VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ TRẦN BÁ ĐỨC
TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ TRẦN BÁ ĐỨC
TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 838.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM CÔNG NGUYÊN
HÀ NỘI, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn Thạc sĩ Luật học “Tội cướp giật tài sản
từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi, hoàn toàn do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Phạm
Công Nguyên. Các đoạn trích dẫn và số liệu đã được sử dụng trong luận văn
này đều được dẫn từ nguồn có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết
của tôi.
Tác giả luận văn
LÊ TRẦN BÁ ĐỨC
MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN. ............................................................................... 7
1.1. Khái niệm, dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản .............................. 8
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản ............................................. 9
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản ......... 20
1.3. Áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản ........... 30
CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH ĐẶC ĐIỂM CÓ LIÊN QUAN VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ................................................................................................... 34
2.1. Đặc điểm tình hình có liên quan đến tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ................................................................................ 34
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ................................................. 44
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................. 57
3.1. Phương hướng hoàn thiện quy định về Tội cướp giật tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015 ......................................................................................... 57
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ...................... 60
KẾT LUẬN ................................................................................................. 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
BLDS Bộ luật dân sự
PLHS Pháp luật hình sự
TAND Toà án nhân dân
HĐXX Hội đồng xét xử
HTND Hội thẩm nhân dân
CTTP Cấu thành tội phạm
QPPL Quy phạm pháp luật
TNHS Trách nhiệm hình sự
QĐHP Quyết định hình phạt
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
TCGTS Tội cướp giật tài sản
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Số liệu về công tác giải quyết, xét xử án hình sự của tòa án nhân
dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến hết tháng 6 năm 2020
..................................................................................................................... 38
Bảng 2.2. Mức độ tổng quan của tình hình tội CGTS trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng từ năm 2015 đến hết tháng 6/2020 ................................................. 39
Bảng 2.3. Tỷ lệ các tội CGTS trong tình hình tội phạm nói chung trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 đến tháng 6/2020 ............................ 40
Bảng 2.4. Tỷ lệ các tội CGTS trong tình hình các tội xâm phạm sở hữu trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 đến tháng 6/2020 ...................... 41
Bảng 2.5. Cơ cấu về hình phạt được áp dụng đối với những người phạm tội
CGTS trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến hết tháng 6/2020 .. 42
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau 34 năm đổi mới, đất nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung, bao cấp
sang nền kinh tế theo cơ chế thị trường, diễn biến của tình hình tội phạm nói
chung, cũng như các tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng ngày càng có chiều
hướng gia tăng, gây thiệt hại lớn về tài sản và hết sức phức tạp gây ảnh hưởng
xấu đến tình hình an ninh chính trị. Do đó việc bảo vệ quyền sở hữu về tài sản
luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Điều đó thể hiện ở việc quyền sở
hữu được pháp luật ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và thể chế hoá trong
nhiều hệ thống văn bản pháp luật trong các lĩnh vực như: Hình sự, Dân sự, Kinh
doanh thương mại… Theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay, quyền sở hữu
được bảo vệ thông qua các quy định trong chương các tội phạm xâm phạm
quyền sở hữucủa BLHS năm 2015. Trong những năm qua, việc đấu tranh ngăn
chặn các hành vi xâm phạm sở hữu đã được các cơ quan bảo vệ pháp luật nước
ta thực hiện tích cực, tuy nhiên việc điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này
vẫn còn nhiều hạn chế, vướng mắc dẫn đến chưa đáp ứng được yêu cầu phòng
chống tội phạm. Do đó, loại tội phạm xâm hại sở hữu ngày càng diễn biến phức
tạp, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, gây dư luận không tốt cho xã
hội, làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối với pháp luật.
Với vị thế là trung tâm kinh tế - văn hóa, giáo dục của khu vực miền Trung,
Tây Nguyên, Đà Nẵng có vị trí giao thông thuận lợi, tập trung nhiều khu công
nghiệp, nhiều trường học, bệnh viện, bến xe, nhà ga lớn của khu vực và cả
nước, có môi trường đầu tư hấp dẫn với nhiều nhà đầu tư trong nước cũng như
nước ngoài, đặc biệt là phát triển du lịch với hàng triệu lượt khách tham quan
đến mỗi năm. Dẫn đến số lượng dân ngoại tỉnh di cư tập trung về TP. Đà Nẵng
1
ngày càng đông đúc cùng với lượng lớn khách du lịch trong và ngoài nước tới
tham quan, nghỉ dưỡng. Tuy nhiên, đi kèm với những thuận lợi đó cũng làm
phát sinh thêm nhiều vấn đề tiêu cực, nổi bật nhất là vấn đề tội phạm xâm phạm
sở hữu, trong đó điển hình là tội cướp giật tài sản, đang là loại tội phạm trở
thành vấn nạn vô cùng bức xúc, được dư luận xã hội quan tâm. Tội cướp giật
tài sản gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, sức khoẻ của người khác,
gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong nhân dân, tác động xấu tới tình hình an
ninh trật tự, đặc biệt là để lại hình ảnh xấu đối với khách du lịch khi đến với
thành phố Đà Nẵng. Trung bình một năm trong thời gian từ năm 2015 hết tháng
6/2020, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã xét xử 20,36 vụ án và 49,27 bị
cáo về tội cướp giật tài sản. Tòa án nhân dân các cấp thành phố Đà Nẵng đã xét
xử đúng người, đúng tội danh và đúng pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh những
kết quả đạt được thì việc áp dụng pháp luật với tội cướp giật tài sản còn cho
thấy còn có nhiều bất cập, vướng mắc.
Vì vậy, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của tội phạm cướp giật
tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, xác định được những tồn tại, hạn chế,
nguyên nhân để từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định của pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản là việc rất cần thiết,
khách quan. Do vậy, tác giả chọn đề tài “Tội cướp giật tài sản từ thực tiễn thành
phố Đà Nẵng” làm đề tài Luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tội cướp giật tài sản đã được nghiên cứu, đề cập ở nhiều hình thức, mức
độ, khía cạnh khác nhau như:
Một số luận văn, luận án liên quan như: Luận án Tiến sỹ luật học "Trách
nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu" của Nguyễn Ngọc Chí, năm
2000; Luận văn thạc sỹ “Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
2
từ thực tiễn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội” của Phan Thị Thu Lê, năm
2015; Luận văn thạc sỹ của Lê Tấn Hùng về “Tội cướp giật tài sản theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” năm 2012; Luận văn thạc
sỹ luật học “Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Hưng Yên” của Nguyễn Thị Toàn, năm 2015…
Các bài viết như: Đặng Thúy Quỳnh (2012), “Bàn về tội "Cướp giật tài
sản" và tội "Công nhiên chiếm đoạt tài sản" trong Bộ luật hình sự năm 1999”,
Tạp chí Kiểm sát số 19/2012, tr. 24-25, 31; Trần Thị Lịch (2016), “Tội cướp
giật tài sản trong Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2015 và một số giải
pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm”; Tạp chí Tòa án nhân dân số 24/2012,
tr. 24-26; Trần Đình Hải (2015), Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ
luật hình sự năm 1999 về "Tội cướp giật tài sản", Nguyễn Văn Khoa Điềm
(2018), “Một số vấn đề đặt ra trong công tác phòng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản hiện nay trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học
Kiểm sát số 4/2018, tr. 34-42; Tạp chí Nghề Luật số 1/2016, tr. 56-58; Đặng
Thúy Quỳnh (2012), “Phạm tội cướp giật tài sản dẫn đến chết người hay phạm
hai tội cướp giật tài sản và tội giết người”, Tạp chí Kiểm sát số 3/2015, tr. 38-
43;
Như vậy, có thể thấy có nhiều tác giả đã nghiên cứu về tội cướp giật tài
sản. Tuy nhiên, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu về loại tội phạm này được
một số tác giả khác khai thác mang tính tổng quát, hoặc một số tác giả khai thác
mang tính riêng biệt ở từng địa phương, nhưng hiện nay chưa có một công trình
khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về tội cướp giật tài sản từ thực tiễn thành
phố Đà Nẵng. Trong luận văn này tác giả đề cập đến những vấn đề về lý luận
và thực tiễn trên cơ sở tổng hợp, nghiên cứu và đánh giá tội cướp giật tài sản
trên địa thành phố Đà Nẵng trong một khoảng thời gian nhất định.
3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng
về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn từ năm 2015
đến tháng 6 năm 2020, luận văn đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật hình
sự về tội cướp giật tài sản, cũng như kiến nghị, giải pháp áp dụng quy định của
pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản một cách phù hợp hơn nhằm nâng cao
hiệu quả đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, phân tích làm rõ và bổ sung hoàn thiện lý luận tội cướp
giật tài sản;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội cướp giật tài sản trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng hiện nay, làm rõ kết quả đã đạt được, hạn chế, thiếu
sót và nguyên nhân của hạn chế thiếu sót;
- Đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống
và xử lý tội phạm này đảm bảo việc áp dụng pháp luật được chính xác.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội cướp giật tài
sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng theo pháp luật hình sự Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi về nội dung: Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp
luật của tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4
+ Phạm vi về tội danh: Đề tài luận văn chỉ nghiên cứu tội cướp giật tài
sản quy định tại Điều 171 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và
nghiên cứu so sánh với Điều 136 BLHS năm 1999.
+ Phạm vi về chủ thể: Thực tiễn áp dụng pháp luật tại Toà án nhân dân
thành phố Đà Nẵng trong đó chủ thể chính là Thẩm phán. Trong quá trình thực
hiện có sự phối hợp với cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát thành phố Đà Nẵng.
+ Pham vi về địa bàn: Đề tài luận văn nghiên cứu trên phạm vi địa bàn
thành phố Đà Nẵng.
+ Phạm vi về thời gian: Thời gian nghiên cứu của luận văn giai đoạn từ
năm 2015 đến hết tháng 6 năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận dựa trên nền tảng phương pháp luận của phép duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng
chống tội phạm. Quá trình nghiên cứu đề tài luận văn còn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học khác để thu thập tài liệu làm sáng tỏ các nội dung
cần nghiên cứu của luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học
Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Pháp quyền
XHCN; đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước
Pháp quyền.
+ Phương pháp phân tích, bình luận, so sánh… được sử dụng trong
5
Chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề nhận thức chung về tội cướp giật tài
sản theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam.
+ Phương pháp thống kê, đánh giá, tổng hợp, đối chiếu được sử dụng tại
Chương 2 khi nghiên cứu đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản từ thực tiễn địa bàn thành phố Đà
Nẵng.
+ Phương pháp quy nạp, tổng hợp được sử dụng tại Chương 3 khi nghiên
cứu, đề xuất định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản từ thực tiễn địa bàn thành
phố Đà Nẵng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài không những góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận tội cướp
giật tài sản mà còn góp phần nâng cao nhận thức và áp dụng pháp luật cũng
như hoàn thiện lý luận về tội cướp giật tài sản trong khoa học luật hình sự Việt
Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Với kết quả đạt được tác giả mong muốn luận văn có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo luật tại Học viện cũng như là tài
liệu để các học viên nghiên cứu.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 Chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội cướp giật tài sản.
Chương 2. Tình hình đặc điểm có liên quan và thực trạng áp dụng quy
6
định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản từ thực tiễn địa
bàn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI CƯỚP
7
GIẬT TÀI SẢN.
1.1. Khái niệm, dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản
1.1.1. Khái niệm tội cướp giật tài sản
Theo quy định của Điều 8 BLHS Việt Nam năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017 thì: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,
xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo
quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự” [7, Điều 8].
Tội cướp giật tài sản trước đó đã từng được quy định tại điều 136 Bộ luật
hình sự 1999 và tại Điều 131 và Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1985. Bộ luật
hình sự năm 2015 quy định tội cướp giật tài sản Điều 171 không mô tả cụ thể
những dấu hiệu đặc trưng của tội cướp giật tài sản mà chỉ nêu tội danh. Các nhà
lập pháp không miêu tả cụ thể những dấu hiệu của Tội cướp giật tài sản mà chỉ
nêu tội danh cướp giật tài sản như sau: “Người nào cướp giật tài sản của người
khác, thì bị phạt…”. Tuy còn nhiều quan điểm chưa thống nhất với nhau và
chưa có một định nghĩa chuẩn xác từ phía nhà lập pháp nhưng xuất phát từ lý
luận và thực tiễn xét xử, chúng ta có thể đưa ra định nghĩa khoa học của khái
niệm: “Tội cướp giật tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý
bằng cách công khai bất ngờ chiếm đoạt tài sản của người khác rồi nhanh
chóng tẩu thoát”.
8
Đặc điểm của Tội cướp giật tài sản là được thực hiện hành vi phạm tội
một cách cố ý, người phạm tội đã lợi dụng sơ hở của người đang quản lý tài sản
để giật lấy tài sản một cách nhanh chóng mà người quản lý tài sản khó có thể
giữ được hoặc giằng lại được. Trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, đối
tượng có thể phải sử dụng một lực nhất định tác động nhằm nhanh chóng chiếm
đoạt tài sản làm cho chủ sở hữu không kịp phản ứng. Do đó, tài sản mà người
phạm tội cướp giật chỉ có thể là loại tài sản gọn nhẹ như: dây chuyền vàng,
đồng hồ, hoa tai, điện thoại, túi xách… Một số trường hợp người phạm tội cướp
giật cả những tài sản cồng kềnh, to lớn khác như xe đạp, xe máy vì sau khi tội
phạm giật được tài sản lại dùng ngay những tài sản đó làm phương tiện để tẩu
thoát. Yếu tố bất ngờ cũng là một dấu hiệu đặc trưng của loại tội phạm này.
Hành vi giật tài sản của người phạm tội được thực hiện một cách nhanh
chóng và công khai, tội phạm không có ý định che dấu hành vi của mình đối
với chủ sở hữu tài sản hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản hoặc đối với
những người khác. Đây là một trong những đặc trưng để phân biệt tội cướp giật
tài sản với những trường hợp phạm tội khác như: tội trộm cắp, lừa đảo, lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không có tính công khai, nhanh chóng.
Tính công khai của hành vi cướp giật tài sản là công khai với chủ sở hữu
hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản là bị giật tài sản, hành vi giật tài sản
một cách nhanh chóng đã tạo ra yếu tố bất ngờ với chủ sở hữu hoặc người có
trách nhiệm về tài sản làm cho những người này không có khả năng giữ được
tài sản đang quản lý. Vì vậy, nếu người phạm tội thực hiện hành vi vào ban
đêm hay có những thủ đoạn làm cho chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm
quản lý tài sản không đề phòng thì hành vi phạm tội vẫn là hành vi cướp giật.
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản
a. Khách thể của tội phạm
9
Khách thể của tội phạm nói chung là những quan hệ xã hội được pháp
luật hình sự bảo và bị các hành vi phạm tội xâm hại đến. Việc quy định những
quan hệ xã hội nào được luật hình sự bảo vệ là khách thể của tội phạm phụ
thuộc vào ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội nhưng thường là
các quan hệ xã hội quan trọng trong đời sống xã hội.
Khách thể bị xâm hại trực tiếp của Tội cướp giật tài sản là quyền sở hữu
đối với tài sản của người sở hữu tài sản. Những tài sản bị nhà nước cấm lưu
hành như vũ khí quân dụng, băng đĩa hình đồi trụy, ma túy, pháo nổ,... không
là đối tượng của tội cướp giật tài sản.
Tội cướp giật tài sản ngoài khách thể chủ yếu bị xâm phạm là tài sản còn
xâm phạm các quan hệ nhân thân. Nhiều vụ cướp giật tài sản hiện nay đã gây
ra những hậu quả rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ của người bị hại
có trường hợp dẫn đến chết người. Tuy những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ
không phải là đối tượng chính mà người phạm tội xâm hại, nhưng trước khi
thực hiện hành vi cướp giật, người phạm tội nhận thức được tính chất nguy
hiểm của hành vi và hậu quả nguy hiểm của hành vi nhưng vẫn thực hiện để
mặc cho hậu quả xảy ra. Do đó BLHS năm 2015 khi quy định tội cướp giật tài
sản đã đưa vào trong cấu thành dấu hiệu về thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ
và coi đây là những tình tiết định khung hình phạt. Như vậy, xác định khách
thể của tội cướp giật tài sản là các quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân là hoàn
toàn phù hợp với lý luận cũng như thực tiễn đấu tranh phòng chống loại tội
phạm này trong điều kiện hiện nay.
b. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm là sự tổng hợp các dấu hiệu bên ngoài của
tội phạm, có những dấu hiệu như: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả tác
hại do hành vi đó gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm và hậu
10
quả tác hại, thời gian, địa điểm, phương pháp, phương tiện và công cụ thực hiện
tội phạm.
