ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
BẠCH MINH THẮNG
Tæ CHøC Vµ HO¹T §éNG KINH DOANH B¸N LÎ X¡NG DÇU
THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
BẠCH MINH THẮNG
Tæ CHøC Vµ HO¹T §éNG KINH DOANH B¸N LÎ X¡NG DÇU
THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8380101.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG VŨ HUÂN
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Bạch Minh Thắng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BÁN LẺ XĂNG DẦU TẠI
VIỆT NAM ..................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động kinh doanh bán lẻ
xăng dầu .............................................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ............................... 7
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ........................ 10
1.2. Mô hình tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
theo pháp luật Việt Nam .................................................................. 13
1.2.1. Tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ............................ 13
1.2.2. Mô hình kinh doanh bán lẻ xăng dầu ................................................. 15
1.3. Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán lẻ xăng dầu .................. 21
1.3.1. Cấp phép cho hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ........................ 22
1.3.2. Quản lý về đo lường, chất lượng trong kinh doanh xăng dầu ............ 24
1.3.3. Quản lý giá bán xăng dầu, công khai, minh bạch trong điều hành
giá và kinh doanh xăng dầu ................................................................ 28
1.3.4. Áp dụng các biện pháp an toàn và bảo vệ môi trường của các cơ
sở kinh doanh bán lẻ xăng dầu ........................................................... 30
Tiểu kết Chương 1 ......................................................................................... 33
Chương 2: THỰC TIỄN THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BÁN LẺ XĂNG DẦU Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................... 34
2.1. Thực trạng tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
ở Việt Nam hiện nay ......................................................................... 34
2.1.1. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam .... 34
2.1.2. Những kết quả đạt được trong tổ chức và hoạt động kinh doanh
bán lẻ xăng dầu ................................................................................... 38
2.1.3. Những hạn chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động kinh doanh bán
lẻ xăng dầu và những nguyên nhân ..................................................... 43
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh
bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam hiện nay ............................................. 48
2.2.1. Những ưu điểm trong quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh
doanh bán lẻ xăng dầu ........................................................................ 48
2.2.2. Những điểm bất cập, hạn chế trong quản lý nhà nước đối với
hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ............................................... 51
2.2.3. Những nguyên nhân từ thực trạng hạn chế, bất cập ........................... 53
2.3. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về tổ chức và hoạt
động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ................................................... 54
2.3.1. Những ưu điểm của quy định pháp luật Việt Nam về tổ chức và
hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ............................................... 54
2.3.2. Những hạn chế và bất cập còn tồn tại trong quy định pháp luật
Việt Nam về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ....... 55
Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................... 59
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC, HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH BÁN LẺ XĂNG DẦU Ở VIỆT NAM ........ 60
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam ........................................ 60
3.1.1. Những tiêu chí cơ bản để hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt
động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ....................................................... 60
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo tính ổn định, hiệu quả và
minh bạch của thị trường kinh doanh bán lẻ xăng dầu ...................... 66
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp mọi
thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng
dầu để bảo đảm tính cạnh tranh và tăng nguồn cung xăng dầu ......... 68
3.1.4. Hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả quản lý giá bán
xăng dầu theo cơ chế giá thị trường, phù hợp với hội nhập kinh
tế quốc tế ............................................................................................ 69
3.1.5. Hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của các
cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ........ 70
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
ở Việt Nam ......................................................................................... 71
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt
động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ....................................................... 71
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về tổ chức và
hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ............................................... 80
Tiểu kết Chương 3 ......................................................................................... 83
KẾT LUẬN .................................................................................................... 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 86
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt Nguyên nghĩa
CTCP Công ty cổ phần
DN Doanh nghiệp
POS Thiết bị bán hàng
PV Oil Tổng công ty Dầu Việt Nam
TNHH MTV Trách nhiệm hữu hạn một thành viên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Xăng dầu là nguồn năng lượng quan trọng để phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia, đặc biệt với những nước có nền công nghiệp phát triển và đang phát
triển như nước ta. Mặt hàng xăng dầu thực sự thiết yếu đối với hoạt động sản
xuất, đời sống dân sinh, an ninh quốc phòng và là một trong những nhân tố
đảm bảo an ninh năng lượng của đất nước mà trong thời gian dài chưa thể
thay thế. Thực tế trong nhiều năm qua, hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
chưa bao giờ “bớt nóng” trên báo chí vì là hoạt động kinh tế có tính nhạy cảm
cao, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh năng lượng, đời sống dân sinh, sự ổn
định cũng như tốc độ phát triển kinh tế của đất nước.
Xăng dầu là loại hàng hóa đặc biệt, nó có những tiêu chuẩn về kỹ thuật
rất khắt khe và có nhiều vấn đề phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động
kinh doanh. Kinh doanh mặt hàng xăng dầu thuộc diện kinh doanh có điều
kiện, muốn kinh doanh mặt hàng này, theo quy định của pháp luật, thương
nhân phải đạt các điều kiện về chủ thể kinh doanh, về cơ sở vật chất kỹ thuật
và trang thiết bị; về bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ; về trình độ
chuyên môn và sức khỏe của cán bộ, nhân viên... Hiện nay, cả nước có 33
thương nhân đầu mối xuất, nhập khẩu xăng dầu được phân giao hạn mức nhập
khẩu xăng dầu hằng năm, pha chế xăng dầu, mua bán xăng dầu, nguyên liệu
với các thương nhân đầu mối khác. Các đầu mối này được phân phối xăng
dầu qua hệ thống bán lẻ trực thuộc và bán qua các thương nhân phân phối,
tổng đại lý, đại lý, thương nhân nhượng quyền bán lẻ xăng dầu. Hệ thống các
tổng đại lý, đại lý bán lẻ xăng dầu, theo quy định hiện hành, mỗi hệ thống chỉ
được quyền nhập xăng dầu từ một thương nhân đầu mối/phân phối.
Quy định hiện hành cũng buộc các thương nhân đầu mối/phân phối,
1
tổng đại lý, đại lý phải kiểm soát chặt chẽ hệ thống bán lẻ của mình, chịu
trách nhiệm liên đới khi các cửa hàng bán lẻ có các hành vi vi phạm. Thực tế,
cả nước có khoảng 13.000 cửa hàng bán lẻ xăng dầu, trong đó, các cửa hàng
thuộc hệ thống của 13 doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu xăng dầu có trên
3.000 (chiếm 25 - 30%), số còn lại là các cửa hàng của đại lý, tổng đại lý,
nhượng quyền [24]. Theo quy định hiện hành, đại lý bán lẻ xăng dầu chỉ được
ký hợp đồng làm đại lý cho một tổng đại lý hoặc một thương nhân đầu
mối/phân phối xăng dầu. Nếu tổng đại lý hoặc thương nhân đầu mối/phân
phối xăng dầu đó không kinh doanh nhiên liệu sinh học, thì đại lý được ký
thêm hợp đồng làm đại lý cho một pháp nhân khác để kinh doanh nhiên liệu
sinh học. Việc kiểm soát nguồn xăng dầu thông qua hóa đơn xuất, nhập.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc kiểm soát khối lượng xăng dầu đầu vào,
đầu ra theo hóa đơn đối với đại lý bán lẻ xăng dầu chưa chặt chẽ, đặc biệt là
việc bán lẻ xăng dầu không xuất hóa đơn vẫn còn tràn lan, nên đại lý xăng
dầu rất dễ “hợp thức hóa” khi mua xăng dầu trôi nổi trên thị trường, xăng
dầu giả để pha trộn với xăng dầu nhập chính thức từ thương nhân đầu
mối/phân phối, tổng đại lý… rồi ung dung bán cho người tiêu dùng để trục
lợi. Trước khi lực lượng công an phá vụ án Trịnh Sướng và đồng bọn sản
xuất, tiêu thụ xăng giả, trong thực tế, xăng rởm, xăng kém chất lượng đã
xuất hiện trên thị trường nước ta từ lâu. Việc quản lý chất lượng xăng dầu
còn tồn tại nhiều kẽ hở, chế tài xử lý vi phạm còn nhẹ, công tác kiểm tra,
kiểm soát hoạt động kinh doanh xăng dầu vẫn còn nhiều bất cập, chồng chéo,
hiệu quả không cao [24]. Hiện nay, có rất nhiều cơ quan có thể kiểm tra, kiểm
soát kinh doanh xăng dầu như: Quản lý thị trường, Sở Khoa học và Công
nghệ, Công an… Chính vì vậy, khi phát hiện vụ sản xuất xăng giả quy mô lớn
của Trịnh Sướng và đồng bọn, nhiều ý kiến cho rằng, các cơ quan chức năng
không làm tròn nhiệm vụ vì… sợ giẫm chân lên nhau.
2
Có thể nói, pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng
dầu ở Việt Nam hiện nay đang có rất nhiều hạn chế, bất cập. Vì vậy, việc
nghiên cứu một cách toàn diện và có chiều sâu về tổ chức và hoạt động kinh
doanh bán lẻ xăng dầu theo pháp luật Việt Nam hiện nay trong bối cảnh nước
ta đang triển khai những chính sách “cởi mở” hơn bằng việc cho nhà đầu tư
nước ngoài tham gia cùng với rất nhiều biến động lớn về thị trường kinh
doanh bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam là vấn đề có tính cấp thiết.
Với các lý do được phân tích ở trên, nên tác giả đã lựa chọn đề tài “Tổ
chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu theo pháp luật Việt Nam”
để nghiên cứu và làm Luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Tình hình nghiên cứu liên quan đến hoạt động kinh doanh xăng dầu
trong những năm trước đây đã có một số công trình nghiên cứu như:
- Luận án Tiến sỹ kinh tế của tác giả Nguyễn Duyên Cường (2011) với
đề tài “Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” [8];
- Luận án Tiến sỹ kinh tế của tác giả Bùi Thị Hồng Việt (2012) với đề tài
“Chính sách quản lý nhà nước đối với kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam” [20];
- Luận văn Thạc sỹ kinh tế của tác giả Cảnh Chí Hùng (2014) với đề tài
“Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc” [10];
- Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Ánh (2015) “Kiểm
soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực kinh doanh
xăng dầu”, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội [1];
- Luận văn Thạc sĩ luật học của Nguyễn Thế Cường (2016) với đề tài
“Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Việt
Nam hiện nay”, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội [9];
3
- Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Ngô Thị Liên (2018) với đề tài
“Thực hiện pháp luật về kinh doanh xăng dầu trên địa bàn tỉnh Lai Châu”,
Khoa Luật – Đại học Quốc gia [11];
Mặc dù được tiếp cận dưới nhiều giác độ khác nhau như quản lý kinh tế
hay dưới giác độ luật học, nhưng thực tế, các công trình nghiên cứu chủ yếu
phân tích hoạt động kinh doanh xăng dầu nói chung, các hành vi gây hạn chế
cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu hoặc luận bàn về quản lý nhà
nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu… mà chưa có công trình nào đi
sâu nghiên cứu về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu theo pháp
luật Việt Nam. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đây sẽ là tư liệu quý
giá để học viên tham khảo và kế thừa trong quá trình nghiên cứu và hoàn
thiện luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là khái quát, phân tích để làm sáng
tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh
doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam hiện nay, từ đó, đề xuất các giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về tổ chức
và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, luận văn xác định các nhiệm
vụ chủ yếu sau đây:
- Khái quát, phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về tổ
chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực thi pháp luật về tổ chức và hoạt
động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra các mặt ưu
điểm, hạn chế và nguyên nhân.
4
- Đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu tại Việt
Nam trong giai đoạn tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn,
hệ thống các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ
xăng dầu và thực tiễn thực hiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung và không gian, phạm vi nghiên cứu của luận văn là các quy
định liên quan đến tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu theo quy
định pháp luật tại Việt Nam, từ đó, phân tích thực tế việc thực thi và tác động
của các quy định pháp luật tới việc tổ chức hoạt động và kinh doanh bán lẻ
xăng dầu ở Việt Nam hiện nay.
Về thời gian, Luận văn nghiên cứu tổ chức và hoạt động kinh doanh
bán lẻ xăng dầu kể từ khi Nghị định số 83/2014/NĐ-CP về kinh doanh xăng
dầu có hiệu lực từ ngày 01/11/2014 cho đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra, trong quá trình nghiên
cứu, luận văn đã sử dụng phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách của Nhà nước ta về xây
dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, một số phương pháp nghiên cứu cơ bản, chủ yếu được sử
dụng như: Phương pháp tổng hợp, phân tích và diễn giải; phương pháp thống
kê, hệ thống hóa tài liệu; phương pháp so sánh và đánh giá; phương pháp quy
nạp và diễn dịch...
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, việc nghiên cứu đề tài luận văn góp phần làm rõ cơ sở
lý luận pháp luật về tổ chức, điều kiện và quy trình hoạt động kinh doanh bán
lẻ xăng dầu tại pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng pháp
luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam, chỉ ra
những hạn chế, bất cập và nguyên nhân trong quá trình thực thi pháp luật Việt
Nam về vấn đề này, từ đó, đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp
luật cũng như nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu nghiên cứu
có giá trị cho các cơ quan xây dựng và thực thi pháp luật trong lĩnh vực kinh
doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam, là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên
cứu và giảng dạy tại các cơ sở đào tạo về kinh tế và luật học ở Việt Nam.
7. Kết cấu luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về tổ chức và
hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn thực thi pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh
doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật về tổ chức, hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH BÁN LẺ XĂNG DẦU TẠI VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
1.1.1. Khái niệm hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
1.1.1.1. Khái niệm xăng dầu
Xăng dầu là sản phẩm của quy trình lọc dầu mỏ, là hỗn hợp chất lỏng
dễ cháy của hydrocacbon, chủ yếu là hexan, heptan và chỉ số octan, thu được
từ dầu mỏ và sử dụng như một dung môi và nhiên liệu cho động cơ đốt trong.
Theo Nghị định 83/2014/NĐ-CP ngày 03/09/2014 của Chính phủ, thì:
Xăng dầu là tên chung để chỉ các sản phẩm của quá trình lọc dầu
thô, dùng làm nhiên liệu, bao gồm: Xăng động cơ, dầu điêzen, dầu
hỏa, dầu ma dút, nhiên liệu bay; nhiên liệu sinh học và các sản
phẩm khác dùng làm nhiên liệu động cơ, không bao gồm các loại
khí hóa lỏng và khí nén thiên nhiên [6].
Xăng dầu có các đặc điểm cơ bản sau đây: (i) Là một loại chất lỏng,
nguy cơ gây cháy nổ cao, dễ bắt lửa, chỉ va chạm mạnh cũng có khả năng gây
cháy nổ. Khi cháy chúng phát sáng, thể tích tăng đột ngột và sinh nhiệt; (ii)
Xăng dầu là một loại sản phẩm dễ hao hụt trong quá trình vận chuyển, lưu
kho và kinh doanh do khả năng bốc hơi rất mạnh; (iii) Xăng dầu là loại sản
phẩm độc hại. Quá trình khai thác, chế biến cũng như vận chuyển, phân phối,
bảo quản có thể gây rò rỉ hoặc tai nạn, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người
và môi trường: (iv) Xăng dầu là nguồn nhiên liệu của nhiều ngành kinh tế, là
đầu vào không thể thiếu của nhiều ngành kinh tế. Do đó, khi lượng xăng dầu
không đáp ứng đủ nhu cầu sẽ làm cho quy mô các hoạt động kinh tế giảm sút.
7
Khi giá xăng dầu tăng cao, chi phí sản xuất các mặt hàng xăng dầu như yếu tố
đầu vào tăng lên [6].
1.1.1.2. Khái niệm hoạt động kinh doanh xăng dầu
Kinh doanh là một thuật ngữ được sử dụng rất phổ biến trong đời sống
kinh tế của nước ta cũng như các nước trên thế giới, trên thực tế khái niệm
kinh doanh có nhiều cách hiểu. Theo cách hiểu thông thường, kinh doanh
được hiểu là các hoạt động nhằm tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc mua, bán
hàng hóa. Theo cách hiểu này thì kinh doanh đồng nhất với khái niệm thương
mại được nêu trong Luật Thương mại Việt Nam.
Khái niệm “kinh doanh” chính thức được pháp luật Việt Nam ghi nhận
từ năm 1990 khi Quốc hội ban hành hai bộ luật rất quan trọng, đó là Luật
Công ty năm 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990. Đến năm 1999,
khái niệm kinh doanh một lần nữa được nhắc lại trong Luật Doanh nghiệp
như sau: “Kinh doanh được hiểu là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các
công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung
ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” [15].
Theo đó, kinh doanh bao hàm cả các hoạt động mua bán trao đổi hàng
hóa, các hoạt động sản xuất, gia công, đầu tư hay các hoạt động khác nhằm
mục đích sinh lợi. Cách hiểu này về kinh doanh khá tương đồng với khái
niệm thương mại được nêu ra trong Luật Thương mại sửa đổi năm 2005.
Theo Luật Thương mại 2005, “hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục tiêu sinh lợi khác” [16], đây cũng là
cách hiểu phổ biến về thương mại trên thế giới. Như vậy, hiện nay khái niệm
kinh doanh được hiểu như là thương mại theo nghĩa rộng. Kinh doanh là thuật
ngữ được sử dụng rất phổ biến trong đời sống kinh tế của nước ta cũng như
các nước trên thế giới, trên thực tế khái niệm kinh doanh có nhiều cách hiểu.
8
Theo cách hiểu thông thường, kinh doanh được hiểu là các hoạt động nhằm
tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc mua, bán hàng hóa. Theo quy định tại Luật
Doanh nghiệp 2014 quy định: “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một
số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sanh lợi” [18].
Từ cách hiểu và định nghĩa “kinh doanh” theo Luật Thương mại và
Luật Doanh nghiệp, Nghị định số 83/2014/NĐ-CP, ngày 03/09/2014 của
Chính phủ quy định:
Kinh doanh xăng dầu bao gồm các hoạt động như: xuất khẩu (xăng
dầu, nguyên liệu sản xuất trong nước và xăng dầu, nguyên liệu có
nguồn gốc nhập khẩu), nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu,
gia công xuất khẩu xăng dầu, nguyên liệu; sản xuất và pha chế xăng
dầu; phân phối xăng dầu tại thị trường trong nước; dịch vụ cho thuê
kho, cảng, tiếp nhận, bảo quản và vận chuyển xăng dầu [6].
1.1.1.3. Khái niệm hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
Hoạt động kinh doanh bán lẻ là một nội dung và là một trong những
phương thức thực hiện dịch vụ phân phối được xem là đặc trưng nhất. Theo
cách hiểu chung nhất, dịch vụ bán lẻ hàng hóa là một hình thức phân phối hàng
hóa, mà theo đó, nhà phân phối bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng.
Theo khoản 8 Điều 3 Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12/02/2007
của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng
hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, thì “bán lẻ là hoạt động bán
hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng” [5].
Như vậy, tuy có nhiều định nghĩa bán lẻ theo nhiều cách khác nhau,
nhưng tất cả đều thể hiện một đặc điểm chung của bán lẻ đó là hoạt động dịch
vụ đưa hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuối cùng (tiêu dùng trong sản xuất
9
và tiêu dùng của cá nhân hay gia đình). Nói cách khác, bán lẻ gồm tất cả các
hoạt động liên quan đến việc bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng cuối
cùng để họ sử dụng vào mục đích cá nhân, không kinh doanh. Ở đây, người
tiêu dùng là người cuối cùng mua được hàng hóa đó và mua hàng hóa đó với
mục đích để tiêu dùng. Theo khái niệm này thì “bán lẻ” phải là hoạt động liên
quan đến bán hàng hóa trực tiếp và có đối tượng người mua là “người tiêu
dùng cuối cùng”.
Hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu là một hoạt động kinh tế có tính
nhạy cảm cao, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh năng lượng và sự ổn định
cũng như tốc độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam hiện nay,
kinh doanh bán lẻ xăng dầu được xếp là ngành kinh doanh có điều kiện và
được Nhà nước quản lý chặt chẽ, từ khâu nhập khẩu đến hình thành giá và
phân phối. Để quản lý hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, Nhà nước đưa
ra các cơ chế cụ thể, qua đó quy định trách nhiệm và cách thức phối hợp của
các đơn vị quản lý.
Bán lẻ hàng hóa là phương thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng
hoặc các tổ chức kinh tế hoặc các đơn vị kinh tế tập thể mua về để tiêu dùng
nội bộ. Xăng, dầu là loại hàng hóa đặc biệt, được các cá nhân người tiêu
dùng, các đơn vị, tổ chức kinh tế sử dụng nhằm thỏa mãn các nhu cầu tiêu
dùng của họ.
Tương tự hoạt động kinh doanh bán lẻ các loại hàng hóa khác, “kinh
doanh bán lẻ xăng dầu là hoạt động bán xăng dầu trực tiếp cho người tiêu
dùng (bao gồm các cá nhân, tổ chức, đơn vị kinh tế) để tiêu dùng nội bộ; kinh
doanh bán lẻ xăng dầu nhằm mục đích sinh lợi”.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
Xuất phát từ đặc điểm của mặt hàng kinh doanh là xăng dầu với những
đặc tính lý hóa riêng như đã đề cập ở trên, để được phép kinh doanh cơ sở
10
kinh doanh cần đảm bảo đạt được những điều kiện nhất định như: (i) Phải có
thiết bị và phương tiện chuyên dùng cho kinh doanh xăng dầu, công tác phòng
cháy, chữa cháy phải gắn liền với toàn bộ quá trình hoạt động kinh doanh, có
biện pháp hạn chế tối đa tác động đến môi trường…, tùy thuộc vào các hoạt
động cụ thể của kinh doanh xăng dầu. Hoạt động kinh doanh xăng dầu liên
quan trực tiếp đến cơ sở hạ tầng kinh tế.
Có thể nói, các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ kinh doanh xăng dầu
như hệ thống cảng biển, hệ thống vận tải, hệ thống kho chứa là bộ phận cấu
thành quan trọng của cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế. Các hệ thống
này càng phát triển thì không chỉ tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh xăng
dầu nói riêng mà còn tăng cường tiềm lực phát triển của nền kinh tế nói
chung. Xăng dầu là mặt hàng kinh doanh chịu ảnh hưởng mạnh của các quan
hệ kinh tế - chính trị quốc tế. Do vị trí và tầm quan trọng của xăng dầu, mỗi
quốc gia đều xây dựng chiến lược riêng về lĩnh vực này. Trên thực tế, quan hệ
ngoại giao song phương, chính sách phong tỏa, cấm vận của các nước lớn có
ảnh hưởng trực tiếp đến việc xuất nhập khẩu xăng dầu. Là mặt hàng chiến
lược, các quốc gia, đặc biệt là các nước có thế lực trong buôn bán quốc tế
luôn sử dụng xăng dầu như một con bài trong các quan hệ kinh tế - chính trị
quốc tế. Vì vậy, kinh doanh xăng dầu không chỉ đơn thuần là một hoạt động
kinh tế, mà còn chịu ảnh hưởng trực tiếp của tình hình chính trị quốc tế. Xăng
dầu là mặt hàng có tính nhạy cảm cao.
Như trên đã trình bày, xăng dầu là mặt hàng có ý nghĩa quan trọng ảnh
hưởng đến đời sống kinh tế, xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng, do đó,
kinh doanh xăng dầu là lĩnh vực nhạy cảm, một thay đổi nhỏ trong cung cầu
có thể có tác động lớn đến kinh tế xã hội đất nước.
Kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam có đặc điểm là kinh doanh hàng
hóa nhập khẩu. Việt Nam phải nhập khẩu phần lớn xăng dầu cho nhu cầu
11
trong nước nên chịu ảnh hưởng khá rõ từ những biến động của thị trường
xăng dầu thế giới. Mặc dù, Nhà máy lọc dầu Dung Quất đã đi vào hoạt động
từ năm 2009, nhưng Việt Nam hiện vẫn đang nhập khẩu một lượng lớn xăng
dầu cho tiêu dùng.
