VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ TRẦN BÁ ĐỨC

TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ TRẦN BÁ ĐỨC

TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự

Mã số: 838.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. PHẠM CÔNG NGUYÊN

HÀ NỘI, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng luận văn Thạc sĩ Luật học “Tội cướp giật tài sản

từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” là công trình nghiên cứu khoa học của riêng

tôi, hoàn toàn do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Phạm

Công Nguyên. Các đoạn trích dẫn và số liệu đã được sử dụng trong luận văn

này đều được dẫn từ nguồn có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết

của tôi.

Tác giả luận văn

LÊ TRẦN BÁ ĐỨC

MỤC LỤC

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN. ............................................................................... 7

1.1. Khái niệm, dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản .............................. 8

1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản ............................................. 9

1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản ......... 20

1.3. Áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản ........... 30

CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH ĐẶC ĐIỂM CÓ LIÊN QUAN VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ................................................................................................... 34

2.1. Đặc điểm tình hình có liên quan đến tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ................................................................................ 34

2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ................................................. 44

CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................. 57

3.1. Phương hướng hoàn thiện quy định về Tội cướp giật tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015 ......................................................................................... 57

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ...................... 60

KẾT LUẬN ................................................................................................. 66

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS Bộ luật hình sự

BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự

BLDS Bộ luật dân sự

PLHS Pháp luật hình sự

TAND Toà án nhân dân

HĐXX Hội đồng xét xử

HTND Hội thẩm nhân dân

CTTP Cấu thành tội phạm

QPPL Quy phạm pháp luật

TNHS Trách nhiệm hình sự

QĐHP Quyết định hình phạt

VKSND Viện kiểm sát nhân dân

XHCN Xã hội chủ nghĩa

TCGTS Tội cướp giật tài sản

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Số liệu về công tác giải quyết, xét xử án hình sự của tòa án nhân

dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến hết tháng 6 năm 2020

..................................................................................................................... 38

Bảng 2.2. Mức độ tổng quan của tình hình tội CGTS trên địa bàn thành phố

Đà Nẵng từ năm 2015 đến hết tháng 6/2020 ................................................. 39

Bảng 2.3. Tỷ lệ các tội CGTS trong tình hình tội phạm nói chung trên địa

bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 đến tháng 6/2020 ............................ 40

Bảng 2.4. Tỷ lệ các tội CGTS trong tình hình các tội xâm phạm sở hữu trên

địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 đến tháng 6/2020 ...................... 41

Bảng 2.5. Cơ cấu về hình phạt được áp dụng đối với những người phạm tội

CGTS trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến hết tháng 6/2020 .. 42

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Sau 34 năm đổi mới, đất nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung, bao cấp

sang nền kinh tế theo cơ chế thị trường, diễn biến của tình hình tội phạm nói

chung, cũng như các tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng ngày càng có chiều

hướng gia tăng, gây thiệt hại lớn về tài sản và hết sức phức tạp gây ảnh hưởng

xấu đến tình hình an ninh chính trị. Do đó việc bảo vệ quyền sở hữu về tài sản

luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Điều đó thể hiện ở việc quyền sở

hữu được pháp luật ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và thể chế hoá trong

nhiều hệ thống văn bản pháp luật trong các lĩnh vực như: Hình sự, Dân sự, Kinh

doanh thương mại… Theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay, quyền sở hữu

được bảo vệ thông qua các quy định trong chương các tội phạm xâm phạm

quyền sở hữucủa BLHS năm 2015. Trong những năm qua, việc đấu tranh ngăn

chặn các hành vi xâm phạm sở hữu đã được các cơ quan bảo vệ pháp luật nước

ta thực hiện tích cực, tuy nhiên việc điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này

vẫn còn nhiều hạn chế, vướng mắc dẫn đến chưa đáp ứng được yêu cầu phòng

chống tội phạm. Do đó, loại tội phạm xâm hại sở hữu ngày càng diễn biến phức

tạp, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, gây dư luận không tốt cho xã

hội, làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối với pháp luật.

Với vị thế là trung tâm kinh tế - văn hóa, giáo dục của khu vực miền Trung,

Tây Nguyên, Đà Nẵng có vị trí giao thông thuận lợi, tập trung nhiều khu công

nghiệp, nhiều trường học, bệnh viện, bến xe, nhà ga lớn của khu vực và cả

nước, có môi trường đầu tư hấp dẫn với nhiều nhà đầu tư trong nước cũng như

nước ngoài, đặc biệt là phát triển du lịch với hàng triệu lượt khách tham quan

đến mỗi năm. Dẫn đến số lượng dân ngoại tỉnh di cư tập trung về TP. Đà Nẵng

1

ngày càng đông đúc cùng với lượng lớn khách du lịch trong và ngoài nước tới

tham quan, nghỉ dưỡng. Tuy nhiên, đi kèm với những thuận lợi đó cũng làm

phát sinh thêm nhiều vấn đề tiêu cực, nổi bật nhất là vấn đề tội phạm xâm phạm

sở hữu, trong đó điển hình là tội cướp giật tài sản, đang là loại tội phạm trở

thành vấn nạn vô cùng bức xúc, được dư luận xã hội quan tâm. Tội cướp giật

tài sản gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, sức khoẻ của người khác,

gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong nhân dân, tác động xấu tới tình hình an

ninh trật tự, đặc biệt là để lại hình ảnh xấu đối với khách du lịch khi đến với

thành phố Đà Nẵng. Trung bình một năm trong thời gian từ năm 2015 hết tháng

6/2020, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã xét xử 20,36 vụ án và 49,27 bị

cáo về tội cướp giật tài sản. Tòa án nhân dân các cấp thành phố Đà Nẵng đã xét

xử đúng người, đúng tội danh và đúng pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh những

kết quả đạt được thì việc áp dụng pháp luật với tội cướp giật tài sản còn cho

thấy còn có nhiều bất cập, vướng mắc.

Vì vậy, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của tội phạm cướp giật

tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, xác định được những tồn tại, hạn chế,

nguyên nhân để từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các

quy định của pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản là việc rất cần thiết,

khách quan. Do vậy, tác giả chọn đề tài “Tội cướp giật tài sản từ thực tiễn thành

phố Đà Nẵng” làm đề tài Luận văn thạc sỹ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Tội cướp giật tài sản đã được nghiên cứu, đề cập ở nhiều hình thức, mức

độ, khía cạnh khác nhau như:

Một số luận văn, luận án liên quan như: Luận án Tiến sỹ luật học "Trách

nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu" của Nguyễn Ngọc Chí, năm

2000; Luận văn thạc sỹ “Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam

2

từ thực tiễn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội” của Phan Thị Thu Lê, năm

2015; Luận văn thạc sỹ của Lê Tấn Hùng về “Tội cướp giật tài sản theo pháp

luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” năm 2012; Luận văn thạc

sỹ luật học “Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn

tỉnh Hưng Yên” của Nguyễn Thị Toàn, năm 2015…

Các bài viết như: Đặng Thúy Quỳnh (2012), “Bàn về tội "Cướp giật tài

sản" và tội "Công nhiên chiếm đoạt tài sản" trong Bộ luật hình sự năm 1999”,

Tạp chí Kiểm sát số 19/2012, tr. 24-25, 31; Trần Thị Lịch (2016), “Tội cướp

giật tài sản trong Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2015 và một số giải

pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm”; Tạp chí Tòa án nhân dân số 24/2012,

tr. 24-26; Trần Đình Hải (2015), Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ

luật hình sự năm 1999 về "Tội cướp giật tài sản", Nguyễn Văn Khoa Điềm

(2018), “Một số vấn đề đặt ra trong công tác phòng ngừa tình hình tội cướp

giật tài sản hiện nay trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học

Kiểm sát số 4/2018, tr. 34-42; Tạp chí Nghề Luật số 1/2016, tr. 56-58; Đặng

Thúy Quỳnh (2012), “Phạm tội cướp giật tài sản dẫn đến chết người hay phạm

hai tội cướp giật tài sản và tội giết người”, Tạp chí Kiểm sát số 3/2015, tr. 38-

43;

Như vậy, có thể thấy có nhiều tác giả đã nghiên cứu về tội cướp giật tài

sản. Tuy nhiên, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu về loại tội phạm này được

một số tác giả khác khai thác mang tính tổng quát, hoặc một số tác giả khai thác

mang tính riêng biệt ở từng địa phương, nhưng hiện nay chưa có một công trình

khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về tội cướp giật tài sản từ thực tiễn thành

phố Đà Nẵng. Trong luận văn này tác giả đề cập đến những vấn đề về lý luận

và thực tiễn trên cơ sở tổng hợp, nghiên cứu và đánh giá tội cướp giật tài sản

trên địa thành phố Đà Nẵng trong một khoảng thời gian nhất định.

3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng

về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn từ năm 2015

đến tháng 6 năm 2020, luận văn đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật hình

sự về tội cướp giật tài sản, cũng như kiến nghị, giải pháp áp dụng quy định của

pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản một cách phù hợp hơn nhằm nâng cao

hiệu quả đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Đà

Nẵng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu, phân tích làm rõ và bổ sung hoàn thiện lý luận tội cướp

giật tài sản;

- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội cướp giật tài sản trên

địa bàn thành phố Đà Nẵng hiện nay, làm rõ kết quả đã đạt được, hạn chế, thiếu

sót và nguyên nhân của hạn chế thiếu sót;

- Đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống

và xử lý tội phạm này đảm bảo việc áp dụng pháp luật được chính xác.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Tác giả nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội cướp giật tài

sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng theo pháp luật hình sự Việt Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

+ Phạm vi về nội dung: Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp

luật của tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

4

+ Phạm vi về tội danh: Đề tài luận văn chỉ nghiên cứu tội cướp giật tài

sản quy định tại Điều 171 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và

nghiên cứu so sánh với Điều 136 BLHS năm 1999.

+ Phạm vi về chủ thể: Thực tiễn áp dụng pháp luật tại Toà án nhân dân

thành phố Đà Nẵng trong đó chủ thể chính là Thẩm phán. Trong quá trình thực

hiện có sự phối hợp với cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát thành phố Đà Nẵng.

+ Pham vi về địa bàn: Đề tài luận văn nghiên cứu trên phạm vi địa bàn

thành phố Đà Nẵng.

+ Phạm vi về thời gian: Thời gian nghiên cứu của luận văn giai đoạn từ

năm 2015 đến hết tháng 6 năm 2020.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận dựa trên nền tảng phương pháp luận của phép duy vật biện

chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng

chống tội phạm. Quá trình nghiên cứu đề tài luận văn còn sử dụng các phương

pháp nghiên cứu khoa học khác để thu thập tài liệu làm sáng tỏ các nội dung

cần nghiên cứu của luận văn.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:

- Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học

Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Pháp quyền

XHCN; đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước

Pháp quyền.

+ Phương pháp phân tích, bình luận, so sánh… được sử dụng trong

5

Chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề nhận thức chung về tội cướp giật tài

sản theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam.

+ Phương pháp thống kê, đánh giá, tổng hợp, đối chiếu được sử dụng tại

Chương 2 khi nghiên cứu đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật

hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản từ thực tiễn địa bàn thành phố Đà

Nẵng.

+ Phương pháp quy nạp, tổng hợp được sử dụng tại Chương 3 khi nghiên

cứu, đề xuất định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của

pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản từ thực tiễn địa bàn thành

phố Đà Nẵng.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Đề tài không những góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận tội cướp

giật tài sản mà còn góp phần nâng cao nhận thức và áp dụng pháp luật cũng

như hoàn thiện lý luận về tội cướp giật tài sản trong khoa học luật hình sự Việt

Nam.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Với kết quả đạt được tác giả mong muốn luận văn có thể được sử dụng

làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo luật tại Học viện cũng như là tài

liệu để các học viên nghiên cứu.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm 3 Chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội cướp giật tài sản.

Chương 2. Tình hình đặc điểm có liên quan và thực trạng áp dụng quy

6

định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản từ thực tiễn địa

bàn thành phố Đà Nẵng.

Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật

hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI CƯỚP

7

GIẬT TÀI SẢN.

1.1. Khái niệm, dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản

1.1.1. Khái niệm tội cướp giật tài sản

Theo quy định của Điều 8 BLHS Việt Nam năm 2015, sửa đổi, bổ sung

năm 2017 thì: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong

BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại

thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,

toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn

hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của

tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,

xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo

quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự” [7, Điều 8].

Tội cướp giật tài sản trước đó đã từng được quy định tại điều 136 Bộ luật

hình sự 1999 và tại Điều 131 và Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1985. Bộ luật

hình sự năm 2015 quy định tội cướp giật tài sản Điều 171 không mô tả cụ thể

những dấu hiệu đặc trưng của tội cướp giật tài sản mà chỉ nêu tội danh. Các nhà

lập pháp không miêu tả cụ thể những dấu hiệu của Tội cướp giật tài sản mà chỉ

nêu tội danh cướp giật tài sản như sau: “Người nào cướp giật tài sản của người

khác, thì bị phạt…”. Tuy còn nhiều quan điểm chưa thống nhất với nhau và

chưa có một định nghĩa chuẩn xác từ phía nhà lập pháp nhưng xuất phát từ lý

luận và thực tiễn xét xử, chúng ta có thể đưa ra định nghĩa khoa học của khái

niệm: “Tội cướp giật tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định

trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý

bằng cách công khai bất ngờ chiếm đoạt tài sản của người khác rồi nhanh

chóng tẩu thoát”.

8

Đặc điểm của Tội cướp giật tài sản là được thực hiện hành vi phạm tội

một cách cố ý, người phạm tội đã lợi dụng sơ hở của người đang quản lý tài sản

để giật lấy tài sản một cách nhanh chóng mà người quản lý tài sản khó có thể

giữ được hoặc giằng lại được. Trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, đối

tượng có thể phải sử dụng một lực nhất định tác động nhằm nhanh chóng chiếm

đoạt tài sản làm cho chủ sở hữu không kịp phản ứng. Do đó, tài sản mà người

phạm tội cướp giật chỉ có thể là loại tài sản gọn nhẹ như: dây chuyền vàng,

đồng hồ, hoa tai, điện thoại, túi xách… Một số trường hợp người phạm tội cướp

giật cả những tài sản cồng kềnh, to lớn khác như xe đạp, xe máy vì sau khi tội

phạm giật được tài sản lại dùng ngay những tài sản đó làm phương tiện để tẩu

thoát. Yếu tố bất ngờ cũng là một dấu hiệu đặc trưng của loại tội phạm này.

Hành vi giật tài sản của người phạm tội được thực hiện một cách nhanh

chóng và công khai, tội phạm không có ý định che dấu hành vi của mình đối

với chủ sở hữu tài sản hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản hoặc đối với

những người khác. Đây là một trong những đặc trưng để phân biệt tội cướp giật

tài sản với những trường hợp phạm tội khác như: tội trộm cắp, lừa đảo, lạm

dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không có tính công khai, nhanh chóng.

Tính công khai của hành vi cướp giật tài sản là công khai với chủ sở hữu

hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản là bị giật tài sản, hành vi giật tài sản

một cách nhanh chóng đã tạo ra yếu tố bất ngờ với chủ sở hữu hoặc người có

trách nhiệm về tài sản làm cho những người này không có khả năng giữ được

tài sản đang quản lý. Vì vậy, nếu người phạm tội thực hiện hành vi vào ban

đêm hay có những thủ đoạn làm cho chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm

quản lý tài sản không đề phòng thì hành vi phạm tội vẫn là hành vi cướp giật.

1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản

a. Khách thể của tội phạm

9

Khách thể của tội phạm nói chung là những quan hệ xã hội được pháp

luật hình sự bảo và bị các hành vi phạm tội xâm hại đến. Việc quy định những

quan hệ xã hội nào được luật hình sự bảo vệ là khách thể của tội phạm phụ

thuộc vào ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội nhưng thường là

các quan hệ xã hội quan trọng trong đời sống xã hội.

Khách thể bị xâm hại trực tiếp của Tội cướp giật tài sản là quyền sở hữu

đối với tài sản của người sở hữu tài sản. Những tài sản bị nhà nước cấm lưu

hành như vũ khí quân dụng, băng đĩa hình đồi trụy, ma túy, pháo nổ,... không

là đối tượng của tội cướp giật tài sản.

