VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
N G U Y Ễ N T H
Ị
NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG
H Ồ N G N H U N G
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
L U Ậ T H Ì N H S Ự V À T Ố T Ụ N G H Ì N H S Ự
Hà Nội, năm 2021
K H Ó A X
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN
Hà Nội, năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung trình bày trong luận văn là những kiến
thức của bản thân tôi có được trong quá trình học tập, tham khảo, nghiên cứu tài
liệu và thực tiễn dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Văn Huyên. Các ví dụ
và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Những
kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Người cam đoan
Nguyễn Thị Hồng Nhung
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG
TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC ......................................... 6
1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
sức khỏe của người khác .................................................................................................................... 6
1.1.1 Khái niệm tội Cố ý gây thương tích ........................................................................................ 6
1.1.2 Các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội cố ý gây thương tích ...................................................... 9
1.2 Các dấu hiệu định khung hình phạt của tội cố ý gây thương tích ......................................... 14
1.2.1 Dấu hiệu cấu thành cơ bản .................................................................................................... 14
1.2.2 Dấu hiệu định khung tăng nặng thứ nhất .............................................................................. 20
1.2.3 Dấu hiệu định khung tăng nặng thứ hai ................................................................................ 22
1.2.4 Dấu hiệu định khung tăng nặng thứ ba .................................................................................. 22
1.2.5 Dấu hiệu định khung tăng nặng thứ tư .................................................................................. 22
1.2.6 Chuẩn bị phạm tội ................................................................................................................. 23
1.3 Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác với một số tội
phạm khác ......................................................................................................................................... 24
1.3.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
trường hợp làm chết người với tội giết người ................................................................................ 24
1.3.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tội
phạm khủng bố ............................................................................................................................... 25
1.3.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tội cố
ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh .................................................... 27
1.4 Lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác .............................................................................................. 28
1.4.1 Định tội danh đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác ................................................................................................................................................ 28
1.4.2 Quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác ...................................................................................................................................... 31
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY
THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA
BÀN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................................................................... 33
2.1. Khái quát đặc điểm địa lý và tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn huyện Gia Lâm ....................................................................... 33
2.1.1 Đặc điểm địa lý ..................................................................................................................... 33
2.1.2 Tình hình tội phạm cố ý gây thương tích trên địa bàn huyện Gia Lâm ................................. 34
2.2. Thực tiễn định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong hoạt động xét xử trên địa bàn huyện Gia Lâm .......................................................... 37
2.2.1 Thực tiễn định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn huyện Gia Lâm theo cấu thành tội phạm cơ bản ................................................ 37
2.2.2 Thực tiễn định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn huyện Gia Lâm theo cấu thành tội phạm tăng nặng ........................................... 43
2.2.3 Thực tiễn định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn huyện Gia Lâm trong trường hợp đồng phạm .................................................... 45
2.3 Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn huyện Gia Lâm ....................................................................... 49
2.3.1 Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn huyện Gia Lâm theo cấu thành tội phạm cơ bản ...................... 50
2.3.2 Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn huyện Gia Lâm theo cấu thành tội phạm tăng nặng ................. 51
2.3.3 Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn huyện Gia Lâm trong trường hợp đồng phạm .......................... 52
2.4 Đánh giá chung ........................................................................................................................... 53
2.4.1 Ưu điểm ................................................................................................................................. 53
2.4.2 Hạn chế .................................................................................................................................. 54
2.4.3 Nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót ...................................................................................... 63
Chương 3 CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI
KHÁC .................................................................................................................................................... 66
3.1 Tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành về tội cố ý gây thương tích ............................ 66
3.2 Hoàn thiện quy định về hình phạt của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe người
khác. ................................................................................................................................................... 74
3.3 Hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác ................................................................................................................................... 75
3.4 Tổng kết công tác thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác ............................................................................................................. 76
3.5 Nâng cao chất lượng cán bộ thực thi pháp luật ............................................................................ 76
3.6 Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết các vụ án về tội cố ý
gây thương tích ................................................................................................................................... 78
KẾT LUẬN ........................................................................................................................................... 80
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
CTTP Cấu thành tội phạm
CQĐT Cơ quan điều tra
CYGTT Cố ý gây thương tích
HĐXX Hội đồng xét xử
TAND Tòa án nhân dân
TAND TC Tòa án nhân dân tối cao
TNHS Trách nhiệm hình sự
TTĐK Tình tiết định khung
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: So sánh tình hình tội phạm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khoẻ của người khác với tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn huyện
Gia Lâm giai đoạn từ năm 2015 - 2020
Bảng 2.2: Số liệu, tỷ lệ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ
của người khác bị đình chỉ, tạm đình chỉ từ năm 2015-2020
Bảng 2.3 Tình hình quyết định hình phạt của Tòa án từ năm 2015 đến năm 2020
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những quyền cơ bản
của quyền con người. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 đã khẳng
định “Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân” [24,
tr.48], Điều 20 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 cũng quy định “Mọi người có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh
dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ
hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự,
nhân phẩm” [33, Điều 20]. Có thể nói quyền bất khả xâm phạm về thân thể là
quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo vệ.
Trong những năm qua, các cơ quan bảo vệ pháp luật luôn kiên quyết đấu
tranh phòng chống các loại tội phạm nói chung và phòng chống các loại tội
phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người nói riêng, góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm [37, tr.6]. Tuy nhiên, cùng
với công cuộc đổi mới đất nước, quá trình đô thị hóa ngày càng diễn ra mạnh
mẽ đã là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình tội phạm nói chung
và nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người nói riêng ngày càng
gia tăng, diễn biến phức tạp, do đó công tác đấu tranh phòng chống loại tội
phạm này luôn là vấn đề cần thiết đặt ra trong tiến trình cải cách tư pháp.
Huyện Gia Lâm không phải là địa bàn trọng điểm về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác, nhưng với đặc điểm là
huyện đang trong quá trình đô thị hóa, nhiều khu dân cư mới, các trường đại
học, tập trung nhiều khu công nghiệp với lượng công nhân từ khắp các tỉnh,
thành tập trung, lại nằm giáp ranh cùng hệ thống giao thông thuận lợi cho việc
giao thương với các thành phố lớn. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn
1
đến các loại tội phạm phát triển trong đó đáng lưu ý là tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác. Các cơ quan tiến hành tố tụng
huyện Gia Lâm đã tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và
đưa ra xét xử nghiêm minh những vụ án đối với loại tội này. Tuy nhiên, thực
tiễn áp dụng pháp luật vẫn còn có những vấn đề nhận thức khác nhau, có nhiều
văn bản hướng dẫn khi áp dụng đối với một số tình tiết vẫn chưa được thống
nhất dẫn đến trường hợp định danh sai, bỏ lọt tội phạm, ảnh hưởng đến chất
lượng xét xử của hệ thống Tòa án cũng như công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ
của người khác nói riêng. Nhiều nội dung quy định về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định trong BLHS năm
2015 vẫn còn chưa rõ ràng, cần phải có văn bản hướng dẫn để việc áp dụng
trong thực tiễn được chính xác và thống nhất. Xuất phát từ những lý do trên,
học viên đã chọn đề tài: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác từ thực tiễn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội” để làm
để tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác đã
được nhiều nhà khoa học, luật gia nghiên cứu, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác
nhau. Đã có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu, quan điểm về loại tội này. Có
thể kể đến Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác
được đề cập trong các giáo trình, sách pháp lý, đề tài nghiên cứu như:
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự (phần các tội phạm),
Cao Thị Oanh - Lê Đăng Doanh (chủ biên); “Bình luận khoa học Bộ luật hình
sự 1999”, ThS. Đinh Văn Quế; “Tìm hiểu về tội phạm và hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam”, Nxb Phương Đông, năm 2010; “Bình luận khoa học Bộ luật
hình sự năm 2015”, Nguyễn Ngọc Hoà; “Luật hình sự Việt Nam”, TS. Phạm
2
Văn Beo; “Định tội danh và quyết định hình phạt”, Dương Tuyết Miên, năm
2007. Tạp chí luật học số 1/2001; Đỗ Đức Hồng Hà, “Phân biệt tội giết người
với tội cố ý gây thương tích”, Tạp chí kiểm sát, số 21/2005; Nguyễn Văn Nông,
“Phân biệt tội giết người với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe người khác trong trường hợp dẫn đến chết người”, Học viện tư pháp;
Nguyễn Thanh Mai – Cao Thị Ngọc Hà, Bàn về một số nội dung mới quy định
tại Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Tạp chí Khoa học
xã hội Việt Nam, số 5 (66) – 2013; Trương Đức Thuận – Nguyễn Sơn, “Tìm
hiểu pháp luật về tội cố ý gây thương tích”
Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội, năm 2016; Thân Đình Trung,
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác theo luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Long Biên, thành phố Hà Nội; Luận văn
thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội, năm 2018; Ngô Xuân Trung, Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác theo luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh; Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội, năm 2014; Lê Đình Tĩnh, Các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại đến sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác một cách khá toàn diện và đầy
đủ. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn
một cách toàn diện trên địa bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
3. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác.
- Phân tích thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt loại tội phạm
này trên địa bàn huyện Gia Lâm thông qua các vụ án cụ thể, trên cơ sở đó đưa
3
ra các hạn chế còn tồn tại và những nguyên nhân của hạn chế đó.
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự, bảo đảm
tính khả thi trong thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề lý luận chung về chế
định tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong luật hình sự Việt Nam mà cụ thể là trong BLHS năm 2015, kết hợp
với việc nghiên cứu đánh giá tình hình thực tiễn định tội danh và quyết định
hình phạt trên địa bàn huyện Gia Lâm và những nguyên nhân của những tồn
tại, hạn chế để đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự
nhằm nâng cao hiệu quả trong thực tiễn xét xử loại tội phạm này.
- Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là làm rõ trên phương diện lý luận các
thủ tục giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành kết quả
nghiên cứu thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt tội phạm cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên phạm vi địa bàn
huyện Gia Lâm trong giai đoạn 06 năm từ năm 2015 đến năm 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Bên cạnh đó, luận văn sử dụng các phương pháp phân
tích, tổng hợp, hệ thống, phương pháp so sánh, phân tích, đánh giá để giải quyết
các vấn đề của đề tài đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Trên cơ sở kế thừa các công trình khoa học đã được công bố, luận văn là
4
công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện dưới góc độ pháp
luật hình sự tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội có ý nghĩa về mặt lý luận
và thực tiễn, cụ thể như sau:
- Về lý luận: Luận văn góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật
hình sự có liên quan đến tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác, hoàn thiện hệ thống lý luận về định tội danh và quyết định hình
phạt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
- Về thực tiễn: Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo trong thực tiễn xét xử của
Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm. Việc ứng dụng đề tài vào thực tiễn sẽ góp
phần tích cực trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động trong việc định tội danh
và quyết định hình phạt của Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm. Luận văn cũng
là tài liệu tham khảo dùng trong quá trình học tập và nghiên cứu của các cơ sở
đào tạo luật ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác.
Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Gia Lâm,
thành phố Hà Nội
Chương 3. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với
5
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác
1.1.1 Khái niệm tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe
của người khác
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: Sức khỏe của con người là
trạng thái đầy đủ về thể chất, tâm thần mà không chỉ có nghĩa là không có bệnh
hay thương tật; cho phép mỗi người thích ứng nhanh chóng với các biến đổi
của môi trường, giữ được lâu dài khả năng lao động và lao động có hiệu quả.
Xâm phạm sức khỏe con người được hiểu là thông qua sự tác động làm cho
người đó mất đi một phần hay toàn bộ sức lực có sẵn của chính người đó làm
họ khó khăn trong cử động, hoạt động so với trước khi họ bị hành vi xâm hại
tác động tới. Hành vi gây thương tích cho người khác được hiểu là hành vi dùng
sức mạnh vật chất tác động lên thân thể của con người, làm cho con người có
những thương tích nhất định, mất đi một hoặc nhiều bộ phận trên cơ thể như
mất bàn tay, bàn chân, cánh tay,... để lại trạng thái bất thường.
Bộ Luật Hồng Đức - Bộ luật của triều đại nhà Lê, bộ luật chính thống và
quan trọng nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam đã quy định về tội cố ý gây
thương tích cụ thể tại điều 465, 466, 467, 468, 469. Theo điều 465 Bộ luật Hồng
6
Đức “Đánh người bằng chân tay không thì bị xử phạt 60 trượng, bằng một vật
gì thì xử phạt 80 trượng; nặng hơn nữa thì biếm một tư; phạt tiền tổn thương
và tiền tạ như luật; đánh chết người thì phải tội đánh giết người. Xui người ta
đánh dẫu mình không có mặt lúc đánh nhau cũng xử một tội” [63]
Có thể thấy, các nhà làm luật phong kiến quy định về tội CYGTT chỉ
thiên về các dấu hiệu hình thức đơn giản, tỷ lệ thương tích để quyết định hình
phạt mang tính ước lượng và hình phạt áp dụng mang tính chất tra tấn, nhục
hình.
Các BLHS sau này đã kế thừa, phát triển và hoàn thiện quy định tội danh
cố ý gây thương tích và tổn hại cho sức khỏe của người khác. Điều 109 BLHS
1985 quy định tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có
nội dung như sau: “a) Gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại nặng cho sức
khỏe của người khác; b) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công
vụ của nạn nhân; c) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm; d) Gây
thương tích cho nhiều người hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người”
[31, Điều 109]. Có thể thấy Điều 109 BLHS 1985 chỉ đưa ra các dấu hiệu để
nhận biết tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác về mặt
tình tiết, còn về mức độ tỷ lệ thương tật cụ thể được quy định tại các văn bản
hướng dẫn khác. So sánh giữa khoản 1 Điều 109 BLHS năm 1985 và khoản 1
Điều 104 BLHS năm 1999 thì BLHS năm 1999 đã quy định cụ thể hơn về ranh
giới giữa trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự bằng cách lượng hóa
tỉ lệ phần trăm thương tật của nạn nhân. Bộ luật hình sự năm 1999 đã cụ thể
hóa các trường hợp tuy tỉ lệ thương tật dưới 11% nhưng vẫn phải chịu trách
nhiệm hình sự [38, tr. 17-18]. BLHS 2015 quy định về tội CYGTT và tổn hại
sức khỏe cho người khác tại Điều 134. BLHS năm 2015 đã khắc phục được
những hạn chế, hoàn thiện về mặt kỹ thuật lập pháp so với BLHS năm 1999.
Tuy nhiên trong các BLHS của nước ta đều chưa đưa ra định nghĩa về tội
7
CYGTT và tổn hại sức khỏe cho người khác. Có quan điểm định nghĩa tội cố ý
gây thương tích là“ Tội cố ý gây thương tích và tổn hại cho sức khỏe của người
khác là hành vi cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dưới dạng thương
tích hoặc thương tổn khác” [1, tr. 9], có quan điểm lại cho rằng“Cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi của một
người cố ý làm cho người khác bị thương hoặc tổn hại đến sức khỏe” [35, tr.
137]. Xét một cách toàn diện, quan điểm trên đã phân tích tương đối bao quát
các hành vi thế nào được coi là CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác, tuy nhiên lại chưa đầy đủ về mặt yếu tổ chủ thể. Yếu tố nội hàm
của khái niệm tội CYGTT đó là: Hành vi cố ý của một người tác động vào cơ
thể của người khác, gây tổn thương với một tỷ lệ theo quy định của luật và do
người đủ tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện.
Dựa trên các phân tích đã nêu và các định nghĩa của một số nhà luật
học, tác giả đưa ra khái niệm như sau: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác là hành vi dùng sức mạnh vật chất cố ý tác
động một cách trái pháp luật lên thân thể của người khác làm cho người đó
mất đi một phần hoặc toàn bộ sức lực, gây thiệt hại đáng kể cho sức khỏe của
người khác với tỷ lệ tổn thương trên cơ thể nhất định theo quy định của Bộ luật
Hình sự, do người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện.
Có thể thấy, tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
bản chất là 02 tội ghép được quy định chung trong một điều luật, hành vi và
hậu quả của chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau nên được xếp chung vào
một điều luật. Do đó, có thể hiểu cố ý gây thương tích là hành vi xâm phạm đến
sức khỏe của con người nhưng thể hiện bằng các dấu vết có thể nhìn thấy được
nên dấu hiệu bắt buộc của tội cố ý gây thương tích là hậu quả gây thương tích,
vết thương trên cơ thể. Cố ý gây tổn hại cho sức khỏe là hành vi xâm phạm đến
8
sức khỏe nhưng không thể hiện bằng các dấu vết ra bên ngoài, hậu quả bắt buộc
của nó là những tổn thương về mặt thần kinh, tâm lý (Ví dụ: bị sang chấn tâm
lý, tâm thần….). Mặc dù đây đều là hành vi xâm phạm đến sức khỏe của con
người và có những điểm tương đồng về dấu hiệu pháp lý, tuy nhiên theo nhiều
quan điểm của các nhà luật học hiện nay thì nên tách tội cố ý gây thương tích
và tội cố ý gây tổn hại cho sức khỏe thành hai tội danh độc lập.
1.1.2 Các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội cố ý gây thương tích
1.1.2.1 Khách thể của tội cố ý gây thương tích
Khách thể trực tiếp của tội CYGTT và tổn hại cho sức khỏe của người
khác là quyền bảo hộ sức khỏe của con người. Tuy nhiên, hiện nay cũng có
quan điểm cho rằng khách thể của tội cố ý gây thương tích và tổn hại cho sức
khỏe của người khác không đơn thuần chỉ là quyền được bảo hộ sức khoẻ, mà
còn là danh dự, nhân phẩm của người khác bởi lẽ sức khoẻ, danh dự và nhân
phẩm của con người thường gắn kết chặt chẽ với nhau. Hiện nay có nhiều vụ
việc hậu quả thương tích gây ra cho người khác về mặt thể xác có thể chữa
lành, nhưng tổn thương về danh dự, nhân phẩm khi bị xâm phạm thì đôi khi
mang theo suốt đời của người bị hại. Theo quan điểm bản thân tác giả cho rằng,
nếu khách thể là danh dự và nhân phẩm bị xâm phạm thì sẽ cấu thành tội danh
khác được pháp luật hình sự bảo vệ, còn đối với tội danh cố ý gây thương tích
và tổn hại cho sức khỏe của người khác thì bản thân tên tội danh đã chỉ rõ khách
thể của tội là quyền bảo hộ sức khỏe.
Vấn đề thứ hai trong khách thể của tội cố ý gây thương tích và tổn hại
cho sức khỏe của người khác đó là vấn đề con người. Rõ ràng, thương tích hoặc
tổn hại về sức khoẻ ở đây phải là của người còn đang sống. Người sống được
hiểu là con người, từ lúc đã ra khỏi bụng mẹ cho đến khi ngừng hơi thở cuối
cùng. Do đó, hành vi gây tổn hại đến sức khoẻ của bào thai không được coi là
9
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác và hành
vi xâm phạm sức khoẻ người mẹ mang thai không thể coi là hành vi phạm tội
đối với nhiều người mà theo quy định của luật nó là tình tiết tăng nặng.
Nếu hành vi tác động vào đối tượng không phải là con người, không phải
là người còn sống thì không xâm phạm quyền được bảo vệ sức khỏe nên không
sẽ không thể truy cứu tội cố ý gây thương tích và tổn hại cho sức khỏe của
người khác; hoặc có trường hợp, một cá nhân tự gây thương tích cho chính
mình thì cũng không thuộc đối tượng điều chỉnh của Điều 104 BLHS 1999 [52,
tr.33]
1.1.2.2 Mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài cả tội phạm. Bất kỳ tội
phạm nào cũng được thể hiện ra bên ngoài, phản ánh thế giới khách quan mà
con người có thể nhận biết được. Mặt khách quan của tội phạm có những dấu
hiệu: Hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả do hành vi đó gây ra, mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả và một số dấu hiệu khác của hành vi như:
thời gian, địa điểm, phương tiện, công cụ, phương pháp và thủ đoạn phạm
tội…[52, tr.28]
Về mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác, hành vi khách quan là dấu hiệu cơ bản và quan trọng nhất
vì đây là tội cấu thành vật chất nên dấu hiệu bắt buộc của nó là: Hành vi nguy
hiểm cho xã hội được thể hiện dưới dạng hành động, các dấu hiệu khác thuộc
mặt khách quan như: Hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả
tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc nhưng có ý nghĩa trong việc quyết định tội
danh và quyết định hình phạt.
