ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
TRẦN ĐỨC ANH
Tæ chøc vµ ho¹t ®éng cña TßA ¸N NH¢N D¢N
THEO Tinh thÇn hiÕn ph¸p N¨M 2013
Qua thùc tiÔn tØnh vÜnh phóc
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
TRẦN ĐỨC ANH
Tæ chøc vµ ho¹t ®éng cña TßA ¸N NH¢N D¢N
THEO Tinh thÇn hiÕn ph¸p N¨M 2013
Qua thùc tiÔn tØnh vÜnh phóc
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp - Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS BÙI XUÂN ĐỨC
HÀ NỘI - 2016
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ
và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem
xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
LỜI CAM ĐOAN
TRẦN ĐỨC ANH
Trang
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM VÀ QUÁ TRÌNH CẢI
CÁCH TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG TRƯỚC HIẾN PHÁP 2013 ....... 10
1.1. Vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của Tòa án nhân dân .......... 10
1.1.1. Vị trí của Tòa án nhân dân trong hệ thống cơ quan nhà nước ......... 10
1.1.2. Vai trò, chức năng nhiệm vụ của Tòa án nhân dân .......................... 13
1.2. Quá trình cải cách tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân
trước Hiến pháp 2013 .................................................................... 23
1.2.1. Toà án nhân dân giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2002 .................. 23
1.2.2. Toà án nhân dân giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2013 .................. 27
Chương 2: TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀN ÁN NHÂN
DÂN THEO TINH THẦN HIẾN PHÁP 2013 THỰC TIỄN
TỪ TỈNH VĨNH PHÚC ................................................................. 31
2.1. Nhận thức và thể hiện rõ tính chất, vị trí, vai trò của Tòa
án nhân dân theo các quy định của Hiến pháp năm 2013 .......... 31
2.1.1. Nhận thức về quyền tư pháp ............................................................ 31
2.1.2. Cơ quan thực hiện quyền tư pháp .................................................... 35
2.2. Thiết lập và kiện toàn tổ chức của Tòa án nhân dân theo
các quy định của Hiến pháp 2013 ................................................. 40
2.3. Xác định đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân
theo các quy định của Hiến pháp năm 2013 ................................ 45
2.4. Đổi mới phương thức hoạt động của Tòa án nhân dân theo
các quy định của Hiến pháp năm 2013 ......................................... 46
2.5. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân qua thực tiễn
tỉnh Vĩnh Phúc ................................................................................ 47
Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VIỆC TRIỂN KHAI THỰC
HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ TÒA ÁN NHÂN DÂN THEO
TINH THẦN HIẾN PHÁP 2013 ................................................... 52
3.1. Giải pháp nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của Tòa án
nhân dân theo tinh thần Hiến pháp 2013 ..................................... 52
3.1.1. Xây dựng hệ thống quan điểm lý luận đầy đủ về quyền tư pháp,
xác định Tòa án là cơ quan thực hiện quyền Tư pháp ..................... 52
3.1.2. Quán triệt thực hiện những điểm mới về vị trí, vai trò quan
trọng của Tòa án nhân dân ............................................................... 54
3.2. Các giải pháp nhằm thực hiện tốt quy định về tổ chức, chức
năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt động của Tòa án theo
tinh thần Hiến pháp 2013 ............................................................... 54
3.2.1. Đảm bảo việc xây dựng hệ thống tòa án các cấp ............................ 54
3.2.2. Tăng cường tranh tụng tại phiên tòa hình sự theo tinh thần của
hiến pháp 2013 ................................................................................. 57
3.2.3. Nâng cao tính độc lập của Tòa án trong mối quan hệ với các cơ
quan khác trong hệ thống các cơ quan tư pháp ............................... 58
3.2.4. Nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ Thẩm phán, thực hiện tốt
quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán .................................... 60
3.2.5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí, chế độ đãi ngộ với
cán bộ công chức ngành Tòa án ...................................................... 62
3.2.6. Việc vận dung án lệ trong công tác xét xử của Tòa án ................... 64
3.3. Khắc phục những bất cập hạn chế mới bộc lộ trong quá
trình tổ chức thực hiện theo tinh thần Hiến pháp 2013 .............. 68
3.3.1. Vấn đề kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp giữa Tòa án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự ............. 68
3.3.2. Cơ chế kiểm soát hoạt động tư pháp ở Việt Nam............................. 76
3.3.3. Chức năng giám sát xét xử của Viện kiểm sát nhân dân tại
phiên tòa ............................................................................................ 86
3.3.4. Vấn đề tổ chức Tòa án nhân dân theo cấp lãnh thổ hiện nay ........... 87
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 93
Bộ luật hình sự
BLHS:
Bộ luật tố tụng dân sự
BLTTDS:
Bộ luật tố tụng hình sự
BLTTHS:
Bộ máy nhà nước
BMNN:
Cơ quan tư pháp
CQTP:
Giám sát tư pháp
GSTP:
Hội đồng nhân dân
HĐND:
Hoạt động tư pháp
HĐTP:
Quản lý nhà nước
QLNN:
Tòa án nhân dân
TAND:
TANDTC:
Tòa án nhân dân tối cao
UBTVQH:
Ủy ban thường vụ quốc hội
VKSND:
Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, trước yêu cầu nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và để đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng và chống
tội phạm ở nước ta trong tình hình hiện nay đòi hỏi phải đổi mới tổ chức và
hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của tòa án nhân dân là một nội dung quan trọng được thể hiện trong
nhiều văn kiện Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó xác định nhiều nội dung
về đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có đổi mới
tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, nghị quyết nêu rõ: Xác định rõ
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan
tư pháp. Trọng tâm là xây dựng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND.
Tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc
vào đơn vị hành chính lãnh thổ, gồm: tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức
ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; tòa án phúc thẩm có
nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; tòa
thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; tòa
án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn
áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái
thẩm. Việc thành lập tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của
từng cấp tòa án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức tòa án nhân dân tối cao
theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành
1
về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành.
Nghiên cứu, xác định hợp lý phạm vi thẩm quyền xét xử của tòa án
quân sự theo hướng chủ yếu xét xử những vụ án về các tội xâm phạm nghĩa
vụ, trách nhiệm của quân nhân, những vụ án liên quan đến bí mật quân sự...
Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn,
trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng
bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tại các
phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp [3, tr.5].
Trong Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản
Việt Nam cũng nêu rõ:
Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ
nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Đẩy mạnh việc thực hiện
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp khẩn trương,
đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm, thực hiện cơ chế công
tố gắn với hoạt động điều tra. Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm
Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp [13, tr.126].
Như vậy, cả Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị và Văn kiện đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam đều xác định
tòa án nhân dân phải tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp. Do đó, tòa án nhân dân phải chủ động chuẩn bị tất cả các
điều kiện để thực hiện thành công việc đổi mới tổ chức và hoạt động phù hợp
với tiến trình cải cách tư pháp. Đến đây hàng loạt các vấn đề về lý luận và
thực tiễn được đặt ra khi đổi mới tổ chức, hoạt động của tòa án nhân dân đòi
hỏi phải được quan tâm nghiên cứu.
Với lý do nêu trên, học viên đã chọn đề tài: "Tổ chức và hoạt động của
Tòa án nhân dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 - qua thực tiễn tỉnh
Vĩnh Phúc" để làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành luật hiến pháp và hành
2
chính. Đây là vấn đề có tính thời sự, cần thiết và cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây đã có một số công trình khoa học, các bài
viết trên các tạp chí liên quan đến nội dung tổ chức hoạt động của tòa án nhân
dân. Có thể phân loại thành hai nhóm như sau:
- Nhóm thứ nhất: Những công trình là đề tài khoa học cấp Nhà nước,
cấp Bộ, các luận án tiến sĩ, sách chuyên khảo nghiên cứu về hệ thống tư pháp
Việt Nam có liên quan đến tòa án nhân dân như: Đề tài khoa học cấp Nhà
nước mã số KX.04.06 "Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống
các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của tòa án trong
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân". Luận án tiến
sĩ luật học, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật "Đổi mới tổ chức và hoạt
động tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay " của tác giả Lê
Thành Dương năm 2002. Luận án tiến sĩ luật học, Đại học luật Hà nội "Đổi
mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà
nước pháp quyền" của tác giả Trần Huy Liệu năm 2003. Luận án tiến sĩ luật
học, Đại học quốc gia Hà nội "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách
hệ thống cơ quan tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp
quyền" của tác giả Đỗ Thị Ngọc Tuyết năm 2005. Sách tham khảo:"Một số
vấn đề về Hiến pháp và bộ máy Nhà nước" của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung,
Nxb Giao thông vận tải năm 2002; "Hệ thống tư pháp và cái cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay" của tập thể các tác giả do GS.TS Đào Trí Úc chủ biên,
Nxb Khoa học xã hội năm 2002; "Góp bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam
hiện nay" của TS Ngô Huy Cương, Nxb Tư pháp năm 2005; "Xây dựng Nhà
nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng" của Luật sư Nguyễn Văn Thảo,
Nxb Tư pháp năm 2006.
Liên quan đến nhóm vấn đề này còn có kỷ yếu các cuộc hội thảo về
3
lịch sử ngành tòa án nhân dân.
- Nhóm thứ hai, là các bài viết liên quan đến nội dung đổi mới tổ chức
và hoạt động của tòa án nhân dân được đăng trên các tạp chí: "Cải cách tư
pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền" của TSKH
Lê Cảm, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4 năm 2002; “Những vấn đề chủ yếu
của công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt nam” của TSKH.PGS Lê Cảm, tạp chí Tòa án nhân dân số 3 năm
2006; "Yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đối với đổi mới tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp" của tác giả Nguyễn Mạnh
Cường, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10 năm 2002;"Cải cách tư pháp và
vấn đề tranh tụng" của tác giả Nguyễn Mạnh Kháng, tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 10...
Tuy vậy các công trình bài viết trên chủ yếu đi sâu vào lĩnh vực nghiên
cứu chung nhất về tổ chức quyền lực Nhà nước, hoặc có công trình nghiên
cứu về vấn đề này nhưng do thời điểm nghiên cứu đã lâu nên không cập nhật
được những vấn đề đang đặt ra trong lý luận và thực tiễn hiện nay, do đó nội
dung không còn mang tính thời sự nữa. Vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động
của tòa án nhân dân mới chính thức được đặt vấn đề khi Nghị quyết số 49-
NQ/TW của Bộ Chính trị được ban hành vào giữa năm 2005 và mới được ghi
nhận trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản
Việt Nam vào đầu năm 2006. Vì vậy, đến nay chưa có công trình khoa học
nào nghiên cứu đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về vấn đề này được chính
thức công bố.
Do vậy cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của
TAND trong giai đoạn hiện nay theo hướng có hệ thống hơn, toàn diện hơn
làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho quá trình đổi mới đáp ứng yêu cầu trong
4
tình hình hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là dưới góc độ luật hiến pháp hành
chính làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa
án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp, nhằm xây dựng hệ thống tòa án
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao hiệu quả hoạt động
xét xử của tòa án.
Nhiệm vụ của luận văn:
Qua phân tích những cơ sở lý luận cơ bản nhất về tổ chức quyền lực
Nhà nước, quyền tư pháp để làm rõ sự hình thành, vị trí, vai trò của tòa án
nhân dân trong bộ máy Nhà nước, các quan điểm về đổi mới tổ chức và hoạt
động của tòa án nhân dân, yêu cầu của cải cách tư pháp đối với đổi mới tổ
chức và hoạt động của tòa án nhân dân.
+ Làm rõ thực trạng tổ chức, hoạt động tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay.
+ Đề xuất những phương hướng cơ bản cho việc đổi mới và hoàn thiện
tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: là lĩnh vực tổ chức và hoạt động
của TAND trên cơ sở luật nước ta qua các giai đoạn và chủ yếu là giai đoạn
hiện nay. Luận văn tập trung phân tích các cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới
tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu của cải cách tư
pháp, nên đối tượng là những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc đổi mới tổ
chức và hoạt động của tòa án nhân dân ở Việt Nam
Thực tiễn tổ chức và hoạt động của TAND ở tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc cùng với những yếu tố kinh tế - xã hội, chính trị, pháp lý ảnh hưởng đến
tổ chức và hoạt động của TA.
Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu là nghiên cứu thực trạng về tổ chức và
5
hoạt động của TA theo luật hiện hành và thực tiễn của nó hiện nay về mặt tổ
chức và hoạt động những gì hợp lý, những gì chưa hợp lý, nguyên nhân của
thực trạng; Trong một chừng mực nhất định, luận văn cũng đề cập đến vị trí
vai trò của TA thông qua việc tổ chức và hoạt động của nó trong các giai đoạn
lịch sử, cũng như mối quan hệ của nó đối với các cơ quan trong bộ máy nhà
nước, nhất là các cơ quan tư pháp khác.
Luận văn chỉ nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân,
không nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của tòa án quân sự.
5. Khái quát về địa điểm nghiên cứu
Tỉnh Vĩnh Phúc thuộc đồng bằng Bắc Bộ, là vùng đồng bằng có trung
du và miền núi. Phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang, phía Nam
giáp tỉnh Hà Tây, phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đông giáp thủ đô Hà Nội. Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 1.370,73 km2. Vĩnh Phúc có một thị xã,
6 huyện với 150 xã, phường, thị trấn, trong đó có 1 huyện, 39 xã miền núi.
Ngày 9/12/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 153/2003/NĐ - CP về
việc thành lập thị xã Phúc Yên và huyện Tam Đảo. Như vậy, hiện nay Vĩnh
Phúc có 2 thị xã và 7 huyện.
Nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ với các tỉnh trung du miền núi phía Bắc và xa hơn là với
Trung Quốc, Vĩnh Phúc chịu sự tác động rất lớn của quá trình phát triển vùng,
có nhiều thuận lợi trong giao lưu trao đổi hàng hoá và phát triển các loại hình
dịch vụ.Vĩnh Phúc nằm trên trục quốc lộ 2 và tuyến đường sắt Hà Nội – Lào
Cai, liền kề với sân bay quốc tế Nội Bài, nằm ở điểm đầu trục giao thông
đường sắt và đường bộ Đông – Tây từ trung tâm miền Bắc thông ra cảng Hải
Phòng và cảng nước sâu Cái Lân (qua đường quốc lộ 5 và trục đường 18 -
đường cao tốc cho 6 làn xe). Ở vị trí này rất tiện lợi về giao thông toả đi khắp
mọi miền đất nước, tạo điều kiện thuận lợi để Vĩnh Phúc phát triển kinh tế,
như phát triển các khu công nghiệp và ngành công nghiệp xuất khẩu. Vĩnh
6
Phúc có đường vận tải thông qua các cảng biển và sân bay thuận lợi.
Lĩnh vực kinh tế lợi thế: ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng
và khai thác là ngành có nhiều lợi thế của tỉnh về vùng nguyên liệu và nhu cầu
tiên dùng ngày càng tăng. Bên cạnh đó, Vĩnh Phúc còn có khu nghỉ mát Tam
Đảo với độ cao trên 900 m so với mực nước biển, bao bọc bởi rừng nguyên
sinh có nhiều động thực vật quý hiếm; những hồ, đầm lớn như Đại Lải, Đầm
Vạc – nơi nào cũng có 500 – 600 ha mặt nước, có rừng, có ruộng bao quanh.
Đây là những địa điểm nghỉ cuối tuần lý tưởng. Ngoài ra, còn có những di
tích lịch sử, văn hoá như chùa Tây Thiên, tháp Bình Sơn, và hàng trăm di tích
được Nhà nước xếp hạng; những làng nghề nổi tiếng thực sự có sức hấp dẫn
du khách, và đây cũng chính là một trong những lợi thế của Vĩnh Phúc.
Thiên nhiên ưu đãi cho Vĩnh Phúc nhiều cảnh quan và danh thắng kỳ
thú như danh thắng Tây Thiên, khu nghỉ mát Tam Đảo, … là nơi để phát triển
các loại hình du lịch như tham quan, nghỉ mát,… Ngoài ra còn có trên 500 di
tích lịch sử, văn hoá với 170 di tích được xếp hạng, trong đó 67 di tích được
xếp hạng cấp quốc gia.Vĩnh Phúc còn có nhiều hố nước ở những địa thế đẹp,
là điểm du lịch nghỉ dưỡng hấp dẫn hơn nhiều so với các hồ khác ở Bắc Bộ.
Điều kiện môi trường và sinh thái của Vĩnh Phúc cơ bản còn tốt, vẫn giữ được
yếu tố mà thiên nhiên ưu đãi.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thể hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật, về đổi mới
tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp,
những thành tựu của khoa học pháp lý trên thế giới.các học thuyết chính trị về
nhà nước pháp quyền trên thế giới. Luận văn cũng được trình bày trên cơ sở
nghiên cứu Hiến pháp, Luật tổ chức TAND, Pháp lệnh về Thẩm phán và các
7
văn bản pháp luật khác qui định về tổ chức và hoạt động của TAND.
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp được sử dụng là các phương pháp
nghiên cứu truyền thống của khoa học xã hội, phương pháp kết hợp giữa lý
luận và thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể, đồng
thời cũng sử dụng phương pháp luật học so sánh, phương pháp lý thuyết hệ
thống, phương pháp thống kê …
6. Tính mới và đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về vị trí vai
trò, chức năng của TA làm sáng tỏ những cơ sở lý luận về các quan điểm
đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về việc xác định vai trò "trọng yếu" của
TA trong bộ máy nhà nước. Từ đó đưa ra các khái niệm, những luận cứ xác
đáng tiếp tục góp phần làm thay đổi nhận thức về TA một cách đúng đắn hơn,
khoa học hơn (vì lâu nay nhìn TA như các ngành, các bộ khác trong bộ máy
nhà nước) đã làm cho TA chậm phát triển theo yêu cầu.
Luận văn trình bày và đánh giá thực trạng về cơ cấu tổ chức và cán bộ,
về thực trạng hoạt động của TAND nói chung và TAND tỉnh Vĩnh Phúc nói
riêng trong những năm qua một cách đầy đủ trên cơ sở tổng hợp các số liệu
qua nhiều nguồn xác thực, phân tích được những mặt mạnh, mặt yếu của
TAND cùng với những nguyên nhân của nó, làm cơ sở thực tiễn cho việc cải
cách tổ chức và hoạt động của TAND.
Dựa trên sự tổng hợp các quan điểm của Đảng và Nhà nước, luận văn
đã hệ thống một cách đầy đủ các nguyên tắc bảo đảm cho quá trình đổi mới
TAND bao gồm các nguyên tắc chung và các nguyên tắc đặc thù xuất phát từ
tính chất cũng như mục đích hoạt động của TAND.
Luận văn cũng đã đưa ra được những yêu cầu và những giải pháp thiết
thực nhằm góp phần đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND đáp ứng yêu
8
cầu của công cuộc đổi mới và cải cách tư pháp hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ về lý luận cũng
như thực tiễn trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân
dân trong tiến trình cải cách tư pháp.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà khoa
học, những người làm thực tiễn, đồng thời có thể sử dụng được cho việc
nghiên cứu, giảng dạy.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm chương.
Chương 1: Tòa án nhân dân ở Việt Nam và quá trình cải cách tổ chức,
hoạt động trước Hiến pháp 2013.
Chương 2: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân theo tinh thần
Hiến pháp 2013 qua thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc.
Chương 3: Giải pháp bảo đảm việc triển khai thực hiện các quy định về
9
Tòa án nhân dân theo tinh thần Hiến pháp 2013.
Chương 1
TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM VÀ QUÁ TRÌNH
CẢI CÁCH TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG TRƯỚC HIẾN PHÁP 2013
1.1. Vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của Tòa án nhân dân
1.1.1. Vị trí của Tòa án nhân dân trong hệ thống cơ quan nhà nước
Trong hệ thống các cơ quan nhà nước thì Toà án có vị trí đặc biệt so
với các cơ quan Nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp khác nói riêng,
thể hiện ở những khía cạnh sau:
Một là, toà án xét xử nhân danh nhà nước, căn cứ vào pháp luật của
Nhà nước để đưa ra các phán quyết thể hiện trực tiếp thái độ của Nhà nước
đối với từng vụ việc cụ thể. Thái độ đó được thể hiện bằng những quyết định
giải quyết hợp pháp, hợp lý và áp dụng những chế tài thích hợp mà toà án áp
dụng cho từng trường hợp cụ thể phù hợp với hành vi có lỗi và trái pháp luật
trong mỗi bản án, quyết định của toà án. Như vậy, hoạt động xét xử phản ánh
trực tiếp và sâu sắc nhất bản chất của Nhà nước.
Hai là, bằng hoạt động xét xử, Toà án thực hiện chức năng kiểm tra
hành vi pháp lý của các cơ quan Nhà nước, quyền công dân, quyền con người.
Xa hơn là Toà án bảo vệ cho trật tự xã hội ổn định, an toàn và có môi trường
phát triển lành mạnh, bền vững.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, khi
mà vai trò pháp luật, sự tôn trọng, tuân thủ pháp luật ngày càng được nâng
cao thì vai trò của Toà án lại càng được khẳng định. Bởi lẽ Toà án chính là cơ
quan thực thi quyền tư pháp đặc biệt là hoạt động kiểm tra, giám sát việc tuân
thủ pháp luật của bộ máy nhà nước. Toà án thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám
sát hoạt động của bộ máy nhà nước là một trong những nguyên lý cơ bản của
10
nhà nước pháp quyền, là điều kiện tiên quyết đảm bảo mục tiêu và các giá trị
của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta được thực thi trong
thực tiễn đời sống xã hội.
Ở nước ta, việc xác định Toà án có là cơ quan tổ chức và thực hiện
quyền tư pháp với chức năng tổ chức và tiến hành hoạt động xét xử là một
trong những quan điểm cơ bản định hướng hoạt động cải cách tư pháp đã
được khẳng định trong Nghị quyết số 49/NQ-TW, ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính Trị về chiến lược cải cách tư pháp nước ta đến năm 2020. Tuy nhiên,
việc luật hoá quan niệm này vào pháp luật vẫn chưa được thực hiện triệt để.
Trong pháp luật Việt Nam, vị trí của toà án trong bộ máy Nhà nước có những
đặc điểm sau:
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật hiện
hành có liên quan đến tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước thì địa vị
pháp lý của toà án Việt Nam chịu sự tác động của nhóm quan hệ cơ bản sau:
Thứ nhất, quan hệ giữa Toà án với các cành quyền lực khác.
Mối quan hệ giữa Tòa án với Quốc hội
Trên cơ sở nguyên tắc hiến định “quyền lực Nhà nước thống nhất và
thuộc về nhân dân” và nguyên tắc “Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước
cao nhất” [1, tr.3]. Thì Toà án ở nước ta có sự phụ thuộc khá nhiều vào Quốc
hội. Tiến sĩ Tô Ngọc Hoà khẳng định: bản chất của mối quan hệ này là cấp
trên và cấp dưới - trong đó Quốc hội là cấp trên và Tòa án là cấp dưới. Điều
này thể hiện rõ ở những điểm sau:
Quốc hội có quyền ban hành tất cả các loại văn bản pháp luật liên quan
đến tổ chức hoạt động của Toà án; các quy tắc tố tụng của Toà án. Quốc hội
có quyền bãi bỏ các văn bản pháp luật của toà án trái với Hiến Pháp, luật pháp
hay Nghị quyết của mình.
Quốc hội bầu và bãi nhiệm chức chánh án TANDTC. Quốc hội có
11
quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với vị trí này. Chánh án TANDTC phải báo
cáo hàng năm trước Quốc hội; phải trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội nếu
có yêu cầu của đại biểu Quốc hội. Quốc hội quyết định ngân sách hoạt động
hằng năm của Toà án.