So với các đặc điểm của kinh doanh xăng dầu, thì kinh doanh bán lẻ
xăng dầu đơn giản hơn nhiều do tính chất đặc thù, phạm vi và mô hình của
hoạt động bán lẻ, cụ thể kinh doanh bán lẻ xăng dầu được tổ chức theo mô
hình bán lẻ trực tiếp tại các cửa hàng bán lẻ chuyên kinh doanh xăng dầu, là
cơ sở cuối cùng trong hệ thống tổ chức kinh doanh xăng dầu từ xuất nhập
khẩu, sản xuất trong nước đến người tiêu dùng, không bao gồm các hoạt động
xuất khẩu, tạm nhập tái xuất và các dịch vụ xăng dầu khác như dịch vụ thuê
kho cảng, tiếp nhận, bảo quản và vận chuyển xăng dầu. Với những đặc điểm
riêng có của xăng dầu nên xăng dầu là một mặt hàng kinh doanh có điều kiện.
Kinh doanh bán lẻ xăng dầu có một số đặc điểm cơ bản sau:
Về hoạt động, kinh doanh bán lẻ xăng dầu là việc thực hiện lưu chuyển
hàng hóa (xăng dầu) thông qua hoạt động mua - bán trực tiếp với người tiêu
dùng. Người mua xăng, dầu để tiêu dùng (không phải để sản xuất, kinh doanh),
thỏa mãn những nhu cầu của họ.
Về hàng hóa, xăng dầu là loại sản phẩm có hình thái vật chất mà doanh
nghiệp mua về để bán trực tiếp cho người tiêu dùng. Xăng dầu là mặt hàng
gây độc hại cho người bán và người tiêu dùng, dễ cháy, nổ, có ảnh hưởng
nhiều đến môi trường. Xăng dầu là mặt hàng đặc biệt, có tính chất quan trọng
chiến lược, ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc
phòng. Mặt hàng này được Nhà nước độc quyền quản lý nguồn nhập khẩu.
Về tổ chức kinh doanh, kinh doanh bán lẻ xăng dầu được tổ chức theo
mô hình bán lẻ trực tiếp tại các cửa hàng chuyên kinh doanh xăng, dầu. Cửa
hàng xăng dầu (là cơ sở cuối cùng trong hệ thống tổ chức kinh doanh xăng,
dầu từ nhập khẩu, sản xuất trong nước đến người tiêu dùng).
12
Về cơ sở kinh doanh, các cửa hàng bán lẻ xăng dầu được xây dựng cố
định, có đầy đủ trang thiết bị chuyên dùng và có điều kiện bảo đảm phòng
chống cháy, nổ, bảo vệ môi trường… Quy mô xây dựng, kỹ thuật xây dựng và
công nghệ của các cửa hàng xăng, dầu cũng như mật độ cửa hàng trên địa bàn
cung ứng có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của dịch vụ bán hàng.
Về hình thức bán lẻ, kinh doanh bán lẻ xăng dầu cũng áp dụng đầy đủ
các hình thức bán lẻ như các hình thức bán lẻ các hàng hóa khác.
1.2. Mô hình tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu theo
pháp luật Việt Nam
1.2.1. Tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
Tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu được hiểu là hệ
thống phân phối bán lẻ xăng dầu thông qua hệ thống phân phối chính là các
cửa hàng bán lẻ xăng dầu trực thuộc các thương nhân kinh doanh xăng dầu
theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ban hành ngày 03/09/2014 của Chính
phủ về kinh doanh xăng dầu (Nghị định số 83/2014/NĐ-CP) đã quy định cụ
thể các thương nhân kinh doanh xăng dầu bao gồm: Thương nhân kinh doanh
xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu; thương nhân sản xuất xăng dầu; thương nhân
phân phối xăng dầu; thương nhân làm tổng đại lý kinh doanh xăng dầu;
thương nhân làm đại lý bán lẻ xăng dầu; thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng
dầu; thương nhân kinh doanh dịch vụ xăng dầu [6].
Theo các quy định tại Nghị định số 83/2014/NĐ-CP, doanh nghiệp
kinh doanh bán lẻ xăng dầu phải là tổ chức kinh tế, đủ điều kiện, và đã đăng
ký kinh doanh bán lẻ xăng dầu theo pháp luật, thực hiện việc bán lẻ xăng dầu
tại cửa hàng bán lẻ xăng dầu của mình, cụ thể cửa hàng bán lẻ xăng dầu thuộc
sở hữu, đồng sở hữu của thương nhân là đại lý hoặc tổng đại lý hoặc thương
nhân nhận quyền bán lẻ xăng, dầu hoặc thương nhân phân phối xăng, dầu
13
hoặc thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu hoặc thương
nhân sản xuất xăng dầu có hệ thống phân phối theo quy định của pháp luật,
trong đó có trường hợp thương nhân sản xuất xăng dầu và thương nhân kinh
doanh dịch vụ xăng dầu thì chỉ quy định về việc thương nhân có quyền tổ chức
và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu nếu có nhu cầu và phải tuân thủ các
quy định tại Nghị định này về hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu [6].
Như vậy, với đặc thù của hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu tại Việt
Nam, các thương nhân phải tổ chức mô hình hoạt động theo hệ thống phân
phối xăng dầu bao gồm các cửa hàng bán lẻ thuộc sở hữu hoặc sở hữu và đồng
sở hữu của doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán
lẻ xăng dầu, tổng đại lý hoặc đại lý bán lẻ xăng dầu thuộc hệ thống phân phối
của doanh nghiệp, trong đó số lượng và điều kiện cụ thể của các cửa hàng bán
lẻ phụ thuộc vào loại hình của thương nhân kinh doanh xăng dầu.
Ngoài ra, các doanh nghiệp bán lẻ xăng dầu thường phải đảm bảo các
điều kiện chung sau về cửa hàng bán lẻ:
- Cửa hàng bán lẻ xăng dầu được thiết kế, xây dựng và có trang thiết bị
theo đúng các quy định hiện hành về quy chuẩn, tiêu chuẩn cửa hàng bán lẻ
xăng, dầu, an toàn phòng cháy chữa, bảo vệ môi trường của cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền.
- Cán bộ quản lý, nhân viên trực tiếp kinh doanh được đào tạo, huấn
luyện và có chứng chỉ đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ về phòng cháy chữa
cháy và bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật hiện hành.
Tại các cửa hàng bán lẻ, hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu thường
được thực hiện dưới các hình thức sau:
- Hình thức bán hàng thu tiền trực tiếp: Nhân viên bán hàng trực tiếp
bán xăng dầu cho khách và thu tiền.
- Hình thức bán hàng thu tiền tập trung: Khách hàng mua xăng dầu và
14
nhận giấy thu tiền, hoá đơn của nhân viên bán hàng. Nhân viên bán hàng căn
cứ vào hoá đơn, tích kê để kiểm kê số hàng bán ra trong ngày và thu tiền.
- Hình thức bán hàng trả góp: khách hàng mua xăng dầu trả tiền mua
hàng thành nhiều lần. Doanh nghiệp thương mại ngoài số tiền thu theo hoá
đơn giá bán hàng hoá còn thu thêm khoản tiền lãi trả chậm của khách.
- Hình thức bán hàng tự động: Hình thức này không cần nhân viên
bán hàng đứng quầy giao hàng và nhận tiền tiền của khách. Khách hàng tự
động nhét thẻ tín dụng của mình vào máy bán hàng và nhận hàng. Hình
thức này chưa phổ biến rộng rãi ở nước ta nhưng ở ngành xăng dầu đã bắt
đầu áp dụng bằng việc tạo ra một số cây xăng bán hàng tự động ở các trung
tâm thành phố lớn.
1.2.2. Mô hình kinh doanh bán lẻ xăng dầu
Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ngày 3/9/2014 của Chính phủ về kinh
doanh xăng dầu đã quy định rõ quản lý hệ thống kinh doanh xăng dầu theo
chuỗi từ thương nhân đầu mối, thương nhân phân phối xăng dầu tới tổng đại
lý, đại lý, thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng dầu và cửa hàng bán lẻ xăng
dầu, nhằm bảo đảm số lượng, chất lượng xăng dầu từ đầu nguồn tới khâu tiêu
dùng, xác định rõ và nâng cao trách nhiệm của thương nhân kinh doanh xăng
dầu đối với số lượng, chất lượng xăng dầu cung cấp trong hệ thống phân phối
của thương nhân [6].
1.2.2.1. Tổng đại lý kinh doanh xăng dầu
Mô hình tổ chức và hoạt động của tổng đại lý kinh doanh xăng dầu
được quy định tại khoản 13 Điều 3 Nghị định số 83/2014/NĐ-CP, cụ thể, tổng
đại lý kinh doanh xăng dầu là thương nhân làm đại lý kinh doanh xăng dầu,
ngoài việc tự tiêu thụ xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ xăng dầu của mình còn
phải tổ chức một hệ thống đại lý trực thuộc để bán xăng dầu cho bên giao đại
lý là thương nhân đầu mối để hưởng thù lao [6].
15
Để được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp giấy xác nhận
đủ điều kiện làm tổng đại lý kinh doanh xăng dầu thì thương nhân phải đáp
ứng đủ các điều kiện sau [6]:
- Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, trong giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh xăng dầu.
- Có kho, bể xăng dầu dung tích tối thiểu hai nghìn mét khối (2.000m3),
thuộc sở hữu doanh nghiệp hoặc đồng sở hữu hoặc thuê sử dụng của thương
nhân kinh doanh dịch vụ xăng dầu từ năm (05) năm trở lên.
- Có phương tiện vận tải xăng dầu thuộc sở hữu doanh nghiệp hoặc
đồng sở hữu hoặc thuê sử dụng của thương nhân kinh doanh dịch vụ xăng dầu
từ năm (05) năm trở lên.
- Có hệ thống phân phối xăng dầu, bao gồm tối thiểu năm (05) cửa
hàng bán lẻ thuộc sở hữu doanh nghiệp hoặc sở hữu và đồng sở hữu, tối thiểu
mười (10) cửa hàng thuộc các đại lý bán lẻ xăng dầu được cấp Giấy chứng
nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu theo quy định của pháp luật.
Hệ thống phân phối của tổng đại lý kinh doanh xăng dầu phải nằm
trong hệ thống phân phối của một thương nhân đầu mối và chịu sự kiểm soát
của thương nhân đó.
- Cán bộ quản lý, nhân viên trực tiếp kinh doanh phải được đào tạo,
huấn luyện và có chứng chỉ đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ về phòng cháy,
chữa cháy và bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật hiện hành.
Phạm vi hoạt động của tổng đại lý kinh doanh xăng dầu là tương đối
rộng, dưới các hình thức cụ thể như: là bên đại lý cho một thương nhân đầu
mối và được hưởng thù lao đại lý; bên giao đại lý cho đại lý bán lẻ xăng dầu
thuộc hệ thống phân phối của mình và trả thù lao đại lý cho các đại lý đó và
được bán lẻ xăng dầu tại cửa hàng bán lẻ xăng dầu của mình theo giá bán lẻ
do thương nhân đầu mối quy định.
16
Tuy nhiên, tổng đại lý kinh doanh xăng dầu chỉ được ký hợp đồng làm
tổng đại lý cho duy nhất một thương nhân đầu mối, không được ký thêm hợp
đồng làm đại lý cho tổng đại lý khác hoặc thương nhân đầu mối khác, trừ
trường hợp thương nhân đầu mối đó không kinh doanh nhiên liệu sinh học thì
được ký thêm hợp đồng làm tổng đại lý cho một thương nhân đầu mối khác
chỉ để kinh doanh nhiên liệu sinh học.
Đối với các đại lý trong hệ thống phân phối của mình, tổng đại lý kinh
doanh xăng dầu có nghĩa vụ phải kiểm tra, giám sát các hoạt động của các đại
lý đó, và phải chịu trách nhiệm liên đới đối với các hành vi vi phạm của đại lý
trong hoạt động kinh doanh xăng dầu theo quy định hiện hành của pháp luật.
1.2.2.2. Đại lý bán lẻ xăng dầu
Mô hình tổ chức và hoạt động của đại lý bán lẻ xăng dầu được quy định
tại khoản 14 Điều 3 Nghị định số 83/2014/NĐ-CP, cụ thể, đại lý bán lẻ xăng
dầu là thương nhân làm đại lý để thực hiện việc bán lẻ xăng dầu tại cửa hàng
bán lẻ xăng dầu của mình cho bên giao đại lý là thương nhân đầu mối hoặc
thương nhân phân phối xăng dầu hoặc tổng đại lý kinh doanh xăng dầu để
hưởng thù lao [6]. Để được Sở công thương cấp giấy xác nhận đủ điều kiện
làm đại lý bán lẻ xăng dầu thì thương nhân phải đáp ứng đủ các điều kiện sau:
- Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, trong giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh xăng dầu.
- Có cửa hàng bán lẻ xăng dầu thuộc sở hữu doanh nghiệp hoặc sở hữu
và đồng sở hữu được cấp giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng
dầu theo quy định pháp luật.
- Cán bộ quản lý, nhân viên trực tiếp kinh doanh phải được đào tạo,
huấn luyện và có chứng chỉ đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ về phòng cháy,
chữa cháy và bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật hiện hành.
Kinh doanh đại lý bán lẻ xăng dầu là ngành nghề kinh doanh có điều
17
kiện. Trong phạm vi hoạt động, đại lý bán lẻ xăng dầu thực hiện việc bán lẻ
xăng dầu tại cửa hàng bán lẻ xăng dầu của mình theo giá bán lẻ do thương
nhân đầu mối hoặc thương nhân phân phối xăng dầu quy định, theo các hình
thức là bên đại lý cho tổng đại lý hoặc thương nhân phân phối xăng dầu hoặc
thương nhân đầu mối và được hưởng thù lao đại lý. Tuy nhiên, mỗi đại lý bán
lẻ xăng dầu chỉ được ký hợp đồng làm đại lý bán lẻ xăng dầu cho một tổng
đại lý hoặc một thương nhân phân phối xăng dầu hoặc một thương nhân đầu
mối, không được ký thêm hợp đồng làm đại lý cho tổng đại lý hoặc thương
nhân phân phối xăng dầu hoặc thương nhân đầu mối khác.
Riêng trường hợp nếu tổng đại lý hoặc thương nhân phân phối xăng
dầu hoặc thương nhân đầu mối đó không kinh doanh nhiên liệu sinh học, đại
lý bán lẻ xăng dầu được ký thêm hợp đồng làm đại lý cho một tổng đại lý
hoặc một thương nhân phân phối xăng dầu hoặc một thương nhân đầu mối
khác chỉ để kinh doanh nhiên liệu sinh học.
Sau khi ký hợp đồng nêu trên thì đại lý bán lẻ xăng dầu phải phải
nằm trong hệ thống phân phối của tổng đại lý hoặc thương nhân phân phối
xăng dầu hoặc thương nhân đầu mối và chịu sự kiểm soát của thương nhân
đó, đồng thời phải tự chịu trách nhiệm về chất lượng, số lượng, giá xăng dầu
niêm yết, bán ra theo quy định.
1.2.2.3. Thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng dầu
Mô hình tổ chức và hoạt động của đại lý bán lẻ xăng dầu được quy định
tại khoản 15 Điều 3 Nghị định số 83/2014/NĐ-CP, cụ thể thương nhân nhận
quyền bán lẻ xăng dầu là thương nhân kinh doanh bán lẻ xăng dầu theo
phương thức nhượng quyền thương mại từ thương nhân đầu mối hoặc thương
nhân phân phối xăng dầu [6].
Thương nhân có đủ các điều kiện dưới đây được làm thương nhân nhận
quyền bán lẻ xăng dầu:
18
- Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, trong giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh xăng dầu.
- Có cửa hàng bán lẻ xăng dầu thuộc sở hữu doanh nghiệp hoặc sở hữu
và đồng sở hữu được cấp giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng
dầu theo quy định của pháp luật.
- Cán bộ quản lý, nhân viên trực tiếp kinh doanh phải được đào tạo,
huấn luyện và có chứng chỉ đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ về phòng cháy,
chữa cháy và bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật hiện hành.
Về phạm vi hoạt động của thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng dầu,
thương nhân được bán lẻ xăng dầu tại cửa hàng bán lẻ xăng dầu của mình
theo giá bán lẻ do thương nhân nhượng quyền là thương nhân đầu mối hoặc
thương nhân phân phối xăng dầu quy định. Thương nhân nhận quyền bán lẻ
xăng dầu chỉ được ký hợp đồng làm thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng dầu
cho một thương nhân đầu mối hoặc một thương nhân phân phối xăng dầu.
Thương nhân đã ký hợp đồng làm thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng
dầu không được ký thêm hợp đồng làm đại lý cho tổng đại lý hoặc thương
nhân phân phối xăng dầu, làm tổng đại lý hoặc đại lý cho thương nhân đầu
mối. Ngoài ra, thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng dầu phải nằm trong hệ
thống phân phối và chịu sự kiểm soát của thương nhân đầu mối hoặc thương
nhân phân phối xăng dầu.
Riêng đối với trường hợp thương nhân đầu mối hoặc thương nhân phân
phối không kinh doanh nhiên liệu sinh học, thì thương nhân nhận quyền bán
lẻ xăng dầu được ký thêm hợp đồng làm thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng
dầu cho một thương nhân phân phối hoặc một thương nhân đầu mối khác chỉ
để kinh doanh nhiên liệu sinh học.
Ngoài ra, thương nhân nhận đầu mối phải chịu trách nhiệm về chất
lượng, số lượng, giá xăng dầu niêm yết, bán ra theo quy định tại cửa hàng bán
lẻ xăng dầu thuộc sở hữu hoặc sở hữu và đồng sở hữu của doanh nghiệp mình.
19
1.2.2.4. Cửa hàng bán lẻ xăng dầu
Mô hình tổ chức và hoạt động của đại lý bán lẻ xăng dầu được quy định
tại Khoản 1 Điều 3 Thông tư 11/2013/TT-BCT quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về
yêu cầu thiết kế cửa hàng xăng dầu do Bộ trưởng Bộ Công thương ban hành,
cụ thể cửa hàng xăng dầu là công trình xây dựng chuyên kinh doanh bán lẻ
xăng dầu, các loại dầu mỡ nhờn, có thể kết hợp kinh doanh khí dầu mỏ hóa
lỏng đóng trong chai hoặc cung cấp dịch vụ tiện ích cho người và phương tiện
tham gia giao thông [4]. Cửa hàng xăng dầu có đủ các điều kiện dưới đây được
Sở Công thương cấp giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu:
- Thuộc sở hữu, đồng sở hữu của thương nhân là đại lý hoặc tổng đại lý
hoặc thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng dầu hoặc thương nhân phân phối
xăng dầu hoặc thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu hoặc
thương nhân sản xuất xăng dầu có hệ thống phân phối theo quy định tại Nghị
định này (thương nhân đề nghị cấp phải đứng tên tại giấy chứng nhận cửa
hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu).
- Được thiết kế, xây dựng và có trang thiết bị theo đúng các quy định hiện
hành về quy chuẩn, tiêu chuẩn cửa hàng bán lẻ xăng dầu, an toàn phòng cháy,
chữa cháy, bảo vệ môi trường của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
- Cán bộ quản lý, nhân viên trực tiếp kinh doanh phải được đào tạo,
huấn luyện và có chứng chỉ đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ về phòng cháy,
chữa cháy và bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật hiện hành.
Một điều kiện tiên quyết của cửa hàng bán lẻ xăng dầu đã từng được quy
định tại Nghị định 83/2014/NĐ-CP là địa điểm đặt cửa hàng phải phù hợp với
quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt [6], tuy nhiên điều kiện này đã
bị bãi bỏ bởi quy định tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 08/2018/NĐ-CP [7].
Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh xăng dầu đối với cửa
hàng bán lẻ xăng dầu như sau:
20
- Kiểm soát cửa hàng bán lẻ xăng dầu thuộc hệ thống phân phối của mình.
- Thông báo bằng văn bản về thời gian ngừng bán hàng gửi Sở Công
thương nơi cấp giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu cho
cửa hàng bán lẻ xăng dầu, trong đó ghi rõ lý do ngừng bán hàng.
- Niêm yết giá bán các loại xăng dầu và bán đúng giá niêm yết.
- Tại khu vực bán hàng, chỉ được treo biển hiệu của thương nhân cung cấp
xăng dầu cho cửa hàng là thương nhân đầu mối hoặc thương nhân phân phối
xăng dầu. Biển hiệu phải ghi đầy đủ các nội dung theo quy định của pháp luật.
- Ghi rõ thời gian bán hàng tại khu vực bán hàng, thuận tiện cho quan
sát của người mua hàng.
- Chỉ ngừng bán hàng sau khi được Sở Công thương chấp thuận bằng
văn bản.
- Chịu trách nhiệm về chất lượng, số lượng, giá xăng dầu niêm yết, bán
ra theo quy định.
- Trước ba mươi (30) ngày, trước khi ngừng lấy hàng của thương nhân
cung cấp cho cửa hàng bán lẻ xăng dầu, thương nhân sở hữu cửa hàng bán lẻ
xăng dầu phải báo cáo và đề nghị Sở Công thương điều chỉnh giấy chứng nhận
cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu đã cấp cho cửa hàng bán lẻ xăng dầu.
1.3. Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán lẻ xăng dầu
Xăng dầu là mặt hàng chiến lược có tầm quan trọng, có tác động mạnh
mẽ tới sự phát triển kinh tế và sự ổn định xã hội của Việt Nam. Xăng dầu là
yếu tố đầu vào quan trọng của sản xuất, đồng thời là loại năng lượng có hạn,
không thể tái sinh và hiện tại chưa thể thay thế được. Bên cạnh các hoạt động
kinh doanh phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, xăng dầu còn là mặt hàng dự
trữ chiến lược quốc gia. Trong điều kiện mới việc đảm bảo hiệu quả kinh
doanh, tự chủ của doanh nghiệp đồng thời phải đi liền với đảm bảo an ninh
năng lượng quốc gia. Khi tiến hành mở cửa thị trường xăng dầu theo xu
21
hướng hội nhập, vấn đề đặt ra là, làm thế nào để đảm bảo cho thị trường vận
động tự do theo quy luật cung cầu, tạo dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh
giữa các doanh nghiệp? Điều này đòi hỏi Nhà nước phải có những điều chỉnh,
đổi mới về cơ chế, chính sách phù hợp với những diễn biến phức tạp của thị
trường. Một mặt, phải đảm bảo lợi ích của các doanh nghiệp, lợi ích của
người tiêu dùng, mặt khác, phải đảm bảo dự trữ xăng dầu, đảm bảo an ninh
năng lượng quốc gia.
1.3.1. Cấp phép cho hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
Xăng dầu là hàng hóa đặc biệt, việc bảo quản, vận chuyển, mua bán
phải tuân theo những tiêu chuẩn kỹ thuật chặt chẽ, nên việc kinh doanh xăng
dầu phải tuân thủ những điều kiện nhất định, các doanh nghiệp kinh doanh
bán lẻ xăng dầu phải có những ràng buộc về năng lực, quy mô và trình độ tối
thiểu bắt buộc.
