VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HỒNG TÂM
TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HỒNG TÂM
TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 838. 01. 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN NGỌC HÀ
HÀ NỘI, năm 2020
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác xây dựng hoàn thiện pháp luật nói chung là một nhiệm vụ chiến
lược của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân ở nước ta. Trong đó hoàn thiện Bộ luật hình sự (BLHS) là
một trong những nhiệm vụ được đặt lên hàng đầu của Đảng và Nhà nước nhằm đáp
ứng các yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp đề ra và cũng là để đáp ứng yêu cầu
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, hội nhập quốc tế và bảo vệ quyền con
người, quyền công dân.
Nhằm thể chế hóa chủ trương trên, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội Khóa XIII
(ngày 27 tháng 11 năm 2015) Quốc hội đã thông qua BLHS năm 2015. Tại kỳ họp
thứ 3 Quốc hội khóa XIV ngày 20 tháng 6 năm 2017, Quốc hội đã chính thức thông
qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 và có hiệu lực ngày 01
tháng 01 năm 2018, hợp nhất hai văn bản nói trên đó là BLHS năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017) sau đây được gọi chung là (BLHS hiện hành). BLHS hiện hành
đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong tiến trình hoàn thiện pháp luật hình sự của
Nhà nước ta, tạo cơ sở pháp lý hữu hiệu trong áp dụng pháp luật hình sự, đáp ứng
yêu cầu của thực tiễn đang đặt ra và bảo đảm hiệu quả phòng ngừa và đấu tranh
chống các loại tội phạm trong đó có tội phạm về ma túy.
Các tội phạm về ma túy được quy định tại Chương XX BLHS năm 2015 với
13 Điều. Bên cạnh việc kế thừa các quy định của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung
2009), BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung để phù hợp hơn với thực tiễn đấu tranh
phòng, chống các tội phạm về ma túy trong tình hình mới. Mặc dù vậy, thực tiễn
đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy nói chung, tội mua bán trái phép
chất ma túy (MBTPCMT) nói riêng vẫn còn tồn tại những bất cập, hạn chế gây khó
khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự.
Những khó khăn, vướng mắc trên xuất phát từ những quy định về tội
MBTPCMT còn thiếu văn bản hướng dẫn hoặc hướng dẫn chưa cụ thể, kịp thời về áp
dụng pháp luật đối với tội phạm này. Bên cạnh đó, thực tiễn áp dụng pháp luật về tội
1
MBTPCMT luôn đa dạng, phức tạp trong khi năng lực, trình độ chuyên môn, bản lĩnh
chính trị, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thực thi,
bảo vệ pháp luật còn chưa theo kịp thực tiễn, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác.
Xuất phát từ yêu cầu xây dựng và hoàn thiện pháp luật đáp ứng thực tiễn
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm nói chung, đấu tranh phòng, chống tội
phạm về ma túy nói riêng và đặc biệt là những diễn biến khá phức tạp của tình hình
tội MBTPCMT tại thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019,
thì việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện BLHS năm 2015 trong đó có tội
MBTPCMT phải được quan tâm thực hiện. Từ những lý do trên, tác giả chọn vấn
đề “Tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm
Luận văn Thạc sĩ luật học. Trên cơ sở đó, để có sự nhìn nhận khách quan, toàn diện
về những vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật hình sự, từ đó đưa ra
một số kiến nghị, đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật và
nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với tội MBTPCMT
trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tội MBTPCMT là tội phạm phổ biến và có tính chất nguy hiểm nhất trong
số các loại tội phạm về ma túy ở Việt Nam hiện nay. Liên quan đến những vấn đề lý
luận và pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng các tội phạm về ma tuý nói chung, tội
MBTPCMT nói riêng đã có nhiều công trình khoa học công bố ở Việt Nam với
những mức độ và cách tiếp cận khác nhau. Khái quát về tình hình nghiên cứu có
liên quan đến luận văn, có thể kể đến những công trình tiêu biểu như:
Các tài liệu trên chủ yếu đề cập đến một số vấn đề lý luận về các dấu hiệu
pháp lý của tội MBTPCMT và các quy định của BLHS về tội này, tuy nhiên chưa
đề cập đến thực tiễn áp dụng pháp luật và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tội
MBTPCMT. Luận văn đã kế thừa một số vấn đề được nêu trong các giáo trình, sách
chuyên khảo, tham khảo để cũng cố phần lý luận về tội MBTPCMT, đồng thời kế
thừa một vài quan điểm của các tác giả trong các Bình luận khoa học BLHS để cũng
cố kỹ hơn về dấu hiệu pháp lý của tội phạm này.
2
Vì vậy, việc nghiên cứu sâu hơn những quy định về tội MBTPCMT trong
Luật hình sự Việt Nam, đồng thời phân tích đánh giá thực trạng giải quyết các vụ án
về tội MBTPCMT thông qua số liệu thực tiễn xét xử tại địa bàn thành phố Đà Nẵng
giai đoạn 2015 - 2019 là cần thiết và có ý nghĩa đối với công tác phòng ngừa và đấu
tranh chống tệ nạn ma túy và tội phạm về ma túy, nhằm chỉ ra những hạn chế, bất
cập, đồng thời đề xuất một số giải pháp và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật hình sự về tội MBTPCMT góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
hình sự đối với tội MBTPCMT trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, còn có nhiều bài báo khoa học, bài viết chuyên sâu. Các bài viết
này, ở một góc độ nào đó chỉ nghiên cứu về lý luận và thực tiễn một số vấn đề có liên
quan đến tội MBTPCMT, tình hình công tác phòng ngừa, đấu tranh và TNHS đối với
loại tội này… chưa làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội MBTPCMT một
cách toàn diện. Khi thực hiện Luận văn, tác giả đã tiếp thu một số quan điểm của các
tác giả trên để cũng cố về những điểm bất cập, hạn chế và định hướng kiến nghị hoàn
thiện pháp luật về tội phạm này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng;
- Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự và bảo đảm
áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự đối với tội MBTPCMT trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật về tội MBTPCMT theo
pháp luật hình sự Việt Nam;
- Nghiên cứu, khảo sát thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự
về tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 – 2019;
- Làm rõ những kết quả đạt được; nêu ra những tồn tại, hạn chế và nguyên
nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội
mua bán trái phép chất ma túy;
3
- Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự và bảo đảm
áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự đối với tội MBTPCMT trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua
bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Tập trung nghiên cứu hoạt động áp dụng pháp luật hình sự
Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma túy trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
- Về địa bàn: Luận văn được thực hiện trong phạm vi thành phố Đà Nẵng.
- Về thời gian: Từ năm 2015 đến 2019.
- Về chủ thể: Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phòng,
chống tội phạm nói chung, tội phạm về ma túy nói riêng. Các luận điểm chung của
khoa học pháp lý nói chung và khoa học pháp lý luật hình sự nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, tác giả còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu điển
hình như: Phân tích, tổng hợp; nghiên cứu điển hình, cụ thể là:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được kết hợp hài hòa, sử dụng xuyên suốt
trong luận văn, dùng để phân tích, phân loại, hệ thống hóa các thông tin khoa học thu
thập được từ các văn bản pháp luật, tài liệu, bản án có liên quan đến nội dung của
luận văn, từ đó rút ra các kết luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Bên cạnh đó tác
giả còn sử dụng phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm được sử dụng để
nghiên cứu, tiếp thu một số quan điểm của các tác giả trong một số công trình khoa
4
học đã được công bố, từ đó kế thừa những nội dung phù hợp, hữu ích cho luận văn.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Dùng để lựa chọn, sàng lọc và tiến hành
nghiên cứu một số bản án (trong toàn bộ bản án), tìm ra những bản án còn thiếu sót, bất
cập trong thực tế. Kết quả thu được dùng để đánh giá chung thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự về tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn năm 2015 - 2019.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung, phát triển lý luận của
khoa học pháp lý hình sự nói chung, hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự
hiện hành đối với tội MBTPCMT nói riêng. Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa như
là một tài liệu tham khảo, được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, học tập cho các học
sinh, sinh viên chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự tại các cơ sở giáo dục,
đào tạo luật trên cả nước.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những đề xuất, kiến nghị của luận văn góp phần cung cấp những luận cứ
khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng BLHS hiện
hành liên quan đến tội MBTPCMT, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu thành 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội mua bán trái phép chất
ma túy.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán
trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình
sự và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tội mua bán trái phép chất ma túy.
5
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
1.1. Những vấn đề lý luận về tội mua bán trái phép chất ma túy trong
pháp luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm tội mua bán trái phép chất ma túy
1.1.1.1. Khái niệm chất ma túy
Danh từ “ma túy” được đề cập nhiều trên hệ thống thông tin đại chúng và
trong đời sống xã hội. Tuy nhiên hiện nay, trên thế giới và trong nước chưa có một
khái niệm thống nhất về “ma túy” và “chất ma túy”.
Tại Việt Nam, có nhiều tài liệu đề cập đến khái niệm “ma túy” hoặc “chất ma
túy” dưới nhiều góc độ khác nhau như: “Ma túy là tên gọi chung các chất kích
thích, gây trạng thái ngây ngất, đờ đẫn, dùng quen thành nghiện như thuốc phiện,
Hêrôin” [79, tr.994]. “Ma tuý là hợp chất khi đưa vào cơ thể sống có tác dụng làm
thay đổi một hay nhiều chức năng của cơ thể” [70, tr.406].
Theo tác giả Hoàng Thị Bích Ngọc, Nguyễn Như Chiến thì “Ma túy là những
chất tự nhiên hay tổng hợp làm ức chế, kích thích thần kinh hoặc gây ảo giác, gây
ra những biến đổi về tâm sinh lý và thể chất, nếu sử dụng nhiều lần sẽ gây ra tính lệ
thuộc đối với người sử dụng và được quy định trong các Danh mục do Chính phủ
ban hành” [36, tr.8].
Theo GS, TS Nguyễn Xuân Yêm thì “Ma túy là các chất có nguồn gốc tự
nhiên hoặc tổng hợp, khi được đưa vào cơ thể con người, nó có tác dụng làm thay
đổi trạng thái ý thức và sinh lý của người đó. Nếu lạm dụng ma túy, con người sẽ bị
lệ thuộc vào nó, khi đó gây tổn thương và nguy hại cho người sử dụng và cộng
đồng” [93, tr.14].
Khoản 1 Điều 2, Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung
2008) quy định: “Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy
định trong các Danh mục do Chính phủ ban hành” [47. tr, 1], qua đó cho thấy rằng
6
cụm từ “chất ma túy” được định nghĩa và giải thích gián tiếp qua các khái niệm chất
gây nghiện và chất hướng thần.
Có thể thấy rằng các nhà làm luật khi đưa ra khái niệm về “ma túy” hay “chất
ma túy” đã có nhiều cách tiếp cận, lý giải khác nhau, nhưng chưa thống nhất cách
gọi tên “ma túy” hay “chất ma túy” đồng thời nội hàm khái niệm cũng chưa có sự
thống nhất. Tuy nhiên, các quan điểm nêu trên đã đưa ra được thuộc tính chung nhất
của “ma túy” hay “chất ma túy” đó là tính chất gây nghiện, chất hướng thần có
nguồn gốc tự nhiên hay tổng hợp, được quy định trong các Danh mục chất ma túy
do Chính phủ ban hành.
Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm trên, tác giả đưa ra khái niệm chất ma
túy như sau: Chất ma túy là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác có
nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, được quy định trong các Danh mục do Chính
phủ ban hành, các chất này khi xâm nhập vào cơ thể người sẽ làm thay đổi trạng
thái ý thức và sinh lý của người đó. Nếu lạm dụng, người sử dụng sẽ lệ thuộc vào
ma túy, khi đó sẽ gây tác hại về nhiều mặt cho chính bản thân họ và có thể gây ra
những hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
1.1.1.2. Khái niệm tội mua bán trái phép chất ma túy
Ngoài quy định chi tiết tại Mục 3, Phần II, Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT ngày 24/12/2007 quy định về việc hướng dẫn áp dụng một số quy
định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của BLHS năm 1999 (gọi tắt là
Thông tư 17). Đến nay đã có nhiều tài liệu khác nhau đưa ra cách giải thích về từ
“mua” và từ “bán” hay cả cụm từ “mua bán”. Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng
năm 1997 thì “mua là dùng tiền bạc đổi hàng hóa, vật chất, danh lợi” [91, tr.657]
“bán là đem đổi vật dụng cho người khác để lấy tiền về, “mua bán” là mua và bán,
trao đổi hàng hóa nói chung” [91, tr.47].
Khi định nghĩa về tội phạm này, một số nhà chuyên tâm nghiên cứu đã đưa ra
các quan điểm như: Tác giả Lê Cảm cho rằng: “Hành vi mua bán trái phép chất ma túy
là hành vi trao đổi trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào” [9, tr.473]
Theo tác giả Trần Mạnh Hà: “Mua bán trái phép chất ma túy là hành vi bán
7
trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc nguồn gốc ma túy do đâu
mà có) hoặc hành vi trao đổi ma túy như một hàng hóa có giá trị” [25, tr.17].
Còn thạc sĩ Lê Nguyễn Minh Tâm thì: “Mua bán trái phép chất ma túy là
hành vi bán trái phép chất ma túy hoặc nhằm bán trái phép chất ma túy cho người
khác” [55, tr.10]
Như vậy, nhìn chung các nhà khoa học và nhà làm luật có hai quan điểm khác
nhau về tội MBTPCMT: Một là, nêu một cách chung chung chưa thể hiện rõ nội hàm
của tội phạm này, nên chưa thể xác định được các hành vi phạm tội một cách chính
xác. Hai là, được nêu lên theo cách liệt kê các hành vi cụ thể để cấu thành tội phạm
(CTTP) theo quy định của Thông tư 17 làm cho khái niệm tội MBTPCMT trở nên dài
dòng hoặc rời rạc, chưa kết nối được các nội dung lại với nhau.
Qua việc nghiên cứu, kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những quan điểm đó, tác
giả xin đưa ra khái niệm về tội MBTPCMT như sau:
“Mua bán trái phép chất ma túy là hành vi bán, trao đổi hoặc nhằm bán trái
phép chất ma túy cho người khác, hoặc hành vi tổ chức, thực hành, xúi giục, giúp
sức cho người khác trong việc bán, trao đổi chất ma tuý mà không cần xét đến
nguồn gốc chất ma tuý do đâu mà có”.
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội mua bán trái phép chất ma túy trong
luật hình sự Việt Nam
Thứ nhất, tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý các hành vi liên quan đến ma túy
mà các Công ước quốc tế đã đề cập, tạo nên sự thống nhất hợp lý trên cơ sở luật
pháp quốc tế với hệ thống pháp luật quốc gia để xử lý về hình sự đối với các hành
vi MBTPCMT. Tạo ra những điều kiện thuận lợi trong hợp tác quốc tế trên lĩnh vực
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm ma túy nói chung và tội phạm MBTPCMT
nói riêng, vì hầu hết các quốc gia đều có quy định về tội phạm ma túy trong đó có
tội MBTPCMT.
Thứ hai, góp phần hạn chế việc thực hiện các hành vi MBTPCMT trên thực
tế vì việc xử lý hình sự các hành vi này có tác dụng vừa giáo dục, cải tạo vừa trừng
phạt người phạm tội MBTPCMT để họ trở thành người tốt, đồng thời có tác dụng
8
răn đe những người có ý định phạm tội, chuẩn bị hoặc đang phạm tội từ bỏ con
đường phạm tội, những người đã phạm tội hạn chế hoặc không tái phạm.
Thứ ba, góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân trong việc chấp hành
pháp luật, mọi hành vi MBTPCMT đều là vi phạm pháp luật hình sự và phải bị xử
lý về hình sự, với những hình phạt nghiêm khắc đối với tội MBTPCMT sẽ làm cho
mọi người hiểu về tính chất nguy hiểm của các hành vi phạm tội này.
Thứ tư, việc xử lý về hình sự đối với các hành vi MBTPCMT sẽ đạt được mục
đích của việc phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Mục đích của việc đấu tranh
phòng, chống tội phạm là hạn chế, ngăn chặn, giảm bớt tội phạm; loại trừ tội phạm và
làm cho tình hình tội phạm ổn định [90]. Việc xử lý hình sự đối với tội phạm này sẽ
mang lại hiệu quả tích cực hơn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tóm lại, việc quy định tội MBTPCMT trong Luật hình sự Việt Nam là một
đòi hỏi khách quan và có tính tất yếu cả về lý luận và trong thực tiễn của đời sống
xã hội. Những quy định này không chỉ phản ánh trung thực các điều kiện kinh tế -
xã hội và thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ chính trị ở Việt Nam hiện nay, mà
còn thể hiện rõ quan điểm, quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta cũng như nỗ lực của
toàn thể dân tộc Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề phức tạp và cấp bách mang
tính toàn cầu: Tệ nạn ma túy và tội phạm mua bán trái phép chất ma túy.
1.1.3. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam quy định tội mua bán
trái phép chất ma túy
- Giai đoạn trước năm 1945
Những năm đầu thế kỷ thứ XIX, chính quyền Nhà Nguyễn quyết tâm diệt tận
gốc vấn nạn này và đã ban hành các chính sách “lấp nguồn, cạn dòng”. Tháng 6
năm 1873, trước tệ nạn nghiện thuốc phiện, buôn bán thuốc phiện ngày càng tăng.
Triều đình lại ban hành trở lại lệnh “Cấm thuốc nha phiến” nhưng những biện pháp
này đã không mang lại hiệu quả như mong muốn. Giai đoạn này chưa có sự quy
định rõ ràng, cụ thể về tội mua bán trái phép chất ma túy.
- Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi pháp điển
hóa Bộ luật hình sự năm 1985
9
Ngày 03/9/1945, trong phiên họp Chính phủ bàn về “Những nhiệm vụ cấp
bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
đạo “…Tôi đề nghị tuyệt đối cấm thuốc phiện” [94, tr.885].
Trải qua nhiều mốc thời gian, nhận thấy, trong giai đoạn này pháp luật hình sự
Việt Nam chưa được hệ thống hóa một cách chính thức. Các văn bản quy phạm
pháp luật đơn ngành không thể hiện được tính toàn diện, đầy đủ và thống nhất chính
sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong việc xử lý tội phạm về ma túy. Vì vậy,
việc ban hành một BLHS hoàn chỉnh, có tính hệ thống là vấn đề khách quan, bức
thiết và có ý nghĩa quan trọng và BLHS 1985 ra đời đáp ứng yêu cầu đó.
- Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi pháp
điển hóa Bộ luật hình sự năm 1999
BLHS 1985 đã bước đầu quy định về các tội ma túy, qua nhiều lần sửa đổi,
ngày 10/5/1997 Quốc hội tiếp tục thông qua Luật sửa đổi, bổ sung (lần thứ 4) một
số điều BLHS 1985. Lần này các tội phạm về ma túy được quy định thành một
Chương riêng đó là Chương VIIA: “Các tội phạm về ma túy” gồm 14 điều từ điều
185a đến Điều 185o quy định 13 tội danh. Trong đó “Tội mua bán trái phép chất
ma túy” quy định tại Điều 185đ.