Mối quan hệ giữa Tòa án với Chủ tịch nước
Hiến pháp xác định rõ Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia của Việt
Nam. Trong mối quan hệ với Toà án, Chủ tịch nước có quyền giám sát, kiểm
tra chất lượng hoạt động của Toà án thông qua báo cáo của chánh án
TANDTC. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án TAND
Tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, thẩm phán tòa án khác
Mối quan hệ giữa Tòa án với Chính phủ
Theo quy định của pháp luật hiện hành, mối quan hệ giữa toà án và
Chính phủ được xem là mối quan hệ phối hợp có tính điển hình đồng thời
cũng là mối quan hệ mang tính rường cột trong hệ thống quyền lực nhà nước.
Hai thiết chế này khá riêng biệt với nhau. Tuy vậy, do thực trạng toà án phải
áp dụng các văn bản hướng dẫn thi hành luật của Chính phủ trong quá trình
xét xử dẫn đến toà án có sự phụ thuộc nhất định vào Chính phủ.
Mối quan hệ giữa Tòa án với cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương,
Để bảo đảm sự thống nhất quyền lực Nhà nước ở địa phương (Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện), toà án được tổ chức theo đơn vị hành chính
và chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Chánh án
toà án nhân dân các cấp địa phương phải chịu trách nhiệm, báo cáo công tác
trước Hội đồng nhân dân cùng cấp, chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân
cùng cấp.
Thứ hai, quan hệ giữa toà án với các cơ quan khác trong hệ thống cơ
12
quan tư pháp.
Thông qua hoạt động xét xử toà án sẽ đánh giá tính đúng đắn các hành
vi pháp lý của cơ quan điều tra, phán xử hành vi truy tố của Viện kiểm sát có
đúng quy định pháp luật hay không và đưa ra phán quyết để cơ quan thi hành
án thực hiện hoạt động thi hành án. Trong mối quan hệ bên trong này, xét xử
là hoạt động trung tâm, là hoạt động thể hiện tập trung nhất bản chất của
quyền tư pháp.
Mặc khác, pháp luật trao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền
giám sát hoạt động tuân thủ pháp luật của toà án trong quá trình diễn ra phiên
toà. Chính quy định này đã có ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền tư pháp
của toà án trong hệ thống cơ quan tư pháp.
Như vậy, trong pháp luật nước ta, toà án có vị trí độc lập tương đối trong
bộ máy Nhà nước. Qua phân tích cho thấy rằng: sự phụ thuộc của toà án vào hệ
thống cơ quan quyền lực Nhà nước (Quốc hội và Hội đồng nhân dân) là tương
đối lớn. Tính chất trung tâm của toà án trong hệ thống các cơ quan tư pháp
chưa được bảo đảm do sự tác động từ phía Viện kiểm sát nhân dân thông qua
quyền giám sát hoạt động xét xử tại phiên toà. Chính những đặc điểm này về vị
trí của toà án trong bộ máy Nhà nước đã ảnh hưởng đến hoạt động của toà án,
đặc biệt là yêu cầu có tính nguyên tắc hiến định của hoạt động tài phán - toà án
phải độc lập chỉ tuân theo pháp luật trong quá trình xét xử.
1.1.2. Vai trò, chức năng nhiệm vụ của Tòa án nhân dân
Nhân danh Nhà nước xét xử hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết
tranh chấp trong đời sống xã hội
Kiểm tra, kiểm soát xã hội là một trong những vai trò, chức năng cơ
bản của Nhà nước. Nhà nước thực hiện hoạt động này bằng chuẩn mực pháp
luật thông qua các cơ quan thực hiện quyền lực Nhà nước. Việc phân công
trong việc thực hiện quyền lực nhà nước đã trao cho cơ quan lập pháp thực
13
hiện giám sát tối cao đối với việc thực thi pháp luật, cơ quan hành pháp tổ
chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện pháp luật trên quy mô toàn xã hội
một cách thường xuyên. Khi có những hành vi, tranh chấp có nguy cơ đe doạ
làm sai lệch tính hợp lý, công bằng của pháp luật, xâm hại đến quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, tổ chức, xâm hại đến trật tự, an toàn xã hội thì
được thực hiện thông qua hoạt động xét xử của toà án. Hoạt động kiểm tra,
kiểm soát xã hội của toà án có những đặc trưng cơ bản sau:
- Chỉ diễn ra khi có hành vi vi phạm pháp luật hoặc mâu thuẫn, tranh
chấp mà cá nhân, tổ chức cũng như Nhà nước không thể giải quyết được bằng
những cơ chế kiểm tra, giám sát khác.
- Phải được thực hiện thông qua hoạt động tranh luận công khai, dân
chủ và bình đẳng giữa các bên tại toà án.
- Có quyền nhân danh Nhà nước, nhân danh công lý trong các phán
quyết xử lý.
So với nhánh quyền lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính phủ) và
các hình thức kiểm tra xã hội khác, hoạt động xét xử của toà án được thực
hiện theo quy trình tố tụng tư pháp chặt chẽ do luật định. Đây là một hình
thức kiểm soát xã hội công khai, dân chủ, chính xác, khách quan và bảo đảm
công bằng, bình đẳng xã hội. Chính vì bảo đảm được những giá trị dân chủ,
công bằng và bình đẳng xã hội trong hoạt động xét xử, toà án trở thành cơ
quan có vị trí tối cao và duy nhất có quyền nhân danh Nhà nước khi xét xử
hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp do người dân yêu cầu
Nhà nước thực hiện.
Ngoài ra, thông qua hoạt động xét xử, bằng các quyết định, bản án
nghiêm minh, công bằng, toà án còn xác lập các chuẩn mực mới trong quan
hệ xã hội, bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân trong hoạt động tư
pháp, tạo dựng niềm tin vào công lý, vào bộ máy Nhà nước, chế độ và quyền
14
lực nhà nước.
Vì vậy, để bảo đảm những giá trị của pháp luật được thực thi trong thực
tiễn, bảo vệ pháp luật không bị xâm hại, pháp luật đã trao cho toà án vị trí tối
cao có quyền nhân danh Nhà nước thực hiện hoạt động xét xử hành vi vi
phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp trong đời sống xã hội khi người dân,
Nhà nước có nhu cầu. Qua đó thể hiện thái độ của nhà nước đối với những
hành vi vi phạm pháp luật cụ thể.
Còn trong nhận thức của người dân, toà án không chỉ là một cơ quan
Nhà nước thông thường mà còn là biểu tượng của công lý, của lẽ phải. Khi
phải đối mặt với quan toà nơi công đường, người dân chờ đợi sự công minh,
sáng suốt: "Toà án là người đại diện của công lý và quan toà là cán cân công
lý" [24, tr.22]. Đặc biệt, trong Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân, bản thân pháp luật đã mang tính công lý và toà án bằng hoạt động xét xử
của mình thể hiện công lý, sự công minh, công bằng, không thiên lệch trong
từng vụ án, từng phán quyết của toà án đối với từng hành vi, sự kiện pháp lý.
Trong tinh thần đó có thể nói phán xét, phán quyết của toà án trực tiếp tác
động đến niềm tin, lý tưởng, khát vọng công lý, công bằng xã hội, đến thái độ,
cách nhìn của người dân đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa và cả chế độ
chính trị đang tồn tại.
Như vậy, từ bản chất dân chủ của hoạt động xét xử, vai trò đặc biệt của
hoạt động xét xử, sự nhìn nhận của người dân đối với toà án, toà án đã trở
thành cơ quan Nhà nước có vị trí đặc biệt trong xã hội. Toà án là cơ quan duy
nhất có quyền nhân danh Nhà nước xét xử hành vi vi phạm pháp luật và giải
quyết những tranh chấp, mâu thuẫn trong đời sống xã hội. Thông qua đó thể
hiện thái độ và trách nhiệm của Nhà nước đối với các hành vi vi phạm trong
vụ án, quyết định cụ thể, đồng thời bảo vệ pháp luật, công bằng, bình đẳng xã
15
hội, các quyền tự do dân chủ của công dân, quyền con người.
Bảo vệ công lý
Bảo vệ công lý là chức năng cơ bản của bộ máy Nhà nước. Toà án là cơ
quan thực hiện của quyền tư pháp có vị trí và vai trò đặc biệt trong việc bảo
vệ công lý.
Trong nhà nước pháp quyền, bảo vệ công lý chính là bảo vệ những giá
trị công bằng, bình đẳng và dân chủ của xã hội. Pháp luật trong nhà nước
pháp quyền là hệ thống những giá trị cao đẹp của xã hội dân chủ. Pháp luật
trong nhà nước pháp quyền luôn mang trong mình những nguyện vọng, quyền
và lợi ích của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Nó là hệ thống những
chuẩn mực để đánh giá hành vi của con người phù hợp với trình độ văn minh
của xã hội, để nhân dân tự điều chỉnh hành vi của mình trong đời sống sinh
hoạt, trong giao lưu dân sự cũng như trong mối quan hệ với cơ quan công
quyền, đồng thời thể hiện lợi ích và ý chí chung của toàn thể nhân dân lao
động, của toàn thể xã hội và cùng với các quy phạm xã hội khác là một trong
những phương tiện để bảo vệ trật tự xã hội và điều hoà, phối hợp các lợi ích
xã hội khác nhau.
Ngoài ra, Pháp luật trong nhà nước pháp quyền XHCN, có ý nghĩa đặc
biệt to lớn đối với sự phát triển, mở rộng, củng cố và phát huy nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, tính tích cực về chính trị, tính sáng tạo và quyền làm chủ của
nhân dân. Ngược lại, việc triển khai và mở rộng dân chủ trong mọi mặt đời
sống xã hội lại củng cố cơ sở pháp luật và trật tự pháp luật, làm phong phú
thêm các quyền tự do của công dân và bảo đảm thực hiện những quyền đó.
Do vậy, dân chủ và pháp luật xã hội chủ nghĩa không thể tồn tại tách rời nhau.
Dân chủ về chính trị và pháp luật chân chính thể hiện bản chất sâu xa của chế
độ xã hội chủ nghĩa - tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Những
hành vi xâm hại các chuẩn mực pháp luật trong xã hội pháp quyền bị coi là
16
những hành vi xâm hại công lý, công bằng, bình đẳng xã hội, dân chủ XHCN.
Vì thế, trong nhà nước pháp quyền, bảo vệ pháp luật không còn đơn thuần là
phục vụ nhu cầu quản lý xã hội của nhà nước mà trở thành hoạt động quan
trọng nhất, cao nhất và có tính cuối cùng để nhà nước và nhân dân bảo vệ các
giá trị cao đẹp của nhà nước pháp quyền, bảo vệ công bằng, bình đẳng xã hội,
quyền tự do dân chủ của công dân, quyền con người và dân chủ XHCN.
Vai trò bảo vệ công lý của toà án được biểu hiện ở các khía cạnh sau:
Toà án áp dụng pháp luật: Hoạt động áp dụng pháp luật của toà án là
hình thức áp dụng pháp luật để bảo vệ pháp luật khỏi sự vi phạm. Thông qua
hoạt động xét xử, toà án đưa các hành vi tranh chấp pháp lý liên quan đến
những con người cụ thể áp vào các chuẩn mực pháp luật, đối chiếu làm sáng
tỏ mối tương quan giữa cái cá biệt là hành vi vi phạm, tranh chấp với cái
khuôn chung là quy phạm pháp luật để đánh giá, phán xét bản chất pháp lý,
tính hợp pháp, tính đúng đắn của hành vi, tranh chấp, từ đó đi đến một phán
quyết có tính bắt buộc thi hành đối với những người có quyền và lợi ích liên
quan [24, tr.21]. Bằng việc ra các bản án, quyết định nhân danh nhà nước và
bắt buộc thi hành, các giá trị pháp luật bị xâm hại, lệch lạc sẽ được khôi phục
lại, công lý được duy trì, sự công bằng, lẽ phải của pháp luật được bảo vệ. Từ
tính chất đặc biệt của việc áp dụng pháp luật theo phương thức tài phán công,
toà án trở thành thiết chế đóng vai trò đặc biệt thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
pháp luật, bảo vệ trật tự pháp luật trước những nguy cơ bị những cá nhân, tổ
chức nhất định vi phạm, bảo đảm cho những quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ không bị thiệt hại.
Toà án tuân thủ pháp luật: Một trong những đặc điểm cơ bản nhất của
nhà nước pháp quyền nói chung và nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
nói riêng là nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp
luật, các cơ quan nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp, pháp luật. Toà
17
án là một bộ phận cấu thành nên bộ máy nhà nước nên quyền hạn, nhiệm vụ
và chức năng của toà án được xác định trong Hiến pháp và các văn bản pháp
luật. Vì thế, toà án tuân thủ Hiến pháp, pháp luật đặc biệt là tuân thủ các
nguyên tắc có tính chất nền tảng về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước được vận dụng trong lĩnh vực tư pháp, như: Nguyên tắc tính tối thượng
của Hiến pháp và pháp luật trong hoạt động của nhà nước và đời sống xã hội
công dân; các quan hệ xã hội cơ bản phải được điều chỉnh bằng pháp luật;
trách nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân; bảo đảm quyền con người
trong quá trình xét xử; quyền lực nhà nước thống nhất và có sự phân công
phối hợp trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư
pháp; tôn trọng và tận tâm thực hiện các điều ước quốc tế mà nhà nước đã ký
kết hoặc tham gia…. là những biểu hiện rõ rệt nhất vai trò bảo vệ pháp luật
của toà án. Những nguyên tắc này là những nội dung cơ bản của pháp luật
nước ta. Vì thế, toà án tuân thủ các nguyên tắc trên không chỉ có ý nghĩa bảo
đảm hoạt động của toà án bảo đảm đúng pháp luật, không vi phạm pháp luật
mà còn là một yêu cầu của nhà nước pháp quyền nhằm bảo đảm hoạt động xét
xử của toà án dân chủ, công bằng, bình đảng, bảo vệ quyền công dân, các
quyền cơ bản của con người và cao nhất là bảo đảm bản chất quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân.
Giám sát, kiểm tra hoạt động của bộ máy nhà nước: Trong nhà nước
dân chủ, quyền lực nhà nước là quyền lực của dân, chính quyền không chỉ
phải lấy dân làm gốc, mà những công bộc được dân giao phó phải biết dựa
vào dân, phục vụ nhân dân vô điều kiện. Đảm bảo quan trọng nhất để chính
quyền làm tốt trách nhiệm là việc các cử tri kiểm soát trực tiếp chính quyền
của mình thông qua việc quyết định lá phiếu trong các cuộc bầu cử các cơ
quan quyền lực dân cử. Hình thức thứ hai để người dân có thể giám sát hoạt
động của bộ máy nhà nước là thông qua chính hoạt động các cơ quan nhà
nước có nhiệm vụ trực tiếp kiểm tra, giám sát mức độ tuân thủ pháp luật của
18
cán bộ, công chức và cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện công vụ.
Thực tế hoạt động của chính quyền ở đa số các nước tư bản đều cho
thấy, cho dù đã xây dựng được hệ thống rất đầy đủ các quy định pháp luật về
hoạt động của chính quyền thì hoạt động của chính quyền vẫn luôn có xu
hướng vượt ra khỏi phạm vi quyền lực mà pháp luật đã quy định. Nâng cao
trách nhiệm của chính quyền trước nhân dân là đòi hỏi chính đáng của người
dân, nhưng đây lại là vấn đề rất khó khăn vì nó cản trở đến các lợi ích của các
cơ quan công quyền, và vì vậy, các cơ quan chính quyền thường không mặn
mà, còn về phía người dân, điều đó tùy thuộc rất nhiều vào việc họ có đủ các
thông tin cần thiết, có đủ khả năng và có cơ chế khả thi để phán xét các hành
vi của các nhân viên công quyền hay không và thực tiễn những giả thiết này
vẫn chưa có đủ điều kiện để phát huy hết những ưu điểm của mình. Phải thấy
rằng, không giám sát hoặc giám sát không tốt quyền lực thì người ta sẽ đem
quyền lực để đổi lấy lợi ích, và nếu ai đó lạm dụng quyền lực lại mắc bệnh
duy ý chí, độc đoán “muốn làm gì thì làm” thì sự lãng phí vốn, tài nguyên,
nhân lực của xã hội là vô cùng lớn sẽ xảy ra. Khắc phục thực trạng này một
cách có hiệu quả sẽ là động lực vô cùng to lớn, là điều kiện để phát triển một
xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Chính vì vậy, các nước, ngoài việc thiết lập những cơ quan, cơ chế
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của quyền lực nhà nước vì lợi ích
chung luôn đồng hành với việc xác lập những cơ chế để kiểm tra, giám sát
hoạt động thực hiện quyền lực lực nhà nước của bộ máy nhà nước.
Quyền lực nhà nước gồm có quyền lập pháp, quyền hành pháp và
quyền tư pháp. Trong ba cành quyền này lực này thì nguy cơ lạm quyền dễ
rơi nhất vào cành quyền lực lập pháp và hành pháp. Trong khi đó, tư pháp
với phương thức tài phán là cành quyền lực có ít điều kiện để phát sinh
những hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân nhất. Do đó,
19
khi nói đến giám sát, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật của bộ máy Nhà nước
chủ yếu là nói đến sự kiểm tra, giám sát lập pháp và hành pháp. Trong Nhà
nước pháp quyền, kiểm soát quyền lực có nghĩa là giám sát, kiểm tra tính
hợp hiến, hợp pháp các hành vi của cán bộ, công chức và cơ quan nhà nước
(kể cả Quốc hội và Chính phủ) không lạm quyền, không vi phạm Hiến
pháp và pháp luật và không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân và các quyền con người.
Toà án là thể chế quan trọng nhất để giải quyết các tranh chấp giữa các
doanh nghiệp, công dân và Chính phủ, là thiết chế có thể làm sáng tỏ những
điều còn mơ hồ trong pháp luật. Chỉ tòa án có quyền thâm nhập vào cơ quan
cưỡng chế của nhà nước để buộc phải đưa ra các cuộc phán xử và cũng chỉ có
toà án có quyền chính thức nhân danh nhà nước, nhân danh công lý ra phán
quyết về sự hợp pháp của những hoạt động của ngành lập pháp và hành pháp.
Nguyên tắc cơ bản của nhà nước pháp quyền về tổ chức bộ máy Nhà
nước là tư pháp phải độc lập với hai cành quyền lực còn lại. Tính chất pháp lý
này của tư pháp càng bảo đảm việc thực hiện quyền giám sát, kiểm tra hành
pháp và lập pháp đạt hiệu quả cao.
Bên cạnh nguyên tắc phân công quyền lực, nguyên tắc về tính tối cao
của luật trong nhà nước pháp quyền cũng góp phần tạo cho toà án có vị thế
để giám sát, kiểm tra hành vi của lập pháp và hành pháp có hiệu quả. Tính
tối cao của pháp luật đòi hỏi phải có sự phân cấp hiệu lực pháp lý giữa
những loại văn bản pháp luật khác nhau, theo đó Hiến pháp có hiệu lực pháp
lý tối cao, tất cả văn bản khác phải phù hợp với Hiến pháp, các văn bản do
hành pháp ban hành phải phù hợp với Hiến pháp và luật pháp; hành vi hành
chính của cán bộ công chức, cơ quan nhà nước phải phù hợp với quy định
của pháp luật, không được trái với văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cao hơn đặc biệt là bảo đảm không vi phạm các quyền công dân đã
20
được hiến định. Với vai trò là người bảo vệ pháp luật, toà án có chức năng
duy trì trật tự hiệu lực pháp lý này. Toà án sẽ có thể vô hiệu hóa những văn
bản pháp luật không được ban hành đúng trật tự hiệu lực pháp lý, chẳng hạn
có thể bãi bỏ luật của Quốc hội nếu vi phạm Hiến pháp, nghị định của Chính
phủ trái với luật của Quốc hội hay nghị quyết của Hội đồng nhân dân trái với
luật, Hiến pháp. v.v.
Với đặc trưng là tính độc lập cao và hoạt động theo phương thức tài
phán đặc thù, toà án là một thể chế ít có nguy cơ lạm quyền, ít nguy hiểm đối
với các quyền, tự do của công dân, và còn là một thiết chế quyền lực được tạo
ra nhằm đảm nhận chức năng chống lại sự lạm quyền; kiểm tra, giám sát tính
hợp hiến, hợp pháp của chính quyền (lập pháp và hành pháp) để đảm bảo hoạt
động công vụ của bộ máy nhà nước đúng quy định của Hiến Pháp, pháp luật
và bảo vệ các quyền và tự do của con người. Vì vậy, có thể nói rằng, vai trò
giám sát, kiểm tra hoạt động công vụ của bộ máy nhà nước phải được giao
cho toà án là một tất yếu của việc tổ chức chính quyền.
Bảo vệ quyền công dân, quyền con người.
Các quyền và tự do của con người không chỉ là các giá trị tinh thần cao
quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại, có cội nguồn xã
hội và tư tưởng từ rất lâu đời trong quá trình phát triển của lịch sử hàng nghìn
năm qua mà chúng còn là khát vọng, ước mơ và lý tưởng của các dân tộc
trong cuộc đấu tranh lâu dài và bền bỉ để chống lại các chế độ bất công, tàn
bạo, chuyên chế và cực quyền. Vì vậy bảo vệ và phát triển các quyền và tự do
của con người trong hoạt động xét xử cũng như việc đưa ra mục tiêu hoạt
động xét xử phải hướng đến bảo vệ các quyền và tự do của con người là một
tất yếu của nền tư pháp, của toà án trong nhà nước pháp quyền.
Quyền công dân, từ góc độ pháp lý, là những quyền cơ bản của con
người được quy định trong Hiến pháp và pháp luật, cụ thể quyền được sống,
21
quyền tự do và bảo vệ thân thể, quyền được bảo vệ khỏi bắt bớ, giam hãm,
hoặc đày ải vô cơ, quyền tự do đi lại và cư trú, quyền có quốc tịch, quyền sở
hữu tài sản, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do về tư tương, tín ngưỡng và
tôn giáo.v.v. Các quyền công dân là những quyền pháp lý nên đặc trưng cơ
bản của việc bảo vệ các quyền công dân là được thực hiện theo cơ chế do
pháp luật quy định. Chính Hiến pháp và pháp luật là thể chế quan trọng bảo
đảm cho việc tôn trọng và thực thi các quyền công dân. Theo tư duy pháp
luật, trong xã hội có nhà nước, nhà nước phải có nghĩa vụ bảo đảm cho những
quyền công dân được tôn trọng và được thực thi trong thực tế. Toà án với tư
cách là cơ quan nhà nước thực hiện chức năng bảo vệ pháp luật nên toà án
đóng vai trò đặc biệt quan trọng thực hiện chức năng bảo vệ quyền công dân
của Nhà nước.
Trong nhà nước pháp quyền, chỉ có toà án độc lập và khách quan, với
tư cách là một công cụ kiềm chế cần thiết đối với sự lạm dụng quyền tiềm
tàng từ nhánh lập pháp và hành pháp, mới có thể đảm bảo một cách hiệu quả
việc bảo vệ quyền công dân. Lập pháp là cơ quan đóng vai trò tích cực trong
việc bảo vệ quyền công dân. Nhưng đây là cơ quan hoạt động theo phương
thức thảo luận nghị trường và có tính chất đại diện rộng rãi nên không thể bảo
vệ quyền con người khi có hành vi cá biệt xâm phạm đến nó xảy ra. Trong
trường hợp này chỉ có toà án bằng hoạt động xét xử khách quan, công bằng
mới có thể nhân danh nhà nước, đại diện công quyền thực hiện trách nhiệm
bảo vệ quyền công dân của nhà nước. Trong khi, hành pháp với chức năng tổ
chức thực hiện pháp luật trên cơ sở nguyên tắc hành chính mệnh lệnh phục
tùng đã bộc lộ nhiều bất cập khi đóng vai trò là người bảo vệ quyền công dân.
