ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HỒNG HẠNH

THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ Hé TÞCH CñA ñY BAN NH¢N D¢N PH¦êNG - QUA THùC TIÔN QUËN LONG BI£N, THµNH PHè Hµ NéI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HỒNG HẠNH

THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ Hé TÞCH CñA ñY BAN NH¢N D¢N PH¦êNG - QUA THùC TIÔN QUËN LONG BI£N, THµNH PHè Hµ NéI

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp - Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ MINH HÀ HÀ NỘI - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong

bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong

Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã

hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ

tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để

tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Hồng Hạnh

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘ TỊCH VÀ THỰC

HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH .................................................. 7 1.1. HỘ TỊCH .............................................................................................. 7 1.1.1. Khái niệm hộ tịch ................................................................................. 7 1.1.2. Mối quan hệ giữa hộ tịch với các lĩnh vực khác ................................ 14 1.1.3. Pháp luật về hộ tịch ............................................................................ 16 1.2. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH ........................................ 30 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm thực hiện pháp luật về hộ tịch ...................... 30 1.2.2. Vai trò của thực hiện pháp luật về hộ tịch ......................................... 34 1.2.3. Hình thức thực hiện pháp luật về hộ tịch ........................................... 36 1.2.4. Nội dung thực hiện pháp luật về hộ tịch ............................................ 39 1.2.5. Yêu cầu đảm bảo thực hiện pháp luật về hộ tịch ............................... 42

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH

CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN PHƢỜNG, QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................................................... 48 2.1. TỔNG QUAN VỀ QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ...... 48 2.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HỘ TỊCH CỦA

ỦY BAN NHÂN PHƢỜNG, QUẬN LONG BIÊN .......................... 52 2.2.1. Ban hành các văn bản nhà nƣớc đối với hộ tịch ................................ 52 2.2.2. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hộ tịch trên địa bàn các phƣờng ...... 53 2.2.3. Hoạt động đăng ký hộ tịch trên địa bàn các phƣờng.......................... 54 2.2.4. Đội ngũ cán bộ công chức làm công tác hộ tịch ................................ 59

2.2.5. Hệ thống sổ hộ tịch, hồ sơ hộ tịch đang lƣu giữ ................................ 61 2.2.6. Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác đăng ký và quản

lý hộ tịch ............................................................................................. 62

2.3. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HỘ TỊCH

CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN PHƢỜNG TẠI QUẬN LONG BIÊN ..... 64 2.3.1. Ƣu điểm và hạn chế ............................................................................ 64 2.3.2. Nguyên nhân ...................................................................................... 74

Chƣơng 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG

CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG, QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ..................................................................... 76 3.1. NHỮNG PHƢƠNG HƢỚNG CƠ BẢN ........................................... 76 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực về hộ tịch ...................................... 76 3.1.2. Ủy ban nhân dân quận, ủy ban nhân dân phƣờng phải quan tâm

hơn đến công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch ................................ 77 3.1.3. Thay đổi nhận thức của ngƣời dân trong việc đăng ký hộ tịch .......... 78 3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN PHƢỜNG THUỘC QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .............................................................................................. 79

3.2.1. Tăng cƣờng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về

hộ tịch để nâng cao ý thức và thay đổi nhận thức của ngƣời dân ........... 79 3.2.2. Xây dựng chức danh Hộ tịch viên ...................................................... 81 3.2.3. Xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử .............................................. 82 3.2.4. Bảo đảm các điều kiện về phƣơng tiện, cơ sở vật chất cho công

tác hộ tịch ........................................................................................... 85 3.2.5. Xây dựng và nâng cao chất lƣợng đội ngũ công chức hộ tịch ........... 86 3.2.6. Tăng cƣờng công tác hƣớng dẫn, kiểm tra, thanh tra đối với

hoạt động đăng ký hộ tịch .................................................................. 88

KẾT LUẬN .................................................................................................... 92 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 94

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang Tên bảng Số hiệu

Bảng 2.1: Bảng theo dõi tình hình biến động dân số quận Long Biên 51

Bảng 2.2: Thực trạng đăng ký hộ tịch tại quận Long Biên từ năm 2013 đến 6 tháng đầu năm 2016 (đơn vị tính: trƣờng hợp) 55

Bảng 2.3: Thực trạng đăng ký hộ tịch tại phƣờng Ngọc Thụy - quận Long Biên từ năm 2013 đến 6 tháng đầu năm 2016 (đơn vị tính: trƣờng hợp) 56

Bảng 2.4: Thực trạng đăng ký hộ tịch tại phƣờng Ngọc Lâm - quận Long Biên từ năm 2013 đến 6 tháng đầu năm 2016 (đơn vị tính: trƣờng hợp) 57

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác nhận tình trạng nhân thân của một

con ngƣời từ khi sinh ra đến khi chết. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công

dân và quyền nhân thân của con ngƣời đƣợc Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật

Dân sự năm 2015 quy định để xác định sự kiện hộ tịch nhƣ: quyền thay đổi họ

tên; quyền xác định lại dân tộc; quyền đƣợc khai sinh; quyền đƣợc khai tử;

quyền đƣợc kết hôn; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con;

quyền đối với quốc tịch…

Thực hiện pháp luật về hộ tịch không những liên quan đến nhân thân

của con ngƣời mà còn liên quan đến chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,

quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên

tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan Nhà nƣớc, thể chế hóa mối quan hệ giữa

Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nƣớc quản lý.

Thực hiện pháp luật về hộ tịch tạo cơ sở pháp lý để Nhà nƣớc công

nhận và bảo hộ quyền con ngƣời, quyền, nghĩa vụ công dân. Đồng thời quản

lý hộ tịch còn góp phần vào các biện pháp quản lý dân cƣ một cách khoa học,

phục vụ cho việc xây dựng, hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội,

an ninh - quốc phòng của đất nƣớc.

Trong bối cảnh đất nƣớc bƣớc sang giai đoạn phát triển mới, tiến trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế di n ra ngày càng sâu rộng,

việc dịch chuyển dân cƣ trong nƣớc và quốc tế ngày càng gia tăng, quyền con

ngƣời, quyền công dân đòi h i đƣợc ghi nhận và bảo đảm thực hiện ở mức

cao hơn. Để tạo cơ sở pháp lý lâu dài, ổn định, thống nhất cho công tác thực

hiện pháp luật về hộ tịch, nhất là trong việc triển khai thi hành Hiến pháp năm

2013 với nhiều quy định mới đề cao quyền con ngƣời, quyền, nghĩa vụ cơ bản

1

của công dân; đồng thời tạo sự chuyển biến mạnh m công tác thực hiện pháp

luật về hộ tịch theo hƣớng từng bƣớc chuyên nghiệp, ph hợp với yêu cầu

phát triển của đất nƣớc trong thời k mới.

Nhận thức đƣợc vị trí và vai trò quan trọng của công tác thực hiện pháp

luật hộ tịch mà trong 10 năm qua từ khi thực hiện Nghị định 158/2005/NĐ-CP

ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch, trên địa bàn

Thành phố đã có nhiều chuyển biến tích cực, các sự kiện đăng ký hộ tịch của

nhân dân cơ bản đƣợc thực hiện kịp thời và đúng quy định của pháp luật; công

tác phổ biến giáo dục pháp luật về hộ tịch đƣợc chú trọng triển khai đến tận cơ

sở. Nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về hộ tịch của nhân dân đƣợc

nâng lên; đội ngủ cán bộ làm công tác hộ tịch cơ sở đƣợc quan tâm, củng cố về

số lƣợng và kỹ năng thực hiện nghiệp vụ; các loại sổ sách, biểu mẫu hộ tịch

đƣợc hỗ trợ và cung cấp kịp thời đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nƣớc.

Trên thực tế, công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch vẫn còn một số tồn

tại, bất cập chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu cải cách hành chính và cải cách tƣ

pháp trong giai đoạn mới, tình trạng các cơ quan, tổ chức, đoàn thể chƣa xác

định đúng giá trị pháp lý của giấy tờ hộ tịch, còn gây nhiều khó khăn cho

công dân. Thực trạng trên có nguyên nhân xuất phát từ nhận thức chƣa đầy đủ

quy định của pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch của một bộ phận cán bộ,

công chức và nhân dân; sự phối hợp thiếu nhịp nhàng giữa các cơ quan nhà

nƣớc trong việc giải quyết những sai sót trong hồ sơ, giấy tờ cá nhân; công tác

tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý về đăng ký và

quản lý hộ tịch chƣa thực sự sâu rộng; năng lực của một số công chức còn hạn

chế. Tuy công việc liên quan đến nhân thân của một con ngƣời và cũng liên

quan đến nhiều lĩnh vực khác của xã hội, nhƣng nhìn từ góc độ bên ngoài thì

rất “thầm lặng” và ít đƣợc quan tâm.

Ở nƣớc ta hiện nay pháp luật về hộ tịch đƣợc thực hiện theo Luật hộ

2

tịch năm 2014. Ngày 20 tháng 11 năm 2014, tại K họp thứ 8, Quốc hội khóa

XIII đã thông qua Luật Hộ tịch với 7 Chƣơng, 77 Điều, và có hiệu kể từ ngày

01 tháng 01 năm 2016. Đây là lần đầu tiên Nhà nƣớc ta ban hành văn bản

Luật điều chỉnh riêng lĩnh vực này sau hơn 60 năm thực hiện bằng các nghị

định của Chính phủ và thông tƣ của các Bộ. Luật Hộ tịch ra đời là bƣớc hoàn

thiện khá căn bản về thể chế đăng ký và quản lý hộ tịch của Việt Nam với

nhiều quy định mới, mang tính đột phá. Bên cạnh những điểm mới của Luật

hộ tịch, thì vẫn tòn tại một số hạn chế về thể chế gây khó khăn cho cơ quan hộ

tịch khi áp dụng, ngƣời dân cũng khó phân biệt việc hộ tịch của mình s đƣợc

áp dụng theo văn bản nào.

Quận Long Biên là một quận thuộc thành phố Hà Nội đang trong giai

đoạn phát triển với tỷ lệ tăng trƣởng dân số cao nên công tác thực hiện pháp

luật về hộ tịch đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng, hoạch định

chính sách phát triển kinh tế của quận.

Vì vậy, nghiên cứu công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch nói chung

cũng nhƣ ở thực tế quận Long Biên nói riêng nhằm làm rõ hơn cơ sở lý luận,

thực ti n của việc thực hiện pháp luật về hộ tịch và đƣa ra những ý kiến góp

phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn quận Long

Biên trong giai đoạn Luật hộ tịch vừa mới có hiệu lực là việc cần thiết hiện

nay. Đây chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về hộ

tịch của Ủy ban nhân dân phường - qua thực tiễn quận Long Biên, thành

phố Hà Nội” làm luận văn.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về hộ tịch của

cá nhân, tập thể đƣợc công bố:

- Ths. Phạm Trọng Cƣờng: Về quản lý hộ tịch, NXB. Chính trị quốc

gia, 2004;

3

- Quy định mới về đăng ký và quản lý hộ tịch, NXB. Chính trị quốc gia,

2006; tác giả đã nêu và phân tích các quy định mới trong công tác đăng ký và

quản lý hộ tịch căn cứ theo Nghị định 158/2005/NĐ-CP.

- Biên soạn: Nguy n Quốc Cƣờng, Lƣơng Thị Lanh, Trần Thị Thu

Hằng…: Hướng dẫn đăng ký và quản lý hộ tịch, NXB Tƣ pháp, 2006; tác giả

đã nêu lên thủ tục và các bƣớc cần thiết khi đăng ký hộ tịch nhƣ đăng ký khai

sinh, kết hôn, khai tử, thủ tục nhận con nuôi,… trong công tác quản lý hộ tịch.

- Nghiệp vụ đăng ký hộ tịch, NXB Tƣ pháp, 2007; tác giả hƣớng dẫn

nghiệp vụ thực hiện các thủ tục đăng ký hộ tịch nhƣ đăng ký khai sinh, khai

tử, kết hôn, nhận cha mẹ con, nhận con nuôi, giảm hộ…

- Phạm Hồng Hoàn: Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã, huyện Đan

Phượng, Luận văn thạc sĩ hành chính công, 2011; tác giả phân tích thực trạng

quản lý nhà nƣớc về hộ tịch và đƣa ra giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý

nhà nƣớc về hộ tịch ở huyện Đan Phƣợng;

- Phạm Trọng Cƣờng: Quản lý nhà nước về hộ tịch - Lý luận, thực

trạng và phương hướng đổi mới, Luận văn thạc sĩ luật, Khoa Luật - Đại học

Quốc gia Hà Nội, 2003; tác giả tiến hành khảo sát thực trạng việc quản lý hộ

tịch ở Việt Nam trong thời gian qua và nêu những ƣu nhƣợc điểm của công

việc này đồng thời đƣa ra một số quan điểm, phƣơng hƣớng đổi mới nhằm

nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc về hộ tịch.

- B i Thị Tƣ: Quản lý hộ tịch - Qua thực ti n ở Hải Phòng, Luận văn

thạc sĩ luật, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; tác giả đã nêu thực

trạng công tác quản lý hộ tịch, phân tích ƣu điểm và hạn chế trong quản lý hộ

tịch ở thành phố Hải Phòng và đề xuất phƣơng hƣớng, giải pháp nâng cao

hiệu lực, hiệu quả quản lý hộ tịch ở thành phố Hải Phòng.

- Nguy n Hữu Đính: Công tác tƣ pháp - hộ tịch ở cấp xã: những vấn đề

lý luận và thực ti n ở tỉnh Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ Luật, Khoa Luật - Đại

4

học Quốc gia Hà Nội, 2008, tác giả trình bày thực trạng công tác tƣ pháp - hộ

tịch, phân tích ƣu điểm và hạn chế trong công tác tƣ pháp - hộ tịch cấp xã trên

địa bàn tỉnh Bắc Giang và đƣa ra một số giải pháp tăng cƣờng hiệu quả công

tác tƣ pháp - hộ tịch.

Nhìn chung các công trình nghiên cứu nêu trên đã nghiên cứu, phân

tích toàn diện những vấn đề liên quan đến công tác đăng ký và quản lý hộ tịch

từ lý luận đến thực ti n và đề xuất các giải pháp tăng cƣờng hiệu quả của

công tác đăng ký và quản lý hộ tịch. Tuy nhiên, trong bối cảnh Luật hộ tịch

2014 có hiệu lực thì các công trình nghiên cứu trên chƣa có tính thời sự.

Chính vì vậy, trên cơ sở kế thừa các kết quả của các công trình nghiên cứu

liên quan, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực ti n

của việc thực hiện pháp luật hộ tịch ở cấp phƣờng trên địa bàn quận Long

Biên trong giai đoạn Luật hộ tịch 2014 bắt đầu có hiệu lực để từ đó đƣa ra các

giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch

nói chung và trên địa bàn quận Long Biên nói riêng.

3. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn

Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về hộ tịch và thực hiện pháp luật

về hộ tịch, phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về hộ tịch và đề xuất

những giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ tịch cấp

phƣờng trên địa bàn quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là hệ thống quy phạm pháp luật

điều chỉnh về lĩnh vực hộ tịch đặc biệt là Luật hộ tịch 2014 và thực ti n việc

thực hiện pháp luật về hộ tịch cấp phƣờng trên địa bàn quận Long Biên.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là thực hiện pháp luật về hộ tịch cấp

phƣờng trên địa bàn quận Long Biên, thành phố Hà Nội từ năm 2013 đến 6

tháng đầu năm 2016.

5

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể, trong

đó đặc biệt chú trọng: phƣơng pháp hệ thống, phân tích - tổng hợp, phƣơng

pháp so sánh, điều tra xã hội học, ph ng vấn…

- Phƣơng pháp thu thập thông tin trực tiếp: quan sát, ph ng vấn;

- Phƣơng pháp thu thập thông tin gián tiếp: phân tích và tổng hợp số liệu

+ Nghiên cứu tài liệu, tƣ liệu tham khảo;

+ Nguồn tin từ mạng Internet

+ Thông tin từ báo cáo định k của các Ủy ban nhân dân các phƣờng

trên địa bàn quận.

6. Tính mới và những đóng góp của đề tài

Luận văn góp phần đề tài hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về

hộ tịch và thực hiện pháp luật hộ tịch, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật

về hộ tịch ở các phƣờng, từ đó nên ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu

quả thực hiện pháp luật về hộ tịch ở quận Long Biên.

Luận văn có tính thời sự khi đóng góp ý kiến giúp cho việc thực hiện

Luật hộ tịch đƣợc hiệu quả trên địa bàn quận.

Luận văn có thể d ng làm tài liệu tham khảo trong thực tế thực hiện pháp

luật về hộ tịch ở quận Long Biên trong những năm tới cũng nhƣ là nguồn tƣ liệu

tham khảo cho những ngƣời nghiên cứu các đề tài liên quan đến hộ tịch.

7. Kết cấu luận văn

Luận văn gồm 3 chƣơng:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về hộ tịch và thực hiện pháp luật về

hộ tịch.

Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về hộ tịch của Ủy ban nhân

dân phƣờng, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

Chương 3: Những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp

luật về hộ tịch của Ủy ban nhân dân phƣờng, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

6

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

VỀ HỘ TỊCH VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH

1.1. HỘ TỊCH

1.1.1. Khái niệm hộ tịch

Xét từ góc độ ngôn ngữ học, “hộ tịch” là một từ ghép gốc Hán chính

phụ, đƣợc ghép bởi hai thành tố có nghĩa độc lập, trong đó “tịch” là thành tố

chính, “hộ” là thành tố phụ. Nếu tìm hiểu riêng từng thành tố thì có thể thấy,

các từ điển hiện nay khá thống nhất trong cách hiểu từng từ đơn này. Theo đó

từ “hộ” có nhiều nghĩa khác nhau, nhƣng trong đó có một nghĩa trực tiếp là

“dân cƣ” hoặc “nhà ở” hiểu rộng ra là “đơn vị để quản lý dân số, gồm những

ngƣời c ng ăn ở với nhau”. Tƣơng tự từ “tịch” có nghĩa là “sổ sách” hoặc là “

sổ sách đăng ký quan hệ lệ thuộc”. Tuy nhiên việc tổ hợp hai từ đơn này

thành danh từ ghép “hộ tịch” lại là một trƣờng hợp rất đặc biệt về mặt ngôn

ngữ dẫn đến có nhiều cách giải nghĩa từ “hộ tịch”.

Tác giả Nguy n Văn Khôn đã nêu khái niệm “hộ tịch” trong cuốn Hán

- Việt từ điển xuất bản năm 1960 nhƣ sau:

“Hộ tịch: sổ biên dân số có ghi rõ tên họ, quê quán và chức nghiệp của

từng người” [21, tr.404].

Cũng có quan điểm tƣơng tự với tác giả Nguy n Văn Khôn, tác giả

Hoàng Thúc Trâm cũng nêu khải niệm “hộ tịch” trong cuốn Hán - Việt tân từ

điển xuất bản năm 1974 là:

“Hộ tịch: Sổ biên nhận số một địa phương hoặc cả toàn quốc, trong có

ghi rõ tên họ, quê quán và chức nghiệp của từng người” [36, tr. 292].

Hay tác giả Nguy n Lân cũng trình bày giải nghĩa từ “hộ tịch” trong

cuốn Từ điển từ và ngữ Hán Việt xuất bản năm 1989:

7

“Hộ tịch: Quyển sổ ghi chép tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp của mọi

người trong một địa phương” [22, tr.321].

Trong cuốn Giản yếu Hán - Việt từ điển xuất bản năm 1992, tác giả

Đào Duy Anh trình bày cách hiểu của mình đối với từ ghép “hộ tịch” là:

“Hộ tịch: quyển sổ của Chính Phủ biên chép số người, chức nghiệp và

tịch quán của từng người” [1, tr.384].

Hoặc là trong cuốn Từ điển Hán - Việt từ nguyên xuất bản năm 1999

của tác giả Bửu Kế, “hộ tịch” đƣợc hiểu là “Sổ sách ghi chép tên, họ, nghề

nghiệp dân cư ngụ trong xã phường” [18, tr.814].

Có thể nhận thấy cách giải nghĩa từ “hộ tịch” của các tác giả Đào Duy

Anh, Nguy n Văn Khôn, Bửu Kế, Nguy n Lân, Hoàng Thúc Trâm tuy rằng

khác nhau về cách di n đạt nhƣng đều giải nghĩa “hộ tịch” có nét khá tƣơng

đồng: “hộ tịch” là quyển số chứa đựng các thông tin cơ bản của cá nhân nhƣ

họ, tên, nghề nghiệp, quê quán.

Bên cạnh đó, một số từ điển lại giải nghĩa từ “hộ tịch” ở những khía

cạnh khác hẳn, chẳng hạn nhƣ:

Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt của Viên Ngôn ngữ học do Hoàng Phê

chủ biên xuất bản năm 1998, từ ghép “hộ tịch” đƣợc giải nghĩa là:

“Hộ tịch: sổ của cơ quan dân chính đăng kí cư dân trong địa phương

mình theo từng hộ” [26, tr.442]

Một cách hiểu khác về “hộ tịch” đƣợc tác giả Nguy n Nhƣ Ý trình bày

trong cuốn Đại từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1998 đó là:

“Hộ tịch: các sự kiện trong đời sống của một người thuộc sự quản lý

của pháp luật” [43, tr.835].

Đặc biệt là trong cuốn Từ điển tƣờng giải và liên tƣởng Tiếng Việt do

Nhà xuất bản văn hóa thông tin xuất bản năm 1999, tác giả Nguy n Văn

Đạm giải hiểu “hộ tịch” theo một khía cạnh hoàn toàn khác so với các cách

giải nghĩa trên:

8

“Hộ tịch: quyền cư trú, được chính quyền công nhận của một người tại

nơi mình ở thường xuyên, của những người thường trú thuộc cùng một hộ, do

chính quyền cấp cho từng hộ để xuất trình khi cần” [14, tr.385].

Nhƣ vậy, nghĩa của từ “hộ tịch” xét về khía cạnh xã hội còn tồn tại

nhiều cách hiểu khác nhau. Theo quan điểm của tác giả, tác giả đồng ý với

cách giải nghĩa từ “hộ tịch” của tác giả Nguy n Nhƣ Ý trình bày trong cuốn

Đại từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1998: “Hộ tịch: các sự kiện trong đời

sống của một người thuộc sự quản lý của pháp luật” [43, tr.835].

Về khía cạnh pháp lý, thuật ngữ “hộ tịch” lần đầu tiên đƣợc định nghĩa

trong các giáo trình giảng dạy của Đại học Luật khoa Sài Gòn dƣới chế độ

Việt Nam Cộng hoà, trong đó nổi lên quan điểm của một số tác giả sau:

Tác giả Phan Văn Thiết có thể coi là ngƣời đầu tiên trình bày quan

niệm “hộ tịch” trong cuốn tài liệu chuyên khảo Hộ tịch chỉ nam xuất bản năm

1958 nhƣ sau:

“Hộ tịch - còn gọi là nhân thế bộ - là cách sinh hợp pháp của một công

dân trong gia đình và trong xã hội. Hộ tịch căn cứ vào ba hiện tượng quan

trọng nhất của con người: sinh, giá thú và tử" [36, tr.7].

Các tác giả Vũ Văn Mẫu - Lê Đình Chân lại trình bày một định nghĩa

khác về khái niệm “hộ tịch” trong cuốn Danh từ và tài liệu Dân luật và Hiến

luật xuất bản năm 1968 nhƣ sau:

"Hộ tịch là sổ biên chép các việc liên hệ đến các người trong nhà. Hộ tịch

gồm ba sổ để ghi chép các sự khai giá thú, khai sinh và khai tử" [24, tr.111].

Tác giả Trần Thúc Linh, tác giả cuốn Danh từ pháp luật lƣợc giải xuất

bản năm 1965 - vốn đƣợc đánh giá là một trong những từ điển chuyên ngành

pháp lý đầu tiên - không đƣa ra định nghĩa về khái niệm “hộ tịch” mà chỉ định

nghĩa khái niệm “chứng thƣ hộ tịch”:

Chứng thƣ hộ tịch là những giấy tờ công chứng d ng để chứng minh

9

một cách chính xác thân trạng ngƣời ta nhƣ ngày tháng sanh, tử, giá thú, họ

tên, con trai con gái, con chính thức hay con tƣ sanh, tƣ cách vợ chồng... tóm

lại tình trạng xã hội của con ngƣời từ lúc sinh ra đến khi chết.

Các sổ sách hộ tịch ghi lại mọi việc sanh, tử, giá thú và các việc thay

đổi về thân trạng ngƣời ta (nhìn nhận con ngoại hôn, chính thức hoá con tƣ

sinh, khƣớc từ phụ hệ, ly thân... [23, tr.42].

Chứng thƣ hộ tịch là những giấy tờ công chứng d ng để chứng minh

một cách chính xác thân trạng của một ngƣời nhƣ ngày tháng sinh, tử, giá thú,

họ tên, con trai, con gái, tƣ cách vợ chồng… tóm lại tình trạng xã hội của con

ngƣời từ lúc sinh ra đến khi chết.

Nhìn một cách tổng quát, có thể thấy các tác giả tuy đƣa ra những cách

định nghĩa khác nhau về khái niệm hộ tịch nhƣng trong những cách định

nghĩa này đều chỉ ra những dấu hiệu đặc trƣng của hộ tịch:

Thứ nhất, hộ tịch là việc ghi chép các quan hệ gia đình của một ngƣời;

Thứ hai, các quan hệ gia đình thuộc phạm vi quan tâm của hộ tịch phải

là những quan hệ phát sinh trên cơ sở ba sự kiện quan trọng trong cuộc đời

của mỗi con ngƣời, đó là: sự kiện sinh, hôn nhân và tử;

Thứ ba, chứng thƣ hộ tịch là loại giấy tờ pháp lý có giá trị chứng minh

chính xác các đặc điểm nhân thân cơ bản của một cá nhân.

Khái niệm “hộ tịch” là một trƣờng hợp đặc biệt trong hệ thống khái

niệm pháp lý tiếng Việt. Bản thân khái niệm này hoàn toàn không d định

nghĩa một cách rõ ràng, điều đó cũng có nghĩa là việc sử dụng nó không thuận

tiện theo nguyên tắc sử dụng ngôn ngữ khi xây dựng văn bản quy phạm pháp

luật. Trên thực tế, đã từng có những cuộc thảo luận trong giới chuyên môn về

việc thay thế khái niệm này bằng một khái niệm khác thông dụng hơn, d hiểu

hơn. Tuy nhiên, do khái niệm này, trải qua một quá trình lịch sử đã dần trở

thành ngôn ngữ phổ thông, ăn sâu trong nhận thức nhân dân nên giải pháp đi

10

tìm khái niệm Việt hoá thay thế không đƣợc lựa chọn, thay vào đó, các nhà

xây dựng pháp luật đã dung hoà bằng giải pháp mà Luật ban hành văn bản

quy phạm pháp luật cho phép, đó là sử dụng khái niệm này với tƣ cách là một

thuật ngữ chuyên môn và định nghĩa trong văn bản.

Theo đó, quy định tại Điều 1 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP của Chính

phủ ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch thì: “Hộ tịch là những sự kiện cơ bản

xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết”.

Trƣớc khi có Nghị định số 83/1998/NĐ-CP, Bộ luật dân sự 1995 có

riêng một mục quy định về hộ tịch. Bộ luật dân sự 1995 không đƣa ra khái

niệm “hộ tịch” mà chỉ định nghĩa về đăng ký hộ tịch tại điều 54 nhƣ sau:

1. Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền

xác nhận sự kiện sinh, tử, kết hôn, ly hôn, giám hộ, nuôi con nuôi,

thay đổi họ, tên, quốc tịch, xác định dân tộc, cải chính hộ tịch và

các sự kiện khác theo quy định của pháp luật về hộ tịch.

2. Việc đăng ký hộ tịch là quyền, nghĩa vụ của mỗi ngƣời.

3. Việc đăng ký hộ tịch đƣợc thực hiện theo trình tự và thủ

tục do pháp luật về hộ tịch quy định [33, Điều 54].