Hành vi khách quan có thể được thực hiện dưới hình thức hành động
hoặc không hành động. Hành vi khách quan dưới hình thức hành động của tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi
10
xâm phạm quan hệ xã hội, quyền bảo hộ sức khỏe mà pháp luật bảo vệ hay nói
cách khác là làm những gì mà pháp luật cấm. Không hành động là hình thức
của hành vi khách quan trong đó chủ thể tội phạm đã không làm một việc mà
pháp luật yêu cầu phải làm, chủ thể có đủ điều kiện để làm nhưng không làm
dẫn đến làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động, xâm phạm
quyền được bảo vệ sức khỏe của con người. [52, tr.29]
Điều kiện cần đối với hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đó là hành vi của con người biểu
hiện ra bên ngoài thế giới khách quan phải có sự kiểm soát của ý thức và điều
khiển của ý chí. Hành vi khách quan này có khả năng gây ra thương tích hoặc
gây tổn hại đến sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật, đó là điều
kiện đủ.
Hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
là những hành vi tác động vào cơ thể con người, gây tổn hại một bộ phận hay
toàn bộ cơ thể hoặc gây tổn hại hay làm mất chức năng của một cơ quan nào
đó như làm mù mắt, mất tay, què chân, gẫy răng..Những hành vi này có thể
thực hiện bằng các công cụ phương tiện phạm tội như đâm, chém bằng súng,
gậy… hoặc do chính người phạm tội trực tiếp gây ra không có công cụ, phương
tiện như đấm, đá bằng tay, chân… hoặc thông qua các loại súc vật như thả bò
húc, chó cắn…. hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác như bắt người bị hại
phải tự uống thuốc phá thai, tự cắt tai, chặt ngón tay….[50, Tr.39]
Hậu quả chính là thiệt hại do hành vi khách quan gây ra cho quan hệ
nhân thân, sức khỏe của con người. Thiệt hại này có thể là thiệt hại về thể chất,
hậu quả gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Hậu
quả xảy ra trên thực tế, tính chất, mức độ của hậu quả xảy ra có ý nghĩa trong
việc xác định tội danh và quyết định hình phạt. Đối với các loại tội CYGTT thì
đều dựa trên mức độ thương tích để là căn cứ truy TNHS. Theo quy định của
11
BLHS thì tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên là đủ căn cứ để truy cứu TNHS hoặc
thương tật dưới 11% nhưng thuộc các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm
k khoản 1, Điều 134 BLHS thì hành vi đó vẫn bị truy cứu TNHS trong trường
hợp thuộc 10 tình tiết tại Khoản 1 Điều 134 BLHS.
1.1.2.3 Mặt chủ quan của tội cố ý gây thương tích
Mặt chủ quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác gồm các yếu tố: Lỗi, động cơ, mục đích phạm tội.
Yếu tố lỗi: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là có
lỗi nếu khi thực hiện nhận thức được hoặc có đủ điều kiện để nhận thức được
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và có đủ điều kiện lựa chọn, thực hiện
hành vi khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội” [13, tr.91] Đối với tội cố ý gây
thương tích thì hành vi của người phạm tội phải thực hiện do lỗi cố ý.
sTrường hợp phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác dẫn đến chết người hoặc chết nhiều người là những trường
hợp hỗn hợp lỗi đuợc quy định ở khoản 4 và 5 Điều 134 BLHS. Đây là trường
hợp, xét về mặt lý trí, người có hành vi phạm tộinày dưới hình thức lỗi cố ý
trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp đều nhận thức được hành vi gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là nguy hiểm cho xã hội đồng thời
cũng nhận thức được rằng hậu quả nguy hại có thể xảy ra. Xét về mặt ý chí,
người có hành vi phạm tội này dưới hình thức hỗn hợp lỗi đã không muốn hậu
quả chết người xảy ra (vô ý đối với hậu quả chết người).
Mục đích phạm tội là gây ra những tổn hại sức khỏe có thể nhìn thấy
được về vật chất, tinh thần cho nạn nhân. Có tMặc dù, mục đích phạm tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác không phải là
dấu hiệu bắt buộc của cấu thành nhưng nó có ý nghĩa định khung tăng nặng.
Động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tuy nhiên,
12
động cơ có thể làm tăng lên tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội, như: tính chất côn đồ là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt hoặc phạm
tội vì động cơ đê hèn; có tính chất côn đồ là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự được quy định ở Điều 52 BLHS.
1.1.2.4 Chủ thể của tội cố ý gây thương tích
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS đạt độ tuổi nhất định
và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể với điều kiện là chủ thể đó nhận thức
được tính chất nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình và có khả năng điều
khiển được hành vi.
Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định chủ thể của tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là người từ đủ 16
tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng
chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trường hợp phạm tội rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng [29; Điều 12].
Theo quy định của BLHS tuổi chịu TNHS ở đây là tròn “đủ 14 tuổi” hoặc
“đủ 16 tuổi”. TAND tối cao có hướng dẫn tại mục 1.1 phần II Công văn số
81/2002/TANDTC ngày 10/06/2002 về cách xác định ngày, tháng sinh của bị
can, bị cáo chưa thành niên: a- Nếu xác định được tháng cụ thể, nhưng không
xác định được ngày nào trong tháng đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó
làm ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can,
bị cáo; b- Nếu xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được
ngày, tháng nào trong quý đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng của
quý đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét trách nhiệm hình sự đối với
bị can, bị cáo; c- Nếu xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm,
nhưng không xác định được ngày, tháng nào trong nửa đầu năm hay nửa cuối
năm thì lấy ngày 30 tháng 6 hoặc ngày 31 tháng 12 tương ứng của năm đó làm
13
ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị
cáo; d- Nếu không xác định được nửa năm nào, quý nào, tháng nào trong năm
thì lấy ngày 31 tháng 12 của năm đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo để xem
xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo. [5]
Tuy nhiên, trong thực tế cách xác định ngày tháng năm sinh của bị can,
bị cáo không hề dễ dàng. Vì trước đây công tác hộ tịch quản lý lỏng lẻo, bất
cập, việc cấp bản sao khai sinh theo lời khai hoặc do nhờ quen biết dẫn đến sai
sót thông tin của người được đăng ký khai sinh, sau khi xác minh phát hiện
thông tin trong sổ đăng ký khai sinh gốc không khớp với thông tin trong giấy
tờ hiện tại của công dân. Do đó, về vấn đề này cũng cần có những văn bản để
hướng dẫn cụ thể.
Trong một số trường hợp có chủ thể đặc biệt xuất hiện và là tình tiết
tăng nặng định tội được quy định ở khoản 1 Điều 134 BLHS đó là phạm tội đối
với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh
cho mình nếu tỷ lệ thương tật dưới 11% và đây cũng là tình tiết định khung
tăng nặng ở khoản 2, khoản 3, khoản 4, khoản 5 Điều 134 BLHS.
Ngoài ra, còn có tình tiết nhân thân liên quan đến chủ thể mà có ý nghĩa
tăng nặng trách nhiệm hình sự như: phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy
hiểm; phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.
1.2 Các dấu hiệu định khung hình phạt của tội cố ý gây thương tích
1.2.1 Dấu hiệu cấu thành cơ bản
Mức khung hình phạt được quy định là phạt cải tạo không giam giữ đến
03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với người nào cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể
từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong 10 tình tiết định khung
cơ bản.
Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng
14
gây nguy hại cho nhiều người
Theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.1 và 2.2, mục 2, Phần I, Nghị quyết số
02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao:
Vũ khí: Vũ khí là một trong các loại vũ khí được quy định tại Khoản 1,
Điều 1 Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (Ban hành kèm
theo Nghị định số 47/CP ngày 12/8/1996 của Chính phủ)”, như vậy vũ khí bao
gồm vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao, súng săn, và vũ khí thô sơ (như dao,
kiếm, giáo, mác)
Phương tiện nguy hiểm là công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục
vụ cho cuộc sống của con người (trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà
người phạm tội chế tạo ra nhằm làm phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật
có sẵn trong tự nhiên mà người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng
cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc
sức khỏe của người bị tấn công. [22].
Hung khí nguy hiểm theo cách tiếp cận của tác Đinh Văn Quế: là phương
tiện mà người phạm tội thực hiện để gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác và phương tiện đó mang tính chất nguy hiểm như dao, các
loại lê, các loại súng, lựu đạn, thuốc nổ…[35]. Hung khí nguy hiểm là bản thân
nó chứa đựng khả năng gây ra nguy hiểm đến tính mạng sức khỏe, nó hoàn toàn
không phụ thuộc vào cách sử dụng của người phạm tội.
Có quan điểm cho rằng, việc BLHS năm 2015 quy định bổ sung thêm 02
loại phương tiện là vũ khí và vật liệu nổ là không cần thiết bởi bản thân nội
hàm của hung khí nguy hiểm đã bao hàm cả vũ khí và vật liệu nổ, chúng đều
có khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng sức khỏe của con người. Tuy nhiên,
quan điểm cá nhân học viên cho rằng việc quy định như trên đã thể hiện sự
hoàn thiện kỹ thuật lập pháp vì đây là những phương tiện mặc dù có tính nguy
hiểm như nhau nhưng tính chất hoàn toàn khác nhau, do đó việc liệt kê một
15
cách đầy đủ các phương tiện là hợp lý.
Thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người: là thủ đoạn có khả
năng gây ra thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho nhiều người. BLHS năm
1999 chỉ quy định là thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người, tức là đòi hỏi phải
có hậu quả xảy ra thì mới áp dụng tình tiết này tuy nhiên trên thực tế nếu hậu
quả đã xảy ra thì việc áp dụng tình tiết này không còn nhiều ý nghĩa. BLHS
năm 2015 đã khắc phục được bất cập này, theo đó trong trường hợp này không
cần có hậu quả xảy ra, chỉ cần thủ đoạn có khả năng gây nguy hại là điều kiện
đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Dùng a xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm
Trong những năm gần đây đã xảy ra rất nhiều vụ việc cố ý gây thương
tích bằng cách tạt axit gây thương tích cho nạn nhân, hậu quả của những vụ
việc này thường để lại di chứng đặc biệt nghiêm trọng về thể xác và tinh thần
của nạn nhân trong suốt cuộc đời. Do tính chất nguy hiểm của hành vi này lên
đây là một trong những căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường
hợp thương tích của nạn nhân dưới 11%.
Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu,
ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ
Phụ nữ có thai, trẻ em và người già luôn là là những đối tượng yếu thế
trong xã hội và cần được sự hỗ trợ, quan tâm của các cá thể khác trong xã hội.
Do đó, việc xâm hại đến sức khỏe của những đối tượng này cũng được xem là
hành vi nguy hiểm hơn so với việc xâm hại đến sức khỏe của các cá thể bình
thường khác trong xã hội. Đối với tình tiết này thì BLHS 2015 đã bổ sung quy
định mới hơn, tiến bộ hơn so với BLHS 1999 đó là trường hợp phụ nữ mang
thai, nếu trước đây chỉ cần gây thương tích đối với phụ nữ có thai thì có thể có
căn cứ khởi tố mà không phụ thuộc vào việc người có hành vi phạm tội có nhận
thức được hay không nhưng BLHS năm 2015 quy định là xâm hại đến sức khỏe
16
của phụ nữ mà biết là có thai.
Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng,
chữa bệnh cho mình
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006
của HĐTP Tòa án nhân dân Tối cao: “Nạn nhân phải là thầy giáo, cô giáo tức
là người đã hoặc đang làm công tác giảng dạy theo biên chế hoặc theo hợp
đồng tại cơ quan, tổ chức có chức năng giáo dục, đào tạo, dạy nghề được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cho phép; Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của nạn nhân là vì lý do thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào
tạo, dạy nghề của họ đối với bị cáo, không phân biệt nhiệm vụ đó đã được thực
hiện hay đang được thực hiện và không kể thời gian dài hay ngắn” [20].
Đây là trường hợp mà chủ thể đặc biệt bị xâm hại đó là ông, bà, cha, mẹ,
thầy giáo, cô giáo, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho người phạm tội bởi lẽ xuất
phát từ truyền thống đạo đức của người Việt, đây là những chủ thể mà người
phạm tội phải có nghĩa vụ kính trọng, lễ nghĩa, hành vi gây thương tích hoặc
tổn hại đến sức khỏe của những chủ thể này được coi là những hành vi phản
trắc, bội bạc nên áp dụng xử lý hình sự ngay khi tỷ lệ thương tật là dưới 11%.
Có tổ chức
Theo quy định của BLHS thì phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm
có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Trong trường
hợp này có nhiều người tham gia vào một vụ cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại sức khỏe cho người khác, có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng
thực hiện, có sự phân công, có kẻ chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác. Trường hợp nhiều người
cùng tham gia vào vụ việc nhưng không có sự câu kết chặt chẽ, mà chỉ là sự
đồng tình có tính chất hời hợt thì cũng không áp dụng tình tiết này.
17
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn
Điều 352, BLHS năm 2015 quy định: Người có chức vụ là người do bổ
nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương
hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có
quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ. [29, Điều 352]
Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt
tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc
đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục
bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Đang chấp hành án phạt tù là người bị kết tội và phải chịu hình phạt tù
theo bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Đang bị đang chấp hành biện
pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường
giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là đang bị giáo dục trong
các cơ sở giáo dục của Bộ công an như: Trường giáo dưỡng, các Trung tâm cải
tạo do Bộ công an quản lý, Trại cai nghiện... Đây được coi là trường hợp nguy
hiểm hơn các trường hợp thông thường vì đây là những đối tượng đang bị áp
dụng các biện pháp ngăn chặn do đã có hành vi vi phạm pháp luật hình sự hoặc
đang bị quản lý chặt chẽ do vi phạm hành chính mà vẫn phạm tội
Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được
thuê
Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe người là trường hợp
người phạm tội không trực tiếp thực hiện tội phạm, mà trả cho người khác một
khoản tiền hoặc một lợi ích vật chất, tinh thần khác để người đó thay mình gây
thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho nạn nhân. Gây thương tích hoặc gây
tổn hại sức khỏe thuê là trường hợp người phạm tội lấy việc gây thương tích
hoặc gây tổn hại sức khỏe làm phương tiện để kiếm tiền hoặc vì một lợi ích
18
khác. Nền kinh tế thị trường đã xuất hiện ngày càng nhiều những băng đảng,
nhóm người chuyên hoạt động đâm thuê chém mướn, vì lợi ích vật chất mà cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Do đó, hành
vi thuê và đi thuê gây thương tích đều bị pháp luật trừng trị nghiêm minh để
ngăn chặn đối với những đối tượng này.
Có tính chất côn đồ
Côn đồ là hành vi mang tính hung hãn, coi thường pháp luật, coi thường
tính mạng, sức khoẻ người khác một cách cao độ của người có hành vi phạm
pháp, biểu hiện bằng sự chửi rủa, nhục mạ, đánh đập, tấn công người khác một
cách ngang nhiên và vô cớ hoặc vì lí do nhỏ nhặt khác. Để áp dụng tình tiết “có
tính chất côn đồ” trong tội cố ý gây thương tích, TANDTC có hướng dẫn tại
Công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976 và tại Hội nghị tổng kết công tác ngành
TAND năm 1995 giải thích: “Khái niệm côn đồ được hiểu là hành động của
những tên coi thường pháp luật, luôn luôn phá rối trật tự trị an, sẵn sàng dùng
vũ lực và thích (hay) dùng vũ lực để uy hiếp người khác phải khuất phục mình,
vô cớ hoặc chỉ vì một duyên cớ nhỏ nhặt là đâm chém, thậm chí giết người.
Hành động của chúng thường là xâm phạm sức khỏe, tính mạng, danh dự người
khác, gây gổ hành hung người khác một cách rất vô cớ hoặc vì một duyên cớ
nhỏ nhặt”[4].
Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Công vụ là hoạt động do cán bộ, công chức nhân danh nhà nước thực
hiện theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi
ích của nhân dân và xã hội. Đây là trường hợp người bị gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe người khác là người đang thi hành công vụ, tức là
người bị gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác đang thực
hiện một nhiệm vụ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao phó. [52, Tr.21].
Tuy nhiên, cũng có một số đối tượng tuy không được giao nhiệm vụ
19
nhưng cũng được coi là đang thi hành công vụ đó là những người tự nguyện
tham gia vào việc giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong một
số trường hợp nhất định như: đuổi bắt người phạm tội bỏ trốn; can ngăn, hoà
giải những vụ đánh nhau ở nơi công cộng v.v... Nạn nhân bị gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác phải là lúc họ đang làm nhiệm vụ,
thì hành vì đó sẽ bị coi là phạm tội trong trường hợp đang thi hành công vụ và
phải là người thi hành nhiệm vụ đúng pháp luật, nếu trái với pháp luật thì cũng
không áp dụng tình tiết này.
1.2.2 Dấu hiệu định khung tăng nặng thứ nhất
Người phạm tội bị áp dụng mức khung hình phạt tù từ 02 năm đến 06
năm khi thuộc một trong các trường hợp sau:
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60%:
Tỷ lệ thương tật của nạn nhân là căn cứ để định tội danh và quyết định
hình phạt đối với hành vi phạm tội. Điểm a khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự
quy định nạn nhân bị thương tích hoặc bị tổn hại đến sức khỏe phải có tỷ lệ
thương tật từ 31% đến 60% thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo khoản 2 với mức khung hình phạt từ 02 năm đến 6 năm.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên
mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%:
Đây được coi là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt quy định điểm
b khoản 2 Điều 134 BLHS 2015.
- Phạm tội 02 lần trở lên: BLHS 2015 chưa có khái niệm cụ thể về phạm
tội 02 lần trở lên và cũng chưa có một văn bản nào đưa ra một khái niệm cụ
thể, chỉ có đưa ra khái niệm về Phạm tội 02 lần trở lên của một tội danh nào đó.
Như Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-
BTP ngày 24/12/2007 quy định phạm tội hai lần được hiểu là phạm cùng một
20
tội, từ 02 lần trở lên, nhưng những lần trước chưa bị truy tố trách nhiệm hình
sự về tội danh đó. Xuất phát từ thực tiễn xét xử, tình tiết “Phạm tội 02 lần trở
lên” thay cho tình tiết “Phạm tội nhiều lần” quy định trong BLHS 1999. Về nội
dung, ý nghĩa của tình tiết này hoàn toàn không có sự thay đổi, chỉ khác biệt về
cách diễn đạt. Hành vi phạm tội lần thứ hai là sự lặp lại tội mà người phạm tội
đã phạm trước đó nên rõ ràng mức độ nguy hiểm cao hơn trường hợp bình
thường.
Xét về bản chất của tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên” có các đặc
điểm sau: Người phạm tội đã thực hiện từ hai hành vi phạm tội trở lên, tác động
đến cùng một đối tượng, xâm phạm đến cùng một khách thể trực tiếp, mà mỗi
hành vi ấy đã có đủ các yếu tố cấu thành một tội phạm độc lập (cùng là hành vi
CYGTT); Khi xét xử, các hành vi đó chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS và
người phạm tội vẫn chưa bị xét xử hoặc bị xử lý bằng các hình thức khác (đình
chỉ vụ án, đình chỉ điều tra…); Nếu điều luật có quy định về giá trị tài sản hoặc
thiệt hại về tài sản thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng giá
trị tài sản của các lần phạm tội cộng lại.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp
quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS.
Đây là trường hợp người phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng lại
thuộc các trường hợp là dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ
đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người; Dùng a-xít nguy hiểm hoặc
hóa chất nguy hiểm; Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai,
người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; Đối với ông,
bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho
mình; Có tổ chức; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; Trong thời gian đang bị giữ,
21
tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi
phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng
hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc [30]
1.2.3 Dấu hiệu định khung tăng nặng thứ hai
Mức hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm được áp dụng khi phạm tội thuộc
một trong các trường hợp sau đây: Đây là trường hợp người phạm tội gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương
cơ thể 61% trở lên, nhưng không thuộc trường hợp làm chết người; Gây thương
tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61%
trở lên; trường hợp quy định tại các điểm từ Điểm a đến điểm k Khoản 1, Điều
134, BLHS 2015.
1.2.4 Dấu hiệu định khung tăng nặng thứ ba
Mức hình phạt tù từ 07 năm đến 14 năm được áp dụng khi phạm tội thuộc
một trong các trường hợp sau đây: Làm chết người; Gây thương tích làm biến
dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; Gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên; [29, Điều 134].