Hơn thế nữa, do xuất phát từ nhu cầu của hoạt động quản lý xã hội,
hoạt động của hành pháp không ít trường hợp còn xâm hại đến cả quyền công
dân của những cá nhân cụ thể. Khi điều này xảy ra, toà án sẽ được yêu cầu để
đưa ra phán quyết cuối cùng nhằm xác nhận hành vi công vụ đó có xâm hại
22
đến quyền công dân không.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể khẳng định toà án đóng vai trò
quan trọng nhất trong việc bảo vệ quyền công dân là có tính khách quan, phù
hợp với những yêu cầu của một nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân
và vì dân. Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền công dân của toà án không chỉ là
yêu cầu của nhà nước mà còn là ý nguyện của mọi người dân. Bởi lẽ trong
nhận thức của người dân, toà án không chỉ là cơ quan ra phán quyết khẳng
định một hành vi có phù hợp với pháp luật hay không mà toà án còn là biểu
tượng của công lý, công bằng và bình đẳng xã hội.
1.2. Quá trình cải cách tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân
trước Hiến pháp 2013
1.2.1. Toà án nhân dân giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2002
Ngày 15/4/1992, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa VIII, kỳ hợp thứ 11 đã thông qua Hiến pháp của thời kỳ đổi mới đất
nước - Hiến pháp năm 1992. Nhìn chung, nhiều quy định của Hiến pháp năm
1980 về tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân được kế thừa trong Hiến
pháp năm 1992, tuy nhiên, một số quy định mới của Hiến pháp năm 1992 đã
tạo cơ sở cho việc đổi mới các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan
toà án. Ví dụ Hiến pháp năm 1992 quy định về chế độ bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức và nhiệm kỳ của thẩm phán đã thay thế cho chế độ bầu cử thẩm
phán được quy định trước đó trong Hiến pháp năm 1980.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, ngày 6-10-1992, Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ nhất đã thông qua Luật
Tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 (sau đó được sửa đổi, bổ sung theo các
Luật sửa đổi, bổ sưng một số điều của Luật Tổ chức Toà án nhân dân, được
Quốc hội thông qua ngày 28-12-1993 và ngày 28-l0-1995). Đồng thời, ngày
19-4-1993, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh tổ chức Toà án
23
quân sự và ngày 14-5-1993 thông qua Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm
Toà án nhân dân. Với việc ban hành các văn bản pháp luật này, tổ chức và
hoạt động của toà án nhân dân đã được kiện toàn và đổi mới một bước để phù
hợp với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước theo các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá VII và khoá VIII.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức Toà án nhân
dân năm 1992 thì hệ thống toà án nhân dân ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt nam có: Toà án nhân dân tối cao; các toà án nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương; các toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh; các toà án quân sự; các toà án khác do luật định; trong tình hình
đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt.
Để bảo vệ quyền lợi của đương sự và bảo đảm quyền bình đẳng của
mọi thành phần kinh tế, trong nguyên tắc hoạt động của tòa án bổ sung hai
nguyên tắc: Tòa án có thể xét xử kín để giữ bí mật của các đương sự theo
yêu cầu của họ (Điều 7 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1992) và tòa án
xét xử theo nguyên tắc các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần
kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 8 Luật Tổ chức Toà án nhân
dân năm 1992).
Về chức năng, nhiệm vụ của toà án nhân dân, theo quy định của các
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm
1992, được Quốc hội thông qua năm 1993 và năm 1995 thì toà án nhân dân
được giao nhiệm vụ xét xử các vụ án kinh tế, lao động, hành chính và tuyên
bố phá sản doanh nghiệp, nhằm đáp ứng đòi hỏi của việc giải quyết các
tranh chấp phát sinh trong nền kinh tế thị trường theo cơ chế tố tụng tư
pháp mà ở đó mọi cá nhân, tổ chức, đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các
24
thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật. Bên cạnh đó, công tác thi
hành án dân sự đã được tách khỏi toà án và chuyển giao cho Chính phủ
thống nhất quản lý.
Tương ứng với sự thay đổi về nhiệm vụ, thẩm quyền của toà án nhân
dân, cơ cấu tổ chức của các toà án nhân dân có sự bổ sung căn bản so với các
quy định của pháp luật trong các giai đoạn trước năm 1992. Cụ thể, về cơ cấu
tổ chức của Toà án nhân dân tối cao gồm có: Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao; Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; Toà án quân sự
Trung ương, Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành
chính, các Toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao và bộ máy giúp việc
của Toà án nhân dân tối cao.
Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cơ cấu tổ
chức của toà án cấp này gồm: Uỷ ban Thẩm phán, Toà hình sự, Toà dân sự,
Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính và bộ máy giúp việc của Toà án
nhân dân tỉnh.
Như vậy để đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế thị trường trong cơ cấu tổ
chức của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc
trung ương đã thành lập một tòa chuyên trách mới- tòa kinh tế để giải quyết
các tranh chấp kinh tế, tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Đối với cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh mặc dù được giao thêm thẩm quyền xét xử các vụ án kinh tế,
lao động, hành chính nhưng vẫn giữ nguyên như trước đây, không có Uỷ ban
Thẩm phán và cũng không có các Toà chuyên trách.
Đối với các toà án quân sự, theo Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự năm
1993 thì hệ thống toà án quân sự gồm: Toà án quân sự Trung ương; các toà án
quân sự quân khu và tương đương; các toà án quân sự khu vực. Về nhiệm vụ,
thẩm quyền của các toà án quân sự được giữ nguyên như quy định trước đây.
25
Về cơ cấu tổ chức, Toà án quân sự Trung ương có Uỷ ban Thẩm phán, tuy
nhiên tổ chức này không có nhiệm vụ giám đốc thẩm như Uỷ ban Thẩm phán
của Toà án quân sự quân khu và tương đương.
Đáng chú ý ở thời kỳ này là, với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật phục vụ công cuộc đổi mới, nhiều văn bản pháp luật quan trọng về
nội dung có liên quan đến hoạt động xét xử của toà án đã được ban hành
như: Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm
1999), Bộ luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Hôn nhân và gia đình (sửa đổi
năm 2000), Luật Thương mại năm 1996, Luật Doanh nghiệp, Luật Phá sản,
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam... đặt ra yêu cầu xây dựng, kiện toàn
đội ngũ thẩm phán theo hướng tiêu chuẩn hoá, nâng cao trình độ về kiến
thức pháp luật, bảo đảm phẩm chất chính trị và đạo đức để có thể vận dụng
đúng đắn pháp luật trong việc giải quyết, xét xử các loại vụ án. Do đó, lần
đầu tiên trong lịch sử lập pháp nước ta, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban
hành một văn bản riêng biệt về thẩm phán và hội thẩm toà án nhân dân,
trong đó quy định cụ thể về tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn của thẩm phán,
hội thẩm toà án nhân dân; thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức và nhiệm kỳ của thẩm phán.
Có thể thấy, hệ thống toà án đã có những cải cách nhất định cả về tổ
chức và hoạt động, bước đầu đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của toà án trong
công cuộc đổi mới đất nước và phù hợp với thực tiễn đời sống kinh tế, chính
trị, xã hội ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Kết quả đổi mới tổ chức và hoạt
động của toà án thể hiện ở việc toà án đã được giao thêm thẩm quyền giải
quyết, xét xử các vụ án kinh tế, lao động, hành chính và giải quyết các yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp; trong cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân
tối cao và Toà án cấp tỉnh thành lập các toà chuyên trách tương ứng để thực
hiện việc xét xử các loại vụ mới thuộc thẩm quyền của toà án; chế độ bổ
26
nhiệm thẩm phán theo tiêu chuẩn cụ thể với nhiệm kỳ 5 năm thay cho chế độ
bầu thẩm phán, đồng thời để bảo đảm cho việc bổ nhiệm thẩm phán đúng và
có chất lượng đã thành lập hội đồng tuyển chọn thẩm phán tòa án các cấp góp
phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử. Có bước tiến
mới bên cạnh việc cải cách chế độ tiền lương đối với thẩm phán, thể hiện sự
đánh giá lao động xét xử là một loại lao động quan trọng, cần được sự ưu đãi
của nhà nước. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của các toà
án đã được quan tâm và cải thiện một bước.
1.2.2. Toà án nhân dân giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2013
Nhằm cụ thể hoá các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về xây
dựng, hoàn thiện Bộ máy nhà nước cũng như những yêu cầu cụ thể về đổi
mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có TAND đã
được đề ra trong các nghị quyết, văn kiện của Đảng.
Đặc biệt là trong Văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng và Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị
“Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, ngày
02/4/2002, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khoá X đã thông qua Luật tổ chức Tòa
án nhân dân mới thay thế Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1992 đã được sửa
đổi, bổ sung theo các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa
án nhân dân năm 1993 và năm 1995.
So với các quy định trước đây, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002
có một số điểm mới cơ bản sau đây:
Bỏ quy định về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở tại khoản 2 Điều
2 và quy định về chế độ cử Hội thẩm ở Tòa án nhân dân tối cao tại Điều 3
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992.
Bổ sung một điều luật mới (Điều 11) quy định về chế độ hai cấp xét xử.
Theo quy định này bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng
27
cáo, kháng nghị để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử phúc thẩm.
Sửa đổi, bổ sung quy định về cơ chế quản lý các Tòa án nhân dân địa
phương và các Tòa án quân sự về tổ chức.
Theo quy định tại Điều 16 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992 và
Điều 16 Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự thì việc quản lý các Tòa án nhân
dân địa phương và các Tòa án quân sự về tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp
đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Nay theo quy định tại Điều 17 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002
thì Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân địa phương và các
Tòa án quân sự về tổ chức có sự phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân địa
phương và Bộ Quốc phòng. Đây là một bước cải cách tư pháp lớn đối với
ngành Tòa án nhân dân. Quy định này là sự cụ thể hoá, là việc thực hiện
những chủ trương về cải cách, tổ chức và đổi mới hoạt động các cơ quan tư
pháp đã được khẳng định trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01
năm 2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới”.
Bỏ quy định về Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Điều 22
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992, tức là bỏ một cơ quan có thẩm
quyền giám đốc thẩm, tái thẩm ở Tòa án nhân dân tối cao.
Sửa đổi, bổ sung quy định về thành phần, nguyên tắc hoạt động, nhiệm
vụ và quyền hạn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại các
điều 21 và 22 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002.
Bổ sung một số nhiệm vụ và quyền hạn mới của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao. Do đổi mới cơ chế quản lý các Tòa án nhân dân địa phương và
các Tòa án quân sự về tổ chức, đồng thời quán triệt Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị “gắn việc theo dõi, hướng dẫn
28
nghiệp vụ chuyên môn với việc nhận xét, bố trí, sử dụng cán bộ; phân cấp bổ
nhiệm theo hướng Chủ tịch nước chỉ bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao”; do đó, trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 có bổ sung một
số nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán các Tòa án nhân
dân địa phương, các Tòa án quân sự quân khu và tương đương, các Tòa án
quân sự khu vực cũng như về quy định bộ máy giúp việc của các Tòa án này
(các điểm 6, 7, 11 và 12 Điều 25).
Bỏ thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm của Phó Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao quy định tại Điều 26 Luật tổ chức Tòa án nhân
dân năm 1992 nhằm bảo đảm thống nhất với quy định trong các đạo luật khác
về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là cấp phó giúp cấp trưởng làm
nhiệm vụ. Mặt khác việc bỏ quy định này là nhằm nâng cao vai trò, trách
nhiệm của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong việc kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm.
Sửa đổi, bổ sung quy định về thành phần, nguyên tắc hoạt động của Ủy
ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh với lý do bảo đảm cho Ủy ban
Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm những Thẩm phán có năng lực để
thực hiện tốt nhiệm vụ giám đốc thẩm, tái thẩm (Điều 29 Luật tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2002).
Bổ sung quy định “Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh có bộ máy giúp việc” (khoản 1 Điều 32) tạo cơ sở pháp lý cho việc
thành lập bộ máy giúp việc trong cơ cấu tổ chức của Tòa án cấp huyện nhằm
bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án cấp này, đặc biệt trong
tương lai thực hiện việc tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án cấp huyện.
Tách khoản 1 Điều 37 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992 thành
hai khoản: khoản 1 quy định về tiêu chuẩn của Thẩm phán, khoản 2 quy định
29
về tiêu chuẩn của Hội thẩm, đồng thời bổ sung hai khoản mới quy định về
trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình (Điều 37 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002)…
Để triển khai thi hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, ngày 04
tháng 11 năm 2002, Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng đã thông qua Pháp lệnh
tổ chức Tòa án quân sự thay thế Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự ngày 19
tháng 4 năm 1993, trong đó quy định cụ thể cơ cấu tổ chức của Tòa án quân
sự các cấp, đồng thời sửa đổi, bổ sung một số quy định trước đây để phù hợp
30
với các quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002.
Chương 2
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀN ÁN NHÂN DÂN THEO
TINH THẦN HIẾN PHÁP 2013 THỰC TIỄN TỪ TỈNH VĨNH PHÚC
2.1. Nhận thức và thể hiện rõ tính chất, vị trí, vai trò của Tòa án
nhân dân theo các quy định của Hiến pháp năm 2013
Ở nước ta, quyền tư pháp cùng với quyền lập pháp và quyền hành
pháp tạo thành quyền lực thống nhất của nhà nước, mục đích thực hiện
quyền tư pháp là xử lý mọi hành vi vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh
chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh, bổ sung, thay đổi hoặc chấm dứt từ các
quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ do Tòa án thực hiện bằng thủ tục tố
tụng chặt chẽ, dân chủ, công khai và công bằng, nhằm khôi phục, duy trì trật
tự pháp luật, khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị
xâm phạm, góp phần bảo đảm pháp luật được tôn trọng và chấp hành
nghiêm minh. Tại khoản 3 Điều 2 và khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013
quy định:“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp,
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp.”; “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.”. Hiện vẫn
còn nhiều cách hiểu khác nhau về quyền tư pháp và cơ quan thực hiện quyền
tư pháp, bởi ngoài những quy định có liên quan tại Hiến pháp năm 2013, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hiện vẫn chưa ban hành văn bản hướng dẫn cụ
thể về nội dung này.
2.1.1. Nhận thức về quyền tư pháp
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến ở nước ta, quyền tư pháp và cơ quan
thực thi quyền tư pháp được quy định rõ. Tuy nhiên, khái niệm về quyền tư
31
pháp thì chưa được định nghĩa hoặc giải thích chính thống từ cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để được hiểu một cách thống nhất, dẫn đến nhận thức có
sự khác nhau về quyền tư pháp. Xoay quanh nội dung này, hiện có các nhóm
quan điểm sau:
+ Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng: Quyền tư pháp được hiểu là hoạt
động xét xử của Tòa án và những hoạt động của các cơ quan, tổ chức khác trực
tiếp liên quan đến hoạt động xét xử của Tòa án, nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, pháp chế, trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi
ích của Nhà nước và xã hội. Nhóm quan điểm này, quyền tư pháp được thực
hiện không chỉ bởi cơ quan xét xử (tòa án), mà cả Viện kiểm sát nhân dân, cơ
quan điều tra và các cơ quan trợ giúp tư pháp, như: Luật sư, Công chứng, Giám
định, Tư vấn pháp luật,… Những người theo quan điểm này, căn cứ vào Nghị
quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
+ Nhóm quan điểm thứ hai: Quyền tư pháp là quyền mà Nhà nước giao
cho các cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết các vụ án hình sự, dân sự,
hành chính, kinh doanh, thương mại, lao động,… theo trình tự, thủ tục tố tụng
tư pháp, bao gồm các thủ tục tố tụng hình sự, thủ tục tố tụng dân sự, thủ tục tố
tụng hành chính,… Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân
dân, Cơ quan thi hành án đều thực hiện quyền tư pháp theo những mức độ
khác nhau. Việc thực hiện quyền tư pháp của Tòa án gắn liền với chức năng
xét xử và chỉ thực hiện khi và chỉ khi xét xử chứ không bao trùm cả chức
năng điều tra, chức năng công tố và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp.
Hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Tòa án nhân dân chỉ xảy ra khi vụ
việc được chuyển đến Tòa án xem xét, giải quyết và hoàn toàn độc lập với
hoạt động điều tra của cơ quan điều tra, hoạt động thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát. Do vậy, Quyền tư pháp được
32
hiểu là tập hợp những hoạt động cụ thể do cơ quan tư pháp thực hiện trong tố
tụng tư pháp, liên quan trực tiếp đến việc giải quyết vụ án, các tranh chấp
pháp luật, hướng tới mục đích giải quyết các vụ án, tranh chấp một cách
khách quan, đúng đắn và các hoạt động liên quan đến thi hành các phán quyết
của Tòa án, mà các hoạt động đó thuộc về cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa
án và thi hành án.
+ Nhóm quan điểm thứ ba: Quyền tư pháp là lĩnh vực quyền lực Nhà
nước được thực hiện thông qua hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn,
tính hợp pháp của các hành vi, quyết định áp dụng pháp luật khi có sự tranh
chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp luật. Theo quan điểm này,
chủ thể thực hiện quyền tư pháp chỉ là Tòa án và hoạt động tư pháp chỉ là
hoạt động xét xử. Nói đến tư pháp là nói đến lĩnh vực hoạt động xét xử của
Tòa án và ngược lại. Cùng chung quan điểm này, theo PGS.TS Nguyễn Đăng
Dung, trong sách chuyên khảo “Thể chế Tư pháp trong Nhà nước pháp
quyền”, NXB Tư pháp, năm 2004, trang 11, có viết: “Tư pháp là một lĩnh vực
quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua hoạt động phân xử và phán xét
tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các quyết định pháp luật khi có
sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp luật”
Đồng tình với quan điểm này, nhưng hiểu với phạm vi mở rộng hơn,
mức độ sâu sắc hơn, mà theo đó, nội hàm của quyền tư pháp trước hết là
quyền xét xử, quyền kiểm tra, đánh giá kết luận về tính hợp pháp và có căn cứ
của các quyết định, hành vi tố tụng do các cơ quan tư pháp thực hiện trong
suốt quá trình tố tụng và thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Những người
ủng hộ quan điểm mở rộng, lập luận theo hướng Tòa án nhân dân có nhiệm
vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân
33
trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những
quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi
phạm pháp luật khác. Trước yêu cầu bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con
người, quyền công dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phải xây
dựng cơ chế để Tòa án tham gia kiểm soát việc thực hiện các hoạt động tư
pháp. Trong bài viết: “Làm thế nào để Thẩm phán và Tòa án độc lập trong
thực thi công lý” của GS. Lê Hồng Hạnh, đăng trên Tạp chí Pháp luật và Phát
triển, số 1/2015, có viết: Trong cơ chế phân công quyền lực, quyền tư pháp
được hiểu là là quyền của nhà nước xác định và xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật và thực thi công lý thông qua các thể chế phù hợp. Thiết chế này có
chức năng cơ bản nhất, nếu không muốn nói là duy nhất, thay mặt xã hội thực
thi công lý và nó phải được tổ chức, được giao nhiệm vụ, quyền hạn để thực
hiện công việc một cách độc lập tối đa có thể; và công lý phải được thực thi
trong mắt nhân dân. Thiết chế thực thi công lý bao gồm các Thẩm phán. Còn
PGS.TS Trần Văn Độ, cho rằng: Quyền tư pháp là quyền xét xử, tức quyền áp
dụng pháp luật để ra phán quyết về các vi phạm pháp luật và các tranh chấp
xảy ra trong xã hội. Tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, là cơ
quan xét xử duy nhất của Nhà nước thực hiện quyền tư pháp. Vì vậy, xử lý
các vi phạm pháp luật bằng các chế tài Nhà nước, giải quyết các tranh chấp
bằng quyền lực Nhà nước đều phải thuộc thẩm quyền của Tòa án. Các cơ
quan nhà nước khác tham gia vào việc xử lý, giải quyết đó không phải là cơ
quan tư pháp, không có chức năng thực hiện quyền tư pháp, mà các cơ quan
này chỉ thực hiện các hoạt động tư pháp. Từ đó, mở rộng thẩm quyền của Tòa
án trong xét xử, giao cho Tòa án bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật là xu
thế tất yếu của nhà nước pháp quyền.
Tuy nhiên, chỉ riêng trong lĩnh vực tố tụng hình sự, BLTTHS năm 2015
(có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016) vẫn quy định các Cơ quan điều tra,
34
Viện kiểm sát có thẩm quyền ban hành các quyết định có liên quan đến việc
hạn chế quyền con người, quyền công dân, trong đó, đặc biệt là các quyền về
tự do thân thể, nhà ở, đồ vật, thư tín, bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét nhà
ở,… Chẳng hạn, theo quy định tại các điểm a, b khoản 1 Điều 113 BLTTHS
năm 2015: Những người sau đây có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị
cáo để tạm giam:
a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp
này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;
b) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó
Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
Tương tự như vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 193 BLTTHS năm
2015, những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 Bộ luật này,
có quyền ra lệnh khám xét (khám xét người, khám xét chỗ ở, nơi làm việc, địa
điểm, phương tiện, thu giữ thư tín, điện tín,…). Trong khi các quyền này có
ảnh hưởng lớn đến quyền con người, quyền công dân, thì lại chưa được Quốc
hội giao cho Tòa án với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp phán
quyết hoặc kiểm tra việc ra phán quyết để bảo vệ quyền con người, quyền cơ
bản của công dân!
2.1.2. Cơ quan thực hiện quyền tư pháp
Việc quy định quyền tư pháp phải xuất phát từ nguyên tắc tổ chức quyền
lực nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm 2013, phù hợp với đặc thù về
thể chế chính trị, thực tế và truyền thống pháp luật của Việt Nam. Xoay quanh
nhận thức về quyền tư pháp là hoạt động của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án, Cơ quan thi hành án và thiết chế bổ trợ tư pháp cho rằng, quyền tư
pháp chỉ là hoạt động xét xử của Tòa án có một số điểm chưa hợp lý sau:
Một là, các quan điểm nói trên mới chỉ nói đến chức năng và thẩm
quyền xét xử của Tòa án, mà chưa đề cập đến thẩm quyền nhiều mặt khác của
35
cơ quan này, bởi lẽ, ở nhiều quốc gia khác, ngoài hoạt động xét xử, Tòa án
còn thực hiện nhiều hoạt động khác, như kiểm tra tính hợp pháp và tính có
căn cứ của các quyết định mà cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền giải
thích, hướng dẫn, áp dụng pháp luật.
Hai là, nhận thức về quyền tư pháp theo phương diện chủ thể thực thi
quyền tư pháp bao gồm cơ quan điều tra, Viện kiểm sát sẽ phân biệt được rõ
ràng chức năng hành pháp và chức năng tư pháp. Các cơ quan điều tra, viện
kiểm sát về bản chất là cơ quan hành pháp và hoạt động của các cơ quan này
sẽ tham gia vào các vụ án hình sự, trong khi đó, các vụ án không phải là hình
sự thì theo quy định của pháp luật nghĩa vụ chứng minh thuộc về các đương
sự, nên các cơ quan điều tra sẽ không xuất hiện và chức năng thực hiện quyền
kiểm sát hoạt động tư pháp của viện kiểm sát lại càng rất mờ nhạt.
Ba là, nếu coi chủ thể thực hiện quyền tư pháp không chỉ là các cơ
quan nhà nước mà còn cả các tổ chức bổ trợ tư pháp, thì điều này dẫn đến,
quyền tư pháp không còn được hiểu đúng theo nghĩa của một nhánh quyền
lực trong quyền lực Nhà nước của bộ máy Nhà nước.
Theo quy định khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013, như trên đã dẫn,
việc cụ thể hóa nội hàm về quyền tư pháp, xác định chính danh Tòa là cơ
quan thực hiện quyền tư pháp trong văn bản pháp luật là điều rất cần thiết, từ
đó mới quy định đúng, đủ, chính xác chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Tòa án, tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án thực hiện có hiệu quả quyền tư pháp,
góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Qua nghiên cứu, theo quan điểm của cá nhân, nội hàm của quyền tư
pháp được xác định bao gồm các lĩnh vực sau:
Thứ nhất, quyền tư pháp là xét xử và giải quyết các việc khác theo quy
định của pháp luật; áp dụng, kiểm tra, hủy bỏ việc áp dụng các biện pháp
cưỡng chế Nhà nước hạn chế quyền con người, quyền công dân đã được Hiến
pháp và pháp luật quy định; kiểm tra, kết luận tính hợp pháp và có căn cứ của
36
các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Thứ hai, xử lý vi phạm hành chính; xem xét đề nghị của cơ quan
quản lý nhà nước và quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
liên quan đến quyền con người; quyền cơ bản của công dân theo quy định
của pháp luật.
