VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ TUẤN

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CÔNG DÂN TỪ THỰC

TIỄN TỈNH THANH HÓA

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hànhchính

Mã số: 8.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS ĐỖ THỊ KIM ĐỊNH

HÀ NỘI, 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết

quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo chính xác, tin cậy và

trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các

nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Thị Tuấn

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 6

1.Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... 6

2.Tình hình nghiên cứu đề tài................................................................................. 10

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 12

3.1. Mục đích nghiên cứu......................................................................................12

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................................12

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 12

4.1. Đối tượng nghiên cứu....................................................................................12

4.2. Phạm vi nghiên cứu........................................................................................12

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .................................................. 13

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn .......................................................... 13

6.1. Ý nghĩa của luận văn......................................................................................13

6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn.......................................................................13

7. Cơ cấu của luận văn ........................................................................................... 14

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

VỀ TIẾP CÔNG DÂN........................................................................................15

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp luật về tiếp công dân ........ 15

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản:............................................................................15

- Tiếp công dân......................................................................................................15

- Thực hiện pháp luật về tiếp công dân.................................................................16

1.1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về tiếp công dân...................................18

1.1.3. Vai trò của thực hiện pháp luật về tiếp công dân.......................................20

1.2. Hình thức, nội dung của thực hiện pháp luật về tiếp công dân ..................... 22

1.2.1. Hình thức của thực hiện pháp luật về tiếp công dân..................................22

1.2.2. Nội dung của thực hiện pháp luật về tiếp công dân....................................23

1.3. Điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về tiếp công dân .............................. 27

Kết luận chương 1 ................................................................................................. 32

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CÔNG

DÂN TẠI TỈNH THANH HÓA ......................................................................... 33

2.1. Thực trạng quy định pháp luật về tiếp công dân ........................................... 33

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về tiếp công dân tại tỉnh Thanh Hóa ............. 44

2.3 Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về tiếp công dân tại tỉnh Thanh Hóa 50

2.3.1 Những thành tựu:.........................................................................................50

2.3.2. Hạn chế, nguyên nhân của hạn chế............................................................53

Kết luận chương 2 ................................................................................................. 62

CHƯƠNG III: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN

PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CÔNG DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA.

3.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về tiếp công dân ............................ 63

3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về tiếp công dân ....................... 65

Kết luận chương 3 ................................................................................................. 74

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 76

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

HĐND: Hội đồng nhân dân

UBND: Ủy ban nhân dân

XHCN: Xã hội chủ nghĩa

HCNN: Hành chính nhà nước

KN: Khiếu nại

TC: Tố cáo

PAKN: Phản ánh, kiến nghị

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta có

những chuyển biến tích cực trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá,

an ninh, quốc phòng, y tế, giáo dục. Đặc biệt là đời sống vật chất tinh thần của

nhân dân ngày càng được nâng cao; quyền dân chủ của nhân dân ngày càng

được phát huy. Việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là

một trong những nhiệm vụ quan trọng của cơ quan hành chính Nhà nước, thể

hiện đúng theo tinh thần của các bản Hiến pháp, đặc biệt là Hiến pháp 2013, tôn

trọng nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đây chính là một trong

những việc làm thiết thực để thể hiện và xây dựng niềm tin của nhân dân với

Đảng và Nhà nước. Thông qua việc tiếp công dân, cơ quan Nhà nước sẽ thu thập

được những thông tin cần thiết hiểu được tâm tư nguyện vọng của công dân.

Ngay từ những ngày đầu xây dựng nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,

Đảng và nhà nước đã đặc biệt quan tâm đến việc thực hiện các quyền tự do, dân

chủ của công dân, trong đó có quyền khiếu nại, tố cáo. Cụ thể như chúng ta đã

biết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 64-SL thành lập Ban Thanh tra đặc

biệt, trong đó, sắc lệnh đã quy định, nhiệm vụ của Ban Thanh tra đặc biệt là tiếp

nhận các đơn khiếu nại của nhân dân. Đây là văn bản pháp lý cụ thể hóa quyền

khiếu nại, tố cáo của công dân đối với quyết định hành chính, hành vi hành

chính của cán bộ nhà nước, của cơ quan nhà nước và thể hiện vai trò làm chủ

của công dân ngay từ những bước đầu xây dựng nhà nước. Đặc biệt, để công dân

thực hiện được các quyền nêu trên, tiếp công dân cũng là một khâu vô cùng

quan trọng. Ngoài ban hành các văn bản cụ thể hóa các quyền cơ bản của công

dân, thì nhà nước ra đã ban hành nhiều các văn bản luật, dưới luật về tiếp công

dân. Đây là khâu quan trọng bởi nó là bước tiếp nhận những tâm tư, nguyện

vọng, vướng mắc của công dân để truyền tải những nội dung đó đến các cơ quan

có thẩm quyền giải quyết hoặc hướng dẫn công dân đến đúng nơi có thẩm quyền

giải quyết.

Tại Hội nghị cán bộ Thanh tra toàn miền Bắc năm 1957, Chủ tịch Hồ Chí

6

Minh huấn thị: “Về công tác xét và giải quyết các việc khiếu nại, tố giác, nhiệm

vụ của các Ban Thanh tra là phải làm cho nghiêm chỉnh, kịp thời, làm sớm

chừng nào hay chừng ấy. Đồng bào có oan ức mới khiếu nại, hoặc chưa hiểu rõ

chính sách của Đảng và Chính phủ mà khiếu nại. Ta giải quyết nhanh, tốt chừng

nào thì đồng bào thấy rõ Đảng và Chính phủ quan tâm đến quyền lợi của họ, do

đó mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ cũng được củng cố tốt

hơn” [3].

Ngày 07/8/1997 Chính phủ ban hành Nghị định số 89/CP về ban hành quy

chế tiếp công dân đã nêu rõ các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm tiếp công dân

đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh.

Ngày 06/3/2012 Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 09/CT-TW về một số vấn đề

cấp bách cần thực hiện trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo

trong đó quy định “các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp phải quan tâm

đến việc tiếp dân, giải quyết đúng đắn, kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân,

phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ cương, ngăn ngừa, khắc phục tình

trạng công dân khiếu tố vượt cấp...”

Luật tiếp công dân 2013 là văn bản luật đầu tiên quy định cụ thể về việc

tiếp công dân. Để làm rõ hơn quy định của pháp luật này, Chính phủ ban hành

Nghị định số 64/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật

tiếp công dân năm 2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư số

06/2014/TT-TTCP ngày 31 tháng 10 năm 2014 quy định về quy trình tiếp công

dân.

Pháp luật về tiếp công dân hiện hành chủ yếu quy định về trách nhiệm tiếp

công dân; quyền và nghĩa vụ của người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản

ánh; quy định về tiếp công dân tại các cơ quan thuộc Chính phủ, đơn vị sự

nghiệp công lập; nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các Ban Tiếp công

dân, việc bố trí cơ sở vật chất của Trụ sở tiếp công dân; quy chế phối hợp hoạt

động tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân; việc bố trí cơ sở vật chất của địa

điểm tiếp công dân; các điều kiện bảo đảm cho hoạt động tiếp công dân; việc

tiếp công dân được tiến hành tại nơi tiếp công dân của cơ quan, tổ chức, đơn vị;

7

việc tiếp công dân phải bảo đảm công khai, dân chủ, kịp thời; thủ tục đơn giản,

thuận tiện; giữ bí mật và bảo đảm an toàn cho người tố cáo theo quy định của

pháp luật; bảo đảm khách quan, bình đẳng, không phân biệt đối xử trong khi tiếp

công dân; tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện việc khiếu

nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo quy định của pháp luật

Như vậy, những quy định của pháp luật về công tác tiếp công dân ngày

càng đầy đủ, hoàn thiện, các quy định này đóng vai trò rất quan trọng, là cơ sở

pháp lý giúp công dân thực hiện được các quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,

phản ánh của mình, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước,

người có thẩm quyền trong hoạt động tiếp công dân, giải quyết các khiếu nại, tố

cáo, phản ánh, kiến nghị chính đáng của người dân.

Tuy nhiên, tình hình khiếu nại, tố cáo đông người, vượt cấp, kéo dài diễn ra

ngày càng nhiều, phức tạp, đa dạng. Tại Trụ sở tiếp công dân trên cả nước

thường xuyên có các đoàn khiếu nại, tố cáo phức tạp, đông người, vượt cấp, kéo

dài diễn ra ngày càng gia tăng. Hơn nữa, khi xảy ra các vụ khiếu nại, tố cáo phức

tạp, đông người, vượt cấp, kéo dài thì hầu hết các cơ quan, tổ chức, cá nhân

thuộc thẩm quyền đều không đưa ra được giải pháp cụ thể để giải quyết dứt

điểm các vụ việc này.

Thanh Hóa là một tỉnh lớn về cả diện tích và dân số, đứng thứ 5 về diện

tích và thứ 3 về dân số trong số các đơn vị hành chính tỉnh trực thuộc nhà nước,

cũng là một trong những địa điểm sinh sống đầu tiên của người Việt cổ. Trong

những năm qua được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, Thanh Hóa đã nỗ lực

cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tăng cường xúc tiến đầu tư, thu hút

nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho

người dân, thu hút trên hàng chục dự án lớn, nhỏ vào tỉnh, đặc biệt là việc đầu tư

nâng cấp các tuyến đường giao thông như: cao tốc Ninh Bình – Thanh Hóa,

Đường giao thông nối TP Sầm Sơn với Khu Kinh tế Nghi Sơn (KKTNS) giai

đoạn 1; Đại lộ Đông Tây TP Thanh Hóa, Đường nối TP Thanh Hóa đi CHK Thọ

Xuân, đường giao thông nối TP Sầm Sơn với KKTNS (giai đoạn 1) với tổng

mức đầu tư 1.479,704 tỷ đồng và nhiều dự án khác...Công tác giải phóng mặt

8

bằng thực hiện quy mô lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người dân,

mặt khác các chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước chưa được

tuyên truyền sâu rộng, công khai, minh bạch, nhận thức của một bộ phận người

dân còn hạn chế. Đây là các yếu tố chủ yếu tác động trực tiếp đến việc thực hiện

pháp luật về tiếp công dân. Song với sự quyết tâm, chỉ đạo kịp thời của Đảng,

Nhà nước, các cấp, các ngành tại tỉnh Thanh Hóa việc thực hiện pháp luật về

tiếp công dân đã có những chuyển biến tích cực, đạt được nhiều kết quả quan

trọng, góp phần ổn định tình hình an ninh, chính trị, kinh tế - xã hội trên địa bàn.

Tuy nhiên, cùng với những thành tựu to lớn đã đạt được thì tình hình thực

hiện pháp luật về tiếp công dân tại tỉnh Thanh Hóa còn một số hạn chế như sau:

Thứ nhất, nhận thức về các quy định pháp luật của người dân về đất đai, về

giải phóng mặt bằng không cao. Cụ thể tại Thành phố Sầm Sơn tỉnh Thanh Hóa,

người dân chủ yếu sinh sống bằng nghề đi biển, trình độ học vấn của mặt bằng

chung người dân nơi đây chưa cao khiến cho việc cán bộ, cơ quan nhà nước

tuyên truyền, vận động các chính sách pháp luật liên quan đến thu hồi đất, bồi

thường giải phóng mặt bằng khó khăn, người dân không hiểu các quy định của

pháp luật, họ nghĩ mình bị nhà nước cướp đất và đền bù không thỏa đáng, người

dân có những hành động gây cản trở, gây khó khăn cho cán bộ trong công tác

tuyên truyền các quy định của pháp luật, lôi kéo nhóm, tụ tập và chống đối cơ

quan nhà nước.

Thứ hai, vẫn còn một số các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước

chưa nhận thức đúng về trách nhiệm, vai trò của mình trong công tác tiếp công dân,

coi nhẹ các đề nghị của công dân, tình trạng đùn đẩy, né tránh vẫn xảy ra. Thực

chất, ngoài những trường hợp công dân nhận thức được hành vi của mình nhưng vì

ham lợi hay vì những lý do cá nhân không chính đáng vẫn cố tình khiếu nại, cố tình

làm đơn thư đến các cơ quan nhà nước thì bộ phận người dân có đơn thư và các đề

nghị khác đều là do họ chưa hiểu rõ quy định của pháp luật, họ không biết được

mình liệu có bị thiệt thòi, có bị ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp hay

không, họ cần cơ quan có thẩm quyền giải thích một cách rõ ràng, triệt để. Tuy

nhiên, có những cán bộ coi nhẹ những yêu cầu đó của công dân dẫn đến đơn thư

9

kéo dài và đơn thư lên các cấp ngành cao hơn, đơn thư ùn tắc không được giải

quyết.

Bản thân hiện đang trực tiếp làm công tác tiếp công dân, theo đó với mong

muốn đóng góp ý kiến, quan điểm cá nhân của mình góp phần khắc phục những

hạn chế, khó khăn trong công tác tiếp công dân trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa hiện

nay, học viên xin chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn

tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài luận văn thạc sỹ Luật học chuyên ngành Luật Hiến

pháp và luật Hành chính của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu thực hiện pháp luật về tiếp công

dân được nhiều tác giả quan tâm và tìm hiểu. Hiện nay, đề tài được nói nhiều trong

các công trình nghiên cứu khoa học, bài viết, tham luận, hội thảo và các luận án,

cụ thể:

- Cuốn sách: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tiếp công dân và giải quyết

khiếu nại, tố cáo của Ts. Bùi Mạnh Cường và TS.Nguyễn Thị Tố Uyên sưu tầm và

tuyển chọn, Nxb Chính trị quốc gia, 2013; Cuốn sách bao gồm các bài viết, bài nói

của Chủ tịch Hồ Chí Minh được sắp xếp theo trình tự thời gian về công tác tiếp

công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo;

- Công trình của TS. Nguyễn Tuấn Khanh (2015) “Trách nhiệm của

chính quyền cơ sở trong tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng,

chống tham nhũng, lãng phí” Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà

Nội. Cuốn sách tập trung vào những vấn đề lý luận, luận giải từ góc độ khoa

học và thực tiễn quy định pháp luật về tiếp công dân, giải quyết KN, TC và

phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Sách cũng hệ thống hóa quy định pháp

luật, cơ sở xác định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị nói chung

và của chính quyền cơ sở nói riêng trong lĩnh vực TCD, giải quyết KN, TC và

phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

- Tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tình hình

mới, Thanh tra Chính phủ, Nxb Hà Nội, 2006. Cuốn sách trình bày một số vấn đề

đặt ra đối với công tác tiếp dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong

10

tình hình mới; Kinh nghiệm thực tiễn của các ngành, các địa phương trongcông tác

giải quyết khiếu nại, tố cáo;

- Về các đề tài khoa học của Thanh tra Chính phủ có:

+ Báo cáo tổng thuật (2007) “Ứng dụng công nghệ thông tin để đổi mới

công tác tiếp công dân” của Bùi Mạnh Cường, Phó giám đốc trung tâm Tin học,

Thanh tra Chính phủ. Đề tài nghiên cứu lý luận và thực tiễn về việc ứng dụng

công nghệ thông tin trong hành chính nhà nước nói chung và trong hoạt động

tiếp công dân nói riêng trên phạm vi cả nước. Đây là một trong những giải pháp

quan trọng để đổi mới công tác tiếp công dân và nâng cao hiệu quả tiếp công

dân.

+ Báo cáo tổng thuật, Báo cáo tóm tắt và Tập hợp các chuyên đề (2008)

“Xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng của Trường Cán bộ Thanh tra về

nghiệp vụ tiếp công dân” của Nguyễn Huy Hoàng, Trưởng Khoa giáo viên,

Trường Cán bộ Thanh tra. Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu dưới góc độ lý

luận về chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ tiếp công dân. Đây là một

giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân.

+ Báo cáo tổng thuật (2012) “Thực trạng và giải pháp nâng cao kỹ năng

giao tiếp trong tiếp dân” của Trần Thị Thanh Hà, Trường Cán bộ Thanh tra. Đề

tài nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực trạng kỹ năng định hướng, kỹ năng định

vị và kỹ năng điều khiển, điều chỉnh trong giao tiếp tiếp dân của cán bộ tiếp dân.

Từ đó, đề xuất biện pháp rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho cán bộ tiếp dân nhằm

góp phần nâng cao hiệu quả công tác của họ. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là

các Trụ sở TCD của một số tỉnh, thành phố trên cả nước.

Các bài viết trong thời gian qua đã có những đóng góp đáng kể, vấn đề về tiếp

công dân được các tác giả triển khai với nội dung phong phú đa dạng. Mặc dù đề

đề cập đến vấn đề tiếp công dân nhưng lại đề cập đến các vấn đề chung mà chưa

có công trình hay bài viết nào nghiên cứu cụ thể và trực tiếp đến vấn đề thực hiện

pháp luật về tiếp công dân, đặc biệt từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa. Chính vì vậy, trên

cơ sở kế thừa các kết quả của các công trình nghiên cứu liên quan, tác giả chọn đề

tài “Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” là vấn đề cần

11

được nghiên cứu.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Làm rõ thêm những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật tiếp công dân trong

các cơ quan nhà nước nói chung và các cấp nói riêng từ đó làm rõ thực trạng tiếp

công dân trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, để đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường

và nâng cao chất lượng tiếp công dân trong các cơ quan nhà nước nói chung, trên

địa bàn tỉnh Thanh Hóa nói riêng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn có các nhiệm vụ sau:

- Phân tích, làm rõ khái niệm, ý nghĩa, mục đích, đặc điểm của hoạt động

tiếp công dân nói chung và hoạt động tiếp công dân của tỉnh Thanh Hóa nói

riêng.

- Làm rõ những đặc thù và thực tiễn hoạt động tiếp công dân của UBND

các cấp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, đánh giá đúng đắn những kết quả đạt được,

những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế.

- Đưa ra quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp Luật tiếp công

dân của UBND các cấp trên địa bàn tỉnh từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật tiếp công

dân của UBND tỉnh Thanh Hóa.

4.2 Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân trên

địa bàn tỉnh Thanh Hóa, cụ thể là tại UBND tỉnh Thanh Hóa, UBND các huyện,

các xã thuộc tỉnh Thanh Hóa gắn liền với việc thực hiện chức năng quản lý nhà

nước của các cấp chính quyền địa phương trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm

2020.

Việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân được nghiên cứu trong luận văn

này được giới hạn trong việc tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản

12

ánh với UBND tỉnh, UBND cấp huyện trong việc thực hiện chính sách, pháp luật

của Đảng, Nhà nước ở tỉnh Thanh Hóa.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1 Phương pháp luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng

và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác- Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,

đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về tổ chức và pháp luật tiếp công

dân nói chung; công tác tiếp công dân của UBND cấp tỉnh, cấp huyện nói riêng.

5.2 Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn sử dụng các phương pháp như sau:

Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng hầu hết

trong toàn bộ các chương của luận văn và tập trung nhất trong chương 1.

Phương pháp so sánh, liệt kê: phương pháp này được sử dụng trong chương 2

để sử dụng làm sáng tỏ sự khác biệt của vấn đề từ đó rút ra được những ưu điểm,

hạn chế trong việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân.

Phương pháp phân tích vụ việc điển hình: Được sử dụng thông qua việc đưa

ra các nội dung trên thực tế minh chứng cho việc áp dụng thực hiện pháp luật về

tiếp công dân.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1 Ý nghĩa lý luận của luận văn

Kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận trong việc thực

hiện pháp luật về tiếp công dân, đánh giá thực trạng về thực hiện pháp luật tiếp

công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa, từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp có

tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tiếp công dân ở nước

ta hiện nay.

6.2 Ý nghĩa thực tiễn của luận văn

Các phương hướng, giải pháp được đề ra trong luận văn sẽ là cơ sở, là tư liệu

tham khảo cho các nhà nghiên cứu trong việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tiếp

công dân cũng như nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân cả nước nói chung và

tại tỉnh Thanh Hóa nói riêng.

13

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn

gồm 03 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản của thực hiện pháp luật về tiếp

công dân

Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ

thực tiễn tỉnh Thanh Hóa

Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về tiếp công

dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa.

14

CHƯƠNG I

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA THỰC HIỆN PHÁP

LUẬT VỀ TIẾP CÔNG DÂN

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp luật về tiếp công dân

1.1.1 Một số khái niệm cơ bản

1.1.1.1. Khái niệm tiếp công dân

Tiếp công dân là công tác quan trọng trong các hoạt động của Đảng, Nhà

nước và các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta. Tiếp công dân

còn là một thuật ngữ được nghe hàng ngày, thường xuyên và xuất hiện trong các

văn bản quy phạm pháp luật; là hoạt động thể hiện việc cán bộ, công chức có

thẩm quyền trong cơ quan nhà nước gặp trực tiếp công dân để lắng nghe, trao

đổi, hướng dẫn, giải thích, vận động, thuyết phục công dân thực hiện đúng

đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tiếp nhận đơn khiếu

nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân, các thông tin kịp thời phản ánh về

quá trình thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật

của Nhà nước. Trên cơ sở đó các cơ quan nhà nước bổ sung, điều chỉnh kịp thời

cho phù hợp với thực tế của đất nước.

Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: “giữ chặt mối quan hệ với

dân chúng, lắng tai nghe ý kiến của dân chúng đó là nền tảng lực lượng của

Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi. Vì vậy xa cách dân chúng, không liên hệ

chặt chẽ với dân chúng cũng như đứng lơ lửng giữa trời nhất định sẽ thất

bại”[3]. Cơ quan nhà nước phải tiếp dân mới thể hiện rõ Đảng và nhà nước luôn

giữ vững mối liên hệ với dân, luôn lắng nghe, chăm lo đến cuộc sống của người

dân có như vậy Nhân dân mới có niềm tin vào chính quyền.Thông qua hoạt

động tiếp công dân, các cơ quan nhà nước tiếp nhận các kiến nghị, phản

ánh, đánh giá tính khả thi của các chính sách, hiệu quả quản lý nhà nước. Các

chính sách cũng như hoạt động quản lý nhà nước trên thực tế sẽ ảnh hưởng trực

tiếp đến cuộc sống của nhân dân, vì vậy cần có các kiến nghị, phản ánh của

người dân. Trên cơ sở các thông tin thu được qua việc tiếp công dân các nhà

hoạch định chính sách sẽ xem việc tồn tại chính sách có hợp lý hay không, để

15

kịp thời bãi bỏ, điều chỉnh bổ sung chính sách. Tiếp công dân, giải quyết khiếu

nại, tố cáo là một phương thức thể hiện quyền dân chủ của Nhân dân và là

phương thức để Nhân dân tham gia giám sát đối với bộ máy nhà nước và cán bộ,

công chức. Làm tốt công tác tiếp dân tạo điều kiện cho Nhân dân thực hiện

quyền tự do, dân chủ tạo nên một xã hội hài hòa, ổn định. Khi người dân cho

rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm mới đến cơ quan nhà

nước để khiếu nại, tố cáo nếu cơ quan nhà nước không tiếp dân để giải quyết kịp

thời sẽ tạo nên bức xúc của công dân với cơ quan nhà nước, lâu dần sẽ phát sinh

các vấn đề lớn về mặt xã hội.

Khái niệm tiếp công dân có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên

đến năm 2013, khi Quốc hội Khóa XIII thông qua Luật tiếp công dân thì lần đầu

tiên khái niệm này mới được quy định trong luật. Tại khoản 1, Điều 2 Luật tiếp

công dân năm 2013 quy định: tiếp công dân là việc chủ thể có thẩm quyền theo

quy định pháp luật thực hiện công tác đón tiếp để lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại,

tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân, đồng thời có trách nhiệm giải thích,

hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh

theo đúng quy định của pháp luật. Các tổ chức, cơ quan thực hiện việc tiếp công

dân bao gồm: Chính phủ; Bộ, cơ quan ngang bộ; tổng cục và tổ chức tương

đương; cục; Ủy ban nhân dân các cấp; Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân

dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban

nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Các cơ quan của Quốc hội;

Hội đồng nhân dân các cấp; Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm

toán nhà nước.

1.1.1.2 Khái niệm thực hiện pháp luật về tiếp công dân

Trong các giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, các giáo trình của

các môn khoa học pháp lý chuyên ngành, thì thực hiện pháp luật được xem là

một trong những “hình thức để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà

nước” (nhà nước tổ chức để pháp luật được thực hiện trong thực tế, làm cho

những yêu cầu, quy định của pháp luật trở thành hiện thực); là “hành vi hợp

pháp của các chủ thể pháp luật” (là hành động hoặc không hành động của các cá

16

nhân, tổ chức được thực hiện phù hợp với các quy định của pháp luật, không trái

luật, không vượt quá phạm vi các quy định của pháp luật); là “giai đoạn không

thể thiếu và vô cùng quan trọng của cơ chế điều chỉnh pháp luật” (nhằm đạt

được những mục đích xã hội và làm rõ những hạn chế, bất cập của hệ thống

pháp luật thực định, để từ đó có thể đưa ra những giải pháp hữu hiệu cho việc

sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành và cơ chế đưa pháp

luật vào cuộc sống).

Trong một số công trình nghiên cứu khác như “Những vấn đề lý luận cơ

bản về nhà nước và pháp luật” của Viện Nghiên cứu nhà nước và pháp luật do

NXB Chính trị Quốc gia ấn hành năm 1995 và tác phẩm “Những vấn đề lý luận

cơ bản về pháp luật” của tiến sĩ Đào Trí Úc, NXB Khoa học xã hội ấn hành năm

1993 đều khẳng định: Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện

thực hóa các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành

những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật.

Còn theo quan điểm của Trường Đại học Luật Hà Nội cho rằng: “Thực

hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hoá các quy định của

pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp

pháp của các chủ thể pháp luật” [17].

Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội có quan điểm cho rằng: “Thực hiện

pháp luật là hiện tượng, quá trình có mục đích làm cho những quy định pháp

luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật”.

Từ những quan điểm nêu trên, tác giả nhận thấy pháp luật có vai trò rất

quan trọng trên tất cả lĩnh vực trong đời sống xã hội và được thực thi khi mọi

chủ thể tuân thủ, chấp hành đúng quy định của pháp luật.

Từ khái niệm thực hiện pháp luật cũng như khái niệm và các đặc điểm của

tiếp công dân như đã nêu trên làm cơ sở để tác giả nghiên cứu khái niệm thực

hiện pháp luật về tiếp công dân như sau:

Thực hiện pháp luật về tiếp công dân là tổng thể các hoạt động có mục

đích, có chủ định của các cơ quan Nhà nước, các cá nhân, tổ chức, nhằm làm

cho các quy phạm pháp luật về tiếp công dân được thực hiện trong thực tế, đảm

17

bảo cho các cá nhân có thẩm quyền lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến

nghị, phản ánh của công dân; giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực

hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp luật,

giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân, bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của công dân.

1.1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật tiếp công dân

Thực hiện pháp luật về tiếp công dân có các đặc điểm sau:

Thứ nhất, Chủ thể thực hiện pháp luật về tiếp công dân theo quy định tại Điều

4, Luật tiếp công dân quy định các cơ quan, tổ chức, cá nhân trách nhiệm tiếp

công dân bao gồm: Chính phủ; Bộ, cơ quan ngang bộ; tổng cục và tổ chức tương

đương; cục; Ủy ban nhân dân các cấp; Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân

dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban

nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Các cơ quan của Quốc hội;

Hội đồng nhân dân các cấp; Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm

toán nhà nước; Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Đối với

các cơ quan, tổ chức: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã

hội, cơ quan thuộc Chính phủ, đơn vị sự nghiệp công lập tổ chức việc tiếp công

dân phù hợp với yêu cầu, quy mô, tính chất hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn

vị mình. Xuấy phát từ vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ, địa giới hành chính

của các cơ quan mà phân các cấp tiếp công dân cho từng cơ quan, đơn vị khác

nhau, tránh sự nhầm lẫn, đùn đẩy lẫn nhau trong thực hiện pháp luật về công tác

tiếp công dân. Việc tiếp công dân đúng thẩm quyền, đúng chức năng nhiệm vụ

có vị trí hết sức quan trọng trong việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân nhằm

đảm bảo thực hiện các tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của người dân một cách

nhanh chóng và đạt hiệu quả.

Thứ hai, thực hiện pháp luật về tiếp công dân là hoạt động đa dạng, phong

phú. Trong quản lý nhà nước, việc tiếp xúc giữa cơ quan quản lý với người dân

được chia như sau: Một là, trong việc thực hiện các thủ tục hành chính trên cơ sở

các quy định về thủ tục hành chính trong từng lĩnh vực, khi công dân đáp ứng đầy

đủ các yêu cầu liên quan đến hồ sơ, thủ tục thì nhà nước có nghĩa vụ thực hiện để

18

giải quyết một công việc cụ thể cho công dân. Hai là, các cơ quan quản lý tiếp xúc

với người dân để tiếp nhận, giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh

được được người dân phản ánh theo từng nội dung vụ việc, cụ thể:

- Tiếp công dân đến khiếu nại theo quy định tại Luật khiếu nại 2011 thì công

dân theo thủ tục do Luật KN quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm

quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành

chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước.

Căn cứ vào Luật KN, các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn

việc thực hiện quyền khiếu nại của công dân và giải quyết khiếu nại trong cơ

quan, tổ chức mình.

- Tiếp công dân đến tố cáo theo quy định tại Luật Tố cáo năm thì công dân

theo thủ tục quy định của Luật Tố cáo báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có

thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ,

công vụ; Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh

vực của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt

hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá

nhân [8]. Việc tiếp nhận và giải quyết tố cáo của công dân được thực hiện theo

quy định của Luật Tố cáo năm 2018 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Tố

cáo

- Tiếp công dân đến phản ánh, kiến nghị theo Điều 2, Luật Tiếp công dân

năm 2013 thì việc kiến nghị, phản ánh của công dân chính là việc công dân trình

bày nguyện vọng, tâm tư của mình hoặc phản ánh những vấn đề có liên quan

đến việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, công tác quản lý

trong các lĩnh vực đời sống xã hội, nội dung kiến nghị, phản ánh của công dân

đa dạng về các lĩnh vực.

Hiện nay các quy định về phản ánh, kiến nghị của công dân nằm rải rác

trong một số văn bản như Luật Tiếp công dân năm 2013, Thông tư 06/2014/TT-

TTCP quy định tiếp công dân và Thông tư 07/2014 của Thanh tra Chính phủ

quy định về quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, phản ánh kiến nghị, các

quy định này chỉ dừng lại ở khâu tiếp nhận, xử lý đơn phản ánh, kiến nghị, chưa

19

có quy định về thẩm quyền,trình tự, thủ tục giải quyết phía sau cho đơn PAKN.

Mặt khác, do thiếu quy định về thẩm quyền, trình tự thủ tục để giải quyết

PAKN, nhiều cơ quan và cán bộ, công chức đã bỏ qua hoặc đã linh hoạt vận

dụng các quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo để giải quyết PAKN.

Thứ ba, tiếp công dân là hoạt động có mục đích thể hiện bản chất của nhà

nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Tiếp công dân là cụ thể hóa quyền tham gia quản lý xã hội, quản lý nhà nước,

tham gia vào các vấn đề chung của Nhà nước và xã hội của công dân, là hoạt động

thực hiện quyền dân chủ của công dân, là sự cụ thể hóa phương châm “dân biết,

dân làm, dân bàn, dân kiểm tra”, phát huy vai trò to lớn của nhân dân trong việc

bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền tự do, dân

chủ, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, giảm bức xúc, xung đột trong xã hội,

tạo lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước.

Thứ tư, trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị là địa điểm thực hiện

pháp luật về tiếp công dân và có trách nhiệm tổ chức thực hiện tiếp công dân

theo quy định pháp luật; đồng thời, tạo mọi điều kiện thuận lợi khi công dân đến

liên hệ và đảm bảo các điều kiện cơ sở vật chất khác nhằm phục vụ hiệu quả

hoạt động tiếp công dân.

Thứ năm, Tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền

khiếu nại, tố cáo, kiến nghị phản ánh của mình theo đúng quy định của pháp

luật.

Việc tiếp công dân phải đảm bảo an toàn, khách quan, bình đẳng, kịp thời,

không phân biệt đối xử trong khi tiếp công dân.

Thứ sáu, kết quả thực hiện pháp luật về tiếp công dân là việc ban hành

những văn bản hành chính cá biệt theo quy định, tùy theo tính chất, nội dung,

mức độ của từng vụ việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh cụ thể của công

dân để ban hành một trong các loại văn bản như sau: phiếu chuyển, phiếu hẹn,

phiếu đề xuất, hướng dẫn, công văn, báo cáo, thông báo, kết luận...

1.1.3. Vai trò của thực hiện pháp luật về tiếp công dân

20

Để hướng đến một Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa, một xã hội

công bằng dân chủ văn minh, một nền kinh tế minh bạch, thì công tác tiếp dân,

giải quyết khiếu nại, tố cáo có nhiệm vụ, vai trò chính trị cực kỳ quan trọng. Do

đó ngày 26-5-2014 Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW về tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo nâng

cao nhận thức và trách nhiệm của cả hệ thống chính trị về vấn đề này. Hiến pháp

2013 một lần nữa tiếp tục ghi nhận và khẳng định nội dung này. Cụ thể tại điều

2 Hiến pháp 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân

dân. Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; Tất

cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa

giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức” [15].

Thực hiện pháp luật về tiếp công dân là trách nhiệm của các cơ quan Nhà

nước, tổ chức chính trị xã hội. Nhà nước cần bảo đảm và phát huy mọi mặt

quyền làm chủ của nhân dân, nghiêm trị mọi hành vi xâm phạm lợi ích Tổ quốc

và nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi

người có cuộc sống no ấm, hạnh phúc, tự do có điều kiện phát triển.

Quá trình thực hiện pháp luật về tiếp công dân nhằm mục đích tiếp nhận

các thông tin, kiến nghị, phản ánh, góp ý những vấn đề liên quan đến chủ

trương, đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, công tác

quản lý của cơ quan, đơn vị. Việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân sẽ giúp

cho công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan, tổ chức, đơn vị được

tiến hành một cách hiệu quả. Bởi vì, tiếp công dân là điểm khởi đầu, là một

trong những khâu quan trọng của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, đồng thời

hướng dẫn công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đúng quy định pháp luật,

đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết, khắc phục những hạn chế bất cập trong

việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân. Qua đó có thể thực hiện

tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật của người dân, đặc biệt là

pháp luật về khiếu nại, tố cáo cũng như quy định của pháp luật nói chung, để

21

người dân hiểu rõ hơn về quyền và lợi ích hợp pháp của mình, làm cơ sở để thực

hiện quyền khiếu nại, tố cáo một cách đúng hướng và có căn cứ.

Thực hiện pháp luật về tiếp công dân là cơ sở để giúp các Đảng và nhà

nước ta nắm bắt được thực tiễn xã hội xảy ra thường ngày trong đời sống nhân

dân, nắm bắt được thực tiễn áp dụng pháp luật vào đời sống nhân dân có những

ưu điểm hay bất cập gì thông qua phản ánh của nhân dân về cơ chế, chính sách,

đời sống dân sinh. Việc tiếp công dân của các cơ quan nhà nước từ Trung ương

xuống địa phương giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời phát hiện, xác

minh, xử lý kịp thời các hành vi trái pháp luật, đảm bảo trật tự xã hội thông qua

sự phản ánh hiện thực khách quan từ chính nhân dân, những người trực tiếp gặp

phải vấn đề trong xã hội. Bởi có những vấn đề các cơ quan chức năng không thể

biết, không thể phát hiện sai sót nếu như người dân không phản ánh kịp thời.

Thực hiện pháp luật về tiếp công dân thể hiện trách nhiệm của Nhà nước

đối với nhân dân, tác động tích cực đến tình cảm, thái độ của người dân, củng cố

niềm tin của người dân vào chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; khơi

dậy tiềm năng, trí tuệ của nhân dân vào các nhiệm vụ chính trị chung của Đảng

và Nhà nước thông qua việc thu thập được những thông tin, phản hồi về những

vấn đề phát sinh trong cuộc sống, từ đó đề ra những chính sách, chủ trương,

quyết định đúng đắn, hợp lòng dân.

1.2. Hình thức, nội dung của thực hiện pháp luật về tiếp công dân

1.2.1. Hình thức của thực hiện pháp luật về tiếp công dân

Trên cơ sở nghiên cứu thực hiện pháp luật về tiếp công dân, tác giả nhận

thấy có những hình thức thực hiện cụ thể như sau: (1) Tuân thủ pháp luật, (2)

Chấp hành pháp luật, (3) Sử dụng pháp luật và (4) Áp dụng pháp luật. Trong đó:

Tuân thủ pháp luật về tiếp công dân là một trong những hình thức thực

hiện pháp luật về tiếp công dân, trong đó các chủ thể (được quy định tại Điều 4

Luật Tiếp công dân 2013) thực hiện pháp luật kiềm chế mình để không thực hiện

điều pháp luật cấm theo quy định của pháp luật, tại Điều 6, Luật Tiếp công dân

2013, cụ thể:

22

- Đối với cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân: không được thực

hiện các hành vi như: Gây phiền hà, sách nhiễu hoặc cản trở người đến khiếu

nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; Thiếu trách nhiệm trong việc tiếp công dân; làm

mất hoặc làm sai lệch thông tin, tài liệu do người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,

phản ánh cung cấp; phân biệt đối xử trong khi tiếp công dân.

- Các hành vi nghiêm cấm đối với công dân: Lợi dụng quyền khiếu nại, tố

cáo, kiến nghị, phản ánh để gây rối trật tự công cộng; xuyên tạc, vu khống, gây

thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân; đe dọa, xúc phạm cơ quan, tổ

chức, đơn vị, cán bộ, công chức, người thi hành công vụ; kích động, cưỡng ép,

dụ dỗ, lôi kéo, mua chuộc người khác tập trung đông người tại nơi tiếp công

dân; vi phạm các quy định khác trong nội quy, quy chế tiếp công dân được quy

định[16].

Chấp hành pháp luật về tiếp công dân là cũng là một trong những hình

thức thực hiện pháp luật về tiếp công dân; trong đó các chủ thể pháp luật chủ

động thực hiện điều pháp luật yêu cầu nhằm đảm bảo các quy định của pháp luật

được đảm bảo thực hiện. Đối với công dân khi đến nơi tiếp công dân có các

nghĩa vụ được quy định tại Khoản 2, Điều 7 Luật Tiếp công dân 2013 [16]. Đối

với cán bộ, công chức được quy định tại Điều 8 Luật Tiếp công dân 2013 [16].

Sử dụng pháp luật về tiếp công dân cũng được xem là một trong những

hình thức thực hiện pháp luật,chủ thể pháp luật thực hiện điều mà pháp luật cho

phép. Công dân có các quyền sau: Trình bày về nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến

nghị, phản ánh, được hướng dẫn giải thích về nội dung liên quan đến khiếu nại,

tố cáo, phản ánh của mình, có quyền khiếu nại, tố cáo về hành vi, vi phạm pháp

luật của người tiếp công dân... Người tiếp công dân có quyền từ chối tiếp công

dân vi phạm các quy định tại Điều 9 Luật Tiếp công dân nhưng phải giải thích

cho công dân lý do từ chối tiếp...

Áp dụng pháp luật về tiếp công dân là cũng được xem là một trong

những hình thức thực hiện pháp luật về tiếp công dân, trong đó cán bộ, cơ

quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện quyền

hoặc nghĩa vụ do pháp luật quy định. Cán bộ, công chức làm công tác tiếp công

23

dân căn cứ từng vụ việc cụ thể theo quy định của pháp luật để ban hành các văn

bản có hiệu lực pháp luật trong thực hiện pháp luật về tiếp công dân.

1.2.2. Nội dung của thực hiện pháp luật về tiếp công dân

Bốn hình thức thực hiện pháp luật về tiếp công dân bao gồm: Tuân thủ

pháp luật, Chấp hành pháp luật, Sử dụng pháp luật, Áp dụng pháp luật. Thông

qua các hình thức trên, pháp luật về tiếp công dân được triển khai và tổ chức

thực hiện trong đời sống xã hội.

Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật cụ thể về tiếp công dân như:

Luật tiếp công dân 2013; Nghị định 64/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính

phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật tiếp công dân; ngoài ra còn

có có chỉ thị như chỉ thị số 35/CT-TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị, Các

văn bản của Đảng về tăng cường công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố

cáo tại địa phương. Tuy nhiên, ta có thể khái quát nội dung thực hiện pháp luật

về tiếp công dân gồm những vấn đề chủ yếu như sau:

Thứ nhất, Quy định về thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong

công tác tiếp công dân

Tại Điều 4, Luật tiếp công dân quy định các cơ quan, tổ chức, cá nhân có

trách nhiệm tiếp công. Dựa trên các quy định về chức năng, nhiệm vụ của mình

các cơ quan hành chính nhà nước có trách nhiệm tổ chức việc tiếp công dân theo

quy định của pháp luật.

Thứ hai, thực hiện pháp luật theo mô hình tiếp công dân

Luật Tiếp công dân quy định về Trụ sở Tiếp công dân Trung ương và Trụ

sở Tiếp công dân cấp tỉnh, cấp huyện. Ban Tiếp công dân được thành lập để trực

tiếp quản lý Trụ sở Tiếp công dân ở mỗi cấp. Triển khai thi hành Luật Tiếp công

dân, trong những năm qua, Ban Tiếp công dân các cấp đã được thành lập, kiện

toàn và tích cực hoạt động để thực thi các nhiệm vụ.

Tại Trụ sở Tiếp công dân Trung ương: Thanh tra Chính phủ đã thành lập

và kiện toàn tổ chức của Ban Tiếp công dân Trung ương (từ Vụ Tiếp dân và Xử

lý đơn thư). Hiện nay, Ban Tiếp công dân Trung ương gồm 5 phòng với tổng số

36 công chức. Ban Tiếp công dân Trung ương có chức năng giúp Tổng Thanh 24

tra Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước trong công tác tiếp công dân, xử lý

đơn thư; phụ trách Trụ sở Tiếp công dân Trung ương tại Hà Nội và TP Hồ Chí

Minh; thường trực tiếp công dân của Thanh tra Chính phủ tại 2 Trụ sở; xử lý

đơn thư gửi đến Thanh tra Chính phủ, Trụ sở; phối hợp với các cơ quan tham gia

tiếp công dân tại Trụ sở kiểm tra, đôn đốc việc tiếp công dân, giải quyết khiếu

nại, tố cáo của Bộ, ngành, địa phương.