1.2.5 Khung tăng nặng thứ tư có mức khung hình phạt tù từ 12 năm
đến 20 năm hoặc tù chung thân
Mức hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân được áp
dụng khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: Làm chết 02 người
trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà
tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên nhưng thuộc một trong các
trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS
22
2015. [29, Điều 134]
1.2.6 Chuẩn bị phạm tội
Theo quy định từ Khoản 1 đến Khoản 5, Điều 134 BLHS năm 2015 đều
lấy hậu quả xảy ra (được thể hiện trong bản kết luận giám định của cơ quan
chuyên môn) làm căn cứ đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, so với BLHS
1999, BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm quy định tại khoản 6 Điều 134 về
trường hợp chuẩn bị phạm tội, ở trường hợp này hậu quả chưa xảy ra nhưng
vẫn truy cứu trách nhiệm hình sự. Chuẩn bị phạm tội ở đây là chuẩn bị vũ khí,
vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, … nhằm gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, chứ chưa gây ra hậu quả trên
thực tế. Các quan điểm về vấn đề này như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Không nên quy định và xử lý tội tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở giai đoạn chuẩn bị
phạm tội vì tại Khoản 1, Khoản 2 tội này là tội phạm ít nghiêm trọng và tội
phạm nghiêm trọng. Trong khi đó, hành vi chuẩn bị phạm tội chưa phải là hành
vi thực hiện tội phạm, cho nên tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi chuẩn bị
phạm tội nói chung và chuẩn bị phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại sức khỏe
cho người khác nói riêng chưa đáng kể, chưa bị coi là tội phạm và không phải
chịu TNHS. Tội CYGTT là tội có cấu thành vật chất đòi hỏi phải có hậu quả
tổn thương cơ thể nhất định của nạn nhân mới bị truy cứu TNHS, trong khi
hành vi chuẩn bị phạm tội này chưa gây ra hậu quả thì khó xác định được khoản
nào của Điều 134 BLHS năm 2015 để quyết định việc có xử lý tội phạm này ở
giai đoạn chuẩn bị phạm tội
Quan điểm thứ hai cho rằng: Nên quy định và xử lý tội tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác vì hành vi chuẩn bị phạm tội này tuy
chưa gây ra hậu quả nhưng chứa đựng khả năng gây hậu quả, thậm chí là hậu
quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời. Tội CYGTT là
23
tội có cấu thành vật chất. Vì vậy giữa hành vi và hậu quả có quan hệ nhân quả,
hành vi trái pháp luật được coi là nguyên nhân, tuy giữ vai trò quyết định đối
với sự phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng hậu quả đó xảy ra hay
không và xảy ra như thế nào còn phụ thuộc vào những yếu tố khác như được
ngăn chặn, cứu chữa kịp thời... Hậu quả xảy ra có ý nghĩa xác định tội phạm đó
là đã hoàn thành hay chưa.
1.3 Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của
người khác với một số tội phạm khác
1.3.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trường hợp làm chết người với tội giết người
Thực tiễn cho thấy trong nhiều trường hợp, việc phân biệt tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tội giết người là rất phức tạp;
có sự áp dụng không thống nhất giữa các địa phương và ngay trong cùng một
cơ quan tiến hành tố tụng. Chánh án TAND tối cao đã ban hành Quyết định số
220/QĐ-CA ngày 6/4/2016 công bố án lệ vụ án về tội giết người và tội cố ý
gây thương tích dẫn đến chết người đã được Hội đồng Thẩm phán TAND tối
cao thông qua tại Án lệ số 01/2016/AL. Tuy nhiên thực tiễn đấu tranh phòng,
chống hai loại tội phạm này cũng còn nhiều vấn đề chưa được giải đáp, nhiều
vụ án vẫn còn ý kiến khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng và người bào chữa.
Việc nghiên cứu và phân biệt giữa tội giết người quy định tại Điều 123
với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại Điều
134 BLHS năm 2015 có ý nghĩa rất quan trọng trong việc khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử. Trên cơ sở các dấu hiệu đặc trưng của tội giết người và tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trường hợp
làm chết người, chúng ta có thể nhận định sự giống nhau và khác nhau cơ bản
24
giữa hai tội này.
* Về điểm giống nhau: Đối với hai tội này người phạm tội đều thực hiện
hành vi là do cố ý; đều thực hiện hành vi tương tự như nhau như bắn, đánh,
đấm, đá, đâm, chém, … có hậu quả là nạn nhân chết.
* Về điểm khác nhau:
Đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, người
phạm tội chỉ cố ý làm cho nạn nhân bị thương hoặc bị tổn hại đến sức khỏe chứ
người phạm tội không mong muốn cho nạn nhân bị chết hay bỏ mặc cho nạn
nhân chết; còn việc nạn nhân chết là ngoài ý thức chủ quan của người phạm tội.
Đối với tội giết người, người phạm tội cố ý tước đoạt tính mạng của nạn
nhân, mong muốn nạn nhân chết, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp, và
không cần quan tâm đến hậu quả nạn nhân chết hay không.
Hành vi tấn công của người phạm tội đối với tội giết người quyết liệt
hơn, cường độ tấn công mạnh hơn, nhằm vào những nơi xung yếu của cơ thể
như: vùng đầu (sọ não, gáy), ngực, ổ bụng,… Còn đối với tội CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác, người phạm tội tấn công nạn nhân không
quyết liệt, mà nếu có quyết liệt thì những nơi tấn công không xung yếu như:
chân, tay, mông, hoặc những nơi xung yếu của cơ thể thì cũng chỉ tấn công vào
nơi đã định như mắt, mũi, tai, miệng.
Thực tiễn, nhiều trường hợp người phạm tội vì mong muốn giảm nhẹ
hình phạt nên chỉ khai mục đích là không mong muốn làm nạn nhân chết. Do
đó, phải kết hợp với hành vi khách quan của người phạm tội để xác định là tội
danh giết người hay CYGTT, đồng thời phải căn cứ vào biên bản giám định
pháp y về nguyên nhân gây ra cái chết của nạn nhân.
1.3.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác với tội phạm khủng bố
Tại Điều 299 BLHS năm 2015 quy định về tội khủng bố là “Hành vi xâm
25
phạm tính mạng của người khác hoặc phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá
nhân nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng hoặc xâm phạm tự do
thân thể, sức khỏe hoặc chiếm giữ, làm hư hại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá
nhân hoặc đe dọa thực hiện hành vi xâm phạm tính mạng của người khác hoặc
phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm gây ra tình trạng hoảng
sợ trong công chúng hoặc có những hành vi khác uy hiếp tinh thần người khác”.
Dựa vào những dấu hiệu pháp lý trong cấu thành tội phạm đối với tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và tội khủng bố, có thể đưa ra
những điểm giống nhau và những điểm khác nhau như sau:
* Về điểm giống nhau: gồm dấu hiệu lỗi và dấu hiệu chủ thể của tội phạm.
Đối với dấu hiệu lỗi, cả hai tội phạm này đều có lỗi cố ý. Về chủ thể của tội
phạm, hai tội này đều do bất kỳ ai là người có năng lực trách nhiệm hình sự và
đạt độ tuổi luật định thực hiện hành vi phạm tội.
* Về điểm khác nhau:
Khách thể của tội phạm: Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo hộ về sức khỏe của con
người; còn tội khủng bố xâm phạm an toàn công cộng, xâm phạm quyền tự do
thân thể, sức khỏe của con người, đe dọa xâm phạm tính mạng con người cũng
như quan hệ sở hữu của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Mặt khách quan của tội phạm: Đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác thì hành vi khách quan là hành vi tác động vào cơ thể
của người khác làm cho người đó bị thương tích hoặc bị tổn hại về sức khỏe
chứ không mong muốn cho nạn nhân bị chết, nếu hậu quả nạn nhân chết là
ngoài ý muốn của người phạm tội. Đối với tội phạm khủng bố, hành vi khách
quan của tội phạm này bao gồm các hành vi như: hành vi đe dọa xâm phạm tính
mạng, xâm phạm tự do thân thể, sức khỏe của người khác hoặc hành vi phá hủy
tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong
26
công chúng hoặc chiếm giữ, làm hư hại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
đe dọa thực hiện hành vi xâm phạm tính mạng của người khác hoặc phá hủy tài
sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công
chúng hoặc có những hành vi khác uy hiếp tinh thần của người khác.
Mục đích phạm tội: Mục đích của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác là làm cho nạn nhân bị tổn thương, làm mất hoặc suy giảm
chức năng một bộ phận cơ thể còn mục đích của người phạm tội khủng bố là
nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng.
1.3.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác với tội cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh
Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134
BLHS) và Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135 BLHS) đều là tội phạm thuộc
nhóm tội xâm phạm sức khỏe con người.
* Những điểm giống nhau:
Về mặt khách thể: Cả hai tội đều có khách thể trực tiếp là xâm phạm đến
quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người. Mặt khách quan, là tội có cấu
thành vật chất, đều đòi hỏi hành vi cố ý xâm phạm thân thể, gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác thể hiện dưới dạng thương tích. Mặt chủ quan đều được
thực hiện dưới lỗi cố ý. Chủ thể của hai tội này đều là chủ thể thường.
* Những điểm khác nhau:
- Hai tội này đều có cấu thành vật chất, tuy nhiên tỷ lệ thương tật của nạn
nhân đủ để cấu thành tội phạm là khác nhau, đối với tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác là từ 11% trở lên, trong trường hợp dưới 11%
thì phải thuộc các tình tiết định khung quy định tại Khoản 1, Điều 134 BLHS
còn đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
27
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì tỷ lệ thương tật đối với người bị xâm
hại là từ 31% trở lên. Mặc dù là tội có cấu thành vật chất, tuy nhiên tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng quy định việc chuẩn bị
phạm tội cũng có thể cấu thành tội phạm theo Khoản 6 Điều 134 BLHS còn tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh thì chi khi người phạm tội có hành vi xâm hại sức khỏe
cho người đã thực hiện hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm
tội hoặc người thân thích của người phạm tội với tỷ lệ thương tật là từ 31% trở
lên thì mới đủ dấu hiệu để truy cứu TNHS.
- Về độ tuổi của chủ thể: Đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác thì tuổi của người phạm tội là từ đủ 14 tuổi trở lên, còn
đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh là từ đủ 16 tuổi trở lên.
Việc phân biệt dấu hiệu pháp lý của tội này với tội giết người với tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh không chỉ có tác dụng trong việc nhận thức về những
điểm giống hoặc khác nhau giữa các tội phạm mà còn có ý nghĩa quan trọng
trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, giúp người tiến hành tố tụng
định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối với người thực hiện hành vi
phạm tội.
1.4 Lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.4.1 Định tội danh đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác
1.4.1.1 Khái niệm, đặc điểm định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Định tội danh là cơ sở và là tiền đề cho hoạt động quyết định hình phạt.
28
Đó là quá trình xác định sự giống nhau, sự trùng lặp giữa các tình tiết cơ bản,
điển hình của một hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra với các dấu hiệu của
CTTP cụ thể tương ứng được quy định trong Bộ luật hình sự.
Có hai hình thức định tội danh:
1) Định tội danh chính thức do người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng có liên quan thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án để thực hiện
việc buộc tội, bào chữa hay xét xử vụ án và làm phát sinh hậu quả pháp lí;
2) Định tội danh không chính thức do các nhà nghiên cứu thực hiện nhằm
thể hiện quan điểm khoa học, nhận thức của người định tội và không làm phát
sinh hậu quả pháp lí.
Đặc điểm định tội danh:
- Là sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, cụ thể là việc xác định xem
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện có thỏa mãn các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm cụ thể trong Bộ luật Hình sự hay không và đưa ra sự đánh giá
nhất định về mặt pháp lý đối với hành vi đó.
- Là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố
tụng trên cơ sở xác định các tình tiết của hành vi phạm tội đã thực hiện. [52; Tr
11-12]
Qua các đặc điểm của định tội danh đã phân tích ở trên có thể đưa ra khái
niệm định tội danh như sau: Định tội danh là hoạt động nhận thức, áp dụng
pháp luật hình sự được thực hiện trên cơ sở xác định đầy đủ, chính xác, khách
quan các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội theo đúng nội dung quy phạm
pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tương ứng và xác định sự phù
hợp giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm nhất định với các tình tiết của
hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất định.
1.4.1.2 Cơ sở pháp lý định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
29
hại cho sức khỏe của người khác
Pháp luật hình sự là cơ sở pháp lý của việc định tội danh. Điều 2 Bộ luật
hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định: “Chỉ người nào phạm một tội
đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Luật
hình sự Việt Nam hiện hành không cho phép áp dụng nguyên tắc tương tự trong
lĩnh vực hình sự.
Khi định tội, ngoài việc dựa vào Điều 134 BLHS về cấu thành tội phạm
cơ bản của tội danh cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác, người tiến hành tố tụng còn phải dựa vào những nguyên tắc, điều
kiện đã quy định trong phần chung.
Cấu thành tội phạm là khái niệm pháp lý về hành vi phạm tội, là hệ thống
các dấu hiệu cần và đủ đặc trưng cho từng tội phạm cụ thể được quy định trong
Bộ luật hình sự, là cơ sở pháp lý để định tội. Về mặt khách quan, cấu thành tội
phạm không thể hiện hết các yếu tố của tội phạm mà chỉ thể hiện các dấu hiệu
điển hình, đặc trưng cho việc định tội. Chính vì thế, quá trình định tội cần giải
quyết hai vấn đề: nhận thức đúng đắn các dấu hiệu cấu thành tội phạm và xác
định các tình tiết của hành vi phạm tội được thực hiện nhằm tìm ra sự đồng nhất
giữa các yếu tố luật định và các tình tiết khách quan. Cấu thành tội phạm được
xem là cơ sở pháp lý duy nhất để định tội, là mô hình pháp lý có các dấu hiệu
cần và đủ để xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
1.4.1.3 Ý nghĩa của định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác
- Về mặt chính trị - xã hội
Định tội danh biểu hiện việc thực hiện chính sách Đảng, Nhà nước trong
công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, loại trừ khả năng kết án oan người
vô tội. Định tội danh đảm bảo cho việc làm sáng tỏ một cách khách quan tình
trạng, mức độ khuynh hướng tình hình loại tội phạm cụ thể thuộc từng vùng,
30
lãnh thổ hoặc trên phạm vi toàn quốc
- Về mặt pháp lý
Định tội danh có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở pháp lý cho việc quyết định hình phạt và áp
dụng các biện pháp pháp lý hình sự khác. Định tội danh không chỉ có tác dụng
trong việc quyết định hình phạt một cách công minh, chính xác, đúng pháp luật
mà còn phân hóa trách nhiệm hình sự, cá thể hóa hình phạt, qua đó bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
1.4.2 Quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.4.2.1 Khái niệm, đặc điểm của quyết định hình phạt tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Quyết định hình phạt là việc Toà án lựa chọn một loại và mức hình phạt
cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội. Khi quyết
định hình phạt, Toà án phải tuân thủ các nguyên tắc quyết định hình phạt và
các căn cứ quyết định hình phạt.
Thứ nhất, quyết định hình phạt là hoạt động thực tiễn của Tòa án được
thực hiện sau khi đã định tội danh; Thứ hai, quyết định hình phạt do Tòa án
thực hiện trên cơ sở quy định của BLHS; Thứ ba, nội dung của quyết định hình
phạt có thể là miễn TNHS hoặc có thể là miễn hình phạt hoặc nếu Tòa án quyết
định áp dụng hình phạt thì quyết định hình phạt bao gồm xác định khung hình
phạt (có thể) và hình phạt cụ thể cho bị cáo; Thứ tư, quyết định hình phạt chỉ
áp dụng đối với cá nhân có hành vi phạm tội.
Do đó, có thể định nghĩa “Quyết định hình phạt là hoạt động nhận thức
thực tiễn của Tòa án được thực hiện sau khi đã xác định được tội danh để định
ra biện pháp xử lý tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
31
hành vi bị đã thực hiện”. Trong đó, hoạt động quyết định hình phạt có thể là
miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, xác định khung hình phạt hoặc mức
hình phạt cụ thể đối với người phạm tội trong quy định của pháp luật.
1.4.2.3 Ý nghĩa của quyết định hình phạt tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Quyết định hình phạt có vai trò quan trọng trong hoạt động tố tụng, mọi
hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ chỉ có ý nghĩa nếu Toà án quyết
định hình phạt đúng. Quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp
lý là tiền đề, điều kiện để đạt mục đích hình phạt đó là cải tạo người phạm tội,
công tác giáo dục, phòng ngừa chung tội phạm). Nếu hình phạt quá nặng hoặc
quá nhẹ, không tương xứng với hành vi phạm tội thì sẽ không đảm bảo được
mục đích của hình phạt, nếu hình phạt quá nhẹ thì có thể làm phát sinh thái độ
coi thường pháp luật và tiếp tục phát sinh hành vi phạm tội. Nhưng nếu hình
phạt quá nặng sẽ dẫn đến sự không tin tưởng pháp luật, dẫn đến sự thiếu công
bằng gây ra thái độ bất cần đối với pháp luật. Như vậy, những yếu tố quan trọng
để hình phạt đạt được mục đích trong thực tiễn đó là hoạt động lập pháp và áp
dụng pháp luật. Hai yếu tố này chịu sự ràng buộc lẫn nhau, chỉ bởi vì chỉ trên
cơ sở nhận thức và vận dụng đúng đắn pháp luật cho từng trường hợp phạm tội
cụ thể thì Toà án mới có thể cho ra đời một bản án tuyên hình phạt đúng đắn
và có hiệu quả, khi đó, các yếu tố về mặt lập pháp mới có ý nghĩa thực tiễn.
Tiểu kết Chương I
Trong chương I, luận văn đã hệ thống hóa toàn bộ cơ sở lý luận và pháp
luật tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tập
trung làm rõ những vấn đề cơ bản về khái niệm, dấu hiệu pháp lý, phân biệt
giữa tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và
một số loại tội xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của con người, đề tài còn
tập trung làm rõ vấn đề lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt đối với
32
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Đây là những lý luận quan trọng là tiền đề để tác giả vận dụng là rõ thực
tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác
Chương 2:
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý
GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA
NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát đặc điểm địa lý và tình hình tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Gia Lâm
2.1.1 Đặc điểm địa lý
Gia Lâm - một huyện ngoại thành là vùng đất địa linh nhân kiệt, nằm ở
cửa ngõ phía Đông của thủ đô Hà Nội, nơi giao thương của dòng văn hóa Thăng
Long là Kinh Bắc. Nhân dân Gia Lâm giàu truyền thống yêu nước và cách
mạng với nhiều đức tính tốt đẹp: cần cù, chịu khó, anh hùng, thông minh, sáng
tạo. Từ khi có Đảng lãnh đạo, nhất là sau cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945
33
lịch sử, chính quyền dân chủ nhân dân được thành lập, nhân dân Gia Lâm cùng
thủ đô và đất nước lập thêm bao kỳ tích để xây dựng và bảo vệ quê hương góp
phần làm rạng rỡ truyền thống anh hùng bất khuất của Thủ đô Hà Nội anh hùng
và dân tộc Việt Nam quang vinh.
Huyện Gia Lâm nằm ở phía Đông của Thủ đô Hà Nội. Phía Bắc giáp
quận Long Biên; phía Tây Nam giáp huyện Thanh Trì và quận Hoàng Mai; phía
Đông Bắc và Đông giáp tỉnh Bắc Ninh; phía Nam giáp với tỉnh Hưng Yên.
Huyện Gia Lâm có diện tích 114,79 km2 dân số gần 259.278 người, với
180 thôn, tổ dân phố thuộc 22 xã, thị trấn.
Trong những năm gần đây, huyện Gia Lâm tiếp tục tập trung phát triển
kinh tế; đẩy mạnh huy động các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng theo
hướng đô thị; quan tâm đầu tư phát triển các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế;
hoàn thiện các tiêu chí về phát triển kinh tế - xã hội và hệ thống cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế cũng kéo theo là hàng loạt những vấn đề phức
tạp mới nảy sinh trong xã hội, tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội của
huyện trong thời gian qua có nhiều biến động; tội phạm xảy ra tương đối nhiều
trong đó tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
đang có xu hướng ngày càng nghiêm trọng và diễn biến phức tạp. Một số loại
tội phát sinh nhiều phải kể đến như: tội chống người thi hành công vụ, tổ chức
đánh bạc, tội cố ý gây thương tích, đánh bạc, vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ... chiếm số lượng tương đối lớn trong cơ cấu
tội phạm trên địa bàn.
2.1.2 Tình hình tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Gia Lâm
Theo số liệu thống kê, trên địa bàn huyện Gia Lâm các vụ án về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác luôn chiếm một
tỷ lệ đáng kể trong tổng số các vụ án hình sự và trở thành một vấn đề gây bức
34
xúc trong xã hội.
Theo số liệu thống kê của TAND huyện Gia Lâm trong 06 năm giai đoạn
từ 01/01/2015 đến 31/12/2020. TAND huyện Gia Lâm đã đưa ra xét xử tổng số
1.428 vụ án, 1.994 bị cáo, trong đó các vụ về cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác là 362 vụ án, 521 bị cáo, cụ thể như sau:
Bảng 2.1: So sánh tình hình tội phạm về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác với tình hình tội phạm nói chung
trên địa bàn huyện Gia Lâm giai đoạn từ năm 2015 - 2020
Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn
Tội phạm hình sự Tỷ lệ
hại cho sức khoẻ
của người khác
Năm
Tổng số Tổng số Tổng số Tổng số Tỷ lệ Tỷ lệ
vụ phạm người vụ phạm người phần phần
phạm tội phạm tội trăm trăm tội tội
(1) (3) (4) giữa (1) giữa (3) (2)
và (2) và (4)
215 252 18 15 6,97% 7,14% 2015
291 395 24 19 6,52% 6,07% 2016
245 343 19 12 4,89% 5,53% 2017
225 289 22 18 8% 7,61% 2018
209 330 13 11 5,26% 3,93% 2019
243 385 22 21 8,64% 5,71% 2020
1.428 1.994 118 96 Tổng số
(Nguồn: Văn phòng TAND huyện Gia Lâm).