Thứ ba, quyết định, giám sát việc thi hành bản án, quyết định của Tòa
án; Thứ tư, trong quá trình xét xử vụ án, Tòa án phát hiện và kiến nghị với cơ
quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật
trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
UBTVQH;
Thứ năm, quyền kiểm soát việc thực hiện các hoạt động tư pháp. Hiến
pháp đã xác định Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, thì trong quá
trình thực hiện quyền tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử, giải quyết
các vụ việc thuộc thẩm quyền, các hoạt động của cơ quan, tổ chức tiến hành
tố tụng hoặc hỗ trợ cho tòa án trong việc thực hiện quyền tư pháp đều phải
chịu sự kiểm soát tư pháp của Tòa án [6, tr.60].
Từ những phân tích nội hàm quyền tư pháp nêu trên, theo quan điểm
của cá nhân, quyền tư pháp được hiểu: Quyền tư pháp là quyền lực nhà nước
giao cho tòa án thực hiện, bao gồm trước hết là quyền xét xử và giải quyết
các việc khác theo quy định của pháp luật; áp dụng, kiểm tra, hoặc hủy bỏ
việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước hạn chế quyền con người,
quyền công dân; áp dụng các biện pháp xử lý hành chính liên quan đến quyền
con người, quyền cơ bản của công dân theo quy định của pháp luật; quyết
định, giám sát việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án; hướng dẫn thống
nhất áp dụng pháp luật; kiểm soát hoạt động tư pháp, hoạt động của cơ quan
hành pháp theo cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền
lực nhà nước và các quyền khác bảo đảm để Tòa án thực thi quyền lực tư
37
pháp theo quy định của pháp luật.
Hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan nhà nước bảo vệ pháp
luật có trách nhiệm duy trì, bảo vệ công lý và trật tự pháp luật, trong đó, Tòa án
với chức năng hiến định là xét xử với vai trò trung tâm và thể hiện rõ nét nhất
các đặc tính của quyền tư pháp. Hoạt động điều tra, hoạt động thực hành quyền
công tố được thực hiện bởi các cơ quan hành pháp, bởi suy cho cùng Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát về bản chất thuộc cơ quan hành pháp, nên việc sắp xếp
các cơ quan này vào hệ thống các cơ quan tư pháp là không hợp lý, hơn nữa,
theo khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013: “Viện kiểm sát nhân dân thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Kiểm sát hoạt động tư pháp
mà thực chất là kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án, là hình thức kiểm soát
quyền lực nhà nước, xuất phát từ nguyên tắc độc lập xét xử. Theo quy định tại
khoản 1 Điều 4 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014:
Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện
ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong
việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư
pháp khác theo quy định của pháp luật.
Vấn đề đặt ra, kiểm soát quyền lực tư pháp thực hiện như thế nào là
hợp lý? Cách giải thích phù hợp với Hiến pháp hiện nay là quyền kiểm soát
hoạt động xét xử, được Quốc hội giao cho Viện kiểm sát với vai trò công cụ
kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, trong đó có quyền lực tư pháp. Mà
nếu như vậy, Viện kiểm sát phải độc lập với hoạt động xét xử, hoạt động tố
38
tụng thì mới có thể kiểm sát hoạt động xét xử, kiểm sát hoạt động tố tụng,
nghĩa là Viện kiểm sát phải đứng ngoài tư pháp, không phải là cơ quan tư
pháp. Mặt khác, cơ quan điều tra và Viện kiểm sát xuất hiện trong quan hệ tố
tụng trong từng lĩnh vực là khác nhau, cụ thể, trong quan hệ tố tụng hình sự
thì luôn luôn có sự tham gia của các cơ quan này theo thẩm quyền pháp luật
quy định, nhưng với lĩnh vực dân sự, lao động, kinh doanh, thương mại,… Cơ
quan điều tra không tham gia, còn Viện kiểm sát chỉ tham gia với chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp việc thực hiện
chức năng công tố với chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp chưa rõ ràng,
nghĩa là lúc nào thì Viên kiểm sát thực hiện quyền công tố, khi nào thì Viện
kiểm sát thực hiện quyền kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án.
Cơ quan thi hành án với chức năng nhiệm vụ pháp luật quy định chỉ thi
hành các phán quyết của Tòa án, nên mang tính chất hành chính – tư pháp. Do
đó, hoạt động thi hành án không thuộc phạm vi của quyền tư pháp và cơ quan
thi hành án không phải là cơ quan tư pháp. Ngoài ra, hoạt động của tổ chức
luật sư, giám định,… như tên gọi là hoạt động bổ trợ tư pháp, góp phần bảo
vệ công lý, nhưng các hoạt động này được tiến hành bởi các tổ chức, cá nhân
bên ngoài, không được giao thực hiện quyền lực nhà nước, nên không coi là
hoạt động thực thi quyền tư pháp.
Trong khi đó, Tòa án là chủ thể thực hiện quyền tư pháp một cách
“tuyệt đối” nên tham gia trong mọi lĩnh vực để phân xử đưa ra phán quyết bảo
đảm sự công bằng, lẽ phải, bảo vệ công lý theo quy định của pháp luật. Trong
điều kiện đất nước ta đang xây dựng nền tư pháp phụng sự Nhân dân, gần
Nhân dân, đáp ứng những yêu cầu của Nhân dân phải giải quyết nhanh chóng
những tranh chấp, sự việc phát sinh để kịp thời bảo vệ quyền, lợi ích của
người dân thì mức độ và phạm vi kiểm sát hoạt động xét xử, giải quyết các vụ
39
việc khác của Tòa án cần được cụ thể hóa bằng văn bản pháp luật.
Tóm lại, như vậy Tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp,
là cơ quan xét xử duy nhất của Nhà nước, chỉ có Tòa án là cơ quan có thẩm
quyền xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài nhà nước, giải quyết các tranh
chấp bằng quyền lực nhà nước. Do vậy, khi nói đến quyền tư pháp là nói đến
quyền của Tòa án và chỉ là Tòa án; Cơ quan thực hiện quyền tư pháp duy nhất
chỉ là Tòa án.
2.2. Thiết lập và kiện toàn tổ chức của Tòa án nhân dân theo các
quy định của Hiến pháp 2013
Hiến pháp 2013 đã bỏ quy định về Tòa án nhân dân địa phương, chỉ
khái quát chung nhất về hệ thống TAND: "TAND gồm TAND tối cao và các
tòa án khác do luật định". Việc quy định mở như vậy tạo điều kiện cho việc tổ
chức một mô hình tòa án phù hợp, bao gồm cả khả năng chuyển đổi từ mô
hình từ tòa án tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ sang mô hình tòa án
theo cấp xét xử, qua đó nâng cao tính độc lập của Tòa án với cơ quan nhà
nước ở địa phương [14, tr.500].
Hiến pháp 2013 cũng không trao quyền cho Quốc hội có thể quyết định
thành lập Tòa án đặc biệt trong tình hình đặc biệt do nhận thấy quy định cũ
của Hiến pháp 1992 là không phù hợp với nguyên tắc nhà nước pháp quyền,
quyền con người và độc lập tư pháp. Hiến pháp cũng không còn quy định về
việc thành lập ở cơ sở các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết các
việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân do vấn đề này không
thuộc phạm vi quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Tòa án nhân dân được
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày
24/11/2014, nhằm chi tiết hóa một số điều trong Hiến pháp năm 2013 và là
bước phát triển mới phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp ở nước ta hiện
nay. Theo quy định của Luật này, cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân có
40
nhiều thay đổi.
Trước đây, ở nước ta có các Tòa án sau: Tòa án nhân dân tối cao; các
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; các Tòa án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các tòa án quân sự và các Tòa án
khác do luật định (Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002). Theo
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, tổ chức Tòa án ở nước ta gồm:
- Tòa án nhân dân tối cao.
- Tòa án nhân dân cấp cao.
- Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và
tương đương.
- Tòa án quân sự.
(Điều 3 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014)
Như vậy, theo Luật mới thì thành lập thêm Tòa án nhân dân cấp cao
trong hệ thống tổ chức Tòa án ở nước ta và kèm theo là sự điều chỉnh rất
nhiều về quyền hạn, nhiệm vụ của các Tòa án.
Trong Tòa án nhân dân tối cao, trước đây có Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao; Tòa án quân sự trung ương, Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa
kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính và các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao (Trong trường hợp cần thiết Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định
thành lập các Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao) và bộ máy giúp việc. Theo Luật mới thì trong Tòa án nhân dân
tối cao không thành lập các Tòa phúc thẩm và các Tòa chuyên trách; Tòa án
quân sự trung ương cũng không nằm trong Tòa án nhân dân tối cao. Theo
Điều 21 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, cơ cấu tổ chức của Tòa án
nhân dân tối cao gồm:
a) Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao;
b) Bộ máy giúp việc;
41
c) Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
Với cơ cấu tổ chức như vậy, Tòa án nhân dân tối cao theo qui định
của Luật mới không có quyền hạn, nhiệm vụ xét xử phúc thẩm và phạm vi
xét xử cũng hẹp hơn trước đây, mà tập trung vào việc tổng kết kinh nghiệm
xét xử và một số việc khác theo qui định của pháp luật (Điều 20 Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014) quy định Toà án nhân dân tối cao có
quyền hạn, nhiệm vụ sau:
1. Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm bản án,
quyết định của các Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị
theo quy định của luật tố tụng.
2. Giám đốc việc xét xử của các Toà án khác, trừ trường hợp
do luật định.
3. Tổng kết thực tiễn xét xử của các Tòa án, bảo đảm áp dụng
thống nhất pháp luật trong xét xử.
4. Đào tạo; bồi dưỡng Thẩm phán, Hội thẩm, các chức danh
khác của Tòa án nhân dân.
5. Quản lý các Toà án nhân dân và Tòa án quân sự về tổ chức
theo quy định của Luật này và các luật có liên quan, bảo đảm độc
lập giữa các Tòa án.
6. Trình Quốc hội dự án luật, dự thảo nghị quyết; trình Ủy
ban thường vụ Quốc hội dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết theo
quy định của luật.
Một phần thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao trước đây
nay sẽ chuyển giao cho Tòa án nhân dân cấp cao (ví dụ tiến hành
42
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm…).
Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp cao gồm:
a) Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao;
b) Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động,
Tòa gia đình và người chưa thành niên; Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường
vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;
c) Bộ máy giúp việc.
Ngoài các Tòa chuyên trách như trước đây, nay Luật mới còn qui định
một Tòa chuyên trách rất đặc biệt – đó là Tòa gia đình và người chưa thành
niên (Tòa này được thành lập ở Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân c
ấp tỉnh và cấp huyện).
Điều 38 Luật tổ chức Tòa án nhân dân n ăm 2014 qui định Tòa án
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gồm:
a) Ủy ban Thẩm phán;
b) Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động,
Tòa gia đình và người chưa thành niên;
Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập
Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;
Căn cứ quy định tại điểm này và yêu cầu thực tế xét xử ở mỗi Tòa án
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao quyết định việc tổ chức các Tòa chuyên trách;
c) Bộ máy giúp việc;
Điều 45 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 qui định: Tòa án nhân
dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có thể có Tòa
hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý hành
chính. Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập
43
Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Căn cứ quy định tại khoản này và yêu cầu, thực tế xét xử ở mỗi Tòa án
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc tổ chức Tòa chuyên trách.
Và Tòa án nhân dân cấp huyện có Bộ máy giúp việc.
Theo qui định trên thì các Tòa chuyên trách có thể được thành lập trong
các Tòa án nhân dân cấp huyện (đây là điểm hoàn toàn mới so với Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2002). Nếu như ở Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa
án nhân dân cấp tỉnh có một Tòa chuyên trách là Tòa hành chính; thì ở Tòa án
nhân dân cấp huyện (nếu có thành lập) Tòa này có tên gọi khác một chút –
Tòa xử lý hành chính.
Theo Luật mới, không chỉ có sự điều chỉnh lớn về tổ chức Tòa án mà
cũng có nhiều sự thay đổi về các chức danh trong Tòa án nhân dân. Trong
Tòa án có các chức danh cơ bản là Chánh án, Phó chánh án, Thẩm phán, Thư
ký Tòa án, Thẩm tra viên (Thẩm tra viên là chức danh mới trong Tòa án.
Thẩm tra viên có quyền hạn, nhiệm vụ thẩm tra hồ sơ các vụ việc mà bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo sự phân công của Chánh
án Tòa án… (Điều 93 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014). Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị
của Chủ tịch nước. Phó chánh án và thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do
Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao (danh sách đề nghị về việc bổ nhiệm các Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao lập ra, trình
Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước bổ nhiệm; các Phó chánh án Tòa án nhân
dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm trong số các Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao (Điều 28 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014). Theo Hiến
44
pháp năm 2013, thẩm phán các Tòa án đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm, nhiễm
nhiệm, cách chức. Điều này càng nâng cao vị thế của Thẩm phán và tạo điều
kiện bảo đảm tính độc lập cao hơn của thẩm phán trong quá trình xét xử. Luật
tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định cụ thể thêm như sau: Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, nhiễm nhiệm, cách chức Chánh án, Phó
chánh án Tòa án nhân dân cấp cao; Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân
cấp tỉnh; Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện (trong số các
thẩm phán Tòa án đã được Chủ tịch nước bổ nhiệm). Thư ký Tòa án và Thẩm
tra viên do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân cấp
cao hoặc Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức (tùy thuộc từng ngạch Thư ký viên hoặc Thẩm tra viên …).
2.3. Xác định đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân
theo các quy định của Hiến pháp năm 2013
Khoản 3 Điều 102 quy định: "Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ
công lý, bảo vệ con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân"
Việc quy định như vậy đã xác định rõ nhiệm vụ cơ bản của Tòa án, thể
hiện rõ tinh thần tôn trọng, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Tòa án
được coi là thiết chế trung tâm, đóng vai trò quan trọng nhất trong việc phán
xử các hành vi vi phạm quyền con người, quyền công dân. Tòa án là nơi mà
mọi con người, mọi công dân tìm đến lẽ phải và sự thật cuối cùng. Khi quyền
và lợi ích của mình bị xâm phạm, tranh chấp, người dân tìm đến tòa án như là
tìm đến công lý. Vì vậy, có thể nói, theo Hiến pháp mới, Tòa án là biểu tượng
của công lý và có nhiệm vụ bảo vệ công lý
Từ quy định này của hiến pháp đặt ra yêu cầu sửa đổi các Luật có liên
quan nhằm nhấn mạnh hơn nữa mục tiêu bảo vệ quyền con người, quyền công
45
dân thay vì nhấn mạnh đến mục tiêu bảo vệ chế độ [42, tr.180].
2.4. Đổi mới phương thức hoạt động của Tòa án nhân dân theo các
quy định của Hiến pháp năm 2013
Nguyên tắc xét xử có hội thẩm tham gia. Theo Hiến pháp 2013 thì
Hội thẩm chỉ tham gia trong xét xử ở cấp sơ thẩm, trừ trường hợp xét xử
theo thủ tục rút gọn; việc xét xử ở cấp phúc thẩm là không bắt buộc. Đồng
thời, Hiến pháp 2013 cũng không còn quy định Hội thẩm ngang quyền với
thẩm phán trong xét xử. Sự thay đổi này cũng xuất phát từ thực tiễn xét xử
những năm vừa qua.
Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập. Nguyên tắc này có
một bổ sung quan trọng trong Hiến pháp 2013 đó là: “Cấm cơ quan tổ chức,
cá nhân, can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Việc này nhấn
mạnh tầm quan trọng cũng như việc nghiêm cấm sự can thiệp vào hoạt động
xét xử của Tòa án.
Nguyên tắc xét xử tập thể mặc dù vẫn kế thừa từ bản hiến pháp trước
xong nhằm nâng cao hiệu quả của công tác xét xử, bảo đảm cho việc xét xử
nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm, Hiến pháp 2013 cho phép quy định ngoại lệ
Tòa án xét xử bằng một Thẩm phán trong trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn.
Nguyên tắc xét xử công khai. Thay cho quy định trường hợp ngoại lệ
do luật định trong Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 quy định cụ thể điều kiện
cho phép Tòa án xét xử kín, đó là: “Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật
nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên
hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án nhân
dân có thể xét xử kín”
Nguyên tắc quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp
pháp của đương sự được bảo đảm được thực hiện bảo vệ con người một cách
toàn diện, công bằng, bên cạnh quy định về quyền bào chữa của bị can, bị
cáo, Hiến pháp còn quy định về quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự
46
trong hoạt động xét xử của Tòa án
Ngoài việc kế thừa và bổ sung các nguyên tắc trên, Hiến pháp 2013 còn
bổ sung một số nguyên tắc mới quan trọng, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư
pháp, bảo vệ quyền con người và thông lệ quốc tế:
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo. Đây là nguyên tắc
thể hiện nội dung rất quan trọng trong cải cách tư pháp ở nước ta. Sự thật của
chân lý chỉ được xác định khi có sự tranh tụng giữa các bên trong tố tụng tư
pháp, nhất là xét xử trong các vụ án;
Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo. Nguyên tắc hai cấp
xét xử là nguyên tắc xuyên suốt của hệ thống tư pháp của bất kỳ một quốc gia
nào; được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế về quyền con người và pháp
luật mọi quốc gia. Thực hiện hai cấp xét xử là một trong những biện pháp bảo
vệ quyền con người hữu hiệu; đồng thời bảo đảm cho hoạt động tư pháp tránh
kéo dài, chậm trễ
Khác với Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 không còn quy định tại
chương này nguyên tắc TAND bảo đảm cho công dân nước CHXHCN Việt
Nam thuộc các dân tộc mình trước Tòa án. Đây là quy định không chỉ quan
trọng trong lĩnh vực tư pháp mà còn trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Thay
vào đó, tinh thần quan trọng này quy định tại Khoản 3, Điều 5. Hiến pháp
2013 cũng không quy định nguyên tắc xét xử trực tiếp, nguyên tắc xét xử liên
tục, vì vấn đề đó không đặc trưng cho hoạt động xét xử và cũng không phù
hợp với thực tiễn.
2.5. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân qua thực tiễn tỉnh
Vĩnh Phúc
Trước những yêu cầu đặt ra trong tình hình mới, với cơ cấu tổ chức, cơ
sở vật chất và nền tảng công tác tổ chức cán bộ đã hình thành, xây dựng, phát
triển trong nhiều năm qua chính là những điều kiện thuận lợi để chuẩn bị cho
47
công tác xây dựng, đổi mới hệ thống tổ chức, bộ máy Tòa án nhân dân hai
cấp. Cùng với chặng đường dài phát triển của hệ thống Tòa án nhân dân, Tòa
án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc qua 19 năm thành lập đã có những nền tảng vững
chắc đó là:
- Về tổ chức: Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc có 9 Tòa án nhân dân
cấp huyện và 07 Tòa, phòng (Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa
Hành chính, Văn phòng, Phòng Tổ chức cán bộ, Phòng Giám đốc kiểm tra).
Căn cứ theo Thông tư 01/2016/TT-CA ngày 21/01/2016 của Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao quy định việc tổ chức các Tòa chuyên trách tại Tòa
án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; Hiện tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc đang tiến hành các thủ tục theo quy định trình Tòa án nhân dân tối
cao thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên.
- Về công tác xét xử: Từ năm 2011 đến 31/3/2016, TAND hai cấp tỉnh
thụ lý 5.125 vụ án các loại, đã giải quyết 4.859 vụ. Án Hình sự thụ lý 3.676 vụ
với 5.405 bị cáo, đã giải quyết 3.500 vụ 5.217 bị cáo; án Dân sự, Hôn nhân gia
đình, Hành chính, Kinh tế, Lao động thụ lý 1.231 vụ việc, giải quyết 1.211 vụ
việc; xét xử lưu động 945 vụ. Trong đó, TAND cấp tỉnh thụ lý 691 vụ các loại,
đã giải quyết 682 vụ đạt tỷ lệ giải quyết 98,7%. Cụ thể: án Hình sự thụ lý 618
vụ 1.045 bị cáo, giải quyết 611 vụ 1.027 bị cáo đạt tỷ lệ 98,87%, án Dân sự,
Hôn nhân gia đình, Hành chính, Kinh tế, Lao động thụ lý 73 vụ, giải quyết 71
vụ đạt tỷ lệ 97,2%. Xét xử lưu động 97 vụ tại các địa bàn trọng điểm, đông dân
cư nơi xảy ra tội phạm… Công tác xét xử các vụ án luôn đảm bảo đúng người,
đúng tội, đúng thời hạn luật định. Thẩm phán khi được phân công giải quyết án
luôn nghiên cứu hồ sơ một cách thận trọng, toàn diện, không bỏ sót người tham
gia tố tụng, nhất là những người có quyền và lợi ích liên quan. Đối với các vụ
án trọng điểm, phức tạp luôn được giải quyết kịp thời, đảm bảo chất lượng xét
48
xử, qua đó tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân.
- Về công tác cán bộ: Tính đến nay, đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án
nhân dân hai cấp tỉnh Vĩnh Phúc có 160 người và 34 nhân viên hợp đồng lao
động theo Nghị định 68/CP (Tòa án nhân dân cấp tỉnh 60 người, Tòa án nhân
dân cấp huyện 100 người), trong đó có 22 Thẩm phán trung cấp, 30 Thẩm
phán sơ cấp, 05 Thẩm tra viên, 80 Thư ký Tòa án, 16 chuyên viên, 7 ngạch
công chức khác. Tỷ lệ cán bộ trẻ dưới 40 tuổi chiếm tỷ lệ gần 70% trong đội
ngũ cán bộ Tòa án hai cấp, số lượng cán bộ, công chức nữ chiếm tỷ lệ hơn
50% trong tổng số biên chế, cán bộ, công chức là dân tộc thiểu số hiện nay là
09 người. Về trình độ chuyên môn: đến nay có 40 Thạc sĩ Luật, 50 Đại học
Luật,10 Đại học khác, số còn lại là trình độ cao đẳng, trung cấp các ngạch Kế
toán, Văn thư. Về trình độ lý luận chính trị: có 80% cán bộ, công chức là
Đảng viên, trong đó có 15 đảng viên có trình độ cử nhân, cao cấp, trung cấp
lý luận chính trị. Cán bộ lãnh đạo, quản lý Tòa án nhân dân hai cấp cơ bản
đều đạt trình độ từ trung cấp lý luận chính trị trở lên.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng Thư ký, Thẩm tra viên, Thẩm phán:
Thực hiện theo tinh thần hiến pháp 2013 mới được triển khai, công tác
đào tạo chuyên môn nghiệp vụ và đào tạo lý luận chính trị là một trong hai
nhiệm vụ chiến lược mang tính ổn định bền vững trong thời gian đến, thông
qua báo cáo định kỳ hằng quý, Phòng Tổ chức cán bộ tham mưu Ban cán sự
đảng, Ban lãnh đạo TAND tỉnh kiến nghị, đề xuất đối với Tòa án nhân dân tối
cao phân bổ nguồn Thư ký đi đào tạo nghiệp vụ xét xử, đồng thời tham mưu
Chánh án bổ sung vào quy chế Tòa án nhân dân hai cấp về “tiêu chuẩn và
điều kiện” của Thư ký, Thẩm tra viên để được cử đi đào tạo nghiệp vụ xét xử
để đảm bảo công bằng và lựa chọn được những Thư ký, Thẩm tra viên có lập
trường tư tưởng chính trị vững vàng, có bản lĩnh về chuyên môn nghiệp vụ để
dự nguồn thi tuyển chọn Thẩm phán trong tương lai; đề xuất bổ sung quy chế
49
về công tác đào tạo, đặc biệt là công tác đào tạo sau đại học và đào tạo liên
kết với nước ngoài theo Chương trình của Tòa án nhân dân tối cao, ưu tiên hỗ
trợ kinh phí đối với các đối tượng được đưa vào quy hoạch chức vụ quản lý,
để tạo điều kiện phát huy nhiều hơn nữa năng lực chuyên môn đối với cán bộ
dự nguồn. Tiếp tục cử những Thẩm phán chưa được đào tạo nghiệp vụ xét xử
hoặc đã qua một kỳ Thẩm phán nhưng chất lượng giải quyết án còn hạn chế
cử đi dự lớp đào tạo ngắn hạn do TANDTC tổ chức.