Trong quá trình thực hiện BLHS 1985 vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, chưa
đáp ứng được tình hình hiện tại, yêu cầu cần phải nghiên cứu sửa đổi một cách toàn
diện. Vì vậy, ngày 21/12/1999, Quốc hội khóa X đã thông qua BLHS 1999, có hiệu
lực từ 0h ngày 01/07/2000. Theo đó, các tội phạm về ma túy được quy định tại
Chương XVIII, gồm 10 tội danh, từ Điều 192 BLHS đến Điều 201 BLHS [40].
10
- Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến trước khi pháp
điển hóa Bộ luật hình sự năm 2015
Ngày 03/6/2008 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Phòng, chống ma túy. Để áp dụng thống nhất quy định các tội
phạm về ma túy, ngày 24 tháng 12 năm 2007 Thông tư 17 ra đời. Đến ngày
14/11/2015 Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC sửa
đổi bổ sung một số điểm của Thông tư 17 (gọi tắt là Thông tư 08) quy định hướng
dẫn cụ thể việc áp dụng các Điều 194 nói riêng và Chương XVIII “Các tội phạm về
ma túy” nói chung của BLHS 1999. Các văn bản này đã hướng dẫn cụ thể, chi tiết
và toàn diện các quy định về tội phạm ma túy góp phần tháo gỡ nhiều vướng mắc
trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án ma túy.
Tuy nhiên tình hình tội phạm ma túy, nghiện ma túy tại Việt Nam còn nhiều
diễn biến phức tạp. Xuất hiện nhiều loại ma túy mới; việc buôn bán, vận chuyển,
sản xuất ma túy tổng hợp gia tăng; người sử dụng và người nghiện ma túy tổng hợp
tăng nhanh, nhất là trong thanh, thiếu niên và học sinh gây bức xúc trong xã hội,
đây là vấn đề toàn xã hội quan tâm, điều đó đã thôi thúc các nhà làm luật cần phải
xây dựng BLHS mới để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phù hợp với từng thời kỳ, chính
vì thế BLHS 2015 ra đời.
- Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 đến nay
Ngày 20/6/2017, các đại biểu Quốc hội đã tiến hành biểu quyết thông qua
Luật số 12/2017/QH14 (gọi chung là BLHS hiện hành) và có hiệu lực từ ngày
01/01/2018. Theo Bộ luật này, tội MBTPCMT được quy định riêng tại Điều 251 và
có nhiều điểm mới so với Điều 194 BLHS năm 1999 mà rõ ràng nhất là so với
BLHS 1999 là đã tách tội ghép quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999 về “Tội tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy” thành 04 tội riêng
biệt đó là: Tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” - Điều 249; Tội “Vận chuyển trái
phép chất ma túy” - Điều 250; Tội “Mua bán trái phép chất ma túy” - Điều 251 và
Tội “Chiếm đoạt chất ma túy” - Điều 252.
11
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép
chất ma túy
1.2.1. Quy định về tội mua bán trái phép chất ma túy trong Bộ luật hình sự
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Tội MBTPCMT được quy định riêng tại Điều 251 - Chương XX “các tội
phạm về ma túy” của BLHS hiện hành. Để có cách hiểu khái quát hơn về tội phạm
này, tác giả tập trung phân tích làm rõ 03 nội dung: Dấu hiệu định khung cơ bản;
dấu hiệu định khung tăng nặng và hình phạt.
- Dấu hiệu định khung cơ bản
Cấu thành cơ bản của tội MBTPCMT được quy định tại khoản 1, Điều 251,
chỉ cần thực hiện các hành vi mua bán trái phép chất ma túy (trường hợp phạm tội
không có các tình tiết là yếu tố định khung).
- Các dấu hiệu định khung tăng nặng
Định khung tăng nặng theo khối lượng và thể tích các chất ma túy:
12
Khung hình phạt
Khoản 4
Khoản 2
Khoản 3
Chất ma túy
(tù 20 năm,
(tù từ 07 năm
(tù từ 15 năm
tù chung thân
đến 15 năm)
đến 20 năm)
hoặc tử hình)
Nhựa thuốc phiện,
500 gam đến
01 kilôgam đến
05 kilôgam
nhựa cần sa
dưới 01 kilôgam
dưới 05 kilôgam
trở lên
hoặc cao côca
Heroine, Cocaine,
Methamphetamine,
05 gam đến
30 gam đến
100 gam
Amphetamine,
dưới 30 gam
dưới 100 gam
trở lên
MDMA
hoặc XLR-11
Lá cây côca;
lá khát (lá cây
Catha edulis);
10 kilôgam đến
25 kilôgam đến
75 kilôgam
lá, rễ, thân, cành, hoa,
quả của cây cần sa
dưới 25 kilôgam
dưới 75 kilôgam
trở lên
hoặc bộ phận của
cây khác có chứa
chất ma túy
50 kilôgam đến
200 kilôgam đến
600 kilôgam
Quả
thuốc phiện khô
dưới 200 kilôgam
dưới 600 kilôgam
trở lên
10 kilôgam đến
50 kilôgam đến
150 kilôgam
Quả
thuốc phiện tươi
dưới 50 kilôgam
dưới 150 kilôgam
trở lên
20 gam đến
100 gam đến
300 gam
Các chất ma tuý khác
ở thể rắn
dưới 100 gam
dưới 300 gam
trở lên
100 mililít đến
250 mililít đến
750 mililít
Các chất ma tuý khác
ở thể lỏng
dưới 250 mililít
dưới 750 mililít
trở lên
13
Ngoài các chất ma túy đã được quy định ở các khoản khác nhau của điều luật
như nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao côca, Heroine và Cocaine, Methamphetamine,
Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 thì còn lại các chất ma túy ở thể rắn đều thuộc
trường hợp các chất ma túy khác ở thể rắn. Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn
thế nào là chất ma túy khác ở thể rắn, vì vậy căn cứ vào quy định của BLHS chỉ quy
định hai loại thể lỏng và thể rắn, thế nên ngoài thể lỏng thì các chất ma túy còn lại
đều được coi là thể rắn và thường gặp ở dạng bột, tinh thể, viên, bánh…
Ngoài các dấu hiệu định khung tăng nặng theo định lượng nêu trên thì trong
các khoản của điều luật còn quy định các dấu hiệu định khung tăng nặng khác. Các
dấu hiệu định khung tăng nặng khác được quy định tại khoản 2 Điều 251 BLHS
hiện hành, cụ thể đó là: Có tổ chức; phạm tội 02 lần trở lên; đối với 02 người trở
lên; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; sử dụng
người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội hoặc bán ma tuý cho người dưới 16 tuổi; qua
biên giới; có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất
đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các
điểm từ điểm h đến điểm o khoản này; tái phạm nguy hiểm.
Bên cạnh đó còn có các dấu hiệu định khung tăng nặng theo khoản 3, 4 Điều
251 BLHS năm 2015. Hiện nay việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy
quy định tại các điểm p khoản 2, h khoản 3, 4 của Điều 251 BLHS hiện hành được
quy định cụ thể, chi tiết tại Điều 4, 5 của Nghị định 19/2018/NĐ-CP, ngày 02 tháng
02 năm 2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích
chất ma túy tại một số điều của BLHS năm 2015.
- Hình phạt
Điều 251 BLHS hiện hành quy định về tội MBTPCMT có 02 loại hình phạt,
đó là hình phạt chính và hình phạt bổ sung.
+ Hình phạt chính
Hình phạt chính tội MBTPCMT được chia làm 04 khung hình phạt:
14
Khung hình phạt Tội mua bán trái phép chất ma túy
Khoản 1 Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm
Khoản 2 Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm
Khoản 3 Phạt tù từ 15 năm đến 20 năm
Khoản 4 Phạt tù từ 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình
Như vậy, có thể nhận biết mức hình phạt thấp nhất của tội MBTPCMT là
phạt 02 năm tù và mức hình phạt cao nhất là tử hình.
+ Hình phạt bổ sung
Hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5, Điều 251, mức thấp nhất của
hình phạt bổ sung là 5.000.000 đồng và mức cao nhất là 500.000.000 đồng. Điều
luật chỉ quy định người phạm tội “còn có thể” bị phạt tiền, bên cạnh đó mức cao
nhất và mức thấp nhất của hình phạt bổ sung có mức độ giãn cách lớn, điều này có
nghĩa là người phạm tội có bị phạt tiền hay không và mức phạt tiền cụ thể là bao
nhiêu thì tùy thuộc vào những trường hợp cụ thể và do Tòa án quyết định.
1.2.2. Những điểm mới của tội mua bán trái phép chất ma túy trong Bộ
luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)
Qua việc tập trung nghiên cứu, so sánh BLHS hiện hành tác giả nhận thấy
rằng các quy định về tội MBTPCMT trong BLHS 2015 có nhiều điểm mới, tiến bộ
hơn so với BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009), cụ thể như sau:
BLHS năm 2015 đã có sự sửa đổi, bổ sung, thay thế, loại trừ những quy định
hoặc Điều luật khi nó không còn phù hợp với thực tiễn, nhưng đồng thời cũng đã kế
thừa tương đối các quy định của BLHS năm 1999. So với tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy quy định tại Điều 194 BLHS 1999,
tội MBTPCMT tại Điều 251 trong BLHS năm 2015 có những điểm mới như sau:
- Các dấu hiệu định khung tăng nặng đối với tội mua bán trái phép chất ma túy
+ Bộ luật hình sự năm 2015 đã cụ thể hóa tình tiết “phạm tội nhiều lần” bằng
tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên”.
Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018, chính
15
vì vậy tại thời điểm nghiên cứu chưa có văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể về việc
thi hành các điều luật. Nhưng xét về bản chất của tình tiết “phạm tội 2 lần trở lên”
quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS năm 2015 và tình tiết “phạm tội nhiều
lần” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS năm 1999 đều có các đặc điểm
như sau: Người phạm tội ít nhất hai lần mua bán trái phép chất ma túy, tác động đến
cùng một đối tượng hoặc nhiều đối tượng khác nhau, tác động ở một thời điểm hoặc
ở nhiều thời điểm khác nhau (khi chưa bị phát hiện); nếu tách ra từng hành vi phạm
tội riêng lẻ thì mỗi hành vi ấy đã đủ các yếu tố cấu thành một tội phạm độc lập; tất
cả các hành vi phạm tội này đều được quy định trong cùng điều luật, có thể cùng
một khoản, cũng có thể ở các khoản khác nhau; các hành vi phạm tội này chưa hết
thời hiệu truy cứu TNHS, chưa bị các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định
của pháp luật như: đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, … và tất cả các hành vi đó cùng
được đưa ra xét xử một lần trong cùng một vụ án.
+ Bổ sung tình tiết mới “phạm tội đối với 02 người trở lên”.
Đây là tình tiết mới được bổ sung đối với tội MBTPCMT. Tại thời điểm tác
giả nghiên cứu, đã có Công văn số 5887/VKSTC-V14 ngày 05 tháng 12 năm 2019
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải đáp một số khó khăn, vướng mắc
liên quan đến BLHS, BLTTHS 2015 và thi hành án hình sự, theo đó Công văn đã
hướng dẫn về tình tiết này cụ thể như sau:
Tình tiết “phạm tội đối với 02 người trở lên”, cần được hiểu là trong một lần
thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội đối với
02 người trở lên (có thể 02 người hay nhiều người cùng mua ma túy một lúc hay
mỗi người có thể giao dịch trước nhưng việc giao nhận ma túy tiến hành cùng một
thời gian, cùng thời điểm hoặc 02 hay nhiều người cùng góp tiền và trực tiếp đi mua
ma túy). Như vậy tình tiết mới này đã thể hiện được tính chặt chẽ, đáp ứng được
thực tiễn đặt ra trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội MBTPCMT, đồng
thời làm rõ và phân biệt với tình tiết định khung “phạm tội 02 lần trở lên”. Tác giả
nhận thấy đây là tình tiết được bổ sung kịp thời nhằm hạn chế tác hại của ma tý,
cũng như nhằm ngăn chặn sự lây lan ma túy trong cộng đồng [85, tr.5].
16
+ Cụ thể hóa cụm từ “trẻ em” bằng “người dưới 16 tuổi” trong tình tiết “sử
dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho trẻ em”.
Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung tình tiết tăng nặng mới này nhằm phù
hợp với điều kiện thực tế và những công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
hoặc đã ký kết. Tình tiết này tại BLHS năm 1985 chỉ mới giới hạn ở “người chưa
thành niên” (điểm c, khoản 2, Điều 185đ), sang BLHS năm 1999 quy định thành
“sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho trẻ em” điểm a, khoản 2,
Điều 194 và BLHS năm 2015 đã sửa đổi thành: “sử dụng người dưới 16 tuổi vào
việc phạm tội hoặc bán ma túy cho người dưới 16 tuổi”. Quá trình sửa đổi tình tiết
này thể hiện rõ ràng việc pháp luật ngày càng gắn liền với thực tiễn đời sống, chi
tiết hóa một cách chính xác nhất để dễ dàng áp dụng vào điều chỉnh xã hội.
+ Bổ sung thêm 03 loại chất ma túy mới “Methamphetamine, Amphetamine,
MDMA hoặc XLR-11” vào cùng nhóm với các chất ma túy Heroine, Cocaine;
+ Bổ sung thêm “rễ, thân, cành cây cần sa; lá khát (lá cây Catha edulis)
hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy” nằm trong các danh mục do Chính
phủ quy định vào nhóm lá, hoa, quả của cây cần sa, lá cây côca;
+ Sửa đổi cách viết tên các chất ma túy thống nhất với cách viết tên trong
danh mục các chất ma túy do Chính phủ ban hành từ “hêrôin” thành “Heroin”, từ
“côcain” thành “Cocaine”;
+ Thay đổi đơn vị tính các chất ma túy từ “trọng lượng” thành “khối lượng”
(vì các vụ án ma túy từ trước đến nay khi thu giữ được vật chứng đều được xác định
bằng gam, kilôgam… đây chính là đơn vị tính khối lượng chứ không phải trọng
lượng), “tổng số lượng” thành “tổng khối lượng hoặc thể tích”. Bên cạnh đó bổ
sung thêm cụm từ “có thể tích” vào các chất ma túy khác ở thể lỏng.
1.2.3. Dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép chất ma túy
Dấu hiệu pháp lý hình sự của tội MBTPCMT là một nội dung quan trọng. Để
nhận thức rõ dấu hiệu pháp lý hình sự của tội MBTPCMT, cần phải nghiên cứu làm
rõ bốn yếu tố: Khách thể, khách quan, chủ thể, chủ quan của tội phạm.
- Khách thể của tội mua bán trái phép chất ma túy
17
Khách thể của tội phạm là yếu tố cơ bản không thể tách rời của tội phạm.
“Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm
xâm hại” [81, tr.100]. Khách thể loại của tội phạm là các nhóm quan hệ xã hội có
cùng tính chất và đặc điểm giống nhau được Luật hình sự bảo vệ bị tội phạm xâm
phạm [68, tr.94].
Tội MBTPCMT quy định tại Điều 251 BLHS hiện hành có khách thể trực
tiếp là chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy.
Đối tượng tác động của tội phạm này là các chất ma túy. Các chất ma túy này
hiện có 540 chất ma túy thuộc danh mục quản lý của Chính phủ, chia làm 4 nhóm
sau: Nhóm các chất ma túy an thần: Thuốc phiện, Morphine, Heroine; Nhóm các
chất ma túy gây kích thích: Methamphetamine, Ketamine, Ecstacy, Amphetamine;
Nhóm các chất ma túy gây ảo giác: Cần sa và các sản phẩm của cần sa thảo mộc,
nhựa tinh dầu cần sa lysergide (LSD); Nhóm các chất ma tuý có thuộc tính gây
nghiện: Các loại thuốc tân dược có thành phần là chất gây nghiện như thuốc giảm
đau, thuốc an thần, một số loại thuốc ho, thuốc cảm cúm, …
- Mặt khách quan của tội mua bán trái phép chất ma túy
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm diễn ra và tồn tại
trong thế giới khách quan. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm gồm:
Hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi và hậu quả; các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện tội phạm như thời
gian, địa điểm, phương tiện, công cụ phạm tội, hoàn cảnh phạm tội… [55, tr.15].
Hành vi MBTPCMT được thể hiện qua một trong các hành vi được quy định
tại tiểu mục 3.3, Mục 3, Phần II của Thông tư 17. Đồng thời tác giả cũng nhất trí
với quan điểm của một số nhà chuyên tâm nghiên cứu và nhận thấy rằng các hành
vi khách quan của tội MBTPCMT có 03 nhóm hành vi cơ bản, đó là:
- Nhóm hành vi thứ nhất: Hành vi “bán” trái phép chất ma tuý (tại các điểm
a, b, c, e, g thuộc tiểu mục 3.3). Hành vi này có thể là mua được, xin được, nhặt
được, người khác gửi tặng hoặc chiếm đoạt được, cất giữ trái phép, vận chuyển trái
phép, chuyển dịch bất hợp pháp từ nơi này đến nơi khác, tất cả các hành vi trên đều
18
nhằm mục đích để bán, không kể có thu lợi hay không, kể cả hành vi bán hộ chất
ma tuý thì cũng thuộc nhóm hành vi “bán” trái phép chất ma tuý. Tóm lại, không
cần xét đến nguồn gốc ma tuý do đâu mà có, chất ma túy có hàm lượng cao hay
thấp, chỉ cần có hành vi “bán” trái phép chất ma tuý cho người khác là đã cấu thành
tội mua bán trái phép chất ma túy.
- Nhóm hành vi thứ hai: Hành vi “trao đổi” trái phép chất ma tuý (gồm các
điểm d, đ tiểu mục 3.3): Việc trao đổi trái phép này có thể là đổi ma tuý để lấy tài
sản hoặc các lợi ích khác (việc trao đổi có thể ngang giá hoặc không ngang giá),
hoặc có thể là dùng ma tuý để thanh toán khoản nợ, trừ nợ, trừ ngày công làm việc.
Trong các trường hợp này cũng không cần xét đến nguồn gốc ma tuý.
- Nhóm hành vi thứ ba: Hành vi “hỗ trợ” việc bán, trao đổi trái phép chất ma
tuý (phần cuối tiểu mục 3.3). Đây là các hành vi tổ chức, thực hành, xúi giục, giúp
sức cho hành vi bán, trao đổi trái phép chất ma tuý, thường gọi là các trường hợp
đồng phạm với hành vi này.
- Mặt chủ quan của tội mua bán trái phép chất ma túy
Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội
liên quan tới việc thực hiện tội phạm. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm: Lỗi,
động cơ phạm tội, mục đích phạm tội [68, tr.26].
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của tội MBTPCMT là dấu hiệu lỗi,
đây là yếu tố quan trọng trong việc xác định tội phạm và TNHS. Các hành vi phạm
tội trong tội MBTPCMT quy định tại Điều 251 BLHS 2015 được thể hiện với lỗi cố
ý. Nghĩa là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,
thấy trước được tác hại, hậu quả của hành vi MBTPCMT gây ra cho xã hội nhưng
vẫn thực hiện. Như vậy, đối với các hành vi MBTPCMT chỉ có thể được thực hiện
do cố ý trực tiếp. Không có trường hợp nào do cố ý gián tiếp [81, tr.17].
- Chủ thể của tội mua bán trái phép chất ma túy
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định đã
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự… Theo đó chủ thể của tội MBTPCMT
phải thỏa mãn điều kiện chủ thể của tội phạm thông thường đó là người đủ tuổi chịu
19
TNHS và không ở trong trình trạng không có năng lực TNHS, cụ thể: Người từ đủ
16 tuổi trở lên và có năng lực TNHS phải chịu TNHS thuộc bất kỳ khoản nào của
Điều 251 BLHS hiện hành. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS
về tội này thuộc trường hợp theo quy định tại khoản 2, 3 và 4 của Điều 251 BLHS
2015 trừ các trường hợp theo hướng dẫn tại Mục 10 Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP
ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định của BLHS) [55, tr.22].