Trong tổng số 96 vụ án TAND huyện Gia Lâm đã xét xử về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì 100% là vụ án
35
tội cố ý gây thương tích và không có vụ phạm tội cố ý gây tổn hại sức khỏe cho
người khác. Mặc dù chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số tội phạm xảy ra hàng
năm trên địa bàn, nhưng trong quá trình giải quyết các vụ án, cơ quan tiến hành
tố tụng của huyện Gia Lâm luôn đảm bảo việc áp dụng pháp luật từ giai đoạn
tiếp nhận tin báo, điều tra, truy tố đến xét xử một cách chính xác. Từ phân tích
biểu trên, có thể thấy tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác là tội ghép, tuy nhiên thực tiễn trên địa bàn huyện Gia Lâm
trong 06 năm từ năm 2015-2020 chỉ xét xử về tội cố ý gây thương tích mà
không có vụ nào về tội gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Do đó, nên
chăng tách hai tội này thành hai điều luật độc lập để tránh gây nhầm lẫn trong
tội danh trên.
Bảng 2.2: Số liệu, tỷ lệ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khoẻ của người khác bị đình chỉ, tạm đình chỉ từ năm 2015-2020
Tổng số
vụ án Số vụ Số vụ tạm Tỷ lệ số Tỷ lệ số
Năm CQĐT đình chỉ đình chỉ vụ vụ
thụ lý giải (2) (3) (2)/(1) (3)/(1)
quyết (1)
60 7 15 11.7% 25% 2015
65 5 12 7,7% 18% 2016
49 8 9 16,3% 18% 2017
72 4 10 6% 13,9% 2018
63 8 14 12,7% 22% 2019
46 6 11 13% 24% 2020
71 355 38 10,7% 20% Tổng số
(Nguồn: Văn phòng tổng hợp VKSND Huyện Gia Lâm).
Trong giai đoạn 6 năm từ năm 2015 đến năm 2020, Số vụ án chỉ khởi tố
36
vụ án, không khởi tố bị can là 25 vụ vì lý do sau khi thực hiện tội phạm, người
thực hiện đã bỏ trốn vì vậy vụ án bị tạm đình chỉ vì không xác minh được bị
can, số vụ án đình chỉ là 38 vụ, chiếm tỷ lệ 74%.
Qua bảng số liệu có thể thấy tỷ lệ số vụ cố ý gây thương tích xảy ra đã
điều tra khám phá được so với số vụ cố ý gây thương tích xét xử hàng năm là
cao khoảng 85%, nhưng tỷ lệ các vụ cố ý gây thương tích đưa ra xét xử so với
hành vi cố ý gây thương tích xảy ra trên thực tế thì vẫn rất thấp và so với tổng
số đã khởi tố thì vẫn còn một tỷ lệ nhất định không thể truy tố, xét xử do bị
đình chỉ, tạm đình chỉ. Có thể thấy trong loại tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tỷ lệ án đình chỉ, tạm đình chỉ luôn
chiếm phần trăm lớn so với các loại tội khác. Điều này xuất phát từ chính đặc
thù của loại tội này, theo Điều 155 BLTTHS thì đây là loại tội có thể khởi tố
theo yêu cầu của bị hại nếu thuộc khoản 1 Điều 134 BLHS. Chính vì đặc thù
này, nên trong nhiều vụ án, người bị hại sử dụng quyền của mình để rút yêu
cầu khởi tố trong quá trình giải quyết vụ án nên phải đình chỉ vụ án. Bên cạnh
đó, các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác thường đông đối tượng gây án và mang tính phức tạp nên khi khởi tố vụ
án thì người thực hiện hành vi phạm tội đã bỏ trốn nên án tạm đình chỉ cũng
chiếm tỷ lệ phần trăm lớn.
2.2. Thực tiễn định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong hoạt động xét xử trên địa bàn huyện
Gia Lâm
2.2.1 Thực tiễn định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Gia Lâm theo cấu thành tội
phạm cơ bản
+ Trường hợp không phạm tội
Từ thực tiễn xét xử đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
37
sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Gia Lâm, có thể nhận thấy về cơ
bản các các cơ quan tiến hành tố tụng huyện Gia Lâm đã có sự thống nhất và
nhất trí cao trong nhận thức và áp dụng pháp luật. Thực tế cho thấy TAND
huyện Gia Lâm đã áp dụng đúng các quy định của pháp luật trong việc xác định
cấu thành tội phạm và xác định đúng tội danh, mặc dù hiện nay vẫn còn một số
quy định của BLHS chưa rõ ràng và có tính thống nhất cao, dẫn đến việc áp
dụng trên thực tế không đảm bảo được sự nghiêm minh của pháp luật đối với
những hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc hình phạt áp dụng chưa đảm bảo tính
răn đe cho người phạm tội.
Ví dụ: Vụ cố ý gây thương tích xảy ra tại xã Trung Mầu, huyện Gia Lâm:
Nghi ngờ chị Lê Thị Lại có thai với chồng của mình do quan hệ bất chính nên
khoảng 23 giờ ngày 25/3/2017, Trà Thị Hằng đã đến gặp chị Lại để hỏi sự việc,
dẫn đến hai bên cãi nhau và xảy ra va chạm. Trong lúc xô xát, Hằng đã dùng
tay, chân đấm, đạp vào bụng chị Lại, gây hậu quả làm cho chị Lại bị xảy thai,
cơ quan điều tra huyện Gia Lâm đã trưng cầu giám định mức độ tổn hại sức
khỏe của chị Lại.
Kết quả giám định: Chị Lại bị tổn hại 0% sức khỏe, xảy thai 8 tuần tuổi,
đối với hậu quả này thì hiện chưa có văn bản hướng dẫn nên không đủ yếu tố
cấu thành tội phạm đối với hành vi của Trà Thị Hằng. Như vậy, đối với vụ việc
này hành vi của Hằng không phạm tội cố ý gây thương tích mà chỉ bị xử phạt
vi phạm hành chính và chịu trách nhiệm bồi thường chi phí nằm viện điều trị
cho chị Lại.
+ Dùng hung khí nguy hiểm
Thực tiễn xét xử trên địa bàn huyện Gia Lâm từ năm 2015 đến năm 2020
tại TAND huyện Gia Lâm cho thấy rằng các trường hợp người phạm tội dùng
hung khí nguy hiểm trong thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác chiếm tỷ lệ lớn và khá phổ biến. Người phạm
38
tội thường sử dụng hung khí như gạch, đá, gậy, tuýp sắt, dao.. Khi TAND áp
dụng tình tiết này để xét xử thì bên cạnh việc căn cứ vào quy định của BLHS
thì còn áp dụng hướng dẫn của các Nghị quyết HĐTP Tòa án nhân dân tối cao.
Hiện BLHS chưa quy định cụ thể mức tối thiểu đối với tỷ lệ thương tật hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là bao nhiêu phần trăm thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự. Do đó, khi áp dụng tình tiết này sẽ được hiểu là nếu tỷ lệ
thương tích là 1% đến dưới 11% thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Thực
tế trên địa bàn huyện Gia Lâm trong 5 năm có 19 trường hợp bị truy tố khi tỷ
lệ thương tích dưới 11%, trong đó: 02 trường hợp bị truy tố với tỷ lệ thương
tích 1%, 02 trường hợp tỷ lệ thương tích là 4%.
Đối với các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp này, mặc dù tỷ lệ gây
thương tích thấp nhưng hành vi, ý thức, hung khí mà người phạm tội sử dụng
là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự của
địa phương và có đơn yêu cầu khởi tố của bị hại.
Ví dụ: Do có mâu thuẫn về tranh chấp đất đai giữa gia đình ông Phạm
Tiến Chiến- Sinh 1970 và ông Phạm Tiến Hùng- Sinh 1967 cùng trú tại thôn 9,
Đình Xuyên, Gia Lâm, Hà Nội (là hai anh em ruột). Hồi 22 giờ 30 phút ngày
29/4/2019, ông Chiến mặc quần áo mưa ra vườn đang cúi người để nhốt gà vào
chuồng thì bị Phạm Tiến Công (là con của ông Hùng) dùng một chiếc đĩa hình
hoa có đường kính khoảng 20cm, do chiếc bát đã bị sứt một góc nên có một
đoạn sắc nhọn dài khoảng 3cm ném vào chân ông Chiến rồi Công đi về nhà.
Do bức xúc nên ông Chiến về nhà lấy 2 con dao (một con dao bầu và một con
dao phay) sang nhà ông Hùng để tìm đánh Công. Khi vào trong nhà, ông Chiến
gặp ông Hùng ở gần cửa. Ông Hùng thấy Chiến vào nhà 02 tay mỗi tay cầm 01
con dao thì ông Hùng ngăn cản lại, ông Chiến đã ôm người ông Hùng từ phía
sau lưng, ông Hùng dùng hai tay giữ hai tay ông Chiến lại. Sau đó ông Chiến
39
bị đau vết thương ở chân và bị ông Hùng giữ tay không làm gì được nên ông
Chiến cố cựa ra rồi ông Chiến đi về nhà và sau đó đi khám điều trị vết thương
tại Bệnh viện đa khoa Đức Giang.
Tại bản kết luận giám định thương tích: “Sẹo vết thương phần mềm vùng
bàn chân trái: 02%. Nhiều khả năng thương tích do vật có cạnh sắc gây nên. Tỷ
lệ tổn hại sức khỏe: 02%”.
Phạm Tiến Công bị truy tố về tội: “Cố ý gây thương tích” theo điểm a
khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Áp
dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật
hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt: Bị cáo Phạm Tiến Công
từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến
18 tháng.[46]
Đối với trường hợp này, mặc dù Phạm Tiến Công khai chỉ sử dụng chiếc
đĩa ném xuống đất với do bực tức ông Hùng chứ không nhằm mục đích gây
thương tích cho ông Hùng nhưng không may lại sượt qua chân ông Hùng thể
hiện ở việc vị trí bị gây thương tích không có tính nguy hiểm đối với sức khỏe
của nạn nhân. Trường hợp này, cơ quan CSĐT đã tiến hành họp liên ngành với
VKSND huyện Gia Lâm để xác định chiếc đĩa hoa bị sứt có phải là “hung khí
nguy hiểm” hay không?
Nếu đây là một chiếc đĩa thông thường thì trong trường hợp này kết hợp
với vị trí bị thương tích của nạn nhân có thể xác định đây không phải là hung
khí nguy hiểm. Tuy nhiên, do chiếc đĩa này bị đã bị vỡ tạo ra một góc sắc nhọn
nên trường hợp này cơ quan tiến hành tố tụng xác định chiếc đĩa hoa là hung
khí nguy hiểm, do đó việc định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức
khỏe cho người khác là đúng quy định của pháp luật.
+ Trường hợp phạm tội có tính chất côn đồ
Để áp dụng tình tiết này, Tòa án thường căn cứ vào khách thể bị xâm hại,
40
chủ thể, mặt khách quan và lỗi của người phạm tội, tỷ lệ thương tích là dưới
11% nhưng bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội mang tính hung hãn, coi
thường tính mạng, sức khỏe của người khác vì những lý do nhỏ nhặt hoặc không
có lý do.
Ví dụ: Khoảng 09 giờ ngày 21/5/2018, con của Dũng là cháu Tuấn đi học
về kể bị người cùng phố đánh, Dũng liền mang dao theo người đi tìm người
đánh là Bình, nhưng khi đến nhà Bình chỉ thấy bố Bình là ông Bỉnh ở nhà nên
Dũng đã dùng dao đâm vào bụng trái ông Bỉnh, sau đó Dũng bỏ chạy. Tại bản
kết luận giám định thương tích: Tỷ lệ tổn thương của ông Bỉnh là 10%. Tòa án
nhân dân huyện Gia Lâm đã xác định hành vi của bị cáo Hà có tính côn đồ nên
áp dụng điểm i, Khoản 1, Điều 134 BLHS xử phạt bị cáo 15 tháng tù giam.[44]
+ Trường hợp đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công
vụ của nạn nhân
Trong một số trường hợp nhất định, việc định tội danh không hề đơn giản
vì BLHS quy định nhiều loại tội phạm có hành vi khách quan tương tự với tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nên trên
thực tế xảy ra rất nhiều vụ án có mặt khách quan vừa giống các dấu hiệu pháp
lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
vừa giống dấu hiệu pháp lý của một số tội khác, nên đã gây không ít khó khăn
trong quá trình định tội danh đặc biệt là trong trường hợp phân biệt giữa hành
vi phạm tội này với hành vi phạm tội của tội khác trong trường hợp có tình tiết
định khung tăng nặng hình phạt. Trong những trường hợp này chúng ta cần
xem xét khách quan, toàn diện toàn bộ tình tiết của vụ án từ đó mới có thể đảm
bảo định tội danh một cách chính xác. Trường hợp cụ thể ở đây là phân biệt
hành vi phạm tội chống người thi hành công vụ tại Điều 330 BLHS và hành vi
phạm tội cố ý gây thương tích tại điểm k, khoản 1, Điều 134 BLHS. Hai tội
danh này có điểm giống nhau về chủ thể và hành vi phạm tội thể hiện ra bên
41
ngoài đó là người phạm tội sử dụng vũ lực để chống đối hoặc cản trở người thi
hành công vụ. Do đó để phân biệt sự khác nhau trong trường hợp cụ thể ở chỗ
người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội đã gây ra hậu quả là thương tích
hoặc tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân hay chưa. Vì theo điểm k, khoản 1,
Điều 134 BLHS 2015 dấu hiệu cấu thành tội phạm bao gồm hành vi sử dụng
vũ lực để chống đối hay cản trở người đang thi hành công vụ và hậu quả gây ra
làm người thi hành công vụ bị thương tích. Còn đối với quy định tại Điều 330
BLHS thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu người đó có hành
vi sử dụng vũ lực nhưng chưa gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người thi hành công vụ. Như vậy nếu hành vi chống người đang thi hành
công vụ gây chết người thì người phạm tội bị truy tố tội giết người trong trường
hợp giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân, nếu
gây thương tích thì người phạm tội bị truy cứu TNHS về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hạn cho sức khỏe của người khác để cản trở người đang thi
hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân theo điểm k, khoản 1, Điều
134 BLHS
Ví dụ: Thực hiện Kế hoạch tuần tra bảo vệ dân phòng trên địa bàn thị
trấn Yên Viên, huyện Gia Lâm, Công an thị trấn Yên Viên đã giao nhiệm vụ
cho tổ bảo vệ gồm các ông: Ngô Văn Bình, Nguyễn Xuân Đài, Lê Văn Tâm và
Dương Văn Dạn, trong đó ông Ngô Văn Bình là Tổ trưởng thực hiện tuần tra
trên tuyến đường Phan Đăng Lưu thị trấn Yên Viên theo lịch phân công.
Khoảng 22 giờ ngày 24/12/2019, khi tổ bảo vệ đang thực hiện tuần tra thì phát
hiện tại số 230, đường Phan Đăng Lưu có xảy ra va chạm, đánh nhau. Nguyên
nhân là trong quá trình đi hát Karaoke tại quán hát số 230, đường Phan Đăng
Lưu, Nguyễn Tiến Mạnh, Lê Trung Hiếu, Nguyễn Tiến Dũng có xảy ra tranh
chấp mâu thuẫn do thanh toán tiền với nhân viên Lê Tiến Hùng, Hoàng Mạnh
Hà và Nguyễn Thị Hương. Tổ bảo vệ đã tiến hành can ngăn, trong quá trình
42
can ngăn, ông Đài – tổ bảo vệ đã túm áo Mạnh để kéo Mạnh ra. Do bực tức,
Nguyễn Tiến Mạnh đã dùng một ống tuýp sắt dài khoảng 95cm, bán kính 03
cm vụt 02 lần vào tay phải và lưng ông Nguyễn Xuân Đài - bảo vệ dân phòng.
Lúc này, ông Đài mặc đồng phục của tổ bảo vệ dân phòng theo quy định. Tại
bản kết luận giám định thương tích: Tỷ lệ tổn thương của ông Đài là 3%. Trong
trường hợp này, cần phải xác định Nguyễn Tiến Mạnh phạm tội chống người
thi hành công vụ theo Điều 330 BLHS hay tội cố ý gây thương tích trong trường
hợp để cản trở người thi hành công vụ theo quy định tại điểm k, khoản 1, Điều
134 BLHS. Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm đã truy tố và TAND huyện
Gia Lâm đã xét xử Nguyễn Tiến Mạnh phạm tội cố ý gây thương tích trong
trường hợp để cản trở người thi hành công vụ. Có thể thấy, TAND huyện Gia
Lâm đã xét xử Nguyễn Tiến Mạnh theo điểm k, khoản 1, Điều 134 BLHS là
đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Vì khi bị can ngăn, Nguyễn
Tiến Mạnh đã gây thương tích cho ông Đài với tỷ lệ thương tích là 3%, do đó
phải truy tố Mạnh về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hạn cho sức khỏe
của người khác để cản trở người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ
của nạn nhân theo điểm k, khoản 1, Điều 134 BLHS. [47]
2.2.2 Thực tiễn định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Gia Lâm theo cấu thành tội
phạm tăng nặng
Định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng quy định tại Khoản 2,
Khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự vẫn theo các yếu tố cấu thành tội phạm của
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chỉ khác
về hậu quả thuộc mặt khách quan của tội phạm đó là mức độ hậu quả xảy ra
hay nói một cách cụ thể thì đó là tỷ lệ thương tật do hành vi phạm tội gây ra.
Áp dụng khoản 2, Điều 134 BLHS nếu hậu quả do hành vi gây ra đối với nạn
nhân có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60 % hoặc từ 11% đến 30% nhưng thuộc
43
một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k, khoản 1, Điều 134
BLHS. Áp dụng khoản 3, Điều 134 BLHS nếu mức độ hậu quả xảy ra cho
người khác có thương tật từ 61% trở lên hoặc từ 31% đến 60% nhưng thuộc
một trong các trường hợp quy định tại từ điểm a đến điểm k, Khoản 1, Điều
134 BLHS.
Trong 5 năm từ năm 2015 đến năm 2020, TAND huyện Gia Lâm đã xét
xử 38 vụ án cố ý gây thương tích theo Khoản 2, Điều 134 BLHS và 5 vụ cố ý
gây thương tích theo Khoản 3, Điều 134 BLHS trên tổng số 96 vụ đã xét xử về
tội danh này. Hầu hết các vụ án đã được xét xử đều vận dụng đúng các quy định
của pháp luật nên các bản án đã tuyên đều có cơ sở, công minh, chính xác.
Ví dụ: Khoảng 21 giờ ngày 06/09/2018, Ngọc Anh cùng Chiến, Hoàng,
Hà, Tuấn Anh ngồi uống bia tại quán bia hơi. Nhận thấy Chiến đã say nên Ngọc
Anh định đứng dậy đưa Chiến về. Do đó, giữa Ngọc Anh và Hoàng đã có xảy
ra lời qua tiếng lại. Hoàng túm cổ áo Ngọc Anh và đấm vào mặt của Ngọc Anh.
Sau đó, Ngọc Anh bực tức đi về và lấy 01 con dao nhọn dài khoảng 40cm quay
lại quán với mục đích để trả thù Hoàng. Ra đến quán, Ngọc Anh lao vào chém
nhiều nhát về phía Hoàng trúng vào phía tay phải, cẳng chân phải của Hoàng.
Thấy vậy, Tuấn Anh đã giằng dao của Ngọc Anh nhưng bị Ngọc Anh kéo dao
lại nên bị cứa vào phần cẳng tay gần cổ tay phải của Tuấn Anh. Hà cũng vào
can Ngọc Anh và cũng bị thương.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích kết luận mức độ tổn
hại sức khỏe của Hoàng là 22%, của Tuấn Anh là 14%, của Hà là 16%.[45]
Đối với vụ án này, TAND huyện Gia Lâm đã định tội và xét xử bị cáo
theo điểm b, Khoản 2, Điều 134 BLHS là đúng quy định. Vì trường hợp này áp
dụng tình tiết phạm tội Gây thương tích cho sức khỏe của 02 người trở lên mà
44
tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%.
2.2.3 Thực tiễn định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Gia Lâm trong trường hợp
đồng phạm
Khoa học luật hình sự Việt Nam căn cứ vào những đặc điểm của mối
quan hệ giữa những người đồng phạm về mặt chủ quan và khách quan để phân
loại các hình thức đồng phạm. Căn cứ vào dấu hiệu khách quan, hình thức đồng
phạm được chia thành hai loại: đồng phạm giản đơn và đồng phạm phức tạp.