Nghị định 158/2005/NĐ-CP tiếp tục sử dụng khái niệm “hộ tịch” đã

đƣợc định nghĩa trong Nghị định 83/1998/NĐ-CP: “Hộ tịch là những sự kiện

cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi

chết”. Cách định nghĩa này, thực chất chỉ là một sự ƣớc định. Về giá trị biểu

đạt, với cách định nghĩa nhƣ vậy, s chính xác hơn nếu coi đây là định nghĩa

cho thuật ngữ “sự kiện hộ tịch” chứ không phải thuật ngữ “hộ tịch”. Bên cạnh

đó, bản thân cách định nghĩa này cũng chƣa xác định đƣợc rõ ràng nội hàm

của khái niệm nên c ng với khái niệm “hộ tịch”, Nghị định 158/2005/NĐ-CP

còn nêu thêm khái niệm “đăng ký hộ tịch” bằng phƣơng pháp mô tả nhƣ sau:

11

Đăng ký hộ tịch theo quy định của Nghị định này là việc cơ

quan nhà nƣớc có thẩm quyền:

a) Xác nhận các sự kiện: sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi;

giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh

hộ tịch; xác định lại giới tính; xác định lại dân tộc;

b) Căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nƣớc có thẩm

quyền, ghi vào sổ hộ tịch các việc: xác định cha, mẹ, con; thay đổi

quốc tịch; ly hôn; hủy việc kết hôn trái pháp luật; chấm dứt nuôi

con nuôi [6].

Theo quy định tại Điều 1 Luật hộ tịch 2014 quy định khái niệm về hộ tịch

giống nhƣ nghị định số 158/2005/NĐ-CP tuy nhiên có xác định rõ các sự kiện:

“Hộ tịch là những sự kiện được quy định tại Điều 3 của Luật này, xác

định tình trạng nhân thân của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết”.

Theo đó, Điều 3 của Luật hộ tịch quy định những sự kiện hộ tịch:

1. Xác nhận vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch:

a) Khai sinh;

b) Kết hôn;

c) Giám hộ;

d) Nhận cha, mẹ, con;

đ) Thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung

thông tin hộ tịch;

e) Khai tử.

2. Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo

bản án, quyết định của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền:

a) Thay đổi quốc tịch;

b) Xác định cha, mẹ, con;

c) Xác định lại giới tính;

12

d) Nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi;

đ) Ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc

kết hôn;

e) Công nhận giám hộ;

g) Tuyên bố hoặc huỷ tuyên bố một ngƣời mất tích, đã chết,

bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.

3. Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy

việc kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con;

nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã

đƣợc giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nƣớc ngoài.

4. Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác

theo quy định của pháp luật [33, Điều 3].

Theo quan điểm của tác giả có thể hiểu khái niệm “hộ tịch” là những sự

kiện xác định tình trạng nhân thân của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết:

khai sinh; kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính hộ tịch,

xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch; khai tử, thay đổi quốc tịch; xác

định cha, mẹ, con; xác định lại giới tính; nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi

con nuôi; ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn;

công nhận giám hộ; tuyên bố hoặc huỷ tuyên bố một ngƣời mất tích, đã chết,

bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Với mỗi vấn đề về hộ tịch thì có giấy tờ về vấn đề đó. Theo Nghị định

158/ 2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch thì: Giấy tờ hộ tịch do cơ

quan nhà nƣớc có thẩm quyền cấp cho cá nhân theo quy định của pháp luật về

hộ tịch là căn cứ pháp lý xác nhận sự kiện hộ tịch của cá nhân đó. Giấy khai

sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân. Mọi hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có

nội dung ghi về họ, tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm sinh; giới tính; dân tộc;

quốc tịch; quê quán; quan hệ cha, mẹ, con phải ph hợp với Giấy khai sinh

13

của ngƣời đó. Giấy tờ hộ tịch do Cơ quan đại diện Ngoại giao, Cơ quan Lãnh

sự của Việt Nam ở nƣớc ngoài (sau đây gọi là Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự

Việt Nam) cấp có giá trị nhƣ giấy tờ hộ tịch đƣợc cấp ở trong nƣớc.

Điểm mới của Luật hộ tịch là không quy định khái niệm về giấy tờ hộ

tịch. Luật quy định cụ thể chỉ cấp 02 loại bản chính Giấy khai sinh và Giấy

chứng nhận kết hôn, còn các sự kiện hộ tịch khác sau khi hoàn tất thủ tục

đăng ký ngƣời yêu cầu đăng ký hộ tịch đƣợc cấp Trích lục hộ tịch tƣơng ứng

với từng sự kiện hộ tịch đã đăng ký. Bản chính trích lục hộ tịch đƣợc chứng

thực bản sao.

Giấy khai sinh là văn bản do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền cấp cho

cá nhân khi đƣợc đăng ký khai sinh; nội dung Giấy khai sinh bao gồm các

thông tin cơ bản về cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật hộ tịch.

Giấy chứng nhận kết hôn là văn bản do cơ quan nhà nƣớc có thẩm

quyền cấp cho hai bên nam, nữ khi đăng ký kết hôn; nội dung Giấy chứng

nhận kết hôn bao gồm các thông tin cơ bản quy định tại khoản 2 Điều 17 của

Luật hộ tịch.

1.1.2. Mối quan hệ giữa hộ tịch với các lĩnh vực khác

Hộ tịch là sự kiện cơ bản xác định tình trạng thân nhân của một ngƣời

từ khi sinh ra cho đến khi chết. Vì vậy, các vấn đề về hộ tịch có mối liên hệ

mật thiết với các ngành, lĩnh vực khác và đặc biệt là: ngành Công an trong

quản lý hộ khẩu, chứng minh nhân dân, căn cƣớc công dân; ngành y tế trong

quản lý dân số và kế hoạch hóa gia đình, bảo hiểm y tế; ngành Giáo dục và

Đào tạo trong quản lý học bạ, văn bằng chứng chỉ, thi cử; ngành Nội vụ trong

quản lý hồ sơ cán bộ, công chức, ngành Lao động, Thƣơng binh và xã hội

trong quản lý Bảo hiểm xã hội; Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên trong việc tuyên

truyền nâng cao nhận thức của cá nhân trong việc thực hiện quyền và nghĩa

vụ đăng ký hộ tịch.

14

Đăng ký hộ tịch đầy đủ, chính xác, kịp thời là cơ sở và tạo điều kiện

thuận lợi cho cơ quan Công an trong quá trình thực hiện nhập hộ khẩu, cấp

chứng minh nhân dân cho ngƣời dân, quản lý công dân… Ngƣợc lại hộ khẩu,

chứng minh nhân dân là một trong những cơ sở cho việc đăng ký lại các sự

kiện hộ tịch. Trong một số trƣờng hợp đƣơng sự có hai thông tin khác nhau

thì cơ quan Công an không thể tiến hành tra cứu các dữ liệu hộ tịch của ngành

Tƣ pháp. Mặc d Nghị định 158/2005/NĐ-CP có khẳng định Giấy khai sinh

là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi ngƣời, nhƣng do không hồ sơ, sổ bộ lƣu nên khi

ngƣời dân bị mất Giấy khai sinh phải thực hiện đăng ký lại việc sinh thì Giấy

khai sinh này đƣợc cấp mới hoàn toàn theo những chứng cứ do ngƣời dân tự

cung cấp. Do cơ quan Công an cũng có một hệ thống hồ sơ lƣu trữ riêng nên

không chấp nhận Giấy khai sinh đƣợc đăng ký lại này là “giấy tờ hộ tịch

gốc”. Tuy nhiên từ khi Luật hộ tịch 2014 quy định xây dựng Cơ sở dữ liệu

hộ tịch điện tử để lƣu giữ thông tin hộ tịch của cá nhân (c ng với cơ sở dữ

liệu giấy), kết nối để cung cấp thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân cho Cơ

sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ. Theo đó, Giấy khai sinh và Số định danh cá

nhân s đƣợc cấp cho ngƣời đƣợc khai sinh khi đăng ký khai sinh. Mỗi hồ sơ

đăng ký khai sinh tại Ủy ban nhân dân phƣờng s đƣợc chuyển qua phần

mềm đến cơ quan công an để đƣợc cấp số định danh. Đối với ngƣời dƣới 14

tuổi, Số định danh cá nhân đƣợc ghi vào Giấy khai sinh và đây chính là số

thẻ căn cƣớc công dân của ngƣời đó khi đủ tuổi đƣợc cấp căn cƣớc công

dân. Bộ Công an và Bộ Tƣ pháp quản lý thống nhất, tập trung thông tin công

dân từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ cũng nhƣ giải quyết thủ tục hành

chính cho ngƣời dân.

Trên lý thuyết, giữa ngành Tƣ pháp và các ngành Nội vụ, Lao động -

Thƣơng binh và Xã hội phải có sự phối hợp chặt ch đảm bảo sự chính xác

trong quản lý hồ sơ cán bộ, công chức và các hồ sơ chuyên ngành. Công tác

15

đăng ký và quản lý hộ tịch đƣợc thực hiện nghiêm túc, đúng quy định là tiền

đề tốt cho việc thực hiện các chính sách quản lý nhà nƣớc đối với nhiều

ngành, lĩnh vực. Riêng đối với công tác quản lý hồ sơ cán bộ, công chức của

ngành Nội vụ cũng đòi h i cần có sự thống nhất cao các thông tin cá nhân của

mỗi cán bộ, công chức nhƣ họ tên, ngày tháng năm sinh, cha mẹ… nhằm giúp

cho cơ quan sử dụng cán bộ, công chức nắm bắt, khai thác các thông tin về

nhân thân, quan hệ gia đình để có chính sách sử dụng, ƣu đãi hợp lý. Tuy

nhiên trên thực tế mối liên quan giữa các ngành này vẫn chƣa thể hiện rõ nét.

Công tác quản lý hộ tịch trong lĩnh vực Giáo dục và Đào tạo về việc

điểu chỉnh văn bằng, chứng chỉ cho ph hợp với giấy khai sinh là rất lớn.

Trong công tác thi cử, việc xét diện ƣu tiên về dân tộc cho thí sinh cũng căn

cứ vào Giấy khai sinh.

Việc đăng ký hộ tịch kịp thời cho trẻ giúp ngành Y tế; Lao động -

Thƣơng binh và Xã hội có cơ sở để cấp thẻ khám chữ bệnh mi n phí cho trẻ

em dƣới 6 tuổi; thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội; thống kê tình hình dân

số nhằm có kế hoạch cho công tác tuyên truyền, vận động thực hiện kế hoạch

hóa gia đình; đảm bảo các chính sách của Nhà nƣớc về bảo hiểm.

1.1.3. Pháp luật về hộ tịch

1.1.3.1. Khái niệm và khái quát sự hình thành, phát triển của pháp

luật về hộ tịch ở nước ta

Học thuyết Mác - Lênin về nhà nƣớc và pháp luật lần đầu tiên trong

lịch sử đã giải thích một cách đúng đắn khoa học về bản chất của pháp luật và

những mối quan hệ của nó với các hiện tƣợng khác trong xã hội có giai cấp.

Bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp của nó, không có “pháp luật tự

nhiên” hay pháp luật không mang tính giai cấp.

Tính giai cấp của pháp luật thể hiện trƣớc hết ở chỗ pháp luật phản ánh

ý chí nhà nƣớc của giai cấp thống trị. Nhờ nắm trong tay quyền lực quyền lực

16

nhà nƣớc, giai cấp thống trị đã thông qua nhà nƣớc để thể hiện ý chí của giai

cấp mình một cách tập trung, thống nhất và hợp pháp hóa thành ý chí của nhà

nƣớc, ý chí đó đƣợc cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật do cơ quan nhà

nƣớc có thẩm quyền ban hành. Nhà nƣớc ban hành và bảo đảm cho pháp luật

đƣợc thực hiện, vì vậy pháp luật là các quy tắc xử sự chung có tính bắt buộc

đối với mọi ngƣời. Trong xã hội có giai cấp tồn tại nhiều loại quy phạm khác

nhau, nhƣng chỉ có một hệ thống pháp luật thống nhất chung cho toàn xã hội.

Tuy nhiên, vì pháp luật do nhà nƣớc, đại diện chính thức của toàn xã

hội ban hành nên nó còn mang tính xã hội. Vậy nên pháp luật là một hiện

tƣợng vừa mang tính giai cấp lại vừa thể hiện tính xã hội. Hai thuộc tính này

có mối liên hệ mật thiết với nhau. Mức độ đậm, nhạt của hai tính chất này của

pháp luật rất khác nhau và thƣờng hay biến đổi t y thuộc vào điều kiện kinh

tế, xã hội, đạo đức, quan điểm, đƣờng lối và các trào lƣu chính trị xã hội trong

mỗi nƣớc, ở một thời k lịch sử nhất định.

Vậy nên có thể định nghĩa pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do

Nhà nƣớc ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị

trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Nhà nƣớc cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nƣớc pháp quyền

xã hội chủ nghĩa là nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân, do đó pháp luật thể

hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Do đó, pháp luật xã

hội chủ nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự, thể hiện ý chí của giai cấp công

nhân và nhân dân lao động, dƣới sự lãnh đạo của Đảng, do Nhà nƣớc xã hội

chủ nghĩa ban hành và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cƣỡng chế của nhà

nƣớc trên cơ sở giáo dục và thuyết phục mọi ngƣời tôn trọng và thực hiện.

Pháp luật về hộ tịch là một bộ phận của hệ thống pháp luật xã hội chủ

nghĩa. Pháp luật về hộ tịch là hệ thống các quy phạm pháp luật do cơ quan

Nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong

17

lĩnh vực hộ tịch nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và

góp phần trong công tác quản lý dân cƣ của Nhà nƣớc.

Ở nƣớc ta, vấn đề đăng ký và quản lý hộ tịch có lịch sử từ khá lâu (thời

nhà Trần). Thời k phong kiến, thực dân, bên cạnh vấn đề quản lý đất đai

(“điền”), thì vấn đề quản lý hộ tịch - con ngƣời (“đinh”) là vấn đề trọng yếu

của Nhà nƣớc, luôn đƣợc quan tâm quản lý, thực hiện..

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, xác định đƣợc tầm quan trọng

của công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, Nhà nƣớc ta tiếp tục duy trì và ban

hành văn bản quy phạ pháp luật để điều chỉnh. Đầu tiên là Sắc lệnh số

47/SL ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Bản Điều lệ hộ tịch

năm 1956 ban hành kèm theo Nghị định số 764/TTg ngày 08/5/1956 của

Chính phủ. Bản điều lệ này bao gồm 34 điều quy định những nguyên tắc và

thủ tục đăng ký các việc sinh, tử, kết hôn, sửa chữa các điều đã đăng ký; ghi

chú các việc thay đổi về hộ tịch và cấp phát giấy chứng nhận các việc ấy. Các

quy định của bản Điều lệ đăng ký hộ tịch này thay thế toàn bộ các thể lệ đăng

ký hộ tịch áp dụng trƣớc đó.Việc quản lý hộ tịch trong giai đoạn này do Bộ

Nội vụ và Ủy ban hành chính các cấp thực hiện. Tiếp theo đó là Bản Điều lệ

đăng ký hộ tịch năm 1961 ban hành kèm theo Nghị định số 04/CP ngày

16/01/1961. Bản điều lệ đăng ký hộ tịch năm 1961 có hiệu lực thi hành từ

ngày 01/4/1961 có hiệu lực trong gần 40 năm cho đến khi Nghị định số

83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch ra đời.

Từ năm 1987, sau khi Nghị định số 219/HĐBT ngày 20/11/1987 của Hội

đồng Bộ trƣởng có hiệu lực thì công tác đăng ký hộ tịch đƣợc chuyển giao từ

Bộ Nội vụ sang Bộ Tƣ pháp và Ủy ban nhân dân các cấp.

Ngày 27/12/2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 158/2005/NĐ-CP

về đăng ký hộ tịch. Nghị định 158/2005/NĐ-CP thay thế Nghị định

83/1998/NĐ-CP sau 7 năm có hiệu lực. So với Nghị định 83/1998/NĐ-CP thì

18

Nghị định 158/2005/NĐ-CP đã tháo gỡ những vƣớng mắc trên thực tế mà

Nghị định 83/1998/NĐ-CP chƣa giải quyết đƣợc đó là: đơn giản thủ tục, rút

ngắn thời gian giải quyết công việc ph hợp với tinh thần cải cách hành chính,

thuận tiện cho ngƣời dân. Nghị định 158/2005/NĐ-CP có nhiều điểm mới,

đặc biệt việc phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban nhân dân cấp

huyện thực hiện các thủ tục đăng ký hộ tịch trƣớc đó thuộc thẩm quyền của

Ủy ban nhân dân cấp trên.

Trong giai đoạn này, căn cứ vào quy định của Bộ luật Dân sự (năm

1995, 2005), Luật Hôn nhân và gia đình (năm 1986, 2000, 2014) và các luật

liên quan khác, đến trƣớc năm 2015, Chính phủ đã ban hành 6 Nghị định điều

chỉnh lĩnh vực hộ tịch, cả việc hộ tịch trong nƣớc và việc hộ tịch có yếu tố

nƣớc ngoài: Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ

quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của

Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị định số

32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật

Hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số; Nghị định số 68/2002/NĐ-

CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của

Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc

ngoài; Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 của Chính phủ sửa đổi,

bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP; Nghị định số

06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều

của các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân gia đình và chứng thực; Nghị định số

24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một

số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có

yếu tố nƣớc ngoài.

Ngày 20/11/2014, tại K họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua

Luật Hộ tịch với 7 Chƣơng, 77 Điều, và có hiệu kể từ ngày 01 tháng 01 năm

19

2016. Đây là lần đầu tiên Nhà nƣớc ban hành văn bản Luật quy định riêng về

lĩnh vực đăng ký, quản lý hộ tịch sau hơn 60 năm thực hiện bằng các văn bản

dƣới luật do Chính phủ ban hành. Luật có nhiều quy định mới, mang tính đột

phá, “cách mạng” về: thẩm quyền đăng ký hộ tịch, phƣơng thức đăng ký,

quản lý hộ tịch, cải cách mạnh thủ tục hành chính... Trong đó, có quy định

mới, cụ thể về vai trò của Uỷ ban nhân dân các cấp, Sở Tƣ pháp cấp tỉnh đối

với hoạt động quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực đăng ký hộ tịch.

1.1.3.2. Quy phạm pháp luật và quan hệ pháp luật về hộ tịch

Hiện nay, trong các văn bản pháp luật (Bộ luật Dân sự 2015, Luật Hôn

nhân và Gia đình năm 2014, Luật nuôi con nuôi năm 2010, Luật hộ tịch và

các nghị định, thông tƣ…) và các tài liệu sách báo pháp lý, thuật ngữ “pháp

luật về hộ tịch” đƣợc sử dụng phổ biến. Tuy nhiên tùy từng trƣờng hợp, nội

hàm của nó đƣợc xác định theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp có sự khác nhau cơ

bản. Theo những cách hiểu khác nhau đó việc xác định các quy phạm pháp

luật và các quan hệ pháp luật về hộ tịch cũng có sự khác nhau.

Hiểu theo nghĩa rộng thì pháp luật về hộ tịch bao gồm toàn bộ hệ thống

quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành điều chỉnh

các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hộ tịch, theo đó nguồn chủ đạo

của pháp luật về hộ tịch bao gồm Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Hôn nhân

và Gia đình năm 2014, Luật nuôi con nuôi năm 2010, các văn bản về đăng ký

và quản lý hộ tịch: Luật hộ tịch, Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết

một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch, Thông tƣ 15/2015/TT-BTP

quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định

123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ

tịch. Cũng trong cách hiểu này các quan hệ pháp luật về hộ tịch đƣợc phân

thành hai nhóm cơ bản, đó là nhóm quan hệ mang tính chất dân sự và nhóm

quan hệ về quản lý. Hai nhóm quy phạm này có mối quan hệ hết sức mật

20

thiết, trong đó nhóm quy phạm về hộ tịch do luật dân sự điều chỉnh luôn đóng

vai trò là tiền đề để xây dựng các quy phạm hành chính về hộ tịch.

Hiểu theo nghĩa hẹp thì pháp luật về hộ tịch chỉ bao gồm các quy phạm

hành chính về quản lý hộ tịch. Điều đó cũng có nghĩa là đối tƣợng điều chỉnh

của pháp luật về hộ tịch chỉ bao gồm các quan hệ mang tính chất chấp hành -

điều hành phát sinh trong lĩnh vực quản lý nhà nƣớc về hộ tịch. Mặc d hai

quan niệm trên có sự khác nhau cơ bản nhƣng cần thấy rằng chúng không

mâu thuẫn và loại trừ nhau.

a. Quy phạm pháp luật về hộ tịch

Là một dạng cụ thể của quy phạm hành chính, quy phạm pháp luật về

hộ tịch đƣợc hiểu là những quy tắc xử sự chung do Nhà nƣớc ban hành để

điều chỉnh các quan hệ quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực hộ tịch. Các quy

phạm pháp luật về hộ tịch có thể đƣợc phân thành hai nhóm sau:

Một là, nhóm quy phạm về địa vị pháp lý (quyền và nghĩa vụ) của các

chủ thể trong quan hệ quản lý hộ tịch và quan hệ giữa các chủ thể với nhau

trong quan hệ quản lý hộ tịch;

Hai là, nhóm quy phạm về thủ tục hành chính (thủ tục đăng ký hộ tịch

hoặc giải quyết khiếu, nại tố cáo về hộ tịch).

Số lƣợng các quy phạm pháp luật về hộ tịch khá lớn, điều chỉnh khá

toàn diện, đầy đủ các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này. Ngày trƣớc, các

quy phạm về quản lý hộ tịch nằm rải rác trong nhiều văn bản khác nhau.

Ngoài Nghị định 158/2005/NĐ-CP đƣợc coi là nguồn chủ đạo của pháp luật

về quản lý hộ tịch, các quy phạm về quản lý hộ tịch còn đƣợc tìm thấy trong

nhiều văn bản pháp luật khác nhau (Nghị định số 32/2002/NĐ- CP của Chính

Phủ ngày 27/3/2002 quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình đối

với các dân tộc thiểu số và Nghị định số 68/2002/NĐCP ngày 10/7/2002 quy

định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình về quan hệ

21

Hôn nhân và Gia đình có yếu tố nƣớc ngoài). Sự tản mạn của các quy phạm

pháp luật về quản lý hộ tịch nhƣ trên đã ảnh hƣởng đến hiệu quả của việc áp

dụng pháp luật về hộ tịch. Xét từ khía cạnh giá trị pháp lý có thể thấy, các quy

phạm pháp luật về quản lý hộ tịch có thứ bậc không cao trong thang giá trị

quy phạm. Các quy phạm có giá trị cao nhất mới dừng lại ở mức độ quy phạm

trong Nghị định của Chính Phủ; một bộ phận không nh quy phạm do Bộ Tƣ

pháp ban hành trong các Thông tƣ mang tính chất hƣớng dẫn nghiệp vụ. Bởi

vậy tính ổn định của pháp luật về quản lý hộ tịch còn chƣa cao, có thể bị sửa

đổi, bổ sung trong một thời gian ngắn. Ngoài ra, quy định của pháp luật hiện

hành về phân cấp quản lý, đăng ký hộ tịch còn nhiều bất cập. Cả ba cấp chính

quyền (tỉnh, huyện, xã) đều có thẩm quyền đăng ký hộ tịch dẫn đến chồng

chéo, không rõ ràng giữa chức năng quản lý và đăng ký hộ tịch. Ở nhiều địa

phƣơng, Sở Tƣ pháp, Phòng Tƣ pháp chỉ chú ý đến nhiệm vụ đăng ký, ít quan

tâm đến nhiệm vụ giúp Ủy ban nhân dân cấp mình thực hiện quản lý nhà nƣớc

về công tác hộ tịch. Trình tự, thủ tục đăng ký các việc hộ tịch theo pháp luật

hiện hành còn rƣờm rà, bất cập, nhiều quy định còn thiên về việc tạo thuận lợi

cho cơ quan quản lý nhà nƣớc hơn là tạo thuận lợi cho ngƣời dân. Việc tồn tại

nhiều loại sổ sách, giấy tờ về hộ tịch đã gây bất lợi, tạo nhiều áp lực cho cả cơ

quan nhà nƣớc và ngƣời dân trong việc lƣu giữ, bảo quản, sử dụng. Pháp luật

hiện hành chƣa có quy định mang tính đột phá, tạo hành lang pháp lý trong

việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký, quản lý hộ tịch và xây dựng

cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử nhằm tăng cƣờng khả năng tra cứu, khai thác dữ

liệu hộ tịch phục vụ yêu cầu của ngƣời dân và của cơ quan, tổ chức.

Tuy nhiên từ khi Luật hộ tịch ra đời thì hiện nay các quy phạm pháp

luật về hộ tịch đã nằm tập trung trong các văn bản pháp luật chính: Luật hộ

tịch, Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp

thi hành Luật hộ tịch và Thông tƣ 15/2015/TT-BTP quy định chi tiết thi hành

22

một số điều của Luật hộ tịch đã tạo cơ sở pháp lý lâu dài, ổn định và thống

nhất cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, khắc phục nguyên nhân gây ra

những bất cập, hạn chế nhƣ trên, nhất là trong bối cảnh triển khai thi hành

Hiến pháp năm 2013 với nhiều quy định mới đề cao quyền con ngƣời, quyền,

nghĩa vụ cơ bản của công dân, đồng bộ, thống nhất với các luật liên quan (nhƣ

Bộ luật dân sự 2015, Luật quốc tịch, Luật nuôi con nuôi, Luật hôn nhân và gia

đình 2014, Luật căn cƣớc công dân).

b. Quan hệ pháp luật về hộ tịch

Quan hệ pháp luật về hộ tịch là những quan hệ phát sinh trong hoạt

động chấp hành - điều hành đƣợc điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật về

hộ tịch. Chủ thể của quan hệ pháp luật về hộ tịch gồm hai nhóm:

Một là, các cá nhân và cơ quan nhà nƣớc có chức năng quản lý về hộ tịch

Hai là, các cá nhân có quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch.

Các quan hệ pháp luật hình thành trong lĩnh vực quản lý hộ tịch rất đa

dạng, di n ra theo nhiều chiều giữa các chủ thể khác nhau nhƣ: quan hệ giữa

cơ quan có thẩm quyền quản lý chung với cơ quan quản lý chuyên ngành,

giữa cơ quan quản lý cấp trên với cơ quan quản lý cấp dƣới, quan hệ giữa các

cơ quan c ng cấp, quan hệ giữa cơ quan quản lý hộ tịch với công dân, v. v.

Trong đó nhóm quan hệ phát sinh trong hoạt động đăng ký hộ tịch là nhóm

quan hệ phổ biến và thể hiện nhiều yếu tố đặc th . Các quan hệ pháp luật về

đăng ký hộ tịch là các quan hệ thủ tục phát sinh giữa cơ quan nhà nƣớc có

thẩm quyền đăng ký hộ tịch với các cá nhân công dân, ngƣời nƣớc ngoài hoặc

ngƣời không quốc tịch có quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch. Các quan hệ

này đƣợc thiết lập trên cơ sở sáng kiến, đề nghị chủ động của cá nhân và nó

thƣờng gắn liền với việc thực hiện một quyền dân sự hoặc xác lập một quan

hệ hôn nhân và gia đình.

Ví dụ: Việc UBND cấp tỉnh thực hiện thủ tục xác định lại dân tộc cho

23

một ngƣời là quan hệ hành chính nhằm thực hiện quyền dân sự của cá nhân

đó; hoặc việc UBND cấp xã đăng ký kết hôn là một quan hệ hành chính, gắn

liền với việc xác lập quan hệ hôn nhân giữa hai cá nhân. Một số quan hệ đăng

ký hộ tịch nhƣ đăng ký khai sinh, kết hôn, khai tử… đƣợc thiết lập không phải

từ đề nghị của chính cá nhân đƣợc khai sinh, kết hôn, khai tử mà từ những

ngƣời có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Quan hệ đăng ký hộ

tịch không chỉ di n ra giữa cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch với một cá

nhân mà có thể di n ra giữa cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch với c ng

lúc nhiều cá nhân có chung mục đích xác lập quan hệ hành chính đó. Ví dụ:

trƣờng hợp cơ quan đăng ký hộ tịch thực hiện việc đăng ký kết hôn, đăng ký

nuôi con nuôi.

