ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

BẠCH MINH THẮNG

Tæ CHøC Vµ HO¹T §éNG KINH DOANH B¸N LÎ X¡NG DÇU

THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

BẠCH MINH THẮNG

Tæ CHøC Vµ HO¹T §éNG KINH DOANH B¸N LÎ X¡NG DÇU

THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG VŨ HUÂN

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong

bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong

Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã

hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ

tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để

tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Bạch Minh Thắng

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUY ĐỊNH

PHÁP LUẬT, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TỔ CHỨC

VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BÁN LẺ XĂNG DẦU TẠI

VIỆT NAM ..................................................................................................... 7

1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động kinh doanh bán lẻ

xăng dầu .............................................................................................. 7

1.1.1. Khái niệm hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ............................... 7

1.1.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ........................ 10

1.2. Mô hình tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

theo pháp luật Việt Nam .................................................................. 13

1.2.1. Tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ............................ 13

1.2.2. Mô hình kinh doanh bán lẻ xăng dầu ................................................. 15

1.3. Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán lẻ xăng dầu .................. 21

1.3.1. Cấp phép cho hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ........................ 22

1.3.2. Quản lý về đo lường, chất lượng trong kinh doanh xăng dầu ............ 24

1.3.3. Quản lý giá bán xăng dầu, công khai, minh bạch trong điều hành

giá và kinh doanh xăng dầu ................................................................ 28

1.3.4. Áp dụng các biện pháp an toàn và bảo vệ môi trường của các cơ

sở kinh doanh bán lẻ xăng dầu ........................................................... 30

Tiểu kết Chương 1 ......................................................................................... 33

Chương 2: THỰC TIỄN THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC

VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BÁN LẺ XĂNG DẦU Ở

VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................... 34

2.1. Thực trạng tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

ở Việt Nam hiện nay ......................................................................... 34

2.1.1. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam .... 34

2.1.2. Những kết quả đạt được trong tổ chức và hoạt động kinh doanh

bán lẻ xăng dầu ................................................................................... 38

2.1.3. Những hạn chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động kinh doanh bán

lẻ xăng dầu và những nguyên nhân ..................................................... 43

2.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh

bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam hiện nay ............................................. 48

2.2.1. Những ưu điểm trong quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh

doanh bán lẻ xăng dầu ........................................................................ 48

2.2.2. Những điểm bất cập, hạn chế trong quản lý nhà nước đối với

hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ............................................... 51

2.2.3. Những nguyên nhân từ thực trạng hạn chế, bất cập ........................... 53

2.3. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về tổ chức và hoạt

động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ................................................... 54

2.3.1. Những ưu điểm của quy định pháp luật Việt Nam về tổ chức và

hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ............................................... 54

2.3.2. Những hạn chế và bất cập còn tồn tại trong quy định pháp luật

Việt Nam về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ....... 55

Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................... 59

Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO

HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC, HOẠT

ĐỘNG KINH DOANH BÁN LẺ XĂNG DẦU Ở VIỆT NAM ........ 60

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động

kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam ........................................ 60

3.1.1. Những tiêu chí cơ bản để hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt

động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ....................................................... 60

3.1.2. Hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo tính ổn định, hiệu quả và

minh bạch của thị trường kinh doanh bán lẻ xăng dầu ...................... 66

3.1.3. Hoàn thiện pháp luật nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp mọi

thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng

dầu để bảo đảm tính cạnh tranh và tăng nguồn cung xăng dầu ......... 68

3.1.4. Hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả quản lý giá bán

xăng dầu theo cơ chế giá thị trường, phù hợp với hội nhập kinh

tế quốc tế ............................................................................................ 69

3.1.5. Hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của các

cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ........ 70

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi

pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

ở Việt Nam ......................................................................................... 71

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt

động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ....................................................... 71

3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về tổ chức và

hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ............................................... 80

Tiểu kết Chương 3 ......................................................................................... 83

KẾT LUẬN .................................................................................................... 84

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 86

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt Nguyên nghĩa

CTCP Công ty cổ phần

DN Doanh nghiệp

POS Thiết bị bán hàng

PV Oil Tổng công ty Dầu Việt Nam

TNHH MTV Trách nhiệm hữu hạn một thành viên

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Xăng dầu là nguồn năng lượng quan trọng để phát triển kinh tế của mỗi

quốc gia, đặc biệt với những nước có nền công nghiệp phát triển và đang phát

triển như nước ta. Mặt hàng xăng dầu thực sự thiết yếu đối với hoạt động sản

xuất, đời sống dân sinh, an ninh quốc phòng và là một trong những nhân tố

đảm bảo an ninh năng lượng của đất nước mà trong thời gian dài chưa thể

thay thế. Thực tế trong nhiều năm qua, hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

chưa bao giờ “bớt nóng” trên báo chí vì là hoạt động kinh tế có tính nhạy cảm

cao, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh năng lượng, đời sống dân sinh, sự ổn

định cũng như tốc độ phát triển kinh tế của đất nước.

Xăng dầu là loại hàng hóa đặc biệt, nó có những tiêu chuẩn về kỹ thuật

rất khắt khe và có nhiều vấn đề phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động

kinh doanh. Kinh doanh mặt hàng xăng dầu thuộc diện kinh doanh có điều

kiện, muốn kinh doanh mặt hàng này, theo quy định của pháp luật, thương

nhân phải đạt các điều kiện về chủ thể kinh doanh, về cơ sở vật chất kỹ thuật

và trang thiết bị; về bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ; về trình độ

chuyên môn và sức khỏe của cán bộ, nhân viên... Hiện nay, cả nước có 33

thương nhân đầu mối xuất, nhập khẩu xăng dầu được phân giao hạn mức nhập

khẩu xăng dầu hằng năm, pha chế xăng dầu, mua bán xăng dầu, nguyên liệu

với các thương nhân đầu mối khác. Các đầu mối này được phân phối xăng

dầu qua hệ thống bán lẻ trực thuộc và bán qua các thương nhân phân phối,

tổng đại lý, đại lý, thương nhân nhượng quyền bán lẻ xăng dầu. Hệ thống các

tổng đại lý, đại lý bán lẻ xăng dầu, theo quy định hiện hành, mỗi hệ thống chỉ

được quyền nhập xăng dầu từ một thương nhân đầu mối/phân phối.

Quy định hiện hành cũng buộc các thương nhân đầu mối/phân phối,

1

tổng đại lý, đại lý phải kiểm soát chặt chẽ hệ thống bán lẻ của mình, chịu

trách nhiệm liên đới khi các cửa hàng bán lẻ có các hành vi vi phạm. Thực tế,

cả nước có khoảng 13.000 cửa hàng bán lẻ xăng dầu, trong đó, các cửa hàng

thuộc hệ thống của 13 doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu xăng dầu có trên

3.000 (chiếm 25 - 30%), số còn lại là các cửa hàng của đại lý, tổng đại lý,

nhượng quyền [24]. Theo quy định hiện hành, đại lý bán lẻ xăng dầu chỉ được

ký hợp đồng làm đại lý cho một tổng đại lý hoặc một thương nhân đầu

mối/phân phối xăng dầu. Nếu tổng đại lý hoặc thương nhân đầu mối/phân

phối xăng dầu đó không kinh doanh nhiên liệu sinh học, thì đại lý được ký

thêm hợp đồng làm đại lý cho một pháp nhân khác để kinh doanh nhiên liệu

sinh học. Việc kiểm soát nguồn xăng dầu thông qua hóa đơn xuất, nhập.

Tuy nhiên, trên thực tế, việc kiểm soát khối lượng xăng dầu đầu vào,

đầu ra theo hóa đơn đối với đại lý bán lẻ xăng dầu chưa chặt chẽ, đặc biệt là

việc bán lẻ xăng dầu không xuất hóa đơn vẫn còn tràn lan, nên đại lý xăng

dầu rất dễ “hợp thức hóa” khi mua xăng dầu trôi nổi trên thị trường, xăng

dầu giả để pha trộn với xăng dầu nhập chính thức từ thương nhân đầu

mối/phân phối, tổng đại lý… rồi ung dung bán cho người tiêu dùng để trục

lợi. Trước khi lực lượng công an phá vụ án Trịnh Sướng và đồng bọn sản

xuất, tiêu thụ xăng giả, trong thực tế, xăng rởm, xăng kém chất lượng đã

xuất hiện trên thị trường nước ta từ lâu. Việc quản lý chất lượng xăng dầu

còn tồn tại nhiều kẽ hở, chế tài xử lý vi phạm còn nhẹ, công tác kiểm tra,

kiểm soát hoạt động kinh doanh xăng dầu vẫn còn nhiều bất cập, chồng chéo,

hiệu quả không cao [24]. Hiện nay, có rất nhiều cơ quan có thể kiểm tra, kiểm

soát kinh doanh xăng dầu như: Quản lý thị trường, Sở Khoa học và Công

nghệ, Công an… Chính vì vậy, khi phát hiện vụ sản xuất xăng giả quy mô lớn

của Trịnh Sướng và đồng bọn, nhiều ý kiến cho rằng, các cơ quan chức năng

không làm tròn nhiệm vụ vì… sợ giẫm chân lên nhau.

2

Có thể nói, pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng

dầu ở Việt Nam hiện nay đang có rất nhiều hạn chế, bất cập. Vì vậy, việc

nghiên cứu một cách toàn diện và có chiều sâu về tổ chức và hoạt động kinh

doanh bán lẻ xăng dầu theo pháp luật Việt Nam hiện nay trong bối cảnh nước

ta đang triển khai những chính sách “cởi mở” hơn bằng việc cho nhà đầu tư

nước ngoài tham gia cùng với rất nhiều biến động lớn về thị trường kinh

doanh bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam là vấn đề có tính cấp thiết.

Với các lý do được phân tích ở trên, nên tác giả đã lựa chọn đề tài “Tổ

chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu theo pháp luật Việt Nam”

để nghiên cứu và làm Luận văn Thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu

Tình hình nghiên cứu liên quan đến hoạt động kinh doanh xăng dầu

trong những năm trước đây đã có một số công trình nghiên cứu như:

- Luận án Tiến sỹ kinh tế của tác giả Nguyễn Duyên Cường (2011) với

đề tài “Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của Việt

Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” [8];

- Luận án Tiến sỹ kinh tế của tác giả Bùi Thị Hồng Việt (2012) với đề tài

“Chính sách quản lý nhà nước đối với kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam” [20];

- Luận văn Thạc sỹ kinh tế của tác giả Cảnh Chí Hùng (2014) với đề tài

“Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu trên địa bàn tỉnh

Vĩnh Phúc” [10];

- Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Ánh (2015) “Kiểm

soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực kinh doanh

xăng dầu”, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội [1];

- Luận văn Thạc sĩ luật học của Nguyễn Thế Cường (2016) với đề tài

“Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Việt

Nam hiện nay”, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội [9];

3

- Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Ngô Thị Liên (2018) với đề tài

“Thực hiện pháp luật về kinh doanh xăng dầu trên địa bàn tỉnh Lai Châu”,

Khoa Luật – Đại học Quốc gia [11];

Mặc dù được tiếp cận dưới nhiều giác độ khác nhau như quản lý kinh tế

hay dưới giác độ luật học, nhưng thực tế, các công trình nghiên cứu chủ yếu

phân tích hoạt động kinh doanh xăng dầu nói chung, các hành vi gây hạn chế

cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu hoặc luận bàn về quản lý nhà

nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu… mà chưa có công trình nào đi

sâu nghiên cứu về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu theo pháp

luật Việt Nam. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đây sẽ là tư liệu quý

giá để học viên tham khảo và kế thừa trong quá trình nghiên cứu và hoàn

thiện luận văn của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là khái quát, phân tích để làm sáng

tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh

doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam hiện nay, từ đó, đề xuất các giải pháp

nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về tổ chức

và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, luận văn xác định các nhiệm

vụ chủ yếu sau đây:

- Khái quát, phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về tổ

chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam.

- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực thi pháp luật về tổ chức và hoạt

động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra các mặt ưu

điểm, hạn chế và nguyên nhân.

4

- Đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

thực thi pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu tại Việt

Nam trong giai đoạn tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn,

hệ thống các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ

xăng dầu và thực tiễn thực hiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam hiện nay.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung và không gian, phạm vi nghiên cứu của luận văn là các quy

định liên quan đến tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu theo quy

định pháp luật tại Việt Nam, từ đó, phân tích thực tế việc thực thi và tác động

của các quy định pháp luật tới việc tổ chức hoạt động và kinh doanh bán lẻ

xăng dầu ở Việt Nam hiện nay.

Về thời gian, Luận văn nghiên cứu tổ chức và hoạt động kinh doanh

bán lẻ xăng dầu kể từ khi Nghị định số 83/2014/NĐ-CP về kinh doanh xăng

dầu có hiệu lực từ ngày 01/11/2014 cho đến nay.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra, trong quá trình nghiên

cứu, luận văn đã sử dụng phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện

chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách của Nhà nước ta về xây

dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bên cạnh đó, một số phương pháp nghiên cứu cơ bản, chủ yếu được sử

dụng như: Phương pháp tổng hợp, phân tích và diễn giải; phương pháp thống

kê, hệ thống hóa tài liệu; phương pháp so sánh và đánh giá; phương pháp quy

nạp và diễn dịch...

5

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Về mặt lý luận, việc nghiên cứu đề tài luận văn góp phần làm rõ cơ sở

lý luận pháp luật về tổ chức, điều kiện và quy trình hoạt động kinh doanh bán

lẻ xăng dầu tại pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng pháp

luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam, chỉ ra

những hạn chế, bất cập và nguyên nhân trong quá trình thực thi pháp luật Việt

Nam về vấn đề này, từ đó, đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp

luật cũng như nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động

kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam.

Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu nghiên cứu

có giá trị cho các cơ quan xây dựng và thực thi pháp luật trong lĩnh vực kinh

doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam, là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên

cứu và giảng dạy tại các cơ sở đào tạo về kinh tế và luật học ở Việt Nam.

7. Kết cấu luận văn

Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về tổ chức và

hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam.

Chương 2: Thực tiễn thực thi pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh

doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam hiện nay.

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực

thi pháp luật về tổ chức, hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam.

6

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUY ĐỊNH PHÁP

LUẬT, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

KINH DOANH BÁN LẺ XĂNG DẦU TẠI VIỆT NAM

1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

1.1.1. Khái niệm hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

1.1.1.1. Khái niệm xăng dầu

Xăng dầu là sản phẩm của quy trình lọc dầu mỏ, là hỗn hợp chất lỏng

dễ cháy của hydrocacbon, chủ yếu là hexan, heptan và chỉ số octan, thu được

từ dầu mỏ và sử dụng như một dung môi và nhiên liệu cho động cơ đốt trong.

Theo Nghị định 83/2014/NĐ-CP ngày 03/09/2014 của Chính phủ, thì:

Xăng dầu là tên chung để chỉ các sản phẩm của quá trình lọc dầu

thô, dùng làm nhiên liệu, bao gồm: Xăng động cơ, dầu điêzen, dầu

hỏa, dầu ma dút, nhiên liệu bay; nhiên liệu sinh học và các sản

phẩm khác dùng làm nhiên liệu động cơ, không bao gồm các loại

khí hóa lỏng và khí nén thiên nhiên [6].

Xăng dầu có các đặc điểm cơ bản sau đây: (i) Là một loại chất lỏng,

nguy cơ gây cháy nổ cao, dễ bắt lửa, chỉ va chạm mạnh cũng có khả năng gây

cháy nổ. Khi cháy chúng phát sáng, thể tích tăng đột ngột và sinh nhiệt; (ii)

Xăng dầu là một loại sản phẩm dễ hao hụt trong quá trình vận chuyển, lưu

kho và kinh doanh do khả năng bốc hơi rất mạnh; (iii) Xăng dầu là loại sản

phẩm độc hại. Quá trình khai thác, chế biến cũng như vận chuyển, phân phối,

bảo quản có thể gây rò rỉ hoặc tai nạn, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người

và môi trường: (iv) Xăng dầu là nguồn nhiên liệu của nhiều ngành kinh tế, là

đầu vào không thể thiếu của nhiều ngành kinh tế. Do đó, khi lượng xăng dầu

không đáp ứng đủ nhu cầu sẽ làm cho quy mô các hoạt động kinh tế giảm sút.

7

Khi giá xăng dầu tăng cao, chi phí sản xuất các mặt hàng xăng dầu như yếu tố

đầu vào tăng lên [6].

1.1.1.2. Khái niệm hoạt động kinh doanh xăng dầu

Kinh doanh là một thuật ngữ được sử dụng rất phổ biến trong đời sống

kinh tế của nước ta cũng như các nước trên thế giới, trên thực tế khái niệm

kinh doanh có nhiều cách hiểu. Theo cách hiểu thông thường, kinh doanh

được hiểu là các hoạt động nhằm tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc mua, bán

hàng hóa. Theo cách hiểu này thì kinh doanh đồng nhất với khái niệm thương

mại được nêu trong Luật Thương mại Việt Nam.

Khái niệm “kinh doanh” chính thức được pháp luật Việt Nam ghi nhận

từ năm 1990 khi Quốc hội ban hành hai bộ luật rất quan trọng, đó là Luật

Công ty năm 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990. Đến năm 1999,

khái niệm kinh doanh một lần nữa được nhắc lại trong Luật Doanh nghiệp

như sau: “Kinh doanh được hiểu là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các

công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung

ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” [15].

Theo đó, kinh doanh bao hàm cả các hoạt động mua bán trao đổi hàng

hóa, các hoạt động sản xuất, gia công, đầu tư hay các hoạt động khác nhằm

mục đích sinh lợi. Cách hiểu này về kinh doanh khá tương đồng với khái

niệm thương mại được nêu ra trong Luật Thương mại sửa đổi năm 2005.

Theo Luật Thương mại 2005, “hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục

đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến

thương mại và các hoạt động nhằm mục tiêu sinh lợi khác” [16], đây cũng là

cách hiểu phổ biến về thương mại trên thế giới. Như vậy, hiện nay khái niệm

kinh doanh được hiểu như là thương mại theo nghĩa rộng. Kinh doanh là thuật

ngữ được sử dụng rất phổ biến trong đời sống kinh tế của nước ta cũng như

các nước trên thế giới, trên thực tế khái niệm kinh doanh có nhiều cách hiểu.

8

Theo cách hiểu thông thường, kinh doanh được hiểu là các hoạt động nhằm

tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc mua, bán hàng hóa. Theo quy định tại Luật

Doanh nghiệp 2014 quy định: “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một

số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản

phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sanh lợi” [18].

Từ cách hiểu và định nghĩa “kinh doanh” theo Luật Thương mại và

Luật Doanh nghiệp, Nghị định số 83/2014/NĐ-CP, ngày 03/09/2014 của

Chính phủ quy định:

Kinh doanh xăng dầu bao gồm các hoạt động như: xuất khẩu (xăng

dầu, nguyên liệu sản xuất trong nước và xăng dầu, nguyên liệu có

nguồn gốc nhập khẩu), nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu,

gia công xuất khẩu xăng dầu, nguyên liệu; sản xuất và pha chế xăng

dầu; phân phối xăng dầu tại thị trường trong nước; dịch vụ cho thuê

kho, cảng, tiếp nhận, bảo quản và vận chuyển xăng dầu [6].

1.1.1.3. Khái niệm hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

Hoạt động kinh doanh bán lẻ là một nội dung và là một trong những

phương thức thực hiện dịch vụ phân phối được xem là đặc trưng nhất. Theo

cách hiểu chung nhất, dịch vụ bán lẻ hàng hóa là một hình thức phân phối hàng

hóa, mà theo đó, nhà phân phối bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng.

Theo khoản 8 Điều 3 Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12/02/2007

của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng

hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, thì “bán lẻ là hoạt động bán

hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng” [5].

Như vậy, tuy có nhiều định nghĩa bán lẻ theo nhiều cách khác nhau,

nhưng tất cả đều thể hiện một đặc điểm chung của bán lẻ đó là hoạt động dịch

vụ đưa hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuối cùng (tiêu dùng trong sản xuất

9

và tiêu dùng của cá nhân hay gia đình). Nói cách khác, bán lẻ gồm tất cả các

hoạt động liên quan đến việc bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng cuối

cùng để họ sử dụng vào mục đích cá nhân, không kinh doanh. Ở đây, người

tiêu dùng là người cuối cùng mua được hàng hóa đó và mua hàng hóa đó với

mục đích để tiêu dùng. Theo khái niệm này thì “bán lẻ” phải là hoạt động liên

quan đến bán hàng hóa trực tiếp và có đối tượng người mua là “người tiêu

dùng cuối cùng”.

Hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu là một hoạt động kinh tế có tính

nhạy cảm cao, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh năng lượng và sự ổn định

cũng như tốc độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam hiện nay,

kinh doanh bán lẻ xăng dầu được xếp là ngành kinh doanh có điều kiện và

được Nhà nước quản lý chặt chẽ, từ khâu nhập khẩu đến hình thành giá và

phân phối. Để quản lý hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, Nhà nước đưa

ra các cơ chế cụ thể, qua đó quy định trách nhiệm và cách thức phối hợp của

các đơn vị quản lý.

Bán lẻ hàng hóa là phương thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng

hoặc các tổ chức kinh tế hoặc các đơn vị kinh tế tập thể mua về để tiêu dùng

nội bộ. Xăng, dầu là loại hàng hóa đặc biệt, được các cá nhân người tiêu

dùng, các đơn vị, tổ chức kinh tế sử dụng nhằm thỏa mãn các nhu cầu tiêu

dùng của họ.

Tương tự hoạt động kinh doanh bán lẻ các loại hàng hóa khác, “kinh

doanh bán lẻ xăng dầu là hoạt động bán xăng dầu trực tiếp cho người tiêu

dùng (bao gồm các cá nhân, tổ chức, đơn vị kinh tế) để tiêu dùng nội bộ; kinh

doanh bán lẻ xăng dầu nhằm mục đích sinh lợi”.

1.1.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

Xuất phát từ đặc điểm của mặt hàng kinh doanh là xăng dầu với những

đặc tính lý hóa riêng như đã đề cập ở trên, để được phép kinh doanh cơ sở

10

kinh doanh cần đảm bảo đạt được những điều kiện nhất định như: (i) Phải có

thiết bị và phương tiện chuyên dùng cho kinh doanh xăng dầu, công tác phòng

cháy, chữa cháy phải gắn liền với toàn bộ quá trình hoạt động kinh doanh, có

biện pháp hạn chế tối đa tác động đến môi trường…, tùy thuộc vào các hoạt

động cụ thể của kinh doanh xăng dầu. Hoạt động kinh doanh xăng dầu liên

quan trực tiếp đến cơ sở hạ tầng kinh tế.

Có thể nói, các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ kinh doanh xăng dầu

như hệ thống cảng biển, hệ thống vận tải, hệ thống kho chứa là bộ phận cấu

thành quan trọng của cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế. Các hệ thống

này càng phát triển thì không chỉ tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh xăng

dầu nói riêng mà còn tăng cường tiềm lực phát triển của nền kinh tế nói

chung. Xăng dầu là mặt hàng kinh doanh chịu ảnh hưởng mạnh của các quan

hệ kinh tế - chính trị quốc tế. Do vị trí và tầm quan trọng của xăng dầu, mỗi

quốc gia đều xây dựng chiến lược riêng về lĩnh vực này. Trên thực tế, quan hệ

ngoại giao song phương, chính sách phong tỏa, cấm vận của các nước lớn có

ảnh hưởng trực tiếp đến việc xuất nhập khẩu xăng dầu. Là mặt hàng chiến

lược, các quốc gia, đặc biệt là các nước có thế lực trong buôn bán quốc tế

luôn sử dụng xăng dầu như một con bài trong các quan hệ kinh tế - chính trị

quốc tế. Vì vậy, kinh doanh xăng dầu không chỉ đơn thuần là một hoạt động

kinh tế, mà còn chịu ảnh hưởng trực tiếp của tình hình chính trị quốc tế. Xăng

dầu là mặt hàng có tính nhạy cảm cao.

