VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

---------- -------------

LÊ XUÂN THANH

TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Tp. Hồ Chí Minh, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

------------ -----------

LÊ XUÂN THANH

TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM MINH TUYÊN

Tp. Hồ Chí Minh, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, ví dụ, trích dẫn và kết luận được trình bày trong luận văn đảm bảo chính

xác, trung thực và chưa ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ..................................................... 3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 5

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .................................................... 6

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ...................................................... 7

7. Kết cấu của luận văn ...................................................................................... 7

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI DÂM

Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI ............................................................. 8

1.1. Khái niệm và lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội dâm ô đối với người

dưới 16 tuổi ...................................................................................................... 16

1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi ............... 14

1.3. Phân biệt tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi với một số tội phạm tình

dục khác ............................................................................................................ 16

Tiểu kết chương 1 ............................................................................................. 18

Chương 2. THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI 16 TUỔI

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ....................................... 19

2.1. Khái quát tình hình xét xử tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trên địa

bàn thành phố Hồ Chí Minh ............................................................................. 19

2.2. Thực tiễn xét xử tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trên đị bàn thành phố

Hồ Chí Minh ..................................................................................................... 30

2.3. Nguyên nhân của thiếu sót, hạn chế .......................................................... 41

Tiểu kết Chương 2 ............................................................................................ 44

Chương 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY

ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI

16 TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ....................... 45

3.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng quy định pháp luật hình sự về tội dâm ô

đối với người dưới 16 tuổi trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh .................... 45

3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định pháp luật hình sự về tội dâm ô

đối với người dưới 16 tuổi trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh .................... 48

Tiểu kết chương 3 ............................................................................................. 56

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 58

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

BLHS: Bộ luật hình sự

BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự

BNV: Bộ Nội vụ

HĐXX: Hội đồng xét xử

PLHS: Pháp luật hình sự

TAND: Tòa án nhân dân

TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao

TNHS: Trách nhiệm hình sự

VKSND: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Thống kê tội phạm mà Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Hồ

Chí Minh thụ lý, xét xử.

Bảng 2.2. Thống kê tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi so với tổng số

tội phạm được Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Hồ Chí Minh thụ lý, đưa ra

xét xử từ năm 2015 đến tháng 6/2020 trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

Bảng 2.3. Thống kê tội dâm ô người dưới 16 tuổi so với tổng số tội xâm

phạm tình dục người dưới 16 tuổi được đưa ra xét xử từ năm 2015 đến tháng

6/2020 trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

Bảng 2.4. Thống kê các tội phạm cụ thể trong nhóm tội xâm hại tình dục

người dưới 16 tuổi được Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Hồ Chí Minh xét

xử từ năm 2015 đến tháng 6/2020

Bảng 2.5. Thống kê hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo phạm tội

dâm ô đối với người dưới 16 tuổi từ năm 2015 đến tháng 6/2020 trên địa bàn

thành phố Hồ Chí Minh.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trên tinh thần của Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989

và Hiến pháp năm 2013, thời gian vừa qua Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều

văn bản pháp luật để bảo vệ quyền lợi của trẻ em (người dưới 16 tuổi) như Luật

Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Luật Trẻ em năm 2016, Bộ luật Hình sự năm

2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)….các văn bản trên đều thể hiện rõ cơ quan,

tổ chức, các cá nhân có trách nhiệm thực hiện các biện pháp phù hợp để bảo

đảm trẻ em được sống an toàn, lành mạnh; phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các

hành vi xâm hại, đặc biệt là những hành vi xâm phạm tình dục trẻ em.

Thực tiễn trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến nay, trên địa bàn cả

nước nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, tình trạng xâm hại tình

dục người dưới 16 tuổi, trong đó có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

đang diễn biến hết sức phức tạp. Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân

thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, trong giai đoạn từ 2015 đến năm tháng 6/2020

có 70 vụ/70 bị cáo được xét xử về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. Có

những vụ án được dư luận xã hội quan tâm mà điển hình như: vụ án cựu Phó

Viện trưởng VKSND thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Hữu Linh (61 tuổi), có hành

vi dâm ô bé gái 8 tuổi trong thang máy tại chung cư Galaxy 9, Quận 4. Tp.

HCM hay gần đây nhất là trường hợp Nguyễn Tiến Dũng (cán bộ Trung tâm

Hỗ trợ xã hội TP.HCM) bị khởi tố và bắt tạm giam về hành vi dâm ô với người

dưới 16 tuổi … thống kê trên cho thấy tình hình tội này đang diễn ra hết sức

phức tạp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế, chính trị, văn

hóa và giáo dục quan trọng của Việt Nam.

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), có hiệu lực thi hành kể từ

ngày 01/01/2018, liên quan đến các tội phạm xâm hại tình dục người dưới 16

1

tuổi (từ Điều 141 đến 146 BLHS), cũng đã có những sửa đổi, bổ sung quan

trọng, phù hợp với thực tiễn xử lý các hành vi xâm hại tình dục, trong đó có

hành vi dâm ô người dưới 16 tuổi; ngoài ra, để kịp thời đưa những quy định nêu

trên của BLHS năm 2015 vào thực tiễn, ngày 01/10/2019, TAND tối cao cũng

đã ban hành Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP (hiệu lực từ ngày 05/11/2019),

hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146,

147 của BLHS và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi, đã

tháo gỡ được nhiều vướng mắc, là cơ sở pháp lý rất quan trọng để xử lý hành

vi xâm hại tình dục, hành vi dâm ô người dưới 16 tuổi trong thực tiễn. Qua

nghiên cứu quy định của pháp luật về tội dâm ô người dưới 16 tuổi và thực tiễn

xét xử tội này trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, tác giả nhận thấy, một số

quy định của BLHS năm 2015 và văn bản hướng dẫn thi hành, vẫn còn chưa rõ

ràng, một số quy định gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật; quá trình điều

tra, truy tố, xét xử của cơ quan tố tụng thành phố Hồ Chí Minh còn những thiếu

sót, hạn chế trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ…dẫn tới định tội danh và

quyết định hình phạt một số trường hợp không chính xác, vẫn còn tình trạng

Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung, quyết định hình phạt nhẹ hoặc nặng hơn so

với tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, ảnh hưởng không nhỏ đến

hiệu quả đấu tranh, phòng chống tội phạm trong thực tiễn.

Vì vậy, việc nghiên cứu một cách khoa học, toàn diện, có hệ thống các

vấn đề lý luận và thực tiễn về tội dâm ô người dưới 16 tuổi, từ đó đưa ra một số

giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp dụng đúng các quy định

của pháp luật hình sự về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trên địa bàn thành

phố Hồ Chí Minh có ý nghĩa quan trọng về cả lý luận và thực tiễn, đáp ứng yêu

cầu cải cách tư pháp, phòng chống tội phạm trong tình hình mới.

Xuất phát từ nhận thức trên, tác giả đã chọn đề tài: “Tội dâm ô đối với

người dưới 16 tuổi từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” để làm để tài nghiên

2

cứu cho luận văn thạc sĩ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Liên quan tới đề tài trên, cũng đã có một số công trình khoa học được các

tác giả đề cập ở các phạm vi, góc độ khác nhau, có thể kể đến như:

+ Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội; Trịnh Thị Thu

Hương (2004), Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong Luật hình sự Việt Nam

và đấu tranh phòng chống loại tội phạm này,

+ Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Lê

Thị Diễm Hằng (2016), Các tội xâm phạm tình dục trẻ em- So sánh pháp luật

hình sự Việt Nam với pháp luật hình sự một số quốc gia trên thế giới.

+ Tạp chí, báo và các công trình nghiên cứu khác:

Dương Tuyết Miên (1998), “Về các tội phạm tình dục trong luật hình sự

Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 06, Hà Nội; Phạm Mạnh Hùng (2002),“Hoàn

thiện các quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm tình dục trẻ em”,

Tạp chí Toà án nhân dân, số 12/2002, Hà Nội; Vũ Hải Anh (2016), “Một số

điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 về nhóm các tội phạm tình dục”, Tạp

chí Nghề luật, sô 3/2016, Hà Nội; Tiến sĩ Phạm Minh Tuyên – “Các tội xâm

phạm tình dục người dưới 16 tuổi – những vướng mắc và kiến nghị”. Tạp chí

Khoa học kiểm sát số 2 năm 2020 v.v…

Nhận xét: Các công trình nghiên cứu trên đã tập trung phân tích các dấu

hiệu pháp lý, đặc điểm của các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong đó có tội

dâm ô đối với trẻ em (người dưới 16 tuổi), đặc biệt các công trình là luận án và

luận văn đã phân tích tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi kết hợp với thực tiễn

giải quyết các vụ án về xâm phạm tình dục trẻ em trong phạm vi không gian,

thời gian khác nhau. Đây là nguồn tài liệu tham khảo quý báu cho tác giả trong

quá trình nghiên cứu đề tài. Có thể thấy, các công trình trên nghiên cứu các tội

danh liên quan đến xâm phạm tình dục trẻ em trong đó có tội dâm ô đối với

3

người dưới 16 tuổi, nhưng do phạm vi khác nhau nên các công trình khoa học

trên chưa phân tích, nghiên cứu chuyên sâu về một tội danh cụ thể là tội dâm ô

đối với người dưới 16 tuổi, trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh sau khi BLHS

năm 2015 có hiệu lực toàn bộ (ngày 01/01/2018).

- Một số công trình liên quan trực tiếp đến đề tài:

Phạm Quang Huy (2016), Tội dâm ô với trẻ em: Một số thực trạng và

giải pháp pháp lý, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Viện nghiên cứu lập pháp,

(13), tr.44-51; Nguyễn Thành Long (2017), Tội dâm ô đối với trẻ em trong pháp

luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường đại học luật Hà Nội, Hà Nội;

Đoàn Thị Ngọc Hải (2019), Tội dâm ô người dưới 16 tuổi – lý luận và thực tiễn,

Tạp chí Tòa án điện tử; v.v…

Nhận xét: Các công trình trên đã phân tích, nghiên cứu chuyên sâu về tội

dâm ô đối với người dưới 16 tuổi về mặt lý luận và thực tiễn, trong bối cảnh

BLHS năm 2015 được ban hành, nhưng trong phạm vi không gian và thời gian

khác nhau. Tính đến thời điểm hiện tại, chưa có công trình nghiên cứu chuyên

sâu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, trong khoảng thời gian từ năm 2015

đến tháng 6/2020.

Nhận xét chung: Có thể thấy các công trình khoa học trên đã tiếp cận và

phân tích tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trong phạm vi nội dung, không

gian và thời gian khác nhau, đây là những nguồn tài liệu tham khảo quý báu

cho tác giả. Tính đến nay, không có nhiều công trình nghiên cứu nào đề cập đến

tội dâm ô đối với người 16 tuổi một cách cụ thể, chuyên sâu tại địa bàn thành

phố Hồ Chí Minh, trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2020.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật

hình sự Việt Nam về tội dâm ô đối với người 16 tuổi, kết hợp với thực tiễn từ

4

thành phố Hồ Chí Minh, luận văn đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện pháp

luật hình sự cũng như bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình

sự về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Phân tích những vấn đề lý luận và pháp luật về tội dâm ô đối với người

dưới 16 tuổi.

- Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về tội dâm ô đối với người dưới

16 tuổi thông qua thực tiễn xét xử tội này trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh,

từ đó luận văn rút ra một số thiếu sót, hạn chế và những nguyên nhân của thiếu

sót, hạn chế đó.

- Trên cơ sở một số thiếu sót, hạn chế luận văn phân tích một số yêu cầu

và đưa ra một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật

hình sự về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi từ thực tiễn tại thành phố Hồ

Chí Minh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tội dâm ô đối với người 16 tuổi

thông qua thực tiễn xét xử tại thành phố Hồ Chí Minh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Giới hạn về nội dung: Luận văn được thực hiện trong phạm vi chuyên

ngành Luật hình sự và Tố tụng hình sự, nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý

luận và pháp luật về tội dâm ô đối với người 16 tuổi được quy định trong BLHS

2015 và văn bản hướng dẫn thi hành, xuất phát từ thực tiễn xét xử của Tòa án

nhân dân hai cấp thành phố Hồ Chí Minh. Tại phần thực tiễn xét xử luật văn

tập trung nghiên cứu 02 hoạt động chính là hoạt động định tội danh và áp dụng

hình phạt tại Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Hồ Chí Minh.

Giới hạn về không gian: Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

5

Giới hạn về thời gian: Trong giai đoạn từ năm 2015 đến tháng 6/2020.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn sử dụng phương pháp luận triết học duy vật biện chứng và duy

vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối, chính sách của Đảng Cộng

sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước Pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, đấu tranh

phòng chống tội phạm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu: luận văn đã sử dụng phương pháp cụ thể và

đặc thù của khoa học luật hình sự như phân tích và tổng hợp, phương pháp diễn

dịch, quy nạp, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp thống kê, để tổng

hợp các tri thức khoa học và luận chứng để nghiên cứu luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ hơn

một số vấn đề về lý luận và pháp luật tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, nâng

cao nhận thức pháp luật về tội danh này cho cơ quan, người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng và những người quan tâm đến đề tài này (thông qua thực tiễn tại

thành phố Hồ Chí Minh).

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện những quy định

của pháp luật hình sự về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.

- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm

tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu khoa học chuyên ngành và tài liệu

tham khảo đối với những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy; ngoài ra,

luận văn còn cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho thực tiễn điều tra,

truy tố, xét xử của các cơ quan tư pháp (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa

6

án), đặc biệt là các cơ quan tư pháp tại thành phố Hồ Chí Minh.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm

ba chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội dâm ô đối với người

dưới 16 tuổi.

Chương 2. Thực tiễn xét xử tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trên địa

bàn thành phố Hồ Chí Minh.

Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định pháp

luật hình sự về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trên địa bàn thành phố Hồ

7

Chí Minh.