1.1.3.3. Hệ thống quy phạm pháp luật về hộ tịch hiện hành

Luật hộ tịch là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh lĩnh vực

hộ tịch. Ngoài ra còn có Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số

điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch, Thông tƣ 15/2015/TT-BTP quy định

chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định 123/2015/NĐ-CP

quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch.

Luật hộ tịch gồm có 7 chƣơng và 77 điều, đƣợc bố cục nhƣ sau:

Chƣơng I. Những quy định chung (gồm 12 điều, từ Điều 1 đến Điều 12)

Chƣơng này quy định về phạm vi điều chỉnh; khái niệm hộ tịch, đăng

ký hộ tịch và nội dung đăng ký hộ tịch, nguyên tắc, quyền, nghĩa vụ đăng ký

hộ tịch của cá nhân; thẩm quyền đăng ký hộ tịch; trách nhiệm của Nhà nƣớc

trong việc bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch; phƣơng thức

yêu cầu và tiếp nhận yêu cầu đăng ký hộ tịch; việc hợp pháp hóa lãnh sự đối

với giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nƣớc ngoài cấp; lệ phí hộ tịch.

Ngoài ra, chƣơng này còn giải thích một số từ ngữ sử dụng trong Luật quy

định về các hành vi bị nghiêm cấm đối với cá nhân trong đăng ký, quản lý hộ

tịch và lệ phí đăng ký hộ tịch...

24

Chƣơng II. Đăng ký hộ tịch tại Ủy ban nhân dân cấp xã (gồm 7 mục, 22

điều, từ Điều 13 đến Điều 34)

Chƣơng này quy định về thẩm quyền, trình tự và thủ tục đăng ký các

loại việc hộ tịch trong nƣớc thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã,

bao gồm: Đăng ký khai sinh (gồm 04 điều: từ Điều 13 đến Điều 16); Đăng ký

kết hôn (gồm 02 điều: từ Điều 17 đến Điều 18); Đăng ký giám hộ (gồm 05

điều: từ Điều 19 đến Điều 23); Đăng ký nhận cha, mẹ, con (gồm 02 điều:

Điều 24, Điều 25); Đăng ký thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch (gồm 04 điều:

từ Điều 26 đến Điều 29); Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch theo bản án,

quyết định của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền (gồm 02 điều: Điều 30 và

Điều 31); Đăng ký khai tử (gồm 03 điều: Điều 32, Điều 33, Điều 34).

Chƣơng III. Đăng ký hộ tịch tại Ủy ban nhân dân cấp huyện (gồm 7

Mục, 18 điều, từ Điều 35 đến Điều 52).

Chƣơng này quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục đăng ký

các loại việc hộ tịch có yếu tố nƣớc ngoài thuộc thẩm quyền Ủy ban nhân dân

cấp huyện, bao gồm: Đăng ký khai sinh (gồm 02 điều: Điều 35, Điều 36);

Đăng ký kết hôn (gồm 02 điều: từ Điều 37 đến Điều 38); Đăng ký giám hộ

(gồm 04 điều: từ Điều 39 đến Điều 42); Đăng ký nhận cha, mẹ, con (gồm 02

điều: Điều 43, Điều 44); Đăng ký thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch, xác

định lại dân tộc (gồm 03 điều: Điều 45, Điều 46, Điều 47); Ghi vào Sổ hộ tịch

việc hộ tịch của công dân Việt Nam đã đƣợc giải quyết tại cơ quan có thẩm

quyền của nƣớc ngoài (gồm 03 điều: Điều 48, Điều 49, Điều 50); Đăng ký

khai tử (gồm 02 điều: Điều 51, Điều 52).

Chƣơng IV. Đăng ký hộ tịch tại cơ quan đại diện (gồm 4 điều, từ Điều

53 đến Điều 56)

Cơ quan đại diện là một trong 3 hệ thống cơ quan có thẩm quyền đăng

ký hộ tịch theo quy định của Luật. Việc đăng ký hộ tịch tại Cơ quan đại diện

25

góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam cƣ trú

tại nƣớc ngoài. Chƣơng này quy định một số vấn đề chung mang tính nguyên

tắc đối với việc đăng ký hộ tịch tại Cơ quan đại diện.

Chƣơng V. Cơ sở dữ liệu hộ tịch, cấp trích lục hộ tịch (gồm 2 Mục, 08

điều, từ Điều 57 đến Điều 64)

Mục 1. Cơ sở dữ liệu hộ tịch (gồm 5 điều từ Điều 57 đến Điều 61) quy

định về Cơ sở dữ liệu hộ tịch; Sổ hộ tịch; Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử; cập

nhật, điều chỉnh thông tin hộ tịch cá nhân trong Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử;

nguyên tắc quản lý, khai thác Cơ sở dữ liệu hộ tịch.

Mục 2. Cấp trích lục hộ tịch (gồm 3 điều từ Điều 62 đến Điều 64) quy

định về cấp bản chính trích lục hộ tịch khi đăng ký hộ tịch, cấp bản sao trích lục

hộ tịch về sự kiện hộ tịch đã đăng ký và thủ tục cấp bản sao trích lục hộ tịch.

Chƣơng VI. Trách nhiệm quản lý Nhà nƣớc về hộ tịch, công chức làm

công tác hộ tịch (gồm 2 Mục, 10 điều, từ Điều 65 đến Điều 74).

Mục 1. Trách nhiệm quản lý nhà nƣớc về hộ tịch (gồm 7 điều, từ Điều

65 đến Điều 71) quy định cụ thể trách nhiệm quản lý nhà nƣớc về hộ tịch từ

Trung ƣơng đến cơ sở, bao gồm cả Cơ quan đại diện Việt Nam ở nƣớc ngoài.

Mục 2. Công chức làm công tác hộ tịch (gồm 3 điều, từ Điều 72 đến

Điều 74) quy định về công chức làm công tác hộ tịch; tiêu chuẩn, nhiệm vụ,

quyền hạn; những việc mà công chức làm công tác hộ tịch không đƣợc làm.

Chƣơng VII. Điều khoản thi hành (gồm 03 điều, từ Điều 75 đến Điều 77)

Chƣơng này quy định về giá trị pháp lý của Sổ hộ tịch đƣợc lập, giấy tờ

hộ tịch đƣợc cấp trƣớc ngày Luật này có hiệu lực, điều khoản chuyển tiếp và

hiệu lực thi hành của Luật hộ tịch.

Luật Hộ tịch 2014 đã có những điểm mới nổi bật so với các văn bản

điều chỉnh lĩnh vực hộ tịch trƣớc đó.

Đầu tiên, Luật hộ tịch đã khẳng định vị trí, vai trò của công tác đăng ký

26

hộ tịch, nhất là đăng ký khai sinh, cấp Giấy khai sinh và Số định danh cá nhân

cho ngƣời đƣợc khai sinh khi đăng ký khai sinh. Theo Luật căn cƣớc công

dân, Số định danh cá nhân đƣợc cấp cho mỗi công dân Việt Nam (nhằm mã

hóa những thông tin cơ bản của công dân), không lặp lại ở ngƣời khác, đƣợc

quản lý trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ. Đối với ngƣời dƣới 14 tuổi,

Số định danh cá nhân đƣợc ghi vào Giấy khai sinh và đây chính là số thẻ căn

cƣớc công dân của ngƣời đó khi đủ tuổi đƣợc cấp Thẻ căn cƣớc công dân.

Đó là quy định mang tính đột phá trong công tác quản lý hộ tịch và quản lý

dân cƣ, là tiền đề quan trọng để tiến tới mục tiêu cắt giảm nhiều loại giấy tờ,

tạo thuận lợi cao nhất cho ngƣời dân khi tham gia giao dịch, thực hiện thủ

tục hành chính.

Thứ hai, Luật quy định xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử để lƣu

giữ thông tin hộ tịch của cá nhân (c ng với cơ sở dữ liệu giấy), kết nối để

cung cấp thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về

dân cƣ. Theo đó, thông tin hộ tịch của cá nhân s đƣợc quản lý tập trung,

thống nhất; các Bộ, ngành, địa phƣơng sử dụng thông tin công dân từ Cơ sở

dữ liệu quốc gia về dân cƣ để phục vụ công tác quản lý của Bộ, ngành, địa

phƣơng mình (mà không phải nhập lại), cũng nhƣ giải quyết thủ tục hành

chính cho ngƣời dân.

Thứ ba, Luật có những quy định cải cách mạnh m về trình tự, thủ tục

đăng ký hộ tịch, tạo thuận lợi tối đa cho ngƣời dân.

Luật Hộ tịch 2014, đã quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn các nội dung

đăng ký hộ tịch; đã phân định rõ sự kiện nào là Xác nhận vào Sổ hộ tịch, sự

kiện nào là Ghi vào Sổ hộ tịch. Theo đó:

Xác nhận vào Sổ hộ tịch là xác nhận các sự kiện hộ tịch sau: Khai sinh;

Kết hôn; Giám hộ; Nhận cha, mẹ, con; Thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định

lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch; Khai tử.

27

Ghi vào Sổ hộ tịch là việc ghi vào sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của

cá nhân theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, bao

gồm: Thay đổi quốc tịch; Xác định cha, mẹ, con; Xác định lại giới tính; Nuôi

con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; Ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp

luật, công nhận việc kết hôn; Công nhận giám hộ; Tuyên bố hoặc hủy tuyên

bố một ngƣời mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết hôn;

giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ

tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã đƣợc giải quyết tại cơ quan có thẩm

quyền của nƣớc ngoài.

Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy định

của pháp luật.

Luật hộ tịch cũng quy định cá nhân có quyền lựa chọn cơ quan đăng ký

hộ tịch cho mình mà không phải phụ thuộc vào nơi cƣ trú nhƣ trƣớc đây. Cá

nhân có thể đƣợc đăng ký hộ tịch tại cơ quan đăng ký hộ tịch nơi thƣờng trú,

tạm trú hoặc nơi đang sinh sống. Khi đăng ký hộ tịch, ngƣời dân đƣợc cấp

trích lục hộ tịch. Đối với một số việc hộ tịch quan trọng liên quan trực tiếp

đến đời sống hàng ngày của ngƣời dân là khai sinh, kết hôn, Luật hộ tịch quy

định sau khi đăng ký ngƣời dân vẫn đƣợc cấp bản chính Giấy khai sinh, Giấy

chứng nhận kết hôn.

Ngoài ra, Luật quy định khi thực hiện đăng ký hộ tịch thì cá nhân có

quyền lựa chọn 01 trong 03 phƣơng thức đăng ký hộ tịch nhƣ sau: Nộp hồ sơ

trực tiếp cho cơ quan đăng ký hộ tịch; thông qua hệ thống bƣu chính hoặc

thông qua hệ thống đăng ký trực tuyến khi điều kiện cho phép.Đây là điểm

mới theo hƣớng đơn giản hóa thủ tục hành chính, minh bạch, hiện đại nhằm

bảo đảm lợi ích của ngƣời dân.

Thứ tƣ, Luật quy định rõ việc mi n lệ phí đăng ký hộ tịch cho ngƣời

28

thuộc gia đình có công với cách mạng, ngƣời thuộc hộ nghèo, ngƣời khuyết

tật; đăng ký khai sinh, khai tử đúng hạn, giám hộ, kết hôn của công dân Việt

Nam cƣ trú ở trong nƣớc.

Thứ năm, Luật hộ tịch 2014 đã thực hiện sự phân cấp mạnh m hơn

hẳn nghị định 158/2005/NĐ-CP theo hƣớng chuyển giao một số loại việc

trƣớc đây thuộc thẩm quyền đăng ký hộ tịch của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

cho Sở Tƣ pháp, Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã. Nếu

theo Nghị định 158/2005/NĐ- CP c ng với Nghị định số 62/2002/NĐ- CP, hệ

thống quản lý hộ tịch ở nƣớc ta có năm (05) cơ quan có thẩm quyền đăng ký

hộ tịch, đó là: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Sở Tƣ pháp; Ủy ban nhân dân cấp

huyện; Ủy ban nhân dân cấp xã; Cơ quan Đại diện ngoại giao, Lãnh sự của

Việt Nam ở nƣớc ngoài.

Thì theo Luật hộ tịch hệ thống quản lý hộ tịch ở nƣớc ta có ba (03) cơ

quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch, đó là: Ủy ban nhân dân cấp xã; Ủy ban

nhân dân cấp huyện; Cơ quan Đại diện ngoại giao, Lãnh sự của Việt Nam ở

nƣớc ngoài.

Luật quy định Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết toàn bộ các việc

đăng ký hộ tịch có yếu tố nƣớc ngoài; thay đổi, cải chính hộ tịch cho ngƣời từ

đủ 14 tuổi trở lên cƣ trú trong nƣớc, xác định lại dân tộc, trừ việc đăng

ký khai sinh cho trẻ em sinh ra tại Việt Nam có cha hoặc mẹ là công dân Việt

Nam thƣờng trú tại khu vực biên giới còn ngƣời kia là công dân của nƣớc

láng giềng thƣờng trú tại khu vực biên giới với Việt Nam; kết hôn, nhận cha,

mẹ, con của công dân Việt Nam thƣờng trú ở khu vực biên giới với công dân

của nƣớc láng giềng thƣờng trú ở khu vực biên giới với Việt Nam, khai tử cho

ngƣời nƣớc ngoài cƣ trú ổn định lâu dài tại khu vực biên giới của Việt Nam.

Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký các việc hộ tịch còn lại. Đây đƣợc coi là

điểm mốc đánh dấu sự vận dụng một tƣ duy mới về phân cấp quản lý nhà

29

nƣớc trong công tác hộ tịch “việc nào, cấp nào thực hiện tốt hơn thì giao cho

cấp đó” đồng thời cũng thể hiện sự đánh giá cao hơn về khả năng đảm nhận

những nhiệm vụ ngày càng phức tạp hơn của hệ thống Ủy ban nhân dân cấp

xã và Ủy ban nhân dân cấp huyện.

Thứ sáu, Luật quy định rõ tiêu chuẩn, trình độ của đội ngũ công chức

làm công tác hộ tịch, nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ này, tăng cƣờng

trách nhiệm và tính chuyên nghiệp, hạn chế sai sót, vi phạm; làm rõ trách

nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp về công tác đăng ký, quản lý hộ

tịch và những sai phạm trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch tại địa phƣơng

do buông l ng quản lý.

Vậy nên, có thể nói rằng, Luật Hộ tịch ra đời đã tạo bƣớc đột phá về thể

chế của công tác hộ tịch. Là cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ cho công tác

đăng ký và quản lý hộ tịch, là cơ sở quan trọng để xây dựng hệ thống đăng ký

và quản lý hộ tịch theo hƣớng chuyên nghiệp, hiện đại.

1.2. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm thực hiện pháp luật về hộ tịch

Nhà nƣớc quản lý xã hội bằng pháp luật, pháp luật có vai trò đặc biệt

quan trọng trong đảm bảo sự ổn định và phát triển năng động của xã hội.

Trong điều kiện đổi mới, Đảng và nhà nƣớc ta đã khẳng định vai trò hàng đầu

của pháp luật trong quản lý xã hội. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 1992 ghi

nhận: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường

pháp chế xã hội chủ nghĩa" [31, Điều 12]. Kế thừa và bổ sung quan điểm trên,

Hiến pháp năm 2013 quy định: "Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo

Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực

hiện nguyên tắc tập trung dân chủ" [32, Điều 8].

Khi ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các

quan hệ xã hội, Nhà nƣớc mong muốn các văn bản đó phải đƣợc tôn trọng và

30

thực thi có hiệu quả trong thực tế. Đây cũng chính là yêu cầu để pháp luật

phát huy đƣợc giá trị đích thực của chính nó đối với đời sống xã hội con ngƣời.

Trong những năm vừa qua, Nhà nƣớc đã ban hành một hệ thống pháp luật về

hộ tịch tƣơng đối đầy đủ cả về nội dung và hình thức, quy định khá bao quát về

những vấn đề của hộ tịch. Đây s là cơ sở tiền đề quan trọng để việc thực hiện

pháp luật về hộ tịch trên thực tế đạt kết quả tốt. Vậy thực hiện pháp luật về hộ

tịch là gì? Nó bao gồm những hình thức nào? Những yếu tố nào s đảm bảo

cho việc thực hiện có hiệu quả pháp luật về hộ tịch trong cuộc sống?

Trƣớc khi đi tìm hiểu khái niệm thực hiện pháp luật về hộ tịch, chúng

ta c ng làm rõ khái niệm thực hiện pháp luật nói chung. Theo giáo trình Lý

luận chung về nhà nƣớc và pháp luật - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

thì thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những

quy định của pháp luật đi và cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp

pháp của các chủ thể pháp luật [19, tr.494]. Theo giáo trình Lý luận nhà nƣớc

và pháp luật của Đại học Luật Hà Nội thì thực hiện pháp luật là hoạt động có

mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào

cuộc sống, trở thành hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật [38, tr.468].

Nhƣ vậy, về cơ bản, quan niệm thực hiện pháp luật trong hai cuốn giáo trình

trên là thống nhất với nhau.

Thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật.

Pháp luật đƣợc đặt ra là để điều chỉnh hành vi của cong ngƣời, nên việc thực

hiện pháp luật phải thể hiện ở hành vi pháp luật của con ngƣời. Hành vi đó có

thể là hành động hoặc không hành động ph hợp ph hợp với những quy định

của pháp luật. Hành vi thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp nên nó không

trái pháp luật, không vƣợt quá phạm vi các quy định của pháp luật, luôn ph

hợp với các quy định của pháp luật.

Thực hiện pháp luật là giai đoạn không thể thiếu và vô c ng quan trọng

31

trong cơ chế điều chỉnh pháp luật. Thực hiện pháp luật, một mặt, nhằm đạt

đƣợc những mục đích xã hội mà vì chúng nhà nƣớc đã phải ban hành pháp

luật, mặt khác, còn cho phép làm rõ những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp

luật thực định để đƣa ra những giải pháp sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống

pháp luật hiện hành và cơ chế đƣa pháp luật vào cuộc sống.

Thực hiện pháp luật do nhiều chủ thể khác nhau tiến hành với nhiều

cách thức khác nhau. Đó có thể là hành vi của mỗi cá nhân, nhƣng cũng có

thể là hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức xã hội, các tổ chức

kinh tế.... Việc thực hiện pháp luật có thể phụ thuộc ý chí của mỗi chủ thể,

nhƣng cũng có thể chỉ phụ thuộc ý chí của nhà nƣớc. Hành vi hợp pháp này

có thể đƣợc chủ thể thực hiện trên cơ sở tự nhận thức là cần thiết phải xử sự

theo đúng quy định của pháp luật, cũng có thể chúng đƣợc thực hiện do chủ

thể bị ảnh hƣởng của những ngƣời xung quanh mà hành động, hoặc có thể có

những hành vi hợp pháp đƣợc thực hiện là kết quả của việc áp dụng những

biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc hoặc do sợ bị áp dụng những biện pháp đó.

Pháp luật về hộ tịch là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam.

Qua việc tìm hiểu khái niệm và các đặc điểm của việc thực hiện pháp luật nhƣ

trên, chúng ta có thể rút ra đƣợc khái niệm thực hiện pháp luật về hộ tịch nhƣ

sau: Thực hiện pháp luật về hộ tịch là một quá trình hoạt động có mục đích

của các cơ quan nhà nƣớc và mọi công dân nhằm đƣa các quy phạm pháp luật

về hộ tịch trở thành những hành vi thực tế hợp pháp.

Đặc điểm thực hiện pháp luật về hộ tịch:

Để hiểu rõ hơn bản chất của thực hiện pháp luật về hộ tịch, tác giả phân

tích một số đặc điểm chủ yếu của thực hiện pháp luật về hộ tịch nhƣ sau:

Thứ nhất, chủ thể thực hiện pháp luật về hộ tịch là các cơ quan nhà

nƣớc và cá nhân trong xã hội.

Cũng nhƣ các lĩnh vực pháp luật khác, thực hiện pháp luật về hộ tịch

32

phải thông qua hành vi của một chủ thể nhất định. T y vào từng quan hệ cụ

thể của pháp luật về hộ tịch, mà chủ thể đó có thể là cơ quan nhà nƣớc hoặc

bất k cá nhân nào trong xã hội. Do đặc th của hộ tịch là liên quan trực tiếp và

thƣờng xuyên đến quyền và nghĩa vụ của mọi cá nhân trong xã hội nên chủ thể

thực hiện pháp luật về hộ tịch có phạm vi rộng lớn về số lƣợng, cụ thể nhƣ:

Nếu trong quan hệ xử lý vi phạm hành chính thì chủ thể là các cơ quan nhà

nƣớc có thẩm quyền (thực hiện thông qua hành vi của cán bộ, công chức đƣợc

giao thẩm quyền xử phạt), nhƣng nếu trong quan hệ pháp luật về đăng ký hộ

tịch thì chủ thể thực hiện pháp luật có thể là bất k cá nhân nào trong xã hội...

Thứ hai, thực hiện pháp luật về hộ tịch là một quá trình hoạt động có

mục đích xác lập quan hệ pháp luật hành chính về hộ tịch.

Thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật về hộ tịch nói

riêng luôn là hoạt động có mục đích của các chủ thể. Khi tiến hành các hành

vi trên thực tế, các chủ thể pháp luật luôn mong muốn đạt đƣợc một kết quả

cụ thể, nhất định. Kết quả này là điều mà các chủ thể đặt ra trƣớc khi thực

hiện hành vi. Trong nhận thức, các chủ thể mong muốn đạt đƣợc khi thực

hiện pháp luật về hộ tịch. Mục đích đó có thể là mục đích lâu dài, mục đích

trƣớc mắt, mục đích chung cho toàn bộ quá trình hoặc đƣợc xác định theo

từng nội dung cụ thể. Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan Nhà nƣớc có thẩm

quyền xác nhận và ghi vào hệ thống đăng ký các thông tin hộ tịch cơ bản của

cá nhân, tạo cơ sở để xác lập mối quan hệ giữa cá nhân với Nhà nƣớc (quan

hệ Nhà nƣớc - công dân), là cơ sở pháp lý quan trọng để cá nhân thực hiện

các quyền, nghĩa vụ dân sự khác của mình. Chẳng hạn, đối với chủ thể thực

hiện pháp luật về hộ tịch là một công dân đăng ký khai sinh. Hoạt động tuân

thủ pháp luật về hộ tịch của công dân này nhằm mục đích là đƣợc cấp giấy

khai sinh để phục vụ các công việc của bản thân.

Thứ ba, thực hiện pháp luật về hộ tịch là nhằm hiện thực hóa các quy

phạm pháp luật về hộ tịch đƣa pháp luật vào đời sống.

33

Các quy định của pháp luật về hộ tịch muốn phát huy đƣợc hiệu lực,

hiệu quả trên thực tế đòi h i phải có hành vi thực hiện pháp luật về hộ tịch

của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Thông qua hành vi của mình, có thể

bằng hành động hoặc không hành động, các chủ thể pháp luật đã đƣa pháp

luật về hộ tịch vào đời sống.

Ví dụ cụ thể nhƣ pháp luật về hộ tịch nghiêm cấm các hành vi: cung

cấp thông tin, tài liệu sai sự thật, làm hoặc sử dụng giấy tờ giả, giấy tờ của

ngƣời khác để đăng ký hộ tịch, đe dọa, cƣỡng ép, cản trở việc thực hiện

quyền, nghĩa vụ đăng ký hộ tịch, can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đăng

ký hộ tịch, cam đoan, làm chứng sai sự thật để đăng ký hộ tịch, làm giả, sửa

chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ hộ tịch hoặc thông tin trong Cơ sở dữ liệu

hộ tịch, đƣa hối lộ, mua chuộc, hứa hẹn lợi ích vật chất, tinh thần để đƣợc

đăng ký hộ tịch, lợi dụng việc đăng ký hộ tịch hoặc trốn tránh nghĩa vụ đăng

ký hộ tịch nhằm động cơ vụ lợi, hƣởng chính sách ƣu đãi của Nhà nƣớc hoặc

trục lợi dƣới bất k hình thức nào, ngƣời có thẩm quyền quyết định đăng ký

hộ tịch thực hiện việc đăng ký hộ tịch cho bản thân hoặc ngƣời thân thích theo

quy định của Luật hôn nhân và gia đình, truy cập trái phép, trộm cắp, phá hoại

thông tin trong Cơ sở dữ liệu hộ tịch nên bằng hành vi của mình, các chủ thể

đã giúp quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch đƣợc đảm bảo.

1.2.2. Vai trò của thực hiện pháp luật về hộ tịch

Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một

ngƣời từ khi sinh ra đến khi chết, nên thực hiện pháp luật về hộ tịch là một

vấn đề quan trọng với mỗi cá nhân trong xã hội.

Một là, đăng ký hộ tịch thể hiện việc nhà nƣớc công nhận một con

ngƣời tồn tại với tất cả đầy đủ tính pháp lý của nó. Quản lý hộ tịch là công

việc thƣờng xuyên của các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền thực hiện để

theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ tịch, trên cơ sở đó bảo hộ các

34

quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình khi tham gia vào các quan

hệ xã hội nhƣ quyền đƣợc kết hôn khi công dân đủ tuổi theo quy định của

pháp luật, quyền đƣợc giám hộ, quyền đƣợc thừa kế… góp phần xây dựng

các chính sách về phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và dân số,

kế hoạch hóa gia đình.

Trên cơ sở theo dõi biến động về hộ tịch mà các cơ quan nhà nƣớc xây

dựng chính sách ph hợp dựa trên dân số theo độ tuổi, giới tính, nguồn nhân

lực từ đó có phân tích đánh giá cụ thể làm cơ sở để hoạch định các chính sách

về phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, thể dục thể thao, xây dựng cơ sở y tế,

trƣờng học, bố trí giáo viên…, chăm sóc sức kh e trong nhân dân, đảm bảo

cân bằng giới tính phục vụ an ninh quốc phòng…

Hai là, thực hiện pháp luật về hộ tịch thể hiện rõ ràng nhất sự tôn trọng

của Nhà nƣớc đối với việc thực hiện một số quyền nhân thân cơ bản của công

dân đã đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Dân sự, ví dụ nhƣ

quyền đối với họ tên, quyền thay đổi họ tên, quyền xác định dân tộc, quyền

đối với quốc tịch, quyền kết hôn, quyền đƣợc nuôi con nuôi và đƣợc nhận làm

con nuôi, v.v. Ở thực hiện pháp luật về hộ tịch chính là phƣơng tiện để ngƣời

dân thực hiện, hƣởng thụ các quyền nhân thân đó. Các dữ liệu về căn cƣớc

của mỗi cá nhân thể hiện trên chứng thƣ hộ tịch (giấy khai sinh, giấy chứng

nhận kết hôn …) là sự khẳng định có giá trị pháp lý về đặc điểm nhân thân

của mỗi ngƣời, mà qua đó các cơ quan tổ chức, cá nhân khác có thể đánh giá

ngƣời đó có khả năng điều kiện để tham gia vào các quan hệ pháp luật nhất

định hay không.

Ba là, hành vi đăng ký khai sinh của cơ quan đăng ký hộ tịch đánh dấu

điểm khởi đầu của hoạt động quản lý nhà nƣớc đối với từng ngƣời dân, đồng

thời cũng là điểm khởi đầu cho mọi mối quan hệ giữa công dân với nhà nƣớc.

Từ góc độ lý luận về Nhà nƣớc và pháp luật ở phƣơng diện này có thể khẳng

35

định, thực hiện pháp luật về hộ tịch là một lĩnh vực hoạt động thể hiện sâu sắc

chức năng xã hội của Nhà nƣớc. Với ý nghĩa quan trọng nhƣ vậy việc nhà

nƣớc tổ chức thực hiện pháp luật hộ tịch chính là sự bảo hộ đối với việc thực

hiện các quyền con ngƣời. Điều này chỉ có trong các xã hội mà nền dân chủ

đƣợc mở rộng và phát huy, khi mà các giá trị quyền con ngƣời đƣợc nhà nƣớc

tôn trọng và có trách nhiệm bảo hộ.