Điều luật không mô tả cụ thể hành vi khách quan của tội cướp giật tài
sản, tuy nhiên căn cứ vào khái niệm, vào các yếu tố cấu thành tội cướp giật tài
sản thì tội cướp giật tài sản có những hành vi sau:
Dấu hiệu đặc trưng của tội cướp giật tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản
của người khác một cách công khai, nhanh chóng. Trong đó, chiếm đoạt tài sản
là hành vi chiếm hữu (nắm giữ, quản lý) trái phép tài sản của người khác để tạo
cho mình khả năng định đoạt tài sản đó. Tội phạm được coi là hoàn thành từ
thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong điều
luật. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt không ảnh hưởng tới việc định tội đối với
hành vi cướp giật tài sản.
Thông thường, hành vi giật tài sản một cách nhanh chóng đã tạo ra yếu
tố bất ngờ đối với chủ sở hữu hoặc người người đang quản lý tài sản làm cho
những người này không có khả năng bảo vệ được tài sản mà mình đang quản
lý.
Một số trường hợp người phạm tội muốn tạo ra yếu tố bất ngờ đối với
chủ sở hữu hoặc đang quản lý tài sản nhưng thủ đoạn phạm tội không làm cho
chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản bị bất ngờ nên người
phạm tội không thực hiện được hành vi giật tài sản.
Hành vi giật tài sản của người phạm tội được thực hiện một cách công
khai, người phạm tội không có ý thức che giấu hành vi của mình. Đây cũng là
một đặc trưng để phân biệt với những trường hợp phạm tội khác.
Tính chất công khai của hành vi cướp giật tài sản là công khai với chủ
sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản là bị giật chứ không phải công
khai với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản về thân phận của
11
người phạm tội.
Về hậu quả: Hậu quả của tội cướp giật tài sản là tài sản bị của người sở
hữu bị chiếm đoạt. Ngoài ra còn có thể xảy ra thiệt hại về sức khỏe, thân thể,
tính mạng của nạn nhân.
Người phạm tội cướp giật tài sản có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự
dù có hậu quả xảy ra hay không. Tức là chỉ cần có hành vi nhưng chưa chiếm
đoạt được tài sản thì vẫn phải chịu trách nhiệm. Ngoài ra giá trị tài sản ít hay
nhiều cũng không làm ảnh hưởng đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự mà
đây sẽ là một trong những yếu tố để định khung hình phạt.
c. Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm ở đây là yếu tố lỗi của tội phạm, đối với tội
cướp giật tài sản, lỗi ở đây là lỗi cố ý trực tiếp. Tức là người phạm tội biết rõ
hành vi cướp giật tài sảnlà vi phạm pháp luật, nhưng vẫn thực hiện nhằm mục
đích vụ lợi, chiếm đoạt tài sản bất hợp pháp. Tội cướp giật tài sản được thực
hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức được hành vi giật tài sản
là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội với mong muốn
là chiếm đoạt được tài sản.
Tội cướp giật tài sản không quy định dấu hiệu động cơ là dấu hiệu bắt
buộc của tội phạm này. Căn cứ vào mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm
tội cướp giật tài sản thì người phạm tội phải có động cơ tư lợi, mong muốn
chiếm đoạt tài sản của người khác để phục vụ cho nhu cầu và lợi ích bản thân.
Động cơ đã thúc đẩy, tạo động lực để người phạm tội thực hiện hành vi đến
cùng. Mục đích của tội cướp giật tài sảnlà để chiếm đoạt tài sản của người bị
hại.
d. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội cướp giật tài sản là chủ thể thường, tức là bất cứ ai có
12
năng lực trách nhiệm hình sự đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Như vậy người phạm tội cướp giật tài sản là người đủ từ 14 tuổi trở lên,
khi thực hiện hành vi phạm tội không bị mắc bệnh tâm thần, có khả năng nhận
thức, và có thể điều khiển hành vi của mình. Bởi vì, tội cướp giật tài sản quy
định trong Bộ luật Hình sự là tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng do cố ý nên theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự thì nếu
người từ đủ 14 tuổi nhưng dưới 16 tuổi nếu phạm tội quy định tại khoản 2, 3, 4
Điều 171 Bộ luật Hình sự thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của
mình..
e. Hình phạt
Theo quy định tại Điều 171 BLHS năm 2015 Tội cướp giật tài sản bao
gồm bốn khung hình phạt:
Khoản 1: hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Đây là mức phạt khi không có các dấu hiệu định khung đối với tội cướp
giật tài sản. Khi đưa ra mức phạt trong khung hình phạt này tòa án sẽ căn cứ
vào những yếu tố như là mức độ dùng vũ lực, các tình tiết tăng nặng, tình tiết
giảm nhẹ, có chiếm đoạt được tài sản hay không. Chẳng hạn đối với những
người thuộc trong cùng một khung hình phạt này, người sử dụng vũ lực nặng
hơn thì sẽ có mức phạt cao hơn, người có nhiều tình tiết giảm nhẹ hơn sẽ phải
chịu mức phạt thấp hơn người không có tình thiết giảm nhẹ, người chiếm đoạt
được tài sản sẽ có mức phạt cao hơn người chưa chiếm đoạt được tài sản…
Khoản 2: Hình phạt tù từ 03 năm đến 10 năm áp:
Khoản 2 Điều 171 BLHS năm 2005 quy định: “Phạm tội thuộc một trong
các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến 10 năm”.
Các tình tiết tăng nặng bao gồm:
13
a) Phạm tội có tổ chức:
Phạm tội có tổ chức, là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp
đặt vai trò của những người tham gia. Trong đó mỗi người thực hiện một hoặc
một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu. Theo quy định
tại khoản 2 Điều 17 BLHS thì, người tổ chức, người thực hành, người xúi giục,
người giúp sức đều là những người đồng phạm.
b) Có tính chất chuyên nghiệp:
Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp còn là tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 52 BLHS. Hướng dẫn của
Nghị quyết về “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” được hiểu là người phạm
tội cố ý 05 lần thực hiện tội phạm trở lên và người phạm tội đều lấy các lần
phạm tội làm nghề sinh sống, lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống
chính đã được hướng dẫn cụ thể tại tiểu mục 5 Nghị quyết số 01/2006/NQ-
HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng;
Người phạm tội cướp giật tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến
dưới hai trăm triệu đồng. Định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào
thời điểm thực hiện hành vi phạm tội. Việc định giá tài sản về nguyên tắc là xác
định giá trị tài sản theo giá thị trường tại thời điểm tài sản bị chiếm đoạt. Xác
định thiệt hại thực tế của tài sản bị xâm hại là như thế nào. Đồng thời cần quy
định bắt buộc đối với các cơ quan chuyên môn phải có cán bộ chuyên trách
trong lĩnh vực định giá tài sản trên cơ sở đó mới có thể đảm bảo sự khách quan,
trung thực trong việc định giá tài sản. Đồng thời cũng cần sớm ban hành văn
bản hướng dẫn về vấn đề này để khắc phục hạn chế đã và đang diễn ra trên thực
tiễn.
14
d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm:
Theo Thông tư số 02/TTLT ngày 25/12/2001 của TANDTC,
VKSNDTC, Bộ công an, Bộ tư pháp về áp dụng Chương XIV quy định: “Dùng
thủ đoạn nguy hiểm trong Tội cướp giật tài sản mà nguy hiểm đến tính mạng,
sức khỏe của người bị hại hoặc của người khác như: dùng xe máy, dùng mô tô
để thực hiện việc cướp giật của người khác đang đi mô tô, xe máy”.
đ) Hành hung để tẩu thoát:
Hành hung để tẩu thoát là (Hành vi) dùng sức mạnh chống lại việc bắt
giữ để trốn thoát (việc bắt giữ được thực hiện ngay sau khi hành vi phạm tội
xảy ra).
Hành hung để tẩu thoát là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng của
nhiều tội phạm trong nhóm tội xâm phạm sở hữu như tội trộm cắp tài sản, tội
cướp giật tài sản... Hành hung để tẩu thoát đòi hỏi có những đặc điểm sau: 1)
Có hành vi dùng sức mạnh tác động đến người bắt giữ. Hành vi này không đòi
hỏi phải gây thương tích; 2) Mục đích của hành vi dùng sức mạnh tác động đến
người bắt giữ (chống trả) chỉ nhằm trốn thoát mà không phải nhằm giữ tài sản
(nếu chống trả nhằm giữ bằng được tài sản sẽ bị coi là trường hợp chuyển hóa
thành tội cướp tài sản).
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể từ 11 – 30%:
Đây là trường hợp khi thực hiện hành vi phạm tội cướp giật người phạm
tội đã Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể từ 11 – 30%. Khách thể chính bị xâm hại của tội cướp giật
tài sản vẫn là quyền sở hữu tài sản, tuy nhiên một số trường hợp người phạm
tội lại gây ra thương tích cho bị hại, thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho
người khác ngoài ý muốn của mình. Cách tính tỷ lệ thương tích hay tổn hại sức
15
khỏe tham khảo Thông tư 20/2014/TT-BYT ngày 12 tháng 06 năm 2014 của
Bộ Y tế.
g) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người
già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ:
Do đây là một trong 4 tình tiết định khung tăng nặng mới được quy định
tại điểm tình tiết quy định tại điểm e khoản 2 Điều 171 BLHS năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung 2017), nên học viên sẽ đi sâu phân tích về tình tiết này:
Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già
yếu hoặc người không có khả năng tự vệ. Đây là tình tiết định khung tăng nặng
trách nhiệm hình sự mới đối với tội cướp giật tài sản để đáp ứng yêu cầu của
việc đấu tranh phòng, chống tội phạm này trong tình hình hiện nay, được áp
dụng đối với hành vi cướp giật tài sản được thực hiện từ ngày 1/1/2018. Tình
tiết này là tổng hợp của 4 dấu hiệu định khung có tính chất nguy hiểm tương
đương nhau được quy định chung trong cùng một điểm của điều luật, đó là:
phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phạm tội với phụ nữ mà biết là có thai,
phạm tội với người già yếu và phạm tội với người không có khả năng tự vệ.
Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi. BLHS hiện hành đã cụ thể hóa quy
định về giới hạn độ tuổi, trong đó thay thế thuật ngữ “trẻ em” trước đây bằng
thuật ngữ xác định rõ độ tuổi là “người dưới 16 tuổi”. Quy định này tạo sự rõ
ràng, thống nhất trong việc áp dụng quy định của BLHS. Xuất phát từ quan
điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ những người khó
có khả năng tự vệ trước những hành vi xâm hại của tội phạm làm tổn hại lớn
cho sự phát triển bình thường về thể chất, tinh thần cho đối tượng đặc biệt này.
Việc xác định độ tuổi của người dưới 16 tuổi thực hiện theo quy định tại Điều
417 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 [36]. Phạm tội đối với người dưới 16
tuổi là tình tiết khách quan nên chỉ cần xác định bị hại là người dưới 16 tuổi thì
16
người phạm tội đã bị áp dụng tình tiết tăng nặng này mà không cần người phạm
tội phải nhận thức được đối tượng mình thực hiện hành vi cướp giật tài sản là
người dưới 16 tuổi.
Phạm tội đối với phụ nữ mà biết là có thai. Phụ nữ có thai cũng là đối
tượng cần được bảo vệ đặc biệt. Tuy nhiên, đây là tình tiết thuộc ý thức chủ
quan của người phạm tội “mà biết”, tức là phải xác định người phạm tội biết bị
hại là người đang có thai mà vẫn thực hiện hành vi cướp đối với người đó mới
áp dụng tình tiết tăng nặng này. Việc biết của người phạm tội có thể do bị cáo
và mọi người đều nhìn thấy được (thai đã lớn) hoặc biết được, nghe được từ
các nguồn thông tin khác nhau về việc người phụ nữ đó đang mang thai.
Phạm tội đối với người già yếu. Đây không phải là tình tiết thuộc ý thức
chủ quan của người phạm tội nên không đòi hỏi người phạm tội phải biết người
mà mình xâm phạm là người già yếu, chỉ cần xác định người bị xâm phạm là
người già yếu thì người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo tình tiết
định khung tăng nặng này. Tuy nhiên, quy định về người già yếu mới được quy
định lần đầu tiên trong BLHS mà hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể. Theo
hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, người già được xác định là người từ
70 tuổi trở lên”[53]; “Người quá già yếu là người từ 70 tuổi trở lên hoặc người
từ 60 tuổi trở lên nhưng thường xuyên đau ốm”[54]. Vì vậy, khi xem xét quyết
định áp dụng tình tiết phạm tội đối với người già yếu, Tòa án phải căn cứ vào
mỗi trường hợp cụ thể để đánh giá tình trạng sức khỏe và độ tuổi của người bị
hại tại thời điểm bị tội phạm xâm hại để quyết định áp dụng hay không. Học
viên đồng tình với quan điểm cho rằng, “người già yếu phải là người từ đủ 70
tuổi trở lên và đang ở trong tình trạng ốm đau hoặc không trong tình trạng ốm
đau nhưng là người yếu”[40].
Phạm tội đối với người không có khả năng tự vệ. Đây cũng là tình tiết
17
thuộc dấu hiệu khách quan nên không yêu cầu người phạm tội biết bị hại có
phải là người không có khả năng tự vệ hay không. Quy định này cũng chưa có
văn bản hướng dẫn có giá trị pháp lý của cơ quan có thẩm quyền.”[53].
h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội:
Khi việc cướp giật tài sản được lặp đi lặp lại một cách liên tục, thường
xuyên ở cùng một khu vực, gây hoang mang cho nhiều người trên một địa bàn
nhất định, làm cho rất nhiều người vì quá sợ hãi nên phải bỏ học, bỏ việc làm,
không dám lao động sản xuất, không dám buôn bán…
i) Tái phạm nguy hiểm:
Tái phạm nguy hiểm còn là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được
quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự, người tái phạm, tái phạm nguy hiểm
không chỉ thực hiện hành vi phạm tội mà còn đã từng bị kết án và chưa được
xóa án tích trước đó. Tái phạm nguy hiểm thể hiện nhân thân của người phạm
tội không tốt, không ăn năn sau khi đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà còn
thực hiện hành vi phạm tội.
- Khoản 3: hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000
đồng;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh:
Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh là trường hợp người phạm tội lợi dụng vào
hoàn cảnh thiên tai, dịch bệnh để thực hiện hành vi phạm tội cướp giật tài sản.
Do thiên tai, dịch bệnh là một hoàn cảnh khó khăn mà không một ai mong
muốn, nếu tội phạm lợi dụng tình hình này để phạm tội thì đây sẽ là một tình
18
tiết định khung tăng nặng của mức phạt tù.
- Khoản 4: hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở
lên;
c) Làm chết người trong tội cướp giật tài sản không phải là hành vi người
phạm tội trực tiếp dùng vũ lực để tấn công trực tiếp vào nạn nhân với mục đích
làm nạn nhân thiệt mạng để cướp giật tài sản, mà là trong quá trình thực hiện
cướp giật tài sản, thủ phạm không mong muốn nạn nhân chết nhưng vẫn bỏ
mặc cho hậu quả vẫn xảy ra. Người bị chết không chỉ là nạn nhân của hành vi
cướp giật mà còn có thể là người khác. Ví dụ: A cướp giật tài sản của B, do bị
giật tài sản nên B điều khiển xe máy bị mất lái đi không đúng phần đường, đã
gây tai nạn làm một người chết.
d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp: Khi đất nước
đang trong tình trạng chiến tranh, hoặc tình trạng khẩn cấp khác mà tội phạm
lợi dụng tình trạng khó khăn này để phạm tội. Lúc này để quyết định hình phạt
thì cần phải lưu ý dấu hiệu lợi dụng ở đâu nếu người phạm tội trong chiến tranh,
tình trạng khẩn cấp mà không lợi dụng sự kiện này thì đây sẽ không phải là một
căn cứ để quyết định hình phạt. Tình trạng chiến tranh là trạng thái xã hội đặc
biệt của đất nước được tuyên bố từ khi Tổ quốc bị xâm lược cho đến khi hành
vi xâm lược đó được chấm dứt trên thực tế. Người phạm tội đã lợi dụng hoàn
cảnh có chiến tranh để cướp giật tài sản, hành vi đó có thể được thuận lợi hơn,
khó bị phát hiện hoặc có thể đạt mục đích lớn hơn. Không nhất thiết lúc phạm
tội hoặc nơi phạm tội phải đang có chiến sự mà chỉ cần người phạm tội lợi dụng
19
hoàn cảnh chiến tranh để thực hiện hành vi cướp giật tài sản dù ở đâu, lúc nào
vẫn bị áp dụng tình tiết tăng nặng này.