Chương 1.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT

VỀ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

1.1. Khái niệm và lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội dâm ô đối

với người dưới 16 tuổi

1.1.1. Khái niệm

Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là tội phạm được pháp điển hóa lần

đầu tiên trong BLHS năm 1985 (sửa đổi, bổ sung năm 1997) cho đến nay. Tội

này được quy định tại Chương các tội phạm xâm phạm nhân phẩm, danh dự

của con người, đó là “những hành vi cố ý xâm phạm đến quyền được tôn trọng

về nhân phẩm, danh dự của con người” [22, tr.115], [1, tr.38], quy định trên

nhằm bảo vệ sự phát triển bình thường về tâm sinh lý cho trẻ em, ngăn chặn

những hành vi lợi dụng sự non nớt, nhẹ dạ của trẻ em để đẩy họ vào những quan

hệ tình dục quá sớm, gây ảnh hưởng xấu về mọi mặt cho họ. Tội dâm ô đối với

người dưới 16 tuổi là tội phạm thuộc nhóm hành vi có bản chất là xâm hại tình

dục trẻ em.

Về khái niệm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi cũng được nhiều tác

giả đề cập trong các công trình khoa học khác nhau:

Tác giả Đinh Văn Quế có quan điểm: Hành vi dâm ô là sờ mó, hôn hít bộ

phận sinh dục của nạn nhân; dùng bộ phận sinh dục của mình chà xát với bộ

phận sinh dục của nạn nhân hoặc bắt nạn nhân sờ mó, hôn hít bộ phận sinh dục

của mình nhằm thỏa mãn dục vọng, nhưng không có ý định giao cấu hoặc có

hành vi quan hệ tình dục khác với nạn nhân [12, tr.279].

Theo Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội,

có đưa ra quan điểm về tội dâm ô: Đó là hành vi tình dục nhưng không phải

8

hành vi giao cấu. [21].

Theo Từ điển Tiếng Việt “dâm ô” là dâm dục một cách xấu xa, nhơ nhuốc

[42]. Từ điển này cũng giải nghĩa “dâm dục” là sự ham muốn thú nhục dục quá

độ hoặc không chính đáng [42].

Từ điển Hán Việt giải nghĩa: “dâm ô” xuất phát từ “dâm” là dâm dục và

“ô” với ý nghĩa là bẩn, bẩn thỉu. Như vậy, “dâm ô” là từ ghép mang tính chất

khái quát với nghĩa là dâm dục bẩn thỉu [43].

Nhận xét: Các quan điểm trên đều thống nhất ở nội hàm khái niệm tội

dâm ô đối với người dưới 16 tuổi đó là hành vi có tích chất dâm dục, nhằm thỏa

mãn nhu cầu tình dục của người phạm tội, nhưng không nhằm mục đích giao

cấu hoặc thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác với trẻ em (người dưới

16 tuổi).

Trong BLHS hiện hành nhà làm luật chưa đưa ra khái niệm pháp lý về

tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi nhưng khái niệm tội phạm đã được ghi

nhân tại Điều 8 BLHS. Đây là khái niệm pháp lý tương đối hoàn chỉnh về tội

phạm, là cơ sở quan trọng để xây dựng khái niệm các tội phạm cụ thể, trong đó

có tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi; đồng thời BLHS năm 2015 đã bổ sung

hành vi “thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác”, đây là những hình thức quan

hệ tình dục không bằng cách thông thường là sử dụng bộ phận sinh dục (giao

cấu) mà được thực hiện bằng miệng hoặc hậu môn…

Như vậy có thể hiểu một cách khái quát: Hành vi dâm ô là hành vi mang

tính chất tình dục của người nào đó đối với người khác nhằm thỏa mãn nhu cầu

tình dục của người phạm tội, nhưng không nhằm mục đích giao cấu hoặc thực

hiện các hành vi quan hệ tình dục khác.

Khoa học pháp luật hình sự và CTTP tội dâm ô (khoản 1, Điều 146 BLHS

năm 2015) đã xác định chủ thể của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi phải là

những người đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực TNHS, khi thực hiện hành vi dâm

9

ô đối với người dưới 16 tuổi.

Theo Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2020 của Hội đồng

thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn: Dâm ô…là hành vi của những

người cùng giới tính hoặc khác giới tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián

tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác

trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm

quan hệ tình dục…[ 25, Điều 3].

Từ những phân tích trên, có thể hiểu khái niệm tội dâm ô đối với người

dưới 16 tuổi: Là hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính

tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh

dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi nhưng

không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan

hệ tình dục khác, do người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực TNHS thực hiện

với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về tình dục của người

dưới 16 tuổi.

1.1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội dâm ô đối với

người dưới 16 tuổi

1.1.2.1. Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trong pháp luật hình sự

Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985

Đây là giai đoạn Nhà nước Việt Nam dân chủ mới được thành lập phải

đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách từ nhiều phía trong đó có công cuộc đấu

tranh phòng chống tội phạm, thời điểm này Nhà nước ta chưa có điều kiện xây

dựng ngay một hệ thống pháp luật, cũng như hệ thống pháp luật hình sự để điều

chỉnh các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trước tình hình này Chủ tịch

Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 47 ngày 10/10/1945 cho tạm thời giữ các

luật lệ cũ nhưng không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính

thể dân chủ cộng hòa, để đấu tranh xử lý các hành vi vi phạm, tội phạm trong

10

đó có hành vi dâm ô [5, Điều 21]. Tuy nhiên, quy định trực tiếp liên quan đến

hành vi xâm phạm tình dục trong đó có tội dâm ô thì phải đến ngày 15/6/1960,

Tòa án nhân dân tối cao ra Chỉ thị số 1024 hướng dẫn việc xử lý tội hiếp dâm,

đây được coi là nền móng cho việc hoàn thiện và xây dựng các tội phạm về tình

dục nhưng nội dung hướng dẫn còn chưa đầy đủ về các hành vi xâm hại tình

dục người dưới 16 tuổi khác như tội cưỡng dâm, tội giao cấu và tội dâm ô người

dưới 16 tuổi. Đến ngày 11/5/1967, TAND tối cao đã ban hành Bản tổng kết số

329- HS2 ngày 11/5/1967, hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và các tội

phạm khác về mặt tình dục, trong số các tội phạm về tình dục có tội dâm ô,

trong đó dâm ô đối với trẻ em bị xử nặng hơn dâm ô đối với người lớn.

Theo bản tổng kết và hướng dẫn 329-HS2 ngày 01/02/1967 của Tòa án

nhân dân tối cao có hướng dẫn: “Dâm ô tức là có hành vi bỉ ổi với người khác,

tuy không phải là hành vi giao cấu nhưng cũng nhằm thỏa mãn tình dục của

mình hoặc khêu gợi bản năng tình dục người đó…Có thể chi làm hai hình thức

dâm ô: Dâm ô với người dưới 16 tuổi tròn và dâm ô với người lớn (từ 16 tuổi

tròn trở lên). Trong hình thức dâm ô với người dưới 16 tuổi tròn, vì sự phát triển

về cơ thể cũng như về trí óc của các em còn non nớt, các em cần được bảo vệ

chống mọi hành vi khiêu dâm, cho nên không kể các em có đồng ý hay không

đồng ý, hễ có hành vi dâm ô là có tội. Trong hình thức dâm ô với người lớn

phải có sự trái ý muốn của người đó mới có tội, vì có như thế mới có thể nói

hành vi dâm ô đã xúc phạm tới nhân phẩm, danh dự của họ về mặt tình

dục…Đối với tội dâm ô với người dưới 16 tuổi tròn mức hình phạt từ 3 tháng

đến 2 năm tù. Đối với tội dâm ô người lớn, mức hình phạt từ cảnh cáo đến 1

năm tù. Khi tập trung nhiều tình tiết tăng nặng đối với hình thức trên (tội dâm

ô với người dưới 16 tuổi) có thể xử phạt đến 4 năm tù. Đối với hình thức tội

dâm ô người lớn có thể xử phạt đến 3 năm tù. [23]. Có thể nói đây là hướng dẫn

quan trọng làm cơ sở để Tòa án các cấp xét xử các vụ án về xâm phạm tình dục

11

trong đó có trẻ em trong thực tiễn.

Nhận xét: Giai đoạn này tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi chỉ được

quy định trong một số văn bản pháp luật, các Tòa án xét xử tội phạm này chủ

yếu theo đường lối, chính sách và các bản tổng kết xét xử.

1.1.2.2. Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trong Bộ luật Hình sự năm

1985

BLHS năm 1985 là BLHS đầu tiên của nước ta, với 04 lần sửa đổi, bổ

sung năm 1989, 1991, 1992 và năm 1997.

Trong lần sửa đổi, bổ sung lần thứ 4 vào năm 1997 thì hành vi dâm ô đối

với người dưới 16 tuổi (trẻ em) được quy định tại Điều 202b.

"Điều 202b. Tội dâm ô đối với trẻ em

1- Người nào có hành vi dâm ô đối với trẻ em, thì bị phạt tù từ sáu tháng

đến ba năm….."

Có thể nói đây là lần đầu tiên hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

được quy định thành một tội danh độc lập, do yêu cầu của việc đấu tranh với tệ

xâm phạm tình dục của trẻ em ngày càng nghiêm trọng. Để áp dụng thống nhất

các quy định này, ngày 10/5/1997, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân

dân tối cao, Bộ Nội vụ ban hành Thông tư liên tịch số: 01/1998/TTLT-

TANDTC-VKSNDTC-BNV hướng dẫn: “d. Hành vi dâm ô đối với trẻ em quy

định tại Điều 202b là hành vi của người phạm tội, như sờ, bóp… vào những bộ

phận kích thích tình dục của trẻ em hoặc buộc trẻ em phải có hành vi như sờ,

bóp… vào những bộ phận kích thích tình dục của người đó hoặc của người khác

nhưng không có việc giao cấu với trẻ em”.

Tuy nhiên, quy định về hành vi dâm ô quy định trong BLHS năm 1985

vẫn còn đơn giản, chưa rõ ràng về yếu tố chủ thể, chưa phân hóa được TNHS

đối với nhiều trường hợp đặc biệt nghiệm trọng, chưa quy định về hình phạt bổ

sung đối với những người lợi dung yếu tố nghề nghiệp như Bác sỹ, Y tá…để

12

thực hiện hành vi phạm tội.

1.1.2.3. Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trong Bộ luật Hình sự năm

1999

BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định tội dâm ô đối với

người dưới 16 tuổi tại Điều 112 với tên gọi “tội dâm ô đối với trẻ em”.

“Điều 116. Tội dâm ô đối với trẻ em

1. Người nào đã thành niên mà có hành vi dâm ô đối với trẻ em, thì bị

phạt tù từ sáu tháng đến ba năm…”.

So với tội dâm ô trẻ em trong BLHS năm 1985 (được sửa đổi, bổ sung

năm 1997), BLHS năm 1999 đã có những thay đổi như sau:

- Trong cấu thành tội phạm cơ bản của tội phạm dâm ô đối với trẻ em đã

quy định cụ thể yếu tố chủ thể đặc biệt là người “đã thành niên”.

- Trong cấu thành tội phạm tăng nặng quy định tại khoản 3, BLHS năm

1999 đã bổ sung trường hợp phạm tội “đặc biệt nghiêm trọng”, bỏ dấu hiệu định

khung “Có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều này” vì không phù hợp về

kỹ thuật lập pháp và thực tiễn.

Đồng thời CTTP đã bổ sung thêm trường một khoản mới, quy định về

hình phạt bổ sung là cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công

việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Tuy nhiên, qua một thời gian áp dụng thì BLHS năm 1999 (được sửa đổi,

bổ sung vào năm 2009) đã bộc lộ nhiều điểm tồn tại, hạn chế như CTTP quy

định chưa cụ thể, chưa làm rõ được khái niệm dâm ô, nhà làm luật vẫn sử dụng

các tình tiết định tính gây khó khăn cho việc áp dụng như “gây hậu quả nghiêm

trọng” hoặc “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng”, đòi

hỏi cần phải được hoàn thiện.

1.1.2.4. Điểm mới của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trong Bộ luật

13

Hình sự năm 2015

So với BLHS năm 1999 thì BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

có những điểm mới tiến bộ sau:

- Sửa tên tội dâm ô đối với trẻ em thành dâm ô đối với người dưới 16

tuổi.

- Khoản 1 sửa từ ngữ và nêu rõ hơn hành vi khách quan: Người đủ 18

tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục

đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác.

- Khoản 2 bổ sung tình tiết “Phạm tội có tổ chức”; sửa tình tiết nhiều lần,

nhiều người thành 02 lần, 02 người; sửa tình tiết “Gây hậu quả nghiêm trọng”

bằng các dấu hiệu “Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 31% đến

60%”.

- Khoản 3 sửa nêu rõ mức độ hậu quả cụ thể “Gây rối loạn tâm thần và

hành vi của nạn nhân 61% trở lên”; “Làm nạn nhân tự sát”.

1.2. Các dâu hiệu pháp lý của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

* Thứ nhât, Khách thể của tội phạm

Đối với tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, thì khách thể loại của tội

phạm là danh dự và nhân phẩm của con người. Còn khách thể trực tiếp đó là

quyền bất khả xâm phạm về tình dục của người dưới 16 tuổi.

Để xâm phạm đến khách thể trên thì người phạm tội tác động vào đối

tượng tội phạm là con người cụ thể dưới 16 tuổi, có thể là nam hoặc nữ.

* Thứ hai, Mặt khách quan của tội phạm

Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là tội cấu thành hình thức, với đặc

trưng bởi hành vi tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo

vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người

dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục của người

phạm tội, nhưng không nhằm mục đích giao cấu hoặc thực hiện các hành vi

14

quan hệ tình dục khác với người dưới 16 tuổi.

Các hành vi này đều chưa và không có mục đích giao cấu với người dưới

16 tuổi. Nếu có ý định giao cấu hoặc thực hiện hành vi tình dục khác với nạn

nhân nhưng không giao cấu hoặc thực hiện hành vi đó được thì không phải là

hành vi dâm ô mà tùy trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu TNHS

về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới

16 tuổi hoặc tội giao cấu người dưới 16 tuổi.