Bốn là, việc thực hiện pháp luật hộ tịch của các cơ quan nhà nƣớc còn

có vai trò to lớn đối với việc đảm bảo trật tự xã hội. Đặc biệt sau khi Luật hộ

tịch ra đời, hệ thống cơ sở dữ liệu hộ tịch có thể giúp truy tìm nguồn gốc của

cá nhân một cách d dàng. Trong lĩnh vực hoạt động tƣ pháp khi cần đánh giá

năng lực chủ thể của một cá nhân các cơ quan tiến hành tố tụng luôn cần đến

giấy khai sinh của cá nhân đó. Giấy khai sinh chứa đựng các dữ liệu gốc của

cá nhân nhƣ ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, dân tộc, quốc tịch, họ tên cha

mẹ,… có thể đƣợc sử dụng với tính cách là chứng cứ, các thông tin thể hiện

trên giấy khai sinh có thể giúp cơ quan tố tụng đánh giá nhiều vấn đề trong

các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, …

Bởi ý nghĩa quan trọng nhƣ vậy, nên trong sự phát triển của mỗi quốc

gia, vấn đề xây dựng hệ thống quản lý hộ tịch và khai thác hiệu quả của nó

phục vụ cho công tác quản lý nhà nƣớc luôn đƣợc quan tâm.

1.2.3. Hình thức thực hiện pháp luật về hộ tịch

Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, lý luận chung

về nhà nƣớc và pháp luật xác định bốn hình thức thực hiện pháp luật là tuân

thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.

Nhận thức các hình thức thực hiện pháp luật về hộ tịch cũng dựa trên lý

luận chung về các hình thức thực hiện pháp luật trên và dựa vào những đặc

trƣng của lĩnh vực pháp luật cụ thể này. Theo đó, các hình thức thực hiện

pháp luật về hộ tịch bao gồm:

36

Một là, tuân thủ pháp luật về hộ tịch: là một hình thức thực hiện pháp luật

trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà

pháp luật ngăn cấm. Những quy phạm pháp luật cấm quy định tại Điều 12 (Các

hành vi bị nghiêm cấm) của Luật hộ tịch đƣợc thực hiện dƣới hình thức này. Để

hình thức này đi vào cuộc sống, các chủ thể pháp luật hộ tịch (công chức Tƣ

pháp - Hộ tịch, ngƣời yêu cầu đăng ký hộ tịch, ngƣời làm chứng, cơ quan nhà

nƣớc, cá nhân) phải kiềm chế không thực hiện hành vi bị nghiêm cấm.

Cụ thể nhƣ Luật hộ tịch quy định "công chức làm công tác hộ tịch

không đƣợc cửa quyền, hách dịch, sách nhi u, trì hoãn, gây khó khăn, phiền

hà, nhận hối lộ khi đăng ký, quản lý hộ tịch", nghĩa là khi công chức làm công

tác hộ tịch không gây khó khăn cho ngƣời đăng ký hộ tịch thì lợi ích của

ngƣời đăng ký hộ tịch đƣợc bảo vệ, ngƣợc lại, khi công chức làm công tác hộ

tịch gây khó khăn, lợi ích của ngƣời đăng ký hộ tịch s bị xâm phạm. Tuy

nhiên, nội dung của quy định phải rõ ràng, d thực hiện, thực tế cho thấy thế

là "gây khó khăn, phiền hà" không quy định hành vi cụ thể, do đó chủ thể khó

có thể thực hiện đƣợc.

Hai là, thi hành pháp luật về hộ tịch: là một hình thức thực hiện pháp

luật, trong đó chủ thể thực hiện nghĩa vụ của mình bằng hành động tích cực.

Những quy phạm pháp luật quy định tại Điều 73 Luật hộ tịch (Nhiệm vụ,

quyền hạn của công chức làm công tác hộ tịch) thể hiện dƣới hình thức này.

Để hình thức này đi vào cuộc sống, các chủ thể thực hiện pháp luật về hộ tịch

(công chức làm công tác hộ tịch, Ủy ban nhân dân các cấp, …) cần tích cực,

chủ động thực hiện các quy định về nghĩa vụ cụ thể.

Ví dụ nhƣ Luật hộ tịch quy định công chức làm công tác hộ tịch có

nghĩa vụ tuân thủ quy định của Luật hộ tịch và các quy định khác của pháp

luật có liên quan về hộ tịch có nghĩa là bằng hành vi chủ động của mình công

chức làm công tác hộ tịch phải tuân thủ nguyên tắc đã đƣợc pháp luật quy

37

định. Nếu công chức đó không tuân thủ quy định của pháp luật, s dẫn tới vi

phạm pháp luật.

Ba là, sử dụng pháp luật về hộ tịch: Là hình thức thực hiện pháp luật,

trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền, tự do pháp lý của mình trong

giới hạn cho phép của pháp luật. Nhà nƣớc tạo khả năng cho các chủ thể có

thể đƣợc hƣởng những quyền nào đó và chủ thể thực hiện các quyền này hay

không là t y thuộc vào mong muốn, ý chí của chủ thể. Những quy phạm pháp

luật quy định về các quyền và tự do pháp lý của các tổ chức, cá nhân đƣợc

thực hiện ở hình thức này. Tuy nhiên, Nhà nƣớc cũng yêu cầu các chủ thể

pháp luật phải thực hiện các quyền pháp lý một cách đúng đắn, chỉ đƣợc tiến

hành những hành vi nhất định trong phạm vi, giới hạn cho phép của pháp luật.

Ví dụ nhƣ quy định pháp luật tại Điều 13 Luật hộ tịch thẩm quyền đăng

ký khai sinh: “Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cƣ trú của ngƣời cha hoặc ngƣời

mẹ thực hiện đăng ký khai sinh”. Đây chính là quyền ngƣời đi đăng ký khai

sinh đƣợc lựa chọn nơi đăng ký khai sinh, tự do lựa chọn theo mong muốn

của mình nhƣng vẫn trong khuôn khổ quy định của pháp luật.

Bốn là, áp dụng pháp luật về hộ tịch: là một hình thức thực hiện pháp

luật, trong đó Nhà nƣớc thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức

trách tổ chức cho các chủ thể thực hiện các quy định của pháp luật. Trong

trƣờng hợp này, các chủ thể pháp luật thực hiện pháp luật có sự can thiệp của

Nhà nƣớc. Trong trƣờng hợp đặc biệt, theo quy định của pháp luật, cơ quan tổ

chức xã hội cũng có thể thực hiện hoạt động này.

Nếu tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật là những

hình thức thực hiện pháp luật mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện

thì áp dụng pháp luật là hình thức luôn luôn đòi h i phải có sự tham gia của

các cơ quan nhà nƣớc hoặc nhà chức trách có thẩm quyền. Áp dụng pháp luật

là một hình thức rất quan trọng của thực hiện pháp luật liên quan đến hiệu quả

hoạt động của bộ máy nhà nƣớc.

38

Áp dụng pháp luật về hộ tịch gồm các chủ thể sau: Ủy ban nhân dân

cấp xã, Ủy ban nhân dân cấp huyện, công chức làm công tác hộ tịch bao gồm

công chức tƣ pháp - hộ tịch ở cấp xã; công chức làm công tác hộ tịch ở Phòng

Tƣ pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện; viên chức ngoại giao, lãnh sự làm

công tác hộ tịch tại Cơ quan đại diện, …

Minh chứng cho hình thức áp dụng pháp luật: Quy phạm pháp luật quy

định tại khoản 2 Điều 16 (Thủ tục đăng ký khai sinh): “ Ngay sau khi nhận đủ

giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu thấy thông tin khai sinh đầy

đủ và ph hợp, công chức tƣ pháp - hộ tịch ghi nội dung khai sinh theo quy

định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này vào Sổ hộ tịch; cập nhật vào Cơ sở dữ

liệu hộ tịch điện tử, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ để lấy Số định danh cá

nhân.Công chức tƣ pháp - hộ tịch và ngƣời đi đăng ký khai sinh c ng ký tên

vào Sổ hộ tịch. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp Giấy khai sinh cho

ngƣời đƣợc đăng ký khai sinh” thể hiện dƣới hình thức này. Để hình thức này

đi vào cuộc sống đòi h i phải nâng cao ý thức pháp luật, trình độ chuyên môn,

kinh nghiệm thực ti n của các cán bộ, công chức, làm công tác hộ tịch để áp

dụng pháp luật nhanh chóng, kịp thời và chính xác.

1.2.4. Nội dung thực hiện pháp luật về hộ tịch

Các quy phạm pháp luật về hộ tịch đƣợc quy định trong nhiều văn bản

pháp luật của các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền: Luật hộ tịch, Nghị định

123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật

hộ tịch, Thông tƣ 15/2015/TT-BTP quy định chi tiết thi hành một số điều

của Luật hộ tịch và Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số

điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch. Tuy vậy, có thể khái quát nội dung

thực hiện pháp luật về hộ tịch trên 2 vấn đề chủ yếu: thực hiện quy định của

pháp luật về đăng ký hộ tịch, thực hiện quy định của pháp luật về quản lý

nhà nƣớc về hộ tịch.

39

Đăng ký hộ tịch theo quy định của Luật hộ tịch là việc cơ quan nhà

nƣớc có thẩm quyền xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của

cá nhân dƣới đây tạo cơ sở pháp lý để Nhà nƣớc bảo hộ quyền, lợi ích hợp

pháp của cá nhân, thực hiện quản lý về dân cƣ. Đồng thời Luật hộ tịch đã chỉ

rõ bốn nhóm hành vi của đăng ký hộ tịch:

Một là, xác nhận vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch: khai sinh; kết hôn;

giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc,

bổ sung thông tin hộ tịch; khai tử. Trong đó:

Thay đổi hộ tịch là việc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền đăng ký thay

đổi những thông tin hộ tịch của cá nhân khi có lý do chính đáng theo quy định

của pháp luật dân sự hoặc thay đổi thông tin về cha, mẹ trong nội dung khai

sinh đã đăng ký theo quy định của pháp luật.

Xác định lại dân tộc là việc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền đăng ký

xác định lại dân tộc của cá nhân theo quy định của Bộ luật dân sự.

Cải chính hộ tịch là việc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền sửa đổi những

thông tin hộ tịch của cá nhân trong trƣờng hợp có sai sót khi đăng ký hộ tịch.

Bổ sung hộ tịch là việc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền cập nhật

thông tin hộ tịch còn thiếu cho cá nhân đã đƣợc đăng ký.

Hai là, ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án,

quyết định của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền: thay đổi quốc tịch; xác định

cha, mẹ, con; xác định lại giới tính; nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con

nuôi; ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; công

nhận giám hộ; tuyên bố hoặc huỷ tuyên bố một ngƣời mất tích, đã chết, bị mất

hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Ba là, ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc

kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi;

thay đổi hộ tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã đƣợc giải quyết tại cơ

quan có thẩm quyền của nƣớc ngoài.

40

Bốn là, xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy

định của pháp luật.

Điểm phân biệt cơ bản giữa nhóm hành vi thứ nhất với ba nhóm hành

vi còn lại nhóm hành vi thứ nhất là các hành vi của ba nhóm còn lại không

làm phát sinh hiệu lực pháp lý. Bởi vì, bản thân các quyết định của cơ quan

nhà nƣớc có thẩm quyền đã đem lại hiệu lực pháp lý cho các việc đó (ví dụ:

một bản án xử ly hôn của Tòa án bản thân nó đã có hiệu lực pháp lý chớ

không phải chờ đến khi đƣợc ghi chú vào sổ hộ tịch mới có hiệu lực pháp lý).

Quản lý nhà nƣớc về hộ tịch tập trung chủ yếu vào các hoạt động: ban

hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp

luật về hộ tịch, phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch, quản lý hệ thống tổ

chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong hoạt động hộ tịch, đào tạo,

bồi dƣỡng, hƣớng dẫn nghiệp vụ về đăng ký hộ tịch, kiểm tra, thanh tra, khen

thƣởng, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động đăng ký

hộ tịch, tổng kết hoạt động hộ tịch, báo cáo cơ quan nhà nƣớc cấp trên về hoạt

động đăng ký hộ tịch.

Quản lý nhà nƣớc về hộ tịch là loại hoạt động quản lý mang tính chất

quyền lực hành chính của Nhà nƣớc do các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền

do pháp luật quy định thực hiện. Quản lý nhà nƣớc về hộ tịch nhằm tác động

lên quá trình thực hiện pháp luật hộ tịch làm cho quá trình này di n ra trong

khuôn khổ của pháp luật và đạt đƣợc mục đích định trƣớc.

Chính phủ thống nhất quản lý nhà nƣớc về hộ tịch. Bộ Tƣ pháp giúp

Chính phủ thực hiện quản lý nhà nƣớc về hộ tịch. Ngoài ra, Bộ Ngoại giao,

Bộ Công an, Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan đại diện ngoại giao, Lãnh sự

Việt Nam ở nƣớc ngoài là những cơ quan khác tham gia quản lý nhà nƣớc về

hộ tịch với những trách nhiệm nhất định.Trách nhiệm của các cơ quan nhà

nƣớc đƣợc quy định tại Mục 1 Chƣơng 4 của Luật hộ tịch 2014. Việc thực

41

hiện đúng quy định, đầy đủ, kịp thời trách nhiệm của mình trong quản lý nhà

nƣớc s có tác động tích cực đến hiệu quả của hoạt động quản lý hộ tịch.

Ngƣợc lại, nếu việc thực hiện không đúng quy định, chậm hoặc không đầy đủ

s ảnh hƣởng tiêu cực đến hoạt động quản lý hộ tịch.

1.2.5. Yêu cầu đảm bảo thực hiện pháp luật về hộ tịch

Trên cơ sở xác định pháp luật về hộ tịch là một trong những lĩnh vực

quan trọng có liên quan đến các quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi cá nhân

nên việc thực hiện pháp luật về hộ tịch phải đảm bảo các yêu cầu sau:

Thứ nhất, việc thực hiện pháp luật về hộ tịch phải tôn trọng và bảo đảm

quyền nhân thân của cá nhân. Các quyền con ngƣời, quyền cơ bản của công

dân đƣợc quy định trong Hiến pháp 2013 ví dụ nhƣ:

Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên

tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn

trọng lẫn nhau, Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử

dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp [31].

Hay trong Bộ Luật dân sự cũng quy định cụ thế những quyền nhân thân

của cá nhân:

Quyền đối với họ, tên:

Cá nhân có quyền có họ, tên. Họ, tên của một ngƣời đƣợc xác

định theo họ, tên khai sinh của ngƣời đó [34, Điều 27].

Quyền thay đổi họ, tên:

1. Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền

công nhận việc thay đổi họ, tên trong các trƣờng hợp sau đây:

a) Theo yêu cầu của ngƣời có họ, tên mà việc sử dụng họ, tên

đó gây nhầm lẫn, ảnh hƣởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự,

quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời đó;

b) Theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi về việc thay đổi họ,

42

tên cho con nuôi hoặc khi ngƣời con nuôi thôi không làm con nuôi

và ngƣời này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại họ, tên mà cha đẻ,

mẹ đẻ đã đặt;

c) Theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc ngƣời con khi xác

định cha, mẹ cho con;

d) Thay đổi họ cho con từ họ của cha sang họ của mẹ hoặc

ngƣợc lại;

đ) Thay đổi họ, tên của ngƣời bị lƣu lạc đã tìm ra nguồn gốc

huyết thống của mình;

e) Thay đổi họ, tên của ngƣời đƣợc xác định lại giới tính;

g) Các trƣờng hợp khác do pháp luật về hộ tịch quy định.

2. Việc thay đổi họ, tên cho ngƣời từ đủ chín tuổi trở lên phải

có sự đồng ý của ngƣời đó.

3. Việc thay đổi họ, tên của cá nhân không làm thay đổi, chấm

dứt quyền, nghĩa vụ dân sự đƣợc xác lập theo họ, tên cũ [34, Điều 28].

Quyền xác định dân tộc:

1. Cá nhân khi sinh ra đƣợc xác định dân tộc theo dân tộc của

cha đẻ, mẹ đẻ. Trong trƣờng hợp cha đẻ và mẹ đẻ thuộc hai dân tộc

khác nhau thì dân tộc của ngƣời con đƣợc xác định là dân tộc của

cha đẻ hoặc dân tộc của mẹ đẻ theo tập quán hoặc theo thoả thuận

của cha đẻ, mẹ đẻ.

2. Ngƣời đã thành niên, cha đẻ và mẹ đẻ hoặc ngƣời giám hộ

của ngƣời chƣa thành niên có quyền yêu cầu cơ quan nhà nƣớc có

thẩm quyền xác định lại dân tộc trong các trƣờng hợp sau đây:

a) Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ, nếu cha

đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau;

b) Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ trong trƣờng

43

hợp làm con nuôi của ngƣời thuộc dân tộc khác mà đƣợc xác định

theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi do không biết cha đẻ, mẹ đẻ là ai.

3. Trong trƣờng hợp cha đẻ, mẹ đẻ hoặc ngƣời giám hộ của ngƣời

chƣa thành niên yêu cầu xác định lại dân tộc cho ngƣời chƣa thành niên

từ đủ mƣời lăm tuổi trở lên theo quy định tại khoản 2 Điều này thì phải

đƣợc sự đồng ý của ngƣời chƣa thành niên đó [34, Điều 29].

Quyền được khai sinh:

Cá nhân khi sinh ra có quyền đƣợc khai sinh [34, Điều 30].

Quyền được khai tử:

1. Khi có ngƣời chết thì ngƣời thân thích, chủ nhà hoặc cơ

quan, tổ chức nơi có ngƣời chết phải khai tử cho ngƣời đó.

2. Trẻ sơ sinh, nếu chết sau khi sinh thì phải đƣợc khai sinh

và khai tử; nếu chết trƣớc khi sinh hoặc sinh ra mà chết ngay thì

không phải khai sinh và khai tử [34, Điều 30].

Quyền nhận cha, mẹ, con:

Ngƣời không đƣợc nhận là cha, mẹ hoặc là con của ngƣời

khác có quyền yêu cầu cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền xác định

mình là cha, mẹ hoặc là con của ngƣời đó [34, Điều 43].

Quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi:

Quyền đƣợc nuôi con nuôi và quyền đƣợc nhận làm con nuôi

của cá nhân đƣợc pháp luật công nhận và bảo hộ.Việc nhận con

nuôi và đƣợc nhận làm con nuôi đƣợc thực hiện theo quy định của

pháp luật [34, Điều 44].

Pháp luật về hộ tịch chính là cơ sở để đảm bảo các quyền nhân thân của

công dân, cá nhân đƣợc thực hiện. Pháp luật hộ tịch quy định trình tự, thủ tục,

thẩm quyền đăng ký hộ tịch để tạo điều kiện cho ngƣời dân có thể thực hiện

các quyền cơ bản nhất của mình quy định trong Hiến pháp, Bộ luật dân sự,

44

Luật Hôn nhân và gia đình, Luật nuôi con nuôi: quyền khai sinh, khai tử, kết

hôn, nhận cha mẹ con, nhận con nuôi, giám hộ. Ví dụ nhƣ ngƣời dân muốn

thực hiện quyền đăng ký khai sinh cho con của mình thì phải thực hiện theo

các trình tự và thủ tục do pháp luật về hộ tịch quy định: Thẩm quyền đăng ký

khai sinh là Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cƣ trú của bố hoặc mẹ, trình tự thủ

tục các giấy tờ hồ sơ cần nộp cũng đƣợc quy định cụ thể để cá nhân có thể

thực hiện quyền nhân thân của mình tốt nhất.

Thứ hai, thực hiện pháp luật về hộ tịch phải đảm bảo tuân thủ pháp luật

về hộ tịch. Thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật về hộ tịch nói riêng là

một trong hình thức để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nƣớc. Tất

cả các nhà nƣớc để có thể tổ chức, quản lý đƣợc xã hội đều bắt buộc phải tiến

hành xây dựng, ban hành pháp luật. Ban hành quy phạm pháp luật nhà nƣớc

mong muốn sử dụng chúng để điều chỉnh các quan hệ xã hội phục vụ lợi ích

của mục đích của nhà nƣớc và xã hội. Điều đó chỉ có thể đạt đƣợc khi các quy

phạm pháp luật do nhà nƣớc ban hành đƣợc các tổ chức và cá nhân trong xã

hội thực hiện một cách chính xác, đầy đủ. Mặc d các cơ quan nhà nƣớc có

trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật có thể đƣợc trao những quyền hạn

nhất định để thực hiện công việc nhằm đảm bảo việc thực hiện pháp luật có

tính linh hoạt, ph hợp với các tình huống trên thực tế, nhƣng tất cả mọi

quyền hạn đó đều phải nằm trong khuôn khổ pháp luật và phải đƣợc pháp luật

trao quyền. Ở đây, yêu cầu Nhà nƣớc chỉ đƣợc thực hiện những gì pháp luật

cho phép càng đƣợc nhấn mạnh. Nói cách khác, việc tổ chức thực hiện pháp

luật phải nằm trong khuôn khổ pháp luật nhất định và phải có tính thống nhất

với tổng thể hệ thống pháp luật. Tổ chức thực hiện pháp luật trong các cơ

quan nhà nƣớc không đƣợc tu tiện hoặc ngẫu nhiên, mà phải tuân theo các

tiêu chuẩn đã định, phải đảm bảo tính thống nhất với tổng thể hệ thống pháp

luật trong việc tổ chức thực hiện pháp luật cũng chính là sự đảm bảo nguyên

45

tắc về tính thứ bậc của hệ thống pháp luật. Tổ chức thực hiện pháp luật phải

tuân thủ những quy định của Hiến pháp cũng nhƣ các văn bản quy phạm pháp

luật có giá trị pháp lý cao hơn. Các quy định của pháp luật về hộ tịch không

chỉ đƣợc quy định trong Luật Hộ tịch, mà còn đƣợc quy định trong nhiều văn

bản pháp luật khác nhau: Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật cƣ

trú, Luật căn cƣớc công dân… Do đó các cơ quan nhà nƣớc là chủ thể của

pháp luật về hộ tịch có thẩm quyền đăng ký hộ tịch phải luôn tuân thủ theo

các quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục trong Luật hộ tịch và các văn

bản liên quan. Công chức làm công tác hộ tịch phải tuân thủ theo các quy

định của Luật hộ tịch, không đƣợc có những hành vi cửa quyền, hách dịch,

sách nhi u, trì hoãn, gây khó khăn, phiền hà, nhận hối lộ khi đăng ký, quản lý

hộ tịch, thu lệ phí hộ tịch cao hơn mức quy định hoặc đặt ra các khoản thu khi

đăng ký hộ tịch, đặt ra thủ tục, giấy tờ, cố ý kéo dài thời hạn giải quyết đăng

ký hộ tịch trái quy định của Luật hộ tịch, tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội

dung thông tin trong Cơ sở dữ liệu hộ tịch Đăng ký, cấp giấy tờ về hộ tịch trái

quy định của Luật hộ tịch, tiết lộ thông tin liên quan đến bí mật cá nhân mà

biết đƣợc qua đăng ký hộ tịch.

Thứ ba, thực hiện pháp luật về hộ tịch phải đảm bảo các điều kiện cơ bản

tốt nhất để các cá nhân thực hiện quyền của mình. Mọi sự kiện hộ tịch của cá

nhân phải đƣợc đăng ký đầy đủ, kịp thời, trung thực, khách quan và chính xác;

trƣờng hợp không đủ điều kiện đăng ký hộ tịch theo quy định của pháp luật thì

ngƣời đứng đầu cơ quan đăng ký hộ tịch từ chối bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Luật Hộ tịch quy định cụ thể thời hạn giải quyết hồ sơ để tránh trƣờng hợp công

chức làm công tác hộ tịch cố tình trì hoãn, gây khó khăn cho công dân: “Đối với

những việc hộ tịch mà Luật này không quy định thời hạn giải quyết thì được giải

quyết ngay trong ngày; trường hợp nhận hồ sơ sau 15 giờ mà không giải quyết

được ngay thì trả kết quả trong ngày làm việc tiếp theo” [33, Điều 5].

46

Để tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời dân khi có yêu cầu đăng ký hộ

tịch, luật cũng quy định rõ cá nhân có thể đƣợc đăng ký hộ tịch tại cơ quan

đăng ký hộ tịch nơi thƣờng trú, tạm trú hoặc nơi đang sinh sống. Việc quy

định ngƣời dân có quyền lựa chọn nơi đăng ký hộ tịch là điểm mới cơ bản so

với các quy định về xác định thẩm quyền đăng ký hộ tịch theo quy định của

Nghị định 158/2005/NĐ-CP. Để bảo đảm nguyên tắc mỗi loại việc hộ tịch chỉ

đƣợc đăng ký tạo một cơ quan đăng ký hộ tịch, Luật hộ tịch cũng đã quy định

trách nhiệm thông báo của cơ quan đăng ký hộ tịch sau khi đăng ký các sự

kiện hộ tịch cho ngƣời dân, theo đó: “Trường hợp cá nhân không đăng ký tại

nơi thường trú thì Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã, Cơ

quan đại diện nơi đã đăng ký hộ tịch cho cá nhân có trách nhiệm thông báo

việc đăng ký hộ tịch đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cá nhân đó thường trú”.

Ngoài ra các thủ tục đăng ký hộ tịch phải công khai, minh bạch. Các

thủ tục hành chính phải đƣợc niêm yết công khai tại nơi tiếp nhận hồ sơ gồm:

ngày nhận, trả hồ sơ trong tuần; hồ sơ, giấy tờ liên quan; quy trình giải quyết;

thời hạn giải quyết; phí và lệ phí; các văn bản quy phạm pháp luật có liên

quan, bộ phận trực tiếp giải quyết, công khai số điện thoại đƣờng dây nóng…

Thêm vào đó các cơ quan đăng ký hộ tịch có thể tăng cƣờng cán bộ cho tổ

tiếp nhận hồ sơ, quy định rõ trách nhiệm và quy trình xử lý công việc cho tất

cả ngƣời dân đến làm việc tại trụ sở cơ quan đều nắm đƣợc đồng thời bố trí

địa điểm tiếp nhận hồ sơ, trang bị phƣơng tiện làm việc đầy đủ, khoa học.

Những yêu cầu trên đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật về hộ tịch

đƣợc chính xác, kịp thời, đầy đủ góp phần bảo đảm, bảo vệ quyền con ngƣời,

quyền công dân.

47

Chương 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH CỦA

ỦY BAN NHÂN DÂN PHƢỜNG, QUẬN LONG BIÊN,

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. TỔNG QUAN VỀ QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Quận Long Biên là một quận thuộc thành phố Hà Nội, nằm dọc phía bờ

bắc của sông Hồng. Đông giáp Sông Đuống, Tây giáp Sông Hồng, Nam

giáp huyện Gia Lâm, Bắc giáp Sông Đuống. Quận Long Biên có diện tích 59,93 km2 với trên 270.000 nhân khẩu, mật độ dân số bình quân 2,83 nghìn ngƣời trên km2 (tính đến năm 2014). Quận Long Biên có 1 vị trí chiến lƣợc

rất quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội của Hà Nội và đất nƣớc. Là

một quận trẻ đang trong giai đoạn phát triển với tỷ lệ tăng trƣởng dân số cao

nên công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch đóng vai trò rất quan trọng trong

việc xây dựng, hoạch định chính sách phát triển kinh tế của quận.

Quận đƣợc thành lập theo Nghị định số 132/2003/NĐ-CP ngày 6

tháng 11 năm 2003 của Chính phủ, trên cơ sở tách 10 xã: Thƣợng Thanh,

Giang Biên, Ngọc Thụy, Việt Hƣng, Hội Xá, Gia Thụy, Bồ Đề, Long Biên,

Thạch Bàn, Cự Khối và 3 thị trấn: Gia Lâm, Đức Giang, Sài Đồng thuộc

huyện Gia Lâm. Quận Long Biên có diện tích 5993 ha (59,93 km²), dân số là

270.000 ngƣời (2014).