Đồng phạm giản đơn được hiệu là tất cả những người cùng thực hiện trong vụ
án đều là người thực hiện. Đồng phạm có tổ chức là hình thức đồng phạm mà
trong đó có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.
Thực tiễn nghiên cứu tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn huyện Gia Lâm nhận thấy rằng chủ yếu các
vụ án có đồng phạm là đồng phạm giản đơn do nhiều bị cáo cùng cố ý thực hiện
tội phạm.
Đối với các vụ án cố ý gây thương tích là đồng phạm giản đơn thì việc
xác định tội danh và hình phạt rất đơn giản, không có nhiều khó khăn, vướng
mắc.
Ví dụ: Khoảng 04 giờ ngày 26/5/2018, anh Phùng Thái Học cùng Đỗ Văn
Huy; Nguyễn Văn Dương; Nguyễn Văn Tùng; Nguyễn Thanh Bình; Nguyễn
Mạnh Hùng; Nguyễn Đình Hưng; Phan Văn Khang; Trần Văn Vĩ (đều là công
nhân của Công ty Hùng Cường, chuyên sửa chữa cửa cuốn) đi dán tờ quảng
cáo sửa chữa cửa cuốn trên địa bàn Ninh Hiệp thì xảy ra mâu thuẫn với một
nhóm đối tượng cũng đi dán tờ quảng cáo sửa chữa cửa cuốn gồm: Phan Văn
Quyền; Nguyễn Thế Hạnh; Nguyễn Hoàng Hải, cùng một số đối tượng (không
rõ nhân thân). Đến khoảng 05 giờ 30 phút cùng ngày 26/5/2018, Phan Văn
Quyền gọi điện thoại cho Phạm Ngọc Dương bảo Dương gọi xe ô tô hộ cho
45
Quyền để chở đồ đi làm, Dương gọi điện cho Cam Văn Giang. Nhận được điện
thoại, Giang điều khiển xe ô tô tải, nhãn hiệu KIA màu xanh đến đón Dương,
Dương lên xe và ngồi trên cabin. Khi đi đến đường Ngô Gia Tự, Long Biên,
Dương bảo Giang đỗ xe đón 02 nam thanh niên (không rõ nhân thân), 02 người
này có đưa nhiều tuýp sắt lên thùng xe ô tô của Giang sau đó 02 nam thanh niên
ngồi ở thùng xe ô tô của Giang. Đến khoảng 06 giờ cùng ngày 26/5/2018, khi
Giang đi xe ô tô thì nhìn thấy Quyền, Hạnh, Hải đang ngồi trên vỉa hè, Dương
bảo Giang đỗ xe lại, lúc này nhóm của anh Học cũng đi đến khu vực đó, gồm
anh Đỗ Văn Huy, Nguyễn Văn Dương và Nguyễn Văn Tùng; còn anh Nguyễn
Thanh Bình là người điều khiển xe ô tô loại CX5 chở Nguyễn Mạnh Hùng,
Nguyễn Đình Hưng; Phan Văn Khang cùng đỗ xe hướng về Cầu Đuống để chờ
anh Trần Văn Vỹ cùng Nguyễn Thái Học. Khi anh Học đi bộ đến gần xe ô tô
của anh Bình thì Quyền cùng một số thanh niên (không rõ nhân thân) chạy ra
phía sau thùng xe ô tô tải của Giang, Quyền nhảy lên thùng xe vứt các tuýp sắt
xuống đường để Hải cùng một số đối tượng mỗi người cầm một chiếc tuýp sắt
dài khoảng 1m có đầu nhọn, riêng Hạnh 2 tay mỗi tay cầm 1 chiếc tuýp sắt rồi
Hải, Quyền, Hạnh cùng các đối tượng lao vào đuổi, đánh anh Học làm anh Học
bị thương tích. Khi thấy anh Học nằm ngã xuống đường thì Giang bảo Dương
xuống can ngăn nên các đối tượng không đánh anh Học nữa. Sau đó nhóm của
Quyền cho những tuýp sắt lên thùng xe ô tô của Giang rồi Giang đi xe ô tô chở
Dương cùng 03 nam thanh niên đi về. Khi về đến gần nhà Dương thì Dương
xuống xe cùng 03 nam thanh niên và đưa những tuýp sắt ở thùng xe xuống rồi
mang đi. Anh Học bị thương tích được mọi người đưa đi bệnh viện Đa Khoa
Đức Giang để điều trị.
Tại bản kết luận giám định pháp y thể hiện thương tích anh Phùng Thái
Học bị tổn thương cơ thể là 18% (tính theo phương pháp cộng lùi). Khi xét xử,
Toà án nhận định hành vi dùng tuýp sắt gây thương tích cho anh Học của các
46
bị cáo thuộc trường hợp dùng hung khí nguy hiểm. Đây là một vụ án hình sự
mặc dù các đồng phạm đã có sự chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội nhưng
không có sự câu kết chặt chẽ, mang tính chất đồng phạm giản đơn. Do đó, áp
dụng điểm đ, khoản 2, Điều 134; điểm s, khoản 1 và khoản 2 (đối với bị cáo
Hải) Điều 51; Điều 38; Điều 17, Điều 58, khoản 2 Điều 54 (đối với bị cáo Hạnh)
Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Hải 24 tháng tù, bị cáo Nguyễn
Thế Hạnh 18 tháng tù là đúng quy định của pháp luật. Đối với Quyền và các
các đối tượng liên quan hiện chưa xác định được nên chưa có căn cứ để giải
quyết.
Việc xác định đồng phạm có ý nghĩa và tầm quan trọng rất lớn cả về lý
luận và thực tiễn trong xử lý tội phạm, trong nhiều trường hợp, việc xác định
đồng phạm có ý nghĩa trong việc xác định có hay không hành vi phạm tội, nó
có ý nghĩa và tầm quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong xử lý tội phạm.
Vụ án cụ thể sau đây là một ví dụ:
Vào khoảng 16 giờ ngày 22/3/2016. Đức đang ngồi uống nước tại quán
nhà bà Xuân, nhìn thấy Kiên và Trung đang đuổi đánh nhau, trong đó, Kiên là
bạn rất thân của Đức. Thấy vậy, Đức đã cầm một đoạn gậy chắc dài khoảng 1m
lao ra cùng Kiên đánh Trung. Thấy Đức lao vào Kiên đã gật đầu tán thành. Hậu
quả Trung bị thương tích 33%. Thương tích do Đức dùng gậy đánh Trung là
30%, Kiên đánh Trung bằng tay gây thương tích 3%.[42]
Đối với vụ án này có quan điểm cho rằng: Khi đánh Trung, Kiên chỉ
dùng tay không đánh, còn Đức đã dùng gậy đánh; bên cạnh đó lý do Kiên đánh
Trung là do Trung đã có những hành vi xúc phạm nghiêm trọng đến Kiên và
sự tấn công này của Kiên được xác định là trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh. Kiên phạm tội Cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần kích
động mạnh được quy định tại Điều 106 BLHS, Đức phạm tội Cố ý gây thương
tích tại Điều 104 BLHS. Do đó theo quy định tại Điều 20 BLHS thì Đức và
47
Kiên không đồng phạm vì không bị xử lý cùng một tội danh, nếu không đồng
phạm thì phải tách thương tích và xử lý từng đối tượng trên cơ sở hậu quả gây
ra của mỗi người theo nguyên tắc cá thể hoá trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên có quan điểm cho rằng phải xác định Kiên và Đức là đồng
phạm trong tội cố ý gây thương tích. Vì mặc dù hai đối tượng Kiên và Đức
trước đó không có sự bàn bạc với nhau về việc đánh Trung, nhưng khi Đức lao
vào hỗ trợ, thì Kiên đã gật đầu đồng ý, tức là giữa hai người đã tiếp nhận ý chí,
mục đích của nhau để cùng thực hiện hành vi đánh Trung, do đó Đức và Kiên
phải là đồng phạm. Quá trình đánh Trung, Kiên dùng tay không đánh còn Đức
dùng gậy đánh, nhưng Kiên biết Đức khi vào đánh Trung có dùng gậy và đã
chấp nhận việc Đức giúp sức cho mình, nên cả hai đối tượng đều phải chịu tình
tiết là “dùng hung khí nguy hiểm”. Giữa Đức và Kiên có dấu hiệu của đồng
phạm nên không thể tách thương tích của bị hại để xử lý riêng từng đối tượng
được, mà cả hai đều phải chịu chung hậu quả do chúng cùng gây ra đối với
Trung là 33%. Khi cá thể hoá trách nhiệm hình sự, Kiên có yếu tố phạm tội
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm
trọng của Trung gây ra, thì Kiên được hưởng tình tiết này, Đức không có nên
không được hưởng. Mỗi đối tượng tuy bị xử lý ở những điều luật khác nhau,
nhưng phải xác định là có đồng phạm mới chính xác.
TAND huyện Gia Lâm đã xét xử Đức và Trung theo Khoản 2, Điều 104
BLHS và Điều 55 BLHS là phù hợp với nguyên tắc đồng phạm. Bởi mặc dù
Đức và Trung tuy chưa có sự bàn bạc, thống nhất nhưng người phạm tội đã
mong muốn và tiếp nhận ý chí, mục đích của nhau thì đó vẫn được coi là đồng
phạm. Vấn đề có cần phải cùng một tội danh không nên đặt ra, chỉ cần cùng
hành vi phạm tội và cùng mong muốn hậu quả chung xảy ra tức là cố ý cùng
48
thực hiện tội phạm là đã thoả mãn yếu tố đồng phạm.
2.3 Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích
trên địa bàn huyện Gia Lâm
Bảng 2.3 Tình hình quyết định hình phạt của Tòa án từ năm 2015
đến năm 2020
Năm Cải tạo không Tù cho Từ 03 năm Từ 03 - 07 Từ 07 - 15
giam giữ hưởng án trở xuống năm năm
treo
Bị cáo Tỷ lệ Bị cáo Tỷ lệ Bị cáo Tỷ lệ Bị cáo Tỷ lệ Bị cáo Tỷ lệ
% % % % %
0 0 7/18 39% 7/18 39% 4/18 22% 0 0 2015
0 0 3/24 13% 9/24 38% 11/24 46% 1/24 4 2016
0 0 6/19 32% 11/19 58% 2/19 11% 0 0 2017
5 2/22 9% 5/22 45% 8/22 36% 6/22 27% 1/22 2018
0 0 0 0 2/13 15% 7/13 54% 4/13 31% 2019
0 0 1/22 5% 7/22 32% 11/22 50% 4/22 18% 2020
Tổng 3/118 2.6% 30/118 25% 53/118 45% 31/118 26% 2/118 2%
Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm
Qua so sánh số liệu trên bảng thống kê, giai đoạn từ năm 2017 đến năm
2020 TAND huyện Gia Lâm đã xét xử và quyết định hình phạt đối với 118 bị
cáo, trong đó hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt mà tòa án áp dụng
ít nhất (chiếm tỷ lệ 2,6%), hình phạt tù có thời hạn tù từ 03 năm trở xuống được
áp dụng nhiều nhất (chiếm tỷ lệ 45%), hình phạt tù có thời hạn từ từ 7 đến 15
năm chiếm tỷ lệ ít nhất trong biểu so sánh việc áp dụng hình phạt (tỷ lệ 2%).
Số liệu tổng hợp này phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, phù
hợp với tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
49
người khác, đa số các vụ án khi đưa ra mức xử phạt cho các bị cáo đều được
các bị cáo chấp nhận; người bị hại hài lòng và đông đảo dư luận người dân đồng
tình ủng hộ.
2.3.1 Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Gia Lâm theo cấu
thành tội phạm cơ bản
Khi áp dụng khung hình phạt tại Khoản 1 Điều 134 BLHS, Tòa án căn
cứ vào các quy định của BLHS, tức là phải căn cứ vào các quy định ở cả phần
chung và phần quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác quy định tại Điều 134 BLHS, Tòa án áp dụng khung hình
phạt này khi hành vi phạm tội gây thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11%
nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định từ tại Khoản 1, Điều 134
BLHS.
Ví dụ: Ngày 26/02/2017, Huy cùng Tuấn và Lâm đến ăn cơm tại nhà anh
Nguyễn Đức Tân ở thôn Trùng Quán, xã Yên Thường, huyện Gia Lâm. Trong
lúc ăn cơm, Huy và Lâm xảy ra mâu thuẫn, Lâm thách thức đánh nhau với Huy
nhưng Huy không nói gì. Sau đó, Lâm đi về và gọi thêm Vinh quay lại nhà anh
Tân, Tuấn đi ra cửa và nói:“chúng mày làm sao”, Lâm nói “để đánh nhau chứ
làm sao”, sau đó Tuấn chạy tới vị trí Lâm đang đứng, dùng tay phải đấm vào
vùng đầu và mặt của anh Lâm, anh Lâm cũng lao vào đánh trả lại Tuấn thì được
anh Vinh vào can ngăn kéo Tuấn ra chỗ khác. Cùng lúc đó Huy vào trong nhà
của anh Tân rồi lấy 01 con dao nhọn gọt hoa quả. Khi Tuấn dùng chân đạp
Lâm, Lâm ngã ra, Huy lao vào, cầm dao đâm 01 nhát vào vùng thắt lưng bên
trái của anh Lâm. Thấy vậy, Vinh lao vào đạp Huy ra làm Huy bị ngã nên Vinh
giằng được con dao trên tay phải của Huy. Tuấn vẫn tiếp tục tấn công Lâm song
được mọi người can ngăn, nên Tuấn không tấn công được Lâm nữa. Sau đó,
anh Lâm được mọi người đưa đi cấp cứu còn Huy và Tuấn đi về nhà. Tại thời
50
điểm gây án, Huy chưa đủ tuổi thành niên do sinh ngày 12/5/2002.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích kết luận mức độ tổn
hại sức khỏe của anh Nguyễn Văn Lâm tại thời điểm giám định là: 12%.
Bản án hình sự sơ thẩm ngày 22/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Gia
Lâm đã tuyên xử bị cáo Nguyễn Văn Huy phạm tội cố ý gây thương tích. Xử
phạt Nguyễn Văn Huy 15 tháng tù. Xử phạt Nguyễn Văn Tuấn 24 tháng tù.[43]
Ngày 25/9/2017, bị cáo Nguyễn Văn Huy kháng cáo xin được hưởng án
treo. Đối với vụ án này, việc Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Huy là có phần
hơi nặng vì bị cáo khi phạm tội là người chưa thành niên nên nhận thức vẫn
còn hạn chế, gia đình bị cáo đã bồi thường đầy đủ cho người bị hại và có đơn
xin giảm nhẹ hình phạt của bị hại nên yêu cầu kháng cáo đề nghị xử phúc thẩm
cho bị cáo Huy được hưởng án treo là phù hợp, thể hiện được sự khoan hồng
của pháp luật.
Từ nội dung vụ án trên cho thấy, việc quyết định hình phạt trong bất kỳ
một loại tội nào ngoài việc đánh giá đúng hành vi phạm tội, hậu quả của hành
vi, mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi thì những yếu tố như độ tuổi,
nhân thân người phạm tội, điều kiện phạm tội, phương tiện, thủ đoạn phạm
tội… cũng cần phải được cân nhắc một cách toàn diện, khách quan để có thể
quyết định hình phạt một cách chính xác, đảm bảo được mục đích của hình
phạt.
2.3.2 Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Gia Lâm theo cấu
thành tội phạm tăng nặng
Thực tiễn xét xử tại TAND huyện Gia Lâm đối với tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cho thấy phần lớn nạn nhân
có tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên chiếm 56% tổng số nạn nhân (55/99), trong
51
đó tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% chiếm tỷ lệ 41,6% (40/99); tỷ lệ thương tật
từ 21% đến 60% chiếm 12,9% (13/99), tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên chiếm tỷ
lệ 1% (1/99). Còn lại 39,6% nạn nhân với tỷ lệ thương tật dưới 11%
Khi nghiên cứu cơ cấu theo loại tội phạm cho kết quả số bị cáo bị xét xử
về tội phạm này thuộc loại tội nghiêm trọng chiếm tỷ lệ đa số 40% và liền kề
là loại tội ít nghiêm trọng chiếm tỷ lệ 31% tổng số người phạm tội. Con số này
có thể cho thấy chỉ có một số ít các bị cáo bị xét xử theo khoản 2 Điều 134
BLHS là do mức độ hậu quả (tỷ lệ thương tật của nạn nhân) gây ra từ 31% -
60%, còn đa số là mức độ hậu quả gây ra từ 11% đến 30% và có thêm tình tiết
định khung tăng nặng tại khoản 1 Điều 134 BLHS trong đó đặc biệt là điểm a,
khoản 1, Điều 134, điểm đ, khoản 1, Điều 134 BLHS.
Tuy chiếm tỷ lệ không nhiều nhưng trong thực tiễn quyết định hình phạt
tại TAND huyện Gia Lâm vẫn còn tồn tại những sai sót, vi phạm, mà nguyên
nhân của chúng không phải trong việc lựa chọn hình phạt mà chủ yếu là trong
việc vận dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ dẫn đến quyết định hình phạt
quá nhẹ hoặc quá nặng và đặc biệt khi có cả tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ
2.3.3 Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Gia Lâm trong
trường hợp đồng phạm
Ví dụ: Khoảng 18 giờ ngày 27/3/2015, khi ngồi tại quán trà đá vỉa hè
đường Cổ Bi, tại đây Khải gặp Dương, Khải hỏi Dương “bao giờ mày trả tiền
tao”, Dương trả lời “Giờ chưa có, bao giờ có khắc trả, không phải đòi nhiều”,
Khải bực tức nói “tối nay mày mà không đem tiền sang nhà tao trả thì đừng
trách tao”. Dương đi về và gọi điện cho Hùng và Thanh là bạn. Cả 03 cùng bàn
bạc kế hoạch để trả thù Khải. Tuy nhiên sau đó Thanh lại lấy lí do là có việc
bận nên không tham gia được nhưng Dương đã thuyết phục Thanh và nói “chỉ
cần chở bọn tao đi thôi, không cần làm gì”, nể bạn Thanh lấy xe máy chở Dương
52
và Hùng đến đầu ngõ nhà Khải thì thấy Khải đang đi bộ về, Thanh lái xe áp sát
Khải, Dương và Hùng nhảy xuống xe, cả 02 lao vào đấm đá Khải, sau đó Dương
rút con dao nhỏ giấu ở trong người chém Tùng 02 phát rồi chạy lên xe Thanh
chở về. Khải được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện, tỷ lệ thương tích: 15%. VKSND
đã truy tố Dương, Hùng, Thanh theo Khoản 2, Điều 104BLHS, HĐXX đã tuyên
bản án sơ thẩm xử phạt Dương 4 năm tù, Hùng 3 năm tù, Thanh 2 năm tù. Đối
với vụ việc đồng phạm này, tác giả cho rằng việc truy tố 03 bị cáo theo Khoản
2 Điều 104 BLHS là phù hợp với hành vi phạm tội gây ra của các bị cáo. [41]
2.4 Đánh giá chung
2.4.1 Ưu điểm
Qua những số liệu thống kê và những ví dụ về những trường hợp vụ việc
thực tế, có thể thấy giải đoạn 2015-2020, TAND huyện Gia Lâm đã xét xử tổng
số 96 vụ án, với 118 bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác, trong đó 100% là bị truy tố về hành vi cố ý gây thương
tích cho sức khỏe của người khác. Nhìn chung, hoạt động xét xử cuả TAND
huyện Gia Lâm trong những năm qua luôn bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị,
quán triệt và vận dụng sát, đúng quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước
và các hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về công tác xét xử.
TAND huyện Gia Lâm luôn thực hiện đúng các quy định về căn cứ, điều kiện
về áp dụng pháp luật; tuân thủ nghiêm túc các quy chế hoạt động của từng cấp
tòa án; việc áp dụng pháp luật luôn bảo đảm bám sát các quy định, hướng dẫn
pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền. TAND huyện Gia Lâm đã thực hiện
tốt việc định tội danh người phạm tội về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại sức khỏe cho người khác trong trường hợp đồng phạm và phạm nhiều tội,
có căn cứ và đúng quy định của pháp luật, không có vụ nào bị hủy án hoặc sửa
tội danh, áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất mức độ của hành vi phạm
tội, phù hợp với tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
53
khỏe của người khác xảy ra trên địa bàn huyện. Đa số các vụ án khi đưa ra xét
xử đều được các bị cáo chấp nhận, người bị hại hài lòng và đông đảo dư luận
đồng tình ủng hộ, góp phần vào công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm
này.
2.4.2 Hạn chế
Hiện nay, cùng với quá trình cải cách tư pháp, chất lượng đội ngũ Điều tra
viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán cũng ngày càng được nâng cao về trình độ,
chuyên môn, nghiệp vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, trong
thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với các vụ án hình sự nói
chung và các vụ án cố ý gây thương tích nói riêng thì vẫn không tránh khỏi
những hạn chế, khó khăn mà nguyên nhân xuất phát từ chính những quy định
của pháp luật và từ phía những người tiến hành tham gia tố tụng.