“Tình trạng khẩn cấp về quốc phòng là trạng thái xã hội của đất nước khi
có nguy cơ trực tiếp bị xâm lược hoặc đã xảy ra hành vi xâm lược hoặc bạo
loạn có vũ trang nhưng chưa đến mức tuyên bố tình trạng chiến tranh” [Luật
Quốc phòng 2018]. Tuy nhiên, đó là tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, còn
tình trạng khẩn cấp nói chung là gì thì chưa có văn bản nào giải thích. Theo
cách hiểu thông thường, tình trạng khẩn cấp là tình trạng cấp bách của xã hội
và của cá nhân mỗi người, khi ở trong tình trạng đó, mọi người đều tập trung
vào việc giải quyết để nhanh chóng thoát ra khỏi tình trạng đó. Tình trạng khẩn
cấp này không phải do thiên tai, địch họa hoặc dịch bệnh gây ra, mà do chính
con người, hoàn cảnh xã hội gây nên như tai nạn, hỏa hoạn,… Tình trạng này
chỉ xảy ra trong thời gian nhất định, không kéo dài. Vì vậy, khi xác định người
phạm tội lợi dụng tình trạng khẩn cấp để phạm tội hcần xác định đó có phải là
tình trạng khẩn cấp hay không; đồng thời, phải xác định người phạm tội có hành
vi lợi dụng tình trạng khẩn cấp đó để thực hiện hành vi phạm tội hay không.
Như vậy, lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp để phạm tội cướp
giật tài sản là trường hợp người phạm tội dựa vào các hoàn cảnh nêu trên để
thực hiện hành vi cướp giật tài sản. Mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
cướp giật tài sản trong trường hợp này phụ thuộc tính chất của hoàn cảnh chiến
tranh, tính chất và mức độ của tình trạng khẩn cấp và mức độ lợi dụng nhiều
hay ít vào hoàn cảnh đặc biệt này.
Hình phạt bổ sung đối với người phạm Tội cướp giật tài sản
Ngoài phạt tù thì theo quy định tại Khoản 5 Điều 171 người phạm Tội
cướp giật tài sản còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu
đồng.
20
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài
sản
1.2.1. Giai đoạn từ Cách mạng Tháng tám năm 1945 đến trước khi
ban hành BLHS năm 1985
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa non trẻ vừa ra đời đã phải đối phó với thù trong, giặc ngoài, vừa
từng bước xây dựng xã hội mới. Đặc điểm của giai đoạn này là áp dụng pháp
luật cũ của đế quốc và phong kiến theo tinh thần mới nhưng đảm bảo nguyên
tắc dân chủ, công bằng. Đặc điểm cơ bản của giai đoạn này là áp dụng pháp
luật của đế quốc và phong kiến theo tinh thần mới với nguyên tắc đảm bảo dân
chủ, công bằng. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật để bảo vệ thành quả cách mạng là công cụ hữu
hiệu nhất, đặc biệt đã thể hiện chính sách hình sự đối với các hành vi xâm phạm
sở hữu. Chỉ trong một thời gian rất ngắn kể từ ngày Bản Tuyên ngôn Độc lập
được công bố đến ngày 19/12/1946 - Ngày Toàn quốc kháng chiến Nhà nước
Việt Nam đã ban hành 479 văn bản pháp luật, trong đó có 243 sắc lệnh 172
nghị định, 46 thông tư và 12 văn bản khác.
Ngày 09/11/1946, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua
Hiến pháp đầu tiên, tại Điều 12 đã ghi nhận: “Quyền tư hữu tài sản của công
dân Việt Nam được bảo đảm”.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (Ngày 07 tháng 5 năm 1954) thực
dân pháp bị thất bại trên toàn mặt trận và buộc Pháp phải ngồi vào bàn hội nghị
Giơ-ne-vơ. Đất nước ta chia thành hai miền, miền Nam tiếp tục đấu tranh giải
phóng đất nước, miền Bắc tiến hành xây dựng XHCN và lao động sản xuất chi
viện người và của cho miền Nam. Tuy mới được ban hành nhưng pháp luật
hình sự thời kỳ này đã khái quát được những hành vi XPSH trong thực tế và
21
quy định thành các tội phạm cụ thể làm cơ sở cho Tòa án kịp thời xét xử. Đồng
thời, các văn bản này còn quy định đường lối xử lý các tội xâm phạm sở hữu
dựa trên nguyên tắc trừng trị kết hợp với khoan hồng, giáo dục cải tạo và đã có
sự cá thể hóa hình phạt đối với các hành vi phạm tội. Nhà nước đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội và quản lý đất nước,
trong đó có nhiều văn bản liên quan trong lĩnh vực hình sự quy định về tội Cướp
giật tài sản, cụ thể là:
Pháp lệnh số 149-LCT này vào ngày 21 tháng 10 năm 1970 về Trừng trị
các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, đã quy định về tội cướp giật như
sau:
Điều 5. Tội cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa.
1. Kẻ nào cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 1 năm đến
7 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:
a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;
b) Có tổ chức;
c) Hành hung để tẩu thoát;
Thì bị phạt tù từ 5 năm đến 15 năm.
Sau ngày 30/4/1975, do hoàn cảnh và điều kiện lịch sử Nước ta vừa giải
phóng, nhiệm vụ trọng tâm của Nước ta thời kỳ này chủ yếu tập trung cho việc
tái thiết đất nước và cũng cố chính quyền cách mạng, nên chưa kịp thời xây
dựng Bộ luật hình sự với đúng nghĩa của nó và cũng chưa có các văn bản pháp
luật cụ thể để xử lý các tội phạm xâm hại sử hữu nói chung và tội cướp giật tài
sản nói riêng. Vì vậy, pháp luật thời kỳ này vẫn duy trì các qui định của pháp
luật trước đây. Đồng thời chủ yếu là áp dụng tiền lệ pháp để xử lý hành vi phạm
22
tội nói chung, phạm tội Cướp giật tài sản nói riêng. Tuy nhiên giai đoạn này
cũng có thể kể đến việc ngày 15 tháng 3 năm 1976 Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã ban Sắc luật số 03-SL/76, quy định về
các tội phạm và hình phạt.
1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành BLHS năm 1985 đến trước khi
ban hành BLHS năm 1999
Đến năm 1985, nền kinh tế nước ta đã có sự phát triển nhất định, đời
sống kinh tế của người dân được nâng lên. Tuy nhiên nạn trộm cắp, cướp bóc
tài sản của Nhà nước cũng như của công dân có chiều hướng tăng nhanh. Một
phần do tác động của kinh tế thị trường cũng như việc do nhập của các băng
đảng tội phạm bên ngoài vào. Nhận thức rõ điều đó, Đảng và Nhà nước đã có
nhiều chủ trương phải nhanh chóng ban hành BLHS để có căn cứ xử phạt
nghiêm minh (để cai trị). Sau nhiều ngày tháng dự thảo, ngày 27/06/1985 Quốc
Hội đã thông qua BLHS 1985 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1986. Lần đầu tiên
nước ta có một bộ luật, đánh dấu một bước tiến bộ vượt bậc trong lịch sử lập
pháp hình sự của Nhà nước ta.
Bộ luật hình sự năm 1985 đã giành hai chương quy định về tội xâm phạm
sở hữu, chương IV phần các tội phạm “các tội xâm phạm sở hữu XHCN”,
chương VI phần các tội phạm “các tội xâm phạm sở hữu của công dân”. Việc
giành riêng hai chương quy định về các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình
sự năm 1985 đã khẳng định mức độ nghiêm trọng của các hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trong thực tiễn cũng như sự cần thiết phải xác lập một cơ sở pháp
lý thống nhất để xử lý hành vi phạm tội. Cụ thể là quy định trong Bộ luật hình
sự Việt Nam năm 1985 về loại tội phạm trong lĩnh vực xâm phạm sử hữu nói
chung và tội Cướp giật tài sản nói riêng. Tuy có thể do sự ảnh hưởng của yếu
tố lịch sử về công cuộc đổi mới đất nước, đổi mới nền kinh tế (trước Đại hội
23
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra từ ngày 15-18/12/1986), cho
nên trong quá trình dự thảo và ban hành Bộ luật hình sự 1985, các nhà làm luật
đã quy định nội dung của tội về Tội cướp giật tài sản như sau:
1. Người nào cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản Xã hội Chủ
Điều 131 quy định:
nghĩa, nếu không thuộc trường hợp quy định ở Điều 129, thì bị phạt tù từ một
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba
năm đến năm năm.
a. Có tổ chức hoặc có tính chuyên nghiệp.
b. Dùng thủ đoạn nguy hiểm; hành hung để tẩu thoát.
c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác.
d. Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười
năm đến mười hai năm:
năm đến hai mươi năm.
Điều 154 quy định:
1. Người nào cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản của người
khác, nếu không thuộc trường hợp quy định ở Điều 151, thì bị phạt tù từ ba
tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai
năm đến mười năm:
a. Có tổ chức hoặc có tính chuyên nghiệp.
b. Dùng thủ đoạn nguy hiểm; hành hung để tẩu thoát.
24
c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác.
d. Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy
năm đến hai mươi lăm năm.
Việc quy định trong bộ luật hình sự 1985 thành 2 Điều luật riêng về tội
Cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa và Cướp giật tài sản công dân, trong thời kỳ
đổi mới, đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với tội
phạm Cướp giật tài sản nói riêng và tội phạm xâm hại sở hữu nói chung, đồng
thời tạo cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm Cướp giật tài
sản bằng pháp luật hình sự được tốt hơn. Tuy nhiên điều luật cũng là không mô
tả cụ thể hành vi phạm tội. BLHS năm 1985 là công cụ hữu hiệu của Nhà nước
ta trong thời kỳ hòa bình sau một thời gian dài chiến tranh. Bộ luật này đã phát
huy vai trò, tác dụng to lớn trong công cuộc bảo vệ những thành quả cách mạng,
bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều
kiện ổn định xã hội để tập trung đổi mới kinh tế đất nước.
BLHS năm 1985 đã được sửa đổi bổ sung 4 lần và đến những năm cuối
thập kỷ 90, thế kỷ 20, nền kinh tế nước ta có nhiều biến chuyển tích cực, sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá được đẩy mạnh. Điều này kéo theo tình
hình tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và tội Cướp giật tài sản nói riêng
ngày càng diễn biếp phức tạp. Yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế
BLHS lại được đặt ra với nhiệm vụ đó, trong quá trình dự thảo và lấy ý kiến
góp ý các nhà làm luật đã xem xét đến việc hợp nhất 2 Điều luật quy định về
tội Cướp giật tài sản để hợp nhất thành 1 Điều luật trong BLHS mới.
1.2.3. Giai đoạn sau khi ban hành BLHS năm 1999
Sau những ngày tháng dự thảo sửa đổi, ban hành luật hình sự mới để thay
thế BLHS 1985, ngày 21/12/1999 Quốc Hội đã Thông qua BLHS 1999, có hiệu
25
lực thi hành từ ngày 01.7.2000.
Trước sự phát triển không ngừng của xã hội, việc sửa đổi, bổ sung các
quy định của BLHS 1999 trở thành một yêu cầu tất yếu. BLHS năm 1999 được
sửa đổi, bổ sung bằng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 1999. Luật
này đã được Quốc hội thông qua ngày 19/6/2009, chính thức có hiệu lực kể từ
0 giờ 00 ngày 01/01/2010.
Nếu so sánh Điều 136 của BLHS năm 1999 với Điều 131, Điều 154
BLHS năm 1985 thì có nhiều sửa đổi, bổ sung là các dấu hiệu định khung hình
phạt đã có sự cụ thể hơn, các dấu hiệu định khung mới được quy định. Hình
phạt bổ sung cũng được quy định ngay thành một phần cụ thể. Tội cướp giật
tài sản được quy định 4 khung hình phạt so với BLHS năm 1985 chỉ có 3 khung.
Khoảng cách giữa các khung hình phạt tối đa và tối thiểu trong một khung hình
phạt trong TCGTS cũng ngắn hơn. Các nhà làm luật đã phân hóa TNHS và hình
phạt tạo điều kiện cho hoạt động áp dụng pháp luật được dễ dàng và chính xác
hơn. Ngoài ra, tại BLHS năm 1985 thì tội cướp giật tài sản và tội công nhiên
chiếm đoạt tài sản được quy định chung thì đến BLHS năm 1999 tách riêng và
quy định thành hai điều luật khác nhau.
Có thể nói BLHS 1999 đã rất thành công trong việc ban hành và tổ chức
thi hành phần các loại Tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và tội Cướp giật
tài sản nói riêng. Mà cụ thể, để quá trình thi hành BLHS 1999 nói chung và tội
Cướp giật tài sản nói riêng các nhà làm luật đã ban hành một số văn bản dưới
luật để hướng dẫn thi hành (đến tận bây giờ - năm 2020) những văn bản quy
định về hướng dẫn luật vẫn có hiệu lực thi hành và những đóng góp tích cực để
Cơ quan tiến hành tố tụng (Công an, Kiểm sát, Tòa án, Thi hành án) và người
tiến hành tố tụng (ĐTV, KSV, Thẩm phán và Chấp hành viên...), dễ dành trong
việc áp dụng pháp luật, như: Thông tư liên tịch số 02/VKSTC-TATC-BCA-
BQP-BTP, ngày 25 tháng 12 năm 2001 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại
26
Chương XIV các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật Hình sự 1999 [51] và Nghị
quyết 02/HĐTP ngày 17 tháng 4 năm 2003 hướng dẫn áp dụng một số qui định
của Bộ luật Hình sự [52], học viên sẽ nêu và phân tích nội dung của các văn
bản dưới luật tại mục 1.2.2 của luận văn.
Sự ổn định của Tội Cướp giật tài sản, quy định tại Điều 133 BLHS 1999
còn được thể hiện ở dấu ấn. Mặc dù Tại kỳ họp thứ 4 - Quốc hội khóa XII,
Chính phủ đã có tờ trình với Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự
(BLHS) năm 1999. Tuy nhiên, BLHS hiện hành đã bộc lộ nhiều hạn chế đòi
hỏi phải được khắc phục... và tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa X, Quốc hội đã
ban hành Nghị quyết số 32/1999/QH 10 và cùng ngày 29-6-2009, Chủ tịch nước
đã ký lệnh công bố Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 1999
và Luật này có hiệu lực thi hành từ 0 giờ ngày 01-01-2010.
Có thể nói sau gần 20 năm, Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung 2009)
và có hiệu lực thi hành đến ngày 31.12.2017 đã đi vào cuộc sống, phát huy
những hiệu quả tích cực trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
1.2.4. Tội cướp giật tài sản trong BLHS năm 2015
Ngày 27-11-2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua
Bộ luật Hình sự năm 2015, mặc dù phải sửa đổi bổ sung năm 2017 và chính
thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018. Tuy nhiên BLHS
2015 vẫn đánh dấu một bước tiến quan trọng trong tư duy lập pháp hình sự;
tiếp tục thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống
tội phạm, góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ chức, bảo vệ
trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân
27
theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm nói chung và tội Cướp
giật tài sản nói riêng. Bên cạnh đó với sự ra đời của BLHS 2015 cũng đã góp
phần tạo điều kiện ổn định xã hội để tập trung vào nhiệm vụ phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
của nước ta.
Quán triệt quan điểm sửa đổi BLHS 1999 theo hướng hạn chế tối đa các
dấu hiệu, yếu tố mang tính định tính có thể dẫn đến những khó khăn nhất định
cho việc nhận thức và áp dụng thống nhất pháp luật hình sự trong thực tiễn
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
So với Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Hình sự năm 2015 có nhiều
sửa đổi, bổ sung quan trọng về các tội xâm phạm sở hữu, trong đó có tội cướp
giật tài sản. Điều luật đã loại bỏ một số tình tiết định khung tăng nặng được qui
định tại Điều 133 BLHS năm 1999 là: Điểm g, khoản 2: : Gây hậu quả nghiêm
trọng; Điểm c, khoản 3: Gây hậu quả rất nghiêm trọng; Điểm c, khoản 4: Gây
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Việc luật hóa các quy định hướng dẫn hiện
hành nhằm cụ thể các tình tiết định tính, định lượng trong BLHS là hết sức cần
thiết và loại bỏ các tình tiết định khung trên ra khỏi điều luật nhằm bảo đảm
minh bạch và áp dụng thống nhất,.