Quận Long Biên nằm trong phạm vi hai tuyến đê sông Hồng và sông

Đuống với địa hình lòng máng cao ven theo đê hai sông. Địa hình quận tƣơng

đối bằng phẳng, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam theo hƣớng chung của

địa hình và theo hƣớng của dòng sông Hồng. Địa hình Long Biên khá đa

dạng, làm nền tảng cho cảnh quan tự nhiên, tạo thuận lợi cho phát triển kinh

tế, xây dựng các công trình hạ tầng, dân dụng và khu công nghiệp.

48

Quận Long Biên mang sắc thái đặc trƣng của khí hậu v ng nhiệt đới ẩm,

gió m a. Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau là m a đông lạnh, thời k đầu thƣờng

hanh khô nhƣng đến nửa cuối của m a đông lại thƣờng ẩm ƣớt. Nhiệt độ trung

bình hàng năm đạt 23 - 240C, biên độ dao động nhiệt giữa ngày và đêm khoảng 6

- 70C. Độ ẩm trung bình hàng năm của quận khoảng 82%, ít thay đổi theo các

tháng, thƣờng dao động trong khoảng 78 - 87%. Lƣợng mƣa trung bình khoảng

1.600 - 1.800 mm. Long Biên chịu ảnh hƣởng chế độ thủy văn của sông Hồng và

sông Đuống: lƣu lƣợng trung bình nhiều năm là 2.710 m3/s, mực nƣớc lũ thƣờng

cao từ 9 - 12 m (độ cao trung bình mặt đê là 14 - 14,5 m).

Quận gồm 14 phƣờng: Cự Khối, Thạch Bàn, Long Biên, Bồ Đề, Ngọc

Thụy, Ngọc Lâm, Gia Thụy, Thƣợng Thanh, Việt Hƣng, Phúc Đồng, Sài

Đồng, Phúc Lợi, Giang Biên, Đức Giang với 305 tổ dân phố. Quận Long Biên

có 1 vị trí chiến lƣợc rất quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội của

Hà Nội và đất nƣớc. Nơi đây có các tuyến đƣờng giao thông quan trọng nhƣ

đƣờng sắt, đƣờng bộ, đƣờng thuỷ, đƣờng không nối liền với các tỉnh phía bắc,

đông bắc; có sân bay Gia Lâm, khu vực quân sự, nhiều khu công nghiệp liên

doanh với nƣớc ngoài nhƣ: khu công nghiệp kỹ thuật cao Sài Đồng B, khu

công nghiệp Sài Đồng A, nhiều công trình kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ

thuật, cơ quan nhà máy, đơn vị sản xuất kinh doanh của Trung ƣơng, Thành

phố và địa phƣơng. Đặc biệt với lợi thế vị trí cửa ngõ của Hà Nội, nối liền với

trục tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, đồng thời cũng là

trục kinh tế sôi động hội nhập nền kinh tế trong khu vực và thế giới. Đó là

những yếu tố cơ bản thuận lợi cho quận Long Biên phát triển nhanh, mạnh và

bền vững về kinh tế - xã hội.

Về đất đai: Theo số liệu thống kê đến ngày 1-10-2004, quận Long

Biên có diện tích 6.038 ha, là quận có diện tích lớn nhất trong số các quận

49

nội thành Hà Nội. Trong đó đất nông nghiệp là 2.258,01 ha, chiếm 34,17%;

diện tích đất canh tác là 1.644,2 ha đƣợc chia thành hai vùng: vùng trong

đồng là 1.114,8 ha, v ng ngoài bãi là 529,4 ha. Diện tích đất ngoài bãi thuộc

loại đất ph sa đƣợc bồi đắp hàng năm, chất đất tốt, tạo điều kiện thuận lợi

cho sản xuất nông nghiệp. Trong tƣơng lai, diện tích đất này có thể chuyển

đổi mục đích sử dụng sang nông nghiệp đô thị - sinh thái kết hợp với phục vụ

cho du lịch thì đây có thể trở thành một nét độc đáo của quận.

Tổng số lao động trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp là

6.684, chiếm khoảng 8,75% lực lƣợng lao động ngành công nghiệp Hà Nội.

Trong đó chủ yếu là lao động thuê ngoài chiếm 86,7%. Năm 2003, trên địa

bàn quận chỉ có 26 doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài với 2.574 lao

động, chiếm 36,2%; doanh nghiệp nhà nƣớc có 2.247 lao động, chiếm tới

38,46%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh có 1.537 lao động, chiếm 23,41 tổng

số lao động sản xuất công nghiệp trên địa bàn quận. Nhƣ vậy, lực lƣợng lao

động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm ƣu thế.

So với các quận, huyện khác, lực lƣợng lao động trong khu vực công

nghiệp ngoài quốc doanh của quận Long Biên còn chiếm tỷ trọng cao, khoảng

8,3% tổng số lao động công nghiệp. Số lao động tập trung ở các ngành sản

xuất trang phục chiếm 21,6%, thực phẩm đồ uống chiếm 13,2%, sản xuất sản

phẩm từ kim loại chiếm 15,6%, sửa chữa các sản phẩm vật tƣ khác chiếm 4,5%.

Trình độ lao động: công nhân kỹ thuật chiếm 55%, lao động có trình độ

đại học, trung cấp chiếm 1,03%, còn lại chƣa qua đào tạo nghề. Số lao động

có trình độ chủ yếu tập trung ở các công ty trách nhiệm hữu hạn và các chủ hộ

sản xuất cá thể.

Về thu nhập: Bình quân một ngƣời lao động là 820.000 đồng/tháng.

Một số ngành sản xuất sản phẩm kim loại và công nghệ thông tin thu nhập đạt

50

1 triệu đồng/ngƣời/tháng; sản xuất máy móc, thiết bị 1 triệu/ngƣời/tháng; sửa

chữa phƣơng tiện vận tải 920.000 đồng/ngƣời/tháng…

Các ngành sản xuất thực phẩm, đồ uống, trang phục, các sản phẩm từ

kim loại, điện tử, hóa chất, vật liệu xây dựng là những ngành thu hút nhiều lao

động. Do vậy, cần có kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng, phát triển nguồn nhân lực

và cần đƣợc cụ thể hóa trong chƣơng trình phát triển kinh tế - xã hội của quận.

Đất giao thông chiếm tỷ lệ thấp, chỉ gần 6% so với tổng diện tích tự

nhiên của quận và hơn 7% nếu so với diện tích nghiên cứu (trừ 1017 ha và

sông Hồng và sông Đuống). Trong khi Hoàn Kiếm có tỷ lệ là hơn 22% (nếu

so với diện tích nghiên cứu) và so với quy chuẩn 25% thì trong tƣơng lai cần

bố trí tăng thêm rất nhiều đất dành cho giao thông.

Đất quốc phòng chiếm gần 5,7%, chủ yếu thuộc khu vực sân bay Gia

Lâm. Diện tích này cơ bản s không thay đổi trong quy hoạch đến năm 2015.

Đất ở chiếm tỷ lệ 12,84%, trong đó đất ở đô thị chỉ chiếm 2,46%.

Đất sông chƣa sử dụng là 1017 ha (17%), diện tích này s không đổi

trong quy hoạch đến 2015.

Bảng 2.1: Bảng theo dõi tình hình biến động dân số quận Long Biên

Tiêu chí

Đơn vị tính

2005

2010

2011

2012

2013

Dân số trung bình

nghìn người

186,4 233,5 245,4 259,2 267,4

Số trẻ em sinh ra

người

3171

4121

4306

5334

4927

Số ngƣời chết

người

794

802

826

895

946

%

3,97

2,67

2,55

2,44

2,35

Tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ 3 trở lên

(Nguồn: Cục thống kê thành phố Hà Nội, Bảng thống kê dân số và lao động, Hà Nội).

Qua bảng theo dõi tình hình biến động dân số trên địa bàn quận có

thể thấy với tỷ lệ tăng trƣởng dân số cao nên công tác quản lý hộ tịch đóng

51

vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng, hoạch định chính sách phát triển

kinh tế của quận.

2.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HỘ TỊCH CỦA ỦY

BAN NHÂN PHƢỜNG, QUẬN LONG BIÊN

2.2.1. Ban hành các văn bản nhà nƣớc đối với hộ tịch

Để việc đăng ký và quản lý hộ tịch trên địa bàn quận đƣợc thực hiện

theo đúng các quy định của pháp luật, Ủy ban nhân dân quận hàng năm đều

ban hành kế hoạch trọng tâm công tác tƣ pháp. Xây dựng đội ngũ cán bộ tƣ

pháp trong sạch vững mạnh theo hƣớng nâng cao đạo đức công vụ, chuyên

nghiệp, hiện đại; tập trung tốt các nhiệm vụ công tác tƣ pháp để thực hiện tốt

một cách hiệu quả những nhiệm vụ về phát triển kinh tế xã hội của quận, nâng

cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của các cấp, ngành về công tác tƣ pháp;

đảm bảo triển khai một cách đồng bộ, có hiệu quả công tác tƣ pháp trên địa

bàn huyện trong đó có công tác hộ tịch để ủy ban nhân dân các phƣờng xây

dựng kế hoạch và triển khai thực hiện, trong đó có công tác đăng ký và quản

lý hộ tịch. Thực hiện tốt đăng ký và quản lý hộ tịch thuộc thẩm quyền của ủy

ban nhân dân cấp phƣờng theo đúng quy định tại Luật hộ tịch, Nghị định

123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ

tịch và Thông tƣ 15/2015/TT-BTP quy định chi tiết thi hành một số điều của

Luật hộ tịch trong đó công tác khai sinh, khai tử đạt 95% trở lên đúng k hạn,

chỉ đạo ủy ban nhân dân các phƣờng tiếp tục cải tiến phong cách, lề lối làm

việc của bộ tƣ pháp hộ tịch. Cán bộ, công chức của phòng tƣ pháp đáp ứng

các việc về hộ tịch đạt 100% về thẩm quyền, giao cho phòng tƣ pháp tăng

cƣờng kiểm tra, hƣớng dẫn ủy ban nhân dân các phƣờng giải quyết các việc

về đăng ký hộ tịch và kịp thời giải quyết các vƣớng mắc trong tổ chức thực

hiện. Xây dựng kiểm tra công tác hộ tịch, bồi dƣỡng nghiệp vụ, tập huấn về

52

hộ tịch, quản lý, sử dụng cấp phát sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch do Bộ tƣ pháp

ban hành theo đúng quy định.

2.2.2. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hộ tịch trên địa bàn

các phƣờng

Xác định vai trò, tầm quan trọng của công tác thực hiện pháp luật về hộ

tịch đối với hoạt động quản lý Nhà nƣớc, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, lãnh

đạo Ủy ban nhân dân quận luôn theo dõi sát sao, chỉ đạo kịp thời và tạo điều

kiện thuận lợi để công tác thực hiện pháp luật hộ tịch hiệu quả. Xác định để

công tác đăng ký và quản lý hộ tịch đạt kết quả tốt cần làm cho cán bộ, nhân

dân hiểu mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc đăng ký hộ tịch. Chính

từ nhận thức đó, Ủy ban nhân quận chú trọng chỉ đạo, đầu tƣ để Phòng Tƣ

pháp, Ủy ban nhân dân phƣờng tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về

hộ tịch dƣới nhiều nội dung, hình thức thiết thực, sinh động đến tận khu dân

cƣ, tổ dân phố; đặc biệt tổ chức Hội thi Hộ tịch viên gi i cấp quận, thu hút

đƣợc sự tham gia đầu tƣ của đông đảo cán bộ Tƣ pháp- Hộ tịch và sự hƣởng

ứng của cán bộ, nhân dân, cơ quan trên địa bàn quận.

Đồng thời, Hội đồng tuyên truyền và phổ biến giáo dục pháp luật và

đội ngũ tuyên truyền viên đƣợc củng cố, kiện toàn theo từng giai đoạn. Đội

tuyên truyền viên của mỗi phƣờng thƣờng có số lƣợng từ 25 đến 30 thành

viên với thành phần đa dạng bao gồm các cán bộ, công chức của UBND

phƣờng và các cán bộ cơ sở tuy nhiên do kinh phí còn hạn hẹp nên hoạt động

chƣa hiệu quả. Để các quy định trong Luật hộ tịch đến đƣợc với từng ngƣời

dân và cán bộ công chức trên địa bàn phƣờng, Ủy ban nhân dân phƣờng đã

tiến hành triển khai phổ biến, tuyên truyền Luật hộ tịch và các văn bản hƣớng

dẫn một cách sâu, rộng, có trọng tâm, trọng điểm, bằng nhiều hình thức đa

dạng, phong phú ph hợp với đối tƣợng: tuyên truyền qua hệ thống phát thanh

53

phƣờng, tổ chức hội nghị tuyên truyền phổ biến Luật hộ tịch. Qua đó, Luật hộ

tịch đã đƣợc đội ngũ cán bộ, công chức, phƣờng c ng đông đảo các tầng lớp

nhân dân trên địa bàn biết và thực hiện theo các quy định của Luật. Bên cạnh

đó Ủy ban nhân dân phƣờng thực hiện niêm yết công khai các thủ tục hành

chính về hộ tịch tại bộ phận một cửa. Đối với từng ngƣời dân đến làm thủ tục

tại UBND phƣờng cũng đƣợc các cán bộ, công chức hƣớng dẫn cụ thể quy

định của Luật hộ tịch và giải thích rõ các điểm mới của Luật hộ tịch so với

Nghị định 158/2005/NĐ-CP để ngƣời dân không bị bỡ ngỡ với các quy định

mới. Mỗi Ủy ban nhân dân phƣờng đều có một thƣ viện với tủ sách pháp luật

phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu về pháp luật nói chung và Luật hộ

tịch nói riêng của ngƣời dân trên địa bàn.

2.2.3. Hoạt động đăng ký hộ tịch trên địa bàn các phƣờng

Kết quả thống kê cho thấy việc tổ chức thực hiện đăng ký hộ tịch trên

địa bàn một số phƣờng thuộc quận Long Biên từ năm 2013 đến 6 tháng đầu

năm 2016 nhƣ sau:

54

Bảng 2.2: Thực trạng đăng ký hộ tịch tại quận Long Biên

từ năm 2013 đến 6 tháng đầu năm 2016 (đơn vị tính: trường hợp)

Nội dung

Năm

Năm

Năm

Năm

2013

2014

2015

2016

đăng ký hộ tịch

Đúng hạn

4734

4563

4871

2411

Khai sinh

Quá hạn

184

172

166

95

Đúng hạn

932

1029

981

477

Khai tử

Quá hạn

130

137

126

79

Số đăng

ký mới

Kết hôn

2367

2487

2436

1218

Giám hộ

1

0

0

0

72

Nhận cha, mẹ, con

113

140

129

Nuôi con nuôi

0

2

0

0

Khai sinh

98

182

195

169

Số đăng

Khai tử

13

11

9

5

ký lại

Kết hôn

39

37

42

17

Thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch

294

284

312

165

Cấp bản sao trích lục hộ tịch

1645

1989

2021

1231

Ghi vào Sổ Hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của

cá nhân theo bản án, quyết định của cơ quan

214

298

275

146

Nhà nƣớc có thẩm quyền

Cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân

3561

3984

3457

1724

Thủ tục hành chính liên thông khai sinh - cấp thẻ

BHYT - nhập khẩu cho trẻ mới sinh thực hiện

0

0

0

2215

theo TTLT số 05/2015/TTLT-BTP-BCA-BYT

(Nguồn: Quận Long Biên, Báo cáo tư pháp, Hà Nội).

55

Bảng 2.3: Thực trạng đăng ký hộ tịch tại phường Ngọc Thụy - quận Long

Biên từ năm 2013 đến 6 tháng đầu năm 2016 (đơn vị tính: trường hợp)

Nội dung

Năm

Năm

Năm

Năm

2013

2014

2015

2016

đăng ký hộ tịch

Đúng hạn

336

342

329

169

Khai sinh

Quá hạn

15

13

16

10

Đúng hạn

174

169

162

89

Khai tử

Quá hạn

13

15

15

8

Số đăng

ký mới

Kết hôn

203

198

205

101

Giám hộ

2

0

0

0

Nhận cha, mẹ, con

12

10

12

7

Nuôi con nuôi

0

0

0

0

Khai sinh

34

42

37

20

Số đăng

Khai tử

1

0

1

1

ký lại

Kết hôn

3

2

4

1

15

Thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch

31

29

26

84

Cấp bản sao trích lục hộ tịch

157

172

152

Ghi vào Sổ Hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của

cá nhân theo bản án, quyết định của cơ quan

37

41

38

25

Nhà nƣớc có thẩm quyền

Cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân

387

369

388

212

Thủ tục hành chính liên thông khai sinh - cấp

thẻ BHYT - nhập khẩu cho trẻ mới sinh thực

0

0

0

157

hiện theo TTLT số 05/2015/TTLT-BTP-BCA-

BYT

(Nguồn: Quận Long Biên, Báo cáo tư pháp, Hà Nội).

56

Bảng 2.4: Thực trạng đăng ký hộ tịch tại phường Ngọc Lâm - quận Long

Biên từ năm 2013 đến 6 tháng đầu năm 2016 (đơn vị tính: trường hợp)

Nội dung

Năm

Năm

Năm

Năm

2013

2014

2015

2016

đăng ký hộ tịch

Đúng hạn

247

251

265

139

Khai sinh

Quá hạn

13

15

11

7

Đúng hạn

116

137

128

74

Khai tử

Quá hạn

7

8

8

5

Số đăng

ký mới

Kết hôn

169

174

169

87

Giám hộ

0

0

0

0

Nhận cha, mẹ, con

8

10

11

5

Nuôi con nuôi

0

0

0

0

Khai sinh

13

15

12

7

Số đăng

Khai tử

0

2

1

1

ký lại

Kết hôn

3

4

2

1

7

Thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch

17

14

16

Cấp bản sao trích lục hộ tịch

115

142

138

57

Ghi vào Sổ Hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của

cá nhân theo bản án, quyết định của cơ quan

28

30

27

13

Nhà nƣớc có thẩm quyền

Cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân

252

281

264

147

Thủ tục hành chính liên thông khai sinh - cấp

thẻ BHYT - nhập khẩu cho trẻ mới sinh thực

0

0

0

128

hiện theo TTLT số 05/2015/TTLT-BTP-BCA-

BYT

(Nguồn: Quận Long Biên, Báo cáo tư pháp, Hà Nội).

57

Tỷ lệ đăng ký khai sinh, đăng ký khai tử quá hạn trên địa bàn quận

Long Biên so với quận Hoàn Kiếm tƣơng đối thấp. Đa phần ngƣời dân đều ý

thức đƣợc trách nhiệm đi đăng ký hộ tịch của mình cho d đăng ký quá hạn

hiện hay không bị phạt tiền. Đăng ký khai sinh cho trẻ còn liên quan đến cấp

thẻ bảo hiểm cho trẻ và nhập khẩu cho trẻ nên các trƣờng hợp quá hạn rất ít.

Còn đối với ngƣời chết muốn thực hiện h a táng hay các chế độ cho ngƣời

chết đều cần giấy chứng tử nên tỷ lệ quá hạn cũng không nhiều. Cá biệt trên

địa bàn một số quận khác nhƣ quận Hoàn Kiếm có trƣờng hợp khai tử quá

hạn nhiều năm nhƣng ở quận Long Biên thì gần nhƣ không có. Từ ngày

26/3/2016, quận Long Biên chính thức cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức

độ 3 để giải quyết 7 thủ tục hành chính về khai sinh, khai tử tại cấp phƣờng.

Dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 là dịch vụ cho phép ngƣời sử dụng dịch vụ

có thể tải, điền và gửi trực tuyến các mẫu văn bản đến cơ quan, tổ chức cung

cấp dịch vụ; các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ

đƣợc thực hiện trên môi trƣờng mạng; việc thanh toán lệ phí (nếu có) và nhận

kết quả đƣợc thực hiện trực tiếp tại cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ. Ngƣời

dân có thể truy cập vào Cổng thông tin dịch vụ công trực tuyến của TP Hà Nội

tại địa chỉ www.egov.hanoi.gov.vn để sử dụng các dịch vụ công trực tuyến

mức 3 thuộc lĩnh vực tƣ pháp nhƣ: đăng ký khai sinh; đăng ký khai tử; đăng

ký kết hôn; trích lục đăng ký khai sinh; chứng thực bản sao từ bản chính giấy

tờ, văn bản bằng tiếng Việt. Ngƣời dân có thể scan hoặc d ng điện thoại chụp

tài liệu, gửi đính kèm lên cổng thông tin điện tử là nộp đƣợc hồ sơ. Tạo điều

kiện cho ngƣời dân không cần đến trực tiếp ủy ban để nộp hồ sơ. Và đặc biệt

là rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ. Ví dụ nhƣ đối với thủ tục liên thông

đăng ký khai sinh - cấp thẻ bảo hiểm y tế - nhập khẩu cho trẻ mới sinh thời

gian hẹn công dân đƣợc rút ngắn từ 10 ngày làm việc còn 5 ngày làm việc.

Hiện nay các quận khác nhƣ quận Hoàn Kiếm, quận Hoàng Mai… cũng áp

58

dụng cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 để giải quyết 7 thủ tục hành

chính về khai sinh, khai tử tại cấp phƣờng. Tuy nhiên mức độ áp dụng chƣa

đƣợc sâu rộng nhƣ quận Long Biên. Ngƣời dân vẫn nộp hồ sơ nhƣ quy trình

cũ, cán bộ tiếp nhận hồ sơ s phải làm thay ngƣời dân đăng ký qua mạng.

2.2.4. Đội ngũ cán bộ công chức làm công tác hộ tịch

Hiện nay, trên địa bàn quận Long Biên có 39 cán bộ Tƣ pháp - Hộ tịch

cấp phƣờng trên tổng số 14 phƣờng trong đó có 28 công chức Tƣ pháp - Hộ

tịch và 11 cán bộ hợp đồng làm công tác Tƣ pháp - Hộ tịch. Số cán bộ Tƣ

pháp - Hộ tịch có trình độ cử nhân Luật chiếm 84,6%, số cán bộ có trình độ

chuyên môn khác chiếm 15,4%. Cán bộ chuyên trách thực hiện công tác đăng

ký và quản lý hộ tịch ở cấp phƣờng có thời gian công tác từ 5 năm trở lên là

25 cán bộ (chiếm 64,1 %), 14 cán bộ (chiếm 35,9) đã làm công tác tƣ pháp -

hộ tịch dƣới 5 năm. So với mặt bằng chung chất lƣợng công chức tƣ pháp - hộ

tịch toàn thành phố Hà Nội, trình độ công chức tƣ pháp - hộ tịch tƣơng đối

đồng đều, đáp ứng cơ bản yêu cầu của công tác đăng ký và quản lý hộ tịch.

Nhiệm vụ, chức năng của công chức Tƣ pháp - Hộ tịch gồm có 12 đầu

việc trong đó có một số nhiệm vụ thƣờng xuyên nhƣ ban hành và tổ chức thực

hiện chƣơng trình, kế hoạch, quyết định, chỉ thị về công tác tƣ pháp ở xã; tổ

chức thực hiện chƣơng trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật; quản lý,

khai thác, sử dụng tủ sách pháp luật; tổ chức thực hiện hoạt động hòa giải ở

cơ sở, bồi dƣỡng, cung cấp tài liệu nghiệp vụ cho tổ viên tổ hòa giải trên địa

bàn; thực hiện việc đăng ký và quản lý, sử dụng các loại sổ hộ tịch, biểu mẫu

hộ tịch; lƣu trữ sổ hộ tịch, cấp bản sao giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ tịch, thực hiện

chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản; thực hiện nhiệm vụ

theo sự phân công của chủ tịch UBND phƣờng..., Thực tế cho thấy, chỉ với

riêng việc đăng ký, quản lý hộ tịch và chứng thực văn bản đã chiếm phần lớn

thời gian trong tuần của công chức tƣ pháp - hộ tịch. Trong khi một số thủ tục

59

hành chính liên quan đến bộ phận tƣ pháp - hộ tịch phải giải quyết trong ngày.

Một trong những nhiệm vụ quan trọng của cán bộ tƣ pháp là tổ chức xây dựng

kế hoạch và trực tiếp tham gia công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp

luật. Trong khi nhiệm vụ đăng ký, chứng thực đã chiếm phần lớn thời gian thì

công tác này không có điều kiện để đầu tƣ, quan tâm dẫn đến hoạt động chỉ

mang tính hình thức là chính.

So với các quận, huyện khác trong thành phố Hà Nội, quận Long Biên

là quận đông dân, có những phƣờng nhƣ phƣờng Ngọc Thụy với dân số trên

30.000 ngƣời, hay phƣờng Bồ Đề dân số gần 25.000 ngƣời. Ví dụ quận Hoàn

Kiếm, dân số các phƣờng nhƣ phƣờng Hàng Mã là 7.000 ngƣời, hay phƣờng

Phan Chu Trinh gần 8.000 ngƣời chỉ bằng một phần tƣ dân số các phƣờng

thuộc quận Long Biên nhƣng vẫn đƣợc bố trí 2 công chức Tƣ pháp - Hộ tịch.

Số lƣợng công chức Tƣ pháp - Hộ tich của Ủy ban nhân dân phƣờng thuộc

quận Hoàn Kiếm là 36 công chức chƣa kể nhân viên hợp đồng. Cá biệt có

phƣờng có đến 3 - 4 công chức Tƣ pháp - Hộ tịch. Do sự quá tải về công tác

Tƣ pháp và công tác Hộ tịch nên các phƣờng trên địa bàn quận đã vận dụng

bố trí 2 công chức Tƣ pháp - Hộ tịch, trong đó một công chức chuyên làm

công tác Tƣ pháp, một công chức chuyên làm công tác Hộ tịch. Đội ngũ cán

bộ Tƣ pháp - Hộ tịch còn m ng, chế độ chính sách cho đội ngũ cán bộ tƣ pháp

- hộ tịch cấp xã, phƣờng, thị trấn còn thấp. Bên cạnh đó, cán bộ Tƣ pháp - hộ

tịch hiện còn phải kiêm nhiệm c ng lúc rất nhiều hoạt động, tác nghiệp thuộc

lĩnh vực hoạt động Tƣ pháp, trong đó có việc đăng ký hộ tịch. Vì phải kiêm

nhiệm, công chức Tƣ pháp - hộ tịch không có thời gian nghiên cứu, nâng cao

trình độ chuyên môn nhất là trong thời điểm Luật hộ tịch vừa mới có hiệu lực.

Việc thực thi công vụ do đó vừa thiếu tính chuyên nghiệp, vừa không đáp ứng

kịp thời yêu cầu của ngƣời dân. Chẳng hạn, khi giải quyết các việc về hộ tịch

chỉ dựa vào giấy tờ mà không có xác minh, đặc biệt là việc giải quyết yêu cầu

60

về thay đổi, cải chính hộ tịch, đăng ký lại khai sinh cho cán bộ, công chức nên

đã dẫn đến sai sót trong nội dung đăng ký. Vẫn còn tình trạng nhầm lẫn giữa

cải chính và thay đổi hộ tịch. Nhiều hồ sơ thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch

chƣa đủ căn cứ… Việc đăng ký hộ tịch không đúng thẩm quyền cũng nhƣ d

dãi trong việc cấp giấy tờ hộ tịch nhất là việc cấp bản sao không căn cứ vào

sổ gốc vẫn còn di n ra ở một số địa phƣơng. Nhiều trƣờng hợp nội dung trong

bản chính Giấy khai sinh khác với nội dung đã ghi trong sổ gốc; thậm chí có

những trƣờng hợp một ngƣời đƣợc cấp 2 bản chính Giấy khai sinh với nội

dung khác nhau….