Trong công tác đào tạo lý luận chính trị, tiếp tục tham mưu Ban cán sự
đảng đề xuất đối với Tỉnh ủy Vĩnh Phúc phân bổ chỉ tiêu học các lớp Cao cấp
lý luận chính trị, Trung cấp lý luận chính trị đối với Thẩm phán Tòa án nhân
dân hai cấp chưa qua đào tạo lý luận chính trị để kịp thời chuẩn hóa trình độ
chính trị đối với Thẩm phán và đảm bảo công tác bảo vệ chính trị nội bộ theo
quy định của Đảng và Tòa án nhân dân tối cao.
Công tác tuyển chọn Thẩm phán, thi nâng ngạch Thẩm phán, bổ nhiệm lại
Thẩm phán và điều động, biệt phái Thẩm phán theo tinh thần Hiến pháp 2013:
Công tác tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán theo quy định của Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân sửa đổi năm 2014 với nhiều điểm mới như: Bổ nhiệm
lần đầu các chức danh Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán
cao cấp đều phải qua thi tuyển, thi nâng ngạch; nhiệm kỳ bổ nhiệm lần đầu
của Thẩm phán là 05 năm, nhiệm kỳ của Thẩm phán được bổ nhiệm lại là 10
năm. Do đó, trong thời gian đến, Phòng Tổ chức cán bộ sẽ rà soát các trường
hợp đủ điều kiện tuyển chọn Thẩm phán sơ cấp và thi nâng ngạch Thẩm phán
trung cấp, Thẩm phán cao cấp để tham mưu cho Ban cán sự đảng, Ban lãnh
đạo TAND tỉnh đề nghị Tòa án nhân dân tối cao cho phép thi tuyển, đồng thời
chuẩn bị đầy đủ các thủ tục sau khi Tòa án nhân dân có hướng dẫn cụ thể để
công tác bổ nhiệm Thẩm phán được thực hiện theo đúng quy định để đảm bảo
chất lượng công tác xét xử cũng như tạo điều kiện để các Thẩm phán phát huy
50
năng lực của mình.
Song song với việc đổi mới về cơ cấu tổ chức cũng như nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực thẩm phán, thư ký, việc vận dụng các nguyên tắc vào
công tác xét xử cũng được Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc chú trọng.
Nguyên tắc tranh tụng đều được đảm bảo, sự tranh tụng giữa các bên diễn ra
tại phiên tòa, đảm bảo mỗi phán quyết đưa ra trên cơ sở xem xét một cách
khách quan toàn diện các chứng cứ, và việc tranh luận giữa các bên.
Các phiên xét xử đều có hội thẩm được tham gia, đảm bảo đúng số
lượng và thành phần theo quy định, đặc biệt đối với những vụ án mà bị cáo là
đối tượng chưa thành niên. Quyền bào chữa của bị cáo cũng được Tòa án
nhân dân hai cấp tỉnh Vĩnh Phúc đảm bảo, các trường hợp quy định phải có
luật sư bào chữa mà bị cáo không có người bào chữa hợp pháp đều được Tòa
án xét xử liên hệ với Đoàn luật sư để cử người bào chữa nhằm đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của bị cáo theo quy định.
Có thể khẳng định, Luật Tổ chức nhân dân năm 2014 thông qua và có
hiệu lực là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng bộ máy, tổ chức và biên chế
hệ thống Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Vĩnh
Phúc nói riêng. Để đảm bảo thực hiện tốt công tác triển khai thi hành Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân tại Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc được hiệu quả,
đúng quy định, với trách nhiệm là bộ phận tham mưu, giúp việc trong công
tác xây dựng đội ngũ, cán bộ, công chức, Phòng Tổ chức cán bộ đã chuẩn bị
thực hiện tốt công tác tham mưu để xây dựng nguồn nhân lực có trình độ
chính quy, phẩm chất đạo đức tốt đối với Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Vĩnh
Phúc, trọng tâm là công tác xây dựng đội ngũ Thẩm phán có năng lực xét xử,
có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống tốt đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
chiến lược cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị, Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án
51
nhân dân năm 2014.
Chương 3
GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VIỆC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÁC QUY
ĐỊNH VỀ TÒA ÁN NHÂN DÂN THEO TINH THẦN HIẾN PHÁP 2013
3.1. Giải pháp nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của Tòa án
nhân dân theo tinh thần Hiến pháp 2013
3.1.1. Xây dựng hệ thống quan điểm lý luận đầy đủ về quyền tư pháp,
xác định Tòa án là cơ quan thực hiện quyền Tư pháp
Quyền tư pháp là một dạng quyền lực nhà nước, được minh định khi
quyền lực nhà nước phân chia thành ba quyền độc lập với nhau, bổ trợ cho
nhau và kiểm soát lẫn nhau. Đó là các quyền lập pháp, quyền hành pháp và
quyền tư pháp. Là sản phẩm của các cuộc biển đổi thể chế mang tính cách
mạng, học thuyết và thực tiễn phân chia quyền lực, cân bằng quyền lực, kiểm
soát quyền lực cùng với việc xây dựng nhà nước pháp quyền, ba quyền này đã
chứng tỏ sức sống của mình trong thế giới đương đại. Ở Việt Nam, mặc dù
lâu nay chúng ta tuy không thừa nhận và không tổ chức Nhà nước theo
nguyên lý tam quyền phân lập mà đặc trưng là các quyền đối trọng và kiểm
soát lẫn nhau, nhưng có thể nói, pháp luật và thực tiễn của Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam hiện nay, đặc biệt là Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa trước đây đã tiếp thu nhiều yếu tố hợp lý của thuyết
tam quyền. Đó là cách gọi tên các quyền (và các cơ quan) lập pháp, hành
pháp, tư pháp, coi trọng tính độc lập của hoạt động tư pháp, xác định Toà án
là mắt xích trọng tâm của hệ thống tư pháp cùng với cách phân biệt ngày càng
rành mạch giữa các quyền này và phương hướng tăng cường kiểm soát quyền
lực nói chung và kiểm soát giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp nói
riêng. Là một trong ba trụ cột của quyền lực nhà nước, phân biệt theo chức
52
năng, quyền tư pháp không đồng dạng với hai loại quyền còn lại và luôn giữ
một vị thế độc lập, một nhánh quyền lực quan trọng trong các thể chế nhà
nước hiện đại, đặc biệt là trong nhà nước pháp quyền.
Quyền tư pháp được nhìn nhận từ nhiều giác độ, song tựu trung,quyền
tư pháp là quyền xét xử, là việc nhân danh nhà nước giải quyết tranh chấp,
giải quyết xung đột xã hội bằng việc xét xử, thông qua thủ tục xét xử do luật
định. Quyền tư pháp từ đó phân biệt với quyền lập pháp (định hình chính sách
và tạo lập cơ sở pháp lý) và quyền hành pháp (quản lý nhà nước, thực thi pháp
luật, bảo vệ pháp luật) không chỉ ở nội dung mà còn là ở hình thức thực hiện
và cơ quan thực hiện. Quyền tư pháp được thừa nhận là một loại quyền lực
nhà nước với đặc trưng của quyền là độc lập. Không phụ thuộc vào bất cứ tác
động nào từ bên trong và bên ngoài trong quá trình thực thi quyền lực, chủ thể
quyền tư pháp hay là chủ thể quyền xét xử phải được đặt ở vị trí độc lập. Chủ
thể quyền tư pháp đang được nói đến không ai khác chính là Tòa án. "Quyền
tư pháp bao gồm xét xử hành vi vi phạm pháp luật để bảo đảm quyền tự do và
quyền con người, và do đó phải được trao cho một thiết chế riêng rẽ - đó là
Tòa án” (Montesquieu). Đương nhiên, chỉ trong chính thể phân quyền hoặc
tập quyền nhưng có phân công rành mạch giữa ba nhánh quyền lực thì độc lập
tư pháp mới biểu hiện rõ ràng.
Quan niệm tư pháp là xét xử và việc xét xử chỉ do Tòa án thực hiện đã
định hình khá sớm trong nhận thức và trong thực tiễn lập pháp, thực hiện
pháp luật của Nhà nước Việt Nam mới. Điển hình là Hiến pháp 1946, ở
Chương Tư pháp ghi nhận việc xét xử và cơ quan xét xử. Theo Hiến pháp
1946, quyền lực tư pháp mặc nhiên được thừa nhận là quyền lực độc lập và do
Tòa án thực hiện. Tuy nhiên, gần đây, trong nhận thức và thực tiễn tổ chức và
hoạt động của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam có khuynh hướng mở
rộng phạm vi quyền tư pháp, coi xét xử chỉ là mắt xích, là khâu trọng tâm của
53
hoạt động tư pháp, là một bộ phận chứ không phải là toàn bộ quyền tư pháp.
3.1.2. Quán triệt thực hiện những điểm mới về vị trí, vai trò quan
trọng của Tòa án nhân dân
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định rõ nhiệm vụ của cải cách tư
pháp bảo đảm để Toà án là trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm. Trong
số các quan điểm và chủ trương của Đảng ta về cải cách tư pháp hình sự thì
quan điểm và chủ trương đề cao vai trò của Tòa án trong quá trình xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là quan điểm
mang tính đột phá. Theo đó, về mặt nhận thức cũng như quá trình tổ chức
thực tiễn và xây dựng, hoàn thiện pháp luật, phải bảo đảm để Tòa án thực sự
đóng vai trò là trung tâm của hệ thống tư pháp và hoạt động xét xử của Tòa
án. Như vậy, khâu đầu tiên trong các nỗ lực này là vấn đề nhận thức, trên cơ
sở đó mà triển khai các giải pháp tổ chức, hoạt động thực tiễn và hoàn thiện
pháp luật. Thực tiễn những năm qua, kể từ khi có Nghị quyết số 49-NQ/TW
nêu trên cho thấy rằng, mặc dù đã đạt được nhận thức chung về vị trí, vai trò
của Tòa án trong hệ thống tư pháp vẫn chưa có những chuyển biến đáng kể
trong thực tiễn. Hiến pháp 2013 ra đời Tòa án thực sự đóng vai trò là trung
tâm và hoạt động xét xử thực sự là hoạt động trọng tâm.
3.2. Các giải pháp nhằm thực hiện tốt quy định về tổ chức, chức
năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt động của Tòa án theo tinh thần
Hiến pháp 2013
3.2.1. Đảm bảo việc xây dựng hệ thống tòa án các cấp
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì hệ thống Tòa án nhân dân
gồm 4 cấp (Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, các Tòa án
nhân dân cấp tỉnh và các Tòa án nhân dân cấp huyện) bước đầu đã đáp ứng
được công cuộc cải cách tư pháp tuy nhiên vẫn bộc lộ một số hạn chế như:
54
Tòa án nhân dân cấp huyện được xem như một đơn vị "cấp phòng" trong
chính quyền cấp huyện (Uỷ ban nhân dân huyện, hội đồng nhân dân huyện);
Tòa án nhân dân cấp tỉnh được xem như đơn vị "cấp sở" trong chính quyền
cấp tỉnh (Ủy ban nhân dân tỉnh, Hội đồng nhân dân tỉnh) nên có việc can thiệp
của chính quyền địa phương vào việc giải quyết, xét xử của Tòa án; Tòa án
nhân dân cấp tỉnh như một "siêu tòa án" có cả thẩm quyền xét xử sơ thẩm, xét
xử phúc thẩm và cả thẩm quyền giám đốc thẩm tái thẩm;
Theo tinh thần Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính
trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Kết luận số 79- KL/TW
ngày 28-7-2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của
Tòa án, Viện kiểm sát và cơ quan điều tra thì hệ thống Tòa án nhân dân sẽ
được tổ chức thành 4 cấp, bao gồm:
- Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực được thành lập ở một số hoặc một
số đơn vị hành chính cấp huyện trong cùng một đơn vị hành chính cấp tỉnh,
có thẩm quyền xét xử sơ thẩm hầu hết các vụ, việc thuộc thẩm quyền của Tòa
án (theo thẩm quyền của của Tòa án nhân dân cấp huyện hiện nay).
- Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Tòa án nhân
dân cấp tỉnh) được thành lập ở mỗi đơn vị hành chính cấp tỉnh, có thẩm quyền
xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân sơ thẩm khu
vực có kháng cáo, kháng nghị và xét xử sơ thẩm một số vụ án không thuộc
thẩm quyền của Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực (theo thẩm quyền của Tòa
án nhân dân cấp tỉnh hiện nay).
- Tòa án nhân dân cấp cao xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định
của Tòa án nhân dân cấp tỉnh có kháng cáo, kháng nghị và giám đốc thẩm, tái
thẩm các bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật,
nhưng có kháng nghị. Trước mắt thành lập 03 Tòa án nhân dân cấp cao tại ba
khu vực Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh (trên cơ sở các Tòa
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, tại Đà Nẵng, tại Thành phố Hồ
55
Chí Minh hiện nay)
- Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm; tổng kết
kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; được tổ chức
tinh gọn, với số lượng thẩm phán từ 13 đến 17 người, là những chuyên gia
đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm xét xử và có uy tín trong xã hội.
Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử theo tình thần nêu
trên là một sự chỉ đạo đúng đắn, khắc phục được những hạn chế của mô hình
hệ thống Tòa án hiện nay như trên đã nêu, đảm bảo vị trí độc lập của Tòa án,
chứ không phải biệt lập hay đối lập với các cơ quan nhà nước khác; đảm bảo
nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện thực hiện quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp.
Với hướng tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử như trên đã
nêu cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật hiện này để tạo
cơ sở pháp lý cho việc tổ chức lại hệ thống Tòa án, cụ thể như sau:
- Sửa đổi, bổ sung các quy định về Tòa án nhân dân trong Hiến pháp
năm 2013, sửa đổi bổ sung Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014, Bộ luật Tố
tụng hình sự 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và Luật Tố tụng hành chính
2015, theo hướng thành lập hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân theo cấp xét
xử, thẩm quyền của các cấp Tòa án như nêu trên; xử lý các vấn đề về nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp, vấn đề giám sát của
các cơ quan dân cử đối với Tòa án nhân dân.
- Sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 và xây
dựng Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự trong đó cần sửa đổi các quy
định có liên quan đến việc thành lập, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan điều tra hình sự đảm bảo tính đồng bộ,
phù hợp với hoạt động của tòa án.
56
- Sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015, trong
đó cần sửa đổi các quy định liên quan đến chức năng giám sát của Hội đồng
nhân dân đối với hoạt động của Tòa án, bầu hội thẩm nhân dân, đảm bảo phù
hợp với tính chất hoạt động và mô hình tổ chức của Tòa án theo cấp xét xử.
3.2.2. Tăng cường tranh tụng tại phiên tòa hình sự theo tinh thần
của hiến pháp 2013
Tranh tụng, vai trò quan trọng trong hoạt động xét xử, tìm ra chân lý,
làm rõ sự thật khách quan, hạn chết được sự chủ quan duy ý chí trong hoạt
động tố tụng, từ đó phán xét đúng người, đúng tội, đúng phạm luật hạn chế
tình trạng oan sai, đảm bảo công bằng công lý trong hoạt động tư pháp. Việc
ghi nhận trong hiến pháp 2013 nguyên tắc tranh tụng là điều kiện để triển khai
việc chuyển đổi mô hình xét hỏi truyền thống sang mô hình tranh tụng hiện
đại trong xét xử.
Để bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự cần thực hiện
một số giải pháp sau:
- Cần ghi nhận nội dung cụ thể của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng
hình sự làm cơ sở pháp lý để xác định rõ ràng các chức năng buộc tội, bào
chữa và xét xử bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa.
- Quy định bằng pháp luật là người bào chữa được quyền thu thập
chứng cứ để chứng minh như những người tiến hành tố tụng nhưng phải tuân
thủ quy định pháp lý chặt chẽ để đảm bảo giá trị của các chứng cứ do người
bào chữa thu thập. Đồng thời có cơ chế pháp lý cụ thể để bảo đảm người bào
chữa tranh luận bình đẳng tại phiên tòa.
- Tại phiên tòa, kiểm sát viên chỉ thực hiện chức năng công tố (buộc
tội) giám sát tuân theo pháp luật, hội đồng xét xử đóng vai trò là trọng tài làm
nhiệm vụ phân xử giữa bên buộc tội và bên bào chữa để có quyết định đúng
đắn, việc xét hỏi tại phiên tòa nên giao cho bên buộc tội và bên bào chữa. Tòa
57
án chỉ tham gia xét hỏi để làm rõ một số nội dung khi xét thấy cần thiết.
- Nâng cao trình độ, nhận thức của người tiến hành tố tụng người tham
gia tố tụng đảm bảo cho họ có đủ năng lực về chuyên môn và điều kiện thực
hiện tốt nhiệm vụ tranh tụng tại phiên tòa.
- Mở rộng và tăng cường sự tham gia của luật sư trong quá trình tố tụng
hoàn thiện các tổ chức bổ trợ tư pháp góp phần nâng cao hoạt động tranh tụng
hình sự ở nước ta hiện nay.
3.2.3. Nâng cao tính độc lập của Tòa án trong mối quan hệ với các cơ
quan khác trong hệ thống các cơ quan tư pháp
Trong mối quan hệ với các cơ quan nhà nước khác Tòa án cần được
đảm bảo vị trí độc lập.
Trong mối quan hệ với quốc hội, không nên đặt Tòa án là cơ quan chịu
sự giám sát của Quốc hội vì điều đó ảnh hưởng đến hoạt động xét xử của Tòa
án. Do vậy không nên giữ quyền Quốc hội và Ủy ban thường vụ quốc hội
trong việc đình chỉ, bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật của Tòa án nhân
dân tối cao. Cần xem xét lại việc trao cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyền
yêu cầu xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao theo thủ tục đặc biệt.
Trong mối quan hệ với Chính phủ, cần có những quy định nhằm tránh
Chính phủ có khả năng tác động đến Tòa án thông qua quy trình làm dự toán
ngân sách
Trong quan hệ với Viện kiểm sát, không nên giữ chức năng kiểm sát tư
pháp đối với hoạt động xét xử nhằm đảm bảo tính độc lập của Tòa án
Như chúng ta biết, Điều 103 Hiến pháp hiện hành Việt Nam quy định:
“Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Theo quy
định này thì nguyên tắc độc lập của tư pháp được tuyên bố ở một công đoạn
cuối cùng của hoạt động tố tụng – khi xét xử. Sự độc lập của tòa án không thể
58
có được nếu dừng lại đơn thuần ở khâu xét xử. Không thể có sự độc lập khi
xét xử trong khi các công đoạn khác của một quy trình tố tụng không được
tuyên bố là độc lập, nhất là trong cuộc sống của thẩm phán và hội thẩm vẫn
còn phải phụ thuộc vào lập pháp, vào hành pháp, vào các chủ thể nắm quyền
lực khác của nhà nước vừa phân ở trên. Vì lẽ đó, trước hết cần nhận thức về
tính độc lập của tòa án. Độc lập trong xét xử cũng chính là độc lập của tòa án.
Trọng tâm của sự độc lập ở tất cả các công đoạn ngoài hoạt động xét xử, nếu
các công đoạn ngoài hoạt động xét xử mà bị phụ thuộc thì không thể có độc
lập khi xét xử. Thực chất là phải độc lập ở tất cả các công đoạn ngoài hoạt
động xét xử. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc
cải cách tư pháp hiện nay là nhanh chóng tổ chức hoạt động xét xử của tư
pháp vượt ra khỏi vòng cương tỏa của đơn vị hành chính. Các đơn vị hành
chính được tổ chức nhằm mục đích quản lý mà không phải dành cho hoạt
động tư pháp – xét xử.
Quốc hội cần đánh giá lại cho đúng vai trò của tòa án, từ chỗ người dân
có thể trực tiếp khởi kiện không cần qua khâu khiếu nại chính quyền đã gây
thiệt hại cho mình, dẫn tới chuyện là phải tăng cường quyền lực cho tòa án,
tòa án không phục thuộc vào chính quyền nữa, tổ chức theo dây dọc của tòa
án chứ không tổ chức theo cấp chính quyền như hiện nay. Chúng ta thấy rõ
một điều rằng sức ép đầu tiên tác động tới tòa án là từ chính quyền cơ sở.
Khó tránh khỏi sự can thiệp từ các thiết chế quyền lực ngoài ngành tòa
án nếu như họ có quyền ảnh hưởng lớn đến việc quyết định ngân sách và cung
cấp các cơ sở vật chất duy trì hoạt động của tòa án. Mặt khác, nếu việc phân
bổ ngân sách cho tòa án cấp dưới còn lệ thuộc vào tòa án cấp trên như hiện
nay cũng khó có thể bảo đảm sự độc lập của tòa án dưới với tòa án cấp trên.
Nhiều nước trên thế giới đã quy định một tỷ lệ phần trăm nhất định của ngân
sách quốc gia, địa phương đương nhiên phải “cắt” cho hoạt động của tòa án
để đảm bảo rằng tòa án không phụ thuộc vào cơ quan bên ngoài cũng như tòa
59
án cấp trên [34, tr.210].
3.2.4. Nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ Thẩm phán, thực hiện
tốt quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán
Xây dựng đội ngủ thẩm phán có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình
độ chuyên môn cao, có đạo đức nghề nghiệp trong sáng thông qua cơ chế thi
tuyển, bổ nhiệm, đào tạo và chế độ đãi ngộ phù hợp để họ toàn tâm, toàn ý
phụng sự công việc của mình trong lĩnh vực bảo về công lý là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của chiến lược cải cách Tòa án hiện nay.
Những giải pháp cụ thể trong lĩnh vực này có thể kể đến, gồm:
- Mở rộng nguồn tuyển chọn thẩm phán: Đối tượng tuyển chọn để bổ
nhiệm thẩm phán không chỉ từ chính đội ngủ cán bộ Toà án mà còn từ đội ngủ
các chức danh tư pháp khác như điều tra viên, công tố viên, chấp hành viên,
luật sư và kể cả những luật gia đã qua đào tạo nghề thẩm phán mặc dù chưa
được hành nghề thẩm phán.
- Thực hiện tốt cơ chế thi tuyển để chọn thẩm phán. Trên cơ sở kết quả
thi tuyển, Chủ tịch nước xem xét ra quyết định bổ nhiệm làm thẩm phán trên
cơ sở hội đủ những tiêu chuẩn khác về phẩm chất đạo đức, chứng chỉ hành
nghề thẩm phán…
- Nhiệm kỳ của thẩm phán hiện nay là năm năm, hết nhiệm kỳ thì thẩm
phán đương nhiên mất chức danh tư pháp, thủ tục thi tuyển lại chức danh thẩm
phán được tiến hành theo trình tự, thủ tục tương tự như thi tuyển lần đầu.
Nhiệm kỳ ngắn (chỉ năm năm) đối với nhiệm kỳ đầu, trường hợp được
bổ nhiệm lại là 10 năm và quy trình bổ nhiệm lại thẩm phán phức tạp đã có sự
tác động mạnh mẽ đến tính độc lập của thẩm phán trong quá trình xét xử. Vì
thế, chúng ta cần phải kéo dài hơn và không giới hạn nhiệm kỳ của thẩm phán.
Trong tình hình năng lực đội ngủ thẩm phán hiện nay thì giải pháp cần
áp dụng là thay thế hình thức bổ nhiệm lại bằng hình thức bất tín nhiệm tư
60
cách thẩm phán của thẩm phán. Vẫn giữ nguyên nhiệm kỳ năm năm nhưng
khi hết nhiệm kỳ thì thẩm phán không đương nhiên mất chức danh tư pháp.