Hiện nay, ở Việt Nam, xăng dầu là mặt hàng kinh doanh có điều kiện,
các doanh nghiệp muốn kinh doanh trong lĩnh vực này phải đáp ứng được các
điều kiện quy định tại Nghị định số 83/2014/NĐ-CP của Chính phủ về kinh
doanh xăng dầu [6]. Tương ứng với các hoạt động kinh doanh sẽ là các loại
giấy phép khác nhau, mỗi loại giấy phép lại cần đáp ứng điều kiện kinh doanh
xăng dầu riêng theo khoản 1 Điều 6 Thông tư số 38/2014/TT-BCT sửa đổi
tại Điều 1 Thông tư số 28/2017/TT-BCT [3], cụ thể:
Việc cấp phép cho hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu được hiểu
là việc các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp các loại giấy xác
nhận, giấy chứng nhận đủ điều kiện đối với từng mô hình kinh doanh bán
lẻ xăng dầu, cụ thể ở Việt Nam thẩm quyền thuộc về Bộ Công thương và
Sở Công thương. Thương nhân có nhu cầu cấp mới, cấp bổ sung, sửa đổi
hoặc cấp lại giấy xác nhận đủ điều kiện làm tổng đại lý kinh doanh xăng
dầu; giấy xác nhận đủ điều kiện làm đại lý bán lẻ xăng dầu; giấy chứng
22
nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu, thương nhân gửi hồ sơ đăng
ký về Bộ Công Thương, Sở Công Thương qua đường công văn hoặc qua
mạng điện tử theo địa chỉ do Bộ Công Thương, Sở Công Thương thông báo
trên trang thông tin điện tử.
Trong đó, thẩm quyền cấp phép cho hoạt động bán lẻ xăng dầu được
quy định cụ thể đối với Bộ Công thương và Sở Công thương như sau:
- Bộ Công Thương có trách nhiệm xem xét, thẩm định, kiểm tra năng
lực thực tế và cấp giấy xác nhận đủ điều kiện làm tổng đại lý kinh doanh xăng
dầu (có hệ thống phân phối xăng dầu trên địa bàn hai tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương trở lên) cho thương nhân.
- Sở Công Thương có trách nhiệm xem xét, thẩm định, kiểm tra năng
lực thực tế và cấp giấy xác nhận đủ điều kiện làm tổng đại lý kinh doanh xăng
dầu (có hệ thống phân phối xăng dầu trên địa bàn một tỉnh thành phố trực
thuộc Trung ương); giấy xác nhận đủ điều kiện làm đại lý bán lẻ xăng dầu;
giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu.
Như vậy đối với các mô hình kinh doanh bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam,
Bộ Công thương chỉ cấp giấy xác nhận đủ điều kiện cho thương nhân xin cấp
phép làm Tổng đại lý kinh doanh xăng dầu có hệ thống phân phối xăng dầu
trên địa bàn hai tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương trở lên. Với các đề nghị
cấp giấy xác nhận đủ điều kiện làm tổng đại lý kinh doanh xăng dầu (có hệ
thống phân phối xăng dầu trên địa bàn một tỉnh thành phố trực thuộc Trung
ương), đại lý bán lẻ xăng dầu và giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán
lẻ xăng dầu cho thương nhân thuộc thẩm quyền của Sở Công thương.
Sau khi nhận bộ hồ sơ đăng ký của thương nhân, Bộ Công thương và
Sở công thương có trách nhiệm triển khai các công việc sau:
(i) Thẩm định, kiểm tra năng lực thực tế của thương nhân
- Đối với Bộ Công thương: Tùy từng trường hợp cụ thể, Bộ Công
23
Thương phối hợp hoặc ủy quyền cho Sở Công Thương nơi thương nhân đặt
trụ sở chính, Sở Công Thương nơi thương nhân có cơ sở kinh doanh xăng dầu
có trách nhiệm thẩm định, kiểm tra năng lực thực tế của thương nhân, lập
thành văn bản gửi về Bộ Công Thương xem xét cấp giấy xác nhận đủ điều
kiện làm tổng đại lý kinh doanh xăng dầu.
- Đối với Sở Công thương: Phải trực tiếp thực hiện việc xem xét, thẩm
định, kiểm tra năng lực thực tế của các thương nhân thuộc thẩm quyền của
Sở. Đối với công việc do Bộ Công thương ủy quyền hoặc đề nghị phối hợp,
Sở Công thương thực hiện công việc được ủy quyền, sau đó lập thành văn bản
gửi kết quả kiểm tra, thẩm định về Bộ Công Thương để xem xét cấp giấy xác
nhận đủ điều kiện làm tổng đại lý kinh doanh xăng dầu.
(ii) Cấp giấy xác nhận, giấy chứng nhận cho thương nhân đủ điều kiện:
- Đối với Bộ Công thương: Trong trường hợp kết quả kiểm tra thực tế
phù hợp với hồ sơ đề nghị của thương nhân, Bộ Công thương cấp giấy xác
nhận cho thương nhân đủ điều kiện làm tổng đại lý kinh doanh xăng dầu.
Trong trường hợp kết quả kiểm tra không đạt, Bộ Công thương thông
báo bằng văn bản nêu rõ lý do từ chối cấp giấy xác nhận cho thương nhân.
- Đối với Sở Công thương: Trong trường hợp kết quả kiểm tra thực tế
phù hợp với hồ sơ đề nghị của thương nhân, Sở Công Thương cấp giấy xác
nhận, Giấy chứng nhận cho thương nhân.
Trong trường hợp kết quả kiểm tra thực tế không phù hợp với hồ sơ đề
nghị của thương nhân, Sở Công Thương thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do
từ chối cấp giấy xác nhận, giấy chứng nhận cho thương nhân.
1.3.2. Quản lý về đo lường, chất lượng trong kinh doanh xăng dầu
Trong Thông tư số 38/2014/TT-BCT có quy định rõ về đo lường xăng
dầu, quy định về chất lượng của xăng dầu trong kinh doanh và trách nhiệm
của thương nhân kinh doanh bán lẻ xăng dầu và cơ quan nhà nước, tổ chức, cá
nhân liên quan [6].
24
Thương nhân kinh doanh bán lẻ xăng dầu phải thực hiện các yêu cầu về
quản lý đo lường, chất lượng xăng dầu theo quy định của pháp luật hiện hành
trong quá trình tồn trữ và bán cho người tiêu dùng; chịu trách nhiệm và liên
đới chịu trách nhiệm về đo lường, chất lượng xăng dầu trong hệ thống kinh
doanh bán lẻ xăng dầu của mình. Trên thực tế, hiện nay vẫn còn tồn tại các
hành vi gian lận trong kinh doanh bán lẻ xăng dầu hết sức phức tạp, có tính
phổ biến, thủ thuật tinh vi, đặc biệt là thủ thuật thay đổi phần mềm có sai số
lớn cài đặt lên bộ vi xử lý để gian lận đo lường.
Với việc triển khai việc cung cấp kết quả đo cho khách hàng khi có yêu
cầu sẽ giúp người tiêu dùng có chứng cứ để khiếu nại, tố cáo hành vi vi phạm
pháp luật đo lường, chất lượng trong trường hợp thương nhân bán lẻ xăng dầu
gây thiệt hại cho người tiêu dùng và cơ quan nhà nước có thẩm quyền có đủ
chứng cứ, tài liệu để xử lý khiếu nại, tố cáo, xác định thu lợi bất chính do vi
phạm về đo lường trong kinh doanh bán lẻ xăng dầu.
Bộ Khoa học Công nghệ đã ban Thông tư số 15/2015/TT-BKHCN quy
định về đo lường và chất lượng trong kinh doanh xăng dầu. Thông tư này quy
định về đo lường, chất lượng trong kinh doanh xăng dầu và trình tự, thủ tục
đăng ký cơ sở pha chế xăng dầu tại Việt Nam, áp dụng cho thương nhân kinh
doanh xăng dầu; cơ quan quản lý Nhà nước về đo lường, chất lượng và cơ
quan nhà nước, tổ chức, cá nhân khác có liên quan [2].
Trong Thông tư có quy định rõ về đo lường xăng dầu, quy định về chất
lượng của xăng dầu trong kinh doanh và trách nhiệm của thương nhân kinh
doanh xăng dầu và cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân liên quan. Bộ Khoa
học và Công nghệ có trách nhiệm chỉ đạo việc kiểm định các thiết bị đo lường
theo quy định hiện hành của pháp luật về đo lường và việc đảm bảo chất
lượng theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và Tiêu chuẩn công bố áp dụng; phối
hợp với các Bộ, ngành liên quan rà soát các tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ
25
thuật quốc gia về xăng dầu để điều chỉnh, bổ sung các chỉ tiêu chất lượng,
phương pháp thử phù hợp với tiêu chuẩn của các nước trong khu vực và quốc
tế; chỉ định tổ chức đánh giá sự phù hợp trong nước; tiến hành thừa nhận lẫn
nhau về kết quả đánh giá sự phù hợp của tổ chức đánh giá sự phù hợp nước
ngoài để bảo đảm đáp ứng yêu cầu kịp thời, nhanh chóng, chính xác và thuận
lợi cho công tác kiểm tra.
Việc kiểm tra chất lượng sản phẩm xăng dầu hiện do Tổng cục Tiêu
chuẩn Đo lường Chất lượng đảm nhiệm với các Trung tâm Kỹ thuật tiêu chuẩn
Đo lường chất lượng 1, 2, 3, 4 ở ba miền Bắc, Trung, Nam và vùng Tây Nguyên.
Các Trung tâm tiến hành kiểm tra sản phẩm xăng dầu nhập ngoại hoặc
pha chế, sản xuất trong nước. Các Sở Công thương hoặc Sở Khoa học và
Công nghệ ở các tỉnh có chức năng quản lý Nhà nước về chất lượng các sản
phẩm xăng dầu nhưng không có cơ sở vật chất chuyên dụng để kiểm tra chất
lượng xăng dầu.
Trên thực tế, Nhà nước đã từng bước tăng cường công tác quản lý chất
lượng xăng dầu trong lưu thông bằng nhiều biện pháp khác nhau theo hướng
nâng cao chất lượng đảm bảo an toàn môi trường được xã hội và người tiêu
dùng đánh giá cao như: chấm dứt sử dụng xăng pha chì và ban hành các văn
bản quy định về tiêu chuẩn chất lượng nhiên liệu Diezel. Những cơ sở pháp lý
này là tiền đề hết sức quan trọng để đảm bảo chất lượng hàng hóa xăng dầu.
Đội ngũ quản lý thị trường cũng đã được quan tâm, trở thành một lực
lượng chuyên trách, được tổ chức thành hệ thống từ trung ương đến các địa
phương. Ở Trung ương là Cục Quản lý thị trường trực thuộc Bộ Công
thương, ở các tỉnh thành là các Chi cục Quản lý thị trường. Cục Quản lý thị
trường là cơ quan giúp Bộ trưởng Bộ Công thương thực hiện chức năng
quản lý nhà nước và tổ chức chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát
thị trường, đấu tranh chống các vi phạm pháp luật trong hoạt động thương
26
mại ở thị trường trong nước. Các Chi cục Quản lý thị trường giúp Giám đốc
Sở Công thương thực hiện chức năng quản lý nhà nước và tổ chức thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát thị trường, đấu tranh chống các vi phạm pháp
luật trong kinh doanh thương mại trên địa bàn tỉnh, thành phố. Lực lượng
quản lý thị trường trong cả nước chủ trì và triển khai các hoạt động chống
buôn bán xăng dầu kém chất lượng, đong sai, đong thiếu xăng dầu, bán
không đúng giá niêm yết.
Như vậy, có thể thấy, công tác kiểm tra trong lĩnh vực xăng dầu đã góp
phần hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua việc tập trung bảo vệ
những hoạt động hợp pháp của doanh nghiệp và đấu tranh chống các vi phạm
pháp luật trong hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, góp phần tạo một môi
trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, bảo vệ người tiêu dùng. Bên cạnh
đó, công tác kiểm tra trong lĩnh vực kinh doanh bán lẻ xăng dầu, đặc biệt là
kiểm tra về đo lường và chất lượng sản phẩm sẽ đảm bảo tính hiệu quả của xã
hội và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Việc đảm bảo đo đúng, đủ sẽ giúp
cho người tiêu dùng tránh những thiệt thòi do sự gian lận trong đo lường của
các cửa hàng, đại lý thường rất hay xảy ra tại các cửa hàng có quy mô nhỏ và
các địa điểm xa trung tâm. Việc kiểm tra về chất lượng sẽ đảm bảo cho việc
vận hành tốt của máy móc, thiết bị sử dụng xăng dầu. Đây là một yếu tố cực
kỳ quan trọng vì nhiều máy móc, thiết bị sử dụng xăng dầu có chi phí đầu tư
rất lớn, nếu chất lượng xăng dầu không đảm bảo sẽ dẫn đến làm hỏng hóc
máy móc, thiết bị và gây thiệt hại lớn cho người tiêu dùng và xã hội.
Mặc dù đã có nhiều vụ việc được phát hiện và xử lý, nhưng dường như
vẫn chưa có tác dụng răn đe, tình trạng gian lận thương mại trong lĩnh vực
kinh doanh bán lẻ xăng dầu hiện vẫn diễn ra rất phổ biến và ngày càng tinh vi.
Việc gian lận thường diễn ra dưới hình thức gian lận về đo lường, về chất
lượng xăng dầu và đầu cơ khi có biến động giá lớn.
27
1.3.3. Quản lý giá bán xăng dầu, công khai, minh bạch trong điều
hành giá và kinh doanh xăng dầu
Do vai trò hết sức quan trọng của xăng dầu đối với đời sống kinh tế xã
hội và đặc điểm kinh doanh sản phẩm này mà Chính phủ nhiều nước đều can
thiệp vào giá cả xăng dầu bằng nhiều hình thức và biện pháp điều tiết, khống
chế khác nhau và Việt Nam cũng không là một ngoại lệ.
Trên thực tế, chính sách giá tối đa đã có tác động đến việc ổn định giá
xăng dầu trên thị trường nội địa. Mặc dù kinh doanh xăng dầu thời kỳ này
không còn mang tính độc quyền của một doanh nghiệp, nhưng việc kiểm soát
giá đối với mặt hàng này vẫn rất quan trọng do xăng dầu là sản phẩm chịu tác
động trực tiếp của thị trường thế giới, trong khi đó, khả năng cạnh tranh của
hàng hóa sản xuất trong nước chưa cao, nếu giá nhiên liệu không ổn định sẽ
gây hậu quả xấu đến giá bán các sản phẩm đầu ra của nhiều ngành nghề sử
dụng nhiên liệu xăng dầu.
Tại Điều 38, 39 Nghị định số 83/2014/NĐ-CP của Chính phủ đã quy
định cụ thể về quản lý giá bán xăng dầu, công khai, minh bạch trong điều
hành giá và kinh doanh xăng dầu [6]. Nghị định nêu rõ về các nguyên tắc
quản lý giá bán xăng dầu, bao gồm: Giá bán xăng dầu được thực hiện theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước; thời gian giữa hai lần điều chỉnh
giá liên tiếp tối thiểu là 15 ngày đối với trường hợp tăng giá, tối đa là 15 ngày
đối với trường hợp giảm giá. Khi các yếu tố cấu thành biến động làm cho giá
cơ sở giảm so với giá cơ sở liền kề trước đó, trong thời hạn quy định, thương
nhân đầu mối phải giảm giá bán lẻ tối thiểu tương ứng giá cơ sở tại thời điểm
thương nhân điều chỉnh giá; đồng thời gởi văn bản kê khai giá, quyết định
điều chỉnh giá đến cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền (Liên Bộ Công
thương và Tài chính) và chịu trách nhiệm trước pháp luật về mức giá được
điều chỉnh; không hạn chế mức giảm, khoảng thời gian giữa hai lần giảm và
số lần giảm giá.
28
Về việc điều chỉnh tăng giá bán lẻ xăng dầu, Nghị định cũng quy định
khá cụ thể. Trường hợp các yếu tố cấu thành biến động làm cho giá cơ sở tăng
trong phạm vi 3% so với giá cơ sở liền kề trước đó, thương nhân đầu mối
được tăng giá bán lẻ tương ứng giá cơ sở tại thời điểm thương nhân điều
chỉnh giá; đồng thời, gởi văn bản kê khai giá, quyết định điều chỉnh giá đến
cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền (Liên Bộ Công thương và Tài
chính) và chịu trách nhiệm trước pháp luật về mức giá được điều chỉnh.
Trường hợp các yếu tố cấu thành làm cho giá cơ sở tăng vượt 3% đến
7% so với giá cơ sở liền kề trước đó, thương nhân đầu mối gởi văn bản kê
khai giá, dự kiến mức điều chỉnh giá tới cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền (Liên Bộ Công thương - Tài chính). Trong thời hạn 3 ngày làm việc, cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phải có văn bản trả lời. Quá thời hạn
này, nếu cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền không có văn bản trả lời,
thương nhân đầu mối được quyền điều chỉnh giá bán lẻ tối đa tương ứng với
mức giá cơ sở tại thời điểm điều chỉnh nhưng không được vượt quá 7% so với
giá cơ sở liền kề trước đó. Trường hợp các yếu tố cấu thành biến động làm
cho giá cơ sở tăng trên 7% so với giá cơ sở liền kề trước đó hoặc việc tăng giá
ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân, Liên Bộ Công
thương - Tài chính báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, cho ý kiến về biện
pháp điều hành cụ thể.
Nghị định này cũng quy định về việc công khai, minh bạch trong điều
hành giá và kinh doanh xăng dầu. Theo đó, Bộ Công thương có trách nhiệm
công bố trên trang thông tin điện tử của mình về giá thế giới, giá cơ sở, giá
bán lẻ xăng dầu hiện hành; thời điểm sử dụng, số trích lập, số sử dụng và số
dư Quỹ bình ổn giá xăng dầu hàng quý; các biện pháp điều hành khác. Thương
nhân đầu mối có trách nhiệm công bố trên trang thông tin điện tử của thương
nhân hoặc trên phương tiện thông tin đại chúng về giá bán lẻ hiện hành, công
29
bố báo cáo tài chính trong năm tài chính khi đã được kiểm toán.
Nói tóm lại, doanh nghiệp chỉ được quyền quyết định giá trong một
phạm vi nhất định. Khi giá thị trường có thể tác động tới các chỉ tiêu kinh tế
xã hội, Chính phủ có quyền điều tiết việc tăng giảm giá của doanh nghiệp.
Chủ trương sử dụng Quỹ Bình ổn giá giúp doanh nghiệp được hưởng lợi,
được sử dụng tạo nguồn vốn lưu động mà không phải đi vay, không phải trả
lãi, Nhà nước có thêm công cụ để điều tiết giá, kiềm chế lạm phát ổn định an
sinh xã hội. Tuy nhiên việc điều hành trích lập, sử dụng Quỹ Bình ổn giá xăng
dầu còn nhiều bất cập. Quy định như vậy là tạo ra một quỹ ảo vì nếu doanh
nghiệp trích Quỹ Bình ổn giá tức là phải lấy vốn ra để trích lập Quỹ. Hơn thế
nữa, Quỹ Bình ổn giá cũng không tách được số lãi do số dư Quỹ chưa sử
dụng mang lại, hạn chế và tính minh bạch vì dễ bị doanh nghiệp lạm dụng vào
mục đích khác.
1.3.4. Áp dụng các biện pháp an toàn và bảo vệ môi trường của các
cơ sở kinh doanh bán lẻ xăng dầu
Xăng dầu là loại nhiên liệu thiết yếu đối với đời sống con người
trong suốt nhiều năm qua và tiếp tục đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong
tương lai. Tuy nhiên do đặc điểm lý hóa riêng nên việc sử dụng, vận
chuyển và bảo quản không hợp lý có thể sẽ có tác động gây ô nhiễm môi
trường. Xăng dầu là chất lỏng bay hơi ở bất cứ nhiệt độ nào, dễ bắt lửa và
cháy ở nhiệt độ bình thường. Khi hơi xăng dầu đạt đến một nồng độ nhất
định nó có thể gây cháy nổ, và khi cháy nổ xăng dầu tỏa ra nhiệt lượng lớn
hủy hoại môi trường xung quanh. Là chất lỏng dễ bay hơi nên xăng dầu dễ
phát tán vào khí quyển gây ngộ độc cho con người và sinh vật. Do các đặc
tính lý hóa của các sản phẩm xăng dầu nên hoạt động của ngành xăng dầu
(lưu chứa, vận chuyển) luôn chứa đựng nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.
Chính vì vậy, Nhà nước phải đưa ra chính sách bảo vệ môi trường, quy
30
định về bảo vệ môi trường và an toàn phòng chống cháy nổ đối với các
doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ xăng dầu.
Do nguy cơ cao về cháy nổ và khả năng ảnh hưởng lớn đến môi trường
khi kinh doanh và sử dụng xăng dầu nên Chính phủ đã có quy định về phòng
cháy, chữa cháy và bảo vệ môi trường tại Điều 6 Nghị định số 83/2014/NĐ-
CP, bao gồm: (i) Cơ sở kinh doanh xăng dầu phải bảo đảm các quy định của
pháp luật về phòng cháy, chữa cháy và bảo vệ môi trường trong quá trình hoạt
động kinh doanh xăng dầu; (ii) Thương nhân kinh doanh xăng dầu phải tổ
chức kiểm tra định kỳ sáu (06) tháng một lần các cơ sở kinh doanh xăng dầu
thuộc hệ thống bảo đảm tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành về
phòng cháy, chữa cháy, bảo vệ môi trường và quy chuẩn, tiêu chuẩn chất
lượng xăng dầu.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm phối hợp với Bộ Công an tổ
chức thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy, như: ban hành văn bản quy
phạm pháp luật và các quy định về phòng cháy, chữa cháy trong phạm vi
quản lý và thẩm quyền của mình; phối hợp với Bộ Công an tổ chức thực hiện
các quy định của pháp luật về phòng cháy, chữa cháy; tổ chức tuyên truyền,
giáo dục pháp luật, hướng dẫn kiến thức về phòng cháy, chữa cháy; chỉ đạo
xây dựng và duy trì phong trào quần chúng phòng cháy, chữa cháy; chỉ đạo
việc đầu tư kinh phí cho hoạt động phòng cháy, chữa cháy, trang bị phương
tiện phòng cháy, chữa cháy; chỉ đạo về tổ chức chữa cháy và khắc phục hậu
quả vụ cháy; bố trí lực lượng thực hiện nhiệm vụ phòng cháy, chữa cháy;
thống kê, báo cáo Chính phủ và Bộ Công an về phòng cháy, chữa cháy.
Bên cạnh đó, yêu cầu về nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường cũng cần được tuân thủ theo Điều 139 Luật Bảo vệ môi trường năm
2014, cụ thể:
31
Bộ Tài nguyên và Môi trường cần phối hợp với các Bộ, ngành liên
quan xây dựng, ban hành theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện các văn bản
quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật môi trường; xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính
sách, chương trình, đề án, quy hoạch, kế hoạch về bảo vệ môi trường; tổ chức,
xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc; định kỳ đánh giá hiện trạng môi trường,
dự báo diễn biến môi trường; xây dựng, thẩm định và phê duyệt quy hoạch
bảo vệ môi trường; thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược; thẩm
định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường và kiểm tra, xác nhận
các công trình bảo vệ môi trường; tổ chức xác nhận kế hoạch bảo vệ môi
trường; chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các hoạt động bảo tồn đa
dạng sinh học; quản lý chất thải; kiểm soát ô nhiễm; cải thiện và phục hồi môi
trường; cấp, gia hạn, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận về môi trường. Đặc
biệt là cần duy trì thường xuyên và có hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra
việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường; thanh tra trách nhiệm quản lý
nhà nước về bảo vệ môi trường; giải quyết khiếu nại, tố cáo về bảo vệ môi
trường; xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường [17].
32
Tiểu kết Chương 1
Trong nền kinh tế thị trường và hội nhập thế giới hiện nay, xăng dầu là
một loại nguyên liệu chưa thể thay thế vào có vai trò đặc biệt quan trọng.
Hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu là hoạt động kinh tế có ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Những quy định về tổ chức và
hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu theo pháp luật Việt Nam đã phần nào
phát huy vai trò và có tác động lớn trong việc góp phần cho sự phát triển kinh
tế - xã hội đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong Chương 1 của luận văn, học viên đã nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt
Nam. Các vấn đề được trình bày tại chương này là nền tảng cơ sở lý luận để
từ đó, phân tích thực tiễn thực thi pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh
doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam hiện nay trong Chương 2.