2.2.5. Hệ thống sổ hộ tịch, hồ sơ hộ tịch đang lƣu giữ

Thực hiện Nghị định số 219-HĐBT ngày 20/11/1987 của Hội đồng Bộ

trƣởng về việc chuyển giao công tác đăng ký hộ tịch từ Bộ Nội vụ (nay là Bộ

Công an) sang Bộ Tƣ pháp và Ủy ban nhân dân các cấp. Ủy ban nhân dân

thành phố đã chỉ đạo Sở Tƣ pháp và Ủy ban nhân dân các cấp tiếp nhận toàn

bộ hệ thống sổ sách hộ tịch đã đƣợc lƣu trữ tại Công an để lƣu trữ tại Sở tƣ

pháp và Ủy ban nhân dân các cấp theo đúng quy định của Nghị định số 219-

HĐBT. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử và vị trí địa lý nên hệ thống sổ sách

lƣu trữ gặp nhiều khó khăn.

Hiện nay ở các phƣờng trên địa bàn quận Long Biên cũng nhƣ các

phƣờng thuộc các quận khác trên địa bàn thành phố Hà Nội nhƣ quận Hoàn

Kiếm đều lƣu trữ sổ hộ tịch từ năm 1990 đến nay. Tuy nhiên công tác quản lý

sổ hộ tịch từ năm 1999 trở về trƣớc còn khá l ng lẻo, sổ sách ghi chép không

đầy đủ, rõ ràng, thiếu nhiều nội dung nhƣ: Mục phần khai về cha mẹ trong sổ

đăng ký khai sinh, giấy khai sinh không ghi số, quyển số hoặc cấp bản chính

nhƣng không vào sổ hộ tịch, số tại sổ gốc và bản chính giấy khai sinh không

trùng nhau, cột ghi chú thì không ghi đăng ký quá hạn, đăng ký lại, ghi chƣa

chính xác về quan hệ giữa ngƣời đi khai với ngƣời đƣợc đăng ký sự kiện hộ

61

tịch; sử dụng nhiều màu mực cho một sự kiện đăng ký hộ tịch, khi tẩy xóa,

sửa chữa không thực hiện việc ghi chú và đóng dấu… Khi xác nhận nội dung

trong giấy tờ hộ tịch nhƣ giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, tờ khai đăng ký

kết hôn... không ghi rõ chức danh của ngƣời ký cấp giấy xác nhận mà chỉ có

chữ ký và đóng dấu. Ngoài ra, do đa số các Ủy ban nhân dân phƣờng chƣa có

kho lƣu trữ về sổ hộ tịch hoặc có nhƣng không đảm bảo yêu cầu, chất lƣợng

giấy của sổ hộ tịch thấp nên rất nhiều trƣờng hợp sổ sách bị rách nát hoặc hƣ

h ng làm mất nội dung thông tin trong sổ hộ tịch. Dẫn đến nhiều trƣờng hợp

công dân đến làm thủ tục cấp bản sao từ sổ hộ tịch thì lại không có thông tin

trong sổ hộ tịch hoặc nội dung trong sổ hộ tịch và bản chính không tr ng nhau,

khi đó ngƣời dân lại phải làm các thủ tục nhƣ đăng ký lại khai sinh, kết hôn,

khai tử hoặc cải chính, bổ sung, thay đổi hộ tịch làm mất thời gian, công sức

của ngƣời dân.

Từ năm 2000 đến nay, việc lƣu trữ sổ sách hộ tịch trên địa bàn các

phƣờng đƣợc chú trọng hơn, sổ sách lƣu trữ chất lƣợng hơn, thể hiện đầy

đủ, chính xác thông tin nên thuận tiện hơn cho ngƣời dân khi yêu cầu cấp

bản sao các giấy tờ về hộ tịch và cung cấp thông tin về hộ tịch cho các cơ

quan có liên quan.

2.2.6. Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác đăng ký và

quản lý hộ tịch

Quận Long Biên là một trong những quận đi đầu trong ứng dụng công

nghệ thông tin trong công tác đăng ký và quản lý hộ tịch. Trên địa bàn quận

Long Biên, công tác quản lý và đăng ký hộ tịch đã đƣợc quan tâm đầu tƣ thích

đáng, trong đó:

Về thiết bị, hiện có 14/14 phƣờng trang bị công chức tƣ pháp - hộ tịch

máy tính có kết nối internet phục vụ riêng công tác đăng ký, quản lý hộ tịch

tuy rằng mạng Internet đôi lúc còn chập chờn chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu;

62

Về ứng dụng phần mềm đăng ký hộ tịch: có 14/14 phƣờng đã triển

khai ứng dụng phần mềm vào đăng ký hộ tịch. Tuy nhiên số lƣợng phần

mềm phải nhập quá nhiều: cơ sở dữ liệu quốc gia, phần mềm của Sở Tƣ

pháp làm mất thời gian của công chức Tƣ pháp - hộ tịch khi cứ phải nhập

đi nhập lại một nội dung.

Về con ngƣời: Cơ bản công chức Tƣ pháp - Hộ tịch sử dụng hành thạo

máy tính, có trình độ tin học văn phòng từ chứng chỉ A trở lên và có trình độ

chuyên môn từ Trung cấp trở lên. Tuy nhiên, mức độ thực hiện tin học hóa

trên địa bàn quận chƣa đồng bộ, nên dẫn đến tình trạng: phần mềm do nhiều

nguồn cung cấp, thiết kế trên nền tảng công nghệ khác nhau, khó có khả năng

kết nối giữa các cơ quan sử dụng, giữa các cấp, đơn vị hành chính (các

phƣờng trong quận, giữa quận với thành phố). Việc ứng dụng và cài đặt các

phần mềm này mới chỉ dừng lại ở mức độ hỗ trợ công chức thực hiện nghiệp

vụ đăng ký hộ tịch, đáp ứng yêu cầu cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ

1 và mức độ 2; chƣa có sự kết nối thông tin nhằm đáp ứng yêu cầu trong giai

đoạn hiện nay về việc phát triển Chính phủ điện tử - đang thí điểm cung cấp

dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4. Dẫn đến khả năng phục vụ nhu

cầu tra cứu, xác minh thông tin hộ tịch của ngƣời dân và yêu cầu quản lý nhà

nƣớc còn nhiều hạn chế. Để khắc phục những tồn tại trên thì việc ứng dụng

công nghệ thông tin trong đăng ký hộ tịch và xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch

điện tử đã mang lại nhiều thuận lợi, khắc phục đƣợc tình trạng đăng ký và

quản lý hộ tịch có sai sót, giảm thời gian thao tác, thuận tiện cho việc tra cứu,

thống kê hộ tịch, tạo thuận lợi cho ngƣời dân, bảo đảm tiết kiệm, giảm chi phí

khi thực hiện thủ tục hành chính trong đăng ký hộ tịch. Việc ứng dụng công

nghệ thông tin, sử dụng phần mềm đăng ký hộ tịch là biện pháp số hóa (điện

tử hóa) thông tin hộ tịch của cá nhân, trong đó có thông tin khai sinh - là

thông tin hộ tịch gốc. Theo Đề án 896, Luật hộ tịch, Luật Căn cƣớc công dân,

63

đây là thông tin đầu vào của Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ. Bên cạnh đó,

những thông tin hộ tịch khác về kết hôn, ly hôn, thay đổi cải chính hộ tịch,

xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, khai tử... đƣợc cập nhật vào hệ

thống dữ liệu, đƣợc coi là thông tin “động”, có giá trị làm cho Cơ sở dữ liệu

quốc gia về dân cƣ luôn sống. Vì vậy, việc xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch

điện tử toàn quốc - cơ sở trung tâm để kết nối, tiếp nhận, liên thông với toàn

bộ cơ sở hộ tịch điện tử từ các địa phƣơng trên cả nƣớc - nhằm lƣu giữ tập

trung, kết nối, chia sẻ và cung cấp thông tin cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân

cƣ, là yêu cầu cốt lõi, là điều kiện không thể thiếu mà bất cứ phần mềm đăng

ký hộ tịch nào cũng phải đáp ứng đƣợc.

2.3. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HỘ TỊCH

CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN PHƢỜNG TẠI QUẬN LONG BIÊN

2.3.1. Ƣu điểm và hạn chế

2.3.1.1. Ưu điểm

Thứ nhất, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đƣợc quan tâm

tƣơng đối. Ủy ban nhân dân cấp phƣờng xác định công tác tuyên truyền, phổ

biến pháp luật về hộ tịch có vai trò và ý nghĩa quan trọng. Bám sát nhiệm vụ

chính trị của địa phƣơng c ng với sự chỉ đạo của Phòng Tƣ pháp quận, Ủy

ban nhân dân phƣờng đã xây dựng chƣơng trình công tác tƣ pháp, c ng với kế

hoạch thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và kế hoạch tuyên

truyền, phổ biến Luật hộ tịch nói riêng. Ủy ban nhân dân phƣờng tổ chức hội

nghị triển khai và các lớp tập huấn về Luật hộ tịch đến lãnh đạo Ủy ban nhân

dân phƣờng, cán bộ Tƣ pháp - Hộ tịch 14 phƣờng. Các Ủy ban nhân dân

phƣờng cũng tổ chức hội nghị phổ biến Luật hộ tịch đến các cán bộ cơ sở, tổ

trƣởng Tổ dân phố, Bí thƣ khu dân cƣ. Ủy ban nhân dân đã bố trí công chức

Tƣ pháp - Hộ tịch có đủ năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, đội

ngũ tuyên truyền viên pháp luật thƣờng xuyên đƣợc củng cố kiện toàn.Với

64

mục đích nâng cao ý thức pháp luật của các tầng lớp nhân dân, nâng cao dân

trí, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, Ủy ban nhân dân phƣờng

đã đẩy mạnh việc phối hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể trong việc tăng

cƣờng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Đồng thời chủ động lồng ghép

đa dạng với các hình thức nhƣ: Họp tổ dân phố, sinh hoạt câu lạc bộ Trợ giúp

pháp lý, sinh hoạt các đoàn thể nhân dân và đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền

pháp luật trên hệ thống loa truyền thanh phƣờng.

Thứ hai, Ủy ban nhân dân phƣờng cũng đã tạo điều kiện về sơ sở vật

chất, phƣơng tiện làm việc để công chức làm công tác hộ tịch hoàn thành

nhiệm vụ. Về thiết bị, hiện có 14/14 phƣờng trang bị công chức tƣ pháp - hộ

tịch máy tính có kết nối internet, máy in, máy scan, máy photocopy phục vụ

công tác đăng ký, quản lý hộ tịch. Về ứng dụng phần mềm đăng ký hộ tịch: có

14/14 phƣờng đã triển khai ứng dụng phần mềm vào đăng ký hộ tịch. Ngoài

ra, công chức làm công tác hộ tịch thƣờng xuyên đƣợc cử đi các lớp bồi

dƣỡng, tập huấn nghiệp vụ do Sở Tƣ pháp, Phòng Tƣ pháp tổ chức để nâng

cao kiến thức chuyên môn. Công chức làm công tác tƣ pháp đã tham mƣu cho

Ủy ban nhân dân tiếp nhận và giải quyết hầu hết các loại việc đăng ký hộ tịch

đúng thẩm quyền, giải quyết kịp thời các yêu cầu của công dân, các loại sổ,

biểu mẫu d ng để dăng ký hộ tịch sử dụng đúng mẫu Bộ Tƣ pháp ban hành.

Niêm yết các thủ tục, trình tự, thời gian và lệ phí về hộ tịch đúng quy định

pháp luật, thuận lợi cho ngƣời dân khi có yêu cầu.

Thứ ba, Ủy ban nhân dân các phƣờng thực hiện tốt công tác báo cáo tƣ

pháp định k tháng, quý, 6 tháng, năm theo đúng mẫu quy định. Tất cả các

báo cáo về hộ tịch đều đƣợc thực hiện đúng mẫu theo quy định của Bộ Tƣ

pháp, do vậy công tác quản lý về hộ tịch đƣợc đảm bảo thực hiện góp phần

xây dựng, hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn quận.

Thứ tƣ, việc lựa chọn, bố trí cán bộ làm công tác hộ tịch đƣợc thực hiện

65

tốt. Hầu hết các công chức làm công tác hộ tịch có trình độ cử nhân Luật, số

cán bộ có trình độ chuyên môn khác cũng đang theo học đại học Luật để nâng

cao chuyên môn. Công chức làm công tác hộ tịch thƣờng xuyên trau dồi kiến

thức pháp luật để nâng cao năng lực và nghiệp vụ đăng ký hộ tịch; tham gia

các lớp bồi dƣỡng chuyên môn nghiệp vụ do Ủy ban nhân dân phƣờng hoặc

Phòng Tƣ pháp quận, Sở Tƣ pháp tổ chức. Công chức làm công tác hộ tịch

luôn thực hiện đầy đủ nhiệm vụ của mình: chủ động báo cáo, đề xuất Ủy ban

nhân dân cung cấp phối hợp với cơ quan, tổ chức kiểm tra, xác minh về thông

tin hộ tịch; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin để xác minh

khi đăng ký hộ tịch; phối hợp với cơ quan công an cung cấp thông tin Hộ tịch

cơ bản của cá nhân cho cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ.

2.3.1.2. Hạn chế

Bên cạnh những ƣu điểm đã nêu ở trên, hiện tại công tác đăng ký và

quản lý hộ tịch cấp phƣờng vẫn còn những hạn chế:

Thứ nhất là vấn đề tổ chức, bồi dưỡng nghiệp vụ

Một số phƣờng và công chức tƣ pháp - hộ tịch vẫn còn coi nhẹ công tác

tổ chức bồi dƣỡng nghiệp vụ chuyên môn, chỉ tổ chức triển khai khi có những

văn bản mới mà không định k tổ chức bồi dƣỡng về nghiệp vụ hộ tịch; đặc

biệt nhiều công chức tƣ pháp - hộ tịch còn không tham gia các buổi tập huấn

nâng cao nghiệp vụ chính vì không đƣợc kịp thời bồi dƣỡng nghiệp vụ nên số

công chức mới thay không đáp ứng đƣợc yêu cầu công việc.

Thứ hai là về đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho công tác hộ tịch

Việc lƣu trữ sổ sách hộ tịch còn nhiều bất cập, chủ yếu đƣợc lƣu trữ thủ

công, đƣợc giao cho cán bộ tƣ pháp - hộ tịch chịu trách nhiệm lƣu trữ, thiếu

khoa học, không bố trí kho, phòng riêng, không có phƣơng tiện bảo quản,

việc tra cứu, sao lục mang tính thủ với khối lƣợng hồ sơ lƣu rất lớn việc lƣu

chung với các hồ sơ, giấy tờ khác cũng d làm thất lạc hay hƣ h ng hồ sơ, đặc

biệt là sổ hộ tịch.

66

Từ hạn chế trên dẫn đến khả năng khai thác hệ thống cơ sở dữ liệu hộ

tịch phục vụ cho nhu cầu kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng không đạt hiệu

quả cao nhƣ yêu cầu. Mới chỉ đáp ứng đƣợc một phần về nhu cầu sao lục hộ

tịch của công dân phục vụ cho mục đích cá nhân.

Thứ ba là thái độ của công chức làm công tác hộ tịch.

Yêu cầu đặt ra là Nhà nƣớc phải có trách nhiệm đăng ký để thực hiện

việc quản lý và cũng bảo đảm quyền đăng ký hộ tịch cho công dân; tuy nhiên,

trên thực tế bên cạnh một số bất cập từ quy định của pháp luật, trong nhiều

trƣờng hợp, tinh thần, thái độ phục vụ của một bộ phận cán bộ làm công tác

hộ tịch chƣa cao, còn gây phiền hà, sách nhi u; việc thực thi các quy định của

pháp luật về đăng ký, quản lý còn chƣa nghiêm, có nơi còn buông l ng quản

lý dẫn đến sai phạm bị xử lý kỷ luật, thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự;

trong một số trƣờng hợp đã có phản ánh về hiện tƣợng tiêu cực, nhƣng lãnh

đạo Ủy ban nhân dân không có biện pháp xử lý kịp thời, vẫn để cho các công

chức này tiếp tục làm việc, gây bức xúc cho nhân dân; cụ thể là:

Quy định về thủ tục đăng ký các loại việc hộ tịch còn quá nhiều loại

giấy tờ khác nhau, lệ thuộc vào nơi cƣ trú đã dẫn đến trƣờng hợp công dân

không đáp ứng đủ thì không đƣợc đăng ký;

Cán bộ trực tiếp giải quyết công việc hộ tịch tự đặt thêm thủ tục giấy tờ

khi ngƣời dân có yêu cầu đăng ký hộ tịch (đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân

phƣờng nơi cƣ trú vẫn yêu cầu phải xác nhận tình trạng hôn nhân, xác nhận

tình trạng hôn nhân nhiều phƣờng lại yêu cầu phải có xác nhận của tổ trƣởng tổ

dân phố trong khi luật không hề quy định…); khi hồ sơ đăng ký hộ tịch chƣa

đầy đủ, cán bộ hộ tịch không hƣớng dẫn một lần mà mỗi lần chỉ hƣớng dẫn một

nội dung nên ngƣời dân phải đi lại nhiều lần mới đƣợc giải quyết…

Áp dụng quy định của pháp luật để giải quyết yêu cầu đăng ký hộ tịch

của ngƣời dân một cách máy móc nên một số trƣờng hợp quyền lợi của ngƣời

dân giải quyết sai quy định, thậm chí có trƣờng hợp không đƣợc giải quyết.

67

Thứ tư, dữ liệu hộ tịch của cá nhân bị phân tán, không xâu chuỗi, kết

nối được với nhau

Từ trƣớc đến nay pháp luật về hộ tịch đều quy định mỗi việc hộ tịch

(sinh, kết hôn, tử, nuôi con nuôi, giám hộ…) đƣợc đăng ký vào một sổ riêng

(Sổ đăng ký khai sinh, Sổ đăng ký kết hôn, Sổ đăng ký tử, Sổ đăng ký việc

nuôi con nuôi v.v…), qua đó dữ liệu khai sinh chỉ đƣợc phản ánh trong Sổ

đăng ký khai sinh, dữ liệu kết hôn chỉ đƣợc phản ánh trong Sổ đăng ký kết

hôn… Mặt khác, trong thời k công nghiệp hóa và hội nhập hiện nay, ngƣời

dân di cƣ tới nhiều địa bàn khác nhau (kể cả ở nƣớc ngoài), thì các sự kiện

hộ tịch của cá nhân cũng đƣợc đăng ký ở nhiều địa phƣơng khác nhau, nhiều

cấp khác nhau, kể cả ở Cơ quan đại diện; trong khi đó lại không có 01 sổ hộ

tịch chung để tích hợp mọi thông tin về hộ tịch của mỗi cá nhân, chính vì

vậy, các dữ liệu hộ tịch của cá nhân bị phân tán, không xâu chuỗi, kết nối

đƣợc với nhau nên Nhà nƣớc không kiểm soát đƣợc thông tin về hộ tịch của

từng cá nhân, khả năng tra cứu, khai thác phục vụ cho yêu cầu của ngƣời

dân và của các cơ quan, tổ chức rất hạn chế. C ng với thông tin ghi trong sổ

hộ tịch, các giấy tờ hộ tịch đƣợc cấp cho cá nhân công dân cũng chỉ có nội

dung ghi về một sự kiện hộ tịch đã đƣợc đăng ký nên khi cần chứng minh

tình trạng hộ tịch, thì ngƣời dân phải nộp c ng một lúc tất cả các loại giấy tờ

hộ tịch đã đƣợc cấp.

Ví dụ nhƣ khi có công dân đến Ủy ban nhân dân phƣờng để làm thủ tục

cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân với mục đích kết hôn, công chức Tƣ

pháp - Hộ tịch phải xác minh công dân đó đã kết hôn chƣa, và s phải kiểm

tra cả sổ đăng ký kết hôn và sổ cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.

Bên cạnh đó, việc quản lý các thông tin biến động hộ tịch còn bất cập,

chƣa có đƣợc sự liên thông giữa các ngành ở Trung ƣơng và địa phƣơng.

C ng với hệ thống sổ hộ tịch chƣa đƣợc cải tiến hợp lý nhƣ đã nói ở trên và

việc lƣu sổ hộ tịch và hồ sơ đăng ký hộ tịch cũng chƣa khoa học đã dẫn đến

68

hệ thống dữ liệu hộ tịch (thực chất là những kho dữ liệu độc lập) bị phân tán,

không tập trung, không kết nối đƣợc với nhau nên không tích hợp đƣợc thông

tin về hộ tịch của từng cá nhân; khả năng tra cứu, khai thác phục vụ cho yêu

cầu của ngƣời dân và của các cơ quan, tổ chức là rất hạn chế. Điều này một

mặt làm giảm hiệu quả công tác quản lý dân cƣ, quản lý xã hội, chƣa đóng

góp đƣợc nhiều cho công tác dự báo để hoạch định, xây dựng và thực thi

chính sách về kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng của đất nƣớc. Mặt khác,

vừa thiếu cơ sở pháp lý vững chắc bảo đảm cho ngƣời dân thực hiện các

quyền công dân của mình, vừa tạo k hở cho một số cá nhân lợi dụng trốn

tránh việc thực hiện nghĩa vụ công dân theo quy định của pháp luật.

Thứ năm, tùy tiện trong việc đăng ký, cấp giấy tờ hộ tịch cho công dân;

chưa bảo đảm độ chính xác khi cấp giấy tờ hộ tịch

Tình trạng đăng ký không kịp thời, chƣa đầy đủ và thiếu chính xác

trong đăng ký hộ tịch vẫn còn tồn tại ở một số địa phƣơng. Sự t y tiện trong

việc đăng ký, cấp giấy tờ hộ tịch đƣợc thể hiện trong những trƣờng hợp sau:

- Đăng ký sai thẩm quyền;

- Cấp bản sao giấy tờ hộ tịch không căn cứ vào sổ gốc;

- D dãi trong việc cấp giấy tờ hộ tịch, nhất là Giấy khai sinh: có

trƣờng hợp nội dung trong bản sao Giấy khai sinh khác với nội dung trong

bản chính và khác nội dung trong sổ gốc; nội dung khai sinh trong sổ hộ khẩu,

Giấy chứng minh nhân dân, văn bằng, học bạ của ngƣời học đƣợc ghi theo

bản sao Giấy khai sinh nên không ph hợp với bản chính; thậm chí có những

trƣờng hợp một ngƣời đƣợc cấp đến 2 bản chính Giấy khai sinh với nội dung

khác nhau; do đó đã xảy ra trƣờng hợp khi đi làm Sổ hộ khẩu, Chứng minh

nhân dân, ngƣời dân nộp 01 Giấy khai sinh, khi đi học nộp 01 Giấy khai sinh

khác nên đã dẫn đến tình trạng nội dung khai sinh trong văn bằng, học bạ của

ngƣời học không ph hợp với sổ hộ khẩu và các giấy tờ t y thân khác… Sự

69

sai sót này đã để lại nhiều hệ lụy phức tạp và ảnh hƣởng trực tiếp đến quyền

lợi của chính ngƣời sử dụng;

- Cấp khống giấy tờ hộ tịch;

- Khi đăng ký hộ tịch chỉ cấp giấy tờ hộ tịch cho ngƣời đi đăng ký mà

không ghi ngay vào sổ hộ tịch;

- Sổ hộ tịch bị tẩy xóa nội dung, việc sửa chữa sai sót không thực hiện

theo đúng quy định (không ghi ngày, tháng năm sửa, không ghi tên ngƣời sửa và

không đóng dấu vào nội dung sửa...), có trƣờng hợp d ng bút xóa để sửa chữa;

- Sổ hộ tịch không ghi chú những sự kiện đăng ký đặc biệt (đăng ký

quá hạn, đăng ký lại...) dẫn đến khó phân tích số liệu, từ đó không bảo đảm

chính xác số liệu thống kê; hết năm không thống kê số liệu hộ tịch đã đăng ký

trong năm theo quy định;

- Khi giải quyết chỉ dựa vào giấy tờ mà không có xác minh, đặc biệt là

giải quyết yêu cầu về thay đổi, cải chính hộ tịch, đăng ký quá hạn, đăng ký lại

việc sinh cho cán bộ, công chức nên đã dẫn đến sai sót trong nội dung đăng ký.

Thứ sáu là hạn chế trong cải cách thủ tục hành chính

Mặc d , việc cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hộ tịch bƣớc

đầu đã phát huy hiệu quả; tuy nhiên, việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa

liên thông (theo Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày 4 tháng 9 năm 2003

của Thủ tƣớng Chính phủ về việc ban hành Quy chế thực hiện cơ chế “một

cửa” tại các cơ quan hành chính Nhà nƣớc ở địa phƣơng) trong đăng ký hộ

tịch đôi khi lại có tác động ngƣợc lại, đặc biệt là tiến độ xử lý hồ sơ. Để giải

quyết yêu cầu đăng ký hộ tịch, đòi h i cán bộ thụ lý hồ sơ phải chuyên sâu về

chuyên môn để kiểm tra, hƣớng dẫn hồ sơ, nhƣng thực tế trình độ, năng lực

của đội ngũ cán bộ tham gia vào quy trình "một cửa", cụ thể là cán bộ tiếp

nhận hồ sơ còn nhiều hạn chế về trình độ chuyên môn (ngƣời đƣợc bố trí vào

vị trí này thƣờng là cán bộ văn phòng), nên trong trƣờng hợp hồ sơ của đƣơng

70

sự còn thiếu hoặc chƣa đạt yêu cầu nhƣng cán bộ tiếp nhận không phát hiện

đƣợc để hƣớng dẫn hoặc hƣớng dẫn không đầy đủ nên ngƣời dân phải đi lại

nhiều lần, kéo dài thời gian giải quyết. Mặt khác, theo quy định của pháp luật

hộ tịch hiện hành, thì có một số việc đăng ký hộ tịch phải giải quyết ngay

(nhƣ đăng ký khai sinh, đăng ký khai tử, cấp lại bản chính Giấy khai sinh, cấp

bản sao giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ tịch…) nếu cứ áp dụng theo quy trình nộp hồ

sơ cho bộ phận một cửa, bộ phận một cửa chuyển cho phòng hoặc cán bộ

chuyên môn kiểm tra hồ sơ… thì không thể bảo đảm trả kết quả cho công dân

ngay trong ngày.

Thứ bảy là sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa đồng bộ

Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chƣa đồng bộ đã dẫn đến tình

trạng c ng một tiêu chí, nhƣng mỗi ngành có một số liệu thống kê báo cáo

khác nhau, điều này đã gây khó khăn cho Nhà nƣớc trong việc hoạch định

chính sách. Cơ chế thông báo những thay đổi liên quan đến hộ tịch của từng

cá nhân cũng chƣa đƣợc thực hiện một cách nghiêm túc, nhiều trƣờng hợp

không thông báo nên không kịp thời cập nhật những thay đổi về hộ tịch liên

quan trong sổ hộ tịch (Ví dụ: do không nhận đƣợc thông báo việc ly hôn để

ghi chú vào Sổ đăng ký kết hôn nên mặc d đã ly hôn vẫn đƣợc cấp bản sao

Giấy chứng nhận kết hôn).

Thứ tám, phương thức đăng ký hộ tịch còn mang tính chất thủ công,

mức độ áp dụng công nghệ thông tin còn hạn chế

Phƣơng thức đăng ký hộ tịch hiện nay chủ yếu vẫn thực hiện theo

phƣơng pháp thủ công (ghi bằng tay, lƣu bằng sổ giấy). Do chƣa có Cơ sở dữ

liệu hộ tịch điện tử, nên việc lƣu sổ giấy d dẫn đến bị h ng, bị mất, từ đó

không đáp ứng đƣợc yêu cầu thống kê số liệu cũng nhƣ yêu cầu cấp giấy tờ

hộ tịch cho ngƣời dân. Hơn nữa, phƣơng thức đăng ký hộ tịch này không ph

hợp với định hƣớng xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại.

71

Thứ chín, nhận thức của người dân đối với quyền và nghĩa vụ đăng ký

hộ tịch còn hạn chế nên vẫn còn các trường hợp đăng ký quá hạn

Số liệu đăng ký khai sinh, khai tử quá hạn vẫn chiếm tỷ lệ đáng kể;

nhiều trƣờng hợp trẻ đến độ tuổi đi học mới đăng ký khai sinh hay cá biệt có

nhiều trƣờng hợp ngƣời chết đăng ký khai tử quá hạn đến vài năm, khi đến

lúc cần phân chia di sản thừa kế mới nhớ đến thủ tục đăng ký khai tử và rất

khó cho công chức tƣ pháp - hộ tịch xác minh trong những trƣờng hợp này.

