VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HỒNG TÂM

TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HỒNG TÂM

TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 838. 01. 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN NGỌC HÀ

HÀ NỘI, năm 2020

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Công tác xây dựng hoàn thiện pháp luật nói chung là một nhiệm vụ chiến

lược của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do

Nhân dân, vì Nhân dân ở nước ta. Trong đó hoàn thiện Bộ luật hình sự (BLHS) là

một trong những nhiệm vụ được đặt lên hàng đầu của Đảng và Nhà nước nhằm đáp

ứng các yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp đề ra và cũng là để đáp ứng yêu cầu

phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, hội nhập quốc tế và bảo vệ quyền con

người, quyền công dân.

Nhằm thể chế hóa chủ trương trên, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội Khóa XIII

(ngày 27 tháng 11 năm 2015) Quốc hội đã thông qua BLHS năm 2015. Tại kỳ họp

thứ 3 Quốc hội khóa XIV ngày 20 tháng 6 năm 2017, Quốc hội đã chính thức thông

qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 và có hiệu lực ngày 01

tháng 01 năm 2018, hợp nhất hai văn bản nói trên đó là BLHS năm 2015 (sửa đổi,

bổ sung năm 2017) sau đây được gọi chung là (BLHS hiện hành). BLHS hiện hành

đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong tiến trình hoàn thiện pháp luật hình sự của

Nhà nước ta, tạo cơ sở pháp lý hữu hiệu trong áp dụng pháp luật hình sự, đáp ứng

yêu cầu của thực tiễn đang đặt ra và bảo đảm hiệu quả phòng ngừa và đấu tranh

chống các loại tội phạm trong đó có tội phạm về ma túy.

Các tội phạm về ma túy được quy định tại Chương XX BLHS năm 2015 với

13 Điều. Bên cạnh việc kế thừa các quy định của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung

2009), BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung để phù hợp hơn với thực tiễn đấu tranh

phòng, chống các tội phạm về ma túy trong tình hình mới. Mặc dù vậy, thực tiễn

đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy nói chung, tội mua bán trái phép

chất ma túy (MBTPCMT) nói riêng vẫn còn tồn tại những bất cập, hạn chế gây khó

khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự.

Những khó khăn, vướng mắc trên xuất phát từ những quy định về tội

MBTPCMT còn thiếu văn bản hướng dẫn hoặc hướng dẫn chưa cụ thể, kịp thời về áp

dụng pháp luật đối với tội phạm này. Bên cạnh đó, thực tiễn áp dụng pháp luật về tội

1

MBTPCMT luôn đa dạng, phức tạp trong khi năng lực, trình độ chuyên môn, bản lĩnh

chính trị, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thực thi,

bảo vệ pháp luật còn chưa theo kịp thực tiễn, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác.

Xuất phát từ yêu cầu xây dựng và hoàn thiện pháp luật đáp ứng thực tiễn

phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm nói chung, đấu tranh phòng, chống tội

phạm về ma túy nói riêng và đặc biệt là những diễn biến khá phức tạp của tình hình

tội MBTPCMT tại thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019,

thì việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện BLHS năm 2015 trong đó có tội

MBTPCMT phải được quan tâm thực hiện. Từ những lý do trên, tác giả chọn vấn

đề “Tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm

Luận văn Thạc sĩ luật học. Trên cơ sở đó, để có sự nhìn nhận khách quan, toàn diện

về những vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật hình sự, từ đó đưa ra

một số kiến nghị, đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật và

nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với tội MBTPCMT

trong thời gian tới.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Tội MBTPCMT là tội phạm phổ biến và có tính chất nguy hiểm nhất trong

số các loại tội phạm về ma túy ở Việt Nam hiện nay. Liên quan đến những vấn đề lý

luận và pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng các tội phạm về ma tuý nói chung, tội

MBTPCMT nói riêng đã có nhiều công trình khoa học công bố ở Việt Nam với

những mức độ và cách tiếp cận khác nhau. Khái quát về tình hình nghiên cứu có

liên quan đến luận văn, có thể kể đến những công trình tiêu biểu như:

Các tài liệu trên chủ yếu đề cập đến một số vấn đề lý luận về các dấu hiệu

pháp lý của tội MBTPCMT và các quy định của BLHS về tội này, tuy nhiên chưa

đề cập đến thực tiễn áp dụng pháp luật và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tội

MBTPCMT. Luận văn đã kế thừa một số vấn đề được nêu trong các giáo trình, sách

chuyên khảo, tham khảo để cũng cố phần lý luận về tội MBTPCMT, đồng thời kế

thừa một vài quan điểm của các tác giả trong các Bình luận khoa học BLHS để cũng

cố kỹ hơn về dấu hiệu pháp lý của tội phạm này.

2

Vì vậy, việc nghiên cứu sâu hơn những quy định về tội MBTPCMT trong

Luật hình sự Việt Nam, đồng thời phân tích đánh giá thực trạng giải quyết các vụ án

về tội MBTPCMT thông qua số liệu thực tiễn xét xử tại địa bàn thành phố Đà Nẵng

giai đoạn 2015 - 2019 là cần thiết và có ý nghĩa đối với công tác phòng ngừa và đấu

tranh chống tệ nạn ma túy và tội phạm về ma túy, nhằm chỉ ra những hạn chế, bất

cập, đồng thời đề xuất một số giải pháp và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện

pháp luật hình sự về tội MBTPCMT góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật

hình sự đối với tội MBTPCMT trong thời gian tới.

Bên cạnh đó, còn có nhiều bài báo khoa học, bài viết chuyên sâu. Các bài viết

này, ở một góc độ nào đó chỉ nghiên cứu về lý luận và thực tiễn một số vấn đề có liên

quan đến tội MBTPCMT, tình hình công tác phòng ngừa, đấu tranh và TNHS đối với

loại tội này… chưa làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội MBTPCMT một

cách toàn diện. Khi thực hiện Luận văn, tác giả đã tiếp thu một số quan điểm của các

tác giả trên để cũng cố về những điểm bất cập, hạn chế và định hướng kiến nghị hoàn

thiện pháp luật về tội phạm này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng;

- Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự và bảo đảm

áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự đối với tội MBTPCMT trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật về tội MBTPCMT theo

pháp luật hình sự Việt Nam;

- Nghiên cứu, khảo sát thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự

về tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 – 2019;

- Làm rõ những kết quả đạt được; nêu ra những tồn tại, hạn chế và nguyên

nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội

mua bán trái phép chất ma túy;

3

- Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự và bảo đảm

áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự đối với tội MBTPCMT trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua

bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Tập trung nghiên cứu hoạt động áp dụng pháp luật hình sự

Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma túy trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.

- Về địa bàn: Luận văn được thực hiện trong phạm vi thành phố Đà Nẵng.

- Về thời gian: Từ năm 2015 đến 2019.

- Về chủ thể: Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và

duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm,

đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phòng,

chống tội phạm nói chung, tội phạm về ma túy nói riêng. Các luận điểm chung của

khoa học pháp lý nói chung và khoa học pháp lý luật hình sự nói riêng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong luận văn, tác giả còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu điển

hình như: Phân tích, tổng hợp; nghiên cứu điển hình, cụ thể là:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được kết hợp hài hòa, sử dụng xuyên suốt

trong luận văn, dùng để phân tích, phân loại, hệ thống hóa các thông tin khoa học thu

thập được từ các văn bản pháp luật, tài liệu, bản án có liên quan đến nội dung của

luận văn, từ đó rút ra các kết luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Bên cạnh đó tác

giả còn sử dụng phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm được sử dụng để

nghiên cứu, tiếp thu một số quan điểm của các tác giả trong một số công trình khoa

4

học đã được công bố, từ đó kế thừa những nội dung phù hợp, hữu ích cho luận văn.

- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Dùng để lựa chọn, sàng lọc và tiến hành

nghiên cứu một số bản án (trong toàn bộ bản án), tìm ra những bản án còn thiếu sót, bất

cập trong thực tế. Kết quả thu được dùng để đánh giá chung thực tiễn áp dụng pháp luật

hình sự về tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn năm 2015 - 2019.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung, phát triển lý luận của

khoa học pháp lý hình sự nói chung, hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự

hiện hành đối với tội MBTPCMT nói riêng. Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa như

là một tài liệu tham khảo, được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, học tập cho các học

sinh, sinh viên chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự tại các cơ sở giáo dục,

đào tạo luật trên cả nước.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Những đề xuất, kiến nghị của luận văn góp phần cung cấp những luận cứ

khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng BLHS hiện

hành liên quan đến tội MBTPCMT, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác

đấu tranh phòng, chống tội phạm này.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được

kết cấu thành 03 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội mua bán trái phép chất

ma túy.

Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán

trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình

sự và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tội mua bán trái phép chất ma túy.

5

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT

VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

1.1. Những vấn đề lý luận về tội mua bán trái phép chất ma túy trong

pháp luật hình sự Việt Nam

1.1.1. Khái niệm tội mua bán trái phép chất ma túy

1.1.1.1. Khái niệm chất ma túy

Danh từ “ma túy” được đề cập nhiều trên hệ thống thông tin đại chúng và

trong đời sống xã hội. Tuy nhiên hiện nay, trên thế giới và trong nước chưa có một

khái niệm thống nhất về “ma túy” và “chất ma túy”.

Tại Việt Nam, có nhiều tài liệu đề cập đến khái niệm “ma túy” hoặc “chất ma

túy” dưới nhiều góc độ khác nhau như: “Ma túy là tên gọi chung các chất kích

thích, gây trạng thái ngây ngất, đờ đẫn, dùng quen thành nghiện như thuốc phiện,

Hêrôin” [79, tr.994]. “Ma tuý là hợp chất khi đưa vào cơ thể sống có tác dụng làm

thay đổi một hay nhiều chức năng của cơ thể” [70, tr.406].

Theo tác giả Hoàng Thị Bích Ngọc, Nguyễn Như Chiến thì “Ma túy là những

chất tự nhiên hay tổng hợp làm ức chế, kích thích thần kinh hoặc gây ảo giác, gây

ra những biến đổi về tâm sinh lý và thể chất, nếu sử dụng nhiều lần sẽ gây ra tính lệ

thuộc đối với người sử dụng và được quy định trong các Danh mục do Chính phủ

ban hành” [36, tr.8].

Theo GS, TS Nguyễn Xuân Yêm thì “Ma túy là các chất có nguồn gốc tự

nhiên hoặc tổng hợp, khi được đưa vào cơ thể con người, nó có tác dụng làm thay

đổi trạng thái ý thức và sinh lý của người đó. Nếu lạm dụng ma túy, con người sẽ bị

lệ thuộc vào nó, khi đó gây tổn thương và nguy hại cho người sử dụng và cộng

đồng” [93, tr.14].

Khoản 1 Điều 2, Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung

2008) quy định: “Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy

định trong các Danh mục do Chính phủ ban hành” [47. tr, 1], qua đó cho thấy rằng

6

cụm từ “chất ma túy” được định nghĩa và giải thích gián tiếp qua các khái niệm chất

gây nghiện và chất hướng thần.

Có thể thấy rằng các nhà làm luật khi đưa ra khái niệm về “ma túy” hay “chất

ma túy” đã có nhiều cách tiếp cận, lý giải khác nhau, nhưng chưa thống nhất cách

gọi tên “ma túy” hay “chất ma túy” đồng thời nội hàm khái niệm cũng chưa có sự

thống nhất. Tuy nhiên, các quan điểm nêu trên đã đưa ra được thuộc tính chung nhất

của “ma túy” hay “chất ma túy” đó là tính chất gây nghiện, chất hướng thần có

nguồn gốc tự nhiên hay tổng hợp, được quy định trong các Danh mục chất ma túy

do Chính phủ ban hành.

Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm trên, tác giả đưa ra khái niệm chất ma

túy như sau: Chất ma túy là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác có

nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, được quy định trong các Danh mục do Chính

phủ ban hành, các chất này khi xâm nhập vào cơ thể người sẽ làm thay đổi trạng

thái ý thức và sinh lý của người đó. Nếu lạm dụng, người sử dụng sẽ lệ thuộc vào

ma túy, khi đó sẽ gây tác hại về nhiều mặt cho chính bản thân họ và có thể gây ra

những hậu quả nguy hiểm cho xã hội.

1.1.1.2. Khái niệm tội mua bán trái phép chất ma túy

Ngoài quy định chi tiết tại Mục 3, Phần II, Thông tư liên tịch số

17/2007/TTLT ngày 24/12/2007 quy định về việc hướng dẫn áp dụng một số quy

định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của BLHS năm 1999 (gọi tắt là

Thông tư 17). Đến nay đã có nhiều tài liệu khác nhau đưa ra cách giải thích về từ

“mua” và từ “bán” hay cả cụm từ “mua bán”. Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng

năm 1997 thì “mua là dùng tiền bạc đổi hàng hóa, vật chất, danh lợi” [91, tr.657]

“bán là đem đổi vật dụng cho người khác để lấy tiền về, “mua bán” là mua và bán,

trao đổi hàng hóa nói chung” [91, tr.47].

Khi định nghĩa về tội phạm này, một số nhà chuyên tâm nghiên cứu đã đưa ra

các quan điểm như: Tác giả Lê Cảm cho rằng: “Hành vi mua bán trái phép chất ma túy

là hành vi trao đổi trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào” [9, tr.473]

Theo tác giả Trần Mạnh Hà: “Mua bán trái phép chất ma túy là hành vi bán

7

trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc nguồn gốc ma túy do đâu

mà có) hoặc hành vi trao đổi ma túy như một hàng hóa có giá trị” [25, tr.17].

Còn thạc sĩ Lê Nguyễn Minh Tâm thì: “Mua bán trái phép chất ma túy là

hành vi bán trái phép chất ma túy hoặc nhằm bán trái phép chất ma túy cho người

khác” [55, tr.10]

Như vậy, nhìn chung các nhà khoa học và nhà làm luật có hai quan điểm khác

nhau về tội MBTPCMT: Một là, nêu một cách chung chung chưa thể hiện rõ nội hàm

của tội phạm này, nên chưa thể xác định được các hành vi phạm tội một cách chính

xác. Hai là, được nêu lên theo cách liệt kê các hành vi cụ thể để cấu thành tội phạm

(CTTP) theo quy định của Thông tư 17 làm cho khái niệm tội MBTPCMT trở nên dài

dòng hoặc rời rạc, chưa kết nối được các nội dung lại với nhau.

Qua việc nghiên cứu, kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những quan điểm đó, tác

giả xin đưa ra khái niệm về tội MBTPCMT như sau:

“Mua bán trái phép chất ma túy là hành vi bán, trao đổi hoặc nhằm bán trái

phép chất ma túy cho người khác, hoặc hành vi tổ chức, thực hành, xúi giục, giúp

sức cho người khác trong việc bán, trao đổi chất ma tuý mà không cần xét đến

nguồn gốc chất ma tuý do đâu mà có”.

1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội mua bán trái phép chất ma túy trong

luật hình sự Việt Nam

Thứ nhất, tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý các hành vi liên quan đến ma túy

mà các Công ước quốc tế đã đề cập, tạo nên sự thống nhất hợp lý trên cơ sở luật

pháp quốc tế với hệ thống pháp luật quốc gia để xử lý về hình sự đối với các hành

vi MBTPCMT. Tạo ra những điều kiện thuận lợi trong hợp tác quốc tế trên lĩnh vực

phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm ma túy nói chung và tội phạm MBTPCMT

nói riêng, vì hầu hết các quốc gia đều có quy định về tội phạm ma túy trong đó có

tội MBTPCMT.

Thứ hai, góp phần hạn chế việc thực hiện các hành vi MBTPCMT trên thực

tế vì việc xử lý hình sự các hành vi này có tác dụng vừa giáo dục, cải tạo vừa trừng

phạt người phạm tội MBTPCMT để họ trở thành người tốt, đồng thời có tác dụng

8

răn đe những người có ý định phạm tội, chuẩn bị hoặc đang phạm tội từ bỏ con

đường phạm tội, những người đã phạm tội hạn chế hoặc không tái phạm.

Thứ ba, góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân trong việc chấp hành

pháp luật, mọi hành vi MBTPCMT đều là vi phạm pháp luật hình sự và phải bị xử

lý về hình sự, với những hình phạt nghiêm khắc đối với tội MBTPCMT sẽ làm cho

mọi người hiểu về tính chất nguy hiểm của các hành vi phạm tội này.

Thứ tư, việc xử lý về hình sự đối với các hành vi MBTPCMT sẽ đạt được mục

đích của việc phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Mục đích của việc đấu tranh

phòng, chống tội phạm là hạn chế, ngăn chặn, giảm bớt tội phạm; loại trừ tội phạm và

làm cho tình hình tội phạm ổn định [90]. Việc xử lý hình sự đối với tội phạm này sẽ

mang lại hiệu quả tích cực hơn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Tóm lại, việc quy định tội MBTPCMT trong Luật hình sự Việt Nam là một

đòi hỏi khách quan và có tính tất yếu cả về lý luận và trong thực tiễn của đời sống

xã hội. Những quy định này không chỉ phản ánh trung thực các điều kiện kinh tế -

xã hội và thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ chính trị ở Việt Nam hiện nay, mà

còn thể hiện rõ quan điểm, quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta cũng như nỗ lực của

toàn thể dân tộc Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề phức tạp và cấp bách mang

tính toàn cầu: Tệ nạn ma túy và tội phạm mua bán trái phép chất ma túy.

1.1.3. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam quy định tội mua bán

trái phép chất ma túy

- Giai đoạn trước năm 1945

Những năm đầu thế kỷ thứ XIX, chính quyền Nhà Nguyễn quyết tâm diệt tận

gốc vấn nạn này và đã ban hành các chính sách “lấp nguồn, cạn dòng”. Tháng 6

năm 1873, trước tệ nạn nghiện thuốc phiện, buôn bán thuốc phiện ngày càng tăng.

Triều đình lại ban hành trở lại lệnh “Cấm thuốc nha phiến” nhưng những biện pháp

này đã không mang lại hiệu quả như mong muốn. Giai đoạn này chưa có sự quy

định rõ ràng, cụ thể về tội mua bán trái phép chất ma túy.

- Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi pháp điển

hóa Bộ luật hình sự năm 1985

9

Ngày 03/9/1945, trong phiên họp Chính phủ bàn về “Những nhiệm vụ cấp

bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ

đạo “…Tôi đề nghị tuyệt đối cấm thuốc phiện” [94, tr.885].

Trải qua nhiều mốc thời gian, nhận thấy, trong giai đoạn này pháp luật hình sự

Việt Nam chưa được hệ thống hóa một cách chính thức. Các văn bản quy phạm

pháp luật đơn ngành không thể hiện được tính toàn diện, đầy đủ và thống nhất chính

sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong việc xử lý tội phạm về ma túy. Vì vậy,

việc ban hành một BLHS hoàn chỉnh, có tính hệ thống là vấn đề khách quan, bức

thiết và có ý nghĩa quan trọng và BLHS 1985 ra đời đáp ứng yêu cầu đó.

- Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi pháp

điển hóa Bộ luật hình sự năm 1999

BLHS 1985 đã bước đầu quy định về các tội ma túy, qua nhiều lần sửa đổi,

ngày 10/5/1997 Quốc hội tiếp tục thông qua Luật sửa đổi, bổ sung (lần thứ 4) một

số điều BLHS 1985. Lần này các tội phạm về ma túy được quy định thành một

Chương riêng đó là Chương VIIA: “Các tội phạm về ma túy” gồm 14 điều từ điều

185a đến Điều 185o quy định 13 tội danh. Trong đó “Tội mua bán trái phép chất

ma túy” quy định tại Điều 185đ.