Thẩm phán chỉ mất chức danh này nếu bị đa số bất tín nhiệm tư cách thẩm
phán. Để thực hiện thủ tục này, cần phải xây dựng hệ thống các tiêu chí cụ thể
quy định những giới hạn dẫn đến không tín nhiệm tư cách thẩm phán. Quyết
định không tín nhiệm thẩm phán có thể bị khiếu nại lên Toà án tối cao.
- Xây dựng chính sách tiền lương kết hợp với các chính sách đãi ngộ
hợp lý nhằm bảo đảm mức thu nhập của thẩm phán để thu hút người có năng
lực trình độ pháp luật cao, phẩm chất đạo đức trong sáng, bản lĩnh chính trị
vững vàng yên tâm công hiến cho họat động của ngành Tòa án. Đảm bảo mức
thu nhập ổn định và thỏa đáng còn là một trong những yếu tố đảm bảo cho
thẩm phán độc lập cao trong quá trình xét xử.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay thẩm phán được bổ
nhiệm với nhiệm kỳ 5 năm, bổ nhiệm lại là nhiệm kỳ 10 năm. Năm năm không
phải là thời gian dài vì vậy khó có thể làm an lòng các thẩm phán. Quy định
này như đã phân tích ở trên tạo ra một tâm lý thiếu ổn định, thiếu sự học tập,
nâng cao trình độ và kỹ năng nghề nghiệp của thẩm phán; không đảm bảo cho
thẩm phán thực hiện triệt để nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, việc quy định bổ nhiệm Thẩm
phán theo nhiệm kỳ vẫn cần thiết, do tác động của ngoại cảnh, do trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, cần thiết phải cách chức hoặc thay thế một số Thẩm
phán không hoàn thành nhiệm vụ. Do đó, để khắc phục vấn đề này cần nghiên
cứu kéo dài nhiệm kỳ của Thẩm phán tiến tới bổ nhiệm Thẩm phán dài hạn.
Để vị trí nghề nghiệp của thẩm phán vững chắc, không bị áp lực bởi vấn đề
nhiệm kỳ, đảm bảo cho họ được độc lập thì cần thiết phải kéo dài nhiệm kỳ
thẩm phán tiến tới chế độ thẩm phán suốt đời. Việc kéo dài nhiệm kỳ thẩm
phán phải và chỉ với mục đích đảm bảo cho họ được độc lập xét xử chứ không
61
phải là sự ưu đãi hay an sinh xã hội dành riêng cho thẩm phán. Điều đó có
nghĩa là nếu thẩm phán vi phạm đạo đức nghề nghiệp, vi phạm pháp luật,
năng lực yếu kém (không thể độc lập xét xử) cần phải sa thải.
Như vậy, việc kéo dài nhiệm kỳ thẩm phán sẽ đem lại lợi ích: Ổn định
nghề nghiệp; tránh được sự can thiệp của cấp ủy địa phương, các cơ quan
hành chính, lập pháp và ngay cả sự can thiệp của tòa án cấp trên vào công
việc bổ nhiệm thẩm phán sẽ làm thẩm phán không chí có khả năng độc lập mà
còn dám độc lập xét xử.
3.2.5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí, chế độ đãi ngộ với
cán bộ công chức ngành Tòa án
- Chế độ lương bổng cho thẩm phán phải được đảm bảo: việc đổi mới
chế độ tiền lương, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ Thẩm phán, cán bộ,
công chức ngành Tòa án nhân dân cần được cải tiến nhằm tạo điều kiện thuận
lợi để thực hiện tốt chiến lược tiến hành cải cách tư pháp, nâng cao hiệu quả
của việc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong nội bộ ngành Tòa
án nhân dân, xây dựng đội ngũ cán bộ Tòa án trong sạch vững mạnh; đảm bảo
chế độ tiền lương và phụ cấp phù hợp với vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Toà
án trong hệ thống các cơ quan tư pháp và tương xứng với cường độ lao động
đặc thù của Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án; đảm bảo cho cán
bộ, công chức Tòa án có cuộc sống bằng tiền lương và các khoản phụ cấp đặc
thù; nâng cao trách nhiệm và tạo động lực để khuyến khích Thẩm phán, cán
bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân tận tâm, tận lực, yên tâm, gắn bó với
ngành và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Để đạt được các mục tiêu đó, cần đổi mới chế độ tiền lương và phụ cấp
đối với Thẩm phán và cán bộ công chức ngành Tòa án theo hướng:
+ Về chế độ tiền lương: xác định rõ mối quan hệ tiền lương giữa các
khu vực: Tư pháp (Tòa án, Kiểm sát), lực lượng vũ trang, hành chính, các bậc
62
lương chuyên môn nghiệp vụ đối với Thẩm phán, cán bộ công chức ngành
Tòa án thuộc Bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ ngành Tòa án nhất là đối
với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện phải được thiết kế cao hơn các
bậc lương, thang lương thuộc bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ thuộc các
cơ quan hành chính nhà nước ít nhất từ 2 bậc trở lên và chỉ thấp hơn các chức
danh tương ứng thuộc Bảng lương của lực lượng vũ trang.
+ Về chế độ nhà công vụ và một số chế độ chính sách khác: Để tạo
điều kiện cho Thẩm phán, cán bộ, công chức thuộc diện luân chuyển, biệt
phái an tâm, phấn khởi hoàn thành tốt nhiệm vụ, đề nghị các cấp có thẩm
quyền xem xét cấp kinh phí xây dựng nhà công vụ, hỗ trợ đối với Thẩm phán
trong thời gian luân chuyển, biệt phái tăng cường công tác xét xử, cụ thể:
+ Thẩm phán thuộc diện luân chuyển, biệt phái có nhà công vụ để ở,
được hỗ trợ thêm mỗi tháng bằng mức tiền lương tối thiểu và được hưởng các
loại phụ cấp theo địa phương nơi được luân chuyển biệt phái.
- Tăng cường trách nhiệm của thẩm phán: Cần có quy định nhằm tạo ra
một cơ chế phù hợp để có thể đảm bảo và tăng cường trách nhiệm của Thẩm
phán. Khi các thẩm phán phải chịu trách nhiệm về những hành động của mình
thì hệ thống tư pháp trở nên có hiệu quả hơn. Khi các thẩm phán xét xử công
khai, các luật sư, người dân, phương tiện thông tin đại chúng theo dõi công
việc của thẩm phán thì tính trách nhiệm của thẩm phán được nâng lên.
Quy định về cơ chế kiểm soát tư cách cũng như hoạt động của Thẩm
phán. Ví dụ: Chế độ khai báo thu nhập trước khi bổ nhiệm cũng như khai báo
định kỳ hàng năm hoặc vài năm khi tại nhiệm; công khai các bản án, quyết
định mà các Thẩm phán đã xét xử với vai trò là chủ toạ phiên toà cũng như là
thành viên Hội đồng xét xử, trừ trường hợp các bản án về các tội xâm phạm
an ninh quốc gia hoặc bản án về các tội phạm liên quan đến đạo đức hay
thuần phong, mỹ tục (kể cả trong trường hợp bản án, quyết định đó bị sửa, bị
63
huỷ theo quyết định của Toà án có thẩm quyền). Bên cạnh việc có chế độ
khen thưởng, động viên kịp thời cũng rất cần có những quy định cụ thể về chế
độ kỷ luật, việc miễn nhiệm, bãi nhiệm đối với Thẩm phán, nhất là các lý do
có thể sử dụng làm căn cứ buộc Thẩm phán phải từ nhiệm hoặc bị bãi nhiệm,
miễn nhiệm. Ví dụ: tha hoá về đạo đức, lối sống, lợi dụng nghề nghiệp để trục
lợi, sai phạm có tính hệ thống về chuyên môn, chuyên môn yếu kém, không
hoàn thành nhiệm vụ, án xử bị Toà án có thẩm quyền sửa và huỷ nhiều...
3.2.6. Việc vận dung án lệ trong công tác xét xử của Tòa án
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân tối cao thực hiện
việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong
xét xử” [32, Điều 104, Khoản 3].
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2010, xác định: “Tòa án nhân dân tối cao có
nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp
luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”. Quy định về nhiệm
vụ của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, tại Điểm c khoản 2
Điều 22 Luật Tổ chức TAND năm 2014 ghi rõ:
Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển
thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng
trong xét xử;
Từ năm 2004, Toà án nhân dân tối cao (TANDTC) nước ta đã thường
xuyên chọn lọc và công bố các Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm
phán TANDTC. Đây là điều kiện tiền đề cho việc thừa nhận án lệ ở Việt
Nam. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, với tư cách là một thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam cần phải tuân thủ các nguyên tắc về
64
minh bạch hoá, trong đó yêu cầu các toà án cần phải công bố công khai các
bản án của mình. Ở Việt Nam không tồn tại một truyền thống sử dụng các án
lệ. Vì vậy, nên hay không nên chấp nhận án lệ ở Việt Nam trước đây là vấn đề
được tranh luận. Một số luật gia cho rằng, nếu án lệ được chấp nhận trong hệ
thống pháp luật, nó sẽ tạo ra một sự tuỳ tiện trong vai trò quyết định của thẩm
phán, điều này sẽ làm ảnh hưởng đến nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
(XHCN) ở Việt Nam. Một số người khác lại cho rằng, án lệ là một nguồn luật
chỉ tồn tại trong hệ thống pháp luật Common - Law mà không có trong hệ
thống pháp luật XHCN. Về cơ bản, án lệ được chính thức thừa nhận là một
nguồn luật trong hệ thống pháp luật Common Law, nhưng sẽ là sai lầm khi
cho rằng, án lệ không có vai trò gì trong những hệ thống pháp luật dân sự
thành văn (Civil Law System).
Xét về mặt lịch sử, hệ thống pháp luật Việt Nam chưa từng bị ảnh
hưởng bởi truyền thống thông luật. Những khái niệm về nguyên tắc “stare
decisis” (nguyên tắc bắt buộc tuân theo án lệ) chưa từng được đánh dấu trong
văn hoá pháp lý Việt Nam. Nhưng Nghị quyết số 49/NQ-TW về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị ngày 02/06/2005 đã đề ra
mục đích xây dựng và hoàn thiện từng bước hoạt động của Toà án nhân dân là
“TANDTC có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm”
Chánh án TAND tối cao vừa ban hành Quyết định 220/QĐ-CA ngày
6/4/2016 về việc công bố 6 án lệ được Hội đồng thẩm phán TAND tối cao
thông qua. Theo đó, các TAND trên toàn quốc có trách nhiệm nghiên cứu, áp
dụng các án lệ trong xét xử kể từ ngày 1/6/2016.
Từ ngày 01/6/2016, 06 án lệ đầu tiên của Việt Nam sẽ được các Tòa án
nhân dân và Tòa án quân sự nghiên cứu, áp dụng trong xét xử. Theo đó tại
65
Khoản 2 - Điều 8 Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về Quy trình lựa chọn, công bố và áp
dụng án lệ quy định nguyên tắc khi áp dụng án lệ:
Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án
lệ để giải quyết các vụ việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình
tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải được giải quyết như nhau.
Trường hợp áp dụng án lệ thì số bản án, quyết định của Toà án có
chứa đựng án lệ, tính chất, tình tiết vụ việc tương tự được nêu trong
án lệ và tính chất, tình tiết vụ việc đang được giải quyết, vấn đề pháp
lý trong án lệ phải được viện dẫn, phân tích, làm rõ trong bản án,
quyết định của Toà án; trường hợp không áp dụng án lệ thì phải phân
tích, lập luận, nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Toà án.
Sử dụng án lệ sẽ đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế của Việt Nam
bởi các lý do sau:
- Trong những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam có sự phát triển
nhanh, với chính sách mở cửa, tăng cường hợp pháp song phương và đa
phương với các quốc gia trên thế giới. Khi tham gia vào các quan hệ thương
mại quốc tế, chúng ta sẽ gặp phải nhiều vụ kiện liên quan đến thương mại.
Sau khi tham gia WTO chúng ta phải đối mặt với rất nhiều vụ kiện bán phá
giá, tuy nhiên do chưa nắm rõ về pháp luật nên chúng ta thường bị động trong
giải quyết vấn đề. Việc áp dụng án lệ sẽ giúp
- Các cá nhân, tổ chức của Việt Nam khi tham gia vào thương mại
quốc tế hoàn toàn có thể là nguyên đơn, bị đơn của các vụ kiện tại Tòa án
quốc gia khác, khi đó chúng ta buộc phải nắm được pháp luật của quốc gia
đó, đặc biệt tại các quốc gia như Anh, Mỹ, khi đó chúng ta phải thuê luật
sư của nước họ, vì khác hệ thống nên luật sư của Việt Nam phải nghiên cứu
rất mất thời gian. Hơn nữa khi áp dụng án lệ, việc tiếp cận án lệ của các
66
nước đó cũng dễ dàng hơn.
- Xu thế chung của cả các quốc gia sử dụng hệ thống luật thành văn
ngày càng coi trọng án lệ và thực tế nói đã phát huy được nhiều tác dụng
trong giải quyết các vụ việc tại quốc gia đó.
Một số đề xuất nhằm nâng cao khả năng áp dụng án lệ tại Việt Nam
- Cần chú trọng vào các báo cáo tổng kết, hướng dẫn của Tòa án nhân
dân tối cao để từ đó phát triển thành án lệ. Xây dựng được một quy chế chặt
chẽ để công nhận án lệ. Cần phổ biến và hướng dẫn cụ thể các tòa án cấp dưới
phương thức vận dụng và áp dụng án lệ đã được ban hành
- Khi áp dụng áp lệ, thẩm phán giữ vai trò hết sức quan trọng, vì thẩm
phán cần phải là người trình độ, có phẩm chất đạo đức tốt và khả năng sáng
tạo. Để có được những án lệ có giá trị, đòi hỏi các thẩm phán phải có khả
năng phân tích, đánh giá các bản án, các lập luận của luật sư. Để đạt được
điều này họ cần được đào tạo bài bản và có sự độc lập đúng theo nguyên tắc
"thẩm phán xét xử độc lập và tuân theo pháp luật"
- Nhiệm kỳ của thẩm phán tại Việt Nam hiện tại còn ngắn, chưa đủ thời
gian để các thẩm phán tích lũy kinh nghiệm qua quá trình xét xử. Có những
người chỉ làm thẩm phán 5 năm, bổ nhiệm lại là 10 năm chỉ kịp xử một số vụ
án, khi vừa thích nghi với địa bản thì đã bị thay đổi, chưa kể khi công tác lại
vừa lo lắng liệu có được bổ nhiệm lại không. Do vậy cần một nhiệm kỳ dài
hơn và tuyển chọn được các thẩm phán có trình độ.
- Các bản án hiện nay của Việt Nam còn chưa được phổ biến rộng rãi,
rất khó tiếp cận. Việc công bố rộng rãi tạo điều kiện cho nhân dân được tiếp
cận là điều cần thiết, thể hiện tính minh bạch trong hoạt động xét xử. Khi bản
án được công khai, mọi người dân và các chuyên gia đều có thể đóng góp ý
kiến, từ đó hoàn thiện, đây là nguồn quan trọng cho các thẩm phán khi đánh
67
giá các vụ việc tương tự sau này.
3.3. Khắc phục những bất cập hạn chế mới bộc lộ trong quá trình
tổ chức thực hiện theo tinh thần Hiến pháp 2013
3.3.1. Vấn đề kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp giữa Tòa án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự
Thuật ngữ "hoạt động tư pháp", "quyền tư pháp" "cơ quan tư pháp"
trong mỗi quốc gia được hiểu không giống nhau. Xuất phát từ bản chất Nhà
nước ta và từ nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp, Viện kiểm sát và Tòa án ở Việt Nam có những chức
năng, nhiệm vụ khác với Viện kiểm sát (Viện công tố) và Tòa án các nước
khác. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp là một trong hai chức năng của
Viện kiểm sát, được quy định trong Hiến pháp năm 1992, trên cơ sở kế thừa
các bản Hiến pháp trước đó và được khẳng định lại trong Hiến pháp năm
2013 (Điều 107). Căn cứ quy định của Hiến pháp và các đạo luật khác như
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS), Bộ
luật tố tụng dân sự (BLTTDS), Luật tố tụng hành chính... và căn cứ vào các
Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, có thể hiểu hoạt động tư pháp là
hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án các vụ án hình sự, hành chính, các vụ việc dân
sự, kinh doanh, thương mại, lao động... Cơ quan tư pháp bao gồm Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ quan thi hành án. Kiểm sát hoạt động tư
pháp là kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm sự tuân thủ pháp luật
của các chủ thể hoạt động tư pháp.
Trong một số trường hợp nhất định, ngoài Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án và Cơ quan thi hành án, các cơ quan, tổ chức khác cũng tiến hành
68
một số hoạt động tư pháp, như các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra vụ án hình sự, các cơ quan, tổ chức tham gia vào việc thi
hành án treo, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, thi hành các biện
pháp tư pháp do Tòa án quyết định đối với người phạm tội... Tuy nhiên, các
cơ quan, tổ chức này không phải cơ quan tư pháp vì chức năng của các cơ
quan, tổ chức này không phải chủ yếu là thực hiện hoạt động tư pháp.
Mặc dù quyền tư pháp là quyền năng hiện hữu, xuất hiện từ lâu, gắn
liền với Nhà nước và được hiểu như một thứ quyền lực trong ba loại quyền
của bất cứ Nhà nước nào: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Điều 102 Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên ghi nhận chức năng "Thực hiện
quyền tư pháp" của Tòa án nhân dân khi đưa ra quy định: "Tòa án nhân dân
là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp".
Hiến pháp quy định Tòa án thực hiện quyền tư pháp là quy định mở
rộng phạm vi thực hiện chức năng của Tòa án. Theo đó thực hiện quyền tư
pháp không chỉ là thực hiện quyền xét xử mà còn là quyền đánh giá và kết
luận về tính hợp pháp và có căn cứ của các quyết định, hành vi tố tụng do các
cơ quan tư pháp thực hiện trong tất cả quá trình tố tụng và thi hành bản án,
quyết định của Tòa án. Trước yêu cầu bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con
người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mọi
biện pháp ngăn chặn hoặc cưỡng chế của Nhà nước nếu hạn chế quyền con
người, quyền công dân thì đều phải được Tòa án xem xét, áp dụng hoặc kiểm
tra để thay đổi, hủy bỏ trong trường hợp việc áp dụng các biện pháp đó là trái
pháp luật hoặc không cần thiết.
Do vậy, cần nhìn nhận phạm vi nội dung của hoạt động thực hiện
quyền tư pháp của Tòa án trong mối quan hệ với phạm vi nội dung của hoạt
động kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát. Đúng là trong Nhà nước
69
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền lực phải được kiểm soát, nhất là quyền
của các cơ quan nhà nước liên quan đến việc tước bỏ hoặc hạn chế các quyền
con người, quyền công dân để tránh sự lạm quyền, xâm phạm quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, theo quy định của
Hiến pháp (Điều 107), ở Việt Nam, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp,
trong đó có kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng các biện
pháp cưỡng chế tố tụng, thuộc về Viện kiểm sát để thực hiện "nhiệm vụ bảo
vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất" (Khoản 3 Điều 107 Hiến pháp 2013). Như vậy, vấn đề bảo vệ
quyền con người, quyền công dân không phải chỉ là nhiệm vụ của Tòa án mà
còn là nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước khác, trong đó có Viện kiểm sát.
Trong hoạt động tố tụng hình sự, thẩm quyền xem xét, quyết định hoặc
phê chuẩn áp dụng biện pháp bắt người trong giai đoạn điều tra, truy tố là
thuộc nội dung của chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát và
là chức năng do Hiến pháp quy định. Khoản 2 Điều 20 Hiến pháp năm 2013
quy định: "Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân
dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp
phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định."
Với việc Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Tòa án nhân dân
là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp" thì cần phải hiểu việc thực hiện quyền tư pháp của Tòa án
gắn liền với chức năng xét xử và chỉ thực hiện khi xét xử chứ không phải
bao trùm cả chức năng điều tra, chức năng công tố và chức năng kiểm sát
hoạt động tư pháp là những chức năng thuộc về các cơ quan khác. Việc Tòa
án thực hiện quyền tư pháp thực chất là việc Tòa án thực hiện quyền xem xét
70
(thông qua phiên tòa hoặc phiên họp...), ra phán quyết về sự đúng, sai của
các vụ việc, các tranh chấp và xem xét, ra phán quyết về tính hợp pháp các
hành vi, quyết định tố tụng của các chủ thể có thẩm quyền trong quá trình
giải quyết các vụ việc theo thủ tục tố tụng tư pháp khi Tòa án thực hiện
nhiệm vụ xét xử đối với những vụ việc được đưa đến Tòa án. Hoạt động
thực hiện quyền tư pháp của Tòa án chỉ xảy ra khi vụ việc được chuyển đến
Tòa án xem xét, quyết định và hoàn toàn độc lập với hoạt động điều tra của
Cơ quan điều tra, hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp của Viện kiểm sát.
Vấn đề đặt ra là, nếu đã coi quyền tư pháp của Tòa án là quyền xem
xét, phán quyết sự đúng, sai các vụ việc được đưa đến Tòa án thì có nên tiếp
tục coi hoạt động xét xử của Tòa án thuộc đối tượng tác động của hoạt động
kiểm sát của Viện kiểm sát không? Nếu tiếp tục coi hoạt động xét xử của Tòa
án thuộc đối tượng của hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát thì hoạt động
kiểm sát của Viện kiểm sát có gây ảnh hưởng đến nguyên tắc khi xét xử Thẩm
phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật không?
Theo quan điểm cá nhân, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của
Viện kiểm sát là chức năng do Hiến pháp quy định nhằm kiểm sát tính hợp
pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt
động tư pháp. Hoạt động xét xử là hoạt động tư pháp nên cũng là đối tượng
tác động của hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát. Đây là một trong những
cơ chế do Hiến pháp quy định để kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp của
các cơ quan nhà nước, trong đó có Tòa án.
Theo các quy định của Hiến pháp và luật, Viện kiểm sát có trách nhiệm
kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án với nội dung là kiểm sát tính hợp pháp
của các hành vi, quyết định của các chủ thể tiến hành hoặc tham gia hoạt động
tư pháp trong giai đoạn xét xử. Tuy nhiên, hoạt động của Viện kiểm sát không
71
gây cản trở, khó khăn cho hoạt động xét xử. Tại phiên tòa xét xử vụ án hình
sự, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa điều khiển phiên tòa. Kiểm sát viên là người
đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình
sự cũng phải tuân thủ các quy định của pháp luật và chịu sự điều khiển của
Hội đồng xét xử. Ngoài thực hành quyền công tố tại phiên tòa, thể hiện bằng
các hoạt động: công bố cáo trạng, tham gia xét hỏi, đối đáp, tranh luận, luận
tội, đề nghị Tòa án áp dụng pháp luật để kết tội bị cáo theo điều khoản cụ thể
của BLHS và quyết định hình phạt đối với bị cáo..., Viện kiểm sát (đại diện là
Kiểm sát viên) còn thực hiện việc kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi,
quyết định của Thẩm phán, Hội thẩm và các chủ thể khác tham gia tố tụng.