Thứ mười, vướng mắc trong việc thi hành Luật hộ tịch.

Theo Luật Hộ tịch là hƣớng đến hiện đại hóa phƣơng thức đăng ký và

cấp các giấy tờ hộ tịch bằng hệ thống thông tin hộ tịch điện tử nên để triển

khai Luật Hộ tịch cấp phƣờng có một số khó khăn, vƣớng mắc nhƣ:

Một là, đội ngũ công chức làm công tác tƣ pháp hộ tịch ở cấp phƣờng

mặc d cơ bản đã đạt các tiêu chuẩn theo quy định nhƣng để thực hiện thành

thạo các kỹ năng nhƣ: kỹ năng xử lý tình huống, kỹ năng ứng dụng công nghệ

thông tin, việc nắm bắt và giải quyết các sự kiện hộ tịch, nhất là các sự kiện

hộ tịch mới đƣợc chuyển giao thẩm quyền. Hơn nữa nhiệm vụ giao công chức

Tƣ pháp - Hộ tịch rất nhiều, trong lúc biên chế lại hạn chế nên trong c ng một

lúc thực hiện nhiều nhiệm vụ. Trong khi thực hiện đăng ký hộ tịch còn xảy ra

nhiều sai sót nhất là đăng ký khai sinh. Còn nhiều trƣờng hợp nhập sai thông

tin dẫn đến cấp số định danh nhƣng thông tin của công dân lại sai và thủ tục

cải chính quá phức tạp.

Hai là, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác hộ tịch tại các

cơ quan đăng ký hộ tịch ở cấp phƣờng chƣa đƣợc trang bị đầy đủ, đồng bộ và

thống nhất nên việc xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch gặp nhiều khó khăn.

Ba là, ngoài việc nắm chắc các quy định của pháp luật về hộ tịch còn

phải nắm chắc các quy định khác có liên quan nhƣ Bộ Luật Dân sự, Luật Hôn

nhân và gia đình, Luật Quốc tịch... ngoài ra còn phải nắm chắc, hiểu rõ phong

tục, tập quán.

72

Tuy nhiên thời gian qua, kinh phí cấp riêng để triển khai Luật Hộ tịch

chƣa đƣợc cấp, vì vậy khó khăn trong việc thực hiện là đƣơng nhiên, trong đó

việc mở các lớp tập huấn nghiệp vụ riêng và chuyên sâu cho đội ngũ ngƣời

làm công tác hộ tịch chƣa đƣợc thực hiện mà chỉ tập huấn nghiệp vụ tƣ pháp

chung nhƣ trƣớc đây chƣa có Luật hộ tịch. Đây cũng là một trong những khó

khăn, làm ảnh hƣởng đến hiệu quả của việc triển khai thi hành Luật Hộ tịch

dẫn đến c ng trên một địa bàn quận mỗi phƣờng lại triển khai khác nhau.

Ví dụ nhƣ đối với việc ủy quyền khi đăng ký hộ tịch: theo quy định tại

Điều 2 Thông tƣ 15 quy định chi tiết thi hành một số điều của luật hộ tịch và

nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi

riết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch:

Điều 2. Ủy quyền đăng ký hộ tịch

1. Ngƣời yêu cầu cấp bản sao trích lục hộ tịch, yêu cầu đăng

ký các việc hộ tịch theo quy định tại Điều 3 của Luật hộ tịch đƣợc

uỷ quyền cho ngƣời khác thực hiện thay, trừ trƣờng hợp đăng ký

kết hôn, đăng ký lại việc kết hôn, đăng ký nhận cha, mẹ, con.

2. Việc ủy quyền phải đƣợc lập thành văn bản, đƣợc công

chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật; phạm vi uỷ quyền

có thể gồm toàn bộ công việc theo trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch

từ khi nộp hồ sơ đến khi nhận kết quả đăng ký hộ tịch.

Trƣờng hợp ngƣời đƣợc ủy quyền là ông, bà, cha, mẹ, con,

vợ, chồng, anh, chị, em ruột của ngƣời ủy quyền thì văn bản ủy

quyền không phải công chứng, chứng thực, nhƣng phải có giấy tờ

chứng minh mối quan hệ với ngƣời uỷ quyền.

3. Khi nộp hồ sơ đăng ký kết hôn, đăng ký lại việc kết hôn,

đăng ký nhận cha, mẹ, con, một bên có yêu cầu có thể trực tiếp nộp

hồ sơ tại cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền mà không cần có

văn bản ủy quyền của bên còn lại.”

73

Mỗi phƣờng lại thực hiện theo một cách khác nhau. Có phƣờng thì yêu

cầu giấy ủy quyền chứng thực, có phƣờng không yêu cầu gây khó khăn cho

công dân khi ủy quyền cho ngƣời khác làm thủ tục đăng ký hộ tịch.

2.3.2. Nguyên nhân

Những hạn chế trong công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch đã nêu

trên do một số nguyên nhân cơ bản sau đây:

Một là, chưa thống nhất trong việc thi hành các quy định của Luật hộ tịch

Chẳng hạn là một thủ tục mà đƣợc thực hiện nhiều nhất ở cấp phƣờng

là cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Tuy nhiên thủ tục này lại không

đƣợc quy định ở Luật hộ tịch mà chỉ đƣợc quy định ở Mục 3 Nghị định

123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ

tịch. Điểm khác biệt so với quy định cũ đó là đối với “trƣờng hợp ngƣời yêu

cầu xác nhận tình trạng hôn nhân đã từng đăng ký thƣờng trú tại nhiều nơi

khác nhau, ngƣời đó có trách nhiệm chứng minh về tình trạng hôn nhân của

mình. Trƣờng hợp ngƣời đó không chứng minh đƣợc thì công chức tƣ pháp -

hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có văn bản đề nghị Ủy ban

nhân dân cấp xã nơi ngƣời đó đã từng đăng ký thƣờng trú tiến hành kiểm tra,

xác minh về tình trạng hôn nhân của ngƣời đó”. Việc gửi công văn xác minh

thƣờng rất khó thực hiện và rất ít nhận đƣợc công văn trả lời. Quy định này

rất khó để thực hiện.

Hai là, đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch phải kiêm nhiệm nhiều

công việc khác nhau và không ổn định

Hiện nay, ở các phƣờng công chức Tƣ pháp - Hộ tịch ngoài việc tham

mƣu, giúp Ủy ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban

nhân dân cấp xã) phải đảm nhiệm 12 đầu việc, trong đó có việc đăng ký và

quản lý hộ tịch. Trong khi đó, trên thực tế, tính chất chuyên môn của công tác

hộ tịch và các công tác tƣ pháp khác (công tác văn bản, tuyên truyền pháp luật,

hòa giải…) rất khác nhau, không ph hợp với việc ghép chung một cách cơ học

74

hai loại nhiệm vụ này trong c ng một chức danh Tƣ pháp - Hộ tịch. Cũng

chính vì phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau, nên công chức Tƣ pháp -

Hộ tịch không có thời gian đầu tƣ cho việc nghiên cứu, nâng cao trình độ

chuyên môn cũng nhƣ cập nhật kịp thời những văn bản mới; cũng từ nguyên

Ba là, việc quy định về ghi sổ và cấp giấy tờ hộ tịch chƣa khoa học

(không có sổ hộ tịch chung và cũng không có một loại giấy tờ hộ tịch chung

cấp cho cá nhân trong đó tích hợp mọi thông tin về hộ tịch của cá nhân).

Bốn là, chưa ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong đăng ký và

quản lý hộ tịch

Chƣa có cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử kết nối giữa các cơ quan hộ

tịch ở trong nƣớc với nhau, cũng nhƣ với các Cơ quan đại diện để chia sẻ

và kết nối thông tin phục vụ cho việc tra cứu, xác minh thông tin về hộ tịch

của cá nhân là nguyên nhân gây tốn kém về kinh phí, không bảo đảm độ

chính xác về thông tin, kéo dài thời hạn giải quyết yêu cầu đăng ký hộ tịch

của công dân Việt Nam.

75

Chương 3

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU

QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH CỦA ỦY BAN NHÂN

DÂN PHƢỜNG, QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. NHỮNG PHƢƠNG HƢỚNG CƠ BẢN

3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực về hộ tịch

Hạn chế lớn nhất trong thể chế về hộ tịch là các quy phạm pháp luật về

hộ tịch còn phân tán trong nhiều văn bản khác nhau và văn bản điều chỉnh

trực tiếp trong lĩnh vực hộ tịch chỉ là Nghị định và Thông tƣ. Chính vì vậy,

việc Luật hộ tịch ra đời đã trở thành cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất về

đăng ký và quản lý hộ tịch trong toàn quốc và các Cơ quan đại diện nƣớc

ngoài. Đây là bƣớc đột phá về thể chế của công tác hộ tịch, là cơ sở pháp lý

thống nhất, đồng bộ, là cơ sở quan trọng để xây dựng hệ thống đăng ký và

quản lý hộ tịch theo hƣớng chuyên nghiệp, hiện đại. Luật Hộ tịch năm 2014

có nhiều nội dung mới cải cách mạnh m công tác đăng ký, quản lý hộ tịch

nói riêng và quản lý dân cƣ nói chung. Để đảm bảo thi hành Luật hộ tịch cần

ban hành kịp thời các văn bản hƣớng dẫn thi hành.

Theo Kế hoạch thì Chính phủ s ban hành 03 Nghị định, đó là: (i)

Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch.

(ii) Nghị định trong đó có nội dung quy định về thủ tục cấp Số định danh cá

nhân cho trẻ em khi đăng ký khai sinh; việc kết nối, cung cấp, trao đổi thông

tin giữa Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử và Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ.

(iii) Nghị định quy định về việc quản lý, sử dụng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện

tử; thủ tục đăng ký hộ tịch trực tuyến. Tuy nhiên hiện nay mới chỉ có Nghị

định 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành

Luật hộ tịch.

76

Kế hoạch của Chính phủ cũng giao các Bộ, ngành có liên quan ban hành

03 Thông tƣ, Thông tƣ liên tịch để quy định chi tiết một số điều và biện pháp

thi hành Luật. Theo tiến độ đang đƣợc Bộ Tƣ pháp và các Bộ, ngành triển khai

thì Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch

s hoàn thiện hồ sơ trình Chính phủ ban hành trong tháng 9/2015 theo đúng Kế

hoạch để có hiệu lực đồng thời với Luật hộ tịch từ ngày 01/01/2016. Tuy nhiên

hiện nay cũng mới chỉ có Thông tƣ 15/2015/TT-BTP quy định chi tiết thi hành

một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết

một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch ra đời.

Do đó việc ban hành các văn bản hƣớng dẫn đúng tiến độ là hết sức cần

thiết để đảm bảo việc thi hành Luật hộ tịch thống nhất trên cả nƣớc nói chung

và trên địa bàn quận Long Biên nói riêng.

3.1.2. Ủy ban nhân dân quận, ủy ban nhân dân phƣờng phải quan

tâm hơn đến công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch

Lãnh đạo của các cấp quận, cấp phƣờng phải xác định đƣợc việc đăng

ký quản lý hộ tịch là một nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội cần đƣợc quan

tâm chu đáo. Để việc thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn quận đƣợc

thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật, Ủy ban nhân dân quận hàng

năm đều ban hành kế hoạch trọng tâm công tác tƣ pháp. Xây dựng đội ngũ

cán bộ tƣ pháp trong sạch vững mạnh theo hƣớng nâng cao đạo đức công vụ,

chuyên nghiệp, hiện đại; tập trung tốt các nhiệm vụ công tác tƣ pháp để thực

hiện tốt một cách hiệu quả những nhiệm vụ về phát triển kinh tế xã hội của

quận, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của các cấp, ngành về công tác

tƣ pháp; đảm bảo triển khai một cách đồng bộ, có hiệu quả công tác tƣ pháp

trên địa bàn quận trong đó có công tác hộ tịch để ủy ban nhân dân các phƣờng

xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện, trong đó có công tác đăng ký và

quản lý hộ tịch. Ủy ban nhân dân quận chỉ đạo ủy ban nhân dân các phƣờng

77

tiếp tục cải tiến phong cách, lề lối làm việc của bộ tƣ pháp hộ tịch. Đồng thời,

Ủy ban nhân dân phƣờng cần tạo điều kiện cơ sở vật chất tốt nhất cho công

tác đăng ký và quản lý hộ tịch.

3.1.3. Thay đổi nhận thức của ngƣời dân trong việc đăng ký hộ tịch

Cần phải tích cực tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật về hộ

tịch để thay đổi nhận thức của ngƣời dân. Đăng ký hộ tịch là việc mỗi công

dân thực hiện quyền của mình. Đa số ngƣời dân thƣờng rất ngại đến các cơ

quan hành chính nhà nƣớc. Chỉ khi bắt buộc phải giải quyết những yêu cầu

nhất định, vì lợi ích của chính mình, họ mới chủ động đến thực hiện các thủ

tục hành chính trong đó có đăng ký hộ tịch dẫn đến các trƣờng hợp đăng ký

hộ tịch quá hạn vẫn còn, cá biệt là có trƣờng hợp còn không đi đăng ký vì họ

còn mang nặng tâm lý về cơ chế “xin - cho”, đến là để “xin” các cán bộ, công

chức giải quyết “cho” công việc, mong muốn của mình. Nhận thức sai lầm đó

làm thay đổi bản chất trong mối quan hệ giữa nhà nƣớc - cán bộ công chức

với nhân dân dẫn đến việc thực hiện pháp luật còn nhiều hạn chế.

Việc thay đổi nhận thức của ngƣời dân về đăng ký hộ tịch trƣớc hết phải

xuất phát từ sự chủ động của ngƣời dân. Ngƣời dân phải tự thay đổi nhận thức,

ý thức và sau đó là hành động của mình để chủ động hơn, tích cực hơn và đứng

đúng vai hơn trong việc thực hiện pháp luật về hộ tịch. Họ phải ý thức mình là

khách hàng của nền hành chính, đƣợc phục vụ và là một chủ thể chính trong

kiểm soát hoạt động của nền hành chính thông qua các quyền khiếu nại, tố cáo,

góp ý,... nhằm nâng cao chất lƣợng, hiệu quả thực hiện pháp luật.

Về phía Nhà nƣớc, bên cạnh việc nâng cao công tác thông tin, tuyên

truyền, phổ biến pháp luật cho ngƣời dân, Nhà nƣớc cần có những giải pháp

cụ thể, quyết liệt nhằm nâng cao đạo đức công vụ, tạo cơ chế phục vụ văn

minh trong nền hành chính, kiên quyết chống lại những biểu hiện tiêu cực,

sách nhi u, cửa quyền của một số cán bộ, công chức.

78

3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC

HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN PHƢỜNG

THUỘC QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.2.1. Tăng cƣờng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp

luật về hộ tịch để nâng cao ý thức và thay đổi nhận thức của ngƣời dân

Để nâng cao chất lƣợng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp

luật nói chung và pháp luật về hộ tịch nói riêng cần:

Thứ nhất, tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của chính quyền

đối với công tác giáo dục pháp luật

Để tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng, cần quán triệt Chỉ thị số 32/CT-

TW của Ban Bí thƣ về tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật, qua đó tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hành

động của các tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên về công tác giáo dục pháp luật.

Các cấp ủy phải thƣờng xuyên tiến hành xây dựng chƣơng trình, kế hoạch

giáo dục pháp luật trên địa bàn cấp mình và phải luôn xác định vai trò gƣơng

mẫu của các đảng viên và vai trò tiên phong của họ trong việc tuyên truyền

giáo dục pháp luật. Đồng thời phải thƣờng xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát

hoạt động giáo dục pháp luật, kịp thời đôn đốc, chỉ đạo xử lý những vƣớng

mắc nảy sinh trong quá trình giáo dục pháp luật.

Thứ hai, chú trọng xây dựng đội ngũ làm công tác tuyên truyền, phổ

biến, giáo dục pháp luật - vai trò quyết định chất lƣợng giáo dục pháp luật. Do

vậy, cần tuyển chọn những ngƣời có phẩm chất, năng lực, trình độ, có khả

năng tuyên truyền, giáo dục hoặc hòa giải tốt, có lòng nhiệt tình, say mê với

công việc giáo dục pháp luật. Bên cạnh đó, phải đặc biệt chú trọng việc rà

soát, phân loại, đào tạo, bồi dƣỡng nghiệp và định hƣớng nội dung giáo dục

pháp luật thƣờng xuyên cho đội ngũ làm công tác giáo dục pháp luật (chú ý

cung cấp kiến thức, cần bồi dƣỡng, rèn luyện kỹ năng giáo dục pháp luật, giúp

79

họ không chỉ có kiến thức vững mà còn có khả năng thu hút ngƣời nghe và

truyền đạt hiệu quả nội dung pháp luật).

Thứ ba, đổi mới nội dung, hình thức, phƣơng pháp tuyên truyền, phổ

biến, giáo dục pháp luật

Cần đổi mới nội dung giáo dục pháp luật theo hƣớng không chỉ đáp

ứng nhu cầu kiến thức cơ bản về pháp luật, mà còn phải thiết thực, đáp ứng

yêu cầu thực ti n để một mặt nâng cao trình độ nhận thức cho các đối tƣợng,

mặt khác giúp họ có khả năng vận dụng sáng tạo vào thực ti n cuộc sống.

Trên cơ sở nội dung giáo dục pháp luật đã đƣợc cung cấp, các báo cáo viên

biên soạn lại cụ thể, ph hợp với đặc điểm, điều kiện, trình độ nhận thức, tính

chất công việc của từng đối tƣợng. Định k có tiến hành sơ kết, đánh giá để

xây dựng cơ sở khoa học và thực ti n cho việc xác định nội dung giáo dục

pháp luật thời gian tiếp theo.

Cần đa dạng hóa hình thức, phƣơng pháp giáo dục pháp luật bằng

những cách thức nhƣ tọa đàm, buổi nói chuyện, các buổi trợ giúp pháp lý, qua

hệ thống loa phát thanh cơ sở, tờ rơi, tờ gấp…

Ngoài ra, cần lồng ghép việc phổ biến, giáo dục pháp luật tại các

buổi sinh hoạt cộng đồng. Xây dựng và phát huy phƣơng châm mỗi ngƣời

dân là một tuyên truyền viên trong cộng đồng. Chú trọng nâng cao hiệu

quả hình thức thi tìm hiểu pháp luật. Đối với hình thức giáo dục pháp luật

qua hoạt động tƣ vấn, trợ giúp pháp luật cần mở rộng phạm vi hoạt động,

không chỉ tƣ vấn tại trụ sở mà còn thông qua các câu lạc bộ trợ giúp pháp

lý tại các khu dân cƣ.

Thứ tƣ, phải đảm bảo đủ kinh phí, cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động

giáo dục pháp luật, kinh phí cho các buổi hội nghị tuyên truyền pháp luật.

Thứ năm, xây dựng tủ sách pháp luật, liên tục cập nhật các đầu văn bản

mới để ngƣời dân có thể d dàng tìm hiểu các văn bản pháp luật mới.

80

Thứ sáu, tăng cƣờng công tác giáo dục pháp luật không tách rời với

việc nâng cao trình độ dân trí và cải thiện đời sống cho nhân dân. Các cơ quan

nhà nƣớc cần tăng cƣờng tổ chức thực hiện pháp luật, đặc biệt là áp dụng

pháp luật một cách đúng đắn và nghiêm minh.

Trên đây là một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và Luật hộ tịch nói riêng, góp

phần tích cực đƣa pháp luật vào cuộc sống. Cần thực hiện đồng bộ các biện

pháp trên nhằm tác động toàn diện đến đối tƣợng từ thay đổi nhận thức đến

hoạt động thực ti n và làm cho pháp luật trở thành qui tắc xử sự của mọi cơ

quan, tổ chức và mọi công dân

Tóm lại, việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật s tạo điều kiện cho việc

nâng cao trình độ văn hóa pháp lý của ngƣời dân. Hiệu quả tác động này lại

phụ thuộc vào trình độ văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ, công chức; phụ

thuộc vào việc họ thực thi pháp luật, có thái độ tôn trọng pháp luật. Nhất là

trong điều kiện xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh thì một

trong những điều kiện quan trọng là làm sao để ngƣời dân đƣợc tham gia tích

cực vào hoạt động quản lý xã hội bằng pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật

góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự lớn mạnh của tính tích cực, đảm

bảo hành trang kiến thức pháp lý cần thiết cho sự tham gia vào hoạt động xây

dựng và thực thi pháp luật trong cả nƣớc nói chung và trên địa bàn quận Long

Biên nói riêng.

3.2.2. Xây dựng chức danh Hộ tịch viên

Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác hộ tịch thì cần thiết phải

ổn định, chuyên nghiệp hóa đội ngũ công chức thực hiện công tác hộ tịch

thông qua việc xây dựng chức danh Hộ tịch viên. Việc xây dựng chức danh

Hộ tịch viên s bảo đảm tính chuyên nghiệp cho đội ngũ công chức này đồng

thời cũng là điều kiện cần thiết để Ủy ban nhân dân cấp phƣờng nhận chuyển

giao những công việc phức tạp từ Sở Tƣ pháp và Ủy ban nhân dân cấp quận.

81

Bên cạnh việc giúp UBND cấp xã thực hiện việc quản lý và đăng ký hộ

tịch ở địa phƣơng, công chức Tƣ pháp - hộ tịch còn phải đảm nhiệm rất nhiều

công việc tƣ pháp khác nhƣ tuyên truyền pháp luật, hòa giải, tiếp nhận đơn

thƣ khiếu nại, tố cáo… Thực tế, tính chất chuyên môn của công tác hộ tịch và

công tác tƣ pháp là rất khác nhau. Trong khi các công tác tƣ pháp mang tính

chất “hành chính trật tự” của chính quyền thì công tác hộ tịch đòi h i sự ổn

định chuyên môn rất cao. Đây chính là những nguyên nhân làm giảm hiệu quả

quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực hộ tịch.

Việc xây dựng chức danh Hộ tịch viên lấy nguồn từ công chức Tƣ pháp

- Hộ tịch, đƣợc bổ nhiệm để thực hiện nhiệm vụ đăng ký hộ tịch và giúp

UBND cấp xã quản lý công tác hộ tịch, đƣợc hƣởng lƣơng và phụ cấp theo

quy định của Chính phủ vừa không làm tăng số lƣợng biên chế công chức tạo

gánh nặng cho ngân sách nhà nƣớc vừa tạo điều kiện bồi dƣỡng nghiệp vụ

cho đội ngũ Hộ tịch viên nâng cao chất lƣợng đăng ký, quản lý hộ tịch, khắc

phục tình trạng quá tải trong công tác hộ tịch hiện nay.

3.2.3. Xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử

Xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử là một yêu cầu bức thiết hiện

nay. Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử s tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản

lý hộ tịch, đặc biệt là trong thống kê, báo cáo số liệu đăng ký hộ tịch để phục

vụ chính xác, kịp thời cho việc xây dựng, hoạch định chính sách kinh tế, xã

hội, quốc phòng, an ninh và trong tra cứu thông tin biến động hộ tịch theo yêu

cầu của ngƣời dân.

Theo quy định của Luật Hộ tịch năm 2014, Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện

tử đƣợc lập để lƣu giữ, cập nhật, quản lý, tra cứu thông tin hộ tịch, phục vụ

yêu cầu đăng ký hộ tịch trực tuyến; đƣợc kết nối để cung cấp, trao đổi thông

tin hộ tịch cơ bản của cá nhân cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ. Thông

tin hộ tịch của cá nhân s đƣợc quản lý tập trung, thống nhất; các Bộ, ngành,

82

địa phƣơng sử dụng thông tin công dân từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ

để phục vụ công tác quản lý của Bộ, ngành, địa phƣơng mình (mà không phải

nhập lại), cũng nhƣ giải quyết thủ tục hành chính cho ngƣời dân. Ở nƣớc ta,

việc ứng dụng công nghệ thông tin mới chỉ dừng ở mức in biểu mẫu hộ tịch từ

máy tính. Tuy một số địa phƣơng có sử dụng phần mềm đăng ký hộ tịch,

nhƣng chủ yếu ở mức độ đăng ký riêng lẻ từng loại việc, chƣa có sự liên

thông, thống nhất giữa các sự kiện hộ tịch của c ng một cá nhân, chƣa kết nối

giữa các cơ quan đăng ký hộ tịch với nhau và với cơ quan đăng ký hộ tịch cấp

trên. Theo đánh giá của các địa phƣơng, việc ứng dụng công nghệ thông tin

trong đăng ký hộ tịch và xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử mang lại

nhiều thuận lợi, khắc phục đƣợc tình trạng đăng ký và quản lý hộ tịch có sai

sót, giảm thời gian thao tác, thuận tiện cho việc tra cứu, thống kê hộ

tịch. Hiện nay, Đề án “Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc” theo quy định

tại Luật Hộ tịch đã đƣợc Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp thông qua. Đây là một Đề án

quan trọng nhằm ứng dụng đồng bộ công nghệ thông tin trong đăng ký và

quản lý hộ tịch trên phạm vi toàn quốc, hình thành Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện

tử tập trung, có sự quản lý thống nhất từ trung ƣơng đến địa phƣơng, từng

bƣớc hiện đại hóa công tác đăng ký hộ tịch, tiến tới đăng ký trực tuyến; bảo

đảm kết nối để cung cấp thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân cho Cơ sở dữ

liệu quốc gia về dân cƣ và cơ sở dữ liệu chuyên ngành có liên quan. Dự kiến

là từ năm 2020 trở đi, chúng ta s thực hiện đăng ký, quản lý hộ tịch điện tử,

giải quyết thủ tục hành chính trực tuyến (mức độ 3 hoặc mức độ 4: Theo quy

định tại điểm c, d khoản 4 Điều 3 Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày

13/6/2011 quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên

trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nƣớc: “(c)

Dịch vụ công trực tuyến mức độ 3: là dịch vụ công trực tuyến mức độ 2 và

cho phép ngƣời sử dụng điền và gửi trực tuyến các mẫu văn bản đến cơ quan,

83

tổ chức cung cấp dịch vụ. Các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ và cung

cấp dịch vụ đƣợc thực hiện trên môi trƣờng mạng. Việc thanh toán lệ phí (nếu

có) và nhận kết quả đƣợc thực hiện trực tiếp tại cơ quan, tổ chức cung cấp dịch

vụ; (d) Dịch vụ công trực tuyến mức độ 4: là dịch vụ công trực tuyến mức độ 3

và cho phép ngƣời sử dụng thanh toán lệ phí (nếu có) đƣợc thực hiện trực

tuyến. Việc trả kết quả có thể đƣợc thực hiện trực tuyến, gửi trực tiếp hoặc qua

đƣờng bƣu điện đến ngƣời sử dụng”). Các giải pháp thực hiện có thể là:

Thứ nhất, cần xây dựng văn bản pháp luật quy định về quá trình vận

hành, khai thác, quản lý cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.

Thứ hai, tiếp tục sử dụng, nâng cấp thiết bị sẵn có tại các địa phƣơng,

chỉ trang bị mới khi thực sự cần thiết, bảo đảm mỗi cán bộ 01 máy có kết nối

mạng Internet phục vụ riêng cho công tác hộ tịch; ƣu tiên thuê hạ tầng công

nghệ thông tin của doanh nghiệp.

Thứ ba, phần mềm đăng ký hộ tịch phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu

cần thiết.

Thứ tƣ, sử dụng tối đa năng lực của đội ngũ công chức làm công tác hộ

tịch hiện nay, trên cơ sở cân đối bố trí đủ biên chế; tổ chức đào tạo bồi dƣỡng

nghiệp vụ.

Thứ năm, tạo lập cơ chế chỉ đạo điều hành thống nhất; khảo sát và đánh

giá tổng thể thực trạng địa phƣơng.