Tại Trụ sở Tiếp công dân Trung ương, Ban Tiếp công dân Trung ương đã

tham mưu giúp lãnh đạo Thanh tra Chính phủ phối hợp với các cơ quan: Văn

phòng Chính phủ, Ban Dân nguyện của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban

Kiểm tra Trung ương, Văn phòng Trung ương Đảng, Ban Nội chính Trung

ương, Văn phòng Chủ tịch Nước làm tốt nhiệm vụ tiếp công dân, xử lý đơn thư

thường xuyên, nhất là trong thời gian diễn ra các kỳ họp của Trung ương Đảng

và Quốc hội.

Thứ ba, Quy định về trình tự, thủ tục tiếp công dân

Theo Thông tư số 06/2014/TT-TTCP ngày 31 tháng 10 năm 2014 của Thủ

tướng Chính phủ quy định về quy trình tiếp công dân đến khiếu nại tố cáo, kiến

nghị, phản ánh tại nơi tiếp công dân của cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm

tiếp công dân. Theo đó, phụ thuộc vào từng địa phương, từng cơ quan nhà nước

có những đặc thù riêng về quy trình tiếp công dân. Tuy nhiên, quy trình tiếp

công dân bao gồm những bước cơ bản theo quy định như sau:[13].

Bước 1: Xác định nhân thân của công dân, tính hợp pháp của người đại

diện theo quy định của pháp luật.

Bước 2: Nghe, ghi chép, tiếp nhận thông tin, tài

liệu

Bước 3: Phân loại, xử lý đơn thư

Trình tự, thủ tục tiếp công dân được quy định phù hợp với mục tiêu của

quản lý hành chính nhà nước, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và thống

nhất,hiệu quả của các quy định về thủ tục hành chính, bảo đảm quyền bình đẳng

của các chủ thể tham gia thực hiện thủ tục hành chính.

Trình tự, thủ tục tiếp công dân phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện và niêm

25

yết công khai tại nơi tiếp công dân góp phần tăng tính hiệu quả của công tác tiếp

công dân, thể hiện tính khách quan, công khai, minh bạch trong tiếp công dân,

tạo điều kiện cho công dân nắm bắt các quy định của pháp luật.

Thứ tư, thực hiện pháp luật về các biện pháp bảo đảm cho hoạt động tiếp

công dân.

Các biện pháp bảo đảm cho hoạt động tiếp công dân là các biện pháp pháp

lý do pháp luật quy định nhằm đảm bảo cho việc thực hiện hiệu quả của hoạt

động tiếp công dân, các biện pháp bảo đảm trong hoạt động tiếp công dân bao

gồm:

- Bảo đảm các điều kiện về cơ sở vật chất, bao gồm: Nơi tiếp công dân, sổ

sách, thiết bị máy móc như máy tính, điện thoại, máy ghi âm, máy ghi hình.

Trong các điều kiện về cơ sở vật chất trên thì điều kiện đảm bảo về nơi tiếp

công dân là quan trọng nhất, đó chính là trụ sở tiếp công dân, là địa điểm tiếp

công dân hoặc nơi làm việc nhất định, nơi để công dân trực tiếp đến khiếu nại, tố

cáo, kiến nghị, phản ánh với lãnh đạo Đảng, Nhà nước và là nơi để lãnh đạo

Đảng, Nhà nước trực tiếp tiếp công dân trong những trường hợp cần thiết. Tuy

nhiên, không thể coi nhẹ các điều kiện vật chất khác, các điều kiện này thì có

tác động, hỗ trợ, phục vụ cho hoạt động tiếp công dân.[13]

- Bảo đảm về yếu tố cán bộ làm công tác tiếp dân:[21]

Bên cạnh việc đảm bảo cơ sở vật chất, việc bố trí cán bộ làm công tác tiếp

công dân phải là người có năng lực, được đào tạo cơ bản, am hiểu về chính sách

của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nắm rõ các quy định của địa phương; là

người có phẩm chất đạo đức tốt, lắng nghe và tôn trọng công dân, có trách

nhiệm trong công việc, hướng dẫn, giải thích, xử lý kịp thời các đơn thư của

công dân, phối hợp trong hoạt động tiếp công dân.

- Các điều kiện bảo đảm khác:

Các điều kiện đảm bảo khác không thể thiếu của cán bộ làm công tác tiếp

dân đó là chế độ bồi dưỡng cho người làm nghiệp vụ tiếp công dân theo quy

định tại Thông tư số 320/2016/TT-BTC ngày 14/12/2016 của Bộ Tài chính; đó

là quy định về trang phục đối với cán bộ, công chức làm nhiệm vụ tiếp công dân

26

thường xuyên tại trụ sở Tiếp dân theo quy định tại Thông tư số 03/2016/TT-

TTCP ngày 29/12/2016 của Thanh tra Chính phủ;...

Ngoài ra, nhà nước cần bảo đảm về các điều kiện khác như: kinh phí cho

hoạt động tiếp công dân, chính sách đãi ngộ về chế độ phụ cấp, trang phục cho

cán bộ làm công tác tiếp công dân, bảo đảm về an ninh, trật tự trong hoạt động

tiếp công dân bảo vệ trụ sở tiếp công dân, bảo vệ cán bộ tiếp công dân theo.

Có thể nói rằng khi công dân đi khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh bản

thân họ đang là người có tâm trạng bức xúc, có yêu cầu cần được giải thích, cần

được hiểu rõ, cần được giải quyết về một vấn đề nào đó nên họ đến cơ quan nhà

nước để họ gặp cán bộ tiếp công dân là người đại diện cho cơ quan công quyền

để giải thích các quy định cho công dân hiểu và thực hiện theo quy định.

1.3. Điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về tiếp công dân

1.3.1 Điều kiện về pháp luật

Hệ thống pháp luật về tiếp công dân của Việt Nam hiện nay ngày càng được

hoàn thiện, góp phần vào việc nâng cao, đảm bảo phát huy dân chủ, tăng cường

hiệu quả của công tác tiếp công dân, như: Luật khiếu nại 2011, Luật Tố cáo năm

2018, Luật Tiếp công dân năm 2013, Nghị định 64/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014

của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiếp công dân... quy

định cụ thể, rõ ràng về trách nhiệm tiếp công dân, quyền và nghĩa vụ của người

đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; việc tổ chức tiếp công dân tại Trụ sở

tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân của cơ quan, tổ chức, đơn vị và điều kiện

bảo đảm cho hoạt động tiếp công dân.

1.3.2 Điều kiện về kinh tế

Hiện nay, không có định nghĩa cụ thể về điều kiện kinh tế xã hội, tuy nhiên

trên thực tế có thể hiểu điều kiện về kinh tế gồm tổng thể các điều kiện hoàn

cảnh về kinh tế xã hội, hệ thống chính sách kinh tế, chính sách xã hội và việc

triển khai thực hiện, áp dụng chúng trong lĩnh vực xã hội.

Đất nước có nền kinh tế phát triển thì đời sống của nhân dân được nâng

cao, nâng cao từ chất lượng cuộc sống tới chất lượng giáo dục. Đất nước giàu

mạnh là góp phần từ việc sản xuất, kinh doanh của người dân. Khi đời sống của

27

nhân dân được nâng cao chứng tỏ một điều rằng đường lối kinh tế, chính sách

pháp luật của nhà nước là đúng đắn. Do vậy, ngay từ trong nhận thức của nhân

dân đã thấy được kết quả của việc tin vào đường lối chính sách của nhà nước.

Điều này tạo niềm tin to lớn cho nhân dân trong việc tin vào Đảng và nhà nước.

Góp phần tích cực trong việc nhân dân hưởng ứng theo các chính sách của nhà

nước, theo đó hoạt động thực hiện pháp luật sẽ thuận chiều và đi vào đời sống

một cách dễ dàng.

Hoạt động thực hiện pháp luật của người dân góp phần tác động đến quá

trình hội nhập nền kinh tế của nước ta trên thị trường quốc tế. Đòi hỏi nền pháp

luật của Việt nam có những thay đổi hòa nhập với quốc tế, chú trọng hơn về vấn

đề kinh tế nhưng vẫn mang được đặc trưng, bản sắc phù hợp với con người và

nhân dân ta. Có sự tiến bộ trong pháp luật thì mới có sự chấp hành đúng đắn của

nhân dân và ngược lại, kinh tế suy thoái thì đồng nghĩa với việc pháp luật không

được thực hiện nghiêm minh, cái xấu có cơ hội nảy sinh, tác động tiêu cực tới

việc thực hiện pháp luật. Đây là điều kiện quan trọng trọng đảm bảo cho việc

thực hiện pháp luật về tiếp công dân.

1.3.3 Điều kiện về chính trị

Điều kiện chính trị đảm bảo thực hiện pháp luật về Luật tiếp công dân thể

hiện qua từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử. Điều kiện này bao gồm môi trường, hệ

thống chính trị, các chuẩn mực chính trị, đường lối chính sách của Đảng.

Yếu tố chính trị có vai trò và ảnh hưởng to lớn đến thực hiện pháp luật. Đất

nước có hệ thống chính trị bất ổn luôn là mối lo cho người dân. Dẫn đến việc

lòng dân hoang mang, giao động, tác động trực tiếp đến việc thực hiện pháp luật.

Theo đó, yếu tố chính trị cũng là một trong những yếu tố quan trọng trong việc

thực hiện pháp luật về tiếp công dân.

Hiện nay, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm việc tuyên truyền, phổ biến

các kiến thức pháp luật, các nội dung theo nghị quyết, chỉ thị của Đảng; quan

điểm, chủ trương, chính sách của Đảng. Đẩy mạnh việc kết nạp các đảng viên

ưu tú vào Đảng, nhất là kết nạp Đảng viên tại các thôn, xóm, khu phố, họ là

những người dân ưu tú của địa phương. Đảng viên luôn là những người đi đầu,

28

gương mẫu chấp hành các quy định của pháp luật, có niềm tin vào Đảng, từ đó

tăng cường niềm tin của quần chúng nhân dân vào Đảng. Chính vì vậy, Đảng và

nhà nước luôn chú trọng tập trung hoàn thiện hệ thống chính trị, có những

đường lối chỉ đạo của Đảng mang tính cấp thiết và gắn liền với nhân dân.

1.3.4 Điều kiện về văn hóa

Văn hóa có một ảnh hưởng không thể phủ nhận đối với pháp luật và thực

hiện pháp luật. Văn hóa chính là cuộc sống, do đó, việc xây dựng pháp luật, theo

lẽ tự nhiên, phải dựa trên những kinh nghiệm văn hóa, tức là pháp luật phải có

khả năng biến thành văn hóa để điều chỉnh cuộc sống. Tuy nhiên, thực tế cho

thấy, ở rất nhiều nơi trên thế giới, hệ thống pháp luật tỏ ra không tương thích với

cuộc sống. Văn hóa chính là cuộc sống; do đó, khi làm biến dạng văn hóa,

những người cầm quyền đã làm biến dạng cả cuộc sống. Hệ thống pháp luật, để

có thể điều chỉnh được cuộc sống, cũng bị biến dạng theo; nói cách khác, để

tương thích với một cuộc sống đã bị biến dạng thì bản thân pháp luật cũng phải

méo mó và sự méo mó đáng sợ nhất của pháp luật chính là sự không thừa nhận

quyền sở hữu của con người.

Ở những nơi có trình độ văn hóa cao điều kiện tiếp xúc với các thông tin

các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà

nước và tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội là điều kiện thuận lợi cho sự

hình thành và phát triển ý thức pháp luật và các hình thức thực hiện pháp luật,

ngược lại ở các khu vực vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, phong tục tập

quán lạc hậu, lỗi thời, trình độ dân trí thấp, tính tích cực xã hội của mỗi người

dân hạn chế gây khó khăn cho việc thực hiện pháp luật một cách đúng đắn, đồng

thời dễ dẫn tới các hành vi vi phạm pháp luật.

1.3.5 Điều kiện về tổ chức - kỹ thuật

Cơ sở vật chất kỹ thuật bao gồm cơ sở hạ tầng, trang thiết bị kỹ thuật, cơ sở

hạ tầng hiện đại đầy đủ gồm bàn ghế, sổ sách, máy móc như máy vi tính, máy

ghi âm, ghi hình và việc tổ chức tiếp công dân được thực hiện một cách chuyên

nghiệp, khoa học sẽ đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân được

thực hiện thuận lợi. Để công tác tiếp dân được rõ ràng, minh bạch thì việc áp

29

dụng công nghệ thông tin trong thực hiện pháp luật tiếp dân là điều kiện cần

thiết. Hơn nữa, nếu tổ chức tiếp dân không chu đáo, không đúng người có thẩm

quyền, không đúng đối tượng, nơi tiếp dân không được bày trí trang trọng dễ

dẫn đến việc bất đồng ý kiến giữa người dân và cán bộ tiếp dân, ảnh hưởng đến

kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đây là điều kiện đảm bảo cho pháp luật về

tiếp dân được thực hiện có hiệu quả.

1.3.6. Điều kiện về con người

Con người cụ thể là cán bộ, công chức là một trong các điều kiện quan

trọng đảm bảo việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân bởi vì cán bộ công chức

là khâu chủ yếu thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật

của Nhà nước, mọi chính sách của nhà nước phải được cán bộ, công chức triển

khai thì mới có thể đi vào đời sống xã hội. Cán bộ, công chức, viên chức là

người trực tiếp đưa những quy định của “pháp luật trên giấy tờ” trở thành “pháp

luật trong hoạt động”; đưa pháp luật từ lý thuyết được áp dụng một cách phù

hợp và nhuần nhuyễn trong thực tế cuộc sống.

Thông qua hoạt động tiếp công dân, người dân phần nào nhìn nhận được

trình độ, năng lực, thái độ, phẩm chất đạo đức của người cán bộ trực tiếp làm

việc với mình. Bởi vì, đây là hoạt động tương tác trực tiếp nên họ dễ dàng đánh

giá được thông qua lời nói, cử chỉ, hành động, nét mặt của người cán bộ. Lúc

bấy giờ, người cán bộ tiếp công dân phải nhận thức rõ rằng mọi hành vi của

mình sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh của cơ quan, tổ chức, đơn vị,

hình ảnh của người cán bộ nói chung, thậm chí là hình ảnh của cả hệ thống

chính trị Việt Nam. Cho nên, bất cứ một sơ suất, nóng vội, thiếu kiềm chế nào

của cán bộ tiếp công dân đều có thể dẫn đến sự đánh giá sai lệch của người dân

với Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội.

Cán bộ được phân công tiếp công dân trước hết phải là người am hiểu pháp

luật tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân vì nội dung cốt lõi

của hoạt động tiếp công dân là tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị

của công dân và hướng dẫn cho họ thực hiện những quyền đó theo đúng quy

định pháp luật. Ngoài ra, cán bộ tiếp công dân còn cần phải am hiểu các ngành

30

luật khác nhau một cách khái quát nhất vì những vấn đề mà người dân bức xúc

rất phong phú, đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực đời sống xã hội, mỗi lĩnh vực ấy

được điều chỉnh bởi một ngành luật riêng.

Bên cạnh đó, cán bộ tiếp công dân phải có kiến thức xã hội toàn diện, sâu

rộng, đặc biệt liên quan đến tình hình địa phương nơi mình đang công tác. Nhờ

vậy, người cán bộ sẽ chủ động điều chỉnh cách cư xử của mình sao cho phù hợp

với từng đối tượng, từng vụ việc cụ thể với mục tiêu hàng đầu là xoa dịu bức

xúc người dân xuống mức thấp nhất có thể. Điều đó không đồng nghĩa với việc

cán bộ luôn ủng hộ mọi quan điểm của người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,

phản ánh và đưa ra những lời hứa suông mà phải thật tâm lắng nghe, từ tốn, nhẹ

nhàng, lịch sự thuyết phục họ, phân tích cho họ hiểu vấn đề trên cơ sở tôn trọng

Hiến pháp và pháp luật.

Phẩm chất đạo đức là một trong những yêu cầu quan trọng đối với người

cán bộ tiếp công dân. Khi tiếp đón người dân, cán bộ luôn có thái độ tôn trọng,

tận tụy phục vụ, có tâm trong sáng, đảm bảo khách quan, bình đẳng, không phân

biệt đối xử, tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho người dân thực hiện quyền

khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị của mình.

Nếu cán bộ, công chức tiếp công dân thực hiện tốt những điều nói trên

người dân sẽ tin tưởng, kính trọng, sẵn sàng gửi đến những băn khoăn, bức xúc,

sẵn sàng hợp tác giải quyết vấn đề thiện chí trên tinh thần xây dựng, từ đó việc

thực hiện pháp luật về tiếp công dân càng hiệu quả hơn.

31

Kết luận chương 1

Thực hiện pháp luật về tiếp công dân là việc các cơ quan Nhà nước, các tổ

chức chính trị xã hội đưa các văn bản quy phạm pháp luật về tiếp công dân được

hiện thực hóa trong thực tế. Pháp luật tiếp công dân hiện nay chủ yếu quy định

về trách nhiệm tiếp công dân; quyền và nghĩa vụ của người đến khiếu nại, tố

cáo, kiến nghị, phản ánh; quy định về tiếp công dân tại các cơ quan thuộc Chính

phủ, đơn vị sự nghiệp công lập; nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các

Ban Tiếp công dân, việc bố trí cơ sở vật chất của Trụ sở tiếp công dân; quy chế

phối hợp hoạt động tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân.

Công tác tiếp công dân là một trong những vấn đề rất quan trọng, bởi nhà

nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân, do dân làm chủ, do đó việc lắng

nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân là việc vô cùng cần thiết. Tuy nhiên

lắng nghe dân như thế nào một cách đúng pháp luật, một cách phù hợp cũng là

một vấn đề vô cùng khó. Theo đó, dựa theo các quy định của pháp luật đã quy

định, việc thực hiện các quy định pháp luật về tiếp công dân được coi trọng;

Đảng, Nhà nước ta coi công tác tiếp công dân chính là thực hiện quan điểm

“Dân là gốc”; tiếp công dân là tạo điều kiện để nhân dân trực tiếp tham gia quản

lý Nhà nước. Thông qua công tác tiếp công dân các cơ quan nhà nước tiếp nhận,

lắng nghe các ý kiến, kiến phản ánh, khiếu nại, tố cáo của người dân liên quan

đến việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng thông qua các

quy định của pháp luật từ đó có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác

quản lý nhà nước, góp phần ổn định tình hình an ninh, chính trị, giữ vững sự ổn

định phát triển đất nước, củng cố niềm tin của nhân dân vào đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước.

32

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ

TIẾP CÔNG DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA

2.1. Thực trạng quy định pháp luật về tiếp công dân

2.1.1. Quy định của pháp luật về trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân

dân các cấp và cán bộ, công chức trong công tác tiếp công dân

2.1.1.1. Quy định của pháp luật về trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân

các cấp trong việc tiếp công dân

Theo Luật Tiếp công dân năm 2013 quy định cụ thể trách nhiệm này như sau:

“Trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức công tác tiếp công dân của cơ

quan mình”.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện nhìn chung cũng đã nhận thức

được trách nhiệm tiếp công dân định kỳ của mình theo Luật và các văn bản hướng

dẫn thi hành. Tại UBND các xã, phường, thị trấn hiện nay cũng đã ban hành nội quy

tiếp công dân, lịch tiếp công dân và niêm yết tại địa điểm tiếp công dân hoặc tại bộ

phận một cửa. Chủ tịch UBND các xã, phường, thị trấn là người trực tiếp phụ trách

công tác tiếp công dân nên đã thường xuyên đề xuất với cấp ủy Đảng, Hội đồng

nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp để thực hiện công tác tiếp

công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo theo đúng quy định của pháp luật.

Như vậy, thủ trưởng các cơ quan HCNN về cơ bản đã chủ động chỉ đạo việc

tiếp công dân định kỳ nhằm giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền,

tạo được sự chuyển biến tích cực trong việc giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo;

không phát sinh quá nhiều điểm nóng, phức tạp; nhiều trường hợp qua tiếp công dân

trực tiếp với thủ trưởng các cơ quan HCNN, khiếu nại, tố cáo được chấm dứt. Nhờ

vậy, tình hình an ninh - chính trị, trật tự - xã hội trên địa bàn nhìn chung ổn định,

góp phần phát triển kinh tế của địa phương. Việc số lượng đơn thư, khiếu nại, tố cáo

vượt cấp lên các cơ quan Trung ương giảm cũng như việc tổ chức thực hiện tốt công

tác tiếp công dân định kỳ của Thủ trưởng các cơ quan HCNN phần nào cho thấy

trách nhiệm của thủ trưởng các cơ quan HCNN đối với vấn đề này nhằm kịp thời

33

tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của người dân ngay tại đơn vị thuộc thẩm

quyền quản lý.

Thời gian qua, các cấp chính quyền từ cơ sở đến tỉnh, cấp Trung ương đã có

nhiều biện pháp tích cực triển khai, lãnh đạo, chỉ đạo công tác tiếp công dân và đạt

được những kết quả tích cực góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã

hội, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn

một số hạn chế, người đứng đầu một số cơ quan, đơn vị chưa thực sự quan tâm đến

công tác tiếp công dân, hoặc tiếp công dân còn hình thức, còn làm chiếu lệ cho

xong, hoặc còn đùn đẩy, né tránh, dẫn đến mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân

chưa được cải thiện.