Trong quá trình thực hiện BLHS 1985 vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, chưa

đáp ứng được tình hình hiện tại, yêu cầu cần phải nghiên cứu sửa đổi một cách toàn

diện. Vì vậy, ngày 21/12/1999, Quốc hội khóa X đã thông qua BLHS 1999, có hiệu

lực từ 0h ngày 01/07/2000. Theo đó, các tội phạm về ma túy được quy định tại

Chương XVIII, gồm 10 tội danh, từ Điều 192 BLHS đến Điều 201 BLHS [40].

10

- Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến trước khi pháp

điển hóa Bộ luật hình sự năm 2015

Ngày 03/6/2008 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một

số điều của Luật Phòng, chống ma túy. Để áp dụng thống nhất quy định các tội

phạm về ma túy, ngày 24 tháng 12 năm 2007 Thông tư 17 ra đời. Đến ngày

14/11/2015 Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC sửa

đổi bổ sung một số điểm của Thông tư 17 (gọi tắt là Thông tư 08) quy định hướng

dẫn cụ thể việc áp dụng các Điều 194 nói riêng và Chương XVIII “Các tội phạm về

ma túy” nói chung của BLHS 1999. Các văn bản này đã hướng dẫn cụ thể, chi tiết

và toàn diện các quy định về tội phạm ma túy góp phần tháo gỡ nhiều vướng mắc

trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án ma túy.

Tuy nhiên tình hình tội phạm ma túy, nghiện ma túy tại Việt Nam còn nhiều

diễn biến phức tạp. Xuất hiện nhiều loại ma túy mới; việc buôn bán, vận chuyển,

sản xuất ma túy tổng hợp gia tăng; người sử dụng và người nghiện ma túy tổng hợp

tăng nhanh, nhất là trong thanh, thiếu niên và học sinh gây bức xúc trong xã hội,

đây là vấn đề toàn xã hội quan tâm, điều đó đã thôi thúc các nhà làm luật cần phải

xây dựng BLHS mới để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phù hợp với từng thời kỳ, chính

vì thế BLHS 2015 ra đời.

- Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 đến nay

Ngày 20/6/2017, các đại biểu Quốc hội đã tiến hành biểu quyết thông qua

Luật số 12/2017/QH14 (gọi chung là BLHS hiện hành) và có hiệu lực từ ngày

01/01/2018. Theo Bộ luật này, tội MBTPCMT được quy định riêng tại Điều 251 và

có nhiều điểm mới so với Điều 194 BLHS năm 1999 mà rõ ràng nhất là so với

BLHS 1999 là đã tách tội ghép quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999 về “Tội tàng

trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy” thành 04 tội riêng

biệt đó là: Tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” - Điều 249; Tội “Vận chuyển trái

phép chất ma túy” - Điều 250; Tội “Mua bán trái phép chất ma túy” - Điều 251 và

Tội “Chiếm đoạt chất ma túy” - Điều 252.

11

1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép

chất ma túy

1.2.1. Quy định về tội mua bán trái phép chất ma túy trong Bộ luật hình sự

năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Tội MBTPCMT được quy định riêng tại Điều 251 - Chương XX “các tội

phạm về ma túy” của BLHS hiện hành. Để có cách hiểu khái quát hơn về tội phạm

này, tác giả tập trung phân tích làm rõ 03 nội dung: Dấu hiệu định khung cơ bản;

dấu hiệu định khung tăng nặng và hình phạt.

- Dấu hiệu định khung cơ bản

Cấu thành cơ bản của tội MBTPCMT được quy định tại khoản 1, Điều 251,

chỉ cần thực hiện các hành vi mua bán trái phép chất ma túy (trường hợp phạm tội

không có các tình tiết là yếu tố định khung).

- Các dấu hiệu định khung tăng nặng

Định khung tăng nặng theo khối lượng và thể tích các chất ma túy:

12

Khung hình phạt

Khoản 4

Khoản 2

Khoản 3

Chất ma túy

(tù 20 năm,

(tù từ 07 năm

(tù từ 15 năm

tù chung thân

đến 15 năm)

đến 20 năm)

hoặc tử hình)

Nhựa thuốc phiện,

500 gam đến

01 kilôgam đến

05 kilôgam

nhựa cần sa

dưới 01 kilôgam

dưới 05 kilôgam

trở lên

hoặc cao côca

Heroine, Cocaine,

Methamphetamine,

05 gam đến

30 gam đến

100 gam

Amphetamine,

dưới 30 gam

dưới 100 gam

trở lên

MDMA

hoặc XLR-11

Lá cây côca;

lá khát (lá cây

Catha edulis);

10 kilôgam đến

25 kilôgam đến

75 kilôgam

lá, rễ, thân, cành, hoa,

quả của cây cần sa

dưới 25 kilôgam

dưới 75 kilôgam

trở lên

hoặc bộ phận của

cây khác có chứa

chất ma túy

50 kilôgam đến

200 kilôgam đến

600 kilôgam

Quả

thuốc phiện khô

dưới 200 kilôgam

dưới 600 kilôgam

trở lên

10 kilôgam đến

50 kilôgam đến

150 kilôgam

Quả

thuốc phiện tươi

dưới 50 kilôgam

dưới 150 kilôgam

trở lên

20 gam đến

100 gam đến

300 gam

Các chất ma tuý khác

ở thể rắn

dưới 100 gam

dưới 300 gam

trở lên

100 mililít đến

250 mililít đến

750 mililít

Các chất ma tuý khác

ở thể lỏng

dưới 250 mililít

dưới 750 mililít

trở lên

13

Ngoài các chất ma túy đã được quy định ở các khoản khác nhau của điều luật

như nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao côca, Heroine và Cocaine, Methamphetamine,

Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 thì còn lại các chất ma túy ở thể rắn đều thuộc

trường hợp các chất ma túy khác ở thể rắn. Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn

thế nào là chất ma túy khác ở thể rắn, vì vậy căn cứ vào quy định của BLHS chỉ quy

định hai loại thể lỏng và thể rắn, thế nên ngoài thể lỏng thì các chất ma túy còn lại

đều được coi là thể rắn và thường gặp ở dạng bột, tinh thể, viên, bánh…

Ngoài các dấu hiệu định khung tăng nặng theo định lượng nêu trên thì trong

các khoản của điều luật còn quy định các dấu hiệu định khung tăng nặng khác. Các

dấu hiệu định khung tăng nặng khác được quy định tại khoản 2 Điều 251 BLHS

hiện hành, cụ thể đó là: Có tổ chức; phạm tội 02 lần trở lên; đối với 02 người trở

lên; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; sử dụng

người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội hoặc bán ma tuý cho người dưới 16 tuổi; qua

biên giới; có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất

đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các

điểm từ điểm h đến điểm o khoản này; tái phạm nguy hiểm.

Bên cạnh đó còn có các dấu hiệu định khung tăng nặng theo khoản 3, 4 Điều

251 BLHS năm 2015. Hiện nay việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy

quy định tại các điểm p khoản 2, h khoản 3, 4 của Điều 251 BLHS hiện hành được

quy định cụ thể, chi tiết tại Điều 4, 5 của Nghị định 19/2018/NĐ-CP, ngày 02 tháng

02 năm 2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích

chất ma túy tại một số điều của BLHS năm 2015.

- Hình phạt

Điều 251 BLHS hiện hành quy định về tội MBTPCMT có 02 loại hình phạt,

đó là hình phạt chính và hình phạt bổ sung.

+ Hình phạt chính

Hình phạt chính tội MBTPCMT được chia làm 04 khung hình phạt:

14

Khung hình phạt Tội mua bán trái phép chất ma túy

Khoản 1 Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm

Khoản 2 Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm

Khoản 3 Phạt tù từ 15 năm đến 20 năm

Khoản 4 Phạt tù từ 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình

Như vậy, có thể nhận biết mức hình phạt thấp nhất của tội MBTPCMT là

phạt 02 năm tù và mức hình phạt cao nhất là tử hình.

+ Hình phạt bổ sung

Hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5, Điều 251, mức thấp nhất của

hình phạt bổ sung là 5.000.000 đồng và mức cao nhất là 500.000.000 đồng. Điều

luật chỉ quy định người phạm tội “còn có thể” bị phạt tiền, bên cạnh đó mức cao

nhất và mức thấp nhất của hình phạt bổ sung có mức độ giãn cách lớn, điều này có

nghĩa là người phạm tội có bị phạt tiền hay không và mức phạt tiền cụ thể là bao

nhiêu thì tùy thuộc vào những trường hợp cụ thể và do Tòa án quyết định.

1.2.2. Những điểm mới của tội mua bán trái phép chất ma túy trong Bộ

luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)

Qua việc tập trung nghiên cứu, so sánh BLHS hiện hành tác giả nhận thấy

rằng các quy định về tội MBTPCMT trong BLHS 2015 có nhiều điểm mới, tiến bộ

hơn so với BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009), cụ thể như sau:

BLHS năm 2015 đã có sự sửa đổi, bổ sung, thay thế, loại trừ những quy định

hoặc Điều luật khi nó không còn phù hợp với thực tiễn, nhưng đồng thời cũng đã kế

thừa tương đối các quy định của BLHS năm 1999. So với tội tàng trữ, vận chuyển,

mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy quy định tại Điều 194 BLHS 1999,

tội MBTPCMT tại Điều 251 trong BLHS năm 2015 có những điểm mới như sau:

- Các dấu hiệu định khung tăng nặng đối với tội mua bán trái phép chất ma túy

+ Bộ luật hình sự năm 2015 đã cụ thể hóa tình tiết “phạm tội nhiều lần” bằng

tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên”.

Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018, chính

15

vì vậy tại thời điểm nghiên cứu chưa có văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể về việc

thi hành các điều luật. Nhưng xét về bản chất của tình tiết “phạm tội 2 lần trở lên”

quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS năm 2015 và tình tiết “phạm tội nhiều

lần” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS năm 1999 đều có các đặc điểm

như sau: Người phạm tội ít nhất hai lần mua bán trái phép chất ma túy, tác động đến

cùng một đối tượng hoặc nhiều đối tượng khác nhau, tác động ở một thời điểm hoặc

ở nhiều thời điểm khác nhau (khi chưa bị phát hiện); nếu tách ra từng hành vi phạm

tội riêng lẻ thì mỗi hành vi ấy đã đủ các yếu tố cấu thành một tội phạm độc lập; tất

cả các hành vi phạm tội này đều được quy định trong cùng điều luật, có thể cùng

một khoản, cũng có thể ở các khoản khác nhau; các hành vi phạm tội này chưa hết

thời hiệu truy cứu TNHS, chưa bị các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định

của pháp luật như: đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, … và tất cả các hành vi đó cùng

được đưa ra xét xử một lần trong cùng một vụ án.

+ Bổ sung tình tiết mới “phạm tội đối với 02 người trở lên”.

Đây là tình tiết mới được bổ sung đối với tội MBTPCMT. Tại thời điểm tác

giả nghiên cứu, đã có Công văn số 5887/VKSTC-V14 ngày 05 tháng 12 năm 2019

của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải đáp một số khó khăn, vướng mắc

liên quan đến BLHS, BLTTHS 2015 và thi hành án hình sự, theo đó Công văn đã

hướng dẫn về tình tiết này cụ thể như sau:

Tình tiết “phạm tội đối với 02 người trở lên”, cần được hiểu là trong một lần

thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội đối với

02 người trở lên (có thể 02 người hay nhiều người cùng mua ma túy một lúc hay

mỗi người có thể giao dịch trước nhưng việc giao nhận ma túy tiến hành cùng một

thời gian, cùng thời điểm hoặc 02 hay nhiều người cùng góp tiền và trực tiếp đi mua

ma túy). Như vậy tình tiết mới này đã thể hiện được tính chặt chẽ, đáp ứng được

thực tiễn đặt ra trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội MBTPCMT, đồng

thời làm rõ và phân biệt với tình tiết định khung “phạm tội 02 lần trở lên”. Tác giả

nhận thấy đây là tình tiết được bổ sung kịp thời nhằm hạn chế tác hại của ma tý,

cũng như nhằm ngăn chặn sự lây lan ma túy trong cộng đồng [85, tr.5].

16

+ Cụ thể hóa cụm từ “trẻ em” bằng “người dưới 16 tuổi” trong tình tiết “sử

dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho trẻ em”.

Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung tình tiết tăng nặng mới này nhằm phù

hợp với điều kiện thực tế và những công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên

hoặc đã ký kết. Tình tiết này tại BLHS năm 1985 chỉ mới giới hạn ở “người chưa

thành niên” (điểm c, khoản 2, Điều 185đ), sang BLHS năm 1999 quy định thành

“sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho trẻ em” điểm a, khoản 2,

Điều 194 và BLHS năm 2015 đã sửa đổi thành: “sử dụng người dưới 16 tuổi vào

việc phạm tội hoặc bán ma túy cho người dưới 16 tuổi”. Quá trình sửa đổi tình tiết

này thể hiện rõ ràng việc pháp luật ngày càng gắn liền với thực tiễn đời sống, chi

tiết hóa một cách chính xác nhất để dễ dàng áp dụng vào điều chỉnh xã hội.

+ Bổ sung thêm 03 loại chất ma túy mới “Methamphetamine, Amphetamine,

MDMA hoặc XLR-11” vào cùng nhóm với các chất ma túy Heroine, Cocaine;

+ Bổ sung thêm “rễ, thân, cành cây cần sa; lá khát (lá cây Catha edulis)

hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy” nằm trong các danh mục do Chính

phủ quy định vào nhóm lá, hoa, quả của cây cần sa, lá cây côca;

+ Sửa đổi cách viết tên các chất ma túy thống nhất với cách viết tên trong

danh mục các chất ma túy do Chính phủ ban hành từ “hêrôin” thành “Heroin”, từ

“côcain” thành “Cocaine”;

+ Thay đổi đơn vị tính các chất ma túy từ “trọng lượng” thành “khối lượng”

(vì các vụ án ma túy từ trước đến nay khi thu giữ được vật chứng đều được xác định

bằng gam, kilôgam… đây chính là đơn vị tính khối lượng chứ không phải trọng

lượng), “tổng số lượng” thành “tổng khối lượng hoặc thể tích”. Bên cạnh đó bổ

sung thêm cụm từ “có thể tích” vào các chất ma túy khác ở thể lỏng.

1.2.3. Dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép chất ma túy

Dấu hiệu pháp lý hình sự của tội MBTPCMT là một nội dung quan trọng. Để

nhận thức rõ dấu hiệu pháp lý hình sự của tội MBTPCMT, cần phải nghiên cứu làm

rõ bốn yếu tố: Khách thể, khách quan, chủ thể, chủ quan của tội phạm.

- Khách thể của tội mua bán trái phép chất ma túy

17

Khách thể của tội phạm là yếu tố cơ bản không thể tách rời của tội phạm.

“Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm

xâm hại” [81, tr.100]. Khách thể loại của tội phạm là các nhóm quan hệ xã hội có

cùng tính chất và đặc điểm giống nhau được Luật hình sự bảo vệ bị tội phạm xâm

phạm [68, tr.94].

Tội MBTPCMT quy định tại Điều 251 BLHS hiện hành có khách thể trực

tiếp là chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy.

Đối tượng tác động của tội phạm này là các chất ma túy. Các chất ma túy này

hiện có 540 chất ma túy thuộc danh mục quản lý của Chính phủ, chia làm 4 nhóm

sau: Nhóm các chất ma túy an thần: Thuốc phiện, Morphine, Heroine; Nhóm các

chất ma túy gây kích thích: Methamphetamine, Ketamine, Ecstacy, Amphetamine;

Nhóm các chất ma túy gây ảo giác: Cần sa và các sản phẩm của cần sa thảo mộc,

nhựa tinh dầu cần sa lysergide (LSD); Nhóm các chất ma tuý có thuộc tính gây

nghiện: Các loại thuốc tân dược có thành phần là chất gây nghiện như thuốc giảm

đau, thuốc an thần, một số loại thuốc ho, thuốc cảm cúm, …

- Mặt khách quan của tội mua bán trái phép chất ma túy

Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm diễn ra và tồn tại

trong thế giới khách quan. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm gồm:

Hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân quả

giữa hành vi và hậu quả; các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện tội phạm như thời

gian, địa điểm, phương tiện, công cụ phạm tội, hoàn cảnh phạm tội… [55, tr.15].

Hành vi MBTPCMT được thể hiện qua một trong các hành vi được quy định

tại tiểu mục 3.3, Mục 3, Phần II của Thông tư 17. Đồng thời tác giả cũng nhất trí

với quan điểm của một số nhà chuyên tâm nghiên cứu và nhận thấy rằng các hành

vi khách quan của tội MBTPCMT có 03 nhóm hành vi cơ bản, đó là:

- Nhóm hành vi thứ nhất: Hành vi “bán” trái phép chất ma tuý (tại các điểm

a, b, c, e, g thuộc tiểu mục 3.3). Hành vi này có thể là mua được, xin được, nhặt

được, người khác gửi tặng hoặc chiếm đoạt được, cất giữ trái phép, vận chuyển trái

phép, chuyển dịch bất hợp pháp từ nơi này đến nơi khác, tất cả các hành vi trên đều

18

nhằm mục đích để bán, không kể có thu lợi hay không, kể cả hành vi bán hộ chất

ma tuý thì cũng thuộc nhóm hành vi “bán” trái phép chất ma tuý. Tóm lại, không

cần xét đến nguồn gốc ma tuý do đâu mà có, chất ma túy có hàm lượng cao hay

thấp, chỉ cần có hành vi “bán” trái phép chất ma tuý cho người khác là đã cấu thành

tội mua bán trái phép chất ma túy.

- Nhóm hành vi thứ hai: Hành vi “trao đổi” trái phép chất ma tuý (gồm các

điểm d, đ tiểu mục 3.3): Việc trao đổi trái phép này có thể là đổi ma tuý để lấy tài

sản hoặc các lợi ích khác (việc trao đổi có thể ngang giá hoặc không ngang giá),

hoặc có thể là dùng ma tuý để thanh toán khoản nợ, trừ nợ, trừ ngày công làm việc.

Trong các trường hợp này cũng không cần xét đến nguồn gốc ma tuý.

- Nhóm hành vi thứ ba: Hành vi “hỗ trợ” việc bán, trao đổi trái phép chất ma

tuý (phần cuối tiểu mục 3.3). Đây là các hành vi tổ chức, thực hành, xúi giục, giúp

sức cho hành vi bán, trao đổi trái phép chất ma tuý, thường gọi là các trường hợp

đồng phạm với hành vi này.

- Mặt chủ quan của tội mua bán trái phép chất ma túy

Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội

liên quan tới việc thực hiện tội phạm. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm: Lỗi,

động cơ phạm tội, mục đích phạm tội [68, tr.26].

Dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của tội MBTPCMT là dấu hiệu lỗi,

đây là yếu tố quan trọng trong việc xác định tội phạm và TNHS. Các hành vi phạm

tội trong tội MBTPCMT quy định tại Điều 251 BLHS 2015 được thể hiện với lỗi cố

ý. Nghĩa là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,

thấy trước được tác hại, hậu quả của hành vi MBTPCMT gây ra cho xã hội nhưng

vẫn thực hiện. Như vậy, đối với các hành vi MBTPCMT chỉ có thể được thực hiện

do cố ý trực tiếp. Không có trường hợp nào do cố ý gián tiếp [81, tr.17].