2.4.2.1 Trong việc định tội danh
- Hạn chế về quy định của pháp luật
Trong quy định của các văn bản pháp luật một số khái niệm chưa rõ ràng
hoặc còn thiếu sự thống nhất, nên có những cách hiểu khác nhau và quan điểm
áp dụng pháp luật khác nhau
Thứ nhất, khái niệm "Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm.."
quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 134 BLHS được hiểu là dùng vũ khí, vật
liệu nổ hoặc phương tiện nguy hiểm (Theo hướng dẫn tại tiểu mục 3.1 mục 3
Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán
TAND Tối cao). Do đó, có thể xác định vũ khí và phương tiện nguy hiểm chính
là hung khí nguy hiểm. Tuy nhiên, một số điều luật khác của BLHS thì lại quy
định "sử dụng vũ khí, phương tiện nguy hiểm" như quy định tại Điểm d Khoản
2 Điều 168 "Tội cướp tài sản", Điểm b Khoản 2 Điều 282 "Tội chiếm đoạt tàu
bay, tàu thủy". Tình tiết " Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm" quy
định tại Điểm a Khoản 1 Điều 134 BLHS được hiểu là việc khai thác tính năng
54
tác dụng của vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm đó phải đạt đến mức gây ra
thương tích cho nạn nhân (tức là đã sử dụng vũ khí, vật liệu nổ hoặc phương
tiện nguy hiểm đó); thương tích đó phải do chính vũ khí hoặc phương tiện đó
gây ra. Trong Bộ luật Hình sự, việc sử dụng các thuật ngữ khoa học pháp lý ở
các điều luật không thống nhất; đồng thời các văn bản hướng dẫn không cụ thể,
không rõ ràng; điều đó đã tạo ra sự khác nhau về nhận thức giữa thuật ngữ
"dùng" và thuật ngữ "sử dụng". Có những quan điểm khác nhau về hai thuật
ngữ này, do đó đã dẫn đến những cách hiểu khác nhau và việc áp dụng pháp
luật trong thực tiễn cũng rất khác nhau.
Bên cạnh đó, việc hướng dẫn khái niệm về hung khí nguy hiểm tại tiểu
mục 3.1 mục 3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội
đồng Thẩm phán TAND Tối cao thì các nhà làm luật khi đưa ra ví dụ thì vẫn
để dấu (…) nên thực tiễn vận dụng nhiều trường hợp vẫn còn gây tranh cãi. Ví
dụ: khúc mía đánh vào chân, tay thì có được coi là hung khí nguy hiểm hay
không khi gây thương tích khoảng 1%. Chính vì những quy định còn chưa rõ
ràng nên thực tiễn có nhiều trường hợp không khởi tố vụ án, khởi tố bị can
được.
Hai là, về “thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người”. Đây
cũng là trường hợp trên thực tế còn nhiều vướng mắc. Ví dụ trường hợp A cố
tình đặt bẫy chông bằng sắt (nhỏ, chỉ vừa 01 người) đặt ở lối đường vào vườn
nhà B, bẫy sập vào chân B. Xét về mặt nguy hiểm thì rõ ràng hành vi đặt bẫy
chông này nguy hiểm hơn nhiều so với hành vi dùng cây gậy đánh vào người
gây ra tỷ lệ thương tích nhất định. Tuy nhiên, hành vi đặt bẫy này lại không
được coi là thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người và sẽ không
thể khởi tố nếu tỷ lệ thương tích chưa đến 11%. Đây là điều bất hợp lý cả về lý
luận và thực tiễn. [67, Tr.17]
55
Ba là, về quy định "Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm"
Đây là tình tiết định tội và định khung tăng nặng trong tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Đối với các vụ án
gây thương tích bằng a-xít trên thực tế thường gây hậu quả rất nghiêm trọng, vì
không chỉ gây ra thương tích cho nạn nhân mà còn gây tổn thương về tinh thần
sâu sắc, hủy hoại dung nhan, gây tàn phế suốt đời.
Tuy nhiên, quy định về dùng a-xít nguy hiểm và hóa chất nguy hiểm lại
chưa được quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự. Vậy như thế nào là a-xít, hóa
chất nguy hiểm? Xét tính nguy hiểm bằng việc đo hàm lượng a xít hay xác định
nơi bị thương tích như tạt a-xít vào mặt, mắt? Trường hợp lấy hàm lượng a-xít
để xác định tính nguy hiểm mà khi không thu được a-xít để giám định hàm
lượng thì xử lý như thế nào? Đây cũng là vấn đề mà các nhà làm luật cần quan
tâm để tránh khó khăn, vướng mắc trong áp dụng.
Bốn là, về quy định cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác đối với thầy cô giáo của mình
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn về tình
tiết phạm tội “đối với thầy giáo, cô giáo của mình” này tại tiểu mục 3.3 Mục
3 Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP. Hướng dẫn trên đã quy định khá cụ thể tuy
nhiên trên thực tế vẫn còn bất cập như theo quy định của luật thì nạn nhân là
thầy cô giáo đã hoặc đang làm công tác giảng dạy nhưng đối với những trường
hợp nạn nhân là những người không trực tiếp giảng dạy như: Hiệu trưởng, phó
hiệu trưởng, tổng phụ trách ... thì sẽ không áp dụng TTĐK tăng nặng này.
Năm là, về quy định người già yếu tại điểm c khoản 1 Điều 134 BLHS
2015. Vậy người như thế nào là người già yếu? Theo hướng dẫn tại tiểu mục
2.4 Mục 2 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì Người già là người tử 70 tuổi trở lên,
còn theo hướng dẫn tại điểm a, tiểu mục 4.1 Mục 4 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP
56
ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao thì: Người quá già
yếu là người từ 70 tuổi trở lên hoặc người từ 60 tuổi trở lên nhưng thường xuyên
đau ốm. Khái niệm người già yếu đến nay vẫn chưa cụ thể. Như đã nêu trên,
khái niệm người già đã được hướng dẫn cụ thể, nhưng thế nào là “người già
yếu” thì vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, phụ thuộc vào quan điểm chủ
quan của người nhận định.
Sáu là, quy định pháp luật về tình tiết cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe đối với người nuôi dưỡng mình
Có nhiều quan điểm về vấn đề này: Có quan điểm cho rằng, chỉ áp dụng
TTĐK tăng nặng này nếu nạn nhân là người đã hoặc đang nuôi dưỡng người
phạm tội và quan hệ nuôi dưỡng phải được pháp luật thừa nhận; quan điểm
khác lại cho rằng, chỉ cần người phạm tội có hành vi cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại sức khỏe cho người đã hoặc đang nuôi dưỡng mình mà không quan
tâm quan hệ nuôi dưỡng đó pháp luật có thừa nhận hay không. Theo quan điểm
của cá nhân, tác giả đồng ý với quan điểm thứ 2, vì trên thực tế vẫn có nhiều
trường hợp việc nuôi dưỡng không được đăng ký về mặt pháp luật ví dụ bác họ
nuôi cháu.
Bảy là, về quy định “đối với người chữa bệnh cho mình” tại điểm d,
khoản 1, Điều 134 BLHS năm 2015 sẽ gặp khó khăn trong việc áp dụng
như: “Đối với người chữa bệnh cho mình” nếu được hiểu là bác sỹ, y tá… đang
chữa bệnh cho đối tượng thực hiện hành vi cố ý gây thương tích. Vậy, người
đã chữa bệnh cho mình, chuẩn bị chữa bệnh cho mình hoặc bác sỹ chữa bệnh
cho người thân của mình mà phạm tội với họ thì có được xem là đối với người
chữa bệnh cho mình hay không?
Ngoài ra, quy định này cũng không phù hợp với thực trạng tội phạm gây
thương tích xảy ra đối với người làm nghề chữa bệnh. Vì trong thời gian qua,
đối tượng gây thương tích cho thầy thuốc và các nhân viên y tế hầu hết đều là
57
người thân của bệnh nhân. Hành vi của người thân bệnh nhân gây thương tích
cho người đang làm công việc cứu người là hiện tượng rất phổ biến gây phẫn
nộ trong xã hội nói chung, cho những người làm nghề y nói riêng, do đó yêu
cầu đặt ra là phải xử lý nghiêm đối với hành vi này.
Tám là, khái niệm "Có tính chất côn đồ" được quy định tại Điểm i Khoản
1 Điều 134 BLHS.
Khái niệm côn đồ đã được nêu và phân tích ở phần trên của luận văn, tuy
nhiên không phải mọi trường hợp vô cớ phạm tội hoặc phạm tội vì một duyên
cớ nhỏ nhặt đều xác định là biểu hiện của tính côn đồ. Thực tiễn xét xử cho
thấy, khi xác định trường gây thương tích có tính chất côn đồ cần phải có quan
điểm xem xét toàn diện, trong đó các yếu tố quan trọng để xác định hành vi có
tính chất côn đồ là nguyên nhân dẫn đến sự việc và diễn biến hành vi đã xảy ra,
các yếu tố khác như địa điểm, nhân thân, thái độ … là yếu tố để hỗ trợ cho việc
đánh giá, xem xét đối với hành vi đã xảy ra. Như vậy, do nội dung hướng dẫn
chưa đầy đủ, rõ ràng, nên trong thực tiễn xét xử vẫn còn có những quan điểm
chưa thống nhất. Sự áp dụng linh hoạt của Thẩm phán trong một số trường hợp
đã dẫn đến tình trạng tùy tiện áp dụng tình tiết có tính chất côn đồ.
Chín là, quy định về chuẩn bị phạm tội tại Khoản 6, Điều 134 BLHS năm
2015. Theo đó, tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác là hành vi cố ý gây ra cho người khác bị thương tích hoặc tổn hại đến sức
khoẻ. Thực tiễn áp dụng pháp luật, hậu quả tổn thương về sức khoẻ (được thể
hiện trong kết luận giám định của cơ quan chuyên môn) là căn cứ để xác định
trách nhiệm hình sự và xác định khung hình phạt đối với người phạm tội. Nạn
nhân phải bị thương tích hoặc bị tổn hại đến sức khoẻ ở mức đáng kể thì mới
phải chịu trách nhiệm hình sự còn nếu thương tích hoặc tổn hại về sức khoẻ
không đáng kể hoặc không gây ra tổn hại về sức khoẻ thì chưa phải là tội phạm
và không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, nếu so sánh trường hợp
58
chuẩn bị phạm tội quy định tại khoản 6 với các trường hợp tại khoản 1, Điều
134 thì thấy rằng các trường hợp không bị truy cứu TNHS theo khoản 1, Điều
134 rõ ràng nguy hiểm hơn trường hợp chuẩn bị phạm tội theo khoản 6, Điều
134 BLHS nhưng lại không bị truy cứu TNHS.
- Hạn chế về thủ tục khởi tố theo yêu cầu của người bị hại
Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là loại tội khởi
tố theo yêu cầu của bị hại, do đó đơn yêu cầu khởi tố của người bị hại có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong giải quyết vụ án. Tuy nhiên, hiện nay chưa có bất kỳ
văn bản nào quy định về quyền yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại phát sinh
từ thời điểm nào. Ngoài ra cũng chưa có văn bản quy định về nghĩa vụ của người
bị hại, dẫn đến thực trạng là khi sự việc mới xảy ra, người bị hại nhất quyết đưa
ra yêu cầu khởi tố dù đã tiến hành hòa giải rất nhiều lần. Tuy nhiên, sau một thời
gian họ lại rút đơn yêu cầu khởi tố, chính vì lý do này mà trên thực tế tin báo về
loại tội cố ý gây thương tích là rất lớn, tuy nhiên vụ án để khởi tố thì chỉ chiếm
khoảng ¼ tổng số tin báo hàng năm. Nhiều trường hợp vụ án đã được khởi tố thì
người bị hại mới có đơn rút yêu cầu mặc dù bản thân người bị hại ngay từ đầu
cũng không muốn người có hành vi phạm tội phải bị khởi tố nhưng vì muốn đe
dọa và trừng phạt người đã gây ra lỗi cho mình, điều này vô hình chung dẫn đến
sự lãng phí thời gian, công sức của cơ quan tiến hành tố tụng.
- Hạn chế trong đánh giá chứng cứ
Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức,
phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên
môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng
cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của luật.
Thực tiễn xét xử cho thấy, việc áp dụng các quy định của pháp luật về giám định
59
tư pháp để trưng cầu giám định và sử dụng kết quả giám định phục vụ cho việc
giải quyết vụ án hình sự còn tồn tại những bất cập cần được tháo gỡ. Có nhiều
vụ án có các kết quả giám định khác nhau của các cơ quan giám định khác nhau.
Các Thẩm phán hay các Hội đồng xét xử phần lớn không có nhiều kiến thức
chuyên môn sâu về lĩnh vực y học, việc xác định tỷ lệ thương tật là do các cơ
quan chuyên môn pháp y và không phải trường hợp nào người được giám định
thương tật cũng có bệnh án điều trị làm căn cứ để cơ quan giám định, Hội đồng
xét xử xem xét. Do đó, sẽ rất khó khăn khi Thẩm phán và Hội đồng xét xử phải
quyết định chấp nhận kết quả giám định pháp y nào để bảo đảm được tính khoa
học, chính xác, đúng bản chất của vụ án, bảo đảm được quyền và lợi ích hợp
pháp của cả bị cáo và người bị hại.
Một vấn đề cần đặt ra nữa là thời hạn về giám định, trên thực tế thời hạn
giám định thường bị kéo dài làm ảnh hưởng đến thời gian tố tụng và ảnh hưởng
đến việc đánh giá khách quan của vụ án. Bên cạnh đó, có nhiều vụ án lúc đầu
nạn nhân đồng ý giám định, nhưng khi yêu cầu giám định lại để xác định thương
tật vĩnh viễn thì nạn nhân lại từ chối giám định, gây khó khăn cho cơ quan điều
tra.
Ví dụ: Khoảng 22 giờ 45 phút ngày 16/8/2018 tại xã Kim Lan, huyện Gia
Lâm, Hà Nội. Hai anh em Nguyễn Tiến Tùng và Nguyễn Tiến Đạt ra quán game
thì gặp Hoàng Văn Sinh. Do có mâu thuẫn từ trước nên hai bên đã cãi vã và xảy
ra đánh nhau, Sinh bỏ chạy đến nhà bạn là Dương Văn Hà để nhờ Hà đưa về.
Trên đường về, Sinh và Hà gặp hai anh em Tùng, Đạt, thấy thế Sinh thách thức
Tùng, Đạt “ Có giỏi thì đánh tao đi”. Nghe vậy, Tùng và Đạt chạy đến thì Sinh
và Hà bỏ chạy. Hà chạy qua quán nước gần đó lấy một con dao gọt hoa quả xông
vào chém Đạt trúng mặt và tay phải. Tại bản kết luận giám định thương tích xác
định tỷ lệ thương tích của Đạt là 18% nhưng bị hại đang trong thời gian điều trị,
60
do đó chỉ đánh giá tạm thời, do đó sẽ bổ sung sau khi điều trị ổn định.
Đến ngày 1/10/2018, CQĐT đã trưng cầu giám định bổ sung đối với Đạt,
kết quả tỷ lệ thương tích là 13%. Trên cơ sở đó, VKSND huyện Gia Lâm đã truy
tố Dương Văn Hà về tội cố ý gây thương tích tại Khoản 2 Điều 134 BLHS. Ngày
22/01/2019, TAND huyện Gia Lâm đưa vụ án ra xét xử. Sau khi nghị án, hội
đồng xét xử đã quyết định trưng cầu giám định lại đối với người bị hại. Kết quả
tỷ lệ thương tích giám định lại của bị hại giảm xuống còn 8%. Tuy nhiên, người
bị hại có đơn rút yêu cầu khởi tố đối với bị cáo trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm
nên vụ án đã bị đình chỉ. Vì cho rằng Tòa án trưng cầu giám định không đúng
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên Viện kiểm sát đã kháng nghị, hủy quyết
định đình chỉ vụ án để điều tra lại. Quá trình điều tra lại, bị hại từ chối việc giám
định lại và cũng không có mặt tại địa phương nên việc giám định cũng không
thực hiện được, ảnh hưởng đến việc điều tra, giải quyết vụ án.
2.4.2.2 Trong việc quyết định hình phạt:
Trong thực tế giải quyết các vụ án cố ý gây thương tích có một bên là
người bị hại, do đó hoạt động xét xử của Tòa án mà không đạt được sự công
bằng đáp ứng được lợi ích của các bên thì sẽ dẫn đến những suy nghĩ tiêu cực,
phản ứng bức xúc của người bị hại. Một trong những hạn chế thường thấy trong
xét xử các vụ án cố ý gây thương tích đó là Tòa án thường mắc sai lầm trong
việc đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, đặc biệt là trong các vụ
án đồng phạm, vai trò các đồng phạm dẫn đến việc phân hóa TNHS còn chưa
triệt để, dẫn đến việc quyết định hình phạt còn nhiều bất cập.
Xuất phát từ thực tiễn đời sống hết sức phong phú, đa dạng nên pháp luật
Việt Nam cũng như pháp luật của nhiều quốc gia khác trên thế giới thường quy
định mức tối thiểu và mức tối đa trong một khung hình phạt, việc quyết định
hình phạt dựa trên nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự, điều này phụ
thuộc và tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, các tình tiết tăng nặng, giảm
61
nhẹ TNHS, nhân thân người phạm tội.. Như vậy, hình phạt có đạt được đến
mục đích hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó hai yếu tố quan trọng
nhất là yếu tố lập pháp và áp dụng pháp luật. Việc quy định khung hình phạt
tạo điều kiện thuận lợi cho những người tiến hành tố tụng có thể lựa chọn được
mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của từng hành vi
phạm tội cụ thể, đảm bảo nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên,
nó lại có mặt hạn chế là bị chi phối bởi ý chí chủ quan của chủ thể quyết định
hình phạt, nếu người tiến hành tố tụng không có nền tảng kiến thức pháp lý
vững chắc, nhận thức của những người tiến hành tố tụng đối với các tình tiết
của vụ án còn khác nhau cộng với những hạn chế, bất cập trong những quy định
của pháp luật.. Chính bởi những lý do đó đã tạo ra những khó khăn, vướng mắc
trong quyết định hình phạt, dẫn đến những trường hợp cùng một vụ án nhưng
lại có sự khác nhau giữa mức án đề nghị của VKSND và quyết định hình phạt
của HĐXX, giữa cấp sơ thẩm và phúc thẩm khi quyết định hình phạt.
Bên cạnh đó, một trong những vướng mắc trong việc quyết định hình
phạt đó là vẫn có những quan điểm và cách áp dụng khác nhau về Quyết định
hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật. So với BLHS năm 1999, BLHS năm
2015 bổ sung thêm khoản 2 trong Điều 54 BLHS năm 2015 “Tòa án có thể
quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp
dụng, nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của
điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng
phạm, nhưng có vai trò không đáng kể” để bảo đảm việc quyết định áp dụng
hình phạt được đúng đắn, chính xác đối người phạm tội, đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn xét xử vụ án hình sự.
Đây là quy định mới có ý nghĩa tháo gỡ những vướng mắc trong thực
tiễn tuy nhiên, tại Khoản 1 Điều 54 BLHS cũng chưa đưa ra một nội hàm đầy
đủ về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung, điều này dẫn đến
62
trường hợp bị cáo có hai hoặc nhiều tình tiết giảm nhẹ thì có thể được quyết
định mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt mà không phụ thuộc vào
tình tiết tăng nặng.
Ví dụ: Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 18/6/2014 tại quán nước ngã ba
thôn Giao Tất, Kim Sơn, Gia Lâm, Hoàng phát sinh mâu thuẫn với Lương,
Hoàng đánh Lương gây ra thương tích cho Lương là 18%. Sau đó, Hoàng ra
công an đồn Lệ Chi đầu thú. Trước đó, Hoàng đã có một tiền án về tội trộm cắp
tài sản nhưng chưa được xóa án tích. Tòa án Gia Lâm đã xét xử bị cáo Hoàng
áp dụng theo 02 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 46 BLHS là tình tiết
“Người phạm tội tự thú” và “ Người phạm tội thành khẩn khai báo” và cho
Hoàng áp dụng Điều 47 BLHS. Bản án sơ thẩm này đã bị TAND cấp phúc thẩm
tuyên hủy vì cho rằng đối với trường hợp này phải áp dụng tình tiết tăng nặng
TNHS là “tái phạm” được quy định tại Điều 48 BLHS. Việc áp dụng tình tiết
giảm nhẹ TNHS “Người phạm tội tự thú” cũng không phù hợp bởi vụ án diễn
ra vào ban ngày, có nhiều người chứng kiến.
2.4.3 Nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót
Thứ nhất, công tác xây dựng, hướng dẫn pháp luật liên quan đến tội cố ý
gây thương tích vẫn còn nhiều bất cập và chưa được bổ sung kịp thời.