Thứ sáu, ƣu tiên giải pháp thuê dịch vụ công nghệ thông tin.

Sau khi Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử đƣợc hoàn thành và đƣa vào sử

dụng, các thông tin hộ tịch của công dân s đƣợc cập nhật vào Cơ sở dữ liệu hộ

tịch điện tử điện tử và Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ, nên khi có yêu cầu

thực hiện các thủ tục hành chính tiếp theo, các công dân chỉ cần thông báo số

đi nhƣ danh cá nhân, không cần phải xuất trình tất cả các giấy tờ cá nhân nhƣ

hiện nay. Các thủ tục hành chính, đặc biệt là thủ tục hành chính trong lĩnh vực

84

đăng ký hộ tịch s đƣợc đơn giản hóa về thành phần hồ sơ, rút gọn về trình tự,

thời hạn giải quyết và do đó chi phí thực hiện thủ tục hành chính (bao gồm cả

lệ phí) s giảm. Bên cạnh đó, Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử s xóa b sự lệ

thuộc vào nơi cƣ trú của ngƣời yêu cầu đăng ký hộ tịch; ngƣời dân có thể yêu

cầu đăng ký hộ tịch, cấp bản sao trích lục hộ tịch tại bất cứ cơ quan đăng ký

hộ tịch nào, không phụ thuộc vào nơi cƣ trú. Đặc biệt là việc xin cấp bản sao

trích lục, ngƣời dân có thể đề nghị cơ quan đăng ký, quản lý hộ tịch ở bất cứ

nơi nào thực hiện, thời gian đáp ứng nhanh. Ngƣời dân cũng có thể thực hiện

việc đăng ký trực tuyến theo các cấp độ 3, 4, giảm đáng kể chi phí, thời gian

đi lại. Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử s giúp giảm chi phí cho tổng điều tra dân

số. Hiện nay, chi phí dành cho các cuộc tổng điều tra về dân số đang rất lớn

(lĩnh vực Thống kê, lĩnh vực Y tế, các lĩnh vực khác). Vì vậy, việc sử dụng

các hệ thống thông tin hành chính trong việc quản lý thông tin công dân nhƣ

hệ thống Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử s d dàng nhận đƣợc số liệu/dữ liệu

thống kê về công dân thay thế (với phạm vi, nội dung thay thế t y theo điều

kiện thực tế) các cuộc tổng điều tra dân số là cần thiết để đảm bảo tiết kiệm,

tránh lãnh phí nguồn lực cả về nhân lực và tài chính.

3.2.4. Bảo đảm các điều kiện về phƣơng tiện, cơ sở vật chất cho

công tác hộ tịch

Các cấp chính quyền cần xác định rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của

công tác hộ tịch trong việc góp phần xây dựng các chính sách về kinh tế, xã

hội, an ninh quốc phòng và dân số, kế hoạch hóa gia đình để quan tâm, đầu tƣ

hơn cho công tác này. Cần dành kinh phí nhất định cho việc mở các lớp tập

huấn, các đợt tuyên truyền để ngƣời dân hiểu đƣợc quyền và nghĩa vụ đăng ký

hộ tịch của mình. Tại các phƣờng cần trang bị đầy đủ phƣơng tiện làm việc

(máy tính), tủ lƣu hồ sơ, sổ hộ tịch, bố trí địa điểm tiếp dân... Cần đảm bảo

công chức tƣ pháp - hộ tịch đƣợc trang bị máy tính có kết nối mạng Internet

85

để thực hiện các thủ tục đăng ký hộ tịch, cấp số định danh cá nhân. Bộ phận

thực hiện tiếp nhận, thực hiện và trả hồ sơ đăng ký hộ tịch phải đƣợc đảm bảo

trang thiết bị tối thiểu, bao gồm: máy vi tính cho mỗi vị trí tiếp nhận và trả hồ

sơ giải quyết; máy photocopy; máy fax; máy in 02 mặt lật giấy tự động; máy

scan 02 mặt tốc độ cao; điện thoại cố định; bàn làm việc; ghế ngồi làm việc;

hệ thống camera giám sát; bàn viết hồ sơ và ghế ngồi chờ dành cho cá nhân,

tổ chức đến giao dịch; nƣớc uống; quạt mát hoặc máy điều hòa nhiệt độ; các

bảng, biển thông báo, hòm thƣ, sổ góp ý và các trang thiết bị cần thiết để đáp

ứng nhu cầu làm việc và yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt

động của cơ quan, đơn vị.

Ủy ban nhân dân các phƣờng phải đáp ứng yêu cầu có hạ tầng công

nghệ thông tin và các thiết bị chuyên dụng theo quy định đảm bảo đủ điều

kiện để thực hiện đúng quy trình công khai, hƣớng dẫn, tiếp nhận, giải quyết,

theo dõi quá trình giải quyết và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính của

cá nhân, tổ chức; có đủ điều kiện để thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ

3, mức độ 4.

3.2.5. Xây dựng và nâng cao chất lƣợng đội ngũ công chức hộ tịch

Xây dựng và nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức tƣ pháp -

hộ tịch là một trong những mục tiêu quan trọng trong lĩnh vực hộ tịch của

thành phố Hà Nội nói chung và quận Long Biên nói riêng.

Ủy ban nhân dân quận Long Biên thƣờng xuyên quan tâm thực hiện các

giải pháp nhằm ngày càng nâng cao chất lƣợng, trách nhiệm của đội ngũ này,

nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà cán bộ Tƣ pháp hộ tịch đƣợc giao phụ

trách tới 12 đầu việc, nhƣng theo biên chế chỉ có 2 cán bộ. Do đó, để nâng cao

năng lực của đội ngũ cán bộ Tƣ pháp - hộ tịch trên địa bàn quận Long Biên,

trong thời gian tới cần phải thực hiện các giải pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức Tƣ pháp

86

- hộ tịch các cấp, đủ về số lƣợng và tiêu chuẩn nghiệp vụ tạo bƣớc chuyển biến

mạnh m về tổ chức, cán bộ; chú trọng công tác đào tạo, bồi dƣỡng để nâng

cao năng lực, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, tƣ pháp hộ tịch; tăng cƣờng cơ sở vật

chất, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ, công chức Tƣ pháp hộ tịch xã, phƣờng,

thị trấn, hoàn thành tốt nhiệm vụ đƣợc giao; góp phần hoàn thành nhiệm vụ

chính trị, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phƣơng, đáp ứng yêu cầu cải cách

hành chính, cải cách tƣ pháp, xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dƣỡng nghiệp vụ, kỹ năng

nghiệp vụ cán bộ Tƣ pháp - Hộ tịch. Tăng cƣờng giáo dục, rèn luyện chính trị,

tƣ tƣởng, thái độ phục vụ nhân dân, tuân thủ đạo đức nghề nghiệp. Công chức

Tƣ pháp hộ tịch và những ngƣời có thẩm quyền giải quyết công việc của dân

phải là những ngƣời gƣơng mẫu, tự giác trong chấp hành pháp luật, phải thực

sự là những ngƣời công tâm, chuẩn xác, làm việc khoa học, mang tính chuyên

nghiệp cao; Đối với những trƣờng hợp vì lý do khách quan khác, công chức

Tƣ pháp - Hộ tịch phải tìm đến dân chứ không phải ngồi chờ dân đến. Phải

biết lắng nghe ý kiến góp ý, trao đổi của dân. Phải tạo điều kiện thuận lợi cho

ngƣời dân khi thực hiện quyền của mình nói chung và trong lĩnh vực đăng ký,

quản lý hộ tịch nói riêng, phải thực sự là “công bộc” của dân. Có nhƣ vậy mới

thực sự làm cho dân tin, thu hút đông đảo nhân dân tham gia quản lý hộ tịch,

hiệu quả quản lý Nhà nƣớc về hộ tịch mới đƣợc nâng cao.

Thứ ba, chú trọng công tác tuyển dụng cán bộ, từng bƣớc bố trí, sắp

xếp để tiến tới 100% công chức Tƣ pháp - hộ tịch đạt chuẩn, trong đó 100 %

cán bộ, công chức tƣ pháp hộ tịch ở các phƣờng có trình độ đại học cử nhân

luật. Nội dung thi tuyển ngoài hiểu biết pháp luật nói chung, cần coi trọng

kiểm tra, sát hạch về kỹ năng xử lý tình huống. Mặc d hƣớng đến tin học hóa

quản lý hộ tịch nhƣng cũng cần xem xét chữ viết đẹp, rõ ràng cũng là một

trong những tiêu chuẩn của ngƣời dự tuyển. Việc tuyển dụng phải đảm bảo

87

nguyên tắc bình đẳng, khách quan, công khai, khuyến khích nhƣng cần đảm

bảo cạnh tranh lành mạnh.

Thứ tƣ, tăng cƣờng cơ sở vật chất, phƣơng tiện làm việc, phấn đấu

100% công chức Tƣ pháp - hộ tịch xã, phƣờng thị trấn có máy tính nối mạng

với đƣờng truyền mạng ổn định để thực hiện việc đăng ký hộ tịch đƣợc thông

suốt, thống nhất quản lý chuyên ngành bằng công nghệ thông tin.

Thứ năm, để kịp thời động viên, khuyến khích cán bộ Tƣ pháp - hộ tịch

ở cơ sở phát huy đƣợc khả năng và trí tuệ phục vụ công việc đƣợc giao, Nhà

nƣớc cần có những chính sách đãi ngộ cho ph hợp, bảo đảm quyền lợi cho

cán bộ làm công tác Tƣ pháp - hộ tịch.

Thứ sáu, hàng năm cấp quận cần tiến hành đánh giá, phân loại cán bộ

Tƣ pháp - hộ tịch; kiên quyết đƣa ra kh i vị trí công tác những cán bộ, công

chức Tƣ pháp - hộ tịch có năng lực chuyên môn yếu, thiếu tinh thần trách

nhiệm, phục vụ nhân dân kém, vi phạm đạo đức nghề nghiệp.

Nhƣ vậy, để nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ Tƣ pháp - hộ tịch

trên địa bàn quận Long Biên trong thời gian tới, thiết nghĩ phải thực hiện

đồng bộ các giải pháp nêu trên thì chắc chắn công tác đăng ký hộ tịch s đạt

hiệu quả cao.

3.2.6. Tăng cƣờng công tác hƣớng dẫn, kiểm tra, thanh tra đối với

hoạt động đăng ký hộ tịch

3.2.6.1. Đối với Bộ Tư pháp

Lãnh đạo Bộ Tƣ pháp cần tiếp tục quan tâm, chỉ đạo công tác thanh tra

nói chung và thanh tra công tác hộ tịch nói riêng. Tăng cƣờng thanh tra, kiểm

tra việc chấp hành về lĩnh vực đăng ký, quản lý hộ tịch, giúp các cơ quan, đơn

vị hiểu và làm đúng những nguyên tắc, quy định về lĩnh vực này, ngăn chặn

kịp thời những việc làm sai phạm, kiến nghị sửa đổi, bổ sung những quy định

bất cập, không ph hợp với thực ti n.

88

Hàng năm, cần mở các lớp bồi dƣỡng nghiệp vụ thanh tra chuyên

ngành cho cơ quan đƣợc giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành

của Bộ Tƣ pháp và Thanh tra các Sở Tƣ pháp, trong đó có nội dung về nghiệp

vụ thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực hộ tịch để kịp thời phổ biến kiến

thức, trao đổi kinh nghiệm, nắm bắt khó khăn vƣớng mắc trong thực hiện

công tác thanh tra đối với lĩnh vực này.

Bộ Tƣ pháp, Sở Tƣ pháp khi tổ chức các hội nghị, các lớp tập huấn, bồi

dƣỡng nghiệp vụ về đăng ký và quản lý hộ tịch nên có thành phần tham dự là

công chức làm công tác thanh tra của Bộ Tƣ pháp, Sở Tƣ pháp; hoặc khi có

các văn bản chỉ đạo, hƣớng dẫn nghiệp vụ trong công tác này cũng gửi cho

Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở để kịp thời nắm bắt, cấp nhật thông tin, quy

định pháp luật trong lĩnh vực này, từ đó mới có thể làm tốt công tác thanh tra

lĩnh vực hộ tịch.

Cần tiếp tục nghiên cứu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền hoàn thiện

thể chế liên quan đến công tác thanh tra, kiểm tra đối với lĩnh vực hộ tịch. Sửa

đổi quy định về thẩm quyền thanh tra chuyên ngành của Thanh tra các Sở Tƣ

pháp đối với lĩnh vực hộ tịch, trong đó bổ sung thẩm quyền về thanh tra

chuyên ngành đối với công tác hộ tịch có yếu tố nƣớc ngoài.

Kiên quyết xử lý nghiêm các trƣờng hợp vi phạm, sai phạm trong quản

lý, đăng ký hộ tịch đƣợc phát hiện qua công tác thanh tra, giải quyết khiếu

nại, tố cáo hoặc kiến nghị, phản ánh.

3.2.6.2. Đối với các Sở Tư pháp

Chủ động phối hợp với các ngành liên quan ở địa phƣơng để thống nhất

giải quyết các vƣớng mắc của các giấy tờ cá nhân trên cơ sở tuân thủ quy định

của pháp luật.

Tăng cƣờng chỉ đạo, bồi dƣỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác hộ

tịch, kịp thời giải quyết những vƣớng mắc về đăng ký và quản lý hộ tịch ở cơ sở.

89

Lực lƣợng Thanh tra các Sở Tƣ pháp còn m ng nên công tác thanh tra

chuyên ngành nói chung chƣa đƣợc thực hiện thƣờng xuyên, chƣa đáp ứng

đƣợc yêu cầu quản lý nhà nƣớc của Ngành. Do đó, cần tăng cƣờng biên chế

cho Thanh tra các Sở Tƣ pháp, nâng cao năng lực, trình độ cho công chức làm

công tác thanh tra trong toàn ngành.

Tăng cƣờng công tác thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện và xử lý

nghiêm túc những trƣờng hợp vi phạm thuộc thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ

quan có thẩm quyền xử lý kịp thời, nghiêm minh những trƣờng hợp vi phạm.

Kịp thời phản ánh những mâu thuẫn, bất cập của pháp luật về các

vấn đề còn có liên quan về Bộ Tƣ pháp để góp phần nâng cao hơn nữa hiệu

quả quản lý nhà nƣớc về công tác quản lý và đăng ký hộ tịch theo quy định

của pháp luật.

3.2.6.3. Đối với Phòng Tư pháp và UBND cấp phường

Phòng Tƣ pháp tham mƣu cho UBND quận đầu tƣ cơ sở vật chất và

kiện toàn Phòng Tƣ pháp và bố trí đủ cán bộ tƣ pháp hộ tịch cấp xã có trình

độ, năng lực để đáp ứng đƣợc nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc về hộ tịch.

Tiếp tục phản ánh những mâu thuẫn, bất cập của pháp luật về các vấn

đề còn có liên quan về Sở Tƣ pháp, kịp thời xin chỉ đạo, hƣớng dẫn đối với

những vấn đề còn vƣớng mắc khi áp dụng phá luật trong thực ti n, tránh hiểu

nhầm, hiểu không đúng dẫn đến áp dụng sai các quy định pháp luật.

Lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp phƣờng, cấp quận cần quan tâm sâu sát

đến công tác này, nhất là chủ động trong việc ổn định nhân sự. Trang bị đầy

đủ trang thiết bị phục vụ cho công tác (do các nguồn kinh phí tại địa phƣơng

hoặc xin kinh phí cấp trên), nghiên cứu kỹ các qui định của pháp luật về đăng

ký và quản lý hộ tịch, xin ý kiến cấp trên khi có vƣớng mắc về nghiệp vụ.

Thƣờng xuyên thanh tra, kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện

nhiệm vụ của cán bộ tƣ pháp hộ tịch nhằm kịp thời phát hiện thiếu sót, sai

phạm để khắc phục cũng nhƣ biểu dƣơng, khen thƣởng.

90

Khi giải quyết hồ sơ thay đổi, cải chính hộ tịch cán bộ Tƣ pháp cần phải

kiểm tra, xem xét xác định đúng đối tƣợng thay đổi, cải chính hộ tịch, tránh

tình trạng thay đổi, cải chính hộ tịch không đúng thẩm quyền. Trƣớc khi trình

Chủ tịch ký Quyết định cho phép thay đổi, cải chính hộ tịch cho công dân, nhất

là các trƣờng hợp cải chính năm sinh tránh tình trạng dân lợi dụng việc cải

chính hộ tịch để hợp thực hóa giấy tờ cá nhân hoặc vì mục đích khách.

Trƣớc khi trao giấy tờ hộ tịch cho ngƣời dân cần kiểm tra lần cuối tất

cả các nội dung trong các giấy tờ đó đối chiếu với sổ sách hộ tịch; giải thích

rõ giá trị pháp lý của giấy tờ hộ tịch mà họ vừa đăng ký; giúp họ phân biệt

bản chính, bản sao hộ tịch, cách bảo quản, sử dụng các loại giấy tờ hộ tịch;

đối với ngƣời không biết đọc thì trƣớc khi trao giấy tờ cho họ cần đọc lại cho

họ nghe để xem những nội dung trong giấy tờ vừa đọc có đúng với nội dung

đăng ký của họ không.

Không cửa quyền, gây khó khăn, phiền hà cho cơ quan, tổ chức, cá

nhân khi đăng ký hộ tịch; nhận hối lộ; thu lệ phí hộ tịch cao hơn mức quy

định hoặc tự ý đặt ra các khoản thu khi đăng ký hộ tịch; tự đặt ra những thủ

tục, giấy tờ trái với quy định của pháp luật khi đăng ký hộ tịch; làm sai lệch

các nội dung đã đƣợc đăng ký trong sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch; cố ý cấp các

giấy tờ hộ tịch có nội dung không chính xác.

91

KẾT LUẬN

Thực hiện pháp luật về hộ tịch là công tác quan trọng luôn đƣợc các

quốc gia quan tâm thực hiện. Hoạt động này còn là cơ sở để Nhà nƣớc công

nhận và bảo hộ quyền con ngƣời, quyền, nghĩa vụ công dân, đồng thời có biện

pháp quản lý dân cƣ một cách khoa học, phục vụ thiết thực cho việc xây dựng,

hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của đất

nƣớc. Tại hầu hết các nƣớc, các sự kiện hộ tịch của con ngƣời từ khi sinh ra

đến khi chết nhƣ khai sinh, kết hôn, ly hôn, nuôi con nuôi, giám hộ, thay đổi,

cải chính hộ tịch, khai tử… đều đƣợc đăng ký và đƣợc quản lý chặt ch .

Ở nƣớc ta, qua các thời k , đều có các văn bản quy định về lĩnh vực hộ

tịch, tuy nhiên chỉ dừng lại ở hình thức Nghị định của Chính phủ nhƣ: Nghị

định số 764/TTg ngày 08/5/1956 kèm theo Bản Điều lệ hộ tịch; Nghị định số

04/CP Ngày 16/01/1961 kèm theo Bản Điều lệ đăng ký hộ tịch mới thay thế

Nghị định số 764/TTg; Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về

đăng ký hộ tịch và gần đây nhất là Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày

27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch.

Ngày 20/11/2014, tại k họp thứ 8 Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật hộ tịch. Ngày 04/12/2014, Chủ

tịch nƣớc đã ký Lệnh số 18/2014/L-CTN về việc công bố Luật hộ tịch. Luật

hộ tịch có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016.

Đây là lần đầu tiên có văn bản ở tầm Luật của cơ quan quyền lực Nhà

nƣớc cao nhất để quy định về lĩnh vực này, tạo cơ sở pháp lý ổn định, thống

nhất, lâu dài cho công tác đăng ký, quản lý hộ tịch ở nƣớc ta theo hƣớng từng

bƣớc chuyên nghiệp, hiện đại, bảo đảm một cách thuận lợi cho ngƣời dân

thực hiện quyền, nghĩa vụ đăng ký hộ tịch theo quy định của Bộ luật Dân sự,

các luật chuyên ngành khác, góp phần tăng cƣờng quản lý dân cƣ trong giai

92

đoạn phát triển mới của đất nƣớc. So với quy định pháp luật hộ tịch hiện

hành, Luật Hộ tịch năm 2014 có những nội dung mới cơ bản sau đây:

Một là, khẳng định vị trí, vai trò của công tác đăng ký hộ tịch, nhất là

đăng ký khai sinh, cấp Giấy khai sinh và Số định danh cá nhân cho ngƣời

đƣợc khai sinh khi đăng ký khai sinh.

Hai là, Luật quy định xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử để lƣu giữ

thông tin hộ tịch của cá nhân (c ng với cơ sở dữ liệu giấy), kết nối để cung cấp

thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ.

Ba là, Luật có những quy định cải cách mạnh m về trình tự, thủ tục

đăng ký hộ tịch, tạo thuận lợi tối đa cho ngƣời dân. Luật hộ tịch cũng quy

định cá nhân có quyền lựa chọn cơ quan đăng ký hộ tịch cho mình mà không

phải phụ thuộc vào nơi cƣ trú nhƣ trƣớc đây.

Những điểm mới của Luật hộ tịch tạo thuận lợi cho việc đăng ký hộ

tịch của ngƣời dân thì đồng thời cũng mang đến thách thức cho các cơ quan

quản lý hộ tịch. Luận văn đã đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu

quả thực hiện pháp luật về hộ tịch của Ủy ban nhân dân phƣờng, quận Long

Biên, thành phố Hà Nội: Tăng cƣờng công tác tuyên truyền, phổ biến pháp

luật, xây dựng chức danh Hộ tịch viên, xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử,

xây dựng đội ngũ công chức hộ tịch, công chức hộ tịch phƣờng phải thực hiện

công việc đăng ký và quản lý hộ tịch rất phức tạp, nặng nề, đòi h i đội ngũ

công chức hộ tịch phƣờng phải có trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức, có

trách nhiệm cao, tƣơng xứng mới hoàn thành đƣợc nhiệm vụ do cấp trên giao

và phục vụ nhân dân đƣợc tốt và tăng cƣờng công tác hƣớng dẫn, kiểm tra,

thanh tra đối với hoạt động đăng ký hộ tịch. Việc thực hiện đồng bộ các giải

pháp trên s góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thực hiện

pháp luật về hộ tịch của Ủy ban nhân dân phƣờng trên địa bàn quận Long

Biên góp phần tích cực trong việc xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội, quốc

phòng, an ninh của quận Long Biên trong thời gian tới.

93

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (1992), Giản yếu Hán - Việt từ điển, quyển thƣợng, Nxb,

Khoa học xã hội.

2. Bộ Tƣ pháp (2014), Báo cáo chuyên đề: Tình hình triển khai thi hành

Luật hộ tịch, Hà Nội.

3. Bộ Tƣ pháp (2015), Kế hoạch triển khai thi hành Luật hộ tịch, Hà Nội

4. Bộ Tƣ pháp (2015), Thông tư 15/2015/TT-BTP quy định chi tiết thi hành

một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định chi

tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch, Hà Nội.

5. Chính phủ (1998), Nghị đinh 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của

Chính phủ về đăng ký hộ tịch, Hà Nội.

6. Chính phủ (2005), Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của

Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch, Hà Nội.

7. Chính phủ (2015), Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số

điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch, Hà Nội.

8. Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực (2015), Nội dung cơ bản của đề án

cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc, Hà Nội.

9. Cục pháp chế và cải cách hành chính tƣ pháp (2015), Vấn đề cấp số định

danh cá nhân cho trẻ em khi đăng ký khai sinh trong nghị định quy định

chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật căn cước công dân, Bộ

Công an, Hà Nội.

10. Cục thống kê thành phố Hà Nội (2013), Bảng thống kê dân số và lao

động, Hà Nội.

11. Phạm Trọng Cƣờng (2004), Về quản lý hộ tịch, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

94

12. Phạm Trọng Cƣờng (2003), Quản lý nhà nước về hộ tịch - Lý luận, thực trạng và phương hướng đổi mới, Luận văn thạc sĩ luật, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

13. Nguy n Quốc Cƣờng, Lƣơng Thị Lanh, Trần Thị Thu Hằng… (2006),

Hướng dẫn đăng ký và quản lý hộ tịch, Nxb Tƣ pháp.

14. Nguy n Văn Đạm (1999), Từ điển tường giải và liên tưởng tiếng Việt,

Nxb Văn hoá TT, Hà Nội.

15. Nguy n Hữu Đính (2008), Công tác tư pháp - hộ tịch ở cấp xã: những vấn đề lý luận và thực tiễn ở tỉnh Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ Luật, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

16. Trần Thị Lệ Hoa (2013), “Thực trạng đội ngũ công chức Tƣ pháp - Hộ tịch và yêu cầu chuẩn hóa”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, (Chuyên đề pháp luật về hộ tịch năm 2013), Bộ Tƣ pháp.

17. Phạm Hồng Hoàn (2011), Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã, huyện Đan Phượng, Luận văn thạc sĩ hành chính công; Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch và đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hộ tịch ở huyện Đan Phượng.

18. Bửu Kế (1999), Từ điển Hán - Việt từ nguyên, Nxb Thuận Hoá, Thành

phố Hồ Chí Minh.

19. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2007), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

20. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Giáo trình Luật Hành

chính Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

21. Nguy n Văn Khôn (1960), Hán - Việt từ điển, Nhà sách Khai trí, Sài Gòn.

22. Nguy n Lân (1989), Từ điển từ và ngữ Hán Việt, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

23. Trần Thúc Linh (1965), Danh từ pháp luật lược giải, Nhà sách Khai trí,

Sài Gòn.

24. Vũ Văn Mẫu, Lê Đình Chân (1968), Danh từ và tài liệu Dân luật và

Hiến luật, Tủ sách ĐH Sài Gòn.

95

25. Nhà xuất bản Lao Động (2008), Sách Quy định mới hướng dẫn đăng ký

và quản lý hộ tịch, Nxb Lao Động, Hà Nội.

26. Hoàng Phê (chủ biên) (1998), Từ điển tiếng Việt, in lần thứ năm, Nxb Đà Nẵng.

27. Quận Long Biên (2016), Báo cáo tư pháp 6 tháng đầu năm 2016, Hà Nội.

28. Quận Long Biên (2015), Báo cáo tư pháp, Hà Nội.

29. Quận Long Biên (2014), Báo cáo tư pháp, Hà Nội.

30. Quận Long Biên (2013), Báo cáo tư pháp, Hà Nội.

31. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.

32. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

33. Quốc hội (2014), Luật Hộ tịch, Hà Nội

34. Quốc hội (1995), Bộ Luật dân sự, Hà Nội

35. Quốc hội (2015), Bộ Luật dân sự, Hà Nội

36. Phan Văn Thiết (1958), Hộ tịch chỉ nam, Tủ sách phổ thông, in lần thứ

nhất, Sài Gòn.

37. Hoàng Thúc Trâm (1974), Hán - Việt tân từ điển, Tân Sanh ấn quán, Sài Gòn.

38. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình lý luận nhà nước và

pháp luật, Nxb công an nhân dân, Hà Nội.

39. Đinh Trung Tụng (2013), “Quan điểm chỉ đạo, định hƣớng xây dựng dự án luật hộ tịch”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, (Chuyên đề pháp luật về hộ tịch), Bộ Tƣ pháp.

40. B i Thị Tƣ (2014), Quản lý hộ tịch - Qua thực tiễn ở Hải Phòng, Luận

văn thạc sĩ luật, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

41. Viện nghiên cứu lập pháp (2013), Thông tin chuyên đề: Một số vấn đề lý luận và so sánh pháp luật về hộ tịch, Trung tâm thông tin khoa học, Ủy ban thƣờng vụ quốc hội.

42. Vụ phổ biến giáo dục pháp luật, Cục hộ tịch, quốc tịch (2014), Đề cương

giới thiệu Luật hộ tịch, Bộ Tƣ pháp.

43. Nguy n Nhƣ Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá - Thông tin.

96

Tài liệu Trang web:

44. http://longbien.gov.vn/longbien/web/default.html.

45. http://www.moj.gov.vn/Pages/home.aspx.

46. http://thongkehanoi.gov.vn/.

47. http://beta.longbien.gov.vn/web/phuong-ngoc-thuy.

97