1.3. Phân biệt tội mua bán trái phép chất ma túy với tội chiếm đoạt trái
phép chất ma túy và vận chuyển trái phép chất ma túy
Hành vi mua bán trái phép chất ma túy được quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành tại tiểu mục 3.3, Mục 3, Phần II của Thông tư 17, nội dung này tác giả đã
diễn đạt trong luận văn. Trong khi đó, hành vi phạm tội “chiếm đoạt chất ma túy” là
những hành vi thường được thực hiện một cách độc lập, riêng lẻ và luôn luôn phải
kèm theo các dấu hiệu pháp lý khác trong cấu thành tội phạm tương ứng với hành vi
chiếm đoạt. Ví dụ: Hành vi trộm cắp chất ma túy phải đi kèm với hành vi lén lút;
hành vi cướp chất ma túy phải đi kèm với hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vụ lực
ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công không thể chống cự
được nhằm chiếm đoạt chất ma túy; hành vi cưỡng đoạt chất ma túy phải đi kèm với
hành vi đe dọa dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác
nhằm chiếm đoạt chất ma túy hoặc hành vi lừa đảo chiếm đoạt chất ma túy phải đi
kèm với thủ đoạn gian dối. Trong số các tội xâm phạm sở hữu được quy định tại
Chương XVI BLHS hiện hành, có 9 tội danh liên quan đến hành vi chiếm đoạt hoặc
chiếm giữ trái phép tài sản (từ Điều 168 đến Điều 176 BLHS hiện hành). Sự khác
biệt duy nhất trong các trường hợp phạm tội chiếm đoạt hoặc chiếm giữ trái phép
chất ma túy này chính là đối tượng tác động của tội phạm: Chất ma túy, chứ không
phải là các loại tài sản khác.
Mặt khác, hành vi phạm tội “mua bán trái phép chất ma tuý” đều được thực
hiện do lỗi cố ý trực tiếp và đối tượng tác động của tội phạm trong các trường hợp
phạm tội này đều phải được xác định là chất ma túy. Tuy nhiên, hành vi phạm tội
20
“chiếm đoạt chất ma túy” có thể được thực hiện do lỗi cố ý gián tiếp, tức là người
thực hiện hành vi phạm tội “chiếm đoạt chất ma túy” có ý thức bỏ mặc cho hậu quả
xảy ra mà không cần biết đối tượng chiếm đoạt (đối tượng tác động của tội phạm) là
chất ma túy hay là các loại tài sản khác. Xét về thực chất, hành vi phạm tội “chiếm
đoạt chất ma túy” chỉ khác với những hành vi phạm tội chiếm đoạt tài sản về đối
tượng tác động của tội phạm. Đối tượng tác động của tội phạm chiếm đoạt tài sản là
các loại tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của cơ quan, tổ chức, công dân, còn
đối tượng tác động của tội phạm “chiếm đoạt chất ma túy” phải là các chất ma túy
do pháp luật quy định. Ngoài ra, khi hành vi phạm tội “chiếm đoạt chất ma túy” gây
ra những thiệt hại (nếu có) về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự hoặc thiệt
hại về tài sản cho người khác, thì người thực hiện hành vi phạm tội “chiếm đoạt
chất ma túy” đó còn phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội danh độc lập tương
ứng với những thiệt hại (nếu có) mà người phạm tội đã gây ra.
Còn đối với tội Vận chuyển trái phép chất ma túy cần xác định điểm khác
nhau cơ bản với tội MBTPCMT là ở hành vi khách quan của tội phạm được mô tả là
hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích sản xuất, mua
bán, tàng trữ trái phép chất ma trúy. Hành vi vận chuyển phép chất ma túy được hiểu
là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất ma túy từ nơi này đến nới khác dưới bất kỳ
hình thức nào (có thể bằng các phương tiện khác nhau như xe máy, ô tô, tàu bay, tàu
thủy…; trên các tuyến đường khác nhau như đường bộ, đường sắt, đường hàng
không, đường thủy, đường bưu điện…; có thể để trong người như cho vào túi áo, túi
quần, nuốt vào trong bụng, để trong hành lý như vali, túi xách…). Bên cạnh đó, Tội
vận chuyển trái phép chất ma túy trong BLHS năm 2015 cũng được pháp điển hóa cụ
thể mức tối thiểu định lượng các chất ma túy để làm căn cứ truy cứu TNHS. Ngoài
các trường hợp thõa mãn dấu hiệu về định lượng, Điều 250 BLHS năm 2015 còn bổ
sung thêm dấu hiệu định tội “đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại điều
này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 249,
251, 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.
21
Tiểu kết chương 1
Chương 1 của Luận văn, tác giả tập trung làm rõ những vấn đề lý luận, quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội MBTPCMT, kế thừa và tiếp thu có chọn
lọc các công trình khoa học để đưa ra một số khái niệm, rút ra được ý nghĩa của việc
quy định tội MBTPCMT trong luật hình sự Việt Nam; khái quát cơ bản lịch sử lập
pháp tội MBTPCMT qua các giai đoạn lịch sử, phân tích ngắn gọn các dấu hiệu pháp
lý hình sự và hình phạt đối với tội phạm này, bên cạnh đó đã nêu ra được những điểm
mới của tội MBTPCMT đồng thời phân tích các quy định của tội phạm này trong
BLHS hiện hành. Pháp luật Việt Nam qua từng thời kỳ đã có những bước thay đổi
tiến bộ rõ nét, thể hiện qua phạm vi điều chỉnh tội phạm có tính khoa học, bao quát
cao, kỹ thuật lập pháp đối với các văn bản pháp luật ngày càng có sự hoàn thiện theo
hướng ổn định, đặc biệt mức độ quan tâm về việc quản lý và trấn áp tội phạm về ma
túy nói chung cũng như tội phạm về MBTPCMT nói riêng càng đúng mức. Từ đây có
thể thấy được những điểm mới, điểm tiến bộ, những sửa đổi, bổ sung khắc phục, bãi
bỏ các hạn chế trong các điều luật cũ, đưa ra cái nhìn khái quát về tổng thể quy định
của pháp luật làm nền tảng giúp chúng ta hiểu rõ hơn sự thay đổi về cách thức nhà
nước quản lý và trấn áp đối với loại tội phạm này. Đồng thời việc nghiên cứu những
cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý đối với tội MBTPCMT cũng là căn cứ, nền tảng và tiền
đề để tiến hành nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định pháp luật đối với tội
MBTPCMT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 - 2019.
22
CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Thực tiễn công tác xét xử tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 – 2019
Hệ thống tổ chức bộ máy TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng hiện có 07 Toà
án quận, huyện và 01 TAND thành phố, cụ thể:
Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng có 05 Toà chuyên trách (Tòa Hình sự,
Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa Lao động, Tòa Gia đình và người chưa thành niên),
03 Phòng nghiệp vụ (Phòng Tổ chức cán bộ, Thanh tra, Thi đua và khen thưởng;
Văn Phòng và Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và Thi hành án)
Có 07 Toà án quận huyện (TAND quận Hải Châu, TAND Quận Cẩm Lệ,
TAND quận Thanh Khê, TAND quận Sơn Trà, TAND quận Liên Chiểu, TAND
quận Ngũ Hành Sơn và TAND huyện Hòa Vang) với tổng số 202 biên chế. Trong
đó có 82 thẩm phán, 98 thư ký, và 22 chức danh khác.
Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn 05 năm (2015 -
2019) đã áp dụng Điều 194 BLHS 1999 và Điều 251 BLHS 2015 để xét xử sơ thẩm
tổng số 515 vụ án với 742 bị cáo về tội MBTPCMT, diễn biến cụ thể như sau:
23
Bảng 2.1: Thống kê số lượng án sơ thẩm về tội MBTPCMT so với các tội phạm
về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 – 2019
Tội mua bán trái Các tội phạm Tỷ lệ % phép chất ma túy về ma túy (I) và (II) Năm (I) (II)
Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo
95 144 115 166 82,60% 86,74% 2015
99 135 145 196 68,28% 68,88% 2016
100 140 165 231 60,60% 60,60% 2017
99 145 218 307 45,41% 47,23% 2018
122 178 300 425 40,67% 41,88% 2019
515 742 943 1.325 56,00% 54,61% Tổng
Nguồn: TAND thành phố Đà Nẵng
Xét trên số liệu thực tế, nhận thấy rằng số lượng vụ án xét xử sơ thẩm về tội
MBTPCMT trong giai đoạn 2015 – 2019 có sự tăng giảm không đồng đều theo từng
năm, cụ thể từ năm 2015 đến 2017 tăng về số vụ nhưng lại giảm về số đối tượng, từ
2017 đến 2018 có giảm về số vụ nhưng không đáng kể (giảm 01 vụ) trong khi đó số
đối tượng lại tăng (tăng 05 đối tượng) và từ 2018 đến 2019 tăng cao nhất trong 5
năm (tăng 123 vụ, 33 đối tượng).
Nhìn chung, dù có tăng giảm nhưng trong giai đoạn từ năm 2015 đến 2019
tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng luôn chiếm tỷ lệ phần trăm rất cao
trong các tội về ma túy nói chung, trung bình chiếm 56,0% số vụ, 54,61% số bị cáo.
Về số vụ cao nhất là năm 2015 chiếm tỷ lệ 82,60%, thấp nhất là năm 2019 chiếm
40,67%, cũng tương tự như vậy về số bị cáo nhiều nhất là năm 2015 chiếm tỷ lệ
86,74%, thấp nhất là năm 2019 chiếm 41,88%.
Ngoài ra, theo Báo cáo thống kê số liệu giải quyết án hàng năm của TAND
thành phố Đà Nẵng cho biết trong 5 năm giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, tỷ lệ
thụ lý, giải quyết, xét xử sơ thẩm án về tội MBTPCMT luôn đạt tỷ lệ 100%, không
để xảy ra án quá hạn, không có án bị đình chỉ. Tỷ lệ Tòa án trả hồ sơ cho VKS để
24
điều tra bổ sung theo quy định là rất thấp, hầu như ít có [66, tr.10].
Bảng 2.2: Thống kê số lượng án sơ thẩm về tội MBTPCMT so với các tội phạm
nói chung trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 – 2019
Tội mua bán trái Tội phạm chung Tỷ lệ % phép chất ma túy Năm
Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo
1006 1794 95 144 9,44% 6,35% 2015
1021 1800 99 135 9,69% 7,50% 2016
1085 1806 100 140 9,21% 7,75% 2017
1240 2130 99 145 7,98% 6,80% 2018
1204 1899 122 178 10,13% 9,37% 2019
5556 7530 515 742 9,27% 9,85% Tổng
Nguồn: TAND thành phố Đà Nẵng
Căn cứ vào Bảng 2.2 cho thấy từ năm 2015 đến 2019, mặc dù không phải là
địa phương chiếm tỷ lệ phần trăm cao so với cả nước về các tội phạm ma túy,
nhưng nhìn chung trên địa bàn thành phố Đà Nẵng tội MBTPCMT là khá phổ biến,
tác giả nhận thấy tội phạm này chiếm tỷ lệ không nhỏ (trung bình chiếm 9,27% số
vụ, 9,85% số đối tượng) so với các loại tội phạm nói chung được TAND hai cấp
thành phố Đà Nẵng đưa ra xét xử.
Để có cơ sở nhận định, đánh giá công tác xét xử tội MBTPCMT theo hướng
khách quan, chính xác không mang nặng tính chủ quan của người nghiên cứu, tác
giả đã nghiên cứu ngẫu nhiên 150 vụ án xét xử phúc thẩm tội MBTPCMT trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 – 2019.
25
Bảng 2.3: Thống kê các Bản án có kháng nghị, kháng cáo và kết quả xét xử
Sửa án sơ thẩm
Hình phạt Hủy án Số vụ án phúc thẩm Kháng nghị Kháng cáo Y án sơ thẩm Thay đổi tội danh Tăng Giảm
150 15 96 139 0 07 04 0
Tác giả nhận thấy trong tổng số 150 vụ án xét xử phúc thẩm có 15 vụ án do Viện
kiểm sát kháng nghị, chiếm tỷ lệ 10%, số vụ án xét xử phúc thẩm, kháng cáo là 96
vụ chiếm tỷ lệ 64%. Việc có kháng nghị thể hiện sự không đồng tình của Viện kiểm
sát, là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử đối với việc xét xử của
Tòa án. Tuy tỷ lệ này không cao nhưng cũng cho thấy có những quan điểm khác
nhau giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong quá trình áp dụng pháp luật.
Trong tổng số 150 vụ án xét xử phúc thẩm có 139 vụ Tòa phúc thẩm tuyên y
án sơ thẩm, chiếm tỷ lệ 92,66%, đây là tỷ lệ tương đối cao, thể hiện sự thống nhất
cao giữa Tòa phúc thẩm và Tòa sơ thẩm. Hủy án, trả hồ sơ điều tra bổ sung, qua
nghiên cứu không có vụ nào.
Trong tổng số 150 vụ án xét xử phúc thẩm có 11 vụ Tòa phúc thẩm sửa án sơ
thẩm, trong đó sửa về hình phạt là 11 vụ chiếm tỷ lệ 7,33%, đây là một tỷ lệ tương
đối cao, cho thấy cấp sơ thẩm đã có những sai sót nhất định, có sự không thống nhất
giữ hai cấp xét xử. Trong 11 vụ án phúc thẩm có sửa án thì có 07 vụ tăng hình phạt
tù chiếm tỷ lệ 4,66% tổng số vụ phúc thẩm, 04 vụ giảm hình phạt tù, chiếm tỷ lệ
2,6% tổng số vụ phúc thẩm, cho thấy sự chưa thống nhất trong quyết định hình
phạt, trong việc đánh giá tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS
khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, đối với Tòa phúc thẩm thì đánh giá
các tình tiết giảm nhẹ đầy đủ hơn so với cấp sơ thẩm nên tỷ lệ vụ án xét xử phúc
thẩm được giảm án tương đối cao.
Tội phạm về ma túy là loại tội phạm gây nguy hại lớn, bởi đó là một trong
26
những nguyên nhân làm phát sinh tệ nạn xã hội, là mầm mống phát sinh nhiều loại
tội phạm khác. Số lượng vụ án được đưa ra xét xử sơ thẩm hàng năm chiếm gần
10% so với tổng số vụ án hình sự nói chung, cho thấy TAND hai cấp thành phố Đà
Nẵng luôn có sự quan tâm, lãnh đạo chặt chẽ, thường xuyên quản lý, chỉ đạo điều
hành thống nhất đối với công tác đấu tranh phòng, chống ma túy nhằm kiềm chế,
ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi loại tội phạm này trên địa bàn thành phố.
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán
trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
2.2.1. Thực tiễn định tội danh về tội mua bán trái phép chất ma túy trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng
Định tội danh là hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự nhằm cá biệt hóa các quy định của BLHS vào trường hợp hành vi nguy hiểm
cho xã hội cụ thể xảy ra, được thể hiện trên cơ sở xác định đầy đủ, chính xác, khách
quan các tình tiết cụ thể của hành vi được thực hiện và tình tiết khác của vụ án, nhận
thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tương
ứng và xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm nhất định
với các tình tiết cụ thể của hành vi được thực hiện và các tình tiết khác của vụ án,
bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất định [23, tr.9]
Thực tiễn định tội danh đối với tội MBTPCMT trong giai đoạn 5 năm từ
2015 đến năm 2019, nhận thấy rằng thời điểm tác giả nghiên cứu TAND hai cấp
thành phố Đà Nẵng đã áp dụng cả 02 điều luật (Điều 194 BLHS 1999 và Điều 251
BLHS 2015) để định tội danh, vì trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến trước
ngày 01/01/2018 BLHS 1999 vẫn có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên kể từ ngày 01
tháng 01 năm 2018 BLHS 2015 chính thức có hiệu lực thi hành, do đó đã có nhiều
nội dung khoa học pháp lý thay đổi, vì vậy để thuận lợi trong quá trình nghiên cứu
tác giả xin phép trích dẫn điều luật hiện hành đang áp dụng là Điều 251 và xin được
dẫn chứng các ví dụ trích dẫn từ các Bản án được xét xử từ sau ngày 01/01/2018
của TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng.
2.2.1.1. Định tội danh theo cấu thành cơ bản của tội phạm
27
Định tội danh theo các yếu tố cấu thành cơ bản của tội MBTPCMT là việc
định tội danh theo những dấu hiệu pháp lý bắt buộc được quy định tại khoản 1 Điều
251 BLHS năm 2015 như sau: “Người nào mua bán trái phép chất ma tuý, thì bị
phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
Tội phạm là một thể thống nhất gồm bốn yếu tố: Khách thể, mặt khách quan,
chủ thể, mặt chủ quan. Vì vậy, trong khoa học pháp lý hình sự khi nghiên cứu quá
trình định tội danh người ta tách riêng xem xét việc định tội theo từng nhóm dấu
hiệu nêu trên của tội phạm, do đó việc định tội danh tội MBTPCMT theo cấu thành
cơ bản được thể hiện như sau:
- Định tội danh theo khách thể của tội phạm
Từ năm 2015 đến năm 2019, TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng cùng với các
cơ quan tiến hành tố tụng nói chung đã tuân thủ nghiêm ngặt, chặt chẽ các quy định
về định tội danh đối với tội MBTPCMT theo khách thể của tội phạm, tác giả nhận
thấy rằng đều có sự chính xác cao, đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật và
không để xảy ra sai sót trên thực tế.
Ví dụ 1: Vào lúc 20 giờ 00 phút ngày 21/08/2018, tại trước số nhà 189 Lê
Đình Lý, phường Hòa Thuận Tây, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, bị cáo Phạm
Thái Ph (SN 1996) bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Hải
Châu, thành phố Đà Nẵng bắt quả tang Phạm Thái Ph đang tàng trữ trái phép chất
ma túy loại Ketamine khối lượng 9,370 gam. Quá trình điều tra làm rõ vụ án và tại
phiên tòa bị cáo Ph đều thừa nhận số ma túy trên là bị cáo mua của người tên Bu và
đang đi giao ma túy bán lại cho người khác để kiếm lời thì bị bắt quả tang.
Trong phần nhận định HĐXX khẳng định: “…, hành vi của bị cáo Ph đã
xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma túy,…”.
Tại Bản án sơ thẩm số 110/2018/HSST ngày 31/11/2018 TAND quận Hải Châu căn
cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều BLHS năm 2015 tuyên bị cáo Phạm
Thái Ph phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.
Nhận thấy TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng đã tuân thủ triệt để, áp dụng
đầy đủ các quy định của pháp luật trong việc định tội danh, đảm bảo sự chính xác,
28
khách quan và công bằng trong các phán quyết của mình đối với người thực hiện
hành vi phạm tội.
- Định tội danh theo mặt khách quan của tội phạm
Thực tiễn định tội danh tội MBTPCMT theo mặt khách quan của tội phạm,
qua việc khảo sát thực tiễn xét xử trong giai đoạn 2015 - 2019 cho thấy TAND hai
cấp thành phố Đà Nẵng đã tiến hành định tội danh một cách chính xác và tác giả
không phát hiện sai sót.