Tuy nhiên, phương thức kiểm sát tại phiên tòa của Kiểm sát viên, ngoài việc
đưa ra yêu cầu, đề nghị để Hội đồng xét xử xem xét, quyết định khi xét xử,
còn là theo dõi, ghi chép, nắm bắt quá trình xem xét, giải quyết vụ việc để sau
khi phiên tòa kết thúc, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án
đã được kiểm tra tại phiên tòa, căn cứ diễn biến và phán quyết của Hội đồng
xét xử tại phiên tòa, đối chiếu với bút ký phiên tòa, biên bản nghị án... Viện
kiểm sát sẽ xem xét, đánh giá về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định
của các chủ thể tham gia giải quyết vụ án hình sự, như tính hợp pháp của thủ
tục tố tụng trong khi điều tra, truy tố hoặc xét xử; tính hợp pháp của việc áp
dụng BLHS; về sự phù hợp giữa kết luận trong bản án hoặc quyết định của
Tòa án với những tình tiết khách quan của vụ án... Trong trường hợp tại phiên
tòa, Kiểm sát viên phát hiện có các vi phạm trong việc áp dụng pháp luật hình
sự hoặc vi phạm thủ tục tố tụng hình sự trong quá trình điều tra, truy tố, xét
xử thì Kiểm sát viên không có quyền quyết định dừng, hoãn phiên tòa hoặc
kháng nghị yêu cầu Hội đồng xét xử khắc phục vi phạm ngay tại phiên tòa mà
sẽ xem xét, quyết định việc kháng nghị hay không kháng nghị sau khi kết thúc
phiên tòa. Như vậy, tại phiên tòa xét xử, Kiểm sát viên không thể can thiệp
72
làm ảnh hưởng đến quá trình xét xử và phán quyết của Hội đồng xét xử.
Trong trường hợp đã xác định rõ hoạt động xét xử của Hội đồng xét xử có vi
phạm pháp luật thì sau phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố và kiểm sát
xét xử tại phiên tòa phải báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát cấp mình để xem
xét, quyết định kháng nghị hay không kháng nghị đối với bản án, quyết định
của Tòa án để đề nghị xét xử lại theo các thủ tục do BLTTHS quy định hoặc
ban hành văn bản kiến nghị để yêu cầu Tòa án khắc phục các vi phạm trong
hoạt động xét xử. Như vậy, hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động xét xử của Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa,
không làm ảnh hưởng đến việc bảo đảm nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và
Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật mà vẫn bảo đảm tính khách quan
của hoạt động xét xử.
Có ý kiến cho rằng, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố thực hiện
chức năng buộc tội thì không nên giao cho Kiểm sát viên đó kiểm sát hoạt
động tư pháp, trong đó có hoạt động kiểm sát xét xử. Theo ý kiến này, để bảo
đảm tính khách quan thì trong cơ quan Viện kiểm sát cần có hai bộ phận độc
lập: bộ phận thực hành quyền công tố và bộ phận thực hiện kiểm sát hoạt
động xét xử.
Như chúng ta đã biết, thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp là hai chức năng của Viện kiểm sát. Hai chức năng này có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Hoạt động thực hành quyền công tố với các biện pháp
như xác minh, điều tra, yêu cầu điều tra xác minh, phê chuẩn hoặc không phê
chuẩn hoặc hủy bỏ các quyết định của Cơ quan điều tra, tiến hành các hoạt
động điều tra và các hoạt động tố tụng tại phiên tòa... là các biện pháp cần
thiết để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, đồng thời là phương
tiện để thực hiện có hiệu quả chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện
kiểm sát đối với các cơ quan tư pháp khác. Viện kiểm sát khó có thể phát hiện
73
ra những vi phạm trong hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp khác để
thực hiện việc kháng nghị, kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm nếu không
tham gia vào các hoạt động tố tụng, trong đó có cả hoạt động xác minh, điều
tra. Một trong những nguyên tắc hoạt động đặc thù của Viện kiểm sát đã được
Hiến pháp quy định là nguyên tắc tập trung lãnh đạo thống nhất trong ngành.
Theo đó, khi thực hiện nhiệm vụ, kiểm sát viên phải tuân theo pháp luật và
chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp mình, chịu sự lãnh đạo
thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Theo các quy
định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và của BLTTHS, các quyết
định quan trọng của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp đều được giao cho Viện trưởng Viện kiểm sát xem xét quyết định,
như quyết định truy tố, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định kháng nghị, kiến
nghị. Do vậy, quy định trong Viện kiểm sát có hai bộ phận thực hiện hai chức
năng độc lập vừa không hiệu quả, vừa cồng kềnh, lãng phí (cả về nhân lực,
kinh phí hoạt động) và không phù hợp với nguyên tắc tổ chức và hoạt động
đặc thù của Viện kiểm sát.
Các hoạt động của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra, truy tố còn
chịu sự kiểm soát của Tòa án sau khi hồ sơ vụ án đã được chuyển đến Tòa án.
Các hành vi, quyết định tố tụng của Kiểm sát viên và chứng cứ thu thập được
trong quá trình điều tra, truy tố... đều được Tòa án kiểm soát về tính hợp pháp
và tính có căn cứ. Kết quả của hoạt động kiểm soát của Tòa án đối với hoạt
động của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra, truy tố có thể dẫn đến việc
Tòa án trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung hoặc yêu cầu Viện
kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án...
Trong giai đoạn xét xử, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động xét xử nhưng hoạt động của Viện kiểm sát cũng chịu sự kiểm
soát của Tòa án. Thể hiện ở chỗ, tại phiên tòa, Tòa án có thể tuyên bị cáo
74
không phạm tội; tuyên bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự; ra bản án kết tội
khác với tội mà Viện kiểm sát truy tố; quyết định loại và mức hình phạt khác
với đề nghị của Viện kiểm sát; ra quyết định khởi tố vụ án (trong trường hợp
thấy Viện kiểm sát bỏ lọt tội)... Mặt khác, các yêu cầu, đề nghị của Viện kiểm
sát tại phiên tòa không có tính bắt buộc đối với Hội đồng xét xử, Hội động xét
xử có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận thực hiện các yêu cầu, kiến nghị
của Viện kiểm sát. Sau phiên tòa, thông qua hoạt động kiểm sát xét xử, Viện
kiểm sát có thể ban hành quyết định kháng nghị bản án, quyết định của Tòa
án nhưng ngược lại, hoạt động kháng nghị của Viện kiểm sát cũng chịu sự
kiểm soát của Tòa án bằng việc Tòa án có thể chấp nhận hoặc không chấp
nhận kháng nghị khi xét xử vụ án theo các thủ tục tố tụng (theo thủ tục phúc
thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm). Đối với quyết định của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao thì không thể bị Viện kiểm sát kháng nghị.
Tóm lại, theo các quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành, Viện
kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, trong đó có kiểm
sát hoạt động xét xử của Tòa án. Ngược lại, hoạt động thực hành quyền công
tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát cũng chịu sự kiểm soát từ
phía các cơ quan khác, đặc biệt là chịu sự kiểm soát từ phía Tòa án khi Tòa án
thực hiện nhiệm vụ xét xử. Vấn đề đặt ra hiện nay là, căn cứ các quy định của
Hiến pháp năm 2013 và yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, mà ở đó quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, thì cần tiếp tục rà soát, tìm ra
những bất cập trong các quy định của BLTTHS hiện hành để sửa đổi, bổ sung
nhằm bảo đảm mọi hoạt động tố tụng hình sự, trong đó có hoạt động thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát, hoạt động
75
xét xử của Tòa án đều phải được kiểm soát chặt chẽ từ phía các cơ quan khác.
3.3.2. Cơ chế kiểm soát hoạt động tư pháp ở Việt Nam
3.3.2.1. Hoạt động tư pháp
Ở nước ta, khi nói kiểm soát HĐTP thì cũng giống như kiểm soát
quyền lực nội tại trong nhà nước, tức nói tới một cơ chế kiểm soát từ cao
xuống thấp các thiết chế nhà nước, mỗi thiết chế được phân công phân nhiệm
thực hiện những quyền giám sát nhất định, trong đó Quốc hội đóng vai trò cao
nhất xuất phát từ vị trí "cơ quan QLNN cao nhất", "thực hiện quyền giám sát
tối cao đối với hoạt động của Nhà nước", "thực hiện quyền giám sát tối cao
việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội" (các Điều 69, 70
Hiến pháp). Các cơ quan QLNN tự mình và thông qua các cơ quan khác để
giám sát và các cơ quan được thông qua đó được coi là những hình thức giám
sát của cơ quan QLNN.
Hiện tại, cơ chế kiểm soát HĐTP nước ta bao gồm: sự giám sát của
Quốc hội (tự mình và thông qua các cơ cấu của Quốc hội và đại biểu Quốc
hội), của Chủ tịch nước, của Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp, của VKSND
các cấp 1. Trong đó, Quốc hội, Chủ tịch nước thực hiện giám sát đối với hoạt
động xét xử của TAND tối cao và hoạt động truy tố, buộc tội của VKSND tối
cao; HĐND địa phương (cấp tỉnh, huyện) giám sát HĐTP của TAND và
VKSND địa phương; VKSND thực hiện giám sát (gọi là kiểm sát) đối với
hoạt động điều tra (của cơ quan điều tra thuộc Bộ Công an), xét xử (của
TAND, Toà án quân sự), thi hành án (thuộc Bộ Công an và Bộ Tư pháp).
3.3.2.2. Những bất cập của cơ chế kiểm soát hoạt động tư pháp hiện hành
Về giám sát của các cơ quan QLNN (Quốc hội, Chủ tịch nước, HĐND)
đối với HĐTP
Giám sát của Quốc hội, Chủ tịch nước và HĐND các cấp đối với HĐTP
là một mảng giám sát nằm trong quyền giám sát chung của các cơ quan QLNN
76
đối với các cơ quan nhà nước (CQNN) khác do các cơ quan QLNN lập ra và
phải chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực. Quyền giám sát này được xác
lập từ Hiến pháp năm 1959 cho đến nay. GSTP trong bối cảnh này được hiểu
là Quốc hội (các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội), Chủ tịch nước,
HĐND theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của các Cơ quan điều tra,
VKSND, TAND, Cơ quan thi hành án hình sự, dân sự, hành chính và cơ quan
bổ trợ tư pháp trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết và các văn bản
pháp luật về lĩnh vực tư pháp. Hoạt động giám sát của các cơ quan QLNN đối
với HĐTP là để đánh giá sự vận hành của hệ thống tư pháp, phát hiện những
sai sót bất cập, hạn chế để có biện pháp khắc phục, chấn chỉnh về mặt tổ chức,
hoạt động của các CQTP, góp phần xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững
mạnh, làm cho việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ an ninh
quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội được tốt hơn. Cũng thông qua việc
giám sát để có căn cứ đánh giá tính hiệu quả của pháp luật, nhằm điều chỉnh
các chính sách, sửa đổi pháp luật và quyết định những vấn đề quan trọng về
lĩnh vực tư pháp.
Nội dung giám sát của các cơ quan QLNN đối với các CQTP tựu trung
vào giám sát việc thực hiện pháp luật: (i) trong việc giải quyết các vụ án hình
sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động, hành chính; (ii) về ban hành
văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của các CQTP; (iii) về giải quyết
khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của các CQTP; (iv) về nhiệm
vụ của những người chịu trách nhiệm cao nhất trước Quốc hội về HĐTP; (v)
về bồi thường thiệt hại đối với các trường hợp bị oan sai do người có thẩm
quyền của các CQTP gây ra; (vi) về quản lý tổ chức các CQTP; (vii) về sử
dụng ngân sách nhà nước cấp cho các CQTP; (viii) về các vấn đề quan trọng
khác khi xét thấy cần thiết (như vấn đề thực hiện pháp luật về giải quyết các
vụ phá sản doanh nghiệp, đình công, thực hiện pháp luật về công nhận và thi
77
hành tại Việt Nam bản án quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, việc thực
hiện pháp luật về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền của
TAND tối cao, VKSND tối cao v.v...).
Thời gian qua, Quốc hội (các cơ quan của Quốc hội), Chủ tịch nước đã
tiến hành giám sát hoạt động của các CQTP như thẩm tra, xem xét các báo
cáo công tác của Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao, các
báo cáo của Chính phủ về tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật và công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, về công tác thi hành
án, công tác phòng, chống tham nhũng; chất vấn những người đứng đầu các
CQTP; giám sát việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân trong
lĩnh vực tư pháp; thành lập đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
(UBTVQH), của Ủy ban Tư pháp, của Đoàn đại biểu Quốc hội để giám sát
hoạt động của các CQTP tại các địa phương trong cả nước;
Ở địa phương, việc giám sát của HĐND dân đối với TAND và VKSND
địa phương cũng diễn ra tương tự. Có thể thấy, loại hình giám sát này có hạn
chế là mới chủ yếu thông qua các hình thức nghe các báo cáo công tác của
những người đứng đầu các cơ quan, xem xét việc chất vấn và trả lời chất vấn
đối với những chức danh do Quốc hội bầu tại kỳ họp của Quốc hội hoặc tại
phiên họp của UBTVQH; chưa chủ động tìm kiếm, khai thác trên nhiều kênh
thông tin mà vẫn chủ yếu dựa vào thông tin do chính các cơ quan chịu sự
giám sát cung cấp. Việc tổ chức đoàn giám sát của UBTVQH về tình hình thi
hành pháp luật ở các địa phương cũng chưa được tiến hành thường xuyên;
giám sát việc ban hành VBQPPL của các CQTP còn hạn chế. Tâm lý nể nang,
né tránh, ngại va chạm vẫn còn là trở ngại lớn trong việc nâng cao hiệu quả
giám sát. Hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn được nghiên cứu cải tiến đã có
sự tiến bộ nhất định từ cả hai phía chất vấn và trả lời chất vấn nhưng chưa
phát huy nhiều tính đối thoại, tranh luận trực tiếp vào vấn đề cần chất vấn.
78
Các cơ quan chịu sự giám sát chưa thực hiện kịp thời, nghiêm túc các kiến
nghị của chủ thể giám sát. Bên cạnh đó, các cơ quan giám sát cũng chưa tích
cực theo dõi, đôn đốc đến cùng việc giải quyết các kiến nghị một cách triệt để.
Công cụ, phương tiện giám sát và công tác tổ chức phục vụ hoạt động giám sát
vẫn còn gặp khó khăn, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, chuyên viên giúp việc.
Bên cạnh đó, bất cập rõ rệt hơn cả là gần đây trong hoạt động giám sát
này đưa vào chương trình giám sát cả việc giải quyết các vụ việc cụ thể. Điển
hình là Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đã tổ chức giám sát việc giải quyết một
số vụ án cụ thể thuộc các lĩnh vực hình sự, dân sự, thương mại, hành chính,
lao động, qua đó phát hiện những vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến
hành tố tụng, yêu cầu các cơ quan này làm rõ, sửa chữa sai lầm, thiếu sót, kịp
thời khắc phục hậu quả nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, công dân. Về mặt lý luận, khi đã xác định TAND là cơ
quan xét xử duy nhất (được hiểu là cơ quan duy nhất có quyền phán xử về vi
phạm pháp luật hình sự, về các tranh chấp dân sự, kinh tế, hành chính); nếu
các phán quyết này chưa phù hợp đã có sự kháng cáo, kháng nghị để xét xử
lại qua nhiều cấp (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm) với các chủ thể đã
được xác định trong luật tố tụng thì sự tham gia của các cơ quan quyền lực
vào đây có lẽ là không cần thiết và không khéo lại tạo ra sự phức tạp mới là
người dân sẽ không tin tưởng vào các phán quyết của Toà án mà chú tâm vào
việc khiếu kiện lên trên cho đến Quốc hội. Về mặt thực tiễn, bản thân các
chuyên viên tham mưu trong các cơ quan của Quốc hội, HĐND không phải là
thẩm phán nên chưa chắc đã bảo đảm tính chuyên môn. Thực tế đã có trường
hợp chưa xác định đúng đối tượng giám sát nên đã trực tiếp giải quyết các vụ
việc cụ thể không đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.
Về giám sát (kiểm sát) của VKSND
Vị trí của VKSND trong BMNN từ khi thành lập theo Hiến pháp năm
79
1959 đến nay, về bản chất là theo mô hình cơ quan kiểm sát xã hội chủ nghĩa
(XHCN). Mô hình đó, tuy ở từng nước có một số điểm riêng đặc thù, nhưng
về cơ bản là theo mô hình Xô viết tồn tại ở Liên Xô.
Sự ra đời của Viện kiểm sát kiểu này bắt đầu từ năm 1922, khi tại kỳ
họp thứ 3 Uỷ ban chấp hành trung ương toàn Nga (tương tự như UBTVQH
của ta) khóa 10 ngày 28/5/1922 thông qua Quy chế về kiểm sát quy định thành
lập hệ thống cơ quan kiểm sát và chế định kiểm sát viên với tư cách là người
đại diện QLNN có nhiệm vụ "giám sát hoạt động của bộ máy quyền lực”,
"giám sát việc tuân thủ pháp chế trong hoạt động của các cơ quan chính
quyền địa phương” nhằm "bảo đảm việc bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân
lao động” 2. Ý nghĩa của mô hình Viện kiểm sát kiểu XHCN không phải ở
việc làm chức năng buộc tội nhà nước (công tố) như bây giờ thường hay nói,
mà trước hết là ở chức năng giám sát việc tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật,
tức thực hiện sự kiểm soát (hay giám sát) nhà nước đối với bộ máy QLNN và
sau đó là mở rộng ra giám sát đối với xã hội (tổ chức và công dân). Hoạt động
công tố (thẩm cứu, truy tố và buộc tội trước tòa) không phải là chức năng độc
lập của Viện kiểm sát mà chỉ được coi là một công việc phái sinh trong hoạt
động giám sát đó (trong lĩnh vực GSTP).
Việc tổ chức và hoạt động của VKSND nước ta thời gian qua cũng cơ
bản giống như ở các XHCN khác. Hệ thống VKSND đứng đầu là VKSND tối
cao là hệ thống cơ quan được Quốc hội lập ra để phân giao thực hiện quyền
giám sát tối cao của Quốc hội. VKSND ra đời và tồn tại trước hết như là một
hình thức thực hiện quyền giám sát tối cao đó, bảo đảm cho pháp luật được
thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Và điều này bắt đầu từ Hiến pháp năm
1959, giữ liên tục qua các Hiến pháp sau này. Hiến pháp năm 2013 hiện hành
thể hiện tinh thần đổi mới quy định lại theo hướng đề cao vai trò của VKSND
trong việc "thực hành quyền công tố và kiểm sát các HĐTP” (Điều 107 Hiến
pháp năm 2013) nhưng về tính chất là cơ quan thực hiện quyền giám sát của
80
Quốc hội về cơ bản vẫn không (hay chưa) thay đổi.
VKSND kiểm soát HĐTP bằng những công tác sau:
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự
của các cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử
các vụ án hình sự;
- Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành
chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết
định của TAND;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản
lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, bảo đảm cho việc giam, giữ và cải
tạo được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm chế độ giam,
giữ và cải tạo được chấp hành nghiêm chỉnh, tính mạng, tài sản, danh dự,
nhân phẩm của người bị giam, giữ và cải tạo và các quyền khác của họ không
bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng.
Hạn chế của loại hình giám sát này là ở chỗ: VKSND về bản chất là cơ
quan giám sát được giao thực hiện những hoạt động kiểm sát nêu trên là thuộc
nội dung kiểm sát việc tuân theo pháp luật, theo sự phân giao của Quốc hội và
phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Nhưng đồng thời VKSND lại được
phân giao thực hiện những HĐTP "theo truyền thống” của cơ quan công tố là
thực hành quyền công tố và điều tra đối với một số loại tội phạm. VKSND thể
hiện mình như một cơ quan GSTP đồng thời lại là CQTP.
3.3.2.3. Phương hướng, giải pháp đổi mới cơ chế kiểm soát hoạt động
tư pháp
- Cần nhận thức lại về HĐTP để từ đó tổ chức các cơ quan thực hành
quyền tư pháp - tiền đề cơ bản để điều chỉnh lại cơ chế GSTP. Đặt Tòa án là
trung tâm, độc lập, tự kiểm soát bằng pháp luật và cơ chế tranh tụng, nhiều
81
cấp xét xử, công khai, công lý
Cách hiểu phổ quát đang được thể hiện trong tổ chức bộ máy nhà nước
(BMNN) như đã nêu là cách hiểu quyền tư pháp theo nghĩa rộng, coi quyền tư
pháp là quyền tài phán của Tòa án và quyền bảo vệ pháp luật của các cơ quan
khác và CQTP.
Cách hiểu phù hợp, theo quan điểm cá nhân, là cách hiểu theo nghĩa
hẹp: Quyền tư pháp là một nhánh quyền lực được tổ chức ra để bảo đảm sự
tuân thủ pháp chế thông qua việc phán xử và áp đặt chế tài do hệ thống Tòa
án thực hiện để tác động đến hành vi của con người, đến các quá trình xã hội.
Hoạt động xét xử là nội dung trọng yếu của quyền tư pháp. Đây cũng là cách
hiểu được thừa nhận rộng rãi ở các nước trên thế giới.
Đặc trưng cơ bản của quyền tư pháp và HĐTP là: hoạt động nhân danh
QLNN và nhân danh công lý để phán quyết về các vi phạm và tranh chấp
trong xã hội; hoạt động theo một trình tự tố tụng chặt chẽ, công khai, dân chủ
và minh bạch; có trọng tâm là hoạt động xét xử; hoạt động phát sinh trên cơ
sở của sự tranh tụng giữa các bên có lợi ích khác nhau; hoạt động bảo vệ pháp
luật; hoạt động giải thích luật được hiểu là sự vận dụng pháp luật vào từng
trường hợp cụ thể.
Theo tinh thần này, hoạt động điều tra, quyền công tố (truy tố, buộc tội)
cũng như thi hành án, bổ trợ tư pháp không phải là phạm vi của quyền tư pháp.
Nhận thức này sẽ là cơ sở để phân công, phân nhiệm lại chức năng,
nhiệm vụ giữa các CQNN: Quốc hội - thực hiện quyền lập pháp và giám sát
chính trị đối với các CQNN khác trong đó có cơ quan thực thi quyền tư pháp;
Chính phủ - thực hiện quyền hành pháp; Tòa án - thực hiện quyền tư pháp
(với nghĩa xét xử); Viện kiểm sát - không còn là cơ quan giám sát thay mặt
Quốc hội mà chuyển thành Viện công tố thực hiện chức năng điều tra và buộc
tội, không phải là CQTP và GSTP mà ngược lại, phải chịu sự chỉ đạo và kiểm
82
soát của CQTP; HĐND địa phương được tổ chức lại theo hướng không còn là
cơ quan QLNN ở địa phương (một số nơi còn không tổ chức) nên không còn
thực hiện chức năng giám sát chính trị đối với tư pháp nữa.
- Điều chỉnh lại cơ chế kiểm soát đối với HĐTP trên cơ sở nhận thức
lại quyền tư pháp và theo những định hướng mới về tổ chức QLNN theo
nguyên tắc "thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các
CQNN” và cải cách tư pháp
Như là một yếu tố của Nhà nước pháp quyền và theo tinh thần cải cách
BMNN theo nguyên tắc "phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các CQNN”
đã được Đảng đề ra, TAND cần phải trở thành một thiết chế độc lập thật sự, vô
tư và nhân danh công lý trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên. Tòa án phải
đảm nhận toàn bộ phần việc mang tính tư pháp hiện vẫn đang phân giao theo
lối kinh nghiệm chủ nghĩa cho các thiết chế khác thực hiện (như việc xử phạt
và xử lý hành chính đang do bộ máy hành chính làm; việc giải thích pháp luật
cũng như xét xử văn bản chưa được giao cho Toà án), mở rộng lĩnh vực phán
xử. Tòa án phải trở thành một thiết chế kiểm soát và giới hạn được các quyền
lập pháp và hành pháp trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật. Lúc này, việc giám
sát đối với HĐTP và CQTP không còn là sự kiểm soát một chiều xuất phát từ
cơ quan QLNN như hiện nay, mà phải chuyển sang cơ chế "kiểm soát lẫn
nhau” và kiểm soát bằng pháp luật thông qua tranh tụng, công khai và công lý.
Với tinh thần đó, cơ chế kiểm soát đổi mới đối với HĐTP cần được tổ
chức lại với các loại hình kiểm soát như sau:
- Sự kiểm soát của các thiết chế nhà nước khác như Quốc hội (với các
cơ cấu của mình), Chủ tịch nước, HĐND đối với HĐTP chỉ tập trung vào
giám sát trách nhiệm chính trị chứ không giám sát bản thân hoạt động xét xử,
nhất là giám sát giải quyết một vụ án cụ thể.
