
Hiến định [76].
Để thực hiện được mục tiêu đó một trong những quan điểm chỉ đạo khi
xây dựng BLTTHS 2015 là:
Tăng cường ơn nữa trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc
2
bảo vệ quyền con người, quyền công dân; cụ thể hóa các trình tự,
thủ tục để người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực
hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm luật định, hạn chế tối đa các quy
định chung chung, phải chờ văn bản ướng d n thi hành [76, tr. 2]
Với những mục tiêu quan điểm chỉ đạo cụ thể BLTTHS 2015 đã xây
dựng C ương V với tên gọi “Bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị hại, đương sự” nhằm tạo cơ sở p áp lý để người dân có thể thực hiện
quyền hiến định kể trên. C ương này bao gồm 13 điều khoản (từ Điều 72
đến Điều 84) quy định về người bào chữa; quyền và ng ĩa vụ của người bào
chữa; thủ tục lựa chọn, chỉ địn ay đổi hoặc từ chối người bào chữa; người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại đương sự;… Đây là một bước
phát triển lớn so với quy định của BLTTHS 2003 về quyền bào chữa, bảo vệ
quyền, lợi ích của đương sự. Đối với BLTTHS 2003, những điều khoản kể
trên được quy định tại C ương IV (Người tham gia tố tụng) với 04 điều
khoản sau: Điều 56. Người bào chữa; Điều 57. Lựa chọn và t ay đổi người
bào chữa; Điều 58. Quyền và ng ĩa vụ của người bào chữa; Điều 59. Người
bảo vệ quyền lợi của đương sự.
Bước đầu ta có thể thấy BLTTHS 2015 đã có n ững quy định tiến bộ
ơn so với BLTTHS 2003 về việc thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và
bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự. Tuy nhiên trong quá trình thực tiễn thực
hiện pháp luật, những quy định trên của BLTTHS 2015 đã bộc lộ một số
vướng mắc nhất định. Ví dụ quy định về thời điểm bắt đầu tham gia tố tụng
của người bào chữa. T eo BLTTHS 2015 người bào chữa bắt đầu tham gia
qua trình tố tụng kể từ thời điểm một người bị bắt. Tuy nhiên, BLTTHS 2015
c ưa có cơ c ế đảm bảo cho việc thực hiện quyền này của người bào chữa, vì
vậy trên thực tế người bị bắt có mong muốn được mời Luật sư bào c ữa
n ưng việc thực hiện quyền trên thực tế v n nhiều bất cập đơn cử n ư ngay
3
bước đầu tiên: để gặp Luật sư rất k ó k ăn. Bởi vậy, cần thiết có nghiên cứu
về vấn đề này để làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật
về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong TTHS Việt Nam,
từ đó c ỉ ra những mặt thành công, mặt hạn chế, từ đó c ỉ ra những mặt thành
công, mặt hạn chế. Trên cơ sở đó luận văn sẽ đề cập p ương p áp k ắc phục
những hạn chế này nhằm hoàn thiện ơn nữa BLTTHS 2015 đối với vấn đề
thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
trong TTHS Việt Nam.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Thông qua nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực trạng về thực hiện
pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng
hình sự Việt Nam, luận văn đưa ra n ững giải pháp nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp trong TTHS Việt Nam
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- N ận diện được k ung lý t uyết về việc t ực iện p áp luật về quyền
bào c ữa và bảo vệ quyền lợi c ợp p áp trong TTHS Việt Nam;
- Xác địn được vai trò, nhu cầu thực tế và những thách thức cơ bản ở
khía cạnh pháp lý cần phải giải quyết về việc thực hiện pháp luật về quyền
bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong TTHS Việt Nam;
- C ỉ ra được nguyên n ân bản c ất và n ững tác động tiêu cực của
các rào cản p áp lý đối với việc t ực iện p áp luật về quyền bào c ữa và bảo
vệ quyền lợi ch ợp p áp trong TTHS Việt Nam;
- Đề xuất giải pháp nhằm tháo gỡ những k ó k ăn vướng mắc và
đảm bảo thực thi hiệu quả các quy định của pháp luật đối với việc thực
hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong
4
TTHS Việt Nam.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các lý thuyết và thực tế về việc thực hiện
pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong
TTHS Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: (i) Nghiên cứu các quan điểm, học thuyết pháp
lý trong và ngoài nước liên quan đến quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp trong TTHS Việt Nam; (ii) Nghiên cứu những quy định trong
BLTTHS 2015 về việc thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, có sự so sánh với BLTTHS 2003 và hệ thống công
ước quốc tế có liên quan cũng n ư quy định về việc thực hiện pháp luật về
quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự tại BLTTHS của một
số quốc gia khác trên thế giới; (iii) nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật
về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong TTHS Việt Nam
từ năm 1945 đến nay.
1.4. Tình hình nghiên cứu
Qua nghiên cứu bước đầu cho thấy đã có một số công trìn đã ng iên
cứu về việc thực hiện việc thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp trong TTHS Việt Nam. Một số công trình nghiên cứu
tiêu biểu n ư sau:
- Nguyễn Văn P ương (2014) luận văn t ạc sĩ K oa luật - ĐHQGHN
Vai trò của luật sư – Người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ t ẩm vụ án
hình sự ở Việt Nam hiện nay;
- Nguyễn Đông K án (2014) luận văn t ạc sĩ K oa luật – ĐHQGHN
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ quyền con người thông qua chế
định người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam;
- Võ Thị Khánh Hoài (2015), luận văn t ạc sĩ K oa luật – ĐHQGHN,
5
Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa trong luật TTHS Việt Nam;
- Ngô Thị Xuân Thu (2014), luận văn t ạc sĩ K oa luật – ĐHQGHN
Chế định người bào chữa trong luật tố tụng hình sự Việt Nam – Lý luận và
thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải Dương;
- Trần Thị Minh Nguyệt (2013), luận văn t ạc sĩ K oa luật – ĐHQGHN,
Quyền bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự;
- Nguyễn T u P ương (2015) luận văn t ạc sĩ K oa luật – ĐHQGHN
Người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi ích cho đương sự là trợ giúp viên
pháp lý trong TTHS (Trên cơ sở thực tiễn tại tỉnh Yên Bái);
- Nguyễn Hữu Thế Trạch (2014), luận văn t ạc sĩ Trường Đại học Luật
TP HCM, Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong
tố tụng hình sự việt nam;
- Nguyễn Thị Thủy Tiên (2016), Luận văn t ạc sĩ Học viện khoa học
xã hội - Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Bảo đảm quyền bào chữa
của người bị buộc tội chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Trị.
Các công trìn nêu trên đã phần nào đó ng iên cứu đán giá về việc
thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
trong TTHS Việt Nam. Tuy nhiên, qua rà soát cho thấy, việc p ân t c đán
giá trong các tài liệu, các công trình nghiên cứu nêu trên mới chỉ dừng ở việc
nghiên cứu, phân tích các chính sách chung về pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam. Các công trìn trên c ưa n ận diện được đầy đủ bản chất, nguyên nhân
những rào cản p áp lý vướng mắc thực tiễn đặt ra đối với việc thực hiện pháp
luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong TTHS Việt
Nam. Do vậy, các công trình khoa học kể trên đã t iếu những giải pháp tổng
thể, toàn diện nhằm từng bước loại bỏ rào cản p áp lý đối và những vướng
mắc trên thực tiễn với hoạt động kể trên.
6
Ngoài ra, các công trình kể trên được thực hiện trong bối cảnh BLTTHS
2003 còn hiệu lực, vì thế các công trình trên không thể đán giá được thực
tiễn thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
trong BLTTHS 2015.
1.5. Tính mới của đề tài
Đề tài “Thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp trong TTHS Việt Nam” mang t n liên lĩn vực. Bởi đề tài sẽ
được nghiên cứu dưới góc độ lý luận chung về pháp luật, luật hình sự, luật tố
tụng hình sự, luật so sánh, luật quốc tế … Người thực hiện đề tài sẽ phải đưa
ra những quan điểm, nhận định chuyên sâu về các lĩn vực kể trên.
Bên cạn đó trong bối cảnh BLTTHS 2015 có hiệu lực từ ngày
1/1/2018, luận văn sẽ đưa ra góc n ìn mới về thực tiễn thực hiện pháp luật về
quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong BLTTHS 2015. Từ
đó đưa ra ướng hoàn thiện pháp luật nhằm gỡ bỏ một cách tối đa n ững cản
trở, bất cập trong quá trình thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp trong TTHS Việt Nam.
2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu bằng những p ương p áp sau: P ương p áp
nghiên cứu duy vật lịch sử, duy vật biện chứng, logic, phân loại, tổng quát,
phân tích, tổng hợp so sán (so sán quy định của Việt Nam về hoạt động
bào chữa và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự với quy định
của một số quốc gia trên thế giới cũng n ư điều ước quốc tế có liên quan từ
đó rút ra kin ng iệm cho Việt Nam trong bối cảnh hiện nay).
Ngoài ra p ương p áp ng iên cứu ví dụ thực tiễn cũng được sử
dụng để làm sâu sắc ơn k ác quan ơn n ững quan điểm được nêu ra
trong luận văn.
3. Ý nghĩa của luận văn
7
Luận văn k ái quát được hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp
luật về việc thực hiện quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong
TTHS Việt Nam. Ngoài ra, luận văn ng iên cứu kinh nghiệm của một số nước
nhằm rút ra bài học cho Việt Nam.
Bên cạn đó Luận văn sẽ chỉ rõ những nội dung, kết quả và những
bất cập trong thực tiễn hoạt động bào chữa và bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam, từ đó đặt ra kiến nghị, giải pháp
nhằm khắc phục hạn chế trên.
4. Kết cấu luận văn
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về quyền bào
chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong TTHS Việt Nam
Chương 2. Quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền
bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong TTHS tại Việt Nam
Chương 3. Quan điểm và giải p áp đảm bảo thực hiện pháp luật về quyền
8
bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong TTHS tại Việt Nam.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN BÀO CHỮA VÀ BẢO VỆ QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
trong tố tụng hình sự Việt Nam
Quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp được xem n ư một
trong những quyền con người cơ bản nhất được ghi nhận trong nhiều văn bản
pháp lý quốc tế. Văn kiện đầu tiên phải kể đến là Tuyên ngôn nhân quyền
quốc tế 1948, tại Khoản 1 Điều 11:
Mọi người bị cáo buộc về hình sự đều có quyền được coi là vô tội
c o đến khi chứng minh là phạm tội theo pháp luật, tại một phiên
tòa xét xử công k ai nơi người đó được đảm bảo những điều kiện
cần thiết để bào chữa cho mình [57].
Tiếp theo, quyền này cũng được quy định tại Điểm b và d, Khoản 3,
Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR 1966):
3. Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người đều có
quyền được ưởng một các đầy đủ và oàn toàn bìn đẳng những
bảo đảm tối thiểu sau đây: [32] b) Có đủ thời gian và điều kiện
thuận lợi để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với người bào chữa do
chính mình lựa chọn;/ [32] d) Được có mặt trong khi xét xử và được
tự bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn
của mìn ; được thông báo về quyền này nếu c ưa có sự trợ giúp
9
p áp lý; và được nhận sự trợ giúp pháp lý theo chỉ định trong
trường hợp lợi ích của công lý đòi ỏi và không phải trả tiền cho sự
trợ giúp đó nếu k ông có đủ điều kiện trả [32].
Uỷ ban nhân quyền đã làm rõ t êm Điều 14 của Công ước ICCPR 1966
thông qua Bình luận chung số 13 tại phiên họp lần thứ 21 năm 1984:
Việc xác định thời gian thích hợp để người bị buộc tội có thể chuẩn bị
bào chữa và liên hệ với luật sư p ụ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi vụ
án, còn việc dành cho họ điều kiện thuận lợi trong vấn đề này thì liên
quan đến các yếu tố n ư: Hoạt động thu thập tài liệu và bằng chứng
cần cho việc bào chữa cơ ội hiểu và tiếp xúc với luật sư [12, tr. 215]
Hội nghị lần thứ tám về Phòng chống tội phạm và xử lý người phạm tội
của Liên hợp quốc ngày 27/8 đến 7/9/1990 đã t ông qua “Các nguyên tắc cơ
bản về vai trò của luật sư” trong đó có quy định:
Mọi người đề có quyền yêu cầu sự giúp đỡ của luật sư t eo sự lựa
chọn của mình nhằm thiết lập và bảo vệ các quyền đó của mình
trong mọi giai đoạn của tố tụng hình sự [68, tr. 825].
Không chỉ quy định về quyền bào chữa các công ước quốc tế cũng đề
cập đến vấn đề cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho những người không có
khả năng c i trả [32]. Tuy nhiên, xét trên thực tế sự phát triển của các quốc
gia trên thế giới k ông đồng đều nên quy phạm này được xem xét áp dụng
trong từng trường hợp cụ thể đối với từng quốc gia cụ thể.
Báo cáo Quyền bào chữa trong pháp luật hình sự và thực tiễn tại Việt
Nam của C ương trìn p át triển Liên hợp quốc (UNDP) đã c ỉ ra chín quyền
cấu thành quyền bào chữa trong luật pháp về nhân quyền quốc tế [74, tr.14]:
- Quyền được có người bào chữa do mình lựa chọn;
- Quyền bào chữa thông qua trợ giúp pháp lý;
- Quyền được có đủ thời gian để chuẩn bị cho phiên tòa, bao gồm tiếp
10
xúc với người bào chữa;
- Quyền được tạm hoãn thủ tục tố tụng để được tham vấn luật sư;
- Quyền được tự bào chữa;
- Quyền bào chữa là hành vi bảo vệ quyền lợi của bị cáo;
- Quyền được giao tiếp bí mật với luật sư;
- Quyền không phải tiến hành tố tụng với luật sư bào c ữa là người
k ông đủ năng lực hoặc thiếu cẩn thận trong khi bị can, bị cáo đã có luật
sư p ù ợp; ướng đến việc bãi bỏ sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách
nhiệm của mình.
- Quyền bào chữa trong tất cả các giai đoạn tố tụng đối với hình phạt án
tử hình.
T eo giáo sư người Nga M.X. Xtrô-gô-Vích, quyền bào chữa là “Tổng
hòa các hành vi tố tụng hướng tới việc bãi bỏ sự buộc tội và xác định bị can
không có lỗi hoặc làm giảm trách nhiệm pháp lý của bị can.” Ngoài ra, học
giả này cũng c o rằng:
Quyền bào chữa của bị can bị cáo là tất cả những quyền năng tố
tụng mà pháp luật quy định cho bị can, bị cáo để bảo vệ mọi sự
buộc tội và được bị can bị cáo sử dụng để bãi bỏ sự buộc tội để đưa
ra các lý lẽ và chứng cứ trong việc biện minh hoặc làm giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của mình [20, tr.14].
Có thể thấy, theo học giả trên cho rằng chủ thể thực hiện quyền bào
chữa là bị can và quyền này được thực hiện thông qua các quyền tố tụng mà
pháp luật quy địn để ướng đến việc hủy bỏ sự buộc tội hoặc làm hạ trách
nhiệm của mìn . Tuy n iên quan điểm này c ưa được thừa nhận rộng rãi bởi
các nhà khoa học và giới luật gia.
Một quan điểm k ác được học giả P .N.P atkulin trìn bày n ư sau:
Bào chữa không chỉ thể hiện trong các hành vi tố tụng, nó còn thể
11
hiện trong các quan hệ tố tụng phù hợp với chúng. Bào chữa không
chỉ dừng lại ở việc bác bỏ một phần hay toàn bộ, buộc tội và đưa ra
các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của người bị truy cứu trách
nhiệm hình sự. Nó thậm c được thể hiện trong việc đảm bảo các
quyền và lợi c được pháp luật được bảo vệ của bị can kể cả khi
chúng không trực tiếp liên liên quan tới việc làm giảm trách nhiệm
của bị can trong vụ án.
T eo quan điểm này của tác giả thì phạm vi quyền bào chữa mở rộng ra
rất nhiều ng ĩa là từ khi sự vi phạm bắt đầu diễn ra, mặc dù chỉ là những lỗi
àn c n t ông t ường, quyền bào chữa v n được bảo đảm thực hiện.
Tựu trung lại, ta có thể đưa ra địn ng ĩa n ư sau về quyền bào chữa và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp n ư sau: Quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp là tổng thể các quyền mà pháp luật quy định đương sự có thể sử
dụng nhằm bác bỏ toàn bộ hoặc một phần sự buộc tội của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đối với họ. Quyền này còn được thể hiện thông qua việc đảm
bảo các quyền và lợi ích hợp pháp trong quá trình tố tụng.
1.1.2. Khái niệm thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam
Khoản 1 điều 2 Hiến p áp nước Cộng hòa xã hội chủ ng ĩa Việt Nam
năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân”. Một trong những yếu tố quan trọng nhất để xây dựng được một nhà
nước pháp quyền là phải có một hệ thống pháp luật công bằng n ân văn ợp
lẽ phải, sự hài hòa các lợi c đặc biệt là bảo vệ, bảo đảm quyền, tự do, lợi
c c n đáng của cá nhân, công dân. Tuy nhiên, bên cạnh việc xây dựng hệ
thống pháp luật n ư trên n à nước cần phải đảm bảo hệ thống pháp luật đó
có thể được thực hiện trên thực tiễn. Pháp luật chỉ thực sự có ý ng ĩa k i nó
12
được thực hiện một cách có hiệu quả trong đời sống xã hội.
Thực hiện pháp luật là vấn đề cơ bản được đề cập đến khi nghiên cứu
về pháp luật nói chung và các ngành luật chuyên ngành khác nói riêng. Thực
hiện pháp luật là quá trình bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của các các
nhân, tổ chức nhằm đưa p áp luật vào đời sống thực tiễn đồng thời hiện thực
hóa những quy định, nguyên tắc pháp luật vào các trường hợp cụ thể. Đây là
một vấn đề rộng lớn, phức tạp cần có sự tham gia của đa dạng chủ thể khác
nhau [46, tr.490].
N ư trìn bày ở trên, thực hiện pháp luật là các hành vi xã hội của các
chủ thể nhằm hiện thực hóa các quy định của phá luật vào trong thực tiễn.
Bản chất của thực hiện pháp luật là chuyển hóa các yêu cầu của pháp luật vào
trong hành vi cụ thể của các chủ thể [72, tr.5]. Thực hiện pháp luật được thể
hiện dựa trên hai hình thức àn động hoặc k ông àn động. Đối với hình
thức àn động, chủ thể chủ động thực hiện một àn vi được pháp luật cho
phép hoặc không cấm; đối với hình thức k ông àn động, chủ thể không
thực hiện một hành vi mà pháp luật cấm.
Với vai trò to lớn kể trên, thực hiện pháp luật thực sự là ng ĩa vụ của
mọi đối tượng, chủ thể trong xã hội. Trong mối liên hệ giữa pháp luật và nhà
nước, thực hiện pháp luật là một trong những hình thức thực hiện chức năng
nhiệm vụ quản lý xã hội. Để quản lý xã hội n à nước phải tiến hành xây
dựng pháp luật và tổ chức thực hiện c úng trong đời sống thực tế, làm cho
những yêu cầu quy định của pháp luật trở thành hiện thực. Đối với cá nhân,
tổ chức p i n à nước khác thì thực hiện pháp luật là hoạt động sự dụng các
quyền ng ĩa vụ của mình [16, tr.39]. Đồng thời tôn trọng quyền và ng ĩa vụ
của người, tổ chức khác.