33
Chương 2
THỰC TIỄN THỰC THI PHÁP LUẬT
VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BÁN LẺ XĂNG DẦU
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở
Việt Nam hiện nay
2.1.1. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở
Việt Nam
Cùng với điện, nước, xăng dầu được coi là mặt hàng thiết yếu đối với
đời sống xã hội, có tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế. Đây cũng là
một trong những mặt hàng rất nhạy cảm trước những biến động về chính trị
và kinh tế trên thế giới.
Tại Việt Nam, mặt hàng này đang được Nhà nước quản lý nguồn nhập
khẩu, điều phối giá và dự trữ chiến lược. Trên thị trường, Tập đoàn Xăng dầu
Việt Nam (Petrolimex) và Tổng công ty Dầu Việt Nam (PV Oil) là hai đơn vị
kinh doanh và bán lẻ xăng dầu lớn nhất cả nước. Ngoài ra, đây cũng là hai
doanh nghiệp có số lượng điểm bán lẻ, cây xăng nhiều nhất.
Báo cáo thường niên của Petrolimex cho thấy, đến cuối năm 2018, Petrolimex
có gần 6.000 cửa hàng xăng dầu được trải dài khắp 63 tỉnh/thành phố trên cả
nước, chiếm 50% thị phần trong nước, trong đó, có hơn 2.500 cửa hàng thuộc sở
hữu trực tiếp của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) [12].
Tổng công ty Dầu Việt Nam (PV Oil) cũng có những chia sẻ về mục
tiêu xây dựng 1.000 cửa hàng kinh doanh xăng dầu trên toàn quốc, tăng 1,85
lần so với hiện nay của PV Oil. Từ thực tế này, ngay từ đầu năm 2019, PV Oil
đã tập trung vào mảng bán lẻ với 44 cửa hàng xăng dầu được mở mới và cải
tạo, với tổng giá trị đầu tư khoảng 195 tỷ đồng [17]. Nghị định số 08/2018-
34
NĐ-CP đã gỡ bỏ đáng kể những rào cản lớn đối với các doanh nghiệp muốn
tham gia thị trường phân phối xăng dầu như bỏ Quy hoạch phát triển hệ thống
kinh doanh xăng dầu, bỏ điều kiện sản xuất xăng dầu... tuy nhiên, đến nay,
thực tế thị trường phân phối và kinh doanh bán lẻ xăng dầu vẫn chỉ là “sân
chơi” của số ít “ông lớn”… [7].
Cụ thể là tính theo thị phần bán lẻ xăng dầu hiện nay, Tập đoàn Xăng
dầu Việt Nam (Petrolimex) có thị phần gần 50%, Tổng công ty Dầu Việt Nam
- CTCP (PV Oil) trên 20% [12]. Nếu tính thêm thị phần của một số doanh
nghiệp kinh doanh xăng dầu lâu năm như Công ty TNHH MTV Dầu khí TP
Hồ Chí Minh (Saigon Petro), Tổng công ty Xăng dầu Quân đội… khoảng 6 -
7% nữa, thị phần của hơn 20 thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu
xăng dầu chỉ còn hơn 20% (trừ 3 doanh nghiệp chỉ được kinh doanh nhiên
liệu máy bay).
Trên thực tế, PV Oil và các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ xăng dầu
khá yếu thế so với Petrolimex nên gặp không ít khó khăn trong việc mở rộng
thị phần. Tuy nhiên, Petrolimex bị ràng buộc bởi Luật Cạnh tranh nên không
thể gia tăng thị phần một cách thoải mái [26].
Bên cạnh các công ty trong nước và đơn vị kinh doanh nhượng quyền,
thị trường bán lẻ xăng dầu Việt Nam mới có sự tham gia của 1 đơn vị 100%
vốn nước ngoài, cụ thể là Idemitsu Q8 Petroleum LLC với trạm xăng nổi
tiếng qua sự việc Tổng giám đốc Idemitsu Q8 Petroleum kiên trì đứng dưới
mưa, cúi gập người chào khách đến đổ xăng dưới thời tiết mưa gió. Kể từ lần
đầu tiên khi xuất hiện tại Khu công nghiệp Thăng Long - Hà Nội vào ngày
5/10/2017, đến nay IQ8 đã mở được 4 cửa hàng xăng dầu [28].
Ngoài ra, IQ 8 đem đến những làn gió mới như các trạm dịch vụ bán lẻ
xăng dầu được xây dựng trên các hoạt động chuyên môn dựa trên kinh nghiệm
của Công ty về các trạm dịch vụ tại Nhật Bản và kinh nghiệm điều hành các
35
trạm dịch vụ ở Châu Âu, hệ thống phần mềm cho phép quản lý chính xác số
lượng nhiên liệu đến 0,01 lít, cung cấp báo cáo chi tiết các giao dịch cho
khách hàng, trang bị một hệ thống phần mềm quản lý trạm tự động cho phép
thanh toán bằng thẻ POS tại trạm xăng, cho phép người mua không cần trả
tiền mặt mà có thể thanh toán bằng thẻ ATM kèm theo nhiều tính năng ưu
việt mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng, được thiết kế và trang bị các
công nghệ mới nhất, bao gồm: Bể chứa nhiên liệu 2 lớp, hệ thống đường ống
dẫn bằng vật liệu tổng hợp nhằm ngăn chặn tối đa việc rò rỉ nhiên liệu gây tác
động môi trường. Đặc biệt và cũng gây chú ý nhất là thái độ tôn trọng, lịch sự
đối với khác hàng. Khi khách hàng vào đổ xăng, các nhân viên tại cây xăng
đều cúi gập người chào đón.
Biểu đồ 2.1: Thị phần bán lẻ xăng dầu của các đơn vị phân phối
Đáng chú ý, Idemitsu Kosan chính là cổ đông lớn sở hữu tới 35,1% vốn
tại Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn (Thanh Hóa), vì vậy, sản phẩm của Nhà
máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn sẽ được Idemitsu Q8 Petroleum LLC phân phối
chính thức [29].
36
Nhìn vào những thông tin trên, không quá khi cho rằng, sự xuất hiện
của nhân tố mới này đã khắc dấu ấn vào kỷ nguyên mới của Ngành Xăng dầu
Việt Nam, khi 2 đối tác trong Liên doanh là Kuwait Petroleum và Idemitsu
đều là 02 tên tuổi lớn đã gặt hái được nhiều thành công trong ngành kinh
doanh bán lẻ xăng dầu tại châu Âu, Nhật Bản và họ đã xuất hiện khi nhận
thấy cơ hội kinh doanh tại thị trường Việt Nam, từ đó, tác động trực tiếp đến
các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam, là động lực để
các doanh nghiệp hoàn thiện dịch vụ và mang lại nhiều tiện ích hơn cho khách
hàng, lên kế hoạch nâng cấp cơ sở hạ tầng, thiết bị công nghệ và ứng xử
thương mại tại các cửa hàng bán lẻ xăng dầu của mình để có thể cạnh tranh
với các doanh nghiệp đến từ nước ngoài như IQ8. Việc này dẫn đến một thị
trường bán lẻ xăng dầu sẽ ngày càng sôi động, phát triển, đi kèm với đó là
quyền lợi của người tiêu dùng sẽ ngày càng được nâng cao nhất là trong thời
điểm thị trường bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam vốn được đánh giá là “lắm
chuyện, ngoài giá cả vẫn còn tồn tại vấn đề gian lận, không minh bạch…” [25]
và đã xảy ra nhiều vụ việc liên quan đến thái độ, ứng xử trong bán hàng của
nhân viên tại các cửa hàng bán lẻ xăng dầu.
Bước vào thị trường xăng dầu khi nhiều ông lớn trong nước như Tập đoàn
Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex), Tổng công ty Dầu Việt Nam (PV Oil)...
chiếm thị phần lớn với các vị trí đắc địa trên thị trường, IQ8 lựa chọn các địa
điểm kinh doanh vùng ven nhưng có nhiều lợi thế là các khu công nghiệp, với
lượng khách hàng công nghiệp chiếm tỉ lệ lớn. Doanh nghiệp này đặt ra mục
tiêu năm 2020 sẽ mở thêm 10 cây xăng, tập trung ở miền Bắc.
Thị trường bán lẻ xăng dầu có quy mô 6 tỉ USD đã trở thành miếng
bánh hấp dẫn với nhà đầu tư ngoại. Bởi vậy, dù không mở cây xăng như IQ8,
không ít nhà đầu tư ngoại nhắm đến việc mua cổ phần của các doanh nghiệp
xăng dầu trên thị trường. Trong đó, JX Nippon Oil & Energy (JX) đã rót tiền
37
nắm giữ 8% cổ phần của “ông lớn” Petrolimex. Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam
(Petrolimex) hiện tiếp tục kiến nghị được nới room ngoại lên 49%.
2.1.2. Những kết quả đạt được trong tổ chức và hoạt động kinh doanh
bán lẻ xăng dầu
Thời gian vừa qua, hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam
đã có những bước phát triển đóng góp quan trọng trong việc đảm bảo nguồn
nhiên liệu phục vụ đời sống, sản xuất kinh doanh của nhân dân trong cả nước,
cũng như đóng góp vào sự phát triển kinh tế của các tỉnh, thành phố trong cả
nước. Thị trường bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam được đánh giá là một trong
những thị trường có tốc độ phát triển ấn tượng và hấp dẫn. Hệ thống cửa hàng
xăng dầu là một cơ sở hạ tầng rất quan trọng và không thể thiếu được của
tuyến đường để đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, các địa
phương đã tiến hành quy hoạch hệ thống cửa hàng xăng dầu trên toàn địa bàn.
Những ưu điểm, kết quả đạt được đối với tổ chức và hoạt động kinh
doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam thể hiện ở những mặt sau:
Thứ nhất, tổng doanh thu, sản lượng bán lẻ xăng dầu tăng
Hiện nay, không có thống kê cụ thể số liệu tổng doanh thu từ kinh
doanh bán lẻ xăng dầu trên toàn quốc, tuy nhiên có thể nhìn nhận qua thông
tin đăng tải công khai của một số doanh nghiệp lớn trong ngành.
Cụ thể, với trường hợp của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex)
là doanh nghiệp dẫn đầu về thị phần bán lẻ tại Việt Nam, trong Báo cáo thường
niên năm 2018 có nêu:
Sản lượng bán lẻ xăng dầu năm 2018 của Tập đoàn đạt xấp xỉ 5,3
triệu m3, tăng trên 5% (kế hoạch 4,6%) và chiếm 58% tổng sản lượng
xuất bán nội địa, phần lớn các đơn vị đều đạt tiến độ kế hoạch bán lẻ.
Nhìn nhận bán lẻ là phương thức kinh doanh mũi nhọn, từ năm
2018 bên cạnh phong trào thi đua trong hệ thống cửa hàng xăng dầu
38
trực thuộc để đánh giá, ghi nhận và vinh danh những cá nhân là cửa
hàng trưởng, nhân viên xuất sắc trong công tác bán lẻ (triển khai từ
năm 2016), Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) đã bước đầu
xây dựng và thống nhất với các đơn vị về hệ thống tiêu chí đánh giá
công tác phát triển bán lẻ, để lựa chọn và vinh danh các đơn vị xuất
sắc nhất tại Hội nghị tổng kết hàng năm [15].
Tương tự tại Báo cáo thường niên năm 2018 của Tổng công ty Dầu
Việt Nam (PV Oil) có nêu:
Kiên định mục tiêu phát triển bán lẻ, với việc ứng dụng công nghệ và
đa dạng hóa dịch vụ, sản lượng bán lẻ của Tổng công ty Dầu Việt
Nam (PV Oil) có bước tăng trưởng vượt bậc, tăng 9% về sản lượng
và tăng 2,4 điểm % về tỷ trọng (đạt 25,6%) so với cùng kỳ [19].
Không khả quan như Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) và
Tổng công ty Dầu Việt Nam (PV Oil), song Công ty Cổ phần Nhiên liệu Sài
Gòn cũng đã đạt được đủ sản lượng bán lẻ theo kế hoạch, cụ thể thông tin tại
Báo cáo thường niên của Công ty có nêu: “… Sản lượng bán lẻ 9 tháng năm
2019 đạt 63,295 triệu lít, đạt tương đương so với thực hiện cùng kỳ 2018…”.
Như vậy, có thể thấy, thị trường kinh doanh bán lẻ xăng dầu tại Việt
Nam mang dấu hiệu rất tích cực về doanh thu, sản lượng bán lẻ xăng dầu nói
chung có dấu hiệu tăng, đi kèm với đó là sự phát triển kinh tế của địa phương
và cả nước.
Thứ hai, phát triển về số lượng và chất lượng các cửa hàng bán lẻ
xăng dầu
Hiện nay, số liệu thống kê giữa các nguồn tuy không thống nhất, song
tất cả đều nhận định rằng, con số này là rất lớn và đang trên đà tăng trưởng
nhanh trong thời gian qua, đặc biệt từ giữa năm 2018 với sự phát triển của
hoạt động thương mại, quy hoạch tại các tỉnh, thành phố và đặc biệt có sự
39
xuất hiện dòng đầu tư nước ngoài vào thị trường bán lẻ xăng dầu và việc gia
nhập thị trường bán lẻ của một số doanh nghiệp lớn trong nước.
Số lượng cửa hàng xăng dầu hiện có về cơ bản đã được phát triển theo
quy hoạch của các tỉnh, thành phố và đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế
- xã hội của từng địa phương, cơ bản đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của các
khu vực dân sinh. Nhiều doanh nghiệp xăng dầu đầu mối lớn, trong đó có Tập
đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) và Tổng công ty Dầu Việt Nam (PV
Oil) tuyên bố sẵn sàng bước vào cạnh tranh trong lĩnh vực bán lẻ với các đại
gia bán lẻ lớn nhất hiện nay. Tổng số tiền đầu tư được các đại gia xăng dầu rót
vào cuộc đua lên tới hàng nghìn tỉ đồng.
Tại Đại hội cổ đông năm 2019 của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam
(Petrolimex), Phó Tổng giám đốc Phạm Quang Dũng đã có những chia sẻ về kế
hoạch tấn công thị trường bán lẻ khi trao đổi với Báo Tiền Phong, cụ thể sau
gần 20 năm liên tục duy trì đầu tư vào mạng lưới bán lẻ, đến nay Tập đoàn
Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) đã có gần 2.500 cửa hàng bán lẻ trên cả
nước với mạng lưới cửa hàng, chưa kể hệ thống đại lý, phủ khắp 63 tỉnh,
thành phố. Cụ thể, mỗi năm, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) đầu
tư khoảng 1.000 tỷ đồng để phát triển hệ thống bán lẻ, bám sát các dự án phát
triển đường cao tốc, trục lộ giao thông mới, có giá trị thương mại về lâu dài.
Với việc mở thêm khoảng 70 cửa hàng bán lẻ/năm, tính trung bình, cứ khoảng
5 ngày làm việc, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) sẽ có thêm một
cửa hàng xăng dầu mới với diện tích vài nghìn mét vuông nếu đặt ở trên
đường cao tốc hoặc diện tích vài trăm mét vuông nếu đặt trạm xăng ở khu vực
huyện, tỉnh. Trong Báo cáo thường niên năm 2019 của Tập đoàn Xăng dầu
Việt Nam (Petrolimex) cũng nêu rõ việc duy trì và mở rộng chuỗi cửa hàng và
thị phần trong ngành xăng dầu là một mục tiêu chiến lược được lãnh đạo Tập
đoàn đặt ra.
40
Thêm một ví dụ điển hình như theo phát biểu của ông Cao Hoài Dương,
Tổng Giám đốc Tổng Công ty Dầu Việt Nam - CTCP (PV Oil, UPCoM: OIL)
có kế hoạch đầu tư khoảng 7.000 tỷ đồng để mở rộng hoạt động bán lẻ trong 5
năm tới với mục tiêu mở thêm 1000 cây xăng trong 5 năm tới, đạt mục tiêu
chiếm 35% thị phần bán lẻ xăng dầu trong nước.
Như vậy, việc xây dựng và gia tăng số lượng cửa hàng xăng dầu bán lẻ
đều là mục tiêu trọng tâm trong kế hoạch phát triển của các doanh nghiệp
kinh doanh bán lẻ xăng dầu, qua đó dẫn đến một thị trường bán lẻ xăng dầu
sôi nổi, phát triển về số lượng, dẫn đến việc đáp ứng nhu cầu phát triển kinh
tế xã hội và dân sinh ngày một được đáp ứng tốt hơn.
Thứ ba, ứng dụng công nghệ thông tin vào kinh doanh bán lẻ xăng dầu
Các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ xăng dầu cũng đã ngày một hoàn
thiện, phát triển về công nghệ quản lý, bán hàng và thanh toán tại các cơ sở
kinh doanh của mình. Ví dụ điển hình như Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam
(Petrolimex) sau nhiều năm nghiên cứu xây dựng và nâng cấp đã hoàn thiện
được phần mềm quản lý cửa hàng xăng dầu EGAS (Enterprise Gas Station) là
giải pháp quản lý các cửa hàng bán lẻ xăng dầu, được xây dựng theo mô hình
tập trung dữ liệu, hoạt động trên môi trường internet, hỗ trợ người sử dụng
quản lý từ xa các cửa hàng xăng dầu. Phần mềm hỗ trợ việc bán lẻ xăng dầu
và các sản phẩm dịch vụ khác tại cửa hàng, quản lý ca bán hàng, tiền bán
hàng, công nợ, quá trình nhập/xuất/tồn kho hàng hóa và giá bán, chi phí bán
xăng dầu. Từ đó ngoài việc giúp doanh nghiệp có thể quản lý cụ thể số liệu
kinh doanh tại cửa hàng, còn đem đến sự đảm bảo trong việc minh bạch bán
hàng tới người tiêu dùng.
Không thua kém Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex), Tổng
Công ty Dầu Việt Nam (PV Oil) cũng đã xưng danh trong việc tiên phong xây
dựng các phương thức bán hàng tiên tiến và hiện đại không dùng tiền mặt như
41
Thẻ điện tử (digital card), đọc QR code trên thiết bị di động của tài xế và nhân
viên bán hàng để thực hiện giao dịch mua bán xăng dầu tại các cửa hàng xăng
dầu của PV Oil, thuộc chương trình PV Oil Easy, cụ thể xây dựng hệ thống
quản lý tập trung, giải pháp quản lý và thanh toán hiện đại thông qua phần
mềm quản lý của chương trình PV Oil Easy; cung cấp cho khách hàng các
dịch vụ chăm sóc, các chương trình khuyến mại nhằm gia tăng lợi ích cho
khách hàng là các doanh nghiệp có phương tiện vận tải hoạt động trên các
tuyến quốc lộ và các tỉnh, thành phố trên toàn quốc [23].
Thứ tư, đã xuất hiện sự tham gia từ các nhà đầu tư ngoại
Năm 2016 là năm đánh dấu sự xuất hiện của những nhà đầu tư ngoại tại
thị trường kinh doanh xăng dầu Việt Nam, điển hình là việc “Gã khổng lồ”
trong lĩnh vực dầu mỏ JX Nippon Oil & Energy của Nhật Bản vừa đồng ý
mua lại 8% cổ phần của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex). Với cuộc
“hôn nhân” mới này giữa JX Nippon Oil và Petrolimex thì “ông lớn” tới từ
Nhật Bản sẽ ưu tiên cung cấp các kinh nghiệm và chuyên môn trong quản lý
các trạm xăng dầu và trong các công tác hậu cần.
Ngoài ra không thể không nhắc đến Idemitsu Q8 Petroleum LLC, với
kinh nghiệm, năng lực cùng nền tảng công nghệ hiện đại, tân tiến sẵn có, IQ 8
đã thổi một luồng gió mới đến với thị trường kinh doanh bán lẻ xăng dầu Việt
Nam, tuy nhiên luồng gió này cũng được ví như một hơi nóng phả mạnh vào
gáy của những doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ xăng dầu sẵn có trong nước,
vẫn được biết đến với sự tồn tại của những tin đồn và nhận định không tốt từ
phía người tiêu dùng về dịch vụ và gian lận trong bán hàng.
Với việc có doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường xăng dầu
- lĩnh vực từ trước đến nay tập trung chủ yếu vào tay các ông lớn như Petrolimex,
PV Oil, Saigon Petro… thì đây là một tín hiệu đáng mừng. Tình trạng các ông
lớn độc quyền từ trước đến nay đã bị phá vỡ. Ngoài ra cũng đi kèm với đó là
42
nhận định về một thị trường bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam sẽ ngày càng sôi
động, phát triển, quyền lợi của người tiêu dùng sẽ ngày càng được nâng cao,
tính minh bạch trong kinh doanh bán lẻ cũng sẽ là một mục tiêu quan trọng
được ưu tiên cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Đại diện IQ8 cũng đã có chia
sẻ với Báo Tuổi trẻ: “Mục tiêu của Idemitsu là phát triển dịch vụ tốt để các
DN khác trên thị trường cũng phải thay đổi, giúp thị trường bán lẻ xăng dầu
tốt hơn” [22]…
Thị trường bán lẻ xăng dầu có quy mô 6 tỉ USD đã trở thành miếng
bánh hấp dẫn với nhà đầu tư ngoại, có thể thấy rõ những dấu hiệu tích cực
sắp tới của thị trường kinh doanh bán lẻ xăng dầu như: nâng cao chất lượng
dịch vụ bán lẻ, thị phần cung cấp xăng dầu tới người tiêu dùng sẽ đa dạng
hóa, tính cạnh tranh trong thị trường tăng cao dẫn đến sự phát triển nói
chung về lĩnh vực tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu tại Việt
Nam về mọi mặt.
2.1.3. Những hạn chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động kinh doanh
bán lẻ xăng dầu và những nguyên nhân
Một là, thị trường cạnh tranh mang tính nửa vời
Từ việc của các nhà đầu tư ngoại tham gia thị trường kinh doanh bán lẻ
xăng dầu Việt Nam đã xuất hiện những dấu hiệu tích cực về một thị trường
kinh doanh cạnh tranh đem đến những lợi ích cho phía người tiêu dùng. Tuy
nhiên, trên thực tế, vẫn còn những tiêu cực tồn tại mà các cơ quan nhà nước
chưa thể gỡ bỏ, cạnh tranh trên thị trường xăng dầu với cơ chế hiện nay đã
loại bỏ sự cạnh tranh về giá. Giá bán lẻ sản phẩm xăng dầu đang chịu sự quản
lý chặt chẽ của Nhà nước. Kết cấu giá xăng dầu có rất nhiều yếu tố liên quan
đến Nhà nước nên gần như không có sự cạnh tranh giá. Chỉ có thể cạnh tranh
bằng mạng lưới, bằng dịch vụ bán hàng. Ví dụ như uy tín về đảm bảo chất
lượng xăng dầu, hay đong đếm không gian lận. Những yếu tố này thì các
43
doanh nghiệp bán lẻ xăng dầu trong nước không quá cách xa so với doanh
nghiệp nước ngoài.
Với thị trường bán lẻ, khi nhà đầu tư ngoại xâm nhập, họ dựa trên lợi
thế quản trị tốt, hệ thống bán hàng hiện đại và chủng loại hàng hóa đa dạng để
cạnh tranh với nhà đầu tư trong nước. Nhưng với kinh doanh bán lẻ xăng dầu
thì chỉ có những chủng loại cụ thể như RON 92, RON 92, E5... nên rất khó để
có thể cạnh tranh mạnh mẽ với nhau trên thị trường xăng dầu. Nhà đầu tư
nước ngoài tham gia thị trường trong nước chắc chắn có sự chia sẻ về thị
phần. Vì vậy, các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ xăng dầu trong nước phải
có những bước đi thích hợp để ứng phó trước sự chia sẻ thị phần đó.