*Thứ ba, Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi chỉ có thể là thể nhân

(con người cụ thể), và phải là bất kỳ người nào đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực

trách nhiệm hình sự, có thể là nam hoặc nữ.

*Thứ tư, Mặt chủ quan của tội phạm

Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm

tội bao gồm lỗi, động cơ, mục đích phạm tội [24, tr.45]. Đối với tội dâm ô đối

với người dưới 16 tuổi thì động cơ, mục đích của người phạm tội là để thỏa mãn

ham muốn tình dục, nhu cầu sinh lý của bản thân.

Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. Tức là người phạm tội nhận

thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật cấm, nhưng để

thỏa mãn nhu cầu tình dục nên vẫn thực hiện hành vi dâm ô đối với người dưới

16 tuổi.

Ngoài ra, điều luật còn xác định về ý thức chủ quan thì người phạm tội

“…không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi

quan hệ tình dục khác..”.

* Các dấu hiệu định khung tăng nặng của tội dâm ô đối với người dưới

16 tuổi:

- Dấu hiệu định khung tại khoản 2:

+ Phạm tội có tổ chức. Đây là hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ

15

giữa những người cùng thực hiện hành vi dâm ô với người dưới 16 tuổi.

+ Phạm tội 02 lần trở lên: Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện

hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi từ 02 lần trở lên nhưng chưa bị truy

cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

+ Phạm tội đối với 02 người trở lên. Đây là trường hợp một người đã dâm

ô từ hai người dưới 16 tuổi trở lên hoặc nhiều người cùng dâm ô từ hai người

dưới 16 tuổi trở lên.

+ Phạm tội đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc,

giáo dục, chữa bệnh.

+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỉ lệ tổn thương cơ

thể từ 31% đến 60%.

Đánh giá mức độ gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân phải căn

cứ vào kết luận giám định pháp y theo Thông tư số 20/2014/TT-BYT [7, tr.80].

Đối với tình tiết này đòi hỏi hậu quả bắt buộc là làm cho nạn nhân bị tâm

thần hoặc có những biểu hiện hành vi không ổn định, diễn biến tâm lý bất

thường với tỷ lệ nhất định từ 31% trở lên và việc xác định tỷ lệ % phải do cơ

quan giám định pháp y kết luận.

+ Tái phạm nguy hiểm.

- Dấu hiệu định khung tại khoản 3:

+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỉ lệ tổn thương cơ

thể 61% trở lên.

+ Phạm tội làm nạn nhân tự sát.

1.3. Phân biệt tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi với một số tội phạm

tình dục khác

1.3.1. Phân biệt với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi

- Về hành vi khách quan của tội phạm:

Khác với tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi thì tội hiếp dâm người

16

dưới 16 tuổi có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng

không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện

hành vi quan hệ tình dục khác, trái ý muốn của nạn nhân. Riêng đối với đối

tượng là người dưới 13 tuổi thì hành vi khách quan là giao cấu hoặc hành vi

quan hệ tình dục khác với nạn nhân.

- Về mục đích của tội phạm:

+ Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi: Không có mục đích giao cấu

hoặc quan hệ tình dục khác với người dưới 16 tuổi.

+ Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi: Có mục đích giao cấu hoặc quan hệ

tình dục khác với người dưới 16 tuổi.

- Về ý chí của nạn nhân:

+ Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi: Không xem xét đến ý chí của

nạn nhân có mong muốn hay không. Người dưới 16 tuổi bị dâm ô có thể đồng

tình, tự nguyện hoặc bị cưỡng ép thực hiện hành vi dâm ô với người phạm tội.

+ Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi: Trái với ý muốn của nạn nhân là

người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi.

- Về chủ thể của tội phạm:

+ Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi: Người từ đủ 18 tuổi trở lên có

năng lực TNHS.

+ Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi: Người từ đủ 14 tuổi trở lên có năng

lực TNHS.

1.3.2. Phân biệt với tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình

dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

- Về đối tượng tác động của tội phạm:

+ Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi: Là người dưới 16 tuổi.

+ Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người

từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi: Là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.

17

- Về hành vi khách quan của tội phạm:

Khác với hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi thì tội giao cấu hoặc

thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16

tuổi có hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác nhưng có

sự thuận tình của người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.

- Về mục đích của tội phạm:

Khác với Ttội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi thì tội giao cấu hoặc thực

hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:

Có mục đích giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác với người dưới 16 tuổi.

Tiểu kết Chương 1

Thông qua Chương 1 của luận văn tác giả đã phân tích làm rõ những vấn

đề lý luận và pháp luật về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi như khái niệm,

các dấu hiệu pháp lý tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi; ngoài ra, tác giả cũng

đã phân biệt tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi với một số tội phạm tình dục

khác như tội hiếp dâm, tội cưỡng dâm, tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan

hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và khái quát lịch sử

lập pháp hình sự Việt Nam về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. Đây là cơ

sở để tác giả phân tích, đánh giá thực tiễn xét xử tội dâm ô đối với người dưới

18

16 tuổi từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh.

Chương 2.

THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI 16 TUỔI

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1. Khái quát tình hình xét xử tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

Theo Báo cáo tổng kết của TAND thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015

đến tháng 6 năm 2020 thì tổng số vụ án mà TAND hai cấp thành phố Hồ Chí

Minh thụ lý là 32.882 vụ với 54.587 bị cáo, cụ thể:

Bảng 2.1. Thống kê tội phạm mà TAND hai cấp thành phố Hồ Chí Minh

thụ lý, xét xử.

Tòa án

Tạm đình

Năm

Tổng thụ lý

Xét xử

Đình chỉ

chỉ

V

BC

V

BC

V

BC

V

BC

32.882 54.587 25.790 40.882 105 150 37 52

Từ 2015 đến tháng 6/2020

(Nguồn: Báo cáo tổng kết từ năm 2015 đến tháng 6/2020 của Tòa án

nhân dân thành phố Hồ Chí Minh)

Như vậy, trong giai đoạn từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2020 thì TAND

hai cấp thành phố Hồ Chí Minh đưa ra xét xử là 25.790 vụ với 40.882 bị cáo,

đình chỉ 105 vụ/150 bị cáo, tạm đình chỉ 37 vụ/52 bị cáo.

Trong đó, đối với tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi thì tổng số án thụ

lý là 88 vụ với 90 bị cáo, trong đó đưa ra xét xử là 70 vụ với 70 bị cáo, đình chỉ

19

00 vụ/00 bị cáo, tạm đình chỉ 00 vụ/00 bị cáo. Cụ thể:

Bảng 2.2. Thống kê tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi so với tổng số

tội phạm được Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Hồ Chí Minh thụ lý, đưa ra

xét xử từ năm 2015 đến tháng 6/2020 trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

Tòa án

Tạm

Tội dâm

Năm

Tổng thụ lý

Xét xử

Đình chỉ

đình chỉ

ô

V

BC

V

BC

V

BC V BC

9

9

6

6

0

0

0

0

146

Tổng số

6/2020

án của

2,485

4,415

1,567

2,480

11

12

1

3

TPHCM

116

BLHS

1999

(sửa đổi,

1

1

1

1

0

0

0

0

bổ sung

năm

2019

2009)

146

15

15

13

13

0

0

0

0

Tổng số

án của

5130

8826

4452

7360

13

17

1

2

TPHCM

116

BLHS

2018

1999

10

10

10

10

0

0

0

0

(sửa đổi,

bổ sung

20

năm

2009)

146

4

4

3

3

0

0

0

0

Tổng số

án của

5146

8561

4438

7018

10

13

0

0

TPHCM

116

BLHS

1999

(sửa đổi,

12

12

9

9

0

0

0

0

bổ sung

2017

năm

2009)

Tổng số

án của

5902

9541

4690

7165

28

43

6

6

TPHCM

116

BLHS

1999

(sửa đổi,

13

14

10

10

0

0

0

0

bổ sung

2016

năm

2009)

Tổng số

án của

7070

11690

5451

8839

24

38

23

33

TPHCM

116

2015

24

25

18

18

0

0

0

0

BLHS

21

1999

(sửa đổi,

bổ sung

năm

2009)

Tổng số

án của

7149

11554

5192

8020

19

27

6

8

TPHCM

Tội dâm

ô đối với

trẻ em/

đối với

88

90

70

70

0

0

0

0

người

2015 đến

dưới 16

31/5/2020

tuổi

Tổng số

án của

32,882 54,587 25,790 40,882 105 150 37

52

TPHCM

(Nguồn: Báo cáo tổng kết từ năm 2015 đến tháng 6/2020 của Tòa án

nhân dân thành phố Hồ Chí Minh)

Qua bảng số liệu trên cho thấy tội dâm ô đối với trẻ em/đối với người

dưới 16 tuổi so với tổng số án của thành phố Hồ Chí Minh chiếm tỷ lệ rất nhỏ.

Cụ thể: số vụ án và bị cáo thụ lý lần lượt là 0,26% vụ/0,16 bị cáo so với tổng số

án của thành phố Hồ Chí Minh, trong đó đưa ra xét xử chiếm tỷ lệ 0,27%

vụ/0,17% bị cáo.

Cũng theo Báo cáo tổng kết của TAND thành phố Hồ Chí Minh từ năm

22

2015 đến tháng 6 năm 2020 thì TAND hai cấp thành phố Hồ Chí Minh đã đưa

ra xét xử 930 vụ án, đối với 943 bị cáo trong nhóm tội xâm phạm tình dục người

dưới 16 tuổi, trong đó tổng số vụ án và bị cáo phạm tội dâm ô đối với người

dưới 16 tuổi là 70vụ/70 bị cáo chiếm tỷ lệ 7,52% về số vụ và 7,42% về số bị

cáo trong nhóm tội xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi.

Bảng 2.3. Thống kê tội dâm ô người dưới 16 tuổi so với tổng số tội xâm

phạm tình dục người dưới 16 tuổi được đưa ra xét xử từ năm 2015 đến tháng

6/2020 trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

Năm Tổng số vụ án và bị cáo

Tổng số vụ án và bị

Tỷ lệ % (2)/ (1)

thuộc nhóm tội xâm

cáo phạm tội theo Điều

phạm tình dục người

146 BLHS (Điều 116

dưới 16 tuổi được đưa

BLHS năm 1999)

ra xét xử (1)

được đưa ra xét xử

(2)

Số vụ

Số bị

Số vụ

Số bị

Số vụ

Số bị cáo

cáo

cáo

2015

171

173

18

10,5%

10,4%

18

2016

169

170

10

5,9%

5,8%

10

2017

165

169

9

5,45%

5,32%

9

2018

159

161

13

8,17%

8,07%

13

2019

181

183

14

7,7%

7,65%

14

6/2020

85

87

6

7,05%

6,89%

6

Tổng

930

943

70

7,52%

7,42%

70

(Nguồn: Báo cáo tổng kết từ năm 2015 đến tháng 6/2020 của Tòa án

nhân dân thành phố Hồ Chí Minh)

Qua số liệu thông kê so sánh tội dâm ô người dưới 16 tuổi với tổng số vụ

xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi nêu trên, cho thấy:

Trong nhóm tội xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi thì tội dâm ô

23

người dưới 16 tuổi chiếm tỷ không quá cao, có tổng số vụ và bị cáo đưa ra xét

xử là 70 vụ /70 bị cáo chiếm tỷ lệ là 7,52 % vụ/7,42% bị cáo. Trong đó năm

2015 là 18vụ/18 bị cáo chiếm tỉ lệ 10,5 % về số vụ và 10,4% về số bị cáo, đến

năm 2016, 2017 thì tội dâm ô người dưới 16 tuổi có xu hướng giảm xuống, cụ

thể năm 2016 là 10 vụ/10 bị cáo chiếm tỉ lệ 5,9% về số vụ và 14,1 % về số bị

cáo, năm 2017 có 09 vụ/09 bị cáo chiếm tỷ lệ 5,45% về số vụ và 5,32% về số

bị cáo; tuy nhiên, đến năm 2018, 2019 thì tội này lại tăng, cụ thể năm 2018 là

13 vụ/13 bị cáo chiếm tỷ lệ 8,17 vụ và 8,07% số bị cáo, đến năm 2019 thì tội

dâm ô người dưới 16 tuổi tăng với 14 vụ/14 bị cáo chiếm tỷ lệ 7,7%/vụ và

7,65%/bị cáo, đáng chú ý trong năm 2019 TAND Quân 4 đã xét xử sơ thẩm và

TAND thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm y án sơ thẩm 1 năm 6 tháng

tù về tội dâm ô với người dưới 16 tuổi đối với Nguyễn Hữu Linh, Nguyên Phó

Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân thành phố Đà Nẵng gây xôn xao dư luận

trong năm 2019. Trong 6 tháng đầu năm 2020 thì Tòa án hai cấp thành phố Hồ

Chí Minh xét xử 6 vụ/6 bị cáo chiếm tỷ lệ 7,05% vụ/6,89% bị cáo so với các

tội xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi.

Điều này cho thấy, số vụ án về tội dâm ô người dưới 16 tuổi ngày càng có

tính phức tạp, gia tăng trong nhóm tội xâm phạm tình dục, đòi hỏi việc đấu

tranh, phòng chống tội phạm này cần được nâng cao trong thời gian tới.