- Thực hiện pháp luật thực chất là đưa các qui định của pháp luật vào
đời sống thực tế, do vậy, thực hiện pháp Là hành vi hợp pháp của các chủ thể
13
pháp luật. Hành vi của chủ thể pháp luật có thế tồn tại dưới dạng àn động
hoặc k ông àn động. Ví dụ: Việc tôn trọng quyền bào chữa của bị can, bị
cáo là hành thực hiện pháp luật phù hợp với BLTTHS Việt Nam 2015;
- Là hoạt động đưa ra các quy p ạm pháp luật trên thực tế. Để một quy
phạm pháp luật nói riêng, hay một đạo luật nói c ung có ý ng ĩa t ực tiễn,
các chủ thể pháp thực hiện nó trong đời sống xã hội. Ví dụ: Các cá nhân, tổ
chức liên quan khi thực hiện quy định tại Điều 16 BLTTHS Việt Nam 2015
(về bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bị hại đương sự) có ng ĩa là BLTTHS Việt Nam 2015 đã được
thực thi trên thực tế;
- Do nhiều chủ thế khác nhau tiến àn dưới nhiều hình thức khác
nhau. Thực hiện pháp luật có thể do cá nhân, tổ chức hoặc pháp nhân,... tiến
hành.Vì quy phạm pháp luật có nhiều loại khác nhau và ứng với mỗi loại quy
phạm pháp luật đó t ì c ủ thể thực hiện pháp luật sẽ xác định xử sự cụ thể của
mình, sao cho phù hợp với các quy định của pháp luật.
Tựu trung lại, có thể đưa ra địn ng ĩa về thực hiện pháp luật n ư sau:
Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy
định pháp luật vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của
các chủ thể pháp luật [46, tr. 492].
Dựa vào địn ng ĩa về Thực hiện pháp luật và định ng ĩa về Quyền
bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, ta có thể đưa ra k ái niệm Thực
hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong
TTHS Việt Nam n ư sau: Thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp trong TTHS là hoạt động có mục đích nhằm hiện
thực hóa các quy định pháp luật về bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ
14
thể pháp luật.
1.2. Các hình thức thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam
Các quy phạm pháp luật rất p ong p ú đa dạng nên cách thức thực
hiện pháp luật cũng rất p ong p ú và đa dạng. Có nhiều các để phân loại các
hình thức thực hiện pháp luật. Giữa các hình thức thực hiện pháp luật luôn có
sự liên kết tác động qua lại l n nhau trong thực tiễn xã hội.
Có những căn cứ sau để phân biệt các hình thức thực hiện pháp luật:
- Căn cứ vào chủ thể thực hiện hành vi, có thể phân thành hình thức
thực hiện pháp luật của cá nhân, pháp nhân, tổ chức n à nước,...
- Căn cứ vào lĩn vực mà quy phạm pháp luật điều chỉnh, có thể phân
thành hình thức thực hiện pháp luật trong các lĩn vực riêng lẻ n ư ìn sự, tố
tụng hình sự, dân sự, tố tụng dân sự,...
- Căn cứ vào chức năng n iệm vụ của các cơ quan n à nước, có thể
phân thành hình thức thực hiện pháp luật của cơ quan àn c n tòa án cơ
quan tư p áp ..
Hiện nay t eo lý được thừa nhận rộng rãi về thực hiện pháp luật, tiêu
c cơ bản để xác định hình thức thực hiện pháp luật là căn cứ vào cách thức
thực hiện các quy định pháp luật: Cấm; bắt buộc thực hiện ng ĩa vụ; cho
p ép. Đây cũng là tiền đề để phân loại các hình thức thực hiện pháp luật: i)
Tuân thủ pháp luật; ii) Chấp hành pháp luật; iii) sử dụng pháp luật; iv) Áp
dụng pháp luật [46, tr.492].
Việc thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích
của đương sự trong TTHS Việt Nam cũng k ông nằm ngoài quy luật trên.
Mặc dù có sự phân biệt về các hình thức thực hiện pháp luật. N ưng n ững
những hình thức này không tồn tại độc lập với nhau. Trái lại, những hình thức
15
này giao t oa tác động bổ trợ qua lại l n nhau.
1.2.1. Tuân thủ pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam
Tuân thủ pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các c ủ
thể pháp luật kiềm chế, không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm.
Các quy phạm luật cấm được thực hiện ở hình thức này [16, tr.393]. Nói cách
khác, các chủ thể không xâm phạm các điều cấm trong luật có ng ĩa là đang
tuân phủ quy phạm pháp luật mang tính chất ngăn cấm một hành vi cụ thể.
Đối với việc tuân thủ pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi
ích của đương sự trong TTHS Việt Nam, Luật Luật sư 2006 và Luật sửa đổi
bổ sung một số điều Luật luật sư 2012 có quy định tại Điều 9 về một số điều
mà luật sư k ông được làm:
a) Cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng có quyền lợi đối
lập nhau trong cùng vụ án hình sự, vụ án dân sự, vụ án hành chính,
việc dân sự, các việc k ác t eo quy định của pháp luật (sau đây gọi
chung là vụ, việc);
b) Cố ý cung cấp hoặc ướng d n khách hàng cung cấp tài
liệu, vật chứng giả, sai sự thật; xúi giục người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo đương sự khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại,
tố cáo, khiếu kiện trái pháp luật;
c) Tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết
được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được k ác àng đồng ý
bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác;
d) Sách nhiễu, lừa dối khách hàng;
đ) N ận đòi ỏi thêm bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác
từ khách hàng ngoài khoản t ù lao và c i p đã t ỏa thuận với
khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý;
16
[...]
h) Nhận đòi ỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích khác khi thực
hiện trợ giúp pháp lý cho các khách hàng thuộc đối tượng được
ưởng trợ giúp p áp lý t eo quy định của pháp luật; từ chối vụ, việc
đã đảm nhận theo yêu cầu của tổ chức trợ giúp pháp lý, của các cơ
quan tiến hành tố tụng, trừ trường hợp bất khả kháng hoặc theo quy
định của pháp luật.
Việc tuân thủ pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp trong TTHS Việt Nam được thể hiện ở việc trong các vụ án cụ thể, Luật
sư k ông được phép vi phạm những điều cấm trên.
Không chỉ riêng luật sư các cơ quan người tiến hành tố tụng khác
cũng p ải tuân thủ pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp trong TTHS.
1.2.2. Chấp hành pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam
Đây là ìn t ức thực hiện pháp luật mà trong đó các c ủ thể pháp luật
thực hiện ng ĩa vụ pháp lý của mình bằng àn động tích cực. Trong hình
thức này, các chủ thể chấp àn các ng ĩa vụ bắt buộc mà luật quy định. Việc
tuân thủ pháp luật là ng ĩa vụ đối với mọi cá nhân, tổ chức [46, tr.494]
Cũng có địn ng ĩa k ác về chấp hành pháp luật n ư sau:
Thi hành (chấp hành) pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật,
trong đó các c ủ thế pháp luật thực hiện ng ĩa vụ pháp lý của mình
bằng àn động tích cực. Các quy phạm pháp luật bắt buộc (các
quy phạm quy địn ng ĩa vụ chủ thể phải tiến hành những hành vi
tích cực nhất địn ) được thực hiện ở hình thức này [16, tr.393].
Chấp hành pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp trong TTHS Việt Nam được thể hiện ở việc các cơ quan tiến hành tố
17
tụng n ư tòa án viện kiểm sát cơ quan điều tra chấp hành những quy định
của pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong vụ
án hình sự. Luật tổ chức tòa án n ân dân năm 2014 quy định về trách nhiệm
chứng minh tội phạm và việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo,
quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp tại điều 14 n ư sau:
[...] Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích
hợp pháp của đương sự được bảo đảm.
Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư oặc người
khác bào chữa; đương sự khác trong vụ án có quyền tự mình hoặc
nhờ người bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình.
Tòa án có trách nhiệm bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị
cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự.
N ư vậy ng ĩa vụ của tòa án là bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị
cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự. Tòa án thực hiện chấp hành
pháp luật bằng các hành vi tích cực n ư đảm bảo quyền bào chữa của bị can,
bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự; tuyệt đối ngăn cấm mọi
àn vi gây p ương ại đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ
lợi ích hợp pháp của đương sự.
Ngoài ra quy định tại Điều 16 BLTTHS 2015 về Bảo đảm quyền bào
chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại,
đương sự:
Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư oặc
người khác bào chữa.
Cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách
nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm c o người bị buộc tội, bị
hại đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích
hợp pháp của họ t eo quy định của Bộ luật này.
18
Quy định này càng làm rõ ơn ng ĩa vụ của các cơ quan điều tra chấp
hành pháp luật nhằm bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo
vệ lợi ích hợp pháp của đương sự.
1.2.3. Sử dụng pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam
Sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các c ủ
thể pháp luật thực hiện quyền, tự do pháp lý của mình (những hành vi mà
pháp luật cho phép chủ thể tiến hành). Các quy phạm pháp luật quy định về
quyền và tự do pháp lý của các tổ chức cá n ân được thực hiện ở hình thức
này. Vì đây là quyền tự do pháp lý của mỗi chủ thể nên chủ thể có thể thực
hiện hoặc không thực hiện tùy theo ý chí của mình [16, tr.393].
Mặc dù sử dụng pháp luật không phải là hình thức thực hiện pháp luật
mang tính chất bắt buộc n ưng n à nước phải có trách nhiệm đảm bảo những
điều kiện cần thiết để các cá nhân sử dụng pháp luật một các đúng p áp luật,
góp phần bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, phát hiện,
ngăn ngừa vi phạm pháp luật từ p a các cơ quan n à nước, các tổ chức xã hội
và của các cá n ân. Đồng thời n à nước và xã hội cần thực hiện các hoạt
động giáo dục pháp luật để nâng cao tính tích cực pháp luật của công dân về
sử dụng các quyền đã được hiến pháp và luật quy định một cách hợp pháp, có
văn óa p áp luật [46, tr.494].
Sử dụng pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp trong TTHS Việt Nam được thể hiện n ư sau:
Trong quá trìn người bào chữa tiến hành bào chữa cho bị can bị cáo
hoặc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp người bào chữa có những quyền sau
được quy định tại Khoản 1 Điều 73 BLTTHS 2015:
1. Người bào chữa có quyền:
a) Gặp, hỏi người bị buộc tội;
19
b) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi
hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai,
hỏi cung đồng ý t ì được hỏi người bị bắt người bị tạm giữ, bị can.
Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc
t ì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt người bị tạm giữ, bị can;
c) Có mặt trong oạt động đối c ất n ận dạng n ận biết
giọng nói và oạt động điều tra k ác t eo quy định của Bộ luật này;
d) Được cơ quan có t ẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước
về thời gian địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian địa điểm
tiến hành hoạt động điều tra k ác t eo quy định của Bộ luật này;
đ) Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của
mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
e) Đề nghị t ay đổi người có t ẩm quyền tiến hành tố tụng,
người giám địn người định giá tài sản người phiên dịc người
dịch thuật; đề nghị t ay đổi, hủy bỏ biện p áp ngăn c ặn, biện pháp
cưỡng chế;
g) Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng t eo quy định của Bộ
luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng người tham gia tố tụng
k ác người có t ẩm quyền tiến àn tố tụng;
h) Thu thập đưa ra c ứng cứ, tài liệu đồ vật, yêu cầu;
i) Kiểm tra đán giá và trìn bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu,
đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến àn tố tụng
kiểm tra đán giá;
k) Đề nghị cơ quan có t ẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập
chứng cứ giám định bổ sung giám định lại định giá lại tài sản;
l) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án
liên quan đến việc bào chữa từ khi kết t úc điều tra;
20
m) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;
n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
o) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là
người dưới 18 tuổi người có n ược điểm về tâm thần hoặc thể chất
t eo quy định của Bộ luật này.
Nhằm phục vụ quá trình làm sáng tỏ vụ án cũng n ư bảo vệ một cách
có hiệu quả nhất cho thân chủ của mìn người bào chữa có thể sử dụng
những quyền trên. N ưng tùy vào từng trường hợp cụ thể, xét thấy cần thiết
hoặc không cần thiết người bào chữa có thể không sử dựng quyền của mình
mặc dù pháp luật c o p ép người bào chữa được sử dụng quyền đó.
P a ngược lại các cơ quan tiến hành tố tụng (hoặc các cơ quan đơn vị
khác) phải tạo điều kiện tối đa để người bào chữa thực hiện quyền của mình.
Quy định tại khoản 5 điều 414 BLTTHS 2015: “5. Bảo đảm quyền ào
chữa, quyền được trợ giúp pháp lý của người dưới 18 tuổi”. Đối với điều
khoản này, ngoài việc cơ quan tiến hành tố tụng đảm bảo quyền bào chữa,
quyền được trợ giúp pháp lý của người dưới 18 tuổi các cơ quan trên p ải có
ng ĩa vụ thông báo, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội về quyền được bào
chữa của họ. Điều này nhằm mục đ c giúp người dưới 18 tuổi nói riêng và
các trường hợp khác nói chung biết, hiểu được quyền của mình, từ đó sử dụng
pháp luật một cách có hiệu quả.
1.2.4. Áp dụng pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam
Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó N à nước
t ông qua các cơ quan n à nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức
cho các chủ thể Pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình
căn cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh,
21
t ay đổi đìn c ỉ hoặc chấm những quan hệ pháp luật cụ thể [16, tr.393-394].
Đối với các hình thức tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật và sử
dụng pháp luật, mọi chủ thể đều có thể tham gia thực hiện. Còn trong hình
thức áp dụng pháp luật, bắt buộc phải có sự tham gia của n à nước thông qua
các cơ quan oặc nhà chức trách có thẩm quyền [46, tr.495].
Những trường hợp cần thiết phải áp dụng pháp luật:
- Truy cứu trách nhiệm p áp lý đối với chủ thể vi phạm pháp luật;
- Khi sảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và ng ĩa vụ pháp lý giữa các
bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên không tự giải quyết được;
- Khi quyền và ng ĩa vụ pháp lý của các chủ thể không mặc nhiên phát
sin t ay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của N à nước;
- K i cơ quan n à nước thấy cần phải kiểm tra, giám sát hoạt động của
các bên tham gia một số quan hệ pháp luật quan trọng hoặc n à nước xác
nhận sự tồn tại hay không tồn tại của một sự kiện thực tế nào đó.
1.3. Nội dung của thực hiện pháp luật về Quyền bào chữa và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam
1.3.1. Thực hiện pháp luật về quyền im lặng
Tại Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, lần đầu tiên quyền im lặng của bị
can, bị cáo được ghi nhận; tuy nhiên, Bộ luật không ghi nhận trực tiếp mà thể
hiện gián tiếp qua một số điều luật. Quy định tại điểm d khoản 2 Điều 60 và
điểm h khoản 2 Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: “Bị can, bị cáo có
quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai
chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”.
Có thể thấy, bị can, bị cáo có quyền tự chủ trong việc khai báo; “trìn
bày lời k ai” là quyền của bị can, bị cáo mà không phải là ng ĩa vụ bắt buộc.
T eo đó bị can, bị cáo có thể trình bày lời khai hoặc không. Việc không trình
bày lời khai thể hiện ở việc bị can, bị cáo im lặng trước cơ quan tiến hành tố
tụng. Khi bị can, bị cáo im lặng cơ quan tiến hành tố tụng không có quyền ép
22
buộc họ phải khai báo bằng các biện pháp không hợp pháp [81].
N ư vậy, có thể hiểu rằng bị can, bị cáo hoàn toàn có quyền im lặng.
Việc bị can, bị cáo không trả lời cơ quan người tiến hành tố tụng những điều
bất lợi cho bản thân sẽ không bị coi là tình tiết tăng nặng.
Trong vụ Trương Hồ P ương Nga bị truy tố về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài
sản” Trương Hồ P ương Nga đã lần đầu tiên sử dụng quyền im lặng trước tòa.
1.3.2. Thực hiện pháp luật về quyền tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa
N ư đã p ân t c ở trên, quyền bào chữa là tổng hợp các quyền tố tụng
hình sự tạo khả năng c o người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bào chữa về hành vi
do mình thực hiện đã bi buộc tội và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
khác. Quyền bào chữa của người bị tạm giữ. bị can, bị cáo được bảo đảm
trong mọi giai đoạn của tố tụng hình sự.
Việc thực hiện bào chữa có thể do người bị tạm giữ. bị can, bị cáo tự
tiến hành hoặc do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhờ người khác tiến hành.
N ư vậy, quyền bào chữa bao gồm quyền tự bào chữa hoặc quyền nhờ người
khác bào chữa. Bào chữa là quyền chứ không phải là ng ĩa vụ của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo.
Quyền tự bào chữa là quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tự thực
hiện các quyền mà pháp luật quy định cho họ để tự bảo vệ mình
Quyền nhờ người khác bào chữa là quyền của người bị tạm giữ. bị can,
bị cáo nhờ người khác (luật sư người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ.
bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân) bào chữa cho mình. Tổ chức luật sư
được thành lập để giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và các đương sự khác
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo gắn liền với các
bảo đảm thực hiện quyền đó. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án có
23
trách nhiệm bảo đảm c o người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào
chữa của họ. Những vi phạm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo là những vi phạm nghiêm trọng pháp luật tố tụng hình sự là căn cứ để hủy
án theo thủ tục phúc thẩm giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
1.4. Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam
Thực hiện pháp luật là một yếu tố vô cùng quan trọng trong bối cảnh
n à nước ta đang xây dựng n à nước pháp quyền xã hội chủ ng ĩa. Việc thực
hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong
TTHS Việt Nam cũng k ông p ải ngoại lệ. Để đạt được mục tiêu này, cần có
một số yếu tố đảm bảo n ư sau:
- Pháp luật phù hợp với thực tiễn, xu thế thời đại. Pháp luật phải được
thực hiện một cách công bằng, nhất quán, công khai, minh bạch, phù hợp với
thực tiễn và xu thế thời đại. Việc n à nước ta ban hành BLTTHS 2015 theo
ướng bảo vệ tối đa quyền của các chủ thể tham gia tố tụng trong đó có
quyền bào chữa của đương sự là phù hợp với thực tiễn và xu thế thời đại. Tuy
v n còn một số hạn chế nhất địn n ưng việc đảm bảo quyền này đã c o t ấy
quyết tâm cải các tư p áp của nước ta trên tinh thần Nghị quyết số 08-
NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005, Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010,
Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị.
- Cơ chế thực thi pháp luật tốt. Một văn bản quy phạm pháp luật muốn
đưa vào t ực tiễn đời sống cần phải có cơ c ế thực thi pháp luật. Đối với việc
thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cơ
chế thực thi pháp luật là quá trình các tổ chức, cá nhân và các chủ thể khác
k i đối mặt với tình huống thực tế thì phải có àn vi p áp lý ( àn động
hoặc k ông àn động) hợp p áp. Ng ĩa là nó được tiến hành phù hợp với
yêu cầu đòi ỏi trong phạm vi quy định của pháp luật liên quan đến quyền
24
bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự [16, tr.390].
- Cơ chế giám sát việc thực thi pháp luật. Muốn công tác thực hiện
pháp luật được thực sự có hiệu quả cũng n ư được đảm bảo trong thực tiễn thì
cẩn phải có cơ c ế giám sát việc thực thi pháp luật. Hiện nay, việc giám sát
thực thi pháp luật là trách nhiệm của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Quy định Khoản 1 Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng
n ân dân đưa ra địn ng ĩa về hoạt động giám sát n ư sau: “Giám sát là việc
chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức,
cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu,
kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý”. Trên thực tiễn, qua quá trình giám
sát của Quốc hội đối với luật, nếu phát hiện điều luật trái với Hiến pháp,
không phù hợp với thực tiễn hoặc vướng mắc, chồng chéo với quy định của
luật khác thì Quốc hội có kiến nghị sửa đổi, bổ sung luật sao cho phù hợp với
Hiến pháp, luật khác.
Tuy nhiên, không chỉ mình Quốc hội và HĐND các cấp thực hiện việc
giám sát thực thi pháp luật mà nó đòi ỏi sự vào cuộc của cả Chính phủ và
người dân.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, đồng thời bảo
đảm thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam. Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng
hội nhập sâu, rộng với quốc tế nước ta phải đối mặt với nhiều vấn đề mới nảy
sinh trong hợp tác quốc tế về Tố tụng hình sự. Tiêu biểu phải kể đến là vấn
nạn tội phạm xuyên quốc gia; việc d n độ tôi phạm; chuyển giao hồ sơ c ứng
cứ vụ án; tương trợ tư p áp về hình sự;... Việc bảo vệ quyền bào chữa và bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp không chỉ dành cho những người có quốc tịch Việt
Nam mà cả những người không có quốc tịch Việt Nam cũng cần được đảm
25
bảo quyền trên
Tiểu kết chương 1
Tại c ương 1 tác giả đưa ra ệ thống lý thuyết cơ bản về thực hiện
pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự trong
TTHS Việt Nam t eo đó: Quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích của
đương sự là tổng thể các quyền mà pháp luật quy định đương sự có thể sử
dụng nhằm bác bỏ toàn bộ hoặc một phần sự buộc tội của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đối với họ. Quyền này còn được thể hiện thông qua việc đảm
bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong quá trình tố tụng.