- Chủ thể của tội mua bán trái phép chất ma túy

Chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định đã

thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự… Theo đó chủ thể của tội MBTPCMT

phải thỏa mãn điều kiện chủ thể của tội phạm thông thường đó là người đủ tuổi chịu

19

TNHS và không ở trong trình trạng không có năng lực TNHS, cụ thể: Người từ đủ

16 tuổi trở lên và có năng lực TNHS phải chịu TNHS thuộc bất kỳ khoản nào của

Điều 251 BLHS hiện hành. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS

về tội này thuộc trường hợp theo quy định tại khoản 2, 3 và 4 của Điều 251 BLHS

2015 trừ các trường hợp theo hướng dẫn tại Mục 10 Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP

ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp

dụng một số quy định của BLHS) [55, tr.22].

1.3. Phân biệt tội mua bán trái phép chất ma túy với tội chiếm đoạt trái

phép chất ma túy và vận chuyển trái phép chất ma túy

Hành vi mua bán trái phép chất ma túy được quy định chi tiết và hướng dẫn

thi hành tại tiểu mục 3.3, Mục 3, Phần II của Thông tư 17, nội dung này tác giả đã

diễn đạt trong luận văn. Trong khi đó, hành vi phạm tội “chiếm đoạt chất ma túy” là

những hành vi thường được thực hiện một cách độc lập, riêng lẻ và luôn luôn phải

kèm theo các dấu hiệu pháp lý khác trong cấu thành tội phạm tương ứng với hành vi

chiếm đoạt. Ví dụ: Hành vi trộm cắp chất ma túy phải đi kèm với hành vi lén lút;

hành vi cướp chất ma túy phải đi kèm với hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vụ lực

ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công không thể chống cự

được nhằm chiếm đoạt chất ma túy; hành vi cưỡng đoạt chất ma túy phải đi kèm với

hành vi đe dọa dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác

nhằm chiếm đoạt chất ma túy hoặc hành vi lừa đảo chiếm đoạt chất ma túy phải đi

kèm với thủ đoạn gian dối. Trong số các tội xâm phạm sở hữu được quy định tại

Chương XVI BLHS hiện hành, có 9 tội danh liên quan đến hành vi chiếm đoạt hoặc

chiếm giữ trái phép tài sản (từ Điều 168 đến Điều 176 BLHS hiện hành). Sự khác

biệt duy nhất trong các trường hợp phạm tội chiếm đoạt hoặc chiếm giữ trái phép

chất ma túy này chính là đối tượng tác động của tội phạm: Chất ma túy, chứ không

phải là các loại tài sản khác.

Mặt khác, hành vi phạm tội “mua bán trái phép chất ma tuý” đều được thực

hiện do lỗi cố ý trực tiếp và đối tượng tác động của tội phạm trong các trường hợp

phạm tội này đều phải được xác định là chất ma túy. Tuy nhiên, hành vi phạm tội

20

“chiếm đoạt chất ma túy” có thể được thực hiện do lỗi cố ý gián tiếp, tức là người

thực hiện hành vi phạm tội “chiếm đoạt chất ma túy” có ý thức bỏ mặc cho hậu quả

xảy ra mà không cần biết đối tượng chiếm đoạt (đối tượng tác động của tội phạm) là

chất ma túy hay là các loại tài sản khác. Xét về thực chất, hành vi phạm tội “chiếm

đoạt chất ma túy” chỉ khác với những hành vi phạm tội chiếm đoạt tài sản về đối

tượng tác động của tội phạm. Đối tượng tác động của tội phạm chiếm đoạt tài sản là

các loại tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của cơ quan, tổ chức, công dân, còn

đối tượng tác động của tội phạm “chiếm đoạt chất ma túy” phải là các chất ma túy

do pháp luật quy định. Ngoài ra, khi hành vi phạm tội “chiếm đoạt chất ma túy” gây

ra những thiệt hại (nếu có) về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự hoặc thiệt

hại về tài sản cho người khác, thì người thực hiện hành vi phạm tội “chiếm đoạt

chất ma túy” đó còn phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội danh độc lập tương

ứng với những thiệt hại (nếu có) mà người phạm tội đã gây ra.

Còn đối với tội Vận chuyển trái phép chất ma túy cần xác định điểm khác

nhau cơ bản với tội MBTPCMT là ở hành vi khách quan của tội phạm được mô tả là

hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích sản xuất, mua

bán, tàng trữ trái phép chất ma trúy. Hành vi vận chuyển phép chất ma túy được hiểu

là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất ma túy từ nơi này đến nới khác dưới bất kỳ

hình thức nào (có thể bằng các phương tiện khác nhau như xe máy, ô tô, tàu bay, tàu

thủy…; trên các tuyến đường khác nhau như đường bộ, đường sắt, đường hàng

không, đường thủy, đường bưu điện…; có thể để trong người như cho vào túi áo, túi

quần, nuốt vào trong bụng, để trong hành lý như vali, túi xách…). Bên cạnh đó, Tội

vận chuyển trái phép chất ma túy trong BLHS năm 2015 cũng được pháp điển hóa cụ

thể mức tối thiểu định lượng các chất ma túy để làm căn cứ truy cứu TNHS. Ngoài

các trường hợp thõa mãn dấu hiệu về định lượng, Điều 250 BLHS năm 2015 còn bổ

sung thêm dấu hiệu định tội “đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại điều

này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 249,

251, 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.

21

Tiểu kết chương 1

Chương 1 của Luận văn, tác giả tập trung làm rõ những vấn đề lý luận, quy

định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội MBTPCMT, kế thừa và tiếp thu có chọn

lọc các công trình khoa học để đưa ra một số khái niệm, rút ra được ý nghĩa của việc

quy định tội MBTPCMT trong luật hình sự Việt Nam; khái quát cơ bản lịch sử lập

pháp tội MBTPCMT qua các giai đoạn lịch sử, phân tích ngắn gọn các dấu hiệu pháp

lý hình sự và hình phạt đối với tội phạm này, bên cạnh đó đã nêu ra được những điểm

mới của tội MBTPCMT đồng thời phân tích các quy định của tội phạm này trong

BLHS hiện hành. Pháp luật Việt Nam qua từng thời kỳ đã có những bước thay đổi

tiến bộ rõ nét, thể hiện qua phạm vi điều chỉnh tội phạm có tính khoa học, bao quát

cao, kỹ thuật lập pháp đối với các văn bản pháp luật ngày càng có sự hoàn thiện theo

hướng ổn định, đặc biệt mức độ quan tâm về việc quản lý và trấn áp tội phạm về ma

túy nói chung cũng như tội phạm về MBTPCMT nói riêng càng đúng mức. Từ đây có

thể thấy được những điểm mới, điểm tiến bộ, những sửa đổi, bổ sung khắc phục, bãi

bỏ các hạn chế trong các điều luật cũ, đưa ra cái nhìn khái quát về tổng thể quy định

của pháp luật làm nền tảng giúp chúng ta hiểu rõ hơn sự thay đổi về cách thức nhà

nước quản lý và trấn áp đối với loại tội phạm này. Đồng thời việc nghiên cứu những

cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý đối với tội MBTPCMT cũng là căn cứ, nền tảng và tiền

đề để tiến hành nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định pháp luật đối với tội

MBTPCMT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 - 2019.

22

CHƯƠNG 2

THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRÊN

ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

2.1. Thực tiễn công tác xét xử tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa

bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 – 2019

Hệ thống tổ chức bộ máy TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng hiện có 07 Toà

án quận, huyện và 01 TAND thành phố, cụ thể:

Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng có 05 Toà chuyên trách (Tòa Hình sự,

Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa Lao động, Tòa Gia đình và người chưa thành niên),

03 Phòng nghiệp vụ (Phòng Tổ chức cán bộ, Thanh tra, Thi đua và khen thưởng;

Văn Phòng và Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và Thi hành án)

Có 07 Toà án quận huyện (TAND quận Hải Châu, TAND Quận Cẩm Lệ,

TAND quận Thanh Khê, TAND quận Sơn Trà, TAND quận Liên Chiểu, TAND

quận Ngũ Hành Sơn và TAND huyện Hòa Vang) với tổng số 202 biên chế. Trong

đó có 82 thẩm phán, 98 thư ký, và 22 chức danh khác.

Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn 05 năm (2015 -

2019) đã áp dụng Điều 194 BLHS 1999 và Điều 251 BLHS 2015 để xét xử sơ thẩm

tổng số 515 vụ án với 742 bị cáo về tội MBTPCMT, diễn biến cụ thể như sau:

23

Bảng 2.1: Thống kê số lượng án sơ thẩm về tội MBTPCMT so với các tội phạm

về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 – 2019

Tội mua bán trái Các tội phạm Tỷ lệ % phép chất ma túy về ma túy (I) và (II) Năm (I) (II)

Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo

95 144 115 166 82,60% 86,74% 2015

99 135 145 196 68,28% 68,88% 2016

100 140 165 231 60,60% 60,60% 2017

99 145 218 307 45,41% 47,23% 2018

122 178 300 425 40,67% 41,88% 2019

515 742 943 1.325 56,00% 54,61% Tổng

Nguồn: TAND thành phố Đà Nẵng

Xét trên số liệu thực tế, nhận thấy rằng số lượng vụ án xét xử sơ thẩm về tội

MBTPCMT trong giai đoạn 2015 – 2019 có sự tăng giảm không đồng đều theo từng

năm, cụ thể từ năm 2015 đến 2017 tăng về số vụ nhưng lại giảm về số đối tượng, từ

2017 đến 2018 có giảm về số vụ nhưng không đáng kể (giảm 01 vụ) trong khi đó số

đối tượng lại tăng (tăng 05 đối tượng) và từ 2018 đến 2019 tăng cao nhất trong 5

năm (tăng 123 vụ, 33 đối tượng).

Nhìn chung, dù có tăng giảm nhưng trong giai đoạn từ năm 2015 đến 2019

tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng luôn chiếm tỷ lệ phần trăm rất cao

trong các tội về ma túy nói chung, trung bình chiếm 56,0% số vụ, 54,61% số bị cáo.

Về số vụ cao nhất là năm 2015 chiếm tỷ lệ 82,60%, thấp nhất là năm 2019 chiếm

40,67%, cũng tương tự như vậy về số bị cáo nhiều nhất là năm 2015 chiếm tỷ lệ

86,74%, thấp nhất là năm 2019 chiếm 41,88%.

Ngoài ra, theo Báo cáo thống kê số liệu giải quyết án hàng năm của TAND

thành phố Đà Nẵng cho biết trong 5 năm giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, tỷ lệ

thụ lý, giải quyết, xét xử sơ thẩm án về tội MBTPCMT luôn đạt tỷ lệ 100%, không

để xảy ra án quá hạn, không có án bị đình chỉ. Tỷ lệ Tòa án trả hồ sơ cho VKS để

24

điều tra bổ sung theo quy định là rất thấp, hầu như ít có [66, tr.10].

Bảng 2.2: Thống kê số lượng án sơ thẩm về tội MBTPCMT so với các tội phạm

nói chung trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 – 2019

Tội mua bán trái Tội phạm chung Tỷ lệ % phép chất ma túy Năm

Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo

1006 1794 95 144 9,44% 6,35% 2015

1021 1800 99 135 9,69% 7,50% 2016

1085 1806 100 140 9,21% 7,75% 2017

1240 2130 99 145 7,98% 6,80% 2018

1204 1899 122 178 10,13% 9,37% 2019

5556 7530 515 742 9,27% 9,85% Tổng

Nguồn: TAND thành phố Đà Nẵng

Căn cứ vào Bảng 2.2 cho thấy từ năm 2015 đến 2019, mặc dù không phải là

địa phương chiếm tỷ lệ phần trăm cao so với cả nước về các tội phạm ma túy,

nhưng nhìn chung trên địa bàn thành phố Đà Nẵng tội MBTPCMT là khá phổ biến,

tác giả nhận thấy tội phạm này chiếm tỷ lệ không nhỏ (trung bình chiếm 9,27% số

vụ, 9,85% số đối tượng) so với các loại tội phạm nói chung được TAND hai cấp

thành phố Đà Nẵng đưa ra xét xử.

Để có cơ sở nhận định, đánh giá công tác xét xử tội MBTPCMT theo hướng

khách quan, chính xác không mang nặng tính chủ quan của người nghiên cứu, tác

giả đã nghiên cứu ngẫu nhiên 150 vụ án xét xử phúc thẩm tội MBTPCMT trên địa

bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 – 2019.

25

Bảng 2.3: Thống kê các Bản án có kháng nghị, kháng cáo và kết quả xét xử

Sửa án sơ thẩm

Hình phạt Hủy án Số vụ án phúc thẩm Kháng nghị Kháng cáo Y án sơ thẩm Thay đổi tội danh Tăng Giảm

150 15 96 139 0 07 04 0

Tác giả nhận thấy trong tổng số 150 vụ án xét xử phúc thẩm có 15 vụ án do Viện

kiểm sát kháng nghị, chiếm tỷ lệ 10%, số vụ án xét xử phúc thẩm, kháng cáo là 96

vụ chiếm tỷ lệ 64%. Việc có kháng nghị thể hiện sự không đồng tình của Viện kiểm

sát, là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử đối với việc xét xử của

Tòa án. Tuy tỷ lệ này không cao nhưng cũng cho thấy có những quan điểm khác

nhau giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong quá trình áp dụng pháp luật.

Trong tổng số 150 vụ án xét xử phúc thẩm có 139 vụ Tòa phúc thẩm tuyên y

án sơ thẩm, chiếm tỷ lệ 92,66%, đây là tỷ lệ tương đối cao, thể hiện sự thống nhất

cao giữa Tòa phúc thẩm và Tòa sơ thẩm. Hủy án, trả hồ sơ điều tra bổ sung, qua

nghiên cứu không có vụ nào.

Trong tổng số 150 vụ án xét xử phúc thẩm có 11 vụ Tòa phúc thẩm sửa án sơ

thẩm, trong đó sửa về hình phạt là 11 vụ chiếm tỷ lệ 7,33%, đây là một tỷ lệ tương

đối cao, cho thấy cấp sơ thẩm đã có những sai sót nhất định, có sự không thống nhất

giữ hai cấp xét xử. Trong 11 vụ án phúc thẩm có sửa án thì có 07 vụ tăng hình phạt

tù chiếm tỷ lệ 4,66% tổng số vụ phúc thẩm, 04 vụ giảm hình phạt tù, chiếm tỷ lệ

2,6% tổng số vụ phúc thẩm, cho thấy sự chưa thống nhất trong quyết định hình

phạt, trong việc đánh giá tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS

khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, đối với Tòa phúc thẩm thì đánh giá

các tình tiết giảm nhẹ đầy đủ hơn so với cấp sơ thẩm nên tỷ lệ vụ án xét xử phúc

thẩm được giảm án tương đối cao.

Tội phạm về ma túy là loại tội phạm gây nguy hại lớn, bởi đó là một trong

26

những nguyên nhân làm phát sinh tệ nạn xã hội, là mầm mống phát sinh nhiều loại

tội phạm khác. Số lượng vụ án được đưa ra xét xử sơ thẩm hàng năm chiếm gần

10% so với tổng số vụ án hình sự nói chung, cho thấy TAND hai cấp thành phố Đà

Nẵng luôn có sự quan tâm, lãnh đạo chặt chẽ, thường xuyên quản lý, chỉ đạo điều

hành thống nhất đối với công tác đấu tranh phòng, chống ma túy nhằm kiềm chế,

ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi loại tội phạm này trên địa bàn thành phố.

2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán

trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

2.2.1. Thực tiễn định tội danh về tội mua bán trái phép chất ma túy trên

địa bàn thành phố Đà Nẵng

Định tội danh là hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật

hình sự nhằm cá biệt hóa các quy định của BLHS vào trường hợp hành vi nguy hiểm

cho xã hội cụ thể xảy ra, được thể hiện trên cơ sở xác định đầy đủ, chính xác, khách

quan các tình tiết cụ thể của hành vi được thực hiện và tình tiết khác của vụ án, nhận

thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tương

ứng và xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm nhất định

với các tình tiết cụ thể của hành vi được thực hiện và các tình tiết khác của vụ án,

bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất định [23, tr.9]

Thực tiễn định tội danh đối với tội MBTPCMT trong giai đoạn 5 năm từ

2015 đến năm 2019, nhận thấy rằng thời điểm tác giả nghiên cứu TAND hai cấp

thành phố Đà Nẵng đã áp dụng cả 02 điều luật (Điều 194 BLHS 1999 và Điều 251

BLHS 2015) để định tội danh, vì trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến trước

ngày 01/01/2018 BLHS 1999 vẫn có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên kể từ ngày 01

tháng 01 năm 2018 BLHS 2015 chính thức có hiệu lực thi hành, do đó đã có nhiều

nội dung khoa học pháp lý thay đổi, vì vậy để thuận lợi trong quá trình nghiên cứu

tác giả xin phép trích dẫn điều luật hiện hành đang áp dụng là Điều 251 và xin được

dẫn chứng các ví dụ trích dẫn từ các Bản án được xét xử từ sau ngày 01/01/2018

của TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng.

2.2.1.1. Định tội danh theo cấu thành cơ bản của tội phạm

27

Định tội danh theo các yếu tố cấu thành cơ bản của tội MBTPCMT là việc

định tội danh theo những dấu hiệu pháp lý bắt buộc được quy định tại khoản 1 Điều

251 BLHS năm 2015 như sau: “Người nào mua bán trái phép chất ma tuý, thì bị

phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

Tội phạm là một thể thống nhất gồm bốn yếu tố: Khách thể, mặt khách quan,

chủ thể, mặt chủ quan. Vì vậy, trong khoa học pháp lý hình sự khi nghiên cứu quá

trình định tội danh người ta tách riêng xem xét việc định tội theo từng nhóm dấu

hiệu nêu trên của tội phạm, do đó việc định tội danh tội MBTPCMT theo cấu thành

cơ bản được thể hiện như sau:

- Định tội danh theo khách thể của tội phạm

Từ năm 2015 đến năm 2019, TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng cùng với các

cơ quan tiến hành tố tụng nói chung đã tuân thủ nghiêm ngặt, chặt chẽ các quy định

về định tội danh đối với tội MBTPCMT theo khách thể của tội phạm, tác giả nhận

thấy rằng đều có sự chính xác cao, đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật và

không để xảy ra sai sót trên thực tế.

Ví dụ 1: Vào lúc 20 giờ 00 phút ngày 21/08/2018, tại trước số nhà 189 Lê

Đình Lý, phường Hòa Thuận Tây, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, bị cáo Phạm

Thái Ph (SN 1996) bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Hải

Châu, thành phố Đà Nẵng bắt quả tang Phạm Thái Ph đang tàng trữ trái phép chất

ma túy loại Ketamine khối lượng 9,370 gam. Quá trình điều tra làm rõ vụ án và tại

phiên tòa bị cáo Ph đều thừa nhận số ma túy trên là bị cáo mua của người tên Bu và

đang đi giao ma túy bán lại cho người khác để kiếm lời thì bị bắt quả tang.

Trong phần nhận định HĐXX khẳng định: “…, hành vi của bị cáo Ph đã

xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma túy,…”.

Tại Bản án sơ thẩm số 110/2018/HSST ngày 31/11/2018 TAND quận Hải Châu căn

cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều BLHS năm 2015 tuyên bị cáo Phạm

Thái Ph phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Nhận thấy TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng đã tuân thủ triệt để, áp dụng

đầy đủ các quy định của pháp luật trong việc định tội danh, đảm bảo sự chính xác,

28

khách quan và công bằng trong các phán quyết của mình đối với người thực hiện

hành vi phạm tội.