Như trên đã trình bày, xăng dầu là mặt hàng có ý nghĩa quan trọng ảnh

hưởng đến đời sống kinh tế, xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng, do đó,

kinh doanh xăng dầu là lĩnh vực nhạy cảm, một thay đổi nhỏ trong cung cầu

có thể có tác động lớn đến kinh tế xã hội đất nước.

Kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam có đặc điểm là kinh doanh hàng

hóa nhập khẩu. Việt Nam phải nhập khẩu phần lớn xăng dầu cho nhu cầu

11

trong nước nên chịu ảnh hưởng khá rõ từ những biến động của thị trường

xăng dầu thế giới. Mặc dù, Nhà máy lọc dầu Dung Quất đã đi vào hoạt động

từ năm 2009, nhưng Việt Nam hiện vẫn đang nhập khẩu một lượng lớn xăng

dầu cho tiêu dùng.

So với các đặc điểm của kinh doanh xăng dầu, thì kinh doanh bán lẻ

xăng dầu đơn giản hơn nhiều do tính chất đặc thù, phạm vi và mô hình của

hoạt động bán lẻ, cụ thể kinh doanh bán lẻ xăng dầu được tổ chức theo mô

hình bán lẻ trực tiếp tại các cửa hàng bán lẻ chuyên kinh doanh xăng dầu, là

cơ sở cuối cùng trong hệ thống tổ chức kinh doanh xăng dầu từ xuất nhập

khẩu, sản xuất trong nước đến người tiêu dùng, không bao gồm các hoạt động

xuất khẩu, tạm nhập tái xuất và các dịch vụ xăng dầu khác như dịch vụ thuê

kho cảng, tiếp nhận, bảo quản và vận chuyển xăng dầu. Với những đặc điểm

riêng có của xăng dầu nên xăng dầu là một mặt hàng kinh doanh có điều kiện.

Kinh doanh bán lẻ xăng dầu có một số đặc điểm cơ bản sau:

Về hoạt động, kinh doanh bán lẻ xăng dầu là việc thực hiện lưu chuyển

hàng hóa (xăng dầu) thông qua hoạt động mua - bán trực tiếp với người tiêu

dùng. Người mua xăng, dầu để tiêu dùng (không phải để sản xuất, kinh doanh),

thỏa mãn những nhu cầu của họ.

Về hàng hóa, xăng dầu là loại sản phẩm có hình thái vật chất mà doanh

nghiệp mua về để bán trực tiếp cho người tiêu dùng. Xăng dầu là mặt hàng

gây độc hại cho người bán và người tiêu dùng, dễ cháy, nổ, có ảnh hưởng

nhiều đến môi trường. Xăng dầu là mặt hàng đặc biệt, có tính chất quan trọng

chiến lược, ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc

phòng. Mặt hàng này được Nhà nước độc quyền quản lý nguồn nhập khẩu.

Về tổ chức kinh doanh, kinh doanh bán lẻ xăng dầu được tổ chức theo

mô hình bán lẻ trực tiếp tại các cửa hàng chuyên kinh doanh xăng, dầu. Cửa

hàng xăng dầu (là cơ sở cuối cùng trong hệ thống tổ chức kinh doanh xăng,

dầu từ nhập khẩu, sản xuất trong nước đến người tiêu dùng).

12

Về cơ sở kinh doanh, các cửa hàng bán lẻ xăng dầu được xây dựng cố

định, có đầy đủ trang thiết bị chuyên dùng và có điều kiện bảo đảm phòng

chống cháy, nổ, bảo vệ môi trường… Quy mô xây dựng, kỹ thuật xây dựng và

công nghệ của các cửa hàng xăng, dầu cũng như mật độ cửa hàng trên địa bàn

cung ứng có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của dịch vụ bán hàng.

Về hình thức bán lẻ, kinh doanh bán lẻ xăng dầu cũng áp dụng đầy đủ

các hình thức bán lẻ như các hình thức bán lẻ các hàng hóa khác.

1.2. Mô hình tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu theo

pháp luật Việt Nam

1.2.1. Tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

Tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu được hiểu là hệ

thống phân phối bán lẻ xăng dầu thông qua hệ thống phân phối chính là các

cửa hàng bán lẻ xăng dầu trực thuộc các thương nhân kinh doanh xăng dầu

theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ban hành ngày 03/09/2014 của Chính

phủ về kinh doanh xăng dầu (Nghị định số 83/2014/NĐ-CP) đã quy định cụ

thể các thương nhân kinh doanh xăng dầu bao gồm: Thương nhân kinh doanh

xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu; thương nhân sản xuất xăng dầu; thương nhân

phân phối xăng dầu; thương nhân làm tổng đại lý kinh doanh xăng dầu;

thương nhân làm đại lý bán lẻ xăng dầu; thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng

dầu; thương nhân kinh doanh dịch vụ xăng dầu [6].

Theo các quy định tại Nghị định số 83/2014/NĐ-CP, doanh nghiệp

kinh doanh bán lẻ xăng dầu phải là tổ chức kinh tế, đủ điều kiện, và đã đăng

ký kinh doanh bán lẻ xăng dầu theo pháp luật, thực hiện việc bán lẻ xăng dầu

tại cửa hàng bán lẻ xăng dầu của mình, cụ thể cửa hàng bán lẻ xăng dầu thuộc

sở hữu, đồng sở hữu của thương nhân là đại lý hoặc tổng đại lý hoặc thương

nhân nhận quyền bán lẻ xăng, dầu hoặc thương nhân phân phối xăng, dầu

13

hoặc thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu hoặc thương

nhân sản xuất xăng dầu có hệ thống phân phối theo quy định của pháp luật,

trong đó có trường hợp thương nhân sản xuất xăng dầu và thương nhân kinh

doanh dịch vụ xăng dầu thì chỉ quy định về việc thương nhân có quyền tổ chức

và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu nếu có nhu cầu và phải tuân thủ các

quy định tại Nghị định này về hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu [6].

Như vậy, với đặc thù của hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu tại Việt

Nam, các thương nhân phải tổ chức mô hình hoạt động theo hệ thống phân

phối xăng dầu bao gồm các cửa hàng bán lẻ thuộc sở hữu hoặc sở hữu và đồng

sở hữu của doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán

lẻ xăng dầu, tổng đại lý hoặc đại lý bán lẻ xăng dầu thuộc hệ thống phân phối

của doanh nghiệp, trong đó số lượng và điều kiện cụ thể của các cửa hàng bán

lẻ phụ thuộc vào loại hình của thương nhân kinh doanh xăng dầu.

Ngoài ra, các doanh nghiệp bán lẻ xăng dầu thường phải đảm bảo các

điều kiện chung sau về cửa hàng bán lẻ:

- Cửa hàng bán lẻ xăng dầu được thiết kế, xây dựng và có trang thiết bị

theo đúng các quy định hiện hành về quy chuẩn, tiêu chuẩn cửa hàng bán lẻ

xăng, dầu, an toàn phòng cháy chữa, bảo vệ môi trường của cơ quan quản lý

nhà nước có thẩm quyền.

- Cán bộ quản lý, nhân viên trực tiếp kinh doanh được đào tạo, huấn

luyện và có chứng chỉ đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ về phòng cháy chữa

cháy và bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật hiện hành.

Tại các cửa hàng bán lẻ, hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu thường

được thực hiện dưới các hình thức sau:

- Hình thức bán hàng thu tiền trực tiếp: Nhân viên bán hàng trực tiếp

bán xăng dầu cho khách và thu tiền.

- Hình thức bán hàng thu tiền tập trung: Khách hàng mua xăng dầu và

14

nhận giấy thu tiền, hoá đơn của nhân viên bán hàng. Nhân viên bán hàng căn

cứ vào hoá đơn, tích kê để kiểm kê số hàng bán ra trong ngày và thu tiền.

- Hình thức bán hàng trả góp: khách hàng mua xăng dầu trả tiền mua

hàng thành nhiều lần. Doanh nghiệp thương mại ngoài số tiền thu theo hoá

đơn giá bán hàng hoá còn thu thêm khoản tiền lãi trả chậm của khách.

- Hình thức bán hàng tự động: Hình thức này không cần nhân viên

bán hàng đứng quầy giao hàng và nhận tiền tiền của khách. Khách hàng tự

động nhét thẻ tín dụng của mình vào máy bán hàng và nhận hàng. Hình

thức này chưa phổ biến rộng rãi ở nước ta nhưng ở ngành xăng dầu đã bắt

đầu áp dụng bằng việc tạo ra một số cây xăng bán hàng tự động ở các trung

tâm thành phố lớn.

1.2.2. Mô hình kinh doanh bán lẻ xăng dầu

Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ngày 3/9/2014 của Chính phủ về kinh

doanh xăng dầu đã quy định rõ quản lý hệ thống kinh doanh xăng dầu theo

chuỗi từ thương nhân đầu mối, thương nhân phân phối xăng dầu tới tổng đại

lý, đại lý, thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng dầu và cửa hàng bán lẻ xăng

dầu, nhằm bảo đảm số lượng, chất lượng xăng dầu từ đầu nguồn tới khâu tiêu

dùng, xác định rõ và nâng cao trách nhiệm của thương nhân kinh doanh xăng

dầu đối với số lượng, chất lượng xăng dầu cung cấp trong hệ thống phân phối

của thương nhân [6].

1.2.2.1. Tổng đại lý kinh doanh xăng dầu

Mô hình tổ chức và hoạt động của tổng đại lý kinh doanh xăng dầu

được quy định tại khoản 13 Điều 3 Nghị định số 83/2014/NĐ-CP, cụ thể, tổng

đại lý kinh doanh xăng dầu là thương nhân làm đại lý kinh doanh xăng dầu,

ngoài việc tự tiêu thụ xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ xăng dầu của mình còn

phải tổ chức một hệ thống đại lý trực thuộc để bán xăng dầu cho bên giao đại

lý là thương nhân đầu mối để hưởng thù lao [6].

15

Để được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp giấy xác nhận

đủ điều kiện làm tổng đại lý kinh doanh xăng dầu thì thương nhân phải đáp

ứng đủ các điều kiện sau [6]:

- Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, trong giấy

chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh xăng dầu.

- Có kho, bể xăng dầu dung tích tối thiểu hai nghìn mét khối (2.000m3),

thuộc sở hữu doanh nghiệp hoặc đồng sở hữu hoặc thuê sử dụng của thương

nhân kinh doanh dịch vụ xăng dầu từ năm (05) năm trở lên.

- Có phương tiện vận tải xăng dầu thuộc sở hữu doanh nghiệp hoặc

đồng sở hữu hoặc thuê sử dụng của thương nhân kinh doanh dịch vụ xăng dầu

từ năm (05) năm trở lên.

- Có hệ thống phân phối xăng dầu, bao gồm tối thiểu năm (05) cửa

hàng bán lẻ thuộc sở hữu doanh nghiệp hoặc sở hữu và đồng sở hữu, tối thiểu

mười (10) cửa hàng thuộc các đại lý bán lẻ xăng dầu được cấp Giấy chứng

nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu theo quy định của pháp luật.

Hệ thống phân phối của tổng đại lý kinh doanh xăng dầu phải nằm

trong hệ thống phân phối của một thương nhân đầu mối và chịu sự kiểm soát

của thương nhân đó.

- Cán bộ quản lý, nhân viên trực tiếp kinh doanh phải được đào tạo,

huấn luyện và có chứng chỉ đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ về phòng cháy,

chữa cháy và bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật hiện hành.

Phạm vi hoạt động của tổng đại lý kinh doanh xăng dầu là tương đối

rộng, dưới các hình thức cụ thể như: là bên đại lý cho một thương nhân đầu

mối và được hưởng thù lao đại lý; bên giao đại lý cho đại lý bán lẻ xăng dầu

thuộc hệ thống phân phối của mình và trả thù lao đại lý cho các đại lý đó và

được bán lẻ xăng dầu tại cửa hàng bán lẻ xăng dầu của mình theo giá bán lẻ

do thương nhân đầu mối quy định.

16

Tuy nhiên, tổng đại lý kinh doanh xăng dầu chỉ được ký hợp đồng làm

tổng đại lý cho duy nhất một thương nhân đầu mối, không được ký thêm hợp

đồng làm đại lý cho tổng đại lý khác hoặc thương nhân đầu mối khác, trừ

trường hợp thương nhân đầu mối đó không kinh doanh nhiên liệu sinh học thì

được ký thêm hợp đồng làm tổng đại lý cho một thương nhân đầu mối khác

chỉ để kinh doanh nhiên liệu sinh học.

Đối với các đại lý trong hệ thống phân phối của mình, tổng đại lý kinh

doanh xăng dầu có nghĩa vụ phải kiểm tra, giám sát các hoạt động của các đại

lý đó, và phải chịu trách nhiệm liên đới đối với các hành vi vi phạm của đại lý

trong hoạt động kinh doanh xăng dầu theo quy định hiện hành của pháp luật.

1.2.2.2. Đại lý bán lẻ xăng dầu

Mô hình tổ chức và hoạt động của đại lý bán lẻ xăng dầu được quy định

tại khoản 14 Điều 3 Nghị định số 83/2014/NĐ-CP, cụ thể, đại lý bán lẻ xăng

dầu là thương nhân làm đại lý để thực hiện việc bán lẻ xăng dầu tại cửa hàng

bán lẻ xăng dầu của mình cho bên giao đại lý là thương nhân đầu mối hoặc

thương nhân phân phối xăng dầu hoặc tổng đại lý kinh doanh xăng dầu để

hưởng thù lao [6]. Để được Sở công thương cấp giấy xác nhận đủ điều kiện

làm đại lý bán lẻ xăng dầu thì thương nhân phải đáp ứng đủ các điều kiện sau:

- Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, trong giấy

chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh xăng dầu.

- Có cửa hàng bán lẻ xăng dầu thuộc sở hữu doanh nghiệp hoặc sở hữu

và đồng sở hữu được cấp giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng

dầu theo quy định pháp luật.

- Cán bộ quản lý, nhân viên trực tiếp kinh doanh phải được đào tạo,

huấn luyện và có chứng chỉ đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ về phòng cháy,

chữa cháy và bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật hiện hành.

Kinh doanh đại lý bán lẻ xăng dầu là ngành nghề kinh doanh có điều

17

kiện. Trong phạm vi hoạt động, đại lý bán lẻ xăng dầu thực hiện việc bán lẻ

xăng dầu tại cửa hàng bán lẻ xăng dầu của mình theo giá bán lẻ do thương

nhân đầu mối hoặc thương nhân phân phối xăng dầu quy định, theo các hình

thức là bên đại lý cho tổng đại lý hoặc thương nhân phân phối xăng dầu hoặc

thương nhân đầu mối và được hưởng thù lao đại lý. Tuy nhiên, mỗi đại lý bán

lẻ xăng dầu chỉ được ký hợp đồng làm đại lý bán lẻ xăng dầu cho một tổng

đại lý hoặc một thương nhân phân phối xăng dầu hoặc một thương nhân đầu

mối, không được ký thêm hợp đồng làm đại lý cho tổng đại lý hoặc thương

nhân phân phối xăng dầu hoặc thương nhân đầu mối khác.

Riêng trường hợp nếu tổng đại lý hoặc thương nhân phân phối xăng

dầu hoặc thương nhân đầu mối đó không kinh doanh nhiên liệu sinh học, đại

lý bán lẻ xăng dầu được ký thêm hợp đồng làm đại lý cho một tổng đại lý

hoặc một thương nhân phân phối xăng dầu hoặc một thương nhân đầu mối

khác chỉ để kinh doanh nhiên liệu sinh học.

Sau khi ký hợp đồng nêu trên thì đại lý bán lẻ xăng dầu phải phải

nằm trong hệ thống phân phối của tổng đại lý hoặc thương nhân phân phối

xăng dầu hoặc thương nhân đầu mối và chịu sự kiểm soát của thương nhân

đó, đồng thời phải tự chịu trách nhiệm về chất lượng, số lượng, giá xăng dầu

niêm yết, bán ra theo quy định.

1.2.2.3. Thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng dầu

Mô hình tổ chức và hoạt động của đại lý bán lẻ xăng dầu được quy định

tại khoản 15 Điều 3 Nghị định số 83/2014/NĐ-CP, cụ thể thương nhân nhận

quyền bán lẻ xăng dầu là thương nhân kinh doanh bán lẻ xăng dầu theo

phương thức nhượng quyền thương mại từ thương nhân đầu mối hoặc thương

nhân phân phối xăng dầu [6].

Thương nhân có đủ các điều kiện dưới đây được làm thương nhân nhận

quyền bán lẻ xăng dầu:

18

- Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, trong giấy

chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh xăng dầu.

- Có cửa hàng bán lẻ xăng dầu thuộc sở hữu doanh nghiệp hoặc sở hữu

và đồng sở hữu được cấp giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng

dầu theo quy định của pháp luật.

- Cán bộ quản lý, nhân viên trực tiếp kinh doanh phải được đào tạo,

huấn luyện và có chứng chỉ đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ về phòng cháy,

chữa cháy và bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật hiện hành.

Về phạm vi hoạt động của thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng dầu,

thương nhân được bán lẻ xăng dầu tại cửa hàng bán lẻ xăng dầu của mình

theo giá bán lẻ do thương nhân nhượng quyền là thương nhân đầu mối hoặc

thương nhân phân phối xăng dầu quy định. Thương nhân nhận quyền bán lẻ

xăng dầu chỉ được ký hợp đồng làm thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng dầu

cho một thương nhân đầu mối hoặc một thương nhân phân phối xăng dầu.

Thương nhân đã ký hợp đồng làm thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng

dầu không được ký thêm hợp đồng làm đại lý cho tổng đại lý hoặc thương

nhân phân phối xăng dầu, làm tổng đại lý hoặc đại lý cho thương nhân đầu

mối. Ngoài ra, thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng dầu phải nằm trong hệ

thống phân phối và chịu sự kiểm soát của thương nhân đầu mối hoặc thương

nhân phân phối xăng dầu.

Riêng đối với trường hợp thương nhân đầu mối hoặc thương nhân phân

phối không kinh doanh nhiên liệu sinh học, thì thương nhân nhận quyền bán

lẻ xăng dầu được ký thêm hợp đồng làm thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng

dầu cho một thương nhân phân phối hoặc một thương nhân đầu mối khác chỉ

để kinh doanh nhiên liệu sinh học.

Ngoài ra, thương nhân nhận đầu mối phải chịu trách nhiệm về chất

lượng, số lượng, giá xăng dầu niêm yết, bán ra theo quy định tại cửa hàng bán

lẻ xăng dầu thuộc sở hữu hoặc sở hữu và đồng sở hữu của doanh nghiệp mình.

19

1.2.2.4. Cửa hàng bán lẻ xăng dầu

Mô hình tổ chức và hoạt động của đại lý bán lẻ xăng dầu được quy định

tại Khoản 1 Điều 3 Thông tư 11/2013/TT-BCT quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về

yêu cầu thiết kế cửa hàng xăng dầu do Bộ trưởng Bộ Công thương ban hành,

cụ thể cửa hàng xăng dầu là công trình xây dựng chuyên kinh doanh bán lẻ

xăng dầu, các loại dầu mỡ nhờn, có thể kết hợp kinh doanh khí dầu mỏ hóa

lỏng đóng trong chai hoặc cung cấp dịch vụ tiện ích cho người và phương tiện

tham gia giao thông [4]. Cửa hàng xăng dầu có đủ các điều kiện dưới đây được

Sở Công thương cấp giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu:

- Thuộc sở hữu, đồng sở hữu của thương nhân là đại lý hoặc tổng đại lý

hoặc thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng dầu hoặc thương nhân phân phối

xăng dầu hoặc thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu hoặc

thương nhân sản xuất xăng dầu có hệ thống phân phối theo quy định tại Nghị

định này (thương nhân đề nghị cấp phải đứng tên tại giấy chứng nhận cửa

hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu).

- Được thiết kế, xây dựng và có trang thiết bị theo đúng các quy định hiện

hành về quy chuẩn, tiêu chuẩn cửa hàng bán lẻ xăng dầu, an toàn phòng cháy,

chữa cháy, bảo vệ môi trường của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.

- Cán bộ quản lý, nhân viên trực tiếp kinh doanh phải được đào tạo,

huấn luyện và có chứng chỉ đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ về phòng cháy,

chữa cháy và bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật hiện hành.

Một điều kiện tiên quyết của cửa hàng bán lẻ xăng dầu đã từng được quy

định tại Nghị định 83/2014/NĐ-CP là địa điểm đặt cửa hàng phải phù hợp với

quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt [6], tuy nhiên điều kiện này đã

bị bãi bỏ bởi quy định tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 08/2018/NĐ-CP [7].

Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh xăng dầu đối với cửa

hàng bán lẻ xăng dầu như sau:

20

- Kiểm soát cửa hàng bán lẻ xăng dầu thuộc hệ thống phân phối của mình.

- Thông báo bằng văn bản về thời gian ngừng bán hàng gửi Sở Công

thương nơi cấp giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu cho

cửa hàng bán lẻ xăng dầu, trong đó ghi rõ lý do ngừng bán hàng.

- Niêm yết giá bán các loại xăng dầu và bán đúng giá niêm yết.

- Tại khu vực bán hàng, chỉ được treo biển hiệu của thương nhân cung cấp

xăng dầu cho cửa hàng là thương nhân đầu mối hoặc thương nhân phân phối

xăng dầu. Biển hiệu phải ghi đầy đủ các nội dung theo quy định của pháp luật.

- Ghi rõ thời gian bán hàng tại khu vực bán hàng, thuận tiện cho quan

sát của người mua hàng.

- Chỉ ngừng bán hàng sau khi được Sở Công thương chấp thuận bằng

văn bản.

- Chịu trách nhiệm về chất lượng, số lượng, giá xăng dầu niêm yết, bán

ra theo quy định.

- Trước ba mươi (30) ngày, trước khi ngừng lấy hàng của thương nhân

cung cấp cho cửa hàng bán lẻ xăng dầu, thương nhân sở hữu cửa hàng bán lẻ

xăng dầu phải báo cáo và đề nghị Sở Công thương điều chỉnh giấy chứng nhận

cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu đã cấp cho cửa hàng bán lẻ xăng dầu.

1.3. Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán lẻ xăng dầu

Xăng dầu là mặt hàng chiến lược có tầm quan trọng, có tác động mạnh

mẽ tới sự phát triển kinh tế và sự ổn định xã hội của Việt Nam. Xăng dầu là

yếu tố đầu vào quan trọng của sản xuất, đồng thời là loại năng lượng có hạn,

không thể tái sinh và hiện tại chưa thể thay thế được. Bên cạnh các hoạt động

kinh doanh phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, xăng dầu còn là mặt hàng dự

trữ chiến lược quốc gia. Trong điều kiện mới việc đảm bảo hiệu quả kinh

doanh, tự chủ của doanh nghiệp đồng thời phải đi liền với đảm bảo an ninh

năng lượng quốc gia. Khi tiến hành mở cửa thị trường xăng dầu theo xu

21

hướng hội nhập, vấn đề đặt ra là, làm thế nào để đảm bảo cho thị trường vận

động tự do theo quy luật cung cầu, tạo dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh

giữa các doanh nghiệp? Điều này đòi hỏi Nhà nước phải có những điều chỉnh,

đổi mới về cơ chế, chính sách phù hợp với những diễn biến phức tạp của thị

trường. Một mặt, phải đảm bảo lợi ích của các doanh nghiệp, lợi ích của

người tiêu dùng, mặt khác, phải đảm bảo dự trữ xăng dầu, đảm bảo an ninh

năng lượng quốc gia.

1.3.1. Cấp phép cho hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

Xăng dầu là hàng hóa đặc biệt, việc bảo quản, vận chuyển, mua bán

phải tuân theo những tiêu chuẩn kỹ thuật chặt chẽ, nên việc kinh doanh xăng

dầu phải tuân thủ những điều kiện nhất định, các doanh nghiệp kinh doanh

bán lẻ xăng dầu phải có những ràng buộc về năng lực, quy mô và trình độ tối

thiểu bắt buộc.