Dựa vào hệ thống lý thuyết đã trìn bày ở trên, tác giả sẽ đi sâu vào
những hạn chế k ó k ăn và t ực tiễn vướng mắc trong thực hiện pháp luật về
quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự trong TTHS Việt Nam
26
tại c ương 2.
Chương 2
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN BÀO CHỮA VÀ BẢO VỆ QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TẠI VIỆT NAM
2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về quyền bào chữa và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự
Tại Việt Nam, Kể từ thời điểm Chủ tịch Hồ C Min đọc Tuyên
ngôn độc lập k ai sin ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày
2/9/1945) N à nước ta đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển và cải cách.
Trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX năm 2001 Đảng đã xác định tiếp
tục đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của N à nước, phát huy dân
chủ tăng cường pháp chế đồng thời, xây dựng N à nước Pháp quyền Xã
hội Chủ ng ĩa (XHCN) Việt Nam.
Ngày 2/1/2002, Bộ Chính trị đã ban àn Ng ị quyết 08-NQ/TW về một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư p áp trong t ời gian tới. Nghị quyết xác
định “nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong thời
gian tới đòi hỏi công tác tư pháp phải có những chuyển biến mạnh mẽ, phấn
đấu thực hiện tốt mục tiêu nghiêm minh, công bằng, dân chủ” [5, mục II]. Nghị
quyết 08 củng cố những quan điểm về cải các tư p áp trước đây [33, tr.1] đồng
thời đề cập một cách toàn diện vấn đề cải các tư p áp trong đó đã đưa ra cả
những quan điểm chung và chủ trương, giải pháp cụ thể đối với việc cải cách,
đổi mới từng cơ quan tư p áp. Đối với công tác bào chữa, Nghị quyết 08 đã đặc
biệt quan tâm đến vai trò của luật sư và đặt nhiệm vụ c o các cơ quan tư p áp
trong việc bảo đảm hoạt động của luật sư trong tố tụng. Nghị quyết 08 nêu rõ:
Nâng cao chất lượng công tố của kiểm soát viên tại p iên tòa đảm bảo
tranh tụng dân chủ giữa kiểm soát viên tại phiên toà với luật sư người
27
bào chữa và những người tham gia tố tụng khác [5, Mục II.B.1.b], các
cơ quan tư p áp có trác nhiệm tạo điều kiện để luật sư t am gia
vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ
vụ án, tranh luận dân chủ tại p iên toà… [5].
Phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại
p iên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm
sát viên, của người bào chữa, bị cáo [5].
Tiếp nối thành công của Nghị quyết 08 đồng thời t úc đẩy ơn nữa quá
trình cải các tư p áp Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
2/6/2005 về Chiến lược cải các tư p áp đến năm 2020. Ng ị quyết 49 xác định:
Mục tiêu cải các tư p áp là xây dựng nền tư p áp trong sạch, vững
mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại,
phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam xã hội chủ ng ĩa;
hoạt động tư p áp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành
hiệu quả và hiệu lực cao [3].
Nghị quyết 49 xác định một trong các mục tiêu của cải các tư p áp
đến năm 2020 là p ải đổi mới việc tổ chức phiên toà xét xử xác địn rõ ơn
vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng t eo ướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng
cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá
của hoạt động tư pháp [3]. Nghị quyết 49 cũng xác định phải hoàn thiện cơ
chế bảo đảm để luật sư t ực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên toà [3]. Ý kiến
chỉ đạo này là cơ sở để các cơ quan tư p áp p ải tạo điều kiện cho luật sư
trong toàn bộ quá trình tố tụng để có thể “nâng cao được chất lượng tranh
tụng” [74, tr.28-29].
Để triển khai nhiệm vụ chiến lược do Đảng chỉ đạo trong lĩn vực cải
cách pháp luật và tư p áp đáp ứng mục tiêu của N à nước pháp quyền
28
XHCN, trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam đã đề cập tới quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích
của đương sự.
- Hiến p áp 2013 quy định tại khoản 4 điều 31: “Người bị bắt, tạm
giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật
sư hoặc người khác bào chữa”, việc đảm bảo quyền này cũng được hiến pháp
nhắc lại tại khoản 7 điều 103 trong C ương VIII quy định về Tòa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo
vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm.”
Theo quy định trên, Hiến p áp đã xác định rõ quyền bào chữa của bị
can, bị cáo trong vụ án hình sự. Quyền này được thể hiện ở chỗ, bị can, bị
cáo tự bào chữa hoặc được có người bào chữa thông qua hình thức nhờ
người khác bào chữa cho mình phù hợp với Công ước Quốc tế về các quyền
Dân sự và Chính trị mà Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã cam kết tham
gia ngày 24/09/1982.
- Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã t ể chế hóa chủ trương cải
các tư p áp của Đảng; thể chế hóa Hiến p áp năm 2013; tăng cường trách
nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng; kế thừa và
pháp huy những mặt tích của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. N ững
nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự được hình thành và phát triển xuất
phát từ đòi ỏi khách quan của xã hội, của yêu cầu đấu tranh phòng, chống
tội phạm, bảo vệ quyền con người và là điều cần thiết không thể thiếu của
hoạt động tố tụng hình sự. Việc xác địn đúng các nguyên tắc cơ bản của tôi
tụng hình sự có ý ng ĩa quan trọng địn ướng quá trình xây dựng và thực
hiện Bộ luật Tố tụng hình sự. Những nguyên tắc cơ bản được quy định trong
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 v n được kế thừa và quy định trong Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015 trong đó có nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào
29
chữa của người bị buộc tội” [69, tr.13-14] được quy định tại Điều 16 (Bảo
đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại đương sự) t eo đó:
Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư oặc người
khác bào chữa./ Cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có
trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội,
bị hại đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích
hợp pháp của họ t eo quy định của Bộ luật này.
- Luật Tổ chức Tòa án n ân dân năm 2014 cũng quy định về trách
nhiệm chứng minh tội phạm và việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị
cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự tại Điều 14.
- Luật Luật sư 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung bổ sung một số điều của
Luật Luật sư năm 2012 quy định rõ vai trò bảo đảm quyền bào chữa trong các
vụ án hình sự.
T eo đó trước hết Luật Luật sư n ấn mạnh các nguyên tắc hành nghề
luật sư t eo đó luật sư p ải (i) tuân thủ pháp luật; (ii) tuân theo Quy tắc đạo
đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam; (iii) độc lập, trung thực, tôn
trọng sự thật khách quan; (iv) sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt
nhất quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng và (v) chịu trách nhiệm trước
pháp luật về hoạt động nghề nghiệp luật sư.
Luật cũng ng iêm cấm các àn vi tác động trực tiếp tới quyền bào
chữa của bị can, bị cáo n ư: a) Cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng có
quyền lợi đối lập nhau trong cùng vụ án hình sự, vụ án dân sự, vụ án hành
chính, việc dân sự, các việc k ác t eo quy định của pháp luật (sau đây gọi
chung là vụ, việc); b) Cố ý cung cấp hoặc ướng d n khách hàng cung cấp tài
liệu, vật chứng giả, sai sự thật; xúi giục người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
đương sự khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, tố cáo, khiếu
30
kiện trái pháp luật; c) Tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình
biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được k ác àng đồng ý bằng
văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; d) Sách nhiễu, lừa dối khách hàng;
đ) N ận đòi ỏi thêm bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ khách hàng
ngoài khoản t ù lao và c i p đã t ỏa thuận với khách hàng trong hợp đồng
dịch vụ pháp lý; e) Nhận đòi ỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích khác khi thực
hiện trợ giúp pháp lý cho các khách hàng thuộc đối tượng được ưởng trợ
giúp p áp lý t eo quy định của pháp luật; từ chối vụ, việc đã đảm nhận theo
yêu cầu của tổ chức trợ giúp pháp lý, của các cơ quan tiến hành tố tụng, trừ
trường hợp bất khả kháng hoặc t eo quy định của pháp luật;...
Dưới đây là ng iên cứu về lịch sử p áp điển hóa quyền bào chữa theo
TTHS Việt Nam.
2.1.1. Quy định của pháp luật VN về thực hiện quyền bào chữa và bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự từ năm 1945 đến năm 2003
2.1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954
Quyền bào chữa là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình
sự. Quyền bào chữa được quy định từ bản Hiến p áp đầu tiên của N à nước
Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Qua từng thời kỳ lịch sử của đất nước quy định
về quyền bào chữa cũng có n ững t ay đổi để phù hợp với đường lối chính
sác và tìn ìn đất nước tại từng thời điểm đó.
Với sự tiến bộ của bản Hiến p áp đầu tiên 1946 ghi nhân những quyền
cơ bản nhất của con người và quyền bào chữa cũng được nhắc đến tại thời
điểm đó n ư là một nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư p áp đã t ể hiện
mong muốn bảo đảm quyền con người của n à nước bấy giờ. Tại Điều 67,
Hiến pháp 1946 quy địn n ư sau:
“Điều thứ 67
Các phiên tòa án đều phải công khai, trừ những trường hợp đặc biệt.
31
Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư.”
Bên cạn đó quyền bào chữa cũng được quy định chi tiết, giải thích
trong một số Sắc lệnh. Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về Cách tổ chức các
tòa án và các ngạch thẩm p án quy định về chỉ có luật sư có quyền biện hộ
trước tất cả các tòa án, trừ tòa án sơ cấp (Điều 46). Sắc lện cũng quy định
trường hợp bắt buộc có luật sư bào c ữa đối với vụ án có khung hình phạt cao
theo chỉ định của Chánh án (Điều 44). Tuy n iên đến Sắc lệnh 40 ngày
29/03/1046, khái niệm về người bào chữa đã được mở rộng ra tới người thân
quen của người có quyền, không chỉ còn là luật sư mà có t ể là vợ, chồng, cha
mẹ, ông bà, con cháu, anh em ruột c ú bác cô dì … (Điều 11). Tiếp đến Sắc
lệnh số 69 ngày 18/06/1949 và Sắc lệnh số 144 ngày 22/12/1949, khái niệm
người bào chữa tiếp tục mở rộng cá n ân được Tòa án công nhận có thể đại
diện bào chữa
2.1.1.2. Giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1975
T ông tư số 2225/HCCP-BTP về chấn chỉnh việc thực hiện quyền bào
chữa của bị can giải thích chi tiết ơn việc thực hiện quyền này. Đây là văn
bản pháp lý quan trọng tại thời điểm đó quy định cụ thể về quyền bào chữa
của bị can.
II. Cần thực hiện quyền bào chữa của bị can thế nào?
1. Nói c ung người bị can có quyền tham gia tất cả quá trình
điều tra xét xử. Cụ thể là:
- Bị can có quyền trình bày lời lẽ bào chữa, khai nại đưa ra
chứng cớ mới, xin mời người làm chứng mới, mời người giám
định v.v…
- Bị can được đề xuất bất cứ một thỉnh cầu nào hoặc phản đối
bất cứ một thỉnh cầu nào của người khác trong quá trình vụ án;
- Bị can lại có quyền trình bày viết những lời thanh minh và
32
những điều chỉnh thỉnh cầu của mình.
- Bị can phải được biết về nội dung buộc tội trước ngày phiên
tòa xét xử một thời gian cần thiết để bị can có đủ thì giờ chuẩn bị
việc bào chữa trước phiên tòa.
- Trong phiên tòa, bị can được viện d n tất cả chứng cớ và lý
lẽ để chứng minh rằng mình không có tội hoặc trình bày những tình
huống giảm nhẹ tội mà không bị ai cản trở.
- Sau khi cuộc thẩm vấn kết thúc, bị can được nói lời cuối
cùng. Bị can có quyền chống án trong thời hạn luật định nếu họ
không phục bản án xử sơ t ẩm.
2. Bị can có quyền chọn luật sư oặc người công nhân khác
bào chữa cho mình. Trong lúc chờ đợi chỉn đốn tổ chức bào chữa
viên nơi nào k ông có luật sư nếu bị can tự chọn người bào chữa
thời tòa án sẽ xét chấp nhận theo tinh thần Nghị định 01-NĐ-VY
ngày 12-01-1950 của Bộ Tư p áp [6].
Sau đó Hiến p áp năm 1946 được thay thế bằng bản Hiến p áp năm
1959. Tại Hiến pháp này, quyền bào chữa được khẳng địn n ưng k ông giải
thích chi tiết: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo được bảo đảm” (Điều
101). Tuy nhiên tại Điều 102, Hiến pháp 1959 công nhận “Toàn án nhân dân
bảo đảm cho công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thuộc các dân tộc
thiểu số có thể dùng tiếng nói và chữ viết của mình trước Tòa án”
Luật tổ chức tòa án N ân dân 1960 quy định chi tiết về quyền bào chữa tại
Điều 7 n ư sau: “ngoài việc tự bào chữa ra, bị cáo có thể nhờ người bào chữa
cho mình. Bị cáo cũng có thể nhờ người công dân được đoàn thể nhân dân giới
thiệu hoặc được TAND chấp nhận bào chữa cho mình. Khi cần thiết, TAND chỉ
định người bào chữa cho bị cáo” và Điều 8 quy địn đối với trường hợp sử
dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mìn trước tòa, thì khi cần thiết, Tòa án
33
Nhân dân phải c i địn người phiên dịc để bảo đảm thực hiện quyền này.
T ông tư 06-TC ngày 9-9- 1967 đã quy định một số quyền khác cho bị
can bị cáo n ư: được xin oãn p iên toà được trình bày lời bào chữa được
xem biên bản phiên toà và bổ sung nếu thấy sai sót; sau khi kết thúc phiên toà,
được gặp bị cáo để xem bị cáo có yêu cầu gì k ông... Ngoài ra T ông tư này
còn bổ sung một quy định mới so với những văn bản trước đó là: nếu vụ án
có ảnh ưởng lớn đến chính trị, những vụ án mà bị cáo là người có n ược
điểm về thể chất hoặc tâm thần không thể tự bào chữa được hoặc những vụ án
mà bị cáo có thể bị xử phạt tử hình, thì Toà án cần chỉ địn người bào chữa
cho bị cáo [27, tr.8]. Đồng thời, Tòa án tại thời điểm đó cũng đề cập đến việc
kéo dài thời hạn giao bản cáo trạng cho bị cáo và bổ sung trường hợp bắt buộc
phải chỉ địn người bào chữa nếu bị can, bị cáo là người c ưa t àn niên
người có n ược điểm về thể chất. Lần đầu tiên, quyền bào chữa của người
c ưa t àn niên được nhắc đến trong tố tụng hình sự.
Sau k i đất nước thống nhất, bản Hiến p áp 1980 ra đời thay thế cho
Hiến p áp năm 1959 một lần nữa quyền bào chữa được hiến địn dưới dạng
khẳng định chứ k ông quy định chi tiết, cụ thể là: “Quyền bào chữa của bị
cáo được bảo đảm. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các
đương sự khác về mặt pháp lý.” Để chi tiết ơn quy định này, Hội đồng Nhà
nước đã ban àn P áp lệnh về Tổ chức hành nghề luật sư.
N ư vậy, có thể thấy quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong giai đoạn
từ năm 1955 đến năm 1975 đã có n ững bước pháp triển t eo ướng ban hành
các quy định chi tiết ơn về thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Lần
đầu tiên xác định quyền bào chữa của người vị thành niên.
2.1.1.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1988
Năm 1975 mặc dù đất nước đã t ống nhất n ưng t ể chế chính trị và tổ
chức hành chính của hai miền v n c ưa được hợp nhất lại. Vì vậy đến ngày
34
11/6/1976, Bộ Tư p áp của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam đã ban àn t ông tư về việc thực hiện chế độ bào chữa ở
miền nam [67, tr.87]. Các quy địn này đi t eo đường lối xử lý người phạm
tội: “Lấy biện pháp giáo dục và phòng ngừa là chủ yếu; trong trường hợp cần
thiết phải xử lý về hình sự thì kết hợp chặt chẽ các biện pháp giáo dục và
trừng trị” [66]. Mặc dù n ưng quy định pháp luật tại thời kỳ này c ưa đầy đủ
n ưng g i n ận sự tiến bộ trong việc bảo đảm quyền của bị can, bị cáo.
Hiến p áp năm 1980 ra đời, quyền bào chữa tiếp tục được xác nhận bảo
đảm tại Điêu 133: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm, tổ chức luật
sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự về mặt pháp lý”. Ngày
03/07/1981, Quốc hội thông qua Luật Tổ chức TAND được sửa đổi, bổ sung
theo Luật Tổ chức TAND năm 1960 và ngày 04/07/1981 Quốc hội thông qua
Luật Tổ chức VKSND được sửa đổi, bổ sung theo Luật Tổ chức VKSND
năm 1960 cũng đán dấu một bước tiến mới trong việc xây dựng, tổ chức và
sắp xếp lại hệ thống của các cơ quan Tòa án và Viện kiểm sát. Năm 1985
BLHS đầu tiên của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ra đời [67, tr.87]. Sau đó
3 năm Bộ Luật TTHS đầu tiên của Việt Nam ra đời 1988. Bộ luật đã đán
dấu sự p áp điển óa quy định về tố tụng hình sự ở nước ta đặc biệt là quy
định về quyền bào chữa nằm rải rác các văn bản quy định pháp luật riêng lẻ
trước đây. Điều 12 BLTTHS 1988 có quy địn n ư sau:
Điều 12. Bảo đảm quyền bào c ữa của bị can bị cáo.
Bị can bị cáo có quyền tự bào c ữa oặc n ờ người k ác bào c ữa.
Cơ quan điều tra Viện kiểm sát và Toà án có n iệm vụ bảo đảm
c o bị can bị cáo t ực iện quyền bào c ữa của ọ.
Lần đầu tiền, Bộ luật đã k ái quát quyền bào chữa của cả bị can và bị
cáo. Khái niệm về bị can, bị cáo cũng được nêu trong Bộ luật này, cụ thể bị
can là người đã bị khởi tố về hình sự và bị cáo là người đã bị Tòa án quyết
35
địn đưa ra xét xử (Khoản 1 Điều 34 Bộ luật TTHS 1988). T eo Điều 12, bị
can, bị cáo có quyền tự bào chữa cho mình hoặc nhờ người khác bào chữa.
Khái niệm “n ờ người khác bào chữa” đã k ái quát c ung được người có thể
đại diện cho bị can, bị cáo bào chữa cho họ không chỉ có luật sư n ư quy định
tại Hiến p áp các năm trước, mà còn có thể là người đại diện theo pháp luật
của bị can, bị cáo hoặc bào chữa viên n ân dân. Hơn nữa, tại Khoản 2 Điều
12 Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát Tòa án đồng thời có nhiệm vụ bảo đảm
cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ.
Đối với quy định về bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự, pháp luật từ
trước năm 1988 k ông đề cập đến vấn đề này rõ ràng quy định này chỉ được
đặt ra tại BLTTHS 1988 với khái niệm nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự.
Pháp luật 1988 chỉ đặt ra một số quyền cơ bản của người này n ư: quyền đưa
ra chứng cứ và những yêu cầu; được thông báo về kết quả điều tra; đề nghị
t ay đổi người tiến hành tố tụng người giám địn người phiên dịch theo quy
định của Bộ luật này; có quyền đề nghị mức bồi t ường, và các biện pháp bảo
đảm bồi t ường; tham gia phiên toà; khiếu nại quyết định của cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát; kháng cáo bản án và quyết định của Toà án về phần bồi
t ường thiệt hại. (Khoản 2 Điều 40, Khoản 2 Điều 41).
N ư vậy quy định về quyền bào chữa và bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp trong pháp luật TTHS từ năm 1945 đến năm 1988 được ghi nhận, tuy
n iên còn sơ sài c ưa đầy đủ.