- Định tội danh theo chủ thể của tội phạm
Qua nghiên cứu các Bản án xét xử từ năm 2015 đến năm 2019 trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng, cho thấy việc định tội danh theo chủ thể của tội MBTPCMT đã
được TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng thực hiện một cách chính xác và không có
sai sót nào xảy ra.
- Định tội danh theo mặt chủ quan của tội phạm
Trong mặt chủ quan của tội phạm có lỗi (cố ý hoặc vô ý), động cơ và mục
đích phạm tội. Mặt chủ quan phản ánh mối liên hệ giữa ý thức và ý chí của người
phạm tội với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. [23, tr.77]
Đối với tội MBTPCMT, hành vi MBTPCMT được thực hiện bằng lỗi cố ý
trực tiếp, người thực hiện hành vi không chỉ nhận thức rõ hành vi của mình là trái
pháp luật, biết rõ tác hại, hậu quả do hành vi của mình gây ra mà vẫn cố ý thực hiện
hành vi đó. Người phạm tội có thể thực hiện hành vi MBTPCMT với động cơ và
mục đích khác nhau, qua nghiên cứu tác giả nhận thấy rằng chủ yếu là kiếm lợi
nhuận hưởng tiền chênh lệch và thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân.
Việc định tội danh tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng theo mặt chủ
quan của tội phạm đã được tiến hành một cách khách quan, chính xác. Tuy nhiên
vẫn có một số ít trường hợp chứng cứ buộc tội bị cáo còn yếu (nếu bị cáo phản
cung, không thừa nhận thì cũng không có đủ căn cứ để khẳng định bị cáo phạm tội).
Ví dụ 2: Khoảng 10 giờ ngày 04/7/2018, Hoàng Thị Hàn V mua của Long
(không rõ lai lịch, địa chỉ) 01 gói ma túy đá với giá 1.200.000 đồng ở đường
Nguyễn Công Trứ, thành phố Đà Nẵng. V đem về phòng 102 Nhà nghỉ P tại số 03
29
đường N, phường H, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng chia thành 10 gói ma túy đá
nhỏ nhằm mục đích bán lại cho con nghiện với giá 200.000 đồng/01 gói và sử dụng
cho bản thân. Đến 12 giờ cùng ngày V đem 10 gói ma túy có khối 1,663 gram đến
đường Lê Đình Lý, phường Vĩnh Trung, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng gặp
người tên Bé (không rõ lai lịch, địa chỉ) để tìm nơi sử dụng ma túy thì bị Đội Cảnh
sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Thanh Khê phối hợp Công an phường
Vĩnh Trung phát hiện, bắt quả tang.
Quá trình điều tra V khai nhận là mua ma túy của Long đem về chia nhỏ ra
để bán cho người khác để hưởng tiền chênh lệch và có ma túy sử dụng. Mặc dù V
lúc bắt quả tang V, thì V đang có hành vi tàng trữ trái phép 1,663 gram chất ma túy
và khai nhận là để tìm nơi sử dụng ma túy cùng với Bu. Tuy nhiên quá trình cũng
cố chứng cứ, đấu tranh V khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm bán
cho người khác để kiếm lời và để có ma túy sử dụng.
TAND quận Thanh Khê nhận định hành vi phạm tội trên đây của Hoàng Thị
Hàn V đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”
theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của BLHS năm 2015.
Tại Bản án sơ thẩm số 115/2018/HSST ngày 11/11/2018 TAND quận Thanh
Khê căn cứ vào khoản 1 Điều 251 và điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Tuyên bố: Bị
cáo Hoàng Thị Hàn V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tuy nhiên qua
nghiên cứu bản án này, tác giả cho rằng nên chăng cần phải xác định được những
người đã mua ma túy của V, cần thiết cho đối chất, nhận dạng (chứ không dùng duy
nhất lời khai của V và những vật chứng thu được làm chứng cứ buộc tội), từ đó có
chứng cứ đủ mạnh, có thêm cơ sở để định tội danh đối với V về tội MBTPCMT
thêm phần chắc chắn hơn.
2.2.1.2. Định tội danh theo cấu thành tăng nặng của tội phạm
Định tội danh theo cấu thành tăng nặng của tội MBTPCMT chính là việc
định tội danh theo những dấu hiệu pháp lý phản ánh các cấu thành tăng nặng của tội
phạm được quy định tại các khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 251 BLHS 2015.
30
Bảng 2.4: Thống kê số bị cáo bị xét xử theo các khoản khác nhau đối với tội
MBTPCMT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 – 2019
Khoản 1 Khoản 2 Khoản 3 Khoản 4 Tổng
83,33%
14,58%
2,09%
0%
Năm số Bị Bị Bị Bị Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Bị cáo cáo cáo cáo cáo
82,96%
14,08%
2,22%
0,74%
2015 144 120 21 3 0
79,29%
17,14%
3,57%
0%
2016 135 112 19 3 1
78,62%
17,24%
4,14%
0%
2017 140 111 24 5 0
76,97%
17,41%
5,06%
0,56%
2018 145 114 25 6 0
2019 178 137 31 9 1
16,17%
3,51%
0,27%
Tổng 742 594 80,05% 120 26 2
Nguồn: TAND thành phố Đà Nẵng
Bảng số liệu 2.3 đã cung cấp cơ sở để đánh giá thực tiễn xét xử sơ thẩm đối
với cấu thành tăng nặng của tội MBTPCMT, qua Bảng số liệu nhận thấy số lượng
các bị cáo bị Hội đồng xét xử (HĐXX) định tội theo khoản 1 Điều 251 chiếm tỷ lệ
cao nhất (chiếm 80,05%), kế tiếp là số lượng bị cáo bị định tội theo khoản 2 (chiếm
16,17%), các khoản 3 và khoản 4 là có áp dụng nhưng chiếm tỷ lệ không cao.
- Định tội danh theo khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015
Qua nghiên cứu cho thấy hầu hết các vụ án về tội MBTPCMT được đưa ra
xét xử sơ thẩm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng rất hiếm khi áp dụng các tình tiết
quy định tại các điểm như: “lợi dụng chức vụ, quyền hạn”; “lợi dụng danh nghĩa cơ
quan, tổ chức”, hay “qua biên giới”.
Các tình tiết định khung tăng nặng tác giả nhận thấy thường được áp dụng là:
“phạm tội 02 lần trở lên”, “mua bán với 02 người trở lên”, “Heroine, Cocaine,
Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XRL-11 có khối lượng từ 05 gam
đến dưới 30 gam” …
Đối với tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên”: Qua nghiên cứu các Bản án nhận
thấy đa phần các vụ án về tội MBTPCMT tại Đà Nẵng đều là bắt phạm tội quả tang.
31
Quá trình điều tra làm rõ, có nhiều trường hợp bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi
mua, bán trái phép nhiều lần, tuy nhiên cơ quan tiến hành tố tụng lại không có đủ
căn cứ và chứng cứ đủ mạnh để xác định chính xác các lần thực hiện hành vi đó. Vì
vậy Tòa án thường không dựa vào lời khai của các bị cáo để áp dụng tình tiết “phạm
tội 02 lần trở lên” mà chỉ dựa trên những hành vi khách quan đã xảy ra trên thực tế,
có đầy đủ tài liệu, chứng cứ rõ ràng để định tội danh đối với người phạm tội.
Ví dụ 3: Vào khoảng 22 giờ ngày 22/01/2019, Nguyễn Đình T, SN 1982, cư trú
tại Thôn X, xã Đ, huyện V, tỉnh H đến khu vực Cảng cá Thọ Quang, quận Sơn Trà,
thành phố Đà Nằng mua của một người tên Mỹ 02 gói ma túy đá có khối lượng
0,472 gam với giá 1.000.000đ. Sau đó, T cất giấu vào trong túi áo khoác bên trái T
đang mặc rồi đi đến trước số 478 đường Lê Duẩn, phường Chính Gián, quận Thanh
Khê, thành phố Đà Nẵng để chờ bán cho một nam thanh niên đã hỏi mua trước đó
với giá 1.200.000đ, nhưng chưa bán được thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra tội phạm
về ma túy Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng bắt quả tang. Ngoài lần
phạm tội quả tang, qua điều tra Nguyễn Đình T khai nhận đã bán ma túy đá cho 04
người nhưng không nhớ thời gian, địa điểm bán, loại ma túy đã bán.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2019/HSST ngày 15/6/2019 TAND quận
Thanh Khê căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS 2015. Tuyên
bố bị cáo Nguyễn Đình T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là khách quan,
chính xác, đúng pháp luật.
Qua ví dụ trên, nhận thấy rằng mặc dù Nguyễn Đình Th đã khai nhận ngoài
lần phạm tội quả tang thì đã bán ma túy 04 lần cho các đối tượng khác. Tuy nhiên
cơ quan tiến hành tố tụng không thu giữ được chất ma túy, không xác định được lai
lịch địa chỉ của những người đã mua ma túy của Th trong 04 lần đó nên không đủ
cơ sở để xử lý TNHS đối với Th ở những lần bán ma túy nêu trên, phù hợp với
nguyên tắc có lợi có bị can, không được dùng lời nhận tội của bị can làm chứng cứ
duy nhất để buộc tội.
Đối với tình tiết “đối với 02 người trở lên”: Đây là tình tiết mới được bổ
sung so với quy định của BLHS năm 1999 đối với tội MBTPCMT. Tại thời điểm
32
tác giả nghiên cứu, đã có Công văn số 5887/VKSTC-V14 ngày 05 tháng 12 năm
2019 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải đáp một số khó khăn, vướng
mắc liên quan đến BLHS, BLTTHS năm 2015 và thi hành án hình sự.
Theo đó, Công văn đã hướng dẫn về tình tiết này cụ thể như sau: Tình tiết
“đối với 02 người trở lên”, cần được hiểu là trong một lần thực hiện hành vi phạm
tội, người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội đối với 02 người trở lên (có thể
02 người hay nhiều người cùng mua ma túy một lúc hay mỗi người có thể giao dịch
trước nhưng việc giao nhận ma túy tiến hành cùng một thời gian, cùng thời điểm
hoặc 02 hay nhiều người cùng góp tiền và trực tiếp đi mua ma túy) [85, tr.5].
Như vậy tình tiết mới này đã thể hiện được tính chặt chẽ, đáp ứng được thực
tiễn đặt ra trong công tác đấu tranh phòng, chống tội MBTPCMT, đồng thời làm rõ
và phân biệt với tình tiết định khung “phạm tội 02 lần trở lên”. Tác giả nhận thấy
đây là tình tiết được bổ sung kịp thời của BLHS năm 2015 nhằm hạn chế tác hại của
ma túy, cũng như nhằm đẩy lùi, ngăn chặn sự lây lan ma túy trong cộng đồng.
Tuy nhiên qua nghiên cứu thực tiễn định tội danh về tội MBTPCMT đối với
tình tiết tăng nặng này, tác giả nhận thấy vẫn còn một số Bản án như: Bản án sơ
thẩm số 12/2019/HS-ST ngày 10/4/2019; 26/2019/HS-ST ngày 21/6/2019; 38/2018/HS-
ST ngày 31/7/2018 của TAND quận Cẩm Lệ; Bản án sơ thẩm số 09/2019/HS-ST ngày
của TAND quận Hải Châu; Bản án sơ thẩm số 118/2018/HS-ST ngày của TAND
quận Thanh Khê định tội với tình tiết “đối với 02 người trở lên” tác giả cho rằng
vẫn còn chưa thỏa đáng, chưa thật sự phù hợp, điển hình với ví dụ sau đây:
Ví dụ 4: Từ tháng 11/2018 đến ngày 07/01/2019, bị cáo Phạm Trung K đã
nhiều lần liên lạc mua ma tuý của Mạnh (chưa xác định được nhân thân lai lịch) với
giá tiền mỗi lần mua từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng, địa điểm mua bán do
Mạnh chọn tại đường Hàm Nghi, thành phố Đà Nẵng để chia nhỏ bán cho các con
nghiện. Trong đó, Trương Thành T liên lạc mua ma tuý của bị cáo 02 lần với giá
tiền mỗi lần 300.000 đồng, lần thứ nhất vào ngày 17/11/2018, lần thứ hai vào ngày
06/12/2018, địa điểm giao dịch tại đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, thành phố Đà Nẵng.
Chiều ngày 07/01/2019, bị cáo nhận được điện thoại của 01 thanh niên (chưa
33
xác định được lai lịch) gọi đến số điện thoại 0363321173 của bị cáo hỏi mua 01
gam ma túy đá với giá 1.300.000 đồng, hẹn giao nhận tại quán Karaoke Kin Kin
thuộc phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ. Vào lúc 17 giờ 45 cùng ngày, tại phòng
201 quán Karaoke Kin Kin, trong lúc bị cáo đem ma túy đến để bán trái phép cho
con nghiện thì bị Cơ quan Công an quận Cẩm Lệ phát hiện bắt quả tang, đồng thời
thu giữ ma túy loại Methamphetamine, khối lượng ma túy thu giữ là 1,966 gam.
Trong nội dung nhận định của Tòa án, HĐXX nhận định: “Hành vi phạm tội
của bị cáo đã mua ma túy nhiều lần của một người tên Mạnh không xác định được
lai lịch với giá tiền mỗi lần mua từ 1.000.000đ đến 2.000.000đ về phân nhỏ bán cho
Trương Thành T 02 lần với giá tiền mỗi lần 300.000 đồng, thu lợi bất chính 600.000
đồng và vào ngày 07 tháng 01 năm 2019 bị cáo có hành vi tàng trữ 1,966 gam ma
túy loại Methamphetamine để bán trái phép cho người khác thì bị Cơ quan Cảnh sát
điều tra Công an quận Cẩm Lệ phát hiện bắt quả tang.
Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Phạm Trung K phạm tội “Mua
bán trái phép chất ma túy” quy định tại các điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình
sự năm 2015 như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đảm bảo đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật”.
Qua ví dụ thấy rằng CQĐT, VKS và Tòa án đều thống nhất, cho rằng Phạm
Trung K đã 02 lần (vào ngày 17/11/2018 và ngày 06/12/2018) bán ma túy cho
Trương Thành T với giá tiền mỗi lần 300.000 đồng; ngày 07/01/2019 T tiếp tục có
hành vi tàng trữ 1,966 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích để bán
trái phép cho người khác thì bị phát hiện bắt quả tang. Như vậy tổng cộng K có 03
lần bán trái phép chất ma túy cho người khác (02 lần cho T, 01 lần cho 01 thanh
niên chưa rõ lai lịch), mỗi lần thực hiện hành vi phạm tội K chỉ mua bán ma túy cho
01 người và các lần mua bán đó là độc lập, tách biệt về thời gian, địa điểm và số
người mua ma túy. Tuy nhiên, HĐXX lại nhận định: “Có đủ cơ sở kết luận hành vi
của bị cáo Phạm Trung K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại
các điểm b, c khoản 2 Điều 251 BLHS 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật”, là bất hợp lý, chưa đủ cơ sở khi áp dụng tình tiết này.
34
Đối với các tình tiết “Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine,
MDMA hoặc XRL-11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam” hay “có 02 chất ma
túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối
lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm h đến điểm o
khoản này”… qua nghiên cứu thực tiễn xét xử tác giả nhận thấy rằng TAND hai cấp
thành phố Đà Nẵng đã áp dụng chính xác và không có trường hợp sai sót nào xảy ra.
Ngoài ra, đối với vấn đề định tội danh theo khoản 2 Điều 251 BLHS hiện
hành, khi nghiên cứu thực tiễn xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm tác giả nhận thấy rằng
cá biệt vẫn còn có trường hợp có những sai sót trong quá trình áp dụng pháp luật.
Ví dụ 5: Vào lúc 15h00’ ngày 22/01/2019, đường Lê G, phường Đ, quận S,
thành phố Đà Nẵng, Đồn Biên phòng Sơn Trà bắt quả tang Trần Đình D đang thực
hiện hành vi bán trái phép chất ma túy cho đối tượng Vũ Ngọc Hoàng A. Thu giữ
tại túi áo bên trái Trần Đình D đang mặc 05 gói thực cần sa có khối lượng 34,960
gam, D khai nhận đây là ma túy dạng cần sa, D mua về bán lại cho con nghiện kiếm
lời; thu giữ của Vũ Ngọc Hoàng A 01 gói cần sa có khối lượng 3,949 gam; A khai
nhận vừa mua của D nhằm mục đích sử dụng cho nhu cầu nghiện của bản thân.
Quá trình điều tra xác định: D bắt đầu bán cần sa từ tháng 01 năm 2019.
Nguồn gốc ma túy D lấy từ đối tượng tên Bùi Xuân T (trú tại tỉnh TG) để thỏa thuận
giá cả, số lượng cần mua. Sau đó, D chuyển tiền vào tài số khoản 060.187.717.xxx và
T sẽ gửi cần sa cho D qua xe khách hoặc qua dịch vụ chuyển phát nhanh. Sau khi
nhận được cần sa, D đem về cất giấu tại quán cắt tóc tại tổ 70, phường Đ, quận S,
thành phố Đà Nẵng và phân ra từng gói nhỏ bán cho con nghiện. Từ thời điểm tháng
01/2019 đến thời điểm bị bắt, D đã 09 lần mua ma túy cần sa từ T.
Vào ngày 21/01/2019, D đã chuyển số tiền 04 triệu đồng qua tài khoản Ngân
hàng Sacombank cho T, đặt mua 400 gam cần sa và thỏa thuận T gửi cần sa cho D
qua đường chuyển phát nhanh. Đến 16h15’ ngày 23/1/2019, khi nhận viên giao
nhận hàng đến quán cắt tóc của D để giao hàng thì bị lực lượng Biên phòng mời về
làm việc. Qua kiểm tra, bên trong gói hàng có 04 gói giấy ghi nhãn hiệu Nam dược
Balzacs Roasters bên trong có chứa ma túy, loại cần sa, có khối lượng: 400,23 gam.
35
Trần Đình D thừa nhận gói hàng này là của D đã đặt mua của T.
Còn Lê Văn N làm việc tại quán cắt tóc của D từ ngày 02/01/2019. Từ ngày
02/01/2019 đến 21/01/2019, N và D đã nhiều lần sử dụng chung cần sa với nhau.
Việc D mua cần sa của ai, cách thức giao dịch và giá tiền như thế nào thì N không
biết. Trong những lần cùng sử dụng cần sa và 05 lần đi bán ma túy cần sa với D, N
biết D cất giấu cần sa tại tủ gỗ kích thước để phía sau, sát vách quán cắt tóc. Do N
làm việc tại quán cắt tóc của D nên biết D cất giấu cần sa là để bán lại cho các con
nghiện. N cũng thừa nhận đã cùng đi bán ma túy với D 05 lần, số lần này cơ quan
điều tra đã xác minh làm rõ thời gian, địa điểm, số tiền và loại ma túy mua bán.