Hiện nay, ở Việt Nam, xăng dầu là mặt hàng kinh doanh có điều kiện,

các doanh nghiệp muốn kinh doanh trong lĩnh vực này phải đáp ứng được các

điều kiện quy định tại Nghị định số 83/2014/NĐ-CP của Chính phủ về kinh

doanh xăng dầu [6]. Tương ứng với các hoạt động kinh doanh sẽ là các loại

giấy phép khác nhau, mỗi loại giấy phép lại cần đáp ứng điều kiện kinh doanh

xăng dầu riêng theo khoản 1 Điều 6 Thông tư số 38/2014/TT-BCT sửa đổi

tại Điều 1 Thông tư số 28/2017/TT-BCT [3], cụ thể:

Việc cấp phép cho hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu được hiểu

là việc các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp các loại giấy xác

nhận, giấy chứng nhận đủ điều kiện đối với từng mô hình kinh doanh bán

lẻ xăng dầu, cụ thể ở Việt Nam thẩm quyền thuộc về Bộ Công thương và

Sở Công thương. Thương nhân có nhu cầu cấp mới, cấp bổ sung, sửa đổi

hoặc cấp lại giấy xác nhận đủ điều kiện làm tổng đại lý kinh doanh xăng

dầu; giấy xác nhận đủ điều kiện làm đại lý bán lẻ xăng dầu; giấy chứng

22

nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu, thương nhân gửi hồ sơ đăng

ký về Bộ Công Thương, Sở Công Thương qua đường công văn hoặc qua

mạng điện tử theo địa chỉ do Bộ Công Thương, Sở Công Thương thông báo

trên trang thông tin điện tử.

Trong đó, thẩm quyền cấp phép cho hoạt động bán lẻ xăng dầu được

quy định cụ thể đối với Bộ Công thương và Sở Công thương như sau:

- Bộ Công Thương có trách nhiệm xem xét, thẩm định, kiểm tra năng

lực thực tế và cấp giấy xác nhận đủ điều kiện làm tổng đại lý kinh doanh xăng

dầu (có hệ thống phân phối xăng dầu trên địa bàn hai tỉnh, thành phố trực

thuộc Trung ương trở lên) cho thương nhân.

- Sở Công Thương có trách nhiệm xem xét, thẩm định, kiểm tra năng

lực thực tế và cấp giấy xác nhận đủ điều kiện làm tổng đại lý kinh doanh xăng

dầu (có hệ thống phân phối xăng dầu trên địa bàn một tỉnh thành phố trực

thuộc Trung ương); giấy xác nhận đủ điều kiện làm đại lý bán lẻ xăng dầu;

giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu.

Như vậy đối với các mô hình kinh doanh bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam,

Bộ Công thương chỉ cấp giấy xác nhận đủ điều kiện cho thương nhân xin cấp

phép làm Tổng đại lý kinh doanh xăng dầu có hệ thống phân phối xăng dầu

trên địa bàn hai tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương trở lên. Với các đề nghị

cấp giấy xác nhận đủ điều kiện làm tổng đại lý kinh doanh xăng dầu (có hệ

thống phân phối xăng dầu trên địa bàn một tỉnh thành phố trực thuộc Trung

ương), đại lý bán lẻ xăng dầu và giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán

lẻ xăng dầu cho thương nhân thuộc thẩm quyền của Sở Công thương.

Sau khi nhận bộ hồ sơ đăng ký của thương nhân, Bộ Công thương và

Sở công thương có trách nhiệm triển khai các công việc sau:

(i) Thẩm định, kiểm tra năng lực thực tế của thương nhân

- Đối với Bộ Công thương: Tùy từng trường hợp cụ thể, Bộ Công

23

Thương phối hợp hoặc ủy quyền cho Sở Công Thương nơi thương nhân đặt

trụ sở chính, Sở Công Thương nơi thương nhân có cơ sở kinh doanh xăng dầu

có trách nhiệm thẩm định, kiểm tra năng lực thực tế của thương nhân, lập

thành văn bản gửi về Bộ Công Thương xem xét cấp giấy xác nhận đủ điều

kiện làm tổng đại lý kinh doanh xăng dầu.

- Đối với Sở Công thương: Phải trực tiếp thực hiện việc xem xét, thẩm

định, kiểm tra năng lực thực tế của các thương nhân thuộc thẩm quyền của

Sở. Đối với công việc do Bộ Công thương ủy quyền hoặc đề nghị phối hợp,

Sở Công thương thực hiện công việc được ủy quyền, sau đó lập thành văn bản

gửi kết quả kiểm tra, thẩm định về Bộ Công Thương để xem xét cấp giấy xác

nhận đủ điều kiện làm tổng đại lý kinh doanh xăng dầu.

(ii) Cấp giấy xác nhận, giấy chứng nhận cho thương nhân đủ điều kiện:

- Đối với Bộ Công thương: Trong trường hợp kết quả kiểm tra thực tế

phù hợp với hồ sơ đề nghị của thương nhân, Bộ Công thương cấp giấy xác

nhận cho thương nhân đủ điều kiện làm tổng đại lý kinh doanh xăng dầu.

Trong trường hợp kết quả kiểm tra không đạt, Bộ Công thương thông

báo bằng văn bản nêu rõ lý do từ chối cấp giấy xác nhận cho thương nhân.

- Đối với Sở Công thương: Trong trường hợp kết quả kiểm tra thực tế

phù hợp với hồ sơ đề nghị của thương nhân, Sở Công Thương cấp giấy xác

nhận, Giấy chứng nhận cho thương nhân.

Trong trường hợp kết quả kiểm tra thực tế không phù hợp với hồ sơ đề

nghị của thương nhân, Sở Công Thương thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do

từ chối cấp giấy xác nhận, giấy chứng nhận cho thương nhân.

1.3.2. Quản lý về đo lường, chất lượng trong kinh doanh xăng dầu

Trong Thông tư số 38/2014/TT-BCT có quy định rõ về đo lường xăng

dầu, quy định về chất lượng của xăng dầu trong kinh doanh và trách nhiệm

của thương nhân kinh doanh bán lẻ xăng dầu và cơ quan nhà nước, tổ chức, cá

nhân liên quan [6].

24

Thương nhân kinh doanh bán lẻ xăng dầu phải thực hiện các yêu cầu về

quản lý đo lường, chất lượng xăng dầu theo quy định của pháp luật hiện hành

trong quá trình tồn trữ và bán cho người tiêu dùng; chịu trách nhiệm và liên

đới chịu trách nhiệm về đo lường, chất lượng xăng dầu trong hệ thống kinh

doanh bán lẻ xăng dầu của mình. Trên thực tế, hiện nay vẫn còn tồn tại các

hành vi gian lận trong kinh doanh bán lẻ xăng dầu hết sức phức tạp, có tính

phổ biến, thủ thuật tinh vi, đặc biệt là thủ thuật thay đổi phần mềm có sai số

lớn cài đặt lên bộ vi xử lý để gian lận đo lường.

Với việc triển khai việc cung cấp kết quả đo cho khách hàng khi có yêu

cầu sẽ giúp người tiêu dùng có chứng cứ để khiếu nại, tố cáo hành vi vi phạm

pháp luật đo lường, chất lượng trong trường hợp thương nhân bán lẻ xăng dầu

gây thiệt hại cho người tiêu dùng và cơ quan nhà nước có thẩm quyền có đủ

chứng cứ, tài liệu để xử lý khiếu nại, tố cáo, xác định thu lợi bất chính do vi

phạm về đo lường trong kinh doanh bán lẻ xăng dầu.

Bộ Khoa học Công nghệ đã ban Thông tư số 15/2015/TT-BKHCN quy

định về đo lường và chất lượng trong kinh doanh xăng dầu. Thông tư này quy

định về đo lường, chất lượng trong kinh doanh xăng dầu và trình tự, thủ tục

đăng ký cơ sở pha chế xăng dầu tại Việt Nam, áp dụng cho thương nhân kinh

doanh xăng dầu; cơ quan quản lý Nhà nước về đo lường, chất lượng và cơ

quan nhà nước, tổ chức, cá nhân khác có liên quan [2].

Trong Thông tư có quy định rõ về đo lường xăng dầu, quy định về chất

lượng của xăng dầu trong kinh doanh và trách nhiệm của thương nhân kinh

doanh xăng dầu và cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân liên quan. Bộ Khoa

học và Công nghệ có trách nhiệm chỉ đạo việc kiểm định các thiết bị đo lường

theo quy định hiện hành của pháp luật về đo lường và việc đảm bảo chất

lượng theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và Tiêu chuẩn công bố áp dụng; phối

hợp với các Bộ, ngành liên quan rà soát các tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ

25

thuật quốc gia về xăng dầu để điều chỉnh, bổ sung các chỉ tiêu chất lượng,

phương pháp thử phù hợp với tiêu chuẩn của các nước trong khu vực và quốc

tế; chỉ định tổ chức đánh giá sự phù hợp trong nước; tiến hành thừa nhận lẫn

nhau về kết quả đánh giá sự phù hợp của tổ chức đánh giá sự phù hợp nước

ngoài để bảo đảm đáp ứng yêu cầu kịp thời, nhanh chóng, chính xác và thuận

lợi cho công tác kiểm tra.

Việc kiểm tra chất lượng sản phẩm xăng dầu hiện do Tổng cục Tiêu

chuẩn Đo lường Chất lượng đảm nhiệm với các Trung tâm Kỹ thuật tiêu chuẩn

Đo lường chất lượng 1, 2, 3, 4 ở ba miền Bắc, Trung, Nam và vùng Tây Nguyên.

Các Trung tâm tiến hành kiểm tra sản phẩm xăng dầu nhập ngoại hoặc

pha chế, sản xuất trong nước. Các Sở Công thương hoặc Sở Khoa học và

Công nghệ ở các tỉnh có chức năng quản lý Nhà nước về chất lượng các sản

phẩm xăng dầu nhưng không có cơ sở vật chất chuyên dụng để kiểm tra chất

lượng xăng dầu.

Trên thực tế, Nhà nước đã từng bước tăng cường công tác quản lý chất

lượng xăng dầu trong lưu thông bằng nhiều biện pháp khác nhau theo hướng

nâng cao chất lượng đảm bảo an toàn môi trường được xã hội và người tiêu

dùng đánh giá cao như: chấm dứt sử dụng xăng pha chì và ban hành các văn

bản quy định về tiêu chuẩn chất lượng nhiên liệu Diezel. Những cơ sở pháp lý

này là tiền đề hết sức quan trọng để đảm bảo chất lượng hàng hóa xăng dầu.

Đội ngũ quản lý thị trường cũng đã được quan tâm, trở thành một lực

lượng chuyên trách, được tổ chức thành hệ thống từ trung ương đến các địa

phương. Ở Trung ương là Cục Quản lý thị trường trực thuộc Bộ Công

thương, ở các tỉnh thành là các Chi cục Quản lý thị trường. Cục Quản lý thị

trường là cơ quan giúp Bộ trưởng Bộ Công thương thực hiện chức năng

quản lý nhà nước và tổ chức chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát

thị trường, đấu tranh chống các vi phạm pháp luật trong hoạt động thương

26

mại ở thị trường trong nước. Các Chi cục Quản lý thị trường giúp Giám đốc

Sở Công thương thực hiện chức năng quản lý nhà nước và tổ chức thực hiện

nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát thị trường, đấu tranh chống các vi phạm pháp

luật trong kinh doanh thương mại trên địa bàn tỉnh, thành phố. Lực lượng

quản lý thị trường trong cả nước chủ trì và triển khai các hoạt động chống

buôn bán xăng dầu kém chất lượng, đong sai, đong thiếu xăng dầu, bán

không đúng giá niêm yết.

Như vậy, có thể thấy, công tác kiểm tra trong lĩnh vực xăng dầu đã góp

phần hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua việc tập trung bảo vệ

những hoạt động hợp pháp của doanh nghiệp và đấu tranh chống các vi phạm

pháp luật trong hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, góp phần tạo một môi

trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, bảo vệ người tiêu dùng. Bên cạnh

đó, công tác kiểm tra trong lĩnh vực kinh doanh bán lẻ xăng dầu, đặc biệt là

kiểm tra về đo lường và chất lượng sản phẩm sẽ đảm bảo tính hiệu quả của xã

hội và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Việc đảm bảo đo đúng, đủ sẽ giúp

cho người tiêu dùng tránh những thiệt thòi do sự gian lận trong đo lường của

các cửa hàng, đại lý thường rất hay xảy ra tại các cửa hàng có quy mô nhỏ và

các địa điểm xa trung tâm. Việc kiểm tra về chất lượng sẽ đảm bảo cho việc

vận hành tốt của máy móc, thiết bị sử dụng xăng dầu. Đây là một yếu tố cực

kỳ quan trọng vì nhiều máy móc, thiết bị sử dụng xăng dầu có chi phí đầu tư

rất lớn, nếu chất lượng xăng dầu không đảm bảo sẽ dẫn đến làm hỏng hóc

máy móc, thiết bị và gây thiệt hại lớn cho người tiêu dùng và xã hội.

Mặc dù đã có nhiều vụ việc được phát hiện và xử lý, nhưng dường như

vẫn chưa có tác dụng răn đe, tình trạng gian lận thương mại trong lĩnh vực

kinh doanh bán lẻ xăng dầu hiện vẫn diễn ra rất phổ biến và ngày càng tinh vi.

Việc gian lận thường diễn ra dưới hình thức gian lận về đo lường, về chất

lượng xăng dầu và đầu cơ khi có biến động giá lớn.

27

1.3.3. Quản lý giá bán xăng dầu, công khai, minh bạch trong điều

hành giá và kinh doanh xăng dầu

Do vai trò hết sức quan trọng của xăng dầu đối với đời sống kinh tế xã

hội và đặc điểm kinh doanh sản phẩm này mà Chính phủ nhiều nước đều can

thiệp vào giá cả xăng dầu bằng nhiều hình thức và biện pháp điều tiết, khống

chế khác nhau và Việt Nam cũng không là một ngoại lệ.

Trên thực tế, chính sách giá tối đa đã có tác động đến việc ổn định giá

xăng dầu trên thị trường nội địa. Mặc dù kinh doanh xăng dầu thời kỳ này

không còn mang tính độc quyền của một doanh nghiệp, nhưng việc kiểm soát

giá đối với mặt hàng này vẫn rất quan trọng do xăng dầu là sản phẩm chịu tác

động trực tiếp của thị trường thế giới, trong khi đó, khả năng cạnh tranh của

hàng hóa sản xuất trong nước chưa cao, nếu giá nhiên liệu không ổn định sẽ

gây hậu quả xấu đến giá bán các sản phẩm đầu ra của nhiều ngành nghề sử

dụng nhiên liệu xăng dầu.

Tại Điều 38, 39 Nghị định số 83/2014/NĐ-CP của Chính phủ đã quy

định cụ thể về quản lý giá bán xăng dầu, công khai, minh bạch trong điều

hành giá và kinh doanh xăng dầu [6]. Nghị định nêu rõ về các nguyên tắc

quản lý giá bán xăng dầu, bao gồm: Giá bán xăng dầu được thực hiện theo cơ

chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước; thời gian giữa hai lần điều chỉnh

giá liên tiếp tối thiểu là 15 ngày đối với trường hợp tăng giá, tối đa là 15 ngày

đối với trường hợp giảm giá. Khi các yếu tố cấu thành biến động làm cho giá

cơ sở giảm so với giá cơ sở liền kề trước đó, trong thời hạn quy định, thương

nhân đầu mối phải giảm giá bán lẻ tối thiểu tương ứng giá cơ sở tại thời điểm

thương nhân điều chỉnh giá; đồng thời gởi văn bản kê khai giá, quyết định

điều chỉnh giá đến cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền (Liên Bộ Công

thương và Tài chính) và chịu trách nhiệm trước pháp luật về mức giá được

điều chỉnh; không hạn chế mức giảm, khoảng thời gian giữa hai lần giảm và

số lần giảm giá.

28

Về việc điều chỉnh tăng giá bán lẻ xăng dầu, Nghị định cũng quy định

khá cụ thể. Trường hợp các yếu tố cấu thành biến động làm cho giá cơ sở tăng

trong phạm vi 3% so với giá cơ sở liền kề trước đó, thương nhân đầu mối

được tăng giá bán lẻ tương ứng giá cơ sở tại thời điểm thương nhân điều

chỉnh giá; đồng thời, gởi văn bản kê khai giá, quyết định điều chỉnh giá đến

cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền (Liên Bộ Công thương và Tài

chính) và chịu trách nhiệm trước pháp luật về mức giá được điều chỉnh.

Trường hợp các yếu tố cấu thành làm cho giá cơ sở tăng vượt 3% đến

7% so với giá cơ sở liền kề trước đó, thương nhân đầu mối gởi văn bản kê

khai giá, dự kiến mức điều chỉnh giá tới cơ quan quản lý nhà nước có thẩm

quyền (Liên Bộ Công thương - Tài chính). Trong thời hạn 3 ngày làm việc, cơ

quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phải có văn bản trả lời. Quá thời hạn

này, nếu cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền không có văn bản trả lời,

thương nhân đầu mối được quyền điều chỉnh giá bán lẻ tối đa tương ứng với

mức giá cơ sở tại thời điểm điều chỉnh nhưng không được vượt quá 7% so với

giá cơ sở liền kề trước đó. Trường hợp các yếu tố cấu thành biến động làm

cho giá cơ sở tăng trên 7% so với giá cơ sở liền kề trước đó hoặc việc tăng giá

ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân, Liên Bộ Công

thương - Tài chính báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, cho ý kiến về biện

pháp điều hành cụ thể.

Nghị định này cũng quy định về việc công khai, minh bạch trong điều

hành giá và kinh doanh xăng dầu. Theo đó, Bộ Công thương có trách nhiệm

công bố trên trang thông tin điện tử của mình về giá thế giới, giá cơ sở, giá

bán lẻ xăng dầu hiện hành; thời điểm sử dụng, số trích lập, số sử dụng và số

dư Quỹ bình ổn giá xăng dầu hàng quý; các biện pháp điều hành khác. Thương

nhân đầu mối có trách nhiệm công bố trên trang thông tin điện tử của thương

nhân hoặc trên phương tiện thông tin đại chúng về giá bán lẻ hiện hành, công

29

bố báo cáo tài chính trong năm tài chính khi đã được kiểm toán.

Nói tóm lại, doanh nghiệp chỉ được quyền quyết định giá trong một

phạm vi nhất định. Khi giá thị trường có thể tác động tới các chỉ tiêu kinh tế

xã hội, Chính phủ có quyền điều tiết việc tăng giảm giá của doanh nghiệp.

Chủ trương sử dụng Quỹ Bình ổn giá giúp doanh nghiệp được hưởng lợi,

được sử dụng tạo nguồn vốn lưu động mà không phải đi vay, không phải trả

lãi, Nhà nước có thêm công cụ để điều tiết giá, kiềm chế lạm phát ổn định an

sinh xã hội. Tuy nhiên việc điều hành trích lập, sử dụng Quỹ Bình ổn giá xăng

dầu còn nhiều bất cập. Quy định như vậy là tạo ra một quỹ ảo vì nếu doanh

nghiệp trích Quỹ Bình ổn giá tức là phải lấy vốn ra để trích lập Quỹ. Hơn thế

nữa, Quỹ Bình ổn giá cũng không tách được số lãi do số dư Quỹ chưa sử

dụng mang lại, hạn chế và tính minh bạch vì dễ bị doanh nghiệp lạm dụng vào

mục đích khác.

1.3.4. Áp dụng các biện pháp an toàn và bảo vệ môi trường của các

cơ sở kinh doanh bán lẻ xăng dầu

Xăng dầu là loại nhiên liệu thiết yếu đối với đời sống con người

trong suốt nhiều năm qua và tiếp tục đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong

tương lai. Tuy nhiên do đặc điểm lý hóa riêng nên việc sử dụng, vận

chuyển và bảo quản không hợp lý có thể sẽ có tác động gây ô nhiễm môi

trường. Xăng dầu là chất lỏng bay hơi ở bất cứ nhiệt độ nào, dễ bắt lửa và

cháy ở nhiệt độ bình thường. Khi hơi xăng dầu đạt đến một nồng độ nhất

định nó có thể gây cháy nổ, và khi cháy nổ xăng dầu tỏa ra nhiệt lượng lớn

hủy hoại môi trường xung quanh. Là chất lỏng dễ bay hơi nên xăng dầu dễ

phát tán vào khí quyển gây ngộ độc cho con người và sinh vật. Do các đặc

tính lý hóa của các sản phẩm xăng dầu nên hoạt động của ngành xăng dầu

(lưu chứa, vận chuyển) luôn chứa đựng nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.

Chính vì vậy, Nhà nước phải đưa ra chính sách bảo vệ môi trường, quy

30

định về bảo vệ môi trường và an toàn phòng chống cháy nổ đối với các

doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ xăng dầu.

Do nguy cơ cao về cháy nổ và khả năng ảnh hưởng lớn đến môi trường

khi kinh doanh và sử dụng xăng dầu nên Chính phủ đã có quy định về phòng

cháy, chữa cháy và bảo vệ môi trường tại Điều 6 Nghị định số 83/2014/NĐ-

CP, bao gồm: (i) Cơ sở kinh doanh xăng dầu phải bảo đảm các quy định của

pháp luật về phòng cháy, chữa cháy và bảo vệ môi trường trong quá trình hoạt

động kinh doanh xăng dầu; (ii) Thương nhân kinh doanh xăng dầu phải tổ

chức kiểm tra định kỳ sáu (06) tháng một lần các cơ sở kinh doanh xăng dầu

thuộc hệ thống bảo đảm tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành về

phòng cháy, chữa cháy, bảo vệ môi trường và quy chuẩn, tiêu chuẩn chất

lượng xăng dầu.

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các Bộ, cơ quan ngang

Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm phối hợp với Bộ Công an tổ

chức thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy, như: ban hành văn bản quy

phạm pháp luật và các quy định về phòng cháy, chữa cháy trong phạm vi

quản lý và thẩm quyền của mình; phối hợp với Bộ Công an tổ chức thực hiện

các quy định của pháp luật về phòng cháy, chữa cháy; tổ chức tuyên truyền,

giáo dục pháp luật, hướng dẫn kiến thức về phòng cháy, chữa cháy; chỉ đạo

xây dựng và duy trì phong trào quần chúng phòng cháy, chữa cháy; chỉ đạo

việc đầu tư kinh phí cho hoạt động phòng cháy, chữa cháy, trang bị phương

tiện phòng cháy, chữa cháy; chỉ đạo về tổ chức chữa cháy và khắc phục hậu

quả vụ cháy; bố trí lực lượng thực hiện nhiệm vụ phòng cháy, chữa cháy;

thống kê, báo cáo Chính phủ và Bộ Công an về phòng cháy, chữa cháy.

Bên cạnh đó, yêu cầu về nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ môi

trường cũng cần được tuân thủ theo Điều 139 Luật Bảo vệ môi trường năm

2014, cụ thể:

31

Bộ Tài nguyên và Môi trường cần phối hợp với các Bộ, ngành liên

quan xây dựng, ban hành theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện các văn bản

quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy

chuẩn kỹ thuật môi trường; xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính

sách, chương trình, đề án, quy hoạch, kế hoạch về bảo vệ môi trường; tổ chức,

xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc; định kỳ đánh giá hiện trạng môi trường,

dự báo diễn biến môi trường; xây dựng, thẩm định và phê duyệt quy hoạch

bảo vệ môi trường; thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược; thẩm

định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường và kiểm tra, xác nhận

các công trình bảo vệ môi trường; tổ chức xác nhận kế hoạch bảo vệ môi

trường; chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các hoạt động bảo tồn đa

dạng sinh học; quản lý chất thải; kiểm soát ô nhiễm; cải thiện và phục hồi môi

trường; cấp, gia hạn, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận về môi trường. Đặc

biệt là cần duy trì thường xuyên và có hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra

việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường; thanh tra trách nhiệm quản lý

nhà nước về bảo vệ môi trường; giải quyết khiếu nại, tố cáo về bảo vệ môi

trường; xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường [17].