2.1.2.4. Quy định của BLTTHS năm 2003 về thực hiện quyền bào chữa
và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong TTHS
Bộ luật TTHS năm 2003 được đán giá có n iều sửa đổi, bổ sung tiến
bộ ơn so với Bộ Luật TTHS năm 1988 t eo ướng đảm bảo xét xử, dân chủ,
khách quan, công bằng ơn t eo tin t ần Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị đặc biệt quy định về quyền bào chữa cho những
36
chuyển biến mạnh mẽ [45].
* Người có quyền bào chữa
Điều 11 BLTTHS 2003 đã một lần nữa khẳng định việc bảo đảm quyền
bào chữa là một nguyên tắc cơ bản trong TTHS ngay tại tên gọi của luật:
Điều 11. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc
nhờ người khác bào chữa.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo
đảm c o người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa
của họ t eo quy định của Bộ luật này.
Tên gọi điều luật cho thấy Bộ luật mở rộng khái niệm người có quyền
bào chữa, không chỉ bị can, bị cáo có quyền bào chữa mà người bị tạm giữ
cũng có quyền bào chữa. K i người bị tạm giữ, bị can/ bị cáo hoặc người đại
diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa t ì Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát hoặc Tòa án phải đảm bảo quyền bào chữa cho họ bằng cách yêu cầu
Đoàn Luật sư p ân công Văn p òng luật sư cử người bào chữa cho họ.
Nguyên n ân đưa người bị tạm giữ có quyền bào chữa xuất phát từ quan điểm
cho rằng người bị tạm giữ được xác địn là người bị tình nghi thực hiện tội
phạm đối với vụ án hình sự, do vậy họ cần có quyền được bào chữa [34]. N ư
vậy, có ba chủ thể có quyền bào chữa đó là người bị tạm giữ, bị can và bị cáo.
* Khái niệm về người bào chữa
Bộ luật TTHS 2003 k ông địn ng ĩa k ái niệm về người bào chữa
n ưng căn cứ vào Điều 56 (Người bào chữa) Điều 57 (Lựa chọn và t ay đổi
người bào chữa) và Điều 58 (Quyền và ng ĩa vụ của người bào chữa) có thể
hiểu người bào chữa là người được người bị tạm giữ, bị can và bị cáo hoặc
người đại diện hợp pháp của những người này chọn hoặc là luật sư do cơ
37
quan tố tụng p ân công để đứng ra đại diện cho ý chí của người bị tạm giữ, bị
can và bị cáo, và bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích của họ bằng cách làm
sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp lý [45].
Căn cứ t eo Điều 56, khoản 1, Bộ luật TTHS 2003 người bào chữa có
thể là luật sư người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can và bị cáo
hoặc bào chữa viên nhân dân. Trong qua trình soạn thảo Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 cũng có ý kiến đề nghị chỉ quy định Luật sư mới là người bào
chữa, còn những người khác nếu bào chữa thì quyền và ng ĩa vụ của họ n ư
đối với Luật sư n ưng ý kiến này k ông được chấp nhận vì Luật sư là k ái
niệm nghề nghiệp còn người bào chữa là khái niệm tố tụng [67, tr.97]. Khái
niệm Luật sư được địn ng ĩa t eo Luật Luật sư sửa đổi, bổ sung số
20/2012/QH13 là: “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn điều kiện hành nghề theo
quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá n ân cơ
quan, tổ chức” và “tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trong vụ án hình sự.” (Điều 22, khoản 1 Luật Luật sư).
Bên cạnh Luật sư có t ể là người bào chữa c o người bị tạm giữ, bị can
và bị cáo người đại diện hợp pháp của họ có thể là người bào chữa. Bộ Luật
hình sự k ông địn ng ĩa về khái niệm người đại diện hợp pháp, mà chỉ nhắc
đến khái niệm này đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người c ưa
thành niên, hoặc người có n ược điểm về thể chất hoặc tâm thần, cụ thể đó là
cha, mẹ, hoặc người đỡ đầu của họ t eo T ông tư liên n àn số 01/TTLN
ngày 8/12/1988 của TAND tối cao. Bộ luật hình sự và tố tụng hình sự hiện
àn k ông quy định cụ thể về người đại diện hợp pháp nên trong quá trình
vận dụng pháp luật các cơ quan người thi hành tố tụng v n viện d n bằng
38
những quy địn tương ứng giữa pháp luật tố tụng hình sự và Bộ luật dân sự,
t eo đó người đại diện hợp pháp của người bị buộc tội bao gồm: cha, mẹ,
người giám hộ (đối với con CTN). Đối với người bị buộc tội là người đã
t àn niên người đại diện hợp pháp của họ là những người được cơ quan
THTT cho phép tham gia tố tụng t eo quy định của pháp luật [67, tr.97].
K i người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can và bị cao
đồng thời cũng là người bào chữa t ì người đại diện theo pháp luật sẽ thực
hiện quyền và ng ĩa vụ của người bào chữa và quyền và ng ĩa vụ của người
đại diện theo pháp luật.
Luật cũng đặt ra khái niệm bào chữa viên N ân dân là người bào chữa
c o người bị tạm giữ, bị can và bị cáo. Khái niệm bào c ưa viên N ân dân
xuất phát từ Hiến p áp 1946 Điều 67 tuy n iên c o đến nay c ưa có văn bản
nào giải thích khái niệm này.
* Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
Quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo phụ thuộc rất nhiều vai trò
của người bào chữa trong trường hợp họ thực hiện quyền bào chữa. Vì vậy,
việc bảo đảm quyền bào chữa phụ thuộc nhiều vào pháp luật quy định về
quyền của người bào chữa. Người bào chữa có những quyền sau theo Khoản
2 Điều 58 BLTTHS 2003:
a) Có mặt k i lấy lời k ai của người bị tạm giữ k i ỏi cung
bị can và nếu Điều tra viên đồng ý t ì được ỏi người bị tạm giữ bị
can và có mặt trong n ững oạt động điều tra k ác; xem các biên
bản về oạt động tố tụng có sự t am gia của mìn và các quyết địn
tố tụng liên quan đến người mà mìn bào c ữa;
b) Đề ng ị Cơ quan điều tra báo trước về t ời gian và địa
điểm ỏi cung bị can để có mặt k i ỏi cung bị can;
c) Đề ng ị t ay đổi người tiến àn tố tụng người giám địn
39
người p iên dịc t eo quy địn của Bộ luật này;
d) T u t ập tài liệu đồ vật tìn tiết liên quan đến việc bào
c ữa từ người bị tạm giữ bị can bị cáo người t ân t c của
n ững người này oặc từ cơ quan tổ c ức cá n ân t eo yêu cầu
của người bị tạm giữ bị can bị cáo nếu k ông t uộc b mật n à
nước b mật công tác;
đ) Đưa ra tài liệu đồ vật yêu cầu;
e) Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can bị cáo đang bị tạm giam;
g) Đọc g i c ép và sao c ụp n ững tài liệu trong ồ sơ vụ án
liên quan đến việc bào c ữa sau k i kết t úc điều tra t eo quy địn
của p áp luật;
) T am gia ỏi tran luận tại p iên toà;
i) K iếu nại quyết địn àn vi tố tụng của cơ quan người
có t ẩm quyền tiến àn tố tụng;
k) K áng cáo bản án quyết địn của Toà án nếu bị cáo là
người c ưa t àn niên oặc người có n ược điểm về tâm t ần oặc
t ể c ất quy địn tại điểm b k oản 2 Điều 57 của Bộ luật này.
Quyền có mặt lấy lời k ai k i người bị tạm giữ đã t ể hiện tính công
bằng, dân chủ trong việc tham gia vào quá trình lấy lời khai. Vai trò của
người bào chữa trong thời điểm này giúp người bị tạm giữ ổn định về mặt tâm
lý và tạo áp lực cho người tiến hành các hoạt động điều tra thận trọng ơn k i
điều tra, tuân thủ pháp luật. Việc tham gia ngay từ giai đoạn này cũng giúp
người bào chữa có cơ ội t eo dõi quá trìn điều tra, thu thập chứng cứ ngay
từ giai đoạn đầu để chuẩn bị bào chữa c o người bị tạm giữ tại phiên toàn sau
này. Người bào chữa cũng có quyền được xem các biên bản về hoạt động tố
tụng có sự tham gia của mìn trong quá trìn đó. Đây là quy định bổ sung
thêm so với BLTTHS 1988. Quy định góp phần minh bạc công k ai và đảm
40
bảo sự khách quan trong hoạt động điều tra. Đồng thời cũng là cơ ội để hiểu
rõ ơn về bất lợi của người bị tạm giữ mà người bào chữa cần biết cho hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa sau này.
Người bào chữa có quyền đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời
gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can. Quy định này
trao quyền chủ động c o người bào chữa trong quá trìn điều tra vụ án đảm
bảo người bào chữa có thể tham gia các hoạt động hỏi cung đảm bảo quyền
bào chữa cho bị can.
Người bào chữa có quyền đề nghị t ay đổi người tiến hành tố tụng,
người giám địn người phiên dịc . Người bào chữa là người đại diện cho lợi
ích và ý chí của người mà họ bào chữa, vì vậy nếu xét thấy người tiến hành tố
tụng người giám địn người phiên dịch có dấu hiệu gây bất lợi, công bằng,
khách quan cho vụ án người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan có t ẩm
quyền t ay đổi những người này t eo quy định của pháp luật.
Quyền thu thập tài liệu đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo người thân thích của những người này hoặc
từ cơ quan tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
nếu không thuộc bí mật N à nước, bí mật công tác. Đây là quy định mới so
với BLTTHS 1988 giúp c o người bào chữa có cơ ội tự mình thu thập bằng
chứng cho vụ án trong bất kỳ thời điểm nào của quá trình tố tụng, ở bất cứ
nguồn nào mà pháp luật không cấm.
Người bào chữa có quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa.
Quyền này là một trong những quyền quan trọng thể hiện tiếng nói của bị
cáo. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử công khai kiểm tra t n đúng đắn của
cáo trạng thông qua quá trình thẩm vấn và tranh luận công khai. Tại đây
những chứng cứ thu thập được từ những giai đoạn trước được đưa ra để xác
min t n đúng đắn qua đó làm rõ mọi tình tiết của vụ án để giúp cho Tòa án
41
đưa ra bản án thích hợp.
Trong quá trình tiến hành tố tụng, nếu xét thấy có hành vi của cơ quan
tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng là trái pháp luật, xâm phạm đến
quyền và lợi ích của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo người bào chữa có
quyền khiếu nại quyết địn àn vi đó.
Người bào chữa có quyền kháng cáo bản án, quyết định của tòa án
nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này. Đây là
quyền độc lập của người bào chữa chỉ áp dụng đối với bị cáo là người chưa
thành niên, hoặc có khuyết điểm về thể chất, tinh thần. Lý do quyền này
được trao cho người bào chữa vì nhận thấy rằng người chưa thành niên,
người có khuyết điểm về thể chất, tinh thần chưa hoặc không có nhận thức
đầy đủ về pháp luật nên khó phát hiện ra điểm bất hợp pháp trong bản án
của Tòa án. Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích của bị cáo, người bào chữa
được trao quyền này.
Bên cạnh những quy định về quyền của người bào chữa, thì tại khoản
3 Điều 58 Bộ luật TTHS cũng quy địn các ng ĩa vụ của người bào chữa khi
t am gia TTHS n ư sau: giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ; k ông được từ chối bào chữa c o người
mà mìn đã đảm nhận bào chữa, nếu k ông có lý do c n đáng; tôn trọng
sự thật khách quan và pháp luật; k ông được mua chuộc cưỡng ép hoặc xúi
giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; k ông được
tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không
được sử dụng tài liệu đã g i chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đ c
xâm phạm lợi c n à nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan tổ chức
và cá n ân; người bào chữa làm trái luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi
phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành
42
chính hoặc bị truy cứu TNHS.
Đối với quy định về bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự, BLTTHS
2003 đã có t ay đổi rõ rệt. Đầu tiên, pháp luật trao c o đương sự quyền nhờ
luật sư bào c ữa viên Nhân dân, hoặc người k ác để bảo vệ quyền và lợi ích
của mìn . Người bảo vệ quyền và lợi c c o đương sự được tham gia tố tụng
kể từ khi khởi tố bị can. Khi tham gia tố tụng người bảo vệ quyền và lợi ích
có quyền và ng ĩa vụ t eo quy định tại Khoản 3, Khoản 4 Điều 59:
3. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền:
a) Đưa ra tài liệu đồ vật yêu cầu;
b) Đọc g i c ép và sao c ụp n ững tài liệu trong ồ sơ vụ án
liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của đương sự sau k i kết t úc
điều tra t eo quy địn của p áp luật;
c) T am gia ỏi tran luận tại p iên toà; xem biên bản p iên tòa;
d) K iếu nại quyết địn àn vi tố tụng của cơ quan người
có t ẩm quyền tiến àn tố tụng.
Người bảo vệ quyền lợi của người bị ại nguyên đơn dân sự
bị đơn dân sự có quyền đề ng ị t ay đổi người tiến àn tố tụng
người giám địn người p iên dịc t eo quy địn của Bộ luật này.
Đối với đương sự là người c ưa t àn niên người có n ược
điểm về tâm t ần oặc t ể c ất t ì người bảo vệ quyền lợi của ọ
có quyền có mặt k i cơ quan tiến àn tố tụng lấy lời k ai của
người mà mìn bảo vệ; k áng cáo p ần bản án quyết địn của Toà
án có liên quan đến quyền lợi ng ĩa vụ của người mà mìn bảo vệ.
4. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có ng ĩa vụ:
a) Sử dụng mọi biện p áp do p áp luật quy địn để góp p ần
làm rõ sự t ật của vụ án;
b) Giúp đương sự về mặt p áp lý n ằm bảo vệ quyền lợi c
43
ợp p áp của ọ.
N ư vậy quy định về quyền bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích của
đương sự trong BLTTHS 2003 đã có bước tiến rõ rệt trong việc đảm bảo
quyền của công dân trong tố tụng hình sự.
2.1.2. Quy định củ Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về việc thực hiện
quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự
Bộ luật TTHS 2015 đã t ể hiện đúng tin t ần của Hiến p áp năm
2013 và đã t ể chế hóa rõ các nguyên tắc cơ bản về quyền bào chữa suy đoán
vô tội và tranh tụng trong xét xử trong các điều khoản của Bộ luật, tạo cơ sở
p áp lý điều kiện cần thiết để các bên trong TTHS tiến hành các hoạt động
buộc tội, bào chữa, xét xử một các bìn đẳng; đảm bảo nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa được thực hiện hiệu quả, tạo điều kiện c o người bị buộc tội
thực hiện tốt nhất quyền bào chữa, bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình [80],
đồng thời cũng đảm bảo yêu cầu ấp bách, kịp thời, minh bạch, khách quan của
công cuộc phòng, chống tội phạm đồng thời tôn trọng và bảo đảm quyền con
người, dân chủ hóa hoạt động TTHS.
Khác với BLTTHS năm 2003 c ỉ dàn riêng 03 Điều luật c n để quy
định về quyền bào chữa, thì tại BLTTHS năm 2015 đã dàn một c ương
(c ương V) với 11 Điều, từ Điều 72 đến Điều 82 để quy định các vấn đề liên
quan đến bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội nhằm bảo đảm
quyền này được thực hiện tốt, khả thi trong thực tế. BLTTHS 2015 có một số
điểm mới đáng lưu ý so với BLTTHS 2003 n ư sau:
Thứ nhất, áp dụng nguyên tắc “Suy đoán vô tội” n ư là nguyên tắc cơ
bản của BLTTHS 2015. Điều 31, khoản 1 Hiến p áp 2013 quy địn : “người
bị buộc tội được coi là không có tội c o đến k i được chứng minh theo trình
tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có iệu lực pháp luật” để phù
hợp pháp quy định của Hiến p áp Điều 13 BLTTHS 2015 một lần nữa khẳng
44
định lại vai trò, tầm quan trọng của nguyên tắc này n ư sau:
Điều 13. Suy đoán vô tội
Người bị buộc tội được coi là không có tội c o đến k i được
chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản
án kết tội của Tòa án đã có iệu lực pháp luật.
K i k ông đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội,
kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy địn t ì cơ quan
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc
tội không có tội.
Nguyên tắc suy đoán vô tội còn bảo vệ được quyền của người bị buộc
tội đem đến sự cân bằng trong hoạt động tố tụng hình sự giữa một bên là các
cơ quan tiến hành tố tụng với chức năng buộc tội và một bên là người bị buộc
tội với chức năng bào c ữa. Đây là nguyên tắc tiến bộ, bảo vệ chính sách
n ân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị truy cứu trách nhiệm
hình sự và đặt ra yêu cầu cao ơn c o n ững người tiến hành tố tụng trong
việc chứng minh tội phạm. Nguyên tắc này có mối quan hệ mật thiết với
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa cũng n ư bảo đảm quyền của người bị
bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo được trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không
buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có
tội. Quy địn này có ưu điểm là quyền của người bị buộc tội cơ bản được bảo
đảm, trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng được nâng lên [83].
Thứ hai, thể chế hóa nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Điều 26
BLTTHS 2015 đã quy định chi tiết nội dung về việc đảm bảo nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử, cụ thể: “Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, điều
tra viên, kiểm sát viên, người bị buộc tội, người bào chữa và những người tham
gia tố tụng khác đều có quyền ình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá
chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án....”. N ư vậy
45
Điều 26 đã xác định rõ mối quan hệ, vị trí giữa những người tiến hành tố tụng
và những người tham gia tố tụng trong việc đưa ra chứng cứ, đán giá chứng
cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án là bình đẳng, đây là
tiền đề quan trọng để các chủ thể thực hiện hoạt động tranh tụng bảo vệ quan
điểm, quyền lợi của mình khi tham gia tố tụng. Chỉ trên cơ sở bình đẳng trong
việc đưa ra chứng cứ, đán giá chứng cứ thì hoạt động tranh tụng mới đảm
bảo chất lượng, hiệu quả và thực thi [83].
Thứ ba, mở rộng đối tượng của quyền bào chữa. Nếu n ư BLTTHS
2003 đặt ra quyền bào chữa c o người bị tạm giữ, bị can, bị cáo t ì đến với
Bộ luật 2015 đối tượng của quyền bào chữa là người bị buộc tội.
Điều 16. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại đương sự
Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư oặc
người khác bào chữa.
Cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách
nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm c o người bị buộc tội, bị
hại đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích
hợp pháp của họ t eo quy định của Bộ luật này.
Khái niệm người bị buộc tội là một thuật ngữ pháp lý mới. T eo đó
người bị buộc tội gồm người bị bắt người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Khoản đ
Điều 4). N ư vậy đối với Bộ luật này người bị bắt có quyền bào chữa theo
đúng tin t ần đảm bảo quyền bào chữa của công dân theo Hiến pháp 2013.
T eo Đoạn 2 Điều 16 trong trường hợp người bị buộc tội hoặc người đại
diện hợp pháp của người bị buộc tội không mời người bào chữa t ì cơ quan
người có thẩm quyền thực hiện hoạt động tố tụng phải yêu cầu đoàn luật sư
cử người bào chữa cho họ.
Thứ tư người bào chữa tham gia vào quá trình tố tụng sớm ơn so
46
BLTTHS 2003. Nếu n ư tại BLTTHS 2003 người bào chữa bắt đầu tham gia
hoạt động tố tụng khi một người bị bắt giữ tuy n iên t eo Điều 58 và Điều 74
BLTTHS 2015 người bào chữa được tham gia bảo vệ quyền bào chữa cho
công dân kể từ thời điểm một người bị bắt. Quy địn đem lại c o người bị
buộc tội có quyền bìn đẳng về quyền và lợi ích với cơ quan k ác đồng thời
giúp họ bình ổn tâm lý, tránh những sai sót trong quá trình tố tụng của cơ
quan có thẩm quyền, góp phần giải quyết vụ án chính xác.