Bảng 2.4. Thống kê các tội phạm cụ thể trong nhóm tội xâm hại tình dục

người dưới 16 tuổi được Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Hồ Chí Minh xét

xử từ năm 2015 đến tháng 6/2020

T Năm

Tội danh

Vụ

Bị cáo

1 2015

Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi

52

55

Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi

03

03

đến dưới 16 tuổi

24

Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi

98

98

quan hệ tình dục khác với người từ

đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi 18

18

Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào

00

00

mục đích khiêu dâm

2 2016

Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi

63

64

Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi

03

03

đến dưới 16 tuổi

Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi

93

93

quan hệ tình dục khác với người từ

đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi 10

10

Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào

00

00

mục đích khiêu dâm

3 2017

Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi

61

65

Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi

01

01

đến dưới 16 tuổi

Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi

94

94

quan hệ tình dục khác với người từ

đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi 09

09

Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào

00

00

mục đích khiêu dâm

4 2018

Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi

47

49

Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi

02

02

đến dưới 16 tuổi

25

Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi

97

97

quan hệ tình dục khác với người từ

đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi 13

13

Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào

00

00

mục đích khiêu dâm

5 2019

Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi

74

76

Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi

02

02

đến dưới 16 tuổi

Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi

91

91

quan hệ tình dục khác với người từ

đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi 14

14

Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào

00

00

mục đích khiêu dâm

34

5 6/2020 Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi

32

Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi

02

02

đến dưới 16 tuổi

Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi

45

45

quan hệ tình dục khác với người từ

đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi 06

06

Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào

00

00

mục đích khiêu dâm

(Nguồn: Báo cáo tổng kết từ năm 2015 đến tháng 6/2020 của Tòa án

nhân dân thành phố Hồ Chí Minh)

26

Qua bảng thống kê chúng ta có thể thấy:

- So với các tội xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi khác thì tội dâm

ô chiếm tỷ lệ trung bình. Chủ yếu tập trung vào tội giao cấu hoặc thực hiện hành

vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội hiếp dâm

người dưới 16 tuổi. Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm

hầu như không có, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi chiếm

tỷ lệ thấp. Cụ thể:

+ Trong năm 2015 đã đưa ra xét xử tổng số 171vụ với 173 bị cáo về tội

xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi, trong đó: Tội giao cấu hoặc thực hiện

hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là 98

vụ/98 bị cáo; tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là 52 vụ với 55 bị cáo; tội dâm ô

đối với người dưới 16 tuổi là18 vụ/18 bị cáo; tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi

đến dưới 16 tuổi là 03 vụ/03 bị cáo; tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục

đích khiêu dâm không có vụ nào được đưa ra xét xử.

+ Trong năm 2016 đã đưa ra xét xử tổng số 169 vụ với 170 bị cáo về tội

xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi, trong đó: Tội giao cấu hoặc thực hiện

hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là 93

vụ/93 bị cáo; tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là 63 vụ với 64 bị cáo; tội dâm ô

đối với người dưới 16 tuổi là 10 vụ/10bị cáo; tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi

đến dưới 16 tuổi là 03 vụ/03 bị cáo; tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục

đích khiêu dâm không có vụ nào được đưa ra xét xử. Có thể thấy, trong nhóm

tội này tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi có xu hướng giảm hơn so với năm 2015.

+ Trong năm 2017 đã đưa ra xét xử tổng số 165 vụ với 169 bị cáo về tội

xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi, trong đó: Tội giao cấu hoặc thực hiện

hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là 94

vụ/94 bị cáo; tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là 61 vụ với 65 bị cáo; tội dâm ô

27

đối với người dưới 16 tuổi là 09 vụ/09 bị cáo; tội cưỡng dâm người từ đủ 13

tuổi đến dưới 16 tuổi là 01 vụ/01 bị cáo; tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào

mục đích khiêu dâm không có vụ nào được đưa ra xét xử.

+ Trong năm 2018 đã đưa ra xét xử tổng số 159 vụ với 161 bị cáo về tội

xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi, trong đó: Tội giao cấu hoặc thực hiện

hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là 97

vụ/97 bị cáo; tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là 47 vụ với 49 bị cáo; tội dâm ô

đối với người dưới 16 tuổi là 13 vụ/13 bị cáo; tội cưỡng dâm người từ đủ 13

tuổi đến dưới 16 tuổi là 02 vụ/02 bị cáo; tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào

mục đích khiêu dâm không có vụ nào được đưa ra xét xử.

+ Trong năm 2019 đã đưa ra xét xử tổng số 181 vụ với 183 bị cáo về tội

xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi, trong đó: Tội giao cấu hoặc thực hiện

hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là 91

vụ/91 bị cáo; tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là 74 vụ với 76 bị cáo; tội dâm ô

đối với người dưới 16 tuổi là 14 vụ/14 bị cáo; tội cưỡng dâm người từ đủ 13

tuổi đến dưới 16 tuổi là 02 vụ/02 bị cáo; tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào

mục đích khiêu dâm không có vụ nào được đưa ra xét xử.

+ Trong 6 tháng đầu năm 2020 đã đưa ra xét xử tổng số 85 vụ với 87 bị

cáo về tội xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi, trong đó: Tội giao cấu hoặc

thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16

tuổi là 45 vụ/45 bị cáo; tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là 32 vụ với 34 bị cáo;

tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là 06vụ/06 bị cáo; tội cưỡng dâm người từ

đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là 02 vụ/02 bị cáo; tội sử dụng người dưới 16 tuổi

vào mục đích khiêu dâm không có vụ nào được đưa ra xét xử.

Tuy nhiên, đây chỉ là những con số phản ảnh số vụ đã xét xử mà chưa

bao quát toàn bộ về thực trạng (mức độ) của tình hình các tội xâm phạm tình

dục người dưới 16 tuổi diễn ra trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến tháng

28

6 năm 2020 bởi vì những con số trên chưa bao gồm những vụ án bị đình chỉ tại

các cơ quan tiến hành tố tụng, hoặc những vụ án chưa đủ điều kiện đưa ra xét

xử hoặc những tội phạm hiện chưa được phát hiện để điều tra, truy tố và xét xử

(tội phạm ẩn).

Cũng theo Báo cáo tổng kết năm của TAND thành phố Hồ Chí Minh từ

năm 2015 đến tháng 6 năm 2020 thì Tòa án nhân dân hai cấp đã áp dụng hình

phạt với các bị cáo phạm tội dâm ô người dưới 16 tuổi, thể hiện qua bảng thống

kê sau:

Bảng 2.4. Thống kê hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo phạm tội

dâm ô đối với người dưới 16 tuổi từ năm 2015 đến tháng 6/2020 trên địa bàn

thành phố Hồ Chí Minh

Cảnh cáo,

Tù từ 03

Số bị cáo

cải tạo

Tù dưới

Tù từ 07

Án treo

năm đến

Năm

đã xét xử

không

03 năm

năm đến

07 năm

giam giữ

12 năm

2015

18

00

12

02

02

02

2016

10

00

04

04

01

01

2017

09

00

04

03

01

01

2018

13

00

08

03

00

02

2019

14

00

09

04

00

01

6/2020

06

00

05

01

00

00

Tổng

70

00

42

17

04

07

(Nguồn: Báo cáo tổng kết từ năm 2015 đến tháng 6/2020 của Tòa án

nhân dân thành phố Hồ Chí Minh)

Qua bảng thống kê trên cho thấy, trong giai đoạn từ năm 2015 đến tháng

6 năm 2020, trong các bị cáo bị xét xử về tội dâm ô người dưới 16 tuổi trên địa

bàn thành phố Hồ Chí Minh thì không có trường hợp nào miễn trách nhiệm hình

29

sự, miễn hình phạt hoặc cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, hình phạt tù từ trên

12 năm đến chung thân hoặc tử hình. Các bị cáo chủ yếu bị áp dụng khung hình

phạt thuộc khoản 1 hoặc khoản 2, một số trường hợp cá biệt thuộc khoản 3 của

tội danh.

Cụ thể: Có 42 bị cáo/70 bị cáo bị áp dụng mức hình phạt tù dưới 03 năm,

17 bị cáo/70 bị cáo bị áp dụng mức hình phạt tù từ 03 năm đến 07 năm, 04 bị

cáo bị áp dụng hình phạt từ trên 07 năm đến 12 năm và có 07 trường hợp được

hưởng án treo.

2.2. Thực tiễn xét xử tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trên địa bàn

thành phố Hồ Chí Minh

2.2.1. Kết quả đạt được

Qua khảo sát một số bản án của Tòa án nhân dân các huyện, quận và Tòa

án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, đa số các vụ án đều được xét xử

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Sau đây là một số vụ án điển hình:

Ví dụ: Bản án số 179/2017/HSPT ngày 20/04/2017 của TAND thành phố

Hồ Chí Minh [27].

Nội dung: 14 giờ 10 phút ngày 18/6/2016, Nguyễn Văn L (sinh năm

1990) đi một mình vào Khu A Công viên X, phường H, Quận I, thấy trẻ Lê

Tăng Bảo N (sinh ngày 21/5/2007) ngồi một mình, L nảy sinh ý định thực hiện

hành vi dâm ô đối với N. L tiếp cận làm quen, cho N 20.000 đồng mua nước

uống rồi dẫn N đi lòng vòng công viên 23/9 chơi. Đến khoảng 16 giờ 30 phút

cùng ngày, L dẫn trẻ N ngồi trên ghế sắt tại khu B Công viên X, đối diện số 291

Đường Y, Phường H, Quận I, L bế N đặt ngồi trên hai đùi, dang hai chân N ra,

dùng ngón trỏ tay trái cho vào âm đạo của N, tay phải thì sờ mó nhiều lần vào

hai bên ngực N. Sau đó, L rủ N đi vào nhà vệ sinh nam rồi sẽ cho N 50.000

đồng, nhưng N không đồng ý. Lúc này, có ông Phạm Minh L (Bảo vệ Công

viên X) và ông Phạm Quốc C (Công an phường H) chứng kiến sự việc, bắt giữ

30

L đưa về trụ sở Công an phường H, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh lập biên

bản phạm tội quả tang. Theo Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số

120/TD.16 ngày 12 tháng 9 năm 2016 của Trung tâm Pháp y Sở Y tế Thành

phố Hồ Chí Minh kết luận: Màng trinh: dãn, không rách; phết dịch âm đạo:

không thấy tinh trùng; không phát hiện tế bào người nam trong dịch âm đạo.

Bản án sơ thẩm: Tuyên bố bị cáo phạm tội “Dâm ô với trẻ em” theo khoản

1 Điều 116, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo

Nguyễn Văn L 02 (hai) năm tù. Bản án phúc thẩm: Không chấp nhận kháng cáo

của bị cáo Nguyễn Văn L và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Nhận xét:

- Về định tội danh: TAND hai cấp thành phố Hồ Chí Minh đã định tội

danh đối vi hành vi của Nguyễn Văn L trên cơ sở các dấu hiệu tội dâm ô đối

với trẻ em (người dưới 16 tuổi) như sau:

+ Về khách thể: Hành vi của L đã xâm hại đến sức khỏe, nhân phẩm danh

dự và quyền bất khả xâm phạm về tình dục của cháu N.

+ Về chủ thể: L là người đã đạt độ tuổi phải chịu TNHS (26 tuổi), L có

khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình.

+ Về mặt chủ quan: Nguyễn Văn L thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực

tiếp, L nhận thức hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến

quyền bất khả xâm phạm về tình dục của cháu N, nhưng để thỏa mãn ham muốn

tình dục L đã thực hiện hành vi dâm ô với cháu N.

+ Về mặt khách quan: 16 giờ 30 phút ngày 18/6/2016, Nguyễn Văn L

đã có hành vi dâm ô đối với cháu N.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Dâm ô

đối với trẻ em”. Do đó, bản án sơ thẩm, phúc thẩm của Toà án nhân dân hai cấp

31

Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên bị cáo là đúng tội.

- Về quyết định hình phạt:

+ Về căn cứ vào quy định của BLHS: Bị cáo L bị áp dụng khoản 1 Điều

116, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 BLHS về tội “Dâm ô với trẻ em”.

+ Về căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội: Hành vi nguy hiểm cho xã hội, thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm

đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục của cháu N.

+ Về căn cứ vào nhân thân người phạm tội: Bị cáo không có tiền án,

tiền sự, nhân thân bị cáo tốt.

+ Về căn cứ vào tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS: Bị cáo được áp

dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS tại điểm p khoản 1 Điều 46; bị cáo không có tình

tiết tăng nặng TNHS.

Do vậy, TAND hai cấp thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng khoản 1 Điều

116, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn

Văn L 02 (hai) năm tù là phù hợp với hành vi của L.

Ví dụ 2: Bản án số 115/2018/HS-ST ngày 17/07/2018 [29].

Nội dung: Nguyễn Ngọc H là sinh viên Trường Đại học thể dục thể thao

thành phố Hồ Chí Minh, ngoài giờ học H còn tham gia dạy môn võ cổ truyền

tại trường tiểu học An Hội phường 8, quận Gò Vấp cùng với anh ruột Nguyễn

Ngọc H, em Vũ Trần Thanh U (sinh ngày 05/8/2005) cũng tham gia học tại đây.

Trong thời gian dạy học H thấy em U đang trong tuổi dậy thì có vóc dáng nên

H ham muốn giao cấu với em U. Khoảng đầu tháng 10/2017, H tìm cách kết

bạn với U qua Facebook từ đó làm quen và rủ U đi chơi. Ngày 05/11/2017, H

nhắn tin qua Facebook rủ U đi chơi thì U đồng ý. Khoảng 15 giờ 30 cùng ngày

H đi xe máy đến đường Bùi Văn Là, phường 12, quận Gò Vấp đón U và chở U

32

đến khách sạn “Bốn mùa” địa chỉ số phường 11, quận Gò Vấp thuê phòng số

202. Khi vào phòng cả hai nằm trên giường, H dùng miệng hôn lên mặt, môi,

rồi dùng tay trái sờ, nắn, bóp vú bên trái của U nhiều lần. H định giao cấu với

U nhưng biết U chỉ mới 12 tuổi nên không thực hiện. Đến 16 giờ 30 thì H trả

phòng chở U về nhà. Ngày 15/11/2017, anh Vũ Thanh S là cha của Vũ Trần

Thanh U đến Công an phường 11, quận Gò Vấp làm đơn tố cáo Nguyễn Ngọc

H.