32

Tiểu kết Chương 1

Trong nền kinh tế thị trường và hội nhập thế giới hiện nay, xăng dầu là

một loại nguyên liệu chưa thể thay thế vào có vai trò đặc biệt quan trọng.

Hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu là hoạt động kinh tế có ảnh hưởng trực

tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Những quy định về tổ chức và

hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu theo pháp luật Việt Nam đã phần nào

phát huy vai trò và có tác động lớn trong việc góp phần cho sự phát triển kinh

tế - xã hội đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Trong Chương 1 của luận văn, học viên đã nghiên cứu những vấn đề lý

luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt

Nam. Các vấn đề được trình bày tại chương này là nền tảng cơ sở lý luận để

từ đó, phân tích thực tiễn thực thi pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh

doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam hiện nay trong Chương 2.

33

Chương 2

THỰC TIỄN THỰC THI PHÁP LUẬT

VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BÁN LẺ XĂNG DẦU

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Thực trạng tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở

Việt Nam hiện nay

2.1.1. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở

Việt Nam

Cùng với điện, nước, xăng dầu được coi là mặt hàng thiết yếu đối với

đời sống xã hội, có tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế. Đây cũng là

một trong những mặt hàng rất nhạy cảm trước những biến động về chính trị

và kinh tế trên thế giới.

Tại Việt Nam, mặt hàng này đang được Nhà nước quản lý nguồn nhập

khẩu, điều phối giá và dự trữ chiến lược. Trên thị trường, Tập đoàn Xăng dầu

Việt Nam (Petrolimex) và Tổng công ty Dầu Việt Nam (PV Oil) là hai đơn vị

kinh doanh và bán lẻ xăng dầu lớn nhất cả nước. Ngoài ra, đây cũng là hai

doanh nghiệp có số lượng điểm bán lẻ, cây xăng nhiều nhất.

Báo cáo thường niên của Petrolimex cho thấy, đến cuối năm 2018, Petrolimex

có gần 6.000 cửa hàng xăng dầu được trải dài khắp 63 tỉnh/thành phố trên cả

nước, chiếm 50% thị phần trong nước, trong đó, có hơn 2.500 cửa hàng thuộc sở

hữu trực tiếp của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) [12].

Tổng công ty Dầu Việt Nam (PV Oil) cũng có những chia sẻ về mục

tiêu xây dựng 1.000 cửa hàng kinh doanh xăng dầu trên toàn quốc, tăng 1,85

lần so với hiện nay của PV Oil. Từ thực tế này, ngay từ đầu năm 2019, PV Oil

đã tập trung vào mảng bán lẻ với 44 cửa hàng xăng dầu được mở mới và cải

tạo, với tổng giá trị đầu tư khoảng 195 tỷ đồng [17]. Nghị định số 08/2018-

34

NĐ-CP đã gỡ bỏ đáng kể những rào cản lớn đối với các doanh nghiệp muốn

tham gia thị trường phân phối xăng dầu như bỏ Quy hoạch phát triển hệ thống

kinh doanh xăng dầu, bỏ điều kiện sản xuất xăng dầu... tuy nhiên, đến nay,

thực tế thị trường phân phối và kinh doanh bán lẻ xăng dầu vẫn chỉ là “sân

chơi” của số ít “ông lớn”… [7].

Cụ thể là tính theo thị phần bán lẻ xăng dầu hiện nay, Tập đoàn Xăng

dầu Việt Nam (Petrolimex) có thị phần gần 50%, Tổng công ty Dầu Việt Nam

- CTCP (PV Oil) trên 20% [12]. Nếu tính thêm thị phần của một số doanh

nghiệp kinh doanh xăng dầu lâu năm như Công ty TNHH MTV Dầu khí TP

Hồ Chí Minh (Saigon Petro), Tổng công ty Xăng dầu Quân đội… khoảng 6 -

7% nữa, thị phần của hơn 20 thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu

xăng dầu chỉ còn hơn 20% (trừ 3 doanh nghiệp chỉ được kinh doanh nhiên

liệu máy bay).

Trên thực tế, PV Oil và các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ xăng dầu

khá yếu thế so với Petrolimex nên gặp không ít khó khăn trong việc mở rộng

thị phần. Tuy nhiên, Petrolimex bị ràng buộc bởi Luật Cạnh tranh nên không

thể gia tăng thị phần một cách thoải mái [26].

Bên cạnh các công ty trong nước và đơn vị kinh doanh nhượng quyền,

thị trường bán lẻ xăng dầu Việt Nam mới có sự tham gia của 1 đơn vị 100%

vốn nước ngoài, cụ thể là Idemitsu Q8 Petroleum LLC với trạm xăng nổi

tiếng qua sự việc Tổng giám đốc Idemitsu Q8 Petroleum kiên trì đứng dưới

mưa, cúi gập người chào khách đến đổ xăng dưới thời tiết mưa gió. Kể từ lần

đầu tiên khi xuất hiện tại Khu công nghiệp Thăng Long - Hà Nội vào ngày

5/10/2017, đến nay IQ8 đã mở được 4 cửa hàng xăng dầu [28].

Ngoài ra, IQ 8 đem đến những làn gió mới như các trạm dịch vụ bán lẻ

xăng dầu được xây dựng trên các hoạt động chuyên môn dựa trên kinh nghiệm

của Công ty về các trạm dịch vụ tại Nhật Bản và kinh nghiệm điều hành các

35

trạm dịch vụ ở Châu Âu, hệ thống phần mềm cho phép quản lý chính xác số

lượng nhiên liệu đến 0,01 lít, cung cấp báo cáo chi tiết các giao dịch cho

khách hàng, trang bị một hệ thống phần mềm quản lý trạm tự động cho phép

thanh toán bằng thẻ POS tại trạm xăng, cho phép người mua không cần trả

tiền mặt mà có thể thanh toán bằng thẻ ATM kèm theo nhiều tính năng ưu

việt mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng, được thiết kế và trang bị các

công nghệ mới nhất, bao gồm: Bể chứa nhiên liệu 2 lớp, hệ thống đường ống

dẫn bằng vật liệu tổng hợp nhằm ngăn chặn tối đa việc rò rỉ nhiên liệu gây tác

động môi trường. Đặc biệt và cũng gây chú ý nhất là thái độ tôn trọng, lịch sự

đối với khác hàng. Khi khách hàng vào đổ xăng, các nhân viên tại cây xăng

đều cúi gập người chào đón.

Biểu đồ 2.1: Thị phần bán lẻ xăng dầu của các đơn vị phân phối

Đáng chú ý, Idemitsu Kosan chính là cổ đông lớn sở hữu tới 35,1% vốn

tại Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn (Thanh Hóa), vì vậy, sản phẩm của Nhà

máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn sẽ được Idemitsu Q8 Petroleum LLC phân phối

chính thức [29].

36

Nhìn vào những thông tin trên, không quá khi cho rằng, sự xuất hiện

của nhân tố mới này đã khắc dấu ấn vào kỷ nguyên mới của Ngành Xăng dầu

Việt Nam, khi 2 đối tác trong Liên doanh là Kuwait Petroleum và Idemitsu

đều là 02 tên tuổi lớn đã gặt hái được nhiều thành công trong ngành kinh

doanh bán lẻ xăng dầu tại châu Âu, Nhật Bản và họ đã xuất hiện khi nhận

thấy cơ hội kinh doanh tại thị trường Việt Nam, từ đó, tác động trực tiếp đến

các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam, là động lực để

các doanh nghiệp hoàn thiện dịch vụ và mang lại nhiều tiện ích hơn cho khách

hàng, lên kế hoạch nâng cấp cơ sở hạ tầng, thiết bị công nghệ và ứng xử

thương mại tại các cửa hàng bán lẻ xăng dầu của mình để có thể cạnh tranh

với các doanh nghiệp đến từ nước ngoài như IQ8. Việc này dẫn đến một thị

trường bán lẻ xăng dầu sẽ ngày càng sôi động, phát triển, đi kèm với đó là

quyền lợi của người tiêu dùng sẽ ngày càng được nâng cao nhất là trong thời

điểm thị trường bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam vốn được đánh giá là “lắm

chuyện, ngoài giá cả vẫn còn tồn tại vấn đề gian lận, không minh bạch…” [25]

và đã xảy ra nhiều vụ việc liên quan đến thái độ, ứng xử trong bán hàng của

nhân viên tại các cửa hàng bán lẻ xăng dầu.

Bước vào thị trường xăng dầu khi nhiều ông lớn trong nước như Tập đoàn

Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex), Tổng công ty Dầu Việt Nam (PV Oil)...

chiếm thị phần lớn với các vị trí đắc địa trên thị trường, IQ8 lựa chọn các địa

điểm kinh doanh vùng ven nhưng có nhiều lợi thế là các khu công nghiệp, với

lượng khách hàng công nghiệp chiếm tỉ lệ lớn. Doanh nghiệp này đặt ra mục

tiêu năm 2020 sẽ mở thêm 10 cây xăng, tập trung ở miền Bắc.

Thị trường bán lẻ xăng dầu có quy mô 6 tỉ USD đã trở thành miếng

bánh hấp dẫn với nhà đầu tư ngoại. Bởi vậy, dù không mở cây xăng như IQ8,

không ít nhà đầu tư ngoại nhắm đến việc mua cổ phần của các doanh nghiệp

xăng dầu trên thị trường. Trong đó, JX Nippon Oil & Energy (JX) đã rót tiền

37

nắm giữ 8% cổ phần của “ông lớn” Petrolimex. Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam

(Petrolimex) hiện tiếp tục kiến nghị được nới room ngoại lên 49%.

2.1.2. Những kết quả đạt được trong tổ chức và hoạt động kinh doanh

bán lẻ xăng dầu

Thời gian vừa qua, hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam

đã có những bước phát triển đóng góp quan trọng trong việc đảm bảo nguồn

nhiên liệu phục vụ đời sống, sản xuất kinh doanh của nhân dân trong cả nước,

cũng như đóng góp vào sự phát triển kinh tế của các tỉnh, thành phố trong cả

nước. Thị trường bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam được đánh giá là một trong

những thị trường có tốc độ phát triển ấn tượng và hấp dẫn. Hệ thống cửa hàng

xăng dầu là một cơ sở hạ tầng rất quan trọng và không thể thiếu được của

tuyến đường để đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, các địa

phương đã tiến hành quy hoạch hệ thống cửa hàng xăng dầu trên toàn địa bàn.

Những ưu điểm, kết quả đạt được đối với tổ chức và hoạt động kinh

doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam thể hiện ở những mặt sau:

Thứ nhất, tổng doanh thu, sản lượng bán lẻ xăng dầu tăng

Hiện nay, không có thống kê cụ thể số liệu tổng doanh thu từ kinh

doanh bán lẻ xăng dầu trên toàn quốc, tuy nhiên có thể nhìn nhận qua thông

tin đăng tải công khai của một số doanh nghiệp lớn trong ngành.

Cụ thể, với trường hợp của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex)

là doanh nghiệp dẫn đầu về thị phần bán lẻ tại Việt Nam, trong Báo cáo thường

niên năm 2018 có nêu:

Sản lượng bán lẻ xăng dầu năm 2018 của Tập đoàn đạt xấp xỉ 5,3

triệu m3, tăng trên 5% (kế hoạch 4,6%) và chiếm 58% tổng sản lượng

xuất bán nội địa, phần lớn các đơn vị đều đạt tiến độ kế hoạch bán lẻ.

Nhìn nhận bán lẻ là phương thức kinh doanh mũi nhọn, từ năm

2018 bên cạnh phong trào thi đua trong hệ thống cửa hàng xăng dầu

38

trực thuộc để đánh giá, ghi nhận và vinh danh những cá nhân là cửa

hàng trưởng, nhân viên xuất sắc trong công tác bán lẻ (triển khai từ

năm 2016), Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) đã bước đầu

xây dựng và thống nhất với các đơn vị về hệ thống tiêu chí đánh giá

công tác phát triển bán lẻ, để lựa chọn và vinh danh các đơn vị xuất

sắc nhất tại Hội nghị tổng kết hàng năm [15].

Tương tự tại Báo cáo thường niên năm 2018 của Tổng công ty Dầu

Việt Nam (PV Oil) có nêu:

Kiên định mục tiêu phát triển bán lẻ, với việc ứng dụng công nghệ và

đa dạng hóa dịch vụ, sản lượng bán lẻ của Tổng công ty Dầu Việt

Nam (PV Oil) có bước tăng trưởng vượt bậc, tăng 9% về sản lượng

và tăng 2,4 điểm % về tỷ trọng (đạt 25,6%) so với cùng kỳ [19].

Không khả quan như Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) và

Tổng công ty Dầu Việt Nam (PV Oil), song Công ty Cổ phần Nhiên liệu Sài

Gòn cũng đã đạt được đủ sản lượng bán lẻ theo kế hoạch, cụ thể thông tin tại

Báo cáo thường niên của Công ty có nêu: “… Sản lượng bán lẻ 9 tháng năm

2019 đạt 63,295 triệu lít, đạt tương đương so với thực hiện cùng kỳ 2018…”.

Như vậy, có thể thấy, thị trường kinh doanh bán lẻ xăng dầu tại Việt

Nam mang dấu hiệu rất tích cực về doanh thu, sản lượng bán lẻ xăng dầu nói

chung có dấu hiệu tăng, đi kèm với đó là sự phát triển kinh tế của địa phương

và cả nước.

Thứ hai, phát triển về số lượng và chất lượng các cửa hàng bán lẻ

xăng dầu

Hiện nay, số liệu thống kê giữa các nguồn tuy không thống nhất, song

tất cả đều nhận định rằng, con số này là rất lớn và đang trên đà tăng trưởng

nhanh trong thời gian qua, đặc biệt từ giữa năm 2018 với sự phát triển của

hoạt động thương mại, quy hoạch tại các tỉnh, thành phố và đặc biệt có sự

39

xuất hiện dòng đầu tư nước ngoài vào thị trường bán lẻ xăng dầu và việc gia

nhập thị trường bán lẻ của một số doanh nghiệp lớn trong nước.

Số lượng cửa hàng xăng dầu hiện có về cơ bản đã được phát triển theo

quy hoạch của các tỉnh, thành phố và đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế

- xã hội của từng địa phương, cơ bản đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của các

khu vực dân sinh. Nhiều doanh nghiệp xăng dầu đầu mối lớn, trong đó có Tập

đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) và Tổng công ty Dầu Việt Nam (PV

Oil) tuyên bố sẵn sàng bước vào cạnh tranh trong lĩnh vực bán lẻ với các đại

gia bán lẻ lớn nhất hiện nay. Tổng số tiền đầu tư được các đại gia xăng dầu rót

vào cuộc đua lên tới hàng nghìn tỉ đồng.

Tại Đại hội cổ đông năm 2019 của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam

(Petrolimex), Phó Tổng giám đốc Phạm Quang Dũng đã có những chia sẻ về kế

hoạch tấn công thị trường bán lẻ khi trao đổi với Báo Tiền Phong, cụ thể sau

gần 20 năm liên tục duy trì đầu tư vào mạng lưới bán lẻ, đến nay Tập đoàn

Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) đã có gần 2.500 cửa hàng bán lẻ trên cả

nước với mạng lưới cửa hàng, chưa kể hệ thống đại lý, phủ khắp 63 tỉnh,

thành phố. Cụ thể, mỗi năm, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) đầu

tư khoảng 1.000 tỷ đồng để phát triển hệ thống bán lẻ, bám sát các dự án phát

triển đường cao tốc, trục lộ giao thông mới, có giá trị thương mại về lâu dài.

Với việc mở thêm khoảng 70 cửa hàng bán lẻ/năm, tính trung bình, cứ khoảng

5 ngày làm việc, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) sẽ có thêm một

cửa hàng xăng dầu mới với diện tích vài nghìn mét vuông nếu đặt ở trên

đường cao tốc hoặc diện tích vài trăm mét vuông nếu đặt trạm xăng ở khu vực

huyện, tỉnh. Trong Báo cáo thường niên năm 2019 của Tập đoàn Xăng dầu

Việt Nam (Petrolimex) cũng nêu rõ việc duy trì và mở rộng chuỗi cửa hàng và

thị phần trong ngành xăng dầu là một mục tiêu chiến lược được lãnh đạo Tập

đoàn đặt ra.

40

Thêm một ví dụ điển hình như theo phát biểu của ông Cao Hoài Dương,

Tổng Giám đốc Tổng Công ty Dầu Việt Nam - CTCP (PV Oil, UPCoM: OIL)

có kế hoạch đầu tư khoảng 7.000 tỷ đồng để mở rộng hoạt động bán lẻ trong 5

năm tới với mục tiêu mở thêm 1000 cây xăng trong 5 năm tới, đạt mục tiêu

chiếm 35% thị phần bán lẻ xăng dầu trong nước.

Như vậy, việc xây dựng và gia tăng số lượng cửa hàng xăng dầu bán lẻ

đều là mục tiêu trọng tâm trong kế hoạch phát triển của các doanh nghiệp

kinh doanh bán lẻ xăng dầu, qua đó dẫn đến một thị trường bán lẻ xăng dầu

sôi nổi, phát triển về số lượng, dẫn đến việc đáp ứng nhu cầu phát triển kinh

tế xã hội và dân sinh ngày một được đáp ứng tốt hơn.

Thứ ba, ứng dụng công nghệ thông tin vào kinh doanh bán lẻ xăng dầu

Các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ xăng dầu cũng đã ngày một hoàn

thiện, phát triển về công nghệ quản lý, bán hàng và thanh toán tại các cơ sở

kinh doanh của mình. Ví dụ điển hình như Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam

(Petrolimex) sau nhiều năm nghiên cứu xây dựng và nâng cấp đã hoàn thiện

được phần mềm quản lý cửa hàng xăng dầu EGAS (Enterprise Gas Station) là

giải pháp quản lý các cửa hàng bán lẻ xăng dầu, được xây dựng theo mô hình

tập trung dữ liệu, hoạt động trên môi trường internet, hỗ trợ người sử dụng

quản lý từ xa các cửa hàng xăng dầu. Phần mềm hỗ trợ việc bán lẻ xăng dầu

và các sản phẩm dịch vụ khác tại cửa hàng, quản lý ca bán hàng, tiền bán

hàng, công nợ, quá trình nhập/xuất/tồn kho hàng hóa và giá bán, chi phí bán

xăng dầu. Từ đó ngoài việc giúp doanh nghiệp có thể quản lý cụ thể số liệu

kinh doanh tại cửa hàng, còn đem đến sự đảm bảo trong việc minh bạch bán

hàng tới người tiêu dùng.

Không thua kém Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex), Tổng

Công ty Dầu Việt Nam (PV Oil) cũng đã xưng danh trong việc tiên phong xây

dựng các phương thức bán hàng tiên tiến và hiện đại không dùng tiền mặt như

41

Thẻ điện tử (digital card), đọc QR code trên thiết bị di động của tài xế và nhân

viên bán hàng để thực hiện giao dịch mua bán xăng dầu tại các cửa hàng xăng

dầu của PV Oil, thuộc chương trình PV Oil Easy, cụ thể xây dựng hệ thống

quản lý tập trung, giải pháp quản lý và thanh toán hiện đại thông qua phần

mềm quản lý của chương trình PV Oil Easy; cung cấp cho khách hàng các

dịch vụ chăm sóc, các chương trình khuyến mại nhằm gia tăng lợi ích cho

khách hàng là các doanh nghiệp có phương tiện vận tải hoạt động trên các

tuyến quốc lộ và các tỉnh, thành phố trên toàn quốc [23].

Thứ tư, đã xuất hiện sự tham gia từ các nhà đầu tư ngoại

Năm 2016 là năm đánh dấu sự xuất hiện của những nhà đầu tư ngoại tại

thị trường kinh doanh xăng dầu Việt Nam, điển hình là việc “Gã khổng lồ”

trong lĩnh vực dầu mỏ JX Nippon Oil & Energy của Nhật Bản vừa đồng ý

mua lại 8% cổ phần của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex). Với cuộc

“hôn nhân” mới này giữa JX Nippon Oil và Petrolimex thì “ông lớn” tới từ

Nhật Bản sẽ ưu tiên cung cấp các kinh nghiệm và chuyên môn trong quản lý

các trạm xăng dầu và trong các công tác hậu cần.

Ngoài ra không thể không nhắc đến Idemitsu Q8 Petroleum LLC, với

kinh nghiệm, năng lực cùng nền tảng công nghệ hiện đại, tân tiến sẵn có, IQ 8

đã thổi một luồng gió mới đến với thị trường kinh doanh bán lẻ xăng dầu Việt

Nam, tuy nhiên luồng gió này cũng được ví như một hơi nóng phả mạnh vào

gáy của những doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ xăng dầu sẵn có trong nước,

vẫn được biết đến với sự tồn tại của những tin đồn và nhận định không tốt từ

phía người tiêu dùng về dịch vụ và gian lận trong bán hàng.

Với việc có doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường xăng dầu

- lĩnh vực từ trước đến nay tập trung chủ yếu vào tay các ông lớn như Petrolimex,

PV Oil, Saigon Petro… thì đây là một tín hiệu đáng mừng. Tình trạng các ông

lớn độc quyền từ trước đến nay đã bị phá vỡ. Ngoài ra cũng đi kèm với đó là

42

nhận định về một thị trường bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam sẽ ngày càng sôi

động, phát triển, quyền lợi của người tiêu dùng sẽ ngày càng được nâng cao,

tính minh bạch trong kinh doanh bán lẻ cũng sẽ là một mục tiêu quan trọng

được ưu tiên cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Đại diện IQ8 cũng đã có chia

sẻ với Báo Tuổi trẻ: “Mục tiêu của Idemitsu là phát triển dịch vụ tốt để các

DN khác trên thị trường cũng phải thay đổi, giúp thị trường bán lẻ xăng dầu

tốt hơn” [22]…

Thị trường bán lẻ xăng dầu có quy mô 6 tỉ USD đã trở thành miếng

bánh hấp dẫn với nhà đầu tư ngoại, có thể thấy rõ những dấu hiệu tích cực

sắp tới của thị trường kinh doanh bán lẻ xăng dầu như: nâng cao chất lượng

dịch vụ bán lẻ, thị phần cung cấp xăng dầu tới người tiêu dùng sẽ đa dạng

hóa, tính cạnh tranh trong thị trường tăng cao dẫn đến sự phát triển nói

chung về lĩnh vực tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu tại Việt

Nam về mọi mặt.

2.1.3. Những hạn chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động kinh doanh

bán lẻ xăng dầu và những nguyên nhân

Một là, thị trường cạnh tranh mang tính nửa vời

Từ việc của các nhà đầu tư ngoại tham gia thị trường kinh doanh bán lẻ

xăng dầu Việt Nam đã xuất hiện những dấu hiệu tích cực về một thị trường

kinh doanh cạnh tranh đem đến những lợi ích cho phía người tiêu dùng. Tuy

nhiên, trên thực tế, vẫn còn những tiêu cực tồn tại mà các cơ quan nhà nước

chưa thể gỡ bỏ, cạnh tranh trên thị trường xăng dầu với cơ chế hiện nay đã

loại bỏ sự cạnh tranh về giá. Giá bán lẻ sản phẩm xăng dầu đang chịu sự quản

lý chặt chẽ của Nhà nước. Kết cấu giá xăng dầu có rất nhiều yếu tố liên quan

đến Nhà nước nên gần như không có sự cạnh tranh giá. Chỉ có thể cạnh tranh

bằng mạng lưới, bằng dịch vụ bán hàng. Ví dụ như uy tín về đảm bảo chất

lượng xăng dầu, hay đong đếm không gian lận. Những yếu tố này thì các

43

doanh nghiệp bán lẻ xăng dầu trong nước không quá cách xa so với doanh

nghiệp nước ngoài.

Với thị trường bán lẻ, khi nhà đầu tư ngoại xâm nhập, họ dựa trên lợi

thế quản trị tốt, hệ thống bán hàng hiện đại và chủng loại hàng hóa đa dạng để

cạnh tranh với nhà đầu tư trong nước. Nhưng với kinh doanh bán lẻ xăng dầu

thì chỉ có những chủng loại cụ thể như RON 92, RON 92, E5... nên rất khó để

có thể cạnh tranh mạnh mẽ với nhau trên thị trường xăng dầu. Nhà đầu tư

nước ngoài tham gia thị trường trong nước chắc chắn có sự chia sẻ về thị

phần. Vì vậy, các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ xăng dầu trong nước phải

có những bước đi thích hợp để ứng phó trước sự chia sẻ thị phần đó.