Thứ năm, mở rộng khái niệm Trợ giúp viên pháp lý. Trợ giúp viên
p áp lý là người tham gia tố tụng với tư các người đại diện hợp pháp của
người bị buộc tội và đương sự. Điều 72, khoản d BLTTHS 2015 liệt kê Trợ
giúp viên pháp lý một trong những người bào chữa n ư sau: “Trợ giúp viên
pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp
pháp lý.” Quy định mở rộng đối tượng người bào chữa nhằm tạo điều kiện
thuận lợi để bảo vệ tốt ơn quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội mà
còn phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tiễn hiện nay k i đa p ần trợ giúp
viên p áp lý đều không có thẻ luật sư nên k ó k ăn trong việc tiếp cận và bảo
vệ quyền lợi của người bị buộc tội [83].
Thứ sáu mở rộng các trường ợp bắt buộc p ải có người bào c ữa. Bộ
Luật 2015 bổ sung các trường ợp bắt buộc p ải có người bào c ữa bao gồm:
bị can bị cáo về tội t eo k ung ìn p ạt có mức cao n ất là 20 năm tù
c ung t ân tử ìn ; người có n ược điểm về t ể c ất mà k ông t ể tự bào
c ữa được người có n ược điểm về tâm t ần; người dưới 18 tuổi t eo căn cứ
tại Điều 76 BLTTHS 2015.
Thứ bảy quy địn bị can có quyền đọc g i c ép bản sao tài liệu oặc
tài liệu được số óa. Điểm i k oản 2 Điều 60 BLTTHS năm 2015 quy địn bị
can có quyền “i) Đọc g i c ép bản sao tài liệu oặc tài liệu được số óa liên
quan đến việc buộc tội gỡ tội oặc bản sao tài liệu k ác liên quan đến việc
47
bào c ữa kể từ k i kết t úc điều tra k i có yêu cầu”. Quy địn này là điểm
mới quan trọng đảm bảo quyền cơ bản của bị can, bị cáo, là sự ghi n ận về
mặt pháp lý để bị can, bị cáo t ực iện các quyền của mình một cách bình
đẳng. P ạm vi tài liệu bị can được đọc là các tài liệu liên quan đến việc buộc
tội gỡ tội. T ời điểm bị can được tiếp cận đến các tài liệu này là khi kết thúc
điều tra, muốn t ực iện được quyền này, bị can p ải đưa ra yêu cầu của mình
cho người có t ẩm quyền.
Thứ tám, thay thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa bằng thủ tục
đăng ký bào chữa. Để việc bào c ữa được kịp t ời trán sự iểu lầm k ông
cần t iết BLTTHS năm 2015 đã t ay tên gọi “cấp Giấy c ứng n ận bào
c ữa” t àn cấp “Giấy đăng ký bào c ữa”; đồng t ời đơn giản t ủ tục rút
ngắn t ời ạn cấp xác n ận tư các t am gia tố tụng của người bào c ữa t eo
ướng: Trong t ời ạn 12 giờ kể từ k i có đề ng ị của người bào c ữa và ọ
xuất trìn đủ giấy tờ và đủ điều kiện để t am gia bào c ữa t ì Điều tra viên
Kiểm sát viên T ẩm p án được p ân công t ụ lý c n đối với vụ án p ải
cấp Giấy đăng ký người bào c ữa c o ọ. Văn bản t ông báo c o người đăng
ký bào c ữa (trường ợp c ấp n ận đăng ký) có giá trị sử dụng trong suốt quá
trìn tố tụng t ay vì c ỉ có giá trị trong từng giai đoạn tố tụng. Đồng t ời
BLTTHS 2015 còn có quy địn về việc t u ồi “Giấy đăng ký bào c ữa”
trong trường ợp người bào c ữa vi p ạm p áp luật [83].
Ngoài ra BLTTHS 2015 cũng bổ sung t êm quyền c o người buộc tội
t eo quy địn từ Điều 58 đến Điều 61 bao gồm: Được n ận các quyết địn tố
tụng liên quan đến mìn ; Đưa ra c ứng cứ; Có quyền tự do trìn bày lời k ai
trìn bày ý kiến k ông buộc p ải đưa ra lời k ai c ống lại c n mìn oặc
buộc p ải n ận mìn có tội; Được n ận bản bào c ữa của người bào c ữa; Đề
ng ị t ay đổi người dịc t uật; Bị cáo có quyền trực tiếp ỏi n ững người
t am gia tố tụng nếu được C ủ tọa p iên tòa đồng ý.
48
Về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, BLTTHS 2015 có những biến đổi
rõ rệt trong việc đảm bảo quyền bìn đẳng của các bên trong tố tụng hình sự.
Đầu tiên đối với quyền lựa chọn người bảo vệ của đương sự, pháp luật cho
p ép đương sự được lựa chọn người bảo vệ cho quyền và lợi ích của mình
trong vụ án hình sự. Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự có thể là
Luật sư người đại diện, bào chữa viên nhân dân hay trợ giúp viên pháp lý
t eo Điều 84, khoản 2 BLTTHS 2015. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự có
quyền bào vệ lợi ích hợp pháp của mình hoặc nhờ người khác bảo vệ lợi ích
của mìn n ưng xét về bản chất đó k ông p ải là việc bào chữa. BLTTHS
năm 2015 cũng n ư các văn bản p áp lý liên quan c ưa có k ái niệm pháp lý
chính thức về quyền bào chữa.
Bộ luật TTHS 2015 lần đầu quy địn trìn tự t ủ tục truy cứu trác
n iệm ìn sự của p áp n ân c o nên p áp n ân đến lượt mìn cũng là c ủ
t ể được ưởng quyền bào c ữa bảo vệ quyền lợi của mìn . T eo quy địn
tại điểm ( ) k oản 1 Điều 435 Bộ luật TTHS 2015 người đại diện t eo pháp
luật của p áp n ân có quyền tự bào c ữa n ờ người k ác bào c ữa c o p áp
n ân. Ngoài ra đối với n ững trường ợp người bị buộc tội mà k ung ìn
p ạt cao n ất đến 20 năm tù tù c ung t ân tử ìn t eo điểm (a) k oản 1
Điều 76 Bộ luật TTHS 2015 t ì cơ quan tiến àn tố tụng bắt buộc p ải c ỉ
địn người bào c ữa.
Đồng t ời BLTTHS 2015 cũng bổ sung t êm quyền c o người bảo vệ
quyền và lợi c ợp p áp so với BLTTHS 2003 n ư là: Kiểm tra đán giá và
trìn bày ý kiến về c ứng cứ tài liệu đồ vật liên quan và yêu cầu người có
t ẩm quyền tiến àn tố tụng kiểm tra đán giá; êu cầu giám địn địn giá
tài sản; Có mặt k i cơ quan có t ẩm quyền tiến àn tố tụng lấy lời k ai đối
c ất n ận dạng n ận biết giọng nói của người mà mìn bảo vệ; đọc g i
c ép sao c ụp n ững tài liệu trong ồ sơ vụ án liên quan đến việc bảo vệ
49
quyền lợi của bị ại và đương sự sau k i kết t úc điều tra. N ững quy địn
này c o t ấy người bảo vệ quyền và lợi c ợp p áp được t am gia sớm ơn
và sâu ơn vào trong quá trìn tố tụng đảm bảo tốt ơn quyền của đương sự
mà ọ bảo vệ.
2.2. Thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
2015 về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng
hình sự
2.2.1. Kết quả thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
2015 về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng
hình sự
Để đán giá việc thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong TTHS có căn cứ và cơ sở khoa học
nhằm góp phần hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền bào chữa và bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, cần đến việc xem xét, nghiên cứu
những vấn đề thực tiễn đặt ra để điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện lý luận trên
cơ sở tổng kết. Bởi lẽ, thực tiễn là công cụ kiểm nghiệm chính xác nhất, là sự
phản hồi hiệu quả của lý luận.
BLTTHS 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 t n đến nay thời gian
áp dụng còn ngắn, vì vậy d n đến thiếu vắng những văn bản pháp quy quy
định về bảo đảm quyền bào chữa cũng n ư quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại,
đương sự, nhằm đảm bảo việc áp dụng pháp luật được thống nhất.
BLTTHS 2015 có bước chuyển rất mạnh mẽ liên quan đến chế định
quyền bào chữa so với pháp luật TTHS 2003, vì vậy trong quá trình thực hiện
Bộ luật này cơ quan người có thẩm quyền cần phải có trách nhiệm giải thích
đầy đủ các quy địn này c o người bị buộc tội, tạo điều kiện để người bị buộc
tội có cơ ội được tiếp cận với luật sư người trợ giúp pháp lý, bào chữa viên
Nhân dân, xây dựng quy chế làm việc của người bào chữa khi tiếp xúc với
50
người bị bắt người bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ, trại tạm giam hoặc
cơ sở giam giữ k ác và được áp dụng thống nhất trên phạm vi cả nước ướng
d n sau k i người bào chữa đăng ký bào c ữa c o người bị buộc tội thì họ có
quyền đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng tạm hoãn
các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trong thời gian hợp lý để họ có đủ thời
gian nghiên cứu về vụ việc thực hiện quyền bào chữa [85].
Trong quá trình thi hành, áp dụng BLTTHS 2015, nhận thấy quyền im
lặng c ưa được cơ quan người có thẩm quyền phổ biến rõ ràng c o người bị
bắt người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và trong một số trường hợp người bị buộc
tội k ông được sử dụng quyền im lặng [19]. Quyền im lặng của người bị tạm
giữ, tạm giam là nhằm thể hiện sự đối xử công bằng giữa điều tra viên cơ
quan tiến hành tố tụng và người bị tạm giữ, tạm giam. Mặc dù pháp luật
TTHS c ưa g i n ận trực tiếp quyền này n ưng nó đã xuất hiện trong
BLTTHS tại Điểm d, Khoản 1 Điều 58 quy định về quyền của người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp và người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả
tang và người bị bắt theo quyết địn truy nã; Điểm c, Khoản 2 Điều 59 về
quyền của người bị tạm giữ; Điểm d, Khoản 2 Điều 60 về quyền của bị can;
Điểm h, Khoản 2 Điều 61 về quyền của bị cáo n ư sau: “Trình ày lời khai,
trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc
buộc phải nhận mình có tội;”. N ư vậy người bị giữ người bị bắt người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền trình bày ý kiến, lời khai, và không buộc phải
đưa ra lời khai không có lợi cho mình hay buộc mình phải nhận tội, họ có thể
tự chủ về hành vi khai báo của mình. Mặc dù pháp luật quy địn n ư vậy, tuy
nhiên trên thực hiện quyền này c ưa được thực hiện rộng rãi.
Ngoài ra trong t ực tiễn t i àn quy địn về quyền bào c ữa về
TTHS một số quy địn mới k ó có điều kiện để t ực t i trong một số k u
vực tỉn n ất địn có t ể kể đến là t ực iện quy địn về lựa c ọn người bào
51
c ữa trong một số k u vực biển đảo vùng núi k u vực có n iều k ó k ăn
trong đi lại ơn các k u vực t àn p ố trung tâm. T eo quy địn tại K oản 2
Điều 75 của BLTTHS năm 2015 có nêu:
2. Trong t ời ạn 12 giờ kể từ k i n ận được đơn yêu cầu
người bào c ữa của người bị bắt bị tạm giữ t ì cơ quan có t ẩm
quyền đang quản lý người bị bắt người bị tạm giữ có trác n iệm
c uyển đơn này c o người bào c ữa người đại diện oặc người t ân
t c của ọ. Trường ợp người bị bắt người bị tạm giữ k ông nêu
đ c dan người bào c ữa t ì cơ quan có t ẩm quyền đang quản lý
người bị bắt bị tạm giữ p ải c uyển đơn này c o người đại diện oặc
người t ân t c của ọ để n ững người này n ờ người bào c ữa.
Trong t ời ạn 24 giờ kể k i n ận được đơn yêu cầu người
bào c ữa của người bị tạm giam t ì cơ quan có t ẩm quyền đang
quản lý người bị tạm giam có trác n iệm c uyển đơn này c o
người bào c ữa người đại diện oặc người t ân t c của ọ.
Trường ợp người bị tạm giam k ông nêu đ c dan người bào
c ữa t ì cơ quan có t ẩm quyền đang quản lý người bị tạm giam
p ải c uyển đơn này c o người đại diện oặc người t ân t c của
ọ để n ững người này n ờ người bào c ữa.
Quy định này nhằm mục đ c đảm bảo trong thời gian 12 giờ kể từ thời
điểm người bị bắt, bị tạm giữ chuyển đơn yêu cầu người bào chữa và 24 giờ
kể từ thời điểm người bị tạm giam gửi đơn yêu cầu người bào chữa c o cơ
quan người có thẩm quyền t ì cơ quan người có thẩm quyền có nhiệm vụ
chuyển đơn này c o người bào chữa người đại diện hoặc người thân của
những người này trong thời hạn pháp luật quy định. Tuy nhiên, vì hoàn cảnh
địa lý khách quan của khu vực biển đảo, miền núi, thời hạn 12 giờ hay 24 giờ
khó có thể được đảm bảo. Sự k ó k ăn được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác
nhau n ư: Việc bố trí số lượng luật sư không hợp lý giữa các vùng miền n ư
52
hiện nay (một số tỉnh miền núi có số lượng luật sư và Trợ giúp viên pháp lý
rất ít và chỉ tập trung tại thành phố, thị xã của tỉnh) đã gây nhiều thiệt thòi cho
chính bản thân những người bị buộc tội vì bản thân những người bị buộc tội
và người đại diện hoặc thân thích của họ không có nhiều sự lựa chọn Luật sư
bào chữa, gây khó k ăn cho cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng. Ở điều kiện bình t ường, việc di chuyển, đi lại đã rất khó k ăn do điều
kiện về cơ sở hạ tầng, p ương tiện c ưa đáp ứng được tình hình thực tế. Để
chuyển được đơn đến đúng người bào chữa hay người đại diện hoặc người
thân thích của họ đôi khi phải mất rất nhiều thời gian mới thực hiện được.
Bên cạnh đó những khu vực có điều kiện n ư trên t ường chịu sự ảnh ưởng,
tác động của điều kiện thời tiết n ư là miền núi, vùng cao trời mưa có thể đi
lại rất khó k ăn khu vực hải đảo gió cấp 5, cấp 6 thì các p ương tiện vận tải
không được phép lưu thông [79].
Theo báo cáo thống kê của Liên đoàn Luật sư Việt Nam số lượng các
vụ án hình sự có luật sư hoặc người bào chữa n ư sau: Năm 2015 có 11.960
vụ, Năm 2016 có 13.078 vụ, năm 2017 có 18.700 vụ, năm 2018 thống kê
c ưa đầy đủ có 19.150 vụ. N ư vậy, đã có chiều ướng gia tăng số vụ xét xử
sơ thẩm hình sự có sự tham gia của luật sư/người bào chữa.
Biểu đồ 2.1: So sánh số vụ xét xử hình sự sơ thẩm có sự tham gia của luật
53
sư/người bào chữa trong các năm 2015-2018
Ngoài ra, pháp luật TTHS 2015 bổ sung thêm trường hợp bắt buộc
phải có sự tham gia của luật sư bào chữa n ư đã trình bày ở trên, quá trình
thực hiện quy định này cũng có khó k ăn bởi hiện nay một số tỉnh thành
không có đủ số lượng luật sư trợ giúp viên pháp lý và chất lượng còn nhiều
hạn chế. Theo thống kê, tỷ lệ luật sư trên dân số Việt Nam hiện nay khoản
1/7.000 dân, trong khi tỷ lệ này tại Singapore là 1/1.000, Thái Lan là
1/1.526. Đó là c ưa nói số luật sư ở Việt Nam chỉ tập trung ở hai thành phố
lớn là Hà Nội (1.630 luật sư) và TPHCM (2.880 luật sư) [77]. Với tỷ lệ này
cho thấy số lượng Luật sư Trợ giúp viên pháp lý c ưa đủ để đáp ứng n ư
cầu hiện tại.
Biểu đồ 2.2: So sánh tỉ lệ luật sư trên tổng dân số tại một số quốc gia
Châu Á – Thái Bình Dương
2.2.2. Những hạn chế trong thực hiện các quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự 2015 về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
trong tố tụng hình sự
Mặc dù BLTTHS năm 2015 đã t ể hiện được sự tiến bộ trong quy định
về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp so với quy định về
54
quyền bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự từ trước đến nay, ghi nhận,
đảm bảo, thể chế hóa các nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp 2013. Tuy nhiên,
quy định về quyền bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp v n còn tồn
tại, bất cấp dựa trên thi hành pháp luật TTHS trên thực tế.
Thứ nhất quy định về thời điểm bắt đầu tham gia tố tụng của người bào
chữa. T eo BLTTHS 2015 người bào chữa bắt đầu tham gia qua trình tố tụng
kể từ thời điểm một người bị bắt. Tuy n iên BLTTHS 2015 c ưa có cơ c ế
đảm bảo cho việc thực hiện quyền này của người bào chữa, vì vậy trên thực tế
người bị bắt có mong muốn được mời Luật sư bào c ữa n ưng để gặp Luật sư
rất k ó k ăn. K i người nhà, người thân thích của người bị bắt đến gặp Luật
sư đề nghị Luật sư tham gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
người bị bắt, Luật sư thực hiện các thủ tục để gặp và làm việc thì bị cơ quan
điều tra từ chối [19].
Ví dụ, ngày 24/6/2018, luật sư của bị can Đỗ Hồng Hải trong vụ tham ô
tài sản xảy ra tại Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Nam
Khánh Hòa đã gửi kiến nghị yêu cầu được gặp bị can đang bị tạm giam đến
cơ quan Cảnh sát điều tra công an tỉnh Khánh Hòa và Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Khánh Hòa. Tuy nhiên, sau khi gửi kiến nghị này, luật sư c ưa nhận
được câu trả lời thì cơ quan điều tra đã có kết luận điều tra vụ án [78]
Thứ ai quy địn bị can có quyền đọc g i c ép bản sao tài liệu oặc
tài liệu được số óa. Trên t ực tế việc bị can, bị cáo được trình bày một cách
bình đẳng diễn biến các tình tiết khách quan của vụ án đã là điều rất khó
k ăn có n ững vụ án, bị can, bị cáo được địn ướng sẵn để có t ể trả lời.
Điều này xuất phát từ tâm lý hoang mang, lo sợ khi bị tạm giam, tạm giữ
n ưng một p ần cũng xuất phát từ n ững ạn c ế của các điều tra viên. Khi
tham gia ỏi cung các bị cáo, Luật sư mang giấy trắng bút viết để có t ể ghi
chép lại lời khai cũng bị điều tra viên xét ỏi vậy cơ c ế nào để đảm bảo cho
55
các bị can, bị cáo t ực iện quyền “đọc, ghi chép ản sao tài liệu…khi có yêu
cầu”, t ậm chí, Luật sư xin được sao c ụp các bút lục lời khai trong quá trình
điều tra n ưng cũng gặp không ít n ững khó k ăn. Quy địn này c ưa t ực sự
được áp dụng được trong t ực tiễn oặc nếu được áp dụng thì cơ c ế nào sẽ
đảm bảo việc các bị can, bị cáo được t ực iện điều này [19].
T ứ ba, quyền triệu tập thêm người làm c ứng trong p ần t ủ tục
tranh tụng tại phiên tòa. Căn cứ Điều 305 BLTTHS 2015 quy địn : “Chủ tọa
phiên tòa phải hỏi kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng xem ai có
yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng
và tài liệu ra xem xét hay không.” Tuy nhiên, BLTTHS 2015 không quy
địn về t ủ tục t ực iện quyền triệu tập thêm người làm c ứng sau khi kết
thúc p ần t ủ tục tại phiên tòa. Về mặt ý ng ĩa quy địn này n ằm đảm bảo
sự bình đẳng trước Tòa án giữa Viện kiểm sát và n ững người tham gia tố
tụng trong việc giải quyết các yêu cầu cung cấp c ứng cứ và đưa ra c ứng
cứ đồng t ời kịp t ời giải quyết các trường ợp tranh tụng tại phiên tòa có
xuất iện các tình tiết mới. Vì vậy quy địn này v n còn để ngỏ và c ưa
được t ực iện trong t ực tiễn.