Khoảng cách giữa các cây xăng đã được quy định và nhà đầu tư xâm
nhập thị trường sau sẽ gặp nhiều bất lợi, không dễ cạnh tranh sòng phẳng. Ví
dụ, giữa hai cây xăng của Petrolimex và Mipecorp thì Idemitsu muốn đặt cây
xăng phải bảo đảm khoảng cách. Khoảng cách không cho phép thì không thể
xây dựng thêm một cây xăng nằm giữa hai cây xăng kia. Cạnh tranh trên thị
trường xăng dầu rất ít, dư địa cạnh tranh rất hẹp.
Như vậy, tưởng chừng việc cạnh tranh kinh doanh bán lẻ xăng dầu sẽ
ngày càng phát triển, tuy nhiên với những hạn chế nêu trên hoàn toàn có thể
dẫn đến việc cạnh tranh thị phần bán lẻ xăng dầu sẽ không được sòng phẳng,
nhất là đối với các doanh nghiệp tham gia cuộc chơi muộn hơn, khi không thể
cạnh tranh bằng giá mà chỉ có thể cạnh tranh bằng mạng lưới bán lẻ và chất
lượng dịch vụ, những yếu tố không thực sự khả quan và khó có thể xây dựng
nhanh chóng để có sự nổi bật trong một thị trường như bán lẻ xăng dầu.
Hai là, xuất hiện việc giành giật thị phần trái phép và xâm phạm
thương hiệu
Hiện cơ bản giá xăng dầu của các đại lý, doanh nghiệp đều như nhau.
Người tiêu dùng cũng không mấy ai di chuyển cả cây số để chọn đại lý bán
44
xăng dầu rẻ hơn mấy trăm đồng/lít, nên cơ bản các hãng tập trung “giành
giật” đại lý bán bằng chiết khấu, các chính sách ưu đãi, thay vì tập trung giảm
giá cho người tiêu dùng.
Cuộc đua mở chuỗi trạm xăng đang “khốc liệt” hơn khi không chỉ có
cạnh tranh mà còn có tình trạng “giành giật” điểm bán, thậm chí xâm phạm
nhãn hiệu. Ông Cao Hoài Dương, Tổng Giám đốc PV Oil chia sẻ với Báo
Tuổi trẻ về việc chỉ những cửa hàng nằm trong hệ thống PV Oil được kiểm
soát chặt chẽ, còn với 3.000 cửa hàng làm đại lý (nhượng quyền) thì rất khó
để quản [21]. Về nguyên tắc, khi đăng ký làm đại lý của một doanh nghiệp
đầu mối xăng dầu, đại lý sẽ phải nhập xăng dầu từ đơn vị này. Tuy nhiên, tình
trạng “treo đầu dê, bán thịt chó” lại diễn ra khá phổ biến, theo ông Cao Hoài
Dương, Tổng Giám đốc PV Oil chia sẻ:
Thực tế một cửa hàng treo biển của PV Oil nhưng lại mua hàng của
nhiều nơi. Chúng tôi là doanh nghiệp nên không có quyền cấm, dẫn
tới thực tế là có thể đơn vị đại lý chỉ mua 50% của PV Oil, còn lại
mua của đơn vị khác. Điều này làm ảnh hưởng, rủi ro rất lớn cho
thương hiệu nếu đại lý bán hàng trôi nổi vì khách hàng chỉ biết đó
là đại lý của PV Oil. Không phải lỗi của chúng tôi nhưng lại phải
chịu trách nhiệm [21].
Chiếm gần 50% thị phần xăng dầu, Petrolimex không những chịu áp lực
bị “giành giật” cửa hàng nhượng quyền mà tình trạng vi phạm thương hiệu
cũng ngày càng tăng. Đó là việc hàng loạt cửa hàng kinh doanh bán lẻ xăng
dầu ở nhiều tỉnh thành cố tình sử dụng nhãn hiệu của Petrolimex dù không
mua xăng dầu của doanh nghiệp này. Việc xâm phạm diễn ra đến mức báo
động, khiến tập đoàn này phải thành lập ban chỉ đạo để tăng cường kiểm tra
thực tế, thực hiện các biện pháp bảo vệ thương hiệu.
Như vậy, việc xuất hiện cạnh tranh trái phép và các vi phạm về thương
45
hiệu trong hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu xuất hiện ngày càng nhiều tại
Việt Nam, nguyên nhân có thể thấy là do việc không thể cạnh tranh nổi thị
phần và tên tuổi, giá trị thương hiệu của các đơn vị kinh doanh lớn và lâu năm.
Ba là, quy hoạch cửa hàng xăng dầu còn nhiều điểm chưa hợp lý và
việc phát triển dịch vụ thu hút người tiêu dùng chưa thực sự được đầu tư
Lệ thuộc vào tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh, thành phố,
kéo theo đó là lưu lượng xe trên nhiều tuyến đường chưa cao, nhu cầu cho
dân sinh bị phân tán bới các tuyến giao thông của các địa phương, nên nhu
cầu tiêu thụ xăng dầu trên nhiều cung, tuyến đường còn hạn hẹp. Tại các đoạn
đường đi qua nhiều thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ tập trung nhiều cửa hàng
trên một phạm vi cung ứng hẹp, và một cung đường ngắn. Từ đó, thị phần
được chia nhỏ. Tuy nhiên, nhiều khu vực lại rất hạn chế sự xuất hiện của các
cửa hàng xăng dầu, khiến cho người tiêu dùng mất nhiều công sức và gặp khó
khăn trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ bán lẻ tại cửa hàng xăng dầu.
Đối chiếu với nhu cầu dịch vụ trên toàn quốc cho thấy, hệ thống cửa
hàng hiện có mới thực hiện được một chức năng là bán lẻ xăng dầu cho các
khu vực dân sinh và các phương tiện vận tải hoạt động trên các tuyến đường.
Các nhu cầu dịch vụ khác như sửa chữa, thay thế phụ tùng, mua hàng nhu yếu
phẩm, ăn uống, đỗ xe qua đêm... chưa có hoặc có không đầy đủ, không đồng
bộ. Đây là một trong các nội dung quan trọng cần được quan tâm trong quy
hoạch, bởi lẽ, các dịch vụ này không chỉ để nâng cao chất lượng dịch vụ của
toàn hệ thống, mà còn là cơ sở vật chất kỹ thuật để thu hút các hoạt động vận
tải, dẫn đến việc kinh doanh bán lẻ xăng dầu sẽ phát triển hơn.
Bốn là, xuất hiện các vi phạm nghiêm trọng các quy định trong kinh
doanh bán lẻ xăng dầu
Hiện nay cả nước có khoảng 13.000 cửa hàng bán lẻ xăng dầu, trong
đó, các cửa hàng thuộc hệ thống của 13 doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu
46
xăng dầu có trên 3.000 (chiếm 25 - 30%), số còn lại là các cửa hàng của đại
lý, tổng đại lý, nhượng quyền. Trước khi lực lượng công an phá vụ án Trịnh
Sướng và đồng bọn sản xuất, tiêu thụ xăng giả, trong thực tế, xăng rởm, xăng
kém chất lượng đã xuất hiện trên thị trường nước ta từ lâu. Nhiều ý kiến cho
rằng, sự nở rộ của các đầu mối xuất, nhập khẩu xăng dầu gần đây đã tạo nên
những kẽ hở để “buôn lậu”, “lậu” về số lượng và “lậu” về chất lượng.
Đơn cử như khai “gian” số lượng, tàu nhập 5.000m3 xăng dầu, khai
gian xuống chỉ còn 2.000m3, lợi nhuận thu được không nhỏ, bởi mỗi lít xăng
giá hơn 20.000 đồng, trong đó chiếm gần một nửa là thuế và phí các loại. Do
các đầu mối xuất, nhập khẩu xăng dầu có hệ thống chân rết nhiều cây xăng
bán lẻ, người dân mua xăng dầu không cần lấy hóa đơn, không biết rõ về chất
lượng, nên doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu có thể vô tư lợi dụng kẽ hở này
để hợp pháp hóa việc nhập nhiều nhưng khai ít, vừa trốn thuế vừa kiếm lợi từ
người tiêu dùng.
Vụ án đường dây sản xuất và buôn bán xăng giả của Trịnh Sướng và
đồng bọn là một ví dụ rất rõ ràng về gian lận chất lượng. Theo công bố của cơ
quan điều tra, từ ngày 01/01/2017 đến nay, số tiền các đối tượng dùng để mua
dung môi, các chất làm tăng chỉ số octan là 4.200 tỉ đồng, có khoảng 350 triệu
lít xăng giả đã được sản xuất và bán ra thị trường (theo lời khai ban đầu của
các bị can là gần 19,5 triệu lít, thu lợi 135 tỉ đồng) [27].
Theo kết quả thanh tra, kiểm tra các hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng
dầu trên địa bàn Hà Nội, phương thức, thủ đoạn buôn lậu, gian lận xăng dầu
ngày càng tinh vi; các đối tượng móc nối chặt chẽ với nhau tạo thành đường
dây khép kín. Mỗi nhóm đối tượng chỉ thực hiện một công đoạn độc lập, dưới
sự chỉ đạo điều hành của chủ đầu nậu. Hiện nay, để kiểm soát được chất
lượng xăng dầu, lực lượng quản lý thị trường cũng gặp nhiều khó khăn, như
các đối tượng có ý gian lận về xăng dầu rất dễ dàng mua được các chất dung
môi, phụ gia, dùng để pha chế xăng dầu kém chất lượng.
47
Bên cạnh đó, trong quá trình kiểm tra lấy mẫu, có xác định lượng hàng
tồn nhưng lực lượng chức năng không thể tạm giữ bởi quá trình bán hàng của
doanh nghiệp là liên tục nên khi có kết quả sai phạm thì lượng xăng vi phạm
đã bán hết, rất khó khăn xử lý tang vật. Thủ đoạn vi phạm của các đối tượng
là pha trộn hỗn hợp gồm xăng A92 với chất dung môi bột tạo màu. Xăng, dầu
kém chất lượng khi sử dụng sẽ ảnh hưởng đến môi trường. Ngoài ra, lợi dụng
việc thực hiện Đề án tiêu thụ xăng E5, một số đối tượng đã thực hiện việc pha
trộn xăng sinh học E5 RON 92 vào xăng không chì RON 95 với một tỷ lệ
nhất định bán ra thị trường để hưởng chênh lệch giá.
Như vậy, với thực trạng số lượng cửa hàng xăng dầu “khổng lồ” hiện
nay, sẽ rất khó để có thể “quản” dù quy định của pháp luật hiện nay rất chặt
chẽ. Dường như “cây gậy pháp luật” chưa đủ sức răn đe, làm lành mạnh thị
trường xăng dầu. Nếu không giải quyết vấn đề tận gốc, rất có thể sẽ có thêm
những “Trịnh Sướng” nữa trong tương lai.
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh
bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Những ưu điểm trong quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh
doanh bán lẻ xăng dầu
Thời gian vừa qua, hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu đã có những
bước phát triển đóng góp quan trọng trong việc đảm bảo nguồn nhiên liệu
phục vụ đời sống, sản xuất kinh doanh của nhân dân cũng như đóng góp vào
sự phát triển kinh tế cả nước. Những ưu điểm về thực trạng quản lý Nhà nước
đối với hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu thể hiện ở những mặt sau:
Thứ nhất, về thực hiện các nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt
động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
Các cơ quan quản lý kinh doanh bán lẻ xăng dầu trên địa bàn cả nước
thời gian qua đã phần nào xây dựng được một hệ thống văn bản bao gồm
48
những quy định rất chi tiết các nội dung quản lý của Nhà nước; các văn bản
theo hướng cởi mở, thông thoáng tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thuận
lợi để các các chủ thể kinh doanh tham gia thị trường một cách tốt nhất, góp
phần thúc đẩy kinh tế của cả nước.
Ví dụ điển hình như Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã ban hành
nhiều văn bản về vấn đề tăng cường công tác quản lý kinh doanh bán lẻ xăng
dầu trên địa bàn. Các văn bản quy phạm pháp luật của thành phố được ban
hành, tuyên truyền phổ biến một cách nhanh chóng tới các doanh nghiệp, từ
đó, giúp công tác thực hiện các văn bản quản lý kinh doanh xăng dầu được
tiến hành khá hiệu quả trong thời gian qua. Các cơ quan quản lý kinh doanh
xăng dầu trên địa bàn thành phố đã và đang rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban
hành mới cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của thành phố, cũng như
tạo ra môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng cho tất cả các chủ thể kinh
doanh bán lẻ xăng dầu trên địa bàn. Thủ tục hành chính về kinh doanh bán lẻ
xăng dầu được đánh giá là tốt hơn thông qua kết quả điều tra, đa số đều cho
rằng việc cấp phép thành lập đối với các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ xăng
dầu trên địa bàn cả nước hiện nay ở mức độ khá nhanh chóng.
Các nguyên tắc như công khai, minh bạch trong quản lý; thống nhất
lãnh đạo chính trị và kinh tế được các cơ quan quản lý thực hiện rất hiệu quả
và triệt để. Thêm vào đó, hệ thống các công cụ được sử dụng trong quản lý
kinh doanh bán lẻ xăng dầu trên địa bàn cả nước rất đa dạng: các văn bản về
quản lý về hoạt động; các loại thuế, phí; quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh
doanh bán lẻ xăng dầu; bộ máy quản lý… Việc thực hiện các nguyên tắc và
công cụ quản lý đang được các cơ quan quản lý nhà nước sử dụng linh hoạt
cho phù hợp với hoàn cảnh của địa bàn mình từ đó tạo ra những thuận lợi cho
các doanh nghiệp tham gia kinh doanh bán lẻ xăng dầu trên thị trường.
49
Thứ hai, về bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh
bán lẻ xăng dầu
Hiện nay, trên phạm vi cả nước đã có sự phân công rõ ràng về quyền
hạn và nhiệm vụ của các bộ, ban, ngành trong công tác quản lý kinh doanh
xăng dầu, không có sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các bộ, ban, ngành.
Công tác phối hợp giữa các cơ quan cũng rất chặt chẽ và nhịp nhàng, đạt
được những hiệu quả nhất định trong quản lý kinh doanh bán lẻ xăng dầu
trên phạm vi cả nước.
Công tác quy hoạch, kế hoạch hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
thời gian qua rất rõ ràng, chi tiết cũng như phù hợp với tình hình thực tế phát
triển thời gian qua đã giúp cho việc giám sát, kiểm tra và thúc đẩy phát triển
hợp lý về số lượng và chất lượng các doanh nghiệp phù hợp với quy hoạch.
Công tác thanh tra, kiểm tra của các lực lượng quản lý đã hoạt động
khá tích cực và hiệu quả. Các cơ quan này đã phát hiện và xử lý nhiều sai
phạm của các cơ sở kinh doanh bán lẻ xăng dầu, nhiều vụ gian lận thương mại
như: bán hàng không đúng chất lượng, bán thiếu hàng, tình trạng găm hàng…
Bộ máy quản lý thị trường đang từng bước hoàn thiện về cả đạo đức nghề
nghiệp và trình độ chuyên môn. Chất lượng kiểm tra, giám sát luôn đươc chú
trọng nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người tiêu dùng, tạo môi trường
kinh doanh lành mạnh theo đúng định hướng.
Thứ ba, về các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với hoạt
dộng kinh doanh bán lẻ xăng dầu
Về vấn đề nhận thức quản lý kinh doanh bán lẻ xăng dầu, các cán bộ
quản lý nhà nước đã được trang bị và thường xuyên được củng cố các kiến
thức về thị trường kinh doanh bán lẻ xăng dầu, được đào tạo, tập huấn và có
những nhận thức đúng đắn về vai trò của cán bộ quản lý trong nền kinh tế thị
trường, tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp.
50
2.2.2. Những điểm bất cập, hạn chế trong quản lý nhà nước đối với
hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
Một là, về thực hiện các nội dung quản lý nhà nước
Hệ thống các văn bản quản lý kinh doanh bán lẻ xăng dầu hiện nay tuy
nhiều nhưng hiệu lực còn yếu. Công tác thực hiện các văn bản, đưa các văn
bản này vào thực tiễn còn nhiều hạn chế. Hiện việc quản lý chủ yếu dựa vào
việc thực thi các văn bản của Trung ương như Nghị định số 83/2014/NĐ-CP.
Địa bàn kinh doanh bán lẻ xăng dầu trên cả nước tương đối rộng và phức tạp
… nên việc thực hiện các nội dung quản lý nhà nước với hoạt động kinh
doanh bán lẻ xăng dầu còn chậm chạp và gặp nhiều khó khăn.
Nhiều phương tiện nhỏ lẻ không được cấp giấy chứng nhận đủ điều
kiện kinh doanh, không đảm bảo an toàn và kỹ thuật vẫn kinh doanh, tiềm ẩn
nhiều nguy cơ cháy nổ nhưng cơ quan quản lý nhà nước vẫn không thể kiểm
tra, rà soát hết. Nhiều cửa hàng kinh doanh bán lẻ xăng dầu chưa niêm yết
công khai giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh bán lẻ xăng dầu và giấy
chứng nhận kiểm định phương tiện đo; tình trạng vi phạm trong kinh doanh
bán lẻ xăng dầu còn diễn ra khá nhiều; cán bộ quản lý và nhân viên trực tiếp
kinh doanh bán lẻ xăng dầu hầu hết chưa được đào tạo về kỹ thuận an toàn
phòng cháy chữa cháy, bảo vệ môi trường nhưng việc thanh tra, kiểm tra hoạt
động, giám sát hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu còn yếu, chưa được
thường xuyên và chưa đồng đều.
Việc thực thi các văn bản về tăng cường công tác quản lý kinh doanh
bán lẻ xăng dầu rất kém hiệu quả và chỉ mang tính hình thức. Hệ thống các
nguyên tắc, công cụ mà các cơ quan quản lý sử dụng rất nhiều và đa dạng
nhưng thực sự chưa hiệu quả. Các nguyên tắc đôi khi được vận dung một
cách dập khuôn và cứng nhắc. Như đối với nguyên tắc công khai, minh bạch
trong quản lý kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Hiện nay các doanh nghiệp vẫn cho
51
rằng, còn khó để tiếp cận với các thông tin, các văn bản được sửa đổi, thay
mới và ban hành liên tục. Nguyên nhân bởi cách thức tuyên truyền, phổ biến
còn lạc hậu và mang nặng tính hình thức.
Hai là, về bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bán
lẻ xăng dầu
Tuy vẫn còn một số ít ý kiến cho rằng, thủ tục cấp phép kinh doanh bán
lẻ xăng dầu thời gian qua còn quá nhiều và lâu, nhưng thực tế cho thấy, việc
thực thi công tác này đã thực hiện rất tốt và hiệu quả. Hiện nay, đội ngũ cán
bộ thuộc các cơ quan quản lý trên cả nước vẫn chưa đồng đều và chưa thực sự
tốt về trình độ chuyên môn. Vì vậy, mặc dù có sự phân công quyền hạn và
nhiệm vụ rõ ràng nhưng sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý trên địa bàn tại
địa phương thời gian qua vẫn còn nhiều gặp nhiều khó khăn và hạn chế.
Công tác thanh tra, kiểm tra và quản lý thị trường thời gian qua vẫn còn
nhiều bất cập. Tình trạng xây dựng cửa hàng xăng dầu không nằm trong quy
hoạch hoặc chưa được cấp có thẩm quyền chấp thuận còn xuất hiện ở nhiều
địa phương; một số cửa hàng xăng dầu không đáp ứng được tiêu chí theo quy
định nên chất lượng phục vụ thấp; một số tổ chức, doanh nghiệp xây dựng
trạm cấp phát nội bộ nhưng vẫn tự ý bán hàng; một số doanh nghiệp đầu mối,
Tổng đại lý xăng dầu vẫn bán hàng cho các cửa hàng không nằm trong hệ
thống, các cửa hàng xây dựng trái phép nhưng chưa bị xử phạt hoặc nếu xử
phạt cũng chỉ ở mức nhẹ nên chưa đủ sức răn đe.
Đối với những công tác thuộc thẩm quyền riêng của một cơ quan quản
lý thời gian qua được thực hiện tốt. Tuy nhiên, với những công tác cần có sự
phối hợp giữa các cơ quan hữu quan thì còn nhiều hạn chế. Đã xảy ra sự
chồng chéo trong thực thi ở một số công tác như quản lý quy hoạch phát triển
kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Tình trạng xây dựng các cửa hàng bán lẻ xăng
dầu ngoài quy hoạch vẫn còn xảy ra nhiều và phức tạp, tuy nhiên, do sự phối
52
hợp giữa các cơ quan còn lỏng lẻo đã dẫn tới chưa phát hiện và xử lý được
dứt khoát vấn đề này. Bên cạnh đó, địa bàn kinh doanh bán lẻ xăng dầu trên
cả nước khá rộng lớn nhưng đội ngũ các cán bộ quản lý còn mỏng và thiếu, vì
vậy cũng tạo ra những khó khăn cũng như sự kém hiệu quả trong công tác
phối hợp giữa các cơ quan để quản lý kinh doanh xăng dầu được hiệu quả.
Ba là, về các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với hoạt dộng
kinh doanh bán lẻ xăng dầu
Các cán bộ quản lý trong các cơ quan quản lý nhà nước chưa có tư duy,
nhận thức đầy đủ, hợp lý về cơ chế thị trường. Nhiều cán bộ vẫn có tư duy
can thiệp hành chính vào thị trường, can thiệp sâu vào các hoạt động của các
doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu. Trong quá trình điều tiết thị trường, công
tác quy hoạch lại các cửa hàng xăng dầu được thực hiện còn khá lúng túng khi
xử lý những bất cập phát sinh, làm chậm quá trình quy hoạch.
Yếu tố biến động xăng dầu trước tình hình thế giới đang biến đổi sâu
sắc cũng là nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến việc quản lý và điều tiết hoạt
động kinh doanh xăng dầu ở nước ta hiện nay.
2.2.3. Những nguyên nhân từ thực trạng hạn chế, bất cập
Từ những hạn chế, bất cập ở trên, có thể chỉ ra một số nguyên nhân chủ
yếu sau đây:
(i) Việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật và đưa các văn bản
này vào đời sống thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế do địa bàn kinh
doanh bán lẻ xăng dầu rộng, việc triển khai hệ thống các văn bản hướng dẫn,
quy định về hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu còn thiếu và chưa đồng bộ.
Hơn nữa, số lượng các văn bản khá lớn và có nhiều bổ sung, sửa đổi nên việc
triển khai tiến hành chậm chạp, không đồng đều.
(ii) Việc cấp giấy phép kinh doanh và công tác thanh tra, kiểm tra còn
nhiều bất cập, đôi khi chỉ mang tính hình thức do đội ngũ cán bộ thực hiện
53
những công tác này còn thiếu và yếu, làm việc chưa chặt chẽ; sự đầu tư về
nguồn lực cho các cơ quan quản lý về xăng dầu còn chưa mang tính đồng bộ
và chưa được chú trọng đúng mức.
(iii) Việc vận dụng các nguyên tắc, các công cụ quản lý đối với hoạt
động kinh doanh bán lẻ xăng dầu còn rập khuôn, máy móc, dẫn đến tình trạng
quản lý cứng nhắc, công tác phối hợp giữa các cơ quan quản lý kinh doanh
bán lẻ xăng dầu chưa thực sự đạt hiệu quả cao.
(iv) Các hình thức gian lận trong kinh doanh bán lẻ xăng dầu ngày càng
diễn biến phức tạp, hành vi vi phạm ngày càng tinh vi hơn, gây nhiều khó
khăn cho cán bộ thanh tra, điều tra các vụ việc gian lận…, tuy nhiên, cơ sở vật
chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác quản lý kinh doanh bán lẻ xăng dầu
lại chưa được chú trọng và đầu tư đúng mức.