Tội cướp giật tài sản ngoài khách thể chủ yếu bị xâm phạm là tài sản còn

xâm phạm các quan hệ nhân thân. Nhiều vụ cướp giật tài sản hiện nay đã gây

ra những hậu quả rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ của người bị hại

có trường hợp dẫn đến chết người. Tuy những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ

không phải là đối tượng chính mà người phạm tội xâm hại, nhưng trước khi

thực hiện hành vi cướp giật, người phạm tội nhận thức được tính chất nguy

hiểm của hành vi và hậu quả nguy hiểm của hành vi nhưng vẫn thực hiện để

mặc cho hậu quả xảy ra. Do đó BLHS năm 2015 khi quy định tội cướp giật tài

sản đã đưa vào trong cấu thành dấu hiệu về thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ

và coi đây là những tình tiết định khung hình phạt. Như vậy, xác định khách

thể của tội cướp giật tài sản là các quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân là hoàn

toàn phù hợp với lý luận cũng như thực tiễn đấu tranh phòng chống loại tội

phạm này trong điều kiện hiện nay.

b. Mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của tội phạm là sự tổng hợp các dấu hiệu bên ngoài của

tội phạm, có những dấu hiệu như: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả tác

hại do hành vi đó gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm và hậu

10

quả tác hại, thời gian, địa điểm, phương pháp, phương tiện và công cụ thực hiện

tội phạm.

Điều luật không mô tả cụ thể hành vi khách quan của tội cướp giật tài

sản, tuy nhiên căn cứ vào khái niệm, vào các yếu tố cấu thành tội cướp giật tài

sản thì tội cướp giật tài sản có những hành vi sau:

Dấu hiệu đặc trưng của tội cướp giật tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản

của người khác một cách công khai, nhanh chóng. Trong đó, chiếm đoạt tài sản

là hành vi chiếm hữu (nắm giữ, quản lý) trái phép tài sản của người khác để tạo

cho mình khả năng định đoạt tài sản đó. Tội phạm được coi là hoàn thành từ

thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong điều

luật. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt không ảnh hưởng tới việc định tội đối với

hành vi cướp giật tài sản.

Thông thường, hành vi giật tài sản một cách nhanh chóng đã tạo ra yếu

tố bất ngờ đối với chủ sở hữu hoặc người người đang quản lý tài sản làm cho

những người này không có khả năng bảo vệ được tài sản mà mình đang quản

lý.

Một số trường hợp người phạm tội muốn tạo ra yếu tố bất ngờ đối với

chủ sở hữu hoặc đang quản lý tài sản nhưng thủ đoạn phạm tội không làm cho

chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản bị bất ngờ nên người

phạm tội không thực hiện được hành vi giật tài sản.

Hành vi giật tài sản của người phạm tội được thực hiện một cách công

khai, người phạm tội không có ý thức che giấu hành vi của mình. Đây cũng là

một đặc trưng để phân biệt với những trường hợp phạm tội khác.

Tính chất công khai của hành vi cướp giật tài sản là công khai với chủ

sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản là bị giật chứ không phải công

khai với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản về thân phận của

11

người phạm tội.

Về hậu quả: Hậu quả của tội cướp giật tài sản là tài sản bị của người sở

hữu bị chiếm đoạt. Ngoài ra còn có thể xảy ra thiệt hại về sức khỏe, thân thể,

tính mạng của nạn nhân.

Người phạm tội cướp giật tài sản có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự

dù có hậu quả xảy ra hay không. Tức là chỉ cần có hành vi nhưng chưa chiếm

đoạt được tài sản thì vẫn phải chịu trách nhiệm. Ngoài ra giá trị tài sản ít hay

nhiều cũng không làm ảnh hưởng đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự mà

đây sẽ là một trong những yếu tố để định khung hình phạt.

c. Mặt chủ quan của tội phạm

Mặt chủ quan của tội phạm ở đây là yếu tố lỗi của tội phạm, đối với tội

cướp giật tài sản, lỗi ở đây là lỗi cố ý trực tiếp. Tức là người phạm tội biết rõ

hành vi cướp giật tài sảnlà vi phạm pháp luật, nhưng vẫn thực hiện nhằm mục

đích vụ lợi, chiếm đoạt tài sản bất hợp pháp. Tội cướp giật tài sản được thực

hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức được hành vi giật tài sản

là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội với mong muốn

là chiếm đoạt được tài sản.

Tội cướp giật tài sản không quy định dấu hiệu động cơ là dấu hiệu bắt

buộc của tội phạm này. Căn cứ vào mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm

tội cướp giật tài sản thì người phạm tội phải có động cơ tư lợi, mong muốn

chiếm đoạt tài sản của người khác để phục vụ cho nhu cầu và lợi ích bản thân.

Động cơ đã thúc đẩy, tạo động lực để người phạm tội thực hiện hành vi đến

cùng. Mục đích của tội cướp giật tài sảnlà để chiếm đoạt tài sản của người bị

hại.

d. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội cướp giật tài sản là chủ thể thường, tức là bất cứ ai có

12

năng lực trách nhiệm hình sự đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Như vậy người phạm tội cướp giật tài sản là người đủ từ 14 tuổi trở lên,

khi thực hiện hành vi phạm tội không bị mắc bệnh tâm thần, có khả năng nhận

thức, và có thể điều khiển hành vi của mình. Bởi vì, tội cướp giật tài sản quy

định trong Bộ luật Hình sự là tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt

nghiêm trọng do cố ý nên theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự thì nếu

người từ đủ 14 tuổi nhưng dưới 16 tuổi nếu phạm tội quy định tại khoản 2, 3, 4

Điều 171 Bộ luật Hình sự thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của

mình..

e. Hình phạt

Theo quy định tại Điều 171 BLHS năm 2015 Tội cướp giật tài sản bao

gồm bốn khung hình phạt:

Khoản 1: hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Đây là mức phạt khi không có các dấu hiệu định khung đối với tội cướp

giật tài sản. Khi đưa ra mức phạt trong khung hình phạt này tòa án sẽ căn cứ

vào những yếu tố như là mức độ dùng vũ lực, các tình tiết tăng nặng, tình tiết

giảm nhẹ, có chiếm đoạt được tài sản hay không. Chẳng hạn đối với những

người thuộc trong cùng một khung hình phạt này, người sử dụng vũ lực nặng

hơn thì sẽ có mức phạt cao hơn, người có nhiều tình tiết giảm nhẹ hơn sẽ phải

chịu mức phạt thấp hơn người không có tình thiết giảm nhẹ, người chiếm đoạt

được tài sản sẽ có mức phạt cao hơn người chưa chiếm đoạt được tài sản…

Khoản 2: Hình phạt tù từ 03 năm đến 10 năm áp:

Khoản 2 Điều 171 BLHS năm 2005 quy định: “Phạm tội thuộc một trong

các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến 10 năm”.

Các tình tiết tăng nặng bao gồm:

13

a) Phạm tội có tổ chức:

Phạm tội có tổ chức, là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp

đặt vai trò của những người tham gia. Trong đó mỗi người thực hiện một hoặc

một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu. Theo quy định

tại khoản 2 Điều 17 BLHS thì, người tổ chức, người thực hành, người xúi giục,

người giúp sức đều là những người đồng phạm.

b) Có tính chất chuyên nghiệp:

Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp còn là tình tiết tăng nặng trách

nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 52 BLHS. Hướng dẫn của

Nghị quyết về “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” được hiểu là người phạm

tội cố ý 05 lần thực hiện tội phạm trở lên và người phạm tội đều lấy các lần

phạm tội làm nghề sinh sống, lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống

chính đã được hướng dẫn cụ thể tại tiểu mục 5 Nghị quyết số 01/2006/NQ-

HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000

đồng;

Người phạm tội cướp giật tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến

dưới hai trăm triệu đồng. Định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào

thời điểm thực hiện hành vi phạm tội. Việc định giá tài sản về nguyên tắc là xác

định giá trị tài sản theo giá thị trường tại thời điểm tài sản bị chiếm đoạt. Xác

định thiệt hại thực tế của tài sản bị xâm hại là như thế nào. Đồng thời cần quy

định bắt buộc đối với các cơ quan chuyên môn phải có cán bộ chuyên trách

trong lĩnh vực định giá tài sản trên cơ sở đó mới có thể đảm bảo sự khách quan,

trung thực trong việc định giá tài sản. Đồng thời cũng cần sớm ban hành văn

bản hướng dẫn về vấn đề này để khắc phục hạn chế đã và đang diễn ra trên thực

tiễn.

14

d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm:

Theo Thông tư số 02/TTLT ngày 25/12/2001 của TANDTC,

VKSNDTC, Bộ công an, Bộ tư pháp về áp dụng Chương XIV quy định: “Dùng

thủ đoạn nguy hiểm trong Tội cướp giật tài sản mà nguy hiểm đến tính mạng,

sức khỏe của người bị hại hoặc của người khác như: dùng xe máy, dùng mô tô

để thực hiện việc cướp giật của người khác đang đi mô tô, xe máy”.

đ) Hành hung để tẩu thoát:

Hành hung để tẩu thoát là (Hành vi) dùng sức mạnh chống lại việc bắt

giữ để trốn thoát (việc bắt giữ được thực hiện ngay sau khi hành vi phạm tội

xảy ra).

Hành hung để tẩu thoát là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng của

nhiều tội phạm trong nhóm tội xâm phạm sở hữu như tội trộm cắp tài sản, tội

cướp giật tài sản... Hành hung để tẩu thoát đòi hỏi có những đặc điểm sau: 1)

Có hành vi dùng sức mạnh tác động đến người bắt giữ. Hành vi này không đòi

hỏi phải gây thương tích; 2) Mục đích của hành vi dùng sức mạnh tác động đến

người bắt giữ (chống trả) chỉ nhằm trốn thoát mà không phải nhằm giữ tài sản

(nếu chống trả nhằm giữ bằng được tài sản sẽ bị coi là trường hợp chuyển hóa

thành tội cướp tài sản).

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ

lệ tổn thương cơ thể từ 11 – 30%:

Đây là trường hợp khi thực hiện hành vi phạm tội cướp giật người phạm

tội đã Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ

tổn thương cơ thể từ 11 – 30%. Khách thể chính bị xâm hại của tội cướp giật

tài sản vẫn là quyền sở hữu tài sản, tuy nhiên một số trường hợp người phạm

tội lại gây ra thương tích cho bị hại, thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho

người khác ngoài ý muốn của mình. Cách tính tỷ lệ thương tích hay tổn hại sức

15

khỏe tham khảo Thông tư 20/2014/TT-BYT ngày 12 tháng 06 năm 2014 của

Bộ Y tế.

g) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người

già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ:

Do đây là một trong 4 tình tiết định khung tăng nặng mới được quy định

tại điểm tình tiết quy định tại điểm e khoản 2 Điều 171 BLHS năm 2015 (sửa

đổi, bổ sung 2017), nên học viên sẽ đi sâu phân tích về tình tiết này:

Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già

yếu hoặc người không có khả năng tự vệ. Đây là tình tiết định khung tăng nặng

trách nhiệm hình sự mới đối với tội cướp giật tài sản để đáp ứng yêu cầu của

việc đấu tranh phòng, chống tội phạm này trong tình hình hiện nay, được áp

dụng đối với hành vi cướp giật tài sản được thực hiện từ ngày 1/1/2018. Tình

tiết này là tổng hợp của 4 dấu hiệu định khung có tính chất nguy hiểm tương

đương nhau được quy định chung trong cùng một điểm của điều luật, đó là:

phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phạm tội với phụ nữ mà biết là có thai,

phạm tội với người già yếu và phạm tội với người không có khả năng tự vệ.

Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi. BLHS hiện hành đã cụ thể hóa quy

định về giới hạn độ tuổi, trong đó thay thế thuật ngữ “trẻ em” trước đây bằng

thuật ngữ xác định rõ độ tuổi là “người dưới 16 tuổi”. Quy định này tạo sự rõ

ràng, thống nhất trong việc áp dụng quy định của BLHS. Xuất phát từ quan

điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ những người khó

có khả năng tự vệ trước những hành vi xâm hại của tội phạm làm tổn hại lớn

cho sự phát triển bình thường về thể chất, tinh thần cho đối tượng đặc biệt này.

Việc xác định độ tuổi của người dưới 16 tuổi thực hiện theo quy định tại Điều

417 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 [36]. Phạm tội đối với người dưới 16

tuổi là tình tiết khách quan nên chỉ cần xác định bị hại là người dưới 16 tuổi thì

16

người phạm tội đã bị áp dụng tình tiết tăng nặng này mà không cần người phạm

tội phải nhận thức được đối tượng mình thực hiện hành vi cướp giật tài sản là

người dưới 16 tuổi.

Phạm tội đối với phụ nữ mà biết là có thai. Phụ nữ có thai cũng là đối

tượng cần được bảo vệ đặc biệt. Tuy nhiên, đây là tình tiết thuộc ý thức chủ

quan của người phạm tội “mà biết”, tức là phải xác định người phạm tội biết bị

hại là người đang có thai mà vẫn thực hiện hành vi cướp đối với người đó mới

áp dụng tình tiết tăng nặng này. Việc biết của người phạm tội có thể do bị cáo

và mọi người đều nhìn thấy được (thai đã lớn) hoặc biết được, nghe được từ

các nguồn thông tin khác nhau về việc người phụ nữ đó đang mang thai.

Phạm tội đối với người già yếu. Đây không phải là tình tiết thuộc ý thức

chủ quan của người phạm tội nên không đòi hỏi người phạm tội phải biết người

mà mình xâm phạm là người già yếu, chỉ cần xác định người bị xâm phạm là

người già yếu thì người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo tình tiết

định khung tăng nặng này. Tuy nhiên, quy định về người già yếu mới được quy

định lần đầu tiên trong BLHS mà hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể. Theo

hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, người già được xác định là người từ

70 tuổi trở lên”[53]; “Người quá già yếu là người từ 70 tuổi trở lên hoặc người

từ 60 tuổi trở lên nhưng thường xuyên đau ốm”[54]. Vì vậy, khi xem xét quyết

định áp dụng tình tiết phạm tội đối với người già yếu, Tòa án phải căn cứ vào

mỗi trường hợp cụ thể để đánh giá tình trạng sức khỏe và độ tuổi của người bị

hại tại thời điểm bị tội phạm xâm hại để quyết định áp dụng hay không. Học

viên đồng tình với quan điểm cho rằng, “người già yếu phải là người từ đủ 70

tuổi trở lên và đang ở trong tình trạng ốm đau hoặc không trong tình trạng ốm

đau nhưng là người yếu”[40].

Phạm tội đối với người không có khả năng tự vệ. Đây cũng là tình tiết

17

thuộc dấu hiệu khách quan nên không yêu cầu người phạm tội biết bị hại có

phải là người không có khả năng tự vệ hay không. Quy định này cũng chưa có

văn bản hướng dẫn có giá trị pháp lý của cơ quan có thẩm quyền.”[53].

h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội:

Khi việc cướp giật tài sản được lặp đi lặp lại một cách liên tục, thường

xuyên ở cùng một khu vực, gây hoang mang cho nhiều người trên một địa bàn

nhất định, làm cho rất nhiều người vì quá sợ hãi nên phải bỏ học, bỏ việc làm,

không dám lao động sản xuất, không dám buôn bán…

i) Tái phạm nguy hiểm:

Tái phạm nguy hiểm còn là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được

quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự, người tái phạm, tái phạm nguy hiểm

không chỉ thực hiện hành vi phạm tội mà còn đã từng bị kết án và chưa được

xóa án tích trước đó. Tái phạm nguy hiểm thể hiện nhân thân của người phạm

tội không tốt, không ăn năn sau khi đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà còn

thực hiện hành vi phạm tội.

- Khoản 3: hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000

đồng;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ

lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh:

Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh là trường hợp người phạm tội lợi dụng vào

hoàn cảnh thiên tai, dịch bệnh để thực hiện hành vi phạm tội cướp giật tài sản.

Do thiên tai, dịch bệnh là một hoàn cảnh khó khăn mà không một ai mong

muốn, nếu tội phạm lợi dụng tình hình này để phạm tội thì đây sẽ là một tình

18

tiết định khung tăng nặng của mức phạt tù.

- Khoản 4: hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ

tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở

lên;

c) Làm chết người trong tội cướp giật tài sản không phải là hành vi người

phạm tội trực tiếp dùng vũ lực để tấn công trực tiếp vào nạn nhân với mục đích

làm nạn nhân thiệt mạng để cướp giật tài sản, mà là trong quá trình thực hiện

cướp giật tài sản, thủ phạm không mong muốn nạn nhân chết nhưng vẫn bỏ

mặc cho hậu quả vẫn xảy ra. Người bị chết không chỉ là nạn nhân của hành vi

cướp giật mà còn có thể là người khác. Ví dụ: A cướp giật tài sản của B, do bị

giật tài sản nên B điều khiển xe máy bị mất lái đi không đúng phần đường, đã

gây tai nạn làm một người chết.

d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp: Khi đất nước

đang trong tình trạng chiến tranh, hoặc tình trạng khẩn cấp khác mà tội phạm

lợi dụng tình trạng khó khăn này để phạm tội. Lúc này để quyết định hình phạt

thì cần phải lưu ý dấu hiệu lợi dụng ở đâu nếu người phạm tội trong chiến tranh,

tình trạng khẩn cấp mà không lợi dụng sự kiện này thì đây sẽ không phải là một

căn cứ để quyết định hình phạt. Tình trạng chiến tranh là trạng thái xã hội đặc

biệt của đất nước được tuyên bố từ khi Tổ quốc bị xâm lược cho đến khi hành

vi xâm lược đó được chấm dứt trên thực tế. Người phạm tội đã lợi dụng hoàn

cảnh có chiến tranh để cướp giật tài sản, hành vi đó có thể được thuận lợi hơn,

khó bị phát hiện hoặc có thể đạt mục đích lớn hơn. Không nhất thiết lúc phạm

tội hoặc nơi phạm tội phải đang có chiến sự mà chỉ cần người phạm tội lợi dụng

19

hoàn cảnh chiến tranh để thực hiện hành vi cướp giật tài sản dù ở đâu, lúc nào

vẫn bị áp dụng tình tiết tăng nặng này.