Khoảng cách giữa các cây xăng đã được quy định và nhà đầu tư xâm

nhập thị trường sau sẽ gặp nhiều bất lợi, không dễ cạnh tranh sòng phẳng. Ví

dụ, giữa hai cây xăng của Petrolimex và Mipecorp thì Idemitsu muốn đặt cây

xăng phải bảo đảm khoảng cách. Khoảng cách không cho phép thì không thể

xây dựng thêm một cây xăng nằm giữa hai cây xăng kia. Cạnh tranh trên thị

trường xăng dầu rất ít, dư địa cạnh tranh rất hẹp.

Như vậy, tưởng chừng việc cạnh tranh kinh doanh bán lẻ xăng dầu sẽ

ngày càng phát triển, tuy nhiên với những hạn chế nêu trên hoàn toàn có thể

dẫn đến việc cạnh tranh thị phần bán lẻ xăng dầu sẽ không được sòng phẳng,

nhất là đối với các doanh nghiệp tham gia cuộc chơi muộn hơn, khi không thể

cạnh tranh bằng giá mà chỉ có thể cạnh tranh bằng mạng lưới bán lẻ và chất

lượng dịch vụ, những yếu tố không thực sự khả quan và khó có thể xây dựng

nhanh chóng để có sự nổi bật trong một thị trường như bán lẻ xăng dầu.

Hai là, xuất hiện việc giành giật thị phần trái phép và xâm phạm

thương hiệu

Hiện cơ bản giá xăng dầu của các đại lý, doanh nghiệp đều như nhau.

Người tiêu dùng cũng không mấy ai di chuyển cả cây số để chọn đại lý bán

44

xăng dầu rẻ hơn mấy trăm đồng/lít, nên cơ bản các hãng tập trung “giành

giật” đại lý bán bằng chiết khấu, các chính sách ưu đãi, thay vì tập trung giảm

giá cho người tiêu dùng.

Cuộc đua mở chuỗi trạm xăng đang “khốc liệt” hơn khi không chỉ có

cạnh tranh mà còn có tình trạng “giành giật” điểm bán, thậm chí xâm phạm

nhãn hiệu. Ông Cao Hoài Dương, Tổng Giám đốc PV Oil chia sẻ với Báo

Tuổi trẻ về việc chỉ những cửa hàng nằm trong hệ thống PV Oil được kiểm

soát chặt chẽ, còn với 3.000 cửa hàng làm đại lý (nhượng quyền) thì rất khó

để quản [21]. Về nguyên tắc, khi đăng ký làm đại lý của một doanh nghiệp

đầu mối xăng dầu, đại lý sẽ phải nhập xăng dầu từ đơn vị này. Tuy nhiên, tình

trạng “treo đầu dê, bán thịt chó” lại diễn ra khá phổ biến, theo ông Cao Hoài

Dương, Tổng Giám đốc PV Oil chia sẻ:

Thực tế một cửa hàng treo biển của PV Oil nhưng lại mua hàng của

nhiều nơi. Chúng tôi là doanh nghiệp nên không có quyền cấm, dẫn

tới thực tế là có thể đơn vị đại lý chỉ mua 50% của PV Oil, còn lại

mua của đơn vị khác. Điều này làm ảnh hưởng, rủi ro rất lớn cho

thương hiệu nếu đại lý bán hàng trôi nổi vì khách hàng chỉ biết đó

là đại lý của PV Oil. Không phải lỗi của chúng tôi nhưng lại phải

chịu trách nhiệm [21].

Chiếm gần 50% thị phần xăng dầu, Petrolimex không những chịu áp lực

bị “giành giật” cửa hàng nhượng quyền mà tình trạng vi phạm thương hiệu

cũng ngày càng tăng. Đó là việc hàng loạt cửa hàng kinh doanh bán lẻ xăng

dầu ở nhiều tỉnh thành cố tình sử dụng nhãn hiệu của Petrolimex dù không

mua xăng dầu của doanh nghiệp này. Việc xâm phạm diễn ra đến mức báo

động, khiến tập đoàn này phải thành lập ban chỉ đạo để tăng cường kiểm tra

thực tế, thực hiện các biện pháp bảo vệ thương hiệu.

Như vậy, việc xuất hiện cạnh tranh trái phép và các vi phạm về thương

45

hiệu trong hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu xuất hiện ngày càng nhiều tại

Việt Nam, nguyên nhân có thể thấy là do việc không thể cạnh tranh nổi thị

phần và tên tuổi, giá trị thương hiệu của các đơn vị kinh doanh lớn và lâu năm.

Ba là, quy hoạch cửa hàng xăng dầu còn nhiều điểm chưa hợp lý và

việc phát triển dịch vụ thu hút người tiêu dùng chưa thực sự được đầu tư

Lệ thuộc vào tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh, thành phố,

kéo theo đó là lưu lượng xe trên nhiều tuyến đường chưa cao, nhu cầu cho

dân sinh bị phân tán bới các tuyến giao thông của các địa phương, nên nhu

cầu tiêu thụ xăng dầu trên nhiều cung, tuyến đường còn hạn hẹp. Tại các đoạn

đường đi qua nhiều thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ tập trung nhiều cửa hàng

trên một phạm vi cung ứng hẹp, và một cung đường ngắn. Từ đó, thị phần

được chia nhỏ. Tuy nhiên, nhiều khu vực lại rất hạn chế sự xuất hiện của các

cửa hàng xăng dầu, khiến cho người tiêu dùng mất nhiều công sức và gặp khó

khăn trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ bán lẻ tại cửa hàng xăng dầu.

Đối chiếu với nhu cầu dịch vụ trên toàn quốc cho thấy, hệ thống cửa

hàng hiện có mới thực hiện được một chức năng là bán lẻ xăng dầu cho các

khu vực dân sinh và các phương tiện vận tải hoạt động trên các tuyến đường.

Các nhu cầu dịch vụ khác như sửa chữa, thay thế phụ tùng, mua hàng nhu yếu

phẩm, ăn uống, đỗ xe qua đêm... chưa có hoặc có không đầy đủ, không đồng

bộ. Đây là một trong các nội dung quan trọng cần được quan tâm trong quy

hoạch, bởi lẽ, các dịch vụ này không chỉ để nâng cao chất lượng dịch vụ của

toàn hệ thống, mà còn là cơ sở vật chất kỹ thuật để thu hút các hoạt động vận

tải, dẫn đến việc kinh doanh bán lẻ xăng dầu sẽ phát triển hơn.

Bốn là, xuất hiện các vi phạm nghiêm trọng các quy định trong kinh

doanh bán lẻ xăng dầu

Hiện nay cả nước có khoảng 13.000 cửa hàng bán lẻ xăng dầu, trong

đó, các cửa hàng thuộc hệ thống của 13 doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu

46

xăng dầu có trên 3.000 (chiếm 25 - 30%), số còn lại là các cửa hàng của đại

lý, tổng đại lý, nhượng quyền. Trước khi lực lượng công an phá vụ án Trịnh

Sướng và đồng bọn sản xuất, tiêu thụ xăng giả, trong thực tế, xăng rởm, xăng

kém chất lượng đã xuất hiện trên thị trường nước ta từ lâu. Nhiều ý kiến cho

rằng, sự nở rộ của các đầu mối xuất, nhập khẩu xăng dầu gần đây đã tạo nên

những kẽ hở để “buôn lậu”, “lậu” về số lượng và “lậu” về chất lượng.

Đơn cử như khai “gian” số lượng, tàu nhập 5.000m3 xăng dầu, khai

gian xuống chỉ còn 2.000m3, lợi nhuận thu được không nhỏ, bởi mỗi lít xăng

giá hơn 20.000 đồng, trong đó chiếm gần một nửa là thuế và phí các loại. Do

các đầu mối xuất, nhập khẩu xăng dầu có hệ thống chân rết nhiều cây xăng

bán lẻ, người dân mua xăng dầu không cần lấy hóa đơn, không biết rõ về chất

lượng, nên doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu có thể vô tư lợi dụng kẽ hở này

để hợp pháp hóa việc nhập nhiều nhưng khai ít, vừa trốn thuế vừa kiếm lợi từ

người tiêu dùng.

Vụ án đường dây sản xuất và buôn bán xăng giả của Trịnh Sướng và

đồng bọn là một ví dụ rất rõ ràng về gian lận chất lượng. Theo công bố của cơ

quan điều tra, từ ngày 01/01/2017 đến nay, số tiền các đối tượng dùng để mua

dung môi, các chất làm tăng chỉ số octan là 4.200 tỉ đồng, có khoảng 350 triệu

lít xăng giả đã được sản xuất và bán ra thị trường (theo lời khai ban đầu của

các bị can là gần 19,5 triệu lít, thu lợi 135 tỉ đồng) [27].

Theo kết quả thanh tra, kiểm tra các hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng

dầu trên địa bàn Hà Nội, phương thức, thủ đoạn buôn lậu, gian lận xăng dầu

ngày càng tinh vi; các đối tượng móc nối chặt chẽ với nhau tạo thành đường

dây khép kín. Mỗi nhóm đối tượng chỉ thực hiện một công đoạn độc lập, dưới

sự chỉ đạo điều hành của chủ đầu nậu. Hiện nay, để kiểm soát được chất

lượng xăng dầu, lực lượng quản lý thị trường cũng gặp nhiều khó khăn, như

các đối tượng có ý gian lận về xăng dầu rất dễ dàng mua được các chất dung

môi, phụ gia, dùng để pha chế xăng dầu kém chất lượng.

47

Bên cạnh đó, trong quá trình kiểm tra lấy mẫu, có xác định lượng hàng

tồn nhưng lực lượng chức năng không thể tạm giữ bởi quá trình bán hàng của

doanh nghiệp là liên tục nên khi có kết quả sai phạm thì lượng xăng vi phạm

đã bán hết, rất khó khăn xử lý tang vật. Thủ đoạn vi phạm của các đối tượng

là pha trộn hỗn hợp gồm xăng A92 với chất dung môi bột tạo màu. Xăng, dầu

kém chất lượng khi sử dụng sẽ ảnh hưởng đến môi trường. Ngoài ra, lợi dụng

việc thực hiện Đề án tiêu thụ xăng E5, một số đối tượng đã thực hiện việc pha

trộn xăng sinh học E5 RON 92 vào xăng không chì RON 95 với một tỷ lệ

nhất định bán ra thị trường để hưởng chênh lệch giá.

Như vậy, với thực trạng số lượng cửa hàng xăng dầu “khổng lồ” hiện

nay, sẽ rất khó để có thể “quản” dù quy định của pháp luật hiện nay rất chặt

chẽ. Dường như “cây gậy pháp luật” chưa đủ sức răn đe, làm lành mạnh thị

trường xăng dầu. Nếu không giải quyết vấn đề tận gốc, rất có thể sẽ có thêm

những “Trịnh Sướng” nữa trong tương lai.

2.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh

bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam hiện nay

2.2.1. Những ưu điểm trong quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh

doanh bán lẻ xăng dầu

Thời gian vừa qua, hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu đã có những

bước phát triển đóng góp quan trọng trong việc đảm bảo nguồn nhiên liệu

phục vụ đời sống, sản xuất kinh doanh của nhân dân cũng như đóng góp vào

sự phát triển kinh tế cả nước. Những ưu điểm về thực trạng quản lý Nhà nước

đối với hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu thể hiện ở những mặt sau:

Thứ nhất, về thực hiện các nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt

động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

Các cơ quan quản lý kinh doanh bán lẻ xăng dầu trên địa bàn cả nước

thời gian qua đã phần nào xây dựng được một hệ thống văn bản bao gồm

48

những quy định rất chi tiết các nội dung quản lý của Nhà nước; các văn bản

theo hướng cởi mở, thông thoáng tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thuận

lợi để các các chủ thể kinh doanh tham gia thị trường một cách tốt nhất, góp

phần thúc đẩy kinh tế của cả nước.

Ví dụ điển hình như Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã ban hành

nhiều văn bản về vấn đề tăng cường công tác quản lý kinh doanh bán lẻ xăng

dầu trên địa bàn. Các văn bản quy phạm pháp luật của thành phố được ban

hành, tuyên truyền phổ biến một cách nhanh chóng tới các doanh nghiệp, từ

đó, giúp công tác thực hiện các văn bản quản lý kinh doanh xăng dầu được

tiến hành khá hiệu quả trong thời gian qua. Các cơ quan quản lý kinh doanh

xăng dầu trên địa bàn thành phố đã và đang rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban

hành mới cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của thành phố, cũng như

tạo ra môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng cho tất cả các chủ thể kinh

doanh bán lẻ xăng dầu trên địa bàn. Thủ tục hành chính về kinh doanh bán lẻ

xăng dầu được đánh giá là tốt hơn thông qua kết quả điều tra, đa số đều cho

rằng việc cấp phép thành lập đối với các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ xăng

dầu trên địa bàn cả nước hiện nay ở mức độ khá nhanh chóng.

Các nguyên tắc như công khai, minh bạch trong quản lý; thống nhất

lãnh đạo chính trị và kinh tế được các cơ quan quản lý thực hiện rất hiệu quả

và triệt để. Thêm vào đó, hệ thống các công cụ được sử dụng trong quản lý

kinh doanh bán lẻ xăng dầu trên địa bàn cả nước rất đa dạng: các văn bản về

quản lý về hoạt động; các loại thuế, phí; quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh

doanh bán lẻ xăng dầu; bộ máy quản lý… Việc thực hiện các nguyên tắc và

công cụ quản lý đang được các cơ quan quản lý nhà nước sử dụng linh hoạt

cho phù hợp với hoàn cảnh của địa bàn mình từ đó tạo ra những thuận lợi cho

các doanh nghiệp tham gia kinh doanh bán lẻ xăng dầu trên thị trường.

49

Thứ hai, về bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh

bán lẻ xăng dầu

Hiện nay, trên phạm vi cả nước đã có sự phân công rõ ràng về quyền

hạn và nhiệm vụ của các bộ, ban, ngành trong công tác quản lý kinh doanh

xăng dầu, không có sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các bộ, ban, ngành.

Công tác phối hợp giữa các cơ quan cũng rất chặt chẽ và nhịp nhàng, đạt

được những hiệu quả nhất định trong quản lý kinh doanh bán lẻ xăng dầu

trên phạm vi cả nước.

Công tác quy hoạch, kế hoạch hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

thời gian qua rất rõ ràng, chi tiết cũng như phù hợp với tình hình thực tế phát

triển thời gian qua đã giúp cho việc giám sát, kiểm tra và thúc đẩy phát triển

hợp lý về số lượng và chất lượng các doanh nghiệp phù hợp với quy hoạch.

Công tác thanh tra, kiểm tra của các lực lượng quản lý đã hoạt động

khá tích cực và hiệu quả. Các cơ quan này đã phát hiện và xử lý nhiều sai

phạm của các cơ sở kinh doanh bán lẻ xăng dầu, nhiều vụ gian lận thương mại

như: bán hàng không đúng chất lượng, bán thiếu hàng, tình trạng găm hàng…

Bộ máy quản lý thị trường đang từng bước hoàn thiện về cả đạo đức nghề

nghiệp và trình độ chuyên môn. Chất lượng kiểm tra, giám sát luôn đươc chú

trọng nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người tiêu dùng, tạo môi trường

kinh doanh lành mạnh theo đúng định hướng.

Thứ ba, về các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với hoạt

dộng kinh doanh bán lẻ xăng dầu

Về vấn đề nhận thức quản lý kinh doanh bán lẻ xăng dầu, các cán bộ

quản lý nhà nước đã được trang bị và thường xuyên được củng cố các kiến

thức về thị trường kinh doanh bán lẻ xăng dầu, được đào tạo, tập huấn và có

những nhận thức đúng đắn về vai trò của cán bộ quản lý trong nền kinh tế thị

trường, tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp.

50

2.2.2. Những điểm bất cập, hạn chế trong quản lý nhà nước đối với

hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

Một là, về thực hiện các nội dung quản lý nhà nước

Hệ thống các văn bản quản lý kinh doanh bán lẻ xăng dầu hiện nay tuy

nhiều nhưng hiệu lực còn yếu. Công tác thực hiện các văn bản, đưa các văn

bản này vào thực tiễn còn nhiều hạn chế. Hiện việc quản lý chủ yếu dựa vào

việc thực thi các văn bản của Trung ương như Nghị định số 83/2014/NĐ-CP.

Địa bàn kinh doanh bán lẻ xăng dầu trên cả nước tương đối rộng và phức tạp

… nên việc thực hiện các nội dung quản lý nhà nước với hoạt động kinh

doanh bán lẻ xăng dầu còn chậm chạp và gặp nhiều khó khăn.

Nhiều phương tiện nhỏ lẻ không được cấp giấy chứng nhận đủ điều

kiện kinh doanh, không đảm bảo an toàn và kỹ thuật vẫn kinh doanh, tiềm ẩn

nhiều nguy cơ cháy nổ nhưng cơ quan quản lý nhà nước vẫn không thể kiểm

tra, rà soát hết. Nhiều cửa hàng kinh doanh bán lẻ xăng dầu chưa niêm yết

công khai giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh bán lẻ xăng dầu và giấy

chứng nhận kiểm định phương tiện đo; tình trạng vi phạm trong kinh doanh

bán lẻ xăng dầu còn diễn ra khá nhiều; cán bộ quản lý và nhân viên trực tiếp

kinh doanh bán lẻ xăng dầu hầu hết chưa được đào tạo về kỹ thuận an toàn

phòng cháy chữa cháy, bảo vệ môi trường nhưng việc thanh tra, kiểm tra hoạt

động, giám sát hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu còn yếu, chưa được

thường xuyên và chưa đồng đều.

Việc thực thi các văn bản về tăng cường công tác quản lý kinh doanh

bán lẻ xăng dầu rất kém hiệu quả và chỉ mang tính hình thức. Hệ thống các

nguyên tắc, công cụ mà các cơ quan quản lý sử dụng rất nhiều và đa dạng

nhưng thực sự chưa hiệu quả. Các nguyên tắc đôi khi được vận dung một

cách dập khuôn và cứng nhắc. Như đối với nguyên tắc công khai, minh bạch

trong quản lý kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Hiện nay các doanh nghiệp vẫn cho

51

rằng, còn khó để tiếp cận với các thông tin, các văn bản được sửa đổi, thay

mới và ban hành liên tục. Nguyên nhân bởi cách thức tuyên truyền, phổ biến

còn lạc hậu và mang nặng tính hình thức.

Hai là, về bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bán

lẻ xăng dầu

Tuy vẫn còn một số ít ý kiến cho rằng, thủ tục cấp phép kinh doanh bán

lẻ xăng dầu thời gian qua còn quá nhiều và lâu, nhưng thực tế cho thấy, việc

thực thi công tác này đã thực hiện rất tốt và hiệu quả. Hiện nay, đội ngũ cán

bộ thuộc các cơ quan quản lý trên cả nước vẫn chưa đồng đều và chưa thực sự

tốt về trình độ chuyên môn. Vì vậy, mặc dù có sự phân công quyền hạn và

nhiệm vụ rõ ràng nhưng sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý trên địa bàn tại

địa phương thời gian qua vẫn còn nhiều gặp nhiều khó khăn và hạn chế.

Công tác thanh tra, kiểm tra và quản lý thị trường thời gian qua vẫn còn

nhiều bất cập. Tình trạng xây dựng cửa hàng xăng dầu không nằm trong quy

hoạch hoặc chưa được cấp có thẩm quyền chấp thuận còn xuất hiện ở nhiều

địa phương; một số cửa hàng xăng dầu không đáp ứng được tiêu chí theo quy

định nên chất lượng phục vụ thấp; một số tổ chức, doanh nghiệp xây dựng

trạm cấp phát nội bộ nhưng vẫn tự ý bán hàng; một số doanh nghiệp đầu mối,

Tổng đại lý xăng dầu vẫn bán hàng cho các cửa hàng không nằm trong hệ

thống, các cửa hàng xây dựng trái phép nhưng chưa bị xử phạt hoặc nếu xử

phạt cũng chỉ ở mức nhẹ nên chưa đủ sức răn đe.

Đối với những công tác thuộc thẩm quyền riêng của một cơ quan quản

lý thời gian qua được thực hiện tốt. Tuy nhiên, với những công tác cần có sự

phối hợp giữa các cơ quan hữu quan thì còn nhiều hạn chế. Đã xảy ra sự

chồng chéo trong thực thi ở một số công tác như quản lý quy hoạch phát triển

kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Tình trạng xây dựng các cửa hàng bán lẻ xăng

dầu ngoài quy hoạch vẫn còn xảy ra nhiều và phức tạp, tuy nhiên, do sự phối

52

hợp giữa các cơ quan còn lỏng lẻo đã dẫn tới chưa phát hiện và xử lý được

dứt khoát vấn đề này. Bên cạnh đó, địa bàn kinh doanh bán lẻ xăng dầu trên

cả nước khá rộng lớn nhưng đội ngũ các cán bộ quản lý còn mỏng và thiếu, vì

vậy cũng tạo ra những khó khăn cũng như sự kém hiệu quả trong công tác

phối hợp giữa các cơ quan để quản lý kinh doanh xăng dầu được hiệu quả.

Ba là, về các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với hoạt dộng

kinh doanh bán lẻ xăng dầu

Các cán bộ quản lý trong các cơ quan quản lý nhà nước chưa có tư duy,

nhận thức đầy đủ, hợp lý về cơ chế thị trường. Nhiều cán bộ vẫn có tư duy

can thiệp hành chính vào thị trường, can thiệp sâu vào các hoạt động của các

doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu. Trong quá trình điều tiết thị trường, công

tác quy hoạch lại các cửa hàng xăng dầu được thực hiện còn khá lúng túng khi

xử lý những bất cập phát sinh, làm chậm quá trình quy hoạch.

Yếu tố biến động xăng dầu trước tình hình thế giới đang biến đổi sâu

sắc cũng là nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến việc quản lý và điều tiết hoạt

động kinh doanh xăng dầu ở nước ta hiện nay.

2.2.3. Những nguyên nhân từ thực trạng hạn chế, bất cập

Từ những hạn chế, bất cập ở trên, có thể chỉ ra một số nguyên nhân chủ

yếu sau đây:

(i) Việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật và đưa các văn bản

này vào đời sống thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế do địa bàn kinh

doanh bán lẻ xăng dầu rộng, việc triển khai hệ thống các văn bản hướng dẫn,

quy định về hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu còn thiếu và chưa đồng bộ.

Hơn nữa, số lượng các văn bản khá lớn và có nhiều bổ sung, sửa đổi nên việc

triển khai tiến hành chậm chạp, không đồng đều.

(ii) Việc cấp giấy phép kinh doanh và công tác thanh tra, kiểm tra còn

nhiều bất cập, đôi khi chỉ mang tính hình thức do đội ngũ cán bộ thực hiện

53

những công tác này còn thiếu và yếu, làm việc chưa chặt chẽ; sự đầu tư về

nguồn lực cho các cơ quan quản lý về xăng dầu còn chưa mang tính đồng bộ

và chưa được chú trọng đúng mức.

(iii) Việc vận dụng các nguyên tắc, các công cụ quản lý đối với hoạt

động kinh doanh bán lẻ xăng dầu còn rập khuôn, máy móc, dẫn đến tình trạng

quản lý cứng nhắc, công tác phối hợp giữa các cơ quan quản lý kinh doanh

bán lẻ xăng dầu chưa thực sự đạt hiệu quả cao.

(iv) Các hình thức gian lận trong kinh doanh bán lẻ xăng dầu ngày càng

diễn biến phức tạp, hành vi vi phạm ngày càng tinh vi hơn, gây nhiều khó

khăn cho cán bộ thanh tra, điều tra các vụ việc gian lận…, tuy nhiên, cơ sở vật

chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác quản lý kinh doanh bán lẻ xăng dầu

lại chưa được chú trọng và đầu tư đúng mức.