T ứ tư trình tự xét ỏi. Quá trình xét ỏi là quá trình làm rõ các tình
tiết của vụ án cùng với đưa ra bằng c ứng. Theo quy địn tài k oản 1, Điều
307 của BLTTHS 2015 về trình tự xét ỏi theo đó “Chủ tọa phiên tòa điều
hành việc hỏi và quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý”. Quy
địn trên c ưa đảm bảo t ực iện nguyên tắc tranh tụng và bảo đảm quyền
bào c ữa của bị can, bị cáo. Về nguyên tắc Viện kiểm sát t ực iện c ức
năng buộc tội nên kiểm sát viên p ải t ực iện việc xét ỏi để làm rõ sự buộc
tội đó người bào c ữa t ực iện c ức năng gỡ tội nên người bào c ữa có
quyền t ực iện việc xét ỏi để bào c ữa cho bị cáo. Trong khi đó Tòa án có
trách n iệm xét xử và đưa ra phán quyết thông qua đán giá khách quan và
56
căn cứ vào quá trình tranh tụng tại phiên tòa. C o nên k i tiến àn t ủ tục
xét ỏi ội đồng xét xử c ỉ lắng ng e và c ủ tọa p iên tòa c ỉ giữ quyền điều
àn p iên tòa quyết địn c o ai ỏi ai duy trì t ời gian ỏi và có quyền cắt
các ý kiến các câu ỏi k ông đúng trọng tâm. Hội đồng xét xử k ông được có
n ững lời lẽ k ẳng địn ay p ủ địn bất cứ một vấn đề nào mà các bên t am
gia tran tụng nêu ra cũng n ư k ông được đán giá n ận xét đúng sai ngay
tại p iên tòa. Bởi lẽ c ức năng của Tòa án là xét xử t ông qua việc xét ỏi
ng e các bên tran luận ội đồng xét xử sẽ đưa ra p án quyết bằng bản án
nêu rõ àn vi của bị cáo có p ạm tội ay k ông p ạm tội ìn p ạt và các
biện p áp tư p áp k ác. Việc ội đồng xét xử t ể iện quan điểm ngay tại
p iên tòa sẽ ản ưởng đến việc tran tụng giữa các bên làm giảm iệu quả
tran luận [19]. Tuy n iên trong t ực tiễn xét xử Hội đồng xét xử sẽ t ực
iện quyền ỏi làm rõ vụ án trước sau đó lần lượt trao quyền ỏi c o kiểm sát
viên và người bào c ữa. Đặc biết có vụ án Tòa án đóng vai trò xét ỏi ết các
vấn đề của vụ án kiểm sát viên k ông còn vấn đề gì để ỏi. Điều này c o
t ấy quy địn n ư vậy c ưa t ực sự ợp lý đối với nguyên tắc tran tụng k i
Hội đồng xét xử có vai trò trung gian.
Pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự
đã có tiến bộ rõ rệt, thay đổi theo từng thời kỳ, phù hợp với Hiến pháp của
nước ta tại thời điểm đó. Quyền bào chữa và quy định về bảo vệ quyền, lợi
ích của đương sự là một quyền quan trọng của người bị buộc tội trong tố tụng
hình sự và được xem n ư là p ương tiện pháp lý cần thiết để chủ thể nói trên
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Càng mở rộng phạm vi quyền bào
chữa và quyền cho đương sự bao nhiêu thì càng mở rộng tính tranh tụng bấy
nhiêu và kết quả tương ứng là hạn chế khả năng làm oan sai người vô tội
trong xét xử. Xu thế phát triển của tố tụng hình sự nước ta đã đi theo ướng
57
đó. Người bào chữa chỉ có thể tham gia vào vụ án khi kết thúc điều tra, Bộ
luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 1988 thừa nhận sự tham gia của người
bào chữa sớm ơn rất nhiều - từ khi có quyết định khởi tố bị can, BLTTHS
năm 2003 quy định người bào chữa có quyền tham gia ngay từ khi có quyết
định tạm giữ. Đến BLTTHS năm 2015 đã có thêm bước tiến nữa khi quy định
người bào chữa được tham gia từ khi thân chủ bị bắt, đó là bước tiến quan
trọng thể hiện sự tiến bộ của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Thực hiện
quyền bào chữa của người bị buộc tội còn đảm bảo cho công tác điều tra, truy
tố và xét xử được diễn ra khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác, tránh để
xảy ra tình trạng oan sai và bỏ lọt tội phạm.
Tuy nhiên, thực tiễn tố tụng hình sự cho thấy việc bảo đảm quyền bào
chữa của người bị buộc tội và quyền của đương sự đôi khi còn gặp nhiều khó
k ăn bởi những trở ngại khác nhau n ư về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế,
văn hóa xã hội, sự phân bổ đội ngũ luật sư đội ngũ trợ giúp viên pháp lý [79]
Trên thực tế, việc các cơ quan nhà chức năng không đảm bảo quyền
bào chữa của bị can, bị cáo không phải là chuyện hiếm gặp. Trong thực tiễn
vụ việc tại tỉnh Sơn La, ngày 15/11/2017, Cơ quan An ninh điều tra tỉnh Sơn
La quyết định khởi tố vụ án, khởi tố 17 bị can về tội Cố ý làm trái quy định
của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng và Thiếu trách
nhiệm về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Trong 17 cán bộ bị khởi
tố có ông Triệu Ngọc Hoan (Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường), ông
Trương Tuấn Dũng (Phó giám đốc Sở Tài chính) và ông Phan Tiến Diện (Phó
giám đốc Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh).
Ngày 17/11/2017, Văn phòng Luật sư Tín Việt và Cộng sự đã nhận
được Giấy đề nghị luật sư của bà Đin Thị Lân (vợ ông Trương Tuấn Dũng)
mời hai Luật sư Trần Thu Nam và Luật sư Nguyễn Thị Huệ tham gia bào
58
chữa cho ông Trương Tuấn Dũng.
Ngày 29/11/2017, Cơ quan An ninh điều tra, Công an tỉnh Sơn La đã
cấp giấy chứng nhận người bào chữa số 01 và 02 cho hai Luật sư Trần Thu
Nam và Luật sư Nguyễn Thị Huệ (thuộc Văn phòng Luật sư Tín Việt và Cộng
sự) tham gia hoạt động tố tụng từ quá trình điều tra.
Sau khi kết thúc điều tra, ngày 07/6/2018, Cơ quan An ninh điều tra,
Công an tỉnh Sơn La đã ban hành Bản kết luận số 05/KLĐT-PA92 và chuyển
hồ sơ sang VKS nhân dân tỉnh Sơn La để đề nghị truy tố đối với các bị can có
liên quan trong vụ án.
Ngày 12/6/2018, Văn phòng luật sư Tín Việt và Cộng sự đã gửi hồ sơ
đăng ký tham gia tố tụng của các luật sư đến VKS nhân dân tỉnh Sơn La. Tuy
nhiên, đến ngày 27/6/2018 các luật sư v n c ưa nhận được văn bản thông báo
người bào chữa theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Trước đó với tinh thần trách nhiệm, ngày 26/6/2018, Luật sư Nguyễn
Thị Huệ đã trực tiếp đến trụ sở của VKS nhân dân tỉnh Sơn La để tìm hiểu sự
việc và đề nghị tiếp cận, sao chụp toàn bộ hồ sơ vụ án. Tại buổi làm việc,
KSV Lê Thu Hà đã không giao văn bản thông báo người bào chữa số 35/TB-
VKS, ngày 14/6/2018 của VKS nhân dân tỉnh Sơn La cho luật sư Huệ với lý
do không gửi trực tiếp mà chuyển qua đường bưu điện.
N ư vậy, ngày 14/6/2018, VKS nhân dân tỉnh Sơn La đã có Văn bản
thông báo số 35/TB-VKS, thế n ưng cho đến nay (ngày 04/7/2018) các luật
sư v n c ưa nhận được văn bản thông báo này, đây là việc làm cố tình của
VKS nhằm ngăn cản luật sư tham gia bào chữa cho thân chủ của mình.
Tiếp đó khi Luật sư Nguyễn Thị Huệ đề nghị được sao chụp tài liệu
của vụ án nhằm phục vụ cho việc bào chữa thì KSV Hà không cho Luật sư
Huệ tiếp cận toàn bộ hồ sơ mà chỉ đồng ý rút và cho sao chụp những lời khai
của bị can Trương Tuấn Dũng và những quyết định mà bị can Dũng đã từng
59
ký trước đây.
Nghiêm trọng ơn theo Luật sư Nguyễn Thị Huệ, KSV Lê Thu Hà còn
đưa ra yêu cầu “Nếu các luật sư vào trại tạm giam gặp bị can Trương Tuấn
Dũng phải báo cho KSV biết để KSV đi cùng tham gia những buổi làm việc
đó. Nếu luật sư không báo cáo có KSV thì luật sư không thể vào gặp bị can
60
Trương Tuấn Dũng được” [87].
Tiểu kết chương 2
Từ hệ thống cơ sở lý thuyết tại c ương 1, tác giả đã nghiên cứu thực
tiễn áp dụng pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích của đương
sự trong TTHS Việt Nam. Qua đó chỉ ra những hạn chế, thiếu sót trong quá
trình áp dụng pháp luật, cụ thể có những vấn đề sau: (i) Quy định về thời
điểm bắt đầu tham gia tố tụng của người bào chữa; (ii) quy định bị can có
quyền đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa; (iii) quyền triệu
tập thêm người làm chứng trong phần thủ tục tranh tụng tại phiên tòa; (iv) thủ
tục, trình tự xét hỏi.
Từ những hạn chế thiếu sót kể trên, tác giả đưa ra giải pháp khắc phục
61
trong c ương 3.
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
QUYỀN BÀO CHỮA VÀ BẢO VỆ QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TẠI VIỆT NAM
Xuất phát từ nhu cầu bảo vệ quyền con người đối với người bị cáo buộc
phạm tội trong TTHS Việt Nam; Xuất phát từ nhu cầu hoàn thiện pháp luật
t eo ướng phù hợp thực tiễn và hiệu quả bảo vệ công lý; Xuất phát từ thực
tiễn thực thi và giám sát việc thực thi pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp trong TTHS Việtn Nam; xuất phát từ yêu cầu cải cách
tư p áp; N u cầu hợp tác quốc tế trong TTHS t eo địn ướng hội nhập quốc
tế;... Người viết đưa ra một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
việc thực hiện quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong TTHS
tại Việt Nam n ư sau.
3.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự tại Việt Nam
3.1.1. Thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp trong tố tụng hình sự phù hợp với các nguyên tắc của văn
kiện quốc tế
Quyền bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân. Quyền
này bao gồm các quyền năng n ỏ và các biện pháp tố tụng mà người bị buộc
tội được thực hiện nhằm bảo vệ mình khỏi sự buộc tội, hoặc giảm nhẹ tội
hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khác của mìn . Người có quyền bào
chữa c n là người bị buộc tội và quyền bào chữa là một loại quyền năng tố
tụng, nó không thuộc về cơ quan tố tụng người tiến hành tố tụng ay người
tham gia tố tụng nào k ác ngoài người bị buộc tội. Việc pháp luật quy định
62
các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết để
tạo điều kiện c o người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa của họ nhằm
giải quyết vụ án khách quan, chính xác là phù hợp. Điều này đã được ghi
nhận cụ thể tại Điều 14 Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị
(ICCPR) và một số văn bản pháp lý quốc tế khác có liên quan [75].
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR), mà Việt
Nam đã gia n ập từ năm 1982 là văn kiện quốc tế có giá trị cao trong hệ
thống pháp luật quốc tế về quyền con người. Trong Công ước này, quyền bào
chữa được quy định tại Điều 14 dưới nội dung tổng quan là quyền được xét
xử công bằng. Điều 14 bên cạn quy định quyền bào chữa, còn ghi nhận cả
những quyền k ác để đảm bảo nguyên tắc xét xử công bằng trong hoạt động
tố tụng. Đồng thời, nội hàm của Điều 14 cũng trùng với các quy định về
“quyền được xét xử công bằng” ay ẹp ơn là quyền bào chữa trong nhiều
điều ước quốc tế về nhân quyền. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948)
(Tuyên ngôn) cũng đã bảo vệ quyền này khi khẳng định tại Điều 10 rằng mọi
người đều được ưởng quyền bìn đẳng hoàn toàn trong việc xem xét công
khai và công bằng bởi một Toà án “có năng lực độc lập và không thiên vị”.
Quyền bào chữa có vai trò đặc biệt là quyền bảo vệ các quyền khác.
Điều 14.3 ICCPR khẳng định trong quá trình xét xử hình sự, mọi người phải
được các bảo đảm tối thiểu liên quan đến quyền bào chữa. Các quyền đó bao
gồm quyền được biết lý do buộc tội, quyền bào chữa được trợ giúp pháp lý,
được xét xử n an c óng được đối chất với người làm chứng và một số
quyền khác.
Tuy nhiên trước hết để có thể thực hiện việc bào chữa người bị
buộc tội phải được thông báo về lý do buộc tội t eo Điều 14.3.a. Nguyên
tắc 10 trong Các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam giữ hay
63
tù dưới bất kỳ hình thức nào (1988) cũng n ấn mạnh quyền được thông báo
này của người bị bắt giữ. Bên cạnh quyền có đủ thời gian để chuẩn bị cho
việc bào chữa t eo Điều 14.3.b, bị cáo lại có quyền được xét xử nhanh
chóng tại Điều 14.3.c.
Quyền bào chữa của người bị buộc tội bao gồm quyền tự bào chữa và
quyền nhờ Luật sư. Điều 14.3.d ghi nhận cả hai quyền này của bị cáo. Nhiều
quốc gia trên thế giới, Luật sư có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo
đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. Nguyên tắc 10 trong Các nguyên
tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam giữ ay tù dưới bất kỳ hình thức nào
cũng k ẳng định quyền của bị can, bị cáo được liên lạc, tham khảo ý kiến với
Luật sư việc tiếp xúc với Luật sư p ải ngoài tầm nghe của quan chức thi hành
pháp luật. Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của Luật sư (1990) cũng đặc biệt
c ú ý đến vai trò của Luật sư trong tư p áp ìn sự. T eo đó các C n p ủ
có ng ĩa vụ bảo đảm c o người bị bắt, trong mọi trường hợp không quá 48
giờ được tiếp xúc với Luật sư. Bên cạnh quyền nhờ Luật sư cá n ân còn có
quyền được có phiên dịch miễn phí nếu không hiểu và nói được ngôn ngữ sử
dụng tại p iên toà t eo Điều 14.3.f.
Để đảm bảo quyền bào chữa còn có các quy địn liên quan đến chứng
min người làm chứng. Cá nhân có quyền thẩm vấn và yêu cầu thẩm vấn
những nhân chứng buộc tội mìn được mời người làm chứng gỡ tội cho mình
tới p iên toà n ư t eo Điều 14.3.e. Về ng ĩa vụ chứng minh, bị can, bị cáo
không phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình
có tội t eo Điều 14.3.g và ng ĩa vụ chứng minh trong vụ án hình sự thuộc về
phía công tố.
Đối chiếu với quy định về quyền này trong ICCPR với Công ước về
nhân quyền của một số khu vực (châu Âu, châu Mỹ c âu P i) cũng t ấy rất
nhiều điểm tương đồng. Công ước châu Âu về bảo vệ nhân quyền và tự do
64
căn bản (ECHR) năm 1950 tại Điều 6 cũng n ư Công ước châu Mỹ về nhân
quyền (1969) tại Điều 8 đều ghi nhận quyền bào chữa dưới tiêu đề Điều luật
là quyền được xét xử công bằng t eo đó k ẳng định quyền được xét xử bởi
“Toà án độc lập và không thiên vị được thiết lập theo luật p áp” trong các vụ
việc dân sự hay hình sự, quyền được suy đoán vô tội và các quyền tối thiểu
liên quan đến việc bị buộc tội. Tại các điều ước của một số khu vực k ác n ư
Điều 7 của Hiến c ương c âu P i về nhân quyền và quyền của các dân tộc,
n ưng cũng quy định về một số quyền n ư được k áng cáo được suy đoán vô
tội được bào chữa được xét xử bởi “một Toà án không thiên vị”. Cũng cần
lưu ý là c âu P i đã có riêng một văn kiện về quyền được xét xử công bằng là
Tuyên ngôn Dakar về quyền được xét xử công bằng tại c âu P i (2000) n ư
đã n ắc đến ở trên. Hiến c ương n ân quyền ả-rập (1994) dù k ông có điều
nào đề cập trực tiếp đến Toà án n ưng cũng có quy định về quyền được suy
đoán vô tội (Điều 7), quyền không bị xét xử hai lần được bồi t ường nếu bị
giam giữ oan (Điều 16). Các điều ước khu vực hiển nhiên chỉ có giá trị bắt
buộc đối với các quốc gia t am gia điều ước n ưng rõ ràng quyền bào chữa
được ghi nhận rất nhiều văn kiện quốc tế, và là vấn đề được cả thế giới quan
tâm, mong muốn đảm bảo thực hiện [86].
Bên cạn các văn kiện mang tính ràng buộc p áp lý (công ước điều
ước), nhiều văn kiện không mang tính ràng buộc p áp lý n ư Hướng d n,
Nguyên tắc, Quy tắc có liên quan đến bảo vệ quyền được xét xử công bằng,
quyền bào chữa. Chẳng hạn n ư liên quan đến người tiến hành tố tụng và các
ng ĩa vụ của họ có Các nguyên tắc cơ bản về t n độc lập của Toà án (1985),
Quy ước đạo đức của quan chức thi hành pháp luật (1979) Hướng d n về vai
trò của Công tố viên (1990)… Liên quan đến người tham gia tố tụng có Các
nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam ay tù dưới bất kỳ hình thức
nào (1988), Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về tư p áp người
65
c ưa t àn niên (Quy tắc Bắc Kinh) (1985), Quy tắc của Liên hợp quốc về
bảo vệ người c ưa thành niên bị tước quyền tự do (1990), Các nguyên tắc cơ
bản về vai trò của Luật sư (1990)… N ững văn kiện này dù không mang tính
ràng buộc về mặt p áp lý n ưng lại là những tiêu chuẩn c ung đã được cộng
đồng quốc tế nhất trí nhằm ướng đến bảo vệ nhân quyền và nhân phẩm của
con người – những giá trị mang tính phổ quát. Bên cạnh giá trị đạo đức và
chính trị các văn kiện này đã và đang được nghiên cứu và nội luật hoá bởi
nhiều quốc gia [86].
Tập hợp các văn kiện văn kiện mang tính ràng buộc và không mang
tính ràng buộc pháp lý nêu trên tạo nên một hệ thống các chuẩn mực quốc tế
về quyền bào chữa. Hệ thống chuẩn mực này có thể dùng làm t ước đo mức
độ tuân thủ của các quốc gia trên khía cạnh pháp luật thực định và thực tiễn
thi hành pháp luật. So sánh với pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay,
quy định về quyền bào chữa của Việt Nam đang trên đà oàn t iện ơn t eo
xu ướng quốc tế.
3.1.2. Thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp trong tố tụng hình sự nhằm bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp
Đảng và N à nước cũng n ận ra được lỗ hổng giữa pháp luật về quyền
bào chữa nói riêng và pháp luật tố tụng hình sự nói chung theo pháp luật Việt
Nam so với các quy định quốc tế, vì vậy một số Nghị quyết về hoàn thiện
pháp luật tố tụng hình sự đảm bảo quyền của công dân trong quá trình tố
tụng đặc biệt là quyền bào chữa. Phải kể đến là Nghị quyết 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 do Bộ Chính trị ban hành về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 địn ướng đến năm 2020 (“Ng ị
quyết 48”). T eo C iến lược này, một trong các địn ướng xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật tại Việt Nam là tiến àn “cải cách mạnh mẽ
các thủ tục tố tụng tư p áp t eo ướng dân chủ bìn đẳng, công khai, minh
66
bạch, chặt chẽ, n ưng t uận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân
dân đối với hoạt động tư p áp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên
toà xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại toà làm căn cứ quan trọng để phán
quyết bản án coi đây là k âu đột p á để nâng cao chất lượng hoạt động tư
p áp” [3]. Nghị quyết 48 còn nêu rõ địn ướng quan trọng của Đảng trong
việc phát triển đội ngũ luật sư tại Việt Nam có phẩm chất chính trị đạo đức,
trìn độ c uyên môn đồng thời đề cao trách nhiệm của các tổ chức hành
nghề luật sư p át uy ơn nữa vai trò tự quản của tổ chức xã hội – nghề
nghiệp của luật sư [3].