(v) Do công tác quản lý thị trường vẫn còn hời hợt, những phát hiện vi
phạm trong kinh doanh bán lẻ xăng dầu chưa bị xử phạt hoặc phạt ở mức độ
nhẹ chưa đủ sức răn đe nên ý thức chấp hành các quy định của pháp luật về
đầu tư xây dựng, kinh doanh bán lẻ xăng dầu của một bộ phận cá nhân, doanh
nghiệp còn hạn chế.
2.3. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về tổ chức và hoạt
động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
2.3.1. Những ưu điểm của quy định pháp luật Việt Nam về tổ chức và
hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
Một là, các quy định pháp luật về cơ bản đã thể hiện sự tự do hoá các
thành phần tham gia, với việc mở rộng các thành phần kinh doanh, có tới 29
đầu mối nhập khẩu xăng dầu thay vì chỉ khoảng 17 đầu mối như trước khi có
Nghị định 83/2014/NĐ-CP.
Hai là, các cơ chế chính sách về kinh doanh xăng dầu đã tự do hơn như
xin giấy phép kinh doanh xăng dầu dễ dàng hơn, thời gian thẩm định giấy
54
phép ngắn hơn, tạo điều kiện cho các thương nhân đủ năng lực tham gia kinh
doanh bán lẻ xăng dầu.
Ba là, quy định rút ngắn chu kỳ điều hành giá xăng dầu từ 30 ngày
xuống chu kỳ 15 ngày một lần, qua đó giúp cho giá xăng dầu trong nước được
điều hành linh hoạt, chặt chẽ, kịp thời, đảm bảo hiệu quả hơn, khắc chế được
một số hạn chế tồn tại.
2.3.2. Những hạn chế và bất cập còn tồn tại trong quy định pháp luật
Việt Nam về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
Một là, những quy định điều kiện kinh doanh xăng dầu đang bất cập
với những quy định của luật pháp ra đời sau Nghị định 83/2014/NĐ-CP như
Luật Doanh Nghiệp năm 2015, Luật Đầu tư (có hiệu lực từ 1/7/2015). Theo
cam kết WTO và các Hiệp định FTA, Việt Nam chưa mở cửa thị trường xăng
dầu. Tuy nhiên, để thu hút đầu tư nước ngoài, nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn
đã cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư góp vốn 75% và được phép
phân phối các sản phẩm của nhà máy tại thị trường Việt Nam.
Hai là, hiện không có quy định nào đề cập tới chuyện doanh nghiệp
nước ngoài được phép thiết lập hệ thống cơ sở bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam.
Khi xảy ra vụ việc hay tranh chấp sẽ rất khó xử lý.
Ba là, theo quy định hiện hành, đại lý bán lẻ xăng dầu chỉ được ký hợp
đồng làm đại lý cho một tổng đại lý hoặc một thương nhân đầu mối/phân phối
xăng dầu. Nếu tổng đại lý hoặc thương nhân đầu mối/phân phối xăng dầu đó
không kinh doanh nhiên liệu sinh học thì đại lý được ký thêm hợp đồng làm
đại lý cho một pháp nhân khác để kinh doanh nhiên liệu sinh học. Việc kiểm
soát nguồn xăng dầu thông qua hóa đơn xuất, nhập. Tuy nhiên, trên thực tế,
việc kiểm soát khối lượng xăng dầu đầu vào, đầu ra theo hóa đơn đối với đại
lý bán lẻ xăng dầu chưa chặt chẽ, đặc biệt là việc bán lẻ xăng dầu không xuất
hóa đơn vẫn còn tràn lan, nên đại lý xăng dầu rất dễ “hợp thức hóa” khi mua
55
xăng dầu trôi nổi trên thị trường, xăng dầu giả để pha trộn với xăng dầu nhập
chính thức từ thương nhân đầu mối/phân phối, tổng đại lý… rồi ung dung bán
cho người tiêu dùng để trục lợi.
Bốn là, theo quy định tại khoản 2 Điều 24 Nghị định 83/2014/NĐ-CP
có quy định một trong các điều kiện để được cấp giấy chứng nhận đủ điều
kiện kinh doanh xăng dầu là “cửa hàng bán lẻ xăng dầu, thuộc sở hữu, đồng
sở hữu của thương nhân là đại lý hoặc tổng đại lý hoặc thương nhân nhận
quyền bán lẻ xăng dầu hoặc thương nhân phân phối xăng dầu hoặc thương
nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu hoặc thương nhân sản xuất
xăng dầu”; nếu chủ sở hữu không có nhu cầu kinh doanh xăng dầu cũng
không được cho thương nhân khác thuê để kinh doanh xăng dầu. Vì vậy,
không phù hợp về quyền sở hữu tài sản theo quy định của Luật Dân sự.
Năm là, các quy định về điều kiện mở cửa hàng bán lẻ xăng dầu còn
nhiều phức tạp, các điều kiện, thủ tục cần thực hiện khi các chủ thể muốn
tham gia thị trường còn nhiều rườm rà, phải thực hiện nhiều quy trình và đòi
hỏi nhiều loại văn bản giấy tờ liên quan, cần đơn giản hóa các thủ tục, tạo
điều kiện cho thị trường mở cửa mạnh hơn. Theo quy định tại khoản 1, Điều
24 của nghị định 83/2014/NĐ-CP quy định địa điểm mở cửa hàng bán lẻ xăng
dầu phải phù hợp với quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt (Nghị
định 08/2018/NĐ-CP đã bỏ điều kiện này). Cửa hàng phải thuộc sở hữu, đồng
sở hữu của thương nhân (đại lý/tổng đại lý/thương nhân nhượng quyền bán lẻ
hoặc thương nhân có hệ thống phân phối). Cửa hàng phải được thiết kế, xây
dựng và có trang thiết bị đúng các quy định hiện hành về tiêu chuẩn cửa hàng
bán lẻ xăng dầu, an toàn phòng cháy, chữa cháy, bảo vệ môi trường của các
cơ quan chức năng. Nhân viên quản lý, nhân viên bán lẻ xăng dầu được đào
tạo, tập huấn và được cấp chứng chỉ đào tạo về các nghiệp vụ phòng cháy,
chữa cháy, bảo vệ môi trường...
56
Nếu hồ sơ đủ thì việc cấp phép tại sở công thương các địa phương diễn
ra tối đa trong vòng từ 20-30 ngày. Tuy nhiên, trên thực tế, việc này không dễ
dàng như vậy. Các doanh nghiệp muốn thực hiện đúng các quy định trên thì
cần phải chuẩn bị gần 30 văn bản, giấy tờ các loại dưới dạng chấp
thuận/chứng nhận/xác nhận thì mới có thể tiến hành xin mở thêm một cây
xăng mới. Ví dụ, phải có văn bản chấp thuận địa điểm của Ủy ban nhân dân
xã, huyện cấp; giấy chứng nhận đủ điều kiện phòng cháy - chữa cháy do cơ
quan công an phòng cháy - chữa cháy cấp; xác nhận đạt tiêu chuẩn môi
trường do Uỷ ban nhân dân quận, huyện cấp và nhiều thủ tục chuyên ngành
khác. Đối với các địa phương nhỏ thì thời gian mở mới một cây xăng cũng
phải mất hai năm.
Sáu là, cơ chế điều hành giá vẫn chưa phù hợp với cơ chế thị trường.
Theo quy định pháp luật hiện hành, giá xăng dầu hiện nay tuy đã được điều
chỉnh theo chu kỳ 15 ngày một lần, theo sự quản lý của nhà nước. Tuy đã
khắc phục được một số hạn chế song thực tế việc doanh nghiệp không tự
quyết định điều chỉnh giá cả theo sự biến động hàng ngày của thị trường thế
giói, mà phải đợi chu kỳ quy định 15 ngày đã làm cho thị trường kinh doanh
xăng dầu đang trong tình trạng giá trong nước tăng thì giá thế giới giảm và
ngược lại. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả kinh doanh của các
doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu và người tiêu dùng.
Bảy là, các quy định pháp luật về an toàn phòng cháy chữa cháy và bảo
vệ môi trường chưa chặt chẽ. Với tính chất dễ gây cháy nổ của xăng dầu, Bộ
Công Thương đã ban hành “QCVN 01:2013/BCT quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia về thiết kế cửa hàng xăng dầu” nhằm quy định cụ thể về khoảng cách của
Cửa hàng xăng dầu đối với khu vực dân cư nhằm hạn chế cháy nổ, tuy nhiên
trong thực tế, các cửa hàng xăng dầu đều “lách” các quy định này và thậm chí
còn tồn tại các cửa hàng xăng dầu ngay trong khu vực trung tâm khu dân cư.
57
Cần có những hoạt động đánh giá công tác bảo vệ môi trường tại các cửa
hàng xăng dầu để giảm thiểu những tác hại đến môi trường và sức khỏe của
con người.
Tám là, các quy định về Quỹ Bình ổn giá xăng dầu không phù hợp,
mang đậm tính can thiệp hành chính làm méo mó giá cả thị trường xăng dầu.
Việc tồn tại Quỹ Bình ổn giá xăng dầu khiến việc tổ chức và hoạt động kinh
doanh bán lẻ xăng dầu khó hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường, giá xăng
dầu trong nước không diễn biến theo xu hướng chung của giá thế giới, dẫn
đến việc khi giá xăng dầu thế giới xuống thấp người tiêu dùng sẽ không được
hưởng lợi.
58
Tiểu kết Chương 2
Thực tiễn ở nước ta hiện nay cho thấy, pháp luật về tổ chức và hoạt
động kinh doanh bán lẻ xăng dầu đã có nhiều thay đổi theo cơ chế thị trường
và thúc đẩy hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ngày càng sôi động, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng,
cho dù có những thay đổi cơ bản về cơ chế trị trường nhưng hoạt động kinh
doanh bán lẻ xăng dầu vẫn phải tuân thủ theo các quy định của Nhà nước về
tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu.
Trong nội dung Chương này, học viên đã phân tích thực trạng thực thi
pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu trên thực tiễn thi
trường Việt Nam hiện nay. Đặc biệt là chú trọng phân tích tình hình thực hiện
pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu trong thời gian
qua tại Việt Nam, từ đó, nêu lên được ưu điểm và những hạn chế của pháp luật
về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu hiện nay. Đây là cơ sở
thực tiễn để đưa ra các kiến nghị giải pháp tại Chương 3 của Luận văn.
59
Chương 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
BÁN LẺ XĂNG DẦU Ở VIỆT NAM
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh
doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam
3.1.1. Những tiêu chí cơ bản để hoàn thiện pháp luật về tổ chức và
hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
Một là, bảo đảm tính toàn diện trong điều chỉnh tổ chức và hoạt động
kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Tính toàn diện của hệ thống pháp luật phản ánh
mức độ đầy đủ của hệ thống quy phạm, nguyên tắc, định hướng và mục đích
của pháp luật; là tiêu chuẩn đầu tiên để đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp
luật nói chung và pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng
dầu nói riêng. Tính toàn diện của pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh
doanh bán lẻ xăng dầu được thể hiện ở cấp độ tổng quát và cụ thể.
Ở cấp độ tổng quát, pháp luật trong lĩnh vực này phải có đầy đủ các
quy phạm pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng
dầu, quản lý doanh nghiệp của nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội.
Các nhóm quy phạm có chức năng riêng và nội dung giữa các quy phạm này
không trùng lặp, mâu thuẫn lẫn nhau. Pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh
doanh bán lẻ xăng dầu có vai trò rất quan trọng trong quá trình các chủ thể
tham gia vào thị trường kinh doanh bán lẻ xăng dầu, điều chỉnh toàn bộ các
hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu có thể xảy ra trong tình huống thực tế.
Nhằm tạo môi trường kinh doanh bán lẻ xăng dầu cạnh tranh lành mạnh và
phát triển thì các quy định cấu thành tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ
xăng dầu phải được đồng nhất. Khi Nhà nước không đưa ra đầy đủ các quy
60
định về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu hoặc không điểu
chỉnh được hết các quan hệ phát sinh trong hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng
dầu thì sẽ tạo ra môi trường kinh doanh không theo quy định của pháp luật, tự
do quá mức, gây khó khăn trong công tác quản lý và ảnh hưởng xấu đến nền
kinh tế thị trường đất nước.
Hai là, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của tổ chức và hoạt động kinh
doanh bán lẻ xăng dầu. Tính thống nhất của hệ thống pháp luật là điều kiện
cần thiết bảo đảm cho tính thống nhất về mục đích và sự triệt để trong thực
hiện pháp luật. Tính đồng bộ của pháp luật thể hiện ở sự thống nhất của các
văn bản pháp luật. Khi pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ
xăng dầu có sự thống nhất, không trùng lặp, chồng chéo hay mâu thuẫn lẫn
nhau giữa các quy định pháp luật chuyên ngành (pháp luật sở hữu trí tuệ, pháp
luật xử phạt vi phạm hành chính, pháp luật dân sự, pháp luật hình sự, pháp
luật hải quan, pháp luật thương mại...) liên quan đến tổ chức và hoạt động
kinh doanh bán lẻ xăng dầu và giữa chính các quy phạm pháp luật trong lĩnh
vực đó của từng chuyên ngành luật (xét ở từng góc độ cụ thể) thì các quy định
này đảm bảo được tính đồng bộ. Điều này thể hiện ở việc các văn bản quy
phạm pháp luật khi ban hành phải đảm bảo tính thứ bậc về hiệu lực pháp lý.
Những quy định cụ thể đặc thù điều chỉnh các quan hệ liên quan tới tổ chức
và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu do pháp luật về tổ chức và hoạt
động kinh doanh bán lẻ xăng dầu quy định phải không được trái với những
quy định mang tính nguyên tắc trong Luật Doanh nghiệp 2014. Cùng với đó,
các quy phạm pháp luật chuyên ngành có liên quan cũng không được chồng
chéo, mâu thuẫn với các quy phạm pháp luật doanh nghiệp.
Tính đồng bộ của pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ
xăng dầu còn đòi hỏi các văn bản pháp luật phải được ban hành đầy đủ, chi
tiết để khi văn bản pháp luật có hiệu lực thì nó cũng đã có đủ các điều kiện để
61
có thể tổ chức thực hiện được ngay trên thực tế. Ngoài ra, pháp luật về tổ
chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu cần phải đảm bảo sự tương
thích với những cam kết, điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Ba là, bảo đảm tính phù hợp và khả thi của pháp luật về tổ chức và hoạt
động kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Tính phù hợp và khả thi của pháp luật về tổ
chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu thể hiện ở việc nội dung của
pháp luật phản ánh đúng và phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội của
quốc gia. Pháp luật là một yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc của xã hội, phản
ánh và tác động tới cơ sở hạ tầng kiện chính trị, kinh tế, xã hội...), do vậy,
pháp luật không thể quy định cao hơn hoặc thấp hơn trình độ của đối tượng
mà nó phản ánh. Tính phù hợp và tính khả thi của các quy định pháp luật luôn
đi song hành với nhau. Pháp luật có phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã
hội của đất nước thì mới được xã hội tiếp nhận, đồng thuận và có khả năng
thực hiện trên thực tế. Pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ
xăng dầu phải phù hợp với nền kinh tế xã hội của nước ta.
Để pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu có
tính phù hợp và khả thi thì nội dung của các quy định pháp luật phải bảo đảm
rằng, các biện pháp và thủ tục thực thi khi chủ thể tham gia hoạt động kinh
doanh bán lẻ xăng dầu không trở thành rào cản đối với chủ thể, phù hợp với
sự phát triển bền vững của xã hội (về trách nhiệm của doanh nghiệp, về lợi
ích của người tiêu dùng và cạnh tranh bình đẳng, không có sự phân biệt đối
xử), đồng thời, phù hợp với năng lực thực thi pháp luật của cơ quan có thẩm
quyền, và điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp. Nhu cầu xã hội và các
quan hệ xã hội có tính ổn định tương đối, nên pháp luật cũng cần có tính ổn
định tương đối. Tính ổn định của pháp luật là yêu cầu cần thiết, bởi không thể
thường xuyên đảo lộn các quan hệ xã hội bằng việc thay đổi pháp luật.
62
Bốn là, bảo đảm tính minh bạch, công khai của tổ chức và hoạt động
kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Tính minh bạch của pháp luật về tổ chức và hoạt
động kinh doanh bán lẻ xăng dầu thể hiện ở nội dung các quy phạm pháp luật
phải rõ ràng, dễ hiểu, đơn nghĩa, không mâu thuẫn; các văn bản pháp luật phải
được công bố công khai (từ khi bắt đầu quy trình xây dựng văn bản đến việc
lấy ý kiến đóng góp của cá quan liên quan, các chuyên gia và đông đảo người
dân đến khi văn bản được ban hành) để các doanh nghiệp nắm rõ những quy
định khi tham gia vào hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, quyền và nghĩa
vụ của chủ thể liên quan đến hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, các cơ
quan có thẩm quyền, các hình thức, trình tự, thủ tục thực hiện về tổ chức và
hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Việc công khai văn bản pháp luật
không chỉ ở việc đăng tải trên Công báo và các phương tiện thông tin đại
chúng mà còn phải được thực hiện thông qua công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật để các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận, hiểu rõ, thực hiện theo
quy định về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Ngoài ra, tính
minh bạch của pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
còn được thể hiện ở nội được quy định chủ yếu tại Nghị định số 83/2014/NĐ-CP
phù hợp với mặt bằng nhận thức chung của mọi công dân, không gây khó
hiểu, nhẫm lẫn.
Năm là, bảo đảm tính lập pháp cao của tổ chức và hoạt động kinh
doanh bán lẻ xăng dầu. Một hệ thống pháp luật hoàn thiện phải là hệ thống
được xây dựng với trình độ kỹ thuật pháp lý cao. Đây là tiêu chuẩn có ý nghĩa
quan trọng vì pháp luật đòi hỏi phải có sự phù hợp cao độ giữa nội dung và
hình thức. Trình độ pháp lý cao thể hiện ở quy trình ban hành văn bản pháp
luật khoa học, cách thức biểu đạt chuẩn xác, ngôn ngữ diễn đạt rõ ràng, dễ
hiểu, logic, dễ thực hiện; phải xác định đúng những nguyên tắc của hoạt động
xây dựng pháp luật, những trình tự thủ tục tối ưu nhằm tạo ra được những văn
63
bản quy phạm pháp luật tốt nhất, phù hợp với các quy định đã và đang có hiệu
lực, cơ chế thực thi pháp luật phù hợp với các điều kiện kinh tế, xã hội của đất
nước. Hoạt động xây dựng pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán
lẻ xăng dầu phải được tiến hành một cách khoa học, có hệ thống, các văn bản
luật, văn bản dưới luật thuộc các chuyên ngành khác nhau, phải thực sự tạo
thành một chỉnh thể thống nhất, bổ sung cho nhau; kịp thời ban hành văn bản
hướng dẫn tránh tình trạng không thể áp dụng pháp luật được ngay do thiếu
văn bản hướng dẫn.
Sáu là, bảo đảm tính cân bằng lợi ích của chủ thể kinh doanh, người
tiêu dùng và lợi ích của xã hội. Nguyên tắc cân bằng lợi ích của chủ thể tham
gia hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu và lợi ích của xã hội, lợi ích của các
bên liên quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật về tổ chức
và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Quy định về tổ chức và hoạt động
kinh doanh bán lẻ xăng dầu là yêu cầu bắt buộc đối với chủ thể, tuy nhiên, do
đặc tính của mặt hàng xăng dầu nên việc quy định về tổ chức và hoạt động
kinh doanh bán lẻ đối với chủ thể không chỉ bảo vệ quyền lợi của chủ thể, mà
còn, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và lợi ích của toàn xã hội.
Pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu là áp
dụng các quy định do Nhà nước quy định để xử lý những hành vi gây thiệt hại
đến thị trường kinh doanh, môi trường, nền kinh tế xã hội của đất nước. Trong
pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, để đảm bảo sự
cân bằng lợi ích của chủ thể kinh doanh, người tiêu dùng và lợi ích của xã hội
thì việc xác định những yếu tố bị xem là không tuân theo quy định là đặc biệt
quan trọng, không gây tổn hại bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của chủ thể
kinh doanh bán lẻ xăng dầu nhưng cũng không gây ra ảnh hưởng trong nền
kinh tế xã hội, đời sống của người dân. Bên cạnh đó, các quy định về tổ chức
và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu cũng cần phải đảm bảo tính công
64
bằng và đúng đắn để nhằm bảo vệ được quyền lợi hợp pháp và chính đáng
của chủ thể kinh doanh nhưng không làm ảnh hưởng đến các hoạt động kinh
doanh khác trong xã hội.
Bảy là, bảo đảm về thủ tục đơn giản, minh bạch. Pháp luật về tổ chức
và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu cần đảm bảo các thủ tục đăng ký,
các kết quả giải quyết của cơ quan có thẩm quyền phải được thể hiện bằng
văn bản, thủ tục đăng ký thực hiện cần được giải quyết trong thời gian hợp
lý. Các quy phạm pháp luật phải được quy định một cách rõ ràng, đơn giản,
dễ hiểu sẽ tạo điều kiện các chủ thể hoạt động kinh doanh hiểu được một
cách rõ ràng, không gây nhầm lẫn. Hiện nay, hoạt động kinh doanh bán lẻ
xăng dầu còn đang là một ngành kinh doanh khá nhạy cảm, các chủ thể kinh
doanh vẫn có tâm lý quan ngại do vậy, nếu thủ tục phức tạp, chi phí tốn
kém, thông tin khó tiếp cận thì chắc chắn họ sẽ bỏ qua việc tham gia vào thị
trường kinh doanh này, dẫn đến người kinh doanh, đầu tư nghiêm túc dễ
cảm thấy chán nản, môi trường kinh doanh bị méo mó, không khuyến khích
được các hoạt động đầu tư.
Tám là, pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
phải đảm bảo phù hợp với pháp luật quốc tế. Sở dĩ tính phù hợp với pháp
luật quốc tế là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá mức độ hoàn thiện
của pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu vì hoạt
động kinh doanh bán lẻ xăng dầu có sức ảnh hưởng cao đối với hội nhập
quốc tế. Vai trò của hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu đối với sự phát
triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia ngày càng quan trọng và được coi là
một hoạt động kinh doanh thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Việc cam kết
tuân thủ luật chơi chung về các quy định trong hoạt động xuất nhập khẩu
xăng dầu với các đối tác thể hiện quyết tâm và nỗ lực lớn của Việt Nam
trong tiến trình hội nhập quốc tế.
65
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo tính ổn định, hiệu quả và
minh bạch của thị trường kinh doanh bán lẻ xăng dầu
Tính ổn định, hiệu quả và minh bạch của thị trường kinh doanh bán lẻ
xăng dầu theo quy định của pháp luật thể hiện ở nội dung các quy phạm pháp
luật phải rõ ràng, dễ hiểu, đơn nghĩa, không mâu thuẫn; các văn bản pháp luật
phải được công bố công khai (từ khi bắt đầu quy trình xây dựng văn bản đến
việc lấy ý kiến đóng góp của các tổ chức, cá nhân liên quan, các chuyên gia
và đông đảo người dân đế khi văn bản được ban hành) để các doanh nghiệp
nắm rõ những quy định khi tham gia vào hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng
dầu, quyền và nghĩa vụ của chủ thể liên quan đến hoạt động kinh doanh bán lẻ
xăng dầu, các cơ quan có thẩm quyền, trình tự thủ tục thực hiện các công việc
nhằm đủ điều kiện tham gia thị trường kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Việc công
khai văn bản pháp luật không chỉ dừng ở việc đăng tải trên Công báo và các
phương tiện thông tin đại chúng mà còn phải được thực hiện thông qua công
tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để các doanh nghiệp dễ dàng
tiếp cận, hiểu rõ, thực hiện theo quy định về kinh doanh bán lẻ xăng dầu.
Đối với lĩnh vực kinh doanh bán lẻ xăng dầu, hiện nay Nhà nước luôn
thực hiện chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp tự chủ đầu tư xây dựng mới, nâng cấp mở rộng hoạt động kinh doanh.