Ngày 17/07/2018, TAND quận Gò Vấp đã ra bản án số 115/2018/HS-ST

áp dụng khoản 1 Điều 116, điểm b, p khoản 1 Điều 46 BLHS, tuyên bố bị cáo

Nguyễn Ngọc H phạm tội “Dâm ô đối với trẻ em”, xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc

H 01(một) năm tù. Bản án sau đó được đưa ra thi hành do không có kháng cáo,

kháng nghị.

Nhận xét:

- Về định tội danh:

TAND quận Gò Vấp đã định tội danh đối vi hành vi của Nguyễn Ngọc

H trên cơ sở các dấu hiệu tội dâm ô đối với trẻ em (người dưới 16 tuổi):

+ Về khách thể: Hành vi dâm ô của Nguyễn Ngọc H với cháu U (12 tuổi)

đã xâm hại đến sức khỏe, nhân phẩm danh dự và quyền bất khả xâm phạm về

tình dục của cháu U.

+ Về chủ thể: Nguyễn Ngọc H là người đã đạt độ tuổi phải chịu TNHS

(trên 18 tuổi) và H có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình.

+ Về mặt chủ quan: Nguyễn Ngọc H thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực

tiếp, H nhận thức hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến

quyền bất khả xâm phạm về tình dục của cháu U, nhưng để thỏa mãn ham muốn

tình dục H đã thực hiện hành vi dâm ô với cháu U.

+ Về mặt khách quan: 15 giờ 30 phút ngày 05/11/2017, Nguyễn Ngọc

33

H đã có hành vi dâm ô đối với cháu U.

Do đó, hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc H đã đủ yếu tố cấu thành tội

“Dâm ô đối với trẻ em” theo khoản 1 Điều 116 BLHS. Do đó, bản án sơ thẩm

của Toà án nhân dân quận Gò Vấp đã tuyên bị cáo là đúng tội.

- Về quyết định hình phạt:

+ Về căn cứ vào quy định của BLHS: Bị cáo H bị áp dụng khoản 1 Điều

116, điểm b, p khoản 1 Điều 46, Điều 33 Bộ luật Hình sự về tội “Dâm ô với trẻ

em”.

+ Về căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội: Hành vi nguy hiểm cho xã hội, thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm

đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục của cháu U.

+ Về căn cứ vào nhân thân người phạm tội: Bị cáo không có tiền án,

tiền sự, nhân thân bị cáo tốt.

+ Về căn cứ vào tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS: Bị cáo được áp

dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS tại điểm b, p khoản 1 Điều 46; bị cáo không có

tình tiết tăng nặng TNHS.

Do vậy, TAND quận Gò Vấp đã áp dụng khoản 1 Điều 116, điểm b, p

khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc H 01 (một) năm

tù là phù hợp với hành vi của L.

Hay mới đây nhất là vụ án dâm ô đối với người dưới 16 tuổi mà hành vi

của bị cáo có tính đặc biệt nguy hiểm, xâm hại đến 5 bé gái ở quận Thủ Đức,

thành phố Hồ Chí Minh.

Nội dung: Bản án số 26/2020/HSST ngày 18/6/2020 của TAND quận

Thủ Đức [30].

Trong khoảng thời gian từ tháng 11/2019 đến tháng 1/2020, Nguyễn Hữu

34

Tr (sinh năm 1978) nhân viên của một khách sạn tại quận Thủ Đức đã có hành

vi dâm ô đối tổng cộng có 5 bé gái. Đến tối ngày 27/01/2020 người nhà của 5

bé gái (từ 8 đến 15 tuổi) ngụ ở gần một khách sạn ở phường Linh Trung đã tố

cáo với Công an trên địa bàn phường này về việc Nguyễn Hữu Tr có hành vi

xâm hại tình dục với các em. Sau đó ngày 28/1, Cơ quan cảnh sát điều tra Công

an quận Thủ Đức đã bắt khẩn cấp, tạm giữ hình sự Nguyễn Hữu Tr để điều tra,

hoàn thiện hồ sơ, chuyển VKSND truy tố Tr về tội "Dâm ô với người dưới 16

tuổi". Ngày 18/6/2020, TAND quận Thủ Đức, TP.HCM xử sơ thẩm, áp dụng

điểm b, khoản 2 Điều 116, điểm b, p khoản 1 Điều 46 ra Bản án số

26/2020/HSST tuyên phạt Nguyễn Hữu Tr 06 năm tù về tội dâm ô đối với người

dưới 16 tuổi.

Nhận xét:

- Về định tội danh:

TAND quận Thủ Đức đã định tội danh đối vi hành vi của Nguyễn Hữu

Trí trên cơ sở các dấu hiệu tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi như sau:

+ Về khách thể: Hành vi dâm ô của Nguyễn Hữu Tr với 05 bé gái (từ 8

tuổi đến 15 tuổi) đã xâm hại đến sức khỏe, nhân phẩm danh dự và quyền bất

khả xâm phạm về tình dục của 05 bé gái.

+ Về chủ thể: Nguyễn Hữu Tr là người đã đạt độ tuổi phải chịu TNHS

(41 tuổi) và Tr có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình.

+ Về mặt chủ quan: Nguyễn Hữu Tr thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực

tiếp, Tr nhận thức hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến

quyền bất khả xâm phạm về tình dục của 05 bé gái, nhưng để thỏa mãn ham

muốn tình dục H đã thực hiện hành vi dâm ô với 05 bé gái.

+ Về mặt khách quan: Từ tháng 11/2019 đến tháng 1/2020, Nguyễn Hữu

35

Tr đã có hành vi dâm ô đối tổng cộng có 5 bé gái.

Do đó, hành vi của bị cáo Nguyễn Hữu Tr đã đủ yếu tố cấu thành tội

“Dâm ô đối với trẻ em” theo khoản 1 Điều 116 BLHS. Do đó, bản án sơ thẩm

của Toà án nhân dân quận Thủ Đức đã tuyên bị cáo là đúng tội.

- Về quyết định hình phạt:

+ Về căn cứ vào quy định của BLHS: Bị cáo Tr bị áp dụng điểm b, khoản

2 Điều 116, điểm b, p khoản 1 Điều 46, Điều 33 Bộ luật Hình sự về tội “Dâm

ô với trẻ em”.

+ Về căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội: Hành vi nguy hiểm cho xã hội, thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm

đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục của nhiều người, có tính đặc biệt hiểm

cho xã hội xâm phạm đến nhiều trẻ em.

+ Về căn cứ vào nhân thân người phạm tội: Bị cáo không có tiền án,

tiền sự.

+ Về căn cứ vào tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS: Bị cáo được áp

dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS tại điểm b, p khoản 1 Điều 46; bị cáo không có

tình tiết tăng nặng TNHS.

Do vậy, TAND quận Gò Vấp đã áp dụng điểm b, khoản 2 Điều 116, điểm

b, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Hữu Tr 06 năm tù là phù

hợp với hành vi của bị cáo.

2.2.2. Một số thiếu sót, hạn chế

Trên cơ sở nghiên cứu một số vụ án về tội dâm ô đối với người dưới 16

tuổi trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, theo tác giả thực tiễn xét xử tội dâm

ô đối với người dưới 16 tuổi vẫn còn một số thiếu sót, hạn chế sau:

* Nhầm lẫn trong việc định tội danh giữa tội dâm ô đối với người dưới 16

36

tuổi với tội xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi khác

Vi dụ: Bản án số 147/2018/HS-PT ngày 03/4/2018 [31].

Nội dung: Vào khoảng 16 giờ ngày 10/10/2016, Lê Văn H đi đến khu

nhà trọ số 23/19 đường KNT, Khu phố K, phường ALA, quận BT, Thành phố

Hồ Chí Minh thì gặp cháu Q đang đứng trước phòng trọ số 1 nên H đứng lại

nói chuyện với trẻ Q được vài lời thì Q đi vào phòng và lên giường nằm. Thấy

vậy, H đi theo vào phòng và đứng khom lưng xuống hôn vào mặt trẻ Q, sau đó

dùng tay sờ vào bộ phận sinh dục của trẻ Q, tuột váy đồng phục học sinh và

quần lót của trẻ Q xuống, sau đó H mới tuột quần của H xuống rồi cầm dương

vật chà sát bên ngoài bộ phận sinh dục của trẻ Q. Lúc này, bà Đ đứng trước

phòng cách H khoảng 02 mét nhìn thấy nên hỏi H “mày làm gì đó”, xong do sợ

bị đánh nên bà Đ bỏ đi vào nhà mình. Do bị bà Đ phát hiện nên H kéo quần H

lên và bỏ ra ngoài. Tại Cơ quan điều tra, H khai thêm trước đó khoảng từ tháng

4 -5/2014 (không nhớ rõ ngày), H đã 03 lần thực hiện hành vi tương tự với trẻ

Q cũng tại địa điểm như đã nêu trên và mỗi lần như vậy H cho trẻ Q từ 5.000 –

10.000 đồng. Các lần này, H đều chỉ cầm dương vật cọ quẹt bên ngoài âm hộ

của trẻ Q.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 140/TD.16 ngày

21/10/2016 (BL.71) của Trung tâm pháp y Sở y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết

luận: “Màng trinh: Dãn. Rách cũ tại vị trí 9 giờ. Phết dịch âm đạo: Nhuộm tinh

trùng theo quy trình Christmas Tree Stain: Không thấy tinh trùng. Có tế bào

người nam trong âm đạo nhưng không đủ cơ sở đối chiếu với mẫu AND của đối

tượng nam”. Tại Bản kết luận giám định pháp y về sức khỏe số 47/SK.17 ngày

20/11/2017 (BL.173) của Trung tâm pháp y Sở y tế Thành phố Hồ Chí Minh

kết luận: “Khả năng cương dương của đương sự Lê Văn H sinh năm 1969 bình

thường”. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thống nhất thừa

nhận muốn quan hệ tình dục với trẻ Q nhưng do bị bệnh thận nặng nên dương

37

vật không cương cứng để thực hiện được (BL.31, BL.43, BL.185).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 199/2017/HSST ngày 14/12/2017 của Tòa

án nhân dân quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Tuyên bố bị cáo

Lê Văn H phạm tội: “Dâm ô đối với trẻ em” theo điểm a khoản 2 Điều 116,

phạt bị cáo Lê Văn H 04 (bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/6/2017.

Ngày 03/4/2018, TAND thành phố Hồ Chí Minh đã ra Bản án số

147/2018/HS-PT: Hủy Bản án sơ thẩm số 199/2017/HSST ngày 14/12/2017

của Tòa án nhân dân quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh để chuyển điều tra lại

theo quy định của pháp luật.

Nhận xét: Căn cứ theo lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, tại

phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm thì bị cáo khẳng định muốn giao cấu với trẻ Q,

bị cáo đã thực hiện hành vi dùng dương vật tác động vào vùng âm hộ của bị hại

nhưng không thực hiện được việc giao cấu đến cùng là do bị bệnh và bị bà Đ

phát hiện. Hành vi của bị cáo có dấu hiệu phạm tội “Hiếp dâm trẻ em” nhưng

Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ dẫn đến bị cấp phúc thẩm hủy án điều tra lại.

*Thiếu sót trong quá trình thu thập chứng cứ, dẫn đến không đủ chứng

cứ để định tội danh hành vi xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi

Ví dụ: Bản án hình sự số 28/2015/HSST ngày 26/12/2015 của TAND

quận B, thành phố Hồ Chí Minh [32].

Nội dung: Ngày 23/4/2015, Trần Hoàng C, sinh năm 1986, nơi ở: Nhà

số 119, Đường S5, Khu phố 2, phường T1, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh đã

dùng vũ lực giao cấu trái ý muốn của Lê Hoàng Giang, sinh ngày 12 tháng 8

năm 2000, được vài phút rồi thôi. Cháu G thấy đau ở âm hộ nhưng không dám

nói với ai. Ngày 28/4/2015, G kể lại cho mẹ là bà H biết toàn bộ sự việc. Ngày

13/5/2015, bà H đã đến cơ quan công an trình báo sự việc. Tại Bản ản giám

định pháp y về tình dục số 12 ngày 20/5/2015 của Trung tâm giám định pháp y

thành phố H kết luận: “Lê Hương G toàn thân không có vết sây xát, màng trinh

38

đã hóa sẹo, không thấy tinh trùng; không phát hiện tế bào người nam trong dịch

âm đạo....” Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm. Bị cáo C không

thừa nhận hành vi giao cấu với cháu G, bị cáo khai chỉ trà sát dương vật của

mình ở bên ngoài âm hộ cháu G. Sau khi trả hồ sơ điều tra bổ sung, cơ quan

điều tra không làm rõ được C có giao cấu với G không. Do vậy, tại Bản án hình

sự sơ thẩm số 28/2015/HSST ngày 26/12/2015, Tòa án đã tuyên C tội dâm ô

đối với trẻ em.

Qua ví dụ trên cho thấy, sau 20 ngày kể từ ngày xảy ra vụ việc thì bị hại

mới được đưa đi trưng cầu giám định, do đó dấu vết xâm phạm tình dục khó

xác định được, dẫn đến định tội danh gặp nhiều khó khăn.

*Thiếu sót trong áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với

người phạm tội dẫn đến việc quyết định hình phạt không chính xác.

Ví dụ: Bản án số 64/2018/HS-PT ngày 19/9/2018 của Tòa án nhân dân

thành phố Hồ Chí Minh) [33].

Nội dung: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 25-5-2015, sau khi đi dự 03 đám

cưới tại Ấp 1, xã A, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh thì Phan Nhựt T điều

khiển xe mô tô biển kiểm soát 50K4-2234 đến nhà anh Lê Văn H ở ấp Đình, xã

Tân Phú Trung, huyện Củ Chi để thăm bà Nguyễn Thị C (mẹ đẻ của anh H).