Bên cạnh đó, Điều 171 BLHS năm 2015 quy định thêm tình tiết: “Phạm
tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc
người không có khả năng tự vệ”; “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở
lên”; tách tình tiết “làm chết người” thành tình tiết riêng làm tình tiết định khung
hình phạt.
BLHS năm 2015 đã sửa đổi tình tiết định khung tăng nặng “Gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ…”
28
thành “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể từ…”. Việc sửa đổi này nhằm đảm bảo tính đồng bộ giữa
quy định của BLHS và các văn bản pháp luật chuyên ngành. Để phù hợp với
điều kiện kinh tế xã hội ngày càng phát triển, BLHS năm 2015 cũng đã nâng
mức phạt tiền cao nhất từ 50 triệu đồng lên 100 triệu đồng.
Trong những năm gần đây, Tội cướp giật tài sản là một trong những tội
phạm hết sức nguy hiểm diễn ra phổ biến và có chiều hướng gia tăng với những
thủ đoạn trắng trợn, liều lĩnh, xâm phạm đến tài sản, sức khỏe của công dân
đồng thời làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội, gây tâm lý hoang mang,
lo lắng trong quần chúng nhân dân. Với những chế tài nghiêm khắc, những qui
định pháp luật cụ thể đã được sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật hình sự năm 2015,
trong thời gian tới các cơ quan bảo vệ pháp luật đã có một hành lang pháp lý
đầy đủ, toàn diện và cơ chế hữu hiệu đấu tranh hiệu quả với loại tội phạm này,
góp phần bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ tài sản, tính mạng cho nhân dân,
bảo đảm mọi người được sống trong một môi trường an toàn, lành mạnh. Tóm
lại, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã được ban hành với những
điểm mới hết sức tiến bộ, văn minh, thể hiện trình độ lập pháp cao, đảm bảo
được các giá trị cơ bản của hệ thống pháp luật hình sự trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như tính nhân đạo, công bằng, dân chủ,
pháp chế. Đặc biệt, liên quan đến chương các tội xâm phạm sở hữu mà cụ thể
ở đây là đối với tội cướp giật tài sản. Thiết nghĩ điều cốt lõi quan trọng trong
thời điểm hiện nay là các cơ quan có thẩm quyền cần tăng cường công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục, hướng dẫn và giải thích để từng bước hiện thực hóa
các quy định của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) về tội cướp giật tài sản
vào thực tiễn góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền
bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo
29
vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức
tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
1.3. Áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản
1.3.1. Khái niệm áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản
Khi có sự kiện pháp luật hình sự, sẽ phát sinh quan hệ pháp luật hình sự
và quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, khi đó hoạt động giải quyết án hình sự
được bắt đầu bằng việc khởi tố vụ án hình sự, tiến hành các hoạt động điều tra,
thông qua kết quả của hoạt động điều tra, Viện kiểm sát tiến hành hoạt động
truy tố, sau khi Viện kiểm sát truy tố, Tòa án tiến hành hoạt động xét xử. Các
cơ quan trên khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của
BLTTHS. Cụ thể khi tội phạm xảy ra, việc giải quyết vụ án phải trải qua nhiều
giai đoạn và do các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau thực hiện, nhằm xác
định chính xác sự thật vụ án, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ án từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử
và thi hành án hình sự, được gọi là quá trình tố tụng hình sự.
Áp dụng bộ luật hình sự là áp dụng luật nội dung, áp dụng các quy định
của bộ luật tố tụng hình sự là áp dụng luật hình thức của cơ quan tiến hành tố
tụng vào hoạt động giải quyết án hình sự. Hoạt động tố tụng hình sự chứa đựng
cả áp dụng quy phạm pháp luật nội dung và quy phạm pháp luật hình thức với
mục đích bảo đảm áp dụng BLHS chính xác. Hoạt động đó bao gồm cách thức,
trình tự tiến hành các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của các cơ quan nhà nước khác và các tổ
chức xã hội góp phần vào việc giải quyết vụ án nhằm góp phần đấu tranh phòng
chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản, trước hết là một hoạt
động ADPL nên nó có đầy đủ những đặc tính chung của hoạt động ADPL và
30
có đặc thù riêng của hoạt động ADPL hình sự về tội cướp giật tài sản. Như vậy,
Áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản là hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng vận dụng quy định của pháp luật hình sự để giải quyết trách
nhiệm hình sự của người phạm tội này.
1.3.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản
Áp dụng PLHS về tội cướp giật tài sản là một dạng của ADPL - là một
hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt nên áp dụng PLHS về tội cướp giật tài
sản có đầy đủ những đặc điểm chung của bất cứ dạng ADPL nào, đó là:
Thứ nhất, áp dụng PLHS về tội cướp giật tài sản là hoạt động mang tính
tổ chức quyền lực.
Khác với các hình thức thực hiện pháp luật khác có thể do các chủ thể
pháp luật khác tiến hành, áp dụng PLHS chỉ có thể do nhà nước thông qua
những cơ quan có thẩm quyền tiến hành. Hiến pháp quy định mỗi một loại cơ
quan trong bộ máy nhà nước nhất định như Chính phủ, các Bộ, VKS hay Tòa
án, v.v... được tiến hành hoạt động ADPL trong những lĩnh vực nhất định.
CQĐT, VKS và Tòa án là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp
luật hình sự và những cơ quan tố tụng này có quyền áp dụng mọi biện pháp cần
thiết trong hoạt động nhằm đảm bảo cho hoạt động giải quyết các vụ án hình
sự được tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật. Đảm bảo cho việc khởi tố
điều tra các vụ án hình sự được tuân theo quy định của pháp luật; bảo đảm việc
truy tố đúng người, đúng tội và đúng chính sách pháp luật.
Thứ hai, áp dụng PLHS về tội cướp giật tài sản có đặc điểm là sự điều
chỉnh các quan hệ xã hội khi có sự kiện phạm tội.
ADPL hình sự đối với tội cướp giật tài sản cũng vậy, chỉ diễn ra trong
những trường hợp rất cụ thể, trong những quan hệ pháp luật cụ thể với những
cá nhân cụ thể. Pháp luật hình sự là công cụ quyền lực nghiêm khắc nhất của
31
nhà nước, PLHS lại không thể tự mình chuyển hóa vào đời sống hiện thực để
trở thành các quyền và nghĩa vụ cụ thể của các chủ thể có liên quan. Việc thực
hiện PLHS luôn gắn liền với vai trò của nhà nước, lúc đầu là của các thủ lĩnh
hay nhà vua, sau đó dần dần được chuyển giao cho các quan tòa và cuối cùng
được chia nhỏ nữa cho các cơ quan chuyên biệt thực hiện chức năng điều tra
hay công tố. Điều đó có thể mang đến ý nghĩa là việc thực hiện PLHS chỉ có
thể thông qua hình thức ADPL.
Thứ ba, áp dụng PLHS về tội cướp giật tài sản là một hoạt động được
tiến hành với những thủ tục được quy định chặt chẽ bởi pháp luật Tố tụng hình
sự.
Pháp luật TTHS quy định chặt chẽ trình tự, thủ tục của các hoạt động
điều tra, hoạt động giám sát như: khởi tố vụ án; khởi tố bị can; các biện pháp
điều tra; các biện pháp ngăn chặn; nhập, tách vụ án hình sự; đình chỉ, tạm đình
chỉ vụ án; thời hạn điều tra, truy tố, chẩun bị xét xử và xét xử. Tóm lại, tất cả
các bước trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự đều được quy định chặt
chẽ theo các trình tự thủ tục do pháp luật TTHS hiện hành quy định. Nên trong
các văn bản pháp luật luôn quy định rõ cơ sở, điều kiện, trình tự thủ tục, quyền
và nghĩa vụ của các bên trong quá trình ADPL. Thủ tục đơn giản hay phức tạp
phụ thuộc vào tính chất, mức độ quan trọng của việc ADPL.
Thứ tư, áp dụng PLHS về tội cướp giật tài sản còn có đặc điểm là một
hoạt động sáng tạo. ADPL là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo. Bởi ADPL là
một hình thức quan trọng đưa các quy phạm pháp luật trên giấy vào điều chỉnh
các quan hệ cụ thể của đời sống xã hội. Các tình huống trong thực tiễn thì rất
đa dạng, phong phú. Vì vậy, đòi hỏi người có thẩm quyền ADPL phải nghiên
cứu kỹ lưỡng, phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện sự việc, làm sáng tỏ
các cấu thành pháp lý của nó để lựa chọn các quy phạm, ra văn bản ADPL và
32
tổ chức thi hành.
1.3.3. Vai trò của áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản
Áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết án hình sự nói chung cũng
như hoạt động giải quyết án hình sự về tội cướp giật tài sản đều là hoạt động
thường xuyên của Tòa án nhân dân trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình do Hiến pháp và pháp luật quy định.
- Hoạt động ADPL trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành hình phạt các
tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội Cướp giật tài sản góp phần thực hiện
thắng lợi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phòng,
chống các tội phạm xâm phạm sở hữu và tội Cướp giật tài sản phải trên cơ sở
góp phần nâng cao và tăng cường vai trò quản lý Nhà nước bằng pháp luật nói
chung và pháp luật hình sự nói riêng, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước;
- Hoạt động ADPL trong điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án các tội
Cướp giật tài sản kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh, chính xác người có
hành vi phạm tội, không làm oan người vô tội, thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, trả
lại cho người bị hại và những người được ủy quyền hợp pháp.
- Đảm bảo cho mọi hoạt động của các Cơ quan tiến hành tố tụng (Công
an, kiểm sát, Tòa án) cũng như người tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát
viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân ...) khi ADPL trong các hoạt động điều
tra, truy tố các vụ án xâm phạm sở hữu nói chung và tội Cướp giật tài sản nói
riêng được tiến hành minh bạch, có cơ chế giám sát hiệu quả.
Cuối cùng, ADPL trong xét xử án hình sự về tội cướp giật tài sản có vai
trò trong việc phổ biến và tuyên truyền giáo dục pháp luật. Qua các phiên tòa
xét xử công khai, lưu động là cần thiết, góp phần quan trọng trong việc nâng
cao sự hiểu biết về pháp luật và ý thức tôn trọng pháp luật trong quần chúng
33
nhân dân.
Kết luận Chương 1
Trong Chương 1 của Luận văn tác giả đã nghiên cứu những vấn đề lý
luận về tội cướp giật tài sản và làm rõ những dấu hiệu pháp lý của pháp luật
hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản.. Từ những nghiên cứu, phân tích về
mặt lý luận và pháp luật về tội cướp giật tài sản tác giả đã đánh giá, phân tích
làm rõ một số vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật tội cướp giật tài sản như khái
niệm, đặc điểm, vai trò của áp dụng pháp luật đối với tội phạm cướp giật tài
sản. Với việc phân tích mang tính lý luận về nhận thức đối với áp dụng pháp
luật tội cướp giật là tài sản sẽ làm nền tản, tiền đề để tác giả đi sâu vào thực tiễn
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng tại chương 2.
CHƯƠNG 2
TÌNH HÌNH ĐẶC ĐIỂM CÓ LIÊN QUAN VÀ THỰC TRẠNG ÁP
DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Đặc điểm tình hình có liên quan đến áp dụng các quy định của
pháp luật hình sự về tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng
2.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội
Đà Nẵng là địa bàn có vị trí trọng yếu về quốc phòng - an ninh, kinh tế -
xã hội ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên và cả nước. Dân số ngày một gia
34
tăng, đồng thời cũng là điểm đến hấp dẫn của số lượng lớn khách du lịch, đây
là những đặc điểm khiến tình hình an ninh chính trị, trật tự trị an ở đây có những
diễn biến phức tạp. Thành phố Đà Nẵng là thành phố tổng hợp đa ngành, đa
lĩnh vực; trung tâm chính trị - kinh tế - xã hội với vai trò là trung tâm công
nghiệp, tài chính, du lịch, dịch vụ, văn hóa, giáo dục - đào tạo, y tế chất lượng
cao, khoa học - công nghệ, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của khu vực Miền
Trung - Tây Nguyên và cả nước; trung tâm tổ chức các sự kiện tầm khu vực và
quốc tế. Thành phố Đà Nẵng có vị trí địa lý thuận lợi cho sự phát triển nhanh
chóng và bền vững khi nằm ở vị trí chính giữa của mảnh đất hình chữ S với các
tuyến đường bộ, đường sắt, đường hàng không chạy qua trên trục giao thông
Bắc Nam các khu công nghiệp và Vùng kinh tế được ưu đãi đầu tư và phát triển
năng động.
Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 vẫn đang tiếp tục diễn biến phức tạp,
ảnh hưởng đến nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam, đang gây ra
nhiều tác động rất lớn đến kinh tế - xã hội của Việt Nam nói chung và thành
phố Đà Nẵng nói riêng. Kinh tế thành phố Đà Nẵng trong năm 2020 không thể
duy trì được mức tăng như những năm trước, nhiều chỉ tiêu kinh tế quan trọng
của thành phố sụt giảm và có mức tăng trưởng khá thấp.
Trải qua hơn 32 năm phát triển, thành phố Đà Nẵng đã có sự thay đổi
chuyển biến sâu sắc và toàn diện trên tất cả mọi mặt của đời sống xã hội và
trong những năm gần đây, Đà Nẵng tích cực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cải
thiện môi trường, nâng cao an sinh xã hội và được coi là “Thành phố đáng sống
nhất Việt Nam”. Tuy nhiên song hành cùng với sự phát triển đi lên của nền kinh
tế - xã hội, cũng như các địa phương khác trong cả nước. Tình hình vi phạm và
tội phạm trong những năm gần đây của nước ta có chiều hướng gia tăng.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
35
Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng hiện có 5 Toà chuyên trách, 03
Phòng nghiệp vụ và 07 Toà án quận huyện. Hệ thống TAND hai cấp thành phố
Đà Nẵng bao gồm: Tòa án nhân dân cấp thành phố và 7 đơn vị trực thuộc trong
đó có 6 Tòa án cấp Quận và 1 Tòa án cấp huyện với tổng biên chế hiện nay là
213 người (Trong đó Thẩm phán trung cấp 29 người, Thẩm phán sơ cấp 59
người, thẩm tra viên 09 người, thư ký tòa án 88 người và một số chức danh biên
chế khác 28 người). (Nguồn: theo báo cáo của Phòng tổ chức cán bộ TANDTP
Đà Nẵng cung cấp)
Được sự quan tâm của lãnh đạo Toà án nhân dân tối cao, sự hỗ trợ của
lãnh đạo thành phố Đà Nẵng đến nay cơ sở vật chất của ngành Tòa án nhân dân
thành phố Đà Nẵng đã đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác, từng bước hiện đại.
Trụ sở của Toà án thành phố Đà Nẵng và Toà án các quận huyện được đầu tư
xây mới, sửa chữa. Đặc biệt Công trình xây mới trụ sở Toà án nhân dân thành
phố Đà Nẵng được lãnh đạo Toà án nhân dân tối cao xác định là công trình
trọng điểm ưu tiên về vốn xây dựng theo yêu cầu đảm bảo cơ sở vật chất cho
hoạt động tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị. Công trình
gồm khối nhà 6 tầng, diện tích sử dụng là 11.967m2, được xây dựng trên lô đất
có diện tích 6.537m2 với trang thiết bị hiện đại. Sau gần 02 năm xây dựng Công
trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng từ đầu năm 2013. Trụ sở Toà án nhân dân
thành phố Đà Nẵng sau nhiều năm đóng tại 38 Bạch Đằng - Đà Nẵng nay
chuyển về địa chỉ mới tại 374 Núi Thành, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
Với những thành tích đạt được trên các mặt công tác, Toà án nhân dân thành
phố Đà Nẵng và các Toà án quận huyện nhiều năm được tặng Cờ Thi đua của
Chính phủ, Cờ thi đua ngành của Bộ Tư pháp, Cờ thi đua ngành Toà án nhân
dân nhân dân và của Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng và nhiều Bằng khen
của Thủ tướng Chính phủ, của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và của Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng. Đặc biệt, năm 2010, kỷ niệm 65 năm
36
ngày thành lập ngành Toà án nhân dân, Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng
được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân Chương Lao động hạng I. Đến nay Toà
án nhân dân quận Hải Châu, Toà án nhân dân quận Thanh Khê và Toà án nhân
dân huyện Hoà Vang đã được tặng thưởng Huân Chương Lao động hạng II;
Tòa Hình sự Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng và Toà án nhân dân quận
Cẩm Lệ được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng III của Chủ tịch nước.