“Tình trạng khẩn cấp về quốc phòng là trạng thái xã hội của đất nước khi

có nguy cơ trực tiếp bị xâm lược hoặc đã xảy ra hành vi xâm lược hoặc bạo

loạn có vũ trang nhưng chưa đến mức tuyên bố tình trạng chiến tranh” [Luật

Quốc phòng 2018]. Tuy nhiên, đó là tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, còn

tình trạng khẩn cấp nói chung là gì thì chưa có văn bản nào giải thích. Theo

cách hiểu thông thường, tình trạng khẩn cấp là tình trạng cấp bách của xã hội

và của cá nhân mỗi người, khi ở trong tình trạng đó, mọi người đều tập trung

vào việc giải quyết để nhanh chóng thoát ra khỏi tình trạng đó. Tình trạng khẩn

cấp này không phải do thiên tai, địch họa hoặc dịch bệnh gây ra, mà do chính

con người, hoàn cảnh xã hội gây nên như tai nạn, hỏa hoạn,… Tình trạng này

chỉ xảy ra trong thời gian nhất định, không kéo dài. Vì vậy, khi xác định người

phạm tội lợi dụng tình trạng khẩn cấp để phạm tội hcần xác định đó có phải là

tình trạng khẩn cấp hay không; đồng thời, phải xác định người phạm tội có hành

vi lợi dụng tình trạng khẩn cấp đó để thực hiện hành vi phạm tội hay không.

Như vậy, lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp để phạm tội cướp

giật tài sản là trường hợp người phạm tội dựa vào các hoàn cảnh nêu trên để

thực hiện hành vi cướp giật tài sản. Mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội

cướp giật tài sản trong trường hợp này phụ thuộc tính chất của hoàn cảnh chiến

tranh, tính chất và mức độ của tình trạng khẩn cấp và mức độ lợi dụng nhiều

hay ít vào hoàn cảnh đặc biệt này.

Hình phạt bổ sung đối với người phạm Tội cướp giật tài sản

Ngoài phạt tù thì theo quy định tại Khoản 5 Điều 171 người phạm Tội

cướp giật tài sản còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu

đồng.

20

1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài

sản

1.2.1. Giai đoạn từ Cách mạng Tháng tám năm 1945 đến trước khi

ban hành BLHS năm 1985

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân

Chủ Cộng Hòa non trẻ vừa ra đời đã phải đối phó với thù trong, giặc ngoài, vừa

từng bước xây dựng xã hội mới. Đặc điểm của giai đoạn này là áp dụng pháp

luật cũ của đế quốc và phong kiến theo tinh thần mới nhưng đảm bảo nguyên

tắc dân chủ, công bằng. Đặc điểm cơ bản của giai đoạn này là áp dụng pháp

luật của đế quốc và phong kiến theo tinh thần mới với nguyên tắc đảm bảo dân

chủ, công bằng. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước đã ban

hành nhiều văn bản pháp luật để bảo vệ thành quả cách mạng là công cụ hữu

hiệu nhất, đặc biệt đã thể hiện chính sách hình sự đối với các hành vi xâm phạm

sở hữu. Chỉ trong một thời gian rất ngắn kể từ ngày Bản Tuyên ngôn Độc lập

được công bố đến ngày 19/12/1946 - Ngày Toàn quốc kháng chiến Nhà nước

Việt Nam đã ban hành 479 văn bản pháp luật, trong đó có 243 sắc lệnh 172

nghị định, 46 thông tư và 12 văn bản khác.

Ngày 09/11/1946, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua

Hiến pháp đầu tiên, tại Điều 12 đã ghi nhận: “Quyền tư hữu tài sản của công

dân Việt Nam được bảo đảm”.

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (Ngày 07 tháng 5 năm 1954) thực

dân pháp bị thất bại trên toàn mặt trận và buộc Pháp phải ngồi vào bàn hội nghị

Giơ-ne-vơ. Đất nước ta chia thành hai miền, miền Nam tiếp tục đấu tranh giải

phóng đất nước, miền Bắc tiến hành xây dựng XHCN và lao động sản xuất chi

viện người và của cho miền Nam. Tuy mới được ban hành nhưng pháp luật

hình sự thời kỳ này đã khái quát được những hành vi XPSH trong thực tế và

21

quy định thành các tội phạm cụ thể làm cơ sở cho Tòa án kịp thời xét xử. Đồng

thời, các văn bản này còn quy định đường lối xử lý các tội xâm phạm sở hữu

dựa trên nguyên tắc trừng trị kết hợp với khoan hồng, giáo dục cải tạo và đã có

sự cá thể hóa hình phạt đối với các hành vi phạm tội. Nhà nước đã ban hành

nhiều văn bản pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội và quản lý đất nước,

trong đó có nhiều văn bản liên quan trong lĩnh vực hình sự quy định về tội Cướp

giật tài sản, cụ thể là:

Pháp lệnh số 149-LCT này vào ngày 21 tháng 10 năm 1970 về Trừng trị

các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, đã quy định về tội cướp giật như

sau:

Điều 5. Tội cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa.

1. Kẻ nào cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 1 năm đến

7 năm.

2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:

a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;

b) Có tổ chức;

c) Hành hung để tẩu thoát;

Thì bị phạt tù từ 5 năm đến 15 năm.

Sau ngày 30/4/1975, do hoàn cảnh và điều kiện lịch sử Nước ta vừa giải

phóng, nhiệm vụ trọng tâm của Nước ta thời kỳ này chủ yếu tập trung cho việc

tái thiết đất nước và cũng cố chính quyền cách mạng, nên chưa kịp thời xây

dựng Bộ luật hình sự với đúng nghĩa của nó và cũng chưa có các văn bản pháp

luật cụ thể để xử lý các tội phạm xâm hại sử hữu nói chung và tội cướp giật tài

sản nói riêng. Vì vậy, pháp luật thời kỳ này vẫn duy trì các qui định của pháp

luật trước đây. Đồng thời chủ yếu là áp dụng tiền lệ pháp để xử lý hành vi phạm

22

tội nói chung, phạm tội Cướp giật tài sản nói riêng. Tuy nhiên giai đoạn này

cũng có thể kể đến việc ngày 15 tháng 3 năm 1976 Chính phủ Cách mạng lâm

thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã ban Sắc luật số 03-SL/76, quy định về

các tội phạm và hình phạt.

1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành BLHS năm 1985 đến trước khi

ban hành BLHS năm 1999

Đến năm 1985, nền kinh tế nước ta đã có sự phát triển nhất định, đời

sống kinh tế của người dân được nâng lên. Tuy nhiên nạn trộm cắp, cướp bóc

tài sản của Nhà nước cũng như của công dân có chiều hướng tăng nhanh. Một

phần do tác động của kinh tế thị trường cũng như việc do nhập của các băng

đảng tội phạm bên ngoài vào. Nhận thức rõ điều đó, Đảng và Nhà nước đã có

nhiều chủ trương phải nhanh chóng ban hành BLHS để có căn cứ xử phạt

nghiêm minh (để cai trị). Sau nhiều ngày tháng dự thảo, ngày 27/06/1985 Quốc

Hội đã thông qua BLHS 1985 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1986. Lần đầu tiên

nước ta có một bộ luật, đánh dấu một bước tiến bộ vượt bậc trong lịch sử lập

pháp hình sự của Nhà nước ta.

Bộ luật hình sự năm 1985 đã giành hai chương quy định về tội xâm phạm

sở hữu, chương IV phần các tội phạm “các tội xâm phạm sở hữu XHCN”,

chương VI phần các tội phạm “các tội xâm phạm sở hữu của công dân”. Việc

giành riêng hai chương quy định về các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình

sự năm 1985 đã khẳng định mức độ nghiêm trọng của các hành vi xâm phạm

quyền sở hữu trong thực tiễn cũng như sự cần thiết phải xác lập một cơ sở pháp

lý thống nhất để xử lý hành vi phạm tội. Cụ thể là quy định trong Bộ luật hình

sự Việt Nam năm 1985 về loại tội phạm trong lĩnh vực xâm phạm sử hữu nói

chung và tội Cướp giật tài sản nói riêng. Tuy có thể do sự ảnh hưởng của yếu

tố lịch sử về công cuộc đổi mới đất nước, đổi mới nền kinh tế (trước Đại hội

23

đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra từ ngày 15-18/12/1986), cho

nên trong quá trình dự thảo và ban hành Bộ luật hình sự 1985, các nhà làm luật

đã quy định nội dung của tội về Tội cướp giật tài sản như sau:

1. Người nào cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản Xã hội Chủ

Điều 131 quy định:

nghĩa, nếu không thuộc trường hợp quy định ở Điều 129, thì bị phạt tù từ một

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba

năm đến năm năm.

a. Có tổ chức hoặc có tính chuyên nghiệp.

b. Dùng thủ đoạn nguy hiểm; hành hung để tẩu thoát.

c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác.

d. Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười

năm đến mười hai năm:

năm đến hai mươi năm.

Điều 154 quy định:

1. Người nào cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản của người

khác, nếu không thuộc trường hợp quy định ở Điều 151, thì bị phạt tù từ ba

tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai

năm đến mười năm:

a. Có tổ chức hoặc có tính chuyên nghiệp.

b. Dùng thủ đoạn nguy hiểm; hành hung để tẩu thoát.

24

c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác.

d. Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy

năm đến hai mươi lăm năm.

Việc quy định trong bộ luật hình sự 1985 thành 2 Điều luật riêng về tội

Cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa và Cướp giật tài sản công dân, trong thời kỳ

đổi mới, đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với tội

phạm Cướp giật tài sản nói riêng và tội phạm xâm hại sở hữu nói chung, đồng

thời tạo cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm Cướp giật tài

sản bằng pháp luật hình sự được tốt hơn. Tuy nhiên điều luật cũng là không mô

tả cụ thể hành vi phạm tội. BLHS năm 1985 là công cụ hữu hiệu của Nhà nước

ta trong thời kỳ hòa bình sau một thời gian dài chiến tranh. Bộ luật này đã phát

huy vai trò, tác dụng to lớn trong công cuộc bảo vệ những thành quả cách mạng,

bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều

kiện ổn định xã hội để tập trung đổi mới kinh tế đất nước.

BLHS năm 1985 đã được sửa đổi bổ sung 4 lần và đến những năm cuối

thập kỷ 90, thế kỷ 20, nền kinh tế nước ta có nhiều biến chuyển tích cực, sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá được đẩy mạnh. Điều này kéo theo tình

hình tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và tội Cướp giật tài sản nói riêng

ngày càng diễn biếp phức tạp. Yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế

BLHS lại được đặt ra với nhiệm vụ đó, trong quá trình dự thảo và lấy ý kiến

góp ý các nhà làm luật đã xem xét đến việc hợp nhất 2 Điều luật quy định về

tội Cướp giật tài sản để hợp nhất thành 1 Điều luật trong BLHS mới.

1.2.3. Giai đoạn sau khi ban hành BLHS năm 1999

Sau những ngày tháng dự thảo sửa đổi, ban hành luật hình sự mới để thay

thế BLHS 1985, ngày 21/12/1999 Quốc Hội đã Thông qua BLHS 1999, có hiệu

25

lực thi hành từ ngày 01.7.2000.

Trước sự phát triển không ngừng của xã hội, việc sửa đổi, bổ sung các

quy định của BLHS 1999 trở thành một yêu cầu tất yếu. BLHS năm 1999 được

sửa đổi, bổ sung bằng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 1999. Luật

này đã được Quốc hội thông qua ngày 19/6/2009, chính thức có hiệu lực kể từ

0 giờ 00 ngày 01/01/2010.

Nếu so sánh Điều 136 của BLHS năm 1999 với Điều 131, Điều 154

BLHS năm 1985 thì có nhiều sửa đổi, bổ sung là các dấu hiệu định khung hình

phạt đã có sự cụ thể hơn, các dấu hiệu định khung mới được quy định. Hình

phạt bổ sung cũng được quy định ngay thành một phần cụ thể. Tội cướp giật

tài sản được quy định 4 khung hình phạt so với BLHS năm 1985 chỉ có 3 khung.

Khoảng cách giữa các khung hình phạt tối đa và tối thiểu trong một khung hình

phạt trong TCGTS cũng ngắn hơn. Các nhà làm luật đã phân hóa TNHS và hình

phạt tạo điều kiện cho hoạt động áp dụng pháp luật được dễ dàng và chính xác

hơn. Ngoài ra, tại BLHS năm 1985 thì tội cướp giật tài sản và tội công nhiên

chiếm đoạt tài sản được quy định chung thì đến BLHS năm 1999 tách riêng và

quy định thành hai điều luật khác nhau.

Có thể nói BLHS 1999 đã rất thành công trong việc ban hành và tổ chức

thi hành phần các loại Tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và tội Cướp giật

tài sản nói riêng. Mà cụ thể, để quá trình thi hành BLHS 1999 nói chung và tội

Cướp giật tài sản nói riêng các nhà làm luật đã ban hành một số văn bản dưới

luật để hướng dẫn thi hành (đến tận bây giờ - năm 2020) những văn bản quy

định về hướng dẫn luật vẫn có hiệu lực thi hành và những đóng góp tích cực để

Cơ quan tiến hành tố tụng (Công an, Kiểm sát, Tòa án, Thi hành án) và người

tiến hành tố tụng (ĐTV, KSV, Thẩm phán và Chấp hành viên...), dễ dành trong

việc áp dụng pháp luật, như: Thông tư liên tịch số 02/VKSTC-TATC-BCA-

BQP-BTP, ngày 25 tháng 12 năm 2001 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại

26

Chương XIV các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật Hình sự 1999 [51] và Nghị

quyết 02/HĐTP ngày 17 tháng 4 năm 2003 hướng dẫn áp dụng một số qui định

của Bộ luật Hình sự [52], học viên sẽ nêu và phân tích nội dung của các văn

bản dưới luật tại mục 1.2.2 của luận văn.

Sự ổn định của Tội Cướp giật tài sản, quy định tại Điều 133 BLHS 1999

còn được thể hiện ở dấu ấn. Mặc dù Tại kỳ họp thứ 4 - Quốc hội khóa XII,

Chính phủ đã có tờ trình với Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự

(BLHS) năm 1999. Tuy nhiên, BLHS hiện hành đã bộc lộ nhiều hạn chế đòi

hỏi phải được khắc phục... và tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa X, Quốc hội đã

ban hành Nghị quyết số 32/1999/QH 10 và cùng ngày 29-6-2009, Chủ tịch nước

đã ký lệnh công bố Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 1999

và Luật này có hiệu lực thi hành từ 0 giờ ngày 01-01-2010.

Có thể nói sau gần 20 năm, Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung 2009)

và có hiệu lực thi hành đến ngày 31.12.2017 đã đi vào cuộc sống, phát huy

những hiệu quả tích cực trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, góp

phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội

chủ nghĩa.

1.2.4. Tội cướp giật tài sản trong BLHS năm 2015

Ngày 27-11-2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua

Bộ luật Hình sự năm 2015, mặc dù phải sửa đổi bổ sung năm 2017 và chính

thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018. Tuy nhiên BLHS

2015 vẫn đánh dấu một bước tiến quan trọng trong tư duy lập pháp hình sự;

tiếp tục thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống

tội phạm, góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo

vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ chức, bảo vệ

trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân

27

theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm nói chung và tội Cướp

giật tài sản nói riêng. Bên cạnh đó với sự ra đời của BLHS 2015 cũng đã góp

phần tạo điều kiện ổn định xã hội để tập trung vào nhiệm vụ phát triển kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế

của nước ta.

Quán triệt quan điểm sửa đổi BLHS 1999 theo hướng hạn chế tối đa các

dấu hiệu, yếu tố mang tính định tính có thể dẫn đến những khó khăn nhất định

cho việc nhận thức và áp dụng thống nhất pháp luật hình sự trong thực tiễn

công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

So với Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Hình sự năm 2015 có nhiều

sửa đổi, bổ sung quan trọng về các tội xâm phạm sở hữu, trong đó có tội cướp

giật tài sản. Điều luật đã loại bỏ một số tình tiết định khung tăng nặng được qui

định tại Điều 133 BLHS năm 1999 là: Điểm g, khoản 2: : Gây hậu quả nghiêm

trọng; Điểm c, khoản 3: Gây hậu quả rất nghiêm trọng; Điểm c, khoản 4: Gây

hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Việc luật hóa các quy định hướng dẫn hiện

hành nhằm cụ thể các tình tiết định tính, định lượng trong BLHS là hết sức cần

thiết và loại bỏ các tình tiết định khung trên ra khỏi điều luật nhằm bảo đảm

minh bạch và áp dụng thống nhất,.