- Định tội danh theo mặt khách quan của tội phạm

Thực tiễn định tội danh tội MBTPCMT theo mặt khách quan của tội phạm,

qua việc khảo sát thực tiễn xét xử trong giai đoạn 2015 - 2019 cho thấy TAND hai

cấp thành phố Đà Nẵng đã tiến hành định tội danh một cách chính xác và tác giả

không phát hiện sai sót.

- Định tội danh theo chủ thể của tội phạm

Qua nghiên cứu các Bản án xét xử từ năm 2015 đến năm 2019 trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng, cho thấy việc định tội danh theo chủ thể của tội MBTPCMT đã

được TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng thực hiện một cách chính xác và không có

sai sót nào xảy ra.

- Định tội danh theo mặt chủ quan của tội phạm

Trong mặt chủ quan của tội phạm có lỗi (cố ý hoặc vô ý), động cơ và mục

đích phạm tội. Mặt chủ quan phản ánh mối liên hệ giữa ý thức và ý chí của người

phạm tội với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. [23, tr.77]

Đối với tội MBTPCMT, hành vi MBTPCMT được thực hiện bằng lỗi cố ý

trực tiếp, người thực hiện hành vi không chỉ nhận thức rõ hành vi của mình là trái

pháp luật, biết rõ tác hại, hậu quả do hành vi của mình gây ra mà vẫn cố ý thực hiện

hành vi đó. Người phạm tội có thể thực hiện hành vi MBTPCMT với động cơ và

mục đích khác nhau, qua nghiên cứu tác giả nhận thấy rằng chủ yếu là kiếm lợi

nhuận hưởng tiền chênh lệch và thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân.

Việc định tội danh tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng theo mặt chủ

quan của tội phạm đã được tiến hành một cách khách quan, chính xác. Tuy nhiên

vẫn có một số ít trường hợp chứng cứ buộc tội bị cáo còn yếu (nếu bị cáo phản

cung, không thừa nhận thì cũng không có đủ căn cứ để khẳng định bị cáo phạm tội).

Ví dụ 2: Khoảng 10 giờ ngày 04/7/2018, Hoàng Thị Hàn V mua của Long

(không rõ lai lịch, địa chỉ) 01 gói ma túy đá với giá 1.200.000 đồng ở đường

Nguyễn Công Trứ, thành phố Đà Nẵng. V đem về phòng 102 Nhà nghỉ P tại số 03

29

đường N, phường H, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng chia thành 10 gói ma túy đá

nhỏ nhằm mục đích bán lại cho con nghiện với giá 200.000 đồng/01 gói và sử dụng

cho bản thân. Đến 12 giờ cùng ngày V đem 10 gói ma túy có khối 1,663 gram đến

đường Lê Đình Lý, phường Vĩnh Trung, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng gặp

người tên Bé (không rõ lai lịch, địa chỉ) để tìm nơi sử dụng ma túy thì bị Đội Cảnh

sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Thanh Khê phối hợp Công an phường

Vĩnh Trung phát hiện, bắt quả tang.

Quá trình điều tra V khai nhận là mua ma túy của Long đem về chia nhỏ ra

để bán cho người khác để hưởng tiền chênh lệch và có ma túy sử dụng. Mặc dù V

lúc bắt quả tang V, thì V đang có hành vi tàng trữ trái phép 1,663 gram chất ma túy

và khai nhận là để tìm nơi sử dụng ma túy cùng với Bu. Tuy nhiên quá trình cũng

cố chứng cứ, đấu tranh V khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm bán

cho người khác để kiếm lời và để có ma túy sử dụng.

TAND quận Thanh Khê nhận định hành vi phạm tội trên đây của Hoàng Thị

Hàn V đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của BLHS năm 2015.

Tại Bản án sơ thẩm số 115/2018/HSST ngày 11/11/2018 TAND quận Thanh

Khê căn cứ vào khoản 1 Điều 251 và điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Tuyên bố: Bị

cáo Hoàng Thị Hàn V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tuy nhiên qua

nghiên cứu bản án này, tác giả cho rằng nên chăng cần phải xác định được những

người đã mua ma túy của V, cần thiết cho đối chất, nhận dạng (chứ không dùng duy

nhất lời khai của V và những vật chứng thu được làm chứng cứ buộc tội), từ đó có

chứng cứ đủ mạnh, có thêm cơ sở để định tội danh đối với V về tội MBTPCMT

thêm phần chắc chắn hơn.

2.2.1.2. Định tội danh theo cấu thành tăng nặng của tội phạm

Định tội danh theo cấu thành tăng nặng của tội MBTPCMT chính là việc

định tội danh theo những dấu hiệu pháp lý phản ánh các cấu thành tăng nặng của tội

phạm được quy định tại các khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 251 BLHS 2015.

30

Bảng 2.4: Thống kê số bị cáo bị xét xử theo các khoản khác nhau đối với tội

MBTPCMT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 – 2019

Khoản 1 Khoản 2 Khoản 3 Khoản 4 Tổng

83,33%

14,58%

2,09%

0%

Năm số Bị Bị Bị Bị Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Bị cáo cáo cáo cáo cáo

82,96%

14,08%

2,22%

0,74%

2015 144 120 21 3 0

79,29%

17,14%

3,57%

0%

2016 135 112 19 3 1

78,62%

17,24%

4,14%

0%

2017 140 111 24 5 0

76,97%

17,41%

5,06%

0,56%

2018 145 114 25 6 0

2019 178 137 31 9 1

16,17%

3,51%

0,27%

Tổng 742 594 80,05% 120 26 2

Nguồn: TAND thành phố Đà Nẵng

Bảng số liệu 2.3 đã cung cấp cơ sở để đánh giá thực tiễn xét xử sơ thẩm đối

với cấu thành tăng nặng của tội MBTPCMT, qua Bảng số liệu nhận thấy số lượng

các bị cáo bị Hội đồng xét xử (HĐXX) định tội theo khoản 1 Điều 251 chiếm tỷ lệ

cao nhất (chiếm 80,05%), kế tiếp là số lượng bị cáo bị định tội theo khoản 2 (chiếm

16,17%), các khoản 3 và khoản 4 là có áp dụng nhưng chiếm tỷ lệ không cao.

- Định tội danh theo khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015

Qua nghiên cứu cho thấy hầu hết các vụ án về tội MBTPCMT được đưa ra

xét xử sơ thẩm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng rất hiếm khi áp dụng các tình tiết

quy định tại các điểm như: “lợi dụng chức vụ, quyền hạn”; “lợi dụng danh nghĩa cơ

quan, tổ chức”, hay “qua biên giới”.

Các tình tiết định khung tăng nặng tác giả nhận thấy thường được áp dụng là:

“phạm tội 02 lần trở lên”, “mua bán với 02 người trở lên”, “Heroine, Cocaine,

Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XRL-11 có khối lượng từ 05 gam

đến dưới 30 gam” …

Đối với tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên”: Qua nghiên cứu các Bản án nhận

thấy đa phần các vụ án về tội MBTPCMT tại Đà Nẵng đều là bắt phạm tội quả tang.

31

Quá trình điều tra làm rõ, có nhiều trường hợp bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi

mua, bán trái phép nhiều lần, tuy nhiên cơ quan tiến hành tố tụng lại không có đủ

căn cứ và chứng cứ đủ mạnh để xác định chính xác các lần thực hiện hành vi đó. Vì

vậy Tòa án thường không dựa vào lời khai của các bị cáo để áp dụng tình tiết “phạm

tội 02 lần trở lên” mà chỉ dựa trên những hành vi khách quan đã xảy ra trên thực tế,

có đầy đủ tài liệu, chứng cứ rõ ràng để định tội danh đối với người phạm tội.

Ví dụ 3: Vào khoảng 22 giờ ngày 22/01/2019, Nguyễn Đình T, SN 1982, cư trú

tại Thôn X, xã Đ, huyện V, tỉnh H đến khu vực Cảng cá Thọ Quang, quận Sơn Trà,

thành phố Đà Nằng mua của một người tên Mỹ 02 gói ma túy đá có khối lượng

0,472 gam với giá 1.000.000đ. Sau đó, T cất giấu vào trong túi áo khoác bên trái T

đang mặc rồi đi đến trước số 478 đường Lê Duẩn, phường Chính Gián, quận Thanh

Khê, thành phố Đà Nẵng để chờ bán cho một nam thanh niên đã hỏi mua trước đó

với giá 1.200.000đ, nhưng chưa bán được thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra tội phạm

về ma túy Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng bắt quả tang. Ngoài lần

phạm tội quả tang, qua điều tra Nguyễn Đình T khai nhận đã bán ma túy đá cho 04

người nhưng không nhớ thời gian, địa điểm bán, loại ma túy đã bán.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2019/HSST ngày 15/6/2019 TAND quận

Thanh Khê căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS 2015. Tuyên

bố bị cáo Nguyễn Đình T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là khách quan,

chính xác, đúng pháp luật.

Qua ví dụ trên, nhận thấy rằng mặc dù Nguyễn Đình Th đã khai nhận ngoài

lần phạm tội quả tang thì đã bán ma túy 04 lần cho các đối tượng khác. Tuy nhiên

cơ quan tiến hành tố tụng không thu giữ được chất ma túy, không xác định được lai

lịch địa chỉ của những người đã mua ma túy của Th trong 04 lần đó nên không đủ

cơ sở để xử lý TNHS đối với Th ở những lần bán ma túy nêu trên, phù hợp với

nguyên tắc có lợi có bị can, không được dùng lời nhận tội của bị can làm chứng cứ

duy nhất để buộc tội.

Đối với tình tiết “đối với 02 người trở lên”: Đây là tình tiết mới được bổ

sung so với quy định của BLHS năm 1999 đối với tội MBTPCMT. Tại thời điểm

32

tác giả nghiên cứu, đã có Công văn số 5887/VKSTC-V14 ngày 05 tháng 12 năm

2019 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải đáp một số khó khăn, vướng

mắc liên quan đến BLHS, BLTTHS năm 2015 và thi hành án hình sự.

Theo đó, Công văn đã hướng dẫn về tình tiết này cụ thể như sau: Tình tiết

“đối với 02 người trở lên”, cần được hiểu là trong một lần thực hiện hành vi phạm

tội, người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội đối với 02 người trở lên (có thể

02 người hay nhiều người cùng mua ma túy một lúc hay mỗi người có thể giao dịch

trước nhưng việc giao nhận ma túy tiến hành cùng một thời gian, cùng thời điểm

hoặc 02 hay nhiều người cùng góp tiền và trực tiếp đi mua ma túy) [85, tr.5].

Như vậy tình tiết mới này đã thể hiện được tính chặt chẽ, đáp ứng được thực

tiễn đặt ra trong công tác đấu tranh phòng, chống tội MBTPCMT, đồng thời làm rõ

và phân biệt với tình tiết định khung “phạm tội 02 lần trở lên”. Tác giả nhận thấy

đây là tình tiết được bổ sung kịp thời của BLHS năm 2015 nhằm hạn chế tác hại của

ma túy, cũng như nhằm đẩy lùi, ngăn chặn sự lây lan ma túy trong cộng đồng.

Tuy nhiên qua nghiên cứu thực tiễn định tội danh về tội MBTPCMT đối với

tình tiết tăng nặng này, tác giả nhận thấy vẫn còn một số Bản án như: Bản án sơ

thẩm số 12/2019/HS-ST ngày 10/4/2019; 26/2019/HS-ST ngày 21/6/2019; 38/2018/HS-

ST ngày 31/7/2018 của TAND quận Cẩm Lệ; Bản án sơ thẩm số 09/2019/HS-ST ngày

của TAND quận Hải Châu; Bản án sơ thẩm số 118/2018/HS-ST ngày của TAND

quận Thanh Khê định tội với tình tiết “đối với 02 người trở lên” tác giả cho rằng

vẫn còn chưa thỏa đáng, chưa thật sự phù hợp, điển hình với ví dụ sau đây:

Ví dụ 4: Từ tháng 11/2018 đến ngày 07/01/2019, bị cáo Phạm Trung K đã

nhiều lần liên lạc mua ma tuý của Mạnh (chưa xác định được nhân thân lai lịch) với

giá tiền mỗi lần mua từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng, địa điểm mua bán do

Mạnh chọn tại đường Hàm Nghi, thành phố Đà Nẵng để chia nhỏ bán cho các con

nghiện. Trong đó, Trương Thành T liên lạc mua ma tuý của bị cáo 02 lần với giá

tiền mỗi lần 300.000 đồng, lần thứ nhất vào ngày 17/11/2018, lần thứ hai vào ngày

06/12/2018, địa điểm giao dịch tại đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, thành phố Đà Nẵng.

Chiều ngày 07/01/2019, bị cáo nhận được điện thoại của 01 thanh niên (chưa

33

xác định được lai lịch) gọi đến số điện thoại 0363321173 của bị cáo hỏi mua 01

gam ma túy đá với giá 1.300.000 đồng, hẹn giao nhận tại quán Karaoke Kin Kin

thuộc phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ. Vào lúc 17 giờ 45 cùng ngày, tại phòng

201 quán Karaoke Kin Kin, trong lúc bị cáo đem ma túy đến để bán trái phép cho

con nghiện thì bị Cơ quan Công an quận Cẩm Lệ phát hiện bắt quả tang, đồng thời

thu giữ ma túy loại Methamphetamine, khối lượng ma túy thu giữ là 1,966 gam.

Trong nội dung nhận định của Tòa án, HĐXX nhận định: “Hành vi phạm tội

của bị cáo đã mua ma túy nhiều lần của một người tên Mạnh không xác định được

lai lịch với giá tiền mỗi lần mua từ 1.000.000đ đến 2.000.000đ về phân nhỏ bán cho

Trương Thành T 02 lần với giá tiền mỗi lần 300.000 đồng, thu lợi bất chính 600.000

đồng và vào ngày 07 tháng 01 năm 2019 bị cáo có hành vi tàng trữ 1,966 gam ma

túy loại Methamphetamine để bán trái phép cho người khác thì bị Cơ quan Cảnh sát

điều tra Công an quận Cẩm Lệ phát hiện bắt quả tang.

Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Phạm Trung K phạm tội “Mua

bán trái phép chất ma túy” quy định tại các điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình

sự năm 2015 như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đảm bảo đúng người,

đúng tội, đúng pháp luật”.

Qua ví dụ thấy rằng CQĐT, VKS và Tòa án đều thống nhất, cho rằng Phạm

Trung K đã 02 lần (vào ngày 17/11/2018 và ngày 06/12/2018) bán ma túy cho

Trương Thành T với giá tiền mỗi lần 300.000 đồng; ngày 07/01/2019 T tiếp tục có

hành vi tàng trữ 1,966 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích để bán

trái phép cho người khác thì bị phát hiện bắt quả tang. Như vậy tổng cộng K có 03

lần bán trái phép chất ma túy cho người khác (02 lần cho T, 01 lần cho 01 thanh

niên chưa rõ lai lịch), mỗi lần thực hiện hành vi phạm tội K chỉ mua bán ma túy cho

01 người và các lần mua bán đó là độc lập, tách biệt về thời gian, địa điểm và số

người mua ma túy. Tuy nhiên, HĐXX lại nhận định: “Có đủ cơ sở kết luận hành vi

của bị cáo Phạm Trung K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại

các điểm b, c khoản 2 Điều 251 BLHS 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội,

đúng pháp luật”, là bất hợp lý, chưa đủ cơ sở khi áp dụng tình tiết này.

34

Đối với các tình tiết “Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine,

MDMA hoặc XRL-11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam” hay “có 02 chất ma

túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối

lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm h đến điểm o

khoản này”… qua nghiên cứu thực tiễn xét xử tác giả nhận thấy rằng TAND hai cấp

thành phố Đà Nẵng đã áp dụng chính xác và không có trường hợp sai sót nào xảy ra.

Ngoài ra, đối với vấn đề định tội danh theo khoản 2 Điều 251 BLHS hiện

hành, khi nghiên cứu thực tiễn xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm tác giả nhận thấy rằng

cá biệt vẫn còn có trường hợp có những sai sót trong quá trình áp dụng pháp luật.

Ví dụ 5: Vào lúc 15h00’ ngày 22/01/2019, đường Lê G, phường Đ, quận S,

thành phố Đà Nẵng, Đồn Biên phòng Sơn Trà bắt quả tang Trần Đình D đang thực

hiện hành vi bán trái phép chất ma túy cho đối tượng Vũ Ngọc Hoàng A. Thu giữ

tại túi áo bên trái Trần Đình D đang mặc 05 gói thực cần sa có khối lượng 34,960

gam, D khai nhận đây là ma túy dạng cần sa, D mua về bán lại cho con nghiện kiếm

lời; thu giữ của Vũ Ngọc Hoàng A 01 gói cần sa có khối lượng 3,949 gam; A khai

nhận vừa mua của D nhằm mục đích sử dụng cho nhu cầu nghiện của bản thân.

Quá trình điều tra xác định: D bắt đầu bán cần sa từ tháng 01 năm 2019.

Nguồn gốc ma túy D lấy từ đối tượng tên Bùi Xuân T (trú tại tỉnh TG) để thỏa thuận

giá cả, số lượng cần mua. Sau đó, D chuyển tiền vào tài số khoản 060.187.717.xxx và

T sẽ gửi cần sa cho D qua xe khách hoặc qua dịch vụ chuyển phát nhanh. Sau khi

nhận được cần sa, D đem về cất giấu tại quán cắt tóc tại tổ 70, phường Đ, quận S,

thành phố Đà Nẵng và phân ra từng gói nhỏ bán cho con nghiện. Từ thời điểm tháng

01/2019 đến thời điểm bị bắt, D đã 09 lần mua ma túy cần sa từ T.

Vào ngày 21/01/2019, D đã chuyển số tiền 04 triệu đồng qua tài khoản Ngân

hàng Sacombank cho T, đặt mua 400 gam cần sa và thỏa thuận T gửi cần sa cho D

qua đường chuyển phát nhanh. Đến 16h15’ ngày 23/1/2019, khi nhận viên giao

nhận hàng đến quán cắt tóc của D để giao hàng thì bị lực lượng Biên phòng mời về

làm việc. Qua kiểm tra, bên trong gói hàng có 04 gói giấy ghi nhãn hiệu Nam dược

Balzacs Roasters bên trong có chứa ma túy, loại cần sa, có khối lượng: 400,23 gam.

35

Trần Đình D thừa nhận gói hàng này là của D đã đặt mua của T.

Còn Lê Văn N làm việc tại quán cắt tóc của D từ ngày 02/01/2019. Từ ngày

02/01/2019 đến 21/01/2019, N và D đã nhiều lần sử dụng chung cần sa với nhau.

Việc D mua cần sa của ai, cách thức giao dịch và giá tiền như thế nào thì N không

biết. Trong những lần cùng sử dụng cần sa và 05 lần đi bán ma túy cần sa với D, N

biết D cất giấu cần sa tại tủ gỗ kích thước để phía sau, sát vách quán cắt tóc. Do N

làm việc tại quán cắt tóc của D nên biết D cất giấu cần sa là để bán lại cho các con

nghiện. N cũng thừa nhận đã cùng đi bán ma túy với D 05 lần, số lần này cơ quan

điều tra đã xác minh làm rõ thời gian, địa điểm, số tiền và loại ma túy mua bán.