Trong bối cảnh hội nhập, hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng của nước ta và
trước yêu cầu nhiệm vụ cải cách tư pháp, nhiệm vụ đặt ra đối với ngành Toà án
nhân dân ngày càng nặng nề, với yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao. Thẩm phán,
cán bộ công chức ngành Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng quyết tâm phấn
đấu, không ngừng học tập, rèn luyện để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu
nhiệm vụ đặt ra, xứng đáng với vai trò, vị trí trung tâm trong hệ thống các cơ
quan tư pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp; kế thừa, nối tiếp truyền thống
vẻ vang của ngành được xây dựng, cống hiến qua các thế hệ cán bộ lãnh đạo,
công chức ngành Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng trước đây và
Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng ngày nay.
2.1.3. Tình hình xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng
Thực hiện Nghị quyết 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về
“Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và đặc biệt
là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Ngành Toà án nhân dân thành phố
Đà Nẵng đã đạt được những kết quả tích cực. Toà án nhân dân thành phố và
Toà án các quận huyện luôn chú trọng thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư
pháp trong việc tiếp nhận đơn khởi kiện và các thủ tục tư pháp tại Toà án; thực
hiện công khai, đơn giản hoá thủ tục hành chính tư pháp. Trong công tác xét xử
ngành Toà án thành phố Đà Nẵng đẩy mạnh thực hiện tranh tụng, lấy kết quả
37
tranh tụng tại phiên toà làm căn cứ phán quyết của Hội đồng xét xử nhằm nâng
cao chất lượng công tác xét xử, giải quyết án. Trong thời gian qua, Toà án nhân
dân thành phố Đà Nẵng không để xảy ra trình trạng kết án oan người không
phạm tội hay bỏ lọt tội phạm.
Bảng 2.1. Số liệu về công tác giải quyết, xét xử án hình sự của tòa án
nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến hết tháng 6
năm 2020
Thụ lý
Xét xử
Năm
Vụ
Bị cáo
2015
671
1175
Vụ 654
Bị cáo 1.018
2016
773
1229
2017
805
1254
729 1.161
2018
771
1205
704
1039
2019
813
1329
775
1213
204
606
105
356
T6 năm 2020
788 1.207
6798
3755
5994
Tổng
4037
Nguồn: Văn phòng - TAND TP Đà Nẵng
Trong giai đoạn từ năm 2015-T6/2020, Tòa án hai cấp trên địa bàn TP
Đà Nẵng đã đưa ra xét xử hình sự 3755 vụ án, xử phạt 5994 bị cáo.
Tỷ lệ giải quyết các vụ án hình sự trong giai đoạn 2015 – T6/2020 đạt
99,5% và vượt chỉ tiêu xét xử đã đề ra. Chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án
hình sự về cơ bản đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
2.1.4. Đặc điểm tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng
- Tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Trong thời gian vừa qua, tình hình tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng nói chung vẫn diễn biến phức tạp. Áp dụng pháp luật đối
38
với tội cướp giật tài sản do các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành bao gồm Cơ
quan Điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án. Tuy nhiên, để đánh giá đúng và sát
thực trạng áp dụng pháp luật đối với tội cướp giật tài sản mang tính chính thống
và chính thức của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, cần làm rõ một số đặc
điểm điểm tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong
thời gian (2015-T6/2020).
Bảng 2.2. Mức độ tổng quan của tình hình tội CGTS trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến hết tháng 6/2020
Số vụ án Số người phạm tội Năm
2015 61 21
2016 43 17
2017 48 18
2018 54 19
2019 68 23
Hết tháng 6/2020 13 4
Tổng 287 102
Nguồn: Số liệu thống kê của VKSND thành phố Đà Nẵng
Qua Bảng 2.2 có thể nhận thấy trong thời gian từ năm 2015 đến hết tháng
6/2020 TAND TP Đà Nẵng đã xét xử 102 vụ án với 287 bị cáo phạm tội cướp
giật tài sản. Tính trung bình mỗi năm TAND TP Đà Nẵng xét xử khoản hơn 20
vụ với 49 bị cáo. Tình hình các tội xâm phạm sở hữu nói riêng tại TP Đà Nẵng
được thể hiện ở Bảng 2.3 và Bảng 2.4
Bảng 2.3. Tỷ lệ các tội CGTS trong tình hình tội phạm nói chung trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 đến tháng 6/2020
Tình hình tội
Tình hình
CGTS
tội phạm
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
Năm
(1/3)
(2/4)
Tổng số
Tổng số
Tổng số
Tổng số
vụ
bị cáo
vụ
bị cáo
39
(4)
(1)
(2)
(3)
1.018
3,21
5,99
2015
21
61
654
1.161
2,33
3,70
2016
17
43
729
1.207
2,28
3,98
2017
18
48
788
1039
2,69
5,19
2018
19
54
704
1213
2,97
5,66
2019
23
68
775
356
3,81
3,65
T6/2020
04
13
105
5994
2,71
4,79
Tổng
102
287
3755
Nguồn: Số liệu thống kê của TAND thành phố Đà Nẵng
Bảng 2.4. Tỷ lệ các tội CGTS trong tình hình các tội xâm phạm sở hữu
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 đến tháng 6/2020
Tình hình tội xâm
Tình hình tội CGTS
phạm sở hữu
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
Năm
(1/3)
(2/4)
Tổng số bị
Tổng số vụ
Tổng số bị
Tổng số vụ (1)
cáo (2)
cáo (4)
(3)
309
9,63
19,74
2015
21
61
218
341
7,08
12,61
2016
17
43
240
329
7,66
14,60
2017
18
48
235
371
7,31
14,55
2018
19
54
260
409
8,36
16,62
2019
23
68
275
101
7,69
12,87
T6/2020
04
13
52
7,97
15,43
Tổng
102
287
1.280
1.860
Nguồn: Số liệu thống kê của TAND thành phố Đà Nẵng
Theo số liệu tại Bảng 2.3 và Bảng 2.4 cho thấy, giai đoạn 2015 đến hết
tháng 6/2020, tại TP Đà Nẵng có 112 vụ án CGTS được xét xử với 287 bị cáo
(Trong đó, năm 2016 có số vụ phạm tội ít nhất với 17 vụ, ngược lại năm 2019
40
có số vụ án cướp giật nhiều nhất với 23 vụ). Bên cạnh đó, khi phân tích về số
vụ/ bị cáo cũng phải xemn xét đến tình hình xét xử 06 tháng đầu năm 2020. Bởi
do tình hình diễn biến của dịch bệnh Covid-19 nên hầu hết các phiên tòa đều bị
hoãn xét xử trong tháng 3 và tháng 4, tháng 1 mất khoảng 10 ngày nghỉ tết nên
phần nào vẫn chưa phản ánh được hết kết quả xét xử của Tòa án.
Phân tích số liệu báo cáo về tình hình tội CGTS và tội phạm sở hữu tại TP
Đà Nẵng trong thời gian qua cho thấy: Trong giai đoạn nghiên cứu số vụ án
cướp giật là 102 vụ được đưa ra xét xử chiếm 7,97% tổng vụ án về tội phạm sở
hữu (1.280 vụ). Trong khi đó, tỷ lệ bị cáo bị khởi tố trong giai đoạn này liên
quan đến tội phạm về CGTS là 287 bị cáo chiếm 15,83%.
Trong khi đó, khi so sánh về tỷ lệ vụ án cướp giật so với tổng số vụ án
khởi tố tại TP Đà Nẵng thì rõ ràng năm 2015, 2019 có tỷ lệ tương đối cao so
với các năm còn lại. Tuy nhiên, về tiêu chí bị cáo thì tỷ lệ có xu hướng tăng từ
năm 2015 đến năm 2019.
Bảng 2.5. Cơ cấu về hình phạt được áp dụng đối với những người phạm
tội CGTS trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến hết tháng
6/2020
Hình phạt chính
Hình Tù 1 - Trên 7 Trên 15 Tù Năm Số bị cáo phạt bổ Tù 3 - 7 dưới 3 năm đến năm đến chung sung năm năm 15 năm 20 năm thân
2015 61 14 6 41 0 0 0
2016 43 11 2 30 0 0 0
2017 48 9 5 34 0 0 0
2018 54 15 2 37 0 0 0
2019 68 25 7 36 0 0 0
41
T6/2020 13 10 0 03 0 0 0
Tổng 287 84 181 22 0 0 0
Tỷ lệ % 100 29.27 63.06 7.67 0 0 0
Nguồn: Số liệu thống kê của VKSND thành phố Đà Nẵng
Qua Bảng 2.5 số liệu cho thấy loại hình phạt chính được Tòa án áp dụng
khi xét xử tội cướp giật tài sản chủ yếu là hình phạt tù, từ ba năm đến bảy năm
là nhiều nhất (63,06%), đang ở giai đoạn nghiên cứu (từ năm 2015 đến hết
tháng 6/2020) tổng số hình phạt được áp dụng đối với 181/287 bị cáo (đã xét
xử có bản án) về tội này. Từ một năm đến dưới ba năm (29,27%), tương ứng
với 84/287 bị cáo (đã xét xử có bản án) về tội này. Tiếp đến là hình phạt trên
07 năm đến 15 năm (7,67%) tổng số hình phạt được áp dụng đối với 22/287 bị
cáo (đã xét xử có bản án) về tội này. Từ trên 15 năm và tù chung thân ở giai
đoạn này (2015 đến hết tháng 6/2020), thì TAND các cấp tại TP Đà Nẵng không
có áp dụng đối với khung hình phạt này.
Đặc điểm nhân thân của người phạm tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng
Từ thực tiễn nghiên cứu trực tiếp khoảng 80 hồ sơ vụ án phạm tội Cướp
giật tài sản đã có hiệu lực pháp luật thi hành tác giả nhận thấy TAND hai cấp
thành phố Đà Ngẵng xét xử trong những năm qua học viên nhận thấy. Các cơ
quan tiến hành tố tụng hai cấp thành phố Đà Nẵng (Cơ quan điều tra của Công
an, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân), cũng như những nhười tiến
hành tố tụng hai cấp của thành phố Đà Nẵng (Điều tra viên, Kiểm sát viên và
Thẩm phán) đã thực hiện tốt việc định tội danh cướp giật tài sản, theo quy định
tại Điều 171 BLHS 2015, cụ thể như sau:.
Qua nghiên cứu khảo sát đặc điểm nhân thân của các bị cáo được đưa ra
xét xử về tội cướp giật tài sản trong thời gian từ năm 2015 đến 06 tháng đầu
42
năm 2020 rút ra một số đặc điểm sau:
- Về giới tính
Qua nghiên cứu khảo sát 126 vụ án cướp giật tài sản thì số đối tượng là
nam giới chiếm tỉ lệ cao 118/126 vụ (chiếm 93,65%), số đối tượng là nữ giới
(08 đối tượng, chiếm 6,35%). Nam giới chiếm tỉ lệ cao hơn nữ giới trong cơ
cấu tội cướp giật tài sản nên khi tiến hành các biện pháp phòng ngừa tình hình
tội cướp giật tài sản cần chú ý tập trung vào các đối tượng là nam.
- Về độ tuổi
Các bị cán, bị cáo phạm tội Cướp giật tài sản thường là người trẻ tuổi
(dưới 30 tuổi, trong số này có một số là người dưới 18 tuổi) lười lao động, có
lối sống phóng khoáng thích ăn chơi đua đòi, hay rủ nhau tụ tập uống rượu và
chơi ma túy (để tìm cảm giác lạ). Sau khi hết tiền, để tiếp tục cuộc chơi những
người này đã nảy sinh y định trộm cướp giật tài sản để lấy tiền tiêu sài. Phần
lớn các bị can, bị cáo đều là người có có trình độ văn hóa thấp (có những trường
hợp không được đi học và bỏ học từ khi con nhỏ tuổi), không có nghề nghiệp
hoặc có nhưng lười lao động chân chính, không chịu tu dưỡng rèn luyện đạo
đức, những ham muốn đua đòi như ăn nhậu, bài bạc, cá độ bóng đá.
- Về thời gian, địa điểm, phương pháp, thủ đoạn phạm tội: Bọn tội
phạm thường thực hiện ở các tuyến đường tập trung đông đúc, nhiều người dân
và du khách, thông thường tại các khu vực du lịch dịch vụ như mua sắm, ăn
uống,… du khách và người dân thường xuyên qua lại. Tài sản cướp giật thường
là những tài sản gọn nhẹ, có giá trị như giỏ xách, điện thoại di động, dây chuyền.
húng thường theo dõi những người có mang theo tài sản gọn nhẹ, có giá trị, dễ
tiêu thụ (ĐTDĐ, máy chụp hình, nữ trang, túi xách, vàng, tiền mặt…), đáng
chú ý là những khách hàng đến rút tiền, vàng tại ngân hàng, điểm giao dịch,
tiệm vàng… Thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm này rất táo bạo, quyết liệt
43
bất chấp mọi nguy hiểm đến tính mạng và sức khỏe của người khác. Sử dụng
các loại xe nhỏ gọn có tốc độ cao, gắn bảng số giả đi trên đường phố, phát hiện
sơ hở của nạn nhân liền áp sát gây án, nhanh chóng tẩu thoát khỏi hiện trường,
khi bị truy đuổi sẵn sàng sử dụng hung khí mang theo chống trả. Địa bàn hoạt
động chủ yếu là ở những nơi tập trung đông người (bến xe, nhà ga, chợ, trung
tâm thương mại…); trong đó khu vực xung quanh trường học, ký túc xá sinh
viên cũng là nơi các đối tượng thường xuyên gây án, thời gian hoạt động phần
lớn trong khoảng từ 06h00 đến 11h00 và từ 13h00 đến 18h00.
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
2.2.1. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Trung bình một năm trong thời gian từ năm 2015 hết tháng 6/2020, Tòa
án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử 20,36 vụ án và 49,27 bị cáo về tội cướp
giật tài sản. Về cơ bản Tòa án các cấp đã xét xử đúng người, đúng pháp luật và
đúng tội. Tuy nhiên, trong thời gian này, việc thay đổi tội danh có 02 vụ án và
05 bị cáo, chiếm tỷ lệ tương đối ít là 1,78 % số vụ án và 1,84 % số bị cáo, cụ
thể như sau:
- Tòa án cấp sơ thẩm xác định tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhưng
Tòa án cấp phúc thẩm xác định là tội cướp giật tài sản
Cụ thể, tại Bản án hình sự phúc thẩm số 201/2015/HSPT ngày
15/11/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm đối với
bị cáo Bùi Văn Th và đồng phạm về tội cướp giật tài sản. Nguyên nhân là do
nhận thức không đúng về các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm của tội
phạm cụ thể về sở hữu được quy định trong Bộ luật hình sự, áp dụng văn bản
hướng dẫn chưa đầy đủ và do đánh giá không đúng các tình tiết vụ án, từ đó
44
dẫn đến xác định không đúng tội danh của tòa án cấp sơ thẩm.
Theo hồ sơ vụ án, do có nhu cầu mua điện thoại, Th lên mạng và biết T.
đang rao bán điện thoại nên liên hệ mua. Ngày 5/6/2015, Th rủ Đ đi cùng đến
gặp T. trao đổi. T. nói bán với giá 1,6 triệu đồng, Thích trả giá 1,5 triệu, hai
bên không đồng ý nên Th, Đ ra về.
Đi được khoảng 50 m thì Th nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại nên
nói với Đ: “Để tao giả vờ mua điện thoại rồi lợi dụng sơ hở giật lấy điện thoại
bỏ chạy”. Thích gọi điện thoại cho T. nói đồng ý mua điện thoại và gọi T. chạy
đến giao hàng. Khi T. đến đưa điện thoại cho Thích, lợi dụng lúc nạn nhân
đang cúi xuống, cả hai liền phóng xe bỏ chạy.
Với hành vi này, hai bị cáo bị VKSND quận Thanh Khê truy tố về tội
cướp giật tài sản. Xử sơ thẩm, TAND quận Thanh Khê nhận định dù hai bị cáo
có thỏa thuận trước việc cướp giật nhưng ý thức của nạn nhân thì do tin tưởng
các bị cáo sẽ mua nên mới đến giao dịch. Hành vi chiếm đoạt điện thoại của
các bị cáo là dựa trên hợp đồng gian dối, nạn nhân tự nguyện đưa điện thoại
chứ các bị cáo không có hành vi giật từ tay nạn nhân. Từ đó tòa xử Th 12 tháng
tù, Đ chín tháng tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Sau đó, VKSND quận Thanh Khê kháng nghị yêu cầu tăng án và tuyên
các bị cáo phạm tội cướp giật tài sản. Tại tòa, VKSND TP Đà Nẵng cho rằng
khi nảy sinh ý định “cuỗm” điện thoại của nạn nhân, hai bị cáo đã thống nhất
sẽ lợi dụng sơ hở để giật rồi bỏ chạy. Sau đó, nạn nhân đến điểm hẹn, đưa điện
thoại cho Thích để nhờ Thích tháo SIM, lợi dụng sơ hở Th và Đ phóng xe bỏ
chạy nên phải phạm tội cướp giật mới đúng. Lập luận này được tòa án cấp phúc
thẩm đồng tình.