Bên cạnh đó, Điều 171 BLHS năm 2015 quy định thêm tình tiết: “Phạm

tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc

người không có khả năng tự vệ”; “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở

lên”; tách tình tiết “làm chết người” thành tình tiết riêng làm tình tiết định khung

hình phạt.

BLHS năm 2015 đã sửa đổi tình tiết định khung tăng nặng “Gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ…”

28

thành “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ

tổn thương cơ thể từ…”. Việc sửa đổi này nhằm đảm bảo tính đồng bộ giữa

quy định của BLHS và các văn bản pháp luật chuyên ngành. Để phù hợp với

điều kiện kinh tế xã hội ngày càng phát triển, BLHS năm 2015 cũng đã nâng

mức phạt tiền cao nhất từ 50 triệu đồng lên 100 triệu đồng.

Trong những năm gần đây, Tội cướp giật tài sản là một trong những tội

phạm hết sức nguy hiểm diễn ra phổ biến và có chiều hướng gia tăng với những

thủ đoạn trắng trợn, liều lĩnh, xâm phạm đến tài sản, sức khỏe của công dân

đồng thời làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội, gây tâm lý hoang mang,

lo lắng trong quần chúng nhân dân. Với những chế tài nghiêm khắc, những qui

định pháp luật cụ thể đã được sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật hình sự năm 2015,

trong thời gian tới các cơ quan bảo vệ pháp luật đã có một hành lang pháp lý

đầy đủ, toàn diện và cơ chế hữu hiệu đấu tranh hiệu quả với loại tội phạm này,

góp phần bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ tài sản, tính mạng cho nhân dân,

bảo đảm mọi người được sống trong một môi trường an toàn, lành mạnh. Tóm

lại, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã được ban hành với những

điểm mới hết sức tiến bộ, văn minh, thể hiện trình độ lập pháp cao, đảm bảo

được các giá trị cơ bản của hệ thống pháp luật hình sự trong điều kiện xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như tính nhân đạo, công bằng, dân chủ,

pháp chế. Đặc biệt, liên quan đến chương các tội xâm phạm sở hữu mà cụ thể

ở đây là đối với tội cướp giật tài sản. Thiết nghĩ điều cốt lõi quan trọng trong

thời điểm hiện nay là các cơ quan có thẩm quyền cần tăng cường công tác tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục, hướng dẫn và giải thích để từng bước hiện thực hóa

các quy định của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) về tội cướp giật tài sản

vào thực tiễn góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo

vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền

bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo

29

vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức

tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

1.3. Áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản

1.3.1. Khái niệm áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản

Khi có sự kiện pháp luật hình sự, sẽ phát sinh quan hệ pháp luật hình sự

và quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, khi đó hoạt động giải quyết án hình sự

được bắt đầu bằng việc khởi tố vụ án hình sự, tiến hành các hoạt động điều tra,

thông qua kết quả của hoạt động điều tra, Viện kiểm sát tiến hành hoạt động

truy tố, sau khi Viện kiểm sát truy tố, Tòa án tiến hành hoạt động xét xử. Các

cơ quan trên khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của

BLTTHS. Cụ thể khi tội phạm xảy ra, việc giải quyết vụ án phải trải qua nhiều

giai đoạn và do các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau thực hiện, nhằm xác

định chính xác sự thật vụ án, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm

tội. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ án từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử

và thi hành án hình sự, được gọi là quá trình tố tụng hình sự.

Áp dụng bộ luật hình sự là áp dụng luật nội dung, áp dụng các quy định

của bộ luật tố tụng hình sự là áp dụng luật hình thức của cơ quan tiến hành tố

tụng vào hoạt động giải quyết án hình sự. Hoạt động tố tụng hình sự chứa đựng

cả áp dụng quy phạm pháp luật nội dung và quy phạm pháp luật hình thức với

mục đích bảo đảm áp dụng BLHS chính xác. Hoạt động đó bao gồm cách thức,

trình tự tiến hành các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến

hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của các cơ quan nhà nước khác và các tổ

chức xã hội góp phần vào việc giải quyết vụ án nhằm góp phần đấu tranh phòng

chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản, trước hết là một hoạt

động ADPL nên nó có đầy đủ những đặc tính chung của hoạt động ADPL và

30

có đặc thù riêng của hoạt động ADPL hình sự về tội cướp giật tài sản. Như vậy,

Áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản là hoạt động của các cơ quan

tiến hành tố tụng vận dụng quy định của pháp luật hình sự để giải quyết trách

nhiệm hình sự của người phạm tội này.

1.3.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản

Áp dụng PLHS về tội cướp giật tài sản là một dạng của ADPL - là một

hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt nên áp dụng PLHS về tội cướp giật tài

sản có đầy đủ những đặc điểm chung của bất cứ dạng ADPL nào, đó là:

Thứ nhất, áp dụng PLHS về tội cướp giật tài sản là hoạt động mang tính

tổ chức quyền lực.

Khác với các hình thức thực hiện pháp luật khác có thể do các chủ thể

pháp luật khác tiến hành, áp dụng PLHS chỉ có thể do nhà nước thông qua

những cơ quan có thẩm quyền tiến hành. Hiến pháp quy định mỗi một loại cơ

quan trong bộ máy nhà nước nhất định như Chính phủ, các Bộ, VKS hay Tòa

án, v.v... được tiến hành hoạt động ADPL trong những lĩnh vực nhất định.

CQĐT, VKS và Tòa án là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp

luật hình sự và những cơ quan tố tụng này có quyền áp dụng mọi biện pháp cần

thiết trong hoạt động nhằm đảm bảo cho hoạt động giải quyết các vụ án hình

sự được tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật. Đảm bảo cho việc khởi tố

điều tra các vụ án hình sự được tuân theo quy định của pháp luật; bảo đảm việc

truy tố đúng người, đúng tội và đúng chính sách pháp luật.

Thứ hai, áp dụng PLHS về tội cướp giật tài sản có đặc điểm là sự điều

chỉnh các quan hệ xã hội khi có sự kiện phạm tội.

ADPL hình sự đối với tội cướp giật tài sản cũng vậy, chỉ diễn ra trong

những trường hợp rất cụ thể, trong những quan hệ pháp luật cụ thể với những

cá nhân cụ thể. Pháp luật hình sự là công cụ quyền lực nghiêm khắc nhất của

31

nhà nước, PLHS lại không thể tự mình chuyển hóa vào đời sống hiện thực để

trở thành các quyền và nghĩa vụ cụ thể của các chủ thể có liên quan. Việc thực

hiện PLHS luôn gắn liền với vai trò của nhà nước, lúc đầu là của các thủ lĩnh

hay nhà vua, sau đó dần dần được chuyển giao cho các quan tòa và cuối cùng

được chia nhỏ nữa cho các cơ quan chuyên biệt thực hiện chức năng điều tra

hay công tố. Điều đó có thể mang đến ý nghĩa là việc thực hiện PLHS chỉ có

thể thông qua hình thức ADPL.

Thứ ba, áp dụng PLHS về tội cướp giật tài sản là một hoạt động được

tiến hành với những thủ tục được quy định chặt chẽ bởi pháp luật Tố tụng hình

sự.

Pháp luật TTHS quy định chặt chẽ trình tự, thủ tục của các hoạt động

điều tra, hoạt động giám sát như: khởi tố vụ án; khởi tố bị can; các biện pháp

điều tra; các biện pháp ngăn chặn; nhập, tách vụ án hình sự; đình chỉ, tạm đình

chỉ vụ án; thời hạn điều tra, truy tố, chẩun bị xét xử và xét xử. Tóm lại, tất cả

các bước trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự đều được quy định chặt

chẽ theo các trình tự thủ tục do pháp luật TTHS hiện hành quy định. Nên trong

các văn bản pháp luật luôn quy định rõ cơ sở, điều kiện, trình tự thủ tục, quyền

và nghĩa vụ của các bên trong quá trình ADPL. Thủ tục đơn giản hay phức tạp

phụ thuộc vào tính chất, mức độ quan trọng của việc ADPL.

Thứ tư, áp dụng PLHS về tội cướp giật tài sản còn có đặc điểm là một

hoạt động sáng tạo. ADPL là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo. Bởi ADPL là

một hình thức quan trọng đưa các quy phạm pháp luật trên giấy vào điều chỉnh

các quan hệ cụ thể của đời sống xã hội. Các tình huống trong thực tiễn thì rất

đa dạng, phong phú. Vì vậy, đòi hỏi người có thẩm quyền ADPL phải nghiên

cứu kỹ lưỡng, phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện sự việc, làm sáng tỏ

các cấu thành pháp lý của nó để lựa chọn các quy phạm, ra văn bản ADPL và

32

tổ chức thi hành.

1.3.3. Vai trò của áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản

Áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết án hình sự nói chung cũng

như hoạt động giải quyết án hình sự về tội cướp giật tài sản đều là hoạt động

thường xuyên của Tòa án nhân dân trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm

vụ của mình do Hiến pháp và pháp luật quy định.

- Hoạt động ADPL trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành hình phạt các

tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội Cướp giật tài sản góp phần thực hiện

thắng lợi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phòng,

chống các tội phạm xâm phạm sở hữu và tội Cướp giật tài sản phải trên cơ sở

góp phần nâng cao và tăng cường vai trò quản lý Nhà nước bằng pháp luật nói

chung và pháp luật hình sự nói riêng, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đất nước;

- Hoạt động ADPL trong điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án các tội

Cướp giật tài sản kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh, chính xác người có

hành vi phạm tội, không làm oan người vô tội, thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, trả

lại cho người bị hại và những người được ủy quyền hợp pháp.

- Đảm bảo cho mọi hoạt động của các Cơ quan tiến hành tố tụng (Công

an, kiểm sát, Tòa án) cũng như người tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát

viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân ...) khi ADPL trong các hoạt động điều

tra, truy tố các vụ án xâm phạm sở hữu nói chung và tội Cướp giật tài sản nói

riêng được tiến hành minh bạch, có cơ chế giám sát hiệu quả.

Cuối cùng, ADPL trong xét xử án hình sự về tội cướp giật tài sản có vai

trò trong việc phổ biến và tuyên truyền giáo dục pháp luật. Qua các phiên tòa

xét xử công khai, lưu động là cần thiết, góp phần quan trọng trong việc nâng

cao sự hiểu biết về pháp luật và ý thức tôn trọng pháp luật trong quần chúng

33

nhân dân.

Kết luận Chương 1

Trong Chương 1 của Luận văn tác giả đã nghiên cứu những vấn đề lý

luận về tội cướp giật tài sản và làm rõ những dấu hiệu pháp lý của pháp luật

hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản.. Từ những nghiên cứu, phân tích về

mặt lý luận và pháp luật về tội cướp giật tài sản tác giả đã đánh giá, phân tích

làm rõ một số vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật tội cướp giật tài sản như khái

niệm, đặc điểm, vai trò của áp dụng pháp luật đối với tội phạm cướp giật tài

sản. Với việc phân tích mang tính lý luận về nhận thức đối với áp dụng pháp

luật tội cướp giật là tài sản sẽ làm nền tản, tiền đề để tác giả đi sâu vào thực tiễn

trên địa bàn thành phố Đà Nẵng tại chương 2.

CHƯƠNG 2

TÌNH HÌNH ĐẶC ĐIỂM CÓ LIÊN QUAN VÀ THỰC TRẠNG ÁP

DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ

TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH

PHỐ ĐÀ NẴNG

2.1. Đặc điểm tình hình có liên quan đến áp dụng các quy định của

pháp luật hình sự về tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà

Nẵng

2.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội

Đà Nẵng là địa bàn có vị trí trọng yếu về quốc phòng - an ninh, kinh tế -

xã hội ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên và cả nước. Dân số ngày một gia

34

tăng, đồng thời cũng là điểm đến hấp dẫn của số lượng lớn khách du lịch, đây

là những đặc điểm khiến tình hình an ninh chính trị, trật tự trị an ở đây có những

diễn biến phức tạp. Thành phố Đà Nẵng là thành phố tổng hợp đa ngành, đa

lĩnh vực; trung tâm chính trị - kinh tế - xã hội với vai trò là trung tâm công

nghiệp, tài chính, du lịch, dịch vụ, văn hóa, giáo dục - đào tạo, y tế chất lượng

cao, khoa học - công nghệ, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của khu vực Miền

Trung - Tây Nguyên và cả nước; trung tâm tổ chức các sự kiện tầm khu vực và

quốc tế. Thành phố Đà Nẵng có vị trí địa lý thuận lợi cho sự phát triển nhanh

chóng và bền vững khi nằm ở vị trí chính giữa của mảnh đất hình chữ S với các

tuyến đường bộ, đường sắt, đường hàng không chạy qua trên trục giao thông

Bắc Nam các khu công nghiệp và Vùng kinh tế được ưu đãi đầu tư và phát triển

năng động.

Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 vẫn đang tiếp tục diễn biến phức tạp,

ảnh hưởng đến nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam, đang gây ra

nhiều tác động rất lớn đến kinh tế - xã hội của Việt Nam nói chung và thành

phố Đà Nẵng nói riêng. Kinh tế thành phố Đà Nẵng trong năm 2020 không thể

duy trì được mức tăng như những năm trước, nhiều chỉ tiêu kinh tế quan trọng

của thành phố sụt giảm và có mức tăng trưởng khá thấp.

Trải qua hơn 32 năm phát triển, thành phố Đà Nẵng đã có sự thay đổi

chuyển biến sâu sắc và toàn diện trên tất cả mọi mặt của đời sống xã hội và

trong những năm gần đây, Đà Nẵng tích cực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cải

thiện môi trường, nâng cao an sinh xã hội và được coi là “Thành phố đáng sống

nhất Việt Nam”. Tuy nhiên song hành cùng với sự phát triển đi lên của nền kinh

tế - xã hội, cũng như các địa phương khác trong cả nước. Tình hình vi phạm và

tội phạm trong những năm gần đây của nước ta có chiều hướng gia tăng.

2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng

35

Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng hiện có 5 Toà chuyên trách, 03

Phòng nghiệp vụ và 07 Toà án quận huyện. Hệ thống TAND hai cấp thành phố

Đà Nẵng bao gồm: Tòa án nhân dân cấp thành phố và 7 đơn vị trực thuộc trong

đó có 6 Tòa án cấp Quận và 1 Tòa án cấp huyện với tổng biên chế hiện nay là

213 người (Trong đó Thẩm phán trung cấp 29 người, Thẩm phán sơ cấp 59

người, thẩm tra viên 09 người, thư ký tòa án 88 người và một số chức danh biên

chế khác 28 người). (Nguồn: theo báo cáo của Phòng tổ chức cán bộ TANDTP

Đà Nẵng cung cấp)

Được sự quan tâm của lãnh đạo Toà án nhân dân tối cao, sự hỗ trợ của

lãnh đạo thành phố Đà Nẵng đến nay cơ sở vật chất của ngành Tòa án nhân dân

thành phố Đà Nẵng đã đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác, từng bước hiện đại.

Trụ sở của Toà án thành phố Đà Nẵng và Toà án các quận huyện được đầu tư

xây mới, sửa chữa. Đặc biệt Công trình xây mới trụ sở Toà án nhân dân thành

phố Đà Nẵng được lãnh đạo Toà án nhân dân tối cao xác định là công trình

trọng điểm ưu tiên về vốn xây dựng theo yêu cầu đảm bảo cơ sở vật chất cho

hoạt động tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị. Công trình

gồm khối nhà 6 tầng, diện tích sử dụng là 11.967m2, được xây dựng trên lô đất

có diện tích 6.537m2 với trang thiết bị hiện đại. Sau gần 02 năm xây dựng Công

trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng từ đầu năm 2013. Trụ sở Toà án nhân dân

thành phố Đà Nẵng sau nhiều năm đóng tại 38 Bạch Đằng - Đà Nẵng nay

chuyển về địa chỉ mới tại 374 Núi Thành, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

Với những thành tích đạt được trên các mặt công tác, Toà án nhân dân thành

phố Đà Nẵng và các Toà án quận huyện nhiều năm được tặng Cờ Thi đua của

Chính phủ, Cờ thi đua ngành của Bộ Tư pháp, Cờ thi đua ngành Toà án nhân

dân nhân dân và của Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng và nhiều Bằng khen

của Thủ tướng Chính phủ, của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và của Chủ

tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng. Đặc biệt, năm 2010, kỷ niệm 65 năm

36

ngày thành lập ngành Toà án nhân dân, Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng

được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân Chương Lao động hạng I. Đến nay Toà

án nhân dân quận Hải Châu, Toà án nhân dân quận Thanh Khê và Toà án nhân

dân huyện Hoà Vang đã được tặng thưởng Huân Chương Lao động hạng II;

Tòa Hình sự Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng và Toà án nhân dân quận

Cẩm Lệ được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng III của Chủ tịch nước.