Khi T đến nhà anh H thì chỉ có bà C và cháu Lê Thị Bích N (sinh ngày

27/11/2008) con gái anh H ở nhà. T ngồi nói chuyện với bà C một lúc thì bà C

đi ra ngoài có việc, chỉ còn lại T và cháu N ở nhà. Nhìn thấy cháu N nằm trên

giường xem tivi thì T đến nằm chung với cháu N, T kéo quần đùi của cháu N

xuống gần đến gót chân và tự cởi quần của mình xuống đầu gối, để lộ dương

vật ra ngoài. T dùng tay sờ vào dương vật của mình và dùng ngón giữa của tay

trái đưa vào âm hộ cháu N. Lúc này, anh H đi ăn giỗ về thì phát hiện sự việc

nên hô hoán cho mọi người biết vào báo Công an ấp Đ đến lập biên bản bắt quả

39

tang. Quá trình điều tra, T đã bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại;

kinh tế gia đình T khó khăn, bị cáo hiện là người trực tiếp chăm sóc con đẻ bị

tàn tật.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 10/2018/HS-ST ngày 24/4/2018, Toà án

nhân dân huyện C căn cứ vào khoản 1 Điều 116; điểm b, p khoản 1, khoản 2

Điều 46, tuyên T phạm tội “Dâm ô đối với trẻ em”, phạt T 12 (mười hai) tháng

tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi chấp hành án

và được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 25/5/2015 đến ngày 03/6/2015. Ngày

26/4/2018, bị cáo T có đơn kháng cáo với nội dung xin được giảm nhẹ hình

phạt. Tại cấp phúc thẩm: TAND thành phố Hồ Chí Minh đã chấp nhận kháng

cáo xin giảm nhẹ hình phạt của T, sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số

10/2018/HS-ST ngày 24-4-2018 của Toà án nhân dân huyện C. Áp dụng: khoản

1 Điều 116; điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46. Xử phạt: Bị cáo T 9 (chín)

tháng tù về tội “Dâm ô đối với trẻ em”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ

ngày bắt đi thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 25/5/2015 đến ngày

03/6/2015.

Nhận xét: Có thể thấy trong vụ án trên thì bị cáo phạm tội lần đầu và

thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng

tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ

luật hình sự cho bị cáo là thiếu sót.

* Đánh giá chứng cứ chưa khách quan, toàn diện dẫn đến việc định tội

danh không đúng

Ví dụ: Bản án hình sự phúc thẩm số 18/2016/HSPT ngày 01/8/2016, Tòa

án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. [34]

Nội dung: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 14/7/2015, sau khi uống rượu về,

Lê Ánh D, trú tại: 6/31C ấp 4, xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn, Tp. HCM thấy

cháu Hồ Thị L (sinh ngày 15/4/2001) đang chơi cùng với cháu Lê Ánh N (là

40

con trai D) và Trần Đình B. D đã gọi cháu L vào nhà, dùng hai tay tuột quần

cháu L, dùng dương vật của mình tiếp xúc với âm hộ cháu L, D định giao cấu

với cháu L, nhưng do dương vật không cương cứng nên chỉ cọ xát qua lại âm

hộ cháu L. Khi phát hiện N và B nhìn thấy thì D dừng lại, cháu L tự mặc quần

rồi đi chơi tiếp. Sau đó, cháu L có kể lại cho mẹ là bà Văn Thị CN. Bản án hình

sự sơ thẩm số 12/2016/HSST ngày 18/5/2016, Tòa án nhân dân huyện HH

tuyên D phạm tội “Dâm ô đối với trẻ em” theo khoản 1, Điều 116 BLHS. Ngày

01/08/2016, Tòa án nhân dân thành phố H ra Bản án phúc thẩm

số 18/2016/HSPT, sửa toàn bộ bản án sơ thẩm, xác định hành vi của Lê Ánh

Dương có đủ dấu hiệu của tội “Hiếp dâm trẻ em” theo quy định tại Điều 112

Bộ luật Hình sự trên cơ sở lời khai của cháu Lê Ánh N, Trần Đình B đều xác

định D có hành vi giao cấu với cháu N, phù hợp lời khai ban đầu của D và kết

luận giám định pháp y về tình dục. Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội

“Dâm ô đối với trẻ em” theo Điều 116 của BLHS là không đúng.

Nhận xét: Có thể thấy vụ án, căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ

vụ án có đủ căn cứ xác định hành vi hiếp dâm trẻ em của Lê Ánh D. Tuy nhiên,

quá trình định tội danh các cơ quan tố tụng huyện HH đều không đánh giá chứng

cứ thu thập được một cách toàn diện, khách quan dẫn đến việc định tội danh

không chính xác đối với hành vi phạm tội của D.

2.3. Nguyên nhân của thiếu sót, hạn chế

- Nguyên nhân khách quan:

+ Một số quy định của BLHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi

hành về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi vẫn còn những điểm chưa rõ

ràng, có nội dung chưa được hướng dẫn mới dẫn đến việc xét xử gặp nhiều

khó khăn. Mặt khác, một số văn bản hướng dẫn các tội xâm phạm tình dục

trong đó có tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi…mới được ban hành, cần

phải được tập huấn, phổ biến đến người tiến hành tố tụng để kịp thời đi vào

41

thực tiễn.

+ Việc phát hiện, xử lý hành vi xâm phạm tình dục nói chung và dâm ô

nói riêng gặp nhiều khó khăn do thời gian đã xảy ra đã lâu, sự hợp tác không

chặt chẽ của bị hại và gia đình bị hại nên việc giám định của có quan có thẩm

quyền gặp khó khăn, ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án. Do đó, việc thu

thập chứng cứ đầy đủ, chính xác gặp nhiều hóa khăn.

+ Do sự phát triển của các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là môi

trường mạng xã hội với nhiều thông tin sai lệnh, văn hóa phẩm đồi trụy, web

đen, phim, ảnh khiêu dâm, kích dục … việc sử dụng chất kích thích như ma túy,

rượu bia sự không quan tâm của gia đình, xã hội đã làm một bộ phận người dân

xuống cấp về đạo đức, coi thường pháp luật, luân thường đạo lý, coi thường

tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác cũng là nguyên nhân

chính, thường xuyên gây ra tình trạng xâm hại tình dục trong đó có hành vi dâm

ô đối với người dưới 16 tuổi.

+ Quy định của pháp luật liên quan đến công tác giám định pháp y tình

dục còn nhiều bất cập như Luật Giám định tư pháp năm 2012 và Điều 206 Bộ

luật Tố tụng Hình sự năm 2015 không quy định bắt buộc phải trưng cầu giám

định pháp y về tình dục…trong khi chế độ đãi ngộ cho người tiến hành tố tụng

đặc biệt đội ngũ Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm còn hạn chế.

+ Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật chưa thường xuyên, dẫn đến

nhận thức của một bộ phận người dân còn hạn chế. Việc tuyên truyền nâng cao

nhận thức cho các bậc cha mẹ chưa được rộng rãi, thường xuyên.

+ Cơ quan có thẩm quyền chưa thực sự quan tâm, phối hợp với TANDTC

trong công tác xây dựng pháp luật, tổng kết thực tiễn xét xử, phát triển án lệ,

đặc biệt là công tác góp ý kiến đối với dự thảo các văn bản do TANDTC lấy ý

kiến.

+ Cơ sở vật chất, điều kiện phương tiện làm việc mặc dù đã có những cải

42

thiện đáng kể, nhưng một số trang thiết bị cần thiết phục vụ cho công tác nghiên

cứu, xây dựng văn bản vẫn còn nhiều khó khăn, phần nào ảnh hưởng tới hiệu

quả công tác. Thực tiễn công tác điều tra, truy tố, xét xử trong quá trình triển

khai thi hành BLHS và BLTTHS phát sinh nhiều khó khăn, tuy nhiên, việc ban

hành Nghị quyết đòi hỏi phải có nhiều thời gian nghiên cứu, tổng kết thực tiễn

nên không thể ban hành gấp theo yêu cầu.

- Nguyên nhân chủ quan:

+ Năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức của một bộ phận người tiến

hành tố tụng khi điều tra, truy tố, xét xử còn hạn chế, chưa phù hợp với yêu cầu

đấu tranh, phòng chống tội phạm. Bởi, đối với các vụ án xâm phạm tình dục

nói chung và tội dâm ô người dưới 16 tuổi nói riêng thì việc thu thập, kiểm tra

và đánh giá chứng cứ có vai trò rất quan trọng, phụ thuộc rất nhiều vào năng

lực, trình độ chuyên môn cũng như phương tiện kỹ thuật phục vụ hoạt động

điều tra, thu thập chứng cứ.

+ Mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện

kiểm sát, Tòa án) của thành phố Hồ Chí Minh một số trường hợp chưa có sự

phối hợp chắt chẽ ngay từ giai đoạn nguồn tin tội phạm, khám nghiệm hiện

trường, lấy lời khai nạn nhân, phối hợp trong hoạt động giám định pháp y tình

dục, xem xét dấu vết thân thể, đây là những chứng cứ rất quan trọng, có yếu tố

quyết định đối với những vụ án xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi.

+ Công tác tổng kết thực tiễn, tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng

quy định pháp luật về tôi dâm ô người dưới 16 tuổi thông qua các hội nghị, hội

thảo, các chuyên đề, tham luận nghiên cứu khoa học của cơ quan, người tiến

hành tố tụng của thành phố còn chưa sâu rộng. Một số hoạt động phối hợp với

Viện Kiểm sát, Tòa án trong việc nhanh chóng đưa vụ án ra xét xử công khai,

43

nghiêm minh trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục tội phạm chưa sâu rộng.

Tiểu kết Chương 2

Thông qua kết quả nghiên cứu tại Chương 2 của luận văn, tác giả đã phân

tích, đánh giá một cách khái quát tình hình xét xử tội dâm ô người dưới 16 tuổi

trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, trong giai đoạn từ năm 2015 đến tháng 6

năm 2020. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tội dâm ô người dưới 16 tuổi trên địa

bàn thành phố Hồ Chí Minh diễn biến phức tạp, đa số các vụ án đều được xét

xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn một số thiếu sót

trong thực tiễn xét xử nhưng chủ yếu là quá trình thu thập, đánh giá chứng cứ,

nhưng đã được cấp phúc thẩm khắc phục. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn

chế chủ yếu xuất phát từ một số quy định pháp luật hiện hành vẫn còn chưa rõ

ràng, chưa có những hướng dẫn kịp thời, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp

luật còn hạn chế, chưa thường xuyên, năng lực trình độ của đội ngũ công chức

trong định tội danh không đồng đều...đòi hỏi phải có sự thay đổi về quy định

của pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS

44

về nhóm tội này.

Chương 3.

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG

ĐÚNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI DÂM Ô

ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

3.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng quy định pháp luật hình sự về

tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

* Yêu cầu của hệ thống pháp luật hình sự

Hệ thống pháp luật hình sự làm cơ sở pháp lý để giải quyết vụ án xâm

phạm tình dục người dưới 16 tuổi phải đầy đủ, phù hợp với thực tiễn đấu tranh

xử lí tội phạm, với điều kiện phát triển đất nước bảo đảm hiệu quả, công bằng,

dân chủ.

Đồng thời, những quy định này phải cụ thể, rõ ràng, phù hợp với thực tế

và không mâu thuẫn, chồng chéo. Yêu cầu này cũng đòi hỏi việc hoàn thiện

pháp luật hình sự là yếu tố rất quan trọng, cơ sở pháp lý cho hoạt động giải

quyết các vụ án về xâm phạm tình dục người dưới 16 tuôi, trong đó có tội dâm

ô đối với người dưới 16 tuổi trong thực tiễn, đảm bảo giải quyết vụ án nhanh

chóng, công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và

không làm oan người vô tội chỉ có thể đạt được khi có sự chấp hành một cách

tự nguyện, triệt để.

* Yêu cầu của việc bảo đảm quyền con người trong đó có quyền trẻ em

Trong những năm qua, việc thực hiện quyền trẻ em nói chung và bảo vệ

trẻ em nói riêng đã được Đảng, Nhà nước quan tâm, lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo,

điều hành và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Việc bảo đảm thực hiện quyền

trẻ em và bảo vệ trẻ em đã có những chuyển biến tích cực. Hệ thống chính sách,

pháp luật về trẻ em, cơ chế bảo vệ trẻ em cơ bản được hoàn thiện; phần lớn các

45

cấp, các ngành, toàn xã hội đã quan tâm và nhận thức về công tác trẻ em ngày

một nâng cao; các quyền của trẻ em đã được thực hiện tốt hơn; những vấn đề

phát sinh về trẻ em được quan tâm giải quyết.

Tuy nhiên, một số vấn đề về trẻ em vẫn còn tồn tại và diễn biến phức tạp

như: bạo lực, xâm hại tình dục, xâm hại trên môi trường mạng, tử vong do tai

nạn, thương tích. Nguyên nhân của những tồn tại trên do một số bộ, ngành, địa

phương chưa thực sự quan tâm, coi trọng đúng mức công tác này; việc áp dụng

chế tài xử lý cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm quyền trẻ em chưa nghiêm,

chưa kịp thời; công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm chưa tiến hành thường

xuyên, nghiêm túc; công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, giữa gia đình,

nhà trường và chính quyền địa phương chưa chặt chẽ, hiệu quả; sự suy giảm

thuần phong, mỹ tục, đạo đức lối sống, văn hóa ứng xử ảnh hưởng đến sự phát

triển lành mạnh của trẻ em.

Yêu cầu này đòi hỏi cần phải xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật,

trong đó có BLHS năm 2015 và cá văn bản hướng dẫn.