Sự giám sát của các thiết chế nhà nước khác đối với HĐTP và CQTP là
83
tất yếu trên quan điểm: "có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Song đó
là sự giám sát về trách nhiệm chính trị chứ không phải giám sát vào từng vụ
việc cụ thể.
Cơ chế giám sát hiện hành nhất là từ sau khi thành lập Ủy ban Tư pháp
đã ngày càng đi sâu vào việc giám sát giải quyết các vụ việc cụ thể và đang có
ý kiến cần tạo ra một hình thức nào đó tại Quốc hội để quyết định lại nội dung
bản án đã được cấp cao nhất của hệ thống xét xử quyết định và có hiệu lực.
Chúng tôi cho rằng đây là một xu hướng không phù hợp với tinh thần tổ chức
BMNN theo hướng phân công rành mạch chức năng nhiệm vụ giữa các
CQNN (hay nói rộng ra là giữa các nhánh QLNN) cũng như định hướng cải
cách tư pháp. Về phương diện lý luận cũng như trên thực tế, Quốc hội và các
cơ cấu giám sát của Quốc hội không thể và không nên kết luận một bản án,
quyết định có hiệu lực của TAND tối cao là sai lầm vì việc này đòi hỏi tính
chuyên môn nghề nghiệp cao trong lĩnh vực tư pháp mà chỉ có thể là Thẩm
phán của Tòa án mới đáp ứng được và cũng không thể yêu cầu Hội đồng thẩm
phán TAND tối cao xét xử lại bản án đã được Hội đồng xét xử trước đó như
đề xuất của một số người. Kinh nghiệm chung thế giới đều coi Tòa án với
phương thức tranh tụng công khai của nhiều chủ thể tham gia, áp dụng thủ tục
nhiều cấp xét xử - luôn là cái bảo đảm công lý, là nơi bấu víu cuối cùng của
mỗi cá nhân. Phương hướng cải cách đúng đắn và phù hợp phải đề cao hơn
nữa vai trò của Toà án chứ không phải là đi tìm một thiết chế nào đó trong
BMNN có quyền xem xét lại bản án của Tòa án. Nếu khuynh hướng này trở
thành hiện thực thì đó là một nguy cơ, mà trước hết nó cho người ta nghi ngờ
rằng hệ thống tư pháp ở Việt Nam là không đáng tin cậy và khó có thể bảo vệ
được lợi ích khi người ta cần đến sự bảo vệ của các CQTP4.
Hoạt động GSTP của Quốc hội (hiểu theo nghĩa là bao gồm cả hoạt
động giám sát của UBTVQH, Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban và đại biểu
84
Quốc hội) bao hàm các nội dung sau:
1. Giám sát việc thi hành nghiêm chỉnh chính sách pháp luật của Nhà
nước trong hoạt động xét xử. Không trực tiếp làm thay đổi nội dung các bản
án, quyết định của CQTP.
2. Quốc hội có quyền yêu cầu cấp chịu trách nhiệm cao nhất của các
CQTP phải báo cáo, giải trình về tất cả các nội dung giám sát thuộc thẩm
quyền của Quốc hội.
3. Trong trường hợp các CQTP không thực hiện đúng chức năng,
nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật, gây ảnh hưởng đến lợi ích
của nhân dân, của quốc gia thì Quốc hội phải truy cứu trách nhiệm chính trị
đối với những người giữ chức vụ cao nhất của hệ thống tư pháp.
4. Quốc hội có thể sử dụng QLNN để điều chỉnh các chính sách, pháp
luật về lĩnh vực tư pháp, điều chỉnh tổ chức của các CQTP, điều chỉnh lại các
nguồn lực (lao động, ngân sách) của đất nước để đảm bảo cho các CQTP hoạt
động có hiệu quả.
- Xác lập sự giám sát của Tòa án đối với các hoạt động QLNN.
Khi Tòa án đã được tổ chức lại thành một nhánh quyền lực độc lập thì
một vấn đề đặt ra là phải xác lập mối quan hệ kiểm soát của Tòa án đối với
các CQNN khác, đặc biệt là những hoạt động có liên quan chặt chẽ với hoạt
động xét xử.
Về nội dung này sơ bộ sẽ có hai mảng giám sát:
1. Giám sát thực hiện quyền lực: Tòa án sẽ được trao quyền giám sát
văn bản (được hiểu là một hình thức giám sát Hiến pháp). Nếu ở nước ta có
nghiên cứu áp dụng mô hình bảo hiến bằng tài phán chuyên trách thì vai trò
này của Tòa án tư pháp cũng như của các thiết chế quyền lực khác vẫn tồn tại;
giải thích Hiến pháp và pháp luật trong quá trình vận dụng pháp luật.
2. Giám sát đối với hoạt động điều tra bao gồm bắt giữ, khởi tố và tiến
85
hành điều tra; giám sát các hoạt động liên quan đến quyền con người.
3.3.3. Chức năng giám sát xét xử của Viện kiểm sát nhân dân tại
phiên tòa
Theo quy định của pháp luật nước ta, Viện kiểm sát vừa là chủ thể buộc
tội, một bên của tố tụng trong hoạt động tranh tụng, vừa là chủ thể trực tiếp
kiểm sát hoạt động xét xử của Hội đồng xét xử tại phiên tòa. Chẳng khác nào
“vừa đá bóng vừa thổi còi”. Tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi”, trong
công cuộc đổi mới đã bị loại bỏ ở nhiều tổ chức, nhiều cơ quan. Nhưng rất tiết
là vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu một cách thấu đáo sự tồn tại thực trạng
này của Viện Kiểm sát.
Chính thực trạng này đã phần nào tác động đến tâm lý của Hội đồng xét
xử, bị cáo (hoặc luật sư bào chữa) và cả Kiểm sát viên trong phiên toà cũng
như nhận thức của nhân dân. Trong phiên toà Hội đồng xét xử là đối tượng
đang bị Kiểm sát viên giám sát hoạt động áp dụng pháp luật nên rất dễ bị ý
kiến của Kiểm sát viên tác động khi ra phán quyết; Kiểm sát viên-người trực
tiếp kiểm sát hoạt động áp dụng pháp luật của Hội đồng xét xử đã có trường
hợp tiếm quyền điều hành hoạt động tranh tụng tại phiên toà của Hội đồng xét
xử. Chính điều này đã tác động không nhỏ đến tính độc lập của Toà án trong
khi xét xử. Ngoài ra, vì vừa thực hiện một lúc đồng thời hai chức năng (công
tố và kiểm sát hoạt động xét xử) nên thường xuyên xảy ra hiện tượng Kiểm
sát viên lạm dụng quyền kiểm sát hoạt động xét xử trong quá trình tranh tụng
với bị cáo (hoặc luật sư bào chữa cho bị cáo) khiến cho hoạt động tranh tụng
tại phiên toà không đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giữa bên buộc tội và bên
gỡ tội, quyền bào chữa của bị cáo bị xâm phạm, chất lượng hoạt động tranh
tụng không cao [45, tr.120]. Do đó, để bảo đảm quyền bình đẳng giữa các bên
trong quá trình tranh tụng, nên hạn chế quyền giám sát hoạt động xét xử của
Viện Kiểm sát trong quá trình diễn ra phiên tòa. Viện kiểm sát thực hiện
quyền kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong quá trình xét xử sau khi Hội
86
đồng xét xử đã tuyên án.
3.3.4. Vấn đề tổ chức Tòa án nhân dân theo cấp lãnh thổ hiện nay
Cách thức tổ chức hệ thống Toà án có ý nghĩa quan trọng trong việc
thực hiện chức năng xét xử và khả năng độc lập trong xét xử của Toà án.
TAND nước ta từ năm 1960 (theo Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức
TAND năm 1960) đến 1992, hệ thống TAND được tổ chức theo
nguyên tắc kết hợp thẩm quyền với đơn vị hành chính lãnh thổ và có ba cấp:
(i) TAND cấp huyện được tổ chức ở tất cả các quận, huyện, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh và cấp hành chính tương đương;
(ii) TAND cấp tỉnh được tổ chức ở tất các các tỉnh và thành phố thuộc
trung ương;
(iii) TAND tối cao ở Trung ương.
Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 đã có sự thay
đổi về cách thức tổ chức hệ thống Toà án: TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh,
TAND cấp cao, TAND Tối cao
Bên cạnh những ưu điểm như: làm tăng uy lực cho chính quyền các cấp
địa phương, huy động sự tham gia của các tổ chức trong hệ thống chính trị
tham gia vào công tác xét xử của Toà án, tạo điều kiện thuận lợi cho người
dân khi đến Toà án, tranh thủ được sự đầu tư về vật chất, trang thiết bị làm
việc thì mô hình tổ chức hệ thống Toà án này cũng bộc lộ nhiều hạn chế như:
Thứ nhất, Tạo ra cơ hội để các cơ quan Đảng và chính quyền địa phương
có thể can thiệp vào công tác xét xử của Toà án do lệ thuộc về điều kiện vật
chất và phương tiện làm việc dẫn đến sự ngộ nhận Toà án giống như các cơ
quan chức năng của UBND các cấp, chịu sự chỉ đạo của UBND các cấp.
Thứ hai, Xuất phát từ đặc điểm khác nhau về địa lý, dân cư, kinh tế, văn
hoá, xã hội ở mỗi quận, huyện, đồng thời tình hình và diễn biến tội phạm cũng
khác nhau. Do vậy, việc tổ chức ở mỗi quận, huyện một Toà án cùng một điều
87
kiện vật chất như nhau (Trụ sở, trang thiết bị làm việc,..) với cùng một cơ cấu
như nhau (Chánh án, Thẩm phán, Thư ký,..) nhưng số vụ việc phải giải quyết ở
mỗi Toà án lại khác nhau, có Toà án không có việc hoặc ít việc trong khi đó lại
có những Toà án làm không hết việc tồn đọng án dẫn đến mất cân đối.
Thứ ba, Cách thức tổ chức Toà án như hiện nay gây ra nhiều lãng phí
như có Toà án huyện với những đầu tư tốn kém về con người, vật chất, tài
chính,.. nhưng sử dụng không hết công suất do số lượng án phải giải quyết ít.
Có những Toà án thì cơ sở vật chất, con người thiếu và yếu trong khi đó số
lượng án phải giải quyết nhiều dẫn đến hoạt động xét xử gặp nhiều khó khăn,
án tồn đọng nhiều.
Trên cơ sở đánh giá ưu và nhược điểm của mô hình tổ chức của hệ
thống TAND hiện nay, Nghị quyết 49- NQ/TW đã đề ra nhiệm vụ:
…Tổ chức hệ thống toà án theo thẩm quyền xét xử, không
phụ thuộc vào đơn vị hành chính, theo đó toà án sơ thẩm khu vực
được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; toà
án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ
thẩm một số vụ án; toà thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có
nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; TAND tối cao có nhiệm vụ tổng kết
kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật, phát triển án lệ
và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.
Đây là định hướng đúng đắn đáp ứng được đòi hỏi trước mắt cũng
như lâu dài đồi với việc hoàn thiện hệ thống Toà án ở nước ta. Thay đổi cách
thức tổ chức Toà án dựa trên tiêu chí địa giới hành chính sang tiêu chí chức
năng, thẩm quyền xét xử là sự đổi mới có tính chất then chốt, đột phá trong
cải cách tư pháp, bảo đảm nguyên tắc độc lập khi xét xử của Toà án, bảo
đảm tính hiệu quả, hiệu lực của hệ thống Toà án, khắc phục những hạn chế
88
còn tồn tại như hiện nay.
Ý nghĩa của việc tổ chức Toà án không phụ thuộc vào đơn vị hành chính:
Thứ nhất, Phù hợp với đường lối cải cách tư pháp trước mắt cũng như
lâu dài mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, tạo mô hình tổ chức Toà án một
cách khoa học, góp phần đổi mới và tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của
Đảng đối với các Toà án.
Thứ hai, Việc tổ chức Toà án theo cấp xét xử sẽ tạo sự độc lập của Toà án
trong hoạt động xét xử, hạn chế sự lệ thuộc của Toà án, cụ thể là sự lệ thuộc giữa
Toà án cấp dưới với Toà án cấp trên, giữa Toà án với các cơ quan hành chính.
Toà án cấp sơ thẩm không còn là Toà án cấp dưới của Toà án cấp phúc thẩm.
Thứ ba, Việc tổ chức Toà án theo cấp xét xử sẽ giúp thu gọn đầu mối.
Theo cách thức tổ chức Toà án như hiện nay, số lượng Toà án cấp quận,
huyện tương đối nhiều, Nhà nước phải trang trải các khoản kinh phí để xây
dựng trụ sở, trang thiết bị, cơ sở vật chất, đào tạo đội ngũ cán bộ Toà án gây
lãng phí tốn kém và hoạt động không hiệu quả. Nếu theo mô hình mới này sẽ
giúp tiết kiệm kinh phí, tăng cường cho đầu tư xây dựng cơ sơ vật chất, đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Toà án đủ năng lực và chuyên môn cao.
Tuy nhiên, để thực hiện việc đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND
theo mô hình đổi mới trên, luận văn đưa ra một số những vấn đề cần phải giải
quyết sau:
Thứ nhất, Về trách nhiệm báo cáo công tác của Chánh án toà án: Theo
quy định của Hiến pháp thì Chánh án TAND địa phương chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân. Nếu tổ chức Toà án khu vực thì
trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cấp nào. Việc giám sát
công tác xét xử của Toà án khu vực sẽ do ai đảm nhiệm.
Thứ hai, Về chế độ bầu Hội thẩm nhân dân: Theo quy định của Luật tổ
chức TAND thì Hội thẩm nhân dân được Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra
theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân. Nếu thành lập toà án sơ thẩm khu vực
89
thì việc bầu Hội thẩm nhân dân thực hiện như thế nào.
Thứ ba, Đối với những Toà án khu vực ở những vùng điều kiện giao
thông phương tiện đi lại khó khăn, để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân
khi có việc đến Toà án thì Toà án khu vực cần có chi nhánh đặt ở một số nơi
để tạo điều kiện thuận lợi nhất có thể cho người dân.
Thứ tư, Yếu tố về vật chất: Việc thành lập Toà án khu vực đòi hỏi phải
xây mới về Trụ sở, trang thiết bị làm việc, kéo theo đó là sự thay đổi của các
luật liên quan, tổ chức các cơ quan liên quan như Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, thi hành án,…
Thứ năm, Bổ sung chức danh thẩm phán cao cấp và cơ cấu thẩm phán
hợp lý ở Toà án các cấp.
Thứ sáu, Đổi mới cơ chế lãnh đạo Đảng và cơ chế giám sát của cơ quan
đại diện đối với Toà án các cấp. Toà án nhân dân tối cao nên thành lập Đảng
bộ ngành Toà án nhân dân để lãnh đạo, chỉ đạo Toà án các cấp về mọi mặt;
các tổ chức Đảng ở Toà án các cấp được tổ chức và hoạt động theo ngành
dọc. Việc giám sát của cơ quan dân cử đối với hoạt động của Toà án các cấp
sẽ do Quốc hội. Toà án các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm trước Chánh án
Toà án tối cao. Chánh án Toà án tối cao báo cáo và chịu trách nhiệm trước
Quốc Hội. Sự giám sát này bảo đảm tính thống nhất, toàn diện trong hoạt
động giám sát của Quốc Hội đối với hoạt động xét xử của Toà án.
Thứ bảy, Cần xây dựng lộ trình thành lập Toà án sơ thẩm khu vực, gồm
các giai đoạn: Giai đoạn một: Nghiên cứu, khảo sát, Giai đoạn hai: Áp dụng
thí điểm việc thành lập Toà án sơ thẩm khu vực, Giai đoạn ba: Tổng kết rút
90
kinh nghiệm việc thí điểm thành lập Toà án sơ thẩm khu vực.
KẾT LUẬN
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn đã đưa ra đánh giá được vị trí,
vai trò của Tòa án nhân dân trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Đồng thời,
nêu ra những điểm mới về chức năng, nhiệm vụ cũng như cơ cấu tổ chức của
Tòa án nhân dân theo tinh thần của Hiến pháp 2013, cũng như các giải pháp
nhằm triển khai thực hiện tốt các quy định về Tòa án nhân dân trong hiến
pháp 2013. Những vấn đề đặt ra trong thực tiễn triển khai Hiến pháp 2013 đòi
hỏi phải được tiếp tục sửa đổi đảm bảo phù hợp với thực tiễn tổ chức cũng
như phục vụ tốt công tác xét xử. Việc xác định đúng vị trí, vai trò của Tòa án
nhân dân là cơ sở để tòa án thực hiện đúng vai trò là cơ quan thực hiện quyền
tư pháp theo tinh thần của Hiến pháp 2013.
Nghị quyết trung ương 8 khóa VII, Nghị quyết Trung ương 3 và 7 khóa
VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ
Chính trị ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới”. Đặc biệt, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của
Bộ chính trị về Chiến lược cải các tư pháp đến năm 2002” đã đề ra nhiệm vụ
xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án theo hướng:
“Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn
vị hành chính”. Qua các giai đoạn, Nhà nước ta đã có những thay đổi tích cực
về cả mặt tổ chức cũng như hoạt động của Tòa án. Tuy nhiên trước yêu cầu
đặc ra từ thực tiễn xét xử cũng như yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa trong việc tổ chức và thực hiện quyền tư pháp, Tòa án là công cụ
hữu hiệu bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người… thì đòi hỏi ngành Tòa
án phải tiếp tục được cải cách mạnh mẽ từ nhận thức, pháp luật, cơ sở vật chất
và nguồn nhân lực phục vụ việc xét xử để có thể đáp ứng được những yêu cầu
91
của cuộc cải cách tư pháp. Từ đó, đề ra các biện pháp bảo đảm cho hoạt động
của Tòa án trong tiến trình cải cách tư pháp và thực hiện tốt theo tinh thần của
Hiến pháp 2013. Hy vọng trong thời gian tới hệ thống Tòa án sẽ tiếp có
những thay đổi mới cả về tổ chức cũng như hoạt động để phù hợp với những
yêu cầu của cuộc cải cách tư pháp, phục vụ tốt hơn việc bảo vệ công lý và
92
quyền con người, quyền công dân trong quá trình đổi mới đất nước hiện nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đào Duy Anh (1996), Từ điển Hán Việt, Nxb Tp. Hồ Chí Minh. 1.
2.
Ban chỉ đạo cải cách tư pháp (2006), Tài liệu hội nghị cán bộ toàn quốc tổng kết Nghị quyết 08/NQ-TW và triển khai thực hiện Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ chính trị về công tác tư pháp, Hà Nội.
3.
Bộ chính trị (2002), Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
4.
Bộ chính trị (2005), Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
5.
Lê Cảm (2006), Quyền tư pháp, hệ thống tư pháp, cơ quan tư pháp và cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
6.
Lê Cảm (2014), Về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
7.
Ngô Huy Cương (2005), Góp bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
8.
Nguyễn Đăng Dung (2014), Cơ chế thực hiện và kiểm soát quyền tư pháp ở Việt Nam: Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
9.
Đảng cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
10. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Các nghị quyết trung ương đảng
1986-1999, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
12. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần
93
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Trần Văn Độ (2013), Tòa án nhân dân trong hiến pháp, Nxb Lao động-
xã hội.
15. Bùi Xuân Đức (1993), “Tư pháp hành chính và vấn đề tổ chức tư pháp
hành chính ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật.
16. Trần Ngọc Đường (2013), Những điểm mới trong hiến pháp 2013 về
cải cách tư pháp, Nxb Lao động- xã hội.
17. Vũ Công Giao (2014), Tính độc lập của thẩm phán và vấn đề liêm
chính, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
18. Tô Văn Hà (2007), Tính độc lập của tòa án, Luận án Tiến sĩ Luật học,
trường Đại học Luật Hà Nội.
19. Trương Thị Hồng Hà (2013), Tòa án nhân dân,Viện kiểm sát nhân dân
trong hiến pháp, Nxb Lao động- xã hội.
20. Phạm Hồng Hải (2003), “Một số biện pháp bảo đảm thực hiện nguyên
tắc “ Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập chỉ tuân theo pháp
luật”, Tạp chí nhà nước pháp luật, Hà Nội.
21. Thạch Thị Hằng (2012), Đổi mới tòa án trong tố tụng hình sự trước
công cuộc cải cách tư pháp, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội.
22. Nguyễn Thị Mai Hiên (2008), Nguyên tắc tổ chức của tòa án và sự độc
lập của hoạt động xét xử, Tham luận hội thảo về sự độc lập trong hoạt
động xét xử của Tòa án tại Việt Nam 2008, Hà Nội.
23. Tô Ngọc Hòa (2013), Nguyên tắc hai cấp xét xử theo hiến pháp, Nxb
Lao động- xã hội.
24. Vũ Đức Khiển chủ nhiệm đề tài (2006), Xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN của
94
dân, do dân.
25. Phạm Duy Nghĩa (2008), Cơ quan tư pháp trong bộ máy nhà nước,
Tham luận tại hội thảo về sự độc lập trong hoạt động xét xử của tòa án
tại Việt Nam năm 2008, Hà Nội.
26. Phan Đức Phương (2007), Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án
nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp, Luận văn thạc sĩ luật học,
Hà Nội.
27. Hoàng Thị Kim Quế (2006), Nhận diện nhà nước pháp quyền, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
28. Quốc hội (1946), Hiến pháp nước Viê Nam dân chủ cộng hòa, Hà Nội.
29. Quốc hội (1959), Hiến pháp nước Viê Nam dân chủ cộng hòa, Hà Nội.
30. Quốc hội (1980), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Hà Nội.
31. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Hà Nội.
32. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Hà Nội.
33. Nguyễn Văn Tám (2013), Vị trí vai trò của tòa án nhân dân trong thể
chế nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận văn thạc sĩ,
Hà Nội.
34. Phạm Hồng Thái (2014), Những nhân tố ảnh hưởng đến sự độc lập của
Tòa án, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
35. Nguyễn Văn Thảo (2006), Xây dựng nhà nước pháp quyền dưới sự
lãnh đạo của Đảng, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
36. Tòa án nhân dân tối cao (2010), Báo cáo tổng kết năm 2009 và phương
hướng nhiệm vụ công tác năm 2010 của ngành tòa án nhân dân, Hà Nội.
37. Tòa án nhân dân tối cao (2011), Báo cáo tổng kết năm 2010 và phương
95
hướng nhiệm vụ công tác năm 2011 của ngành tòa án nhân dân, Hà Nội.
38. Tòa án nhân dân tối cao (2012), Báo cáo tổng kết năm 2011 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2013 của ngành tòa án nhân dân, Hà Nội.
39. Tòa án nhân dân tối cao (2013), Báo cáo tổng kết năm 2011 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2014 của ngành tòa án nhân dân, Hà Nội.
40. Tòa án nhân dân tối cao (2014), Báo cáo tổng kết năm 2011 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2015 của ngành tòa án nhân dân, Hà Nội.
41. Tòa án nhân dân tối cao (2015), Báo cáo tổng kết năm 2011 và phương
hướng nhiệm vụ công tác năm 2016 của ngành tòa án nhân dân, Hà Nội.
42. Đặng Minh Tuấn (2014), Những quy định của hiến pháp 2013 về Tòa án: Triển vọng và thách thức với cải cách tư pháp, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
43. Đào Trí Úc (2013), Quyền tư pháp trong cơ chế quyền lực nhà nước
theo hiến pháp, Nxb Lao động- xã hội.
44. Đào Trí Úc (2014), Bản chất đặc điểm và các nguyên tắc chủ đạo của
quyền tư pháp, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
45. Đào Trí Úc (2014), Vị trí trung tâm của tòa án trong chiến lược cải
cách tư pháp ở Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
46. Nguyễn Tất Viễn (2006), “Vai trò của tòa án trong Nhà nước pháp
quyền”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, (5), Hà Nội.
47. Trần Phụng Vương (2012), Nâng cao vị trí vai trò của tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội.
96
48. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Hà Nội.