Trong bối cảnh hội nhập, hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng của nước ta và

trước yêu cầu nhiệm vụ cải cách tư pháp, nhiệm vụ đặt ra đối với ngành Toà án

nhân dân ngày càng nặng nề, với yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao. Thẩm phán,

cán bộ công chức ngành Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng quyết tâm phấn

đấu, không ngừng học tập, rèn luyện để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu

nhiệm vụ đặt ra, xứng đáng với vai trò, vị trí trung tâm trong hệ thống các cơ

quan tư pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp; kế thừa, nối tiếp truyền thống

vẻ vang của ngành được xây dựng, cống hiến qua các thế hệ cán bộ lãnh đạo,

công chức ngành Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng trước đây và

Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng ngày nay.

2.1.3. Tình hình xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Đà

Nẵng

Thực hiện Nghị quyết 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về

“Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và đặc biệt

là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Ngành Toà án nhân dân thành phố

Đà Nẵng đã đạt được những kết quả tích cực. Toà án nhân dân thành phố và

Toà án các quận huyện luôn chú trọng thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư

pháp trong việc tiếp nhận đơn khởi kiện và các thủ tục tư pháp tại Toà án; thực

hiện công khai, đơn giản hoá thủ tục hành chính tư pháp. Trong công tác xét xử

ngành Toà án thành phố Đà Nẵng đẩy mạnh thực hiện tranh tụng, lấy kết quả

37

tranh tụng tại phiên toà làm căn cứ phán quyết của Hội đồng xét xử nhằm nâng

cao chất lượng công tác xét xử, giải quyết án. Trong thời gian qua, Toà án nhân

dân thành phố Đà Nẵng không để xảy ra trình trạng kết án oan người không

phạm tội hay bỏ lọt tội phạm.

Bảng 2.1. Số liệu về công tác giải quyết, xét xử án hình sự của tòa án

nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến hết tháng 6

năm 2020

Thụ lý

Xét xử

Năm

Vụ

Bị cáo

2015

671

1175

Vụ 654

Bị cáo 1.018

2016

773

1229

2017

805

1254

729 1.161

2018

771

1205

704

1039

2019

813

1329

775

1213

204

606

105

356

T6 năm 2020

788 1.207

6798

3755

5994

Tổng

4037

Nguồn: Văn phòng - TAND TP Đà Nẵng

Trong giai đoạn từ năm 2015-T6/2020, Tòa án hai cấp trên địa bàn TP

Đà Nẵng đã đưa ra xét xử hình sự 3755 vụ án, xử phạt 5994 bị cáo.

Tỷ lệ giải quyết các vụ án hình sự trong giai đoạn 2015 – T6/2020 đạt

99,5% và vượt chỉ tiêu xét xử đã đề ra. Chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án

hình sự về cơ bản đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

2.1.4. Đặc điểm tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố

Đà Nẵng

- Tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Trong thời gian vừa qua, tình hình tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng nói chung vẫn diễn biến phức tạp. Áp dụng pháp luật đối

38

với tội cướp giật tài sản do các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành bao gồm Cơ

quan Điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án. Tuy nhiên, để đánh giá đúng và sát

thực trạng áp dụng pháp luật đối với tội cướp giật tài sản mang tính chính thống

và chính thức của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, cần làm rõ một số đặc

điểm điểm tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong

thời gian (2015-T6/2020).

Bảng 2.2. Mức độ tổng quan của tình hình tội CGTS trên địa bàn thành

phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến hết tháng 6/2020

Số vụ án Số người phạm tội Năm

2015 61 21

2016 43 17

2017 48 18

2018 54 19

2019 68 23

Hết tháng 6/2020 13 4

Tổng 287 102

Nguồn: Số liệu thống kê của VKSND thành phố Đà Nẵng

Qua Bảng 2.2 có thể nhận thấy trong thời gian từ năm 2015 đến hết tháng

6/2020 TAND TP Đà Nẵng đã xét xử 102 vụ án với 287 bị cáo phạm tội cướp

giật tài sản. Tính trung bình mỗi năm TAND TP Đà Nẵng xét xử khoản hơn 20

vụ với 49 bị cáo. Tình hình các tội xâm phạm sở hữu nói riêng tại TP Đà Nẵng

được thể hiện ở Bảng 2.3 và Bảng 2.4

Bảng 2.3. Tỷ lệ các tội CGTS trong tình hình tội phạm nói chung trên địa

bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 đến tháng 6/2020

Tình hình tội

Tình hình

CGTS

tội phạm

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

Năm

(1/3)

(2/4)

Tổng số

Tổng số

Tổng số

Tổng số

vụ

bị cáo

vụ

bị cáo

39

(4)

(1)

(2)

(3)

1.018

3,21

5,99

2015

21

61

654

1.161

2,33

3,70

2016

17

43

729

1.207

2,28

3,98

2017

18

48

788

1039

2,69

5,19

2018

19

54

704

1213

2,97

5,66

2019

23

68

775

356

3,81

3,65

T6/2020

04

13

105

5994

2,71

4,79

Tổng

102

287

3755

Nguồn: Số liệu thống kê của TAND thành phố Đà Nẵng

Bảng 2.4. Tỷ lệ các tội CGTS trong tình hình các tội xâm phạm sở hữu

trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 đến tháng 6/2020

Tình hình tội xâm

Tình hình tội CGTS

phạm sở hữu

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

Năm

(1/3)

(2/4)

Tổng số bị

Tổng số vụ

Tổng số bị

Tổng số vụ (1)

cáo (2)

cáo (4)

(3)

309

9,63

19,74

2015

21

61

218

341

7,08

12,61

2016

17

43

240

329

7,66

14,60

2017

18

48

235

371

7,31

14,55

2018

19

54

260

409

8,36

16,62

2019

23

68

275

101

7,69

12,87

T6/2020

04

13

52

7,97

15,43

Tổng

102

287

1.280

1.860

Nguồn: Số liệu thống kê của TAND thành phố Đà Nẵng

Theo số liệu tại Bảng 2.3 và Bảng 2.4 cho thấy, giai đoạn 2015 đến hết

tháng 6/2020, tại TP Đà Nẵng có 112 vụ án CGTS được xét xử với 287 bị cáo

(Trong đó, năm 2016 có số vụ phạm tội ít nhất với 17 vụ, ngược lại năm 2019

40

có số vụ án cướp giật nhiều nhất với 23 vụ). Bên cạnh đó, khi phân tích về số

vụ/ bị cáo cũng phải xemn xét đến tình hình xét xử 06 tháng đầu năm 2020. Bởi

do tình hình diễn biến của dịch bệnh Covid-19 nên hầu hết các phiên tòa đều bị

hoãn xét xử trong tháng 3 và tháng 4, tháng 1 mất khoảng 10 ngày nghỉ tết nên

phần nào vẫn chưa phản ánh được hết kết quả xét xử của Tòa án.

Phân tích số liệu báo cáo về tình hình tội CGTS và tội phạm sở hữu tại TP

Đà Nẵng trong thời gian qua cho thấy: Trong giai đoạn nghiên cứu số vụ án

cướp giật là 102 vụ được đưa ra xét xử chiếm 7,97% tổng vụ án về tội phạm sở

hữu (1.280 vụ). Trong khi đó, tỷ lệ bị cáo bị khởi tố trong giai đoạn này liên

quan đến tội phạm về CGTS là 287 bị cáo chiếm 15,83%.

Trong khi đó, khi so sánh về tỷ lệ vụ án cướp giật so với tổng số vụ án

khởi tố tại TP Đà Nẵng thì rõ ràng năm 2015, 2019 có tỷ lệ tương đối cao so

với các năm còn lại. Tuy nhiên, về tiêu chí bị cáo thì tỷ lệ có xu hướng tăng từ

năm 2015 đến năm 2019.

Bảng 2.5. Cơ cấu về hình phạt được áp dụng đối với những người phạm

tội CGTS trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến hết tháng

6/2020

Hình phạt chính

Hình Tù 1 - Trên 7 Trên 15 Tù Năm Số bị cáo phạt bổ Tù 3 - 7 dưới 3 năm đến năm đến chung sung năm năm 15 năm 20 năm thân

2015 61 14 6 41 0 0 0

2016 43 11 2 30 0 0 0

2017 48 9 5 34 0 0 0

2018 54 15 2 37 0 0 0

2019 68 25 7 36 0 0 0

41

T6/2020 13 10 0 03 0 0 0

Tổng 287 84 181 22 0 0 0

Tỷ lệ % 100 29.27 63.06 7.67 0 0 0

Nguồn: Số liệu thống kê của VKSND thành phố Đà Nẵng

Qua Bảng 2.5 số liệu cho thấy loại hình phạt chính được Tòa án áp dụng

khi xét xử tội cướp giật tài sản chủ yếu là hình phạt tù, từ ba năm đến bảy năm

là nhiều nhất (63,06%), đang ở giai đoạn nghiên cứu (từ năm 2015 đến hết

tháng 6/2020) tổng số hình phạt được áp dụng đối với 181/287 bị cáo (đã xét

xử có bản án) về tội này. Từ một năm đến dưới ba năm (29,27%), tương ứng

với 84/287 bị cáo (đã xét xử có bản án) về tội này. Tiếp đến là hình phạt trên

07 năm đến 15 năm (7,67%) tổng số hình phạt được áp dụng đối với 22/287 bị

cáo (đã xét xử có bản án) về tội này. Từ trên 15 năm và tù chung thân ở giai

đoạn này (2015 đến hết tháng 6/2020), thì TAND các cấp tại TP Đà Nẵng không

có áp dụng đối với khung hình phạt này.

Đặc điểm nhân thân của người phạm tội cướp giật tài sản trên địa

bàn thành phố Đà Nẵng

Từ thực tiễn nghiên cứu trực tiếp khoảng 80 hồ sơ vụ án phạm tội Cướp

giật tài sản đã có hiệu lực pháp luật thi hành tác giả nhận thấy TAND hai cấp

thành phố Đà Ngẵng xét xử trong những năm qua học viên nhận thấy. Các cơ

quan tiến hành tố tụng hai cấp thành phố Đà Nẵng (Cơ quan điều tra của Công

an, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân), cũng như những nhười tiến

hành tố tụng hai cấp của thành phố Đà Nẵng (Điều tra viên, Kiểm sát viên và

Thẩm phán) đã thực hiện tốt việc định tội danh cướp giật tài sản, theo quy định

tại Điều 171 BLHS 2015, cụ thể như sau:.

Qua nghiên cứu khảo sát đặc điểm nhân thân của các bị cáo được đưa ra

xét xử về tội cướp giật tài sản trong thời gian từ năm 2015 đến 06 tháng đầu

42

năm 2020 rút ra một số đặc điểm sau:

- Về giới tính

Qua nghiên cứu khảo sát 126 vụ án cướp giật tài sản thì số đối tượng là

nam giới chiếm tỉ lệ cao 118/126 vụ (chiếm 93,65%), số đối tượng là nữ giới

(08 đối tượng, chiếm 6,35%). Nam giới chiếm tỉ lệ cao hơn nữ giới trong cơ

cấu tội cướp giật tài sản nên khi tiến hành các biện pháp phòng ngừa tình hình

tội cướp giật tài sản cần chú ý tập trung vào các đối tượng là nam.

- Về độ tuổi

Các bị cán, bị cáo phạm tội Cướp giật tài sản thường là người trẻ tuổi

(dưới 30 tuổi, trong số này có một số là người dưới 18 tuổi) lười lao động, có

lối sống phóng khoáng thích ăn chơi đua đòi, hay rủ nhau tụ tập uống rượu và

chơi ma túy (để tìm cảm giác lạ). Sau khi hết tiền, để tiếp tục cuộc chơi những

người này đã nảy sinh y định trộm cướp giật tài sản để lấy tiền tiêu sài. Phần

lớn các bị can, bị cáo đều là người có có trình độ văn hóa thấp (có những trường

hợp không được đi học và bỏ học từ khi con nhỏ tuổi), không có nghề nghiệp

hoặc có nhưng lười lao động chân chính, không chịu tu dưỡng rèn luyện đạo

đức, những ham muốn đua đòi như ăn nhậu, bài bạc, cá độ bóng đá.

- Về thời gian, địa điểm, phương pháp, thủ đoạn phạm tội: Bọn tội

phạm thường thực hiện ở các tuyến đường tập trung đông đúc, nhiều người dân

và du khách, thông thường tại các khu vực du lịch dịch vụ như mua sắm, ăn

uống,… du khách và người dân thường xuyên qua lại. Tài sản cướp giật thường

là những tài sản gọn nhẹ, có giá trị như giỏ xách, điện thoại di động, dây chuyền.

húng thường theo dõi những người có mang theo tài sản gọn nhẹ, có giá trị, dễ

tiêu thụ (ĐTDĐ, máy chụp hình, nữ trang, túi xách, vàng, tiền mặt…), đáng

chú ý là những khách hàng đến rút tiền, vàng tại ngân hàng, điểm giao dịch,

tiệm vàng… Thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm này rất táo bạo, quyết liệt

43

bất chấp mọi nguy hiểm đến tính mạng và sức khỏe của người khác. Sử dụng

các loại xe nhỏ gọn có tốc độ cao, gắn bảng số giả đi trên đường phố, phát hiện

sơ hở của nạn nhân liền áp sát gây án, nhanh chóng tẩu thoát khỏi hiện trường,

khi bị truy đuổi sẵn sàng sử dụng hung khí mang theo chống trả. Địa bàn hoạt

động chủ yếu là ở những nơi tập trung đông người (bến xe, nhà ga, chợ, trung

tâm thương mại…); trong đó khu vực xung quanh trường học, ký túc xá sinh

viên cũng là nơi các đối tượng thường xuyên gây án, thời gian hoạt động phần

lớn trong khoảng từ 06h00 đến 11h00 và từ 13h00 đến 18h00.

2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về

tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

2.2.1. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về

tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Trung bình một năm trong thời gian từ năm 2015 hết tháng 6/2020, Tòa

án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử 20,36 vụ án và 49,27 bị cáo về tội cướp

giật tài sản. Về cơ bản Tòa án các cấp đã xét xử đúng người, đúng pháp luật và

đúng tội. Tuy nhiên, trong thời gian này, việc thay đổi tội danh có 02 vụ án và

05 bị cáo, chiếm tỷ lệ tương đối ít là 1,78 % số vụ án và 1,84 % số bị cáo, cụ

thể như sau:

- Tòa án cấp sơ thẩm xác định tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhưng

Tòa án cấp phúc thẩm xác định là tội cướp giật tài sản

Cụ thể, tại Bản án hình sự phúc thẩm số 201/2015/HSPT ngày

15/11/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm đối với

bị cáo Bùi Văn Th và đồng phạm về tội cướp giật tài sản. Nguyên nhân là do

nhận thức không đúng về các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm của tội

phạm cụ thể về sở hữu được quy định trong Bộ luật hình sự, áp dụng văn bản

hướng dẫn chưa đầy đủ và do đánh giá không đúng các tình tiết vụ án, từ đó

44

dẫn đến xác định không đúng tội danh của tòa án cấp sơ thẩm.

Theo hồ sơ vụ án, do có nhu cầu mua điện thoại, Th lên mạng và biết T.

đang rao bán điện thoại nên liên hệ mua. Ngày 5/6/2015, Th rủ Đ đi cùng đến

gặp T. trao đổi. T. nói bán với giá 1,6 triệu đồng, Thích trả giá 1,5 triệu, hai

bên không đồng ý nên Th, Đ ra về.

Đi được khoảng 50 m thì Th nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại nên

nói với Đ: “Để tao giả vờ mua điện thoại rồi lợi dụng sơ hở giật lấy điện thoại

bỏ chạy”. Thích gọi điện thoại cho T. nói đồng ý mua điện thoại và gọi T. chạy

đến giao hàng. Khi T. đến đưa điện thoại cho Thích, lợi dụng lúc nạn nhân

đang cúi xuống, cả hai liền phóng xe bỏ chạy.