Những lần trên đều do D rủ N đi, D trực tiếp ra tủ đựng đồ lấy cần sa, N điều

khiển xe mô tô BKS 43E1-xxxx chở D, còn D trực tiếp cầm và giao cần sa cũng

như nhận tiền của người mua. Sau khi đi bán cần sa, D thường lấy tiền này để đi

mua đồ ăn và bia, ngoài ra còn cho N 02 thẻ card điện thoại (mỗi thẻ trị giá 20.000

đồng) để bồi dưỡng cho N. Vào ngày 22/01/2019, việc D liên hệ bán cần sa cho Vũ

Ngọc Hoàng A thì N không biết.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 59/2019/HS-ST ngày 22/7/2019 của TAND

quận S, thành phố Đà Nẵng đã căn cứ các điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm

s khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 xử phạt: Trần Đình D 08 năm tù, Lê Văn N 07 năm

tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 169/2019/HS-PT ngày 09 tháng 10 năm

2019, TAND thành phố Đà Nẵng nhận định: Theo cáo trạng số 45/CT-VKS ngày

08/5/2019 của VKSND quận S đã truy tố bị cáo Trần Đình D về tội “Mua bán trái

phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 BLHS; truy tố bị cáo Lê Văn N về tội

“Không tố giác tội phạm” theo 1 Điều 390 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, ngày

27/6/2019 TAND quận S đã đưa vụ án ra xét xử đối với bị cáo Trần Đình D theo

khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật, và xét xử bị cáo

Lê Văn N về tội danh nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố. Tuy nhiên, tại quyết

định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 43/2019/QĐXXST-HS ngày 27/6/2019 Tòa án

cấp sơ thẩm không áp dụng Điều 298 BLTTHS trong quyết định đưa vụ án ra xét

36

xử. Do đó, phần quyết định của Bản án sơ thẩm không áp dụng khoản 2, khoản 3

Điều 298 BLTTHS là có thiếu sót trong việc áp dụng pháp luật, không phù hợp với

nội dung của Điều 298 BLTTHS.

Như vậy, qua vụ án trên nhận thấy VKS đã truy tố bị cáo Lê Văn N về tội

“Không tố giác tội phạm” theo 1 Điều 390 BLHS 2015. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ

thẩm đã xét xử bị cáo với tội danh nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố đó là tội

“Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 (phạm tội 02 lần trở lên)

Điều 251 BLHS năm 2015 là chưa phù hợp, có sai sót trong quá trình áp dụng pháp

luật. Theo đó, tác giả cho rằng để áp dụng pháp luật đúng trong trường hợp này Tòa

án trả hồ sơ để VKS truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện

của bị cáo, người bào chữa biết, nếu VKS vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có

quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.

- Định tội danh theo khoản 3, khoản 4 Điều 251 BLHS năm 2015

Không giống như khoản 2, tại khoản 3, khoản 4 Điều 251 BLHS năm 2015

chỉ quy định các dấu hiệu định lượng về khối lượng, thể tích của các nhóm chất ma

túy. Do vậy khi định tội danh theo khoản 3, 4 Điều 251, trước hết phải xem xét các

hành vi phạm tội đã xảy ra trên thực tế có thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của CTTP

cơ bản quy định tại khoản 1 Điều luật này hay không, nếu đã thỏa mãn thì tiếp tục

xem xét về khối lượng hoặc thể tích các chất ma túy mà người thực hiện hành vi

phạm tội rơi vào những quy định nào tại các khoản 3, 4 Điều 251. Việc định tội

danh khi đối với các tình tiết này dựa trên sự so sánh giữa khối lượng, thể tích chất

ma túy được mua bán trái phép trên thực tế với khối lượng, thể tích chất ma túy

được quy định cụ thể trong điều luật.

Ví dụ 6: Lúc 11 giờ 30 phút ngày 08/10/2018, Công an Đà Nẵng bắt quả tang

Lê Tự Đ đang cất giấu ma túy tại phòng trọ thuộc căn nhà ở tổ 13, phường T, quận

H, Đà Nẵng nhằm mục đích để bán cho người khác kiếm lời. Tổng khối lượng ma

túy là 148,711 gam (loại Methamphetamine có khối lượng 122,766 gam và ma túy

loại MDMA có khối lượng 25,945 gam). Bị cáo khẳng định toàn bộ số ma túy trên

là của một mình bị cáo, không có ai cùng tham gia mua bán ma túy cùng bị cáo.

37

Hành vi của bị cáo Lê Tự Đ đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma

túy”. Bị cáo mua bán trái phép 02 chất ma túy đó là MDMA và Methamphetamine

với tổng khối lượng 148,711 gam (theo kết luận Giám định số 197/GĐ-MT ngày

11/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Đà Nẵng), nên đã phạm vào tình

tiết định khung quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 của BLHS năm 2015.

Vì vậy Bản án số 30/2019/HS-ST, ngày 20/6/2019, TAND thành phố Đà

Nẵng đã áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251 xét xử bị cáo Lê Tự Đ về tội mua bán

trái phép chất ma túy là có cơ sở, hoàn toàn hợp lý.

2.2.1.3. Định tội danh trong trường hợp đặc biệt

- Định tội danh trong trường hợp phạm tội chưa hoàn thành

Để đánh giá đúng mức độ thực hiện tội phạm và từ đó có những cơ sở để xác

định phạm vi TNHS của người thực hiện hành vi phạm tội, luật hình sự Việt Nam

đã phân biệt 03 mức độ thực hiện tội phạm đó là: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa

đạt và tội phạm hoàn thành. Đây cũng chính là 03 giai đoạn phạm tội thường gặp

trên thực tế, đặt ra đối với tội cố ý trực tiếp [10].

Định tội danh ở trường hợp phạm tội chưa hoàn thành là việc định tội danh

đối với những hành vi được thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội

chưa đạt. Qua khảo sát thực tiễn xét xử tại thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 -

2019 cho thấy, tội phạm về MBTPCMT hầu hết đều thuộc trường hợp phạm tội quả

tang, đa số các vụ án còn lại đều có đầy đủ chứng cứ để chứng minh hành vi

MBTPCMT đã xảy ra trước đó, do đó không có vụ án nào định tội danh đối với tội

phạm này ở giai đoạn phạm tội chưa hoàn thành.

- Định tội danh trong trường hợp đồng phạm

Từ thực tế các vụ án xảy ra cho thấy, tội phạm không chỉ gây ra bởi một

người mà còn có thể do nhiều người cùng gây ra. Khi có nhiều người cùng cố ý

thực hiện một tội phạm thì trường hợp đó được gọi là đồng phạm, đây là một trong

những hình thức phạm tội đặc biệt trong Luật hình sự Việt Nam. Điều 17 BLHS

năm 2015 quy định về đồng phạm như sau: “Đồng phạm là trường hợp có hai

người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm” [42, tr.7].

38

Như vậy, để định tội danh trong trường hợp đồng phạm, cơ quan tiến hành tố

tụng phải xác định được trên thực tế có ít nhất là hai người trở lên cùng cố ý thực hiện

một tội phạm, đồng thời phải xác định rõ trách nhiệm, vai trò của từng người để phân

hóa TNHS. Đối với tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, qua khảo sát

thực tiễn xét xử, tác giả nhận thấy số lượng các vụ án MBTPCMT có đồng phạm

chiếm tỷ lệ phần trăm khá thấp, số lượng đồng phạm trong các vụ án không nhiều,

thường gặp ba loại đó là: người tổ chức, người giúp sức và người thực hành. Việc

định tội danh tội MBTPCMT trong trường hợp đồng phạm luôn được TAND hai cấp

thành phố Đà Nẵng xem xét một cách thận trọng, đảm bảo xét xử đúng pháp luật.

Ví dụ 7: Trong đầu tháng 8/2019, thông qua đối tượng tên Q (chưa rõ nhân

thân lai lịch), Trần Ngọc H đã mua 288,65 gam ma túy loại MDMA và 99,882 gam

ma túy loại Ketamine của đối tượng tên C, T4 (chưa rõ nhân thân lai lịch) tại thành

phố Hồ Chí Minh với giá 165.000.000 đồng, nhằm mục đích để bán lại kiếm lời.

Sau đó, Trần Ngọc H nhờ Trần Duy Đ vận chuyển từ thành phố Hồ Chí Minh về Đà

Nẵng. Đ biết Trần Ngọc H mua ma túy về để bán lại cho người khác nhưng Đ vẫn

đồng ý vào thành phố Hồ Chí Minh nhận ma túy mang về cho H. Vào lúc 16h00

phút ngày 07/8/2019, khi Trần Duy Đ mang ma túy nói trên về đến trước số nhà

đường R, quận K, thành phố Đà Nẵng thì bị bắt quả tang.

Trong vụ án này, bị cáo Trần Ngọc H là người cầm đầu, đóng vai trò chính,

bị cáo là người bỏ tiền ra và chủ động liên hệ giao dịch với người tên C để mua ma

túy với số lượng lớn, bị cáo cũng là người rủ rê, lôi kéo bị cáo Đ tham gia vào việc

phạm tội, H đã yêu cầu Đ vào thành phố Hồ Chí Minh nhận ma túy về cho mình để

bán. Bị cáo Trần Duy Đ là người giúp sức tích cực cho H, trực tiếp vào thành phố

Hồ Chí Minh nhận ma túy mang về cho H.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 95/2019/HS-ST, ngày 28/11/2019 TAND

thành phố Đà Nẵng, căn cứ vào: Điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản

1, khoản 2 Điều 51 BLHS 2015 tuyên Trần Ngọc H phạm tội MBTPCMT. Căn cứ

vào: Điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; Điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản

1 Điều 54; Điều 58 BLHS 2015 tuyên Trần Duy Đ phạm tội MBTPCMT.

39

Qua ví dụ trên, nhận thấy TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng đã tuân thủ triệt

để quy định của BLHS về đồng phạm, xem xét, đánh giá đúng tính chất, mức độ hành

vi phạm tội của từng bị cáo, tuy nhiên nhận thấy vẫn còn một vài sai sót nhỏ, tuy

không ảnh hưởng đến việc định tội danh nhưng tác giả cho rằng cần phải rút kinh

nghiệm, đó là trong các Bản án không nêu căn cứ để xác định đồng phạm.

2.2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất

ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Dưới góc độ khoa học Luật hình sự: “Quyết định hình phạt là hoạt động của

Tòa án trong việc cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân

thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để lựa

chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ

sung, trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội” [77, tr.48].

Để quyết định hình phạt chính xác, thống nhất, hiệu quả, công bằng cần quán

triệt thực hiện xuyên suốt, đúng đắn các nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa;

Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa; Nguyên tắc công bằng trong quyết định hình

phạt; Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong quyết định hình phạt [77, tr.53].

Theo quy định tại Điều 50 BLHS năm 2015, các căn cứ quyết định hình phạt

bao gồm: Quy định của Bộ luật hình sự; tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội

của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội; các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng

trách nhiệm hình sự [77, tr.63].

Về hình phạt, trong giai đoạn 05 năm từ 2015 đến 2019 trên địa bàn thành

phố Đà Nẵng việc xét xử sơ thẩm về tội MBTPCMT không có vụ nào Tòa án tuyên

bị cáo không phạm tội, miễn TNHS, miễn hình phạt hoặc xử phạt cảnh cáo, không

có bị cáo nào được cho hưởng án treo, không có bị cáo nào bị tuyên án tử hình. Loại

hình phạt áp dụng đối với các bị cáo phạm tội này đều là hình phạt tù có thời hạn

trở lên, mức phạt tù dưới 03 năm chiếm tỷ lệ phần trăm cao nhất (chiếm 55,93%),

tiếp đến là mức phạt tù từ 03 năm đến 07 năm (chiếm 24,12%), sau đó là mức phạt

tù từ 07 năm đến 15 năm (chiếm 16,17%), số vụ án có mức hình phạt tù từ 15 năm

đến 20 năm, tù chung thân cũng có áp dụng tuy nhiên số lượng không nhiều, lần

40

lượt là 3,51% và 0,27%, thể hiện cụ thể như sau:

Bảng 2.5: Thống kê cơ cấu mức hình phạt áp dụng đối với tội MBTPCMT

trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 – 2019

Dưới

Từ 3 năm đến

Từ 7 năm đến

Từ 15 năm

Tổng

Chung thân

Tử hình

3 năm

dưới 7 năm

dưới 15 năm

đến 20 năm

số

Năm

bị cáo

Số

Số

Số

Số

Số

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Số

Tỷ lệ

Tỷ lệ

đã xét

bị

Tỷ lệ %

bị

Tỷ lệ %

bị

bị

bị

%

%

bị cáo

%

%

xử

cáo

cáo

cáo

cáo

cáo

2015

144

86

59,72%

34

23,61%

21

14,58%

3

2,09%

0

0%

0

0%

2016

135

82

60,74%

30

22,22%

19

14,08%

3

2,22%

1

0,74%

0

0%

2017

140

79

56,43%

32

22,86%

24

17,14%

5

3,57%

0

0%

0

0%

2018

145

77

53,10%

37

25,52%

25

17,24%

6

4,14%

0

0%

0

0%

2019

178

91

51,13%

46

25,84%

31

17,41%

9

5,06%

1

0,56%

0

0%

Tổng

742

415 55,93% 179 24,12%

120

2

0,27%

0

0%

16,17% 26 3,51%

Nguồn: TAND thành phố Đà Nẵng

Phân tích Bảng số liệu 2.4 cho thấy, trong cơ cấu mức hình phạt áp dụng đối

với tội MBTPCMT, mức hình phạt tù dưới 03 năm tù chiếm tỷ lệ phần trăm cao nhất

(chiếm 55,93%), tiếp đến là từ 03 năm đến dưới 07 năm (chiếm 24,12%), tiếp theo đó

là mức phạt tù từ 07 năm đến dưới 15 năm (chiếm 16,17%). Hình phạt tù từ 15 đến

20 năm áp dụng 26 trường hợp (chiếm 3,51%). Tù chung thân áp dụng 02 trường hợp

(chiếm tỷ lệ 0,27%) và riêng hình phạt tử hình thì chưa áp dụng. Cũng dễ hiểu bởi

đây là hình phạt có khung nặng nhất, có tính răn đe nghiêm khắc nhất đối với những

hành vi MBTPCMT với số lượng lớn và tính chất đặc biệt nguy hiểm.

2.2.2.1. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma

túy theo quy định của Bộ luật hình sự

Thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 -2019, về cơ

bản khi quyết định hình phạt Tòa án tuân thủ triệt để theo các quy định của BLHS

năm 2015. Nhìn chung việc áp dụng hình phạt chủ yếu theo khoản 1 và khoản 2 Điều

251. Việc áp dụng hình phạt theo khoản 3 và khoản 4 là có nhưng chiếm số lượng ít

hơn. Ngoài áp dụng những hình phạt chính đối với tội MBTPCMT gồm: Tù có thời

hạn, tù chung thân, TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng cũng đã áp dụng hình phạt bổ

sung đó là phạt tiền. Qua nghiên cứu các Bản án nhận thấy, hình phạt tiền tuy được

41

TAND hai cấp áp dụng nhưng ở mức độ còn hạn chế. Bởi lẽ qua khảo sát thực tiễn

xét xử cho thấy đa phần các bị cáo phạm tội thường là những người không có nghề

nghiệp, thu nhập ổn định, có tiền án, tiền sự, nghiện ma túy, mua bán nhỏ lẻ, điều

kiện gia đình nghèo khó. Tại các Bản án HĐXX thường nhận định như: “Do bị cáo

không có nghề nghiệp ổn định, bản thân bị cáo không có tài sản có giá trị nên HĐXX

không áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền đối với bị cáo theo quy

định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự”.

Nhận thấy rằng, việc quyết định hình phạt theo quy định của BLHS, TAND

hai cấp thành phố Đà Nẵng 05 năm qua đã tuân thủ triệt để, áp dụng đúng các quy

định của BLHS. Ngoài những kết quả đạt được, qua nghiên cứu tác giả thấy rằng

vẫn còn một số Bản án có sai sót, cụ thể:

Ví dụ 8: Khoảng 21h00 phút ngày 23/3/2018, Hồ Ngọc Q gọi điện thoại cho

Phạm Công Th hỏi mua thêm 20 viên thuốc lắc và 02 chỉ ma túy loại Ketamine, Th

đồng ý bán với giá 280.000 đồng/1 viên, 1.900.000 đồng/1 chỉ Ketamine và hẹn gặp

Q tại phía sau ký túc xá DMC, phường HK để giao dịch. Sau đó, Th bán cho Q 20

viên thuốc lắc, 02 chỉ ma túy loại Ketamine và lấy số tiền 3.800.000 đồng (Q nợ Th

5.600.000 đồng tiền mua thuốc lắc). Sau khi bán xong, Th về đến sân bóng đã mini

trên đường Phạm Như Xương, phường HK, thì bị kiểm tra hành chính thu giữ trên

người Th 35 viên thuốc lắc là ma túy loại MDMA khối lượng 12,501 gam và 02 gói

ma túy loại Ketamine khối lượng 1,040 gam.

Sau khi mua ma túy của Th, Q phân ra 01 chỉ Ketamnine Th 02 gói nhỏ rồi Đ

đến trước quán Karaoke R, quận Liên Chiểu bán cho Hồ Quốc H 10 viên thuốc lắc

với giá 4.000.000 đồng và 02 gói ma túy Ketamine với giá 2.500.000 đồng rồi tiếp

tục điều khiển xe mô tô đến ngã tư đường Kinh Dương Vương - Nguyễn Sinh Sắc,

phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu thì bị kiểm tra hành chính và thu giữ 30 viên

ma túy loại MDMA khối lượng 11,840 gam và 0,424 gam ma túy loại Ketamine.

Tổng trọng lượng ma túy thu giữ có liên quan đến hành vi mua bán của Phạm Công

Th là 24,341 gam ma túy loại MDMA và 1,464 gam ma túy loại Ketamine

Tại Bản án sơ thẩm số 98/2018/HS-ST ngày 07/11/2018, TAND quận Liên

42

Chiểu đã căn cứ vào: Điểm b, i, p khoản 2 Điều 251; Điểm r, s khoản 1, khoản 2

Điều 51 BLHS 2015. Xử phạt: Phạm Công Th 13 năm tù, Hồ Ngọc Q 12 năm tù

năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Ngày 12/11/2018, bị cáo Phạm Công Th, Hồ Ngọc Q có đơn kháng cáo với

nội dung: Án sơ thẩm xử nặng xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Tại Bản án phúc thẩm số 06/2018/HS-PT, ngày 11/01/2019, TAND thành

phố Đà Nẵng HĐXX nhận định như sau: TAND quận Liên Chiểu đã xét xử các bị

cáo Th và Q về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 251

BLHS là có căn cứ, đúng tội. Về tình tiết định khung: Th bán ma túy cho Q 02 lần;

Q bán ma túy cho đối tượng tên H 02 lần nên các bị cáo phạm tội ở tình tiết “phạm

tội 02 lần trở lên” theo điểm b, khoản 2, Điều 251 BLHS là có căn cứ.

Tổng khối lượng ma túy mà Th phải chịu TNHS là 24,341 gam ma túy loại

MDMA và 1,464 gam ma túy loại Ketamine. Tổng khối lượng ma túy mà Th phải

chịu TNHS là 12,264 gam ma túy loại Ketamine; trường hợp này các bị cáo cùng lúc

mua bán 02 chất ma túy khác nhau nhưng Tòa án cấp sơ thẩm kết án các bị cáo theo

cả hai tình tiết định khung quy định tại các điểm i và p khoản 2 Điều 251 BLHS là

không đúng với hướng dẫn tại Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 và phụ

lục kèm theo hướng dẫn về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại

một số Điều của BLHS năm 2015. Trường hợp này chỉ truy tố và xét xử theo điểm p

khoản 2 Điều 251 BLHS mới đúng nên Tòa án cấp phúc thẩm sửa lại cho đúng.