2.1.1.2 Quy định pháp luật về nguyên tắc tiếp công dân và trách nhiệm của cán

bộ, công chức làm công tác tiếp công dân

Điều 3 Luật Tiếp công dân năm 2013 quy định về nguyên tắc trong tiếp công dân:

“1. Việc tiếp công dân phải được tiến hành tại nơi tiếp công dân của cơ quan,

tổ chức, đơn vị.

2. Việc tiếp công dân phải bảo đảm công khai, dân chủ, kịp thời; thủ tục đơn

giản, thuận tiện; giữ bí mật và bảo đảm an toàn cho người tố cáo theo quy định của

pháp luật; bảo đảm khách quan, bình đẳng, không phân biệt đối xử trong khi tiếp

công dân.

3. Tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện việc khiếu nại, tố

cáo, kiến nghị, phản ánh theo quy định của pháp luật”.

Nguyên tắc tiếp công dân phải được tiến hành tại nơi tiếp công dân của cơ

quan, tổ chức, đơn vị. Tại một số Bộ, ngành (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tư pháp,

Bộ Ngoại giao, Bộ Công an…), Trụ sở tiếp công dân được bố trí thuận tiện cho

công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; có phương tiện và trang thiết bị

đầy đủ để phục vụ công tác tiếp công dân; niêm yết nội quy tiếp công dân, lịch tiếp

công dân thường xuyên và lịch tiếp công dân của lãnh đạo Bộ; cử cán bộ, công chức

có năng lực, kinh nghiệm và phẩm chất đạo đức thực hiện nhiệm vụ tiếp theo. Nhiều

tỉnh, thành (thành phố Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Nghệ An...) đã xây

34

dựng Trụ sở tiếp công dân khang trang, thuận tiện, đảm bảo về trang thiết bị, điều

kiện làm việc cần thiết; xây dựng nội quy, bố trí cán bộ tiếp dân thường xuyên theo

quy định. Một số tỉnh, lãnh đạo tỉnh đã quan tâm bổ sung cho các cơ quan tiếp công

dân những cán bộ có năng lực, phẩm chất, có ý thức trách nhiệm, khách quan, công

tâm, có tác phong gần gũi quần chúng; có kỹ năng công tác tiếp công dân; được đào

tạo nghiệp vụ tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo (Hòa Bình, Nghệ An…).

Trên thực tế, đa số người dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đều

được đón tiếp tại Trụ sở tiếp công dân. Cán bộ tiếp công dân thực hiện nhiệm vụ

đón tiếp, lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân.

Đây chính là quá trình giao tiếp giữa cán bộ tiếp công dân với người dân. Khi tiến

hành giao tiếp, cán bộ tiếp công dân phải ở thế chủ động điều khiển cuộc đón tiếp

theo ý muốn của mình, khi nào cần lắng nghe, khi nào cần hỏi, hỏi thông tin gì để

phục vụ cho việc xử lý sau này.

Về cơ bản, khi tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân, cán bộ tiếp công dân

tuân thủ tốt mục đích, yêu cầu của việc tiếp công dân. Đó là đón tiếp để lắng nghe,

tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân. Ở đây, cán bộ tiếp

công dân bằng các biện pháp nghiệp vụ của mình làm sao để người dân nói ra

những ý kiến của mình, trình bày những vấn đề mà họ quan tâm, bổ sung thêm

thông tin, tài liệu về nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Ở đây, cán bộ

tiếp công dân có trách nhiệm phải lắng nghe (kể cả phải lắng nghe những bức xúc

của công dân) khi đón tiếp. Chính vì thế cán bộ tiếp dân phải biết khuyến khích đối

tượng giao tiếp với mình, bằng cách chú ý lắng nghe đối tượng trình bày ý kiến của

họ. Cán bộ tiếp dân phải biết kết luận các ý kiến mà đối tượng đưa ra, thống nhất

với họ quan điểm chính trên cơ sở tư duy khoa học, tư duy logic và tính quyết đoán

của nhân cách.

Nguyên tắc tiếp công dân phải bảo đảm công khai, dân chủ, kịp thời; thủ tục

đơn giản, thuận tiện; giữ bí mật và bảo đảm an toàn cho người tố cáo theo quy định

của pháp luật.

Cán bộ, công chức làm công tác tiếp dân được hiểu ở đây là những cán bộ, công

35

chức được phân công thực hiện việc thường trực tiếp công dân thường xuyên tại nơi

tiếp công dân để đón tiếp, lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh

của công dân; giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo,

kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp luật.

Trách nhiệm của người tiếp công dân được quy định tại Điều 8 của Luật tiếp

công dân như sau:

“1. Khi tiếp công dân, người tiếp công dân phải bảo đảm trang phục chỉnh tề, có

đeo thẻ công chức, viên chức hoặc phù hiệu theo quy định.

2. Yêu cầu người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh nêu rõ họ tên, địa chỉ

hoặc xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy ủy quyền (nếu có); có đơn hoặc trình bày rõ

ràng nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; cung cấp thông tin, tài liệu

cần thiết cho việc tiếp nhận, thụ lý vụ việc.

3. Có thái độ đúng mực, tôn trọng công dân, lắng nghe, tiếp nhận đơn khiếu nại, tố

cáo, kiến nghị, phản ánh hoặc ghi chép đầy đủ, chính xác nội dung mà người đến

khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trình bày.

4. Giải thích, hướng dẫn cho người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh chấp

hành chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, kết luận, quyết định giải quyết

đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan có thẩm quyền; hướng dẫn người khiếu nại, tố

cáo, kiến nghị, phản ánh đến đúng cơ quan hoặc người có thẩm quyền giải quyết.

5. Trực tiếp xử lý hoặc phân loại, chuyển đơn, trình người có thẩm quyền xử lý

khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; thông báo kết quả xử lý khiếu nại, tố cáo,

kiến nghị, phản ánh cho công dân.

6. Yêu cầu người vi phạm nội quy nơi tiếp công dân chấm dứt hành vi vi phạm;

trong trường hợp cần thiết, lập biên bản về việc vi phạm và yêu cầu cơ quan chức

năng xử lý theo quy định của pháp luật.”

Khoản 2 và Khoản 4, Điều 18 Luật Tiếp công dân 2013 và Khoản 2, Điều 4

Nghị định số 64/2014/NĐ-CP ngày 15/8/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một

36

số điều của Luật Tiếp công dân quy định người đứng đầu các cơ quan HCNN trong

việc tiếp công dân có trách nhiệm “trực tiếp thực hiện việc tiếp công dân ít nhất 01

ngày trong 01 tháng tại địa điểm tiếp công dân của cơ quan mình”. Điều 32,

Chương V, Thông tư số 06/2014/TT-TTCP ngày 31/10/2014, quy định về trách

nhiệm của thủ trưởng cơ quan HCNN trong việc tiếp công dân: “Thủ trưởng cơ

quan HCNN có trách nhiệm trực tiếp tiếp công dân định kỳ và đột xuất theo quy

định tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 18 Luật tiếp công dân”. Ngoài ra, theo Khoản 5,

Điều 12 Luật Tiếp công dân, Chủ tịch UBND cấp tỉnh phải tiếp công dân định kỳ ít

nhất 01 ngày trong 01 tháng. Và Khoản 5, Điều 13 quy định Chủ tịch UBND cấp

huyện phải tiếp công dân định kỳ ít nhất 02 ngày trong 01 tháng.

Luật Tiếp công dân 2013 quy định về việc các cơ quan, tổ chức, đơn vị phải có trách

nhiệm niêm yết công khai thông tin về lịch tiếp công dân của người đứng đầu. Theo

đó, lịch tiếp công dân của người đứng đầu phải được “niêm yết chậm nhất là 05

ngày làm việc, trước ngày tiếp công dân; trường hợp không thể thực hiện việc tiếp

công dân theo lịch đã công bố do có lý do chính đáng thì có thể lùi lịch tiếp công

dân sang thời gian khác”. Đồng thời, Luật cũng quy định về nơi tiếp công dân của

thủ trưởng cơ quan HCNN, bao gồm: Trụ sở tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân

hoặc nơi làm việc khác do cơ quan, tổ chức, đơn vị chịu trách nhiệm tiếp công dân

bố trí và phải được thông báo công khai hoặc thông báo trước cho người được tiếp.

Bên cạnh đó, Thông tư số 06/2014/TT-TTCP ngày 31/10/2014 quy định: Khi tiếp

công dân, nếu vụ việc rõ ràng, cụ thể, có cơ sở và thuộc thẩm quyền giải quyết thì

thủ trưởng cơ quan HCNN phải trả lời ngay cho công dân biết; nếu vụ việc phức tạp

cần nghiên cứu xem xét thì nói rõ thời hạn giải quyết và người cần liên hệ tiếp để

biết kết quả giải quyết.

Luật Tiếp công dân 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành chính là cơ sở

pháp lý nhằm xác định rõ trách nhiệm, điều kiện đảm bảo cho hoạt động tiếp công

dân của thủ trưởng các cơ quan HCNN. Từ đó, giúp người đứng đầu các cơ quan

này thực hiện tốt vai trò của mình trong công tác tiếp công dân; quan tâm, chú trọng

hơn đến công tác tiếp công dân cũng như việc xây dựng cơ sở vật chất, phương tiện

37

làm việc và chế độ, chính sách đối với công chức làm công tác tiếp công dân. Thông

qua công tác tiếp công dân, người đứng đầu các cơ quan HCNN đã kịp thời xử lý vụ

việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh thuộc thẩm quyền đưa hoạt động này vào

nề nếp, có hiệu quả.

2.1.2. Quy định của pháp luật về mô hình tiếp công dân

Luật Tiếp công dân năm 2013 là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất từ trước

đến nay quy định một cách đầy đủ và toàn diện nhất về mô hình tổ chức tiếp công

dân ở Việt Nam, qua đó nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân tại các Bộ, ngành,

địa phương.

Theo quy định của Luật Tiếp công dân, mô hình tiếp công dân được quy định

như sau:.

Thứ nhất, về Trụ sở Tiếp công dân và Ban Tiếp công dân

Luật Tiếp công dân quy định về Trụ sở Tiếp công dân Trung ương và Trụ sở

Tiếp công dân cấp tỉnh, cấp huyện. Ban Tiếp công dân được thành lập để trực tiếp

quản lý Trụ sở Tiếp công dân ở mỗi cấp. Triển khai thi hành Luật Tiếp công dân,

trong những năm qua, Ban Tiếp công dân các cấp đã được thành lập, kiện toàn và

tích cực hoạt động để thực thi các nhiệm vụ.

Trụ sở Tiếp công dân cấp tỉnh: Ban Tiếp công dân cấp tỉnh trực thuộc Văn

phòng UBND tỉnh, do Trưởng ban là Phó Chánh Văn phòng UBND cấp tỉnh phụ

trách, số lượng biên chế thường từ 4 - 8 công chức. Riêng Hà Nội và TP Hồ Chí

Minh có số lượng công chức tại Ban này nhiều hơn (Hà Nội: 23 người; TP Hồ Chí

Minh: 33 người). Tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, trong Ban Tiếp công dân còn

thành lập một số phòng (chẳng hạn, Ban Tiếp công dân của TP Hồ Chí Minh được

tổ chức thành 3 phòng, gồm Phòng Xử lý đơn; Phòng Kiểm tra, đôn đốc; Phòng

Hành chính, tổng hợp. Ban Tiếp công dân của TP Hà Nội cũng có 3 phòng, gồm

Phòng Tiếp dân, xử lý đơn; Phòng Kiểm tra, đôn đốc; Phòng Tổng hợp).

Tại Trụ sở Tiếp công dân cấp tỉnh cũng có sự phối hợp chặt chẽ giữa Văn

phòng Tỉnh ủy, Ban Nội chính Tỉnh ủy, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, Văn phòng Đoàn

Đại biểu Quốc hội và HĐND tỉnh, Văn phòng UBND tỉnh. Tuy nhiên, hiện nay, ở

38

một số địa phương, do điều kiện biên chế và số lượt tiếp công dân liên quan đến

thẩm quyền giải quyết của từng cơ quan không nhiều nên các cơ quan này tiếp công

dân tại Trụ sở Tiếp công dân tỉnh thường được thực hiện theo yêu cầu vụ việc mà

không cử cán bộ tiếp công dân thường xuyên theo quy định của Luật Tiếp công dân.

Tại Trụ sở Tiếp công dân cấp huyện: Ở các địa phương hiện nay, UBND cấp

huyện đã thành lập Ban Tiếp công dân cấp huyện trực thuộc Văn phòng HĐND và

UBND do Phó Chánh Văn phòng HĐND và UBND kiêm giữ chức vụ Trưởng Ban

Tiếp công dân, chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý, điều hành hoạt động của Ban

Tiếp công dân tại Trụ sở Tiếp công dân; bố trí từ 1 đến 2 công chức Văn phòng

HĐND và UBND cấp huyện làm nhiệm vụ tiếp công dân thường xuyên tại Trụ sở

Tiếp công dân. Một số địa phương cử thêm cán bộ, công chức các phòng, ban của

huyện làm nhiệm vụ phối hợp tiếp công dân tại Trụ sở Tiếp công dân.

Theo quy định của Luật Tiếp công dân, Ban Tiếp công dân cấp huyện phối hợp

với đại diện của Văn phòng Huyện ủy, Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy thực hiện việc

tiếp công dân thường xuyên tại Trụ sở Tiếp công dân. Trên thực tế, tại Trụ sở Tiếp

công dân cấp huyện, việc tiếp công dân thường xuyên chủ yếu do Ban Tiếp công

dân thực hiện. Tại cấp huyện của nhiều địa phương, chưa bố trí để công chức Văn

phòng Huyện ủy, Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy tham gia tiếp công dân thường xuyên.

Việc tiếp công dân của Văn phòng Huyện ủy, Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy được thực

hiện khi có yêu cầu vụ việc do khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh thuộc phạm vi

tiếp nhận của các cơ quan này không nhiều.

Thứ hai, về địa điểm tiếp công dân và bộ phận tiếp công dân

Tại các Sở, ngành ở cấp tỉnh: Giám đốc các Sở, ngành đã bố trí Phòng Tiếp

công dân và phân công cho Thanh tra Sở thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân. Trên cơ

sở đó, Chánh Thanh tra Sở, phân công công chức của Thanh tra Sở làm nhiệm vụ

tiếp công dân thường xuyên.

Tuy nhiên, hiện nay số lượng công dân đến các sở là khác nhau, một số sở tiếp

công dân nhiều hơn như Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Lao động, Thương binh

và Xã hội, Sở Xây dựng, Sở Công thương. Trong khi đó, có sở có rất ít hoặc không

39

có công dân đến (Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở

Tư pháp).

Tại cấp huyện: Công dân chủ yếu đến gặp Ban Tiếp công dân cấp huyện tại

Trụ sở Tiếp công dân cấp huyện để KNTC, kiến nghị, phản ánh. Do đó, các phòng

chuyên môn thuộc UBND cấp huyện hầu như không bố trí địa điểm riêng để tiếp

công dân mà chỉ phân công công chức tiếp công dân trong trường hợp công dân đến

cơ quan mình để KNTC, kiến nghị, phản ánh.

Ở cấp xã: Về cơ bản, Chủ tịch UBND các xã, phường, thị trấn đã tổ chức thực

hiện nghiêm túc công tác tiếp công dân theo quy định của Luật Tiếp công dân.

2.1.3. Quy định của pháp luật về quy trình tiếp công dân

Theo quy định tại Thông tư 06/2014/TT-TTCP ngày 31 tháng 10 năm 2014 của

Thủ tướng Chính phủ về trình tự, thủ tục tiếp công dân bao gồm quy trình tiếp người

khiếu nại, quy trình tiếp người tố cáo, quy trình tiếp người kiến nghị, phản ánh,

được khái quát như sau:

Bước 1: Xác định nhân thân của công dân

Đây là giai đoạn đầu tiên của hoạt động tiếp công dân, khi công dân đến khiếu

nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh tại trụ sở, nơi tiếp công dân, người tiếp công dân

phải có tác phong, cử chỉ lời nói lịch sự, nhã nhặn; thái độ bình tĩnh, khiêm tốn,

đúng mực; giới thiệu rõ họ, tên chức danh của mình ngay khi tiếp xúc ban đầu với

công dân, đồng thời yêu cầu công dân nêu rõ họ tên, địa chỉ, xuất trình giấy tờ tùy

thân để xác định nhân thân của người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; giấy

giới thiệu, giấy ủy quyền (nếu có), hợp đồng trợ giúp pháp lý để xác định tính hợp

pháp của người đại diện, người được ủy quyền, luật sư, trợ giúp viên pháp lý.

Bước 2: Lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công

dân (Điều 29 Thông tư số 06)

Đây là giai đoạn chính của buổi tiếp công dân, người tiếp công dân lắng nghe

công dân trình bày về nội dung khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị của công dân

và tiếp nhận các tài liệu. Khi người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh có đơn

40

trình bày nội dung rõ ràng, đầy đủ theo quy định thì người tiếp công dân cần xác

định nội dung vụ việc, yêu cầu của công dân để xử lý cho phù hợp.

Trường hợp đã có đơn khiếu nại, tố cáo:

- Nếu xét thấy nội dung rõ ràng, đầy đủ thì người tiếp công dân cần xác định

nội dung vụ việc, yêu cầu của công dân để xử lý cho phù hợp.

- Nếu nội dung đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh không rõ ràng,

chưa đầy đủ thì người tiếp công dân đề nghị công dân viết lại đơn hoặc viết bổ sung

vào đơn những nội dung chưa rõ, còn thiếu.

Trường hợp công dân chưa có đơn khiếu nại, tố cáo:

- Người tiếp công dân phải hướng dẫn công dân viết đơn theo quy định của

pháp luật.

- Công dân có thể trình bày trực tiếp và người tiếp công dân có trách nhiệm

ghi chép đầy đủ, trung thực, chính xác nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản

ánh do công dân trình bày; Sau đó đọc lại cho công dân nghe và đề nghị công dân

ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận vào văn bản.

Trường hợp nhiều người cùng đến để khiếu nại, tố cáo cùng một vụ việc:

Cán bộ tiếp dân phải hướng dẫn công dân cử người đại diện để trình bày nội

dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; người tiếp công dân ghi lại nội dung

bằng văn bản (có ký tên người đại diện) và tiếp nhận xử lý.

Trường hợp nhiều người cùng đến để khiếu nại, tố cáo nhiều vụ việc khác

nhau:

Người tiếp công dân phải hướng dẫn công dân tách riêng từng nội dung để

gửi đến đúng cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền giải quyết.

Lưu ý: Người tiếp công dân tiếp nhận các thông tin, tài liệu, bằng chứng liên

quan đến việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh do công dân cung cấp (nếu có)

và phải viết, giao giấy biên nhận các tài liệu đã tiếp nhận cho công dân.

Người tiếp công dân tiếp nhận các thông tin, tài liệu, bằng chứng liên quan đến

việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh do công dân cung cấp (nếu có) và phải

viết, giao giấy biên nhận các tài liệu đã tiếp nhận cho công dân.

41

Bước 3: Phân loại, xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh tại nơi tiếp

công dân (Điều 26 Luật Tiếp công dân 2013)

Đây là một bước quan trọng trong quy trình tiếp công dân, đòi hỏi cán bộ, công

chức có trình độ chuyên môn tốt và nắm vững các quy định của pháp luật. Thông tư

06/2014/TT-TTCP ngày 31/10/2014 quy định cụ thể nội dung này như sau:

Việc phân loại, xử lý khiếu nại, tố cáo đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có

thẩm quyền thụ lý, giải quyết trong quá trình tiếp công dân được thực hiện như sau:

- Trường hợp khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ

chức, đơn vị mình và đủ điều kiện thụ lý thì người tiếp công dân tiếp nhận thông tin,

tài liệu, chứng cứ kèm theo, đồng thời báo cáo với người có thẩm quyền thụ lý;

- Trường hợp khiếu nại, tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ

quan, tổ chức, đơn vị mình thì hướng dẫn người khiếu nại, tố cáo đến cơ quan, tổ

chức, đơn vị có thẩm quyền để khiếu nại, tố cáo. Trường hợp khiếu nại, tố cáo thuộc

thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp dưới mà chưa được giải

quyết thì người tiếp công dân báo cáo người có thẩm quyền yêu cầu cơ quan, tổ

chức, đơn vị có thẩm quyền giải quyết.

- Trường hợp khiếu nại, tố cáo đã được giải quyết đúng chính sách, pháp luật

thì người tiếp công dân phải hướng dẫn để người khiếu nại, tố cáo chấp hành

nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị

tố cáo và yêu cầu công dân chấm dứt việc khiếu nại, tố cáo.