Việc áp dụng pháp luật tội cướp giật tài sản trên thực tế các cơ quan tiến
hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng còn phải gặp nhiều vướng mắc,
45
khó khăn. Chủ yếu phát sinh đối với những vụ án hành vi phạm tội của bị cáo
không thể hiện rõ ràng các yếu tố CTTP.
- Tòa án cấp phúc thẩm định tội danh tội cướp giật tài sản theo cấu
thành tội phạm tăng nặng và chuyển khung hình phạt:
Tại Bản án hình sự phúc thẩm số: 245/2017/HSPT ngày: 30/11/2017 của
TAND thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo Huỳnh Khắc V với nội dung như
sau:
Khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 05/6/2017, Huỳnh Khắc V mượn xe mô tô
hiệu Yamaha, loại Sirius, BKS: 75E1-051.86 của Nguyễn Đình T (là bạn cùng
học trường Đại học P, TP.H với Vinh) đi từ TP.Hội An ra Đà Nẵng thăm mẹ.
Đi được một đoạn V nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của người khác để tiêu
xài cá nhân và trả nợ. V quay lại phòng trọ số 9C1 - Ký túc xá trường Đại học
P chuẩn bị 01 túi xách da màu nâu, 01 đôi bao tay bằng vải, 01 khẩu trang y
tế, 01 cuộn băng keo 2 mặt, 01 đôi giày thể thao, 01 con dao thái lan, xuống
sân ký túc xá V nhặt thêm 01 cục đá granit cỡ 4 x 6 cm buộc vào đầu thanh gỗ
dài khoảng 30cm rồi bỏ vào ba lô vải màu đen kẹp giữa xe chạy ra Đà Nẵng.
Khi điều khiển xe đến đoạn Cầu Biện (thuộc P.Hòa Hải, Q. Ngũ Hành Sơn, TP.
Đà Nẵng), V phát hiện thấy hiệu vàng Đ đường Lê Văn Hiến vắng người nên
nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của tiệm vàng Đ, V điều khiển xe chạy qua
lại 2 vòng để quan sát. Đến khoảng 20 giờ 45 phút cùng ngày, khi thấy ông
Huỳnh Phú P và bà Đoàn Thị Mỹ H (vợ chồng chủ hiệu vàng Đ) đi vào bên
trong nhà, V liền dừng xe cách tiệm vàng khoảng 15 mét, mở ba lô lấy con dao
thái lan bỏ vào túi xách đeo trước ngực, tay trái cầm thanh gỗ có cục đá đi vào
hiệu vàng đập mạnh đầu có cục đá vào mặt trước tủ kính đựng trang sức làm
kính vỡ. V dùng tay phải thò vào tủ hốt một nắm trang sức bằng vàng (không
xác định số lượng) rồi bỏ chạy. Anh P phát hiện tri hô “cướp”, “cướp”. V
46
hoảng quá cầm trang sức trên tay bỏ chạy bị anh P đuổi theo dùng ghế nhựa
đánh vào lưng V nhưng không gây thương tích gì, V tiếp tục lên xe nổ máy bỏ
chạy trên đường Lê Văn Hiến theo hướng về Quận Sơn Trà. Đến cầu Biện, thì
bị anh Ngô M là người đi đường dùng chân đạp vào xe môtô của V làm V ngã
xuống đường. V dựng xe tiếp tục chạy thì anh P chạy đến dùng tay kéo xe V lại,
cùng lúc đó anh Trần Văn T cũng sử dụng xe mô tô của mình đâm thẳng vào
xe của V. V tăng ga kéo theo anh P một đoạn buộc anh P buông tay rồi chạy
trên đường Lê Văn Hiến theo hướng Sơn Trà. V điều khiển xe ra bãi đậu xe khu
danh thắng Ngũ Hành Sơn, tháo bỏ găng tay bằng da và vải, khẩu trang bằng
vải, áo khoác vải màu xám, túi xách da nhằm che dấu tung tích. Sau đó, V về
lại TP. H, trả xe cho anh Nguyễn Đình Trồi về Ký túc xá ngủ. Theo lời khai của
bị cáo Huỳnh Khắc V thì số trang sức mà Vinh chiếm đoạt của hiệu vàng Đ bị
rơi tại hiện trường trong quá trình giằng co, tẩu thoát, còn theo bị hại Huỳnh
Phú Phúc khai thì ngoài 2 chiếc bông tai trị giá 1.088.850 đồng đã nhận lại,
hiệu vàng Đ còn bị mất 11 đôi bông tai bằng vàng tây trị giá 23.000.000đ. Qua
điều tra, đấu tranh, truy xét, Huỳnh Khắc V còn khai nhận: Tối ngày 27/5/2017,
V mượn xe mô tô hiệu Yamaha, loại Sirius, BKS: 73H1-310.17 của ông Trương
Tuấn A để đi thăm và xin tiền mẹ tại đường Tôn Đản. Đến khoảng 20 giờ cùng
ngày, khi quay về Vinh thấy hiệu vàng N trên đường Trường Chinh vắng người,
bên trong chỉ có một nam và một nữ, V liền nảy sinh ý định đập tủ lấy vàng,
nên chạy lòng vòng để tìm dụng cụ và quan sát. Trên đường đi V nhặt được
thanh gỗ tre dài khoảng 40 cm rồi chạy quá hiệu vàng khoảng 15 mét thì dừng
lại, tắt máy xe đi bộ lại hiệu vàng dùng 2 tay cầm đoạn cây tre đập mạnh vào
kính tủ đựng vàng trang sức nhưng không bể. Người trong hiệu vàng phát hiện
tri hô nên V vứt lại thanh tre, lên xe bỏ chạy về lại Hội An.
Với nội dung nêu trên tại bản án HSST số 31/2017/HSST ngày 28/9/2017
của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn đã quyết định: Áp dụng: Điểm d
47
khoản 2 Điều 136; Điểm g khoản 1 Điều 48; điểm b, p khoản 1 khoản 2 Điều
46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Xử phạt: Huỳnh Khắc V 05 (năm) năm tù về tội
về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam 07/6/2017.
Ngày 12/10/2017 bị cáo Huỳnh Khắc V có đơn kháng cáo với nội dung:
Án sơ thẩm xử nặng - xin giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa cho rằng: Trong vụ án này khi
phạm tội bị cáo Huỳnh Khắc V có hành vi dùng cây tre, cây gỗ có gắn cục đá
nhưng chỉ nhằm mục đích để đập vỡ tủ kính trưng bày vàng bạc nhằm chiếm
đoạt tài sản của các tiệm vàng, không nhằm mục đích tấn công người bị hại.
Tại thời điểm phạm tội bị cáo không sử dụng xe mô tô, sau khi phạm tội bị cáo
mới sử dụng xe mô tô để tấu thoát nhưng lúc này thì tội phạm đã hoàn thành.
Do đó bị cáo không phạm tội thuộc tình tiết định khung “Dùng thủ đoạn nguy
hiểm” theo điểm a khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự mà hành vi của bị cáo chỉ
phạm tội ở khoản 1 Điều 136 Bộ luật Hình sự. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử
chấp nhận kháng cáo của bị cáo, chuyển khung hình phạt xét xử bị cáo ở khoản
1 Điều 136 Bộ luật Hình sự và giảm cho bị cáo một phần hình. Bị cáo Huỳnh
Khắc V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo thừa nhận khi
phạm tội có hành vi sử dụng cây tre, cây gỗ có gắn cục đá nhưng chỉ để đập vỡ
tủ kính để chiếm đoạt, không nhằm mục đích tấn công người bị hại. Bị cáo cho
rằng án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” theo Điều 136 Bộ luật
Hình sự là đúng người, đúng tội, chỉ xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.
HĐXX phúc thẩm nhận định: Bản án sơ thẩm nhận định bị cáo sử dụng
vật cứng để đập vỡ tủ kính trưng bày vàng bạc, để cướp giật tài sản, rồi dùng
xe mô tô để tẩu thoát, trong quá trình tẩu thoát có sự giằng co với người bị hại
nhưng bị cáo vẫn bất chấp điều khiển xe bỏ chạy nên đã phạm tội “Cướp giật
tài sản” có tình tiết định khung “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” theo quy định tại
48
điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự là chưa chính xác. Bởi lẽ bị cáo có
hành vi dùng vật cứng như cây tre, cây gỗ có gắn cục đá nhưng chỉ nhằm mục
đích đập vỡ tủ kính để cướp giật tài sản, không nhằm mục đích tấn công người
bị hại và thực tế diễn biến khách quan của sự việc thể hiện hành vi này của bị
cáo cũng không gây nguy hiểm đối với người bị hại và những người khác. Việc
bị cáo sử dụng xe mô tô là để tẩu thoát và lúc này tội phạm đã hoàn thành. Do
đó hành vi của bị cáo không thuộc trường hợp “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” quy
định tại điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự mà hành vi của bị cáo chỉ
phạm tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 136 Bộ luật Hình sự. Do đó,
căn cứ giới hạn xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử sẽ chuyển khung hình phạt,
xét xử bị cáo ở khoản 1 Điều 136 Bộ luật Hình sự.
Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết định khung tăng
nặng chưa chính xác. Qua nghiên cứu các vụ án CGTS trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng, tác giả nhận thấy giá trị tài sản cướp giật được không lớn và việc áp
dụng các tình tiết tăng nặng định khung không chính xác đối với TCGTS. Việc
hiểu không thống nhất về tình tiết định khung tăng nặng “Dùng thủ đoạn nguy
hiểm” trong vụ án nêu trên cũng như một số tình tiết định khung tăng nặng khác
như: “Có tổ chức”, “Tái phạm nguy hiểm”, “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”, “Hành
hung để tẩu thoát”, “Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”, “Gây hậu quả
nghiêm trọng”… dễ dẫn đến việc hủy án, sửa án.
- Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào nhân thân và các tình tiết giảm
nhẹ TNHS mới để giảm án cho bị cáo:
Tại bản án hình sự phúc thẩm số: 71/2018/HS-PT ngày 27/4/2018 của
TAND thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo Nguyễn Văn A với nội dung như
sau:
Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 06/10/2017, Nguyễn Văn A điều khiển xe
49
mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 74L1-135.xx (do A làm chủ sở
hữu) chạy trên đường B theo hướng Đà Nẵng - Huế thì phát hiện chị Lê Thị
Thùy T đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 43K1-129.xx chạy cùng chiều
phía trước nên nảy sinh ý định chọc ghẹo. A điều khiển xe chạy lên ngang với
chị T rồi có lời chọc ghẹo và dùng tay sờ vào người chị T khiến chị T hoảng sợ
nên điều khiển xe chạy vào đường số x Khu công nghiệp H theo hướng Hòa
Hiệp Nam - Hòa Liên nhưng A vẫn đuổi theo và tiếp tục dùng tay phải đẩy vào
vai của chị T. Khi chị T chạy đến khu dân cư N, phường H, quận L, thành phố
Đà Nẵng thì thấy có chốt bảo vệ bật đèn sáng nên chạy chậm lại, lúc này trên
tay chị T đang cầm 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6S Plus màu hồng
có ốp lưng màu đỏ trị giá 10.200.000đ. Nguyễn Văn A chạy phía sau chị T thấy
chị T chạy xe chậm lại và trên tay có cầm chiếc điện thoại Iphone 6 Plus nên
nảy sinh ý định cướp giật chiếc điện thoại này. A điều khiển xe áp sát xe chị T
rồi dùng tay phải giật chiếc điện thoại trên tay chị T bỏ vào túi quần rồi tăng
tốc xe bỏ chạy đến khu vực đường N, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng
thì bị lực lượng tuần tra Công an phường H phát hiện cùng với người dân truy
đuổi đến khu vực đường B, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng thì bắt được
A. Chiếc điện thoại Iphone 6S Plus lấy của chị T trên đường bỏ chạy A đã làm
rơi xuống đường, anh Nguyễn Văn T là người tham gia đuổi theo A đã phát
hiện nhặt được và giao nộp Công an phường H. Đối với chị T, sau khi bị A giật
điện thoại, chị T và xe của chị T ngã xuống đường nên chị T bị xây xát nhẹ. Tại
Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn A đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.
Tại Bản án sơ thẩm số 11/2018/HS-ST ngày 07/02/2018 của Tòa án nhân
dân quận Liên Chiểu đã quyết định: Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ
luật hình sự năm 1999; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm
2015. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn A 03 (Ba) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”.
Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/10/2017. Bản án sơ thẩm còn
50
quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo bản án.
Ngày 11/02/2018, bị cáo Nguyễn Văn A có đơn kháng cáo với nội dung:
Án sơ thẩm xử nặng, xin được cứu xét để vụ án được đưa ra xét xử theo trình
tự phúc thẩm, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Ngày 26/02/2018, người bị hại
Lê Thị Thùy T có đơn kháng cáo với nội dung: Đề nghị HĐXX cấp phúc thẩm
buộc bị cáo bồi thường số tiền mà người bị hại đã sửa chữa chiếc điện thoại là
500.000đ và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Văn A.
HĐXX phúc thẩm nhận định: Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp
xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến
trật tự trị an xã hội. Vì vậy đối với bị cáo cần phải xử phạt thỏa đáng, cách ly
ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe,phòng ngừa
chung cho xã hội. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, trong suốt quá
trình, điều tra, truy tố và xét xử bị cáo luôn khai báo thành khẩn, tỏ rõ thái độ
ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có công cách mạng; sau khi xử sơ thẩm bị cáo
đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường cho người bị hại số tiền chi phí sửa
điện thoại là 500.000đ theo yêu cầu của người bị hại, người bị hại kháng cáo
xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; đồng thời, gia đình bị cáo cung cấp giấy tờ
thể hiện quá trình công tác mẹ bị cáo có nhiều thành tích đóng góp cho địa
phương và được tặng nhiều giấy khen. Do đó, HĐXX chấp nhận kháng cáo của
bị cáo và kháng cáo của người bị hại cũng như quan điểm của đại diện Viện
kiểm sát và đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa, sửa án sơ
thẩm, giảm cho bị cáo một phần hình phạt.
Tác giả luận văn cho rằng quyết định của Tòa án trong trường hợp này
đã tuân thủ các quy định của pháp luật mà Tòa án áp dụng đối với bị cáo là phù
hợp. Mức án 03 năm tù mà cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là quá nghiêm
khắc. Sau khi xử sơ thẩm, bị cáo tác động gia đình bồi thường cho bị hại số tiền
500.000đ. Quá trình công tác mẹ bị cáo có nhiều đóng góp trong công tác xã
51
hội tại địa phương và được tặng nhiều giấy khen, gia đình bị cáo có công cách
mạng nên đề nghị HĐXX áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS
2015 đối với bị cáo và chấp nhận kháng cáo của bị cáo cũng như kháng cáo của
người bị hại, sửa án sơ thẩm, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt là phù
hợp.
2.2.2. Mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong
giải quyết vụ án cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Để công tác giải quyết và kiểm sát việc giải quyết vụ án được tiến hành
đúng pháp luật, thì cần có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên và có hiệu quả
giữa Viện KSND, Cơ quan điều tra và Tòa án nhân dân.