Qua vụ án trên nhận thấy, TAND quận Liên Chiểu đã xác định các bị cáo phạm

tội theo 03 tình tiết định khung là b, i, p khoản 2 Điều 251 BLHS trong khi các bị cáo

chỉ phải chịu TNHS ở 02 tình tiết định khung theo điểm b, p khoản 2 Điều 251 BLHS,

do đó mức án mà Tòa cấp sơ thẩm đã tuyên là có phần nặng đối với các bị cáo. Từ

những căn cứ trên HĐXX chấp nhận kháng cáo các bị cáo sửa một phần Bản án sơ

thẩm, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Xử phạt: Phạm Công Th 12 (mười hai) năm

tù, Hồ Ngọc Q 11 (mười một) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

43

2.2.2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma

túy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội

Việc quyết định hình phạt của Tòa cấp sơ thẩm thành phố Đà Nẵng 05 năm

qua đã tuân thủ triệt để, áp dụng đúng các quy định của BLHS. Tuy nhiên vẫn còn

có những hạn chế, thiếu sót nhất định, có những vụ án việc áp dụng hình phạt đối

với các bị cáo có tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cao hơn, nhưng

Tòa cấp sơ thẩm vẫn tuyên mức hình phạt thấp hơn dẫn đến chưa đảm bảo các

nguyên tắc, mà cụ thể là nguyên tắc công bằng trong quyết định hình phạt.

Ví dụ 9: Với một hành vi phạm tội có tính chất khá tương đồng nhau, số

lượng ma túy thu được có sự chênh lệch nhau hơn 03 lần nhưng bị cáo thực hiện

hành vi mua bán trái phép có số lượng ma túy ít hơn lại bị Tòa án áp dụng hình phạt

nặng hơn, cụ thể:

Vụ thứ 1: Vào lúc 12 giờ 10 phút ngày 06/4/2018, tại trước số nhà 70 đường

L, phường T, quận S, Tp Đà Nẵng, trong lúc Nguyễn Huy T đang tàng trữ trái phép

ma túy loại Methamphetamine (ký hiệu M1) trong túi quần bên phải phía trước

đang mặc nhằm mục đích đem đi bán cho đối tượng tên Quậy với số tiền 500.000đ,

nhưng chưa kịp bán thì bị Tổ tuần tra Biên phòng S phát hiện, bắt quả tang và thu

giữ cùng tang vật.

Tại Kết luận giám định số 54/GĐ-MT ngày 10/4/2018 của Phòng Kỹ thuật

hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Tinh thể màu trắng trong bì niêm

phong ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu

tinh thể M1 là: 0,448 gam.

Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2018/HSST ngày 07/7/2018 TAND quận Sơn

Trà, căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt Nguyễn Huy T: 04 (bốn) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Vụ thứ 2: Khoảng 20h30 ngày 29/8/2018 tại đoạn ngã ba đường X giao với

đường Hoàng Văn Thái thuộc tổ 116, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng.

Nguyễn Thanh H đang tàng trữ trái phép 02 gói ma túy loại Methamphetamine ký

hiệu là G1, G2 với mục đích để bán cho người khác để kiếm lời thì bị lực lượng

44

Đồn biên phòng Hải Vân thuộc Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng thành phố Đà Nẵng

tiến hành kiểm tra hành chính phát hiện và bắt quả tang.

Theo Kết luận giám định số 176/GĐ-MT ngày 03/9/2018 của Phòng Kỹ

thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Tinh thể màu trắng trong mẫu

ký hiệu G1, G2 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng: G1:

0,203 gam; G2: 3,591 gam. Tổng cộng 3,794 gam.

Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2019/HS-ST, ngày 23/01/2019 TAND quận

Liên Chiểu, căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm

2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh H 03 năm tù về

tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xét thấy ở hai vụ án, hai bị cáo đều thực hiện hành vi khá tương đồng nhau,

tuy nhiên trường hợp thứ hai lượng ma túy (Methamphetamine) mà bị cáo H mua

bán trái phép nhiều hơn 03 lần lượng ma túy mà bị cáo T mua bán trái phép (cho

thấy tính chất, mức độ về hành vi phạm tội của H là nguy hiểm hơn hành vi phạm

tội của T). Bên cạnh đó, khi nghiên cứu kỹ bản án tác giả nhận thấy, cả hai bị cáo (T

và H) đều là người có nhân thân xấu, đã bị xử phạt vi phạm hành chính bằng hình

thức phạt tiền về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, nhưng Tòa sơ thẩm lại

quyết định hình phạt đối với T nặng hơn H (T 04 năm tù, H 03 năm tù).

2.2.2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma

túy theo đặc điểm nhân thân người phạm tội

Nhìn chung thực tiễn xét xử tội MBTPCMT, Tòa án cấp sơ thẩm thành phố

Đà Nẵng đều đã có những sự lưu ý nhất định đến việc cân nhắc nhân thân người

phạm tội, đa phần các Bản án đều có nhận định đầy đủ, xác định chính xác nhân

thân người phạm tội để lấy đó làm căn cứ quyết định hình phạt một cách phù hợp,

công bằng đối với người phạm tội, qua nghiên cứu tác giả không phát hiện trường

hợp nào có sai sót xảy ra.

2.2.2.4. Thực tiễn quyết định hình phạt theo các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng

trách nhiệm hình sự

Thực tiễn quyết định hình phạt tội MBTPCMT theo các tình tiết giảm nhẹ,

45

tăng nặng TNHS trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đã được áp dụng một cách chính

xác triệt để, khách quan và hiệu quả, không phát hiện sai sót nào xảy ra, điều đó

được thể hiện thông qua các Bản án. Hầu hết những hình phạt được tuyên đều là

những hình phạt nghiêm khắc để răn đe, giáo dục, ngăn ngừa việc phạm tội đồng

thời nhằm tạo ra sự tin tưởng, đồng tình để quần chúng nhân dân tham gia tích cực

vào cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa ma túy.

2.2.2.5. Quyết định hình phạt trong trường hợp đặc biệt

- Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm

Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm yêu cầu vừa phải tuân thủ

các quy định chung về quyết định hình phạt, vừa phải tuân theo quy định cụ thể tại

Điều 58 BLHS 2015 năm 2015. Qua khảo sát thực tiễn xét xử sơ thẩm trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng, quyết định hình phạt đối với tội MBTPCMT trong trường hợp

đồng phạm luôn được TAND hai cấp xem xét cẩn trọng đúng quy định pháp luật,

không phát hiện sai sót.

- Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt

Chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đều là những trường hợp của việc

thực hiện tội phạm chưa hoàn thành. Qua khảo sát thực tiễn xét xử sơ thẩm tại thành

phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 - 2019 cho thấy, tội phạm về MBTPCMT phần lớn

đều thuộc trường hợp bắt phạm tội quả tang, số còn lại đều có chứng cứ buộc tội

chặt chẽ để chứng minh hành vi MBTPCMT, do vậy qua nghiên cứu tác giả nhận

thấy không có vụ án nào định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội phạm này

ở giai đoạn phạm tội chưa hoàn thành.

2.3. Kết quả đạt được và những hạn chế thiếu sót trong công tác xét xử

tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

2.3.1. Những thành tích, kết quả đạt được

Trên cơ sở khảo sát thực tiễn xét xử tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố

Đà Nẵng giai đoạn 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019, Tòa án cấp sơ thẩm thành

phố Đà Nẵng đã áp dụng có hiệu quả quy định của pháp luật vào thực tiễn xét xử tội

MBTPCMT và đã đạt được một số thành tích nhất định sau đây:

46

Một là, TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng đã có sự phối kết hợp thường

xuyên, liên tục, đồng bộ, nhịp nhàng với các cơ quan, ban ngành tại địa phương

trong quá trình giải quyết vụ án, kịp thời lựa chọn và đưa ra xét xử lưu động các vụ

án có tính chất nghiêm trọng tại những quận, huyện nóng về ma túy nhằm tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục, ngăn ngừa việc phạm tội đồng thời nhằm tạo ra sự tin

tưởng, đồng tình để quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh

phòng, chống ma túy.

Hai là, công tác thụ lý, giải quyết, xét xử án sơ thẩm về tội MBTPCMT luôn

đạt tỷ lệ cao, không để xảy ra án quá hạn, tỷ lệ Tòa án hủy án trả hồ sơ điều tra bổ

sung theo quy định cũng rất thấp, hầu như không có, chất lượng giải quyết vụ án

ngày càng được nâng cao.

Ba là, bám sát và áp dụng đầy đủ, linh hoạt, khoa học các quy định của pháp

luật hình sự nên kết quả xét xử cơ bản chính xác, nghiêm minh, đúng người, đúng

tội, không để xảy ra trình trạng kết án oan người không phạm tội hay bỏ lọt tội

phạm. Việc định tội danh được thực hiện chính xác, áp dụng hình phạt cơ bản phù

hợp đã góp phần giữ vững kỷ cương phép nước, vừa bảo đảm tính nhân đạo, hướng

thiện trong từng trường hợp cụ thể. Vì vậy, số lượng Bản án có kháng cáo, kháng

nghị ít, kết quả phúc thẩm, không chấp nhận kháng cáo, tỷ lệ y án sơ thẩm là chủ

yếu, ít có vụ nào sửa về tội danh, đặc biệt không có vụ nào bị hủy.

Bốn là, công tác phối kết hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng như cơ quan

điều tra, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án cũng đã đi vào chiều sâu, ngày càng cụ thể

và hiệu quả hơn, đáp ứng tốt yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong

tình hình hiện nay.

2.3.2. Những hạn chế, thiếu sót

Trong quá trình áp dụng pháp luật vào thực tiễn xét xử tội MBTPCMT giai

đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng vẫn còn tồn tại

một số hạn chế, thiếu sót tuy không nhiều nhưng tác giả cho rằng cần phải rút kinh

nghiệm, đáng chú đó là:

Một là, phần lớn các vụ án về tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố Đà

47

Nẵng không giám định về hàm lượng chất ma túy trước khi có Công văn số 234/CV

ngày 17/9/2014 của TANDTC và Thông tư số 08 ngày 14 tháng 11 năm 2015. Điều

này là chưa phù hợp với các yêu cầu được quy định tại Thông tư 17 ngày 24 tháng

12 năm 2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm

về ma túy” của BLHS năm 1999.

Hai là, một vài vụ án Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết định tội còn

chưa thỏa đáng, chưa đảm bảo áp dụng đúng pháp luật (ví dụ 4). Có Bản án Tòa án

định tội danh khác với tội mà VKS truy tố, vi phạm Điều 298 BLTTHS về “giới hạn

của việc xét xử” (ví dụ 5).

Ba là, một số vụ án chưa đảm bảo được nguyên tắc công bằng trong quyết

định hình phạt, vẫn còn xảy ra tình trạng thực hiện một hành vi phạm tội có tính

chất, mức độ nguy hiểm cao hơn nhưng lại quyết định hình phạt nhẹ hơn (ví dụ 9).

Bên cạnh đó vẫn còn Bản án quyết định hình phạt nặng do áp dụng sai tình tiết định

khung (ví dụ 8).

- Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót

Những sai sót trên của Tòa án trong việc định tội danh, áp dụng hình phạt

xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng tựu trung lại, có thể nhận biết các

nguyên nhân cơ bản sau đây:

* Nguyên nhân khách quan

Quy định của pháp luật hiện hành còn có những hạn chế, vướng mắc, còn tồn

tại nhiều bất cập diễn ra nhiều năm, một số quy định không còn phù hợp hoặc còn

thiếu, khuyết trong việc điều chỉnh những vấn đề phát sinh mới trong xã hội. Những

quy định về chế định hình phạt đối với tội MBTPCMT còn gối đầu, chưa rõ ràng,

khoảng cách định lượng của các chất ma túy và mức hình phạt tương ứng chưa khoa

học, còn thiếu sự công bằng.

Vẫn còn có những cách hiểu và nhận thức khác nhau, không thống nhất trong

thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền hướng

dẫn áp dụng kịp thời. Việc lựa chọn và ban hành án lệ còn hạn chế, do đó mỗi cơ

quan tiến hành tố tụng lại có cách hiểu riêng và vận dụng khác nhau dẫn đến lúng

48

túng, thiếu nhất quán trong việc xử lý tội phạm, quyết định hình phạt.

* Nguyên nhân chủ quan

Trình độ nghiệp vụ, năng lực chuyên môn của một số Điều tra viên, Kiểm sát

viên, Thẩm phán, Thư ký tòa án, Hội thẩm nhân dân còn chưa theo kịp yêu cầu của

thực tiễn; nhận thức lý luận về các vấn đề của Luật hình sự còn hạn chế; đôi lúc

hiểu không đầy đủ, đúng đắn các quy định của BLHS, BLTTHS và một số văn bản

hướng dẫn khác về điều tra, xử lý tội phạm về ma túy, kỹ năng ứng dụng công nghệ

4.0 vào giải quyết công việc còn chậm.

Ở một số thời điểm chất lượng xét xử của một số Thẩm phán còn chưa cao

có thể do thiếu chủ động, thận trọng trong công tác nghiên cứu hồ sơ vụ án trong

giai đoạn chuẩn bị xét xử, đôi lúc thiếu sự tích cực trong việc trau dồi kinh nghiệm

nghề nghiệp, trải nghiệm sống và nhận thức xã hội, bản lĩnh nghề nghiệp của mình.

Vai trò của luật sư trong các giai đoạn tố tụng đôi lúc còn chưa bảo đảm. Sự

tham gia của người bào chữa, nhất là luật sư có thể xem như một công cụ hữu hiệu

để giúp cho các cá nhân, tổ chức bảo vệ được các quyền và lợi ích chính đáng của

mình, là yếu tố quan trọng nhằm đảm bảo cho vụ án được giải quyết đúng đắn,

khách quan, kịp thời, đúng người, đúng pháp luật, bảo đảm quyền con người, quyền

cơ bản của công dân. Tuy nhiên qua nghiên cứu Bản án tác giả nhận thấy nhiều vụ

án không có hoặc vắng luật sư, dẫn đến chưa đảm bảo nguyên tắc tranh tụng, quyền

bào chữa của người bị buộc tội trong các hoạt động tố tụng.

Một số người vẫn có quan niệm cho rằng, Hội thẩm nhân dân chỉ tham gia

cho đủ thành phần, đủ số lượng, một số còn yếu, thiếu sự hiểu biết chuyên sâu về

pháp luật liên quan đến các tội về ma túy, các quan điểm, ý kiến tại phiên tòa còn

mang tính chung chung dễ bị phụ thuộc vào ý kiến của Thẩm phán;

Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp

luật hình sự mặc dù đã được chú trọng thực hiện, nhưng ở một số thời điểm chưa

mang lại chất lượng, hiệu quả như mong muốn, còn thiếu những thiết chế kiểm tra,

giám sát ở những khâu trọng điểm, nhất là của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các tổ

chức thành viên.

49

Tiểu kết chương 2

Định tội danh đúng và quyết định hình phạt chính xác là các tiền đề quan

trọng trong việc thực thi công lý một cách công bằng và hiệu quả, từ đó góp phần

giữ vững kỉ cương phép nước, cho thấy pháp luật được thực thi một cách có hiệu

quả, đem lại sự đồng thuận cao trong xã hội.

Qua việc khảo sát, phân tích thực tiễn xét xử tội MBTPCMT trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn 05 năm (2015-2019) có thể thấy TAND hai cấp

thành phố Đà Nẵng đã bám sát chủ đề thi đua xuyên suốt “Phụng công, thủ pháp,

chí công vô tư” với phương châm “Gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”, gắn với

chủ đề hành động “Trách nhiệm, kỷ cương, chất lượng, vì công lý”, với đội ngũ

công chức có kỷ luật cao, hệ thống công vụ vận hành sống động và hiệu quả cơ bản

đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng đã hoàn

thành xuất sắc các nhiệm vụ chính trị được giao và đã đạt được những kết quả đáng

ghi nhận, góp phần thực thi công lý, giữ vững an ninh chính trị tại địa phương.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong công tác xét xử của Tòa án

cấp sơ thẩm thì vẫn còn tồn tại một số hạn chế, sai sót trong công tác xét xử dẫn đến

chất lượng và hiệu quả chưa được như mong đợi. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình

trạng nêu trên, vì vậy việc nhận thức kịp thời các nguyên nhân dẫn đến sai sót và

khắc phục kịp thời những sai phạm, hạn chế đó sẽ giúp cho công tác định tội danh và

quyết định hình phạt đúng đắn hơn, hạn chế việc kết án oan người không phạm tội

hay bỏ lọt tội phạm, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng, đảm bảo pháp luật được

tuân thủ triệt để, từ đó chất lượng xét xử của Tòa án ngày càng được nâng cao.

50

CHƯƠNG 3

CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA

PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

3.1. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về

tội mua bán trái phép chất ma túy

3.1.1. Đẩy mạnh công tác đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp

vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ có thẩm quyền áp dụng pháp luật

Do tính chất đặc thù của công việc, ngành Công an, Kiểm sát và Tòa án phải

thường xuyên đối mặt với những tiêu cực xã hội, hàng ngày phải tiếp xúc với nhiều

loại tội phạm trong đó có tội phạm về ma túy, tội MBTPCMT luôn là tội nguy hiểm

nhất bởi nó là nguồn gốc phát sinh ra các tội phạm ma túy khác và tính phát tán

nhanh, rộng chất ma túy đến các ngõ ngách, mọi khu phố và thậm chí còn vượt qua

biên giới để sang các nước khác… Bên cạnh đó tội MBTPCMT có siêu lợi nhuận nên

thu hút được nhiều đối tượng phạm tội, dẫn đến việc các phương thức, thủ đoạn của

loại tội phạm này ngày càng tinh vi, xảo quyệt, phức tạp, không chỉ đơn thuần dừng

lại ở các hành vi khách quan cơ bản mà đã xuất hiện nhiều sự biến tướng, những thủ

đoạn phạm tội mới tinh vi phức tạp hơn.

Môi trường đấu tranh phòng, chống tội MBTPCMT là một môi trường phức

tạp, tiềm ẩn nhiều khó khăn, thách thức, gian khổ, hiểm nguy, song song với đó là

những cạm bẫy, khiến con người dễ bị sa ngã, không đứng vững trước những ma lực

của cám dỗ… Do đó nếu không có một cái đầu lạnh, một trái tim nóng và đôi bàn tay

sạch, nếu tâm không trong, trí không sáng và bản lĩnh nghề nghiệp không vững vàng

thì rất dễ bị tội phạm cám dỗ bằng “đạn bọc đường” từ đó dẫn đến tình trạng bỏ lọt

tội hoặc xét xử oan người vô tội, xâm phạm quyền con người, vi phạm các quyền cơ

bản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm giảm sút niềm tin của quần chúng nhân

dân đối với cơ quan tư pháp. Trong khi đó, con người là nhân tố then chốt, quyết định

thành, bại của tất cả các vấn đề, cán bộ là cái gốc của công việc, là chủ thể trực tiếp

51

áp dụng pháp luật. Chính vì lẽ đó việc giáo dục nâng cao phẩm chất chính trị, bản

lĩnh nghề nghiệp, đạo đức lối sống, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, hiểu biết tinh

thần pháp luật, nhận thức xã hội, kinh nghiệm nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ có

thẩm quyền giải quyết các vụ án về tội MBTPCMT là yêu cầu rất bức thiết và quan

trọng. Để thực hiện tốt vấn đề này, tác giả đưa ra một số giải pháp sau:

Một là, đẩy mạnh hơn nữa việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh”, thực hiện có hiệu quả lời Bác Hồ dạy “Phụng công thủ

pháp, chí công vô tư”, tăng cường tổ chức các lớp đào tạo, học tập, bồi dưỡng quán

triệt nghiêm túc và sâu rộng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật

của Nhà nước, các quy định, quy chế của các ngành liên quan, cụ thể hoá bằng

những nhiệm vụ phù hợp, đảm bảo tính khả thi cao và sát với điều kiện thực tiễn

của các ngành, của các cơ quan đơn vị.