Những lần trên đều do D rủ N đi, D trực tiếp ra tủ đựng đồ lấy cần sa, N điều
khiển xe mô tô BKS 43E1-xxxx chở D, còn D trực tiếp cầm và giao cần sa cũng
như nhận tiền của người mua. Sau khi đi bán cần sa, D thường lấy tiền này để đi
mua đồ ăn và bia, ngoài ra còn cho N 02 thẻ card điện thoại (mỗi thẻ trị giá 20.000
đồng) để bồi dưỡng cho N. Vào ngày 22/01/2019, việc D liên hệ bán cần sa cho Vũ
Ngọc Hoàng A thì N không biết.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 59/2019/HS-ST ngày 22/7/2019 của TAND
quận S, thành phố Đà Nẵng đã căn cứ các điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm
s khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 xử phạt: Trần Đình D 08 năm tù, Lê Văn N 07 năm
tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 169/2019/HS-PT ngày 09 tháng 10 năm
2019, TAND thành phố Đà Nẵng nhận định: Theo cáo trạng số 45/CT-VKS ngày
08/5/2019 của VKSND quận S đã truy tố bị cáo Trần Đình D về tội “Mua bán trái
phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 BLHS; truy tố bị cáo Lê Văn N về tội
“Không tố giác tội phạm” theo 1 Điều 390 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, ngày
27/6/2019 TAND quận S đã đưa vụ án ra xét xử đối với bị cáo Trần Đình D theo
khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật, và xét xử bị cáo
Lê Văn N về tội danh nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố. Tuy nhiên, tại quyết
định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 43/2019/QĐXXST-HS ngày 27/6/2019 Tòa án
cấp sơ thẩm không áp dụng Điều 298 BLTTHS trong quyết định đưa vụ án ra xét
36
xử. Do đó, phần quyết định của Bản án sơ thẩm không áp dụng khoản 2, khoản 3
Điều 298 BLTTHS là có thiếu sót trong việc áp dụng pháp luật, không phù hợp với
nội dung của Điều 298 BLTTHS.
Như vậy, qua vụ án trên nhận thấy VKS đã truy tố bị cáo Lê Văn N về tội
“Không tố giác tội phạm” theo 1 Điều 390 BLHS 2015. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ
thẩm đã xét xử bị cáo với tội danh nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố đó là tội
“Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 (phạm tội 02 lần trở lên)
Điều 251 BLHS năm 2015 là chưa phù hợp, có sai sót trong quá trình áp dụng pháp
luật. Theo đó, tác giả cho rằng để áp dụng pháp luật đúng trong trường hợp này Tòa
án trả hồ sơ để VKS truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện
của bị cáo, người bào chữa biết, nếu VKS vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có
quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.
- Định tội danh theo khoản 3, khoản 4 Điều 251 BLHS năm 2015
Không giống như khoản 2, tại khoản 3, khoản 4 Điều 251 BLHS năm 2015
chỉ quy định các dấu hiệu định lượng về khối lượng, thể tích của các nhóm chất ma
túy. Do vậy khi định tội danh theo khoản 3, 4 Điều 251, trước hết phải xem xét các
hành vi phạm tội đã xảy ra trên thực tế có thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của CTTP
cơ bản quy định tại khoản 1 Điều luật này hay không, nếu đã thỏa mãn thì tiếp tục
xem xét về khối lượng hoặc thể tích các chất ma túy mà người thực hiện hành vi
phạm tội rơi vào những quy định nào tại các khoản 3, 4 Điều 251. Việc định tội
danh khi đối với các tình tiết này dựa trên sự so sánh giữa khối lượng, thể tích chất
ma túy được mua bán trái phép trên thực tế với khối lượng, thể tích chất ma túy
được quy định cụ thể trong điều luật.
Ví dụ 6: Lúc 11 giờ 30 phút ngày 08/10/2018, Công an Đà Nẵng bắt quả tang
Lê Tự Đ đang cất giấu ma túy tại phòng trọ thuộc căn nhà ở tổ 13, phường T, quận
H, Đà Nẵng nhằm mục đích để bán cho người khác kiếm lời. Tổng khối lượng ma
túy là 148,711 gam (loại Methamphetamine có khối lượng 122,766 gam và ma túy
loại MDMA có khối lượng 25,945 gam). Bị cáo khẳng định toàn bộ số ma túy trên
là của một mình bị cáo, không có ai cùng tham gia mua bán ma túy cùng bị cáo.
37
Hành vi của bị cáo Lê Tự Đ đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma
túy”. Bị cáo mua bán trái phép 02 chất ma túy đó là MDMA và Methamphetamine
với tổng khối lượng 148,711 gam (theo kết luận Giám định số 197/GĐ-MT ngày
11/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Đà Nẵng), nên đã phạm vào tình
tiết định khung quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 của BLHS năm 2015.
Vì vậy Bản án số 30/2019/HS-ST, ngày 20/6/2019, TAND thành phố Đà
Nẵng đã áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251 xét xử bị cáo Lê Tự Đ về tội mua bán
trái phép chất ma túy là có cơ sở, hoàn toàn hợp lý.
2.2.1.3. Định tội danh trong trường hợp đặc biệt
- Định tội danh trong trường hợp phạm tội chưa hoàn thành
Để đánh giá đúng mức độ thực hiện tội phạm và từ đó có những cơ sở để xác
định phạm vi TNHS của người thực hiện hành vi phạm tội, luật hình sự Việt Nam
đã phân biệt 03 mức độ thực hiện tội phạm đó là: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa
đạt và tội phạm hoàn thành. Đây cũng chính là 03 giai đoạn phạm tội thường gặp
trên thực tế, đặt ra đối với tội cố ý trực tiếp [10].
Định tội danh ở trường hợp phạm tội chưa hoàn thành là việc định tội danh
đối với những hành vi được thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội
chưa đạt. Qua khảo sát thực tiễn xét xử tại thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 -
2019 cho thấy, tội phạm về MBTPCMT hầu hết đều thuộc trường hợp phạm tội quả
tang, đa số các vụ án còn lại đều có đầy đủ chứng cứ để chứng minh hành vi
MBTPCMT đã xảy ra trước đó, do đó không có vụ án nào định tội danh đối với tội
phạm này ở giai đoạn phạm tội chưa hoàn thành.
- Định tội danh trong trường hợp đồng phạm
Từ thực tế các vụ án xảy ra cho thấy, tội phạm không chỉ gây ra bởi một
người mà còn có thể do nhiều người cùng gây ra. Khi có nhiều người cùng cố ý
thực hiện một tội phạm thì trường hợp đó được gọi là đồng phạm, đây là một trong
những hình thức phạm tội đặc biệt trong Luật hình sự Việt Nam. Điều 17 BLHS
năm 2015 quy định về đồng phạm như sau: “Đồng phạm là trường hợp có hai
người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm” [42, tr.7].
38
Như vậy, để định tội danh trong trường hợp đồng phạm, cơ quan tiến hành tố
tụng phải xác định được trên thực tế có ít nhất là hai người trở lên cùng cố ý thực hiện
một tội phạm, đồng thời phải xác định rõ trách nhiệm, vai trò của từng người để phân
hóa TNHS. Đối với tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, qua khảo sát
thực tiễn xét xử, tác giả nhận thấy số lượng các vụ án MBTPCMT có đồng phạm
chiếm tỷ lệ phần trăm khá thấp, số lượng đồng phạm trong các vụ án không nhiều,
thường gặp ba loại đó là: người tổ chức, người giúp sức và người thực hành. Việc
định tội danh tội MBTPCMT trong trường hợp đồng phạm luôn được TAND hai cấp
thành phố Đà Nẵng xem xét một cách thận trọng, đảm bảo xét xử đúng pháp luật.
Ví dụ 7: Trong đầu tháng 8/2019, thông qua đối tượng tên Q (chưa rõ nhân
thân lai lịch), Trần Ngọc H đã mua 288,65 gam ma túy loại MDMA và 99,882 gam
ma túy loại Ketamine của đối tượng tên C, T4 (chưa rõ nhân thân lai lịch) tại thành
phố Hồ Chí Minh với giá 165.000.000 đồng, nhằm mục đích để bán lại kiếm lời.
Sau đó, Trần Ngọc H nhờ Trần Duy Đ vận chuyển từ thành phố Hồ Chí Minh về Đà
Nẵng. Đ biết Trần Ngọc H mua ma túy về để bán lại cho người khác nhưng Đ vẫn
đồng ý vào thành phố Hồ Chí Minh nhận ma túy mang về cho H. Vào lúc 16h00
phút ngày 07/8/2019, khi Trần Duy Đ mang ma túy nói trên về đến trước số nhà
đường R, quận K, thành phố Đà Nẵng thì bị bắt quả tang.
Trong vụ án này, bị cáo Trần Ngọc H là người cầm đầu, đóng vai trò chính,
bị cáo là người bỏ tiền ra và chủ động liên hệ giao dịch với người tên C để mua ma
túy với số lượng lớn, bị cáo cũng là người rủ rê, lôi kéo bị cáo Đ tham gia vào việc
phạm tội, H đã yêu cầu Đ vào thành phố Hồ Chí Minh nhận ma túy về cho mình để
bán. Bị cáo Trần Duy Đ là người giúp sức tích cực cho H, trực tiếp vào thành phố
Hồ Chí Minh nhận ma túy mang về cho H.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 95/2019/HS-ST, ngày 28/11/2019 TAND
thành phố Đà Nẵng, căn cứ vào: Điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản
1, khoản 2 Điều 51 BLHS 2015 tuyên Trần Ngọc H phạm tội MBTPCMT. Căn cứ
vào: Điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; Điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản
1 Điều 54; Điều 58 BLHS 2015 tuyên Trần Duy Đ phạm tội MBTPCMT.
39
Qua ví dụ trên, nhận thấy TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng đã tuân thủ triệt
để quy định của BLHS về đồng phạm, xem xét, đánh giá đúng tính chất, mức độ hành
vi phạm tội của từng bị cáo, tuy nhiên nhận thấy vẫn còn một vài sai sót nhỏ, tuy
không ảnh hưởng đến việc định tội danh nhưng tác giả cho rằng cần phải rút kinh
nghiệm, đó là trong các Bản án không nêu căn cứ để xác định đồng phạm.
2.2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất
ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Dưới góc độ khoa học Luật hình sự: “Quyết định hình phạt là hoạt động của
Tòa án trong việc cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân
thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để lựa
chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ
sung, trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội” [77, tr.48].
Để quyết định hình phạt chính xác, thống nhất, hiệu quả, công bằng cần quán
triệt thực hiện xuyên suốt, đúng đắn các nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa;
Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa; Nguyên tắc công bằng trong quyết định hình
phạt; Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong quyết định hình phạt [77, tr.53].
Theo quy định tại Điều 50 BLHS năm 2015, các căn cứ quyết định hình phạt
bao gồm: Quy định của Bộ luật hình sự; tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội; các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng
trách nhiệm hình sự [77, tr.63].
Về hình phạt, trong giai đoạn 05 năm từ 2015 đến 2019 trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng việc xét xử sơ thẩm về tội MBTPCMT không có vụ nào Tòa án tuyên
bị cáo không phạm tội, miễn TNHS, miễn hình phạt hoặc xử phạt cảnh cáo, không
có bị cáo nào được cho hưởng án treo, không có bị cáo nào bị tuyên án tử hình. Loại
hình phạt áp dụng đối với các bị cáo phạm tội này đều là hình phạt tù có thời hạn
trở lên, mức phạt tù dưới 03 năm chiếm tỷ lệ phần trăm cao nhất (chiếm 55,93%),
tiếp đến là mức phạt tù từ 03 năm đến 07 năm (chiếm 24,12%), sau đó là mức phạt
tù từ 07 năm đến 15 năm (chiếm 16,17%), số vụ án có mức hình phạt tù từ 15 năm
đến 20 năm, tù chung thân cũng có áp dụng tuy nhiên số lượng không nhiều, lần
40
lượt là 3,51% và 0,27%, thể hiện cụ thể như sau:
Bảng 2.5: Thống kê cơ cấu mức hình phạt áp dụng đối với tội MBTPCMT
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 – 2019
Dưới
Từ 3 năm đến
Từ 7 năm đến
Từ 15 năm
Tổng
Chung thân
Tử hình
3 năm
dưới 7 năm
dưới 15 năm
đến 20 năm
số
Năm
bị cáo
Số
Số
Số
Số
Số
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Tỷ lệ
đã xét
bị
Tỷ lệ %
bị
Tỷ lệ %
bị
bị
bị
%
%
bị cáo
%
%
xử
cáo
cáo
cáo
cáo
cáo
2015
144
86
59,72%
34
23,61%
21
14,58%
3
2,09%
0
0%
0
0%
2016
135
82
60,74%
30
22,22%
19
14,08%
3
2,22%
1
0,74%
0
0%
2017
140
79
56,43%
32
22,86%
24
17,14%
5
3,57%
0
0%
0
0%
2018
145
77
53,10%
37
25,52%
25
17,24%
6
4,14%
0
0%
0
0%
2019
178
91
51,13%
46
25,84%
31
17,41%
9
5,06%
1
0,56%
0
0%
Tổng
742
415 55,93% 179 24,12%
120
2
0,27%
0
0%
16,17% 26 3,51%
Nguồn: TAND thành phố Đà Nẵng
Phân tích Bảng số liệu 2.4 cho thấy, trong cơ cấu mức hình phạt áp dụng đối
với tội MBTPCMT, mức hình phạt tù dưới 03 năm tù chiếm tỷ lệ phần trăm cao nhất
(chiếm 55,93%), tiếp đến là từ 03 năm đến dưới 07 năm (chiếm 24,12%), tiếp theo đó
là mức phạt tù từ 07 năm đến dưới 15 năm (chiếm 16,17%). Hình phạt tù từ 15 đến
20 năm áp dụng 26 trường hợp (chiếm 3,51%). Tù chung thân áp dụng 02 trường hợp
(chiếm tỷ lệ 0,27%) và riêng hình phạt tử hình thì chưa áp dụng. Cũng dễ hiểu bởi
đây là hình phạt có khung nặng nhất, có tính răn đe nghiêm khắc nhất đối với những
hành vi MBTPCMT với số lượng lớn và tính chất đặc biệt nguy hiểm.
2.2.2.1. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma
túy theo quy định của Bộ luật hình sự
Thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 -2019, về cơ
bản khi quyết định hình phạt Tòa án tuân thủ triệt để theo các quy định của BLHS
năm 2015. Nhìn chung việc áp dụng hình phạt chủ yếu theo khoản 1 và khoản 2 Điều
251. Việc áp dụng hình phạt theo khoản 3 và khoản 4 là có nhưng chiếm số lượng ít
hơn. Ngoài áp dụng những hình phạt chính đối với tội MBTPCMT gồm: Tù có thời
hạn, tù chung thân, TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng cũng đã áp dụng hình phạt bổ
sung đó là phạt tiền. Qua nghiên cứu các Bản án nhận thấy, hình phạt tiền tuy được
41
TAND hai cấp áp dụng nhưng ở mức độ còn hạn chế. Bởi lẽ qua khảo sát thực tiễn
xét xử cho thấy đa phần các bị cáo phạm tội thường là những người không có nghề
nghiệp, thu nhập ổn định, có tiền án, tiền sự, nghiện ma túy, mua bán nhỏ lẻ, điều
kiện gia đình nghèo khó. Tại các Bản án HĐXX thường nhận định như: “Do bị cáo
không có nghề nghiệp ổn định, bản thân bị cáo không có tài sản có giá trị nên HĐXX
không áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền đối với bị cáo theo quy
định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự”.
Nhận thấy rằng, việc quyết định hình phạt theo quy định của BLHS, TAND
hai cấp thành phố Đà Nẵng 05 năm qua đã tuân thủ triệt để, áp dụng đúng các quy
định của BLHS. Ngoài những kết quả đạt được, qua nghiên cứu tác giả thấy rằng
vẫn còn một số Bản án có sai sót, cụ thể:
Ví dụ 8: Khoảng 21h00 phút ngày 23/3/2018, Hồ Ngọc Q gọi điện thoại cho
Phạm Công Th hỏi mua thêm 20 viên thuốc lắc và 02 chỉ ma túy loại Ketamine, Th
đồng ý bán với giá 280.000 đồng/1 viên, 1.900.000 đồng/1 chỉ Ketamine và hẹn gặp
Q tại phía sau ký túc xá DMC, phường HK để giao dịch. Sau đó, Th bán cho Q 20
viên thuốc lắc, 02 chỉ ma túy loại Ketamine và lấy số tiền 3.800.000 đồng (Q nợ Th
5.600.000 đồng tiền mua thuốc lắc). Sau khi bán xong, Th về đến sân bóng đã mini
trên đường Phạm Như Xương, phường HK, thì bị kiểm tra hành chính thu giữ trên
người Th 35 viên thuốc lắc là ma túy loại MDMA khối lượng 12,501 gam và 02 gói
ma túy loại Ketamine khối lượng 1,040 gam.
Sau khi mua ma túy của Th, Q phân ra 01 chỉ Ketamnine Th 02 gói nhỏ rồi Đ
đến trước quán Karaoke R, quận Liên Chiểu bán cho Hồ Quốc H 10 viên thuốc lắc
với giá 4.000.000 đồng và 02 gói ma túy Ketamine với giá 2.500.000 đồng rồi tiếp
tục điều khiển xe mô tô đến ngã tư đường Kinh Dương Vương - Nguyễn Sinh Sắc,
phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu thì bị kiểm tra hành chính và thu giữ 30 viên
ma túy loại MDMA khối lượng 11,840 gam và 0,424 gam ma túy loại Ketamine.
Tổng trọng lượng ma túy thu giữ có liên quan đến hành vi mua bán của Phạm Công
Th là 24,341 gam ma túy loại MDMA và 1,464 gam ma túy loại Ketamine
Tại Bản án sơ thẩm số 98/2018/HS-ST ngày 07/11/2018, TAND quận Liên
42
Chiểu đã căn cứ vào: Điểm b, i, p khoản 2 Điều 251; Điểm r, s khoản 1, khoản 2
Điều 51 BLHS 2015. Xử phạt: Phạm Công Th 13 năm tù, Hồ Ngọc Q 12 năm tù
năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Ngày 12/11/2018, bị cáo Phạm Công Th, Hồ Ngọc Q có đơn kháng cáo với
nội dung: Án sơ thẩm xử nặng xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Tại Bản án phúc thẩm số 06/2018/HS-PT, ngày 11/01/2019, TAND thành
phố Đà Nẵng HĐXX nhận định như sau: TAND quận Liên Chiểu đã xét xử các bị
cáo Th và Q về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 251
BLHS là có căn cứ, đúng tội. Về tình tiết định khung: Th bán ma túy cho Q 02 lần;
Q bán ma túy cho đối tượng tên H 02 lần nên các bị cáo phạm tội ở tình tiết “phạm
tội 02 lần trở lên” theo điểm b, khoản 2, Điều 251 BLHS là có căn cứ.
Tổng khối lượng ma túy mà Th phải chịu TNHS là 24,341 gam ma túy loại
MDMA và 1,464 gam ma túy loại Ketamine. Tổng khối lượng ma túy mà Th phải
chịu TNHS là 12,264 gam ma túy loại Ketamine; trường hợp này các bị cáo cùng lúc
mua bán 02 chất ma túy khác nhau nhưng Tòa án cấp sơ thẩm kết án các bị cáo theo
cả hai tình tiết định khung quy định tại các điểm i và p khoản 2 Điều 251 BLHS là
không đúng với hướng dẫn tại Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 và phụ
lục kèm theo hướng dẫn về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại
một số Điều của BLHS năm 2015. Trường hợp này chỉ truy tố và xét xử theo điểm p
khoản 2 Điều 251 BLHS mới đúng nên Tòa án cấp phúc thẩm sửa lại cho đúng.