Tuy nhiên, trên thực tiễn tại nhiều quận huyện, Cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng (chủ yếu là Cơ quan Cảnh sát điều tra) đã phát hiện hành vi
có dấu hiệu tội phạm qua “hoạt động nghiệp vụ”, mặc dù đã tiến hành kiểm tra,
xác minh nhưng không tiến hành thụ lý, phân công người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng và không chuyển nguồn tin đến Viện kiểm sát để Viện kiểm sát
thụ lý, phân công Kiểm sát viên theo quy định. Có một số vụ việc kéo dài,
không giải quyết triệt để; một số vụ đã vi phạm nghiêm trọng trình tự, thủ tục
tố tụng trong quá trình kiểm tra, xác minh, ảnh hưởng đến quyền lợi của người
tham gia tố tụng. Do pháp luật hiện hành (BLTTHS, TTLT số 01/2017) không
quy định về trình tự, thủ tục thụ lý và giải quyết nguồn tin này nên VKSND
cũng không có căn cứ để ban hành Kiến nghị khắc phục vi phạm và Yêu cầu
Cơ quan CSĐT thụ lý, giải quyết theo đúng quy định của TTLT số 01/2017 và
BLTTHS về trình tự và thời hạn giải quyết theo Điều 147 BLTTHS. Trong giai
đoạn 2015 - đến hết tháng 6/2020, số lượng do tố giác tin báo, thông tin cung
cấp có giá trị mà các cơ quan pháp luật đã tiến hành điều tra xử lý chỉ có tổng
cộng 75 vụ. Tình trạng này cho thấy chỉ trong thời gian ngắn xảy ra nhiều hành
52
vi cướp giật (có khi chỉ trong 1-2 giây cho hành vi CGTS) tác động nhiều
nguyên nhân khác nhau như đối tượng ngụy trang phương tiện hóa trang người
và đặc biệt dùng thủ đoạn giả vờ tiếp cận bị hại.
2.2.3. Nhận xét, đánh giá
-Về ưu điểm
Trong 05 năm qua, nhìn chung việc áp dụng pháp luật hình sự về tội
cươp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chưa có trường hợp nào xét
xử oan người không có tội hoặc bỏ lọt tội phạm, thực hiện đúng và đầy đủ thủ
tục tố tụng, không để án quá hạn luật định. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng qua các bản án được
nghiên cứu mà tác giả đã nêu đều cho thấy đa số các bản án đều áp dụng đúng
quy định của BLHS về xác định tội danh, định khung và quyết định hình phạt
đúng. Các hạn chế, sai sót chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số các vụ án được đưa
ra xét xử. Tội cướp giật tài sản là tội phạm có tính phổ biến chiếm tỷ lệ so với
các tội phạm khác nên những người tiến hành tố tụng thường xuyên nghiên cứu
và vận dụng các quy định của pháp luật nên đều nắm vững các các dấu hiệu
pháp lý của tội này.
- Về tồn tại, hạn chế
Bên cạnh các kết quả đã đạt được, trong thời gian qua, Toà án nhân dân
hai cấp thành phố vẫn còn một số hạn chế như:
- Cho bị cáo hưởng án treo không đúng Nghị quyết số 01/2013/NQ-
HĐTP ngày 01/11/2013, Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong công tác giải quyết,
xét xử theo thủ tục sơ thẩm. Có trường hợp Tòa án lạm dụng áp dụng các tình
tiết giảm nhẹ để xử phạt các bị cáo dưới khung hình phạt và giảm tới mức đủ
điều kiện để cho các bị cáo được hưởng án treo. Một số bản án không thể hiện
53
rõ tên ủy ban nhân dân xã được giao giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian
thử thách và không tuyên bị cáo bị áp dụng hình phạt tù theo khoản 5 Điều 65
BLHS, nếu vi phạm nghĩa vụ thi hành án.
- Một số người tiến hành tố tụng chưa chú ý hết các quy định mới của
BLHS năm 2015 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, dẫn đến nhầm lẫn trong
quá trình áp dụng.
- Trong công tác xét xử các vụ án hình sự, có một số vụ án còn cải sửa,
phần lớn lý do cải sửa là do: Hội đồng xét xử sơ thẩm chưa xem xét, đánh giá
đầy đủ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, đánh giá chứng cứ chưa toàn
diện hoặc giải quyết bồi thường không đúng theo quy định của Bộ luật dân sự.
Một số trường hợp hội đồng xét xử còn nặng, nhẹ, chưa đánh giá đầy đủ tính
chất, đúng mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, chưa xem xét đầy đủ các tình
tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo.
* Nguyên nhân của các vướng mắc, hạn chế:
- Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) được
ban hành đã đưa ra nhiều nội dung mới, trong đó có quy định về Tội cướp giật
tài sản. Bốn tình tiết tăng nặng định khung đối với tội danh này đã được quy
định mới, bao gồm: phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có
thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; Gây ảnh hưởng xấu
đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh; Lợi dụng
hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. BLHS đã có hiệu lực thi hành nhưng
cho đến nay, các tình tiết mới này vẫn chưa được cơ quan có thẩm quyền giải
thích, hướng dẫn để tạo hành lang pháp lý rõ ràng, thống nhất cho việc áp dụng
quy định.
- Ngoài ra do sự phát triển của nền kinh tế xã hội nói chung và phát triển
của hệ thống pháp luật Việt Nam nói riêng, đặc biệt là đối với Luật hình sự đã
54
có sự thay thế từ BLHS 1999 sang BLHS 2015 nhưng một số các văn bản dưới
luật dùng để hướng dẫn thi hành đối với BLHS 1999 đến nay đã lỗi thời, bộc
lộ nhiều hạn chế nhưng vẫn chưa được thay thế bằng những văn bản dưới luật
khác phù hợp với BLHS 2015, cụ thể như Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-
TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Liên ngành Trung
Ương hướng dẫn áp dụng một số quy định về tình tiết định khung tăng nặng
trách nhiệm hình sự về dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng” (điểm g khoản 2
Điều 133 BLHS 1999); “gây hậu quả rất nghiêm trọng” (điểm c khoản 3 Điều
133 BLHS 1999); “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” (điểm c khoản 4 Điều
133 BLHS) [51].
- Hiện nay Liên ngành Trung vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể, chi tiết mới
về trường hợp phạm tội cướp giật tài sản có tổ chức. Vì qua bảng 2.2 của luận
văn đã thể hiện, trong những năm vừa qua mặc dù số lượng các vụ án hình sự
phạm tội Cướp giật tài sản có chiều hướng giảm dần nhưng trên thực tế thì số
lượng bị can, bị cáo (người thực hiện hành vi phạm tội Cướp giật tài sản) lại
không giảm, thậm chí có những thời điểm có chiều hướng gia tăng nhanh về số
người tham gia thực hiện tội phạm Cướp giật tài sản trong một vụ án hình sự.
Điều đó thể hiện trong thời gian vừa qua địa bàn thành phố Đà Nẵng đã xuất
hiện nhiều băng, ổ, nhóm thực hiện có tổ chức và có tính chất đồng phạm ngày
càng nhiều và tính chuyên nghiệp trong hoạt động tội phạm hình sự nói chung
và Tội Cướp giật tài sản nói riêng ngày càng cao.
- Vẫn còn có một số trường hợp người tiến hành tố tụng như ĐTV, KSV,
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân có trình chuyên môn, nghiệp vụ còn nhiều hạn
chế, chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn, tiêu chí tuyển trọn vào ngành, vào các
cơ quan tiến hành tố tụng hai cấp thành phố Đà Nẵng. Nhưng vì là con ông,
cháu, cha nên vẫn có những sự ưu ái, tiêu cực trong công tác tuyển chon và bổ
nhiệm vào những chức danh tư pháp dẫn đến một số trường hợp trong quá trình
55
thực hiện công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự nói chung và Tội
Cướp giật tài sản nói riêng còn để xảy ra sái sót trong hoạt động nghiệp vụ …
- Một bộ phận nhân dân có đời sống chật chất tinh thần khó khăn, đặc
biệt là thành phần dân nhập cư đến sinh sống làm việc tại thành phố, trong điều
kiện làm ăn khó khăn dễ nảy sinh hành vi phạm tội.
- Có một bộ phận nhỏ những người ở các địa phương lân cận như Quảng
Nam, Huế về Đà Nẵng theo buổi sáng đi chiều về gây khó khăn cho việc nắm
bắt thông tin các nhân. Theo đó nảy sinh các đối tượng có hành vi cướp giật tài
sản đã lợi dụng địa hình giáp gianh thực hiện hành vi cướp giật tài sản xong bỏ
trốn sang địa phương khác.
Kết luận Chương 2
Kết quả nghiên cứu tại Chương 2 của luận văn được thể hiện qua một số
nội dung sau: Đã phân tích khái quát về tình hình kinh tế, chính trị xã hội thành
phố Đà Nẵng, tình hình xét xử tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng trong những năm gần đây. Bên cạnh những kết quả mà các cơ quan tiến
hành tố tụng thành phố Đà Nẵng đã đạt được, vẫn còn những tồn tại, hạn chế,
bất cập trong việc định tội danh và quyết định hình phạt các vụ án hình sự về
tội cướp giật tài sản. Chương 2 của Luận văn cũng đã đánh giá chung về thực
tiễn áp dụng pháp hình sự về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng, chỉ ra những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại hạn chế
đó trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản. Từ đó,
làm nền tảng cho các giải pháp áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cướp giật
56
tài sản ở Chương 3.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI
SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
3.1. Phương hướng hoàn thiện quy định về Tội cướp giật tài sản trong Bộ
luật hình sự năm 2015
Phương hướng hoàn thiện quy định về Tội cướp giật tài sản trong BLHS
năm 2015 là đòi hỏi có tính nguyên tắc xuất phát từ:
- Thứ nhất, bảo đảm thực hiện đầy đủ quy định của Hiến pháp năm 2013
về quyền con người và quyền cơ bản của công dân
Hiến pháp năm 2013 đã có những thay đổi hết sức quan trọng về quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Lần đầu tiên Hiến pháp đã
làm rõ hai khái niệm “quyền con người” và “quyền công dân”. Sự tách bạch
này đã góp phần củng cố lý luận về quyền con người, quyền công dân, làm cơ
sở để tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này cũng như áp dụng vào thực tiễn. Có thể
nói, Hiến pháp năm 2013 như một “làn gió mới” tiếp tục khẳng định chế độ
dân chủ xã hội chủ nghĩa, tiếp thu có chọn lọc phù hợp với điều kiện thực tiễn
của Việt Nam đối với các qui định về quyền con người trong các văn bản pháp
luật quốc tế, ghi nhận một số quyền mới. Với phương châm “tôn trọng và bảo
vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất
nước và quyền làm chủ của nhân dân” đã được thể hiện ngày càng đầy đủ hơn
về những nội dung liên quan quyền con người và quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân trong các bản Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ đã chứng minh
57
Việt Nam luôn quan tâm đến công dân cũng như luôn quan tâm đến việc phát
triển con người Việt Nam, phù hợp với cách tiếp cận của Liên hợp quốc trong
việc thực hiện quyền con người nhằm xây dựng, kết mối quan hệ đại đoàn kết
toàn dân tộc ngày càng phát triển bền vững vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Để bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam bên
cạnh việc nghiên cứu góp phần làm rõ những quy định của Hiến pháp về quyền
con người, quyền công dân, thiết nghĩ chúng ta phải hoàn thiện tất cả các văn
bản quy phạm pháp luật từ Luật, pháp lệnh đến các văn bản dưới luật theo tinh
thần về quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp,
đồng thời mọi cơ quan nhà nước, tổ chức khi thực hiện mọi hoạt động cần phải
tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
- Thứ hai, đưa các quy định của BLHS 2015 đi vào cuộc sống
Để triển khai thi hành BLHS năm 2015 và Nghị quyết của Quốc hội về
việc thi hành BLHS, các cơ quan tố tụng thành phố Đà Nẵng đã chủ động xây
dựng kế hoạch triển khai thi hành BLHS năm 2015. Trong đó, xác định cụ thể
các nhiệm vụ, nhất là rà soát để kịp thời triển khai ngay các quy định có hiệu
lực từ khi Chủ tịch nước công bố; tổ chức quán triệt và chuẩn bị các điều kiện
cần thiết để phổ biến, tập huấn BLHS năm 2015, đồng thời rà soát các văn bản
quy phạm pháp luật để kịp thời đề nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành
mới.
Với việc triển khai đồng bộ các nhiệm vụ nêu trên, BLHS năm 2015 sẽ
sớm đi vào cuộc sống, thật sự phát huy vai trò là công cụ hữu hiệu của Nhà
nước trong việc bảo vệ an ninh quốc gia, đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp
phần bảo vệ an toàn, trật tự xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường và tăng cường hội nhập quốc tế.
- Thứ ba, cụ thể hóa được chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước
58
trong đấu tranh phòng, chống đối với tội cướp giật tài sản
Giữa pháp luật và đường lối của Đảng có mối liên hệ khăng khít, thể hiện
ở những điểm sau:
1. Đường lối của Đảng là tư tưởng xuyên suốt chỉ đạo cho việc xây dựng
các văn bản quy phạm pháp luật.
2. Đường lối của Đảng không thay thế vai trò của pháp luật
3. Sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật tất yếu gắn chặt với
quá trình thể chế hoá đường lối của Đảng vào thực tiễn hoạt động của bộ máy nhà
nước.
Nói cách khác, hệ thống pháp luật ở nước ta thể hiện kết quả quá trình thể
chế hoá đường lối của Đảng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thời gian
qua, Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm đến xử lý tội phạm nói chung,
tội cướp giật tài sản nói riêng cho nên đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách
nhằm đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tội phạm này. Các chủ trương, chính
sách này được thể hiện qua hàng loạt các Nghị quyết, các văn bản pháp luật,
trong đó có BLHS với quy định về tội cướp giật tài sản. Chính vì thế, để thể
chế hóa hơn nữa các chủ trương, chính sách này của Đảng và Nhà nước đi vào
thực tế sâu rộng hơn, hiệu quả hơn, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân
trong việc phòng, chống tội cướp giật tài sản thì việc hoàn thiện các quy định
của pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản là yêu cầu cấp bách trong bối cảnh
hiện nay.
- Thứ tư, đảm bảo phù hợp với các điều kiện kinh tế, xã hội ở nước ta
Xã hội ở mỗi giai đoạn khác nhau thì sẽ có những điều kiện kinh tế - xã
hội khác nhau, và pháp luật ở mỗi giai đoạn cũng sẽ khác nhau. Nước ta đang
trong giai đoạn đổi mới toàn diện, đời sống nhân dân được nâng cao, chất lượng
cuộc sống được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi đó,
nước ta đứng trước nhiều thách thức lớn, trong đó có thách thức từ tình hình tội
59
phạm hình sự nói chung, tội cướp giật tài sản nói riêng đang diễn biến phức tạp
với mức độ và tính chất nguy hiểm của hành vi là rất cao, hậu quả thiệt hại xảy
ra rất nghiêm trọng... Chính vì vậy, khi hoàn thiện các quy định về tội cướp giật
tài sản phải quy định được những vấn đề mới vào trong luật như chủ thể mới,
quy định các tình tiết, các dấu hiệu định khung, loại và mức hình phạt phải phù
hợp với điều kiện – xã hội nước ta hiện nay.
- Thứ năm, yêu cầu hội nhập quốc tế
Để phát huy tối đa hiệu lực trong đấu tranh phòng, chống tội phạm thì việc
nội luật hóa các quy định có liên quan trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam
vào pháp luật hình sự nước ta cần được tiếp tục nghiên cứu tiến hành, đồng thời
các cơ quan chức năng như Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ, Tòa án
nhân dân tối cao và một số cơ quan khác cần nhanh chóng ban hành các văn
bản hướng dẫn thi hành BLHS 2015, Luật sửa đổi bổ sung một số điều BLHS
2015 cũng như triển khai áp dụng trong thực tiễn. Ngoài các quy định được đề
cập nêu trên, trong BLHS 2015 còn có một số quy định khác được xây dựng
trên tinh thần nội luật hóa các điều ước quốc tế mà trong phạm vi luận văn này
chưa đề cập cụ thể..
3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự
BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung thêm nhiều điểm mới như: Bỏ đi
các tình tiết định khung tăng nặng mang tính chất định tính, bổ sung thêm các
tình tiết mới định khung, khoản phù hợp với thực tiễn như: Bổ sung Khoản 2
Điều 171 BLHS 2015: “Điểm g: Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ
mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; Điểm h:
Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”; Bổ sung Khoản 3:
60
“Điểm c: Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh”; Bổ sung Khoản 4: “Điểm b: Gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 01 người mà tỷ lệ tổn thương
cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02
người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên; Điểm d:
Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp”. Đây là các sửa đổi bổ
sung rất kịp thời không những đáp ứng được yêu cầu áp dụng hình phạt mà còn
góp phần to lớn cho công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này.