- Trường hợp nhận được đơn khiếu nại, tố cáo không do người khiếu nại, tố

cáo trực tiếp chuyển đến thì thực hiện việc phân loại và xử lý theo quy định của

pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

Việc phân loại, chuyển nội dung kiến nghị, phản ánh đến cơ quan, tổ chức,

đơn vị, người có thẩm quyền thụ lý, giải quyết trong quá trình tiếp công dân được

thực hiện như sau:

- Trường hợp kiến nghị, phản ánh thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan,

tổ chức, đơn vị mình thì người tiếp công dân báo cáo người có thẩm quyền để

42

nghiên cứu, xem xét, giải quyết hoặc phân công bộ phận nghiên cứu, xem xét, giải

quyết;

- Trường hợp kiến nghị, phản ánh không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ

quan, tổ chức, đơn vị mình thì người tiếp công dân chuyển đơn hoặc chuyển bản ghi

lại nội dung trình bày của người kiến nghị, phản ánh đến cơ quan, tổ chức, đơn vị có

thẩm quyền để nghiên cứu, tiếp thu, xem xét, giải quyết.

2.1.4. Quy định của pháp luật về các biện pháp bảo đảm cho hoạt động tiếp

công dân

Việc bố trí cơ sở vật chất tại Trụ sở tiếp công dân được quy định tại Khoản 1

Điều 10 Nghị định 64/2014/NĐ-CP hướng dẫn Luật Tiếp công dân quy định: Trụ sở

tiếp công dân phải được bố trí ở địa điểm thuận lợi cho việc tiếp công dân, việc đi

lại của công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Trụ sở tiếp công dân các

cấp được trang bị phương tiện và các điều kiện cần thiết khác phục vụ việc tiếp công

dân. Việc bố trí cơ sở vật chất tại địa điểm tiếp công dân theo quy định tại khoản 2

điều 10 Nghị định 64/2014/NĐ-CP thì Cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm tiếp

công dân mà không cử người tham gia tiếp công dân thường xuyên tại Trụ sở tiếp

công dân các cấp phải bố trí địa điểm tiếp công dân, bảo đảm khang trang, thuận

tiện, có phòng tiếp công dân riêng, trang bị phương tiện và các điều kiện làm việc

cần thiết khác phục vụ cho việc tiếp công dân.

- Quy định bảo đảm về yếu tố cán bộ làm công tác tiếp dân

Việc tiếp công dân có hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều từ việc bố trí cán

bộ tiếp dân, các cấp ủy Đảng, chính quyền phải thường xuyên quan tâm công tác

tiếp dân, chọn lựa cán bộ tiếp dân đầy đủ tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức

lối sống, trình độ, năng lực, quan trọng hơn đó là kinh nghiệm công tác để có thể

tiếp công dân một cách hiệu quả. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác

tiếp dân cần phải được thực hiện thường xuyên và xem cán bộ làm công tác tiếp dân

là một chức danh trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước như thanh tra viên,

trợ giúp viên, công chứng viên...

Theo quy định tại Khoản 1, Điều 34, Luật tiếp công dân năm 2013 quy định:

43

“Cán bộ, công chức phải là người có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chuyên

môn, nắm vững chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, am hiểu thực tế, có

khả năng vận động, thuyết phục quần chúng, nhiệt tình, bảo đảm yêu cầu về sức

khỏe và có trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao.”

- Quy định của pháp luật về các điều kiện bảo đảm khác:

Luật Tiếp công dân năm 2013 quy định: Nhà nước có chính sách, bảo đảm

kinh phí đối với hoạt động tiếp công dân, áp dụng công nghệ thông tin và các

phương tiện kỹ thuật khác để xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tiếp công dân, xử

lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân phục vụ công tác tiếp

công dân. Người làm công tác tiếp công dân được hưởng chế độ bồi dưỡng tiếp

công dân và các chế độ khác theo quy định của Chính phủ; bảo đảm trật tự an ninh

trong hoạt động tiếp công dân.

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về tiếp công dân tại tỉnh Thanh Hóa

2.2.1 Khái quát chung về hoạt động tiếp công dân của UBND các cấp tại

tỉnh Thanh Hóa

Tiếp công dân là bước đầu tiên, bước rất quan trọng trong việc nắm bắt đúng

tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị, vướng mắc của người dân. Đặc biệt đây cũng là

bước đầu tiên của quá trình xem xét, giải quyết khiếu nại, tố táo trên địa bàn tỉnh.

Thông qua việc tiếp công dân, cán bộ, công chức có thể trực tiếp tiếp nhận các

khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của người dân về các vấn đề liên quan đến

quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị ảnh hưởng. Qua đó các cơ quan có thể truyền

đạt lại các quy định của pháp luật thông qua việc giải thích pháp luật, giải đáp thắc

mắc, vướng mắc về quyền và lợi ích hợp pháp của người dân trong một vấn đề cụ

thể. Ngoài ra, thông qua việc tiếp công dân thì các cơ quan nhà nước, tổ chức chính

trị xã hội sẽ nắm được việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách

pháp luật của nhà nước trên thực tế địa phương mình. Qua đó có thể thấy được

những điểm tích cực, ưu điểm, nhìn nhận ra được những hạn chế, yếu kém trong quá

trình thực hiện, áp dụng pháp luật để kịp thời có các biện pháp khắc phục.

Cùng với việc thu hút trên hàng chục dự án lớn, nhỏ vào tỉnh, đặc biệt là dự án

khu du lịch sinh thái của tập đoàn FLC, dự án Quảng trường biển và trục cảnh quan 44

lễ hội thành phố Sầm Sơn của tập đoàn Sun group, giải phóng mặt bằng và thực hiện

dự án đường duyên hải nối Sầm Sơn với khu kinh tế Nghi Sơn. Việc thực hiện tiếp

nhận, xử lý đơn và giải quyết khiếu nại, tố cáo được chú trọng hơn rất nhiều; UBND

các cấp, các sở, ngành đã tích cực triển khai thực hiện đúng trình tự, thủ tục, đảm

bảo về thời gian, đúng thẩm quyền, công khai, khách quan trong thẩm tra, xác minh;

quan tâm, chú trọng đối thoại trong quá trình giải quyết khiếu nại, đặc biệt công tác

hòa giải ở cơ sở đã phát huy tác dụng thiết thực góp phần giải quyết những vụ việc,

mâu thuẫn mới phát sinh trong nhân dân. Một số vụ việc phức tạp, tồn đọng, kéo dài

đã được cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, các ngành tập trung giải quyết dứt điểm.

Việc ban hành các Quyết định và công khai kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo cơ

bản đã được các cấp, các ngành thực hiện đảm bảo, đúng quy trình, quy định của

pháp luật. Công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm tiếp công dân, giải quyết khiếu

nại, tố cáo đã được cơ quan Thanh tra các cấp chủ động, tích cực tham mưu, đề xuất

các biện pháp, giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý Nhà nước về khiếu nại,

tố cáo và tăng cường công tác phối hợp, kiểm tra, đôn đốc xử lý, không để các vụ

việc tồn đọng, kéo dài; các vụ việc khiếu nại, tố cáo được giải quyết dứt điểm tại địa

phương, cơ sở, góp phần giữ vững ổn định tình hình nhân dân, duy trì tốc độ tăng

trưởng kinh tế - xã hội.

2.2.2. Về thực hiện trách nhiệm của UBND các cấp trong việc lãnh đạo, chỉ

đạo,điều hành hoạt động tiếp công dân

Trên địa bàn tỉnh trong những năm qua, công tác tiếp công dân nói riêng cũng

như công tác thực hiện pháp luật về tiếp công dân nói chung đã đạt được nhiều kết

quả cao. Để đạt được kết quả đó có thể nói đến trước tiên là sự quan tâm đặc biệt

của các cấp ủy, chính quyền tỉnh Thanh Hóa; công tác lãnh đạo, chỉ đạo chú trọng

công tác tiếp dân, hướng dẫn công dân đầy đủ, tận tình, tập trung giải quyết các vấn

đề khiếu nại, tố cáo của công dân một cách đúng đắn và hiệu quả. Việc chỉ đạo này

không chỉ theo giai đoạn mà tại tỉnh Thanh Hóa, hàng năm, UBND tỉnh đều có văn

bản chỉ đạo sát sao các cấp, các ngành trong công tác tiếp công dân. Tại cấp huyện,

UBND cấp huyện cũng đã có nhiều văn bản chỉ đạo các cơ quan, ban, ngành, đơn

45

vụ, đoàn thể cấp địa phương tổ chức thực hiện.

Luật Tiếp công dân năm 2013 được thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ ngày

01/7/2014, các cấp, các ngành đã triển khai tuyên truyền sâu rộng, tổ chức các lớp

tập huấn về Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo và các Nghị định

hướng dẫn thi hành, trong đó tập trung vào các điểm mới của Luật. Việc mở rộng

tuyên truyền đến nhiều nhóm đối tượng từ cán bộ chủ chốt của các đơn vị đến cán

bộ thanh tra, cán bộ tiếp công dân với nhiều hình thức đa dạng, phong phú như:

tuyên truyền trên hệ thống loa truyền thanh tại các xã, phường, thị trấn, trên hệ

thống trang tin điện tử của đơn vị, qua các hội nghị tuyên truyền, tập huấn, giải

thích, hướng dẫn pháp luật trực tiếp cho công dân thông qua các buổi tiếp công dân

đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ. Qua các buổi tuyên truyền, nhằm giúp cán

bộ, công chức, viên chức và nhân dân địa phương nâng cao hiểu biết pháp luật về

tiếp công dân, xử lý đơn thư, khiếu nại, tố cáo; từng bước nâng cao kỹ năng giải

quyết khiếu nại, tố cáo cũng như kỹ năng, kinh nghiệm trong công tác tiếp công dân,

biện pháp giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo cho cán bộ cơ sở. Đặc biệt, đối với

nhân dân thì được nâng cao hiểu biết pháp luật, thực hiện đúng các quyền và nghĩa

vụ của người khiếu nại, tố cáo, góp phần hạn chế tỷ lệ khiếu nại, tố cáo sai, ổn định

tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

Đặc biệt, thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu

nại, tố cáo, Quy định số 11-QĐ/TW ngày 18/02/2019 của Bộ Chính trị về trách

nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và

xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân; Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Chỉ

thị số 21-CT/TU ngày 08/4/2019 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công

tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và Quyết định số 2916-QĐ/TU ngày

08/4/2019 về quy chế, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến

nghị của dân với Bí thư Tỉnh ủy. Theo đó, Bí thư Tỉnh ủy tiếp công dân định kỳ 01

ngày/tháng tại Trụ sở Tiếp công dân tỉnh để tiếp nhận, chỉ đạo xử lý khiếu nại, tố

cáo, kiến nghị, phản ánh và hướng dẫn, giải đáp công dân theo quy định của pháp

46

luật; tham dự tiếp công dân có lãnh đạo UBND tỉnh, Ban Nội chính Tỉnh uỷ, Ban

Dân vận Tỉnh ủy, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, Văn phòng Tỉnh

ủy, Văn phòng HĐND tỉnh, Văn phòng UBND tỉnh, Thanh tra tỉnh, Sở Tài nguyên

và Môi trường, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Ban Tiếp công dân tỉnh và

các cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức có liên quan. Sau buổi tiếp công dân, Văn

phòng Tỉnh ủy tổng hợp, tham mưu văn bản thông báo ý kiến của đồng chí Bí thư

Tỉnh ủy đến UBND tỉnh chỉ đạo các cơ quan chức năng khẩn trương giải quyết vụ

việc theo thẩm quyền, rà soát lại các vụ việc phức tạp, kéo dài, đảm bảo vụ việc

được giải quyết khách quan, đúng quy định của pháp luật.

Với sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp, các ngành, toàn tỉnh đã giải quyết

được khối lượng lớn các vụ khiếu nại, tố cáo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người

dân, phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm, tăng cường hiệu quả công tác quản lý

nhà nước về tiếp công dân.

2.2.3. Về mô hình tiếp công dân

a) Cấp Tỉnh: Ngày 27/11/2014, Ban tiếp công dân tỉnh Thanh Hóa được thành

lập theo Quyết định số 4164/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa. Ban

tiếp công dân tỉnh trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, do một Phó Chánh Văn

phòng phụ trách, chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý Trụ sở tiếp công dân cấp tỉnh.

Ban tiếp công dân là nơi tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh với

Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Ban tiếp công dân thực hiện

tốt nhiệm vụ là cơ quan tham mưu giúp lãnh đạo UBND tỉnh trực tiếp quản lý trụ sở

tiếp công dân của tỉnh Thanh Hóa; phối hợp cùng đại diện các cơ quan, tổ chức hữu

quan thực hiện việc tiếp công dân thường xuyên tại Trụ sở tiếp công dân để tiếp

nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân theo quy định của pháp

luật; Tổ chức, hướng dẫn công dân thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh

theo đúng thẩm quyền, chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo theo đúng

quy định của pháp luật; tiếp nhận, phân loại, đề xuất, xử lý đơn thư; theo dõi, đôn

đốc tiến độ giải quyết của các cơ quan, đơn vị; Tổng hợp tình hình tiếp công dân và

báo cáo kết quả giải quyết thường xuyên và đột xuất với lãnh đạo UBND tỉnh; Phối

47

hợp với Thanh tra tỉnh trong các công việc có liên quan đến tiếp công dân, xử lý,

giải quyết đơn.

b) Ở cấp huyện: Tại các huyện của tỉnh Thanh Hóa, UBND cấp huyện đã thành

lập Ban Tiếp công dân cấp huyện trực thuộc Văn phòng HĐND và UBND do Phó

Chánh Văn phòng HĐND và UBND kiêm giữ chức vụ Trưởng Ban Tiếp công dân,

chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý, điều hành hoạt động của Ban Tiếp công dân tại

Trụ sở Tiếp công dân; bố trí từ 1 đến 2 công chức Văn phòng HĐND và UBND cấp

huyện làm nhiệm vụ tiếp công dân thường xuyên tại Trụ sở Tiếp công dân. Một số

địa phương cử thêm cán bộ, công chức các phòng, ban của huyện làm nhiệm vụ

phối hợp tiếp công dân tại Trụ sở Tiếp công dân.

Theo quy định của Luật Tiếp công dân, Ban Tiếp công dân cấp huyện phối hợp

với đại diện của Văn phòng Huyện ủy, Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy thực hiện việc

tiếp công dân thường xuyên tại Trụ sở Tiếp công dân. Trên thực tế, tại Trụ sở Tiếp

công dân cấp huyện, việc tiếp công dân thường xuyên chủ yếu do Ban Tiếp công

dân thực hiện. Tại cấp huyện của nhiều địa phương, chưa bố trí để công chức Văn

phòng Huyện ủy, Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy tham gia tiếp công dân thường xuyên.

Việc tiếp công dân của Văn phòng Huyện ủy, Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy được thực

hiện khi có yêu cầu vụ việc do khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh thuộc phạm vi

tiếp nhận của các cơ quan này không nhiều. Trước khi Luật Tiếp công dân năm

2013 có hiệu lực, việc tiếp công dân được giao cho cơ quan Thanh tra tỉnh giúp

UBND tỉnh trong tiếp dân, Thanh tra tỉnh cử cán bộ thanh tra thường trực làm công

tác tiếp dân vào thứ 3 và thứ 5 hàng tuần.

2.2.4. Về các biện pháp bảo đảm cho hoạt động tiếp công dân

- Về Trụ sở tiếp công dân: Hiện nay Trụ sở Tiếp công dân tỉnh Thanh Hóa từ

địa chỉ số 45B, Đại lộ Lê Lợi, phường Lam Sơn, thành phố Thanh Hóa được chuyển

đến địa điểm mới từ ngày 15-9-2020 tại địa chỉ: số 05, đường Hạc Thành, phường

Điện Biên, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Trụ sở đảm bảo khang trang và

có các điều kiện vật chất, kỹ thuật cần thiết cho việc tiếp công dân như hệ thống sổ

48

sách, bàn ghế, máy tính, camera. Thực hiện việc bảo đảm về yếu tố cán bộ làm công

tác tiếp dân: Phần lớn cán bộ, công chức được bố trí làm công tác tiếp công dân của

tỉnh Thanh Hóa và các huyện là người có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực

chuyên môn, trình độ từ Đại học hoặc thạc sỹ chuyên ngành luật nên nắm vững

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, am hiểu thực tế, có khả năng vận

động, thuyết phục quần chúng, nhiệt tình, bảo đảm yêu cầu về sức khỏe và có trách

nhiệm đối với nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó còn thực hiện các điều kiện bảo

đảm khác:

- Về chế độ chính sách cho cán bộ tiếp dân: Ngày 12/7/2017 Hội đồng nhân

dân tỉnh Thanh Hóa đã ban hành Nghị Quyết 49/2017/NQ-HĐND về quy định chế

độ bồi dưỡng đối với cán bộ công chức làm công tác tiếp dân, xử lý đơn khiếu nại,

tố cáo, kiến nghị, phản ánh trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, theo đó:

Tại khoản 2 điều 1 Nghị quyết 49/2017/NQ-HĐND quy định

“2.1. Mức chi 120.000 đồng/ngày/người áp dụng đối với các đối tượng sau:

a) Cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ hoặc phân công làm nhiệm vụ

tiếp công dân, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh tại trụ sở tiếp công

dân tỉnh, trụ sở tiếp công dân cấp huyện; địa điểm tiếp công dân tại các cơ quan

chuyên môn thuộc UBND tỉnh, các cơ quan trực thuộc cơ quan chuyên môn thuộc

UBND tỉnh, Ủy ban Mặt trận tổ quốc tỉnh, cơ quan của các tổ chức chính trị - xã hội

cấp tỉnh, cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, Ủy ban Mặt trận tổ quốc cấp

huyện, cơ quan của các tổ chức chính trị - xã hội cấp huyện, địa điểm tiếp công dân

cấp xã, đơn vị sự nghiệp công lập.

b) Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách

nhiệm tiếp công dân định kỳ hoặc đột xuất; cán bộ, công chức được cấp có thẩm

quyền triệu tập làm nhiệm vụ tiếp công dân, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,

phản ánh tại trụ sở tiếp công dân hoặc địa điểm tiếp công dân.”

Trường hợp các đối tượng quy định tại điểm 2.1 khoản 2 điều 1 này đang

được hưởng chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề thì mức chi bồi dưỡng là 90.000

đồng/ngày/người.

49

Mức chi 60.000 đồng/ngày/người theo quy định tại điểm 2.3 khoản 2 điều 1 Nghị

quyết 49/2017/NQ-HĐND áp dụng đối với các đối tượng sau: Cán bộ, công chức;

sỹ quan, hạ sỹ quan, chiến sỹ, quân nhân chuyên nghiệp và nhân viên quốc phòng

trong lực lượng vũ trang; cán bộ dân phòng, y tế, giao thông khi được cấp có thẩm

quyền giao nhiệm vụ hoặc phân công phối hợp tiếp công dân, giữ gìn an ninh, trật

tự, bảo đảm y tế tại trụ sở tiếp công dân hoặc địa điểm tiếp công dân. Người đứng

đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, cán bộ, công chức được

cấp có thẩm quyền giao nhiệm vụ chuyên trách xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, kiến

nghị, phản ánh.

- Về việc bảo đảm an ninh trật tự trong quá trình tiếp công dân: Ban tiếp công

dân cấp tỉnh, huyện khi tổ chức tiếp, xử lý trường hợp nhiều người khiếu nại, tố cáo,

kiến nghị, phản ánh về cùng một nội dung, thực hiện: Phối hợp với cơ quan công an

địa phương bảo đảm an ninh, trật tự và an toàn cho người tiếp công dân tại Trụ sở

tiếp công dân, xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật tại Trụ sở tiếp công dân.

2.3 Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về tiếp công dân tại tỉnh

Thanh Hóa

2.3.1. Những thành tựu

Việc thực hiện pháp luật về công tác tiếp công dân tại tỉnh Thanh Hóa đạt

được một số kết quả cụ thể sau:

- Thứ nhất, thời gian qua lãnh đạo các cấp, các ngành trong tỉnh đã nhận

thức được trách nhiệm của mình trong công tác thực hiện pháp luật về tiếp công

dân. Cấp tỉnh và cấp huyện đều có trụ sở tiếp công dân riêng, được bố trí trang thiết

bị đầy đủ phục vụ cho công tác tiếp công dân. UBND tỉnh đã duy trì công tác tiếp

công dân định kỳ hàng tháng tại Trụ sở Tiếp công dân của tỉnh theo quy định tại

Khoản 5, Điều 12, Luật Tiếp công dân và được cụ thể hóa tại Quy chế Tiếp công

dân trên địa bàn tỉnh; chỉ đạo Ban Tiếp công dân và các cơ quan, đơn vị liên quan

thực hiện tiếp công dân hàng ngày tại Trụ sở Tiếp công dân của tỉnh để theo dõi,

tổng hợp tình hình khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân. Chủ tịch và

các Phó Chủ tịch UBND tỉnh đã thực hiện việc tiếp công dân định kỳ, đột xuất theo 50

quy định tại Khoản 5, Điều 12 và Khoản 3, Điều 18 Luật Tiếp công dân. Theo đó,

mỗi tháng lãnh đạo UBND tỉnh chủ trì phiên tiếp công dân 01 lần, vào ngày 15 hàng

tháng (nếu trùng vào ngày nghỉ, ngày lễ thì tổ chức vào ngày làm việc tiếp theo) và

tiếp đột xuất theo quy định tại Điều 18, Luật Tiếp công dân năm 2013. Công dân

đến tiếp đều được kết luận, hướng dẫn, giải thích đúng quy định pháp luật. Các sở,

ban, ngành, địa phương có liên quan là thành viên Hội đồng Tiếp công dân tỉnh đã

cử lãnh đạo, chuyên viên nghiệp vụ tham gia các phiên tiếp công dân định kỳ, đột

xuất của lãnh đạo tỉnh theo đúng quy định của Luật Tiếp công dân và Quy chế Tiếp

công dân của tỉnh. Ban Tiếp công dân tỉnh duy trì thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân

thường xuyên tại Trụ sở Tiếp công dân của tỉnh theo đúng quy định tại Khoản 3,

Điều 12 Luật Tiếp công dân. Chủ tịch UBND cấp huyện, cấp xã đã thực hiện việc

tiếp công dân định kỳ, đột xuất theo đúng quy định.