Qua vụ án trên nhận thấy, TAND quận Liên Chiểu đã xác định các bị cáo phạm
tội theo 03 tình tiết định khung là b, i, p khoản 2 Điều 251 BLHS trong khi các bị cáo
chỉ phải chịu TNHS ở 02 tình tiết định khung theo điểm b, p khoản 2 Điều 251 BLHS,
do đó mức án mà Tòa cấp sơ thẩm đã tuyên là có phần nặng đối với các bị cáo. Từ
những căn cứ trên HĐXX chấp nhận kháng cáo các bị cáo sửa một phần Bản án sơ
thẩm, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Xử phạt: Phạm Công Th 12 (mười hai) năm
tù, Hồ Ngọc Q 11 (mười một) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
43
2.2.2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma
túy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
Việc quyết định hình phạt của Tòa cấp sơ thẩm thành phố Đà Nẵng 05 năm
qua đã tuân thủ triệt để, áp dụng đúng các quy định của BLHS. Tuy nhiên vẫn còn
có những hạn chế, thiếu sót nhất định, có những vụ án việc áp dụng hình phạt đối
với các bị cáo có tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cao hơn, nhưng
Tòa cấp sơ thẩm vẫn tuyên mức hình phạt thấp hơn dẫn đến chưa đảm bảo các
nguyên tắc, mà cụ thể là nguyên tắc công bằng trong quyết định hình phạt.
Ví dụ 9: Với một hành vi phạm tội có tính chất khá tương đồng nhau, số
lượng ma túy thu được có sự chênh lệch nhau hơn 03 lần nhưng bị cáo thực hiện
hành vi mua bán trái phép có số lượng ma túy ít hơn lại bị Tòa án áp dụng hình phạt
nặng hơn, cụ thể:
Vụ thứ 1: Vào lúc 12 giờ 10 phút ngày 06/4/2018, tại trước số nhà 70 đường
L, phường T, quận S, Tp Đà Nẵng, trong lúc Nguyễn Huy T đang tàng trữ trái phép
ma túy loại Methamphetamine (ký hiệu M1) trong túi quần bên phải phía trước
đang mặc nhằm mục đích đem đi bán cho đối tượng tên Quậy với số tiền 500.000đ,
nhưng chưa kịp bán thì bị Tổ tuần tra Biên phòng S phát hiện, bắt quả tang và thu
giữ cùng tang vật.
Tại Kết luận giám định số 54/GĐ-MT ngày 10/4/2018 của Phòng Kỹ thuật
hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Tinh thể màu trắng trong bì niêm
phong ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu
tinh thể M1 là: 0,448 gam.
Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2018/HSST ngày 07/7/2018 TAND quận Sơn
Trà, căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt Nguyễn Huy T: 04 (bốn) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Vụ thứ 2: Khoảng 20h30 ngày 29/8/2018 tại đoạn ngã ba đường X giao với
đường Hoàng Văn Thái thuộc tổ 116, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng.
Nguyễn Thanh H đang tàng trữ trái phép 02 gói ma túy loại Methamphetamine ký
hiệu là G1, G2 với mục đích để bán cho người khác để kiếm lời thì bị lực lượng
44
Đồn biên phòng Hải Vân thuộc Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng thành phố Đà Nẵng
tiến hành kiểm tra hành chính phát hiện và bắt quả tang.
Theo Kết luận giám định số 176/GĐ-MT ngày 03/9/2018 của Phòng Kỹ
thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Tinh thể màu trắng trong mẫu
ký hiệu G1, G2 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng: G1:
0,203 gam; G2: 3,591 gam. Tổng cộng 3,794 gam.
Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2019/HS-ST, ngày 23/01/2019 TAND quận
Liên Chiểu, căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm
2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh H 03 năm tù về
tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xét thấy ở hai vụ án, hai bị cáo đều thực hiện hành vi khá tương đồng nhau,
tuy nhiên trường hợp thứ hai lượng ma túy (Methamphetamine) mà bị cáo H mua
bán trái phép nhiều hơn 03 lần lượng ma túy mà bị cáo T mua bán trái phép (cho
thấy tính chất, mức độ về hành vi phạm tội của H là nguy hiểm hơn hành vi phạm
tội của T). Bên cạnh đó, khi nghiên cứu kỹ bản án tác giả nhận thấy, cả hai bị cáo (T
và H) đều là người có nhân thân xấu, đã bị xử phạt vi phạm hành chính bằng hình
thức phạt tiền về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, nhưng Tòa sơ thẩm lại
quyết định hình phạt đối với T nặng hơn H (T 04 năm tù, H 03 năm tù).
2.2.2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma
túy theo đặc điểm nhân thân người phạm tội
Nhìn chung thực tiễn xét xử tội MBTPCMT, Tòa án cấp sơ thẩm thành phố
Đà Nẵng đều đã có những sự lưu ý nhất định đến việc cân nhắc nhân thân người
phạm tội, đa phần các Bản án đều có nhận định đầy đủ, xác định chính xác nhân
thân người phạm tội để lấy đó làm căn cứ quyết định hình phạt một cách phù hợp,
công bằng đối với người phạm tội, qua nghiên cứu tác giả không phát hiện trường
hợp nào có sai sót xảy ra.
2.2.2.4. Thực tiễn quyết định hình phạt theo các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng
trách nhiệm hình sự
Thực tiễn quyết định hình phạt tội MBTPCMT theo các tình tiết giảm nhẹ,
45
tăng nặng TNHS trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đã được áp dụng một cách chính
xác triệt để, khách quan và hiệu quả, không phát hiện sai sót nào xảy ra, điều đó
được thể hiện thông qua các Bản án. Hầu hết những hình phạt được tuyên đều là
những hình phạt nghiêm khắc để răn đe, giáo dục, ngăn ngừa việc phạm tội đồng
thời nhằm tạo ra sự tin tưởng, đồng tình để quần chúng nhân dân tham gia tích cực
vào cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa ma túy.
2.2.2.5. Quyết định hình phạt trong trường hợp đặc biệt
- Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm
Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm yêu cầu vừa phải tuân thủ
các quy định chung về quyết định hình phạt, vừa phải tuân theo quy định cụ thể tại
Điều 58 BLHS 2015 năm 2015. Qua khảo sát thực tiễn xét xử sơ thẩm trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng, quyết định hình phạt đối với tội MBTPCMT trong trường hợp
đồng phạm luôn được TAND hai cấp xem xét cẩn trọng đúng quy định pháp luật,
không phát hiện sai sót.
- Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt
Chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đều là những trường hợp của việc
thực hiện tội phạm chưa hoàn thành. Qua khảo sát thực tiễn xét xử sơ thẩm tại thành
phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 - 2019 cho thấy, tội phạm về MBTPCMT phần lớn
đều thuộc trường hợp bắt phạm tội quả tang, số còn lại đều có chứng cứ buộc tội
chặt chẽ để chứng minh hành vi MBTPCMT, do vậy qua nghiên cứu tác giả nhận
thấy không có vụ án nào định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội phạm này
ở giai đoạn phạm tội chưa hoàn thành.
2.3. Kết quả đạt được và những hạn chế thiếu sót trong công tác xét xử
tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
2.3.1. Những thành tích, kết quả đạt được
Trên cơ sở khảo sát thực tiễn xét xử tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng giai đoạn 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019, Tòa án cấp sơ thẩm thành
phố Đà Nẵng đã áp dụng có hiệu quả quy định của pháp luật vào thực tiễn xét xử tội
MBTPCMT và đã đạt được một số thành tích nhất định sau đây:
46
Một là, TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng đã có sự phối kết hợp thường
xuyên, liên tục, đồng bộ, nhịp nhàng với các cơ quan, ban ngành tại địa phương
trong quá trình giải quyết vụ án, kịp thời lựa chọn và đưa ra xét xử lưu động các vụ
án có tính chất nghiêm trọng tại những quận, huyện nóng về ma túy nhằm tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục, ngăn ngừa việc phạm tội đồng thời nhằm tạo ra sự tin
tưởng, đồng tình để quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh
phòng, chống ma túy.
Hai là, công tác thụ lý, giải quyết, xét xử án sơ thẩm về tội MBTPCMT luôn
đạt tỷ lệ cao, không để xảy ra án quá hạn, tỷ lệ Tòa án hủy án trả hồ sơ điều tra bổ
sung theo quy định cũng rất thấp, hầu như không có, chất lượng giải quyết vụ án
ngày càng được nâng cao.
Ba là, bám sát và áp dụng đầy đủ, linh hoạt, khoa học các quy định của pháp
luật hình sự nên kết quả xét xử cơ bản chính xác, nghiêm minh, đúng người, đúng
tội, không để xảy ra trình trạng kết án oan người không phạm tội hay bỏ lọt tội
phạm. Việc định tội danh được thực hiện chính xác, áp dụng hình phạt cơ bản phù
hợp đã góp phần giữ vững kỷ cương phép nước, vừa bảo đảm tính nhân đạo, hướng
thiện trong từng trường hợp cụ thể. Vì vậy, số lượng Bản án có kháng cáo, kháng
nghị ít, kết quả phúc thẩm, không chấp nhận kháng cáo, tỷ lệ y án sơ thẩm là chủ
yếu, ít có vụ nào sửa về tội danh, đặc biệt không có vụ nào bị hủy.
Bốn là, công tác phối kết hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng như cơ quan
điều tra, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án cũng đã đi vào chiều sâu, ngày càng cụ thể
và hiệu quả hơn, đáp ứng tốt yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong
tình hình hiện nay.
2.3.2. Những hạn chế, thiếu sót
Trong quá trình áp dụng pháp luật vào thực tiễn xét xử tội MBTPCMT giai
đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng vẫn còn tồn tại
một số hạn chế, thiếu sót tuy không nhiều nhưng tác giả cho rằng cần phải rút kinh
nghiệm, đáng chú đó là:
Một là, phần lớn các vụ án về tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố Đà
47
Nẵng không giám định về hàm lượng chất ma túy trước khi có Công văn số 234/CV
ngày 17/9/2014 của TANDTC và Thông tư số 08 ngày 14 tháng 11 năm 2015. Điều
này là chưa phù hợp với các yêu cầu được quy định tại Thông tư 17 ngày 24 tháng
12 năm 2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm
về ma túy” của BLHS năm 1999.
Hai là, một vài vụ án Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết định tội còn
chưa thỏa đáng, chưa đảm bảo áp dụng đúng pháp luật (ví dụ 4). Có Bản án Tòa án
định tội danh khác với tội mà VKS truy tố, vi phạm Điều 298 BLTTHS về “giới hạn
của việc xét xử” (ví dụ 5).
Ba là, một số vụ án chưa đảm bảo được nguyên tắc công bằng trong quyết
định hình phạt, vẫn còn xảy ra tình trạng thực hiện một hành vi phạm tội có tính
chất, mức độ nguy hiểm cao hơn nhưng lại quyết định hình phạt nhẹ hơn (ví dụ 9).
Bên cạnh đó vẫn còn Bản án quyết định hình phạt nặng do áp dụng sai tình tiết định
khung (ví dụ 8).
- Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót
Những sai sót trên của Tòa án trong việc định tội danh, áp dụng hình phạt
xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng tựu trung lại, có thể nhận biết các
nguyên nhân cơ bản sau đây:
* Nguyên nhân khách quan
Quy định của pháp luật hiện hành còn có những hạn chế, vướng mắc, còn tồn
tại nhiều bất cập diễn ra nhiều năm, một số quy định không còn phù hợp hoặc còn
thiếu, khuyết trong việc điều chỉnh những vấn đề phát sinh mới trong xã hội. Những
quy định về chế định hình phạt đối với tội MBTPCMT còn gối đầu, chưa rõ ràng,
khoảng cách định lượng của các chất ma túy và mức hình phạt tương ứng chưa khoa
học, còn thiếu sự công bằng.
Vẫn còn có những cách hiểu và nhận thức khác nhau, không thống nhất trong
thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền hướng
dẫn áp dụng kịp thời. Việc lựa chọn và ban hành án lệ còn hạn chế, do đó mỗi cơ
quan tiến hành tố tụng lại có cách hiểu riêng và vận dụng khác nhau dẫn đến lúng
48
túng, thiếu nhất quán trong việc xử lý tội phạm, quyết định hình phạt.
* Nguyên nhân chủ quan
Trình độ nghiệp vụ, năng lực chuyên môn của một số Điều tra viên, Kiểm sát
viên, Thẩm phán, Thư ký tòa án, Hội thẩm nhân dân còn chưa theo kịp yêu cầu của
thực tiễn; nhận thức lý luận về các vấn đề của Luật hình sự còn hạn chế; đôi lúc
hiểu không đầy đủ, đúng đắn các quy định của BLHS, BLTTHS và một số văn bản
hướng dẫn khác về điều tra, xử lý tội phạm về ma túy, kỹ năng ứng dụng công nghệ
4.0 vào giải quyết công việc còn chậm.
Ở một số thời điểm chất lượng xét xử của một số Thẩm phán còn chưa cao
có thể do thiếu chủ động, thận trọng trong công tác nghiên cứu hồ sơ vụ án trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử, đôi lúc thiếu sự tích cực trong việc trau dồi kinh nghiệm
nghề nghiệp, trải nghiệm sống và nhận thức xã hội, bản lĩnh nghề nghiệp của mình.
Vai trò của luật sư trong các giai đoạn tố tụng đôi lúc còn chưa bảo đảm. Sự
tham gia của người bào chữa, nhất là luật sư có thể xem như một công cụ hữu hiệu
để giúp cho các cá nhân, tổ chức bảo vệ được các quyền và lợi ích chính đáng của
mình, là yếu tố quan trọng nhằm đảm bảo cho vụ án được giải quyết đúng đắn,
khách quan, kịp thời, đúng người, đúng pháp luật, bảo đảm quyền con người, quyền
cơ bản của công dân. Tuy nhiên qua nghiên cứu Bản án tác giả nhận thấy nhiều vụ
án không có hoặc vắng luật sư, dẫn đến chưa đảm bảo nguyên tắc tranh tụng, quyền
bào chữa của người bị buộc tội trong các hoạt động tố tụng.
Một số người vẫn có quan niệm cho rằng, Hội thẩm nhân dân chỉ tham gia
cho đủ thành phần, đủ số lượng, một số còn yếu, thiếu sự hiểu biết chuyên sâu về
pháp luật liên quan đến các tội về ma túy, các quan điểm, ý kiến tại phiên tòa còn
mang tính chung chung dễ bị phụ thuộc vào ý kiến của Thẩm phán;
Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp
luật hình sự mặc dù đã được chú trọng thực hiện, nhưng ở một số thời điểm chưa
mang lại chất lượng, hiệu quả như mong muốn, còn thiếu những thiết chế kiểm tra,
giám sát ở những khâu trọng điểm, nhất là của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các tổ
chức thành viên.
49
Tiểu kết chương 2
Định tội danh đúng và quyết định hình phạt chính xác là các tiền đề quan
trọng trong việc thực thi công lý một cách công bằng và hiệu quả, từ đó góp phần
giữ vững kỉ cương phép nước, cho thấy pháp luật được thực thi một cách có hiệu
quả, đem lại sự đồng thuận cao trong xã hội.
Qua việc khảo sát, phân tích thực tiễn xét xử tội MBTPCMT trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn 05 năm (2015-2019) có thể thấy TAND hai cấp
thành phố Đà Nẵng đã bám sát chủ đề thi đua xuyên suốt “Phụng công, thủ pháp,
chí công vô tư” với phương châm “Gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”, gắn với
chủ đề hành động “Trách nhiệm, kỷ cương, chất lượng, vì công lý”, với đội ngũ
công chức có kỷ luật cao, hệ thống công vụ vận hành sống động và hiệu quả cơ bản
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng đã hoàn
thành xuất sắc các nhiệm vụ chính trị được giao và đã đạt được những kết quả đáng
ghi nhận, góp phần thực thi công lý, giữ vững an ninh chính trị tại địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong công tác xét xử của Tòa án
cấp sơ thẩm thì vẫn còn tồn tại một số hạn chế, sai sót trong công tác xét xử dẫn đến
chất lượng và hiệu quả chưa được như mong đợi. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình
trạng nêu trên, vì vậy việc nhận thức kịp thời các nguyên nhân dẫn đến sai sót và
khắc phục kịp thời những sai phạm, hạn chế đó sẽ giúp cho công tác định tội danh và
quyết định hình phạt đúng đắn hơn, hạn chế việc kết án oan người không phạm tội
hay bỏ lọt tội phạm, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng, đảm bảo pháp luật được
tuân thủ triệt để, từ đó chất lượng xét xử của Tòa án ngày càng được nâng cao.
50
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
3.1. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về
tội mua bán trái phép chất ma túy
3.1.1. Đẩy mạnh công tác đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ có thẩm quyền áp dụng pháp luật
Do tính chất đặc thù của công việc, ngành Công an, Kiểm sát và Tòa án phải
thường xuyên đối mặt với những tiêu cực xã hội, hàng ngày phải tiếp xúc với nhiều
loại tội phạm trong đó có tội phạm về ma túy, tội MBTPCMT luôn là tội nguy hiểm
nhất bởi nó là nguồn gốc phát sinh ra các tội phạm ma túy khác và tính phát tán
nhanh, rộng chất ma túy đến các ngõ ngách, mọi khu phố và thậm chí còn vượt qua
biên giới để sang các nước khác… Bên cạnh đó tội MBTPCMT có siêu lợi nhuận nên
thu hút được nhiều đối tượng phạm tội, dẫn đến việc các phương thức, thủ đoạn của
loại tội phạm này ngày càng tinh vi, xảo quyệt, phức tạp, không chỉ đơn thuần dừng
lại ở các hành vi khách quan cơ bản mà đã xuất hiện nhiều sự biến tướng, những thủ
đoạn phạm tội mới tinh vi phức tạp hơn.
Môi trường đấu tranh phòng, chống tội MBTPCMT là một môi trường phức
tạp, tiềm ẩn nhiều khó khăn, thách thức, gian khổ, hiểm nguy, song song với đó là
những cạm bẫy, khiến con người dễ bị sa ngã, không đứng vững trước những ma lực
của cám dỗ… Do đó nếu không có một cái đầu lạnh, một trái tim nóng và đôi bàn tay
sạch, nếu tâm không trong, trí không sáng và bản lĩnh nghề nghiệp không vững vàng
thì rất dễ bị tội phạm cám dỗ bằng “đạn bọc đường” từ đó dẫn đến tình trạng bỏ lọt
tội hoặc xét xử oan người vô tội, xâm phạm quyền con người, vi phạm các quyền cơ
bản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm giảm sút niềm tin của quần chúng nhân
dân đối với cơ quan tư pháp. Trong khi đó, con người là nhân tố then chốt, quyết định
thành, bại của tất cả các vấn đề, cán bộ là cái gốc của công việc, là chủ thể trực tiếp
51
áp dụng pháp luật. Chính vì lẽ đó việc giáo dục nâng cao phẩm chất chính trị, bản
lĩnh nghề nghiệp, đạo đức lối sống, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, hiểu biết tinh
thần pháp luật, nhận thức xã hội, kinh nghiệm nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ có
thẩm quyền giải quyết các vụ án về tội MBTPCMT là yêu cầu rất bức thiết và quan
trọng. Để thực hiện tốt vấn đề này, tác giả đưa ra một số giải pháp sau:
Một là, đẩy mạnh hơn nữa việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh”, thực hiện có hiệu quả lời Bác Hồ dạy “Phụng công thủ
pháp, chí công vô tư”, tăng cường tổ chức các lớp đào tạo, học tập, bồi dưỡng quán
triệt nghiêm túc và sâu rộng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, các quy định, quy chế của các ngành liên quan, cụ thể hoá bằng
những nhiệm vụ phù hợp, đảm bảo tính khả thi cao và sát với điều kiện thực tiễn
của các ngành, của các cơ quan đơn vị.