Tiếp đó Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về
Chiến lược cải các tư p áp đến năm 2020 (ngày 2/6/2005) về thực hiện chủ
trương và triển khai các nhiệm vụ cải các tư p áp. Ng ị quyết 49 xác định
mục tiêu cải các tư p áp là xây dựng nền tư p áp trong sạch, vững mạnh,
dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,
phụng sự tổ quốc Việt Nam xã hội chủ ng ĩa; oạt động tư p áp mà trọng tâm
là hoạt động xét xử được tiến hành hiệu quả và hiệu lực cao [3].
T eo đó, một trong các nhiệm vụ của cải các tư p áp đến năm 2020
được xác định trong Nghị quyết 49 là phải đổi mới việc tổ chức phiên toà xét
xử xác địn rõ ơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng
và người tham gia tố tụng t eo ướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm
minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử coi đây là k âu
đột phá của hoạt động tư p áp. Ng ị quyết 49 cũng xác định phải hoàn thiện cơ
chế bảo đảm để luật sư t ực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên toà. Ý kiến chỉ
đạo này là cơ sở để các cơ quan tư p áp p ải tạo điều kiện cho luật sư trong
toàn bộ quá trình tố tụng để có thể “nâng cao được chất lượng tranh tụng”.
Căn cứ theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về
Chiến lược cải các tư p áp đến năm 2020 ệ thống TAND đã tiến hành
67
nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác xét xử.
Ngoài ra, Hiến p áp năm 2013 đã bổ sung một số nguyên tắc mới thể
hiện tinh thần đổi mới trong cải các tư p áp ở nước ta, phù hợp với các công
ước quốc tế mà Việt Nam tham gia về quyền bào chữa của người bị buộc tội.
Về cơ bản, Hiến p áp 2013 đã g i n ận những quyền cơ bản của công dân,
đặc biệt là về quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự n ư nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử - bảo đảm quan trọng giúp cho việc xét xử toàn diện,
khách quan, bảo đảm quyền con người, quyền tố tụng của những người tham
gia tố tụng, hạn chế thấp nhất các trường hợp oan sai trong hoạt động tố tụng
tư p áp nói c ung trong xét xử của Tòa án nói riêng [82]; nguyên tắc suy
đoán vô tội được ngụ ý trong Hiến pháp 2013.
N ư vậy pháp luật quốc tế và các pháp luật quốc gia cho thấy nhu cầu
cần đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp và coi đây là nguyên tắc cơ bản của công dân cần được bảo đảm
thực hiện trong thức tế. Dựa trên những căn cứ này, pháp luật về quyền bào
chữa và pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp còn những thiếu sót,
quy định của văn bản dưới luật c ưa đủ chi tiết ướng d n đảm bảo thực hiện
các quyền này.
3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự tại Việt Nam
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về việc thực hiện quyền bào chữa và bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự tại Việt Nam
Bộ luật TTHS 2015 đã có n ững bước chuyển đáng lưu ý trong quá
trình hoàn thiện quy định về quyền bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp. Tuy n iên quy định này v n còn những thiết xót cần được tiếp tục hoàn
thiện bổ sung t eo địn ướng của Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị hay Công
ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị mà Việt Nam tham gia.
68
Thứ nhất, cần đảm bảo nguyên tắc tranh tụng công bằng trong hoạt
động TTHS nhằm bảo đảm tối ưu quyền bào chữa của bị cáo trong thủ tục xét
xử. Đây là vấn đề mang tính khách quan. Xét về bản chất, tranh tụng luôn gắn
liền với hoạt động tài phán và chỉ có thể được thực hiện trọn vẹn ở phiên tòa
với sự t am gia đầy đủ của các bên [88, tr.23]. Tuy nhiên, sẽ là không toàn
diện nếu chỉ giới hạn tranh tụng trong phạm vi của phiên tòa hoặc đồng nhất
tranh tụng với tranh luận tại phiên tòa; hay chỉ coi các quy định về trình tự,
thủ tục xét xử vụ án tại phiên tòa mới là các quy định về tranh tụng [14]. Một
bản án công bằng phải là kết quả của việc xem xét đầy đủ chứng cứ của các
bên trong các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án mà không chỉ ở giai
đoạn xét xử tại p iên tòa. Do đó quan điểm về hoạt động tranh tụng là hoạt
động chỉ diễn ra ở phiên tòa xét xử cần được t ay đổi. Thực chất, phiên tòa
tranh tụng là thời điểm mấu chốt để Tòa án đưa ra p án quyết cuối cùng đối
với bị cáo. Tuy nhiên, nếu thiếu vắng sự đối tụng công bằng trong các giai
đoạn tố tụng tiền xét xử (hoạt động điều tra) sẽ k ó đảm bảo tính khách quan
và công bằng của bản án. Do đó mở rộng phạm vi tranh tụng trong giai đoạn
điều tra cũng c n là mở rộng phạm vi bảo đảm quyền có người bào chữa
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Sự hiện diện của người bào chữa trong
quá trìn điều tra vụ án sẽ góp phần đảm bảo tính khách quan và công bằng
cho phán quyết của Tòa án [84].
Bên cạn đó để tranh tụng đạt kết quả, phải ghi nhận “tran tụng” là
p ương p áp c ủ yếu trong suốt quá trình TTHS mà không chỉ ở phiên tòa
xét xử sơ t ẩm. Cần phải hiểu tranh tụng là sự đối tụng công bằng giữa các
bên đối trọng nhau về quyền lợi. Muốn đạt được tranh tụng đòi ỏi các bên
phải có những cơ ội ngang bằng nhau về quyền thu thập chứng cứ và trình
bày chứng cứ, mà không chỉ đơn t uần là những kết quả t u được từ hoạt
động thẩm vấn. Vì vậy, mở rộng tranh tụng cần thiết phải đi đôi với ghi nhận
69
tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của BLTTHS. Việc ghi nhận nguyên tắc
tranh tụng sẽ là cơ sở p áp lý để các bên trong TTHS tiến hành các hoạt
động bìn đẳng và tuân thủ pháp luật. Việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng
phải dựa trên một số tiêu chí: (i) ghi nhận đầy đủ nội dung của nguyên tắc
tranh tụng nhằm p ân định rõ các chức năng cơ bản trong TTHS là: buộc tội,
bào chữa, xét xử; (ii) quy định nhiệm vụ và quyền hạn của các chủ thể thuộc
bên buộc tội, bên bào chữa và Tòa án phù hợp với chức năng tố tụng của chủ
thể đó t eo quy định của pháp luật; (iii) quy địn đầy đủ các điều kiện bảo
đảm cần thiết để các chủ thể thuộc bên buộc tội và bên bào chữa bìn đẳng
với nhau trong tranh tụng.
Từ p ương diện bảo vệ quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
TTHS, việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng sẽ là cơ c ế bảo đảm cho việc
thực hiện các quyền đó trên t ực tế. Với quy định hiện hành, pháp luật dường
n ư đặt toàn bộ gánh nặng trách nhiệm chứng minh vụ án lên Hội đồng xét
xử đòi ỏi ở Tòa án một vai trò quá tích cực không cần thiết trong tranh tụng,
d n đến tình trạng Tòa án “lấn sân” các c ủ thể khác trong việc thực hiện
chức năng buộc tội và chức năng bào c ữa, hạn chế tính chủ động của các chủ
thể đó. N ư một tất yếu, chức năng xét xử của Tòa án cũng bị hạn chế. Do đó
ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc tố tụng cơ bản sẽ cân bằng lại vai trò
của các bên trước Tòa án, khẳng địn ơn nữa vai trò của người bào chữa,
đồng thời sẽ là cơ c ế bảo đảm hiệu quả nhất quyền có người bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo [84].
Thứ hai, việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự cũng
là cơ sở cho phép sự độc lập của luật sư trong vai trò người bào chữa cho
người bị buộc tội. Pháp luật cần xác địn rõ địa vị pháp lý của luật sư trong ệ
thống các chức dan tư p áp t eo đó k ẳng định luật sư là một chức dan tư
p áp độc lập có địa vị bìn đẳng với những người tiến hành tố tụng, mở rộng
70
khả năng luật sư t ực hiện một số hoạt động độc lập trong TTHS, tranh tụng
bìn đẳng và dân chủ tại phiên tòa, tham gia ngày càng nhiều ơn với các
thiết chế dân chủ ướng đến mục tiêu xây dựng N à nước pháp quyền xã hội
chủ ng ĩa và cải các tư p áp [9].
Bên cạnh pháp luật cho phép sự tồn tại độc lập của luật sư “t n
chuyên nghiệp của luật sư” và “ iệu quả của hoạt động bào chữa” là ai p ạm
trù quan trọng để thực t i “Quyền bào chữa là hành vi bảo vệ quyền lợi của bị
can, bị cáo mà không phải hành vi thực hiện vì mục tiêu truy tố của cơ quan
công tố”. Nếu bỏ hoặc giảm nhẹ việc thực thi một phạm trù nào t ì cũng sẽ
d n đến việc thực thi quyền bào chữa k ông được bảo đảm.
Thứ ba, bổ sung, sửa đổi liên quan đến quyền từ chối người bào chữa.
Vai trò của người bào chữa là thật sự cần thiết trong việc bảo đảm quyền và
lợi ích của người bị tạm giữ người bị bắt, bị can, bị cáo. Đối với người bị
buộc tội là vị t àn niên người mất năng lực hành vi, sự tham gia, hỗ trợ của
người bào chữa là bắt buộc trong vụ án hình sự. Tuy nhiên, trường trường hợp
người bị buộc tội có khả năng tự bào chữa t ì người bị buộc tội có quyền từ
chối người bào chữa. Vấn đề quy định quyền từ chối này xuất phát từ ý chí
của người bị buộc tội khi mà họ có đủ tỉnh táo, sáng suốt và ý thức khi từ chối
quyền mà pháp luật trao cho họ. Ngoài ra quy địn này cũng giúp c o người
bị buộc tội có quyền chủ động đối với trường hợp người bào chữa k ông đủ
năng lực, không có khả năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Các
cơ quan n à nước cần phải hỗ trợ và bảo đảm quyền tự bào chữa cho bị can,
bị cáo n ư ướng d n cụ thể các quy định pháp luật liên quan đến quyền tự
bào chữa, cung cấp BLTTHS, Bộ luật Hình sự để người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo tự nghiên cứu và bào chữa, quyền được đề nghị chấm dứt với người bào
chữa do cơ quan tố tụng chỉ định [74].
Thứ tư oàn t iện pháp luật TTHS đối với những đối tượng yếu tế
71
trong TTHS Luật TTHS hiện àn k ông có qui định khác biệt nào về quyền
bào chữa đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo người bị kết án là người
nghèo người có hoàn cản đặc biệt k ó k ăn người dân tộc thiểu số người
có công với cách mạng người già cô đơn người tàn tật, trẻ em k ông nơi
nương tựa người nước ngoài. Vì vậy, ngoài những qui định chung về quyền
bào chữa cần có qui định các biệt cho những đối tượng dễ bị tổn t ương này
có n ư vậy mới thực sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Trong số các
đối tượng dễ bị tổn t ương t ì trường hợp người bị tạm giữ, bị can bị cáo là
người c ưa t àn niên p ạm tội v n c ưa có sự bảo đảm tốt để họ thực hiện
quyền bào chữa [9].
3.2.2. Phổ biến giải th ch, hướng d n á dụng pháp luật
Để quy định pháp luật đi vào cuộc sống t ì đòi ỏi quy định pháp luật
hoàn thiện, phù hợp với thực tế đầy đủ, cụ thể, rõ ràng. Qua thực tế cho thấy
còn một số quy định pháp luật c ưa cụ thể c ưa rõ ràng nên d n đến một số
cách hiểu không thống nhất giữa những người tiến hành tố tụng và các cơ
quan tiến hành tố tụng [24].
Các quy định của pháp luật Việt Nam không có nhiều hạn chế đối với
“quyền bào chữa” nói c ung và “quyền được lựa chọn người bào chữa” nói
riêng. Tuy nhiên, thực tế mỗi cơ quan tiến hành tố tụng đã diễn giải và áp
dụng quy định của pháp luật theo cách riêng của họ. Việc diễn giải và áp dụng
này nhiều k i đã d n đến “k ông t ống nhất” của cơ quan tiến hành tố tụng
tùy từng giai đoạn tố tụng và tùy từng cơ quan tiến hành tố tụng. Sự không
thống nhất này có thể không bảo đảm được các quyền của người dân. Vì vậy,
cần có văn bản dưới luật ướng d n, thi hành chi tiết các quy định pháp luật
về quyền bào chữa. Đồng thời cơ quan tiến hành tố tụng cần được tập huấn
khi pháp luật t ay đổi để cập nhật kịp thời quy định pháp luật t i àn đúng
để bảo đảm quyền lợi của người dân.
72
Một vi phạm tới “quyền bào chữa” nói riêng ay “quyền công dân” nói
chung là việc các cơ quan tiến hành tố tụng đã k ông c ú ý tới việc “p ổ biến
c o người bị tạm giữ, bị can, bị cáo quyền có người bào chữa t eo quy định
pháp luật”. Mặc dù đây là quyền được pháp luật bảo hộ và pháp luật có các
thủ tục để bắt buộc thực hiện. N ư đã nêu các cơ quan tư p áp cần nghiêm
túc xem xét và đưa ra n ững biện pháp thích hợp để bảo đảm quyền này cho
công dân. Công tác phổ biến này nên lưu ý bảo đảm tới khả năng n ận thức
của đối tượng được phổ biến.
3.2.3. Nâng cao nhận thức của người dân về quyền bào chữa
Tuyên truyền pháp luật là một p ương p áp iệu quả nhằm nâng cao
hiểu biết của người dân về kiến thức pháp luật. Điều này một mặt giúp người
dân tự ý thức và tuân thủ pháp luật, tự mình bảo vệ những lợi c c n đáng
của bản thân và lợi ích chung của xã hội, mặt k ác giúp cơ quan THTT
nhanh chóng phát hiện và có biện pháp xử lý kịp thời đối với những hành vi
phạm tội. Do đó cần thiết phải t ay đổi nhận thức của người dân nói chung
và người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng khi cho rằng, sự tham gia tố
tụng của người bào chữa là không cần thiết và tốn kém. Nhận thức không
đúng về vai trò và vị trí của người bào chữa chính là rào cản lớn làm cho sự
tham gia của người bào chữa trở nên k ó k ăn trong k i bản t ân người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ lại không có khả
năng bào c ữa có hiệu quả. Việc người bào chữa tham gia tố tụng để bảo vệ
c o người bị tạm giữ, bị can, bị cáo phụ thuộc rất nhiều vào ý chí chủ quan
của chính họ người đại diện hợp p áp cũng n ư gia đìn của họ. Do vậy,
việc t ay đổi nhận thức về vai trò của người bào chữa là cách tốt nhất để
trang bị c o người bị tạm giữ, bị can, bị cáo những p ương tiện, biện pháp
giúp họ bảo vệ mìn trước nguy cơ bị xâm phạm hoặc đe dọa bị xâm phạm
các quyền tố tụng từ phía những người THTT cơ quan THTT n ằm thực
73
hiện quyền bào chữa của mình.
Đối với người bào chữa, việc bồi dưỡng, nâng cao kiến thức pháp luật
và kỹ năng àn ng ề là một việc làm cần thiết. Người bào chữa phải nhận
thức và nêu cao ơn nữa trách nhiệm của mình khi tham gia tố tụng bảo vệ
quyền lợi c o người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bào chữa phải t ường
xuyên được cập nhật kiến thức pháp luật và bồi dưỡng nghiệp vụ để đáp ứng
yêu cầu thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo có hiệu quả. Ngoải ra đội ngũ luật sư cần phải được phát triển cả ở các
khu vực miền núi và nông thôn hoặc phải cải các cơ c ế trả thù lao và mức
t ù lao để có thể khuyến k c được luật sư t am gia các oạt động bào chữa
tại những khu vực này.
Ngoài ra, người bị buộc tội phải có được thông tin hoặc kiến thức nhất
định bằng việc thực hiện hiệu quả các quyền của mìn để hiểu được vai trò,
công việc và quan điểm lập luận của các luật sư bào c ữa cho mình.
Các cơ quan n à nước có liên quan Liên đoàn Luật sư Việt Nam cần
phải có những hoạt động giám sát về đạo đức, tính chuyên nghiệp của luật sư
nhằm hạn chế những luật sư t iếu năng lực, hay hành nghề thiếu tính chuyên
nghiệp, bất cẩn trong nghề nghiệp.
3.2.4. Giải pháp hoàn thiện cơ chế thực hiện pháp luật về quyền bào
chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự tại Việt Nam
Quyền có người bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không
thể được bảo đảm nếu cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng
không nhận thức đúng nội dung, ý ng ĩa và tầm quan trọng của nó. Cơ quan
tiến hành tố tụng người có thẩm quyền là những chủ thể trực tiếp thực hiện
các hoạt động tố tụng t eo quy định của pháp luật nhằm thu thập, kiểm tra,
đán giá c ứng cứ làm sáng tỏ các yếu tố của đối tượng chứng minh và tiến
hành giải quyết vụ án trong phạm vi quyền hạn của mìn . Trước hết, họ phải
74
nhận thức được việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo chính là giúp họ giải quyết vụ án khách quan, toàn diện và đầy
đủ. Đây cũng là nhiệm vụ mà N à nước giao cho họ thực hiện. Trong thực tế,
không phải tất cả những người tiến hành tố tụng đều nhận thức đúng vấn đề
này. Là người trực tiếp giải quyết vụ án hình sự ơn ai ết người tiến hành tố
tụng phải am hiểu thấu đáo n ững quy định của pháp luật về quyền có người
bào chữa. Họ có ng ĩa vụ phải giải t c c o người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
hiểu rõ quyền bào chữa đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để quyền này được
thực hiện có hiệu quả. Muốn vậy, ngoài việc nâng cao năng lực chuyên môn,
những người tiến hành tố tụng phải có ý thức tuân thủ và nhận thức một cách
ng iêm túc và đúng đắn vấn đề này.
Quán triệt Nghị quyết của Đảng về công tác cán bộ tư p áp các cơ
quan tư p áp đặc biệt là cơ quan tiến hành tố tụng đã triển khai nhiều biện
pháp cụ thể để xây dựng đội ngũ tiến hành tố tụng vừa đủ về số lượng, vừa
đảm bảo về chất lượng. Để nâng cao kiến thức chuyên môn và nhận thức của
đội ngũ tiến hành tố tụng, phải tập trung một số vấn đề sau [74]:
Một là t ường xuyên đào tạo, bồi dưỡng và tập huấn cho những người
tiến hành tố tụng. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng là những kiến thức mới về
pháp luật, nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tế. Tổ chức các đợt kiểm tra kiến thức
c uyên môn đán giá trìn độ, từ đó có c ế độ tuyên dương k en t ưởng
xứng đáng. P át động các p ong trào t i đua có ý ng ĩa trau dồi về đạo đức,
tác phong sống, làm việc nghiêm túc, lành mạn ; coi đây là cơ sở đề xuất bổ
nhiệm, miễn nhiệm.
Hai là t ay đổi nhận thức c ưa đúng đắn của những người tiến hành tố
tụng về vai trò, vị trí của người bào chữa trong TTHS. Cần phải nhìn nhận sự
tham gia của người bào chữa là yếu tố k ác quan để vụ án được giải quyết
đúng đắn. Sự có mặt của người bào chữa trong vụ án k ông gây k ó k ăn c o
75
các cơ quan tiến hành tố tụng, họ chỉ bác bỏ việc buộc tội thiếu căn cứ chứ
không phải là “đối thủ” của các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy người tiến
hành tố tụng cần phải tạo điều kiện c o người bào chữa thực hiện tốt chức
năng bào c ữa.
Ba là, trang bị đầy đủ p ương tiện, kinh phí phục vụ công tác cho
những người tiến hành tố tụng.