Từ năm 2015 đến năm 2020, các cấp chính quyền tỉnh Thanh Hóa đã tiếp hơn

53.000 lượt công dân, cụ thể:

Năm 2015, các cơ quan hành chính Nhà nước trong tỉnh đã tiếp 7.506 lượt, gồm:

Tiếp thường xuyên là 5.320 lượt, tiếp định kỳ và đột xuất của lãnh đạo là 2.186 lượt.

Năm 2016, các cơ quan hành chính Nhà nước trong tỉnh đã tiếp 9.605 lượt,

gồm: Tiếp thường xuyên là 6.310 lượt, tiếp định kỳ và đột xuất của lãnh đạo là

3.295 lượt người. Trong đó: Cấp tỉnh tiếp 2.131 lượt; Cấp huyện tiếp 2.985 lượt;

Cấp sở tiếp 568 lượt; Cấp xã tiếp 3.921 lượt.

Năm 2017, các cơ quan hành chính Nhà nước trong tỉnh đã tiếp 8.101 lượt,

gồm: Tiếp thường xuyên là 5.367 lượt, tiếp định kỳ và đột xuất của lãnh đạo là

2.734 lượt người. Trong đó: Cấp tỉnh tiếp 1.381 lượt; Cấp huyện tiếp 2.372 lượt;

Cấp sở tiếp 540 lượt; Cấp xã tiếp 3.808 lượt, trong đó có 18 đoàn đông người.

Năm 2018, các cơ quan hành chính Nhà nước trong tỉnh đã tiếp 8.956 lượt,

gồm: Tiếp thường xuyên là 5.770 lượt, tiếp định kỳ và đột xuất của lãnh đạo là

3.166 lượt người. Trong đó: Cấp tỉnh tiếp 1.839 lượt; Cấp huyện tiếp 3.010 lượt;

Cấp sở tiếp 402 lượt; Cấp xã tiếp 3.685 lượt.

51

Năm 2019, các cơ quan hành chính Nhà nước trong tỉnh đã tiếp 9.068 lượt,

gồm: Tiếp thường xuyên là 5.795 lượt, tiếp định kỳ và đột xuất của lãnh đạo là

3.273 lượt người. Trong đó: Cấp tỉnh tiếp 1.679 lượt; Cấp huyện tiếp 3.310 lượt;

Cấp sở tiếp 992 lượt; Cấp xã tiếp 3.087 lượt, trong đó có 23 đoàn đông người.

Năm 2020, các cơ quan hành chính Nhà nước trong tỉnh đã tiếp 10.075 lượt,

gồm: Tiếp thường xuyên là 6.840 lượt, tiếp định kỳ và đột xuất của lãnh đạo là

3.235 lượt người. Trong đó: Cấp tỉnh tiếp 1.114 lượt; Cấp huyện tiếp 3.613 lượt;

Cấp sở tiếp 872 lượt; Cấp xã tiếp 4.476 lượt, trong đó có 14 đoàn đông người.

Nội dung tiếp công dân tập trung về lĩnh vực đất đai, liên quan đến thu hồi đất,

bồi thường GPMB, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tranh chất đất đai, đòi lại

đất cũ...; các nội dung liên quan đến chế độ chính sách bảo hiểm xã hội, chính sách

người có công, bình xét hộ nghèo chiếm tỷ lệ thấp. Tố cáo chủ yếu về các hành vi vi

phạm quy chế dân chủ trong xây dựng nông thôn mới; không thực hiện nghiêm túc

các quyết định xử lý, giải quyết của cấp có thẩm quyền, vi phạm nguyên tắc quản lý

tài chính, đầu tư xây dựng...

- Thứ hai, sau khi Luật Tiếp công dân năm 2013 có hiệu lực thi hành, toàn hệ

thống chính trị của tỉnh Thanh Hóa đã nghiêm túc quán triệt, triển khai thực hiện

việc tuyên truyền, phổ biến Luật Tiếp công dân, Nghị định số 64/2014/NĐ-CP ngày

26/6/2014 của Chính phủ Quy định chi tiết một số Điều của Luật Tiếp công dân và

các văn bản chỉ đạo của Thanh tra Chính phủ đối với công tác tiếp công dân; đồng

thời kịp thời ban hành các văn bản đôn đốc, chỉ đạo nâng cao hiệu quả trong công

tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.

- Thứ ba, Công tác bố trí cán bộ tiếp công dân ngày càng được tăng cường.

Hiện tại Ban Tiếp công dân của tỉnh có 06 cán bộ chuyên trách tiếp công dân; ở cấp

huyện, mỗi Ban tiếp công dân có 02 cán bộ chuyên trách. Các sở, ngành trên địa bàn

tỉnh đều bố trí cán bộ thanh tra tham mưu và trực tiếp tiếp công dân, xử lý đơn thư

khiếu nại, tố cáo gửi đến cơ quan theo quy định. Công tác bồi dưỡng, tập huấn kỹ

năng tiếp công dân được quan tâm thường xuyên. Hàng năm, Thanh tra tỉnh đã tham

mưu cho UBND tỉnh tổ chức các lớp tập huấn pháp luật về kỹ năng tiếp công dân và 52

giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân cho cán bộ, công chức trực tiếp làm công

tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Việc phối hợp tốt giữa các cơ quan

hữu quan là một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của công tác

tiếp công dân, cán bộ phụ trách tiếp công dân là người phải chủ động, tích cực tạo

lập và duy trì các mối quan hệ này vì được hình thành do nhu cầu của công việc và

phục vụ cho công việc. Ngoài việc nắm vững các quy định pháp luật để vận dụng,

cần phải có kỹ năng giao tiếp, xây dựng các mối quan hệ để giải quyết công việc

nhanh chóng, đạt hiệu quả.

2.3.2. Hạn chế, nguyên nhân của hạn chế trong thực hiện pháp luật về tiếp

công dân của Ủy ban nhân dân các cấp từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa

Thực trạng thực hiện pháp luật về tiếp công dân tại tỉnh Thanh Hóa vẫn còn tồn

tại nhiều bất cập, hạn chế dẫn đến tình hình đơn thư có chiều hướng gia tăng, cụ thể:

Thứ nhất, sự quan tâm, chỉ đạo của Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể

đối với công tác tiếp công dân nói chung và việc thực hiện pháp luật về tiếp công

dân nói riêng chưa kịp thời và đúng mực. Nhiều đồng chí lãnh đạo chưa trực tiếp

tiếp công dân đầy đủ theo quy định, còn có tư tưởng khoán trắng cho một số cơ

quan chuyên môn. Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể chưa tổ chức đối thoại,

chỉ đạo giải quyết các vụ việc phức tạp ngay từ nơi phát sinh; chưa chấn chỉnh

những việc làm sai trái của cán bộ, cơ quan cấp dưới; còn yếu trong hướng dẫn công

dân thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Điều đó

dẫn đến sự phối hợp là chưa được tốt. Việc thành lập Ban tiếp công dân tại các tỉnh

chưa hiệu quả; các vụ việc chưa được địa phương quan tâm nhiều nên có nhiều đơn

thư vượt cấp; chưa chủ động tiếp công dân tại địa phương, vẫn còn tình trạng đùn

đẩy, né tránh tiếp công dân; chưa kiểm tra, thanh tra thường xuyên hoạt động tiếp

công dân tại các địa phương. Công tác tiếp công dân đôi khi còn hình thức, chưa

phát huy được hiệu quả, chưa thực sự lắng nghe, nắm bắt được nguyện vọng, mong

muốn của nhân dân. Công tác tiếp dân ở một số địa phương chưa được quan tâm

đúng mức, địa điểm, thời gian tiếp dân chưa phù hợp, duy trì nhiệm vụ sau tiếp dân

53

chưa kịp thời và có hiệu quả thấp. Việc chấp hành các quy định của pháp luật về

tiếp dân, vẫn còn hạn chế ở một số phòng, ban, đơn vị, phường, xã.

Thứ hai, Việc tiếp dân định kỳ tại một số nơi còn chưa đảm bảo đúng quy

định của Luật Tiếp công dân; giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền tại một

số địa phương còn chậm, chưa đúng trình tự, thủ tục, chính sách pháp luật và chưa

phù hợp với thực tiễn. Ngoài ra, tỷ lệ giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc

thẩm quyền đạt hiệu quả thấp hơn so với mục tiêu đề ra. Nhiều cấp, ngành, địa

phương, thủ trưởng ủy quyền cho cấp phó thực hiện việc tiếp công dân định kỳ là

không đúng quy định pháp luật. Luật Tiếp công dân 2013 không quy định người

đứng đầu được ủy quyền trong công tác tiếp công dân. Theo đó, Khoản 4, Điều 24

Luật Tiếp công dân chỉ quy định “trường hợp không thể thực hiện việc tiếp công

dân theo lịch đã công bố do có lý do chính đáng thì có thể lùi lịch tiếp công

dân sang thời gian khác”. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến chất lượng tiếp công

dân thấp, tình trạng khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài gia tăng, không đạt được

mục tiêu nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Thứ ba, Việc tuyên truyền về khiếu nại, tố cáo thiếu đồng bộ và yếu; Cơ sở

dữ liệu quốc gia về khiếu nại, tố cáo không triển khai được; tình trạng cán bộ tiếp

công dân ở một số địa phương không biết phân loại đơn thư; báo cáo các huyện về

việc phối hợp tiếp công dân chưa chưa chính xác, kịp thời; báo cáo còn mang tính

hình thức; trách nhiệm người đứng đầu trong tiếp và chỉ đạo tiếp công dân chưa cao;

công dân khiếu nại, tố cáo sai nhiều mà không có chế tài cụ thể xử lý. Việc giải

quyết đơn của công dân hiện nay là không có điểm dừng do công tác phối hợp tiếp

dân giữa các cơ quan tiếp công dân chưa tốt; do phối hợp giữa cơ quan tiếp công

dân với cơ quan xử lý, giải quyết đơn thư chưa tốt; do tình trạng né tránh, đùn đẩy

đơn thư từ Trung ương xuống địa phương; do chưa có cơ sở dữ liệu quốc gia về

khiếu nại, tố cáo.

Thứ tư, Cơ chế vận hành Ban tiếp công dân ở các cấp còn nhiều bất cập; việc

tiếp công dân giải quyết vấn đề chống tham nhũng không có đầu ra nên dẫn đến

nhiều bất cập và nhiều bức xúc không thể giải quyết; các cơ quan tiếp công dân tại

54

Trụ ở tiếp công dân phối hợp chưa đồng bộ. Có nhiều công dân đến chọn cơ quan

tiếp công dân theo ý mình, mặc dù đơn thư đó không đúng thẩm quyền giải quyết

của cơ quan được chọn đó; công tác phối hợp của các cơ quan tiếp công dân xử lý

những tình huống này còn hạn chế, dẫn đến gia tăng đơn thư gửi lòng vòng, vượt

cấp, không đúng thẩm quyền.

Thứ năm, Hệ thống văn bản phát luật tiếp công dân còn chung chung, đặc biệt

là các văn bản pháp luật về đất đai còn thiếu sự đồng bộ và chưa phù hợp với thực

tế, thay đổi thường xuyên làm cho việc nắm bắt các văn bản để trả lời công dân gặp

nhiều khó khăn. Pháp luật tiếp công dân quy định “quyền” không đi đôi với “nghĩa

vụ” của người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Thực trạng “quyền thì nhiều”,

“nghĩa vụ thì ít” nên dẫn đến tình trạng người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản

ánh đã lạm dụng các quyền như một công cụ đẩy các vụ việc khiếu nại, tố cáo tăng

lên tính phức tạp. Nhiều trường hợp biết khiếu nại không có cơ sở nhưng vẫn tiếp

tục khiếu nại. Tố cáo sai chiếm tỷ lệ khá cao, nhưng các cơ quan vẫn phải giải

quyết, gây tốn kém chi phí, công sức và thời gian. Mặt khác, tại một số địa phương,

vẫn còn một bộ phận công chức chưa thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được

giao; chất lượng tham mưu, đề xuất các vụ việc chuyển đơn còn lòng vòng; công tác

phối hợp, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện chưa được thường xuyên, kết nối thông

tin chưa đầy đủ, chưa đảm bảo nguyên tắc kịp thời trong công tác tiếp công dân.

Pháp luật tiếp công dân quy định không cụ thể về năng lực, trình độ của cán

bộ tiếp công dân nên việc chọn, bố trí cán bộ tiếp công dân chưa thật sự đảm bảo

theo yêu cầu về năng lực, trình độ và kỹ năng. Trong việc giải quyết đơn thư, còn

nhầm lẫn giữa khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh dẫn đến tình trạng không giải

quyết dứt điểm các các vụ việc phức tạp, kéo dài. Công chức tiếp công dân ở cấp xã,

cấp quận, huyện còn kiêm nhiệm công tác khác, chưa tham mưu kịp thời công tác

tiếp công dân theo quy định.

Thứ sáu, Pháp luật tiếp công dân quy định không đồng bộ giữa “tiếp công

dân” và “giải quyết đơn thư”. Tiếp công dân theo pháp luật tiếp công dân; xử lý đơn

thư theo pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị. Ban tiếp công

55

dân các cấp chỉ có trách nhiệm tiếp nhận, phân loại rồi chuyển đến cơ quan có thẩm

quyền giải quyết; theo dõi, kiểm tra, đôn đốc cơ quan có thẩm quyền giải quyết

nhưng không tham gia giải quyết, kết luận. Trong khi đó, công dân đến Trụ sở tiếp

công dân khiếu nại, tố cáo chỉ biết gửi đơn và thu lại kết quả tại chính nơi gửi đơn.

Bất cập chính là cán bộ tiếp công dân không thể trả lời cho công dân được về kết

quả xử lý đơn thư cũng như quá trình giải quyết đang ở giai đoạn nào, bao lâu thì có

kết luận (hoặc có quyết định). Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đơn thư gửi lòng

vòng, vượt cấp, kéo dài, đặc biệt là mất lòng tin của dân đối với cơ quan tiếp công

dân.

Thứ bảy, pháp luật tiếp công dân quy định không cụ chế tài xử lý người lợi

dụng quyền dân chủ, quyền khiếu nại, tố cáo để kích động, lôi kéo, xúi giục, tổ chức

khiếu nại đông người, vượt cấp nên một số công dân khiếu nại, phản ánh theo kiểu

được thì tốt, không thì thôi; nhiều trường hợp cố ý khiếu nại, tố cáo trái pháp luật để

gây rối trật tự công cộng. Do các cấp có thẩm quyền không có cơ sở để ban hành kịp

thời các quy định hướng dẫn biện pháp chế tài cụ thể áp dụng đối với những người

khiếu nại, tố cáo không đúng sự thật, đã được các cơ quan có thẩm quyền trả lời,

giải thích nhưng vẫn tiếp tục khiếu nại; do chưa có giải pháp xử lý nghiêm những

người lợi dụng quyền dân chủ, quyền không có giải pháp cụ thể để giải quyết dứt

điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo của công dân theo kiểu kích động, lôi kéo, xúi

giục tổ chức khiếu nại đông người, vượt cấp.

Pháp luật tiếp công dân không quy định chi tiết về chế tài xử lý đối với cán bộ

tiếp công dân; không có mức xử phạt cụ thể cho từng hành vi vi phạm pháp luật

trong hoạt động tiếp công dân dẫn đến nhiều hành vi vi phạm không có quy định để

xử phạt nên nhiều cán bộ tiếp công dân vi phạm mà cơ quan tiếp công dân không có

chế tài xử lý. Từ lý do này mà nhiều các vụ việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trái

pháp luật thường xuyên xảy ra gây bức xúc cho xã hội. Đây cũng là nguyên nhân

dẫn đến nhiều vụ việc khiếu lại tố cáo đông người, phức tạp, kéo dài; đơn thư lòng

vòng, vượt cấp; tỷ lệ giải quyết đơn thư trái pháp luật gia tăng.

56

Pháp luật tiếp công dân không quy định cụ thể Quy chế mẫu về việc phối hợp

giữa Ban tiếp công dân với các cơ quan Đảng tham gia tiếp công dân thường xuyên

tại trụ sở tiếp công dân các cấp. Pháp luật tiếp công dân không quy định cụ thể các

tiêu chí xây dựng “cơ sở dữ liệu quốc gia về khiếu nại, tố cáo” để quản lý các vụ

việc khiếu nại, tố cáo được thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Hiện nay,

mỗi cơ quan tiếp công dân sử dụng riêng một phần mềm nên không thống nhất được

chỉ đạo điều hành giải quyết từ Trung ương đến địa phương dẫn đến những vụ việc

phức tạp, đông người, kéo dài không có giải pháp giải quyết dứt điểm; đồng thời

khó khăn cho việc thực hiện chế độ thông tin báo cáo.

Vì vậy, trong thời gian tới, để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tiếp

công dân, giải quyết KNTC trước hết, cần tiếp tục quán triệt, xây dựng kế hoạch và

tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Luật Tiếp công dân, đẩy mạnh công tác lãnh

đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền nhất là việc nâng cao nhận thức,

tăng cường trách nhiệm của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp, thủ trưởng các cơ

quan hành chính Nhà nước trong công tác tiếp công dân; thực hiện nghiêm túc việc

tổ chức đối thoại với công dân; nâng cao vai trò của người đứng đầu cơ quan, tổ

chức trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, hạn chế việc ủy quyền tiếp công dân cho cấp

dưới, bộ phận tham mưu.

2.3.2.2 Nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện pháp luật về tiếp

công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa

Bên cạnh những kết quả đạt được, thực hiện pháp luật về tiếp công dân tại

tỉnh Thanh Hóa còn một số hạn chế như sau:

Do nhận thức của một số lãnh đạo bộ, ngành, địa phương chưa đúng mức, chưa

thực sự coi công tác tiếp dân là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng

cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, góp phần ổn định chính trị, xã hội, phát

huy quyền dân chủ của công dân, có nơi còn né tránh, đùn đẩy dẫn đến việc tiếp

công dân chưa đạt kết quả cao.

Pháp luật tiếp công dân còn nhiều hạn chế, bất cập, thiếu đồng bộ nên chưa

đáp ứng được yêu cầu một số công việc cụ thể trong hoạt động tiếp công dân; chưa

57

phân định rõ việc tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo với kiến nghị, phản ánh; chưa

quy định rõ việc tiếp công dân của người đứng đầu với việc tiếp công dân của công

chức; giữa việc tiếp công dân thường xuyên với việc tiếp công dân theo yêu cầu cần

thiết đối với vụ việc phức tạp, có nhiều người tham gia.

Mặt khác, nhiều vấn đề do lịch sử để lại hoặc chính sách, pháp luật về các

lĩnh vực nhạy cảm như nhà ở, đất đai, đền bù, giải phóng mặt bằng… còn nhiều bất

cập nên việc giải thích, trả lời cho công dân gặp nhiều vướng mắc.

Thực hiện pháp luật về tiếp công dân còn bộc lộ không ít hạn chế, vướng mắc

liên quan đến trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác tiếp công dân; hoặc

việc tổ chức tiếp công dân tại địa điểm tiếp công dân, trụ sở tiếp công dân như:

Quy định đối với trách nhiệm của chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp huyện: Luật

TCD quy định cụ thể trách nhiệm TCD trực tiếp của chủ tịch UBND cấp tỉnh định

kỳ mỗi tháng 1 ngày, chủ tịch UBND cấp huyện theo định kỳ mỗi tháng 2 ngày.

Việc quy định trách nhiệm của chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp huyện trong

công tác TCD theo Khoản 5 Điều 12 và Khoản 5 Điều 13 Luật TCD là rất khó thực

hiện vì chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp huyện là người đứng đầu cơ quan hành chính

Nhà nước phải chỉ đạo, điều hành nhiều lĩnh vực quan trọng khác. Mặt khác, có

những vụ việc, phó chủ tịch UBND tiếp trong phạm vi nhiệm vụ chuyên môn được

giao cũng đảm bảo sự hài lòng của người dân. Do vậy, để phù hợp với thực tiễn,

không nên quy định cứng là chủ tịch UBND tiếp định kỳ mà cần quy định tần suất

tiếp định kỳ của lãnh đạo UBND nói chung hoặc trong những trường hợp cần thiết

chủ tịch được ủy quyền hoặc giao cho phó chủ tịch TCD.

Ở một số địa phương, dù đã có cán bộ TCD thường xuyên tại trụ sở TCD cấp

tỉnh, cấp huyện nhưng hầu hết công dân vẫn chờ đợi đến các buổi TCD định kỳ của

chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp huyện để đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh

mà không đến khiếu nại, tố cáo kiến nghị, phản ánh với cán bộ thường trực TCD

thường xuyên hàng ngày tại trụ sở TCD dẫn đến tình trạng nhiều công dân đến

khiếu kiện vượt cấp, tập trung đông người, gây mất trật tự, an ninh tại trụ sở TCD.