(v) Do công tác quản lý thị trường vẫn còn hời hợt, những phát hiện vi

phạm trong kinh doanh bán lẻ xăng dầu chưa bị xử phạt hoặc phạt ở mức độ

nhẹ chưa đủ sức răn đe nên ý thức chấp hành các quy định của pháp luật về

đầu tư xây dựng, kinh doanh bán lẻ xăng dầu của một bộ phận cá nhân, doanh

nghiệp còn hạn chế.

2.3. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về tổ chức và hoạt

động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

2.3.1. Những ưu điểm của quy định pháp luật Việt Nam về tổ chức và

hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

Một là, các quy định pháp luật về cơ bản đã thể hiện sự tự do hoá các

thành phần tham gia, với việc mở rộng các thành phần kinh doanh, có tới 29

đầu mối nhập khẩu xăng dầu thay vì chỉ khoảng 17 đầu mối như trước khi có

Nghị định 83/2014/NĐ-CP.

Hai là, các cơ chế chính sách về kinh doanh xăng dầu đã tự do hơn như

xin giấy phép kinh doanh xăng dầu dễ dàng hơn, thời gian thẩm định giấy

54

phép ngắn hơn, tạo điều kiện cho các thương nhân đủ năng lực tham gia kinh

doanh bán lẻ xăng dầu.

Ba là, quy định rút ngắn chu kỳ điều hành giá xăng dầu từ 30 ngày

xuống chu kỳ 15 ngày một lần, qua đó giúp cho giá xăng dầu trong nước được

điều hành linh hoạt, chặt chẽ, kịp thời, đảm bảo hiệu quả hơn, khắc chế được

một số hạn chế tồn tại.

2.3.2. Những hạn chế và bất cập còn tồn tại trong quy định pháp luật

Việt Nam về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

Một là, những quy định điều kiện kinh doanh xăng dầu đang bất cập

với những quy định của luật pháp ra đời sau Nghị định 83/2014/NĐ-CP như

Luật Doanh Nghiệp năm 2015, Luật Đầu tư (có hiệu lực từ 1/7/2015). Theo

cam kết WTO và các Hiệp định FTA, Việt Nam chưa mở cửa thị trường xăng

dầu. Tuy nhiên, để thu hút đầu tư nước ngoài, nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn

đã cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư góp vốn 75% và được phép

phân phối các sản phẩm của nhà máy tại thị trường Việt Nam.

Hai là, hiện không có quy định nào đề cập tới chuyện doanh nghiệp

nước ngoài được phép thiết lập hệ thống cơ sở bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam.

Khi xảy ra vụ việc hay tranh chấp sẽ rất khó xử lý.

Ba là, theo quy định hiện hành, đại lý bán lẻ xăng dầu chỉ được ký hợp

đồng làm đại lý cho một tổng đại lý hoặc một thương nhân đầu mối/phân phối

xăng dầu. Nếu tổng đại lý hoặc thương nhân đầu mối/phân phối xăng dầu đó

không kinh doanh nhiên liệu sinh học thì đại lý được ký thêm hợp đồng làm

đại lý cho một pháp nhân khác để kinh doanh nhiên liệu sinh học. Việc kiểm

soát nguồn xăng dầu thông qua hóa đơn xuất, nhập. Tuy nhiên, trên thực tế,

việc kiểm soát khối lượng xăng dầu đầu vào, đầu ra theo hóa đơn đối với đại

lý bán lẻ xăng dầu chưa chặt chẽ, đặc biệt là việc bán lẻ xăng dầu không xuất

hóa đơn vẫn còn tràn lan, nên đại lý xăng dầu rất dễ “hợp thức hóa” khi mua

55

xăng dầu trôi nổi trên thị trường, xăng dầu giả để pha trộn với xăng dầu nhập

chính thức từ thương nhân đầu mối/phân phối, tổng đại lý… rồi ung dung bán

cho người tiêu dùng để trục lợi.

Bốn là, theo quy định tại khoản 2 Điều 24 Nghị định 83/2014/NĐ-CP

có quy định một trong các điều kiện để được cấp giấy chứng nhận đủ điều

kiện kinh doanh xăng dầu là “cửa hàng bán lẻ xăng dầu, thuộc sở hữu, đồng

sở hữu của thương nhân là đại lý hoặc tổng đại lý hoặc thương nhân nhận

quyền bán lẻ xăng dầu hoặc thương nhân phân phối xăng dầu hoặc thương

nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu hoặc thương nhân sản xuất

xăng dầu”; nếu chủ sở hữu không có nhu cầu kinh doanh xăng dầu cũng

không được cho thương nhân khác thuê để kinh doanh xăng dầu. Vì vậy,

không phù hợp về quyền sở hữu tài sản theo quy định của Luật Dân sự.

Năm là, các quy định về điều kiện mở cửa hàng bán lẻ xăng dầu còn

nhiều phức tạp, các điều kiện, thủ tục cần thực hiện khi các chủ thể muốn

tham gia thị trường còn nhiều rườm rà, phải thực hiện nhiều quy trình và đòi

hỏi nhiều loại văn bản giấy tờ liên quan, cần đơn giản hóa các thủ tục, tạo

điều kiện cho thị trường mở cửa mạnh hơn. Theo quy định tại khoản 1, Điều

24 của nghị định 83/2014/NĐ-CP quy định địa điểm mở cửa hàng bán lẻ xăng

dầu phải phù hợp với quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt (Nghị

định 08/2018/NĐ-CP đã bỏ điều kiện này). Cửa hàng phải thuộc sở hữu, đồng

sở hữu của thương nhân (đại lý/tổng đại lý/thương nhân nhượng quyền bán lẻ

hoặc thương nhân có hệ thống phân phối). Cửa hàng phải được thiết kế, xây

dựng và có trang thiết bị đúng các quy định hiện hành về tiêu chuẩn cửa hàng

bán lẻ xăng dầu, an toàn phòng cháy, chữa cháy, bảo vệ môi trường của các

cơ quan chức năng. Nhân viên quản lý, nhân viên bán lẻ xăng dầu được đào

tạo, tập huấn và được cấp chứng chỉ đào tạo về các nghiệp vụ phòng cháy,

chữa cháy, bảo vệ môi trường...

56

Nếu hồ sơ đủ thì việc cấp phép tại sở công thương các địa phương diễn

ra tối đa trong vòng từ 20-30 ngày. Tuy nhiên, trên thực tế, việc này không dễ

dàng như vậy. Các doanh nghiệp muốn thực hiện đúng các quy định trên thì

cần phải chuẩn bị gần 30 văn bản, giấy tờ các loại dưới dạng chấp

thuận/chứng nhận/xác nhận thì mới có thể tiến hành xin mở thêm một cây

xăng mới. Ví dụ, phải có văn bản chấp thuận địa điểm của Ủy ban nhân dân

xã, huyện cấp; giấy chứng nhận đủ điều kiện phòng cháy - chữa cháy do cơ

quan công an phòng cháy - chữa cháy cấp; xác nhận đạt tiêu chuẩn môi

trường do Uỷ ban nhân dân quận, huyện cấp và nhiều thủ tục chuyên ngành

khác. Đối với các địa phương nhỏ thì thời gian mở mới một cây xăng cũng

phải mất hai năm.

Sáu là, cơ chế điều hành giá vẫn chưa phù hợp với cơ chế thị trường.

Theo quy định pháp luật hiện hành, giá xăng dầu hiện nay tuy đã được điều

chỉnh theo chu kỳ 15 ngày một lần, theo sự quản lý của nhà nước. Tuy đã

khắc phục được một số hạn chế song thực tế việc doanh nghiệp không tự

quyết định điều chỉnh giá cả theo sự biến động hàng ngày của thị trường thế

giói, mà phải đợi chu kỳ quy định 15 ngày đã làm cho thị trường kinh doanh

xăng dầu đang trong tình trạng giá trong nước tăng thì giá thế giới giảm và

ngược lại. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả kinh doanh của các

doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu và người tiêu dùng.

Bảy là, các quy định pháp luật về an toàn phòng cháy chữa cháy và bảo

vệ môi trường chưa chặt chẽ. Với tính chất dễ gây cháy nổ của xăng dầu, Bộ

Công Thương đã ban hành “QCVN 01:2013/BCT quy chuẩn kỹ thuật quốc

gia về thiết kế cửa hàng xăng dầu” nhằm quy định cụ thể về khoảng cách của

Cửa hàng xăng dầu đối với khu vực dân cư nhằm hạn chế cháy nổ, tuy nhiên

trong thực tế, các cửa hàng xăng dầu đều “lách” các quy định này và thậm chí

còn tồn tại các cửa hàng xăng dầu ngay trong khu vực trung tâm khu dân cư.

57

Cần có những hoạt động đánh giá công tác bảo vệ môi trường tại các cửa

hàng xăng dầu để giảm thiểu những tác hại đến môi trường và sức khỏe của

con người.

Tám là, các quy định về Quỹ Bình ổn giá xăng dầu không phù hợp,

mang đậm tính can thiệp hành chính làm méo mó giá cả thị trường xăng dầu.

Việc tồn tại Quỹ Bình ổn giá xăng dầu khiến việc tổ chức và hoạt động kinh

doanh bán lẻ xăng dầu khó hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường, giá xăng

dầu trong nước không diễn biến theo xu hướng chung của giá thế giới, dẫn

đến việc khi giá xăng dầu thế giới xuống thấp người tiêu dùng sẽ không được

hưởng lợi.

58

Tiểu kết Chương 2

Thực tiễn ở nước ta hiện nay cho thấy, pháp luật về tổ chức và hoạt

động kinh doanh bán lẻ xăng dầu đã có nhiều thay đổi theo cơ chế thị trường

và thúc đẩy hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ngày càng sôi động, đáp

ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng,

cho dù có những thay đổi cơ bản về cơ chế trị trường nhưng hoạt động kinh

doanh bán lẻ xăng dầu vẫn phải tuân thủ theo các quy định của Nhà nước về

tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu.

Trong nội dung Chương này, học viên đã phân tích thực trạng thực thi

pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu trên thực tiễn thi

trường Việt Nam hiện nay. Đặc biệt là chú trọng phân tích tình hình thực hiện

pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu trong thời gian

qua tại Việt Nam, từ đó, nêu lên được ưu điểm và những hạn chế của pháp luật

về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu hiện nay. Đây là cơ sở

thực tiễn để đưa ra các kiến nghị giải pháp tại Chương 3 của Luận văn.

59

Chương 3

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ

THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

BÁN LẺ XĂNG DẦU Ở VIỆT NAM

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh

doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam

3.1.1. Những tiêu chí cơ bản để hoàn thiện pháp luật về tổ chức và

hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

Một là, bảo đảm tính toàn diện trong điều chỉnh tổ chức và hoạt động

kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Tính toàn diện của hệ thống pháp luật phản ánh

mức độ đầy đủ của hệ thống quy phạm, nguyên tắc, định hướng và mục đích

của pháp luật; là tiêu chuẩn đầu tiên để đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp

luật nói chung và pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng

dầu nói riêng. Tính toàn diện của pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh

doanh bán lẻ xăng dầu được thể hiện ở cấp độ tổng quát và cụ thể.

Ở cấp độ tổng quát, pháp luật trong lĩnh vực này phải có đầy đủ các

quy phạm pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng

dầu, quản lý doanh nghiệp của nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội.

Các nhóm quy phạm có chức năng riêng và nội dung giữa các quy phạm này

không trùng lặp, mâu thuẫn lẫn nhau. Pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh

doanh bán lẻ xăng dầu có vai trò rất quan trọng trong quá trình các chủ thể

tham gia vào thị trường kinh doanh bán lẻ xăng dầu, điều chỉnh toàn bộ các

hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu có thể xảy ra trong tình huống thực tế.

Nhằm tạo môi trường kinh doanh bán lẻ xăng dầu cạnh tranh lành mạnh và

phát triển thì các quy định cấu thành tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ

xăng dầu phải được đồng nhất. Khi Nhà nước không đưa ra đầy đủ các quy

60

định về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu hoặc không điểu

chỉnh được hết các quan hệ phát sinh trong hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng

dầu thì sẽ tạo ra môi trường kinh doanh không theo quy định của pháp luật, tự

do quá mức, gây khó khăn trong công tác quản lý và ảnh hưởng xấu đến nền

kinh tế thị trường đất nước.

Hai là, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của tổ chức và hoạt động kinh

doanh bán lẻ xăng dầu. Tính thống nhất của hệ thống pháp luật là điều kiện

cần thiết bảo đảm cho tính thống nhất về mục đích và sự triệt để trong thực

hiện pháp luật. Tính đồng bộ của pháp luật thể hiện ở sự thống nhất của các

văn bản pháp luật. Khi pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ

xăng dầu có sự thống nhất, không trùng lặp, chồng chéo hay mâu thuẫn lẫn

nhau giữa các quy định pháp luật chuyên ngành (pháp luật sở hữu trí tuệ, pháp

luật xử phạt vi phạm hành chính, pháp luật dân sự, pháp luật hình sự, pháp

luật hải quan, pháp luật thương mại...) liên quan đến tổ chức và hoạt động

kinh doanh bán lẻ xăng dầu và giữa chính các quy phạm pháp luật trong lĩnh

vực đó của từng chuyên ngành luật (xét ở từng góc độ cụ thể) thì các quy định

này đảm bảo được tính đồng bộ. Điều này thể hiện ở việc các văn bản quy

phạm pháp luật khi ban hành phải đảm bảo tính thứ bậc về hiệu lực pháp lý.

Những quy định cụ thể đặc thù điều chỉnh các quan hệ liên quan tới tổ chức

và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu do pháp luật về tổ chức và hoạt

động kinh doanh bán lẻ xăng dầu quy định phải không được trái với những

quy định mang tính nguyên tắc trong Luật Doanh nghiệp 2014. Cùng với đó,

các quy phạm pháp luật chuyên ngành có liên quan cũng không được chồng

chéo, mâu thuẫn với các quy phạm pháp luật doanh nghiệp.

Tính đồng bộ của pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ

xăng dầu còn đòi hỏi các văn bản pháp luật phải được ban hành đầy đủ, chi

tiết để khi văn bản pháp luật có hiệu lực thì nó cũng đã có đủ các điều kiện để

61

có thể tổ chức thực hiện được ngay trên thực tế. Ngoài ra, pháp luật về tổ

chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu cần phải đảm bảo sự tương

thích với những cam kết, điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.

Ba là, bảo đảm tính phù hợp và khả thi của pháp luật về tổ chức và hoạt

động kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Tính phù hợp và khả thi của pháp luật về tổ

chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu thể hiện ở việc nội dung của

pháp luật phản ánh đúng và phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội của

quốc gia. Pháp luật là một yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc của xã hội, phản

ánh và tác động tới cơ sở hạ tầng kiện chính trị, kinh tế, xã hội...), do vậy,

pháp luật không thể quy định cao hơn hoặc thấp hơn trình độ của đối tượng

mà nó phản ánh. Tính phù hợp và tính khả thi của các quy định pháp luật luôn

đi song hành với nhau. Pháp luật có phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã

hội của đất nước thì mới được xã hội tiếp nhận, đồng thuận và có khả năng

thực hiện trên thực tế. Pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ

xăng dầu phải phù hợp với nền kinh tế xã hội của nước ta.

Để pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu có

tính phù hợp và khả thi thì nội dung của các quy định pháp luật phải bảo đảm

rằng, các biện pháp và thủ tục thực thi khi chủ thể tham gia hoạt động kinh

doanh bán lẻ xăng dầu không trở thành rào cản đối với chủ thể, phù hợp với

sự phát triển bền vững của xã hội (về trách nhiệm của doanh nghiệp, về lợi

ích của người tiêu dùng và cạnh tranh bình đẳng, không có sự phân biệt đối

xử), đồng thời, phù hợp với năng lực thực thi pháp luật của cơ quan có thẩm

quyền, và điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp. Nhu cầu xã hội và các

quan hệ xã hội có tính ổn định tương đối, nên pháp luật cũng cần có tính ổn

định tương đối. Tính ổn định của pháp luật là yêu cầu cần thiết, bởi không thể

thường xuyên đảo lộn các quan hệ xã hội bằng việc thay đổi pháp luật.

62

Bốn là, bảo đảm tính minh bạch, công khai của tổ chức và hoạt động

kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Tính minh bạch của pháp luật về tổ chức và hoạt

động kinh doanh bán lẻ xăng dầu thể hiện ở nội dung các quy phạm pháp luật

phải rõ ràng, dễ hiểu, đơn nghĩa, không mâu thuẫn; các văn bản pháp luật phải

được công bố công khai (từ khi bắt đầu quy trình xây dựng văn bản đến việc

lấy ý kiến đóng góp của cá quan liên quan, các chuyên gia và đông đảo người

dân đến khi văn bản được ban hành) để các doanh nghiệp nắm rõ những quy

định khi tham gia vào hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, quyền và nghĩa

vụ của chủ thể liên quan đến hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, các cơ

quan có thẩm quyền, các hình thức, trình tự, thủ tục thực hiện về tổ chức và

hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Việc công khai văn bản pháp luật

không chỉ ở việc đăng tải trên Công báo và các phương tiện thông tin đại

chúng mà còn phải được thực hiện thông qua công tác tuyên truyền, phổ biến,

giáo dục pháp luật để các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận, hiểu rõ, thực hiện theo

quy định về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Ngoài ra, tính

minh bạch của pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

còn được thể hiện ở nội được quy định chủ yếu tại Nghị định số 83/2014/NĐ-CP

phù hợp với mặt bằng nhận thức chung của mọi công dân, không gây khó

hiểu, nhẫm lẫn.

Năm là, bảo đảm tính lập pháp cao của tổ chức và hoạt động kinh

doanh bán lẻ xăng dầu. Một hệ thống pháp luật hoàn thiện phải là hệ thống

được xây dựng với trình độ kỹ thuật pháp lý cao. Đây là tiêu chuẩn có ý nghĩa

quan trọng vì pháp luật đòi hỏi phải có sự phù hợp cao độ giữa nội dung và

hình thức. Trình độ pháp lý cao thể hiện ở quy trình ban hành văn bản pháp

luật khoa học, cách thức biểu đạt chuẩn xác, ngôn ngữ diễn đạt rõ ràng, dễ

hiểu, logic, dễ thực hiện; phải xác định đúng những nguyên tắc của hoạt động

xây dựng pháp luật, những trình tự thủ tục tối ưu nhằm tạo ra được những văn

63

bản quy phạm pháp luật tốt nhất, phù hợp với các quy định đã và đang có hiệu

lực, cơ chế thực thi pháp luật phù hợp với các điều kiện kinh tế, xã hội của đất

nước. Hoạt động xây dựng pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán

lẻ xăng dầu phải được tiến hành một cách khoa học, có hệ thống, các văn bản

luật, văn bản dưới luật thuộc các chuyên ngành khác nhau, phải thực sự tạo

thành một chỉnh thể thống nhất, bổ sung cho nhau; kịp thời ban hành văn bản

hướng dẫn tránh tình trạng không thể áp dụng pháp luật được ngay do thiếu

văn bản hướng dẫn.

Sáu là, bảo đảm tính cân bằng lợi ích của chủ thể kinh doanh, người

tiêu dùng và lợi ích của xã hội. Nguyên tắc cân bằng lợi ích của chủ thể tham

gia hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu và lợi ích của xã hội, lợi ích của các

bên liên quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật về tổ chức

và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Quy định về tổ chức và hoạt động

kinh doanh bán lẻ xăng dầu là yêu cầu bắt buộc đối với chủ thể, tuy nhiên, do

đặc tính của mặt hàng xăng dầu nên việc quy định về tổ chức và hoạt động

kinh doanh bán lẻ đối với chủ thể không chỉ bảo vệ quyền lợi của chủ thể, mà

còn, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và lợi ích của toàn xã hội.

Pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu là áp

dụng các quy định do Nhà nước quy định để xử lý những hành vi gây thiệt hại

đến thị trường kinh doanh, môi trường, nền kinh tế xã hội của đất nước. Trong

pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, để đảm bảo sự

cân bằng lợi ích của chủ thể kinh doanh, người tiêu dùng và lợi ích của xã hội

thì việc xác định những yếu tố bị xem là không tuân theo quy định là đặc biệt

quan trọng, không gây tổn hại bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của chủ thể

kinh doanh bán lẻ xăng dầu nhưng cũng không gây ra ảnh hưởng trong nền

kinh tế xã hội, đời sống của người dân. Bên cạnh đó, các quy định về tổ chức

và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu cũng cần phải đảm bảo tính công

64

bằng và đúng đắn để nhằm bảo vệ được quyền lợi hợp pháp và chính đáng

của chủ thể kinh doanh nhưng không làm ảnh hưởng đến các hoạt động kinh

doanh khác trong xã hội.

Bảy là, bảo đảm về thủ tục đơn giản, minh bạch. Pháp luật về tổ chức

và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu cần đảm bảo các thủ tục đăng ký,

các kết quả giải quyết của cơ quan có thẩm quyền phải được thể hiện bằng

văn bản, thủ tục đăng ký thực hiện cần được giải quyết trong thời gian hợp

lý. Các quy phạm pháp luật phải được quy định một cách rõ ràng, đơn giản,

dễ hiểu sẽ tạo điều kiện các chủ thể hoạt động kinh doanh hiểu được một

cách rõ ràng, không gây nhầm lẫn. Hiện nay, hoạt động kinh doanh bán lẻ

xăng dầu còn đang là một ngành kinh doanh khá nhạy cảm, các chủ thể kinh

doanh vẫn có tâm lý quan ngại do vậy, nếu thủ tục phức tạp, chi phí tốn

kém, thông tin khó tiếp cận thì chắc chắn họ sẽ bỏ qua việc tham gia vào thị

trường kinh doanh này, dẫn đến người kinh doanh, đầu tư nghiêm túc dễ

cảm thấy chán nản, môi trường kinh doanh bị méo mó, không khuyến khích

được các hoạt động đầu tư.

Tám là, pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

phải đảm bảo phù hợp với pháp luật quốc tế. Sở dĩ tính phù hợp với pháp

luật quốc tế là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá mức độ hoàn thiện

của pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu vì hoạt

động kinh doanh bán lẻ xăng dầu có sức ảnh hưởng cao đối với hội nhập

quốc tế. Vai trò của hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu đối với sự phát

triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia ngày càng quan trọng và được coi là

một hoạt động kinh doanh thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Việc cam kết

tuân thủ luật chơi chung về các quy định trong hoạt động xuất nhập khẩu

xăng dầu với các đối tác thể hiện quyết tâm và nỗ lực lớn của Việt Nam

trong tiến trình hội nhập quốc tế.

65

3.1.2. Hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo tính ổn định, hiệu quả và

minh bạch của thị trường kinh doanh bán lẻ xăng dầu

Tính ổn định, hiệu quả và minh bạch của thị trường kinh doanh bán lẻ

xăng dầu theo quy định của pháp luật thể hiện ở nội dung các quy phạm pháp

luật phải rõ ràng, dễ hiểu, đơn nghĩa, không mâu thuẫn; các văn bản pháp luật

phải được công bố công khai (từ khi bắt đầu quy trình xây dựng văn bản đến

việc lấy ý kiến đóng góp của các tổ chức, cá nhân liên quan, các chuyên gia

và đông đảo người dân đế khi văn bản được ban hành) để các doanh nghiệp

nắm rõ những quy định khi tham gia vào hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng

dầu, quyền và nghĩa vụ của chủ thể liên quan đến hoạt động kinh doanh bán lẻ

xăng dầu, các cơ quan có thẩm quyền, trình tự thủ tục thực hiện các công việc

nhằm đủ điều kiện tham gia thị trường kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Việc công

khai văn bản pháp luật không chỉ dừng ở việc đăng tải trên Công báo và các

phương tiện thông tin đại chúng mà còn phải được thực hiện thông qua công

tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để các doanh nghiệp dễ dàng

tiếp cận, hiểu rõ, thực hiện theo quy định về kinh doanh bán lẻ xăng dầu.