* Yêu cầu của công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm xâm phạm tình

dục trẻ em

Hiện nay, xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi nói chung và tội dâm ô

người dưới 16 tuổi nói riêng đã trở thành một trong những vấn đề nhức nhối

đối với toàn xã hội. Hậu quả của vấn đề này đã gây ra những tổn thương hết sức

nghiêm trọng và lâu dài cả về thể chất lẫn tinh thần đối với phụ nữ và trẻ em,

nhất là trong các vụ bạo lực xâm hại tình dục nói chung và xâm hại tình dục trẻ

em nói riêng có chiều hướng diễn biến phức tạp, nghiêm trọng, gây bức xúc

trong dư luận xã hội, đặc biệt là tại thành phố Hồ Chí Minh. Điển hình như: Vụ

án cựu Phó Viện trưởng VKSND thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Hữu Linh (61

tuổi), có hành vi dâm ô bé gái 8 tuổi trong thang máy tại chung cư Galaxy 9,

Quận 4. TPHCM hay gần đây nhất là trường hợp Nguyễn Tiến Dũng (cán bộ

46

Trung tâm Hỗ trợ xã hội TP.HCM) bị khởi tố và bắt tạm giam về hành vi dâm

ô với người dưới 16 tuổi, vụ Nguyễn Hữu Trí (phường Linh Trung, quận Thủ

Đức) có hành vi dâm ô với 5 bé gái dưới 16 tuổi…

Do vậy, để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm xâm hại

tình dục trẻ em nói chung và dâm ô người dưới 16 tuổi nói riêng trên địa bàn

tỉnh thì việc hoàn thiện pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự và nâng cao

năng lực, trình độ nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức của người tiến hành tố tụng

có vai trò đặc biệt quan trọng là điều kiện tiên quyết cho việc điều tra, truy tố,

xét xử những hành vi này.

* Yêu cầu của hội nhập quốc tế

Mỗi quốc gia trên thế giới đều có một vị trí địa lý khác nhau, có thể chế

chính trị và các điều kiện về kinh tế, văn hóa, xã hội khác nhau nhưng đều có

chung một điểm, đó là sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước, gia đình và xã hội

đối với việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Phù hợp với xu thế đó, Đảng

và Nhà nước ta coi việc bảo vệ chăm sóc, giáo dục trẻ em trong đó việc bảo vệ

trẻ em không bị hành vi xâm hại tình dục như dâm ô, hiếp dâm…là nhiệm vụ

hàng đầu, để tiếp tục phù hợp với tư tưởng tiến bộ của nhân loại, với Công ước

về quyền trẻ em, Nhà nước ta đã và đang tiếp tục quán triệt và thể hiện trong

các văn bản pháp luật có liên quan như Hiến pháp năm 2014, Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2015, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2010, Luật trẻ em năm 2016;

Bộ luật hình sự năm 2015 với nhiều quy định mới, tiến bộ.

Tuy nhiên, trước yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, quyền

con người, quyền trẻ em ngày một được quan tâm và đảm bảo, là trách nhiệm

chung của toàn nhân loại thì việc hoàn thiện pháp luật trong đó có pháp luật

hình sự quy định về các tội xâm phạm tình dục nói chung và tội dâm ô người

47

dưới 16 tuổi mang tính cấp thiết.

3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định pháp luật hình sự về

tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

Hiện nay, xâm hại tình dục đã gây ra những tổn thương hết sức nghiêm

trọng và lâu dài cả về thể chất lẫn tinh thần đối với phụ nữ và trẻ em, nhất là

trong các vụ bạo lực xâm hại tình dục nói chung và xâm hại tình dục trẻ em nói

riêng có chiều hướng diễn biến phức tạp, nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư

luận xã hội. Do vậy, việc bảo đảm áp dụng đúng quy định pháp luật hình sự về

tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh có

vai trò vô cùng quan trọng.

3.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về tội dâm ô đối với người dưới

16 tuổi

- Về mặt thực tiễn và khoa học pháp y thì hành vi “giao cấu” cũng là một

hành vi quan hệ tình dục, đây là dạng quan hệ có tính phổ biến, truyền thống

nhất, bên cạnh hành vi quan hệ tình dục khác như qua đường hậu môn, đường

miệng...

Do vậy, theo tác giả thay vì trong CTTP của danh này quy định khá dài

là “Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16

tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi

quan hệ tình dục khác, thì …” nhà làm luật chỉ cần quy định “Người nào đủ 18

tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục

đích thực hiện các hành vi quan hệ tình dục, thì….”.

Và sẽ giải thích thế nào là hành vi quan hệ tình dục trong văn bản hướng

dẫn theo hướng: “Hành vi quan hệ tình dục bao gồm: Giao cấu và hành vi quan

hệ tình dục khác”.

- Tại khoản 2, khoản 3 Điều 146 BLHS năm 2015 quy định: “Gây rối

48

loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến

60%”; “Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ

thể 61% trở lên”.

Theo tác giả, quy định trên có điểm thiếu sót cần khắc phục đối với

trường hợp nạn nhân của dâm ô đối với người dưới 16 tuổi: bị rối loạn tâm thần

và hành vi mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 60% đến 61% như 60,5%, 60,8%,

60,9%...thì sẽ định tội danh theo khoản 2 hay khoản 3 Điều 146 BLHS? Theo

tác giả đây là quy định chưa rõ ràng, chưa bao quát hết được các trường hợp có

thể xảy ra trong thực tiễn.

Do vậy, tác giả kiến nghị sửa đổi tình tiết định khung hình phạt tăng nặng

theo khoản 2, khoản 3 của các tội danh nêu trên theo hướng sau: “Gây rối loạn

tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 61%”;

“Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ

61% trở lên”.

3.2.2. Tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật về tội dâm

ô đối với người dưới 16 tuổi

Có thể thấy trong thời gian vừa qua để kịp thời phòng ngừa, đấu tranh

với loại tội phạm xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi, Cơ quan có thẩm quyền

nước ta đã ban hành nhiều văn bản hướng dân về nhóm tội này trong đó có tội

dâm ô người dưới 16 tuổi mà tiêu biểu nhất là Nghị quyết số 06/2019/NQ-

HĐTP ngày 20/9/2019 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC; Thông tư số

02/2018/TT-TANDTC ngày 21/9/2018 quy định chi tiết việc xét xử vụ án hình

sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa

Gia đình và người chưa thành niên….đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc

đấu tranh đối với loại tội này. Do đó:

- Thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm, tăng cường công tác tổng kết

thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật về nhóm tội xâm

49

phạm tình dục và xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi nói riêng.

Có thể nói, với việc Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019

hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự (Nghị quyết 06/2019),

của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được ban hành và có hiệu lực

pháp luật đã tháo gỡ rất nhiều vướng mắc trong thực tiễn xét xử đối với nhóm

tội xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi. Tuy nhiên, tác giả kiến nghị trong

thời gian tới, nhà làm luật cần tiếp tục hướng dẫn, làm rõ một số nội dung được

thể hiện trong Nghị quyết theo hướng:

Thứ nhất, về khái niệm dâm ô:

Nhà làm luật sử dụng phương pháp liệt kê những hành vi được coi là dâm

ô, Nghị quyết đã sử dụng tới 04 dấu chấm lửng (…). Việc liệt kê các hành vi

dâm ô thì khó có thể đầy đủ bởi hành vi dâm ô thể hiện hết sức đa dạng và việc

nhà làm luật sử dụng các thuật ngữ “bộ phận, vùng nhạy cảm” sẽ dẫn đến các

cách hiểu khác nhau.

Do vậy, tác giả kiến nghị nhà làm luật cần xây dựng lại khái niệm dâm ô

theo hướng:

+ Hành vi dâm ô là hành vi có tính chất tình dục của người nào đó đối

với người khác nhằm kích thích tính dục, thỏa mãn nhu cầu tình dục của người

đó nhưng không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành

vi quan hệ tình dục khác với người khác.

+ Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 146 BLHS 2015

cần được hiểu là hành vi có tính chất tình dục của người đủ 18 tuổi trở lên đối

với người dưới 16 tuổi nhằm kích thích tính dục, thỏa mãn nhu cầu tình dục của

mình nhưng không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các

hành vi quan hệ tình dục khác với nạn nhân.

- Thứ hai: Cần giải thích hoặc làm rõ khái niệm “có tính chất tình dục”

trong quy định tại khoản 3 Điều 3 Nghị quyết: “3. Dâm ô quy định tại khoản 1

50

Điều 146 của Bộ luật Hình sự là… có tính chất tình dục nhưng không nhằm

quan hệ tình dục, gồm một trong các hành vi sau đây…” là như thế nào? Ví dụ:

theo tác giả có thể làm rõ hướng dẫn trên theo hướng: “3. Dâm ô quy định

tại....có tính chất tình dục (để thỏa mãn nhu cầu tình dục của người đó) nhưng

không nhằm quan hệ tình dục, gồm...” để xác định ranh giới giữa tội dâm ô và

hành vi tội phạm, vi phạm khác.

+ Tại Điều 5 của Nghị quyết quy đinh về “Các trường hợp loại trừ xử lý

hình sự”.

Theo tác giả quy định này có một số điểm chưa hợp lý như sau:

+ Về tên gọi của Điều luật là “Các trường hợp loại trừ xử lý hình sự”:

Căn cứ khái niệm dâm ô có thể thấy để cấu thành tội phạm thì hành vi của chủ

thể phải có tính chất tình dục; ngược lại, những hành vi tiếp xúc với bộ phận

sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác của người dưới 16 tuổi nhưng không

có tính chất tình dục thì không phải là tội phạm.

Do vậy, trường hợp này đương nhiên không bị xử lý hình sự, nhưng với

tên gọi tại Điều 5 dễ tạo ra cách hiểu trường hợp này có thể sẽ phải xử lý bằng

các biện pháp khác.

+ Về nội dung của Điều luật: Theo những hướng dẫn của Nghị quyết

06/2019 thì để xử lý hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi phải thỏa mãn

đồng thời: Có hành vi tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần

áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người

dưới 16 tuổi và hành vi này phải có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan

hệ tình dục, để thỏa mãn nhu cầu tình dục của bản thân.

Tuy nhiên, nội hàm quy định tại khoản 1 Điều 5 là không cần đặt ra vì

nếu một người có hành vi về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo

vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người

51

dưới 16 tuổi nhưng không có tính chất tình dục (đương nhiên không nhằm quan

hệ tình dục) thì cũng không cấu thành tội dâm ô, do vậy TNHS không đặt ra.

Do vậy, Điều 5 không cần thiết phải đặt ra quy định loại trừ này.

+ Ngoài ra, hiểu thế nào là “Người trực tiếp chăm sóc, giáo dục người

dưới 10 tuổi?”, phạm vi áp dụng với những người này gồm những ai? đối tượng

có bao gồm cả trẻ sơ sinh..., việc xác định “người bệnh”, “người tàn tật” là như

thế nào?

Do vậy, tác giả kiến nghị cần sửa đổi Điều 5 Nghị quyết theo hướng (nếu

giữ quy định về nội dung này):

“Điều 5. Các trường hợp không xem xét, xử lý hình sự

1. Không đặt ra việc xem xét, xử lý hình sự theo quy định tại Điều 146

của Bộ luật Hình sự nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây, trừ trường

hợp có căn cứ xác định hành vi của những người này có tính chất tình dục đối

với người dưới 16 tuổi:

a) Người trực tiếp chăm sóc, giáo dục người dưới 10 tuổi, người bệnh,

người tàn tật, có hành vi tiếp xúc với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của

họ (ví dụ: cha, mẹ tắm rửa, vệ sinh cho con dưới 10 tuổi; giáo viên mầm non

tắm rửa, vệ sinh cho trẻ mầm non...);

b) Người làm công việc khám, chữa bệnh, chăm sóc y tế; người cấp cứu,

sơ cứu người bị nạn, hoặc người có hành vi, công việc có tính chất tương tự, có

hành vi tiếp xúc với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác của

người dưới 16 tuổi (ví dụ: bác sĩ khám, chữa bệnh cho bệnh nhân; sơ cứu, cấp

cứu người bị tai nạn, người bị đuối nước...)…”.

Trong đó, nhà làm luật cần hướng dẫn cụ thể: người bệnh, người tàn tật

quy định tại khoản này được xác định trên cơ sở những tiêu chuẩn nào.

- Thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm, tăng cường công tác tổng kết

52

thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và phát triển án lệ về

nhóm tội xâm phạm tình dục và xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi nói

riêng.

3.2.3. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức

nghề nghiệp của người tiến hành tố tụng thành phố Hồ Chí Minh

Yếu tố con người là một trong những điều kiện hàng đầu, quan trọng nhất

để đảm bảo pháp luật được thi hành, áp dụng một cách thống nhất, chính xác,

không làm oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm. Là yếu tố xuyên suốt trong việc

đảm bảo áp dụng đúng pháp luật trong việc đấu tranh phòng chống tội dâm ô

đối với người dưới 16 tuổi.

Do vậy, việc nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo

đức nghề nghiệp của người tiến hành tố tụng thành phố Hồ Chí Minh có vai trò

vô cùng quan trọng.

- Cần thường xuyên tổ chức lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ đặc biệt

là bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu về nhóm tội phạm xâm hại tình dục người

dưới 16 tuổi, trong đó có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi về quy định

của pháp luật, về kỹ năng làm việc, tiếp xúc, giao tiếp với đối tượng bị xâm hại

là người dười 16 tuổi. Tiếp tục đẩy mạnh và thực hiện tốt việc: Xây dựng tài

liệu tập huấn chuyên sâu BLHS (chi tiết từng điều luật) phổ biến đến người tiến

hành tố tụng; Tổ chức các Hội nghị tập huấn trực tuyến kết hợp với trao đổi,

giải đáp vướng mắc của các địa phương về việc thực hiện các đạo luật mới được

Quốc hội thông qua.

- Bộ Công an và Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần phối hợp xây dựng

cuốn “Cẩm nang điều tra đối với vụ án, vụ việc xâm hại tình dục người dưới 16

tuổi”. Tòa án nhân dân tối cao cần nghiên cứu, xây dựng cuốn “Cẩm nang

hướng dẫn kỹ năng giải quyết các vụ án có người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng”

53

để trang bị cho Thẩm phán, cán bộ Tòa án.

- Bản thân mỗi người tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên,

Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân) cần tự trau dồi kỹ năng, kinh nghiệm và tự rèn

luyện phẩm chất đạo đức để đáp ứng yêu cầu của công tác điều tra, truy tố, xét

xử các loại tội phạm xâm hai tình dục nói chung và tội xâm hại tình dục người

dưới 16 tuổi nói riêng.