Hai là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ áp dụng pháp luật vững về chính
trị, giỏi về pháp luật, tinh thông về nghiệp vụ, có kiến thức, kỹ năng cần thiết về tin
học, ngoại ngữ bằng cách chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, trang bị đầy đủ kiến thức pháp
lý và kiến thức chuyên môn cần thiết. Siết chặt kỷ luật nghiệp vụ, phải không ngừng
tự phấn đấu, học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ, phải thường xuyên đổi mới, tích
cực ứng dụng công nghệ thông tin vào thực tiễn công tác, nêu cao tinh thần trách
nhiệm trong công việc, tự đánh giá rút kinh nghiệm, nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác áp dụng pháp luật, bảo đảm thống nhất nhận thức pháp luật và
thống nhất áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án. Đảm bảo xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không xử oan người không có tội và không
bỏ lọt tội phạm, đảm bảo pháp luật được tuân thủ triệt để, từ đó chất lượng xét xử
của Tòa án ngày càng được nâng cao.
Ba là, thường xuyên tổ chức nhiều đợt tập huấn, bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo
lại bằng nhiều hình thức khác nhau về chuyên môn nghiệp vụ, theo chuyên đề
chuyên sâu, về kỹ năng xét xử, tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm trong công tác xét
xử, tập trung cao độ giải đáp các vướng mắc, bất cập về nghiệp vụ, hướng dẫn
thống nhất áp dụng pháp luật, sớm xây dựng và ban hành án lệ… trong việc giải
52
quyết án ma tuý giữa các cơ quan có thẩm quyền các cấp, đặc biệt là những địa
phương trọng điểm, phức tạp về án MBTPCMT; tăng cường hoạt động nghiên cứu
lý luận, tổng kết thực tiễn, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, hội thảo, tọa
đàm, báo cáo kinh nghiệm thực tế để các cán bộ nâng cao trình độ, học hỏi, tích lũy
kinh nghiệm trong việc giải quyết án ma tuý, nhằm vận dụng linh hoạt trong việc xử
lý, phát huy được tính độc lập, chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình.
Đối với cơ quan điều tra, đẩy mạnh việc tuyển chọn những người có tinh
thần trách nhiệm cao, đủ tâm, đủ tầm, đủ tài, đủ đức vào làm trong hệ thống Cơ
quan điều tra. Đào tạo các Điều tra viên theo hướng nâng cao trình độ pháp luật, ý
thức đạo đức, kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức sử dụng phương tiện kỹ thuật, thực
sự cầu thị, nhận thiếu sót khuyết điểm để hoàn thiện bản thân, dũng cảm đấu tranh
vì công lý; nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động lấy lời khai, hỏi cung theo
hướng sáng tạo, chặt chẽ, lôgíc những vấn đề cần chú ý làm rõ nhằm góp phần mở
rộng công tác điều tra, khám phá triệt để, tận gốc các tụ điểm, đường dây, tổ chức
phạm tội mua bán trái phép chất ma túy.
Đối với VKSND các cấp, cần đảm bảo cả về số lượng lẫn chất lượng của
Kiểm sát viên, mỗi Kiểm sát viên cần được bồi dưỡng, đào tạo kỹ càng về kiến thức
pháp lý, đặc biệt là pháp luật hình sự, tố tụng hình sự nói chung và lĩnh vực án ma
túy nói riêng để có thể định tội danh đúng, định khung hình phạt chính xác và kiểm
sát án ma túy được chặt chẽ, có hiệu quả, không để xảy ra oan, sai trong điều tra,
xét xử tội phạm. Tiếp tục thực hiện tốt việc đào tạo các Kiểm sát viên có trình độ
nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu trong lĩnh vực hợp tác quốc tế để giải quyết
những vụ án ma túy có yếu tố nước ngoài.
Đối với TAND các cấp, tập trung cao độ cho việc nâng cao chất lượng đội
ngũ Thẩm phán, bảo đảm cho lực lượng này có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
năng lực công tác và đạo đức nghề nghiệp. Cùng với việc đổi mới tổ chức hệ thống
Tòa án, đội ngũ Thẩm phán cần phải được đào tạo là những chuyên gia đầu ngành
về pháp luật và kinh nghiệm trong ngành. Thẩm phán là người “cầm cân nảy mực”,
53
phán quyết của họ quyết định đến sinh mệnh chính trị của bị cáo. Vì thế, họ phải là
những người có kinh nghiệm nghề nghiệp, trải nghiệm sống, nhận thức xã hội và
am hiểu nhất về luật pháp, khách quan, công tâm, dũng cảm, vị tha và khoan dung
trong phán quyết của mình từ đó đưa ra những phán quyết đúng người, đúng tội,
tránh cho việc áp dụng pháp luật một cách khô cứng, máy móc. Đồng thời tăng
cường tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ chuyên môn chung cũng như theo chuyên
đề; cập nhật các văn bản pháp luật mới; tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm cho đội
ngũ Thẩm phán và thư ký Tòa án các cấp. Thực hiện có hiệu quả việc tổ chức đào
tạo lại Thẩm phán; mỗi Thẩm phán sau mỗi nhiệm kỳ cần được tổ chức đào tạo lại,
cập nhật kiến thức mới không chỉ về pháp luật mà cả các lĩnh vực khác liên quan...
Đặc biệt chú trọng đúng mức tới việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức pháp
lý cần thiết cho đội ngũ Hội thẩm nhân dân bởi lẽ đây chủ yếu là những cán bộ hưu
trí hoặc đang công tác, làm việc ở các lĩnh vực, ngành không hoặc ít liên quan đến
pháp luật như (Mặt trận Tổ quốc, Hội cựu chiến binh, cán bộ hưu trí, giáo viên ...)
khả năng hiểu biết, nhận thức về pháp luật hình sự nói chung, tội MBTPCMT nói
riêng còn nhiều hạn chế.
3.1.2. Tăng cường hơn nữa vai trò của luật sư trong các hoạt động tố tụng
Trong phiên tòa hình sự nói chung, có thể khẳng định rằng luật sư là “chỗ
dựa tinh thần” cho thân chủ tại chốn tụng đình, giúp người bị bắt, bị tạm giữ, bị cáo
hay đương sự ổn định tâm lý từ đó bình tĩnh, sáng suốt trình bày và phải nêu cao
tinh thần trách nhiệm, sử dụng kiến thức chuyên môn, các kỹ năng nghề nghiệp linh
hoạt, khoa học để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của khách hàng [30].
Theo thống kê, hiện nay tại thành phố Đà Nẵng có 68 tổ chức hành nghề luật
sư gồm 41 Văn phòng luật sư và 22 Công ty luật. Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng
có 230 luật sư chính thức (172 nam, 67 nữ), 50 luật sư tập sự. Giai đoạn từ năm
2015 đến năm 2019, số vụ án có sự tham gia của luật sư trong tổng số các vụ án
hình sự mà TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng đã thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ
thẩm là tương đối thấp, chỉ chiếm tỷ lệ 15,67% (871/5556) và các vụ án có luật sư
bào chữa chủ yếu là các trường hợp bào chữa theo yêu cầu của Tòa án (bào chữa chỉ
54
định), số vụ án có luật sư tham gia bào chữa theo yêu cầu của khách hàng chiếm tỷ
lệ rất thấp. Giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, các luật sư của Đoàn luật sư
thành phố Đà Nẵng đã tham gia bào chữa 808 vụ án hình sự ở các giai đoạn tố tụng;
trong đó, số vụ án tham gia bào chữa theo yêu cầu của khách hàng là 209 vụ, chiếm
tỷ lệ 25,86%; số vụ án tham gia bào chữa theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố
tụng (bào chữa chỉ định) là 599 vụ, chiếm tỷ lệ 74,14% [22, tr.11].
Qua phân tích trên thấy rằng, thực tế tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự
nói chung, vụ án MBTPCMT nói riêng của luật sư chiếm tỷ lệ chưa cao, chưa tương
xứng với vị thế là một trong những thành phố trực thuộc Trung ương của Đà Nẵng,
nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên tác giả cho rằng mặc dù BLTTHS năm 2015
đã có nhiều quy định mới tạo sự minh bạch, rõ ràng và thuận lợi hơn cho luật sư
trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tuy nhiên vẫn còn những quy
định của pháp luật hiện hành có nhiều hạn chế, vướng mắc gây khó khăn, cản trở
cho luật sư thực hiện nhiệm vụ. Mặt khác, các cơ quan tiến hành tố tụng, những
người tiến hành tố tụng thiếu thiện chí, ít hợp tác, chưa tạo các điều kiện thuận lợi,
chưa nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của luật sư trong giai đoạn tố tụng, mặc
cảm rằng luật sư vào là “lắm điều nhiều lẽ”, từ đó gây khó khăn trong việc thực
hiện quyền của luật sư. Bên cạnh đó, nhận thức pháp luật của các bị can, bị cáo, của
công dân Việt Nam về người bào chữa nói chung, luật sư nói riêng còn hạn hẹp, góp
phần làm giảm vai trò của luật sư trong các giai đoạn tố tụng hình sự. Bên cạnh đó,
nguyên nhân chính là do trình độ, năng lực, kỹ năng hành nghề, chất lượng bào
chữa của đội ngũ luật sư còn yếu, cá biệt có trường hợp luật sư bào chữa cho bị cáo
cho rằng “bị cáo H không có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, mà chỉ phạm
tội sử dụng trái phép chất ma túy, đề nghị HĐXX chuyển sang tội danh Sử dụng trái
phép chất ma túy”, trong khi BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã bãi bỏ
tội danh nói trên [67, tr.7].
Vì vậy, trong phạm vi luận văn tác giả mạnh dạn đề xuất một số giải pháp
góp phần tăng cường hơn nữa vai trò của luật sư trong quá trình tham gia các hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử vụ án MBTPCMT như sau:
55
Một là, hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm
hoạt động của người bào chữa. Hiện nay, hoạt động của người bào chữa được quy
định ở nhiều văn bản khác nhau như BLTTHS, Luật Luật sư, Luật Trợ giúp pháp lý
và các văn bản hướng dẫn thi hành,… Đến BLTTHS 2015 đã có nhiều thay đổi về
bảo đảm quyền bào chữa và hoạt động của người bào chữa như đã nêu trên, vì vậy
các cơ quan hữu quan cần rà soát các văn bản pháp luật hiện hành, từ đó chỉnh sửa,
bổ sung các quy định hoặc ban hành văn bản mới thay thế cho phù hợp. Trong đó
cần hướng dẫn đầy đủ chi tiết về nội dung bảo đảm sự có mặt của luật sư, mức độ,
phạm vi tham gia của luật sư trong các hoạt động tố tụng.
Hai là, tăng cường tuyên truyền pháp luật về quyền và nghĩa vụ của luật sư
trong các giai đoạn tố tụng. Từ đó các tầng lớp nhân dân luôn có ý thức tìm đến sự trợ
giúp pháp lý của luật sư khi gặp những vấn đề có liên quan đến pháp luật tố tụng hình
sự. Mặt khác cần thiết phải thay đổi nhận thức của người dân nói chung và người bị
buộc tội cũng như người đại diện hợp pháp của họ nói riêng khi cho rằng sự tham gia
tố tụng của luật sư là không cần thiết và tốn kém trong khi bản thân người buộc tội và
người đại diện hợp pháp của họ lại không có khả năng bào chữa hiệu quả.
Ba là, nâng cao nhận thức và năng lực cho các cơ quan và những người tiến
hành tố tụng, nhất là Cơ quan Cảnh sát điều tra và Điều tra viên về vị trí, ý nghĩa, tầm
quan trọng, quyền và nghĩa vụ của luật sư trong giai đoạn điều tra. Cần phải nhìn
nhận sự tham gia của luật sư là yếu tố khách quan, nhằm đảm bảo cho vụ án được
giải quyết đúng đắn, khách quan, kịp thời, đúng người, đúng pháp luật, bảo đảm
quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Sự có mặt của luật sư trong quá trình
điều tra không gây khó khăn cho các Cơ quan điều tra, họ chỉ bác bỏ việc buộc tội
thiếu căn cứ pháp lý chứ không phải là “đối thủ” của các Cơ quan điều tra. Vì vậy,
Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên cần tạo điều kiện thuận
lợi cho luật sư thực hiện tốt chức năng bào chữa của họ theo quy định của pháp luật.
Bốn là, bản thân mỗi luật sư cần phải không ngừng nghiên cứu, học tập tích
lũy kinh nghiệm, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, liên tục cập nhật những nội dung
kiến thức pháp lý mới, thực hiện có hiệu quả việc tham gia bồi dưỡng, tập huấn
56
nghiệp vụ về luật sư; trao đổi nghiệp vụ, tiếp thu kinh nghiệm, kỹ năng; đề cao đạo
đức nghề nghiệp và ứng xử hành nghề, phải nhận thức đầy đủ tinh thần, trách
nhiệm, chức năng nghề nghiệp, vị trí, vai trò của mình trong hoạt động tố tụng hình
sự nhằm góp phần giữ vững lẽ phải, bảo vệ công lý; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
cho thân chủ; giúp giải quyết vụ án được công bằng, khách quan, chính xác.
3.1.3. Huy động sức mạnh của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã
hội và quần chúng nhân dân trong việc kiến nghị giám sát hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có vị trí và vai trò quan
trọng trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Cơ chế kiểm
tra, giám sát của MTTQ và các tổ chức thành viên đối với hoạt động tố tụng hình sự
thực chất là hoạt động giám sát của nhân dân thông qua các tổ chức của mình với
các hình thức và phương pháp giám sát phù hợp. Tuy nhiên, thực tiễn về vai trò của
MTTQ và các tổ chức thành viên trong việc giám sát trong các hoạt động tố tụng
hình sự tại thành phố Đà Nẵng có lúc, có nơi chưa được coi trọng đúng mức,
MTTQ các cấp sử dụng các hình thức giám sát đối với các đối tượng giám sát chưa
đa dạng và đồng bộ; một số thời điểm còn mang tính hình thức, đôi khi chưa bảo vệ
được quyền của thành viên trong các tổ chức mà họ tham gia; chưa có sự phối hợp
giữa giám sát của nhân dân đại diện là MTTQ với giám sát của cơ quan tiến hành tố
tụng; pháp luật hiện hành chưa tạo ra cơ chế công khai cung cấp thông tin trong
hoạt động giám sát, chưa xác định rõ trình tự, thủ tục và trách nhiệm của cơ quan,
người có thẩm quyền trong việc tiếp nhận giải quyết kiến nghị giám sát. Do vậy,
một số kiến nghị, phản ánh về kết quả hoạt động giám sát của MTTQ chưa kịp thời
xử lý, hoặc chưa được giải quyết thấu đáo [32, tr.51].
Những hạn chế, bất cập nêu trên xuất phát từ nguyên nhân sau: Các quy định
về kiến nghị giám sát chưa được cụ thể và đầy đủ về trách nhiệm, cơ chế, hậu quả
pháp lý, cũng như những điều kiện bảo đảm cho hoạt động giám sát của MTTQ và
các tổ chức chính trị - xã hội. Trong các văn bản pháp luật vẫn còn thiếu những quy
định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan, ban ngành trong việc giải quyết, trả lời
57
những kiến nghị của MTTQ; các điều kiện bảo đảm cho MTTQ và các tổ chức
chính trị - xã hội thực hiện chức năng giám sát ở một số nơi chưa đầy đủ; kinh phí
hoạt động của Mặt trận các cấp quận, huyện hiện nay cũng còn nhiều khó khăn;
trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội ở một số
địa phương chưa theo kịp thực tiễn; số lượng cán bộ chuyên trách của MTTQ và các
tổ chức chính trị - xã hội còn hạn chế.
Thiết nghĩ, trong thời gian tới để góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả, chất
lượng hoạt động kiến nghị giám sát các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều
tra, truy tố, xét xử vụ án MBTPCMT của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội và quần
chúng nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp cần thực hiện tốt các vấn đề sau:
Thứ nhất, tiếp tục ban hành văn bản hướng dẫn quy định về hoạt động giám
sát của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội (trong Luật MTTQ Việt Nam năm
2015) theo hướng bổ sung các biện pháp theo dõi quá trình tiếp nhận và trả lời việc
tiếp nhận kiến nghị của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền đối với các kiến
nghị giám sát; bổ sung các chế tài đối với trường hợp không tiếp nhận, hoặc tiếp
nhận nhưng trả lời không đúng thời gian luật định của cơ quan, người có thẩm
quyền đối với kiến nghị giám sát của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội.
Thứ hai, cần tiến tới pháp luật hóa mối quan hệ phối hợp giữa MTTQ với các
tổ chức thành viên và giữa các tổ chức thành viên với nhau trong việc hiệp thương,
phối hợp hành động và nhất là giữa cơ quan MTTQ với các cơ quan tiến hành tố
tụng, cần coi giám sát của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội là một nhu cầu tất
yếu trong quá trình tổ chức và hoạt động của các cơ quan này. Xây dựng hệ thống
cơ quan MTTQ các cấp trong sạch, vững mạnh có phương thức tổ chức, hoạt động
khoa học, hiện đại. Tăng cường xây dựng, đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác
giám sát, nâng cao hơn nữa các chế độ đãi ngộ, cải thiện thu nhập để đội ngũ này
yên tâm công tác, nhiệt tình, trách nhiệm với từng công việc, sự kiện được giao.
Thứ ba, thực hiện tốt hơn nữa việc công khai minh bạch và trách nhiệm giải
trình, trả lời chất vấn các quyết định truy tố, các bản án, quyết định của Tòa án sơ
thẩm nhất là những vụ án cụ thể có dấu hiệu oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm để kịp thời
58
nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân trên cơ sở đó báo cáo giải trình, giải
quyết phù hợp, đúng đắn.
Thứ tư, đổi mới hơn nữa phương thức hoạt động cùng với việc lựa chọn và
phối hợp sử dụng các hình thức giám sát theo quy định của pháp luật, cần phối, kết
hợp nhiều hình thức giám sát trong đó chú trọng việc cử cán bộ, chuyên gia tham
gia các đoàn giám sát của các cơ quan nhà nước, hay nghiên cứu, xem xét văn bản
của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trên cơ sở ý kiến của các chuyên gia, các Hội
đồng tư vấn liên quan đến hoạt động tố tụng hình sự.