Với hành vi này, hai bị cáo bị VKSND quận Thanh Khê truy tố về tội

cướp giật tài sản. Xử sơ thẩm, TAND quận Thanh Khê nhận định dù hai bị cáo

có thỏa thuận trước việc cướp giật nhưng ý thức của nạn nhân thì do tin tưởng

các bị cáo sẽ mua nên mới đến giao dịch. Hành vi chiếm đoạt điện thoại của

các bị cáo là dựa trên hợp đồng gian dối, nạn nhân tự nguyện đưa điện thoại

chứ các bị cáo không có hành vi giật từ tay nạn nhân. Từ đó tòa xử Th 12 tháng

tù, Đ chín tháng tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Sau đó, VKSND quận Thanh Khê kháng nghị yêu cầu tăng án và tuyên

các bị cáo phạm tội cướp giật tài sản. Tại tòa, VKSND TP Đà Nẵng cho rằng

khi nảy sinh ý định “cuỗm” điện thoại của nạn nhân, hai bị cáo đã thống nhất

sẽ lợi dụng sơ hở để giật rồi bỏ chạy. Sau đó, nạn nhân đến điểm hẹn, đưa điện

thoại cho Thích để nhờ Thích tháo SIM, lợi dụng sơ hở Th và Đ phóng xe bỏ

chạy nên phải phạm tội cướp giật mới đúng. Lập luận này được tòa án cấp phúc

thẩm đồng tình.

Việc áp dụng pháp luật tội cướp giật tài sản trên thực tế các cơ quan tiến

hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng còn phải gặp nhiều vướng mắc,

45

khó khăn. Chủ yếu phát sinh đối với những vụ án hành vi phạm tội của bị cáo

không thể hiện rõ ràng các yếu tố CTTP.

- Tòa án cấp phúc thẩm định tội danh tội cướp giật tài sản theo cấu

thành tội phạm tăng nặng và chuyển khung hình phạt:

Tại Bản án hình sự phúc thẩm số: 245/2017/HSPT ngày: 30/11/2017 của

TAND thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo Huỳnh Khắc V với nội dung như

sau:

Khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 05/6/2017, Huỳnh Khắc V mượn xe mô tô

hiệu Yamaha, loại Sirius, BKS: 75E1-051.86 của Nguyễn Đình T (là bạn cùng

học trường Đại học P, TP.H với Vinh) đi từ TP.Hội An ra Đà Nẵng thăm mẹ.

Đi được một đoạn V nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của người khác để tiêu

xài cá nhân và trả nợ. V quay lại phòng trọ số 9C1 - Ký túc xá trường Đại học

P chuẩn bị 01 túi xách da màu nâu, 01 đôi bao tay bằng vải, 01 khẩu trang y

tế, 01 cuộn băng keo 2 mặt, 01 đôi giày thể thao, 01 con dao thái lan, xuống

sân ký túc xá V nhặt thêm 01 cục đá granit cỡ 4 x 6 cm buộc vào đầu thanh gỗ

dài khoảng 30cm rồi bỏ vào ba lô vải màu đen kẹp giữa xe chạy ra Đà Nẵng.

Khi điều khiển xe đến đoạn Cầu Biện (thuộc P.Hòa Hải, Q. Ngũ Hành Sơn, TP.

Đà Nẵng), V phát hiện thấy hiệu vàng Đ đường Lê Văn Hiến vắng người nên

nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của tiệm vàng Đ, V điều khiển xe chạy qua

lại 2 vòng để quan sát. Đến khoảng 20 giờ 45 phút cùng ngày, khi thấy ông

Huỳnh Phú P và bà Đoàn Thị Mỹ H (vợ chồng chủ hiệu vàng Đ) đi vào bên

trong nhà, V liền dừng xe cách tiệm vàng khoảng 15 mét, mở ba lô lấy con dao

thái lan bỏ vào túi xách đeo trước ngực, tay trái cầm thanh gỗ có cục đá đi vào

hiệu vàng đập mạnh đầu có cục đá vào mặt trước tủ kính đựng trang sức làm

kính vỡ. V dùng tay phải thò vào tủ hốt một nắm trang sức bằng vàng (không

xác định số lượng) rồi bỏ chạy. Anh P phát hiện tri hô “cướp”, “cướp”. V

46

hoảng quá cầm trang sức trên tay bỏ chạy bị anh P đuổi theo dùng ghế nhựa

đánh vào lưng V nhưng không gây thương tích gì, V tiếp tục lên xe nổ máy bỏ

chạy trên đường Lê Văn Hiến theo hướng về Quận Sơn Trà. Đến cầu Biện, thì

bị anh Ngô M là người đi đường dùng chân đạp vào xe môtô của V làm V ngã

xuống đường. V dựng xe tiếp tục chạy thì anh P chạy đến dùng tay kéo xe V lại,

cùng lúc đó anh Trần Văn T cũng sử dụng xe mô tô của mình đâm thẳng vào

xe của V. V tăng ga kéo theo anh P một đoạn buộc anh P buông tay rồi chạy

trên đường Lê Văn Hiến theo hướng Sơn Trà. V điều khiển xe ra bãi đậu xe khu

danh thắng Ngũ Hành Sơn, tháo bỏ găng tay bằng da và vải, khẩu trang bằng

vải, áo khoác vải màu xám, túi xách da nhằm che dấu tung tích. Sau đó, V về

lại TP. H, trả xe cho anh Nguyễn Đình Trồi về Ký túc xá ngủ. Theo lời khai của

bị cáo Huỳnh Khắc V thì số trang sức mà Vinh chiếm đoạt của hiệu vàng Đ bị

rơi tại hiện trường trong quá trình giằng co, tẩu thoát, còn theo bị hại Huỳnh

Phú Phúc khai thì ngoài 2 chiếc bông tai trị giá 1.088.850 đồng đã nhận lại,

hiệu vàng Đ còn bị mất 11 đôi bông tai bằng vàng tây trị giá 23.000.000đ. Qua

điều tra, đấu tranh, truy xét, Huỳnh Khắc V còn khai nhận: Tối ngày 27/5/2017,

V mượn xe mô tô hiệu Yamaha, loại Sirius, BKS: 73H1-310.17 của ông Trương

Tuấn A để đi thăm và xin tiền mẹ tại đường Tôn Đản. Đến khoảng 20 giờ cùng

ngày, khi quay về Vinh thấy hiệu vàng N trên đường Trường Chinh vắng người,

bên trong chỉ có một nam và một nữ, V liền nảy sinh ý định đập tủ lấy vàng,

nên chạy lòng vòng để tìm dụng cụ và quan sát. Trên đường đi V nhặt được

thanh gỗ tre dài khoảng 40 cm rồi chạy quá hiệu vàng khoảng 15 mét thì dừng

lại, tắt máy xe đi bộ lại hiệu vàng dùng 2 tay cầm đoạn cây tre đập mạnh vào

kính tủ đựng vàng trang sức nhưng không bể. Người trong hiệu vàng phát hiện

tri hô nên V vứt lại thanh tre, lên xe bỏ chạy về lại Hội An.

Với nội dung nêu trên tại bản án HSST số 31/2017/HSST ngày 28/9/2017

của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn đã quyết định: Áp dụng: Điểm d

47

khoản 2 Điều 136; Điểm g khoản 1 Điều 48; điểm b, p khoản 1 khoản 2 Điều

46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Xử phạt: Huỳnh Khắc V 05 (năm) năm tù về tội

về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam 07/6/2017.

Ngày 12/10/2017 bị cáo Huỳnh Khắc V có đơn kháng cáo với nội dung:

Án sơ thẩm xử nặng - xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa cho rằng: Trong vụ án này khi

phạm tội bị cáo Huỳnh Khắc V có hành vi dùng cây tre, cây gỗ có gắn cục đá

nhưng chỉ nhằm mục đích để đập vỡ tủ kính trưng bày vàng bạc nhằm chiếm

đoạt tài sản của các tiệm vàng, không nhằm mục đích tấn công người bị hại.

Tại thời điểm phạm tội bị cáo không sử dụng xe mô tô, sau khi phạm tội bị cáo

mới sử dụng xe mô tô để tấu thoát nhưng lúc này thì tội phạm đã hoàn thành.

Do đó bị cáo không phạm tội thuộc tình tiết định khung “Dùng thủ đoạn nguy

hiểm” theo điểm a khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự mà hành vi của bị cáo chỉ

phạm tội ở khoản 1 Điều 136 Bộ luật Hình sự. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử

chấp nhận kháng cáo của bị cáo, chuyển khung hình phạt xét xử bị cáo ở khoản

1 Điều 136 Bộ luật Hình sự và giảm cho bị cáo một phần hình. Bị cáo Huỳnh

Khắc V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo thừa nhận khi

phạm tội có hành vi sử dụng cây tre, cây gỗ có gắn cục đá nhưng chỉ để đập vỡ

tủ kính để chiếm đoạt, không nhằm mục đích tấn công người bị hại. Bị cáo cho

rằng án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” theo Điều 136 Bộ luật

Hình sự là đúng người, đúng tội, chỉ xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.

HĐXX phúc thẩm nhận định: Bản án sơ thẩm nhận định bị cáo sử dụng

vật cứng để đập vỡ tủ kính trưng bày vàng bạc, để cướp giật tài sản, rồi dùng

xe mô tô để tẩu thoát, trong quá trình tẩu thoát có sự giằng co với người bị hại

nhưng bị cáo vẫn bất chấp điều khiển xe bỏ chạy nên đã phạm tội “Cướp giật

tài sản” có tình tiết định khung “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” theo quy định tại

48

điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự là chưa chính xác. Bởi lẽ bị cáo có

hành vi dùng vật cứng như cây tre, cây gỗ có gắn cục đá nhưng chỉ nhằm mục

đích đập vỡ tủ kính để cướp giật tài sản, không nhằm mục đích tấn công người

bị hại và thực tế diễn biến khách quan của sự việc thể hiện hành vi này của bị

cáo cũng không gây nguy hiểm đối với người bị hại và những người khác. Việc

bị cáo sử dụng xe mô tô là để tẩu thoát và lúc này tội phạm đã hoàn thành. Do

đó hành vi của bị cáo không thuộc trường hợp “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” quy

định tại điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự mà hành vi của bị cáo chỉ

phạm tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 136 Bộ luật Hình sự. Do đó,

căn cứ giới hạn xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử sẽ chuyển khung hình phạt,

xét xử bị cáo ở khoản 1 Điều 136 Bộ luật Hình sự.

Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết định khung tăng

nặng chưa chính xác. Qua nghiên cứu các vụ án CGTS trên địa bàn thành phố

Đà Nẵng, tác giả nhận thấy giá trị tài sản cướp giật được không lớn và việc áp

dụng các tình tiết tăng nặng định khung không chính xác đối với TCGTS. Việc

hiểu không thống nhất về tình tiết định khung tăng nặng “Dùng thủ đoạn nguy

hiểm” trong vụ án nêu trên cũng như một số tình tiết định khung tăng nặng khác

như: “Có tổ chức”, “Tái phạm nguy hiểm”, “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”, “Hành

hung để tẩu thoát”, “Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”, “Gây hậu quả

nghiêm trọng”… dễ dẫn đến việc hủy án, sửa án.

- Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào nhân thân và các tình tiết giảm

nhẹ TNHS mới để giảm án cho bị cáo:

Tại bản án hình sự phúc thẩm số: 71/2018/HS-PT ngày 27/4/2018 của

TAND thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo Nguyễn Văn A với nội dung như

sau:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 06/10/2017, Nguyễn Văn A điều khiển xe

49

mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 74L1-135.xx (do A làm chủ sở

hữu) chạy trên đường B theo hướng Đà Nẵng - Huế thì phát hiện chị Lê Thị

Thùy T đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 43K1-129.xx chạy cùng chiều

phía trước nên nảy sinh ý định chọc ghẹo. A điều khiển xe chạy lên ngang với

chị T rồi có lời chọc ghẹo và dùng tay sờ vào người chị T khiến chị T hoảng sợ

nên điều khiển xe chạy vào đường số x Khu công nghiệp H theo hướng Hòa

Hiệp Nam - Hòa Liên nhưng A vẫn đuổi theo và tiếp tục dùng tay phải đẩy vào

vai của chị T. Khi chị T chạy đến khu dân cư N, phường H, quận L, thành phố

Đà Nẵng thì thấy có chốt bảo vệ bật đèn sáng nên chạy chậm lại, lúc này trên

tay chị T đang cầm 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6S Plus màu hồng

có ốp lưng màu đỏ trị giá 10.200.000đ. Nguyễn Văn A chạy phía sau chị T thấy

chị T chạy xe chậm lại và trên tay có cầm chiếc điện thoại Iphone 6 Plus nên

nảy sinh ý định cướp giật chiếc điện thoại này. A điều khiển xe áp sát xe chị T

rồi dùng tay phải giật chiếc điện thoại trên tay chị T bỏ vào túi quần rồi tăng

tốc xe bỏ chạy đến khu vực đường N, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng

thì bị lực lượng tuần tra Công an phường H phát hiện cùng với người dân truy

đuổi đến khu vực đường B, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng thì bắt được

A. Chiếc điện thoại Iphone 6S Plus lấy của chị T trên đường bỏ chạy A đã làm

rơi xuống đường, anh Nguyễn Văn T là người tham gia đuổi theo A đã phát

hiện nhặt được và giao nộp Công an phường H. Đối với chị T, sau khi bị A giật

điện thoại, chị T và xe của chị T ngã xuống đường nên chị T bị xây xát nhẹ. Tại

Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn A đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại Bản án sơ thẩm số 11/2018/HS-ST ngày 07/02/2018 của Tòa án nhân

dân quận Liên Chiểu đã quyết định: Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ

luật hình sự năm 1999; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm

2015. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn A 03 (Ba) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”.

Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/10/2017. Bản án sơ thẩm còn

50

quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo bản án.

Ngày 11/02/2018, bị cáo Nguyễn Văn A có đơn kháng cáo với nội dung:

Án sơ thẩm xử nặng, xin được cứu xét để vụ án được đưa ra xét xử theo trình

tự phúc thẩm, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Ngày 26/02/2018, người bị hại

Lê Thị Thùy T có đơn kháng cáo với nội dung: Đề nghị HĐXX cấp phúc thẩm

buộc bị cáo bồi thường số tiền mà người bị hại đã sửa chữa chiếc điện thoại là

500.000đ và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Văn A.

HĐXX phúc thẩm nhận định: Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp

xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến

trật tự trị an xã hội. Vì vậy đối với bị cáo cần phải xử phạt thỏa đáng, cách ly

ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe,phòng ngừa

chung cho xã hội. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, trong suốt quá

trình, điều tra, truy tố và xét xử bị cáo luôn khai báo thành khẩn, tỏ rõ thái độ

ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có công cách mạng; sau khi xử sơ thẩm bị cáo

đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường cho người bị hại số tiền chi phí sửa

điện thoại là 500.000đ theo yêu cầu của người bị hại, người bị hại kháng cáo

xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; đồng thời, gia đình bị cáo cung cấp giấy tờ

thể hiện quá trình công tác mẹ bị cáo có nhiều thành tích đóng góp cho địa

phương và được tặng nhiều giấy khen. Do đó, HĐXX chấp nhận kháng cáo của

bị cáo và kháng cáo của người bị hại cũng như quan điểm của đại diện Viện

kiểm sát và đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa, sửa án sơ

thẩm, giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

Tác giả luận văn cho rằng quyết định của Tòa án trong trường hợp này

đã tuân thủ các quy định của pháp luật mà Tòa án áp dụng đối với bị cáo là phù

hợp. Mức án 03 năm tù mà cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là quá nghiêm

khắc. Sau khi xử sơ thẩm, bị cáo tác động gia đình bồi thường cho bị hại số tiền

500.000đ. Quá trình công tác mẹ bị cáo có nhiều đóng góp trong công tác xã

51

hội tại địa phương và được tặng nhiều giấy khen, gia đình bị cáo có công cách

mạng nên đề nghị HĐXX áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS

2015 đối với bị cáo và chấp nhận kháng cáo của bị cáo cũng như kháng cáo của

người bị hại, sửa án sơ thẩm, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt là phù

hợp.

2.2.2. Mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong

giải quyết vụ án cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Để công tác giải quyết và kiểm sát việc giải quyết vụ án được tiến hành

đúng pháp luật, thì cần có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên và có hiệu quả

giữa Viện KSND, Cơ quan điều tra và Tòa án nhân dân.

Tuy nhiên, trên thực tiễn tại nhiều quận huyện, Cơ quan có thẩm quyền

tiến hành tố tụng (chủ yếu là Cơ quan Cảnh sát điều tra) đã phát hiện hành vi

có dấu hiệu tội phạm qua “hoạt động nghiệp vụ”, mặc dù đã tiến hành kiểm tra,

xác minh nhưng không tiến hành thụ lý, phân công người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng và không chuyển nguồn tin đến Viện kiểm sát để Viện kiểm sát

thụ lý, phân công Kiểm sát viên theo quy định. Có một số vụ việc kéo dài,

không giải quyết triệt để; một số vụ đã vi phạm nghiêm trọng trình tự, thủ tục

tố tụng trong quá trình kiểm tra, xác minh, ảnh hưởng đến quyền lợi của người

tham gia tố tụng. Do pháp luật hiện hành (BLTTHS, TTLT số 01/2017) không

quy định về trình tự, thủ tục thụ lý và giải quyết nguồn tin này nên VKSND

cũng không có căn cứ để ban hành Kiến nghị khắc phục vi phạm và Yêu cầu

Cơ quan CSĐT thụ lý, giải quyết theo đúng quy định của TTLT số 01/2017 và

BLTTHS về trình tự và thời hạn giải quyết theo Điều 147 BLTTHS. Trong giai

đoạn 2015 - đến hết tháng 6/2020, số lượng do tố giác tin báo, thông tin cung

cấp có giá trị mà các cơ quan pháp luật đã tiến hành điều tra xử lý chỉ có tổng

cộng 75 vụ. Tình trạng này cho thấy chỉ trong thời gian ngắn xảy ra nhiều hành

52

vi cướp giật (có khi chỉ trong 1-2 giây cho hành vi CGTS) tác động nhiều

nguyên nhân khác nhau như đối tượng ngụy trang phương tiện hóa trang người

và đặc biệt dùng thủ đoạn giả vờ tiếp cận bị hại.