Đối với lĩnh vực kinh doanh bán lẻ xăng dầu, hiện nay Nhà nước luôn

thực hiện chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh

nghiệp tự chủ đầu tư xây dựng mới, nâng cấp mở rộng hoạt động kinh doanh.

Với mục tiêu giúp các doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh bán lẻ

xăng dầu có thể phát triển phù hợp với nền kinh tế hiện nay, pháp luật về tổ

chức và hoạt đông kinh doanh bán lẻ xăng dầu phải dần được hoàn thiện hơn,

dựa trên cơ sở đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước. Hoàn

thiện pháp luật về điều kiện và thủ tục thành lập doanh nghiệp đối với lĩnh

vực kinh doanh xăng dầu có điều kiện. Hoàn thiện các văn bản pháp luật về

kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở nước ta hiện nay, tạo ra sự phù hợp với quy

định của các văn bản pháp luật có liên quan khác. Thẩm quyền, hồ sơ, trình tự

66

cấp phép đủ điều kiện kinh doanh bán lẻ xăng dầu cũng cần được thực hiện

nghiêm túc và theo đúng trình tự mà pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh

doanh bán lẻ xăng dầu quy định. Hệ thống hóa các quy định về quản lý kinh

doanh bán lẻ xăng dầu ở nước ta từ các quy định nhỏ lẻ hiện nay thành một

văn bản thống nhất nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập trong thực tiễn thi

hành pháp luật kinh doanh bán lẻ xăng dầu.

Chú trọng hoàn thiện pháp luật kinh doanh bán lẻ xăng dầu theo hướng

cạnh tranh công bằng, bình đẳng, hiện đại an toàn, bảo vệ người tiêu dùng và

lợi ích của nền kinh tế quốc gia. Nhà nước quản lý, ổn định phát triển kinh tế

thông qua các chính sách quản lý kinh doanh. Tùy thuộc vào ngành nghề mà

nhà nước có những quy định khác nhau. Xăng dầu là yếu tố đầu vào vô cùng

quan trọng đối với hầu hết các lĩnh vực kinh tế và đời sống, đặc biệt là ngành

giao thông vận tải, hệ thống mạch máu của nền kinh tế, chính vì vậy mà vai

trò của Nhà nước trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng

dầu rất quan trọng.

Đối với hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, Nhà nước cần chuẩn

hóa các điều kiện kinh doanh, tạo cơ sở hành lang pháp lý điều kiện kinh

doanh bán lẻ xăng dầu nhằm xây dựng thị trường kinh doanh minh bạch lành

mạnh cho hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, các quy định cần được hình

thành và phù hợp một cách toàn diện đối với ngành kinh doanh xăng dầu.

Ngoài ra cần ban hành các cơ chế, chính sách nhằm ưu tiên phát triển kinh tế

xã hội ở một số vùng trọng điểm, đặc biệt là các vùng kinh tế kém phát triển,

cần sự quan tâm hỗ trợ đặc biệt của Nhà nước để các hoạt động kinh doanh

bán lẻ xăng dầu có thuận lợi, phục vụ nhu cầu tại đây. Bên cạnh đó, việc sử

dụng tiết kiệm và hiện quả năng lượng như xăng dầu cũng cần được xem xét

quản lý bằng những chính sách quản lý của Nhà nước nhằm đảm bảo an toàn

nguồn năng lượng của đất nước.

67

Ngoài ra, trong tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu cũng

đã xuất hiện rất nhiều hành vi vi phạm nghiêm trọng, phương thức, thủ đoạn

buôn lậu, gian lận xăng dầu ngày càng tinh vi; các đối tượng móc nối chặt

chẽ với nhau tạo thành đường dây khép kín. Do đó cần xây dựng các chế tài

thật nghiêm khắc, mang tính răn đe cao đối với các hành vi gian lận, vi

phạm nghiêm trọng trong hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, tập trung

xây dựng các quy định thật chặt chẽ, đầy đủ chế tài đối với hoạt động kinh

doanh xăng dầu, kèm theo việc nâng cao mức phạt ở một số vi phạm đặc

biệt nghiêm trọng, đảm bảo tính răn đe, từ đó kỳ vọng việc tuân thủ các điều

kiện về kinh doanh, hoạt động mua bán xăng dầu của các thương nhân sẽ

ngày càng nâng cao.

3.1.3. Hoàn thiện pháp luật nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp

mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu để

bảo đảm tính cạnh tranh và tăng nguồn cung xăng dầu

Pháp luật về điều kiện kinh doanh bán lẻ xăng dầu cần đảm bảo các thủ

tục đăng ký, các kết quả giải quyết của cơ quan có thẩm quyền phải được thể

hiện bằng văn bản, thủ tục đăng ký thực hiện cần được giải quyết trong thời

gian hợp lý. Các quy phạm pháp luật phải được quy định một cách rõ ràng,

đơn giản, dễ hiểu sẽ tạo điều kiện các chủ thể hoạt động kinh doanh hiểu được

một cách rõ ràng, không gây nhầm lẫn. Hiện nay, hoạt động kinh doanh bán lẻ

xăng dầu còn đang là một ngành kinh doanh khá nhạy cảm, các chủ thể kinh

doanh vẫn có tâm lý quan ngại do vậy, nếu thủ tục phức tạp, chi phí tốn kém,

thông tin khó tiếp cận thì chắc chắn họ sẽ bỏ qua việc tham gia vào thị trường

kinh doanh, người kinh doanh, đầu tư nghiêm túc chán nản, môi trường kinh

doanh bị méo mó, không khuyến khích được các hoạt động đầu tư...

Một trong những mục đích khi xây dựng nội dung pháp luật về tổ chức

và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu là tạo thành một thị trường kinh

68

doanh bán lẻ xăng dầu theo hướng cạnh tranh và cân bằng ổn định. Do đây là

một ngành nghề kinh doanh đặc biệt, nên các điều kiện để tham gia vào hoạt

động kinh doanh của thị trường bắt buộc phải được quy định chặt chẽ. Việc

hình thành các điều kiện đối với các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động

kinh doanh bán lẻ xăng dầu nhằm mục đích chọn ra được những doanh nghiệp

thực sự có năng lực hoạt động kinh doanh, thích hợp với những đặc thù của

ngành nghề kinh doanh bán lẻ xăng dầu, bao gồm cả các yêu cầu về kỹ thuật,

công nghệ trong kinh doanh bán lẻ xăng dầu.

Ngoài ra còn để đảm bảo sự tương đồng về năng lực cạnh tranh của các

doanh nghiệp trên một thị trường, tránh trình trạng vì chênh lệch vị thế giữa

các doanh nghiệp mà tạo ra sự chèn ép, phụ thuộc trong thị trường. Bên cạnh

đó việc tạo lập các điều kiện kinh doanh bán lẻ xăng dầu còn bảo đảm chống

tình trạng độc quyền trong kinh doanh và Nhà nước có thể kiểm soát được thị

trường, ổn định cung cầu, hạn chế và ngăn ngừa được các hành vi gian lận

trong kinh doanh. Mở của và hội nhập kinh doanh xăng dầu, chấm dứt tình

trạng đóng cửa hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu đối với các doanh

nghiệp nước ngoài. Đa dạng hóa các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt

động kinh doanh bán lẻ xăng dầu góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế

trong thời kỳ hội nhập với thế giới.

3.1.4. Hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả quản lý giá bán

xăng dầu theo cơ chế giá thị trường, phù hợp với hội nhập kinh tế quốc tế

Về công tác quản lý giá xăng dầu, cần có sự thống nhất về giá xăng

dầu, thuế và thời gian dự trữ cho phù hợp (vì thời gian dự trữ 30 ngày theo

quy định hiện nay là qua dài). Ngoài ra cũng nên bãi bỏ quy định về mua bán

giữa thương nhân đầu mối và thương nhân phân phối. Thực tế hiện nay,

thương nhân đầu mối không được trực tiếp mua xăng của công ty phân phối

nhưng công ty phân phối mua được của thương nhân đầu mối. Ngoài ra cũng

69

liên quan đến vấn đề tăng giá xăng dầu, cần có quy định ví dụ như xăng dầu

thế giới tăng 3% thì doanh nghiệp được tăng bao nhiêu, mức tăng nào phải

xin ý kiến Chính phủ để công khai, minh bạch mức tăng/giảm giá.

Ngoài ra, với việc mở cửa và hội nhập kinh doanh xăng dầu, chấm dứt

tình trạng đóng cửa hoạt động kinh doanh xăng dầu đối với các doanh nghiệp

nước ngoài, sự xuất hiện của những nhà đầu tư ngoại là một tín hiệu khởi sắc

cho thị trường kinh doanh bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam, đa dạng hóa các

thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu góp

phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong thời kỳ hội nhập với thế giới. Tuy

nhiên, đi đôi với việc thu hút, kêu gọi đầu tư từ các doanh nghiệp nước ngoài

thì việc điều chỉnh và bổ sung các quy định pháp luật Việt Nam về tổ chức và

hoạt động bán lẻ xăng dầu đóng vai trò tiên quyết và đặc biệt quan trọng.

Nếu quy định pháp luật vẫn tiếp tục còn tồn tại các hạn chế và quy định

không phù hợp với pháp luật quốc tế thì e rằng, mặc dù thị trường kinh doanh

bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam là miếng bánh hấp dẫn tuy nhiên các doanh

nghiệp đầu tư từ nước ngoài sẽ e dè và không thực sự hứng thú. Sở dĩ tính

phù hợp với pháp luật quốc tế là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá mức

độ hoàn thiện của pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng

dầu vì hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu có sức ảnh hưởng cao đối với

hội nhập quốc tế. Vai trò của hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu đối với sự

phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia ngày càng quan trọng và được coi

là một hoạt động cơ bản để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

3.1.5. Hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của

các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu

Nhà nước quản lý, ổn định phát triển kinh tế thông qua các chính sách

quản lý kinh doanh. Tùy thuộc vào ngành nghề mà nhà nước có những quy

định khác nhau. Xăng dầu là yếu tố đầu vào vô cùng quan trọng đối với hầu hết

70

các lĩnh vực kinh tế và đời sống, đặc biệt là ngành giao thông vận tải, hệ thống

mạch máu của nền kinh tế, chính vì vậy mà vai trò của nhà nước trong công tác

quản lý tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu rất quan trọng.

Đối với hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, Nhà nước cần chuẩn

hóa các điều kiện kinh doanh, tạo cơ sở hành lang pháp lý đối với tổ chức và

hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu nhằm xây dựng thị trường kinh doanh

minh bạch lành mạnh cho hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Các quy

định cần được xâu dựng phù hợp một cách toàn diện đối với ngành kinh

doanh bán lẻ xăng dầu. Ưu tiên phát triển kinh tế xã hội ở một số vùng trọng

điểm, đặc biệt là các vùng kinh tế kém phát triển, cần sự quan tâm hỗ trợ đặc

biệt của Nhà nước để các hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu thuận lợi.

Bên cạnh đó, việc sử dụng tiết kiệm và hiện quả năng lượng như xăng dầu

cũng cần được xem xét quản lý bằng những chính sách quản lý của Nhà nước

nhằm đảm bảo an toàn nguồn năng lượng của đất nước.

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi

pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt

động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

Một là, đảm bảo tính hợp pháp và sửa đổi nội dung của một số quy

định pháp luật về điều kiện tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

(i) Cần rà soát, hệ thống hóa tổng thế các văn bản pháp luật về điều

kiện kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Nhằm phát hiện, xử lý hoặc kiến nghị sửa

đổi các quy định về điều kiện kinh doanh bán lẻ xăng dầu đã bộc lộ những bất

cập, mâu thuẫn, chống chéo hoặc không còn phù hợp với nền kinh tế thị

trường hiện nay. Đề nghị các cơ quan có thẩm quyền phối hợp lấy ý kiến từ

các doanh nghiệp kinh doanh cũng như tổng kết tình hình thực tiễn để có

hướng sửa đổi phù hợp.

71

(ii) Cần xem xét bổ sung quy định cụ thể đối với các nhà đầu tư muốn

tham gia vào thị trường xăng dầu tại Việt Nam. Trong thỏa thuận gia nhập Tổ

chức Thương mại Thế giới (WTO) và các hiệp định thương mại tự do thế hệ

mới (FTA), Việt Nam vẫn chưa mở cửa thị trường kinh doanh xăng dầu. Tuy

nhiên hiện tại, Nhà nước cũng đã có chính sách thu hút các nhà đầu tư nước

ngoài tham gia vào thị trường thông qua góp vốn đầu tư vào các nhà máy lọc

hóa dầu. Do đó, chúng ta nên có những quy định rõ ràng, cụ thể hơn về hoạt

động của doanh nghiệp nước ngoài khi tham gia vào thị trường xăng dầu hiện

chưa mở của nước ta.

(iii) Cũng cần quy định cụ thể các văn bản, giấy tờ cần thiết để đăng ký

đủ điều kiện kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Cần đơn giản hóa hồ sơ và trình tự

thủ tục cấp phép đủ điều kiện kinh doanh bán lẻ xăng dầu, cắt giảm những thủ

tục, giấy tờ hồ sơ khi tiến hành xin giấy phép đủ điều kiện kinh doanh bán lẻ

xăng dầu cho phù hợp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, nhưng

vẫn phải bảo đảm công tác quản lý, theo dõi của Nhà nước đối với lĩnh vực

kinh doanh bán lẻ xăng dầu.

Hai là, xây dựng quy định cho phép doanh nghiệp tự quyết định giá

phù hợp với cơ chế giá thị trường

Nhà nước xem xét nghiên cứu ban hành các quy chế quy định về tính

giá xăng dầu. Thông qua tình hình biến động của thị trường xăng dầu thế giới,

các doanh nghiệp sẽ chủ động định giá bán lẻ xăng dầu đối với nguồn xăng

dầu do mình cung cấp theo quy định và đăng ký hoặc thông báo đối với cơ

quan quản lý. Khi đó, Nhà nước chỉ có vai trò định hướng, hậu kiểm đối vơi

cơ chế quản lý giá. Nhà nước chỉ thực sự tham gia điều tiết giá thị trường khi

có sự biến động lớn gây tác động động bất lợi đến thị trường và sản xuất tiêu

dùng, đồng thời, phải thường xuyên thanh tra, kiểm tra, xử lý các trường hợp

vi phạm quy định để răn đe đối với các doanh nghiệp.

72

Về giá cơ sở, đề nghị nghiên cứu bổ sung, sửa đổi Nghị định số 83/2014/NĐ-

CP về việc xem xét bỏ giá cơ sở, không dùng giá cơ sở làm căn cứ để điều

chỉnh giá bán lẻ như hiện nay mà chỉ là tiêu chí để doanh nghiệp tham khảo

trước khi quyết định giá bán lẻ. Việc để doanh nghiệp được quyền quyết định

giá không chỉ đúng với bản chất của nền kinh tế thị trường mà còn mang đến

nhiều lợi ích cho người tiêu dùng. Khi các doanh nghiệp cạnh tranh về giá sẽ

có giá bán khác nhau giữa các thương nhân và chất lượng dịch vụ để thu hút

người tiêu dùng. Do đó, Bộ Tài chính cần sửa đổi các văn bản hướng dẫn thi

hành Luật Giá năm 2012 nên để các doanh nghiệp đăng ký và quyết định giá,

Bộ Tài chính có thể hậu kiểm nếu cần thiết. Mặt khác, đề nghị nghiên cứu

việc bỏ lợi nhuận định mức của kinh doanh xăng dầu, doanh nghiệp phải chấp

nhận quy luật lời ăn lỗ chịu, không thể tồn tại chính sách bán 01 lít xăng dầu

là đương nhiên lãi 300 đồng.

Quy định về điều hành xăng dầu trong nước vẫn còn rất nhiều bất cập,

nhất là việc điều chỉnh giá xăng dầu theo chu kỳ đang gây ra những khó khăn

nhất định cho các doanh nghiệp vận tải, phát triển du lịch, ảnh hưởng tới mục

tiêu phát triển kinh tế chung của cả nước. Hiện nay, với tần suất điều chỉnh

giá của Nhà nước (thời gian giữa hai lần điều chỉnh giá liên tiếp tối thiểu là 15

ngày đối với trường hợp tăng giá, tối đa là 15 ngày đối với trường hợp giảm

giá), giá bán lẻ trong nước sẽ khó có thể bắt kịp những biến động của giá xăng

dầu thế giới trong bối cảnh những yếu tố tác động lên giá dầu như kinh tế, địa

chính trị, tôn giáo liên tục diễn biến phức tạp và khó lường như hiện nay.

Trong 15 ngày của kỳ điều hành, thị trường xăng dầu thế giới có biết bao

nhiêu diễn biến khác nhau, trong khi thị trường trong nước không kịp phản

ứng khiến việc điều hành giá bị động, không theo sát được diễn biến của giá

thế giới. Vì vậy, đề nghị nên quy định rút ngắn tần suất điều chỉnh giá xăng

dầu xuống còn 10 ngày để giá bán trong nước ngày càng tiệm cận với giá thế

73

giới, tránh độ trễ trong việc điều hành giá, thay vì chu kỳ 15 ngày như hiện

nay để giá bán trong nước ngày càng tiệm cận với giá thế giới, tránh độ trễ

trong việc điều hành giá.

Ba là, nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật về kinh doanh xăng dầu

nói chung và kinh doanh bán lẻ xăng dầu nói riêng

Hiện nay, ngành nghề kinh doanh xăng dầu là một trong những lĩnh

vực kinh doanh then chốt, quan trọng và có tác động mạnh mẽ đến nền nền

kinh tế xã hội cũng như đời sống nhân dân. Tuy nhiên, cho đến nay, các hoạt

động kinh doanh xăng dầu chủ yếu dựa trên các quy định của các cơ quan

hành pháp nên các quy định này dễ gây chồng chéo, mâu thuẫn không nhất

quán với nhau là điều khó tránh khỏi. Để phát huy được hiệu quả việc quản lý

kinh doanh xăng dầu thì nên xây dựng, ban hành Luật Kinh doanh xăng dầu

để luật hóa các quy định đem lại hiệu quả tối ưu cho công tác quản lý, bảo vệ

lợi ích quốc gia và đảm bảo nguồn an ninh về năng lượng cả đất nước.

Bốn là, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức và hoạt

động kinh doanh bán lẻ xăng dầu tại Nghị định số 83/2014/NĐ-CP

Đối với quy định pháp luật về hoạt động kinh doanh xăng dầu nói

chung và kinh doanh bán lẻ xăng dầu nói riêng, cần sửa đổi Nghị định số

83/2014/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu, trong đó, cân nhắc lại quy định cho

phép thương nhân phân phối được lấy từ nhiều nguồn, rà soát, sửa đổi công

thức tính giá cơ sở mặt hàng xăng dầu, rà soát, nghiên cứu cắt giảm một số

điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực xăng dầu nhằm tạo điều kiện hơn

nữa cho doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh doanh xăng dầu để thị

trường xăng dầu cạnh tranh hơn và đảm bảo nguồn cung tốt hơn

Đối với quy định tại Nghị định số 83/2014/NĐ-CP về việc đại lý bán lẻ

xăng dầu chỉ được lấy hàng từ một nguồn khiến nhiều doanh nghiệp nhỏ và

vừa gặp khó khăn; các cửa hàng đại lý đã có giấy đủ điều kiện kinh doanh nay

74

lại thêm “giấy phép con” cho thương nhân phân phối và tổng đại lý là không

cần thiết; quy định về việc cửa hàng xăng dầu sử dụng đất ở (có sổ đỏ) để xây

dựng cửa hàng kinh doanh xăng dầu hiện đang kinh doanh ổn định phải

chuyển mục đích sử dụng đất sang kinh doanh xăng dầu là chưa hợp lý.

Ngoài ra, thành phần hồ sơ cấp giấy chứng nhận cửa hàng bán lẻ xăng

dầu quy định tại Khoản a Điều 25 Mục 7 Nghị định số 83/2014/NĐ-CP là

phải có “bản kê trang thiết bị của cửa hàng bán lẻ xăng dầu theo quy định tại

Khoản 3 Điều 24 Nghị định này và tài liệu chứng minh tính hợp pháp về xây

dựng của cửa hàng bán lẻ xăng dầu” là không hợp lý, vì với quy định này, chủ

trương của Ủy ban nhân dân tỉnh hoặc giấy phép xây dựng đều là tài liệu để

chứng minh tính hợp pháp về xây dựng.

Về điều kiện đối với cửa hàng bán lẻ xăng dầu được quy định tại

Khoản 3, 4 Điều 24 Mục 7 Nghị định số 83/2014/NĐ-CP là: “Được thiết kế,

xây dựng và có trang thiết bị theo đúng các quy định hiện hành về quy chuẩn,

tiêu chuẩn cửa hàng bán lẻ xăng dầu, an toàn phòng cháy chữa cháy, bảo vệ

môi trường của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền”. Đại diện các Sở

Công thương đều cho rằng Bộ Công thương cần xem lại, vì với quy định này,

doanh nghiệp chứng minh bằng tài liệu gì và điều kiện phòng cháy chữa cháy

chứng minh như thế nào. Cùng với đó, giấy chứng nhận hết hạn quy định

thành phần hồ sơ cấp lại như cấp mới phải thực hiện các quy định như đã nêu

trên thì không có tài liệu gì để doanh nghiệp chứng minh hoặc có cũng không

thể đúng theo quy định hiện hành về quy chuẩn, tiêu chuẩn cửa hàng… Chính

những bất cập này nên hiện nay, hầu hết các cửa hàng bán lẻ xăng dầu trên

địa bàn các tỉnh đều gặp khó khăn trong việc cấp lại giấy chứng nhận.

Việc cấp giấy chứng nhận cửa hàng kinh doanh bán lẻ xăng dầu, khi

doanh nghiệp xin được chủ trương, bảo đảm tốt công tác phòng cháy chữa

cháy… doanh nghiệp phải ra Bộ Giao thông - Vận tải xin tiếp giấy phép thi

75

công đấu nối đường dẫn của cửa hàng xăng dầu vào đường tỉnh, vì vị trí đặt

cửa hàng kinh doanh bán lẻ xăng dầu của doanh nghiệp nằm trên quốc lộ. Do

đó, cần điều chỉnh phân cấp về xin giấy phép thi công đấu nối cho địa phương

quản lý, vì số lượng xin đấu nối cho cây xăng nằm trên quốc lộ rất ít.

Những quy định điều kiện kinh doanh xăng dầu đang bất cập với những

quy định của pháp luật ra đời sau Nghị định số 83/2014/NĐ-CP như Luật

Doanh nghiệp năm 2015, Luật Đầu tư năm 2015. Đề nghị nghiên cứu sửa đổi,

bổ sung, ban hành Nghị định mới để có thể hoàn thiện, thống nhất các quy

định của pháp luật, tránh việc các quy định chồng chéo gây khó khăn cho

doanh nghiệp khi áp dụng và thực hiện.

Năm là, quy định cụ thể các biện pháp chế tài xử phạt đối với các doanh

nghiệp kinh doanh xăng dầu về phòng cháy, chữa cháy và vệ sinh môi trường

(i) Về phòng cháy, chữa cháy, hiện nay rất nhiều cơ sở kinh doanh,

doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu hiểu rõ tầm quan trọng của công tác phòng

cháy, chữa cháy trong kinh doanh xăng dầu và cũng thấy rõ hậu quả khi

không chấp hành nghiêm chỉnh các điều kiện này, nhưng vì mục đích giảm

thiểu chi phí nên vẫn cố tình vi phạm các điều kiện về phòng cháy, chữa cháy.

Thậm chí, sẵn sàng bao che cho tội phạm, không phối hợp với các cơ quan có

thẩm quyền hoặc cố tình bị xử lý vi phạm nhưng tiếp tục tái phạm.... Chính vì

vậy, các cơ quan chức năng cần phải tăng cường hơn nữa các biện pháp xử

phạt, có thể nghiên cứu quy chế xử phạt riêng đối với những vi phạm về

phòng cháy, chữa cháy như: Buộc đóng cửa cửa hàng xăng dầu vi phạm, thu

hồi giấy phép đủ điều kiện kinh doanh… nhằm nâng cao hơn nữa ý thức chấp

hành các quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh xăng dầu đối với các

doanh nghiệp kinh doanh.