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép
chất ma túy
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống ma túy là một nhiệm vụ quan
trọng nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống ma túy ở Việt Nam. BLHS
năm 2015 được ban hành trên nền tảng coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự
và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong
việc xử lý người phạm tội. Để góp phần hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật,
đồng thời đảm bảo ý nghĩa, mục đích của công tác đấu tranh phòng, chống tội
MBTPCMT, trong phạm vi luận văn tác giả mạnh dạn cho rằng vẫn cần phải tiếp
tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật về tội
MBTPCMT theo hướng ổn định, đảm bảo tính khả thi cao, nhanh đi vào cuộc sống
ở một số nội dung cụ thể như sau:
Thứ nhất, cần phải tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015
theo hướng bổ sung quy định về yếu tố “hàm lượng” vào điều luật khi định lượng
các chất ma túy. BLHS hiện hành đã có sự thay đổi về đơn vị tính các chất ma túy
so với BLHS 1999 đó là thay cụm từ “trọng lượng” bằng cụm từ “khối lượng” tuy
nhiên hiện nay trong quá trình áp dụng pháp luật, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn
áp dụng các văn bản hướng dẫn như Thông tư 17, Thông tư 08 quy định việc giám
định hàm lượng các chất ma túy trong các vụ án về ma túy. Bên cạnh đó, văn bản
quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành cũng đã chỉ đạo “việc giám định hàm lượng
chất ma túy là bắt buộc đối với các chất thu giữ được nghi là chất ma túy, để từ đó
59
xác định trọng lượng chất ma túy làm căn cứ xử phạt bị cáo (trọng lượng chất ma
túy được hiểu là trọng lượng ma túy tinh chất, ma túy nguyên chất)” [64]. Theo đó,
tại các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hiện hành và các văn bản chuyên ngành
hướng dẫn công tác xét xử của Tòa án đối với các vụ án ma túy thì đều nhắc tới khái
niệm “hàm lượng” của chất ma túy nhưng tại Điều 251 BLHS 2015 lại không quy
định về “hàm lượng” của chất ma túy tại các khung hình phạt tăng nặng mà chỉ quy
định về khối lượng và thể tích của các chất ma túy làm căn cứ định tội danh, định
khung hình phạt để truy tố, xét xử. Do vậy việc bổ sung thêm quy định về yếu tố
“hàm lượng” vào nội dung điều luật khi định lượng các chất ma túy sẽ đảm bảo cho
các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật được đồng bộ, thống nhất, chặt chẽ và khả
thi trong thực tế.
- Thứ hai, kịp thời khắc phục quy định về mức hình phạt tương ứng với
lượng chất ma túy bởi lẽ quy định tại Điều 251 theo tác giả vẫn chưa thực sự công
bằng. Điều luật quy định khối lượng chất ma túy này so với khối lượng chất ma túy
khác ở mức cao nhất và mức thấp nhất trong cùng một khung hình phạt là không
giống nhau, không theo một tỷ lệ nào.
Ví dụ: Tại khoản 3 Điều 251 thì mức thấp nhất của nhựa thuốc phiên là 01
kilôgam bằng với 30 gam cocaine; mức cao nhất của nhựa thuốc phiện là 4,99
kilôgam (dưới 05 kilôgam) bằng với 99,99 gam (dưới 100 gam) cocaine . Xét tỷ lệ
nhận thấy 01 kilôgam nhựa thuốc phiện tương ứng với 30 gam cocaine thì 4,99
kilôgam nhựa thuốc phiện phải tương ứng với 150 gam cocaine, tuy nhiên mức cao
nhất với cocaine chỉ dừng lại khoảng 99,99 gam (dưới 100 gam).
Thứ ba, cần mạnh dạn phân chia rõ ràng, rành mạch, hợp lý, công bằng hơn về
khung hình phạt trong từng khoản của Điều 251: Khoản 1 quy định mức phạt từ 02
năm đến 07 năm tù; khoản 2 quy định mức phạt từ 07 năm đến 15 năm tù; khoản 3
quy định mức phạt từ 15 năm đến 20 năm tù; khoản 4 quy định mức phạt từ 20 tù đến
tù chung thân hoặc tử hình. Như vậy trường hợp một người bị kết án theo khoản 1
Điều 251 (nếu đủ các điều kiện vẫn) có thể bị xử phạt 07 năm tù tương tự một người
khác bị xét xử theo khoản 2 Điều 251 (nếu đủ các điều kiện) vẫn có thể bị xử phạt 07
60
năm tù, trong khi đó khoản 2 là khoản tăng nặng khung hình phạt, quy định các
trường hợp phạm tội có tính chất, mức độ nguy hiểm cao hơn so với khoản 1. Vô
hình chung ta thấy được mức hình phạt cho hai người dù phạm tội theo 02 điều
khoản khác nhau nhưng lại chưa có sự phân hóa, tách biệt rõ ràng. Tương tự đối với
các khoản 3 và 4 của điều luật này. Từ đây tác giả đề xuất sửa đổi theo hướng
không có sự gối đầu, nối tiếp nhau giữa các khung hình phạt nhưng vẫn phải đảm
bảo được sự phù hợp với việc phân loại tội phạm theo 04 loại, quy định mức hình
phạt cụ thể như sau:
Tội mua bán trái phép chất ma túy Khung
Hình phạt BLHS hiện hành quy định Kiến nghị, sửa đổi
Phạt tù từ 02 năm Phạt tù từ 02 năm Khoản 1 đến 07 năm đến dưới 07 năm
Phạt tù từ 07 năm Phạt tù từ 07 năm Khoản 2 đến 15 năm đến dưới 15 năm
Phạt tù từ 15 năm Phạt tù từ 15 năm Khoản 3 đến 20 năm đến dưới 20 năm
Phạt tù từ 20 năm, Khoản 4 ---- tù chung thân hoặc tử hình
- Thứ tư, khẩn trương, nhanh chóng ban hành các văn bản mới quy định chi
tiết, hướng dẫn thi hành về những tình tiết mới được sửa đổi, bổ sung tại Điều 251.
Ví dụ: Tình tiết “đối với 02 người trở lên”, cần có sự hướng dẫn cụ thể các trường
hợp như thế nào là phạm tội “đối với 02 người trở lên”. Vấn đề đặt ra là trong
trường hợp nếu có hai người C và D cùng tới mua ma túy của E nhưng tiền mà E
nhận được chỉ là tiền của riêng C, thì E có bị coi là phạm tội “đối với 02 người trở
lên” hay không? Hoặc nếu M tới nhà N mua ma túy của N và nói rõ với mục đích
cho N biết là M mua cho bản thân mình và cho một nhóm bạn nghiện đang chờ ở
ngoài nữa, tiền là cả nhóm góp lại để mua, tuy nhiên chỉ có một mình M giao dịch
với N thì N có bị coi là phạm tội “đối với 02 người trở” lên không?.
61
Thứ năm, tại khoản 2 Điều 251 BLHS hiện hành quy định: “Phạm tội thuộc
một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm”:
“l) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 200 kilôgam;
m) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 50 kilôgam”.
Trước đó BLHS năm 1999 cũng đã quy định các tình tiết này làm tình tiết
định khung tại khoản 2 Điều 194 (điểm k, l). Đối với hai trường hợp này, kết quả
giám định chất ma túy là cơ sở pháp lý bắt buộc và quan trọng trong việc điều tra,
truy tố, xét xử hành vi phạm tội. Vì vậy, để có căn cứ khởi tố bị can theo điểm,
khoản nào của Điều 251 BLHS năm 2015 buộc phải trưng cầu đến Viện Khoa học
hình sự Bộ Công an. Việc trưng cầu giám định để xác định là quả thuốc phiện
không phải là vấn đề phức tạp với cơ quan giám định, tuy nhiên để xác định loại
quả thuốc phiện này là quả khô hay quả tươi thì cơ quan giám định chưa có cơ sở
để đưa ra kết luận vì chưa có văn bản pháp luật quy định hay hướng dẫn. Thế nên,
hiện nay Viện Khoa học hình sự Bộ Công an đã từ chối giám định đối với trường
hợp này, lý do: Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 68 BLTTHS năm 2015; căn cứ điểm
2 Điều 11 Luật Giám định tư pháp, Viện Khoa học hình sự từ chối giám định do
chưa có căn cứ pháp lý kết luận các mẫu quả thuốc phiện gửi tới giám định là quả
tươi hay quả khô [4].
Đối với quả thuốc phiện tươi và quả thuốc phiện khô thì trước đó đã được
quy định, nhưng đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng cụ thể để làm cơ
sở, căn cứ giám định. Đây cũng là một vướng mắc từ thực tiễn áp dụng pháp luật,
tác giả nhận thấy rằng cần thiết phải có sự tổng hợp để báo cáo liên ngành các cơ
quan tư pháp Trung ương sớm có quy định chi tiết, hướng dẫn áp dụng kịp thời,
đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, từ đó có cơ sở, căn
cứ xử lý người thực hiện hành vi phạm tội.
Qua nhiều năm thực hiện, cơ bản các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi
hành đáp ứng tốt các yêu cầu của thực tiễn, đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn
chỉnh hơn. Tuy nhiên, một số hướng dẫn bộc lộ những bất cập, hạn chế và cũng đã
diễn ra nhiều năm, không còn phù hợp với hành vi phát sinh trong xã hội dẫn đến
62
việc áp dụng BLHS còn nhiều tranh cãi, xung đột quan điểm, thiếu tính nhất quán,
còn thiếu, khuyết trong việc điều chỉnh những vấn đề mới phát sinh, gây không ít khó
khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thống nhất áp dụng pháp luật.
Thông tư 08 sửa đổi, bổ sung tiểu mục 1.4, Mục 1 Phần 1 Thông tư 17, chỉ bắt
buộc giám định hàm lượng chất ma túy với 04 trường hợp: “Chất ma túy, tiền chất
dùng vào việc sản xuất chất ma túy ở thể rắn được hòa thành dung dịch; chất ma túy,
tiền chất dùng vào việc sản xuất xuất chất ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng; xái
thuốc phiện; thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần”. Tuy nhiên, việc hướng dẫn triển
khai thực hiện còn chưa rõ ràng, chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp,
chậm đi vào cuộc sống, trong quá trình thực hiện đã phát sinh một số vấn đề, gây ra
những cách hiểu và áp dụng khác nhau tại nhiều địa phương. Chẳng hạn, Công văn
315/TANDTC-PC ngày 11/12/2015 của TANDTC quy định thêm các trường hợp
phải giám định hàm lượng để tính trọng lượng chất ma túy mà Thông tư 08 không
quy định, gồm những vụ án người thực hiện hành vi phạm tội có khung hình phạt tù
từ 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Hiện nay, chỉ có một số ít đối tượng nghiện hút không có tiền buộc phải tàng
trữ “xái thuốc phiện” để sử dụng còn các đối tượng phạm tội về ma túy rất ít khi
mua bán. Do vậy việc quy định các trường hợp phải bắt buộc giám định như hướng
dẫn tại Thông tư 08 thì hầu như cơ quan điều tra rất ít khi trưng cầu giám định hàm
lượng. Trường hợp này đặt ra câu hỏi liệu Tòa án có được trả hồ sơ yêu cầu điều tra
bổ sung không và nếu có, thì căn cứ vào quy định nào?.
Thông tư 08 hướng dẫn “...nếu có căn cứ và xét thấy cần thiết, Tòa án trực
tiếp trưng cầu giám định để bảo đảm cho việc xét xử đúng pháp luật…” Hướng dẫn
này có thể dẫn tới việc nhận thức và áp dụng pháp luật chưa thống nhất tại các địa
phương, từ đó Tòa án cấp trên có thể hủy án của Tòa án cấp dưới bất cứ lúc nào. Về
nguyên tắc xét xử thì phải bảo đảm nguyên tắc xét xử đúng người, đúng tội danh,
đúng quy định của pháp luật, nhưng cần hiểu thế nào là “có căn cứ và xét thấy cần
thiết...”? thì chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể [75].
Thông tư 08 có hướng dẫn “...Trường hợp không thu giữ được vật chứng là
63
chất ma túy, tiền chất nhưng có căn cứ xác định được trọng lượng chất ma túy, tiền
chất mà người phạm tội đã mua bán, vận chuyển, tàng trữ hoặc chiếm đoạt thì người
phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội danh và điều khoản tương ứng”.
Đây là quy định mà theo tác giả còn là không rõ ràng, bởi lẽ trên thực tế, khi
không thu giữ được vật chứng, để định lượng được chất ma túy, tiền chất mà người
phạm tội đã mua bán thì hầu hết chỉ dựa vào lời khai của người phạm tội hoặc
những người đồng phạm. Tuy nhiên sẽ rất khó định lượng các chất ma túy khi chủ
yếu các đối tượng khai nhận với các đơn vị tính theo tiếng lóng như: “tép”, “phân”,
“bánh”, “chỉ”, “nửa hộp năm”. Thực tiễn xét xử các vụ án cho thấy khối lượng chất
ma túy thu giữ là khác nhau, có vụ án 01 tép là 0,004 gam, 0,0154 gam nhưng lại có
vụ 01 tép lại là 0,2445 gam, có “bánh” là 350 gam nhưng lại có “bánh” là 300 gam
hoặc thấp hơn, tương tự như thế đối với “phân” và “chỉ” cũng có khối lượng khác
nhau. Do đó xét thấy nếu chỉ định lượng ma túy thông qua duy nhất lời khai nhận
của các bên liên quan thì sẽ không đảm bảo tính chính xác của vụ án, mặc dù không
được dùng lời nhận tội của bị can là chứng cứ duy nhất để buộc tội [85].
Như vậy, để đảm bảo áp dụng đúng và chính xác các quy định tại Điều 251
BLHS 2015 tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung BLHS 2015 để khắc phục những khó
khăn, vướng mắc nêu trên. Cần phải nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn
chi tiết, cụ thể các quy định của điều luật mới này; bãi bỏ, loại trừ, thay thế, sửa đổi,
bổ sung đối những văn bản hướng dẫn không phù hợp để tạo hành lang pháp lý đầy
đủ đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật được diễn ra thống nhất, đồng bộ, hiệu quả.
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những bất cập, hạn chế dẫn đến những vướng
mắc, áp dụng không thống nhất, hiệu quả các quy định của pháp luật, đồng thời dựa
trên cơ sở đánh giá, phân tích những hạn chế, thiếu sót và làm rõ những nguyên
nhân dẫn tới các hạn chế thiếu sót này trong công tác xét xử sơ thẩm các vụ án về
tội MBTPCMT của TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng. Chương 3 của luận văn, tác
giả đã mạnh dạn đưa ra các nhóm giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả áp
64
dụng pháp luật đối với loại tội phạm này. Tác giả cho rằng, đây là những giải pháp
có tính khoa học, thực tế và có tính khả thi cao, nếu được áp dụng đồng bộ và có
chiều sâu, tác giả tin rằng những giải pháp này sẽ phần nào đáp ứng được các yêu
cầu theo tinh thần cải cách tư pháp của Đảng cũng như các mục tiêu cần đạt được
trong công tác áp dụng pháp luật về tội MBTPCMT, ở góc độ nào đó sẽ góp phần
đẩy mạnh công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm về tội MBTPCMT
không chỉ trên phạm vi thành phố Đà Nẵng mà còn mở rộng ra trên địa bàn các tỉnh
miền trung Tây Nguyên và có thể trên phạm vi toàn quốc. Với những giải pháp nêu
trên, tác giả mong muốn rằng công tác áp dụng pháp luật hình sự của TAND hai cấp
thành phố Đà Nẵng sẽ gặt hái được nhiều thành công hơn trong thời gian tới và ở
một khái cạnh nào đó sẽ có đóng góp cần thiết vào quá trình sửa đổi, bổ sung và
hoàn thiện BLHS năm 2015.
65
KẾT LUẬN
Trong những năm qua, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự
quản lý, chỉ đạo, điều hành thống nhất của Nhà nước, nước ta đã tranh thủ thời cơ,
thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức đưa đất nước đạt được những thành
tựu to lớn và quan trọng trên tất cả lĩnh vực. Diện mạo của đất nước có nhiều thay
đổi. Thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế được nâng lên. Tuy nhiên, đi liền với đó tình hình tội phạm vẫn còn diễn
biến phức tạp. Đã xuất hiện nhiều loại tội phạm mới như: khủng bố, rửa tiền, mua
bán người, công nghệ cao, tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, tội
phạm về môi trường, tội phạm xuyên quốc gia… trong số đó nổi lên các tội phạm
về ma túy nhất là tội mua bán trái phép chất ma túy.
Thành phố Đà Nẵng có một vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi cho sự phát triển
nhanh chóng và bền vững thế nhưng cũng là một trong những địa bàn có tội
MBTPCMT diễn biến tương đối phức tạp. Vì vậy, nếu không có những giải pháp
đồng bộ, lâu dài, tệ nạn ma túy có thể vượt ra khỏi tầm kiểm soát, để lại hậu quả
nghiêm trọng, khó lường cho xã hội. Do đó, công tác phòng ngừa và đấu tranh
chống tội phạm MBTPCMT trong thời gian tới cần chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa,
thực hiện ở cấp độ cao hơn, với những giải pháp hữu hiệu hơn.
Xuất phát từ bối cảnh trên, yêu cầu cấp bách đặt ra trong thời gian tới là cần
phải nâng cao hơn nữa hiệu quả áp dụng pháp luật đối với tội MBTPCMT nhằm
thực hiện hóa Hiến pháp, pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành, góp phần
bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Luận văn: “Tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Đà
Nẵng”, trên cơ sở bám sát mục đích và nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
luận văn đã đạt được một số kết quả sau:
1. Làm rõ một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và pháp luật về tội
MBTPCMT quy định tại Điều 251 BLHS hiện hành, và rút ra ý nghĩa của việc quy
66
định tội MBTPCMT trong Luật hình sự Việt Nam. Tác giả đã làm rõ các dấu hiệu
pháp lý hình sự, đánh giá các tình tiết định tội trong cấu thành tội phạm cơ bản, làm
rõ các tình tiết định khung hình phạt trong cấu thành tội phạm tăng nặng quy định
trong BLHS hiện hành trên cơ sở so sánh, đối chiếu với BLHS năm 1999.
2. Luận văn đã khảo sát thực tiễn tình hình xét xử sơ thẩm tội MBTPCMT
của Tòa án cấp sơ thẩm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 – 2019, làm
rõ những nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hạn chế, thiếu sót trong công tác xét xử
của Tòa án cấp sơ thẩm. Thực tiễn cho thấy ở một số thời điểm vẫn còn những sai
sót trong công tác xét xử, có nhiều nguyên nhân dẫn đến các sai sót này, có thể kể
đến như: Quy định của pháp luật hiện hành còn có những hạn chế, vướng mắc; Điều
kiện về cơ sở vật chất ở một số đơn vị, địa phương còn nhiều hạn chế…; nhưng tác
giả cho rằng nguyên nhân chính có thể xuất phát từ yếu tố con người, đó chính là
năng lực nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, trải nghiệm sống, nhận thức xã hội, am
hiểu về luật pháp và phẩm chất đạo đức của đội ngũ người tiến hành tố tụng có thời
điểm còn nhiều hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn.
3. Luận văn đã đề xuất một vài giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng
và nêu lên một số kiến nghị hoàn thiện tội MBTPCMT quy định tại Điều 251 BLHS
hiện hành cùng các văn bản pháp luật có liên quan hướng dẫn áp dụng về tội phạm
này. Những nghiên cứu trong luận văn, tác giả cho rằng một góc độ nào đó có ý nghĩa
quan trọng về mặt lý luận – thực tiễn phục vụ việc sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015.
Định tội danh và quyết định hình phạt tội mua bán trái phép chất ma túy là
một vấn đề lớn trong thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự. Chính vì vậy, trong quá
trình nghiên cứu còn có những nội dung mà tác giả chưa có điều kiện để đề cập
hoặc nghiên cứu một cách triệt để, sâu sắc, khoa học và toàn diện đồng thời luận
văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót cần tiếp tục được nghiên cứu hoàn thiện để
phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và nhất là áp dụng trong thực tiễn đấu
tranh phòng chống tội phạm, tác giả rất mong nhận được sự góp ý của các nhà khoa
học, cán bộ làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực này./.