Với mục tiêu giúp các doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh bán lẻ
xăng dầu có thể phát triển phù hợp với nền kinh tế hiện nay, pháp luật về tổ
chức và hoạt đông kinh doanh bán lẻ xăng dầu phải dần được hoàn thiện hơn,
dựa trên cơ sở đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước. Hoàn
thiện pháp luật về điều kiện và thủ tục thành lập doanh nghiệp đối với lĩnh
vực kinh doanh xăng dầu có điều kiện. Hoàn thiện các văn bản pháp luật về
kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở nước ta hiện nay, tạo ra sự phù hợp với quy
định của các văn bản pháp luật có liên quan khác. Thẩm quyền, hồ sơ, trình tự
66
cấp phép đủ điều kiện kinh doanh bán lẻ xăng dầu cũng cần được thực hiện
nghiêm túc và theo đúng trình tự mà pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh
doanh bán lẻ xăng dầu quy định. Hệ thống hóa các quy định về quản lý kinh
doanh bán lẻ xăng dầu ở nước ta từ các quy định nhỏ lẻ hiện nay thành một
văn bản thống nhất nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập trong thực tiễn thi
hành pháp luật kinh doanh bán lẻ xăng dầu.
Chú trọng hoàn thiện pháp luật kinh doanh bán lẻ xăng dầu theo hướng
cạnh tranh công bằng, bình đẳng, hiện đại an toàn, bảo vệ người tiêu dùng và
lợi ích của nền kinh tế quốc gia. Nhà nước quản lý, ổn định phát triển kinh tế
thông qua các chính sách quản lý kinh doanh. Tùy thuộc vào ngành nghề mà
nhà nước có những quy định khác nhau. Xăng dầu là yếu tố đầu vào vô cùng
quan trọng đối với hầu hết các lĩnh vực kinh tế và đời sống, đặc biệt là ngành
giao thông vận tải, hệ thống mạch máu của nền kinh tế, chính vì vậy mà vai
trò của Nhà nước trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng
dầu rất quan trọng.
Đối với hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, Nhà nước cần chuẩn
hóa các điều kiện kinh doanh, tạo cơ sở hành lang pháp lý điều kiện kinh
doanh bán lẻ xăng dầu nhằm xây dựng thị trường kinh doanh minh bạch lành
mạnh cho hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, các quy định cần được hình
thành và phù hợp một cách toàn diện đối với ngành kinh doanh xăng dầu.
Ngoài ra cần ban hành các cơ chế, chính sách nhằm ưu tiên phát triển kinh tế
xã hội ở một số vùng trọng điểm, đặc biệt là các vùng kinh tế kém phát triển,
cần sự quan tâm hỗ trợ đặc biệt của Nhà nước để các hoạt động kinh doanh
bán lẻ xăng dầu có thuận lợi, phục vụ nhu cầu tại đây. Bên cạnh đó, việc sử
dụng tiết kiệm và hiện quả năng lượng như xăng dầu cũng cần được xem xét
quản lý bằng những chính sách quản lý của Nhà nước nhằm đảm bảo an toàn
nguồn năng lượng của đất nước.
67
Ngoài ra, trong tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu cũng
đã xuất hiện rất nhiều hành vi vi phạm nghiêm trọng, phương thức, thủ đoạn
buôn lậu, gian lận xăng dầu ngày càng tinh vi; các đối tượng móc nối chặt
chẽ với nhau tạo thành đường dây khép kín. Do đó cần xây dựng các chế tài
thật nghiêm khắc, mang tính răn đe cao đối với các hành vi gian lận, vi
phạm nghiêm trọng trong hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, tập trung
xây dựng các quy định thật chặt chẽ, đầy đủ chế tài đối với hoạt động kinh
doanh xăng dầu, kèm theo việc nâng cao mức phạt ở một số vi phạm đặc
biệt nghiêm trọng, đảm bảo tính răn đe, từ đó kỳ vọng việc tuân thủ các điều
kiện về kinh doanh, hoạt động mua bán xăng dầu của các thương nhân sẽ
ngày càng nâng cao.
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp
mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu để
bảo đảm tính cạnh tranh và tăng nguồn cung xăng dầu
Pháp luật về điều kiện kinh doanh bán lẻ xăng dầu cần đảm bảo các thủ
tục đăng ký, các kết quả giải quyết của cơ quan có thẩm quyền phải được thể
hiện bằng văn bản, thủ tục đăng ký thực hiện cần được giải quyết trong thời
gian hợp lý. Các quy phạm pháp luật phải được quy định một cách rõ ràng,
đơn giản, dễ hiểu sẽ tạo điều kiện các chủ thể hoạt động kinh doanh hiểu được
một cách rõ ràng, không gây nhầm lẫn. Hiện nay, hoạt động kinh doanh bán lẻ
xăng dầu còn đang là một ngành kinh doanh khá nhạy cảm, các chủ thể kinh
doanh vẫn có tâm lý quan ngại do vậy, nếu thủ tục phức tạp, chi phí tốn kém,
thông tin khó tiếp cận thì chắc chắn họ sẽ bỏ qua việc tham gia vào thị trường
kinh doanh, người kinh doanh, đầu tư nghiêm túc chán nản, môi trường kinh
doanh bị méo mó, không khuyến khích được các hoạt động đầu tư...
Một trong những mục đích khi xây dựng nội dung pháp luật về tổ chức
và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu là tạo thành một thị trường kinh
68
doanh bán lẻ xăng dầu theo hướng cạnh tranh và cân bằng ổn định. Do đây là
một ngành nghề kinh doanh đặc biệt, nên các điều kiện để tham gia vào hoạt
động kinh doanh của thị trường bắt buộc phải được quy định chặt chẽ. Việc
hình thành các điều kiện đối với các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động
kinh doanh bán lẻ xăng dầu nhằm mục đích chọn ra được những doanh nghiệp
thực sự có năng lực hoạt động kinh doanh, thích hợp với những đặc thù của
ngành nghề kinh doanh bán lẻ xăng dầu, bao gồm cả các yêu cầu về kỹ thuật,
công nghệ trong kinh doanh bán lẻ xăng dầu.
Ngoài ra còn để đảm bảo sự tương đồng về năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp trên một thị trường, tránh trình trạng vì chênh lệch vị thế giữa
các doanh nghiệp mà tạo ra sự chèn ép, phụ thuộc trong thị trường. Bên cạnh
đó việc tạo lập các điều kiện kinh doanh bán lẻ xăng dầu còn bảo đảm chống
tình trạng độc quyền trong kinh doanh và Nhà nước có thể kiểm soát được thị
trường, ổn định cung cầu, hạn chế và ngăn ngừa được các hành vi gian lận
trong kinh doanh. Mở của và hội nhập kinh doanh xăng dầu, chấm dứt tình
trạng đóng cửa hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu đối với các doanh
nghiệp nước ngoài. Đa dạng hóa các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt
động kinh doanh bán lẻ xăng dầu góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế
trong thời kỳ hội nhập với thế giới.
3.1.4. Hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả quản lý giá bán
xăng dầu theo cơ chế giá thị trường, phù hợp với hội nhập kinh tế quốc tế
Về công tác quản lý giá xăng dầu, cần có sự thống nhất về giá xăng
dầu, thuế và thời gian dự trữ cho phù hợp (vì thời gian dự trữ 30 ngày theo
quy định hiện nay là qua dài). Ngoài ra cũng nên bãi bỏ quy định về mua bán
giữa thương nhân đầu mối và thương nhân phân phối. Thực tế hiện nay,
thương nhân đầu mối không được trực tiếp mua xăng của công ty phân phối
nhưng công ty phân phối mua được của thương nhân đầu mối. Ngoài ra cũng
69
liên quan đến vấn đề tăng giá xăng dầu, cần có quy định ví dụ như xăng dầu
thế giới tăng 3% thì doanh nghiệp được tăng bao nhiêu, mức tăng nào phải
xin ý kiến Chính phủ để công khai, minh bạch mức tăng/giảm giá.
Ngoài ra, với việc mở cửa và hội nhập kinh doanh xăng dầu, chấm dứt
tình trạng đóng cửa hoạt động kinh doanh xăng dầu đối với các doanh nghiệp
nước ngoài, sự xuất hiện của những nhà đầu tư ngoại là một tín hiệu khởi sắc
cho thị trường kinh doanh bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam, đa dạng hóa các
thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong thời kỳ hội nhập với thế giới. Tuy
nhiên, đi đôi với việc thu hút, kêu gọi đầu tư từ các doanh nghiệp nước ngoài
thì việc điều chỉnh và bổ sung các quy định pháp luật Việt Nam về tổ chức và
hoạt động bán lẻ xăng dầu đóng vai trò tiên quyết và đặc biệt quan trọng.
Nếu quy định pháp luật vẫn tiếp tục còn tồn tại các hạn chế và quy định
không phù hợp với pháp luật quốc tế thì e rằng, mặc dù thị trường kinh doanh
bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam là miếng bánh hấp dẫn tuy nhiên các doanh
nghiệp đầu tư từ nước ngoài sẽ e dè và không thực sự hứng thú. Sở dĩ tính
phù hợp với pháp luật quốc tế là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá mức
độ hoàn thiện của pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng
dầu vì hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu có sức ảnh hưởng cao đối với
hội nhập quốc tế. Vai trò của hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia ngày càng quan trọng và được coi
là một hoạt động cơ bản để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
3.1.5. Hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của
các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu
Nhà nước quản lý, ổn định phát triển kinh tế thông qua các chính sách
quản lý kinh doanh. Tùy thuộc vào ngành nghề mà nhà nước có những quy
định khác nhau. Xăng dầu là yếu tố đầu vào vô cùng quan trọng đối với hầu hết
70
các lĩnh vực kinh tế và đời sống, đặc biệt là ngành giao thông vận tải, hệ thống
mạch máu của nền kinh tế, chính vì vậy mà vai trò của nhà nước trong công tác
quản lý tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu rất quan trọng.
Đối với hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, Nhà nước cần chuẩn
hóa các điều kiện kinh doanh, tạo cơ sở hành lang pháp lý đối với tổ chức và
hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu nhằm xây dựng thị trường kinh doanh
minh bạch lành mạnh cho hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Các quy
định cần được xâu dựng phù hợp một cách toàn diện đối với ngành kinh
doanh bán lẻ xăng dầu. Ưu tiên phát triển kinh tế xã hội ở một số vùng trọng
điểm, đặc biệt là các vùng kinh tế kém phát triển, cần sự quan tâm hỗ trợ đặc
biệt của Nhà nước để các hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu thuận lợi.
Bên cạnh đó, việc sử dụng tiết kiệm và hiện quả năng lượng như xăng dầu
cũng cần được xem xét quản lý bằng những chính sách quản lý của Nhà nước
nhằm đảm bảo an toàn nguồn năng lượng của đất nước.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt
động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
Một là, đảm bảo tính hợp pháp và sửa đổi nội dung của một số quy
định pháp luật về điều kiện tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
(i) Cần rà soát, hệ thống hóa tổng thế các văn bản pháp luật về điều
kiện kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Nhằm phát hiện, xử lý hoặc kiến nghị sửa
đổi các quy định về điều kiện kinh doanh bán lẻ xăng dầu đã bộc lộ những bất
cập, mâu thuẫn, chống chéo hoặc không còn phù hợp với nền kinh tế thị
trường hiện nay. Đề nghị các cơ quan có thẩm quyền phối hợp lấy ý kiến từ
các doanh nghiệp kinh doanh cũng như tổng kết tình hình thực tiễn để có
hướng sửa đổi phù hợp.
71
(ii) Cần xem xét bổ sung quy định cụ thể đối với các nhà đầu tư muốn
tham gia vào thị trường xăng dầu tại Việt Nam. Trong thỏa thuận gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) và các hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới (FTA), Việt Nam vẫn chưa mở cửa thị trường kinh doanh xăng dầu. Tuy
nhiên hiện tại, Nhà nước cũng đã có chính sách thu hút các nhà đầu tư nước
ngoài tham gia vào thị trường thông qua góp vốn đầu tư vào các nhà máy lọc
hóa dầu. Do đó, chúng ta nên có những quy định rõ ràng, cụ thể hơn về hoạt
động của doanh nghiệp nước ngoài khi tham gia vào thị trường xăng dầu hiện
chưa mở của nước ta.
(iii) Cũng cần quy định cụ thể các văn bản, giấy tờ cần thiết để đăng ký
đủ điều kiện kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Cần đơn giản hóa hồ sơ và trình tự
thủ tục cấp phép đủ điều kiện kinh doanh bán lẻ xăng dầu, cắt giảm những thủ
tục, giấy tờ hồ sơ khi tiến hành xin giấy phép đủ điều kiện kinh doanh bán lẻ
xăng dầu cho phù hợp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, nhưng
vẫn phải bảo đảm công tác quản lý, theo dõi của Nhà nước đối với lĩnh vực
kinh doanh bán lẻ xăng dầu.
Hai là, xây dựng quy định cho phép doanh nghiệp tự quyết định giá
phù hợp với cơ chế giá thị trường
Nhà nước xem xét nghiên cứu ban hành các quy chế quy định về tính
giá xăng dầu. Thông qua tình hình biến động của thị trường xăng dầu thế giới,
các doanh nghiệp sẽ chủ động định giá bán lẻ xăng dầu đối với nguồn xăng
dầu do mình cung cấp theo quy định và đăng ký hoặc thông báo đối với cơ
quan quản lý. Khi đó, Nhà nước chỉ có vai trò định hướng, hậu kiểm đối vơi
cơ chế quản lý giá. Nhà nước chỉ thực sự tham gia điều tiết giá thị trường khi
có sự biến động lớn gây tác động động bất lợi đến thị trường và sản xuất tiêu
dùng, đồng thời, phải thường xuyên thanh tra, kiểm tra, xử lý các trường hợp
vi phạm quy định để răn đe đối với các doanh nghiệp.
72
Về giá cơ sở, đề nghị nghiên cứu bổ sung, sửa đổi Nghị định số 83/2014/NĐ-
CP về việc xem xét bỏ giá cơ sở, không dùng giá cơ sở làm căn cứ để điều
chỉnh giá bán lẻ như hiện nay mà chỉ là tiêu chí để doanh nghiệp tham khảo
trước khi quyết định giá bán lẻ. Việc để doanh nghiệp được quyền quyết định
giá không chỉ đúng với bản chất của nền kinh tế thị trường mà còn mang đến
nhiều lợi ích cho người tiêu dùng. Khi các doanh nghiệp cạnh tranh về giá sẽ
có giá bán khác nhau giữa các thương nhân và chất lượng dịch vụ để thu hút
người tiêu dùng. Do đó, Bộ Tài chính cần sửa đổi các văn bản hướng dẫn thi
hành Luật Giá năm 2012 nên để các doanh nghiệp đăng ký và quyết định giá,
Bộ Tài chính có thể hậu kiểm nếu cần thiết. Mặt khác, đề nghị nghiên cứu
việc bỏ lợi nhuận định mức của kinh doanh xăng dầu, doanh nghiệp phải chấp
nhận quy luật lời ăn lỗ chịu, không thể tồn tại chính sách bán 01 lít xăng dầu
là đương nhiên lãi 300 đồng.
Quy định về điều hành xăng dầu trong nước vẫn còn rất nhiều bất cập,
nhất là việc điều chỉnh giá xăng dầu theo chu kỳ đang gây ra những khó khăn
nhất định cho các doanh nghiệp vận tải, phát triển du lịch, ảnh hưởng tới mục
tiêu phát triển kinh tế chung của cả nước. Hiện nay, với tần suất điều chỉnh
giá của Nhà nước (thời gian giữa hai lần điều chỉnh giá liên tiếp tối thiểu là 15
ngày đối với trường hợp tăng giá, tối đa là 15 ngày đối với trường hợp giảm
giá), giá bán lẻ trong nước sẽ khó có thể bắt kịp những biến động của giá xăng
dầu thế giới trong bối cảnh những yếu tố tác động lên giá dầu như kinh tế, địa
chính trị, tôn giáo liên tục diễn biến phức tạp và khó lường như hiện nay.
Trong 15 ngày của kỳ điều hành, thị trường xăng dầu thế giới có biết bao
nhiêu diễn biến khác nhau, trong khi thị trường trong nước không kịp phản
ứng khiến việc điều hành giá bị động, không theo sát được diễn biến của giá
thế giới. Vì vậy, đề nghị nên quy định rút ngắn tần suất điều chỉnh giá xăng
dầu xuống còn 10 ngày để giá bán trong nước ngày càng tiệm cận với giá thế
73
giới, tránh độ trễ trong việc điều hành giá, thay vì chu kỳ 15 ngày như hiện
nay để giá bán trong nước ngày càng tiệm cận với giá thế giới, tránh độ trễ
trong việc điều hành giá.
Ba là, nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật về kinh doanh xăng dầu
nói chung và kinh doanh bán lẻ xăng dầu nói riêng
Hiện nay, ngành nghề kinh doanh xăng dầu là một trong những lĩnh
vực kinh doanh then chốt, quan trọng và có tác động mạnh mẽ đến nền nền
kinh tế xã hội cũng như đời sống nhân dân. Tuy nhiên, cho đến nay, các hoạt
động kinh doanh xăng dầu chủ yếu dựa trên các quy định của các cơ quan
hành pháp nên các quy định này dễ gây chồng chéo, mâu thuẫn không nhất
quán với nhau là điều khó tránh khỏi. Để phát huy được hiệu quả việc quản lý
kinh doanh xăng dầu thì nên xây dựng, ban hành Luật Kinh doanh xăng dầu
để luật hóa các quy định đem lại hiệu quả tối ưu cho công tác quản lý, bảo vệ
lợi ích quốc gia và đảm bảo nguồn an ninh về năng lượng cả đất nước.
Bốn là, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức và hoạt
động kinh doanh bán lẻ xăng dầu tại Nghị định số 83/2014/NĐ-CP
Đối với quy định pháp luật về hoạt động kinh doanh xăng dầu nói
chung và kinh doanh bán lẻ xăng dầu nói riêng, cần sửa đổi Nghị định số
83/2014/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu, trong đó, cân nhắc lại quy định cho
phép thương nhân phân phối được lấy từ nhiều nguồn, rà soát, sửa đổi công
thức tính giá cơ sở mặt hàng xăng dầu, rà soát, nghiên cứu cắt giảm một số
điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực xăng dầu nhằm tạo điều kiện hơn
nữa cho doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh doanh xăng dầu để thị
trường xăng dầu cạnh tranh hơn và đảm bảo nguồn cung tốt hơn
Đối với quy định tại Nghị định số 83/2014/NĐ-CP về việc đại lý bán lẻ
xăng dầu chỉ được lấy hàng từ một nguồn khiến nhiều doanh nghiệp nhỏ và
vừa gặp khó khăn; các cửa hàng đại lý đã có giấy đủ điều kiện kinh doanh nay
74
lại thêm “giấy phép con” cho thương nhân phân phối và tổng đại lý là không
cần thiết; quy định về việc cửa hàng xăng dầu sử dụng đất ở (có sổ đỏ) để xây
dựng cửa hàng kinh doanh xăng dầu hiện đang kinh doanh ổn định phải
chuyển mục đích sử dụng đất sang kinh doanh xăng dầu là chưa hợp lý.
Ngoài ra, thành phần hồ sơ cấp giấy chứng nhận cửa hàng bán lẻ xăng
dầu quy định tại Khoản a Điều 25 Mục 7 Nghị định số 83/2014/NĐ-CP là
phải có “bản kê trang thiết bị của cửa hàng bán lẻ xăng dầu theo quy định tại
Khoản 3 Điều 24 Nghị định này và tài liệu chứng minh tính hợp pháp về xây
dựng của cửa hàng bán lẻ xăng dầu” là không hợp lý, vì với quy định này, chủ
trương của Ủy ban nhân dân tỉnh hoặc giấy phép xây dựng đều là tài liệu để
chứng minh tính hợp pháp về xây dựng.
Về điều kiện đối với cửa hàng bán lẻ xăng dầu được quy định tại
Khoản 3, 4 Điều 24 Mục 7 Nghị định số 83/2014/NĐ-CP là: “Được thiết kế,
xây dựng và có trang thiết bị theo đúng các quy định hiện hành về quy chuẩn,
tiêu chuẩn cửa hàng bán lẻ xăng dầu, an toàn phòng cháy chữa cháy, bảo vệ
môi trường của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền”. Đại diện các Sở
Công thương đều cho rằng Bộ Công thương cần xem lại, vì với quy định này,
doanh nghiệp chứng minh bằng tài liệu gì và điều kiện phòng cháy chữa cháy
chứng minh như thế nào. Cùng với đó, giấy chứng nhận hết hạn quy định
thành phần hồ sơ cấp lại như cấp mới phải thực hiện các quy định như đã nêu
trên thì không có tài liệu gì để doanh nghiệp chứng minh hoặc có cũng không
thể đúng theo quy định hiện hành về quy chuẩn, tiêu chuẩn cửa hàng… Chính
những bất cập này nên hiện nay, hầu hết các cửa hàng bán lẻ xăng dầu trên
địa bàn các tỉnh đều gặp khó khăn trong việc cấp lại giấy chứng nhận.
Việc cấp giấy chứng nhận cửa hàng kinh doanh bán lẻ xăng dầu, khi
doanh nghiệp xin được chủ trương, bảo đảm tốt công tác phòng cháy chữa
cháy… doanh nghiệp phải ra Bộ Giao thông - Vận tải xin tiếp giấy phép thi
75
công đấu nối đường dẫn của cửa hàng xăng dầu vào đường tỉnh, vì vị trí đặt
cửa hàng kinh doanh bán lẻ xăng dầu của doanh nghiệp nằm trên quốc lộ. Do
đó, cần điều chỉnh phân cấp về xin giấy phép thi công đấu nối cho địa phương
quản lý, vì số lượng xin đấu nối cho cây xăng nằm trên quốc lộ rất ít.
Những quy định điều kiện kinh doanh xăng dầu đang bất cập với những
quy định của pháp luật ra đời sau Nghị định số 83/2014/NĐ-CP như Luật
Doanh nghiệp năm 2015, Luật Đầu tư năm 2015. Đề nghị nghiên cứu sửa đổi,
bổ sung, ban hành Nghị định mới để có thể hoàn thiện, thống nhất các quy
định của pháp luật, tránh việc các quy định chồng chéo gây khó khăn cho
doanh nghiệp khi áp dụng và thực hiện.
Năm là, quy định cụ thể các biện pháp chế tài xử phạt đối với các doanh
nghiệp kinh doanh xăng dầu về phòng cháy, chữa cháy và vệ sinh môi trường
(i) Về phòng cháy, chữa cháy, hiện nay rất nhiều cơ sở kinh doanh,
doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu hiểu rõ tầm quan trọng của công tác phòng
cháy, chữa cháy trong kinh doanh xăng dầu và cũng thấy rõ hậu quả khi
không chấp hành nghiêm chỉnh các điều kiện này, nhưng vì mục đích giảm
thiểu chi phí nên vẫn cố tình vi phạm các điều kiện về phòng cháy, chữa cháy.
Thậm chí, sẵn sàng bao che cho tội phạm, không phối hợp với các cơ quan có
thẩm quyền hoặc cố tình bị xử lý vi phạm nhưng tiếp tục tái phạm.... Chính vì
vậy, các cơ quan chức năng cần phải tăng cường hơn nữa các biện pháp xử
phạt, có thể nghiên cứu quy chế xử phạt riêng đối với những vi phạm về
phòng cháy, chữa cháy như: Buộc đóng cửa cửa hàng xăng dầu vi phạm, thu
hồi giấy phép đủ điều kiện kinh doanh… nhằm nâng cao hơn nữa ý thức chấp
hành các quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh xăng dầu đối với các
doanh nghiệp kinh doanh.