(ii) Về bảo về môi trường, cần xây dựng các quy định cụ thể về trình

độ, kiến thức về nghiệp vụ môi trường đối với các cán bộ và nhân viên tại các

76

doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Định kỳ kiểm tra công tác bảo vệ

môi trường tại các cửa hàng xăng dầu cũng như buộc các doanh nghiệp phải

lập báo cáo kết quản quan trắc môi trường định kỳ.

Sáu là, tăng cường vai trò của hoạt động xử lý vi phạm pháp luật về

điều kiện kinh doanh xăng dầu

Nghị định số 67/2017/NĐ-CP ngày 25/05/2017 của Chính phủ quy

định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực dầu khí, kinh doanh xăng dầu

và khí là một trong những căn cứ quan trọng trong việc xử lý vi phạm pháp

luật về hoạt động kinh doanh xăng dầu ở nước ta hiện nay. Cần tiếp tục hoàn

thiện thể chế chính sách liên quan đến quản lý nhà nước về xử lý vi phạm

hành chính, kịp thời sửa đổi bổ sung những quy định trong xử lý vi phạm

pháp luật về hoạt động kinh doanh xăng dầu. Ngoài ra, cần nghiên cứu, xây

dựng các quy định pháp luật theo hướng tăng cường kiểm tra, xử lý các hành

vi vi phạm nghiêm trọng trong hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, quy

định chặt chẽ, đầy đủ chế tài đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu, kèm

theo việc nâng cao mức phạt ở một số vi phạm, đảm bảo tính răn đe. Trong

quá trình cấp phép kinh doanh xăng dầu, cơ quan quản lý phải yêu cầu doanh

nghiệp, hộ kinh doanh ký cam kết chấp hành nghiêm các quy định của pháp

luật. Nếu có vi phạm, cơ quan quản lý phải xử lý nghiêm, đồng thời rút giấy

phép; thậm chí rút giấy phép vĩnh viễn không cho kinh doanh nếu vi phạm

nhiều lần, nhất là vi phạm về chất lượng.

Bảy là, quy định về Quỹ Bình ổn giá xăng dầu

Nên xem xét bỏ Quỹ Bình ổn giá xăng dầu để lĩnh vực kinh doanh xăng

dầu hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường, giá xăng dầu trong nước diễn

biến theo xu hướng chung của giá thế giới, giá xăng dầu tăng cao, người tiêu

dùng sẽ trả ở mức cao và ngược lại, khi giá xăng dầu xuống thấp người tiêu

dùng sẽ được hưởng lợi. Cụ thể, trên thực tế, Hiệp hội Xăng dầu Việt Nam

77

(VINPA) cho rằng, việc trích lập Quỹ Bình ổn giá xăng dầu xăng dầu khiến

người tiêu dùng chịu thiệt hơn được lợi, vì bản chất là người tiêu dùng đang

ứng trước cho Quỹ này. Bên cạnh đó, việc sử dụng Quỹ Bình ổn giá xăng dầu

mang đậm tính can thiệp hành chính làm méo mó giá cả thị trường xăng dầu.

Vì vậy, VINPA kiến nghị bỏ Quỹ Bình ổn giá xăng dầu để lĩnh vực kinh

doanh xăng dầu hoạt động theo cơ chế thị trường, giá xăng dầu trong nước

diễn biến theo xu hướng chung của giá thế giới. Mặt khác, khi bỏ Quỹ Bình

ổn giá xăng dầu, tính minh bạch công khai trong điều hành giá sẽ tốt hơn, tạo

cơ hội bình đẳng trong hệ thống doanh nghiệp đầu mối.

Ông Vũ Vinh Phú, nguyên Phó Giám đốc Sở Thương mại Hà Nội cho

biết, kiến nghị này đã từng được đưa ra từ nhiều năm nay. Quan điểm cá nhân

ông ngay từ đầu là không nên hình thành quỹ này, bởi nó tồn tại rất vô nghĩa,

“vô thưởng, vô phạt”. Nhiều năm qua, Quỹ Bình ổn giá xăng dầu được chi

tiêu ra sao, lãi suất gửi ngân hàng bao nhiêu, số dư kết từng tháng, từng kỳ

không minh bạch. ông Phú nhấn mạnh: “Quỹ bình ổn là phi thị trường nên

cần phải bỏ, người quản lý thay vì dùng quỹ để điều tiết giá cần phải giải

quyết tốt bài toán cung – cầu, lưu thông thông suốt, tổ chức hệ thống phân

phối hiệu quả”. Đồng thời khẳng định, thời gian qua, việc sử dụng Quỹ Bình

ổn giá xăng dầu đang bị lạm dụng, hậu quả là dẫn đến giá xăng dầu tăng phi

mã trong những kỳ điều hành gần đây [30].

Tuy nhiên, trên thực tế, Quỹ Bình ổn giá xăng dầu cũng có một số vai

trò quan trọng trong việc điều hành kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, đồng

thời bảo đảm hài hòa lợi ích của ba bên người dân, doanh nghiệp kinh doanh

xăng dầu và Nhà nước, đặc biệt trong bối cảnh giá xăng dầu đang được định

giá cơ sở thì không thể không có quỹ bình ổn. Nhà nước quản lý giá phải có

công cụ trong tay để khi giá thế giới lên cao phải dựa vào đó để xả Quỹ Bình

78

ổn giá xăng dầu, không cho tăng cao. Tuy nhiên, vấn đề gây bức xúc mấu

chốt là trích và sử dụng quỹ chưa hợp lý.

Trong trường hợp tiếp tục quy định Quỹ Bình ổn giá xăng dầu, cần cải

tiến việc trích lập Quỹ theo hướng khi giá thế giới giảm sâu, vẫn để giá ở mức

như vậy, không muốn điều chỉnh giá tại thời điểm khi đó quyết định mức thu

vào Quỹ. Khi giá có biến động, tùy theo sự biến động nhiều hay ít mà trích

nguồn quỹ này hợp lý cho bình ổn giá. Không nên thu và trích quỹ cố định

trong mọi trường hợp, hoặc nguồn thu và trích bằng nhau khi biên độ tăng giá

cơ sở không lớn. Việc này khiến cộng đồng cảm thấy Quỹ Bình ổn giá xăng

dầu không có tác dụng. Ngoài ra cần quy định tính toán hợp lý việc sử dụng

Quỹ Bình ổn giá xăng dầu để tránh giật cục, không lạm dụng quá nhiều quỹ

và xem nó như chiếc “đũa thần” như trong thời gian qua.

Tám là, xây dựng cơ chế phối hợp giữa Sở Khoa học và Công nghệ, Sở

Công Thương, Công an, Cục Thuế, Cục Quản lý thị trường, Chi cục Tiêu chuẩn

Đo lường Chất lượng trong quản lý điều hành kinh doanh bán lẻ xăng dầu

Trong thực tế, lực lượng Quản lý thị trường khi kiểm tra các cửa hàng

xăng dầu chủ yếu tập trung vào việc niêm yết giá, gian lận đo lường, còn việc

kiểm tra chất lượng, tiêu chuẩn xăng dầu do Bộ Khoa học và Công nghệ, Sở

Khoa học và Công nghệ địa phương đảm nhiệm.

Các hành vi gian lận trong kinh doanh bán lẻ xăng dầu hết sức phức

tạp, có tính phổ biến, thủ thuật tinh vi, đặc biệt là thủ thuật thay đổi phần mềm

có sai số lớn cài đặt lên bộ vi xử lý để gian lận đo lường. Do đó, đề xuất cần

xây dựng cơ chế phối hợp giữa Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Công Thương,

Công an, Cục Thuế, Cục Quản lý thị trường, Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường

Chất lượng. Trong quá trình cấp phép kinh doanh bán lẻ xăng dầu, cơ quan

quản lý phải yêu cầu doanh nghiệp, hộ kinh doanh ký cam kết chấp hành

nghiêm các quy định của pháp luật, nếu vi phạm phải xử lý nghiêm, nếu sai

79

phạm nhiều lần thì phải rút giấy phép kinh doanh vĩnh viễn, nhất là vi phạm

về chất lượng.

3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về tổ chức và

hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

(i) Các lực lượng chức năng cần tăng cường nắm địa bàn, giám sát chặt

chẽ các đại lý, cửa hàng kinh doanh bán lẻ xăng dầu, kiểm tra và xử lý

nghiêm các trường hợp vi phạm theo quy định. Đồng thời qua mỗi đợt kiểm

tra, lực lượng Quản lý thị trường cũng tuyên truyền, phổ biến các quy định

pháp luật về kinh doanh xăng dầu đến các cơ sở kinh doanh.

Bên cạnh đó, công khai các cửa hàng xăng dầu vi phạm trên các phương

tiện thông tin đại chúng để người tiêu dùng biết, giám sát và tự bảo vệ, góp

phần cùng các cơ quan chức năng phòng chống các hành vi kinh doanh gian

lận đối với mặt hàng xăng dầu.

(ii) Nhà nước cần tăng cường kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật trong

kinh doanh bán lẻ xăng dầu nhằm tăng cường kỷ cương pháp luật, ngăn chặn,

hạn chế tối đa những vi phạm có thể xảy ra trong kinh doanh bán lẻ xăng dầu.

Các cơ quan, đơn vị tăng cường các biện pháp phòng, chống cháy nổ xe cơ

giới. Kiểm tra việc chấp hành các quy định về điều kiện kinh doanh, bảo đảm

an toàn phòng, chống cháy nổ đối với thương nhân đầu mối, tổng đại lý, đại

lý, cửa hàng bán lẻ xăng dầu; thương nhân đầu mối, tổng đại lý. Các cơ sở sản

xuất, kinh doanh bán lẻ xăng dầu không duy trì đúng các điều kiện kinh

doanh, điều kiện an toàn phòng, chống cháy nổ phải đình chỉ hoạt động, bị thu

hồi hoặc tước giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh theo quy định. Xóa

bỏ các điểm pha chế, bán xăng dầu, sang chiết, nạp trái phép.

(iii) Chủ trì, phối hợp với các địa phương khẩn trương rà soát và xây dựng

phương án phù hợp di dời các cơ sở kinh doanh bán lẻ xăng dầu ra khỏi các khu

tập trung đông dân cư, không thuận lợi cho công tác phòng cháy chữa cháy.

80

(iv) Tiếp tục tăng cường kiểm tra, kiểm soát, đấu tranh chống buôn lậu,

gian lận thương mại trong kinh doanh bán lẻ xăng dầu trên địa bàn tỉnh; theo

dõi chặt chẽ hơn nữa các hoạt động mua bán, giao nhận và vận chuyển xăng

dầu lưu thông trên đường để kịp thời phát hiện, xử lý hành vi kinh doanh bán

lẻ xăng dầu không rõ nguồn gốc, xăng dầu nhập lậu. Đồng thời đẩy mạnh

công tác tuyên truyền, ký cam kết không kinh doanh xăng dầu không bảo đảm

chất lượng, không rõ nguồn gốc, nhập lậu.

(v) Bên cạnh trách nhiệm của lực lượng chức năng, đòi hỏi chính quyền

địa phương tích cực vào cuộc. Cần gắn trách nhiệm cụ thể đối với chính

quyền cấp địa phương trong quản lý hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu

trên địa bàn; kịp thời khen thưởng những cá nhân, tập thể có thành tích tốt và

đề nghị xử lý kỷ luật với những đơn vị, địa phương để xảy ra các vi phạm.

(vi) Việc thực hiện các văn bản cần được tiến hành theo phân công,

phân cấp rõ ràng giữa các cơ quan quản lý, tránh sự chồng chéo hay trốn tránh

trách nhiệm. Đối với công tác cấp phép đăng ký kinh doanh bán lẻ xăng dầu

trên địa bàn, các Sở, Ban, Ngành cần thực hiện đúng nhiệm vụ của mình một

cách nhanh chóng. Đồng thời, có những thông tin trao đổi qua lại và báo cáo

lên Sở Kế hoạch và Đầu tư để việc cấp phép cho các doanh nghiệp đạt yêu

cầu được diễn ra thuận lợi với các thủ tục nhanh gọn, đơn giản.

Công tác cấp đăng ký kinh doanh tại những huyện vùng sâu, vùng xa

nên được quan tâm và tạo mọi điều kiện thuận lợi để trên những huyện này

sớm có những cơ sở kinh doanh bán lẻ xăng dầu hợp pháp phục vụ nhu cầu

tiêu dùng của người dân.

(vii) Xây dựng giải pháp quản lý từ “gốc”, nói cách khác, cần quy

hoạch lại thương nhân đầu mối xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu, thương nhân

phân phối xăng dầu. Giải pháp về “ngọn” là thương nhân bán lẻ xăng dầu

buộc phải chịu trách nhiệm về chất lượng cũng như số lượng xăng dầu bán

81

cho người dân, bị xử lý nghiêm khắc nếu vi phạm. Cần có quy định bắt buộc

áp dụng khoa học công nghệ như gắn camera theo dõi 24/24h tại các cửa

hàng bán lẻ xăng dầu, gắn thiết bị định vị đối với tất cả các phương tiện vận

chuyển xăng dầu.

Đặc biệt, Tổng cục Quản lý thị trường là đơn vị trực tiếp đấu tranh với

gian lận thương mại trên thị trường cần được tăng quyền, được đầu tư về kỹ

thuật công nghệ để cán bộ quản lý thị trường từng bước chủ động xử lý các vụ

gian lận thương mại, đặc biệt là các mặt hàng kinh doanh có điều kiện, liên quan

trực tiếp đến đời sống, sức khỏe của người dân như xăng dầu, thực phẩm…

Có thể nói, chỉ khi nào xử lý vấn đề gốc trong quy trình từ nhập khẩu,

sản xuất xăng dầu đến bán lẻ cho người tiêu dùng, đầu tư cho lực lượng thực

thi pháp luật, mới có thể hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng xăng dầu giả,

kém chất lượng.

- Tiếp cận, phân tích các ý kiến, kiến nghị, nguyện vọng của các thương

nhân kinh doanh bán lẻ xăng dầu với các cơ quan chức năng có thẩm quyền,

làm cơ sở cho việc soạn thảo các quyết định.

- Cần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các cửa hàng bán lẻ

xăng dầu. Đồng thời cần giám sát việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, các

cơ sở, tránh để xảy ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh.

82

Tiểu kết Chương 3

Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật về tổ chức và hoạt

động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, cũng như quá trình thực hiện pháp luật trong

lĩnh vực này ở Việt Nam hiện nay, Luận văn đã xác định các định hướng hoàn

thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Và trên cơ

sở phân tích các định hướng hoàn thiện pháp luật, học viên đã đề xuất một số

giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán

lẻ xăng dầu tại Việt Nam.

Theo đó, việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh

bán lẻ xăng dầu cần dựa trên các tiêu chí cơ bản nhằm đảm bảo tính ổn định,

hiệu quả và minh bạch của thị trường kinh doanh bán lẻ xăng dầu, tạo điều

kiện cho doanh nghiệp mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh

bán lẻ xăng dầu để bảo đảm tính cạnh tranh và tăng nguồn cung xăng dầu,

nâng cao hiệu quả quản lý giá bán xăng dầu theo cơ chế giá thị trường, phù

hợp với hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ

quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu.

83

KẾT LUẬN

Thực hiện nghiên cứu đề tài “Tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ

xăng dầu theo pháp luật Việt Nam” trong khuôn khổ Luận văn Thạc sĩ luật

học, cho phép rút ra một số kết luận sau đây:

1. Xăng dầu là mặt hàng chiến lược có tầm quan trọng, có tác động

mạnh mẽ tới sự phát triển kinh tế và sự ổn định xã hội của Việt Nam. Xăng

dầu là yếu tố đầu vào quan trọng của sản xuất, đồng thời là loại năng lượng có

hạn, không thể tái sinh và hiện tại chưa thể thay thế được. Bên cạnh các hoạt

động kinh doanh phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, xăng dầu còn là mặt

hàng dự trữ chiến lược quốc gia. Trong điều kiện mới, việc đảm bảo hiệu quả

kinh doanh, tự chủ của doanh nghiệp đồng thời phải đi liền với đảm bảo an

ninh năng lượng quốc gia. Khi tiến hành mở cửa thị trường xăng dầu theo xu

hướng hội nhập, vấn đề đặt ra là, làm thế nào để đảm bảo cho hoạt động bán

lẻ xăng dầu vận động tự do theo quy luật cung cầu, tạo dựng môi trường cạnh

tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp? Chìa khóa trả lời cụ thể nhất là các

quy định pháp luật về hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam.

2. Kinh doanh bán lẻ xăng dầu là hoạt động bán xăng dầu trực tiếp cho

người tiêu dùng (bao gồm các cá nhân, tổ chức, đơn vị kinh tế) để tiêu dùng

nội bộ; kinh doanh bán lẻ xăng dầu nhằm mục đích sinh lợi. Tổ chức và hoạt

động kinh doanh bán lẻ xăng dầu được hiểu là hệ thống phân phối bán lẻ xăng

dầu thông qua hệ thống phân phối chính là các cửa hàng bán lẻ xăng dầu trực

thuộc các thương nhân kinh doanh xăng dầu theo quy định của pháp luật Việt

Nam. Do vai trò hết sức quan trọng của xăng dầu đối với đời sống kinh tế xã

hội và đặc điểm kinh doanh sản phẩm này, mà Chính phủ nhiều nước đều can

thiệp vào giá cả xăng dầu bằng nhiều hình thức và biện pháp điều tiết, khống

chế khác nhau và Việt Nam cũng không là một ngoại lệ.

84

3. Thực tiễn ở nước ta hiện nay cho thấy, pháp luật về tổ chức và hoạt

động kinh doanh bán lẻ xăng dầu đã có nhiều thay đổi theo cơ chế thị trường

và thúc đẩy hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ngày càng sôi động, đáp

ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng,

cho dù có những thay đổi cơ bản về cơ chế trị trường, nhưng hoạt động kinh

doanh bán lẻ xăng dầu vẫn còn những hạn chế, bất cập. Công tác thanh tra,

kiểm tra và quản lý thị trường thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập. Tình trạng

xây dựng cửa hàng xăng dầu không nằm trong quy hoạch hoặc chưa được cấp

có thẩm quyền chấp thuận còn xuất hiện ở nhiều địa phương; một số cửa hàng

xăng dầu không đáp ứng được tiêu chí theo quy định nên chất lượng phục vụ

thấp; một số tổ chức, doanh nghiệp xây dựng trạm cấp phát nội bộ nhưng vẫn

tự ý bán hàng; một số doanh nghiệp đầu mối, tổng đại lý xăng dầu vẫn bán

hàng cho các cửa hàng không nằm trong hệ thống, các cửa hàng xây dựng trái

phép nhưng chưa bị xử phạt hoặc nếu xử phạt cũng chỉ ở mức nhẹ nên chưa

đủ sức răn đe.

4. Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật về tổ chức và hoạt

động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, cũng như quá trình thực hiện pháp luật

trong lĩnh vực này ở Việt Nam hiện nay, Luận văn đã đề xuất các định hướng

và giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ

xăng dầu. Theo đó, việc hoàn thiện pháp luật cần dựa trên các tiêu chí cơ bản

nhằm đảm bảo tính ổn định, hiệu quả và minh bạch của thị trường, tạo điều

kiện cho doanh nghiệp mọi thành phần kinh tế tham gia thị trường để bảo đảm

tính cạnh tranh và tăng nguồn cung xăng dầu, nâng cao hiệu quả quản lý giá

bán xăng dầu theo cơ chế giá thị trường, đồng thời, nâng cao vai trò, trách

nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh bán lẻ

xăng dầu ở nước ta hiện nay./.

85

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Nguyễn Thị Ánh (2015), Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

2.

Bộ Khoa học Công nghệ (2015), Thông tư số 15/2015/TT-BKHCN quy định về đo lường và chất lượng trong kinh doanh xăng dầu, Hà Nội.

3.

Bộ Tài chính (2017), Thông tư số 38/2014/TT-BCT sửa đổi tại Điều 1 Thông tư số 28/2017/TT-BCT, Hà Nội.

4.

Bộ trưởng Bộ Công thương (2013), Thông tư 11/2013/TT-BCT quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về yêu cầu thiết kế cửa hàng xăng dầu, Hà Nội.

5.

Chính phủ (2007), Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12/02/2007 quy định chi tiết Luật Thương mại, Hà Nội.

6.

Chính phủ (2014), Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ban hành ngày 03/09/2014 về kinh doanh xăng dầu, Hà Nội.

7.

Chính phủ (2018), Nghị định số 08/2018/NĐ-CP Sửa đổi một số Nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công Thương, Hà Nội.

8.

Nguyễn Duyên Cường (2011), Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sỹ kinh tế.

9.

Nguyễn Thế Cường (2016), Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

10. Cảnh Chí Hùng (2014), Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.

11. Ngô Thị Liên (2018), Thực hiện pháp luật về kinh doanh xăng dầu trên địa bàn tỉnh Lai Châu, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.

86

12. Petrolimex (2018), Báo cáo thường niên.

13. Petrolimex (2019), Báo cáo thường niên.

14. Quốc hội (1990), Luật Công ty, Hà Nội.

15. Quốc hội (1999), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.

16. Quốc hội (2005), Luật Thương mại, Hà Nội.

17. Quốc hội (2014), Luật Bảo vệ môi trường, Hà Nội.

18. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.

19. Tổng công ty Dầu Việt Nam (PV Oil) (2019), Báo cáo thường niên.

20. Bùi Thị Hồng Việt (2012), Chính sách quản lý nhà nước đối với kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân.

II. Tài liệu Website

21. Ngọc An (2018), “Đua mở chuỗi bán lẻ xăng dầu”, Báo tuổi trẻ,

https://tuoitre.vn/dua-mo-chuoi-ban-le-xang-dau- 20181216215611874.htm.

22. Ngọc An, Lê Thanh (2017), “Người Nhật đã vào bán xăng, hãy cạnh tranh thật sự”, Báo tuổi trẻ, https://tuoitre.vn/nguoi-nhat-da-vao-ban- xang-hay-canh-tranh-that-su-20171011075931613.htm.

23. Thanh Anh (2020), “PVOIL: Nỗ lực để khẳng định vị thế”, Báo chính http://baochinhphu.vn/Doanh-nghiep/PVOIL-No-luc-de-khang-

phủ, dinh-vi-the/385350.vgp.

24. Tùng Dương (2019), “Bất cập trong quản lý kinh doanh xăng dầu”, Petrolimex Times, https://baomoi.com/bat-cap-trong-quan-ly-kinh- doanh-xang-dau-ky-1/c/32753756.epi.

25. Lưu Bích Hồ (2017), 4 điểm khác biệt của cây xăng Nhật Bản có Tổng giám đốc cúi gập người chào khách, https://soha.vn/4-diem-khac-biet- cua-cay-xang-nhat-ban-co-tong-giam-doc-cui-gap-nguoi-chao-khach- 20171011152856516.htm.

87

26. Hà Phương (2019), “PV Oil chật vật mở rộng thị phần”, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp, https://enternews.vn/pv-oil-chat-vat-mo-rong-thi- phan-156099.html.

27. Trung Tân (2020), “Truy tố 39 người trong đường dây sản xuất xăng giả 2.500 tỉ”, Báo tuổi trẻ, https://tuoitre.vn/truy-to-39-nguoi-trong- duong-day-san-xuat-xang-gia-2500-ti-20200806191509809.htm.

28. Quang Thắng (2017), “Hà Nội: Có một trạm xăng ngoại trong KCN Thăng Long”, Danviet.vn, https://danviet.vn/ha-noi-co-mot-tram-xang- ngoai-trong-kcn-thang-long-7777811067.htm.

29. Vietnam Finance (2018), Cổ phần hóa PVOil: Ai sẽ trở thành cổ đông chiến lược?, https://www.bvsc.com.vn/NewsTools/Print.aspx?newsid=555427.

30. https://www.ssi.com.vn/khach-hang-ca-nhan/tin-kinh-te/tin-tuc/1857125

88