Tuy nhiên theo tác giả tại Điều 171 BLHS năm 2015 còn có một vướng
mắc đó là: cần phải mô tả cụ thể và đưa ra định nghĩa pháp lý khái niệm về Tội
cướp giật tài sản. Cần phải cụ thể hóa khái niệm Tội cướp giật tài sản trong
Điều luật cụ thể vì Điều 171 BLHS 2015 chỉ quy định: “Người nào cướp giật
tài sản của người khác thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm”. Quy định này
không mô tả hành vi khách quan, không nêu rõ ràng, cụ thể nên việc vận dụng
đề xuất xử lý còn tùy tiện, chưa thống nhất. Một số dấu hiệu của hành vi khách
quan của Tội cướp giật tài sản khá giống với một số tội khác quy định trong
BLHS nên dẫn đến không thống nhất trong quá trình định tội giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng. Vì vậy, cần quy định cụ thể hơn hành vi khách quan của tội
phạm trong các Điều luật quy định về Tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
như: Tội cướp tài sản, Cưỡng đoạt tài sản, Cướp giật tài sản, Công nhiên chiếm
đoạt tài sản. Vì vậy, theo ý kiến của tác giả, ngoài việc quy định rõ ràng khái
niệm từng tội, cần phải quy định rõ cả hành vi khách quan của tội, tránh trường
hợp áp dụng pháp luật không thống nhất.
3.2.2. Tăng cường ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng các quy
định của Bộ luật hình sự
Như học viên đã nêu tại mục ... của luận văn: Tội cướp giật tài sản, quy
định tại Điều 181 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) được
61
ban hành đã đưa ra nhiều nội dung mới, trong đó có quy định về Tội cướp giật
tài sản. Bốn tình tiết tăng nặng định khung đối với tội danh này đã được quy
định mới, bao gồm: phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có
thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; Gây ảnh hưởng xấu
đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh; Lợi dụng
hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. BLHS đã có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01.01.2018 nhưng cho đến nay và trong bối cảnh tội Cướp giật tài sản
đang diễn ra tương đối phổ biến (có chiều hướng gia tăng) trên phạm vi cả nước
nói chung và trên địa bàn thành phố Đà Nãng nói riêng. Thì các tình tiết mới
này vẫn chưa được cơ quan có thẩm quyền văn hành văn bản dưới luật để giải
thích, hướng dẫn về tội Cướp giật tài sản nói chung và các tình tiết tăng nặng
định khung của tội Cướp giật tài sản nói riêng để làm căn cứ rõ ràng, tạo hành
lang pháp lý rõ ràng, thống nhất cho việc áp dụng quy định pháp luật là rất cấp
thiết.
3.2.3. Tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật
hình sự đối với tội cướp giật tài sản
TAND tối cao cần Nghiên cứu sớm ban hành áp dụng án lệ về tội cướp
giật tài sản. Thẩm phán căn cứ vào đó để giải thích và vận dụng pháp luật về
tội cướp giật tài sản rất đa dạng, do có nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy
định, và một số văn bản quy phạm pháp luật quy định không rõ ràng, quy
định không phù hợp với tình hình thực tế.
Với án lệ các vụ việc được giải quyết nhanh chóng hơn khi chưa có luật
thành văn điều chỉnh góp phần nâng cao trình độ người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng, thông qua việc không ngừng cập nhật liên tục án lệ
để giải quyết. Ngoài ra, cần thường xuyên tiến hành tổng kết rút kinh nghiệm
kịp thời để đảm bảo hoạt động áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.
Tổng kết kinh nghiệm xét xử là một nhiệm vụ quan trọng của ngành Tòa án
62
cần tiến hành thường xuyên và có hiệu quả. Bên cạnh đó, việc tổng kết, rút
kinh nghiệm còn cho thấy được những quy định nào phù hợp với thực tế cuộc
sống, quy định nào chưa phù hợp cần sửa đổi, bổ sung từ đó có những kiến
nghị, đề nghị xem xét, sửa đổi, giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật thống
nhất để bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và bảo vệ được quyền và lợi
ích hợp pháp của Nhà nước và nhân dân.
3.2.4. Nâng cao năng lực của cán bộ áp dụng pháp luật đối với tội
cướp giật tài sản
Những hạn chế, tồn tại về hoạt động ADPL trong điều tra giải quyết vụ
án Cướp giật tài sản đã phân tích ở trên do nhiều nguyên nhân, song có một
nguyên nhân rất cơ bản là do trình độ năng lực chuyên môn của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, ĐTV, KSV, Thẩm phán làm công tác điều tra, truy tố, xét
xử còn nhiều hạn chế, dẫn đến việc ADPL để điều tra xử lý không chính xác,
sai lầm ... Do vậy, nâng cao trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho cán
bộ, ĐTV, KSV, Thẩm phán là việc làm có ý nghĩa quyết định nhằm khắc phục
những hạn chế, yếu kém trong hoạt động điều tra giải quyết các vụ án Cướp
giật tài sản .
Trước hết phải tiếp tục nâng cao trình độ pháp lý và nghiệp vụ cho đội
ngũ cán bộ có chức danh tư pháp: Trong tiến trình cải cách tư pháp, vấn đề đặt
ra cho đội ngũ cán bộ không chỉ là chuẩn hoá tiêu chuẩn của người công chức,
mà còn phải trau dồi các thao tác nghiệp vụ. Đối với hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử các vụ án hình sự, ngoài những tiêu chuẩn chung của một ĐTV, KSV,
Thẩm phán người cán bộ làm công tác này cần phải có bản lĩnh vững vàng,
trình độ lập luận lôgic và khoa học, kỹ năng soạn thảo văn bản tốt, kỹ năng
tranh luận pháp lý chắc chắn, kỹ năng tổng hợp và xử lý tình huống linh hoạt,
sáng tạo... Đối với hoạt động ADPL trong giải quyết các tội xâm phạm sở hữu
63
nói chung và tội Cướp giật tài sản nói riêng, cán bộ, ĐTV, KSV, Thẩm phán
phải có kiến thức kiến thức sâu rộng về các chuyên ngành khác như tài chính,
ngân hàng, kim khí, đá quý,...
Do đó cần phải có kế hoạch định kỳ đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng
nghiệp vụ cho đội ngũ ĐTV, KSV, Thẩm phán... Các tiêu chuẩn về đào tạo, bồi
dưỡng phải trở thành tiêu chuẩn chung cho bổ nhiệm, bổ nhiệm lại hoặc bổ
nhiệm chức vụ quản lý. Tiêu chuẩn để đánh giá hoặc tuyển dụng cán bộ cũng
phải dựa trên tình hình thực tế công việc tại từng địa phương. Ví dụ đối với
thành phố phát triển về du lịch như thành phố Đà Nẵng ngoài tiêu chuẩn về
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cần phải yêu cầu có trình độ ngoại ngữ (tiếng
Anh, tiếng Trung ...). Hàng năm cần tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ,
tổng kết kinh nghiệm để nhân ra diện rộng; tổ chức nghiên cứu khoa học, xây
dựng các chuyên đề nghiệp vụ, mở rộng các hình thức hội thảo, trao đổi kinh
nghiệm về điều tra, truy tố, xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu nói chung và tội
Cướp giật tài sản nói riêng.
3.2.5. Giải pháp khác
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về nơi cư trú, tạm trú, tạm vắng
Đà Nẵng là một thành phố đáng sống, là trung tâm kinh tế văn hóa xã
hội của khu vực miền Trung, lượng người kéo về học tập, làm ăn sinh sống từ
các tỉnh lân cận rất đông. Bên cạnh việc quản lý tốt lượng người từ các địa
phương khác đến thì có một bộ phận nhỏ những người ở các địa phương lân
cận như Quảng Nam, Huế về Đà Nẵng theo buổi sáng đi chiều về gây khó khăn
cho việc nắm bắt thông tin các nhân. Theo đó nảy sinh các đối tượng có hành
vi cướp giật tài sản đã lợi dụng địa hình giáp gianh thực hiện hành vi cướp giật
tài sản xong bỏ trốn sang địa phương khác. Chính vì vậy, các cần có sự phối
hợp một cách chặt chẽ, thống nhất giữa các lực lượng như Cảnh sát hình sự,
64
cảnh sát khu vực, cảnh sát giao thông và công an các tỉnh lân cận nhằm quản
lý chặt chẽ tình hình di biến động của những đối tượng có biểu hiện nghi vấn
cướp giật tài sản. Cần tuyên truyền sâu rộng các hành vi, phương thức thủ đoạn
của tội pháp cướp giật tài sản giúp nhân dân biết, phòng ngừa. Góp phần đảm
bảo an ninh trật tự an toàn xã hội trong phòng, chống tội phạm cướp giật tài sản
nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.
- Nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục
pháp luật
Để nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục
pháp luật nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân trên địa bàn về tính chất nguy
hiểm của tội phạm nói chung và cướp giật tài sản nói riêng, cần phối hợp với
các cơ quan ban ngành liên quan thực hiện việc nghiên cứu thực hiện chỉ đạo
điểm các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả; xây dựng và
thường xuyên cập nhật các văn bản pháp luật vào tủ sách pháp luật ở đơn vị cơ
sở... Thông qua các loại hình văn hóa nghệ thuật, phổ biến rộng rãi gương người
tốt, việc tốt; phản ánh kịp thời những hiện tượng tiêu cực, giúp các cơ quan
chuyên trách phát hiện kịp thời những hành vi vi phạm, phạm tội...
- Các biện pháp về kinh tế - xã hội: thực hiện những hoạt động nhằm hạn
chế tác động tiêu cực do đời sống kinh tế và tình trạng thất nghiệp đem lại; tiến
hành các hoạt động nâng cao chất lượng giáo dục trong gia đình và nhà
trường…
- Các biện pháp về quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, trật tự, an
toàn xã hội: cần tiến hành các hoạt động để tạo lập một môi trường xã hội lành
mạnh, góp phần khắc phục những hạn chế trong công tác văn hóa, giáo dục;
nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về văn hóa; nâng cao hiệu
quả của công tác đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội ở cấp cơ sở; đối với
65
các đối tượng có tiền án, tiền sự, các đối tượng lang thang không có việc làm,
các phần tử lưu manh, côn đồ cần thực hiện tốt công tác quản lý, giáo dục để
kịp thời có biện pháp chấn chỉnh khi họ có biểu hiện vi phạm.
Kết luận Chương 3
Qua thực tiễn việc áp dụng pháp luật tội cướp giật tài sản trên địa bàn TP
Đà Nẵng đã nêu ở Chương 2. Tại Chương 3 tác giả đã đưa ra các dự báo và giải
pháp đảm bảo áp dụng pháp luật đúng đối với tội cướp giật tài sản. Thực tiễn
áp dụng pháp luật cướp giật tài sản trên địa bàn TP Đà Nẵng trong những năm
gần đây cho thấy có một số vướng mắc và đề xuất hoàn thiện các quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó Chương 3 của Luận văn
cũng đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối
với cướp giật tài sản. Các giải pháp tác giả đưa ra phần nào sẽ khắc phục những
khó khăn, vướng mắc, những điểm chưa rõ, chưa thống nhất, từ đó nâng cao
được hiệu quả hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt, nhằm hạn chế
và đẩy lùi loại tội phạm này, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật.
KẾT LUẬN
66
Qua kết quả nghiên cứu, nhận thức những vấn đề lý luận, thực tiễn định
tội danh tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Luận văn rút ra
các kết luận chung như sau:
1. Về mặt lý luận tác giả luận văn đã làm rõ khái niệm, các dấu hiệu pháp
lý tội cướp giật tài sản theo quy định của BLHS năm 2015 nhằm tạo cơ sở cho
thực tiễn vận dụng nội dung để xử lý chính xác hành vi phạm tội trong thực
tiễn. Do đó, việc làm rõ các vấn đề lý luận chung về tội cướp giật tài sản có giá
trị chính thức và ý nghĩa chính trị, xã hội và pháp lý quan trọng.
2. Qua thực tiễn tại TP Đà Nẵng về tội cướp giật tài sản cho thấy: Về cơ
bản các cơ quan tiến hành tố tụng đã khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử với loại
tội phạm này đúng theo quy định của pháp luật và người phạm tội bị trừng trị
một cách thích đáng. Bên cạnh những kết quả đạt được thì việc áp dụng pháp
luật với tội cướp giật tài sản cũng cho thấy còn có nhiều khó khăn, vướng mắc.
Những hạn chế này xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau như: Trình độ
năng lực của người tiến hành tố tụng còn có những hạn chế, hoặc chưa vô tư,
khách quan trong áp dụng pháp luật, nhận thức pháp luật còn có sự chưa thống
nhất, cơ quan có thẩm quyền trong quá trình hướng dẫn áp dụng pháp luật còn
chưa dự liệu được hết các tình huống xảy ra… Do vậy, để giải đáp và khắc phục
được những khó khăn, vướng mắc, sai lầm cần phải có những yêu cầu và giải
pháp bảo đảm định tội danh, quyết định hình phạt đúng tội cướp giật tài sản,
qua đó góp phần cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả
cao.
3. Luận văn cũng đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc
định tội danh đối với cướp giật tài sản. Các giải pháp tác giả đưa ra phần nào
sẽ khắc phục những khó khăn, vướng mắc, những điểm chưa rõ, chưa thống
nhất, từ đó nâng cao được hiệu quả hoạt động định tội danh và quyết định hình
67
phạt, nhằm hạn chế và đẩy lùi loại tội phạm này, đảm bảo sự nghiêm minh của
68
pháp luật.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị Lan Anh (2013) Phòng ngừa tội cướp tài sản do người chưa thành
niên thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Đại học Luật Hà Nội.
2. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (1996), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
3. Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự (1994), Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
4. Bộ luật dân sự (2005), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Bộ luật hình sự Việt Nam (1985), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Bộ luật hình sự Việt Nam (1999),Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Bộ luật hình sự Việt Nam (2015),Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam (2003), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam (2015), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Lê Cảm (Chủ biên) (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung),
Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
11. Lê Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật Hình sự (Phần
chung), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
12. Nguyễn Ngọc Chí (2000), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
sở hữu, Luận án Tiến sỹ Luật học, Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật,
Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Đại học Quốc gia Hà Nội (1993), Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần
các tội phạm, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
15. Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam- Phần
chung, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
16. Nguyễn Minh Đoan (2010), Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam
(sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Lê Thị Thu Hà (2004), Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt
Nam: Một số khía cạnh pháp lý và tội phạm học, Luận văn thạc sỹ.
18. Nguyễn Ngọc Hòa (1990), “Một số ý kiến về tình tiết hành hung để tẩu
thoát trong Bộ luật hình sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, Hà Nội.
19. Nguyễn Ngọc Hòa (1991), Tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
20. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2007), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam -
Phần các tội phạm, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
21. Nguyễn Hùng (2013), TCGTS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Quảng Nam, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Luật thi hành án dân sự (2014), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Dương Tuyết Miên (2004), Quyết định hình phạt, Luận án tiến sỹ luật học,
Trường đại học Luật Hà Nội.
24. Nghị quyết 02/HĐTP ngày 16/11/1988 của Hội đồng thẩm phán TANDTC.
25. Đặng Hồng Nhung (2014), TCGTS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Quảng Bình, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
26. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội
phạm), Tập II, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
27. Đinh Văn Quế (2004), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999, Nxb
thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
28. Đinh Văn Quế (2000), Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Đinh Văn Quế (2001), Tìm hiểu tội phạm trong Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1999, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
30. Hồ Sỹ Sơn (2008), “Hoàn thiện về một số quy định của hình phạt và quyết
định hình phạt của BLHS năm 1999 nhằm đảm bảo hơn nữa về nguyên tắc
nhân đạo trong luật hình sự”, Tạp chí Luật học số 04/2008.
31. Tạp chí Tòa án, 2007, số 9, tr 35.
32. Thông tư liên tịch số 02/TTLT ngày 25/12/2001 hướng dẫn áp dụng một số
quy định trong chương XIV - Các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự
năm 1999, Hà Nội.
33. Thông tư 01/2011/TTLN ngày 12/7/2011 VKSNDTC - TANDTC - Bộ
công an - Bộ tư pháp - Bộ lao động thương binh và xã hội.
34. Trường Đại học luật Hà Nội (2000), Giáo trình luật hình sự Việt Nam -
Phần các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
35. Lương Văn Thức, Các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự Việt Nam,
Luận văn thạc sỹ.
36. Nguyễn Duy Thuận (1991), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
sở hữu, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
37. Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
38. Võ Khánh Vinh (1990),“Nguyên tắc cá thể hóa việc quyết định hình phạt”,
Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 08.
39. Võ Khánh Vinh (1990), “Nghiên cứu tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm khi QĐHP”, Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 12.
40. Võ Khánh Vinh (1994), Nguyên tắc công bằng trong Luật hình sự Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
41. Võ Khánh Vinh (1996), Tội phạm học, Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự
(1996), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
42. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình lý luận chung về định tội danh, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
43. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật hình sự phần chung, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
44. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật hình sự phần các tội phạm, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
Trang web
45. https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A0_N%E1%BA%B5ng
(truy cập ngày 19/5/2020).