3.2.4. Giải pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật

- Các cơ quan có thẩm quyền cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo

dục, phổ biến pháp luật; thông báo phương thức, thủ đoạn hoạt động của đối

tượng xâm hại tình dục, nâng cao nhận thức cho nhân dân, đặc biệt là phụ nữ,

trẻ em có khả năng nhận diện, cảnh giác, kịp thời phát hiện, ngăn chặn các hành

vi xâm hại phụ nữ, trẻ em, đặc biệt là các hành vi xâm hại tình dục trẻ em; có

biện pháp hỗ trợ vật chất cho các em có hoàn cảnh khó khăn.

- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật liên

quan đến bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Chủ động trao đổi, cung cấp các thông tin,

quá trình xử lý và kết quả giải quyết trường hợp trẻ em bị bạo lực, xâm hại, xâm

hại tình dục, đặc biệt là các trường hợp được phát hiện thông qua công tác

phòng, chống tội phạm.

Chủ động phát hiện, cung cấp thông tin về hành vi xâm hại tình dục nói

chung và xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi nói riêng để cơ quan chức năng

kịp thời xử lý nghiêm những hành vi xâm hại tình dục trước pháp luật.

- Áp dụng các biện pháp nghiệp vụ tiến hành điều tra, xử lý nghiêm, đúng

quy định của pháp luật các hành vi xâm hại tình dục; chủ động rà soát hồ sơ, xử

lý dứt điểm các vụ việc xâm hại tình dục nói chung và xâm hại tình dục người

dưới 16 tuổi nói riêng đang tồn đọng; kiên quyết xử lý nghiêm các tổ chức, cá

nhân có hành vi bao che, chậm trễ, cố tình kéo dài hoặc không xử lý các vụ xâm

hại tình dục.

54

3.2.5. Một số giải pháp khác

- Về chuyên môn, nghiệp vụ:

+ Đối với Cơ quan điều tra: Đối với các vụ xâm hại tình dục, nhất là xâm

hại tình dục người dưới 16 tuổi đã xảy ra, cần tập trung lực lượng xác minh, thu

thập tài liệu, củng cố chứng cứ, khởi tố điều tra, kết luận; phối hợp với Viện

Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân cùng cấp khẩn trương điều tra, truy tố, xét

xử thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

+ Đối với Viện Kiểm sát nhân dân: Thực hành quyền công tố, kiểm sát

các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra, bảo đảm việc điều tra được thực

hiện theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật; tiếp nhận hồ sơ các vụ

án để truy tố. Việc truy tố phải đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để

oan, sai, bỏ lọt tội phạm đối với các vụ án xâm hại tình dục trẻ em. Chỉ đạo

Viện kiểm sát nhân dân quận, huyện tiếp nhận, giải quyết kịp thời, xử lý nghiêm

các vụ xâm hại tình dục, trong đó có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi;

rà soát hồ sơ các vụ xâm hại tình dục để xử lý dứt điểm, không để tồn đọng,

kéo dài.

+ Đối với Tòa án nhân dân: Thực hiện chức năng xét xử và chỉ đạo Tòa

án nhân dân huyện, quận xét xử các vụ xâm hại tình dục, bảo đảm thực hiện

đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, xử lý nghiêm, đúng người,

đúng tội, không để oan, sai, bỏ lọt tội phạm.

Cần tăng cường công tác đào tạo, hướng dẫn nghiệp vụ xét xử đối với

đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đối với công tác xét xử các tội xâm

phạm tình dục người dưới 16 tuổi trong đó có tội dâm ô đối với người dưới 16

tuổi đối với TAND hai cấp Thành phố Hồ Chí Minh.

Triển khai Đề án trang thiết bị cho phòng xử án, trong đó có phòng xử

án và giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa Gia đình và người chưa

thành niên. Nghiên chỉ đạo TAND các cấp tiếp nhận, giải quyết kịp thời, xử lý

55

nghiêm các vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em; rà soát hồ sơ, vụ việc bạo lực, xâm

hại trẻ em để xử lý dứt điểm, không để tồn đọng, kéo dài; chủ trì, phối hợp với

các bộ, ngành có liên quan sớm ban hành văn bản hướng dẫn việc áp dụng thống

nhất pháp luật đối với các điều của BLHS quy định về xâm hại tình dục trẻ em

để giải quyết vướng mắc trong công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội

phạm này.

- Công tác phối hợp giữa cơ quan tiến hành tố tụng:

+ Các cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp tích cực phối hợp, trao đổi

thông tin nhằm giải quyết vướng mắc trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử

tội phạm xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi, trong đó có tội dâm ô đối với

người dưới 16 tuổi. Trường hợp không thống nhất được quan điểm, hướng xử

lý thì báo cáo cơ quan cấp trên để kịp thời chỉ đạo, tháo gỡ vướng mắc.

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử , nếu cơ quan nào phát sinh

khó khăn, vướng mắc thì có văn bản gửi các cơ quan còn lại đề nghị phối hợp

giải quyết kịp thời, bảo đảm thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

+ Phối hợp tổ chức họp liên ngành về việc thực hiện quy chế phối hợp

trong điều tra, truy tố, xét xử tội phạm xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi.

- Cơ quan có thẩm quyền cần tiếp nhận, giải quyết kịp thời, xử lý nghiêm

các vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em; rà soát hồ sơ, vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ

em để xử lý dứt điểm, không để tồn đọng, kéo dài. Sớm ban hành văn bản hướng

dẫn việc áp dụng thống nhất pháp luật đối với các điều của Bộ luật hình sự quy

định về xâm hại tình dục trẻ em để giải quyết vướng mắc trong công tác điều

tra, truy tố, xét xử đối với loại tội phạm này.

Tiểu kết chương 3

Thông qua Chương 3 của luận văn tác giả đã phân tích và đưa ra một số

yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng quy định pháp luật hình sự về tội dâm ô đối với

56

người dưới 16 tuổi như: Yêu cầu nguyên tắc chế xã hội chủ nghĩa; yêu cầu bảo

vệ quyền con người, quyền của trẻ em; yêu cầu của công tác đấu tranh, phòng

chống tội phạm và khắc phục oan sai trong giai đoạn hiện nay; yêu cầu của hội

nhập quốc tế.

Trên cơ sở đó và kết quả phân tích tại Chương 2 của luận văn tác giả đã

đưa ra một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định pháp luật hình sự về

tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi như: Hoàn thiện quy định pháp luật về tội

dâm ô đối với người dưới 16 tuổi; tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng

pháp luật về tôi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi; nâng cao năng lực, trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp của người tiến hành tố tụng thành

phố Hồ Chí Minh; giải pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật và một số giải

pháp khác.

Kết quả nghiên cứu trên nhằm góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng

của công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với nhóm xội xâm phạm tình dục nói

chung và tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi nói riêng trong thời gian tới trên

57

địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

KẾT LUẬN

Xuyên suốt 03 Chương của luận văn thạc sỹ, tác giả đã phân tích khoa

học để làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử tội dâm ô đối với

người dưới 16 tuổi, cũng như đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố

Hồ Chí Minh, Cụ thể:

Tại Chương 1 của luận văn tác giả đã phân tích những vấn đề lý luận và

pháp luật về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi như: Khái niệm, dấu hiệu

pháp lý, phân biệt tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi với một số tội phạm

tình dục khác cũng như khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội dâm

ô đối với người dưới 16 tuổi từ năm 1945 đến nay.

Tại Chương 2 của luận văn, tác giả đã phân tích, đánh giá một cách khái

quát tình hình xét xử tội dâm ô người dưới 16 tuổi trên địa bàn thành phố Hồ

Chí Minh, trong giai đoạn từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2020. Kết quả nghiên

cứu cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được thì thực tiễn xét xử vẫn còn một

số thiếu sót. Đây là cơ sở để tác giả kiến nghị một số giải pháp nhằm đảm bảo

áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội dâm ô đối với người dưới

16 tuổi.

Tại Chương 3 của luận văn tác giả đã phân tích và đưa ra một số yêu cầu

bảo đảm áp dụng đúng quy định pháp luật hình sự về tội dâm ô đối với người

dưới 16 tuổi và một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định pháp luật hình

sự về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. Kết quả nghiên cứu trên nhằm góp

phần nâng cao chất lượng của công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với nhóm

xội xâm phạm tình dục nói chung và tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi nói

58

riêng trong thời gian tới trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên, luận văn được nghiên cứu trong bối cảnh nhiều văn bản pháp

luật hình sự và tố tụng hình sự liên quan đến các tội xâm phạm tình dục người

dưới 16 tuổi nói chung và tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi nói riêng, trong

khi kinh nghiệm và kỹ năng của tác giả còn hạn chế, do vậy luận văn không

tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình triển khai.

Vì vậy, tác giả luận văn rất mong được sự quan tâm, góp ý của quý thầy

cô, các bạn đồng nghiệp đề luận văn được hoàn thiện hơn, thực sự là một công

trình khoa học có đóng góp nhất định về mặt lý luận và thực tiễn, đặc biết là

59

việc ứng dụng vào thực tiễn của thành phố Hồ Chí Minh./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Hải Anh (2017), Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con

người theo pháp luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Học viện khoa học xã

hội, Hà Nội.

2. Trần Văn Biên, Đinh Thế Hưng (2017) Bình luận khoa học Bộ luật

hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Thế giới, Thành phố Hồ

Chí Minh.

3. Thủ tướng Chính phủ (2017), Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 16/5/2017

của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường giải pháp phòng, chống bạo lực, xâm

hại trẻ em”, Hà Nội.

4. Nguyễn Đình Cương (2015), Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự

của con người theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn

tỉnh Đắk Lắk), Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội,

Hà Nội.

5. Chủ tịch nước (1945), Sắc lệnh số 47-SL ngày 10/10/1945, Hà Nội.

6. Chủ tịch nước (1945), Sắc lệnh số 07/SL ngày 05/9/1945, Hà Nội

7. Trần Văn Luyện (2018), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015

(sửa đổi, bổ sung năm 2017), phần các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà

Nội.

8. Trần Văn Luyện (2001), Những điểm mới cơ bản về các tội xâm phạm

tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người trong Bộ luật hình sự

năm 1999, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3, Hà Nội.

9. Nguyễn Thành Long (2017), Tội dâm ô đối với trẻ em trong pháp luật

hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà

Nội.

10. TS. Nguyễn Đức Mai “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự hiện hành,

sửa đổi, bổ sung năm 2017”, NXB Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội – 2018.

11. Hồ Thị Nhung (2014), Các tội xâm hại tình dục trẻ em – Quy định

của pháp luật hình sự Việt Nam và nghiên cứu và so sánh với một số nước,

Luận văn thạc sĩ luật học trường Đại học Quốc gia, Hà Nội.

12. Đinh Văn Quế (2018), Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015, Phần

thứ hai – Các tội phạm, Chương XIV Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,

nhân phẩm, danh dự của con người, NXB Thông tin và truyền thông, Tr.292.

13. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

14. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

15. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội .

16. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội .

17. Quốc hội (2016), Luật trẻ em, Hà Nôi.

18. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội

19. Nguyễn Minh Hương (2014): “Các tội xâm hại tình dục trẻ em trong

Luật hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa luật, Đại học Quốc

gia Hà Nội.

20. Trịnh Thị Thu Hương (2004), Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong

Luật hình sự Việt Nam và đấu tranh phòng chống loại tội phạm này, Luận văn

thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

21. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam,

NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2000, tr. 331.

22. Trường Đại học luật HN (2018), Giáo trình Luật hình sự VN, phần

các tội phạm (quyển 1), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

23. Tòa án nhân dân tối cao (1967), Bản tổng kết của Tòa án nhân dân

tối cao số 329/HS2 ngày 11/5/1967, Hà Nội.

24. Trường đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình luật hình sự Việt Nam,

tập 1, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

25. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP

ngày 01/10/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn

áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, Hà Nội.

26. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo tổng kết từ năm

2015 đến tháng 6/2020, Tp. Hồ Chí Minh.

27. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Bản án hình sự phúc thẩm

số 179/2017/HSPT ngày 20/04/2017, Tp. Hồ Chí Minh.

28. Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Bản án hình sự

sơ thẩm số 22/2017/HSST ngày 18/01/2017, Tp. Hồ Chí Minh.

29. Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Bản án hình sự sơ thẩm số

115/2018/HS-ST ngày 17/07/2018, Tp. Hồ Chí Minh.

30. Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Bản án hình sự sơ thẩm số

26/2020/HSST ngày 18/6/2020 của, Tp. Hồ Chí Minh.

31. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Bản án hình sự phúc thẩm

số 147/2018/HS-PT, ngày 03/4/2018, Tp. Hồ Chí Minh.

32. Tòa án nhân dân quận B, thành phố Hồ Chí Minh, Bản án hình sự số

28/2015/HSST ngày 26/12/2015, Tp. Hồ Chí Minh.

33. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Bản án hình sự phúc thẩm

số 64/2018/HS-PT ngày 19/9/2018, Tp. Hồ Chí Minh.

34. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Bản án hình sự phúc thẩm

số 18/2016/HSPT ngày 01/8/2016, Tp. Hồ Chí Minh.

35. GS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2014), Giáo trình luật hình sự Việt

Nam - Phần các tội phạm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

36. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt 2000, Nxb. Đà Nẵng.

37. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Hán Việt 2000, Nxb. Đà Nẵng.

38. Hồ Sỹ Sơn (2018), Giáo trình Luật So Sánh, Học viện Khoa học Xã

hội, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.

39.http://csnd.vn/Home/Nghien-cuu-Trao-doi/4249/Dac-diem-Nguyen-

Nhan-va-Giai-phap-phong-ngua-xam-hai-tinh-duc-tre-em-o-nuoc-ta-hien-nay.

40.https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/toi-dam-o-nguoi-duoi-16-

tuoi-ly-luan-va-thuc-tien.