2.2.3. Nhận xét, đánh giá

-Về ưu điểm

Trong 05 năm qua, nhìn chung việc áp dụng pháp luật hình sự về tội

cươp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chưa có trường hợp nào xét

xử oan người không có tội hoặc bỏ lọt tội phạm, thực hiện đúng và đầy đủ thủ

tục tố tụng, không để án quá hạn luật định. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình

sự về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng qua các bản án được

nghiên cứu mà tác giả đã nêu đều cho thấy đa số các bản án đều áp dụng đúng

quy định của BLHS về xác định tội danh, định khung và quyết định hình phạt

đúng. Các hạn chế, sai sót chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số các vụ án được đưa

ra xét xử. Tội cướp giật tài sản là tội phạm có tính phổ biến chiếm tỷ lệ so với

các tội phạm khác nên những người tiến hành tố tụng thường xuyên nghiên cứu

và vận dụng các quy định của pháp luật nên đều nắm vững các các dấu hiệu

pháp lý của tội này.

- Về tồn tại, hạn chế

Bên cạnh các kết quả đã đạt được, trong thời gian qua, Toà án nhân dân

hai cấp thành phố vẫn còn một số hạn chế như:

- Cho bị cáo hưởng án treo không đúng Nghị quyết số 01/2013/NQ-

HĐTP ngày 01/11/2013, Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018

của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong công tác giải quyết,

xét xử theo thủ tục sơ thẩm. Có trường hợp Tòa án lạm dụng áp dụng các tình

tiết giảm nhẹ để xử phạt các bị cáo dưới khung hình phạt và giảm tới mức đủ

điều kiện để cho các bị cáo được hưởng án treo. Một số bản án không thể hiện

53

rõ tên ủy ban nhân dân xã được giao giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian

thử thách và không tuyên bị cáo bị áp dụng hình phạt tù theo khoản 5 Điều 65

BLHS, nếu vi phạm nghĩa vụ thi hành án.

- Một số người tiến hành tố tụng chưa chú ý hết các quy định mới của

BLHS năm 2015 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, dẫn đến nhầm lẫn trong

quá trình áp dụng.

- Trong công tác xét xử các vụ án hình sự, có một số vụ án còn cải sửa,

phần lớn lý do cải sửa là do: Hội đồng xét xử sơ thẩm chưa xem xét, đánh giá

đầy đủ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, đánh giá chứng cứ chưa toàn

diện hoặc giải quyết bồi thường không đúng theo quy định của Bộ luật dân sự.

Một số trường hợp hội đồng xét xử còn nặng, nhẹ, chưa đánh giá đầy đủ tính

chất, đúng mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, chưa xem xét đầy đủ các tình

tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo.

* Nguyên nhân của các vướng mắc, hạn chế:

- Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) được

ban hành đã đưa ra nhiều nội dung mới, trong đó có quy định về Tội cướp giật

tài sản. Bốn tình tiết tăng nặng định khung đối với tội danh này đã được quy

định mới, bao gồm: phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có

thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; Gây ảnh hưởng xấu

đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh; Lợi dụng

hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. BLHS đã có hiệu lực thi hành nhưng

cho đến nay, các tình tiết mới này vẫn chưa được cơ quan có thẩm quyền giải

thích, hướng dẫn để tạo hành lang pháp lý rõ ràng, thống nhất cho việc áp dụng

quy định.

- Ngoài ra do sự phát triển của nền kinh tế xã hội nói chung và phát triển

của hệ thống pháp luật Việt Nam nói riêng, đặc biệt là đối với Luật hình sự đã

54

có sự thay thế từ BLHS 1999 sang BLHS 2015 nhưng một số các văn bản dưới

luật dùng để hướng dẫn thi hành đối với BLHS 1999 đến nay đã lỗi thời, bộc

lộ nhiều hạn chế nhưng vẫn chưa được thay thế bằng những văn bản dưới luật

khác phù hợp với BLHS 2015, cụ thể như Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-

TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Liên ngành Trung

Ương hướng dẫn áp dụng một số quy định về tình tiết định khung tăng nặng

trách nhiệm hình sự về dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng” (điểm g khoản 2

Điều 133 BLHS 1999); “gây hậu quả rất nghiêm trọng” (điểm c khoản 3 Điều

133 BLHS 1999); “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” (điểm c khoản 4 Điều

133 BLHS) [51].

- Hiện nay Liên ngành Trung vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể, chi tiết mới

về trường hợp phạm tội cướp giật tài sản có tổ chức. Vì qua bảng 2.2 của luận

văn đã thể hiện, trong những năm vừa qua mặc dù số lượng các vụ án hình sự

phạm tội Cướp giật tài sản có chiều hướng giảm dần nhưng trên thực tế thì số

lượng bị can, bị cáo (người thực hiện hành vi phạm tội Cướp giật tài sản) lại

không giảm, thậm chí có những thời điểm có chiều hướng gia tăng nhanh về số

người tham gia thực hiện tội phạm Cướp giật tài sản trong một vụ án hình sự.

Điều đó thể hiện trong thời gian vừa qua địa bàn thành phố Đà Nẵng đã xuất

hiện nhiều băng, ổ, nhóm thực hiện có tổ chức và có tính chất đồng phạm ngày

càng nhiều và tính chuyên nghiệp trong hoạt động tội phạm hình sự nói chung

và Tội Cướp giật tài sản nói riêng ngày càng cao.

- Vẫn còn có một số trường hợp người tiến hành tố tụng như ĐTV, KSV,

Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân có trình chuyên môn, nghiệp vụ còn nhiều hạn

chế, chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn, tiêu chí tuyển trọn vào ngành, vào các

cơ quan tiến hành tố tụng hai cấp thành phố Đà Nẵng. Nhưng vì là con ông,

cháu, cha nên vẫn có những sự ưu ái, tiêu cực trong công tác tuyển chon và bổ

nhiệm vào những chức danh tư pháp dẫn đến một số trường hợp trong quá trình

55

thực hiện công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự nói chung và Tội

Cướp giật tài sản nói riêng còn để xảy ra sái sót trong hoạt động nghiệp vụ …

- Một bộ phận nhân dân có đời sống chật chất tinh thần khó khăn, đặc

biệt là thành phần dân nhập cư đến sinh sống làm việc tại thành phố, trong điều

kiện làm ăn khó khăn dễ nảy sinh hành vi phạm tội.

- Có một bộ phận nhỏ những người ở các địa phương lân cận như Quảng

Nam, Huế về Đà Nẵng theo buổi sáng đi chiều về gây khó khăn cho việc nắm

bắt thông tin các nhân. Theo đó nảy sinh các đối tượng có hành vi cướp giật tài

sản đã lợi dụng địa hình giáp gianh thực hiện hành vi cướp giật tài sản xong bỏ

trốn sang địa phương khác.

Kết luận Chương 2

Kết quả nghiên cứu tại Chương 2 của luận văn được thể hiện qua một số

nội dung sau: Đã phân tích khái quát về tình hình kinh tế, chính trị xã hội thành

phố Đà Nẵng, tình hình xét xử tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà

Nẵng trong những năm gần đây. Bên cạnh những kết quả mà các cơ quan tiến

hành tố tụng thành phố Đà Nẵng đã đạt được, vẫn còn những tồn tại, hạn chế,

bất cập trong việc định tội danh và quyết định hình phạt các vụ án hình sự về

tội cướp giật tài sản. Chương 2 của Luận văn cũng đã đánh giá chung về thực

tiễn áp dụng pháp hình sự về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà

Nẵng, chỉ ra những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại hạn chế

đó trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản. Từ đó,

làm nền tảng cho các giải pháp áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cướp giật

56

tài sản ở Chương 3.

CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA

PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI

SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

3.1. Phương hướng hoàn thiện quy định về Tội cướp giật tài sản trong Bộ

luật hình sự năm 2015

Phương hướng hoàn thiện quy định về Tội cướp giật tài sản trong BLHS

năm 2015 là đòi hỏi có tính nguyên tắc xuất phát từ:

- Thứ nhất, bảo đảm thực hiện đầy đủ quy định của Hiến pháp năm 2013

về quyền con người và quyền cơ bản của công dân

Hiến pháp năm 2013 đã có những thay đổi hết sức quan trọng về quyền

con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Lần đầu tiên Hiến pháp đã

làm rõ hai khái niệm “quyền con người” và “quyền công dân”. Sự tách bạch

này đã góp phần củng cố lý luận về quyền con người, quyền công dân, làm cơ

sở để tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này cũng như áp dụng vào thực tiễn. Có thể

nói, Hiến pháp năm 2013 như một “làn gió mới” tiếp tục khẳng định chế độ

dân chủ xã hội chủ nghĩa, tiếp thu có chọn lọc phù hợp với điều kiện thực tiễn

của Việt Nam đối với các qui định về quyền con người trong các văn bản pháp

luật quốc tế, ghi nhận một số quyền mới. Với phương châm “tôn trọng và bảo

vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất

nước và quyền làm chủ của nhân dân” đã được thể hiện ngày càng đầy đủ hơn

về những nội dung liên quan quyền con người và quyền và nghĩa vụ cơ bản của

công dân trong các bản Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ đã chứng minh

57

Việt Nam luôn quan tâm đến công dân cũng như luôn quan tâm đến việc phát

triển con người Việt Nam, phù hợp với cách tiếp cận của Liên hợp quốc trong

việc thực hiện quyền con người nhằm xây dựng, kết mối quan hệ đại đoàn kết

toàn dân tộc ngày càng phát triển bền vững vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,

dân chủ, công bằng, văn minh.

Để bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam bên

cạnh việc nghiên cứu góp phần làm rõ những quy định của Hiến pháp về quyền

con người, quyền công dân, thiết nghĩ chúng ta phải hoàn thiện tất cả các văn

bản quy phạm pháp luật từ Luật, pháp lệnh đến các văn bản dưới luật theo tinh

thần về quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp,

đồng thời mọi cơ quan nhà nước, tổ chức khi thực hiện mọi hoạt động cần phải

tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

- Thứ hai, đưa các quy định của BLHS 2015 đi vào cuộc sống

Để triển khai thi hành BLHS năm 2015 và Nghị quyết của Quốc hội về

việc thi hành BLHS, các cơ quan tố tụng thành phố Đà Nẵng đã chủ động xây

dựng kế hoạch triển khai thi hành BLHS năm 2015. Trong đó, xác định cụ thể

các nhiệm vụ, nhất là rà soát để kịp thời triển khai ngay các quy định có hiệu

lực từ khi Chủ tịch nước công bố; tổ chức quán triệt và chuẩn bị các điều kiện

cần thiết để phổ biến, tập huấn BLHS năm 2015, đồng thời rà soát các văn bản

quy phạm pháp luật để kịp thời đề nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành

mới.

Với việc triển khai đồng bộ các nhiệm vụ nêu trên, BLHS năm 2015 sẽ

sớm đi vào cuộc sống, thật sự phát huy vai trò là công cụ hữu hiệu của Nhà

nước trong việc bảo vệ an ninh quốc gia, đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp

phần bảo vệ an toàn, trật tự xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,

bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường và tăng cường hội nhập quốc tế.

- Thứ ba, cụ thể hóa được chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước

58

trong đấu tranh phòng, chống đối với tội cướp giật tài sản

Giữa pháp luật và đường lối của Đảng có mối liên hệ khăng khít, thể hiện

ở những điểm sau:

1. Đường lối của Đảng là tư tưởng xuyên suốt chỉ đạo cho việc xây dựng

các văn bản quy phạm pháp luật.

2. Đường lối của Đảng không thay thế vai trò của pháp luật

3. Sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật tất yếu gắn chặt với

quá trình thể chế hoá đường lối của Đảng vào thực tiễn hoạt động của bộ máy nhà

nước.

Nói cách khác, hệ thống pháp luật ở nước ta thể hiện kết quả quá trình thể

chế hoá đường lối của Đảng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thời gian

qua, Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm đến xử lý tội phạm nói chung,

tội cướp giật tài sản nói riêng cho nên đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách

nhằm đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tội phạm này. Các chủ trương, chính

sách này được thể hiện qua hàng loạt các Nghị quyết, các văn bản pháp luật,

trong đó có BLHS với quy định về tội cướp giật tài sản. Chính vì thế, để thể

chế hóa hơn nữa các chủ trương, chính sách này của Đảng và Nhà nước đi vào

thực tế sâu rộng hơn, hiệu quả hơn, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân

trong việc phòng, chống tội cướp giật tài sản thì việc hoàn thiện các quy định

của pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản là yêu cầu cấp bách trong bối cảnh

hiện nay.

- Thứ tư, đảm bảo phù hợp với các điều kiện kinh tế, xã hội ở nước ta

Xã hội ở mỗi giai đoạn khác nhau thì sẽ có những điều kiện kinh tế - xã

hội khác nhau, và pháp luật ở mỗi giai đoạn cũng sẽ khác nhau. Nước ta đang

trong giai đoạn đổi mới toàn diện, đời sống nhân dân được nâng cao, chất lượng

cuộc sống được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi đó,

nước ta đứng trước nhiều thách thức lớn, trong đó có thách thức từ tình hình tội

59

phạm hình sự nói chung, tội cướp giật tài sản nói riêng đang diễn biến phức tạp

với mức độ và tính chất nguy hiểm của hành vi là rất cao, hậu quả thiệt hại xảy

ra rất nghiêm trọng... Chính vì vậy, khi hoàn thiện các quy định về tội cướp giật

tài sản phải quy định được những vấn đề mới vào trong luật như chủ thể mới,

quy định các tình tiết, các dấu hiệu định khung, loại và mức hình phạt phải phù

hợp với điều kiện – xã hội nước ta hiện nay.

- Thứ năm, yêu cầu hội nhập quốc tế

Để phát huy tối đa hiệu lực trong đấu tranh phòng, chống tội phạm thì việc

nội luật hóa các quy định có liên quan trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam

vào pháp luật hình sự nước ta cần được tiếp tục nghiên cứu tiến hành, đồng thời

các cơ quan chức năng như Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ, Tòa án

nhân dân tối cao và một số cơ quan khác cần nhanh chóng ban hành các văn

bản hướng dẫn thi hành BLHS 2015, Luật sửa đổi bổ sung một số điều BLHS

2015 cũng như triển khai áp dụng trong thực tiễn. Ngoài các quy định được đề

cập nêu trên, trong BLHS 2015 còn có một số quy định khác được xây dựng

trên tinh thần nội luật hóa các điều ước quốc tế mà trong phạm vi luận văn này

chưa đề cập cụ thể..

3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật

hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự

BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung thêm nhiều điểm mới như: Bỏ đi

các tình tiết định khung tăng nặng mang tính chất định tính, bổ sung thêm các

tình tiết mới định khung, khoản phù hợp với thực tiễn như: Bổ sung Khoản 2

Điều 171 BLHS 2015: “Điểm g: Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ

mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; Điểm h:

Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”; Bổ sung Khoản 3:

60

“Điểm c: Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh”; Bổ sung Khoản 4: “Điểm b: Gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 01 người mà tỷ lệ tổn thương

cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02

người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên; Điểm d:

Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp”. Đây là các sửa đổi bổ

sung rất kịp thời không những đáp ứng được yêu cầu áp dụng hình phạt mà còn

góp phần to lớn cho công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này.

Tuy nhiên theo tác giả tại Điều 171 BLHS năm 2015 còn có một vướng

mắc đó là: cần phải mô tả cụ thể và đưa ra định nghĩa pháp lý khái niệm về Tội

cướp giật tài sản. Cần phải cụ thể hóa khái niệm Tội cướp giật tài sản trong

Điều luật cụ thể vì Điều 171 BLHS 2015 chỉ quy định: “Người nào cướp giật

tài sản của người khác thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm”. Quy định này

không mô tả hành vi khách quan, không nêu rõ ràng, cụ thể nên việc vận dụng

đề xuất xử lý còn tùy tiện, chưa thống nhất. Một số dấu hiệu của hành vi khách

quan của Tội cướp giật tài sản khá giống với một số tội khác quy định trong

BLHS nên dẫn đến không thống nhất trong quá trình định tội giữa các cơ quan

tiến hành tố tụng. Vì vậy, cần quy định cụ thể hơn hành vi khách quan của tội

phạm trong các Điều luật quy định về Tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt

như: Tội cướp tài sản, Cưỡng đoạt tài sản, Cướp giật tài sản, Công nhiên chiếm

đoạt tài sản. Vì vậy, theo ý kiến của tác giả, ngoài việc quy định rõ ràng khái

niệm từng tội, cần phải quy định rõ cả hành vi khách quan của tội, tránh trường

hợp áp dụng pháp luật không thống nhất.