Hiện nay quy định của BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác vẫn còn nhiều điểm chưa cụ thể, rõ ràng. Thực
tiễn xét xử tại TAND huyện Gia Lâm cho thấy đã phát sinh những hạn chế,
vướng mắc, không thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật trong quá trình
xét xử vụ án xuất phát trực tiếp đến quá trình áp dụng pháp luật trong quá trình
xét xử vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác. Nói chung, các quy định của pháp luật liên quan đến thủ tục giải
quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích còn nhiều thiếu sót và chưa đồng
63
bộ mặc dù đã có những quy định được thay đổi, bổ sung so với BLHS 1999.
Thứ hai, tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng và các cơ quan hữu quan còn có những hạn chế
Tổ chức bộ máy các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là Tòa án trong
những năm qua đã từng bước được đổi mới và kiện toàn theo tinh thần cải cách
tư pháp nhưng vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất hợp lý trong việc thực hiện
phân cấp thẩm quyền, phân công trách nhiệm, sử dụng cán bộ. Công tác phối
kết hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng còn có những hạn chế nhất định làm
ảnh hưởng đến kết quả hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự nói
chung, trong đó có tội cố ý gây thương tích. Công tác tổ chức, tập huấn nghiệp
vụ, tổng kết thực tiễn và ban hành các thông tư hướng dẫn thống nhất áp dụng
pháp luật của các cơ quan liên ngành chưa được kịp thời dẫn đến việc áp dụng
pháp luật gặp nhiều khó khăn và thiếu sự đồng bộ, thống nhất.
Thứ ba, số lượng, trình độ năng lực và trách nhiệm của cơ quan tiến hành
tố tụng còn hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ án hình sự
Hiện nay, số lượng cán bộ làm việc tại Tòa án nói riêng và các cơ quan
tiến hành tố tụng nói chung hầu như đều thiếu hụt cả về số lượng và chất lượng.
Với tốc độ đô thị hóa và nhập cư đông, số lượng án tăng theo hàng năm. Do
vậy, Thẩm phán luôn làm việc với cường độ cao, khối lượng công việc lớn, đây
là một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng giải quyết công việc không
đảm bảo, dẫn đến sai sót khó tránh khỏi.
Bên cạnh đó, chất lượng, trình độ và năng lực của cán bộ tiến hành tố
tụng vẫn còn nhiều vấn đề phải bàn thêm về trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh
chính trị, một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề
nghiệp. Đây không còn là thực trạng của riêng địa bàn huyện Gia Lâm mà là
tình trạng chung của cả ngành tư pháp nước ta, là một trong những nguyên nhân
64
dẫn đến chất lượng hoạt động tư pháp nói chung bị hạn chế
Thứ tư, điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc
và việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác chưa đáp ứng được yêu
cầu công việc. Chế độ kinh phí, tài chính đối với hoạt động xét xử còn chưa
được quan tâm, chú trọng và chưa tương xứng với tính chất đặc thù và đòi hỏi
yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của Tòa án.
Tiểu kết chương 2
Từ việc phân tích một cách toàn diện thực tiễn định tội danh và quyết
định hình phạt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn huyện Gia Lâm trong 06 năm vừa qua. Ngoài việc nêu những
nguyên nhân của kết quả đạt được, luận văn đã đi sâu phân tích những hạn chế,
vướng mắc còn tồn tại trong thực tiễn giải quyết vụ án cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Việc đưa ra bức tranh tổng quan
về thực trạng định tội danh và quyết định hình phạt tội cố ý gây thương tích
trên địa bàn huyện Gia Lâm để từ đó phát hiện những tồn tại, hạn chế trong
thực tiễn áp dụng và tìm ra nguyên nhân của những hạn chế có ý nghĩa quan
trọng, là tiền đề cho Chương 3 trong việc nghiên cứu, đề xuất các giải pháp
hoàn thiện pháp luật và góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác điều tra,
65
truy tố, xét xử các vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn huyện Gia Lâm.
Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
3.1 Tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành về tội cố ý gây
thương tích
3.1.2 Hoàn thiện quy định pháp luật về định tội danh của tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
- Hoàn thiện quy định pháp luật về tình tiết “Dùng vũ khí, vật liệu nổ,
hung khí nguy hiểm”
Từ những thực trạng áp dụng Điều 134 BLHS về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã cho thấy trên thực tế nảy
sinh nhiều quan điểm khác nhau, có nhiều cách áp dụng pháp luật không thống
nhất. Trong bài viết của Tiến sỹ Phạm Minh Tuyên, Chánh án TAND tỉnh Bắc
Ninh đăng trên tạp chí TAND số 12/2018 đã đưa ra, cụ thể như
Thứ nhất, theo Điểm a Khoản 1 Điều 134 BLHS 2015 quy định về “vũ
khí, vật liệu nổ”, đây là quy định khó áp dụng trên thực tiễn bởi lẽ theo hướng
dẫn tại Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ ngày
20/6/2017 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý, sử dụng vũ
khí, vật liệu hỗ và công cụ hỗ trợ năm 2019 thì vũ khí, vật liệu nổ quy định như
sau:
“1. Vũ khí là thiết bị, phương tiện hoặc tổ hợp những phương tiện được
chế tạo, sản xuất có khả năng gây sát thương, nguy hại cho tính mạng, sức khỏe
của con người, phá hủy kết cấu vật chất, bao gồm: vũ khí quân dụng, súng săn,
vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao và vũ khí khác có tính năng, tác dụng tương tự.
66
2. Vũ khí quân dụng bao gồm:
a) Vũ khí được chế tạo, sản xuất bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết kế
của nhà sản xuất hợp pháp, được trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân và
các lực lượng khác theo quy định của Luật này để thi hành công vụ, bao gồm:
Súng cầm tay: súng ngắn, súng trường, súng tiểu liên, súng trung liên, súng
chống tăng, súng phóng lựu;Vũ khí hạng nhẹ: súng đại liên, súng cối, súng
ĐKZ, súng máy phòng không, tên lửa chống tăng cá nhân;Vũ khí hạng nặng:
máy bay chiến đấu, trực thăng vũ trang, xe tăng, xe thiết giáp, tàu chiến, tàu
ngầm, pháo mặt đất, pháo phòng không, tên lửa;Bom, mìn, lựu đạn, ngư lôi,
thủy lôi; đạn sử dụng cho các loại vũ khí quy định tại điểm này;
b) Vũ khí được chế tạo, sản xuất thủ công hoặc công nghiệp, không theo
tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp pháp, có khả năng gây sát
thương, nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người, phá hủy kết cấu vật
chất tương tự như vũ khí quy định tại điểm a khoản này, không được trang bị
cho lực lượng vũ trang nhân dân và các lực lượng khác quy định tại Điều 18
của Luật này để thi hành công vụ.
… 4. Vũ khí thô sơ là vũ khí có cấu tạo, nguyên lý hoạt động đơn giản và
được chế tạo, sản xuất thủ công hoặc công nghiệp, bao gồm: dao găm, kiếm,
giáo, mác, thương, lưỡi lê, đao, mã tấu, côn, quả đấm, quả chùy, cung, nỏ, phi
tiêu.
5. Vũ khí thể thao là vũ khí được chế tạo, sản xuất thủ công hoặc công
nghiệp, được sử dụng để luyện tập, thi đấu thể thao, bao gồm:a) Súng trường
hơi, súng trường bắn đạn nổ, súng ngắn hơi, súng ngắn bắn đạn nổ, súng thể
thao bắn đạn sơn, súng bắn đĩa bay và đạn sử dụng cho các loại súng này;b)
Vũ khí thô sơ quy định tại khoản 4 Điều này dùng để luyện tập, thi đấu thể thao.
6. Vũ khí có tính năng tác dụng tương tự súng săn, vũ khí thô sơ, vũ
khí thể thao là vũ khí được chế tạo, sản xuất thủ công hoặc công nghiệp, không
67
theo tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp pháp, có khả năng gây
sát thương, nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người, phá hủy kết cấu
vật chất tương tự như súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao.
7. Vật liệu nổ là sản phẩm dưới tác động của xung kích thích ban đầu
gây ra phản ứng hóa học nhanh, mạnh, tỏa nhiệt, sinh khí, phát sáng, tạo ra
tiếng nổ, bao gồm:a) Thuốc nổ là hóa chất hoặc hỗn hợp chất được sản xuất,
sử dụng nhằm tạo ra phản ứng nổ dưới tác động của xung kích thích;b) Phụ
kiện nổ là kíp nổ, dây nổ, dây cháy chậm, mồi nổ, vật phẩm chứa thuốc nổ có
tác dụng tạo xung kích thích ban đầu làm nổ khối thuốc nổ hoặc thiết bị chuyên
dùng có chứa thuốc nổ.
8. Vật liệu nổ quân dụng là vật liệu nổ sử dụng cho mục đích quốc phòng,
an ninh. 9. Vật liệu nổ công nghiệp là vật liệu nổ sử dụng cho mục đích kinh tế,
dân sự. 10. Tiền chất thuốc nổ là hóa chất nguy hiểm, trực tiếp dùng để sản
xuất thuốc nổ…”
Bộ luật hình sự 2015 quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 134 về tình tiết
“Dùng vũ khí, vật liệu nổ..” là mâu thuẫn, khó áp dụng trong thực tiễn xét xử,
cụ thể: Tội chế tạo tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt vũ khí quân dụng phương tiện kỹ thuật quân sự quy định tại Điều 304
BLHS; Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt vật liệu nổ quy định tại Điều 305 BLHS; Tội chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ,
vũ khí thể thao hoặc công cụ hỗ trợ quy định tại Điều 306. Theo quy định tại
các điều nêu trên thì đối tượng tác động của những tội này có thể là vũ khí quân
dụng, vũ khí thô sơ hoặc vật liệu nổ. Do đó, sẽ không phù hợp nếu quy định
tình tiết sử dụng vũ khí, vật liệu nổ là tình tiết định tội và định khung hình phạt.
Nếu trường hợp người phạm tội sử dụng vũ khí quân dụng để gây thương tích
cho nạn nhân thì sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự tội danh nào? Trên thực tế,
68
đối với trường hợp này người phạm tội sẽ bị xét xử về hai tội là Tội tàng trữ,
sử dụng trái phép vũ khí quân dụng và Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác. Tuy nhiên nếu tình tiết sử dụng vũ khí, vật liệu
nổ đã là tình tiết định tội thì việc xử hai tội như trên là không phù hợp với
nguyên tắc cơ bản của luật hình sự. Chính vì lý do trên cần phải sớm ban hành
hướng dẫn cụ thể để tránh vướng mắc thi hành Điều 134 BLHS 2015 [50a].
Thứ hai, Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP đã có quy định về hung khí
nguy hiểm nhưng lại quy định theo cách liệt kê mà chưa đưa ra khái niệm của
phương tiện nguy hiểm. Theo quan điểm cá nhân học viên, phương tiện nguy
hiểm là những vật dụng do con người chế tạo ra hoặc có sẵn trong tự nhiên mà
bản thân nó chứa đựng khả năng gây nguy hiểm. Như vậy, tại Điểm a, Khoản
1, Điều 134 BLHS quy định tình tiết “Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy
hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người” là chưa thống nhất với các
quy định ở một số tội khác trong BLHS như đã phân tích ở trên. Để thống nhất
nhận thức, tránh sai sót trong thực tiễn áp dụng pháp luật điểm a, Khoản 1 Điều
134 BLHS nên sửa đổi thành “Sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, phương tiện nguy
hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người”
- Hoàn thiện quy định pháp luật về tình tiết “Cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe đối với thầy cô giáo của mình”
Theo quy định của Bộ luật hình sự thì tình tiết này được áp dụng trong
trường hợp nạn nhân phải là thầy, cô giáo đã hoặc đang làm công tác giảng dạy.
Như vậy đối với những người không trực tiếp giảng dạy đối với người có hành
vi phạm tội như thầy, cô hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, giáo viên tổng phụ trách..
thì sẽ không áp dụng tình tiết định khung tăng nặng này.
Do đó nên có văn bản hướng dẫn cụ thể về điều kiện áp dụng tình tiết
định khung tăng nặng “đối với thầy giáo, cô giáo của mình” theo hướng: 1) Nạn
nhân phải là người làm việc trong cơ sở giáo dục, đào tạo, dạy nghề được cơ
69
quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc công nhận, theo hợp đồng hoặc
theo biên chế; 2) Nạn nhân đã hoặc đang trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện chức
năng giáo dục, đào tạo, dạy nghề cho người phạm tội; 3) Hành vi cố ý gây
thương tích cho nạn nhân là vì lý do thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, dạy
nghề đối với bị cáo, không phân biệt nhiệm vụ đó đã được thực hiện hay đang
được thực hiện và không kể thời gian dài hay ngắn.
- Hoàn thiện quy định pháp luật về tình tiết “cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe đối với người già yếu”
Việc quy định “người già yếu” còn mang tính định tính, không rõ ràng, cụ
thể sẽ dẫn tới việc hiểu, áp dụng không thống nhất trong thực tế. Bởi vì theo y
học, khi cơ thể con người từ 70 tuổi trở lên, các bộ phận cơ thể đã lão hóa, hoạt
động kém hiệu quả, việc trao đổi chất và tái tạo tế bào diễn ra chậm do vậy khi
người phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho đối tượng này rất
nguy hiểm vì khả năng phục hồi của họ là rất khó. Do đó, đối với tình tiết này
chỉ cần quy định là cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đối với
người già đủ.
- Hoàn thiện quy định pháp luật về tình tiết “Cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe đối với người nuôi dưỡng mình”
Đây là tình tiết mới được quy định trong BLHS nên trên thực tế còn nhiều
quan điểm khác nhau về việc áp dụng tình tiết định khung tăng nặng. Quan
điểm mâu thuẫn này ở chỗ quan hệ nuôi dưỡng này có được pháp luật thừa nhận
hay không. Hiện nay, pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch đã được phát triển
và hoàn thiện hơn trước, mọi sự kiện hộ tịch đều được ghi nhận bằng quyết
định của cơ quan có thẩm quyền do đó đối với tình tiết này, tác giả đồng tình
với quan điểm quan hệ nuôi dưỡng này đã được pháp luật thừa nhận và phải
đảm bảo thời gian nuôi dưỡng hợp lý. Theo đó nhà làm luật nên bổ sung hướng
dẫn chỉ áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “cố ý gây thương tích hoặc gây
70
tổn hại sức khỏe đối với người nuôi dưỡng của mình” nếu thỏa mãn ba điều
kiện; 1) Nạn nhân là người đã hoặc đang nuôi dưỡng người phạm tội; 2) Quan
hệ nuôi dưỡng đã được pháp luật thừa nhận; 3) Việc nuôi dưỡng đã được diễn
ra thực tế trong một khoảng thời gian hợp lý.
- Hoàn thiện quy định pháp luật về tình tiết "có tính chất côn đồ", cho
đến nay vẫn áp dụng Công văn số 38/NCPL ngày 06-01-1976 của TAND Tối
cao đã có cách đây quá lâu (44 năm), Kết luận Hội nghị tổng kết công tác Toà
án năm 1995 của Chánh án TAND Tối cao và Kết luận của Ủy ban Thẩm phán
TAQS Trung ương tại Hội nghị tổng kết công tác ngành TAQS năm 2006; Án
lệ số 17/2018/AL hướng dẫn tình tiết chưa điển hình, hơn nữa lại là về tình tiết
"có tính chất côn đồ" trong tội "Giết người" có đồng phạm nên chưa có tính
phổ quát. Thiết nghĩ, để tháo gỡ vướng mắc, liên ngành tố tụng cấp Trung ương
cần thiết ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về tình tiết "có tính chất côn đồ"
quy định tại điểm i khoản1 Điều 134 BLHS năm 2015. Vì chưa có quy định cụ
thể để “định lượng” được mức độ của hành vi được coi là “có tính chất côn đồ”
nên khi giải quyết các vụ án về tội Cố ý gây thương tích, nhiều trường hợp các
cơ quan tiến hành tố tụng chưa thống nhất với nhau trong việc nhận định, đánh
giá và áp dụng tình tiết này. Điều đó đòi hỏi phải rất thận trọng trong quá trình
xem xét áp dụng để đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều được xử lý nghiêm minh
theo đúng quy định của pháp luật, tránh khiếu kiện kéo dài hoặc dẫn đến oan,
sai nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người.
Theo quan điểm của cá nhân học viên, khi xác định trường hợp cố ý gây
thương tích "có tính chất côn đồ" cần phải xem xét đầy đủ, toàn diện các yếu
tố như: Nguyên nhân, điều kiện dẫn đến sự việc phạm tội; diễn biến, cường độ
tấn công của người thực hiện hành vi; địa điểm, không gian tội phạm được thực
hiện; động cơ, mục đích, công cụ, phương tiện, thủ đoạn phạm tội; tương quan
71
lực lượng; nhân thân người phạm tội, có ý thức thách thức pháp luật không và
ở mức độ như thế nào? mối quan hệ giữa người phạm tội với nạn nhân, thái độ
của người có hành vi cố ý gây thương tích...
- Hoàn thiện quy định về chuẩn bị phạm tội tại Khoản 6 Điều 134 BLHS:
Để các quy định của pháp luật có tính khả thi trong thực tiễn, kết cấu của điều
luật được chặt chẽ, không mâu thuẫn với các quy định khác, quan điểm cá nhân
tác giả cho rằng các cơ quan chức năng cần thống nhất hướng dẫn, giải thích
để áp dụng điều luật cho chính xác; đồng thời nên cân nhắc, xem xét bỏ khoản
6 của Điều 134 BLHS năm 2015 và không nên truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội cố ý gây thương tích. Vì tội phạm này
chưa gây ra hậu quả về mặt vật chất, mặc dù đe dọa xâm hại đến khách thể của
tội “Cố ý gây thương tích” là quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe của
con người, nếu các hành vi chuẩn bị phạm tội được nêu tại Khoản 6 Điều 134
BLHS năm 2015 mà đủ yếu tố cấu thành của một tội độc lập được quy định
trong Bộ luật Hình sự thì sẽ áp dụng xử lý theo tội phạm đó.
- Hoàn thiện quy định về giám định tư pháp
Kết luận giám định là nguồn chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015. Tuy nhiên trên thực tiễn xét xử việc thực hiện các thủ tục
này phục vụ cho việc giải quyết vụ án hình sự còn tồn tại nhiều hạn chế, bất
cập. Trong nhiều trường hợp một vụ án lại có nhiều kết quả giám định khác
nhau của các cơ quan giám định khác nhau. Thẩm phán hay Hội đồng xét xử
phần lớn không có nhiều kiến thức chuyên môn sâu về lĩnh vực y học, việc xác
định tỷ lệ thương tật là do các cơ quan chuyên môn pháp y và không phải trường
hợp nào người được giám định thương tật cũng có bệnh án điều trị làm căn cứ
để cơ quan giám định, Hội đồng xét xử xem xét. Do đó, sẽ rất khó khăn khi
Thẩm phán và Hội đồng xét xử phải quyết định chấp nhận kết quả giám định
pháp y nào để bảo đảm được tính khoa học, chính xác, đúng bản chất của vụ
72
án, bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của cả bị cáo và người bị hại. Cần
có quy định về tính phủ định đối với các kết luận giám định pháp y; kết luận
giám định pháp y của cơ quan chuyên môn cấp trên có tính phủ định đối với
kết luận giám định pháp y của cơ quan chuyên môn cấp dưới theo hệ thống dọc
từ Trung ương xuống địa phương. Có như vậy mới thuận lợi cho công tác xét
xử, không để tình trạng bất đồng ý kiến và khiếu kiện, khiếu nại kéo dài. Cần
quy định việc trưng cầu giám định hồ sơ bệnh án trong trường hợp người bị hại
không đồng ý đi giám định tỷ lệ thương tật. Từ đó sẽ giải quyết được triệt để
các vấn đề của vụ án, nhất là đối với các vụ án mà kết quả giám định thương
tật của người bị hại có ảnh hưởng lớn đến kết quả xét xử.