Hai là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ áp dụng pháp luật vững về chính

trị, giỏi về pháp luật, tinh thông về nghiệp vụ, có kiến thức, kỹ năng cần thiết về tin

học, ngoại ngữ bằng cách chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, trang bị đầy đủ kiến thức pháp

lý và kiến thức chuyên môn cần thiết. Siết chặt kỷ luật nghiệp vụ, phải không ngừng

tự phấn đấu, học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ, phải thường xuyên đổi mới, tích

cực ứng dụng công nghệ thông tin vào thực tiễn công tác, nêu cao tinh thần trách

nhiệm trong công việc, tự đánh giá rút kinh nghiệm, nhằm nâng cao chất lượng,

hiệu quả công tác áp dụng pháp luật, bảo đảm thống nhất nhận thức pháp luật và

thống nhất áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án. Đảm bảo xét xử

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không xử oan người không có tội và không

bỏ lọt tội phạm, đảm bảo pháp luật được tuân thủ triệt để, từ đó chất lượng xét xử

của Tòa án ngày càng được nâng cao.

Ba là, thường xuyên tổ chức nhiều đợt tập huấn, bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo

lại bằng nhiều hình thức khác nhau về chuyên môn nghiệp vụ, theo chuyên đề

chuyên sâu, về kỹ năng xét xử, tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm trong công tác xét

xử, tập trung cao độ giải đáp các vướng mắc, bất cập về nghiệp vụ, hướng dẫn

thống nhất áp dụng pháp luật, sớm xây dựng và ban hành án lệ… trong việc giải

52

quyết án ma tuý giữa các cơ quan có thẩm quyền các cấp, đặc biệt là những địa

phương trọng điểm, phức tạp về án MBTPCMT; tăng cường hoạt động nghiên cứu

lý luận, tổng kết thực tiễn, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, hội thảo, tọa

đàm, báo cáo kinh nghiệm thực tế để các cán bộ nâng cao trình độ, học hỏi, tích lũy

kinh nghiệm trong việc giải quyết án ma tuý, nhằm vận dụng linh hoạt trong việc xử

lý, phát huy được tính độc lập, chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện chức năng,

nhiệm vụ của mình.

Đối với cơ quan điều tra, đẩy mạnh việc tuyển chọn những người có tinh

thần trách nhiệm cao, đủ tâm, đủ tầm, đủ tài, đủ đức vào làm trong hệ thống Cơ

quan điều tra. Đào tạo các Điều tra viên theo hướng nâng cao trình độ pháp luật, ý

thức đạo đức, kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức sử dụng phương tiện kỹ thuật, thực

sự cầu thị, nhận thiếu sót khuyết điểm để hoàn thiện bản thân, dũng cảm đấu tranh

vì công lý; nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động lấy lời khai, hỏi cung theo

hướng sáng tạo, chặt chẽ, lôgíc những vấn đề cần chú ý làm rõ nhằm góp phần mở

rộng công tác điều tra, khám phá triệt để, tận gốc các tụ điểm, đường dây, tổ chức

phạm tội mua bán trái phép chất ma túy.

Đối với VKSND các cấp, cần đảm bảo cả về số lượng lẫn chất lượng của

Kiểm sát viên, mỗi Kiểm sát viên cần được bồi dưỡng, đào tạo kỹ càng về kiến thức

pháp lý, đặc biệt là pháp luật hình sự, tố tụng hình sự nói chung và lĩnh vực án ma

túy nói riêng để có thể định tội danh đúng, định khung hình phạt chính xác và kiểm

sát án ma túy được chặt chẽ, có hiệu quả, không để xảy ra oan, sai trong điều tra,

xét xử tội phạm. Tiếp tục thực hiện tốt việc đào tạo các Kiểm sát viên có trình độ

nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu trong lĩnh vực hợp tác quốc tế để giải quyết

những vụ án ma túy có yếu tố nước ngoài.

Đối với TAND các cấp, tập trung cao độ cho việc nâng cao chất lượng đội

ngũ Thẩm phán, bảo đảm cho lực lượng này có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ,

năng lực công tác và đạo đức nghề nghiệp. Cùng với việc đổi mới tổ chức hệ thống

Tòa án, đội ngũ Thẩm phán cần phải được đào tạo là những chuyên gia đầu ngành

về pháp luật và kinh nghiệm trong ngành. Thẩm phán là người “cầm cân nảy mực”,

53

phán quyết của họ quyết định đến sinh mệnh chính trị của bị cáo. Vì thế, họ phải là

những người có kinh nghiệm nghề nghiệp, trải nghiệm sống, nhận thức xã hội và

am hiểu nhất về luật pháp, khách quan, công tâm, dũng cảm, vị tha và khoan dung

trong phán quyết của mình từ đó đưa ra những phán quyết đúng người, đúng tội,

tránh cho việc áp dụng pháp luật một cách khô cứng, máy móc. Đồng thời tăng

cường tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ chuyên môn chung cũng như theo chuyên

đề; cập nhật các văn bản pháp luật mới; tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm cho đội

ngũ Thẩm phán và thư ký Tòa án các cấp. Thực hiện có hiệu quả việc tổ chức đào

tạo lại Thẩm phán; mỗi Thẩm phán sau mỗi nhiệm kỳ cần được tổ chức đào tạo lại,

cập nhật kiến thức mới không chỉ về pháp luật mà cả các lĩnh vực khác liên quan...

Đặc biệt chú trọng đúng mức tới việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức pháp

lý cần thiết cho đội ngũ Hội thẩm nhân dân bởi lẽ đây chủ yếu là những cán bộ hưu

trí hoặc đang công tác, làm việc ở các lĩnh vực, ngành không hoặc ít liên quan đến

pháp luật như (Mặt trận Tổ quốc, Hội cựu chiến binh, cán bộ hưu trí, giáo viên ...)

khả năng hiểu biết, nhận thức về pháp luật hình sự nói chung, tội MBTPCMT nói

riêng còn nhiều hạn chế.

3.1.2. Tăng cường hơn nữa vai trò của luật sư trong các hoạt động tố tụng

Trong phiên tòa hình sự nói chung, có thể khẳng định rằng luật sư là “chỗ

dựa tinh thần” cho thân chủ tại chốn tụng đình, giúp người bị bắt, bị tạm giữ, bị cáo

hay đương sự ổn định tâm lý từ đó bình tĩnh, sáng suốt trình bày và phải nêu cao

tinh thần trách nhiệm, sử dụng kiến thức chuyên môn, các kỹ năng nghề nghiệp linh

hoạt, khoa học để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của khách hàng [30].

Theo thống kê, hiện nay tại thành phố Đà Nẵng có 68 tổ chức hành nghề luật

sư gồm 41 Văn phòng luật sư và 22 Công ty luật. Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng

có 230 luật sư chính thức (172 nam, 67 nữ), 50 luật sư tập sự. Giai đoạn từ năm

2015 đến năm 2019, số vụ án có sự tham gia của luật sư trong tổng số các vụ án

hình sự mà TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng đã thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ

thẩm là tương đối thấp, chỉ chiếm tỷ lệ 15,67% (871/5556) và các vụ án có luật sư

bào chữa chủ yếu là các trường hợp bào chữa theo yêu cầu của Tòa án (bào chữa chỉ

54

định), số vụ án có luật sư tham gia bào chữa theo yêu cầu của khách hàng chiếm tỷ

lệ rất thấp. Giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, các luật sư của Đoàn luật sư

thành phố Đà Nẵng đã tham gia bào chữa 808 vụ án hình sự ở các giai đoạn tố tụng;

trong đó, số vụ án tham gia bào chữa theo yêu cầu của khách hàng là 209 vụ, chiếm

tỷ lệ 25,86%; số vụ án tham gia bào chữa theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố

tụng (bào chữa chỉ định) là 599 vụ, chiếm tỷ lệ 74,14% [22, tr.11].

Qua phân tích trên thấy rằng, thực tế tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự

nói chung, vụ án MBTPCMT nói riêng của luật sư chiếm tỷ lệ chưa cao, chưa tương

xứng với vị thế là một trong những thành phố trực thuộc Trung ương của Đà Nẵng,

nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên tác giả cho rằng mặc dù BLTTHS năm 2015

đã có nhiều quy định mới tạo sự minh bạch, rõ ràng và thuận lợi hơn cho luật sư

trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tuy nhiên vẫn còn những quy

định của pháp luật hiện hành có nhiều hạn chế, vướng mắc gây khó khăn, cản trở

cho luật sư thực hiện nhiệm vụ. Mặt khác, các cơ quan tiến hành tố tụng, những

người tiến hành tố tụng thiếu thiện chí, ít hợp tác, chưa tạo các điều kiện thuận lợi,

chưa nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của luật sư trong giai đoạn tố tụng, mặc

cảm rằng luật sư vào là “lắm điều nhiều lẽ”, từ đó gây khó khăn trong việc thực

hiện quyền của luật sư. Bên cạnh đó, nhận thức pháp luật của các bị can, bị cáo, của

công dân Việt Nam về người bào chữa nói chung, luật sư nói riêng còn hạn hẹp, góp

phần làm giảm vai trò của luật sư trong các giai đoạn tố tụng hình sự. Bên cạnh đó,

nguyên nhân chính là do trình độ, năng lực, kỹ năng hành nghề, chất lượng bào

chữa của đội ngũ luật sư còn yếu, cá biệt có trường hợp luật sư bào chữa cho bị cáo

cho rằng “bị cáo H không có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, mà chỉ phạm

tội sử dụng trái phép chất ma túy, đề nghị HĐXX chuyển sang tội danh Sử dụng trái

phép chất ma túy”, trong khi BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã bãi bỏ

tội danh nói trên [67, tr.7].

Vì vậy, trong phạm vi luận văn tác giả mạnh dạn đề xuất một số giải pháp

góp phần tăng cường hơn nữa vai trò của luật sư trong quá trình tham gia các hoạt

động điều tra, truy tố, xét xử vụ án MBTPCMT như sau:

55

Một là, hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm

hoạt động của người bào chữa. Hiện nay, hoạt động của người bào chữa được quy

định ở nhiều văn bản khác nhau như BLTTHS, Luật Luật sư, Luật Trợ giúp pháp lý

và các văn bản hướng dẫn thi hành,… Đến BLTTHS 2015 đã có nhiều thay đổi về

bảo đảm quyền bào chữa và hoạt động của người bào chữa như đã nêu trên, vì vậy

các cơ quan hữu quan cần rà soát các văn bản pháp luật hiện hành, từ đó chỉnh sửa,

bổ sung các quy định hoặc ban hành văn bản mới thay thế cho phù hợp. Trong đó

cần hướng dẫn đầy đủ chi tiết về nội dung bảo đảm sự có mặt của luật sư, mức độ,

phạm vi tham gia của luật sư trong các hoạt động tố tụng.

Hai là, tăng cường tuyên truyền pháp luật về quyền và nghĩa vụ của luật sư

trong các giai đoạn tố tụng. Từ đó các tầng lớp nhân dân luôn có ý thức tìm đến sự trợ

giúp pháp lý của luật sư khi gặp những vấn đề có liên quan đến pháp luật tố tụng hình

sự. Mặt khác cần thiết phải thay đổi nhận thức của người dân nói chung và người bị

buộc tội cũng như người đại diện hợp pháp của họ nói riêng khi cho rằng sự tham gia

tố tụng của luật sư là không cần thiết và tốn kém trong khi bản thân người buộc tội và

người đại diện hợp pháp của họ lại không có khả năng bào chữa hiệu quả.

Ba là, nâng cao nhận thức và năng lực cho các cơ quan và những người tiến

hành tố tụng, nhất là Cơ quan Cảnh sát điều tra và Điều tra viên về vị trí, ý nghĩa, tầm

quan trọng, quyền và nghĩa vụ của luật sư trong giai đoạn điều tra. Cần phải nhìn

nhận sự tham gia của luật sư là yếu tố khách quan, nhằm đảm bảo cho vụ án được

giải quyết đúng đắn, khách quan, kịp thời, đúng người, đúng pháp luật, bảo đảm

quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Sự có mặt của luật sư trong quá trình

điều tra không gây khó khăn cho các Cơ quan điều tra, họ chỉ bác bỏ việc buộc tội

thiếu căn cứ pháp lý chứ không phải là “đối thủ” của các Cơ quan điều tra. Vì vậy,

Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên cần tạo điều kiện thuận

lợi cho luật sư thực hiện tốt chức năng bào chữa của họ theo quy định của pháp luật.

Bốn là, bản thân mỗi luật sư cần phải không ngừng nghiên cứu, học tập tích

lũy kinh nghiệm, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, liên tục cập nhật những nội dung

kiến thức pháp lý mới, thực hiện có hiệu quả việc tham gia bồi dưỡng, tập huấn

56

nghiệp vụ về luật sư; trao đổi nghiệp vụ, tiếp thu kinh nghiệm, kỹ năng; đề cao đạo

đức nghề nghiệp và ứng xử hành nghề, phải nhận thức đầy đủ tinh thần, trách

nhiệm, chức năng nghề nghiệp, vị trí, vai trò của mình trong hoạt động tố tụng hình

sự nhằm góp phần giữ vững lẽ phải, bảo vệ công lý; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

cho thân chủ; giúp giải quyết vụ án được công bằng, khách quan, chính xác.

3.1.3. Huy động sức mạnh của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã

hội và quần chúng nhân dân trong việc kiến nghị giám sát hoạt động của các cơ

quan tiến hành tố tụng

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có vị trí và vai trò quan

trọng trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Cơ chế kiểm

tra, giám sát của MTTQ và các tổ chức thành viên đối với hoạt động tố tụng hình sự

thực chất là hoạt động giám sát của nhân dân thông qua các tổ chức của mình với

các hình thức và phương pháp giám sát phù hợp. Tuy nhiên, thực tiễn về vai trò của

MTTQ và các tổ chức thành viên trong việc giám sát trong các hoạt động tố tụng

hình sự tại thành phố Đà Nẵng có lúc, có nơi chưa được coi trọng đúng mức,

MTTQ các cấp sử dụng các hình thức giám sát đối với các đối tượng giám sát chưa

đa dạng và đồng bộ; một số thời điểm còn mang tính hình thức, đôi khi chưa bảo vệ

được quyền của thành viên trong các tổ chức mà họ tham gia; chưa có sự phối hợp

giữa giám sát của nhân dân đại diện là MTTQ với giám sát của cơ quan tiến hành tố

tụng; pháp luật hiện hành chưa tạo ra cơ chế công khai cung cấp thông tin trong

hoạt động giám sát, chưa xác định rõ trình tự, thủ tục và trách nhiệm của cơ quan,

người có thẩm quyền trong việc tiếp nhận giải quyết kiến nghị giám sát. Do vậy,

một số kiến nghị, phản ánh về kết quả hoạt động giám sát của MTTQ chưa kịp thời

xử lý, hoặc chưa được giải quyết thấu đáo [32, tr.51].

Những hạn chế, bất cập nêu trên xuất phát từ nguyên nhân sau: Các quy định

về kiến nghị giám sát chưa được cụ thể và đầy đủ về trách nhiệm, cơ chế, hậu quả

pháp lý, cũng như những điều kiện bảo đảm cho hoạt động giám sát của MTTQ và

các tổ chức chính trị - xã hội. Trong các văn bản pháp luật vẫn còn thiếu những quy

định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan, ban ngành trong việc giải quyết, trả lời

57

những kiến nghị của MTTQ; các điều kiện bảo đảm cho MTTQ và các tổ chức

chính trị - xã hội thực hiện chức năng giám sát ở một số nơi chưa đầy đủ; kinh phí

hoạt động của Mặt trận các cấp quận, huyện hiện nay cũng còn nhiều khó khăn;

trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội ở một số

địa phương chưa theo kịp thực tiễn; số lượng cán bộ chuyên trách của MTTQ và các

tổ chức chính trị - xã hội còn hạn chế.

Thiết nghĩ, trong thời gian tới để góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả, chất

lượng hoạt động kiến nghị giám sát các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều

tra, truy tố, xét xử vụ án MBTPCMT của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội và quần

chúng nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp cần thực hiện tốt các vấn đề sau:

Thứ nhất, tiếp tục ban hành văn bản hướng dẫn quy định về hoạt động giám

sát của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội (trong Luật MTTQ Việt Nam năm

2015) theo hướng bổ sung các biện pháp theo dõi quá trình tiếp nhận và trả lời việc

tiếp nhận kiến nghị của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền đối với các kiến

nghị giám sát; bổ sung các chế tài đối với trường hợp không tiếp nhận, hoặc tiếp

nhận nhưng trả lời không đúng thời gian luật định của cơ quan, người có thẩm

quyền đối với kiến nghị giám sát của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội.

Thứ hai, cần tiến tới pháp luật hóa mối quan hệ phối hợp giữa MTTQ với các

tổ chức thành viên và giữa các tổ chức thành viên với nhau trong việc hiệp thương,

phối hợp hành động và nhất là giữa cơ quan MTTQ với các cơ quan tiến hành tố

tụng, cần coi giám sát của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội là một nhu cầu tất

yếu trong quá trình tổ chức và hoạt động của các cơ quan này. Xây dựng hệ thống

cơ quan MTTQ các cấp trong sạch, vững mạnh có phương thức tổ chức, hoạt động

khoa học, hiện đại. Tăng cường xây dựng, đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác

giám sát, nâng cao hơn nữa các chế độ đãi ngộ, cải thiện thu nhập để đội ngũ này

yên tâm công tác, nhiệt tình, trách nhiệm với từng công việc, sự kiện được giao.

Thứ ba, thực hiện tốt hơn nữa việc công khai minh bạch và trách nhiệm giải

trình, trả lời chất vấn các quyết định truy tố, các bản án, quyết định của Tòa án sơ

thẩm nhất là những vụ án cụ thể có dấu hiệu oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm để kịp thời

58

nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân trên cơ sở đó báo cáo giải trình, giải

quyết phù hợp, đúng đắn.

Thứ tư, đổi mới hơn nữa phương thức hoạt động cùng với việc lựa chọn và

phối hợp sử dụng các hình thức giám sát theo quy định của pháp luật, cần phối, kết

hợp nhiều hình thức giám sát trong đó chú trọng việc cử cán bộ, chuyên gia tham

gia các đoàn giám sát của các cơ quan nhà nước, hay nghiên cứu, xem xét văn bản

của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trên cơ sở ý kiến của các chuyên gia, các Hội

đồng tư vấn liên quan đến hoạt động tố tụng hình sự.