Liên quan đến quy định tổ chức TCD tại địa điểm TCD, trụ sở TCD: 58

Tại Khoản 2 Điều 19 Luật TCD quy định “Chính phủ quy định chi tiết việc

bố trí cơ sở vật chất của địa điểm TCD”. Tuy nhiên, Điều 10 Nghị định

64/2014/NĐ-CP chỉ quy định chung chung nên trong quá trình triển khai thực hiện

còn chưa thống nhất. Mặt khác, do khó khăn về mặt bằng, diện tích trụ sở cơ quan

nên một số bộ, ngành, địa phương khó đảm bảo theo yêu cầu.

Luật TCD và văn bản hướng dẫn thi hành cũng chưa quy định cụ thể số lượng

cán bộ, công chức làm công tác TCD tại ban TCD cấp tỉnh, cấp huyện dẫn đến khó

khăn trong bố trí cán bộ làm công tác TCD.

Về TCD của các cơ quan tham gia TCD thường xuyên tại trụ sở TCD cấp

tỉnh, cấp huyện: Theo quy định tại Khoản 3 Điều 12 Luật TCD thì các cơ quan, như:

Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh, Văn phòng Tỉnh ủy,

Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, Ban Nội chính Tỉnh ủy phải phối hợp cử cán bộ TCD

thường xuyên tại trụ sở TCD tỉnh. Tuy nhiên, hiện nay, ở một số địa phương, do

điều kiện biên chế và số lượt TCD liên quan đến thẩm quyền giải quyết của từng cơ

quan này không nhiều nên các cơ quan này TCD tại trụ sở TCD tỉnh thường được

thực hiện theo yêu cầu vụ việc mà không cử cán bộ TCD thường xuyên theo quy

định của Luật TCD.

Tương tự, đối với cấp huyện. Việc TCD của Văn phòng Huyện ủy, Ủy ban

Kiểm tra Huyện ủy được thực hiện khi có yêu cầu vụ việc do khiếu nại, tố cáo, kiến

nghị, phản ánh thuộc phạm vi tiếp nhận của các cơ quan này không nhiều.

Do việc triển khai cơ chế, chính sách đến các cơ sở chưa tốt; ý thức người dân

chưa cao; có sự kích động của các nhóm phản động; việc tiếp công dân của người

đúng đầu chưa đầy đủ; quy chế phối hợp không đồng bộ từ Trung ương đến địa

phương; các cơ quan tiếp công dân địa phương phối hợp còn mang tính hình thức;

chưa có sự chỉ đạo thống nhất từ Trung ương đến địa phương trong hoạt động tiếp

công dân; chưa có sự phối hợp các cơ quan tiếp công dân thống nhất từ Trung ương

đến địa phương.

Bên cạnh đó, cơ sở dữ liệu về công tác TCD chưa được xây dựng, triển khai

đồng bộ từ Trung ương đến địa phương nên một số vụ việc đã được địa phương

59

thông báo chấm dứt giải quyết khiếu nại nhưng Ban TCD Trung ương, các bộ,

ngành ở Trung ương vẫn chuyển đơn về đề nghị xem xét, giải quyết nên người dân

liên tục kéo đến trụ sở TCD ở địa phương yêu cầu giải quyết mặc dù đã được giải

thích nhiều lần, gây khó khăn trong việc giải thích khi TCD.

Khoản 3 Điều 9 Luật TCD quy định cán bộ TCD có quyền từ chối tiếp trong

trường hợp “người khiếu nại, tố cáo về vụ việc đã giải quyết đúng chính sách, pháp

luật, được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, rà soát, thông báo bằng văn

bản và đã được tiếp, giải thích, hướng dẫn nhưng vẫn cố tình khiếu nại, tố cáo kéo

dài”. Thực tế, nhiều trường hợp đã có thông báo chấm dứt giải quyết, công dân vẫn

liên tục đến khiếu nại, tố cáo gay gắt mà cán bộ TCD không thể từ chối việc tiếp.

Cũng tại điểm c Khoản 1 Điều 26 Luật TCD quy định: “Trường hợp khiếu nại,

tố cáo đã được giải quyết đúng chính sách, pháp luật thì người TCD giải thích,

hướng dẫn để người đến khiếu nại, tố cáo chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải

quyết khiếu nại, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo và yêu cầu công dân

chấm dứt việc khiếu nại, tố cáo” [20]. Tuy nhiên, thực tế quy định này rất khó thực

hiện vì người TCD không có đủ cơ sở, điều kiện để xác định khiếu nại, tố cáo đó đã

được giải quyết đúng chính sách, pháp luật hay chưa. Do đó, cần hướng dẫn cụ thể

hơn nữa để tạo thuận lợi cho cán bộ TCD làm nhiệm vụ.

Một bất cập nữa phát sinh trong thực tiễn thực hiện pháp luật về TCD là hiện

không quy định chế tài xử lý đối với người khiếu nại, tố cáo đã được cơ quan có

thẩm quyền giải quyết, trả lời theo đúng quy định của pháp luật nhưng vẫn cố tình

kéo đến trụ sở, địa điểm TCD của các cơ quan Trung ương và các bộ, ngành, địa

phương đề nghị giải quyết theo yêu cầu của họ, gây áp lực, cản trở công tác TCD.

Cũng chưa có quy định chế tài xử lý đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức thiếu trách

nhiệm trong công tác TCD , giải quyết khiếu nại, tố cáo để xảy ra khiếu nại, tố cáo

phức tạp, đông người gây mất an ninh, trật tự. Do đó, khi công dân có các biểu hiện

quá khích, gây rối, đe dọa, cố tình không chấp hành quy định về TCD thì cán bộ

TCD mới chỉ dừng lại ở việc nhắc nhở, thuyết phục.

60

Đặc biệt, pháp luật TCD chưa có hướng dẫn cụ thể việc tiếp và xử lý đối với

trường hợp đoàn đông người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về một nội

dung nhưng không có văn bản cử người đại diện, hình thức yêu cầu cơ quan, tổ

chức, đơn vị có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu, cử người tham gia TCD cũng

chưa được quy định rõ.

Tại Khoản 3 Điều 8, Khoản 1 Điều 30 Luật TCD quy định “cán bộ TCD chỉ

ghi chép đầy đủ, chính xác nội dung mà người khiếu nại, tố cáo kiến nghị, phản ánh

trình bày khi công dân biết tiếng Việt mà không có khả năng viết tiếng Việt” [20].

Trên thực tiễn, cán bộ TCD khó xác định thế nào là người đó không có khả năng

viết tiếng Việt và lợi dụng quy định này, các đối tượng xấu đã có hành vi chây ì, kéo

dài thời gian tiếp, xúc phạm cán bộ TCD, gây mất an ninh, trật tự. Nhiều trường hợp

công dân trực tiếp đến tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá

nhân tại nơi TCD và yêu cầu được giữ bí mật họ tên, địa chỉ, bút tích nhưng việc

thực hiện yêu cầu này khó được đảm bảo tuyệt đối vì có nhiều thành phần cùng

tham gia tiếp và bảo vệ trật tự tại nơi TCD.

61

Kết luận chương 2

Qua nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về Tiếp công dân từ thực tiễn

tỉnh Thanh Hóa nhận thấy: Hệ thống pháp luật về Tiếp công dân đã cơ bản hoàn

thiện, đầy đủ và phù hợp với thực tế phát triển của xã hội hiện nay.

Tiếp công dân là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, các cơ quan nhà nước là

nơi trực thực hiện các thủ tục hành chính cho công dân, là nơi ban hành của các

quyết định hành chính, nơi mà có các cán bộ thực hiện các hành vi hành chính. Tuy

nhiên, UBND các cấp là cơ quan tiếp công dân nhiều nhất, tại các UBND các cấp

đều có nơi tiếp công dân, ban tiếp công dân. Bởi UBND các cấp là nơi có thẩm

quyền chung, quản lý toàn diện các mặt đời sống xã hội tại địa phương và trực tiếp

quản lý, gần với dân nhất. Theo đó, hiệu quả của hoạt động tiếp công dân phụ thuộc

nhiều vào tình hình kinh tế, xã hội và trình độ nhận thức của cán bộ và nhân dân ở

mỗi địa phương.

Từ thực tiễn đó là cơ sở để tác giả đưa ra những giải pháp để bảo đảm thực

hiện pháp luật về tiếp công dân và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về

tiếp công dân của các cấp chính quyền tỉnhThanh Hóa trong thời gian tiếp theo.

62

CHƯƠNG III

QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ

TIẾP CÔNG DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA

3.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về tiếp công dân

Để hướng đến một Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa, một xã hội công

bằng dân chủ văn minh, một nền kinh tế minh bạch, thì công tác tiếp dân, giải quyết

khiếu nại, tố cáo có nhiệm vụ, vai trò chính trị cực kỳ quan trọng trong quá trình

quản lý nhà nước. Thông qua tiếp dân, cán bộ lãnh đạo sẽ có cơ hội nắm bắt được

tâm tư, nguyện vọng và những băn khoăn, trăn trở của nhân dân, trên cơ sở đó điều

chỉnh sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật cho phù hợp với thực tế phát triển

vận động của xã hội, tạo được niềm tin trong nhân dân với Đảng và Nhà nước.

Để đảm bảo thực hiện pháp luật về tiếp công dân của tỉnh Thanh Hóa trong

thời gian tới đạt được kết quả tốt, hạn chế đơn thư khiếu nại, tố cáo kéo dài, các cơ

quan cần có các quan điểm sau:

Thứ nhất, Tiếp công dân là việc làm thể hiện mối quan hệ trực tiếp giữa Nhà

nước và công dân, thể hiện bản chất của Nhà nước ta là của dân, do dân và vì dân, là

một hoạt động thể hiện trách nhiệm, quyền hạn của cán bộ trên cơ sở các quy định

của pháp luật, thông qua hoạt động cụ thể nhằm lắng nghe, nắm bắt tâm tư, nguyện

vọng chính đáng của nhân dân để giải quyết theo quy định.

Thứ hai, coi tiếp công dân là nhiệm vụ chính trị quan trọng của cả hệ thống

chính trị, của các cấp, các ngành, các địa phương trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Thực

hiện nhiệm vụ tiếp công dân là một trong những tiêu chí để đánh giá việc thực hiện

chức trách, nhiệm vụ của UBND các cấp.

Thứ ba, Thực hiện Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo không chỉ

là trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, mà còn là trách nhiệm của cả cộng đồng. Để

nâng cao chất lượng công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn

tỉnh Thanh Hóa cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm đảm bảo cho hoạt

động tiếp công dân đạt kết quả tốt.

63

Từ năm 2015 đến năm 2020, tỉnh Thanh Hóa đã ban hành nhiều văn bản chỉ

đạo để nâng cao trách nhiệm Thủ trưởng đơn vị trong công tác tiếp công dân, cụ thể:

Thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố

cáo, Quy định số 11-QĐ/TW ngày 18/02/2019 của Bộ Chính trị về trách nhiệm của

người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý

những phản ánh, kiến nghị của dân; Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Chỉ thị số

21-CT/TU ngày 08/4/2019 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và Quyết định số 2916-QĐ/TU ngày

08/4/2019 về quy chế, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến

nghị của dân với Bí thư Tỉnh ủy. Theo đó, Bí thư Tỉnh ủy tiếp công dân định kỳ 01

ngày/tháng tại Trụ sở Tiếp công dân tỉnh để tiếp nhận, chỉ đạo xử lý khiếu nại, tố

cáo, kiến nghị, phản ánh và hướng dẫn, giải đáp công dân theo quy định của pháp

luật; tham dự tiếp công dân có lãnh đạo UBND tỉnh, Ban Nội chính Tỉnh uỷ, Ban

Dân vận Tỉnh ủy, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, Văn phòng Tỉnh

ủy, Văn phòng HĐND tỉnh, Văn phòng UBND tỉnh, Thanh tra tỉnh, Sở Tài nguyên

và Môi trường, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Ban Tiếp công dân tỉnh và

các cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức có liên quan. Sau buổi tiếp công dân, Văn

phòng Tỉnh ủy tổng hợp, tham mưu văn bản thông báo ý kiến của đồng chí Bí thư

Tỉnh ủy đến UBND tỉnh chỉ đạo các cơ quan chức năng khẩn trương giải quyết vụ

việc theo thẩm quyền, rà soát lại các vụ việc phức tạp, kéo dài, đảm bảo vụ việc

được giải quyết khách quan, đúng quy định của pháp luật, nhằm đảm bảo quyền lợi

cho công dân.

Chủ tịch UBND các cấp, Thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước, Ban

Tiếp công dân tỉnh, cấp huyện và công chức tiếp công dân các sở, ban, ngành thực

hiện nghiêm chế độ tiếp công dân thường xuyên, định kỳ và đột xuất theo quy định

của Luật tiếp công dân, các văn bản chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Thanh tra

Chính phủ và Chủ tịch UBND tỉnh về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, trách

nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, thủ trưởng, cơ quan, đơn vị trong việc tiếp đối

64

thoại với công dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người dân để kịp thời giải

quyết đúng chính sách pháp luật những phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của

công dân.

Trong 5 năm (2015-2020), các cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

tiếp trên 35 ngàn lượt công dân đến KNTC, phản ánh, kiến nghị liên quan tới nhiều

lĩnh vực như: chính sách hỗ trợ, bồi thường, tái định cư khi thực hiện thu hồi đất

triển khai các dự án; việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tranh chấp đất

đai; chế độ chính sách liên quan tới tiền lương, hợp đồng lao động, bảo hiểm xã

hội… Nhờ thực hiện tốt công tác tiếp công dân và giải quyết KNTC nên phần lớn

các vụ việc đều đã được các cơ quan nhà nước trên địa bàn quan tâm, giải quyết rốt

ráo.

Để thành công trên là nhờ UBND tỉnh kịp thời ban hành Quyết định

698/QĐ-UBND ngày 23-3-2015 về quy chế tiếp công dân. Trên cơ sở đó, các cơ

quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh ban hành lịch tiếp công dân định kỳ của

cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân đúng quy định. Đặc biệt, các cơ quan, đơn vị, tổ

chức, cá nhân còn công khai lịch công tác tiếp công dân tại trụ sở tiếp công dân, địa

điểm tiếp công dân, trên mạng nội bộ để công dân biết và chủ động sắp xếp đăng ký

gặp lãnh đạo, người được giao thẩm quyền trình bày nguyện vọng. “Các cơ quan

tham mưu trong việc giải quyết KNTC chủ động rà soát, lựa chọn những vụ việc

phức tạp, liên quan tới nhiều lĩnh vực, kéo dài nhiều năm, người dân bức xúc… đề

xuất lãnh đạo tiếp công dân để có hướng xử lý dứt điểm vụ việc, không cần đợi

công dân đăng ký gặp lãnh đạo thì mới đề xuất. Đồng thời, công tác tổ chức đối

thoại và tiếp công dân của lãnh đạo, người đứng đầu cũng luôn được chú trọng, góp

phần nhanh chóng xử lý các vụ việc phức tạp, kéo dài, tồn đọng” [39].

3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về tiếp công dân

Thực hiện pháp luật về tiếp công dân trong thời gian qua đã có nhiều chuyển

biến tích cực. Tuy nhiên, số vụ việc khiếu nại, tố cáo đông người, kéo dài, vượt cấp

có xu hướng gia tăng, một số vụ việc manh động quá khích, có sự kích động, hỗ trợ

của các phần tử xấu. Nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo về đất đai, tranh chấp tài sản

65

chưa được giải quyết dứt điểm, để kéo dài, gây bức xúc, tiềm ẩn nguy cơ phát sinh

“điểm nóng” về an ninh, trật tự.

Để việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân được bảo đảm tốt hơn trong thời

gian tới nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cấp chính quyền

cần thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, Giải quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng, phức tạp, kéo dài:

Tình hình khiếu nại, tố cáo phức tạp, đông người, vượt cấp, kéo dài diễn ra

ngày càng nhiều và gia tăng tại Cổng Trụ sở Thanh tra Chính phủ, Trụ sở tiếp dân

Trung ương Đảng và các Trụ sở tiếp công dân trên cả nước. Khi xảy ra các vụ khiếu

nại, tố cáo đông người, vượt cấp, kéo dài thì các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc

thẩm quyền giải quyết lại đang lúng túng, thờ ơ, chưa có phương pháp và cách thức

giải quyết dứt điểm các vụ việc này. Từ năm 2009 đến nay, Thanh tra Chính phủ đã

ban hành hàng loạt kế hoạch để giải quyết dứt điểm các vụ việc này: Kế hoạch số

319/2009; Kế hoạch số 1130; Kế hoạch số 2100/2013; Kế hoạch số 363/2019;

Quyết định số 1849/2018/QĐ-TTg. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa giải quyết dứt điểm

các vụ việc này.

Giải pháp giải quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng, phức tạp, kéo dài: Giải

quyết đúng pháp luật; giải quyết đúng pháp luật nhưng đảm bảo quyền, lợi ích hợp

pháp của dân; đối với vụ việc đã có hiệu lực của pháp luật cần xem xét theo hướng:

nếu đúng pháp luật mà dân vẫn thiệt thì giải quyết lại; trái pháp luật giải quyết lại;

hướng dẫn người dân hiểu pháp luật để không khiếu nại tiếp mà khởi kiện ra tòa;

giải quyết vụ việc xảy ra ở thời kỳ nào thì theo pháp luật thời kỳ đó; có chính sách

đền bù phù hợp với quy định và tình hình thực tế; ban hành chế tài xử lý người giải

quyết trái pháp luật và công dân gây rối.

Ngoài ra đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nhằm

tăng cường sự hiểu biết, nhận thức pháp luật của nhân dân, nâng cao ý thức chấp

hành các quy định của pháp luật đặc biệt là pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

Thứ hai, Hoàn thiện pháp luật tiếp công dân đồng bộ, thống nhất với các quy

định khác liên quan: Pháp luật tiếp công dân cần quy định đồng bộ với các văn bản

66

pháp luật về đất đai và các văn bản khác liên quan; quy định phù hợp với thực tế

tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; quy định thời hạn áp dụng (hiện nay các

văn bản thay đổi thường xuyên); Quy định cụ thể về “quyền” đi đôi với “nghĩa vụ”

của người khiếu nại, tố cáo. Hoàn thiện pháp luật tiếp công dân đồng bộ với pháp

luật khiếu nại, tố cáo: Trong Trụ sở tiếp công dân từ Trung ương đến địa phương

thường có từ 06 đến 09 cơ quan, trong đó chỉ có từ 01 đến 02 cơ quan có chức năng

giải quyết. Pháp luật tiếp công dân cần quy định thêm quyền: nhận, phân loại và giải

quyết; quy định cụ thể giải quyết đối với vụ việc có nội dung liên quan đến nhiều cơ

quan, tổ chức, có nhiều người cùng khiếu nại; quy định cụ thể giải quyết các vụ việc

đông người, phức tạp, kéo dài; các vụ việc đã có hiệu lực của pháp luật.

Vẫn còn đó những khiếm khuyết của hệ thống pháp luật, đặc biệt là tính thiếu

đồng bộ, mâu thuẫn, thiếu ổn định và tính khả thi chưa cao. Đây là một trong các

nguyên nhân gây nên tình trạng khiếu kiện phức tạp, đông người. Vì vậy, Nhà nước

trên cơ sở các văn bản luật đã ban hành cần phải rà soát thống nhất các nội dung, sát

với tình hình thực tế, quy định chặt chẽ, đồng bộ, không chồng chéo giữa các văn

bản với nhau, tạo sự đồng bộ, nâng cao tính khả thi, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống

pháp luật, đồng thời có hướng dẫn thi hành luật kịp thời, chính xác để các cấp tổ

chức thực hiện, hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo điều kiện thuận lợi để công dân

tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước và thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ của công

dân nhằm tạo môi trường pháp lý lành mạnh, hài hòa, tạo động lực mới trong phát

triển kinh tế - xã hội và hạn chế phát sinh khiếu nại, tố cáo. Cải cách thủ tục rườm rà

không cần thiết như: Luật được ban hành nhưng vẫn chưa áp dụng thực hiện, phải

chờ văn bản hướng dẫn của các Bộ, Ngành chuyên môn từ Trung ương đến địa

phương, gây ra lãng phí, mất nhiều thời gian.

Thứ ba, Nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc

thực hiện pháp luật về tiếp công dân, coi đây là một trong các tiêu chí để đánh giá

cán bộ, công chức hàng năm; Quy định cụ thể về năng lực, trình độ của cán bộ tiếp

công dân

67

Việc chọn và bố trí cán bộ tiếp công dân phải đạt yêu cầu về năng lực, trình độ và

kỹ năng; cần ban hành trình tự, thủ tục giải quyết cho từng loại đơn: khiếu nại, tố

cáo, kiến nghị, phản ánh; quy định cụ thể cán bộ tiếp công dân hoạt động theo chế

độ chuyên trách (tránh cán bộ tiếp công dân ở cấp xã, cấp quận, huyện còn kiêm

nhiệm). Quy định cụ thể về trách nhiệm người đứng đầu trong tiếp công dân định

kỳ: Việc quy định Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ 01 tháng 01 lần là không

hợp lý, cần tăng số buổi tiếp công dân định kỳ 01 tháng 02 lần; Chủ tịch UBND cấp

tỉnh, cấp huyện quy định tiếp công dân 01 tháng 01 lần là không hợp lý, cần tăng 01

tháng 02 lần, nhưng có thể ủy quyền cho cấp phó tiếp công dân.