Các đoàn luật sư địa p ương Liên đoàn Luật sư Việt Nam nên có
những kế hoạch phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng, các trại tạm
giam, tạm giữ tại các địa p ương để giới thiệu về chức năng vai trò của
luật sư trong oạt động tố tụng đặc biệt là trong tố tụng hình sự. Để thực
hiện được vấn đề này Liên đoàn Luật sư Việt Nam là đầu mối thích hợp
nhất để kiến nghị các cơ quan trung ương về tư p áp để đề nghị có sự phối
hợp giữa các ngành.
Các cơ quan n à nước Liên đoàn Luật sư Việt Nam cũng cần có những
biện p áp để khuyến khích phát triển đội ngũ luật sư n ằm đáp ứng được nhu
cầu của người dân ngày một tăng đối với “quyền bào chữa”. Đặc biệt đội ngũ
luật sư cần phải được phát triển cả ở các khu vực miền núi và nông thôn hoặc
phải cải các cơ c ế trả thù lao và mức t ù lao để có thể khuyến k c được
luật sư t am gia các oạt động bào chữa tại những khu vực này.
Các trại tạm giam, trại tạm giữ cần được nâng cấp về p ương tiện để
bảo đảm cho luật sư có t ể giao tiếp một các riêng tư với k ác àng n ưng
v n bảo đảm được sự an toàn của luật sư người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
T ù lao và cơ c ế trả t ù lao mà cơ quan tiến hành tố tụng cơ quan trợ
giúp pháp lý trả cho các luật sư để làm công tác bào chữa trong các vụ án chỉ
định hay các vụ án trợ giúp pháp lý cần phải được cải tiến. Thù lao thấp và cơ
chế chi trả thù lao phức tạp cũng làm ản ưởng đến chất lượng và t n “độc
76
lập” của công tác bào chữa [74]
3.2.5. Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm
Quyền bào chữa là quyền cơ bản của con người được pháp luật ghi nhận
và bảo đảm thực hiện. Để nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa được áp dụng
có hiệu quả thì bên cạnh việc ghi nhận đầy đủ các nội dung của nguyên tắc thì
cần có cơ c ế p áp lý để đảm bảo cho quyền bào chữa được thực thi hữu.
Quyền bào chữa cần phải được bảo đảm ở các giai đoạn của hoạt động
tố tụng. Giai đoạn điều tra hiện nay v n là giai đoạn k ó k ăn n ất c o người
dân được thực thi quyền bào chữa này hoặc nói các k ác t ì đây là giai đoạn
k ó k ăn nhất đối với luật sư k i t ực hiện quyền bào chữa cho công dân.
Vấn đề này đòi ỏi phải có cải cách nhất định về p ương t ức làm việc của
CQĐT VKS cơ quan quản lý trại tạm giam, trại giam để dung òa được lợi
ích của các cơ quan n à nước với công dân, người bào chữa. Ngoài ra, nên có
những chế tài và biện pháp bắt buộc CQĐT VKS p ải thực thi nghiêm túc
các quy định của pháp luật trên tinh thần tôn trọng “quyền” của công dân
được xét xử công bằng.
Để giảm thiểu những hạn chế từ p a các cơ quan tiến hành tố tụng và
cơ quan bổ trợ tư p áp cần phải có những hoạt động thiết thực nhằm phổ biến
cho cộng đồng về vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân đặc biệt là trong các vụ án hình sự.
Các cơ quan n à nước có liên quan, Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các
ĐLS địa p ương cần phải có những hoạt động giám sát về đạo đức, tính
chuyên nghiệp của luật sư n ằm hạn chế những luật sư t iếu năng lực, hay
hành nghề thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu cẩn thận… Đồng thời Liên đoàn
Luật sư Việt Nam cần nghiên cứu ban hành những bộ quy tắc về đạo đức,
chuyên môn nghề nghiệp của luật sư và các biện pháp chế tài đối với các luật
sư k ông t ực hiện nghiêm chỉn các quy định pháp luật, quy tắc đạo đức để
77
bảo đảm quyền bào chữa của nhân dân [74].
Tiểu kết chương 3
Trong phạm vi luận văn của mình, tác giả đưa ra n ững kiến nghị nhằm
hoàn thiện ơn nữa hệ thống luật TTHS Việt Nam nói chung và hoàn thiện
quy định về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự trong
TTHS tại Việt Nam nói riêng. Những giải p áp đó là:
- Hoàn thiện pháp luật về việc thực hiện quyền bào chữa và bảo vệ
quyền, lợi ích của đương sự trong TTHS tại Việt Nam;
- Phổ biến giải t c ướng d n áp dụng pháp luật;
- Nâng cao nhận thức của người dân về quyền bào chữa;
- Giải pháp hoàn thiện cơ c ế thực hiện pháp luật về quyền bào chữa
và bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự trong TTHS tại Việt Nam;
- Và hoàn thiện cơ c ế kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm.
Qua những giải pháp nêu trên, luận văn y vọng sẽ góp phần thực hiện
78
thành công chiến lược cải các tư p áp của Đảng và N à nước ta.
KẾT LUẬN
Với đề tài “Thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp trong tố tụng hình sự việt nam” tác giả tác giả đã ng iên cứu
nhằm làm rõ cơ sở lý luận về Thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện
pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng
hình sự Việt Nam nói riêng. Bên cạn đó tác giả cũng làm rõ t ực trạng thực
hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp từ khi áp
dụng Bộ Luật tố tụng hình sự Việt Nam 2015 đến nay. Mặc dù phạm vi đề tài
nghiên cứu rộng và phức tạp, có nhiều k ó k ăn trong việc thu thập số liệu
thực tiễn và năng lực có hạn, tuy nhiên, luận văn đã đạt được một số kết quả
khiêm tốn, cụ thể:
1. Làm rõ được khái niệm đặc điểm, tính chất của thực hiện pháp luật;
quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự trong TTHS Việt Nam;
thấy được vai trò to lớn của thực hiện pháp luật trong bối cản N à nước ta
đang xây dựng N à nước pháp quyền xã hội chủ ng ĩa;
2. Làm rõ các hình thức thực hiện pháp luật về quyền bào chữa và bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong TTHS Việt Nam. Những hình thức đó bao
gồm: Tuân thủ pháp luật; ii) Chấp hành pháp luật; iii) sử dụng pháp luật; iv)
Áp dụng pháp luật. Luận văn đã đưa địn ng ĩa đặc điểm của từng hình thức
thực hiện pháp luật, từ đó p ân biệt được các hình thức thực hiện pháp luật
với nhau. Luận văn còn c ỉ rõ sự liên kết tác động qua lại giữa các hình thức
thực hiện pháp luật về về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích trong
TTHS Việt Nam;
3. So sánh thực tiễn thực hiện pháp luật của Việt Nam và một số quốc
gia khác trên thế giới, từ đó rút ra bài ọc kinh nghiệm cho Việt Nam;
4. Làm rõ quy định thực tiễn của pháp luật Việt Nam về quyền bào
79
chữa và bảo vệ quyền, lợi ích trong TTHS Việt Nam. Nghiên cứu luật thực
định không chỉ gói gọn trong BLTTHS 2015 mà người viết còn nghiên cứu
những BLTTHS trong quá khứ, bên cạn đó là các văn bản quy phạm pháp
luật liên quan k ác n ư Nghị quyết 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư p áp trong t ời gian tới, Nghị quyết 49-NQ/TW về Chiến lược cải
các tư p áp đến năm 2020 Luật Tổ chức tòa án nhân dân 2014, luật luật sư
2006 và luật sử đổi bổ sung một số điều Luật luật sư 2012 ...
5. Luận văn c ỉ ra một số hạn chế trong quá trình thực hiện pháp luật
về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong TTHS Việt
Nam. Qua đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằn hoàn thiện pháp luật
về thực hiện quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong
TTHS Việt Nam.
Bên cạnh một số kết quả đạt được, luận văn k ông trán k ỏi những
thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo
và bạn đọc để hoàn thiện ơn nữa đề tài “Thực hiện pháp luật về quyền bào
80
chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam”.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1.
Ngô Thị Ánh (2006), Giới hạn xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn t ạc sĩ Luật học Trường Đại học Luật Hà Nội.
2.
Nguyễn Thị Bắc (2003) “Về tranh tụng trong Tố tụng hình sự” Tạp chí Nghiên cứu lập pháp.
3.
Ban Chấp àn TƯ Đảng CS Việt Nam (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
4.
Phạm T an Bìn (2004) “Cần bảo đảm các quyền và ng ĩa vụ của người bào chữa” Tạp chí Tòa án nhân dân.
5.
Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết số 08/NQ/TW ngày 25/12/2001 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, Hà Nội.
6.
Bộ Tư p áp (1956) Thông tư số 2225/HCCP-BTP, ngày 24 tháng 10 năm 1956 về chấn chỉnh việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, Hà Nội.
7.
Nguyễn Mai Bộ (1999) “Người bào chữa trong vụ án hình sự” Tạp chí Nhà nước và pháp luật.
8.
Nguyễn Ngọc Chí (2003), “Tố tụng tranh tụng và vấn đề cải các tư pháp ở Việt Nam trong điều kiện xây dựng N à nước pháp quyền”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật.
9.
Nguyễn Ngọc C (2011) “Hoàn t iện pháp luật tố tụng hình sự - yếu tố quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người” Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học (27), tr. 232-234.
10. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên) (2011), Những vấn đề lý luận thực tiễn về
luật hình sự quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
11. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên) (2013), Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự
81
Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
12. Nguyễn Đăng Dung Vũ công Giao Lã K án Tùng (Đồng chủ biên)
(2009), Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb
Chính trị quốc gia Hà Nội.
13. Nguyễn Tiến Đạt (2007), “Bảo đảm quyền của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” Tạp chí Tòa án nhân dân.
14. Trần Văn Độ (2004) “Bản c ất tran tụng tại p iên tòa” Tạp chí hoa
học háp lý, (4).
15. Trần Văn Độ (2009) “Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can,
bị cáo trong tố tụng hình sự” Tạp chí Tòa án nhân dân.
16. Nguyễn Min Đoan (2010) Giáo trình lý luận về nhà nước và pháp
luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Trần Ngọc Đường (2004), Quyền con người, quyền công dân trong nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Gudmundur Alfredsson – Asbjorn Eide (2011), Tuyên ngôn nhân quyền
quốc tế 1948 - Mục tiêu chung của nhân loại, Nxb Lao động xã hội.
19. Nguyễn Trọng Hải (2017), Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt
Nam hiện nay, tài liệu hội thảo Bảo đảm quyền con người trong hoạt
động tố tụng.
20. Phạm Hồng Hải (1999), Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc
tội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
21. Nguyễn Quang Hiền (2009), Sự cần thiết sửa đổi Điều 49 và Điều 50
của Bộ luật tố tụng hình sự để đảm bảo quyền của người bị buộc tội,
Tòa án nhân dân.
22. Nguyễn Ngọc Hòa (2006), Tội phạm và cấu thành tội phạm, (In lần thứ
hai có sửa chữa, bổ sung), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
23. Phan Trung Hoài (2006), Hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam,
82
Nxb Tư p áp Hà Nội.
24. Võ Thị Khánh Hoài (2015), Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa trong luật TTHS Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk, Luận văn t ạc sĩ luật học, Khoa luật – ĐHQGHN.
25. Nguyễn Đìn Huệ (2004) “Một số vấn đề yêu cầu cử người bào chữa cho bị cáo theo khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự” Tạp chí Tòa án nhân dân.
26. Đin T ế Hưng (2006) “Đảm bảo quyền tự bào chữa của bị cáo khi
Tòa án xét xử bị cáo theo khoản nặng ơn” Tạp chí Tòa án nhân dân.
27. Đỗ Thị Hường (2011), Quyền con người và vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở Việt Nam, Luận văn t ạc sỹ luật học, Khoa Luật ĐHQGNH.
28. Nguyễn Mạn K áng (2003) “Cải các tư p áp và vấn đề tranh tụng”
Tạp chí Nhà nước và pháp luật.
29. Nguyễn Đông K án (2014) Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn t ạc sĩ luật học, Khoa luật – ĐHQGHN.
30. Vũ Gia Lâm (2006) “Hoàn t iện một số quy định về xét xử sơ t ẩm hình sự nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc hai cấp xét xử” Tạp chí Tòa án nhân dân.
31. Liên Hợp quốc (1948), Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế.
32. Liên hợp quốc (1966), Công ước quốc tế các quyền dân sự và chính trị.
33. Hoàng Thế Liên (2002), Một số quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp từ 1986 đến nay, Hội thảo về Cải các Tư p áp tại Việt Nam.
34. Hoàng Thế Liên (chủ biên) (1996), Bảo vệ quyền trẻ em trong pháp
luật Việt Nam, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
35. Nguyễn Quang Lộc (2006) “Quản lý công tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho
83
Hội thẩm Tòa án - thực trạng và giải p áp” Tạp chí Tòa án nhân dân.
36. Uông C u Lưu (c ủ biên) (2000), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 ( hần chung), Tập I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Nguyễn Đức Mai (2008) “Hoàn t iện thủ tục rút gọn đáp ứng yêu cầu
cải các tư p áp” Tạp chí Tòa án nhân dân.
38. Trần Thị Minh Nguyệt (2013), Quyền bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Luận văn t ạc sĩ luật học, Khoa luật – ĐHQGHN.
39. Nguyễn Hải Ninh (2003), Thủ tục xét hỏi tranh luận tại phiên tòa hình
sự sơ thẩm, Luận văn t ạc sĩ Luật học Trường Đại học Luật Hà Nội.
40. Đặng Quang P ương (2004) “Tìm iểu một số quy định của Bộ luật tố Tụng hình sự năm 2003 về bào chữa” Tạp chí Tòa án nhân dân.
41. Nguyễn T u P ương (2015) Người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi ích cho đương sự là trợ giúp viên pháp lý trong TTHS (Trên cơ sở thực tiễn tại tỉnh Yên Bái) Luận văn t ạc sĩ luật học, Khoa luật – ĐHQGHN.
42. Nguyễn Văn P ương (2014) Vai trò của luật sư – Người bào chữ trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật – ĐHQGHN.
43. Đin Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần
chung), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
44. Đin Văn Quế (2002), Bình luật khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội
phạm), Tập V - Các tội phạm về chức vụ, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
45. Đin Văn Quế (2012), Một số vấn đề về người bào chữa trong Luật tố
tụng Hình sự 2003.
46. Hoàng Thị Kim Quế (chủ biên) (2015), Giáo trình lý luận nhà nước và
pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
47. Quốc hội (1985), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
48. Quốc hội (1988), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
84
49. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
50. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
51. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
52. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
53. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
54. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
55. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
56. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
57. Quốc triều Hình luật (2003), (Luật hình triều Lê - Luật Hồng Đức),
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
58. Hoàng Thị Sơn (1998) “C ức năng buộc tội, bào chữa và xét xử trong
tố tụng hình sự” Tạp chí Luật học.
59. Hoàng Thị Sơn (2003), Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo
trong tố tụng hình sự, Luận án tiến sĩ Luật học Trường Đại học Luật
Hà Nội.
60. Phạm Văn T iệu (2008) “Về quyền bào chữa của bị cáo” Tạp chí Tòa
án nhân dân.
61. Đỗ Gia T ư (2004) “ êu cầu nhiệm vụ của ngành Tòa án và quan
điểm xây dựng đội ngũ T ẩm p án trong giai đoạn mới” Tạp chí Tòa
án nhân dân.
62. Ngô Thị Xuân Thu (2014), Chế định người bào chữa trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam – Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải
Dương Luận văn t ạc sĩ luật học, Khoa luật – ĐHQGHN.
63. Nguyễn Thị Thu Thủy (1996), Vai trò của Luật sư trong việc bảo vệ
quyền con người trong tố tụng hình sự, Luận văn t ạc sĩ Luật học.
64. Nguyễn Mạnh Tiến (2005) “Bàn về một số quy định của Bộ luật tố
85
tụng hình sự về tranh tụng tại p iên tòa” Tạp chí Tòa án nhân dân.
65. Nguyễn Thị Thủy Tiên (2016), Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Trị Luận văn t ạc sĩ Học viện khoa học xã hội - Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.
66. Tòa án nhân dân tối cao (1975-1978), Hệ thống hóa luật lệ về Hình sự, tập 2.
67. Nguyễn Hữu Thế Trạch (2014), Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự việt nam, Luận văn t ạc sĩ Trường Đại học Luật TP HCM.
68. Trung tâm nghiên cứu quyền con người - quyền công dân, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Giới thiệu các văn kiên quốc tế về quyền con người Nxb Lao động - Xã hội.
69. Nguyễn Văn Tuân (2018) Quyền bào chữa và vai trò của luật sư, Nxb
Dân Trí, Hà Nội.
70. Lã Khánh Tùng - Vũ Công Giao - Tường Duy Kiên (2012), Giới thiệu công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR, 1966), Nxb Hồng Đức.
71. Đào Tr Úc - Hoàng Thị Kim Quế (đồng chủ biên) (2017), Đại cương
về nhà nước pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
72. Đào Tr Úc (2012) “T ực hiện pháp luật và cơ c ế thực hiện pháp luật
ở Việt Nam” Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (3).
73. Đào Tr Úc (2015) Giáo trình Nhà nước pháp quyền Nxb ĐHQGHN.
74. UNDP (2010), Báo cáo Quyền bào chữa trong pháp luật hình sự và
thực tiễn tại Việt Nam, Hà Nội.
75. Ngô Thị Ngọc Vân (2015) “Một số vấn đề về quyền bào chữa của người bị buộc tội t eo quy định của pháp luật quốc tế” Tạp chí Dân chủ và Pháp luật định kỳ t áng 12 năm 2015.
76. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Tờ trình số 23/TTr-VKSTC-V8
86
ngày 10/4/2015 trình Quốc hội về Dự án BLTTHS (sửa đổi), Hà Nội.
II. Tài liệu trang Website
77. Đá Bàn (2013) Tỷ lệ luật sư trên dân số Việt Nam thấp, ngày
29/09/2013, truy cập tại: https://www.thesaigontimes.vn.
78. Báo pháp luật TP HCM (2019) “Luật sư có quyền gặp riêng bị can”
https://plo.vn/, ngày truy cập: 18/3/2019.
79. Nguyễn Huy Cường, Vấn đề bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội tại một số địa bàn miền núi, hải đảo theo quy định của bộ luật tths năm 2015; Truy cập tại: http://www.vksquangninh.gov.vn.
80. Khánh Hoài (2017), Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo luật tố tụng hình sự năm 2015, ngày 16/01/2017, truy cập tại: http://toaandaklak.gov.vn.
81. Luật Việt Nam, Bị can, bị cáo được sử dụng quyền im lặng?, https://luatvietnam.vn/tin-phap-luat/bi-can-bi-cao-duoc-su-dung-quyen- im-lang-230-16522-article.html, (truy cập: 18/4/2019).
82. Nam P ương (2018), Đổi mới tổ chức phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp: Giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng xét xử, truy cập ngày 6/12/2018 tại: http://congly.vn.
83. Tôn Thiện P ương (2016) Quyền bào chữa của người bị buộc tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, ngày 21/07/2016, truy cập tại: http://kiemsat.vn.
84. Lương T ị Mỹ Quỳnh, Hoàn thiện quy định về bảo đảm quyền có người bào chữa trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam, truy cập tại www.nclp.org.vn.
85. Hà T ái T ơ Huỳnh Xuân Tình (2017), Đảm bảo quyền bào chữa theo quy định của Hiến pháp 2013 và Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, ngày 16/03/2017, truy cập tại: http://lyluanchinhtri.vn.
87
86. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2008) “Quyền được xét xử công bằng trong pháp luật quốc tế” Tạp chí kiểm sát, (17), truy cập ngày 6/12/2018 tại: http://tks.edu.vn.
87. Đoàn Vĩn Sơn La: iểm sát viên ngăn cản luật sư tiếp cận hồ sơ vụ án, Luật sư Việt Nam Online (Liên đoàn Luật sư Việt Nam), Truy cập đường link: http://lsvn.vn/. Ngày truy cập: 20/6/2019.
III. Tài liệu tiếng Anh
88
88. John H. Langbein (2003), The Origins of the Adversary Trial, Oxford.