- Hoàn thiện quy định về quyền khởi tố theo yêu cầu của người bị hại
Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 quy định có 10 tội phạm
thuộc trường hợp chỉ được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, trong
đó có tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác,
chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố là bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của bị
hại. Tuy nhiên, có thể thấy quy định trên là chưa hợp lý trên thực tiễn công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm vì đối với tội danh này. Hiện nay Luật chưa
có văn bản quy định về nghĩa vụ của người bị hại và chế tài khi họ không thực
hiện yêu cầu dẫn đến có nhiều vụ việc người bị hại do bức xúc, tức giận đối với
người gây thương tích, muốn kiếm cớ để yêu cầu đòi bồi thường, người bị hại
thường nhất quyết đưa ra yêu cầu khởi tố khiến cơ quan tiến hành tố tụng phải
tiến hành rất nhiều các thủ tục tố tụng cần thiết để khởi tố vụ án và giải quyết
theo quy định. Tuy nhiên, sau đó người bị hại lại rút đơn yêu cầu khởi tố và
miễn TNHS cho người đã có hành vi gây thương tích. Dẫn đến án đình chỉ, đặc
biệt là đối với tội danh cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho
người khác chiếm tỷ lệ cao so với các tội danh khác. Nhìn chung, các cơ quan
tiến hành tố tụng đã mất thời gian, công sức để bảo vệ cho lợi ích không chính
73
đáng của một số cá nhân. Mục đích đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật,
trừng trị, giáo dục người phạm tội không phát huy được hiệu quả. Điều này dẫn
đến hiện tượng tiêu cực dễ nảy sinh như đối với người phạm tội mà gia đình có
điều kiện kinh tế thì bồi thường, thương lượng để nạn nhân không yêu cầu khởi
tố hoặc rút yêu cầu khởi tố. Ngược lại, đối với người phạm tội không có điều
kiện kinh tế thì phải bị khởi tố theo yêu cầu của bị hại. Đây là một bất hợp lý
nhưng lại diễn ra khá phổ biến. Do đó, pháp luật nên chăng bỏ quy định về yêu
cầu khởi tố của người bị hại hoặc nếu để quyền yêu cầu khởi tố của bị hại thì
cần phải quy định nghĩa vụ cụ thể để đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp
luật, đảm bảo mục đích của hình phạt, tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa
chung của pháp luật.
3.2 Hoàn thiện quy định về hình phạt của tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại sức khỏe người khác.
Khoản 1 Điều 134 BLHS quy định hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%
hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong 10 tình tiết định khung thì phạt từ từ sau
tháng đến ba năm. Tuy nhiên lại không có một văn bản pháp luật nào hướng dẫn
dưới 11% thì mức tối thiểu là bao nhiêu phần trăm dẫn đến việc áp dụng pháp
luật không thống nhất giữa các cơ quan xét xử ở các địa phương. Vì vậy theo
quan điểm của cá nhân tôi, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần sớm ban hành
văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể tỷ lệ thương tật dưới 11% là bao nhiêu phần
trăm, để đảm bảo việc áp dụng pháp luật được thống nhất trong phạm vi cả nước.
Căn cứ vào thực tiễn xét xử các nhà làm luật nên quy định mức độ tỷ lệ thương
tật là từ 5% đến dưới 11% mà thuộc 10 tình tiết định khung thì đủ căn cứ để truy
cứu trách nhiệm hình sự.
Theo quy định tại Điều 134 BLHS thì mức hình phạt là cải tạo không
giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sau tháng đến ba năm. Khung tăng nặng
74
thứ nhất: Phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Khung tăng nặng thứ hai: Phạt tù từ
năm năm đến mười lăm năm. Khung tăng nặng thứ ba: Phạt tù từ mười lăm
năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.
Có thể thấy việc quy định mức hình phạt tù như trên là chưa hợp lý vì
mức hình phạt giữa các khung bị chồng lấn. Bên cạnh đó, khoảng cách giữa
mức thấp nhất và cao nhất của khung hình phạt ở các khoản 4, khoản 5 và khoản
6 Điều 134 quá rộng, cần tiếp tục nghiên cứu để thu hẹp khoảng cách giữa
khung hình phạt để tránh việc tùy tiện khi quyết định hình phạt, đảm bảo
nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự được công bằng, nghiêm minh.
3.3 Hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
BLHS năm 2015 có kết cấu gồm 426 điều luật với 3 phần. Trong đó, các
tội xâm phạm sức khỏe của người khác bao gồm 7 điều và được quy định từ
Điều 134 đến Điều 140, trong đó tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác được xếp đầu nhóm, điều này cho thấy trong nhóm
tội về hành vi xâm hại về sức khỏe thì đây là hành vi căn bản và phổ biến nhất.
So với BLHS năm 1999, sửa đổi năm 2009, BLHS 2015, sửa đổi năm
2017 đã có nhiều thay đổi, khắc phục các tồn tại, hạn chế. Bộ luật hình sự 2015
đã thể hiện trình độ hoàn thiện về mặt lập pháp, khắc phục được nhiều hạn chế,
bất cập so với quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999. Đối với tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại
Điều 134 BLHS thì đã có những điểm mới như cấu trúc lại điều luật một cách
hợp lý hơn, sửa đổi, bổ sung các tình tiết định khung, cơ bản đã khắc phục được
những tồn tại, hạn chế trong kỹ thuật lập pháp và thực tiễn xét xử về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển không ngừng của đời sống xã hội, tội
phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
75
ngày càng trở lên phổ biến, thủ đoạn ngày càng manh động, tinh vi. Để việc áp
dụng pháp luật một cách chính xác và thống nhất thì cần ban hành hệ thống văn
bản hướng dẫn để thực hiện. Công tác hướng dẫn, áp dụng pháp luật cần được
triển khai một cách có hệ thống, toàn diện và kịp thời, tránh việc cùng một điều
luật, một tình tiết nhưng lại có cách định tội và quyết định hình phạt khác nhau
dẫn đến xử lý oan sai, bỏ lọt tội phạm.
3.4 Tổng kết công tác thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Để đảm bảo công tác xét xử các vụ án hình sự nói chung và xét xử tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì cơ quan
tiến hành tố tụng cần chú trọng thực hiện các vấn đề sau:
Thông qua việc giải quyết, xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự hàng năm,
TAND huyện cần tiến hành tổng kết xét xử án hình sự nói chung và xét xử sơ
thẩm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
nói riêng của Toà án.
Tòa án nhân dân tối cao cần tổ chức các Hội nghị chuyên đề hướng dẫn,
Hội thảo và nghiên cứu khoa học về hoạt động xét xử, tạo cơ sở lý luận và kinh
nghiệm thực tiễn để nâng cao chất lượng xét xử án hình sự nói chung và xét xử
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói
riêng.
Nghiên cứu và tiếp tục ban hành các án lệ về tội cố ý gây thương tích nói
riêng và các loại tội nói chung do Hội đồng thẩm phán TANDTC quyết định,
đây là những căn cứ quan trọng trong việc định tội danh và quyết định hình
phạt, đảm bảo việc áp dụng pháp luật được thống nhất giữa các cấp Tòa án, góp
phần phòng chống tham nhũng, đảm bảo công bằng khách quan trong xét xử.
3.5 Nâng cao chất lượng cán bộ thực thi pháp luật
- Cơ quan điều tra: Nâng cao và hoàn thiện cơ chế tiếp nhận và xử lý
76
thông tin về tội phạm, đảm bảo mọi thông tin tố giác tội phạm đều được tiếp
nhận đầy đủ, nhanh chóng và chính xác. Việc xác minh, thu thập chứng cứ ban
đầu là những yếu tố quan trọng đầu tiên trong việc giải quyết một vụ án hình
sự, điều này phụ thuộc rất nhiều vào năng lực trình độ của cơ quan tiếp nhận
ban đầu, đòi hỏi cán bộ có năng lực, tinh thần trách nhiệm và có phương án xử
lý thông tin hiệu quả, có biện pháp bảo vệ người đến tố giác hành vi phạm tội.
Hiện nay, phần lớn các vụ án về tội cố ý gây thương tích được tiếp nhận là tại
công an xã, phường nên đòi hỏi lực lượng công an ngay từ cấp cơ sở phải được
trau dồi, nâng cao nghiệp vụ để đảm bảo việc giải quyết vụ án được nhanh
chóng, chính xác, đúng pháp luật.
Công tác thu thập chứng cứ, điều tra phải đảm bảo khách quan, toàn diện
và cụ thể, khi tiến hành điều tra phải có kế hoạch, phương án cụ thể, xác định
rõ những vấn đề cần phải chứng minh, không bỏ sót bất kỳ tình tiết nào có giá
trị chứng minh nội dung vụ án, đảm bảo khởi tố đúng người, đúng tội.
- Cơ quan Viện kiểm sát nhân dân: Để nâng cao hiệu quả của hoạt động truy tố
của VKSND thì đòi hỏi Kiểm sát viên trước hết cần nhận thức rõ vai trò, nhiệm vụ của
mình, kiểm sát chặt chẽ việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiểm sát
chặt chẽ việc khám nghiệm hiện trường, thu thập chứng cứ. Kiểm sát viên cần nghiên
cứu kỹ hồ sơ vụ án, ban hành bản cáo trạng có chất lượng, tránh việc phụ thuộc vào
kết luận của cơ quan điều tra. Bên cạnh việc nâng cao trình độ chuyên môn, đội ngũ
Kiểm sát viên cần rèn luyện về kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa đảm bảo việc luận tội
và tranh tụng tại phiên tòa được dân chủ, thuyết phục.
- Hội đồng xét xử: Để nâng cao chất lượng xét xử, hạn chế tình trạng án hủy,
sửa thì đội ngũ Thẩm phán phải được nâng cao về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, rèn
luyện về phẩm chất đạo đức, đề cao tinh thần trách nhiệm; đồng thời cần có chế độ
chính sách đãi ngộ tương xứng với trách nhiệm của Thẩm phán. Hội thẩm nhân dân
phải thường xuyên được tập huấn về nghiệp vụ, bắt buộc phải đọc hồ sơ trước khi xét
77
xử để có thể tham gia xét hỏi. Tòa án cấp trên thường xuyên kiểm tra chất lượng xét
xử của Tòa án cấp dưới, không để tình trạng lạm dụng cho hưởng án treo không đúng
quy định của pháp luật.
3.6 Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong
giải quyết các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác
Hoạt động xét xử chỉ là một giai đoạn trong quá trình giải quyết một vụ
án hình sự, do đó hoạt động xét xử của Tòa án sẽ không thể thực hiện tốt nếu
không có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nhà nước, đặc biệt là cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát cùng cấp. Do đó, Tòa án cần phải tăng cường mối quan
hệ phối hợp với cơ quan Công an, Viện kiểm sát cùng cấp để giải quyết tốt các
vụ án phức tạp, trọng điểm. Điều này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải
có sự trao đổi để bổ sung chứng cứ của vụ án kịp thời, bảo đảm sự theo dõi sát
sao vụ án, tránh biểu hiện cục bộ từng ngành, đùn đẩy trách nhiệm, đồng thời
phải kiên quyết khắc phục, thừa nhận những sai sót trong quá trình tiến hành tố
tụng, tránh tư tưởng nể nang, thỏa hiệp. Cần xây dựng quy chế phối hợp trong
quá trình giải quyết công việc của Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan
điều tra, cơ quan thi hành án nhưng tuyệt đối không can thiệp vào công việc
của nhau, không làm ảnh huởng đến tính độc lập trong xét xử của Tòa án.
Thường xuyên thực hiện họp sơ kết, tổng kết liên ngành để trao đổi những vấn
đề còn có ý kiến khác nhau giữa cơ quan tiến hành tố tụng. Khi thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan tiến hành tố tụng thông qua các hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử phải tìm ra các nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm
tội để chủ động kiến nghị kịp thời với các cơ quan hữu quan có những biện
pháp phòng ngừa tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
78
người khác thích hợp với tình hình địa phương.
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở phân tích dữ liệu và thực tiễn giải quyết vụ án hình sự về tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn
huyện Gia Lâm đã nêu tại chương 2, chương 3 đặt ra các giải pháp để hoàn
thiện các quy định của pháp luật và giải pháp để nâng cao chất lượng giải quyết
các vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác từ thực tiễn địa bàn huyện Gia Lâm. Trong các nhóm giải pháp trên,
mỗi giải pháp đều đóng vai trò, vị trí quan trọng riêng do đó cần tiến hành các
giải pháp một cách toàn diện, đồng bộ, góp phần đưa quy định của pháp luật
vào thực tiễn đời sống, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm nói
79
chung và tội cố ý gây thương tích nói riêng.
KẾT LUẬN
Với quá trình đô thị hóa cùng với sự phát triển của xã hội việc bảo vệ, chăm
sóc sức khỏe của con người cũng như đấu tranh phòng, chống các hành vi xâm
hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người luôn được quan
tâm đặc biệt và cũng là nhiệm vụ hàng đầu của pháp luật hình sự Việt Nam.
Trong luật hình sự Việt Nam, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác đã có quá trình phát triển tương đối dài gắn liền với những
dấu mốc lịch sử phát triển của pháp luật hình sự. Qua nghiên cứu phân tích
những vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Gia Lâm cho thấy góc nhìn
về những lý luận chung, lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt, những
đặc trưng và dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác; luận văn đã làm rõ thực tiễn định tội danh và quyết
định hình phạt về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác; những hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng quy định của
BLHS về tội này trên địa bàn huyện Gia Lâm giai đoạn 06 năm (2015 – 2020),
nguyên nhân và các biện pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế đó. Luận văn
cũng đưa ra một số kiến nghị đề xuất sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện pháp
luật, góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng xét xử về loại tội phạm này
trong hoạt động xét xử của ngành tòa án và công cuộc cải cách tư pháp ở nước
ta hiện nay.
Việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác là vẫn đề khá rộng, cần đầu tư nhiều thời
gian và công sức để hoàn thiện việc nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu,
vì điều kiện và thời gian nghiên cứu có hạn, nên chắc chắn luận văn không
80
tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Do đó, kính mong được sự đóng góp ý
kiến của Hội đồng chấm luận văn và Quý thầy cô để luận văn được hoàn thiện
hơn nữa.
81
Xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Văn Beo (2009), Luật hình sự Việt Nam - Quyển 1 (Phần chung), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng ,(2017)(chủ biên), Bình luận khoa học
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb. Thế giới, Hà Nội.
3. Công văn số 03/TATC ngày 22/10/1987 hướng dẫn về Điều 109 Bộ luật hình
sự
4. Công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976 của TAND tối cáo và Kết luận của
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Tòa án
năm 1995
5. Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/06/2002 về “cách xác định ngày,
tháng sinh của bị can, bị cáo chưa thành niên”
6. Công văn số 311/HS ngày 04/4/1989 về xác định tỷ lệ thương tật của người bị
thương tích
7. Công văn số 140/1998/KHXX về việc hướng dẫn áp dụng Điều 109 BLHS
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của
Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
10. Tô Ngọc Đường (2014), Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình
Phước, Luận văn thạc sỹ luật học.
11. Đỗ Đức Hồng Hà (2007), Luận án Tiến sỹ luật học tội giết người trong luật
hình sự Việt Nam và đấu tranh phòng chống loại tội phạm này, Trường Đại
82
học Luật Hà Nội
12. Phạm Thị Mỹ Hạnh (2014), Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng
Ngãi”, Luận văn thạc sỹ luật học.
13. Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và Cấu thành tội phạm, Nxb CAND 2013
14. Nguyễn Ngọc Hòa (1993), “Quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt
Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1.
15. Trần Minh Hưởng, “Một số khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng Điều 104
Bộ luật hình sự Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác”, Tạp chí kiểm sát số 10/2011.
16. Hội đồng thẩm phán TANDTC, Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986
hướng dẫn áp dụng một số quy định phần các tội phạm của BLHS.
17. Hội đồng thẩm phán TAND, Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 19/4/1989
hướng dẫn áp dụng bổ sung một số quy định của BLHS.
18. Hội đồng thẩm phán TANDTC, Nghị quyết số 01-89/HĐTP ngày 12/4/1989
hướng dẫn bổ sung áp dụng một số quy định của BLHS.
19. Hội đồng thẩm phán TAND (1996), Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP ngày
29/11/1996 hướng dẫn áp dụng bổ sung một số điều của BLHS.
20. Hội đồng thẩm phán TANDTC, Nghị quyết số 01/2006/NQ - HĐTP ngày
12/5/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm 1999.
21. Hội đồng thẩm phán TANDTC, Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày
04/8/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của BLHS
năm 1999.
22. Hội đồng thẩm phán TANDTC, Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày
17/4/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự năm 1999.
23. Huỳnh Văn Khang (2019), Định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn tỉnh An Giang, Luận văn thạc
83
sỹ luật học
24. Liên Bộ y tế, Bộ Lao động Thương binh - xã hội (1995), Thông tư số
12/1995/TTLB ngày 26/7/1995 quy định về tiêu chuẩn thương tật và tiêu chuẩn
bệnh tật mới, ban hành ngày 26/7/1995, Hà Nội.
25. Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế
về quyền con người, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội
26. Dương Tuyết Miên (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
27. Nguyễn Nông (2005), “Phân biệt tội Giết người với tội Cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trường hợp dẫn đến chết
người”, Tạp chí kiểm sát, số 21/2005.
28. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự năm 1999, Nxb Chính trị quốc gia.
29. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung), Nxb Chính trị
quốc gia.
30. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung), Nxb Chính trị
quốc gia.
31. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự năm 1985, Nxb Chính trị quốc gia.
32. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia.
33. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992, Nxb Chính trị quốc gia.
34. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013, Nxb Chính trị quốc gia.
35. Phạm Thu Hường (2015), Thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Huyện Từ
Liêm, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Quốc Gia Hà Nội.
36. Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người, Nhà xuất bản
84
tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
37. Đỗ Thị Thanh, “Vấn đề giám định trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân,
số 23/2008.
38. Lê Đình Tĩnh (2014), Các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
39. Thủ tướng chính phủ (1955), Thông tư số 442 - TTg ngày 19/01/1955 chính
thức quy định tội cố ý gây thương tích, ban hành ngày 19/01/1955, Hà Nội.
40. Bộ Y tế (2014), Thông tư 20/2014/TT-BYT ngày 12 tháng 6 năm 2014 Thông
tư quy định về phương pháp xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể, ban hành ngày
19/01/1955, Hà Nội.
41. Tòa án nhân dân tối cao (1998), Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT/TANDTC-
VKSNDTC-BNV ngày 02/01/1998 hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS, ban hành ngày 02/01/1998, Hà
Nội.
42. TAND huyện Gia Lâm, Bản án số 203/2015/HS-ST ngày 27/10/2015.
43. TAND huyện Gia Lâm, Bản án số 246/2016/HS-ST ngày 28/11/2016.
44. TAND huyện Gia Lâm, Bản án số 229/2017/HS-ST ngày 22/9/2017.
45. TAND huyện Gia Lâm, Bản án số 298/2018/HS-ST ngày 14/12/2018.
46. TAND huyện Gia Lâm, Bản án số 56/2019/HS-ST ngày 25/3/2019.
47. TAND huyện Gia Lâm, Bản án số 182/2019/HS-ST ngày 22/10/2019.
48. TAND huyện Gia Lâm, Bản án số 49/2020/HS-ST ngày 15/02/2020.
49. TAND huyện Gia Lâm, Bản án số 212/2019/HS-ST ngày 05/11/2019.
50. Thân Đình Trung (2016), Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe người khác theo luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Long Biên, thành
85
phố Hà Nội; Luận văn thạc sĩ luật học.
51. Phạm Minh Tuyên (2018), “Một số ý kiến về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định tại Điều 134 Bộ luật hình
sự năm 2015”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/2008
52. Ngô Xuân Trung (2018), Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe người khác theo luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh; Luận
văn thạc sĩ luật học.
53. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần
chung, Nxb công an nhân dân, Hà Nội.
54. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần
các tội phạm, Nxb công an nhân dân, Hà Nội.
55. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình luật hình sự
Việt Nam phần các tội phạm quyển 1, Nxb Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh.
56. Ủy ban thường vụ Quốc hội: Nghị quyết số 229/2000/NQ-UBTVQH10 ngày
28/01/2000 về triển khai Mục 3, Nghị quyết số 32/1999/QH10.
57. Ủy ban thường vụ Quốc hội: Pháp lệnh số 16/2011/NQ-UBTVQH12 ngày
30/06/2011 về Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ.
58. Đào Trí Úc (Chủ biên) (1996), Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt
Nam, Tội phạm học, Luật hình sự, Luật TTHS, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
59. Phùng Thế Vắc và Trần Văn Luyện, Bình luận khoa học BLHS năm 1999 phần
các tội phạm, Nxb Chính trị Quốc gia.
60. Võ Khánh Vinh (1993), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
61. Võ Khánh Vinh (1996), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam,
Luận án Phó tiến sỹ.
62. Võ Khánh Vinh (2003), “Thay đổi tội danh: Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/2003.
86
63. Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh, Nxb Khoa học xã hội
64. Võ Khánh Vinh (2014), Quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam,
Tội phạm học, Luật hình sự, Luật TTHS; Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
65. Viện sử học Việt Nam (2003), Quốc triều hình luật (Luật hình triều Lê), Nxb
chính trị Quốc gia sự thật.
NGUỒN INTERNET
66. Trương Đức Thuận - Nguyễn Sơn (2018), “Tìm hiểu pháp luật về tội cố ý
gây thương tích” thuong-tich-2009838.html>, (03/4/2018). 67. Nguyễn Thanh Mai - Cao Ngọc Hà (2018), “Bàn về một số nội dung mới quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)” bo-luat-hinh-su-nam-2015-sua-doi-bo-sung-nam-2017-2321430.html>, 87 (24/7/2018) 88