Quy định bổ sung vào pháp luật tiếp công dân về trách nhiệm người đứng đầu

cấp ủy đảng trong giải quyết khiếu nại, tố cáo: Người đứng đầu cấp ủy cấp tỉnh, cấp

huyện 01 ngày trong 01 tháng; người đứng đầu cấp ủy cấp xã tiếp dân 02 ngày trong

01 tháng; người đứng đầu cấp ủy buộc phải tiếp dân đối với vụ việc nổi cộm, phức

tạp, kéo dài, có nhiều người tham gia, liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan,

tổ chức, đơn vị hoặc ý kiến các cơ quan, tổ chức đơn vị còn khác nhau và vụ việc có

thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã

hội.

Thứ tư, Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan trong việc phối hợp xử lý theo

thẩm quyền, giải quyết dứt điểm những vụ việc khiếu kiện phức tạp, kéo dài, khắc

phục tình trạng chuyển đơn lòng vòng không rõ trách nhiệm như:

Quy định cụ thể thẩm quyền, trình tự theo dõi, đôn đốc việc xử lý, giải quyết

các vụ việc chuyển đến cơ quan thuộc thẩm quyền giải quyết: Quy định rõ thẩm

quyền, trình tự theo dõi, đôn đốc việc xử lý, giải quyết các vụ việc do các cơ quan

tham gia tiếp công dân tại Trụ sở chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm

quyền; quy định rõ cơ chế phối hợp giữa thanh tra với Ban tiếp công dân trong việc

thanh tra trách nhiệm về việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân; quy định rõ thẩm

quyền xử lý trong quá trình theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện của các cơ

quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.

68

Quy định cụ thể mối quan hệ giữa các Ban tiếp công dân với nhau và các cơ

quan thanh tra: Quy định cụ thể mối quan hệ giữa Ban tiếp công dân Trung ương

với Ban tiếp công dân cấp tỉnh, Ban tiếp công dân cấp tỉnh với Ban tiếp công

dân cấp huyện để hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn, xây dựng báo cáo, nắm bắt

thông tin, đôn đốc, kiểm tra hoạt động tiếp công dân; quy định cụ thể cơ chế phối

hợp hệ giữa Trụ sở tiếp công dân Trung ương với cơ quan Thanh tra các cấp, cơ

quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Thứ năm, Tăng cường hoạt động giám sát, phối hợp giám sát, phản biện của

các tổ chức xã hội như: Đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân, đại biểu hội đồng

nhân dân, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đối với công tác tiếp dân

và giải quyết khiếu nại, tố cáo, chức năng giám sát đã đạt được nhiều kết quả quan

trọng, ngày càng khẳng định chính quyền nhân dân, đại diện cho quyền và lợi ích

hợp pháp, chính đáng, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân. Giám sát của Mặt

trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là một bộ phận của cơ chế pháp lý kiểm

soát quyền lực nhà nước, hướng đến mục tiêu bảo đảm quyền lực nhà nước được sử

dụng đúng mục đích, đạt hiệu quả, ngăn ngừa và hạn chế tình trạnh lạm quyền, tham

nhũng quản lý nhà nước. Cơ chế kiểm soát quản lý nhà nước phải bảo đảm tính độc

lập tương đối của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; đồng thời, phải

bảo đảm sự kết hợp giữa các hình thức giám sát của Nhà nước (giám sát Quốc hội,

HĐND), hoạt động kiểm tra, thanh tra của Nhà nước với các hình thức giám sát của

Mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. Do vậy, mô hình giám sát của Mặt

trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phải bảo đảm các thiết chế giám sát

không bị phụ thuộc vào đối tượng chịu sự giám sát. Pháp luật phải bảo đảm Mặt trận

tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội không bị lệ thuộc vào chính đối tượng bị

giám sát, phản biện về ngân sách, biên chế. Ngoài ra, MTTQ và các tổ chức chính

trị - xã hội phải thể hiện được hết vai trò giám sát của mình một cách chủ động và

độc lập với các chủ thể giám sát khác. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức,

viên chức và người có thẩm quyền phải có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu

liên quan đến nội dung giám sát; trao đổi những vấn đề liên quan theo đề nghị của

69

chủ thể giám sát; góp ý vào dự thảo báo cáo giám sát khi được chủ thể giám sát đề

nghị. Cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền phải tổ chức thực hiện và trả lời kiến

nghị giám sát bằng văn bản cho chủ thể giám sát của Nhân dân theo quy định.

Hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo là một kênh quan trọng,

vừa góp phần bảo đảm thực hiện tốt quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, vừa là

phương thức để Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội phát hiện những hạn chế trong

công tác phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng của cơ quan có thẩm quyền để

quyết định tiến hành giám sát chuyên đề, giám sát các vụ án cụ thể khi có khiếu nại

gay gắt, bức xúc, kéo dài. Đồng thời, giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết

khiếu nại, tố cáo còn thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa cơ quan đại diện cao nhất

với cử tri, nhân dân. Qua hoạt động giám sát này, Quốc hội, các cơ quan của Quốc

hội đã có nhiều kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền trong việc khẩn trương trả lời,

giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của nhân dân; nếu có dấu hiệu tội phạm tham nhũng

thì phải khẩn trương khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh để bảo đảm các

quyền cơ bản của công dân theo quy định của pháp luật.

Thứ sáu, Cần phải đổi mới công tác cán bộ

Cần phân công cán bộ tiếp công dân có đủ năng lực và trình độ, sau khi được

phân công thì tạo điều kiện cho cán bộ đi học tập chuyên môn, khuyến khích cán bộ

tự học để nâng cao trình độ. Một số trường hợp công dân do bị kích động hoặc quá

bức xúc nên có những lời nói thô lỗ, lớn tiếng, thái độ nóng nảy vì vậy người cán

bộ, nhất là cán bộ làm công tác tiếp dân phải rèn cho mình lập trường kiên định,

vững vàng, thái độ ôn hòa để giải quyết công việc một cách tốt nhất.Không phải

công dân nào cũng có trình độ, có nhận thức ngang nhau vì vậy cán bộ tiếp công

dân nên dùng câu, từ dễ hiểu, hướng dẫn công dân một cách chính xác, cụ thể để

nhân dân hiểu có lòng tin vào cán bộ tiếp công dân, tin vào đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Thứ bảy, Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan truyền thông trong việc tuyên

truyền đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước và cung

70

cấp các thông tin phản ánh của của dư luận xã hội trong việc thực hiệp pháp luật về

tiếp công dân.

Hệ thống các cơ quan thông tin đại chúng góp phần quan trọng vào việc mở

rộng dân chủ, tăng cường sự giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội cũng như phát huy vai trò của Nhân dân

trong việc tham gia trực tiếp vào quản lý phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết các

vấn đề dân sinh. Đặc biệt, báo chí, truyền thông đã trở thành vũ khí sắc bén trong

cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tệ nạn xã hội. Chúng ta có thể thấy được

rằng thực tế thì nạn tham nhũng, tiêu cực ngày càng nhiều. Mà chỉ có báo chí mới

có thể đưa tin và chống lại những hành vi tham nhũng đó. Hãy thử tưởng tượng xem

nếu như hàng ngày không có thông tin về tham nhũng báo chí khui ra thì sao người

dân biết được bộ máy nhà nước đang hoạt động như nào. Bởi vậy nên nhờ tính công

khai, tính trung thực khi đưa tin của báo chí nên sẽ giúp cho người dân có cái nhìn

tổng quát hơn. Đặc biệt thông qua báo chí, người dân cũng có thể tố cáo, trình bày

quan điểm về các vấn nạn tham nhũng hiện nay. Cũng như giúp người dân ý thức

nạn tham nhũng và từ đó có nếp sống lành mạnh hơn. Thông qua phản ánh dư luận

xã hội, các hoạt động truyền thông báo chí đã góp phần tích cực ngăn chặn các hiện

tượng, vụ việc tiêu cực trong xã hội, có tác dụng giáo dục cán bộ, đảng viên và

Nhân dân thực hành lối sống kỷ cương, trong sáng, nghiêm túc chấp hành đường

lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Thứ tám, cần tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến các chủ trương, chính

sách Đảng, pháp luật của Nhà nước nhất là pháp luật về khiếu nại, tố cáo, đến từng

người dân nhằm giúp người dân hiểu rõ quyền và nghĩa vụ công dân theo hình thức

lồng ghép với các chương trình khác, phù hợp với từng thời điểm, từng đối tượng,

có nhiều nội dung phong phú, thiết thực để thu hút được nhiều người nghe nhằm

nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm về công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố

cáo. Công an các địa phương rà soát, nắm chắc huống có thể xảy ra, không để bị

động, bất ngờ, kiên quyết xử lý nghiêm các đối tượng lợi dụng quyền khiếu nại, tố

71

cáo, lôi kéo kích động, xúi giục người khác tụ tập đông người khiếu kiện trái pháp

luật.

Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra trách nhiệm trong việc thực hiện pháp

luật về tiếp dân, giải quyết KNTC. Nâng cao chất lượng, hiệu quả phối hợp giữa các

cấp, các ngành về tiếp dân, giải quyết KNTC. Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất,

phương tiện và kinh phí phục vụ công tác tiếp dân, giải quyết KNTC.

Mặt khác, việc xử lý đơn thư KNTC bảo đảm kịp thời, đúng thời gian, tránh

được tình trạng “ngâm đơn”. Mặc dù thời gian qua số lượng công dân đến trụ sở

Tiếp công dân và số lượng đơn thư KNTC tăng cao, nhưng tỷ lệ giải quyết đạt trên

85%, không có đơn thư tồn đọng kéo dài và không có đoàn khiếu kiện vượt cấp lên

Trung ương. Việc giải quyết KNTC bảo đảm đúng luật, đúng trình tự, thủ tục, “thấu

tình, đạt lý”, bảo đảm thời gian, thời hiệu quy định. Hầu hết các quyết định giải

quyết khiếu nại, tố cáo khi công dân khiếu kiện ra tòa án đều được tòa án công nhận

đúng. Trách nhiệm tiếp công dân và giải quyết KNTC của các cấp ủy, chính quyền

và hệ thống chính trị được nâng lên. Năng lực, nghiệp vụ và kỹ năng vận động,

thuyết phục, giải thích, hòa giải của đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp dân, giải quyết

KNTC được đánh giá tốt.

Muốn làm được như vậy, trước hết pháp luật phải được thay đổi cho phù hợp

mà quan trọng là cần sớm đưa văn bản pháp luật riêng điều chỉnh lĩnh vực này vào

thực tiễn. Bên cạnh đó, pháp luật điều chỉnh, rà soát lại những quy định không còn

phù hợp để bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung các quy định mới sát với thực tiễn đời sống hơn.

Một nền tảng pháp lý vững chắc sẽ là yếu tố quyết định cho việc thay đổi cách làm,

cách nghĩ về công tác tiếp dân.

Ngoài ra, nhân tố con người là yếu tố đóng vai trò quan trọng. Những người

thực thi pháp luật phải công minh, khách quan và những người tham gia vào quan

hệ pháp luật hành chính phải có ý thức tuân thủ pháp luật để góp phần vào việc đẩy

nhanh và tăng cường hiệu quả giải quyết yêu cầu của công dân. Pháp luật điều chỉnh

nhằm phục vụ nhân dân, do đó, nhân dân có ý thức tuân thủ pháp luật thì pháp luật

mới điều chỉnh có hiệu quả được.

72

Cơ chế giám sát, kiểm tra, phát hiện vi phạm cần được tăng cường vừa tạo điều

kiện cho người dân có thể tham gia nhằm hạn chế hành vi vi phạm, vừa tạo tính

nghiêm minh giữa các cơ quan áp dụng pháp luật với nhau.

Hoàn thiện công tác tiếp dân không đơn giản và cũng không là trách nhiệm của

riêng một chủ thể nào. Đó là trách nhiệm chung của tất cả mọi người trong xã hội.

Vì vậy, đối với các cơ quan chức năng thì phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau;

đối với các cá nhân, tổ chức khác thì hợp tác, giúp đỡ các cơ quan chuyên môn

trong việc giải quyết nhiệm vụ. Có như vậy người dân chúng ta mới được sống

trong một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./.

73

Kết luận chương 3

Qua nghiên cứu chương 3 tác giả đưa ra kết luận đó là: Để bảo đảm thực hiện

pháp luật về tiếp công dân của tỉnh Thanh Hóa được tốt hơn trong thời gian tới, giúp

hạn chế đơn thư của công dân, đặc biệt là đơn khiếu nại, tố cáo, bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của công dân, các cấp chính quyền tỉnh Thanh Hóa cần có quan điểm

xác định thực hiện pháp luật về tiếp công dân xuất phát từ yêu cầu xây dựng và

hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân; coi tiếp công

dân là nhiệm vụ chính trị quan trọng của cả hệ thống chính trị, của các cấp, các

ngành, các địa phương trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, đặc biệt là trách nhiệm của

UBND tỉnh Thanh Hóa và UBND các huyện, các xã của tỉnh Thanh Hóa. Từ khi

Luật Tiếp công dân số 42/2013/QH13 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2014, là hành lang pháp lý khá đồng bộ, tạo

điều kiện thuận lợi cho cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư

KNTC thực hiện nhiệm vụ được giao một cách thống nhất. Sau các buổi tiếp công

dân định kỳ và thường xuyên, công chức phụ trách tiếp công dân các đơn vị đã tham

mưu, báo cáo thủ trưởng các cấp, ngành chỉ đạo kiểm tra, xác minh, xử lý kịp thời,

giải quyết dứt điểm các vướng mắc của công dân. Qua thời gian triển khai, tình

hình, tiếp công dân, giải quyết KNTC của công dân cơ bản được kiểm soát ổn định,

bảo đảm trật tự an toàn xã hội và an ninh chính trị, góp phần vào sự phát triển kinh

tế - xã hội của tỉnh.

74

KẾT LUẬN

Hiện nay công tác tiếp dân đạt được nhiều kết quả khá phấn khởi, chính quyền

các cấp đã bám sát công việc, vì lợi ích chung, không ngại va chạm với lợi ích cục

bộ, thiểu số. Người cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo đã thường xuyên tiếp cận với các

điểm nóng, đi thực tế, xử lý các đơn thư trực tiếp, các sự việc mà đài, báo nêu,

không để tồn đọng, nắm bắt được vấn đề một cách sâu sát, nên đã chu đáo trong giải

quyết vướng mắc, nguyện vọng của người dân. Tuy nhiên, những kết quả ban đầu

vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tiếp dân trong giai đoạn hiện nay, chưa nói đến

những nơi, có những người chưa làm tốt công tác tiếp dân theo quy định, gây phiền

hà và bất bình trong nhân dân.

Thực hiện pháp luật về tiếp công dân là yêu cầu cơ bản và thiết thực trong quản

lý Nhà nước, là biện pháp pháp lý đảm bảo cho sự ổn định về mặt chính trị. Từ lúc

ra đời đến nay, cơ chế tiếp công dân đã góp phần không nhỏ trong việc ổn định an

ninh chính trị, xây dựng chính quyền vững mạnh từ cơ sở. Tuy nhiên, qua nghiên

cứu những quy định của pháp luật cũng như từ thực tiễn tiếp công dân tại tỉnh

Thanh Hóa, tác giả thấy rằng việc tiếp công dân còn nhiều vướng mắc, đặc biệt là

trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, dự báo các tranh chấp, khiếu kiện sẽ gia

tăng và biến tướng rất nhiều. Các cơ quan có thẩm quyền cần chủ động và tăng

cường hơn nữa công tác tiếp dân, giải quyết dứt điểm tình trạng khiếu kiện vượt

cấp, khiếu kiện đông người. Dù sẽ gặp không ít những khó khăn, việc thay đổi

không phải là chuyện ngày một, ngày hai mà làm được nhưng hi vọng với sự nỗ lực

của toàn xã hội chúng ta sẽ xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, vì nhân dân phục

vụ.

75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Tài chính và Thanh tra Chính phủ (2012), Thông tư liên tịch số

46/2012/TTLT-BTC-TTCP ngày 16/3/2012 quy định về chế độ bồi dưỡng đối với

cán bộ công chức làm công tác tiếp dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo;

2. Bộ Chính trị (2008), Thông báo kết luận số 130-TB/TW ngày 10/01/2008 về

tình hình, kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo từ năm 2006 đến nay;

3. TS.Bùi Mạnh Cường, TS. Nguyễn Thị Tố Uyên (2013), Tư tưởng Hồ Chí

Minh về vấn đề tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, Nxb Chính trị Quốc

gia;

4. Bùi Mạnh Cường ( 2013) ,“Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tiếp

công dân”, Đề tài khoa học cấp Bộ;

5. Chính phủ (2007), Nghị định số 89/CP ngày 07/8/2007 ban hành quy chế tổ

chức tiếp công dân;

6. Chính phủ (2016), Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 14/11/2016 quy

định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo và các

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo;

7. Chính phủ (2012), Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 quy định

chi tiết một số điều của Luật Khiếu nại;

8. Chính phủ (2012), Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 quy định

chi tiết một số điều của Luật Tố cáo;

9. Chính phủ (2014), Nghị định số 64/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 quy định

chi tiết một số điều của Luật tiếp công dân năm 2013;

10. Chính phủ lâm thời (1945), Sắc lệnh số 64 ngày 23/11/1945 về thành lập

Ban Thanh tra đặcbiệt;

11. Chỉ thị số 09/CT/TW của Ban Bí thư về một số vấn đề cấp bách cần thực

hiện trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay;

12. Lê Đình Đấu - Vụ trưởng vụ xét khiếu tố, “Cải cách thủ tục hành chính

trong tiếp dân, giải quyết KN, tố cáo”

13. Nguyễn Thị Hằng ( 2018), “Thực hiện pháp luật về tiếp công dân của Ủy ban

76

nhân dân các cấp từ thực tiễn thành phố Hà Nội”.

14. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh ( 2016), “Giải quyết khiếu tố của

nhân dân - thực trạng và những bài học kinh nghiệm’’

15. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp

năm 2013;

16. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật tiếp công dân số

42/2013/QH13 ngày 25/11/2013;

17. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp

năm 2013;

18. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật Khiếu

nại, tố cáo năm 2008;

19. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật Tố cáo

năm 2015;

20. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật tiếp công

dân năm 2013;

21. Quyết định số 3987/QĐ-UBND ngày 24/9/2014 của Chủ tịch UBND

tỉnhThanh Hóa về việc thành lập Ban tiếp công dân;

22. Nguyễn Tuyết Trinh, “Quy trình tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo

trong các cơ quan của Quốc hội ở nước ta hiện nay”,

23. Thanh tra Chính phủ (2016), “Tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết

khiếu nại,tố cáo trong tình hình mới”, Nxb Hà Nội.

24. Thanh tra Chính phủ (2013), Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày

31/10/2013 quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính;

25. Thanh tra Chính phủ (2013), Thông tư số 04/2013/TT-TTCP ngày

29/7/2013 quy định thẩm quyền, nội dung thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật

về khiếu nại;

26. Thanh tra Chính phủ (2013), Quy trình tiếp công dân và xử lý đơn thư, Nxb

Thanh niên, 2013;

27. Thanh tra Chính phủ (2014), Thông tư số 06/2014/TT-TTCP ngày

77

31/10/2014 quy định quy trình tiếp công dân;

28. Thanh tra tỉnh Thanh Hóa (2014), “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác

tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tình hình hiện nay”, Tham luận tại hội

thảo.

29. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 858/QĐ-TTg ngày 14/6/2015

phê duyệt Đề án đổi mới công tác tiếp dân;

30. Thủ tướng Chính phủ (2013), Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 15/01/2013 về

công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;

31. Thủ tướng Chính phủ (2013), Chỉ thị số 64/CT-TTg ngày 25/01/2013 về

tăng cường công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;

32. Thủ tướng Chính phủ (2014), Chỉ thị số 36/2014/CT-TTg ngày 27/10/2014

về việc chấn chỉnh và tăng cường trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước

trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo;

33. Thanh tra Chính phủ (2014), Thông tư số 07/2014/TT-TTCP ngày

31/10/2014 về quy trình xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh;

34. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2013), Báo cáo giải trình tiếp thu dự án Luật

tiếp công dân năm 2013;

35. Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2019), Báo cáo kết quả công tác tiếp

dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2019;

36. Ủy ban nhân dân tỉnhThanh Hóa (2018), Báo cáo kết quả công tác tiếp dân,

giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2018;

37. Ủy ban nhân dân tỉnhThanh Hóa (2017), Báo cáo kết quả công tác tiếp dân,

giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2017;

38. Ủy ban nhân dân tỉnhThanh Hóa (2016), Báo cáo kết quả công tác tiếp dân,

giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2016;

39. Ủy ban nhân dân tỉnhThanh Hóa (2015), Báo cáo kết quả công tác tiếp dân,

giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2015;

40. Báo cáo của Thanh tra Chính phủ về công tác tiếp công dân.

78