(ii) Về bảo về môi trường, cần xây dựng các quy định cụ thể về trình
độ, kiến thức về nghiệp vụ môi trường đối với các cán bộ và nhân viên tại các
76
doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Định kỳ kiểm tra công tác bảo vệ
môi trường tại các cửa hàng xăng dầu cũng như buộc các doanh nghiệp phải
lập báo cáo kết quản quan trắc môi trường định kỳ.
Sáu là, tăng cường vai trò của hoạt động xử lý vi phạm pháp luật về
điều kiện kinh doanh xăng dầu
Nghị định số 67/2017/NĐ-CP ngày 25/05/2017 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực dầu khí, kinh doanh xăng dầu
và khí là một trong những căn cứ quan trọng trong việc xử lý vi phạm pháp
luật về hoạt động kinh doanh xăng dầu ở nước ta hiện nay. Cần tiếp tục hoàn
thiện thể chế chính sách liên quan đến quản lý nhà nước về xử lý vi phạm
hành chính, kịp thời sửa đổi bổ sung những quy định trong xử lý vi phạm
pháp luật về hoạt động kinh doanh xăng dầu. Ngoài ra, cần nghiên cứu, xây
dựng các quy định pháp luật theo hướng tăng cường kiểm tra, xử lý các hành
vi vi phạm nghiêm trọng trong hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, quy
định chặt chẽ, đầy đủ chế tài đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu, kèm
theo việc nâng cao mức phạt ở một số vi phạm, đảm bảo tính răn đe. Trong
quá trình cấp phép kinh doanh xăng dầu, cơ quan quản lý phải yêu cầu doanh
nghiệp, hộ kinh doanh ký cam kết chấp hành nghiêm các quy định của pháp
luật. Nếu có vi phạm, cơ quan quản lý phải xử lý nghiêm, đồng thời rút giấy
phép; thậm chí rút giấy phép vĩnh viễn không cho kinh doanh nếu vi phạm
nhiều lần, nhất là vi phạm về chất lượng.
Bảy là, quy định về Quỹ Bình ổn giá xăng dầu
Nên xem xét bỏ Quỹ Bình ổn giá xăng dầu để lĩnh vực kinh doanh xăng
dầu hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường, giá xăng dầu trong nước diễn
biến theo xu hướng chung của giá thế giới, giá xăng dầu tăng cao, người tiêu
dùng sẽ trả ở mức cao và ngược lại, khi giá xăng dầu xuống thấp người tiêu
dùng sẽ được hưởng lợi. Cụ thể, trên thực tế, Hiệp hội Xăng dầu Việt Nam
77
(VINPA) cho rằng, việc trích lập Quỹ Bình ổn giá xăng dầu xăng dầu khiến
người tiêu dùng chịu thiệt hơn được lợi, vì bản chất là người tiêu dùng đang
ứng trước cho Quỹ này. Bên cạnh đó, việc sử dụng Quỹ Bình ổn giá xăng dầu
mang đậm tính can thiệp hành chính làm méo mó giá cả thị trường xăng dầu.
Vì vậy, VINPA kiến nghị bỏ Quỹ Bình ổn giá xăng dầu để lĩnh vực kinh
doanh xăng dầu hoạt động theo cơ chế thị trường, giá xăng dầu trong nước
diễn biến theo xu hướng chung của giá thế giới. Mặt khác, khi bỏ Quỹ Bình
ổn giá xăng dầu, tính minh bạch công khai trong điều hành giá sẽ tốt hơn, tạo
cơ hội bình đẳng trong hệ thống doanh nghiệp đầu mối.
Ông Vũ Vinh Phú, nguyên Phó Giám đốc Sở Thương mại Hà Nội cho
biết, kiến nghị này đã từng được đưa ra từ nhiều năm nay. Quan điểm cá nhân
ông ngay từ đầu là không nên hình thành quỹ này, bởi nó tồn tại rất vô nghĩa,
“vô thưởng, vô phạt”. Nhiều năm qua, Quỹ Bình ổn giá xăng dầu được chi
tiêu ra sao, lãi suất gửi ngân hàng bao nhiêu, số dư kết từng tháng, từng kỳ
không minh bạch. ông Phú nhấn mạnh: “Quỹ bình ổn là phi thị trường nên
cần phải bỏ, người quản lý thay vì dùng quỹ để điều tiết giá cần phải giải
quyết tốt bài toán cung – cầu, lưu thông thông suốt, tổ chức hệ thống phân
phối hiệu quả”. Đồng thời khẳng định, thời gian qua, việc sử dụng Quỹ Bình
ổn giá xăng dầu đang bị lạm dụng, hậu quả là dẫn đến giá xăng dầu tăng phi
mã trong những kỳ điều hành gần đây [30].
Tuy nhiên, trên thực tế, Quỹ Bình ổn giá xăng dầu cũng có một số vai
trò quan trọng trong việc điều hành kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, đồng
thời bảo đảm hài hòa lợi ích của ba bên người dân, doanh nghiệp kinh doanh
xăng dầu và Nhà nước, đặc biệt trong bối cảnh giá xăng dầu đang được định
giá cơ sở thì không thể không có quỹ bình ổn. Nhà nước quản lý giá phải có
công cụ trong tay để khi giá thế giới lên cao phải dựa vào đó để xả Quỹ Bình
78
ổn giá xăng dầu, không cho tăng cao. Tuy nhiên, vấn đề gây bức xúc mấu
chốt là trích và sử dụng quỹ chưa hợp lý.
Trong trường hợp tiếp tục quy định Quỹ Bình ổn giá xăng dầu, cần cải
tiến việc trích lập Quỹ theo hướng khi giá thế giới giảm sâu, vẫn để giá ở mức
như vậy, không muốn điều chỉnh giá tại thời điểm khi đó quyết định mức thu
vào Quỹ. Khi giá có biến động, tùy theo sự biến động nhiều hay ít mà trích
nguồn quỹ này hợp lý cho bình ổn giá. Không nên thu và trích quỹ cố định
trong mọi trường hợp, hoặc nguồn thu và trích bằng nhau khi biên độ tăng giá
cơ sở không lớn. Việc này khiến cộng đồng cảm thấy Quỹ Bình ổn giá xăng
dầu không có tác dụng. Ngoài ra cần quy định tính toán hợp lý việc sử dụng
Quỹ Bình ổn giá xăng dầu để tránh giật cục, không lạm dụng quá nhiều quỹ
và xem nó như chiếc “đũa thần” như trong thời gian qua.
Tám là, xây dựng cơ chế phối hợp giữa Sở Khoa học và Công nghệ, Sở
Công Thương, Công an, Cục Thuế, Cục Quản lý thị trường, Chi cục Tiêu chuẩn
Đo lường Chất lượng trong quản lý điều hành kinh doanh bán lẻ xăng dầu
Trong thực tế, lực lượng Quản lý thị trường khi kiểm tra các cửa hàng
xăng dầu chủ yếu tập trung vào việc niêm yết giá, gian lận đo lường, còn việc
kiểm tra chất lượng, tiêu chuẩn xăng dầu do Bộ Khoa học và Công nghệ, Sở
Khoa học và Công nghệ địa phương đảm nhiệm.
Các hành vi gian lận trong kinh doanh bán lẻ xăng dầu hết sức phức
tạp, có tính phổ biến, thủ thuật tinh vi, đặc biệt là thủ thuật thay đổi phần mềm
có sai số lớn cài đặt lên bộ vi xử lý để gian lận đo lường. Do đó, đề xuất cần
xây dựng cơ chế phối hợp giữa Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Công Thương,
Công an, Cục Thuế, Cục Quản lý thị trường, Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường
Chất lượng. Trong quá trình cấp phép kinh doanh bán lẻ xăng dầu, cơ quan
quản lý phải yêu cầu doanh nghiệp, hộ kinh doanh ký cam kết chấp hành
nghiêm các quy định của pháp luật, nếu vi phạm phải xử lý nghiêm, nếu sai
79
phạm nhiều lần thì phải rút giấy phép kinh doanh vĩnh viễn, nhất là vi phạm
về chất lượng.
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về tổ chức và
hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
(i) Các lực lượng chức năng cần tăng cường nắm địa bàn, giám sát chặt
chẽ các đại lý, cửa hàng kinh doanh bán lẻ xăng dầu, kiểm tra và xử lý
nghiêm các trường hợp vi phạm theo quy định. Đồng thời qua mỗi đợt kiểm
tra, lực lượng Quản lý thị trường cũng tuyên truyền, phổ biến các quy định
pháp luật về kinh doanh xăng dầu đến các cơ sở kinh doanh.
Bên cạnh đó, công khai các cửa hàng xăng dầu vi phạm trên các phương
tiện thông tin đại chúng để người tiêu dùng biết, giám sát và tự bảo vệ, góp
phần cùng các cơ quan chức năng phòng chống các hành vi kinh doanh gian
lận đối với mặt hàng xăng dầu.
(ii) Nhà nước cần tăng cường kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật trong
kinh doanh bán lẻ xăng dầu nhằm tăng cường kỷ cương pháp luật, ngăn chặn,
hạn chế tối đa những vi phạm có thể xảy ra trong kinh doanh bán lẻ xăng dầu.
Các cơ quan, đơn vị tăng cường các biện pháp phòng, chống cháy nổ xe cơ
giới. Kiểm tra việc chấp hành các quy định về điều kiện kinh doanh, bảo đảm
an toàn phòng, chống cháy nổ đối với thương nhân đầu mối, tổng đại lý, đại
lý, cửa hàng bán lẻ xăng dầu; thương nhân đầu mối, tổng đại lý. Các cơ sở sản
xuất, kinh doanh bán lẻ xăng dầu không duy trì đúng các điều kiện kinh
doanh, điều kiện an toàn phòng, chống cháy nổ phải đình chỉ hoạt động, bị thu
hồi hoặc tước giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh theo quy định. Xóa
bỏ các điểm pha chế, bán xăng dầu, sang chiết, nạp trái phép.
(iii) Chủ trì, phối hợp với các địa phương khẩn trương rà soát và xây dựng
phương án phù hợp di dời các cơ sở kinh doanh bán lẻ xăng dầu ra khỏi các khu
tập trung đông dân cư, không thuận lợi cho công tác phòng cháy chữa cháy.
80
(iv) Tiếp tục tăng cường kiểm tra, kiểm soát, đấu tranh chống buôn lậu,
gian lận thương mại trong kinh doanh bán lẻ xăng dầu trên địa bàn tỉnh; theo
dõi chặt chẽ hơn nữa các hoạt động mua bán, giao nhận và vận chuyển xăng
dầu lưu thông trên đường để kịp thời phát hiện, xử lý hành vi kinh doanh bán
lẻ xăng dầu không rõ nguồn gốc, xăng dầu nhập lậu. Đồng thời đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, ký cam kết không kinh doanh xăng dầu không bảo đảm
chất lượng, không rõ nguồn gốc, nhập lậu.
(v) Bên cạnh trách nhiệm của lực lượng chức năng, đòi hỏi chính quyền
địa phương tích cực vào cuộc. Cần gắn trách nhiệm cụ thể đối với chính
quyền cấp địa phương trong quản lý hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu
trên địa bàn; kịp thời khen thưởng những cá nhân, tập thể có thành tích tốt và
đề nghị xử lý kỷ luật với những đơn vị, địa phương để xảy ra các vi phạm.
(vi) Việc thực hiện các văn bản cần được tiến hành theo phân công,
phân cấp rõ ràng giữa các cơ quan quản lý, tránh sự chồng chéo hay trốn tránh
trách nhiệm. Đối với công tác cấp phép đăng ký kinh doanh bán lẻ xăng dầu
trên địa bàn, các Sở, Ban, Ngành cần thực hiện đúng nhiệm vụ của mình một
cách nhanh chóng. Đồng thời, có những thông tin trao đổi qua lại và báo cáo
lên Sở Kế hoạch và Đầu tư để việc cấp phép cho các doanh nghiệp đạt yêu
cầu được diễn ra thuận lợi với các thủ tục nhanh gọn, đơn giản.
Công tác cấp đăng ký kinh doanh tại những huyện vùng sâu, vùng xa
nên được quan tâm và tạo mọi điều kiện thuận lợi để trên những huyện này
sớm có những cơ sở kinh doanh bán lẻ xăng dầu hợp pháp phục vụ nhu cầu
tiêu dùng của người dân.
(vii) Xây dựng giải pháp quản lý từ “gốc”, nói cách khác, cần quy
hoạch lại thương nhân đầu mối xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu, thương nhân
phân phối xăng dầu. Giải pháp về “ngọn” là thương nhân bán lẻ xăng dầu
buộc phải chịu trách nhiệm về chất lượng cũng như số lượng xăng dầu bán
81
cho người dân, bị xử lý nghiêm khắc nếu vi phạm. Cần có quy định bắt buộc
áp dụng khoa học công nghệ như gắn camera theo dõi 24/24h tại các cửa
hàng bán lẻ xăng dầu, gắn thiết bị định vị đối với tất cả các phương tiện vận
chuyển xăng dầu.
Đặc biệt, Tổng cục Quản lý thị trường là đơn vị trực tiếp đấu tranh với
gian lận thương mại trên thị trường cần được tăng quyền, được đầu tư về kỹ
thuật công nghệ để cán bộ quản lý thị trường từng bước chủ động xử lý các vụ
gian lận thương mại, đặc biệt là các mặt hàng kinh doanh có điều kiện, liên quan
trực tiếp đến đời sống, sức khỏe của người dân như xăng dầu, thực phẩm…
Có thể nói, chỉ khi nào xử lý vấn đề gốc trong quy trình từ nhập khẩu,
sản xuất xăng dầu đến bán lẻ cho người tiêu dùng, đầu tư cho lực lượng thực
thi pháp luật, mới có thể hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng xăng dầu giả,
kém chất lượng.
- Tiếp cận, phân tích các ý kiến, kiến nghị, nguyện vọng của các thương
nhân kinh doanh bán lẻ xăng dầu với các cơ quan chức năng có thẩm quyền,
làm cơ sở cho việc soạn thảo các quyết định.
- Cần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các cửa hàng bán lẻ
xăng dầu. Đồng thời cần giám sát việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, các
cơ sở, tránh để xảy ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh.
82
Tiểu kết Chương 3
Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật về tổ chức và hoạt
động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, cũng như quá trình thực hiện pháp luật trong
lĩnh vực này ở Việt Nam hiện nay, Luận văn đã xác định các định hướng hoàn
thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu. Và trên cơ
sở phân tích các định hướng hoàn thiện pháp luật, học viên đã đề xuất một số
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán
lẻ xăng dầu tại Việt Nam.
Theo đó, việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh
bán lẻ xăng dầu cần dựa trên các tiêu chí cơ bản nhằm đảm bảo tính ổn định,
hiệu quả và minh bạch của thị trường kinh doanh bán lẻ xăng dầu, tạo điều
kiện cho doanh nghiệp mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh
bán lẻ xăng dầu để bảo đảm tính cạnh tranh và tăng nguồn cung xăng dầu,
nâng cao hiệu quả quản lý giá bán xăng dầu theo cơ chế giá thị trường, phù
hợp với hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ
quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu.
83
KẾT LUẬN
Thực hiện nghiên cứu đề tài “Tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ
xăng dầu theo pháp luật Việt Nam” trong khuôn khổ Luận văn Thạc sĩ luật
học, cho phép rút ra một số kết luận sau đây:
1. Xăng dầu là mặt hàng chiến lược có tầm quan trọng, có tác động
mạnh mẽ tới sự phát triển kinh tế và sự ổn định xã hội của Việt Nam. Xăng
dầu là yếu tố đầu vào quan trọng của sản xuất, đồng thời là loại năng lượng có
hạn, không thể tái sinh và hiện tại chưa thể thay thế được. Bên cạnh các hoạt
động kinh doanh phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, xăng dầu còn là mặt
hàng dự trữ chiến lược quốc gia. Trong điều kiện mới, việc đảm bảo hiệu quả
kinh doanh, tự chủ của doanh nghiệp đồng thời phải đi liền với đảm bảo an
ninh năng lượng quốc gia. Khi tiến hành mở cửa thị trường xăng dầu theo xu
hướng hội nhập, vấn đề đặt ra là, làm thế nào để đảm bảo cho hoạt động bán
lẻ xăng dầu vận động tự do theo quy luật cung cầu, tạo dựng môi trường cạnh
tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp? Chìa khóa trả lời cụ thể nhất là các
quy định pháp luật về hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam.
2. Kinh doanh bán lẻ xăng dầu là hoạt động bán xăng dầu trực tiếp cho
người tiêu dùng (bao gồm các cá nhân, tổ chức, đơn vị kinh tế) để tiêu dùng
nội bộ; kinh doanh bán lẻ xăng dầu nhằm mục đích sinh lợi. Tổ chức và hoạt
động kinh doanh bán lẻ xăng dầu được hiểu là hệ thống phân phối bán lẻ xăng
dầu thông qua hệ thống phân phối chính là các cửa hàng bán lẻ xăng dầu trực
thuộc các thương nhân kinh doanh xăng dầu theo quy định của pháp luật Việt
Nam. Do vai trò hết sức quan trọng của xăng dầu đối với đời sống kinh tế xã
hội và đặc điểm kinh doanh sản phẩm này, mà Chính phủ nhiều nước đều can
thiệp vào giá cả xăng dầu bằng nhiều hình thức và biện pháp điều tiết, khống
chế khác nhau và Việt Nam cũng không là một ngoại lệ.
84
3. Thực tiễn ở nước ta hiện nay cho thấy, pháp luật về tổ chức và hoạt
động kinh doanh bán lẻ xăng dầu đã có nhiều thay đổi theo cơ chế thị trường
và thúc đẩy hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu ngày càng sôi động, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng,
cho dù có những thay đổi cơ bản về cơ chế trị trường, nhưng hoạt động kinh
doanh bán lẻ xăng dầu vẫn còn những hạn chế, bất cập. Công tác thanh tra,
kiểm tra và quản lý thị trường thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập. Tình trạng
xây dựng cửa hàng xăng dầu không nằm trong quy hoạch hoặc chưa được cấp
có thẩm quyền chấp thuận còn xuất hiện ở nhiều địa phương; một số cửa hàng
xăng dầu không đáp ứng được tiêu chí theo quy định nên chất lượng phục vụ
thấp; một số tổ chức, doanh nghiệp xây dựng trạm cấp phát nội bộ nhưng vẫn
tự ý bán hàng; một số doanh nghiệp đầu mối, tổng đại lý xăng dầu vẫn bán
hàng cho các cửa hàng không nằm trong hệ thống, các cửa hàng xây dựng trái
phép nhưng chưa bị xử phạt hoặc nếu xử phạt cũng chỉ ở mức nhẹ nên chưa
đủ sức răn đe.
4. Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật về tổ chức và hoạt
động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, cũng như quá trình thực hiện pháp luật
trong lĩnh vực này ở Việt Nam hiện nay, Luận văn đã đề xuất các định hướng
và giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động kinh doanh bán lẻ
xăng dầu. Theo đó, việc hoàn thiện pháp luật cần dựa trên các tiêu chí cơ bản
nhằm đảm bảo tính ổn định, hiệu quả và minh bạch của thị trường, tạo điều
kiện cho doanh nghiệp mọi thành phần kinh tế tham gia thị trường để bảo đảm
tính cạnh tranh và tăng nguồn cung xăng dầu, nâng cao hiệu quả quản lý giá
bán xăng dầu theo cơ chế giá thị trường, đồng thời, nâng cao vai trò, trách
nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh bán lẻ
xăng dầu ở nước ta hiện nay./.
85
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Nguyễn Thị Ánh (2015), Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
2.
Bộ Khoa học Công nghệ (2015), Thông tư số 15/2015/TT-BKHCN quy định về đo lường và chất lượng trong kinh doanh xăng dầu, Hà Nội.
3.
Bộ Tài chính (2017), Thông tư số 38/2014/TT-BCT sửa đổi tại Điều 1 Thông tư số 28/2017/TT-BCT, Hà Nội.
4.
Bộ trưởng Bộ Công thương (2013), Thông tư 11/2013/TT-BCT quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về yêu cầu thiết kế cửa hàng xăng dầu, Hà Nội.
5.
Chính phủ (2007), Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12/02/2007 quy định chi tiết Luật Thương mại, Hà Nội.
6.
Chính phủ (2014), Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ban hành ngày 03/09/2014 về kinh doanh xăng dầu, Hà Nội.
7.
Chính phủ (2018), Nghị định số 08/2018/NĐ-CP Sửa đổi một số Nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công Thương, Hà Nội.
8.
Nguyễn Duyên Cường (2011), Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sỹ kinh tế.
9.
Nguyễn Thế Cường (2016), Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
10. Cảnh Chí Hùng (2014), Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
11. Ngô Thị Liên (2018), Thực hiện pháp luật về kinh doanh xăng dầu trên địa bàn tỉnh Lai Châu, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
86
12. Petrolimex (2018), Báo cáo thường niên.
13. Petrolimex (2019), Báo cáo thường niên.
14. Quốc hội (1990), Luật Công ty, Hà Nội.
15. Quốc hội (1999), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
16. Quốc hội (2005), Luật Thương mại, Hà Nội.
17. Quốc hội (2014), Luật Bảo vệ môi trường, Hà Nội.
18. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
19. Tổng công ty Dầu Việt Nam (PV Oil) (2019), Báo cáo thường niên.
20. Bùi Thị Hồng Việt (2012), Chính sách quản lý nhà nước đối với kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân.
II. Tài liệu Website
21. Ngọc An (2018), “Đua mở chuỗi bán lẻ xăng dầu”, Báo tuổi trẻ,
https://tuoitre.vn/dua-mo-chuoi-ban-le-xang-dau- 20181216215611874.htm.
22. Ngọc An, Lê Thanh (2017), “Người Nhật đã vào bán xăng, hãy cạnh tranh thật sự”, Báo tuổi trẻ, https://tuoitre.vn/nguoi-nhat-da-vao-ban- xang-hay-canh-tranh-that-su-20171011075931613.htm.
23. Thanh Anh (2020), “PVOIL: Nỗ lực để khẳng định vị thế”, Báo chính http://baochinhphu.vn/Doanh-nghiep/PVOIL-No-luc-de-khang-
phủ, dinh-vi-the/385350.vgp.
24. Tùng Dương (2019), “Bất cập trong quản lý kinh doanh xăng dầu”, Petrolimex Times, https://baomoi.com/bat-cap-trong-quan-ly-kinh- doanh-xang-dau-ky-1/c/32753756.epi.
25. Lưu Bích Hồ (2017), 4 điểm khác biệt của cây xăng Nhật Bản có Tổng giám đốc cúi gập người chào khách, https://soha.vn/4-diem-khac-biet- cua-cay-xang-nhat-ban-co-tong-giam-doc-cui-gap-nguoi-chao-khach- 20171011152856516.htm.
87
26. Hà Phương (2019), “PV Oil chật vật mở rộng thị phần”, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp, https://enternews.vn/pv-oil-chat-vat-mo-rong-thi- phan-156099.html.
27. Trung Tân (2020), “Truy tố 39 người trong đường dây sản xuất xăng giả 2.500 tỉ”, Báo tuổi trẻ, https://tuoitre.vn/truy-to-39-nguoi-trong- duong-day-san-xuat-xang-gia-2500-ti-20200806191509809.htm.
28. Quang Thắng (2017), “Hà Nội: Có một trạm xăng ngoại trong KCN Thăng Long”, Danviet.vn, https://danviet.vn/ha-noi-co-mot-tram-xang- ngoai-trong-kcn-thang-long-7777811067.htm.
29. Vietnam Finance (2018), Cổ phần hóa PVOil: Ai sẽ trở thành cổ đông chiến lược?, https://www.bvsc.com.vn/NewsTools/Print.aspx?newsid=555427.
30. https://www.ssi.com.vn/khach-hang-ca-nhan/tin-kinh-te/tin-tuc/1857125
88