3.2.2. Tăng cường ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng các quy

định của Bộ luật hình sự

Như học viên đã nêu tại mục ... của luận văn: Tội cướp giật tài sản, quy

định tại Điều 181 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) được

61

ban hành đã đưa ra nhiều nội dung mới, trong đó có quy định về Tội cướp giật

tài sản. Bốn tình tiết tăng nặng định khung đối với tội danh này đã được quy

định mới, bao gồm: phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có

thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; Gây ảnh hưởng xấu

đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh; Lợi dụng

hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. BLHS đã có hiệu lực thi hành kể từ

ngày 01.01.2018 nhưng cho đến nay và trong bối cảnh tội Cướp giật tài sản

đang diễn ra tương đối phổ biến (có chiều hướng gia tăng) trên phạm vi cả nước

nói chung và trên địa bàn thành phố Đà Nãng nói riêng. Thì các tình tiết mới

này vẫn chưa được cơ quan có thẩm quyền văn hành văn bản dưới luật để giải

thích, hướng dẫn về tội Cướp giật tài sản nói chung và các tình tiết tăng nặng

định khung của tội Cướp giật tài sản nói riêng để làm căn cứ rõ ràng, tạo hành

lang pháp lý rõ ràng, thống nhất cho việc áp dụng quy định pháp luật là rất cấp

thiết.

3.2.3. Tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật

hình sự đối với tội cướp giật tài sản

TAND tối cao cần Nghiên cứu sớm ban hành áp dụng án lệ về tội cướp

giật tài sản. Thẩm phán căn cứ vào đó để giải thích và vận dụng pháp luật về

tội cướp giật tài sản rất đa dạng, do có nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy

định, và một số văn bản quy phạm pháp luật quy định không rõ ràng, quy

định không phù hợp với tình hình thực tế.

Với án lệ các vụ việc được giải quyết nhanh chóng hơn khi chưa có luật

thành văn điều chỉnh góp phần nâng cao trình độ người tiến hành tố tụng và

người tham gia tố tụng, thông qua việc không ngừng cập nhật liên tục án lệ

để giải quyết. Ngoài ra, cần thường xuyên tiến hành tổng kết rút kinh nghiệm

kịp thời để đảm bảo hoạt động áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.

Tổng kết kinh nghiệm xét xử là một nhiệm vụ quan trọng của ngành Tòa án

62

cần tiến hành thường xuyên và có hiệu quả. Bên cạnh đó, việc tổng kết, rút

kinh nghiệm còn cho thấy được những quy định nào phù hợp với thực tế cuộc

sống, quy định nào chưa phù hợp cần sửa đổi, bổ sung từ đó có những kiến

nghị, đề nghị xem xét, sửa đổi, giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật thống

nhất để bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và bảo vệ được quyền và lợi

ích hợp pháp của Nhà nước và nhân dân.

3.2.4. Nâng cao năng lực của cán bộ áp dụng pháp luật đối với tội

cướp giật tài sản

Những hạn chế, tồn tại về hoạt động ADPL trong điều tra giải quyết vụ

án Cướp giật tài sản đã phân tích ở trên do nhiều nguyên nhân, song có một

nguyên nhân rất cơ bản là do trình độ năng lực chuyên môn của một bộ phận

không nhỏ cán bộ, ĐTV, KSV, Thẩm phán làm công tác điều tra, truy tố, xét

xử còn nhiều hạn chế, dẫn đến việc ADPL để điều tra xử lý không chính xác,

sai lầm ... Do vậy, nâng cao trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho cán

bộ, ĐTV, KSV, Thẩm phán là việc làm có ý nghĩa quyết định nhằm khắc phục

những hạn chế, yếu kém trong hoạt động điều tra giải quyết các vụ án Cướp

giật tài sản .

Trước hết phải tiếp tục nâng cao trình độ pháp lý và nghiệp vụ cho đội

ngũ cán bộ có chức danh tư pháp: Trong tiến trình cải cách tư pháp, vấn đề đặt

ra cho đội ngũ cán bộ không chỉ là chuẩn hoá tiêu chuẩn của người công chức,

mà còn phải trau dồi các thao tác nghiệp vụ. Đối với hoạt động điều tra, truy

tố, xét xử các vụ án hình sự, ngoài những tiêu chuẩn chung của một ĐTV, KSV,

Thẩm phán người cán bộ làm công tác này cần phải có bản lĩnh vững vàng,

trình độ lập luận lôgic và khoa học, kỹ năng soạn thảo văn bản tốt, kỹ năng

tranh luận pháp lý chắc chắn, kỹ năng tổng hợp và xử lý tình huống linh hoạt,

sáng tạo... Đối với hoạt động ADPL trong giải quyết các tội xâm phạm sở hữu

63

nói chung và tội Cướp giật tài sản nói riêng, cán bộ, ĐTV, KSV, Thẩm phán

phải có kiến thức kiến thức sâu rộng về các chuyên ngành khác như tài chính,

ngân hàng, kim khí, đá quý,...

Do đó cần phải có kế hoạch định kỳ đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng

nghiệp vụ cho đội ngũ ĐTV, KSV, Thẩm phán... Các tiêu chuẩn về đào tạo, bồi

dưỡng phải trở thành tiêu chuẩn chung cho bổ nhiệm, bổ nhiệm lại hoặc bổ

nhiệm chức vụ quản lý. Tiêu chuẩn để đánh giá hoặc tuyển dụng cán bộ cũng

phải dựa trên tình hình thực tế công việc tại từng địa phương. Ví dụ đối với

thành phố phát triển về du lịch như thành phố Đà Nẵng ngoài tiêu chuẩn về

trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cần phải yêu cầu có trình độ ngoại ngữ (tiếng

Anh, tiếng Trung ...). Hàng năm cần tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ,

tổng kết kinh nghiệm để nhân ra diện rộng; tổ chức nghiên cứu khoa học, xây

dựng các chuyên đề nghiệp vụ, mở rộng các hình thức hội thảo, trao đổi kinh

nghiệm về điều tra, truy tố, xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu nói chung và tội

Cướp giật tài sản nói riêng.

3.2.5. Giải pháp khác

- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về nơi cư trú, tạm trú, tạm vắng

Đà Nẵng là một thành phố đáng sống, là trung tâm kinh tế văn hóa xã

hội của khu vực miền Trung, lượng người kéo về học tập, làm ăn sinh sống từ

các tỉnh lân cận rất đông. Bên cạnh việc quản lý tốt lượng người từ các địa

phương khác đến thì có một bộ phận nhỏ những người ở các địa phương lân

cận như Quảng Nam, Huế về Đà Nẵng theo buổi sáng đi chiều về gây khó khăn

cho việc nắm bắt thông tin các nhân. Theo đó nảy sinh các đối tượng có hành

vi cướp giật tài sản đã lợi dụng địa hình giáp gianh thực hiện hành vi cướp giật

tài sản xong bỏ trốn sang địa phương khác. Chính vì vậy, các cần có sự phối

hợp một cách chặt chẽ, thống nhất giữa các lực lượng như Cảnh sát hình sự,

64

cảnh sát khu vực, cảnh sát giao thông và công an các tỉnh lân cận nhằm quản

lý chặt chẽ tình hình di biến động của những đối tượng có biểu hiện nghi vấn

cướp giật tài sản. Cần tuyên truyền sâu rộng các hành vi, phương thức thủ đoạn

của tội pháp cướp giật tài sản giúp nhân dân biết, phòng ngừa. Góp phần đảm

bảo an ninh trật tự an toàn xã hội trong phòng, chống tội phạm cướp giật tài sản

nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

- Nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục

pháp luật

Để nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục

pháp luật nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân trên địa bàn về tính chất nguy

hiểm của tội phạm nói chung và cướp giật tài sản nói riêng, cần phối hợp với

các cơ quan ban ngành liên quan thực hiện việc nghiên cứu thực hiện chỉ đạo

điểm các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả; xây dựng và

thường xuyên cập nhật các văn bản pháp luật vào tủ sách pháp luật ở đơn vị cơ

sở... Thông qua các loại hình văn hóa nghệ thuật, phổ biến rộng rãi gương người

tốt, việc tốt; phản ánh kịp thời những hiện tượng tiêu cực, giúp các cơ quan

chuyên trách phát hiện kịp thời những hành vi vi phạm, phạm tội...

- Các biện pháp về kinh tế - xã hội: thực hiện những hoạt động nhằm hạn

chế tác động tiêu cực do đời sống kinh tế và tình trạng thất nghiệp đem lại; tiến

hành các hoạt động nâng cao chất lượng giáo dục trong gia đình và nhà

trường…

- Các biện pháp về quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, trật tự, an

toàn xã hội: cần tiến hành các hoạt động để tạo lập một môi trường xã hội lành

mạnh, góp phần khắc phục những hạn chế trong công tác văn hóa, giáo dục;

nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về văn hóa; nâng cao hiệu

quả của công tác đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội ở cấp cơ sở; đối với

65

các đối tượng có tiền án, tiền sự, các đối tượng lang thang không có việc làm,

các phần tử lưu manh, côn đồ cần thực hiện tốt công tác quản lý, giáo dục để

kịp thời có biện pháp chấn chỉnh khi họ có biểu hiện vi phạm.

Kết luận Chương 3

Qua thực tiễn việc áp dụng pháp luật tội cướp giật tài sản trên địa bàn TP

Đà Nẵng đã nêu ở Chương 2. Tại Chương 3 tác giả đã đưa ra các dự báo và giải

pháp đảm bảo áp dụng pháp luật đúng đối với tội cướp giật tài sản. Thực tiễn

áp dụng pháp luật cướp giật tài sản trên địa bàn TP Đà Nẵng trong những năm

gần đây cho thấy có một số vướng mắc và đề xuất hoàn thiện các quy định của

pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó Chương 3 của Luận văn

cũng đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối

với cướp giật tài sản. Các giải pháp tác giả đưa ra phần nào sẽ khắc phục những

khó khăn, vướng mắc, những điểm chưa rõ, chưa thống nhất, từ đó nâng cao

được hiệu quả hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt, nhằm hạn chế

và đẩy lùi loại tội phạm này, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật.

KẾT LUẬN

66

Qua kết quả nghiên cứu, nhận thức những vấn đề lý luận, thực tiễn định

tội danh tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Luận văn rút ra

các kết luận chung như sau:

1. Về mặt lý luận tác giả luận văn đã làm rõ khái niệm, các dấu hiệu pháp

lý tội cướp giật tài sản theo quy định của BLHS năm 2015 nhằm tạo cơ sở cho

thực tiễn vận dụng nội dung để xử lý chính xác hành vi phạm tội trong thực

tiễn. Do đó, việc làm rõ các vấn đề lý luận chung về tội cướp giật tài sản có giá

trị chính thức và ý nghĩa chính trị, xã hội và pháp lý quan trọng.

2. Qua thực tiễn tại TP Đà Nẵng về tội cướp giật tài sản cho thấy: Về cơ

bản các cơ quan tiến hành tố tụng đã khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử với loại

tội phạm này đúng theo quy định của pháp luật và người phạm tội bị trừng trị

một cách thích đáng. Bên cạnh những kết quả đạt được thì việc áp dụng pháp

luật với tội cướp giật tài sản cũng cho thấy còn có nhiều khó khăn, vướng mắc.

Những hạn chế này xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau như: Trình độ

năng lực của người tiến hành tố tụng còn có những hạn chế, hoặc chưa vô tư,

khách quan trong áp dụng pháp luật, nhận thức pháp luật còn có sự chưa thống

nhất, cơ quan có thẩm quyền trong quá trình hướng dẫn áp dụng pháp luật còn

chưa dự liệu được hết các tình huống xảy ra… Do vậy, để giải đáp và khắc phục

được những khó khăn, vướng mắc, sai lầm cần phải có những yêu cầu và giải

pháp bảo đảm định tội danh, quyết định hình phạt đúng tội cướp giật tài sản,

qua đó góp phần cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả

cao.

3. Luận văn cũng đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc

định tội danh đối với cướp giật tài sản. Các giải pháp tác giả đưa ra phần nào

sẽ khắc phục những khó khăn, vướng mắc, những điểm chưa rõ, chưa thống

nhất, từ đó nâng cao được hiệu quả hoạt động định tội danh và quyết định hình

67

phạt, nhằm hạn chế và đẩy lùi loại tội phạm này, đảm bảo sự nghiêm minh của

68

pháp luật.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Thị Lan Anh (2013) Phòng ngừa tội cướp tài sản do người chưa thành

niên thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học,

Đại học Luật Hà Nội.

2. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (1996), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

3. Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự (1994), Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

4. Bộ luật dân sự (2005), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5. Bộ luật hình sự Việt Nam (1985), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. Bộ luật hình sự Việt Nam (1999),Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

7. Bộ luật hình sự Việt Nam (2015),Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

8. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam (2003), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

9. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam (2015), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

10. Lê Cảm (Chủ biên) (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung),

Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

11. Lê Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật Hình sự (Phần

chung), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

12. Nguyễn Ngọc Chí (2000), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm

sở hữu, Luận án Tiến sỹ Luật học, Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật,

Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ X,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

14. Đại học Quốc gia Hà Nội (1993), Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần

các tội phạm, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

15. Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam- Phần

chung, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

16. Nguyễn Minh Đoan (2010), Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam

(sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Lê Thị Thu Hà (2004), Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt

Nam: Một số khía cạnh pháp lý và tội phạm học, Luận văn thạc sỹ.

18. Nguyễn Ngọc Hòa (1990), “Một số ý kiến về tình tiết hành hung để tẩu

thoát trong Bộ luật hình sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, Hà Nội.

19. Nguyễn Ngọc Hòa (1991), Tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

20. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2007), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam -

Phần các tội phạm, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

21. Nguyễn Hùng (2013), TCGTS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn

tỉnh Quảng Nam, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

22. Luật thi hành án dân sự (2014), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

23. Dương Tuyết Miên (2004), Quyết định hình phạt, Luận án tiến sỹ luật học,

Trường đại học Luật Hà Nội.

24. Nghị quyết 02/HĐTP ngày 16/11/1988 của Hội đồng thẩm phán TANDTC.

25. Đặng Hồng Nhung (2014), TCGTS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực

tiễn tỉnh Quảng Bình, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

26. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội

phạm), Tập II, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

27. Đinh Văn Quế (2004), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999, Nxb

thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

28. Đinh Văn Quế (2000), Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình

sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

29. Đinh Văn Quế (2001), Tìm hiểu tội phạm trong Bộ luật hình sự Việt Nam

năm 1999, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

30. Hồ Sỹ Sơn (2008), “Hoàn thiện về một số quy định của hình phạt và quyết

định hình phạt của BLHS năm 1999 nhằm đảm bảo hơn nữa về nguyên tắc

nhân đạo trong luật hình sự”, Tạp chí Luật học số 04/2008.

31. Tạp chí Tòa án, 2007, số 9, tr 35.

32. Thông tư liên tịch số 02/TTLT ngày 25/12/2001 hướng dẫn áp dụng một số

quy định trong chương XIV - Các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự

năm 1999, Hà Nội.

33. Thông tư 01/2011/TTLN ngày 12/7/2011 VKSNDTC - TANDTC - Bộ

công an - Bộ tư pháp - Bộ lao động thương binh và xã hội.

34. Trường Đại học luật Hà Nội (2000), Giáo trình luật hình sự Việt Nam -

Phần các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

35. Lương Văn Thức, Các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự Việt Nam,

Luận văn thạc sỹ.

36. Nguyễn Duy Thuận (1991), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm

sở hữu, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

37. Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb

Tư pháp, Hà Nội.

38. Võ Khánh Vinh (1990),“Nguyên tắc cá thể hóa việc quyết định hình phạt”,

Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 08.

39. Võ Khánh Vinh (1990), “Nghiên cứu tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã

hội của tội phạm khi QĐHP”, Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 12.

40. Võ Khánh Vinh (1994), Nguyên tắc công bằng trong Luật hình sự Việt Nam,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

41. Võ Khánh Vinh (1996), Tội phạm học, Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự

(1996), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

42. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình lý luận chung về định tội danh, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

43. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật hình sự phần chung, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

44. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật hình sự phần các tội phạm, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

Trang web

45. https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A0_N%E1%BA%B5ng

(truy cập ngày 19/5/2020).