3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép

chất ma túy

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống ma túy là một nhiệm vụ quan

trọng nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống ma túy ở Việt Nam. BLHS

năm 2015 được ban hành trên nền tảng coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự

và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong

việc xử lý người phạm tội. Để góp phần hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật,

đồng thời đảm bảo ý nghĩa, mục đích của công tác đấu tranh phòng, chống tội

MBTPCMT, trong phạm vi luận văn tác giả mạnh dạn cho rằng vẫn cần phải tiếp

tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật về tội

MBTPCMT theo hướng ổn định, đảm bảo tính khả thi cao, nhanh đi vào cuộc sống

ở một số nội dung cụ thể như sau:

Thứ nhất, cần phải tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015

theo hướng bổ sung quy định về yếu tố “hàm lượng” vào điều luật khi định lượng

các chất ma túy. BLHS hiện hành đã có sự thay đổi về đơn vị tính các chất ma túy

so với BLHS 1999 đó là thay cụm từ “trọng lượng” bằng cụm từ “khối lượng” tuy

nhiên hiện nay trong quá trình áp dụng pháp luật, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn

áp dụng các văn bản hướng dẫn như Thông tư 17, Thông tư 08 quy định việc giám

định hàm lượng các chất ma túy trong các vụ án về ma túy. Bên cạnh đó, văn bản

quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành cũng đã chỉ đạo “việc giám định hàm lượng

chất ma túy là bắt buộc đối với các chất thu giữ được nghi là chất ma túy, để từ đó

59

xác định trọng lượng chất ma túy làm căn cứ xử phạt bị cáo (trọng lượng chất ma

túy được hiểu là trọng lượng ma túy tinh chất, ma túy nguyên chất)” [64]. Theo đó,

tại các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hiện hành và các văn bản chuyên ngành

hướng dẫn công tác xét xử của Tòa án đối với các vụ án ma túy thì đều nhắc tới khái

niệm “hàm lượng” của chất ma túy nhưng tại Điều 251 BLHS 2015 lại không quy

định về “hàm lượng” của chất ma túy tại các khung hình phạt tăng nặng mà chỉ quy

định về khối lượng và thể tích của các chất ma túy làm căn cứ định tội danh, định

khung hình phạt để truy tố, xét xử. Do vậy việc bổ sung thêm quy định về yếu tố

“hàm lượng” vào nội dung điều luật khi định lượng các chất ma túy sẽ đảm bảo cho

các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật được đồng bộ, thống nhất, chặt chẽ và khả

thi trong thực tế.

- Thứ hai, kịp thời khắc phục quy định về mức hình phạt tương ứng với

lượng chất ma túy bởi lẽ quy định tại Điều 251 theo tác giả vẫn chưa thực sự công

bằng. Điều luật quy định khối lượng chất ma túy này so với khối lượng chất ma túy

khác ở mức cao nhất và mức thấp nhất trong cùng một khung hình phạt là không

giống nhau, không theo một tỷ lệ nào.

Ví dụ: Tại khoản 3 Điều 251 thì mức thấp nhất của nhựa thuốc phiên là 01

kilôgam bằng với 30 gam cocaine; mức cao nhất của nhựa thuốc phiện là 4,99

kilôgam (dưới 05 kilôgam) bằng với 99,99 gam (dưới 100 gam) cocaine . Xét tỷ lệ

nhận thấy 01 kilôgam nhựa thuốc phiện tương ứng với 30 gam cocaine thì 4,99

kilôgam nhựa thuốc phiện phải tương ứng với 150 gam cocaine, tuy nhiên mức cao

nhất với cocaine chỉ dừng lại khoảng 99,99 gam (dưới 100 gam).

Thứ ba, cần mạnh dạn phân chia rõ ràng, rành mạch, hợp lý, công bằng hơn về

khung hình phạt trong từng khoản của Điều 251: Khoản 1 quy định mức phạt từ 02

năm đến 07 năm tù; khoản 2 quy định mức phạt từ 07 năm đến 15 năm tù; khoản 3

quy định mức phạt từ 15 năm đến 20 năm tù; khoản 4 quy định mức phạt từ 20 tù đến

tù chung thân hoặc tử hình. Như vậy trường hợp một người bị kết án theo khoản 1

Điều 251 (nếu đủ các điều kiện vẫn) có thể bị xử phạt 07 năm tù tương tự một người

khác bị xét xử theo khoản 2 Điều 251 (nếu đủ các điều kiện) vẫn có thể bị xử phạt 07

60

năm tù, trong khi đó khoản 2 là khoản tăng nặng khung hình phạt, quy định các

trường hợp phạm tội có tính chất, mức độ nguy hiểm cao hơn so với khoản 1. Vô

hình chung ta thấy được mức hình phạt cho hai người dù phạm tội theo 02 điều

khoản khác nhau nhưng lại chưa có sự phân hóa, tách biệt rõ ràng. Tương tự đối với

các khoản 3 và 4 của điều luật này. Từ đây tác giả đề xuất sửa đổi theo hướng

không có sự gối đầu, nối tiếp nhau giữa các khung hình phạt nhưng vẫn phải đảm

bảo được sự phù hợp với việc phân loại tội phạm theo 04 loại, quy định mức hình

phạt cụ thể như sau:

Tội mua bán trái phép chất ma túy Khung

Hình phạt BLHS hiện hành quy định Kiến nghị, sửa đổi

Phạt tù từ 02 năm Phạt tù từ 02 năm Khoản 1 đến 07 năm đến dưới 07 năm

Phạt tù từ 07 năm Phạt tù từ 07 năm Khoản 2 đến 15 năm đến dưới 15 năm

Phạt tù từ 15 năm Phạt tù từ 15 năm Khoản 3 đến 20 năm đến dưới 20 năm

Phạt tù từ 20 năm, Khoản 4 ---- tù chung thân hoặc tử hình

- Thứ tư, khẩn trương, nhanh chóng ban hành các văn bản mới quy định chi

tiết, hướng dẫn thi hành về những tình tiết mới được sửa đổi, bổ sung tại Điều 251.

Ví dụ: Tình tiết “đối với 02 người trở lên”, cần có sự hướng dẫn cụ thể các trường

hợp như thế nào là phạm tội “đối với 02 người trở lên”. Vấn đề đặt ra là trong

trường hợp nếu có hai người C và D cùng tới mua ma túy của E nhưng tiền mà E

nhận được chỉ là tiền của riêng C, thì E có bị coi là phạm tội “đối với 02 người trở

lên” hay không? Hoặc nếu M tới nhà N mua ma túy của N và nói rõ với mục đích

cho N biết là M mua cho bản thân mình và cho một nhóm bạn nghiện đang chờ ở

ngoài nữa, tiền là cả nhóm góp lại để mua, tuy nhiên chỉ có một mình M giao dịch

với N thì N có bị coi là phạm tội “đối với 02 người trở” lên không?.

61

Thứ năm, tại khoản 2 Điều 251 BLHS hiện hành quy định: “Phạm tội thuộc

một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm”:

“l) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 200 kilôgam;

m) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 50 kilôgam”.

Trước đó BLHS năm 1999 cũng đã quy định các tình tiết này làm tình tiết

định khung tại khoản 2 Điều 194 (điểm k, l). Đối với hai trường hợp này, kết quả

giám định chất ma túy là cơ sở pháp lý bắt buộc và quan trọng trong việc điều tra,

truy tố, xét xử hành vi phạm tội. Vì vậy, để có căn cứ khởi tố bị can theo điểm,

khoản nào của Điều 251 BLHS năm 2015 buộc phải trưng cầu đến Viện Khoa học

hình sự Bộ Công an. Việc trưng cầu giám định để xác định là quả thuốc phiện

không phải là vấn đề phức tạp với cơ quan giám định, tuy nhiên để xác định loại

quả thuốc phiện này là quả khô hay quả tươi thì cơ quan giám định chưa có cơ sở

để đưa ra kết luận vì chưa có văn bản pháp luật quy định hay hướng dẫn. Thế nên,

hiện nay Viện Khoa học hình sự Bộ Công an đã từ chối giám định đối với trường

hợp này, lý do: Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 68 BLTTHS năm 2015; căn cứ điểm

2 Điều 11 Luật Giám định tư pháp, Viện Khoa học hình sự từ chối giám định do

chưa có căn cứ pháp lý kết luận các mẫu quả thuốc phiện gửi tới giám định là quả

tươi hay quả khô [4].

Đối với quả thuốc phiện tươi và quả thuốc phiện khô thì trước đó đã được

quy định, nhưng đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng cụ thể để làm cơ

sở, căn cứ giám định. Đây cũng là một vướng mắc từ thực tiễn áp dụng pháp luật,

tác giả nhận thấy rằng cần thiết phải có sự tổng hợp để báo cáo liên ngành các cơ

quan tư pháp Trung ương sớm có quy định chi tiết, hướng dẫn áp dụng kịp thời,

đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, từ đó có cơ sở, căn

cứ xử lý người thực hiện hành vi phạm tội.

Qua nhiều năm thực hiện, cơ bản các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi

hành đáp ứng tốt các yêu cầu của thực tiễn, đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn

chỉnh hơn. Tuy nhiên, một số hướng dẫn bộc lộ những bất cập, hạn chế và cũng đã

diễn ra nhiều năm, không còn phù hợp với hành vi phát sinh trong xã hội dẫn đến

62

việc áp dụng BLHS còn nhiều tranh cãi, xung đột quan điểm, thiếu tính nhất quán,

còn thiếu, khuyết trong việc điều chỉnh những vấn đề mới phát sinh, gây không ít khó

khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thống nhất áp dụng pháp luật.

Thông tư 08 sửa đổi, bổ sung tiểu mục 1.4, Mục 1 Phần 1 Thông tư 17, chỉ bắt

buộc giám định hàm lượng chất ma túy với 04 trường hợp: “Chất ma túy, tiền chất

dùng vào việc sản xuất chất ma túy ở thể rắn được hòa thành dung dịch; chất ma túy,

tiền chất dùng vào việc sản xuất xuất chất ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng; xái

thuốc phiện; thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần”. Tuy nhiên, việc hướng dẫn triển

khai thực hiện còn chưa rõ ràng, chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp,

chậm đi vào cuộc sống, trong quá trình thực hiện đã phát sinh một số vấn đề, gây ra

những cách hiểu và áp dụng khác nhau tại nhiều địa phương. Chẳng hạn, Công văn

315/TANDTC-PC ngày 11/12/2015 của TANDTC quy định thêm các trường hợp

phải giám định hàm lượng để tính trọng lượng chất ma túy mà Thông tư 08 không

quy định, gồm những vụ án người thực hiện hành vi phạm tội có khung hình phạt tù

từ 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.

Hiện nay, chỉ có một số ít đối tượng nghiện hút không có tiền buộc phải tàng

trữ “xái thuốc phiện” để sử dụng còn các đối tượng phạm tội về ma túy rất ít khi

mua bán. Do vậy việc quy định các trường hợp phải bắt buộc giám định như hướng

dẫn tại Thông tư 08 thì hầu như cơ quan điều tra rất ít khi trưng cầu giám định hàm

lượng. Trường hợp này đặt ra câu hỏi liệu Tòa án có được trả hồ sơ yêu cầu điều tra

bổ sung không và nếu có, thì căn cứ vào quy định nào?.

Thông tư 08 hướng dẫn “...nếu có căn cứ và xét thấy cần thiết, Tòa án trực

tiếp trưng cầu giám định để bảo đảm cho việc xét xử đúng pháp luật…” Hướng dẫn

này có thể dẫn tới việc nhận thức và áp dụng pháp luật chưa thống nhất tại các địa

phương, từ đó Tòa án cấp trên có thể hủy án của Tòa án cấp dưới bất cứ lúc nào. Về

nguyên tắc xét xử thì phải bảo đảm nguyên tắc xét xử đúng người, đúng tội danh,

đúng quy định của pháp luật, nhưng cần hiểu thế nào là “có căn cứ và xét thấy cần

thiết...”? thì chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể [75].

Thông tư 08 có hướng dẫn “...Trường hợp không thu giữ được vật chứng là

63

chất ma túy, tiền chất nhưng có căn cứ xác định được trọng lượng chất ma túy, tiền

chất mà người phạm tội đã mua bán, vận chuyển, tàng trữ hoặc chiếm đoạt thì người

phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội danh và điều khoản tương ứng”.

Đây là quy định mà theo tác giả còn là không rõ ràng, bởi lẽ trên thực tế, khi

không thu giữ được vật chứng, để định lượng được chất ma túy, tiền chất mà người

phạm tội đã mua bán thì hầu hết chỉ dựa vào lời khai của người phạm tội hoặc

những người đồng phạm. Tuy nhiên sẽ rất khó định lượng các chất ma túy khi chủ

yếu các đối tượng khai nhận với các đơn vị tính theo tiếng lóng như: “tép”, “phân”,

“bánh”, “chỉ”, “nửa hộp năm”. Thực tiễn xét xử các vụ án cho thấy khối lượng chất

ma túy thu giữ là khác nhau, có vụ án 01 tép là 0,004 gam, 0,0154 gam nhưng lại có

vụ 01 tép lại là 0,2445 gam, có “bánh” là 350 gam nhưng lại có “bánh” là 300 gam

hoặc thấp hơn, tương tự như thế đối với “phân” và “chỉ” cũng có khối lượng khác

nhau. Do đó xét thấy nếu chỉ định lượng ma túy thông qua duy nhất lời khai nhận

của các bên liên quan thì sẽ không đảm bảo tính chính xác của vụ án, mặc dù không

được dùng lời nhận tội của bị can là chứng cứ duy nhất để buộc tội [85].

Như vậy, để đảm bảo áp dụng đúng và chính xác các quy định tại Điều 251

BLHS 2015 tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung BLHS 2015 để khắc phục những khó

khăn, vướng mắc nêu trên. Cần phải nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn

chi tiết, cụ thể các quy định của điều luật mới này; bãi bỏ, loại trừ, thay thế, sửa đổi,

bổ sung đối những văn bản hướng dẫn không phù hợp để tạo hành lang pháp lý đầy

đủ đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật được diễn ra thống nhất, đồng bộ, hiệu quả.

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những bất cập, hạn chế dẫn đến những vướng

mắc, áp dụng không thống nhất, hiệu quả các quy định của pháp luật, đồng thời dựa

trên cơ sở đánh giá, phân tích những hạn chế, thiếu sót và làm rõ những nguyên

nhân dẫn tới các hạn chế thiếu sót này trong công tác xét xử sơ thẩm các vụ án về

tội MBTPCMT của TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng. Chương 3 của luận văn, tác

giả đã mạnh dạn đưa ra các nhóm giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả áp

64

dụng pháp luật đối với loại tội phạm này. Tác giả cho rằng, đây là những giải pháp

có tính khoa học, thực tế và có tính khả thi cao, nếu được áp dụng đồng bộ và có

chiều sâu, tác giả tin rằng những giải pháp này sẽ phần nào đáp ứng được các yêu

cầu theo tinh thần cải cách tư pháp của Đảng cũng như các mục tiêu cần đạt được

trong công tác áp dụng pháp luật về tội MBTPCMT, ở góc độ nào đó sẽ góp phần

đẩy mạnh công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm về tội MBTPCMT

không chỉ trên phạm vi thành phố Đà Nẵng mà còn mở rộng ra trên địa bàn các tỉnh

miền trung Tây Nguyên và có thể trên phạm vi toàn quốc. Với những giải pháp nêu

trên, tác giả mong muốn rằng công tác áp dụng pháp luật hình sự của TAND hai cấp

thành phố Đà Nẵng sẽ gặt hái được nhiều thành công hơn trong thời gian tới và ở

một khái cạnh nào đó sẽ có đóng góp cần thiết vào quá trình sửa đổi, bổ sung và

hoàn thiện BLHS năm 2015.

65

KẾT LUẬN

Trong những năm qua, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự

quản lý, chỉ đạo, điều hành thống nhất của Nhà nước, nước ta đã tranh thủ thời cơ,

thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức đưa đất nước đạt được những thành

tựu to lớn và quan trọng trên tất cả lĩnh vực. Diện mạo của đất nước có nhiều thay

đổi. Thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường

quốc tế được nâng lên. Tuy nhiên, đi liền với đó tình hình tội phạm vẫn còn diễn

biến phức tạp. Đã xuất hiện nhiều loại tội phạm mới như: khủng bố, rửa tiền, mua

bán người, công nghệ cao, tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, tội

phạm về môi trường, tội phạm xuyên quốc gia… trong số đó nổi lên các tội phạm

về ma túy nhất là tội mua bán trái phép chất ma túy.

Thành phố Đà Nẵng có một vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi cho sự phát triển

nhanh chóng và bền vững thế nhưng cũng là một trong những địa bàn có tội

MBTPCMT diễn biến tương đối phức tạp. Vì vậy, nếu không có những giải pháp

đồng bộ, lâu dài, tệ nạn ma túy có thể vượt ra khỏi tầm kiểm soát, để lại hậu quả

nghiêm trọng, khó lường cho xã hội. Do đó, công tác phòng ngừa và đấu tranh

chống tội phạm MBTPCMT trong thời gian tới cần chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa,

thực hiện ở cấp độ cao hơn, với những giải pháp hữu hiệu hơn.

Xuất phát từ bối cảnh trên, yêu cầu cấp bách đặt ra trong thời gian tới là cần

phải nâng cao hơn nữa hiệu quả áp dụng pháp luật đối với tội MBTPCMT nhằm

thực hiện hóa Hiến pháp, pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành, góp phần

bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà

nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Luận văn: “Tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Đà

Nẵng”, trên cơ sở bám sát mục đích và nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

luận văn đã đạt được một số kết quả sau:

1. Làm rõ một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và pháp luật về tội

MBTPCMT quy định tại Điều 251 BLHS hiện hành, và rút ra ý nghĩa của việc quy

66

định tội MBTPCMT trong Luật hình sự Việt Nam. Tác giả đã làm rõ các dấu hiệu

pháp lý hình sự, đánh giá các tình tiết định tội trong cấu thành tội phạm cơ bản, làm

rõ các tình tiết định khung hình phạt trong cấu thành tội phạm tăng nặng quy định

trong BLHS hiện hành trên cơ sở so sánh, đối chiếu với BLHS năm 1999.

2. Luận văn đã khảo sát thực tiễn tình hình xét xử sơ thẩm tội MBTPCMT

của Tòa án cấp sơ thẩm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 – 2019, làm

rõ những nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hạn chế, thiếu sót trong công tác xét xử

của Tòa án cấp sơ thẩm. Thực tiễn cho thấy ở một số thời điểm vẫn còn những sai

sót trong công tác xét xử, có nhiều nguyên nhân dẫn đến các sai sót này, có thể kể

đến như: Quy định của pháp luật hiện hành còn có những hạn chế, vướng mắc; Điều

kiện về cơ sở vật chất ở một số đơn vị, địa phương còn nhiều hạn chế…; nhưng tác

giả cho rằng nguyên nhân chính có thể xuất phát từ yếu tố con người, đó chính là

năng lực nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, trải nghiệm sống, nhận thức xã hội, am

hiểu về luật pháp và phẩm chất đạo đức của đội ngũ người tiến hành tố tụng có thời

điểm còn nhiều hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn.

3. Luận văn đã đề xuất một vài giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng

và nêu lên một số kiến nghị hoàn thiện tội MBTPCMT quy định tại Điều 251 BLHS

hiện hành cùng các văn bản pháp luật có liên quan hướng dẫn áp dụng về tội phạm

này. Những nghiên cứu trong luận văn, tác giả cho rằng một góc độ nào đó có ý nghĩa

quan trọng về mặt lý luận – thực tiễn phục vụ việc sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015.

Định tội danh và quyết định hình phạt tội mua bán trái phép chất ma túy là

một vấn đề lớn trong thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự. Chính vì vậy, trong quá

trình nghiên cứu còn có những nội dung mà tác giả chưa có điều kiện để đề cập

hoặc nghiên cứu một cách triệt để, sâu sắc, khoa học và toàn diện đồng thời luận

văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót cần tiếp tục được nghiên cứu hoàn thiện để

phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và nhất là áp dụng trong thực tiễn đấu

tranh phòng chống tội phạm, tác giả rất mong nhận được sự góp ý của các nhà khoa

học, cán bộ làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực này./.

67